Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” - Ðó là lời Chúa.
Trang nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: “Cởi trói cho dân”.
Tác giả dùng chữ “Cởi trói” để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy. Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị “trói” hàng mấy chục năm qua.
Ông Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị “treo” đất, cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. “Tôi như người được cởi trói, thoải mái lắm”, tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng người dân Việt Nam còn được “cởi trói” nhiều thứ khác nữa.
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa “cởi trói” cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để anh ta có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với mọi người. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đó chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Hãy mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em. Đừng “Nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”.
Hãy mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa,lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc.
Hãy mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
Mỗi khi tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện một cử chỉ rất quen thuộc. Sau khi nghe bài Phúc Âm, chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm Dấu Thánh Giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đó như là lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng lưỡi con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa.
Mỗi lần làm Dấu Thánh Giá nhân Danh Ba Ngôi Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con, xin cho chúng con giống Chúa trong lời nói và việc làm.
Xin cho cuộc sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa lòng đời hôm nay. Amen.
Người câm điếc trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát: anh ta đau TN23-B102
Người câm điếc trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát: anh ta đau khổ biết bao vì không nói được với ai, cũng như không thể nghe được ai nói với mình, anh ta không thể hiểu người khác, và người khác cũng khó mà hiểu được anh ta. Cảm thông tình cảnh của anh, Chúa Giêsu đã chữa anh khỏi câm và điếc, để anh được trở lại với cuộc sống bình thường.
Theo quan niệm của người Do Thái lúc bấy giờ: người mắc các chứng bệnh như què quặt, đui mù, câm, điếc... là do chính họ hay cha mẹ của họ gây nên, hậu quả tật nguyền, bệnh hoạn của những người này là do tội gây ra. Vì vậy, một cách nào đó, người câm điếc trong Tin Mừng bị coi là những kẻ tội lỗi, mọi người đều coi thường và không muốn tiếp xúc với anh. Anh quả thật là người bất hạnh! Cuộc đời của anh tưởng chừng như đi vào con đường cùng. Anh sinh ra trong câm lặng, và có thể sẽ chết trong âm thầm!. Như thế, chúng ta mới có thể phần nào nhận ra lòng khao khát được “nói”, được “nghe”, tức là được hội nhập vào cộng đồng của anh.
Trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, mặc dù chúng ta không câm điếc về thể lý nhưng biết đâu chúng ta lại câm điếc về phần hồn - một sự câm điếc về nội tâm. Đó là khi chúng ta không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật. Hay khi chúng ta không muốn nghe lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện không đâu, những chuyện gây thương tổn cho tâm hồn mình… Đàng khác, câm điếc tâm hồn còn là khép kín chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, bi quan, chán nản.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu và chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn và nơi thân xác của con người, Chúa đã dạy chúng con bài học yêu thương trọn vẹn, đó là yêu thương nỗi khổ đau nơi thân xác và trong tâm hồn của những người anh em bất hạnh. Xin ban cho chúng con một tình yêu thương vô vị lợi, để khi chúng con an ủi, giúp đỡ tha nhân, thì đồng thời cũng biết chia sẻ với họ những gì mà khả năng chúng con có được.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin chữa lành căn bệnh câm điếc của chúng con, để chúng con biết nói những điều tốt lành với tha nhân và nhất là biết dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ. Xin cho chúng con biết lắng nghe nỗi khổ đau của mỗi người và mỗi tâm hồn, không chỉ bằng đôi tai mà còn biết lắng nghe với cả trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại.
- Với câu mở đầu (31), Máccô nối kết câu chuyện này với câu chuyện trước, nghĩa là với chuyến đi rao giảng ở ngoài Israel của Giêsu. Sau khi rời Tia, giờ đây Giêsu lại đến một miền đất khác. Đó là miền đất Thập Tỉnh, một miền đất của dân ngoại. Với Mác-cô quan trọng là Giêsu đi khắp miền dân ngoại để rao giảng Tin Mừng. Miền thập tỉnh - Deka,polij (dekapolis), là một liên hiệp của các thành phố trong miền đông Gio-đan. Trong miền thập tỉnh này, chiếm phần lớn là dân Hy-lạp và Sy-ri. Miền này không thuộc về sự cai quản của Hê-rô-đê. Tổng trấn La-mã là người có quyền ở đây và miền này có những ưu tiên riêng biệt. Dân Do-thái là thiểu số trong miền này, và thuộc về tầng lớp thấp hèn. (ss. G. Schille - Horst Balz / Gerhard Schneider (Hrsg.), Band I, s.681-682)
- Câu chuyện chữa bệnh này thuộc về những câu chuyện Giêsu làm phép lạ. Và nó chỉ ra nhiều điểm liên quan đến y học dân gian và cách thức làm phép lạ thời đó: Đụng vào chỗ đau, sử dụng nước miếng, hướng nhìn lên trời để ‘kéo’ sức mạnh có sức chữa lành xuống, rên lên là công thức bí mật trong khi chữa bệnh. Trong thực tế, Giêsu đã hòa nhập và thích ứng với xã hội thời đó.
- Theo Helmut Meklein, so với Mác-cô, Mát-thêu 15, 29-31 kể lại rằng, sau khi rời Tia, Giêsu đi đến ven Biển Hồ Ga-li-lê ngay. Ở đó Ngài chữa kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Sau sự kiện chữa lành này, Mát-thêu đã kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ hai cho bốn ngàn người ăn. (Mt 15, 32-39).
Suy niệm
- Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Trong mỗi phép lạ, Mác-cô đều nêu bật rõ hai phần, phần người làm phép lạ xuất hiện, và phần người cần được giúp đỡ đến. Thêm vào đó, Mác-cô nêu rõ bối cảnh của phép lạ. Như phép lạ Ngài chữa người bị quỷ ám trong Mc 1, 21: “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um.” Hay phép lạ khác cũng liên quan đến người bị quỷ ám trong vùng của người Ghê-sa-ra: “Đức Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa” (Mc 5, 1). Ngoài ra, có thể coi thêm ở Mc 1, 29; 2, 1-3; 7,24tt và 8,22.
Còn ở đoạn phúc âm này, khung cảnh của phép lạ Giêsu sắp làm cũng được nhắc đến: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Tuy nhiên, theo R.Pesch thì khi diễn đạt bối cảnh như vậy, Mác-cô không có ý nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của nơi phép lạ xảy ra, mà Mác-cô muốn diễn đạt một chương trình truyền giáo. Vâng, Đấng làm mọi sự tốt đẹp cần được loan báo không chỉ nơi miền đất đầy ánh sáng, mà còn cần phải được loan truyền tại miền đất của dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Theo Meinrad Limbeck, thì đối với Giêsu miền đất dân ngoại không phải là miền đất ô uế. Và ngoài những người ở mảnh đất Israel còn có nhiều người cần đến sự giúp đỡ và cứu thoát của Giêsu.
- Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
Một người vừa điếc vừa ngọng – một người bị giới hại rất nhiều trong tương quan với người khác. Thật là khó khăn anh ta mới có thể hiểu được người khác, và ngược lại cũng thế. Chẳng dễ dàng gì để người vừa điếc vừa ngọng có thể hiểu điều mình muốn diễn đạt. Vì vậy, mà cánh cửa mở ra với thể giới bên ngoài, đến với người khác, rất hẹp hay đôi khi bị đóng lại đối với những người điếc và và ngọng. Có thể nói rằng, một bức tường ngăn cách đang đứng trơ trơ ở đó. Cái thê thảm nằm ở chỗ là, bây giờ không chỉ người điếc không nghe được những âm thanh ở bên ngoài, mà anh ta chỉ có thể nghe chính mình mà thôi. Một thế giới như bị đóng kín. Một cuộc đời như bị khóa kỹ vào trong căn phòng đóng chặt tất cả cửa sổ, và bị cách âm hoàn toàn. Chúng ta thử mường tượng, trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ còn nói chuyện với chính mình, chúng ta chẳng còn nghe thấy gì cả và cũng chẳng được người khác lắng nghe. Thật thê thảm. Nếu cứ như vậy thì một lúc nào đó tất cả sẽ bị “xé rách” ra hết. Cả tâm hồn, cả cuộc sống, cả những gì thật là cao quý có thể đều bị “xé nát”. Một cuộc sống thật buồn, vì cuộc sống đó bị cô lập, bị tách ra khỏi lòng xã hội.
Hình ảnh này cũng có thể liên hệ đến chính chúng ta. Vâng, chúng ta hãy để Đức Thánh Cha Biển Đức chia sẻ về điều này:
“Các giáo phụ nói về đề tài con người và nói cho con người của thời đại các ngài. Nhưng điều mà các ngài nói, cũng có liên hệ một cách mới mẻ cả với chúng ta, những con người thời hiện đại. Không những có sự điếc tai của thân thể làm cho con người gần như hoàn toàn bị tách ra khỏi sinh họat xã hội. Còn có một sự giảm yếu trong sự lắng nghe đối với Thiên Chúa, mà chúng ta đang gặp phải, nhất là trong thời đại chúng ta. Chúng ta không thể cảm thấy Thiên Chúa được nữa; có quá nhiều làn sóng khác nhau chiếm cứ đôi tai chúng ta. Điều được nói về Thiên Chúa, xem ra như là điều “tiền khoa học” đối với chúng ta, xem ra như không còn thích hợp với thời đại chúng ta nữa. Với sự giảm yếu sự lắng nghe, hoặc nói cách khác, với sự điếc tai tinh thần đối với Thiên Chúa, thì cũng bị mất đi khả năng chúng ta nói cùng với Ngài hoặc nói với Ngài. Như thế, chúng ta bị thiếu đi một nhận thức quyết định. Những giác quan nội tâm chúng ta gặp nguy hiểm bị mai một đi. Với sự thiếu mất sự nhận thức này, thì tầm mức của tương quan chúng ta với thực tại cũng bị bao vây một cách mãnh liệt và đầy nguy hiểm. Chân trời của đời sống chúng ta bị thu hẹp một cách đáng ngại.” (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
Vâng, thật đáng ngại biết bao, khi cuộc sống của chúng ta bị giới hạn trong thế giới nhỏ bé của chính mình, trong thế giới bao la nhưng thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng đi khả năng lắng nghe Lời Ngài, và vì thế mà tình yêu của Chúa cũng bị để ngoài tai. Vì vậy, lúc này những đôi tai như bị điếc hay bị điếc thật và những đôi môi như bị ngọng hay bị ngọng thật, cần được dẫn tới với Giêsu. Chính Ngài sẽ ra tay chữa lành, chính Ngài sẽ đến để cứu chữa. Ở đây, chúng ta nghe tiên tri I-sa-ia đã loan truyền:
“Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35, 4)
Như vậy, người ta đưa anh điếc và ngọng đến với Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Thái độ đặt tay là thái độ mà Giêsu đôi khi làm để chữa bệnh, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc 5, 23) Ngoài ra, cũng có nhiều đoạn khác nhắc đến việc chữa bệnh của Giêsu qua việc đặt tay, hay dùng tay để đụng tới người bệnh: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1, 40-41) Hay trong trường hợp của người mẹ vợ ông Phêrô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31) Vâng, đôi bàn tay nhân từ yêu thương, bàn tay của Giêsu là đôi bàn tay chữa bệnh, nâng dậy, và dẫn về với con đường của sự sống. Về đôi bàn tay nhân ái này, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nói như sau: “Người giơ tay nắm chúng ta trong các bí tích, Người chữa lành chúng ta khỏi bịnh hoạn của những đam mê và tội lỗi nhờ sự xá giải trong bí tích hoà giải. Người ban cho chúng ta khả năng trỗi dậy để đứng trước Thiên Chúa và trước những người nam và nữ.” (Bài giảng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican)
- Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Không như những thầy thuốc bình thường, sẽ đưa người bệnh đến trước đám đông để chữa, vì qua đó họ muốn được người ta nhìn thấy, trầm trồ thán phúc khen ngợi và công nhận. Giêsu chẳng cần lời khen, và cũng không muốn ai thán phục, nên Ngài đã kéo riêng người bệnh tách khỏi đám đông, tách khỏi đám người tò mò, đám người hay dòm ngó, phê bình. Một cách nào đó, đôi khi Giêsu cũng không muốn đám đông quấy rầy, khi Ngài làm phép lạ, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 40-41)
Sau khi tách người bệnh ra, và một mình với anh ta Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Hành động đầu tiên là đặt ngón tay vào lỗ tai. Theo R. Pesch thì sức mạnh có sức chữa lành không chỉ toát ra từ đôi tay, mà còn từ ngón tay nữa. Chính ngón tay của Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi quyền lực của Pha-ra-ô. Vâng, qua cây gậy của A-a-ron, các phù thủy đã nhận ra ngón tay của Thiên Chúa: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập…. Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: “Đó là ngón tay của Thiên Chúa! “ Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.” (Xh 8, 12 và 15) Và cũng với chính ngón tay của Thiên Chúa, Giêsu đã trừ quỷ, đã đuổi thần dữ ra khỏi cuộc đời: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11, 20)
Hành động thứ hai Giêsu làm cũng liên quan đến ngón tay. Vâng, Ngài đã dùng tay bôi nước miếng vào lưỡi anh ngọng. Theo R. Pesch , người ta có thể mường tượng rằng, Giêsu nhổ nước miếng trên tay của mình và sau đó mới bôi cho người bệnh.
Nước miếng là một chất để chữa bệnh. Vâng, tôi vẫn còn nhớ hồi nhỏ Mẹ tôi cũng đã từng dùng nước miếng mình để bôi lên vết xước da chảy máu sau những lần nghịch ngợm. Theo R. Pesch, thì kế bên Nước, Máu, Rượu và Dầu thì nước Miếng cũng thuộc về những chất lỏng có thể dùng để chữa bệnh. Nước miếng cũng có chất nhờn như dầu, và từ cơ thể con người nên cũng có “họ hàng” với máu. Như thời cổ đại Hy-lạp và La-mã, Do-thái giáo cũng coi nước miếng như là chất dùng đặc biệt để chữa bệnh đau mắt. Về điểm này, chúng ta có thể đọc được ở Mc 8,23: “Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: “Anh có thấy gì không? “
Sau hai hành động trên, Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Ngước mắt lên trời là hướng về cha mình. Theo Hans Urs von Balthasar, thì mỗi phép lạ mà Giêsu làm là một hành động của Cha được làm qua Giêsu. Chúng ta có thể đọc được thái độ hướng lên trời của Giêsu ở một vài phép lạ khác: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” (Mc 6, 41) Hay như trong phép lạ kêu ông La-gia-rô ra khỏi mồ ở Gioan 11, 41-43: “Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! “
Sau khi hướng mắt nhìn lên trời, Mác-cô thuật lại là Giêsu rên lên một tiếng. “stena,zw stenazo – rên “ Theo R. Pesch là cách diễn tả về thái độ Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Nghĩa là dấu chỉ Giêsu nhận được sức mạnh để chuẩn bị cho phép lạ Ngài làm.
Sau khi đã chuẩn bị như vậy, Giêsu lên tiếng nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Mác-cô giữ lại từ ngữ này trong tiếng aramaica với ý nghĩa được dịch ra sau đó. Theo R. Pesch thì từ ngữ để chữa bệnh này, trong tai của người Hy-lạp là một lời lạ lẫm có sức chữa bệnh như một câu thần chú. Bình thường, thì lời chữa bệnh là lời đầy quyền năng có thể truyền tải sức mạnh. Vâng, một lời có sức giải thoát đời người khỏi bóng đêm, một lời có thể kéo đời người ra khỏi cái điếc và cái ngọng, một lời của tình yêu thương, một lời của ân sủng tràn đầy trên một đời người, trên cả dân Israel và hôm nay cho toàn thể nhân loại. Lời “Ép-pha-tha”, này Giáo Hội cũng dùng trong bí tích rửa tội. Vị linh mục hay thầy phó tế sẽ rờ tới tai và miệng của con trẻ và nói: ““Ép-pha-tha – hãy mở ra”. Mở tai ra để lắng nghe Lời của Chúa, và mở miệng ra để loan báo Tin Vui của Chúa. Tin vui về ơn cứu thoát về tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa từ nhân. Theo Adolf Pohl, qua lời chữa lành của Giêsu, người đọc ở đây sẽ được nhắc nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đã mở miệng cho con người, mở mắt, mở tai, mở lòng, mở niềm tin, mở cuốn sách cuộc đời, mở cánh cửa cuộc đời, và mở cả cửa lao tù nhốt con người vào trong đêm đen. Và Thiên Chúa mở cả cánh cửa của mồ mả và mở cả cánh cửa của trời cao để đón nhận con người.
Tóm lại, về những hành động của Giêsu trong phép lạ này, Đức Thánh Cha diễn tả rất hay và liên quan trực tiếp đến chúng ta: “
“Phúc âm kể lại rằng Chúa Giêsu đưa ngón tay chạm đến lỗ tai của người câm điếc, và thấm một chút nước miếng của Ngài trên lưỡi của người bệnh và nói: Effata - Hãy mở ra! Tác giả phúc âm đã giữ lại cho chúng nguyên ngữ tiếng aramaica mà Chúa Giêsu đã nói, và như thế đưa chúng ta trực tiếp vào trong giây phút đó. Điều mà được kể lại trong phúc âm, là điều duy nhất, tuy nhiên không thuộc về quá khứ xa xôi: Chúa Giêsu thực hiện cũng một điều như vậy một cách mới mẻ và làm lại điều đó nhiều lần cả trong thời đại hôm nay. Trong bí tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã hoàn tất trên chúng ta cử chỉ chạm đến này, và đã nói với chúng ta: Effata, hãy mở ra! Để làm cho chúng ta có khả năng cảm nghiệm được Thiên Chúa và như thế để cho chúng ta có lại khả thể nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng biến cố này, --- biến cố Bí Tích Rửa Tội --- không có gì là ảo thuật. Bí tích Rửa tội mở ra một con đường. Bí Tích đưa chúng ta vào trong cộng đoàn của những kẻ có khả năng lắng nghe và nói, đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất đã nhìn thấy Thiên Chúa Cha và sau đó đã có thể nói về Ngài (x. Gn 1,18): qua đức tin, Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta việc Người nhìn thấy Thiên Chúa, việc Người lắng nghe Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa. Con đường của kẻ lãnh nhận bí tích rửa tội, phải là một diễn tiến của sự phát triển từ từ, trong đó chúng ta lớn lên trong cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa, và như thế đạt được một cái nhìn mới khác về con người và về tạo vật….. và Phúc âm mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng trong chúng ta có bị thiếu hụt về khả năng nhận thấy --- một sự thiếu mà lúc đầu chúng ta không lưu ý được như vậy ---, bởi vì phần còn lại được xử dụng bởi sự khẩn thiết và hợp lý của nó; bởi vì từ bên ngoài xem ra như tất cả đều tiến hành một cách bình thường, cả khi chúng ta không còn đôi tai lắng nghe và đôi mắt nhìn thấy Thiên Chúa nữa và chúng ta sống không có Ngài. Nhưng thử hỏi có phải tất cả đều diễn ra cách đơn thuần, khi Thiên Chúa bị thiếu đi trong đời sống chúng ta và trong thế giới chúng ta hay không? (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
- Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Kết quả của phép lạ được Mác-cô diễn tả tương hợp với hành động Giêsu đã làm trước đây. Đó là “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.”
Như vậy, Giêsu đã đặt ngón tay vào lỗ tai và đã “mở tai” của người điếc, để anh ta có thể nghe lại được, và với nước miếng Ngài đã bôi vào lưỡi, để nhờ đó lưỡi anh hết bị buộc lại, nghĩa là được cởi ra khỏi “một sức mạnh đang trói buộc anh.”
Động từ “trói buộc” chỉ về một căn bệnh bị thần dữ trói buộc. Ở Luca 13,16 cũng nhắc đến người phụ nữ còng lưng được Giêsu tháo cởi khỏi xiềng xích trói buộc bà: “Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “
Vâng, giờ đây anh bạn điếc và ngọng của chúng ta đã có lại được khả năng nghe và nói. Và anh ta còn nói được rõ ràng nữa, chứ không phải bặp bẹ một vài câu. Mác-cô diễn tả rất rõ ràng. Anh ta đã trở lại con người bình thường như mọi người. Thật là một tin vui lớn lao. Tin vui này ứng nghiệm với lời của tiên tri Isaia 35, 5-6: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.”
- Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
Lời truyền bảo phải giữ kín của Giêsu ở đây hướng về ngôi thứ hai số nhiều “họ”. Như vậy, nhóm người có mặt dù đã bị tách biệt, nhưng có thể vẫn chứng kiến được phép lạ Giêsu làm. Tuy nhiên, điều mà tác giả muốn diễn tả ở đây là việc lời truyền bảo giữ kín của Giêsu đã bị “phá tan”. Ngoài ra, Mác-cô cũng hướng về tinh thần truyền giáo của Giêsu và về Giêsu tại miền Thập Tỉnh, miền đất của dân ngoại, như chính một anh bị quỷ ám được Giêsu chữa bệnh, và sau đó được sai đi vào miền Thập Tỉnh để làm chứng: “Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” (Mc 5, 19)
Vâng, hành động tốt lành của Giêsu không thể giữ kín được. Điều tốt lành cần được lan rộng, lan rộng như vết dầu loang.
Còn về nguyên nhân Giêsu truyền phải giữ kín, thì chúng ta cũng có thể nhận ra. Đó là Giêsu muốn thi hành sứ mạng của mình. Nếu không, thì người Do-thái có thể bắt Ngài và tôn Ngài lên làm vị thủ lãnh, là Vua theo ý riêng và chương trình của họ. Mà sứ mạng của Giêsu thì đâu có tương hợp với một kế hoạch chính trị nào.
- Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Một lời chứng và ngợi ca giữa mảnh đất dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Thật là tuyệt vời!
Vinh danh Thiên Chúa không chỉ tỏ rạng trong vùng trời của niềm tin, mà còn tỏ rạng trong bầu trời của nhiều tâm hồn chưa biết Chúa. Có lẽ vì thế, mà cần phải mở miệng tung hô to hơn và rõ ràng hơn.
Máccô diễn tả thật là hay: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả.” Lời ngợi khen này giành cho Giêsu. Và Giêsu được ăn mừng như Đấng được nhắc trong Sáng thế ký 1, 31: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.” (ss. thêm ở Hc 39,16)
Vâng, trong Giêsu Gia-vê Thiên Chúa đang đến, như I-sa-i-a đã nói: “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (35,4), và khi Người đến thì người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, và què sẽ đi lại đàng hoàng, người còng lưng sẽ đứng thẳng dậy và không chỉ thế, mà còn:
“có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên.” (Is 35, 6b-7)
Vâng, Đấng Cứu Độ đã đến và khi Ngài đến thì Ngài sẽ giải thoát những người con yêu dấu của Ngài và:
“Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35, 10) --------------------------- Tham khảo:
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1, s. 391-400 - Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, s.296-301 - Meinrad Limbeck, Markus-Evangelium, Stuttgarter kleiner Kommentar, kbw-Verlag, Stuttgart 1984, s. 97-98 - Gottfried Schille - Horst Balz & Gerhard Schneider (Hrg), Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament Band I, 2.Aufl., Kohlhammer Verlag, Stuttgart-Berlin-K#ln 1992I, từ ngữ Deka,polij (dekapolis) - Helmut Merklein, Die Jesusgeschichte-synoptisch gelesen, Stuttgarter Bibelstudien 156, kbw-Verlag, Stuttgart 1994, , trang 135-136 - Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI, giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican. www-vietcatholic.net - Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera. www.vietcatholic.net
----------------------------
TN23-B104: EPHATA, HIỆP THÔNG VỚI CHÚA VÀ THA NHÂN
Qua trang blog www.cyrilaxelrod.wordpress.com và video của mình, một Linh Mục DCCT 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh Mục Cyril Axelrod bị điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ những người bị điếc và bị mù ra khỏi xã hội. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên thần của Chúa”, họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực của một “tình yêu không điều kiện” và hướng dẫn cho họ những giá trị nền tảng như lòng “tự tin, hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời.
“Chỉ những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo Hội, trong xã hội và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã nhận định như thế trong lần gặp gỡ rất xúc động với 6.000 người mù và câm điếc vào tháng 3 năm 2015 vừa qua. Trong số họ, ở hàng đầu là Linh Mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp vị Giáo Hoàng thứ ba trong đời mình, Đức Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày hôm ấy, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”, một nền văn hóa làm băng hoại xã hội hiện tại.
Linh Mục Cyril Axelrod còn nhớ những giọt nước mắt cảm động của Đức Chân Phước Phaolô VI. Lúc đó cha vừa chịu chức xong và trước khi bị bệnh – hội chứng Usher, bị nốt chấm trong cườm mắt liên quan đến bệnh điếc – đã làm cho cha bị mù luôn. Cha đã dịch câu ban phép lành của Đức Giáo Hoàng ra ngôn ngữ dấu hiệu: “Đi và rao giảng tình yêu của Chúa cho người điếc”. Cha thổ lộ trong cuốn sách tự sự đời mình, rằng những giọt nước mắt của Đức Giáo Hoàng đối với cha, là “dấu hiệu điều kỳ lạ của Chúa dành cho tôi, cho sứ mạng cứu chuộc của tôi”
Năm nay Linh Mục Cyril được 73 tuổi và sống tại thủ đô London nước Anh. Cha sinh năm 1942, cha mẹ là người Do Thái-Chính Thống, cha trở lại Công Giáo năm 23 tuổi, và năm 28 tuổi cha vào DCCT, thực hiện giấc mơ được làm Linh Mục. Công việc của cha là giúp người điếc, mở cánh cửa giáo dục và hiểu biết cho họ. ( Trích "Linh Mục Cyril Axelrod, người rao giảng Phúc Âm điếc và mù trên Web", bản dịch của Giuse Nguyễn Tùng Lâm ).
Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu thể hiện rất rõ ràng “Văn Hóa của Gặp Gỡ”, khi Người chữa lành người câm điếc giữa dân ngoại. Ngày nay, Linh Mục Cyril Axerod đang trung thành tuân theo lời dạy của Đức Giêsu, hội ngộ thường nhật với tha nhân qua phương tiện điện máy tân kỳ, mặc dù vừa bị điếc và mù lòa. “Văn hóa của Gặp Gỡ” đòi hỏi những quy tắc vàng do chính Đức Giêsu ân cần hướng dẫn: vị tha, tiếp cận và hiệp thông.
Vị tha
“Người đem anh ta ra khỏi đám đông". Gặp gỡ đối thoại luôn cần tách ra khỏi đám đông bầy đàn, hỗn độn, nhiễu nhương, ồn ào, xô bồ và phức tạp, để có thể lắng nghe trung thực và nói ra điều công chính hữu ích. Gặp gỡ giúp đỡ với tình thương mến, thì càng cần tìm đến chốn riêng tư, khiêm tốn, kín đáo và thân mật. Không những quan tâm giúp đỡ anh câm điếc này, Đức Giêsu còn tỏ ra tôn trọng anh, không muốn anh bị đám đông chế giễu xúc phạm, không muốn tạo cơ hội nổi danh, cũng chẳng muốn thiên hạ ngộ nhận Người là thầy thuốc, thầy lang, hay phù thủy. Tất cả chỉ vì vị tha, yêu thương cứu giúp người tật nguyền, vì Người muốn tái tạo con người trở nên tốt lành, sửa chữa những hư hỏng, bệnh hoạn, lệch lạc, khiếm khuyết do tội lỗi, thói hư tật xấu, hoặc do áp lực thói đời dung tục gây nên.
Thoát khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn gặp gỡ riêng từng người, từng con chiên hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, cô đơn, lạc lõng, bị áp bức hay bị bỏ rơi, tẩy chay. Người chính là Mục Tử nhân lành, dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trong đàn, để đi tìm một con chiên lạc. Hoàn toàn xả kỷ, quên mình, chẳng nề quản mệt nhọc, vất vả, chông gai, nguy hiểm, thách đố, Người tìm cho bằng được con chiên lạc, hớn hở vác lên vai đem về.
Bất cứ cuộc gặp gỡ nào không noi gương Đức Giêsu hành động, ứng xử kiểu mẫu, xả kỷ, vị tha thì chỉ dẫn đến thất bại, ngộ nhận và tan vỡ mà thôi. Vì nếu ai cũng khư khư giữ thái độ vị kỷ, vị lợi, kiêu căng, tham lam, thì luôn xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, bất khoan dung, không thể nào gần gũi, hòa hợp và hiệp thông.
“Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh nhọc mệt, tránh hy sinh; họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một thiên đàng dành riêng cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn” ( Đường Hy Vọng, số 196 ).
Tiếp cận
“Người đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta.” Với quyền năng vô biên, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, thì anh câm điếc được lành bệnh ngay. Nhưng Người không chọn việc làm dễ dàng, đơn giản ấy, mà chịu khó ân cần, gần gũi, tỉ mỉ và tiếp cận, chữa lành cho anh ta. Gặp gỡ, tiếp xúc cụ thể mới có thể hoán cải, biến hóa, tái tạo, tái sinh. Những lời rao giảng dù hoa mỹ, hùng hồn, cao quý, sâu sắc cách mấy, mà thiếu những hành động cụ thể, tiếp cận con chiên đang trầm luân khốn khó, thì vẫn chỉ là mớ lý thuyết suông thiếu sức thuyết phục. “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chóp lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm cụ thể.” ( 1Ga 3, 18 ). Thánh Gioan đã chân thành khuyên nhủ các tín hữu Kitô tiên khởi về lời nói phải luôn đi đôi với hành động.
“Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” ( Ep 2, 13 ). Đức Giêsu đã và đang tiếp cận từng người, từng ngày giờ qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, qua những Bí tích mầu nhiệm và những lễ nghi, kinh nguyện hằng ngày. Vấn đề là người Kitô hữu có muốn được Người tiếp cận, để được cám hóa, canh tân, tái sinh, tái tạo cả thân xác lẫn tinh thần, hay cứ cố chấp bịt tai, câm lặng, đồng lõa với thế gian bất chính, bất công, tội lỗi và thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân ?
Hiệp thông
“Ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Ephata !" Đức Giêsu luôn luôn cầu nguyện trước khi hành động. Người luôn thực hiện theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chứ không bao giờ theo ý riêng Người. Cầu nguyện là quy hướng mọi sự về Thiên Chúa, tin tưởng, trông cậy, yêu mến, hoàn toàn phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Trong niềm tri ân, cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu làm phép lạ cởi trói cho người câm điếc thoát khỏi ngục tù thân xác bệnh tật, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân, để có thể nghe Lời Chúa và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân.
Nhờ Đức Giêsu nhập thể, cứu chuộc con người khỏi câm điếc với Thiên Chúa và với nhau. Khỏi dửng dưng với Lời Chúa, khỏi vô cảm với tha nhân, khỏi xiềng xích, tường lũy giam cầm của tội lỗi, ma quỷ, thế gian và xác thịt. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” ( Cv 2, 42 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi câm điếc tinh thần, để chúng con nghe được Lời Chúa mời gọi hằng ngày, nghe được Thánh ý Chúa, nghe được tiếng nói lương tâm. Cũng như nghe thấy những nhu cầu của những người khó khăn, đau khổ, mất tiếng nói trong xã hội, mà yêu thương, dấn thân hy sinh giúp đỡ. Xin mở miệng chúng con biết tri ân cảm tạ, ngợi khen Chúa, cũng như an ủi, hướng dẫn, hỗ trợ người yếu đuối, cơ quả, nói lên những gì hữu ích cho tha nhân mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe cách trung thực và biết nói lời chân thành, xây dựng, để có thể hiểu biết, yêu thương và chia sẻ mọi sự với người khác trong cuộc sống lưu đầy này. Amen.
Nếu gọi là phép lạ như vậy phải có yếu tố con người và Thiên Chúa. Người bình thường chẳng ai có TN23-B105 Dalat
Nếu gọi là phép lạ như vậy phải có yếu tố con người và Thiên Chúa. Người bình thường chẳng ai có thể làm được phép lạ cả, nếu họ có thể làm được thì chẳng ai gọi đó là phép lạ nữa. Như vậy phép lạ phải đến được từ Thiên Chúa, Đấng ở trên con người, chỉ Ngài mới có quyền năng làm nên phép lạ.
Phép lạ luôn được thực hiện cho con người với mục đích vinh danh Thiên Chúa. Cứu sống con người hay giải thoát họ cũng đồng nghĩa với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa hầu mọi người có thể nhận biết và tin.
Hôm nay Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Người này được mọi người đem đến với Đức Giêsu: “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu và xin Người đặt tay trên anh” ( Mc 7, 32 ). Như vậy đầu tiên anh được cứu chữa là nhờ trung gian của tha nhân. Vì vậy trong cuộc sống đức tin người này sẽ cứu chữa người khác. Chúng ta được tạo dựng nên có nhau và cho nhau. Vì thế mọi người cần phải biết liên đới với kẻ khác mới làm nên thế giới. Vậy mà có những con người ngày nay sống như những ốc đảo, họ không cần biết đến ai và quan tâm ai, chỉ lo cho cuộc sống sung túc giàu có và hưởng thụ của họ, bỏ mặc tha nhân, bỏ mặc Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống. Đó là những lối sống ích kỷ, cá nhân cần phải được loại bỏ.
Đức Giêsu đã kéo riêng người vừa điếc vừa ngọng ấy ra khỏi đám đông và chữa lành anh. Hành động của Ngài: “Đặt ngón tay vào lỗ tai và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh” ( Mc 7, 34 ) để chữa lành xem chừng lạ lùng nhưng kết quả người thanh niên đã được khỏi ngọng và điếc: “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” ( Mc 7, 35 ).
Phép lạ của Đức Giêsu đã được mọi người ca tụng. Họ không thể không loan truyền quyền năng vinh hiển của Ngài: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” ( Mc 7, 37 ). Quả thật, không chỉ thời xưa nhưng ngay cả ngày nay nếu phép lạ ấy cũng được thực hiện thì toàn thế giới ai ai cũng phải cúi mình tán phục. Vì đã nói nó nằm ngoài khả năng của nhân loại. Thế nhưng điều đáng buồn cần phải nói đến chính là việc người ta vẫn không tin nhận Ngài dù mắt thấy tai nghe và cả đời chứng kiến.
Như vậy nhân loại quả thật đáng thương hơn chàng thanh niên vừa điếc vừa ngọng mà chúng ta gọi là bất hạnh kia. Anh ta diễm phúc vì được chữa cho lành khiếm khuyết thể xác, nhưng thế giới lại đáng thương vì không được chữa lành lỗ tai và miệng lưỡi linh hồn. Đó là khi họ khép kín cửa lòng không tin nhận sự hiện diện và quyền năng và Thiên Chúa. Nhân loại đã gạt Ngài ra bên lề cuộc sống để chỉ bám víu vào những của cải vật chất và quyền lực thế gian. Họ chẳng khác gì kẻ ngọng người điếc khi chối từ Thiên Chúa và loại bỏ tha nhân.
Lạy Chúa, phép lạ hôm nay không chỉ dành riêng cho người thanh niên nhưng còn cho tất cả chúng con, những kẻ điếc và ngọng linh hồn khi không đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng của Ngài.
Xin giúp con đừng có cái nhìn kém tôn trọng đối với những người khiếm khuyết thể xác vì chính mình cũng đang là kẻ khiếm khuyết linh hồn. Ước gì mỗi người biết nhìn nhận ra khiếm khuyết bản thân để được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành. Vì một khi được chữa lành, đức tin của con sẽ cứu chữa niềm tin kẻ khác.
Mở ra ngược với đóng vào, khép lại. Đơn giản và dễ hiểu. Nhưng chỉ những gì bị đóng mới cần được: TN23-B106
Mở ra ngược với đóng vào, khép lại. Đơn giản và dễ hiểu. Nhưng chỉ những gì bị đóng mới cần được mở ra. “Vừng ơi, mở ra !”, đó là câu thần chú đã được Kasim sử dụng để mở cửa hang trong truyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” – truyện cổ dân gian của Ai Cập và Ba Tư, nói về Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Kasim là anh của Ali Baba, giàu có và tham lam, nhưng không mở được cửa hang khi niệm các câu thần chú khác: “Đậu ơi, mở ra !”, “Kê ơi, mở ra !”, “Ngô ơi, mở ra !”, “Lúa ơi, mở ra !”, “Gạo ơi, mở ra !”...
Mắt mù cần mở. Miệng câm cần mở. Tai điếc cần mở. Thậm chí đôi khi tim cũng cần mở (chẳng hạn, mở van tim). Các cơ phận rất cần mở để cơ thể hoạt động bình thường. Tuy nhiên, tâm linh còn cần được mở hơn: Mở ra với Thiên Chúa, mở ra với tha nhân, mở ra với đức tin, mở ra với đức khôn ngoan, mở ra với điều tốt lành, mở ra với đức ái, mở ra với lòng thương xót,...
Đức Khổng Tử nhận xét: “Đạo làm quân tử có bốn điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can gián, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận đối với việc sửa mình; đời có bốn cái lo: Lo đức ít mà được sùng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc”. Câu nói này thực sự khiến chúng ta rất đáng quan ngại ! Đôi khi cứ tưởng mình đang “mở toang” mà thật ra lại vẫn “đóng kín”.
Trình thuật Is 35, 4-7a cho biết: Sau khi xử tội Êđôm và Giêrusalem toàn thắng, Thiên Chúa sai Ngôn Sứ Isaia nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”. Thiên Chúa đã ra tay cứu thoát những bần dân khốn khổ vì bị thế lực trần gian áp bức.
Thật vậy, bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, người què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm reo hò. Mọi sự hoàn toàn khác hẳn, thế cờ đảo ngược: Kẻ yếu nên mạnh, chuyển bại thành thắng. Con người biến đổi, thiên nhiên cũng biến đổi: Nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Tại sao vậy ? Vì mọi thứ đều được chính Thiên Chúa “mở ra”.
Chắc hẳn ai cũng đã có kinh nghiệm về việc bị ma quỷ “đóng chặt” khi phạm tội – tức là bị nó xiềng xích, và rồi lại có kinh nghiệm được Thiên Chúa “mở ra” khi biết ăn ăn sám hối. Không chỉ vài lần mà rất nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !” ( Tv 146, 2 ). Dù hoàn cảnh ( cả chung và riêng ) có thế nào, Thiên Chúa vẫn mãi là nơi ẩn náu và sức mạnh của các tín hữu: “Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay, tiếng Người vang lên là trái đất rã rời. Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta” ( Tv 146, 7-8 ).
Hòn đá mà Thiên Chúa còn “hô biến” để trở nên con cái của Tổ phụ Ápraham thì mọi thứ chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Người mà thôi. Vô tri bất mộ. Càng trải nghiệm về Người thì không ai có thể câm miệng, mà phải công khai nói với người khác: “Đến mà xem công trình của Chúa, Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu. Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa” ( Tv 146, 9-10 ). Khủng bố IS dù có tàn ác và mạnh miệng hù dọa dân lành thì cũng chỉ là rơm rác, Thiên Chúa chưa ra tay vì Người còn kiên nhẫn cho họ hưởng nhờ lòng thương xót mà đấm ngực đấy thôi.
Thánh Giacôbê bảo chúng ta “phải kính trọng người nghèo”. Nghèo không chỉ về vật chất mà cả về tâm linh nữa. Người nghèo khổ là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót, luôn được Ngài động lòng trắc ẩn và ra tay cứu trợ.
Thánh Giacôbê lịch sự nhắn nhủ: “Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” ( Gc 2, 1 ). Rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây !’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao ?” ( Gc 2, 2-4 ). Có lẽ lời nói thẳng nói thật như vậy đang “chạm” vào tự ái của mỗi chúng ta. Cái mà người ta vẫn gọi là bình đẳng thì có thể lại không hề bình đẳng, chẳng hạn trong hệ lụy giàu – nghèo. Người ta ví von: “Miệng nhà giàu có gang có thép”. Họ có thể “xoay chuyển” đủ kiểu !
Quả thật, thực tế cho chúng ta thấy những cách cư xử đối lập với Thiên Chúa, không chỉ ở giáo dân, mà đáng buồn là ở ngay những người mệnh danh là mục tử. Thật chứ không đùa, không bịa đặt ! Vì họ chỉ thích “chiên béo” và chỉ “chơi thân” với các giáo dân có “máu mặt”, không có “máu” thì đừng hòng gặp gỡ hoặc nói chuyện.
Linh Mục H. ở xứ B. ( hạt T, Giáo Phận X ) nhận một phong bì tiền xin lễ từ một ông trong ban hành giáo, Linh Mục này liền xé phong bì, và nói với giọng gắt gỏng: “Xin lễ có một trăm ngàn à ? Từ nay ông H. đừng nhận phong bì xin lễ của ai nữa nhé !” Được biết rằng Linh Mục này thường xuyên “gần gũi” với những người có máu mặt trong xứ. Thật đáng buồn biết bao ! Rồi giáo dân sẽ là những con chiên như thế nào khi họ cứ phải chứng kiến các động thái như vậy ? Một Linh Mục trẻ khác ( chưa được ba năm ), hàng tháng gởi tiền vào ngân hàng, người ta nói là “sướng quá”, Linh Mục này nói một câu xanh rờn: “Vì tôi là Linh Mục mà !” Một câu nói xem chừng rất ư bình thương nhưng lại chứa đầy vẻ cao ngạo ! Lạy Chúa tôi, đáng thương hay đáng trách ?
Cứ cái “thói” phân biệt đối xử và kỳ thị như họ thì người nghèo không bao giờ được vào Thiên Đàng, vì họ “mở toang” với người giàu có, sang trọng, chức quyền... nhưng lại “đóng kín, khép chặt” với người hèn mọn, yếu đuối, nghèo khổ... Tuy nhiên, thật may là Thiên Chúa hoàn toàn trái ngược với họ, Người phê bình nặng nề và rõ ràng từng chi tiết, vì Người là người luôn nói thẳng nói thật, “không vị nể ai” ( 1Pr 1, 17 ). Kẻ nào lộng hành, ỷ thế cậy quyền, mạo nhận mình “ngon lành” hơn người khác, chắc chắn Thiên Chúa sẽ “đóng kín” đối với họ ! Làm sao Người có thể “mở” với những người đối lập với Người chứ ?
Người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Quả là chẳng sai tí nào ! Có lẽ ngày xưa Thánh Giacôbê cũng thấy trái tai gai mắt nên mới tiếp tục nhắn nhủ: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?” ( Gc 2, 5 ). Cách đặt vấn đề không hề dễ trả lời chút nào. Ai có thể trả lời ngay thì mới xứng đáng là môn đệ của Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không thì chỉ là “đồ giả” mà thôi ! Mà “đồ giả” thì Chúa Giêsu rất ghét (xin chịu khó đọc lại Mt 23, 1-33; Lc 6, 24-26; Mt 11, 21-24; Lc 10, 13-15; Mt 18, 7; Mc 9, 42-48; Lc 17, 1-2; Pl 3, 2; Kh 22, 15; Mt 23, 33 ).
Nếu đọc lại mấy đoạn Kinh Thánh vừa nêu, có thể chúng ta sẽ bị điếc và ngọng đấy !
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Mc 7, 31-37 cho biết việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng. Hôm đó, Ngài rời vùng Tia để đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Người, và xin Người đặt tay trên anh ta. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Ui da, kể ra Chúa Giêsu cũng chơi “sốc” thật. Thế nhưng đó là “cách” của Người, dùng động thái bề ngoài để người ta dễ hiểu thôi, chứ Người đâu cần phải làm vậy.
Sau đó, Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ephatha !” ( Εφφαθα – Hãy mở ra ! ). Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Rồi Người truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Thế nhưng phàm nhân vốn hiếu kỳ, khoái làm ngược lời căn dặn. Thật vậy, Chúa Giêsu càng cấm họ thì họ lại càng đồn ra. Mà cũng không nên trách họ, vì họ hết sức kinh ngạc khi chính họ “mục kích sở thị” tỏ tường chứ chẳng phải nghe ai nói lại, thế nên họ bàn tán với nhau: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”.
Tác giả Thánh Vịnh cầu xin chân thành: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” ( Tv 51, 17 ). Ước gì chúng ta cũng luôn biết cầu nguyện như vậy. Xin được mở miệng để chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa chứ không để “mỉa mai” hoặc “chửi rủa” người khác. Đó cũng là một dạng khiêm nhường. Nhưng cũng nên lưu ý cách triết lý của Lev Tolstoy ( người Nga ): “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn nghĩa là bạn không còn khiêm tốn nữa”.
Trường nữ sinh Công Giáo SJB. ( St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học Thánh Gioan Tẩy Giả ), thuộc Giáo Phận New York, có khẩu hiệu: “Parare Domino plebem perfectam” ( chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo). Một cách “mở ra” cho tương lai thật tuyệt vời. Ước gì nền giáo dục của Việt Nam cũng biết “mở ra” hướng như vậy !
Lạy Thiên Chúa, xin mở lòng con và giúp con biết mở lòng ra với tha nhân, xin siết chặt con bằng sợi tình yêu và buộc chặt mọi người bằng sợi thương xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Cách đây mấy năm tôi có dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con tín hữu và lương dân đi dự TN23-B107
Cách đây mấy năm tôi có dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con tín hữu và lương dân đi dự lễ đông lắm, ai cũng muốn xem đôi tân hôn câm điếc cử hành Bí Tích Hôn Phối như thế nào. Mặc dù trước đó tôi đã nhờ cô giáo trường Khiếm Thính giúp dạy Giáo Lý cho hai anh chị và hướng dẫn những cử điệu cho nghi thức, tôi vẫn luống cuống khi mọi người tham dự phải bật cười, trong khi cô dâu chú rể lại rất tự nhiên làm cử điệu của nghi thức Hôn Phối. Một Thánh Lễ Hôn Phối nhiều dấu ấn khó phai.
Câm và điếc đi đôi với nhau như cặp song sinh. Câm là do hậu quả của chứng điếc sớm. Người ta hay nói ngược là câm điếc, nhưng thực ra khoa học giải thích là vì điếc nên mới câm. Trẻ con ngay từ khi sinh ra đã bị điếc, do đó không tiếp nhận được các tín hiệu âm thanh nên không biết nói và bị câm.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ. Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe và nói là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Hãy mở ra
Trang Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Ephphatha” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa chữa lành đôi tai và cái lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn Sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” ( Is 35, 3-7 ).
Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe !” Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để người điếc có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để người câm có thể tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng. Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày con người dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả suy nghĩ, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, không có gì để cho, chẳng có gì để nhận. Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Người bình thường luôn có đôi tai thính, đôi mắt sáng, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
Người câm điếc được làm Linh Mục
Chúa Giêsu đã chữa lành cho người khuyết tật. Giáo Hội đã trao ban tác vụ Linh mục cho những người câm điếc. Những mục tử ấy thực thi sứ vụ loan truyền Tin mừng tình thương cho những người bất hạnh. Giáo Hội thật tuyệt vời !
Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng Y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị Linh Mục câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại Chủng Viện nên cậu Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994, cậu Park được vào đại học Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một Linh Mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New York và sau đó theo học tại Viện Đại Học Thánh Gioan. Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.
Khi cử hành Thánh Lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là Linh Mục khuyết tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một Linh Mục đích thực”. Cha Michael Cheong Soon-o nhận định: “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật" ( Vietcatholic, 22.7.2007 ).
Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bị câm điếc. Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các tín hữu bị câm điếc.
Trong Thánh Lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc, tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy lại mau như vậy” ( Vietcatholic 25.5.2009 ).
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa", và làm dấu Thánh Giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm. Amen.
Câm và điếc đối với con người bình thường thật đúng là hai thế giới khó thông cảm, khó hiểu nhau, TN23-B108
Câm và điếc đối với con người bình thường thật đúng là hai thế giới khó thông cảm, khó hiểu nhau, khó cảm thông và không hiểu nhau, khó gặp gỡ nhau. Do đó, các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng của thánh Marcô sẽ cho chúng ta hiểu rõ điều này và rồi Chúa đã làm cho người vừa điếc vừa ngọng được khỏi bệnh, nghĩa là đem người ấy trở về với cuộc sống, với thế giới bình thường: nói được và nghe được.
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 31-37, chúng ta nhận ra quyền năng của Chúa Giêsu. Người ngọng là người khó trình bầy những điều mình muốn nói cho người khác, khó diễn tả để người khác hiểu được mình. Vừa ngọng vừa điếc là một sự khó khăn quá lớn cho người câm điếc. Điếc không nghe không hiểu được người khác. Do đó, gia đình và nhiều người đã tin vào quyền năng của Chúa Giêsu, nên họ đã đem người vừa ngọng vừa điếc để xin Chúa đặt tay chữa lành.Ngọng giống như có một sợi dây cột lưỡi và làm cho người ngọng không nói lên lời, không diễn tả được điều mình muốn nói. Chúa Giêsu đụng vào lưỡi người ngọng khiến như sợi dây ràng buộc lưỡi người này được tháo cởi ra. Và giờ đây người ngọng điếc được hoàn toàn bình phục, được hoàn toàn tự do: nói và nghe. Người vừa điếc vừa ngọng nói được rõ ràng và nghe được rõ ràng. Thật là hạnh phúc cho người này. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho người điếc ngọng giúp chúng ta hiểu được thế nào là quyền năng của Đấng tối cao, thế nào là hạnh phúc của người được khỏi bệnh.Thật trớ trêu, nhiều người trong chúng ta không bị câm mà cũng chẳng bị điếc, nhưng nhiều khi họ lại e dè, câm nín, ngại ngùng không dám nói không dám diễn tả, không dám trình bầy điều mình muốn nói vì họ đã có quá nhiều kinh nghiệm bị người khác chọc ghẹo, nói khích, bị khước từ, bị khinh khi, miệt thị, khiến họ trở nên ngọng nghịu, câm nín. Con người cần được mở ra, cần được vén lộ để họ có thể tự do mở ra thế giới của mình, hầu họ có thể gặp được sự thông cảm và nâng đỡ, chở che của người khác.Bệnh ngọng làm cho người khác không hiểu mình thì điếc làm cho mình chẳng thể nào hiểu được người khác. Thực tế, chúng ta đều muốn hiểu người khác và người khác hiểu được được chúng ta.Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta nhiều khi giống như bị ngọng, hay nặng hơn câm để chẳng nói được những điều cho người khác hiểu vì chúng ta nhiều khi quá chủ quan không đủ khách quan để diễn tả điều chúng ta muốn nói. Nhiều khi chúng ta lại giống như người điếc không nghe được người khác nói, khiến chúng ta không hiểu họ, nên hiểu lầm họ, hoặc hiểu một cách quá ơ hờ, chủ quan về họ…
Ephata có nghĩa hãy mở ra để chúng ta nói, để chúng ta ca ngợi những kỳ công, những điều tốt Chúa tạo thành và hiểu được, cảm thông với những điều kỳ diệu Chúa ban cho con người. Ephata để chúng ta ra khỏi những thành kiến, những đoán mò, những hiểu sai về người khác, giống như những người Nagiarét đã quá thiển cận, thành kiến cứng nhắc đối với Chúa Giêsu. Do đó, họ không nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Thế…Ephata hãy mở ra để chúng ta không bị câm bị điếc, để chúng ta biết thông cảm, biết đối thoại với người khác bởi vì nhiều khi chúng ta chỉ nghe bằng tai, nói bằng miệng. Chúng ta hãy nghe chú chồn hoang trong chuyện Hoàng Tử Bé ( Le Petit Prince ) của tác giả Saint Exupéry khi từ giả Hoàng Tử Nhỏ để về rừng:” Bí quyết của tôi thật là dễ, người ta không chỉ nhìn bằng con mắt nhưng phải nhìn bằng chính con tim của mình “. Chúng ta cũng vậy nghe bằng tai, nói bằng miệng chưa đủ, nhưng phải nghe và nói bằng chính trái tim, bằng chính con tim yêu thương của mình. Hãy yêu như Chúa yêu, chỉ yêu như Chúa chúng ta mới có tấm lòng nói được lòng mình và hiểu được người khác. Câm điếc thể xác đã khốn khổ lắm rồi nhưng câm điếc về tinh thần còn khốn khổ gấp bội.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con câm điếc trước Thiên Chúa và ngọng điếc trước tha nhân, trước anh em. Xin cho mọi người đừng câm điếc với nhau.Xin cho con người ra khỏi sự câm điếc của mình. Xin cho chúng con đừng bắt chước những người dân Nagiarét thành kiến, thiển cận, đóng lòng trước Đấng Cứu Thế. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng trước Lời của Chúa và khao khát sự hiệp nhất giữa anh em.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Điếc và ngọng là trạng thái thế nào ? 2.Chúa chữa người vừa ngọng vừa điếc cách nào ? 3.Ephata nghĩa là gì ? 4.Có mấy loại câm điếc ? 5.ÔBACE có khi nào bị câm điếc không ?
Ngôn sứ Isaia mời gọi những người nhát đảm hãy can đảm lên, vì Chúa sẽ đến cứu Israel. Bây giờ TN23-B109
Ngôn sứ Isaia mời gọi những người nhát đảm hãy can đảm lên, vì Chúa sẽ đến cứu Israel. Bây giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Bài Đọc 2: Gc 2, 1- 5
Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu hãy sống công bằng, tránh sự phân biệt giàu nghèo. Như vậy, sẽ không còn sự kỳ thị và không tỏ ra mình là một thẩm phán tà tâm. Chính Thiên Chúa cũng đã chọn anh em là những kẻ nghèo khó trước mắt người đời, để trở nên người giàu có về đức tin và được thừa hưởng nước trời.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 7, 31- 35
Khi người ta đem đến cho Đức Giêsu một người vừa điếc vừa ngọng, Ngài đã kéo riêng anh ra, đặt ngón tay vào lỗ tai, nhổ nước miếng vào lưỡi anh và nói: Épratha, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức anh ta nói được rõ ràng. Ngay lúc đó, danh Ngài được đồn ra và người ta hết sức ngạc nhiên về những việc tốt đẹp Ngài làm.
2. Suy Niệm
Trong cuộc sống không thiếu những gian nan thử thách, nó có thể đến từ ngoại cảnh nhưng cũng có trường hợp khởi đi từ bản thân. Những thử thách ấy có thể là những thất bại trong công việc, trong tương quan, những dằn vặt nội tâm hay bệnh tật. Điều quan trọng không phải là chấp nhận các đau khổ và thử thách như số phận đã an bài, mà hướng đến một chiều kích cao hơn: Hiệp thông với Chúa Kitô trong công cuộc cứu thế và tin tưởng rằng Thiên Chúa có thể làm mọi sự sinh ích lợi cho những ai yêu mến Ngài (x. Rm 8, 28).
Quả thực, Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành, nâng đỡ và cứu chữa những ai đặt niềm tin vào Ngài. Nhờ đó, con người sẽ nhận được ánh sáng hy vọng ngay cả trong hoàn cảnh bi đát nhất và cuộc đời tưởng chừng như đã đặt dấu chấm hết. Bài Tin Mừng hôm này là một dấu chỉ điển hình về tình thương vô bờ của Thiên Chúa được thể hiện nơi con người Đức Giêsu, khi Ngài chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng. Mang căn bệnh này từ bẩm sinh cũng đồng nghĩa là tự chôn mình trong cái hố của mặc cảm và thất vọng: mặc cảm với bản thân, ngại ngùng với tương quan tha nhân và nhìn đời với cặp kiếng bi quan. Với căn bệnh này, cánh cửa cuộc đời coi như đã khép lại.
Tuy nhiên, nhờ sự giúp đỡ của người thân cận và tình yêu trìu mến của Đức Kitô, người bị câm điếc đã đón nhận được một luồng sinh khí mới cho cuộc đời mình. Từ đây, lịch sử cuộc đời anh được sang trang và có thể viết lên đó những đường nét của hy vọng.
Có thể nói, hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm dừng lại ở lời nói như: chữa người bị phong hủy (x. Lc 5, 12- 16), cho con trai bà góa thành Nain sống lại (x. Lc 7, 11- 17), chữa người động kinh (Mc 9, 14- 29). Còn trong đoạn Tin Mừng hôm nay lại có sự kết hợp giữa lời nói và hành động. Ngài đã kéo riêng anh ra, đặt ngón tay vào lỗ tai, nhỗ nước miếng vào lưỡi anh và nói: Épratha, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức, anh ta nói được rõ rang (x. Mc 7, 33- 35). Như thế, Chúa Giêsu đã dành cho anh này một tình cảm đặc biệt. Những cử chỉ của Chúa đã đánh thức cuộc đời anh, trao cho anh niềm tin vào cuộc sống, vào Thiên Chúa và anh chị em.
Qua hình ảnh người bị câm ngọng được Chúa Giêsu chữa lành hôm nay, có lẽ cũng có hình bóng của mỗi người chúng ta. Nhiều người trong chúng ta vẫn tự hào mình khỏe mạnh, không mắc phải chứng bệnh đáng thương như anh chàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Tuy nhiên, có một sự câm ngọng tâm hồn còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Sự câm ngọng này bào mòn tâm hồn chúng ta và đánh mất sự nhạy cảm trước tình thương của Thiên Chúa và nhu cầu của anh chị em. Nó rất dễ làm cho trái tim băng giá, không còn nhịp đập yêu thương, không còn rung động trước nỗi khốn cùng của tha nhân và đánh mất niềm vui trao ban.
Nguyên nhân chính gây nên căn bệnh điếc ngọng tâm hồn là không cảm nhận được tình yêu và sự chăm sóc của Thiên Chúa. Mặc dầu mang danh là Kitô hữu, nhưng cuộc đời chúng ta lại vắng bóng Thiên Chúa. Đối với nhiều người, Thiên Chúa như một người xa lạ, hơn là một người Cha hằng yêu thương và dắt dìu mình trên hành trình dương thế . Như vậy, để kiến tạo cho mình một đời sống nội tâm vững chắc, một sự bình an chân thực và khả năng đọc ra được những nhu cầu của anh chị em, chúng ta phải cảm nhận được sự chăm sóc của Thiên Chúa và tình yêu trao ban nhưng không của Ngài. Trong thánh lễ đồng tế với các linh mục Balan tại phần mộ thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II ngày 31/10/2013, đức giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: “Một Kitô hữu phải là người cảm thấy được sự chăm sóc của Chúa, với vẻ đẹp của tình yêu thương đến cùng của Thiên Chúa”.
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước vào khung trời tình yêu Thiên Chúa để tẩy trừ tội lỗi và thanh luyện tâm hồn nên tinh sạch. Có thế, cuộc sống mỗi người sẽ được mở ra cho niềm hy vọng, sự cảm thông, chia sẻ vì xác tín rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu tôi và đồng hành cùng tôi.
Michel Angelo là một trong những nhà danh hoạ đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời vì giá trị vượt TN23-B110 Luong
Michel Angelo là một trong những nhà danh hoạ đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời vì giá trị vượt thời gian đã đành, mà còn vì sự sống động mà ông đã mặc cho những tác phẩm ấy, điển hình là bức tượng Maisen.
Người ta kể lại rằng: Sau khi hoàn thành bức tượng này, ông đã đứng chiêm ngắm một cách say sưa. Và sự sống động của pho tượng đã làm cho ông ngây ngất, đến độ ông đã cầm chiếc búa gõ vào pho tượng và thốt lên: Hãy nói lên đi.
Thực vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Chúa trao ban đẻ chúng ta truyền đạt tư tưởng và ước muốn cho người khác, để tạo lấy một sự hiểu biết và cảm thông. Khi chúng ta nói là chúng ta đang sống cùng, và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong xã hội cần phải được biểu lộ bằng tiếng nói. Vì thế những người câm điếc một phần nào đã bị hạn chế trong mối liên hệ với thế giới chung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Họ luôn sống trong thảm trạng cô đơn và lẻ loi.
Tuy nhiên, đáng thương hơn nữa có lẽ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền được được sống. Để sóng xứng với phẩm giá con người, thì cần phải có tiếng nói. Cũng trong chiều hướng ấy, phép lạ chữa người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, không phải chỉ là một sự chữa lành bệnh tật phần xác, mà còn là một dấu chỉ cho một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi cho người câm điếc khả năng nghe và nói, có lẽ Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời Chúa. Con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá của mình khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận lời hằng sống của Chúa.
Cử chỉ của Chúa Giêsu khi chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành bí tích Rửa tội. Thực vậy, bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ, trong đó chúng ta được chữa lành với tái sinh trong đời sống mới. Với phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Épphatha, hãy mở ra. Hãy mở rộng đôi tai để lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, trong từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng lưỡi để cảm tạ, chúc tụngchúc tụng và loan báo tình thương của Chúa, để nói những lời yêu thương và hoà bình, của cảm thông và tha thứ, nhờ đó chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân sống động co Tin Mừng của Chúa giữa lòng cuộc đời.
Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho TN23-B111
Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho mình. Dường như họ đã quên đồng loại hay cố tình bỏ rơi đồng loại để chỉ lo cho mình. Con người đi vào vòng xoáy danh lợi thú tựa như nhiều vòng tròn mà chẳng bao giờ gặp nhau.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay khiến tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau. Căn bệnh có tên là “Macke no” đã khiến con người kinh tởm và xa rời nhau. Họ giả điếc làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em.
Xem ra con người ngày nay cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Phải, cần phải mở tấm lòng để sống không phải vì mình mà phải vì tha nhân. Vì mình chúng ta sẽ ích kỷ và bỏ rơi đồng loại. Vì tha nhân chúng ta sẽ sống có ích cho đời. Xã hội sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người nhưng không bao giờ đòi mọi người vì mình.
Tiếc thay, con người lại thích sống trong vỏ ốc ích kỷ hơn là ra khỏi chính mình. Bằng chứng cho lối sống ích kỷ và mackeno là việc phá thai. Người ta ước tình rằng: mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ca nạo phá thai. Thật không gì nhẫn tâm khi phải chứng kiến những em bé bị cắt thành nhiều mảnh rồi lôi ra khỏi lòng mẹ. Còn đâu nữa ‘lòng mẹ bao la như biển Thái Bình’, còn đâu nữa ‘Lương y như từ mẫu”, vì bây giờ thai nhi được xem là cục nợ - là kẻ thù mình phải nhanh tay trừ khử, để trốn được trách nhiệm về sự buông thả của mình và bác sỹ thì có thêm thu nhập. Người ta nhận định ‘tệ nạn phá thai là sự phá sản của lương tâm’, vì tình mẫu tử rất thiêng liêng mà nay cũng không còn – mạng sống con người không được tôn trọng thì sự vô cảm với tha nhân quanh ta là điều tất yếu.
Đây là vấn đề thuộc về giáo dục phải khởi từ gia đình là trường học đầu tiên phải dạy cho con ý thức sống chung với đồng loại. Gia đình đừng dậy cho con trẻ sống chỉ biết mình, mà phải biết sống có ích với xã hội loài người. Gia đình phải giúp con trẻ sống có ích cho đồng loại. Rất mong mỗi gia đình biết giáo dục các thành viên biết nhường nhịn và tôn trọng nhau, có vậy ‘nó’ mới biết tôn trọng người khác khi ra xã hội và mới hạnh phúc khi lập gia đình hay tu trì. Thật đáng sợ khi xã hội nào đó đào tạo ra một lớp người chỉ biết sống theo chủ nghĩa ‘mackeno’. Lòng hào hiệp và sự vô cảm là hai mặt của ‘một đồng tiền’ lương tâm, hãy cảnh giác sự biến thái đạo đức xảy ra ngay trong lòng mình và môi trường sống quanh ta. Đừng để cho chuỗi tình thương ta nhận được từ Đấng Tạo Hóa và từ cuộc đời nầy kết thúc nơi bản thân mình.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch TN23-B112
1. Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
2. Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình. Sống giữa người khác như bị nhốt tù trong bức tường câm lặng. Kẻ câm điếc dễ bị khùng khùng mát mát là thế. Không hiểu người khác, dễ hiểu lầm ra thù ghét người khác. Đức Giêsu đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh. Khiến anh có thể nghe được, nói được, thông cảm, hiểu biết được mọi người và mọi người cũng nghe và hiểu anh được. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã chữa anh câm điếc một cách đặc biệt. Bao nhiêu bệnh nhân khác, Người chỉ nói mấy lời. Còn đối với anh, Người đã đặt tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời và thở dài kêu lên: “Hãy mở ra”.
3. Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân. Một bức tường ngăn cách vô hình thật đáng sợ! Nó đã biến Do thái và dân ngoại thành thù hận, Do thái cấm dân không được liên đới, đi lại với dân ngoại. Ai cố tình vi phạm là mắc tội ô uế. Về nhà phải tắm rửa nhiều lần mới được khỏi. Đức Giêsu phải trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số. Người bỏ miền Ty và Sidon là hai tỉnh nước Lyban bây giờ, tới phía đông biển hồ Galilê, vượt qua cao nguyên Gô lăng của nước Syrie và miền Thập tỉnh của sông Gióc đăng, qua Irăng, Irắc tới vịnh Ba tư, miền mỏ dầu bây giờ thuộc các nước chư dân ngoài Do thái. Cuộc hành trình đó đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại, phá đổ bức tường ngăn cách tôn giáo, để nước Thiên Chúa đến với muôn dân.
4. Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan. Chúa Giêsu đã lấy thánh giá phá đổ bức tường tội lỗi này. Người còn phá đổ bức tường cuối cùng mà thánh Phaolô nói là kẻ thù cuối cùng là sự chết. Người đã phá tung nấm mồ đè bẹp loài người để cho loài người sống lại với Người. Ai tin Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết, sẽ được thập giá như chìa khóa mở cửa nước Trời cho họ vào nhà Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin “hãy mở ra”, mở mọi trói buộc thân xác chúng con, mở mọi trói buộc tâm hồn chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi xiềng xích bất công, bất hòa, hận thù, tội lỗi. Xin hãy mở cho chúng con được thấy ơn cứu độ muôn dân, thấy nước hằng sống vinh phúc của Cha chúng con trên trời.
Con người là một sinh vật xã hội”. Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học. TN23-B113
“Con người là một sinh vật xã hội”. Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học. Ông ta cũng phần nào có lý khi cho rằng con người không thể sống cô lẻ một mình, nhưng phải sống với những tương quan xã hội. Sống trong một cộng đồng và tiếp cận với những người khác, chúng ta cần phải có hai kỹ năng: nghe và nói. Không nói được và không nghe được, không đơn thuần chỉ là khuyết tật về thể lý, nhưng là nỗi bất hạnh lớn nhất vì chúng ta bị cắt đứt khỏi những tương giao với cận nhân. Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Chúa chữa lành một người bị điếc và ngọng, mang chở nhiều chiều kích: chiều kích nhân học cũng như chiều kích thần học. Nhưng trên hết, thánh sử Marcô muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo cứu thế nơi Đức Giêsu. Ngài đến trần gian để mở tai, giúp chúng ta nghe được những gì Chúa nói. Ngài cũng dùng quyền uy để mở miệng, giúp chúng ta biết nói về Chúa, và rao giảng Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Giêsu, “vị lang băm” kỳ diệu
Văn phong của Marcô khá dung dị và mộc mạc. Người bình dân thời bấy giờ rất dễ hiểu. Marcô mô tả Đức Giêsu chẳng khác gì một lang băm miền quê. Vị lang băm này “ đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng xuống đất, bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,23). Có lẽ khi vừa nghe thoáng qua, không ít người khó chịu trước kiểu chữa bệnh xem ra mất vệ sinh và phản khoa học như thế. Ngài lại còn lẩm bẩm đọc một “câu thần chú”: Ep-pha-ta tựa như trong câu truyện thần thoại Aladin và cây đèn thần. Chúng ta đừng quá ngây thơ một cách thô thiển nhìn vào câu chuyện với nhãn quan quá hẹp hòi như thế. Đây chỉ là những biểu tượng nơi phép lạ của Đức Giêsu nhưng mang chở ý nghĩa rất sâu xa.
Chắc chắn Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, càng không phải là một thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng cách niệm thần chú. Ngài là một Thiên Chúa đầy quyền lực. Khi đến trần gian, Ngài sống kiếp con người rất con người, nhưng Đức Giêsu vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa. Ngài chữa lành các bệnh nhân để bày tỏ tình yêu vô bờ bến dành cho trao cho con người, đặc biệt những người cùng khổ và bất hạnh. Điều con người không thể làm được, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể làm được (Mt 19,26). Đức Giêsu là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự, và chúng ta đừng bao giờ đơn sơ nghĩ tưởng Ngài chỉ là một lang băm quê kệch và dốt nát.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, xuất phát từ một trái tim yêu thương. Ngài đồng cảm trước nỗi đau của con người. Câm không nói được và điếc không nghe được, vẫn là nỗi bất hạnh lớn nhất. Những dạng thức bất hạnh đó có liên đới với tội lội. Đức Giêsu đến “giải phóng” con người khỏi những cột trói của Satan và hỏa ngục. Theo não trạng của dân Do Thái thời xưa, bệnh tật là sự khống chế của ma quỷ nhưng là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra, đặc biệt tội của chính bệnh nhân. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm hẹp hòi này, rõ nhất khi Ngài chữa một người mù bên hồ Silôác mà Tin mừng Gioan thuật lại. Ngài đến trần gian để giải cứu con người một cách toàn diện. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô đã viết: “ Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được công chính hóa (Rm 5, 12-21). Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, nhưng Ngài là Đấng Cứu thế, Đấng Công chính hóa. Ngài chính là vị “Anh hùng Giải phóng” toàn diện và đúng nghĩa nhất.
Điếc và ngọng trong tâm hồn.
Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành mà Tin mừng hôm nay nói tới, có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, anh ta không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần anh ta bị ngọng. Lưỡi anh ta vẫn có thể nhúc nhích, anh vẫn nói được, nhưng chỉ lờ lợ và chẳng ai hiểu anh ta muốn nói gì. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng. Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật này, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin trong tâm hồn. Cậu bé Samuel ngủ trong đền thờ với thầy Hêli giữa đêm khuya đã nghe tiếng Chúa gọi, nhưng cậu không nhận ra tiếng gọi của Chúa, bởi vì cậu chưa từng gặp Chúa. Cũng vậy, có thể chúng ta không phải là người điếc, nhưng chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa nói nếu không tiếp cận Ngài, không đi sâu vào tương quan thân tình với Ngài. Chúa nói với chúng ta qua nhiều dạng thức. Ngài ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố trong cuộc sống đời thường. Ngài nói qua sự nhắc nhở của lương tâm, qua các cử hành phụng vụ, khi chúng ta đọc hay nghe Kinh thánh. Ngài nói với chúng ta qua từng người chúng ta gặp gỡ, qua một cụ già ốm yếu đang quặn đau nằm trên giường bệnh, qua một đứa bé mặt mũi lem luốc đang bới rác tìm cái gì để ăn, qua một bạn trẻ ngồi trên xe lăn với tay chân không còn lành lặn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nghe được rất rõ tiếng Chúa Giêsu đang rên la thảm thiết trên Thánh giá trước khi Ngài tắt thở: “ Ta khát”.
Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi chúng ta ra tận “vùng ven” để gặp Đức Giêsu ở đó. Ngài hiện diện nơi những con người sống dở chết dở trong một nền “văn hóa loại trừ”, một thứ văn hóa vô thần mà những con người ích kỷ hôm nay đang tạo ra. Ngài vẫn đang nói, đang thét gào trong đau đớn, nhưng nhiều khi chúng ta “bưng tai bịt mắt, không thèm nhìn cũng chẳng nghe” giống dân Israel ngày xưa (Is 42,20). Đó là bệnh điếc kinh niên, một thứ bệnh nan y mãn tính và rất khó chữa. Muốn được chữa lành, chúng ta phải ý thức mình đang điếc để khiêm tốn đến với Chúa Giêsu giống như bệnh nhân trong Tin mừng hôm nay.
Bệnh câm hay ngọng cũng thế. Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Một con chó câm không biết sủa, thì chỉ đáng đưa lên mâm”. Cũng vậy, một Kitô hữu không biết mở miệng để nói có khác gì một kẻ câm. Nhưng điều quan trọng là chúng ta nói cái gì. “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng cãi ngang phè phè”. Đây là hai câu thơ trào phúng mang tính dân gian, nhưng nó cũng gợi nhắc cho ta điều mà thánh Giacôbê nhấn mạnh: “Mỗi người hãy mau nghe đừng vội nói” (Gac 1,19). “Ai cho mình đạo đức mà không biết kiềm chế miệng lưỡi, đó chỉ là đạo đức hão. Ai không vấp ngã về miệng lưỡi, ấy là người hoàn hảo” (1,26).
Một câu ngạn ngữ phương tây đã viết: “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét đó là cái lưỡi con người”. Có lẽ, rất ít người trong chúng ta bị câm về thể lý, nhưng xét về mặt thiêng liêng, chúng ta lại giống như một người không biết nói, hoặc nói ngọng nói ngịu. Có nghĩa là, chúng ta cứ thích nói những gì chúng ta không nên nói, nhưng lại không biết nói những gì chúng ta cần phải nói. Nhiều khi chúng ta lại còn dùng miệng lưỡi như một thanh gươm không han dỉ để sát hại lẫn nhau một cách ác tâm và phũ phàng. Vậy, chúng ta phải nói những gì? Chúng ta nhìn lại thái độ của chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay, dù Đức Giêsu cấm không được kể chuyện đó với ai, nhưng Người càng cấm họ càng đồn ra (c. 36b). Tin tức tốt lành được loan đi, chắc chắn do người thanh niên này trước tiên. Anh ta kể lại câu chuyện anh được chữa lành cho người khác, và cứ thế Tin mừng được nhân rộng, lây lan đến mọi người.
Điều chúng ta cần nói, chính là Tin Mừng. “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc16,15). Rao giảng Tin mừng tức là kể lại những câu chuyện về Chúa cho người khác, nhất là những câu chuyện liên quan tới chúng ta. Chúng ta không thể thực hiện công việc này, nếu chúng ta không tiếp cận với Chúa Giêsu, không gặp gỡ Ngài, không cảm thấu được tình yêu của Ngài, không để Ngài cuốn hút, và không để Ngài viết nên câu chuyện lịch sử trong đời sống của chúng ta. Nếu không thực hiện được điều ấy, chúng ta chỉ là những người vừa câm vừa điếc, và giả như không bị câm, thì có nói, cũng chỉ biết nói ngọng nói ngịu chẳng ra thể thống gì.
Các anh em tu sĩ dòng Đaminh được gọi là các anh em giảng thuyết (Ordo predicatorum). Châm ngôn của thánh phụ Đaminh là: “Hãy chiêm niệm và chuyển giao những điều chiêm niệm cho người khác” (contemplari et comtemplata aliis tradere). Nguyên tắc này rất đơn giản: Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Không ai có thể dạy người khác điều mình không biết. Phải chiêm niệm Lời Chúa, phải để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, chúng ta mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác. Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha, chúng ta không thể nói về Ngài, và loan báo Tin mừng của Ngài cho mọi người.
Nói và nghe bằng cõi lòng
Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:
“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử. Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu. Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi”. Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười”. Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người”.
Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”
Kết luận
Có gặp gỡ Chúa, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Có nghe tiếng của Ngài, tâm hồn chúng ta mới có thể mở ra. Khi tâm hồn được mở ra, đến lượt chúng ta, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác. Nếu không, chúng ta chỉ là những kẻ vừa điếc vừa ngọng. Điều này cần thiết cho mọi tín hữu, nhất là cho các anh em linh mục. Nếu không biết mở miệng nói về Chúa, chúng ta chỉ là những người câm. Nếu không để Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, dù có đứng trên bục giảng để khua tay múa chân và thao thao bất tuyệt, cuối cùng chúng ta cũng chỉ là những tên ngọng mà thôi. Vừa điếc lại vừa ngọng, là nỗi bất hạnh lớn nhất nơi mỗi người.
Một thời gian dài bị đau họng không thể nào nói được để rồi kèm theo đó không biết bao nhiêu là TN23-B114
Một thời gian dài bị đau họng không thể nào nói được để rồi kèm theo đó không biết bao nhiêu là bất tiện. Muốn nhờ người khác giúp cho cái gì thì đều phải ra dấu. Có khi ra dấu cũng không hiểu nên đành phải lấy giấy viết ra mà ghi.
Chỉ ít hôm đau họng mà tôi cảm thấy bất tiện như thế huống hồ mình rơi vào cảnh câm điếc.
Lần nọ, vào quán ăn, trước mắt tôi là gia đình kia có vài người rất lạ. Thay vì họ nói với nhau nhưng không, họ đưa tay ra để đưa dấu cũng như những ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ của người khiếm thính.
Và, một thời gian đủ dài để tôi sống gần với những người khiếm thính. Muốn trao đổi điều gì đó với họ buộc lòng tôi phải học theo ngôn ngữ của người khiếm thính. Vì chỉ là giao tiếp thường nên cũng chỉ học ít dấu chỉ để nói chuyện. Chỉ nhiêu đó thôi cũng đã thấy phức tạp hơn rất nhiều cũng như bất tiện nhiều so với người nghe được và nói được.
Thường thì người bị câm sẽ đi theo luôn cả chứng điếc. Vừa câm mà lại còn vừa điếc nữa nên quả thật là khó khăn.
Ngày hôm nay, ta thấy những người dân ở gần biển Galile đã mang người câm điếc đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chạnh lòng thương anh và rồi Chúa đã chữa lành cho anh khỏi chứng bệnh câm điếc mà anh gặp phải. Và, ta thấy điều lạ đó là Chúa Giêsu cấm anh ta không được nói điều mà Chúa Giêsu mới làm cho anh nhưng rồi anh lại đi loan truyền hồng ân mà Chúa đã làm cho anh.
Nhìn lại anh chàng câm điếc hôm nay ta lại nhìn lại cuộc đời của ta. Chúa cho ta nghe lời của Chúa đó và Chúa mời gọi ta nói lời của Chúa đó nhưng rồi trước lời của Chúa ta cứ giả điếc làm ngơ.
Ta may mắn hơn rất nhiều người nhưng rồi ta không nhận ra đó là quyền năng mà Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta cách đặc biệt.
Ngày hôm nay, dường như người ta lại thích nghe những thông tin có tính cách giật gân hơn là nghe những lời giáo huấn của Giáo Hội, của Thiên Chúa. Cứ thử làm một bảng thống kê ta sẽ nhận ra được điều bi đát trong đời sống con người thực tại.
Cứ có chuyện gì đó xảy ra trong xã hội thì con người lại cứ truyền tai nhau mà khổ một cái là truyền tai chưa chắc là đúng sự thật hay có khi là thiếu đức bác ái và lỗi nặng về đức bác ái nữa.
Qua trang mạng của một giáo phận, người ta biết được, người ta thấy được thông tin của giáo phận treo chén của một linh mục trong giáo phận. Thông báo vừa được dán lên thì một số người nhảy vào và copy đem về trang cá nhân của mình. Từ trang cá nhân của người nào đó và rồi lại cứ loan đi và loan đi.
Chuyện rất nực cười khi suy cho bằng cùng là như thế này: chuyện cha nào đó bị treo chén quả thật là nỗi đau của Giáo Hội, của giáo phận đó. Tôi thiển nghĩ là giáo phận đó đau lòng lắm khi phải đưa ra tờ thông báo đó. Thế nhưng, một số người vì thiếu đạo đức truyền thông và thiếu cả bác ái nên cứ loan truyền nhau. Người này nói người kia, người kia nói người nọ và người ta loan đi để rồi mất tình bác ái với nhau.
Xét cho bằng cùng thì cha đó chẳng làm tổn hại đến những người đi nói thêm về thông tin của cha đó. Chuyện chỉ là giữa tòa giám mục đó và cha đó và giữa cha đó với Chúa thôi. Mình đâu có dính dáng gì đến cha đó đâu mà phải bàn tán xôn xao.
Không chỉ chuyện cha đó bị tòa giám mục đưa ra thông báo treo chén mà còn nhiều chuyện khác trong cuộc đời. Cứ thấy chuyện gì đó đưa lên báo chí là bắt đầu không ít thì nhiều người ta bắt đầu đi tuyên truyền. Và những điều tuyên truyền đó cứ sai lạc để để lại không biết bao nhiêu điều đáng tiếc.
Cả người Công Giáo của ta, ta cũng phải nhìn lại lời ăn tiếng nói của ta, cung cách cư xử của ta trong cuộc sống. Có khi ta hồ đồ, có khi ta bộp chộp, có khi vì tự ái cao để rồi ta làm tổn thương người khác.
Thánh Giacobê mới gọi mỗi người chúng ta: Anh em hãy mau nghe chứ đừng vội nói! Nghe cái đã! Chúa ban cho ta được hồng ân là ta nghe để rồi ta phải sử dụng hồng ân đó như thế nào đẹp lòng Chúa.
Ta vẫn thường chạy theo thói của thế gian là thích nghe và thích nói những điều xúc phạm đến người khác, làm tổn thương đến người khác.
Ta đã từng mất ăn mất ngủ, ta đã từng đau khổ khi nghe người khác nói không đúng về ta, sai sự thật về ta để rồi đó cũng là kinh nghiệm để ta đừng bao giời đối xử với anh chị em đồng loại ta như vậy.
Ta lại xin ơn Chúa để Chúa mở miệng, mở tai tâm hồn của ta để ngày mỗi ngày ta l ắng nghe lời Chúa hơn cũng như ta biết cao rao hồng ân mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ta hơn.
Ta lại thầm thì với Chúa với tâm tình thánh thi kinh sách tuần II:
Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ, Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà, Họ khổ đau, họ kêu gào than thở, Ðừng để con cứ giả điếc làm ngơ. Và, xin cho cuộc đời ta mãi mãi được thân thưa với Chúa:
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con – Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
Thực ra, trong số các phép lạ Đức Giêsu thực hiện, thì phép lạ chữa cho người vừa điếc vừa ngọng để TN23-B115
Thực ra, trong số các phép lạ Đức Giêsu thực hiện, thì phép lạ chữa cho người vừa điếc vừa ngọng để có thể nghe và nói được rõ ràng không mấy nói lên quyền phép của Đấng Thiên Sai, cho dầu dân chúng vẫn cứ cất lời ca ngợi: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả, ông ấy làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”. Hơn ai hết, Đức Giêsu có lẽ là người hiểu rất rõ, phép lạ này thực ra có một ý nghĩa vừa tế nhị vừa sâu sắc hơn, do đó ‘Người truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả’. Hơn nữa cử chỉ và thái độ khi Người thực hiện phép lạ này hình như cũng biểu lộ một tâm trạng gì đó khác thường; ‘Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… đặt ngón tay vào lỗ tai anh… nhỏ nước miếng và bôi vào lưỡi anh… Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-phê-tha”, nghĩa là ‘hãy mở ra!’
Tại sao việc nghe - nói, đối với Đức Giêsu lại có tầm quan trọng đến thế?
Nếu đối với Cựu Ước khả năng giữ trọn lề luật là tối quan trọng bao nhiêu, vì nó nói lên sự trung thành tuyệt đối với giao ước đã được ký kết sòng phẳng giữa Đức Chúa A-đo-nai và dân riêng Ngài, thì trong Tân Ước, khi Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) mặc lấy hình hài con người, thì việc nghe - nói càng có một tầm quan trọng hơn bấy nhiêu.
Lắng nghe Lời sẽ đồng nghĩa với việc ký kết giao ước mới, tức là đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô Giêsu - Lời. Khả năng nghe chính là khả năng (hay ân huệ) tin vào Đức Kitô Giêsu để đón nhận tình Thiên Chúa yêu thương nhân trần. Người môn đệ của Giêsu - Lời phải là những người có khả năng nghe, tức là nhận biết tình yêu Thiên Chúa. Ân huệ này mang tính riêng tư cá nhân, ‘Người kéo anh ta ra khỏi đám đông’; là tác động trực tiếp của Thần Khí Thiên Chúa trên từng người, ‘Người đặt ngón tay vào lỗ tai anh…’; là ân huệ không được ban cho hết mọi người, vì ‘nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính muốn… nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe’ (Mt 13:17). Thế đấy, ước vọng lớn nhất của Ngôi Lời Nhập Thể là làm sao cho Lời tình yêu này được nhiều người nghe thấu. Và người môn đệ đích thực phải là người có khả năng nghe - nhận biết: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (Mc 9:7).
Khả năng ‘nói’ cũng tương tự như thế. Thời Đức Giêsu, nếu các kinh sư và biệt phái là những người có bổn phận nói cho dân về các lề luật phải tuân giữ để trung thành với Đức Chúa, thì Người cũng đòi hỏi nơi các môn đệ Người khả năng công bố cho mọi người nghe biết về Lời Tình Yêu đã giáng trần và chịu chết. “…Điều anh em rỉ tai trong buồng kín, phải được công bố trên mái nhà” (Lc 12:3). Người sai các ông lên đường cũng là để làm điều này, và đó chính là mệnh lệnh tối hậu - hay đúng hơn - là di chúc Người trăn trối trước khi về trời; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo!” (Mc 16:25). Kitô hữu phải là người có khả năng nói rõ ràng chứ không ngọng nghịu về Lời Tình Yêu này. Đó là tất cả lý do hiện hữu cũng như sứ mệnh của họ trên trần gian, như Phao-lô quả quyết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9:16).
Thế đấy, đối với Kitô hữu, nghe và nói thật quan trọng biết bao, đó chính là lắng nghe Lời Tình Yêu và công bố Tin Mừng Tình yêu! Thật không may, số các Kitô hữu làm được điều này lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Quan trọng hơn, số người ý thức điều này để chuyên tâm trau dồi và cầu xin ơn trên trợ giúp thì lại càng hiếm hoi hơn. Nhiều khi chính tôi cũng nhìn vào Phao-lô và coi ông chỉ là một trường hợp cá biệt. Cùng với nhiều người tôi vẫn coi việc truyền giáo (= công bố Tin Mừng tình yêu) là ơn gọi đặc biệt chỉ được dành cho một số ít. Ngay trong Giáo Hội, người ta thích nghiên cứu sâu rộng sự công thẳng của Thiên Chúa hơn là thấu hiểu Lời tình yêu, nhiệt tình giảng dạy về án luận phạt Chúa giáng xuống trên kẻ tội lỗi hơn là ơn tha thứ vô biên Người rộng rãi trao ban cho hết mọi người. Chẳng trách được, trước khi cất tiếng ‘Ép-phê-tha!’ Đức Giêsu đã phải ‘ngước mắt lên trời, rên một tiếng’!
Tôi cần xem lại khả năng nghe và nói của chính mình, trong tư cách một linh mục của Đức Kitô.
Lạy Lời của tình yêu của Thiên Chúa hằng sống, cùng với thánh Âu-tinh, sau nhiều năm tháng từng xưng mình là Kitô hữu - hơn nữa là linh mục, có lẽ con cũng phải thốt lên: con đã nghe Lời quá trễ và đã ngọng quá lâu khi cất tiếng nói về Lời nhân ái. Xin hãy đặt ngón tay hiền dịu Chúa vào tai con và hãy dõng dạc thốt lên câu ‘Ep-phê-tha’. Xin hãy nhỏ nước miếng của Lời và bôi vào lưỡi con, để con dùng chuỗi ngày còn lại cao rao to tiếng và rõ ràng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa là vô bờ bến. Amen.
Một biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm điếc- làm sao TN23-B116
Một biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm điếc- làm sao lại có thể gặp gỡ chúng ta và đưa chúng ta đến một suy tư thiết yếu về niềm hy vọng và sự tham gia của chúng ta vào việc làm cho nước Chúa trị đến? Có nhiều lý do. Chúa không làm gì cách nhẹ dạ cả, như thể đối với Ngài có những điều quan trọng và những điều khác không quan trọng. Hơn nữa, mỗi cử chỉ, cũng như mỗi lời nói của Ngài đều diễn tả một cách mới mẻ và luôn luôn thúc bách cùng một sứ điệp đó: Nước Thiên Chúa đã đến, anh em hãy hoán cải và đón nhận nó!
Lời hứa.
Bài đọc một diễn tả lời Thiên Chúa hứa với dân Ngài: Ngày kia sẽ có một thế giới mới, một thế giới khác trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ nỗi lầm than hoặc sự điên rồ nào của thế giới hiện tại nữa: Sẽ không còn tật nguyền nữa nhưng sẽ đầy sự sống, không còn đói khát, âu lo, chiến tranh nữa, nhưng là hòa bình. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa sẽ đến khai mạc.
Những kẻ lắng nghe những tiếng kêu hăng say này của các ngôn sứ phần lớn là những người nghèo nhất và những kẻ thiếu hy vọng nhất trong một xứ sở đã trở thành mồi cho sự xung đột giữa các cường quốc. Họ không có quyền hành gì trên những bức xúc liên lỉ của cuộc sống: Tật nguyền, bệnh tật, sự hiện diện gây ám ảnh của thần chết, đói kém, giặc giã và thiếu tự do.
Có phải đã đến lúc không?
Những người nghèo ấy đã nghe những lời hứa này, đã chờ đợi chúng được thực hiện, biết các dấu chỉ loan báo điều ấy sắp xảy ra. Chắc hẳn họ nhắc lại những dấu chỉ đó trong lòng và chờ đợi chúng. Lời cầu của họ có thể là gì khác hơn là một lời kêu xin lâu dài và kiên nhẫn không?
Vậy nên, khi họ biết được rằng một vị ngôn sứ thực hiện những dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ được hứa, rằng những người nghèo, những người đau ốm và tật nguyền, những nạn nhân của nỗi lầm than của con người tìm thấy được nơi Người sự an ủi đã chờ mong từ rất lâu, thì những đám đông lầm than khốn khổ nhưng tràn trề hy vọng tuốn đến với Chúa Giêsu.
Một vương quốc phải bắt đầu.
Quả thật đây là khởi điểm. Nhưng cũng còn là điều gì khác lớn hơn và hấp dẫn hơn nữa.
Tin rằng triều đại Thiên Chúa gồm những phép lạ, một phép mầu biến đổi cuộc sống mà chúng ta không cần làm gì cả ngoài việc ngồi dưới bóng mát và nhìn xem nó từ trời xuống, tức là có một ý niệm rất sai lầm về Chúa, một ý niệm nghèo nàn về con người và ơn gọi của họ, một ý niệm nghèo nàn về Nước Trời.
Như bài Tin Mừng nhắc nhở, Chúa Giêsu đã rất cẩn thận làm cho người ta hiểu ý nghĩa các phép lạ Ngài thực hiện: Đây là những cử chỉ giới thiệu một con đường phải đi và mời gọi người ta đi vào đó như Ngài đang đi.
Nước Chúa phải bắt đầu bằng việc an ủi những kẻ lầm than, chia sẻ với những ai khốn cùng khi làm cho người điếc nghe được, người câm nói được, người què đi được, người mù được sáng mắt. Vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng, theo lời căn dặn của Chúa Giêsu mà trong mỗi Thánh lễ đều được nhắc lại cho chúng ta, là phục vụ lẫn nhau, theo gương Ngài.
Nước Chúa là một hồng ân. Đây cũng là công việc biến đổi thế giới: thay thế bất công bằng sự công chính, đau khổ bằng sự an ủi, lo âu bằng hy vọng, tính ích kỷ bằng tình thương. Sau khi đã hoàn tất những công việc đó mà chính Thiên Chúa cũng tham gia vào, thì thế giới mới đã được hứa sẽ xuất hiện.
Kết luận.
Niềm hy vọng, vốn là sức mạnh của sự xác tín, phải sống động đủ nơi chúng ta để thúc đẩy chúng ta thi hành những công việc Chúa đề nghị cho chúng ta để thế giới mới mà Thiên Chúa hứa có thể trở thành hiện thực.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế TN23-B117
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng. Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần, cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với Thiên Chúa được.
Đức tin đến với chúng ta bằng việc nghe thấy, không phải xuyên qua bộ phận tai nghe của chúng ta nhưng là qua đặc ân đức tin mà chúng ta lãnh nhận nơi phép rửa. Đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta có cơ hội lắng nghe bằng đức tin. Chúng ta sẽ đặt chỗ ưu tiên để suy nghĩ về việc lắng nghe Lời Chúa như là một nguồn mạch đức tin của chúng ta, còn có những cơ hội khác trong Thánh Lễ. Kinh Tin kính sau bài giảng đã diễn tả đức tin của chúng ta, như chúng ta hát những ca vịnh, hoặc khi chúng ta đọc những lời linh đặc biệt là kinh nguyện Thánh Thể. Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng cách mà chúng ta đọc kinh là diễn tả những gì chúng ta tin (Lexorandi, lexcredendi).
Tuy nhiên đức tin thì bất toàn cho đến khi chúng ta nói với Thiên Chúa về cung cách mà chúng ta sẽ cử hành, hay khi chúng ta đáp trả trong việc thờ phượng. Lời kinh trong phụng vụ sẽ phục vụ cho một mục đích kép đôi: Nó vừa dạy chúng ta đức tin, vừa trao ban cho chúng ta những từ ngữ thích hợp để diễn tả sự thờ phượng của chúng ta. Những điều này được ban xuống là để chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã làm và còn đang tiếp tục làm. Trong thời kỳ Phúc Âm, dân chúng đã tôn kính Chúa Giêsu bằng việc kể lại cách đơn giản những gì Ngài đã làm. Họ nói: “Ngài đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được”.
Thí dụ trong kinh nguyện Thánh Thể thứ ba, chúng ta đọc: “Lạy Cha, Cha là sự thánh thiện và mọi tạo vật của Cha đều phải dâng lời ngợi khen Cha. Tất cả đời sống, tất cả sự thánh thiện đều phát xuất từ Cha”. Thiên Chúa đã mạc khải rằng Ngài là nguồn mạch của mọi sự sống, của mọi sự thánh thiện, chúng ta ngợi khen Ngài bằng việc tuyên xưng Ngài là chân lý thật. Các Thánh Vịnh cũng là hoa quả giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Trong Thánh Vịnh đối đáp ngày hôm nay, Thánh Vịnh 146: “Thiên Chúa của Giacóp đã giữ lời hứa đến muôn đời, bảo đảm sự công chính cho người bị áp bức, cấp thực phẩm cho người đói, Chúa giải thoát kẻ ngục tù”. Những lời này vừa là lời mạc khải vừa là lời cầu nguyện.
Thiên Chúa không cần chúng ta nhắc nhở Ngài về sự lớn lao mà Ngài có và sự kỳ diệu nơi các việc Ngài đã làm. Ngay trong mối quan hệ của con người, chúng ta ngợi khen người khác bằng việc nói với họ về những gì họ đã làm. Đối với người bạn mà anh ta đã mời bạn đến nhà dùng cơm thì bạn phải nói: “Món mì nóng tuyệt vời mà trước đây tôi chưa hề nếm qua bao giờ”. Thiên Chúa cũng làm cách tốt nhất trong mọi cách cho chúng ta. Đó là những gì chúng ta đã học được khi chúng ta lắng nghe tất cả mọi hình thức của sự mạc khải. Chúng ta là những người khôn ngoan, khi sự thờ lạy mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa là theo những gì mà Ngài đã nói về Ngài cho chúng ta, kh chúng ta nói với Người trong cầu nguyện theo cách mà chúng ta có thể.
Qua trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến TN23-B118
Qua trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh mục Cyril Axelrod bị điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ ra khỏi xã hội của những bị điếc và bị mù. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên thần của Chúa,” họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực của một “tình yêu không điều kiện” và những giá trị nền tảng như lòng “tự tin, hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời, cha cho biết như trên trang blog của mình: cyrilaxelrod.wordpress.com.
“Chỉ những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo hội, trong xã hội và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã tuyên bố như trên trong lần gặp cảm động với 6 000 người mù và câm điếc vào tháng 3-2015 vừa qua. Trong số họ ở hàng đầu là linh mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp Giáo hoàng thứ ba trong đời mình, Đức Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày đó, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”, một nền văn hóa làm băng hoại xã hội đương thời.
Linh mục Cyril Axelrod còn nhớ những giọt nước mắt cảm động của Đức Chân Phước Phaolô VI. Lúc đó cha vừa chịu chức xong và trước khi bị bệnh – hội chứng Usher, bị nốt chấm trong cườm mắt liên quan đến bệnh điếc – đã làm cho cha bị mù luôn. Cha đã dịch câu ban phép lành của Đức Giáo hoàng ra ngôn ngữ dấu hiệu: “Đi và rao giảng tình yêu của Chúa cho người điếc”. Các giọt nước mắt của Đức Giáo hoàng đối với cha là “dấu hiệu điều kỳ lạ của Chúa dành cho tôi, cho sứ mạng cứu chuộc của tôi,” cha thổ lộ trong quyển tiểu sử của mình như trên.
Năm nay linh mục Cyril được 73 tuổi và sống tại Luân Đôn. Cha sinh năm 1942, cha mẹ là người Do Thái-chính thống, cha trở lại đạo công giáo năm 23 tuổi và năm 28 tuổi cha vào cộng đoàn các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, thực hiện giấc mơ được làm linh mục. Công việc của cha là giúp người điếc, mở cánh cửa giáo dục và hiểu biết cho họ. Cha không bao giờ quay lưng với sứ vụ này! ( Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch Linh mục Cyril Axelrod, người rao giảng Phúc Âm điếc và mù trên Web )
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu thể hiện rất rõ ràng “Văn Hóa của Gặp Gỡ”, khi Người chữa lành người câm điếc giữa dân ngoại. Ngày nay, Linh mục Cyril Axerod đang trung thành tuân theo lời dạy của Đức Giêsu, hội ngộ thường nhật với tha nhân qua phương tiện điện máy tân kỳ, mặc dù vừa bị điếc và mù lòa. “Văn hóa của Gặp Gỡ” đòi hỏi những quy tắc vàng do chính Đức Giêsu ân cần hướng dẫn: vị tha, tiếp cận và hiệp thông.
Vị tha
“Người đem anh ta ra khỏi đám đông.” Gặp gỡ đối thoại luôn cần tách ra khỏi đám đông bầy đàn, hỗn độn, nhiễu nhương, ồn ào, xô bồ và phức tạp, để có thể lắng nghe trung thực và nói ra điều công chính hữu ích. Gặp gỡ giúp đỡ với tình thương mến, thì càng cần tìm đến chốn riêng tư, khiêm tốn, kín đáo và thân mật. Không những quan tâm giúp đỡ anh câm điếc này, Đức Giêsu còn tỏ ra tôn trọng anh, không muốn anh bị đám đông chế giễu xúc phạm, không muốn tạo cơ hội nổi danh, cũng chẳng muốn thiên hạ ngộ nhận Người là thầy thuốc, thầy lang, hay phù thủy. Tất cả chỉ vì vị tha, yêu thương cứu giúp người tật nguyền, vì Người muốn tái tạo con người trở nên tốt lành, sửa chữa những hư hỏng, bệnh hoạn, lệch lạc, khiếm khuyết do tội lỗi, thói hư tật xấu, hoặc do áp lực thói đời dung tục gây nên.
Thoát khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn gặp gỡ riêng từng người, từng con chiên hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, cô đơn, lạc lõng, bị áp bức hay bị bỏ rơi, tẩy chay. Người chính là Mục Tử nhân lành, dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trong đàn, để đi tìm một con chiên lạc. Hoàn toàn xả kỷ, quên mình, chẳng nề quản mệt nhọc, vất vả, chông gai, nguy hiểm, thách đố, Người tìm cho bằng được con chiên lạc, hớn hở vác lên vai đem về.
Bất cứ cuộc gặp gỡ nào không noi gương Đức Giêsu hành động, ứng xử kiểu mẫu, xả kỷ, vị tha thì chỉ dẫn đến thất bại, ngộ nhận và tan vỡ mà thôi. Vì nếu ai cũng khư khư giữ thái độ vị kỷ, vị lợi, kiêu căng, tham lam, thì luôn xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, bất khoan dung, không thể nào gần gũi, hòa hợp và hiệp thông.
“Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh nhọc mệt, tránh hy sinh; họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một thiên đàng dành riêng cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn.”( Đường Hy Vọng, số 196 )
Tiếp cận
“Người đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta.” Với quyền năng vô biên, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, thì anh câm điếc được lành bệnh ngay. Nhưng Người không chọn việc làm dễ dàng, đơn giản ấy, mà chịu khó ân cần, gần gũi, tỉ mỉ và tiếp cận, chữa lành cho anh ta. Gặp gỡ, tiếp xúc cụ thể mới có thể hoán cải, biến hóa, tái tạo, tái sinh. Những lời rao giảng dù hoa mỹ, hùng hồn, cao quý, sâu sắc cách mấy, mà thiếu những hành động cụ thể, tiếp cận con chiên đang trầm luân khốn khó, thì vẫn chỉ là mớ lý thuyết suông thiếu sức thuyết phục. “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chóp lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm cụ thể.” ( 1Ga 3, 18 ) Thánh Gioan đã chân thành khuyên nhủ các tín hữu Kitô tiên khởi về lời nói phải luôn đi đôi với hành động.
“Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” ( Ep 2, 13 ) Đức Giêsu đã và đang tiếp cận từng người, từng ngày giờ qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, qua những Bí tích mầu nhiệm và những lễ nghi, kinh nguyện hằng ngày. Vấn đề là người Kitô hữu có muốn được Người tiếp cận, để được cám hóa, canh tân, tái sinh, tái tạo cả thân xác lẫn tinh thần, hay cứ cố chấp bịt tai, câm lặng, đồng lõa với thế gian bất chính, bất công, tội lỗi và thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân?
Hiệp thông
“Ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Ephêta!" Đức Giêsu luôn luôn cầu nguyện trước khi hành động. Người luôn thực hiện theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chứ không bao giờ theo ý riêng Người. Cầu nguyện là quy hướng mọi sự về Thiên Chúa, tin tưởng, trông cậy, yêu mến, hoàn toàn phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Trong niềm tri ân, cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu làm phép lạ cởi trói cho người câm điếc thoát khỏi ngục tù thân xác bệnh tật, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân, để có thể nghe Lời Chúa và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân.
Nhờ Đức Giêsu nhập thể, cứu chuộc con người khỏi câm điếc với Thiên Chúa và với nhau. Khỏi dửng dưng với Lời Chúa, khỏi vô cảm với tha nhân, khỏi xiềng xích, tường lũy giam cầm của tội lỗi, ma quỷ, thế gian và xác thịt. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” ( Cv 2, 42 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi câm điếc tinh thần, để chúng con nghe được Lời Chúa mời gọi hằng ngày, nghe được Thánh ý Chúa, nghe được tiếng nói lương tâm. Cũng như nghe thấy những nhu cầu của những người khó khăn, đau khổ, mất tiếng nói trong xã hội, mà yêu thương, dấn thân hy sinh giúp đỡ. Xin mở miệng chúng con biết tri ân cảm tạ, ngợi khen Chúa, cũng như an ủi, hướng dẫn, hỗ trợ người yếu đuối, cơ quả, nói lên những gì hữu ích cho tha nhân mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe cách trung thực và biết nói lời chân thành, xây dựng, để có thể hiểu biết, yêu thương và chia sẻ mọi sự với người khác trong cuộc sống lưu đầy này. Amen.
Không ai là một hòn đảo". Đây là lời của một bài hát và có rất nhiều người tâm đắc, như vậy ý muốn TN23-B119
"Không ai là một hòn đảo". Đây là lời của một bài hát và có rất nhiều người tâm đắc, như vậy ý muốn nói đến tình liên đớigiữa con người với con người: liên đới bằng những việc làm giúp ích cho nhau, bằng những nâng đỡ, khích lệ, bằng việc chân thành lắng nghe nhau, bằng việc trao cho nhau ánh mắt ,nụ cười… tất cả những điều này đều diễn tả cùng một ý nghĩa: thể hiện tình thương, cho nên khi một người không còn thể hiện được những việc làm hay không biểu lộ được những tâm tình đó, thì họ cảm thấy như bị loại trừ và mặc cảm không còn được yêu thương nữa.
Các bài đọc hôm nay đã mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã mong đợi từ lâu, Đức Giêsu đã thực hiện điều mà tiên tri Isaia tiên báo Đấng Mesia sẽ làm, tức là cho người điếc nghe được và người câm nói được, và qua đó cũng mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Đức Giêsu.
Kính thưa cộng đoàn.Tình cảnh thật bi đát của người câm điếc trong bài Phúc Âm hôm nay chính là ở điểm đó. Anh ta đau khổ biết bao vì không nói được với ai, cũng chẳng nghe được ai nói với mình. Mối quan hệ với tha nhân và vũ trụ như bị cắt đứt có thể nhìn ở một khía cạnh nào đó anh ta bị loại trừ khỏi kiếp sống làm người, bị loại vào hàng những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài hiểu được tâm trạng, ước vọng và thông cảm với anh.Vì chính Ngài là Người đem đến cho nhân loại một Tin Mừng Tình Thương. Vì thế, Ngài đã chữa cho anh khỏi câm điếc. Qủa là vui mừng biết bao cho anh, vì từ nay anh lại có thể sống trên đời với cái nhìn đầy bình đẳng không còn tự ty mặc cảm nữa, bây giờ anh có thể nghe được những lời dậy dỗ ngọt ngào của Đức Giêsu và anh có thể nói được những lời yêu thương trừu mến cho những người khác.
Bị câm điếc thể lý quả là một nỗi đau và mất mát, phải nói rằng , đau hơn và mất mát hơn rất nhiều khi bị câm và điếc về phần hồn. Thế mà nhiều khi chúng ta lại tự biến mình thành kẻ câm điếc mà chẳng hề quan tâm lo lắng.
Câm điếc khi ta ngụp lặn trong tội lỗi,không còn chịu lắng nghe tiếng Chúa đang nói với ta qua các biến cố trong cuộc sống, qua lương tâm, qua các giáo huấn, qua tha nhân…
Câm điếc khi ta không còn sống đời cảm tạ chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa.
Câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá không còn biết rung động trước những đau khổ của tha nhân.
Câm điếc khi mỗi người là một ốc đảo, chỉ biết sống cho mình, hoặc tệ hơn nữa khi coi tha nhân là hoả ngục như cái nhìn của J.P.Sartre. Coi tha nhân là hoả ngục chính là cái nhìn đầy bi quan yếm thế, tự cô lập mình để rồi chẳng còn thể nào nhận ra và thể hiện được tình thương. Hãy biết sống quên mình, vị tha như vậy sẽ tạo được sự bình an và hạnh phúc cho nhau, nhưng trước là chính mình được sự bình an và hạnh phúc đó, như lời của Thánh Phanxicô đã nói: vì chính lúc cho đi là khi được lãnh nhận.
Chỉ lắng nghe bằng tai thôi thì chưa đủ mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải những thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại làm vẩn đục cho tâm hồn. Cha Mark Link có nói: " Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai mà còn tin vào những gì nghe bằng con tim của mình". Vì khi biết lắng nghe là phá đổ được bức tường thành kiến trong tâm trí và tháo cởi được sợi dây trói buộc trong con tim cứng cỏi.Như thế mới nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em và tiếng mời gọi của Lời Chúa.
Chuyện kể rằng: Có một vị ẩn sĩ sống trong rừng luôn bị một cô gái lố lăng đến cám dỗ. Có lần người con gái nói với vị ẩn sĩ:
- Thầy không biết yêu ư ? (ý của cô gái này là vừa ngạc nhiên trước sự thanh thản của ẩn sĩ và đồng thời nghi ngờ chế nhạo sự bất bình thường của một người đàn ông !)
- Giờ chưa đến ! vị ẩn sĩ trả lời.
Lần nọ, trong lúc đi khất thực, vị ẩn sĩ phát hiện người con gái hay đến quấy nhiễu mình đã bị cướp và bị đánh đập nằm dở sống dở chết bên dọc đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cho cô ta, cuối cùng vị ẩn sĩ bế cô ta về thành phố điều trị. Lúc đó vị ẩn sĩ mới nói với cô gái:
- Bây giờ đã đến giờ, giờ của lòng thương xót !
Vâng, vị ẩn sĩ này đã lắng nghe bằng cả con tim và nói với cả tấm lòng cao thượng qua việc làm đầy yêu thương và bác ái.
Qua bài Tin Mừng, Chúa muốn gởi đến chúng ta sứ điệp: Hãy luôn sống đời sống hiệp thông, vì tất cả là hồng ân, hiệp thông với Chúa,hiệp thông với tha nhân …. Tôi đã nhận lãnh bằng tình thương thì tôi cũng phải cho đi bằng tình thương. Mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là chứng tá của Tin Mừng Tình Thương theo gương mẫu của Đức Kitô. Tin Mừng Tình Thương ấy phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể đượm tình bác ái yêu thương.
Chúng ta cũng cầu xin Chúa chữa lành bệnh câm điếc nơi tâm hồn chúng ta, và nhất là biết lắng nghe bằng cả con tim, để rồi biết nói lên bằng những việc làm hữu ích. Lạy Chúa, xin cho tim chúng con cũng được hoà nhịp cùng trái tim Chúa và cả cuộc đời chúng con trong tay Chúa, để chúng ta trở thành những khí cụ và được sống trong tình hiệp nhất của tình thương Chúa.
Câm và điếc là con người bị tước đoạt cả hai cơ quan truyền thông.Câm là không nói được, lưỡi hầu TN23-B120 Dalat
Câm và điếc là con người bị tước đoạt cả hai cơ quan truyền thông.Câm là không nói được, lưỡi hầu như bị thụt lại, cứng đờ.Điếc là không nghe được gì khi người khác nói, người khác truyền đạt. Người câm và điếc là người không hiểu ai nói và người khác cũng không hiểu được họ muốn diễn tả gì ! Đoạn Tin Mừng của thánh Máccô hôm nay cho thấy Đức Giêsu chữa lành cho một người bị câm và điếc với chỉ một lời truyền đầy quyền năng:” Ép-pha-ta “, nghĩa là “ Hãy mở ra “. Người câm và điếc liền nghe được và nói được ( Mc 6, 34-35 ).
Con người sở dĩ thấy được nhờ có đôi mắt sáng, nghe được nhờ đôi tai thính, nói thông suốt nhờ miệng lưỡi bình thường. Nên, chẳng ai muốn câm, bởi vì câm con người chẳng diễn tả được gì, không nói được, trình bày những gì mình muốn nói. Câm giống như lưỡi bị trói lại, cột lại. Điếc cũng chẳng ai muốn, tuy nhiên con người nhiều khi lại mắc chứng bệnh này vì điếc là khi con người nghe nhưng lại gio61ngf như con người mất khả năng nghe. Điếc là khi nghe người khác chúng ta lại hiểu khác ý của người nói. Con người hoặc chinh chúng ta khi nghe người khác nói mà cố tình hiểu theo ý của mình, do đó, chúng ta không biết phân biệt đâu là đúng, đâu là dở, không biết phân định cái đúng cái sai. Người ta thường nói cái cốt lõi không phải người nói mà là người nghe biết suy nghĩ và quyết định đâu là việc phải làm và đâu là điều không nên làm.
Chính vì thế, nghe bằng đôi tai, nói bằng miệng không chưa đủ mà phải nói bằng tâm hồn và nghe bằng con tim. Chúng ta chỉ có thể hiểu người khác được bằng con tim chân thành, tâm tình yêu thương và tấm lòng đạo đức, quảng đại, thánh thiện của chúng ta khi người khác muốn truyền đạt những thông điệp, ý tưởng tốt của họ đối với chúng ta. Đồng thời không phải cái gì người khác nói truyền đạt cũng phải nghe, nhưng chúng ta phải biết chọn lọc thông tin nào, sứ điệp nào là hay, là tốt, là hữu ích, hữu dụng, không gây xáo trộn, vẩn đục, phương hại cho tâm hồn của chúng ta. Con người ở bất cứ đâu, bất cứ thời đại nào cũng không thể tin được những gì họ nghe bằng đôi tai, nhưng thường luôn tin vào những gì thấy bằng con tim của mình.
Vâng, câm và điếc là nỗi khổ của con người. Chính vì thế, chẳng ai muốn câm, cũng chẳng ai muốn điếc. Điếc thể xác, câm thể lý đã là đau khổ, nhưng câm và điếc về phần hồn còn đau khổ biết chừng nào. Ai cũng vậy, một lần nào đó trong đời, cũng đã chứng kiến người câm và người điếc. Chúng ta xót xa vì thấy họ bị kém may mắn và khổ đau.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hiểu: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà dân Israen đã mong đợi từ lâu, Ngài là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo, sẽ làm cho người điếc được nghe, người câm nói được, kẻ mù thấy được, kẻ què đi được vv…Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Người đưa người câm và điếc ra khỏi đám đông để chữa lành người ấy. Người không biến người này trở thành trò cười cho thiên hạ mà muốn thân mật, tiếp xúc với người đau khổ này, đồng thời đem họ trở lại đời sống bình thường, hòa nhập với xã hội, với những người khác. Điều cuối cùng mà Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy là phương pháp để giải quyết vấn nạn con người trong thế giới hôm nay đang gặp là họ không còn cầu nguyện được nữa, không còn tâm sự với Chúa, không còn lắng nghe lời Ngài tromg tấm lòng, như thế về mặt thiêng liêng quả thực họ và cả chúng ta đang bị câm điếc.
Và để giải quyết vấn đề này, chúng ta giống như người câm điếc đi tìm gặp Chúa Giêsu xin Người cứu chữa chúng ta. Cụ thể và thực tế hơn, mỗi ngày chúng ta hãy dành riêng cho Chúa một thời gian nào đó để tâm sự, trò chuyện và cầu nguyện với Ngài để xin Ngài cứu chữa và ban cho chúng ta được khỏe mạnh hồn xác.
Lạy Chúa Giêsu,xin đẩy xa chúng con bức tường thành ngăn cách để chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống của chúng con. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: Người câm điếc là người thế nào ? ÔBACE đã gặp người câm điếc bao giờ chưa ? Họ ra sao ? Người câm điếc đã làm gì để được cứu chữa khỏi bệnh ? Chúa Giêsu đã làm gì cho người câm điếc ? Êphata có nghĩa là gì ?
Trình thuật Sáng Tạo kể về những việc Chúa làm khi tạo dựng vũ trụ, sau mỗi việc đề có câu: "Thiên TN23-B121
Trình thuật Sáng Tạo kể về những việc Chúa làm khi tạo dựng vũ trụ, sau mỗi việc đề có câu: "Thiên Chúa thấy mọi việc Ngài làm: thật tốt đẹp" (St 1,31)... Tin Mừng cũng thuật lại công trình cứu chuộc và sáng tạo mới theo cùng một cách nói: "Người làm mọi sự tốt đẹp" (Mc 7,37) ... Tất nhiên, tự bản chất, lửa chỉ có thể tỏa nhiệt nóng, chứ không thể phát sinh tiết lạnh; mặt trời chỉ khuếch tán ánh sáng, chứ không thể là nguyên nhân của bóng tối được. Cũng vậy, Thiên Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, nên mọi việc người làm đều tốt đẹp. Chúa là ánh sáng, là mặt trời chiếu tỏa ánh sáng vô biên, sưởi ấm vũ trụ muôn loài: "Ngài làm mọi việc tốt đẹp" ...
Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước mô tả: mọi việc Chúa làm đều tốt đẹp. Nhưng, làm những điều tốt đẹp không đơn giản là làm những điều đúng. Thực tế, có nhiều người làm những điều tốt đẹp nhưng lại không làm đúng, giống như những kẻ giả hình làm việc tốt, nhưng tinh thần xấu, nghĩa là làm với một ý định sai lầm và ác ý. Thiên Chúa làm mọi việc tốt lành, và Ngài làm tốt chúng. "Chúa chính trực trong mọi lời Chúa phán, và nhân nghĩa nơi mọi việc Chúa làm" (Tv 144,17).
Chữa một tấm lòng câm và điếc
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người câm điếc. Kết đoạn, những người chứng kiến lòng đầy thán phục và rằng "Người làm mọi sự tốt đẹp" (Mc 7,37). Chúng ta đừng quên rằng Đấng Mêssia, Ngôi Lời nhập thể không chỉ đến để chữa bệnh và khuyết tật về thể lý cho con người nói chung và dân Israel nói riêng, dân theo các tiên tri, vì bị bệnh nặng tai không thể nghe rõ Lời Chúa nói nên không trả lời đúng.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa kẻ câm điếc diễn ra trên địa Decapolis cho thấy Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa đến ngỏ lời với toàn thể nhân loại và muốn chữa lành nhưng ai không lắng nghe Thiên Chúa, nghĩa là đang ở trong tình trạng tội lỗi cần phải cứu.
Chúa Giêsu thi hành sứ mạng vượt ra khỏi dân Israel, mặc khải cho cả nhân loại. Vùng đất dân ngoại chứng tỏ Chúa đang hiện diện, cả lúc chúng ta không thấy Chúa, "vùng đất của dân ngoại" đang trong tình trạng nhơ bẩn tội lỗi cũng có Chúa vẫn hiện diện. Người đến cứu chuộc tất cả những ai cầu cứu. Trước khi làm phép lạ chữa người câm, Con Thiên Chúa ngước mắt lên trời cầu nguyện, một cử chỉ giống như Người làm trước khi hóa bánh và cá (x. Mc 6,41). Chúa Giêsu không đơn giản là một tiên tri, Người là chính Thiên Chúa. Có lúc Chúa Giêsu làm phép lạ do quyền năng Lời Chúa. Tuy nhiên, trong trường hợp người câm, Chúa Giêsu cầu cùng Thiên Chúa Cha, để dạy cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ là ân sủng do Thiên Chúa tặng ban, một món quà cần phải cầu xin với lòng thành thực.
Việc Chúa Giêsu chữa một người về mặt thể lý ám chỉ điều Chúa muốn chữa mỗi người chúng ta về phương diện tinh thần. Chúa Kitô chạm vào thân xác để chữa lành tinh thần. Người câm điếc được Chúa Kitô chữa lành là người trước đây không thể giao tiếp hay nghe người khác, ngày cả thể hiện cảm xúc cũng như nhu cầu của mình cũng khó. Nếu bệnh câm điếc là nét đặc trưng của người không có khả năng giao tiếp với người bên cạnh, để có được quan hệ tối thiếu tốt đẹp rõ ràng, thì chúng ta phải thừa nhận ra rằng tất cả chúng ta ít nhiều bị câm điếc khi không nghe được Chúa nói, không biết cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thở dài và nói với mọi người: "Effata, hãy mở ra! " Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đến với Chúa, cầu xin Chúa mở tai chúng ta để chúng ta có thể nghe Lời Con Chúa.
Trái tim chữa lành nói ngôn ngữ của tình yêu
Giọng nói đầu tiên người được chữa lành nghe thấy là Lời Chúa Giêsu: "Effata, hãy mở ra ! " Nhờ thế, người ấy có thể nghe Lời Chúa và đón nhận, tai mở ra ám chỉ niềm vui vì con tim được cởi trói, phẩm giá "người con" thuộc về Chúa thực sự được phục hồi.
Khi chịu phép Rửa, chúng ta cũng lặp lại từ "Effata - Hãy mở ra", theo cách này, chúng ta trở thành con trong Con Thiên Chúa, nghe Lời Chúa, đối thoại với Chúa là Cha.
Để nghe Chúa Con, Lời Thiên Chúa, hầu nên giống Chúa Con. Nếu chúng ta kiên trì lắng nghe, chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa trong tình yêu. Nếu chúng ta lắng nghe lời Đấng Kitô, chúng ta có thể nói như Đức Kitô. Nếu chúng ta mở lòng mình ra đối thoại và lắng nghe Chúa Cha, hay Lời tức là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, chúng ta có thể đáp lời Chúa bằng lời cầu nguyện của đời ta.
Trái tim được chữa lành để lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện với Chúa và thông truyền tình yêu của Chúa cho nhân loại; qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng đời sống Kitô hữu phụ thuộc vào lời cầu nguyện và lòng bác ái.
Lạy Chúa, xin mở tai con để con biết nghe lời Con Chúa và đem ra thực hành trong đời sống đượm tình bác ai yêu thương. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Cha hỏi chúng con: Chúa Giêsu đã làm gì trong bài Tin Mừng hôm nay? - Thưa cha Chúa đã chữa TN23-B122
Cha hỏi chúng con: Chúa Giêsu đã làm gì trong bài Tin Mừng hôm nay?
- Thưa cha Chúa đã chữa cho một người mắc bệnh vừa câm vừa điếc. - Thế chúng con đã thấy ai câm bao giờ chưa? - Thưa cha… thấy rồi. - Còn người điếc. - Thưa cha cũng đã thấy. - Thế cha hỏi chúng con, sau khi được chứng kiến việc Chúa Giêsu làm người ta đã có phản ứng như thế nào? - Thưa cha, họ hết sự kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."(Mc 7,37) - Rất đúng! Chúng con trả lời hay quá. Cha khen chúng con. - Cha hỏi câu cuối cùng: Chúng con có muốn được người ta khen chúng con như họ đã khen Chúa Giêsu không? Khỏi cần trả lời cha cũng biết ai trong chúng con mà lại không mong được như thế. Cha kể cho chúng con câu chuyện nhỏ này. Đây là một trong những câu chuyện giáo dục mà người Đức hay kể cho nhau nghe. Đó là câu chuyện kể về một em bé có tên là Jeannette. Hôm đó em Jeannette được cùng với cha mẹ đi xem một cuộc diễn binh lớn. Vì là con của một chức sắc cao cấp cho nên em được ngồi ở trên khán đài với cha mẹ. Chung quanh khán đài có cả hàng ngàn người cùng đứng xem. Hôm đó Hoàng đế và Hoàng Hậu cũng có mặt trên khán đài. Từ trên khán đài Jeannette thấy một bà cụ yếu đuối, đang cố gắng kiễng chân mình lên để xem nhưng chắc là cũng chẳng thấy gì. Khi thấy như vậy, Jeannette bèn thầm nghĩ trong lòng: - Mình khỏe mạnh mà ngồi đây, để cho bà cụ già yếu đuối kia đứng chen chúc cố gắng mãi mà không thấy gì thì không nên. Mình phải kính trọng người già để sau này mình về già, người khác cũng sẽ kính trọng lại mình như vậy! Nghĩ như thế nên cô bèn đi xuống mời bà cụ lên đứng vào chỗ của mình rồi tự nguyện ra đứng chỗ đám đông. Và thật bất ngờ trong khi cô đang cố nhón chân mình lên để xem thì một người lính cận vệ của nhà vua mặc áo giáp vàng, lách đám đông đến trước mặt cô và nói: - Cô bé ơi, hoàng hậu cho mời cô đến ngồi bên cạnh người! Bé Jeannette ngạc nhiên khi đứng trước mặt hoàng hậu, nhưng hoàng hậu nói rằng: - Hãy ngồi bên cạnh ta, ta đã thấy con nhường chỗ cho bà cụ già, nên bây giờ con được phép ngồi cạnh ta! Cô bé này đã làm một việc mà Hoàng hậu cũng phải cảm phục vì đó là một việc tốt. Cha thấy trong cuộc sống chẳng thiếu gì những việc tốt mà mọi người có thể làm. Chỉ tiếc có một điều là nhiều người biết là tốt mà không dám làm hay không chịu làm thôi. Chúng con hãy cố gắng để làm việc tốt, càng nhiều càng hay. Cha lấy một thí dụ: Một bé gái nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia, em bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sỹ cho biết chỉ có giải phẫu mới có hy vọng cứu sống em. Trước khi cho thuốc gây mê, các bác sỹ và y tá báo cho em biết là em sẽ được ngủ một giấc dài. Nghe nói ngủ, cô bé ngây thơ đã xin được quỳ xuống cầu nguyện. Thế là trước mặt mọi người, cô bé quỳ gối cầu nguyện một cách hết sức chân thành, và em kết thúc bằng lời nguyện như sau: "Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh". Cầu nguyện xong, em bé nằm xuống và xin các bác sỹ và y tá tiến hành cuộc giải phẫu... Ngày hôm sau, cô bé tỉnh dậy với nỗi đau tội cùng. Câu hỏi đâu tiên của em với bác sỹ là: - Cháu có được lành bệnh không, thưa bác sỹ? Vị bác sỹ nhìn thẳng vào đôi mắt của em và đáp với tất cả sự xúc động: - Cháu hãy để cho Chúa lo liệu, bác chưa biết được kết quả của cuộc giải phẫu. Nhưng có một điều bác tin chắc, đó là cháu đã cứu được một người, và người đó không ai khác hơn đó chính là bác đây! Từ lâu, bác đã không đến nhà thờ, bác không còn nhớ đến Chúa và cũng không bao giờ cầu nguyện nữa. Thế nhưng, hôm qua khi nhìn thấy cháu cầu nguyện một cách thật sốt sắng, bác không cầm được nước mắt. Chúa đã đánh động bác. Sáng nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội và chịu lễ. Bác tin chắc rằng Chúa đã nhận lời cháu. Cháu đừng lo lắng nữa. Hãy phó thác cho Thiên Chúa!". Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới hiểu rõ điều gì tốt đẹp chúng ta người ta làm cho nhau. Chúa Giêsu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc mà thốt lên: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả"(Mc 7,27). Những việc tốt đẹp Chúa làm thì không sao kể cho hết được. Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy rất rõ điều đó. Cha muốn kết thúc bài nói chuyện hôm nay bằng câu chuyện này. Câu chuyện được viết trong một cuốn sách mà cha rất thích. Đó là cuốn Những Tâm Hồn Cao Thượng. Đây là lời của một bà mẹ khuyên con. Sáng hôm nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con bố thí. Mẹ thấy con đã nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng và con đã chẳng cho bà ta gì cả và mẹ biết lúc ấy túi con đang có tiền. Nghe mẹ, con ơi! Con đừng tập thói làm ngơ trước người nghèo khó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho đứa con của mình. Con hãy nghĩ đến đứa trẻ thơ bụng đang đói, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ. Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và cầu chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu. Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ: - Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ! Enricô ơi! Con hãy nghe lời mẹ: thỉnh thoảng con nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không có gạo, đứa trẻ không mẹ không có cha. Những kẻ nghèo khó thích xin trẻ con vì khi làm như thế họ không cảm thấy nhục, vì trẻ con cũng như họ là những người phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường con thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền của nó có kèm theo một bông hoa ở trong tay nó rơi ra. Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám người có bao nhiêu là nhà giàu, trong một dẫy phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà mẹ vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay! Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho gì nhé.
Tạo Hoá đã bố trí trên thân thể con người điều gì, thì điều đó cũng thật diệu kỳ, ý nghĩa. Một trong TN23-B123
Tạo Hoá đã bố trí trên thân thể con người điều gì, thì điều đó cũng thật diệu kỳ, ý nghĩa. Một trong những điều ý nghĩa trên thân thể con người: đó là con người có một cái lưỡi, nhưng hai cái tai.
Bài Tin Mừng của riêng Mc hôm nay thuật lại việc Chúa chữa người câm điếc – hay đúng hơn – ngọng và điếc. Chúa đặt ngón tay vào hai lỗ tai và xức nước miếng vào lưỡi người tật. Anh liền khỏi sau câu truyền phép Epphata: Hãy mở ra !
Mở miệng mở lưỡi, chúng ta để dành đó.
Hôm nay chúng ta chỉ nói về mở đôi tai.
Con người có hai tai nhưng chỉ có một lưỡi. Điều đó muốn nói con người cần lắng nghe nhiều hơn là nói. Ấy vậy mà con người, nhất là con người thời nay lại thích nói nhiều hơn nghe. Hay nói mạnh hơn, thời nay vẫn còn nhiều người có đủ 2 tai, nghe được nhưng vẫn điếc vì không biết nghe. Phép lạ ngày xưa Chúa làm cho người điếc được nghe, vẫn cần được xin để Chúa làm lại mãi: xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe.
Rochefoucauld liệt kê có 3 thứ dốt ở trên đời, đó là
. không biết những gì mình phải biết
. không biết rành những gì mình biết
. biết những gì mình không nên biết
Mô phỏng ý tưởng Rochefoucauld ở trên đây, ta có thể nói, có 3 thứ điếc:
1. không nghe những gì mình phải nghe (nghe cha mẹ, thầy cô)
2. nghe không rõ những gì mình nghe
3. nghe những điều mà mình không nên nghe.
Chúng ta không nói về cái điếc thứ ba, nghe điều mình không nên nghe. Hứa Do phải đi rửa tai bên suối vì tai nghe nhiều lời phỉnh nịnh. Còn cái điếc 1 và 2, ta gồm chung lại là: không nghe cho rõ điều mình phải nghe. Vậy đâu là điều mình phải nghe ? Đó là điều người ta nói và điều Thiên Chúa nói. Nói đổi lời: phải nghe người, và nghe Chúa. Tục ngữ VN có câu: Học ăn học nói, học gói học mở. Đúng, nhưng thiếu một cái quan trọng không kém: học nghe.
Nghe không phải dễ đâu. Cũng phải học. Nhất là nghe cho rõ, nắm cho vững, càng phải học hơn. Quí ông bà hay phải hội họp chắc có kinh nghiệm này. Trong một buổi hội thảo, kéo dài đã lâu, bỗng có người phát biểu, tôi nghĩ vấn đề phải giải quyết thế này: phá hàng rào, trổ cổng ra đường lấy mặt tiền. Té ra lối giải quyết của anh ta, đã có người đưa ra trước đó rồi, đã bàn cãi, đã bị bác. Anh này ngồi đó mà có nghe gì đâu. Vì thế trong buổi họp tư tưởng trùng lắp cứ gặp đi gặp lại.
Học nghe không phải dễ. Càng không dễ hơn khi học nghe cho rõ những gì mình phải nghe. Trong một khoá huấn luyện về đối thoại, người ta cho một bài tập như sau: khoảng 10 người ngồi vòng tròn, đưa ra một đề tài để cả nhóm tranh luận. Điểm độc đáo của bài tập này là, trước khi mình phát biểu ý kiến thì phải lặp lại ý kiến của người vừa phát biểu trước đó. Kết quả thật bất ngờ: Đa số lập lại ý kiến người khác vừa phát biểu thôi mà vẫn không đủ, không hết ý, nhiều khi sai nữa. Hôm nào chúng ta thử thể nghiệm mà xem.
Nghe và nghe rõ (nắm cho vững) điều người khác nói, không phải là dễ. Cần phải học.
Trong cuộc sống, lắng tai nghe rất quan trọng.
Gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều, nếu người trong nhà biết lắng nghe và nghe cho rõ. Vợ nghe chồng và chồng lắng nghe vợ: thông cảm sẽ đến. Thông cảm không phải là đường một chiều. Nói và nghe đúng cách: hạnh phúc, cảm thông sẽ tràn đầy.
Đó là vợ - chồng với nhau. Còn cha mẹ - con cái thì sao ?
Dĩ nhiên con cái cần lắng nghe cha mẹ. Trong một bữa tiệc, đứa trẻ được ngồi chung bàn với cha mẹ và khách lớn. Đang ăn, thì nghe tiếng ho của người cha. Nhiều người khách tưởng ông đau. Nhưng chính đứa bé, con ông, mới hiểu. Bé biết mình vừa gắp một món ăn nào đó không đúng cách, hoặc có cử chỉ nào đó bất xứng, nên tiếng ho của ba là một lời cảnh cáo. Trẻ biết lắng nghe cha mẹ là như thế.
Nhưng cha mẹ cũng cần lắng nghe con cái mình. Hãy bình tĩnh nghe con trai con gái mình nghĩ gì, muốn gì. Chúng ta làm được không ? Nếu không, chúng ta lãng tai, chúng ta điếc rồi đó !
Trong cuộc sống, lắng tai nghe rất quan trọng. Càng cao chức trọng càng khó lắng nghe, càng phải học nghe nhiều hơn.
Trong bộ phim “Chuyện tử tế”, đạo diễn Trần Văn Thuỷ đưa lên màn ảnh cảnh một vị vua anh minh ngày xưa để trước phương đình cung điện, một chiếc trống. Dân oan ức, muốn nói gì cứ đến đó gõ một tiếng, vua sẽ ra tiếp và lắng nghe. Các phòng tiếp dân nhan nhản, nếu thực hiện tốt cũng là một mô phỏng quí báu của tiếng trống dân chủ trên đây. Dĩ nhiên Phòng tiếp dân là để nghe dân nói chứ không phải nói cho dân nghe.
Muốn nghe phải lắng. Lắng mới nghe được. Ngôn ngữ Việt ta nói vậy: lắng nghe. Bảo hiểm nhân thọ Prudential có châm ngôn: luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu. Mà lắng, mà lặng, cũng không dễ. Bốn chàng kia trên đường học thiền, tập luyện với nhau là im lặng 7 ngày. Ngày đầu 4 cậu đều im. Điểm lắng đạt 10. Rồi đêm đến khi ngọn nến cạn dần, cạn dần. Một chàng không giữ được cái lưỡi, gọi người giúp việc vào và phán: hãy thay cây nến khác. Chàng thứ hai ngạc nhiên khi thấy chàng thứ nhất “nói,” bèn nhắc: Chúng ta hứa không nói tiếng nào cơ mà ! Chàng thứ ba xen vào: Tại sao chúng mày nói với nhau. Chàng cuối, chàng thứ tư kết luận: Chỉ có tao là người duy nhất không nói. Giá chàng thứ tư không nói gì, chàng thắng. Nhưng chàng nói rằng, “chàng không nói,” nên điểm lặng của chàng hạ ngang bằng 3 bạn kia.
Nghe người còn phải lắng, huống gì là nghe Chúa. Nghe Chúa hay nghe nói về Chúa tương đương nhau. Có một nữ tu đi Lạng Sơn, tuyến đầu phía Bắc nước ta, thăm đức cha Dụ, thời ngài còn sống. Chị nữ tu đó nghe và thấy được nhiều chuyện, có một chuyện liên hệ đến điểm chúng ta đang nói đây, là: Tại một xứ nọ, một hôm cha xứ (già rồi) thấy một đoàn người dân tộc Mèo kéo xuống xin theo đạo. Làm sao họ biết Chúa. Thưa họ nghe đài Veritas, đài Nguồn Sống. Chúa nói qua miệng lưỡi con người, nhập vào tần số cao để qua các phương tiện truyền thông đến với mọi người. Quan trọng là ta có mở Đài ra không. Mở ra rồi có nghe không. Nghe mà có lắng để nghe cho rõ không.
[Cách đây nhiều năm, tôi được đi Saigon, tôi có đi dự thính một lớp giáo lý tại nhà thờ Đức Bà. Năm sau, sau hơn 12 tháng, tôi lại có dịp dự cũng lớp đó. Tôi ngạc nhiên thán phục vì qua thời gian dài thử thách, lớp không giảm đi mà lại tăng số người. Đó là lớp giáo lý lồng vào Thánh lễ do Lm Nguyễn Khảm tổ chức và giảng giải vào chiều thứ tư hàng tuần từ 5 giờ đến 6:30. Dĩ nhiên người giảng là yếu tố thu hút quan trọng, nhưng dẫu sao cũng đáng khen và khâm phục thanh niên thiếu nữ Thành phố bỏ những giờ hẹn hò thân mật để đến nhà thờ lắng nghe Chúa, lắng nghe nói về Chúa.]
Lạy Chúa xin mở tai con, nghe Lời hằng ban sức sống
Lạy Chúa xin mở tai con, nghe người lầm than khó nghèo
Và giờ đây, lạy Chúa, xin mở môi con để con tuyên xưng Chúa trong kinh Tin Kính.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về cuộc biến đổi TN23-B124
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về cuộc biến đổi của những người được cứu độ.
Is 35: 4-7
Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của Ngài, đó là giải phóng con người khỏi những quyền lực sự dữ.
Gc 2: 1-5
Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Thánh Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh, việc chữa lành này là giáo huấn về dấu chỉ thời Mê-si-a, thời cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)
Bản văn nầy được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất (ch. 1-39), một trong những ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ VIII tCN. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (40-55), một trong những ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
1.Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi:
Vị ngôn sứ mời gọi những người lưu đày: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!”, vì sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục cho dân Ngài, ngày Thiên Chúa cứu thoát họ khỏi những kẻ áp bức họ. Và ông trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu thoát này: những bệnh hoạn tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu: “kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” và “miền nóng bỏng biến thành hồ ao, đất khô khan có suối nước dâng trào”.
Chắc chắn những hình ảnh nầy là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh nầy diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.
2.Cứu thoát khỏi những quyền lực sự ác:
Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy được ý nghĩa sâu xa của biến cố; những người điếc nghe được những tin vui và những người què sẽ vui mừng hớn hỡ. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19). Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời nầy, cũng như vào thời Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất: những tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Mê-si-a: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là, Ngài bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền thể lý là tiên báo việc chữa lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Mê-si-a, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Mê-si-a mà các ngôn sứ đã báo trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo nầy.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Bản văn là kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một chỗ quan trọng.
1.Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng:
Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng này. Cách tiếp đón ân cần vồn vã và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
2.Tình huynh đệ Ki-tô hữu:
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị trong xã hội. Chúng ta phải nhắc những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca ngợi tấm lòng rộng mở và tràn đầy niềm tin của những người nghèo: người nghèo thì “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)
Đức Giê-su rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại (7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, người vừa câm vừa điếc. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho dân ngoại.
1.Tác nhân chính của việc chữa lành:
Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành nầy khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều nầy (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức nầy trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những người đương thời với họ.
Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi bận lòng về tính xác thực: chính những lời nầy của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.
Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành người câm điếc nầy có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy tác động của lời cầu nguyện. Sau nầy, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám bằng cầu nguyện, mà trước đó, các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc 9: 28-29).
2.Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su:
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ nầy của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 của Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ bánh hóa nhiều, thánh ký nêu bật tâm trí quá ngu muội của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách nầy được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành người vừa câm vừa điếc ở đây và chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa nầy được thuật lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, thánh ký đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.
Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ nầy là một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như hành động biểu tượng của các ngôn sứ kèm theo những lời cảnh báo của họ: như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ tan từng mãnh một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay như ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực hiện dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình số phận đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, Ngài muốn họ biết rằng Ngài đã đổ hết công sức như thế nào để họ hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Hãy mở ra” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa câm vừa điếc.
3.Không được tiết lộ cho ai biết:
Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Mê-si-a đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mê-si-a trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Mê-si-a” của Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).
4.Phản ứng của dân chúng:
“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy, ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.
Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy, sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc tụng Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của Ngài cho thế giới.
Mỗi khi nghe ca sĩ Khánh Ly cất giọng: “Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi!”, TN23-B125
Mỗi khi nghe ca sĩ Khánh Ly cất giọng: “Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi!”, thì nhiều người trong chúng ta không khỏi xót xa, chạnh lòng. Xét về tính nghệ thuật và nhân văn, chúng ta sẽ cảm nhận được từ giai điệu ngọt ngào sâu lắng đó ý nghĩa rất cao đẹp. Có những con người van xin chúng ta “sống giùm” , “nói giùm” , “thở giùm” họ. Không phải sống giùm bằng trái tim, nói giùm bằng đôi môi, thở giùm bằng lỗ mũi; nhưng sống, nói, thở bằng cả tình yêu của chúng ta. Tuy nhiên, điều mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn muốn gởi gắm ở đây không phải chỉ là lời mời gọi sống yêu thương, mà còn là một lời trách móc, một lời van xin: “Làm ơn hãy sống, hãy nói, hãy thở cho một lý tưởng cao đẹp, chứ đừng sống với những thứ thấp hèn!”. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ hai điều đó: Thiên Chúa đã sống, đã nói, đã thở giùm con người bằng cả tình yêu thương. Từ đó Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy biết hướng đến một lý tưởng cao đẹp là tình yêu thương bằng cách sống cho,“sống giùm” người khác.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA:
Bài Đọc I: Is 35, 4-7a
Tiên tri Isaia loan báo một viễn cảnh hòa bình, lúc mà người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, và người què chạy nhảy như nai. Viễn cảnh này sẽ được thực hiện vào thời của Đức Giêsu. Viễn cảnh đó thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa, Ngài sẽ giải thoát con người khỏi mọi đau khổ, bất hạnh trong cuộc sống. Những ai muốn sống trong viễn cảnh này thì “hãy sống, hãy nói, hãy thở” bằng tình yêu. Lúc đó, chúng ta chúng ta sẽ sống trong vương quốc hòa bình.
Bài Đọc II: Gc 2, 1-5
Thánh Giacôbê là một tông đồ luôn chỉ cho các tín hữu sống đức tin một cách cụ thể. Ví dụ Ngài nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”; hoặc: “Anh hãy chỉ cho tôi thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để anh biết thế nào là tin”. Hôm nay ngài còn nói lên một thực tế trong đời sống của các kitô hữu sơ khai, đó là thái độ trọng phú khinh bần. Gặp người giàu thì đón tiếp vồn vã, thái độ quỵ lụy, luồn cúi… ; còn gặp người nghèo thì đón tiếp một cách miễn cưỡng, thái độ hống hách, khinh khi. Thánh Giacôbê không dạy kitô hữu của ngài loại trừ người giàu, hoặc chỉ đón tiếp người nghèo, nhưng Ngài muốn họ “đừng đối xử thiên tư”, hãy dùng tình yêu thương mà đối xử với tất cả mọi người, giàu cũng như nghèo; nhưng phải đặc biệt ưu tiên cho những người nghèo, vì “Thiên Chúa chọn những kẻ nghèo khó để ban cho họ đức tin và thừa hưởng vương quốc mà Ngài đã hứa”.
Tin Mừng: Mc 7, 31-37
Thánh Maccô tường thuật khi Đức Giêsu vào vùng thập tỉnh là vùng đất của dân ngoại, người ta đem đến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng để xin Ngài chúc lành cho anh ta. Chẳng những Ngài chúc lành, mà còn kéo riêng anh ta ra bên ngoài để chữa cho anh ta được khỏi. Tất cả hành động của Đức Giêsu đều là yêu thương, nhưng Ngài luôn ưu ái cho những con người kém may mắn. Việc Ngài bước vào vùng đất của dân ngoại cũng đủ thấy được tình yêu thương đó.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng này sẽ thực thi viễn cảnh hòa bình mà tiên tri Isaia đã loan báo; sẽ bù đắp những bất toàn của con người, cụ thể là người điếc và ngọng trong bài Tin Mừng. Đồng thời mời gọi chúng ta, bằng cả cuộc đời của mình, hãy thốt lên: “Chúa hay thật, Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp!”.
NHÌN THIÊN CHÚA “SỐNG GIÙM” CON NGƯỜI
Nhận ra quyền năng Chúa:
Trịnh Công Sơn van xin “Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi”. Thiên Chúa đã làm trước khi ông van xin. Con người sống được, hoạt động được… là do Thiên Chúa.
Việc Thiên Chúa “sống giùm” con người được thể hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô, Ngài đã xuống thế làm người để “sống giùm” con người, nhất là những con người nghèo khổ, bệnh hoạn, tật nguyền. “Sống giùm” bằng cách “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc”… ; sống giùm bằng cách cho người điếc được nghe, người mù được thấy, người câm nói được, người què đi được… Nói tóm lại, Thiên Chúa “sống giùm” con người bằng tình yêu thương của Ngài, vì vậy không cần phải van xin vì Chúa đã cho, mà phải thay Trịnh Công Sơn để có một nhạc phẩm ca tụng quyền năng của Thiên Chúa.
Những đau khổ trong cuộc sống như bệnh tật, nghèo đói, buồn phiền, cám dỗ của thân xác… là do ma quỷ. Trước khi nghe lời ma quỷ để ăn trái cấm, tổ tông loài người không bị đau khổ vì những thứ đó. Nhưng từ khi nghe lời ma quỷ ăn trái cấm, thì tất cả những thứ đó xâm nhập vào trong con người khiến họ phải chiến đấu mỗi ngày. Tuy nhiên không vì thế mà Thiên Chúa chịu thua, đầu hàng để cho ma quỷ mặc sức cai trị con cái của Ngài. Mặc dù đau khổ, tội lỗi như dòng nước lũ cuồn cuộn cuốn trôi con người chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Con của Ngài nhảy xuống đưa tay kéo chúng ta lên, khiến ma quỷ càng tức tối. Ý nghĩa của việc Thiên Chúa chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền là ở chỗ đó. Chúng ta nhận ra quyền năng của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực khác để cứu giúp chúng ta. Từ đó chúng ta hãy tin tưởng một mình Thiên Chúa, đưa tay ra cho Ngài cứu, đừng để cho dòng nước lũ lôi kéo chúng ta. Dòng nước lũ của những thần minh khác, của tiền bạc, của yếu đuối xác thịt, của dục vọng đam mê… Hãy để cho Thiên Chúa chữa lành chúng ta bằng chính quyền năng của Ngài! Kẻo như trong lời bài hát “Hãy sống giùm tôi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Thịt da này dành cho thù hận, cho bạo tàn của một lũ điên”. Nếu không đưa tay cho Thiên Chúa cứu giúp, chúng ta sẽ thuộc về “một lũ điên” là ma quỷ.
Sống giùm người khác:
Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa, dân ngoại đã phải thán phục mà thốt lên: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả!” Vậy thì cuộc sống của chúng ta cũng phải làm sao để cho người khác thốt lên: “Cô đó, chú đó, anh đó, chị đó, em đó, người đó làm việc gì cũng tốt đẹp cả!” Sở dĩ Chúa Giêsu được người ta thán phục là bởi vì Ngài đã biết “sống giùm” người khác bằng chính quyền năng của Ngài. Khi chúng ta biết dùng khả năng của mình để “sống giùm” người khác, chúng ta cũng sẽ được thán phục. Mục đích của Đức Giêsu không phải để được người ta thán phục, mà để cho người ta nhận biết Thiên Chúa. Mọi hành động của chúng ta cũng không nhằm mục đích để người ta thán phục, nhưng qua đó người ta nhận biết Thiên Chúa của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ tu bé nhỏ nhưng đã biết “sống giùm” những con người nghèo khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi. Cả thế giới phải thán phục: “Mẹ có một con tim vĩ đại!”. Chắc chắn mẹ không muốn người ta thán phục mẹ, mẹ chỉ làm vì một tình yêu cao cả thúc bách và để hướng người khác đến với tình yêu đó. Chính vì vậy mà người ta càng thán phục mẹ hơn. Hình ảnh người cha cõng cô con gái bại liệt đến trường đã khiến hàng triệu trái tim thổn thức. Người cha đó đã “sống giùm” cô con gái của mình, bằng cách trở thành đôi chân cho con từ 7 năm nay.
Những hình ảnh đó mời gọi chúng ta cũng hãy biết “sống giùm” người khác. Trước hết là những người trong gia đình. Các bạn trẻ hãy chia sẻ những nỗi lo toan với cha mẹ. Kiếm được đồng tiền chính đáng không phải là chuyện dễ, vì vậy các bạn bớt đòi hỏi cha mẹ một chút; đồng thời hãy biết làm việc, lao động tiếp giúp gia đình. Kế đến là “sống giùm” bà con lối xóm. Hãy quan tâm, chia sẻ với láng giềng nhất là trong những lúc khó khăn, hoạn nạn, hãy làm giùm người ta việc này việc kia. Sau cùng hãy biết “sống giùm” bạn bè của mình, nhất là những người bạn đang gặp khó khăn, nguy hiểm về vật chất cũng như về đời sống đức tin. Hãy “sống giùm” họ bằng cách chia sẻ, an ủi, nâng đỡ, nhắc nhở họ… Khi chúng ta biết “sống giùm” người khác như vậy là chúng ta đang sống cho lý tưởng cao cả là tình yêu thương.
Tóm lại, chúng ta hãy để cho Thiên Chúa “sống giùm” bằng cách đưa tay ra cho Ngài nắm lấy; thể hiện qua việc gắn bó với Ngài nhiều hơn nữa trong cầu nguyện và phụng vụ. Đồng thời hãy biết “sống giùm” người khác bằng cách nắm lấy tay họ bằng cả tình yêu thương. Đó là hình ảnh của một gia đình tin yêu.
Hãy mở ra!”. Đó cũng là lời mời gọi Chúa gửi đến với chúng ta hôm nay. Bởi lẽ chúng ta thường có TN23-B126
“Hãy mở ra!”. Đó cũng là lời mời gọi Chúa gửi đến với chúng ta hôm nay. Bởi lẽ chúng ta thường có thói quen khép kín trước nỗi đau của tha nhân, dửng dưng với người đồng loại và vô cảm trước nỗi khốn cùng của người bất hạnh.
Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Người đến trần gian để khai mở một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên của ơn Cứu độ. Sứ mạng Cứu thế của Chúa Giêsu được chính Chúa Cha xác nhận, khi Người chịu phép rửa bởi tay ông Gioan bên bờ sông Giordano, cùng với những cảnh tượng huyền bí lạ lùng, như một cuộc “thần hiện” trong Cựu ước, tức là trời mở ra và có tiếng phán từ trời, đồng thời hình chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Giêsu (x.Mt 3,13-17). Qua biến cố “thần hiện” này, Chúa Cha giới thiệu với toàn thể nhân loại Con yêu Quý của Ngài.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay giúp chúng ta kết nối Cựu ước với Tân ước. Vị ngôn sứ loan báo Đấng Cứu thế sẽ đến trong tương lai. Khi Người đến, sẽ có nhiều điều kỳ diệu: người mù sẽ nhìn thấy, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ mở miệng nói được. Thiên nhiên vũ trụ sẽ an hòa, con người sẽ sống với nhau trong tình nhân ái yêu thương. Cảnh hoang tàn sẽ chấm dứt, thay vào đó là cuộc sống thanh bình. Đoạn sách ngôn sứ Isaia hôm nay được viết trong thời lưu đày. Vào lúc khi người Do Thái sống xa quê hương đang đau buồn chán nản, vị Ngôn sứ khích lệ động viên họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Ngài sẽ đến và cứu thoát các ngươi”. Chắc chắn những người đang sống tha phương sẽ vui mừng trước những lời này, và cảm nhận rõ quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương dân riêng của Ngài.
Thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia loan báo đã đến chưa? Đức tin Kitô giáo trả lời: đến rồi. Đấng Thiên sai là Đức Giêsu thành Nagiaret. Người là Đấng uy quyền trong lời giảng dạy cũng như trong các việc làm. Những gì đã được loan báo trong Cựu ước, nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Câu hỏi về sứ mạng của Đấng Thiên sai cũng là băn khoăn của ông Gioan Tẩy giả. Đang ở trong ngục, ông sai người đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi một đấng khác?”. Thay cho câu trả lời, Chúa Giê-su bảo họ hãy thuật lại những gì họ thấy, tức là những dấu chỉ của thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Mt 111,2-6).
Thánh sử Mác-cô hôm nay kể lại phép lạ Chúa chữa cho một người câm điếc. Cách thức Chúa Giêsu chữa lành được diễn tả giống như phương pháp ma thuật thời bấy giờ, tức là không dùng thuốc, mà chỉ dùng quyền uy và sức mạnh của các vị thần linh. Với việc Chúa Giêsu chữa lành đủ mọi chứng bệnh khác nhau, Người chứng minh sứ vụ thiên sai của Người. Đồng thời, người cũng khẳng định, Người là Đấng nhân danh Đấng Tối cao mà đến trần gian. Không chỉ nhân danh Đấng Tối cao, Người còn là Con của Thiên Chúa, đến trần gian để thi hành thánh ý của Ngài.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Đây là sự hiện diện thiêng liêng vô hình. Qua Giáo Hội và qua mỗi tín hữu, Chúa Giêsu đang tiếp tục rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người cũng tiếp tục chữa lành các bệnh nhân, đem cho người đau khổ sự ủi an và người bệnh tật ơn chữa lành. Trong bài Thánh ca mang tựa đề “Chính Chúa chọn con” nhạc sĩ Hồng Bính đã diễn tả sứ mạng “thiên sai” của người tín hữu: “Xin dùng con theo ý của Ngài, làm tay chân cho người què cụt, cùng làm tai cho người bị điếc…làm đôi mắt cho người bị mù, làm tiếng kêu cho người bị oan”. Khi thực hiện được những nghĩa cử trên đây, mỗi chúng ta trở thành dấu chỉ của Đấng Thiên sai giữa cuộc đời còn nhiều gian khổ đau thương.
“Hãy mở ra!”. Đó cũng là lời mời gọi Chúa gửi đến với chúng ta hôm nay. Bởi lẽ chúng ta thường có thói quen khép kín trước nỗi đau của tha nhân, dửng dưng với người đồng loại và vô cảm trước nỗi khốn cùng của người bất hạnh. Thánh Giacôbê đã lấy một hình ảnh trớ trêu và nghịch lý xảy đến ngay giữa một cộng đoàn tín hữu, khi một người nghèo bị coi thường và bị đối xử tàn tệ, trong khi người giàu được cung kính đón rước. Tác giả bài đọc II đã gọi đó là cách cư xử thiên vị, đầy tà tâm. Đây là điều thường thấy trong cuộc sống của chúng ta, kể cả nơi các cộng đoàn tín hữu. Tác giả mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự giàu có thiêng liêng nơi người nghèo. Đó chính là sự giàu có mà Thiên Chúa ưu ái ban cho họ và không ai có quyền lấy đi sự giàu có ấy.
“Hãy mở ra!”. Đây cũng là lệnh truyền của Chúa cho Giáo Hội của Người. Nếu Giáo Hội muốn trung thành với sứ mạng được trao phó, Giáo Hội phải mở rộng mọi cánh cửa để đến với muôn dân, đem Tin Mừng của Đức Giêsu đến mọi góc khuất của cuộc đời, nơi còn biết bao người đang khao khát được nghe Tin Mừng cứu độ và đón nhận tình thương. Nói đến Giáo Hội, chúng ta thường nghĩ ngay đến một tập thể, xem ra chẳng có liên quan gì đến cá nhân chúng ta. Không phải vậy, Giáo Hội là mỗi người chúng ta. Tách riêng mọi thành phần Dân Chúa, Giáo Hội chỉ còn là một khái niệm rỗng tuếch. Vì vậy, Giáo Hội mở cửa, có nghĩa mỗi người tín hữu đều chia sẻ những thao thức truyền giáo, đồng thời cộng tác nỗ lực vào sứ mạng ấy.
Thời Thiên sai đã đến và chúng ta vinh dự được cộng tác làm cho những giá trị của thời Thiên sai được tỏa lan nơi mọi nẻo đường của cuộc sống, để rồi “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Đó là ước nguyện của Chúa Giêsu, cũng là lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Chúa Cha mỗi ngày.
Bạn mong đợi Chúa đối xử với mình như thế nào khi bạn cầu xin Người trợ giúp? Bạn tới gần Người TN23-B127
Bạn mong đợi Chúa đối xử với mình như thế nào khi bạn cầu xin Người trợ giúp? Bạn tới gần Người với sự sợ hãi và nghi ngờ, hay với lòng tin tưởng và tự tin? Đức Giêsu không bao giờ loại trừ bất cứ ai đến với Người với lòng thành thật và tin cậy. Và khi Đức Giêsu làm bất cứ điều gì, Người đều làm tốt đẹp. Người minh chứng cả hai: vẻ đẹp và tốt lành của Thiên Chúa trong những hành động của mình.
Cái chạm của Chúa khơi dậy đức tin và đem lại sự chữa lành
Khi Đức Giêsu đến gần người vừa điếc vừa ngọng, Người bày tỏ sự quan tâm cho tình trạng khó khăn của người này. Đức Giêsu đưa anh đến một nơi vắng vẻ, rõ ràng để không làm cho anh ta phải ngượng ngùng vì sự ồn ào của đám đông tò mò. Rồi Đức Giêsu để ngón tay vào tai của anh điếc và Người xức vào lưỡi anh với nước bọt của mình để chia sẻ với sự yếu đuối của anh một cách tự nhiên và đánh thức niềm tin trong anh. Với một lệnh truyền, tai của anh được mở ra, lưỡi của anh được tháo cởi, và anh ta nói được rõ ràng.
Ý nghĩa việc Đức Giêsu đặt tay vào tai của anh điếc là gì? Thánh Gregory Cả, giáo phụ ở thế kỷ thứ 6 giải thích về phép lạ này như sau: “Thần Khí được gọi là ngón tay của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa đặt ngón tay của Người vào tai của người câm điếc, Người đang mở lòng của anh với đức tin, ngang qua hồng ân của Chúa Thánh Thần”.
Sức mạnh biến đổi của lòng nhân hậu và trắc ẩn
Sự đáp trả của con người với phép lạ này chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Đức Giêsu dành cho người khác: Mọi việc ông ấy làm đều tốt đẹp. Không một vấn đề hay gánh nặng nào là quá lớn đối với sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu. Chúa đối xử với mỗi người chúng ta với sự tốt lành và trắc ẩn, và Người cũng kêu mời chúng ta đối xử với nhau giống như vậy. Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta, giúp chúng ta yêu mến như Đức Giêsu yêu mến. Bạn có bày tỏ lòng tốt và trắc ẩn đối với tha nhân và bạn có đối xử với họ bằng sự quan tâm như Đức Giêsu đã làm không?
Lạy Chúa Giêsu, xin đỗ trên con Thần Khí của Chúa và đốt lên trong lòng con ngọn lửa yêu mến và cảm thông. Xin Chúa giúp con biết chú ý đến những nhu cầu của tha nhân, để con có thể bày tỏ lòng tốt và quan tâm đối với họ. Xin Chúa biến con thành khí cụ của lòng thương xót và bình an của Chúa, để con có thể giúp đỡ người khác tìm được sự chữa lành trọn vẹn trong Chúa.
Con người một khi đã bị bệnh câm điếc thì mất khả năng giao tiếp với tha nhân. Vì “câm” sẽ làm TN23-B128
Con người một khi đã bị bệnh câm điếc thì mất khả năng giao tiếp với tha nhân. Vì “câm” sẽ làm cho chẳng ai hiểu ý mình, và “điếc” làm cho mình chẳng hiểu ai. Cũng đôi lúc người câm điếc tưởng vẫn có thể nghe nói được, nhưng thực ra họ chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
Có câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:
– Chán ghê hết thuốc lào rồi.
– Bà lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?
– Ông lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà
– Bà lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
– Ông lão: Điếc rồi, thế có chán không
– Bà lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi
– Ông lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
– Bào lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.
Câm điếc làm cho người sống bên nhau không thể hiểu nhau. Có cái câm điếc thể lý và cũng có cái câm điếc tâm lý. Điếc thể lý người ta có thể hiểu nhau bằng ký hiệu, bằng ngôn ngữ tay. Điếc tâm lý thì họ cố tình không hiểu không nghe nhau. Và trong đời sống hôn nhân hôm nay rất nhiều trường hợp vợ chồng hiện đang rơi vào tình trạng câm điếc vì họ thiếu cảm thông và đối thoại với nhau. Những ông chồng, bà vợ đáng tiếc là không hề “câm điếc” với người ngoài, mà chỉ “câm điếc” với nhau. “Bệnh” này làm đời sống hôn nhân ngày càng khô cứng và hạnh phúc chết dần mòn…
Có một người vợ tâm sự với tôi rằng: “Chồng con nghi con đem tiền bạc về cho mẹ ruột, con nói gì ông ấy cũng không nghe. Con có cảm giác như mình đang ở với người điếc”. Nhưng cũng từ đó, hai vợ chồng chẳng khác gì hai người khách cùng trọ một nhà. Không đối thoại và cũng không muốn hiểu nhau.
Và cũng có người chồng nói rằng: vợ con nói nhiều quá khiến con chẳng thể chen vô được. Lúc nào cũng quát mắng con cái, khủng bố chồng bằng những lời dung tục, bà nói nhiều quá nên bây giờ con trở thành kẻ câm điếc cho xong.
Và đôi khi chính chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tâm và trách nhiệm.
Xem ra xã hội nào cũng có người câm điếc cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được khai thông tâm hồn để lắng nghe và cảm thông với nhau. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc thể lý và tâm lý. Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả:ông làm cho kẻ điếc nghe được,và kẻ câm nói được.”(Mc 7,38)
Tin Mừng thánh Marcô hôm nay vừa tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người TN23-B129
Tin Mừng thánh Marcô hôm nay vừa tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người vừa câm vừa điếc.
Như chúng ta thấy: người câm là người không nói được, còn người điếc là người không nghe được.
Nghe và nói là hai cánh cửa.
Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra để thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng muốn người khác hiểu thì phải nói ra.
Nghe là cánh cửa mở ra để đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài vào. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói thì chẳng khác gì đóng kín cánh cửa cảm thông, mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu câm và điếc thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì câm và điếc tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ câm.
Có thứ câm do khác biệt ngôn ngiữ và văn hoá. Ta thông hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ câm do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngượng nhịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ câm do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, câm nhịu.
Có thứ câm do lười biếng. Vì lười biếng ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng mà ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, câm chịu.
Tương tự như thế Có nhiều bức tường ngăn chặn ta làm tai ta bị điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngiữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chi vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn còn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”.
Hãy mở ra miệng lưõi để nói. Hãy mở tai ra để nghe. Trước hết hãy mở miệng lưỡi ra để nói.
Dale Camégie thuật lại rằng: Một bà kia đã dọn cho nam giới trong gia đình bà: chồng và các con trai của bà, một bàn ăn rất lịch sự, đầy hoa, nhưng có một nắm cỏ khô trong mỗi dĩa.
– Sao thế, hôm nay dùng cỏ khô à?
– Ồ, không đâu! Tôi sẽ đưa thức ăn lên ngay lập tức. Nhưng hãy nghe tôi nói một điều: Từ bao nhiêu năm trời, tôi đã nấu nướng cho các “người “, tôi đã cố gắng thay đổi món ăn, bữa thì món cơm, bữa thì món hầm, bữa khác thì món quay hoặc món”ragu”. Không bao giờ các “người” nói: “Ngon quá! Bà chiều chúng tôi quá”. Hãy nói lên một tiếng chứ, tôi đâu phải là đá! Người ta không thể làm việc khi không thấy một dấu cám ơn, một lời khuyên khích hay khen thưởng. Hãy biết mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta biết quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta biết mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta biết nói lên những lời tốt đẹp những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Thứ đến hãy mở tai ra để biết lắng nghe.
Một nhóm sinh viên được yêu cầu lập danh sách bảy kỳ quan của thế giới hiện nay. Mặc dù có một số bất đồng, nhưng đa số đều bình chọn theo danh sách sau:
-Kim tự tháp Ai cập -Đền Taj Mahal. -Đại vực Grand Canyon. -Kênh đào Panama. -Tòa cao ốc Empire State. -Đền thờ thánh Phêrô ở Roma. -Vạn Lý Trường Thành.
Khi tập trung phiếu bình chọn, bà giáo sư để ý thấy có một sinh viên chỉ ngồi im lặng, không nộp lại phiếu của mình. Thấy thế, bà liền đến hỏi xem phiếu của cô có vấn đề gì không. Cô gái trả lời:
– Vâng, thưa giáo sư. Có chút ít ạ ! Có lẽ em không cần nộp vì phiếu của em quá khác so với các bạn.
Vị giáo sư nói:
– Vậy thì em hãy cho cô biết sự lựa chọn của em để tôi và các bạn xem có thể giúp gì không?
Cô sinh viên phân vân giây lát, rồi bắt đầu nói đến bảy kỳ quan thế giới theo nhận định riêng của cô là:
-Vuốt ve -Nếm mùi vị -Ngắm nhìn. -Lắng nghe -Cảm nhận. -Cười vui -Tình yêu
Cả lớp học hoàn toàn im lặng. Bởi đó là những điều ta thường quên lãng vì chúng quá đơn giản và quá đỗi bình thường, nhưng thật sự ra đó mới là những kỳ quan tuyệt vời. Chính chúng mới làm nên hạnh phúc cho cuộc đời của ta chứ không phải là những kỳ quan vĩ đại trên cõi đời này. (Mao Trí Hùng sưu tập)
Vâng! Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa cho con bệnh câm và bệnh điếc trong tâm hồn con để con được sống phong phú và dồi dào hơn như lòng Chúa ước mong. Amen.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, “thời đại Đấng Thiên Sai sẽ đến TN23-B130
Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, “thời đại Đấng Thiên Sai sẽ đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is. 35, 5-6).
Lời tiên báo đó được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu qua trang Tin mừng chúng ta vừa nghe. Đức Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ, chứng minh Ngài là Thiên Chúa quyền năng, và là Đấng Thiên Sai, Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo trước. Tin mừng hôm nay ghi lại, Đức Giêsu đã chữa người câm điếc này ngay trong lãnh thổ dân ngoại miền Thập tỉnh, điều đó chứng tỏ ơn cứu độ mang tính phổ quát. Chúa quan tâm đến vùng ngoại biên, và thương xót họ như bao nhiêu dân tộc khác.
Thiên Chúa tạo dựng con người và ban cho miệng để nói và tai để nghe. Thế thì, chúng ta có nhớ cám ơn Chúa vì miệng nói được và tai nghe được không? Bởi lẽ có nhiều người khuyết tật thật đáng thương, vì họ không nghe, không nói, không thấy được như chúng ta.
Chúa ban cho chúng ta miệng lưỡi để ca tụng Chúa, để nói những lời xây dựng yêu thương, để chia sẻ những niềm vui nỗi buồn, chứ không phải để nói những lời thiếu văn hóa, hay nói những lời làm buồn lòng nhau.
Chúa ban cho chúng ta đôi tai là để lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, thầy cô… Lắng nghe những điều hay lẽ phải, chứ không phải để nghe những lời nói hành, nói xấu của người khác, nếu như vậy thì không đúng thánh ý Chúa.
Bởi vì trong chúng ta, nhiều người rất thính tai nhưng không biết lắng nghe những điều cần nghe. Có miệng lưỡi rất tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói. Tục ngữ ca dao có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Có người nghe được nhiều thông tin, nhưng nghe mà không hiểu thì cũng như điếc. Nói được nhiều ngôn ngữ, hay nói đủ thứ chuyện, nhưng không nói với Chúa và nói về Chúa thì cũng kể như câm.
Nếu điếc thể lý là một điều đáng thương, thì điếc tâm lý còn đáng thương hơn biết dường nào.
Chẳng hạn như khi đã có sẵn thành kiến với ai đó, thì dường như chúng ta không muốn nghe, không quan tâm đến những gì người ấy nói. Người ấy có nói hay đến đâu đi nữa, thì cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến cỡ nào, chúng ta cũng cũng bỏ ngoài tai.
Vậy để lắng nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, mà còn phải mở lòng ra nữa. Bao lâu tâm hồn còn đóng kín, không nhạy bén trước những lời mời gọi yêu thương của Chúa. Không khiêm tốn đón nhận những lời chỉ bảo đàng lành, thì tai chúng ta chẳng khác nào như người điếc mà thôi.
Tương tự như thế, có những thứ câm do bảo thủ. Có nghĩa là chỉ nói về những nhu cầu, những ước vọng của mình, mà chẳng để ý đến những nhu cầu, những ước vọng của người khác.
Ngày hôm nay, người ta nói nhiều trong điện thoại. Nói nhiều trên loa phóng thanh. Nói nhiều nơi chợ búa hay học đường, nhưng lại ít dành thời gian nói chuyện với nhau giữa vợ chồng và con cái trong gia đình.
Người ta ca hát thật hấp dẫn. Bình luận chương trình thời sự bóng đá thật sôi nổi, nhưng khi đến nhà thờ họ không muốn mở miệng ra, để cùng đọc kinh, cùng hát với nhau những lời ca tụng tạ ơn Chúa.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa ban cho chúng ta có hai tai nhưng chỉ có một miệng mà thôi. Vì thế, thánh Giacôbê tông đồ khuyên nhủ: ” Anh em hãy năng nghe, nhưng đừng vội nói. Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là kẻ tự dối lòng mình” (Gc 1,19.26).
Nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta luôn sống tâm tình tạ ơn: Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta có miệng lưỡi để ca tụng Chúa và nói với nhau những lời xây dựng yêu thương. Tạ ơn Chúa ban cho chúng ta có đôi tai để lắng nghe Lời Chúa, và nghe những lời dạy bảo của những Đấng thay mặt Chúa, và những lời hay ý đẹp của người khác.
Lời Chúa nói với người câm điếc năm xưa, nay Chúa cũng muốn ngõ lời với chúng ta: “Epphata”. Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe những Lời Chúa dạy. Hãy mở tai ra để lắng nghe những lời chia sẻ của tha nhân, nhưng cần đóng lại những tiếng ồn ào của thế gian, và đừng nghe những lời thiếu xây dựng tình bác ái.
Hãy mở miệng lưỡi ra để cất tiếng ngợi khen Chúa. Nói với Chúa những ước vọng thánh thiện của mình, và nói về Chúa những lời xây dựng yêu thương mang lại bình an và niềm vui cho người khác. Hãy mở miệng lưỡi ra rao truyền lời chân lý và loan tin Chúa Trời là Cha yêu thương con người. Amen.
Ơn cứu độ là gì? Thiên Chúa cứu độ như thế nào? Làm sao để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa? TN23-B131
Ơn cứu độ là gì? Thiên Chúa cứu độ như thế nào? Làm sao để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa? Người tín hữu nghe nói nhiều về ơn cứu độ và giải thoát, thế nhưng để hiểu, cần lắng nghe những tường thuật của Cựu ước và Tin mừng để chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Trong lịch sử, có thể có những cách hiểu về ơn cứu độ được xem là ảo tưởng và huyền hoặc, như quan niệm có chiều hướng duy linh, cứu độ là được trở về với bản chất thần linh của mình nhờ vào việc tinh thần con người thoát ra khỏi vật chất và thân xác. Nhiều người cho rằng tinh thần con người vốn có bản chất thần linh, bị giam cầm trong thân xác, nên nhờ một sự giác ngộ tinh thần, con người thoát ra khỏi thân xác để trở về với bản chất thần linh vốn có của mình. Hoặc một quan niệm duy vật hơn, cho rằng cứu độ chính là tạo được một cuộc sống ấm no hạnh phúc ở trần gian. Con người, nhờ cố gắng của trí tuệ tìm tòi và phát minh khoa học của mình, chiến thắng mọi trở ngại trong thiên nhiên như bệnh tật, và tạo ra nhiều của cải để con người sống hạnh phúc ở trần gian.
Bản văn sách tiên tri Isaia cho thấy quan niệm ơn cứu độ là việc Thiên Chúa hành động và đến cứu giúp con người. Đó là lúc mà Thiên Chúa quyết định hành động một cách quyết liệt để chữa lành thân phận bệnh tật của con người: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng, tai người điếc sẽ mở ra. Người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy nơi hoang địa và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng”. Và hành động cứu độ của Thiên Chúa là giải thoát họ khỏi những bệnh tật đang giam cầm và ràng buộc con người. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Bởi vì bệnh tật như đui mù, què quặt, câm điếc làm cho thân phận con người trở nên bi đát và bất hạnh, giới hạn những khả năng của con người. Chữa lành những bệnh tật thể lý của thân phận con người là dấu chỉ của ơn cứu độ do Thiên Chúa ban tặng, giải thoát con người khỏi những giới hạn này, để làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Và câu chuyện Tin mừng tường thuật cụ thể việc Chúa Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người đưa anh ta riêng ra, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời thở dài và nói “êphata” tức là hãy mở ra. Cách làm của Chúa Giêsu có phần nào giống với thực hành y khoa thời bấy giờ tức là có những tiếp xúc thể lý với bệnh nhân và dùng nước miếng, được cho là nguồn sự sống, để xức cho bệnh nhân. Ngoài ra việc người cầu nguyện, thở dài, nói êphata đều là những chỉ dẫn quí báu về sử tính của hành động chữa lành cũng là hành động cứu độ của Chúa Giêsu.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện một cách cụ thể bằng việc chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người, ở với con người, đến tiếp xúc với mỗi người chúng ta để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng cứu thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Đức Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của người. Đấng cứu thế biểu lộ quyền năng cứu độ của người, nhưng người không muốn người ta tỏ dấu biết ơn bằng cách loan truyền phép lạ trước thời hạn làm cho những người khác có thể hiểu lầm về tư cách Đấng cứu thế. Người sẽ mạc khải tư cách Đấng cứu thế của mình cách trọn vẹn hơn nhất là qua cuộc thương khó và phục sinh của người, lúc bấy giờ người không còn sợ hiểu lầm, và mọi người có thể công bố rõ người là Đấng cứu thế chịu đóng đinh và chịu chết, và đã Phục sinh vinh quang.
Phép lạ chữa lành cho người bị bệnh câm điếc chứng tỏ quyền năng thần linh của Chúa Giêsu, lòng thương xót của người đứng trước thân phận bệnh hoạn tật nguyền của con người. Đức Giêsu đến để chăm sóc và chữa lành cho mỗi người. Và bài tin mừng tường thuật rằng mọi người đều đầy lòng thán phục mà nói rằng người làm được mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được. Và điều cần được công bố không chỉ là phép lạ, nhưng là chính việc Thiên Chúa hiện diện và cứu độ con người. Đứng trước hành động mạnh mẽ này của Chúa Giêsu, không ai được phép nhắm mắt làm ngơ, mà phải cố gắng hết sức mình để hiểu biết và tuyên xưng Đấng Cứu Thế, người đang ban ơn cứu độ là sự giải thoát cho con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Giữa Chúa Giêsu và người bệnh câm điếc được chữa lành có một sự gặp gỡ thực sự và bệnh nhân đã được Chúa Giêsu đụng chạm tới, người chăm sóc cho anh, chữa lành anh bằng sức mạnh thần linh phát xuất ra từ chính người: Người đưa riêng anh ta ra một nơi, người đặt tay vào tai anh, nhổ nước miếng vào lưỡi anh, cầu nguyện và nói êphata. Những tiếp xúc này thực sự tác động dấu ấn lên con người của bệnh nhân cách sâu xa. Quả thật, việc gặp gỡ với Đấng cứu thế đã thay đổi con người của anh cách trọn vẹn, làm cho anh được giải thoát và tham dự trọn vẹn vào sự sống.
Dân chúng đều nhìn nhận quả thật Đức Giêsu đã làm mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, tức là Đức Giêsu đã hoàn tất những lời tiên tri của Isaia. Những phép lạ Đức Giêsu thực hiện không chỉ dừng lại ở việc người là Đấng làm phép lạ mà còn hướng đến ý nghĩa trọn vẹn hơn Người là Đấng cứu độ, đến để giải thoát con người khỏi thân phận tật nguyền. Những phép lạ người làm là dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng, đó chính là đời sống thần linh ban tặng cho con người để thay đổi thân phận con người, đưa con người đến chỗ hiệp thông sự sống thần linh của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa là Đấng ban ơn cứu độ, và ơn cứu độ không là gì khác hơn là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ chính người con một Thiên Chúa đến tìm kiếm và lôi kéo con người ra khỏi thân phận thấp hèn của mình. Và muốn gặp gỡ ơn cứu độ, con người cần đến với Đức Giêsu là người con một Thiên Chúa, để người chữa những yếu đuối bệnh tật của chúng ta, và ban tặng sức mạnh thần linh từ chính người.
Có một đôi nam nữ rất yêu nhau. Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai TN23-B132
Có một đôi nam nữ rất yêu nhau. Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai ra đi ít lâu, cô gái bị một tai nạn giao thông khủng khiếp. Sau đó, cô được cứu sống. Nhưng điều bi đát hơn cả là cô bị mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não, khiến cô bị câm, không thể nói được nữa.
Cô gái bị suy sụp tinh thần hoàn toàn. Cô không muốn cho người yêu biết và cũng không muốn trở thành gánh nặng cho anh nên viết thư cho anh và nói rằng cô không còn kiên nhẫn đợi chờ anh được nữa. Cô trả lại cho anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai đã gửi hàng trăm bức thư và gọi biết bao cuộc điện thoại, nhưng cô không trả lời mà chỉ khóc. Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà đến nơi khác để cô quên đi những gì đã xảy ra. Cô gái học ngôn ngữ bằng tay dành cho người câm và bắt đầu một cuộc sống mới. Chàng trai sau đó cũng về nước và không liên lạc với cô gái nữa. Cô nghĩ rằng chàng đã quên cô.
Một năm trôi qua, ngày kia, một người bạn đến trao cho cô gái thiệp mời đi dự lễ thành hôn của chàng trai, người yêu của cô. Trái tim cô tan nát. Khi mở thiệp cưới ra, cô giật mình khi thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước mắt lên, cô thấy chàng trai đang đứng trước mặt. Chàng xuất hiện đúng vào lúc bất ngờ nhất.
Chàng dùng tay để nói với cô: “Một năm qua anh đã dành thời gian để học ngôn ngữ bằng tay này. Hãy cho anh có cơ hội để nói với em: Anh yêu em”. Chàng xỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Cô gái đã khóc, khóc vì hạnh phúc lại trở về với cô.
Câu truyện tình yêu trên đây thật đẹp. Chàng trai không thể mở miệng lưỡi cho cô gái câm nói được. Nhưng với tình yêu, chàng đã mở ra cho cô một khung trời hạnh phúc, nhất là mở trái tim cô để đổ vào đó tràn đầy tình yêu của mình.
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Marcô thuật lại: cũng với tình yêu, Chúa Giêsu đã mở miệng lưỡi và đôi tai cho một người bị câm điếc. Phải chăng khi chữa lành cho anh, Chúa Giêsu cũng muốn mở ra cho anh một khung trời hạnh phúc và qua đó, cũng muốn mở rộng trái tim anh để anh cũng biết đón nhận tình yêu của Ngài ?
Hãy mở miệng lưỡi và đôi tai
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ chữa lành người câm điếc ở “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất của người ngoại giáo. Vì thế, có thể suy đoán người bệnh chính là một lương dân. Nhưng anh ta và bạn bè thân hữu đã có một lòng tin vào Chúa Giêsu rất mạnh mẽ, khi họ quyết tâm dẫn anh đến cùng Chúa Giêsu và xin Ngài chữa bệnh. Như thế, niềm tin là động lực thúc đẩy phép lạ xảy ra: lòng tin đã đưa họ đến với Chúa, và cũng vì họ có lòng mạnh tin mà Chúa đã chữa lành cho bệnh nhân.
Chúa Giêsu đã không chữa bệnh công khai, nhưng đưa bệnh nhân ra khỏi đám đông để chữa lành cho anh ta. Khi làm như vậy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ Ngài chưa muốn biểu lộ quyền năng công khai vì “giờ” Ngài chưa đến. Vì thế, sau phép lạ, Chúa đã cấm họ kể lại phép lạ chữa bệnh cho người khác. Đồng thời, Chúa Giêsu không muốn dân chúng theo Chúa vì óc hiếu kỳ hoặc vì muốn lợi lộc vật chất. Nhưng Chúa chỉ muốn họ theo Chúa với một đức tin chân thành. Hơn nữa, Chúa Giêsu muốn chữa bệnh trong một khung cảnh riêng tư thân mật, nói lên sự trìu mến thân thương hơn là một hành động phô trương giữa đám đông.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu càng cấm dân chúng nói ra những gì họ vừa chứng kiến, họ càng loan truyền những điều mắt thấy tai nghe cách mạnh mẽ hơn. Họ thán phục và ca tụng Chúa đã làm mọi sự thật tốt đẹp. Điều đó cho thấy: Chúa đã mở miệng lưỡi và đôi tai của người bệnh, nhưng đồng thời người cũng mở lòng trí anh ta và mọi người. Mở miệng lưỡi và đôi tai thể lý là điều quan trọng, nhưng mở lòng trí và trái tim lại cần thiết hơn. Đôi tai cần nhạy bén để đón nhận chân lý, miệng lưỡi cần can đảm để rao truyền sự thật.
Đôi tai và miệng lưỡi là cửa ngõ giúp cho con người đón nhận nhau và đón nhận thế giới. Thế nhưng, đôi tai và miệng lưỡi tâm linh lại quan trọng hơn để ta đón nhận lời Chúa và loan truyền lời Chúa.
Hãy mở rộng tâm hồn
Khi Chúa Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc, Ngài đã mở ra cho anh ta một khung trời đầy hạnh phúc. Bởi vì khi bị câm điếc, người ta bị giam hãm trong một thế giới đầy sự câm nín và cô độc. Đối với người bị câm điếc, nhịp cầu cảm thông và liên lạc với tha nhân bị gãy đổ hoàn toàn. Họ bị tách lìa khỏi thế giới. Vì thế, khi Chúa Giêsu đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh, rồi nói: “Ephpheta, nghĩa là: Hãy mở ra !”. Lập tức, tai anh được mở ra và lưỡi anh được tháo cởi. Ngay lúc ấy, anh như được giải thoát khỏi xiềng xích giam hãm anh bấy lâu nay. Tâm hồn anh được mở ra với một thế giới đầy tươi sáng. Chúa sờ vào tai và lưỡi anh để đưa anh trở về hòa nhập với xã hội và cộng đồng.
Lời phán truyền của Chúa Giêsu: “Ephpheta, hãy mở ra !” không phải là lời bùa chú của một phù thủy. Nhưng đó là lệnh truyền của một Thiên Chúa cao cả đã từng truyền lệnh cho cả vũ trụ hiện hữu trong công trình tạo dựng.
Lời phán truyền của Chúa Giêsu: “Ephpheta, hãy mở ra !” cũng phản ánh dung mạo Thiên Sai nơi Chúa Giêsu, Đấng đến để giải thoát muôn dân. Thời Thiên Sai ấy đã được tiên tri Isaia loan báo cho dân chúng trong bài đọc I: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được”. Đó chính là công việc của Đấng Thiên Sai được áp dụng cho Chúa Giêsu.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phán truyền với chúng ta: “Ephpheta. Hãy mở ra !”. Không phải Ngài muốn mở đôi tai và miệng lưỡi thể lý của chúng ta, nhưng là muốn mở rộng tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn biết nghe và nói lời yêu thương, nhất là nghe và nói lời Chúa.
Hãy mở ra những đôi tai ích kỷ, để chúng ta biết lắng nghe lời kêu cứu của tha nhân và đưa tay ra giúp đỡ.
Hãy mở ra những đôi tai đang đầy ứ những điều thô tục, để chúng ta biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Hãy mở ra những miệng lưỡi cứng cỏi, để chúng ta biết nói những lời an ủi, động viên với những ai đang buồn sầu thất vọng.
Hãy mở ra những miệng lưỡi nhát đảm, để chúng ta biết nói sự thật, làm chứng cho chân lý, nhất là biết rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Trên tờ báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” ngày 18/6/2006 có in một tấm ảnh độc đáo trên trang bìa. Đó là hình ảnh một lỗ hổng lớn trên mặt cầu Văn Thánh 2, Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh tấm ảnh là tựa đề: “Lỗ Hổng Trách Nhiệm, ai chịu trách nhiệm về những vụ tham nhũng, lãng phí nổi cộm vừa qua ?”. Tấm ảnh đó đã đoạt giải nhất về thể loại ảnh Giải Báo Chí Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2006. Tấm ảnh đó là của tác giả Nguyễn Công Thành, báo Tuổi Trẻ.
Nhiều người đã đi qua và đã nhìn thấy cái “lỗ hổng trách nhiệm” ấy nhưng đã im lặng. Chỉ có tác giả tấm ảnh đã biết mở mắt, mở tai để nhìn và nghe những điều “trái tai gai mắt” và can đảm mở miệng nói lên sự thật. Chúng ta hãy xin Chúa luôn mở mắt, mở tai chúng ta mỗi ngày để chúng ta cũng biết mở miệng để ca tụng Chúa, làm chứng cho sự thật, và loan báo Tin Mừng cho mọi người.
Việt ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật “mệt” hơn cái TN23-B133
Việt ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật “mệt” hơn cái bệnh. Đau đâu khốn đấy. Khổ lắm! Thế nên tiền nhân xác định: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Sống vui vẻ là lối sống lành mạnh, ít phải sử dụng thuốc men hoặc phải “hỏi thăm” thầy thuốc. Điều đó cũng có nghĩa là những người khó tính, nóng nảy, hay hờn giận, thường là những người dễ bị bệnh. Đúng vậy, “Ăn được, ngủ được là tiên – Không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo”. Sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể lý luôn có liên quan lẫn nhau. Có thể nói đây là một chân lý bất biến: “To vòng bụng, ngắn vòng đời”. Người ta bảo rằng “phát tướng thì phát tài”, thật ra lại là “phát tướng thì… phát tang”.
Thiên Chúa đã tạo dựng các cơ phận rất hợp lý (2 mắt, 2 tai, 2 tay, 2 chân,... 1 đầu, 1 miệng, 1 tim), chắc chắn không phần nào thiếu hoặc thừa, ngay cả “ruột thừa” (appendix) cũng vẫn không thừa, bởi vì nó có một số tác dụng miễn dịch quan trọng và một số tác dụng khác – phát triển cả bào thai và người lớn.
Bất cứ cơ phận nào khác thường thì sẽ khổ lắm. Chỉ là nhức răng thôi mà nhiều người đã phải khóc như cha mẹ chết. “Cái răng, cái tóc là gốc con người”, đúng vậy! Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nó chỉ mờ thôi đã khổ rồi, huống chi nó cứ “khép chặt” thì… ôi thôi, khổ biết chừng nào! Thế nên phải tìm cách “mở” nó ra. Y học và khoa học tìm đủ cách mà nhiều người vẫn chưa thỏa ước nguyện là được nhìn đời. Mù lòa mắt thể lý là khổ, mù lòa mắt tâm linh còn khổ hơn. Thế nên cần phải cầu xin Thiên Chúa để Ngài phán một lời chữa lành: “Effatha! Ép-pha-tha! Εφφαθα! Hãy mở ra!”.
Thế nhưng “mở ra” cũng có nhiều mức độ, không chỉ đơn giản là “không đóng, không khép”. Mở thế nào: Mở toang hay mở hé? Động từ “mở ra” thường được nghĩ ngay tới mở một vật gì đó – theo nghĩa đen. Nhưng “mở ra” cũng có nghĩa bóng, tức là “mở lòng ra”, đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu, nghĩa là phải sống cởi mở và yêu thương. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều có những thứ “dễ mở” và “khó mở”, đôi khi có thể “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Vấn đề là chỗ đó!
Cũng cần can đảm và quyết tâm khi “mở ra”. Thế nên ngày xưa, ngôn sứ Isaia khuyên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35:4). Đó là Giờ Cứu Độ, Ngày Công Lý, (cũng có thể) là ngày Đức Kitô giáng lâm, vì thời đại chúng ta đang sống là Thời Cánh Chung. Thời giờ cứu độ là lúc “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Lúc đó sẽ “có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu; miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra; trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (Is 35:6b-7). Mọi sự trở nên mới, hoàn toàn thay đổi, và thật là hạnh phúc cho những ai vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13; Lc 21:19).
Tận thế ư? Xa hay gần? Chắc chắn “ngày tận thế” ai cũng chứng kiến là lúc mình chết, lúc chúng ta trút hơi thở cuối cùng để giã biệt thế gian. Đó là “giờ cánh chung” của mỗi cuộc đời chúng ta. Còn ngày tận cùng của thế gian này chẳng ai biết lúc nào, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, kể cả những điều chúng ta chưa nghĩ tới, Ngài chí minh và chí thiện: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Không chỉ vậy, Ngài còn “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà; cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên; và yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7b-8). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng nhất mực công bình, Ngài “phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:9). Và chỉ có Ngài mới là người duy nhất nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị đời đời. Ngài là Thiên Chúa của hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13:8).
Ngài toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người “bó tay”. Ngài “mở” được mọi thứ, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Thậm chí những tấm lòng chai đá nhất, những “cửa lòng” khó mở nhất hoặc hầu như “không thể mở ra”, thế mà Ngài vẫn khả dĩ thâm nhập và “mở” được: Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna (bị 7 quỷ kiềm chế), Augustinô,... Vì thế, chúng ta càng phải cần nhớ đến Ngài, kêu van Ngài xót thương và gìn giữ chúng ta từng giây phút, qua từng hơi thở, bởi vì không có Ngài thì chúng ta chẳng làm gì được (Ga 15:5).
Thật chí lý với lời khuyên của Thánh Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Không thiên tư, không thiên vị là thế nào? Đó là không phân biệt đối xử: Không coi trọng người giàu mà khinh chê người nghèo, không qụy lụy người chức quyền mà áp bức người cô thân yếu thế, không nịnh người tâng bốc mà ghét người trực tính,… Đó là cách sống công bình, là cách thể hiện công lý, và đó mới là cách sống mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi chúng ta.
Và không hề úp mở hoặc bóng gió, Thánh Giacôbê nói thẳng luôn: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4). Tình trạng này rất thường thấy, giống như một định dạng phân biệt hoặc kỳ thị mặc nhiên vậy.
Thật thế chứ chẳng oan ức chi, có thể chúng ta không hề nói ra bằng lời nhưng động thái, ánh mắt và cử chỉ của chúng ta lại “tố cáo” chúng ta “kỳ thị” và “xét đoán” người khác, thế mà chúng ta vẫn tự nhận là đang sống đức công bình. Cái loại “tưởng” như vậy rất nguy hiểm, nếu không chấn chỉnh thì không yên thân với Chúa đâu đấy!
Cuộc sống luôn có những vấn đề nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà khó xử lý. Có bao giờ chúng ta động lòng trắc ẩn với một người nghèo đứng bơ vơ ở một góc đường? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho những người bị tai nạn khi nghe người khác nói, khi thấy trên ti-vi hoặc trên internet? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho một người qua đời khi chúng ta đi trên đường và thấy đám tang, dù người đó thuộc tôn giáo khác? Có bao giờ chúng ta nghĩ về món nợ mình phải trả cho những người nghèo khó và đau khổ hơn mình? Đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, chúng ta có cầu nguyện cho quê hương Việt Nam? Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa truyền lệnh: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Đức ái quá lớn lao. Và món nợ này chúng ta phải trả cho đến hơi thở cuối cùng. Ai thanh toán xong đồng-xu-yêu-thương-cuối-cùng đó thì mới được vào Nước Trời. Chúa Giêsu nói thật chứ chẳng đùa đâu, vì Thiên Chúa rất mực công bình và chính trực. Chắc chắn là phải “hai năm rõ mười”. Vấn đề thực sự đáng quan ngại!
Và rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Chắc chắn như vậy! Chàng trai Phanxicô ở thành Assisi đã sống đúng nghĩa đen của chữ nghèo theo Tin Mừng nên được mệnh danh là “Phanxicô nghèo khó”, thế nên mới được làm “công dân Nước Trời”.
Thế nhưng trong thực tế của cuộc sống đời thường, ai nghèo đều bị khinh và bị người khác “không thèm ngó”, thậm chí còn bị mỉa mai là “bộ mặt hãm tài”. Trong một nhóm người, một hội đoàn hoặc một giáo xứ, chúng ta thấy rõ ai có “máu mặt” đều được bề trên “lưu ý” người ta “chăm chút”, được đề cao, được “yêu quý”, được “lưu ý”, được “săn đón”, được mời chào, được “hỏi thăm”, được tiếp đón nồng hậu,… Xin lễ hoặc xin khấn cũng có loại “giá” riêng. Nếu theo kiểu cầu nguyện như thế thì người giàu được cầu nguyện nhiều, và dễ lên thiên đàng, còn người nghèo thì đừng hòng nhìn thấy cổng thiên đàng, vì không có tiền thì chẳng ai cầu nguyện cho, do đó mà “đi chỗ khác chơi”. Việc “yêu người như chính mình” hoặc “thương người nghèo” chỉ là… nói cho vui thôi! Người có quyền và có tiền thì trở thành người có “thế” (vị trí và giá trị). Vì vậy, người Việt thường nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”, họ có nói sai hoặc làm sai cũng thành đúng “tất tần tật”, hoặc như kiểu nói khác: “Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”. Sự thật minh nhiên: Có tiền được gọi là “ông”, không có tiền bị gọi là “thằng”. Và người ta thường thở dài não nuột: “Đời là thế!”. Thế thì buồn thật!
Theo lời kể của Thánh sử Mác-cô, hôm đó Đức Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Chúa Giêsu đúng là “siêu bác sĩ”, là “thần y”, bởi vì Ngài chữa bệnh mà không hề dùng thuốc men gì – không thuốc Tây, không thuốc Nam hoặc thuốc Bắc, mà chữa bệnh bằng… nước miếng. Không chỉ lạ mà hay quá là hay, đặc biệt là có hiệu quả hơn bất cứ loại thuốc nào khác trên đời. Ôi chao, đúng là trên cả tuyệt vời!
Thật vậy, sau khi “nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi bệnh nhân”, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha, hãy mở ra!” (Mc 7:34). Thánh sử Mác-cô cho chúng ta biết một “chi tiết lạ” là Chúa Giêsu RÊN một tiếng. Và rồi lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Chỉ cần bôi nước miếng mà bệnh nhân hết điếc và hết ngọng, anh ta nói được rõ ràng. Sư phụ Giêsu tài quá, độc chiêu quá, tuyệt vời quá! Phàm ngôn không có từ ngữ để mô tả một cách trọn vẹn nhất.
Chắc chắn không ai có thể làm được như Ngài, thế nhưng Chúa Giêsu không khoe khoang, không khoác lác, không “nổ” chút nào, mà Ngài bắt người ta không được kể chuyện đó với ai. Ngài càng cấm thì họ càng đồn ra. Tiếng lành đồn xa là vậy, và đó là chuyện tất yếu thôi. Ôi, điều kỳ diệu thế làm sao im lặng được, làm sao mà cấm nổi? Không bàn tán xôn xao sao được vì ai cũng hết sức kinh ngạc và khâm phục: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7:37). Có ai thấy “siêu bác sĩ” mà không bàn tán chứ? Chắc chắn không thể im lặng được! Và thế là “siêu bác sĩ” Giêsu nổi như cồn, trở thành “siêu sao” ngay lập tức. Tuyệt vời quá chừng! Giả sử chúng ta là các tông đồ thấy Sư phụ như vậy thì chúng ta “lên nước” và “nổ banh trời” chứ chẳng chơi. Thế nhưng không thấy Kinh Thánh nói gì về các môn đệ, chắc là họ đã thấm thía bài học khiêm nhường mà Thầy Giêsu đã dạy.
Thông thường thì chứng câm đi đôi với chứng điếc, gọi là câm điếc – có lẽ liên quan dây âm thanh, việc phát âm và lắng nghe không thể tách rời chăng? Đó là chứng câm điếc thể lý, còn về tâm linh, chúng ta cũng có những lúc bị “bệnh câm điếc”. Triệu chứng thế nào? CÂM là không muốn nói về Chúa, không nói lời tốt, thấy sai mà không dám nói; còn ĐIẾC là không chịu nghe Lời Chúa, không nghe lời khuyên, cố chấp. Chứng câm điếc tinh thần thật là đáng sợ lắm. Càng đáng sợ hơn khi không nhận biết mình bị câm điếc hoặc không chịu “mở ra”. Cần lắm sự tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, đặc biệt là ơn Chúa!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, mọi cửa đời của chúng con vẫn khép chặt và khóa bằng ổ khóa ích kỷ, xin thương mở cửa đời đầy “gỉ sét tội lỗi” của chúng con để chúng con mở đời và thoát khỏi chứng câm điếc, xin chữa lành bệnh đời và tật đời của chúng con, xin giúp chúng con tuyên xưng Thánh Danh Ngài và kiên tâm chờ đợi Con Chúa giáng lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Câm và điếc thường đi đôi. Không nói được cũng chẳng nghe được vì thế họ lệ thuộc vào mắt TN23-B134
Câm và điếc thường đi đôi. Không nói được cũng chẳng nghe được vì thế họ lệ thuộc vào mắt nhìn, quan sát, nhận xét, phỏng đoán việc đang xảy ra quanh họ.
Câm và điếc có tài nhận xét các biểu tượng. Biểu tượng, hình ảnh là cách họ dùng để thông tin, đối thoại, diễn tả tư tưởng, tình cảm của con người. Người mắt sáng cũng cần đến biểu tượng.
Biểu tượng
Biểu tượng và hình ảnh luôn chứa đựng những ý nghĩa thầm kín. Biểu tượng xuất hiện trong thiên nhiên cũng lắm và do bàn tay con người tạo ra cũng nhiều. Chúng chứa đựng những tin tức liên quan đến sinh hoạt đất trời và cuộc sống. Nhìn thấy cây đâm chồi, nảy lộc người ta biết ngay đông sắp tàn, xuân đang đến. Nhìn cánh nhạn bay người ta biết hè về bên cửa ngõ.
Tài xế lái xe dọc đường lệ thuộc rất nhiều vào các bảng chỉ dẫn nhận biết khi nào đi nhanh, khi nào chạy chậm. Nơi nào đậu xe an toàn, nơi nào không.
Rất nhiều trường hợp khuôn mặt tố cáo tấm lòng. Trẻ em làm điều sai đứng trước cha mẹ, thầy cô thường cảm thấy mất tự nhiên. Người lao nhọc quá sức, lo lắng quá độ, biếng ăn, khó ngủ, khó dấu được vẻ mệt mỏi xuất hiện trên khuôn mặt.
Một khi, vì lí do nào đó, không thể giải thích bằng ngôn từ thì biểu tượng là cách duy nhất con người dùng để diễn tả tư tưởng thầm kín bên trong. Tù nhân trong các trại tù hiểu rõ điều này hơn cả. Nơi mạng người bị coi rẻ, dư thừa xúc phạm cá nhân người ta nhìn nhau biểu tỏ nỗi lòng.
Bác sĩ chẩn bệnh cũng lệ thuộc nhiều vào triệu chứng xuất hiện nơi cơ thể con bệnh. Bác sĩ tâm lí lại chú trọng vào phong cách con người diễn tả qua cách nói, thế ngồi, điệu bộ, đi đứng, giọng nói, cách nhìn.
Biểu tượng trở thành một phần cuộc sống, con người dùng để diễn tả tình cảm, nội tâm. Biểu tượng cũng trở thành dấu chỉ cho người khác nhận xét nhau. Vì là chẩn đoán nên kết quả khi được, khi hỏng. Đúng sai ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống, quan niệm sống. Đức tin đóng vai trò quan trọng trong việc nhận xét sự việc, diễn dịch các dấu chỉ trong biểu tượng.
Cởi trói
Đức Kitô ra lệnh 'hãy mở ra' tức thì người câm điếc nói được và nghe được. Anh không còn câm và điếc nữa. Từ lúc đó anh trở thành người bình thường. Anh nhận được ơn lạ là do thân hữu giúp anh. Phúc âm thuật lại người ta đem đến cho Ngài một người câm điếc. Người ta đây chính là những người tốt bụng, những người giúp anh được cởi trói khỏi tình trạng câm và điếc. Họ không có khả năng chữa trị cho anh khỏi câm và điếc, nhưng họ đưa anh tới gặp Chúa và thay anh kêu cầu Chúa chữa. Nhờ họ giúp đưa anh tới gặp Đức Kitô mà anh hết câm và điếc. Như thế công việc tốt lành chúng ta có thể làm được là dẫn người khác đến gặp Chúa, cộng thêm lời cầu xin. Giải quyết vấn đề như thế nào là công việc của Chúa, Ngài có cách riêng của Ngài. Trường hợp của anh này hơi khác lạ. Chúa đưa anh ra riêng một nơi rồi dùng tay chạm vào tai anh và dùng nước miếng bôi trên lưỡi anh. Ngài ra lệnh không được kể chuyện đó cho ai biết. Nhưng Ngài càng cấm họ càng đồn xa.
Đức Kitô chữa lành bệnh tật thân xác, dẫn con người nhận biết Chúa chữa lành tâm linh, chữa vết thương lòng. Ngài là Đấng duy nhất chữa lành tâm linh, nội tâm.
Điếc giả, điếc thật
Chúa ban cho người câm điếc ơn nói được và nghe được. Anh nghe được điều hiện tại và nghe điều tương lai. Như thế ơn Chúa ban cho trong hiện tại nhưng lại xử dụng được về lâu, về dài trong tương lai.
Đức Kitô dùng hình ảnh chữa lành thân xác dẫn ta đến câm điếc tâm linh. Điếc tâm linh xảy ra khi nghe lời Chúa mà không hiểu, hoặc hiểu, mà thiếu thực hành. Lời Chúa âm thầm qua đi, như thế có khác chi người điếc không nghe thấy Lời Ngài. Bịt tai, ngoảnh mặt làm ngơ chính là điếc giả câm, điếc có chọn lựa.
Bất công lan tràn trong xã hội. Khi chính ta là nạn nhân; khi chứng kiến cảnh bất công xảy ra cho người khác. Thấy bất công mà chọn thái độ lặng im, không lên tiếng bênh vực lẽ công chính, ủng hộ chân lí. Bị oan ức, chịu câm nín có khác chi người câm không nói được. Thái độ câm giả, câm từng lúc, câm giai đoạn là căn bệnh mới của thời đại. Bệnh này rất phổ thông trong giới lãnh đạo, đạo cũng như đời.
Đời trớ trêu
Kẻ nói được thì không chịu nói, kẻ không được nói lại muốn nói.
Nhờ thân hữu dấn thân, dẫn đến với Đức Kitô, lên tiếng thay, kêu cứu giúp, người câm điếc được đổi đời. Anh không bị câm điếc suốt đời.
Bao tiếng nức nở, khóc than. Bao lời kinh vang vọng. Bao tiếng kêu gào công lí, lời kết án, vạch trần tội ác. Kêu gọi ngừng phá thai, tránh hiếp đáp nơi sân trường, đừng phá huỷ môi sinh, tránh lọc lừa và nhiều thứ tội ác khác. Cần có người lớn, đồng lên tiếng thay, cùng kêu cứu giúp. Có như thế mới mong có đổi đời cho người phận nhỏ. Bao lâu còn tình trạng giả câm, làm bộ điếc trường kì. Bao lâu còn tình trạng đua câm, thi điếc, bấy lâu thế giới còn tiếp tục nghe những tiếng than khóc đột xuất phát ra từ những tâm hồn đau thương.
Lời Chúa luôn có sức mạnh, rất hiệu nghiệm. Lời Ngài thể hiện khi có những Kitô hữu dấn thân vì anh em.
Ép-pha-tha! Hãy mở ra! Động từ “mở ra” theo nghĩa đen là mở một vật gì đó ra. Cụ thể, Lời Chúa TN23-B135
Ép-pha-tha! Hãy mở ra! Động từ “mở ra” theo nghĩa đen là mở một vật gì đó ra. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1 kể Thiên Chúa mở mắt người khiếm thị, mở tai người khiếm thính và trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Nhưng, Tin Mừng còn kể mọi người chứng kiến việc Chúa Giêsu mở miệng và mở tai anh chàng khuyết tật kia hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”. Như vậy, động từ Ép-pha-ta – mở ra còn mang một nghĩa bóng là “mở lòng ra”. Có mở lòng ra mới tin và biết những việc Chúa làm là đẹp chứ! Qủa vậy, Thánh Giacôbê trong bài đọc hai nói có mở lòng ra, chúng ta mới ứng xử hay đón tiếp người giàu cũng như người nghèo. Ngược lại nếu không mở lòng ra thì chúng ta sẽ kỳ thị và trở nên những người đầy tà tâm. Vâng, mở lòng ra đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu. Vấn đề ở chỗ là lòng của chúng ta có “dễ mở” hay “khó mở”, hay “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Và khi đã mở thì mở như thế nào?
Tiên tri Isaia bài đọc 1 khuyên: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu độ anh em” (Is 35:4). Cứu Độ anh em, tức là lúc “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Qủa vậy, Thiên Chúa vừa là Đấng giàu lòng thương xót vừa toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người bó tay. Ngài mở miệng lưỡi và mở lòng dạ con người, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Cụ thể, Chúa Giêsu hôm nay tai cho kẻ điếc nghe được, mở miệng anh nói được và mở lòng những người chứng kiến.
Chúng ta có thể nói Chúa Giêsu chưa quyền năng mấy vì với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Đồng ý như thế, như thử hỏi máy móc, kỷ thuật ở đâu ra? Con người. Con người và trí khôn như thế chẳng phải bởi Thiên Chúa sao? Con người toàn năng nhưng hữu hạn, chỉ mở cái bên ngoài không bao giờ mở lòng của người ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô hạn mở được những tấm lòng đóng chặt nhất hoặc không chịu mở được như lòng của Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna, Augustinô...
Người ta nói rằng để biết nhau, hiểu nhau, yêu nhau và hiệp thông với nhau thì phải nhờ: nói, nghe, thấy… Như vậy, nếu người khiếm thị, khiếm thính hay người câm là những người bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người sao?! Không! Họ còn cảm nhận, yêu thương và hiểu nhau bằng các giác quan khác nữa chứ thậm chứ là bằng chính tấm lòng. Vì thế trong các trường khuyết tật người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, tập nhìn bằng cảm giác để các em có thể là người tốt giỏi và thành đạt hơn người bình thường nữa là khác. Chẳng hạn, Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, là nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả người Mỹ. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Chúng ta có miệng, mắt và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị mù câm điếc lòng dạ mình? Chúa Giêsu đã có lần quở trách: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy" (Mt 13,14). Thực sự vậy, chúng ta cũng đã và đang có những lúc bị mù câm điếc. Câm là không mở rộng lòng ra để đón nhận Lời Chúa, không sống Lời Chúa, và không đón nhận và phục vụ tha nhân. Mù tấm hồn là lòng chai dạ đá, biết sai mà vẫn cứ phạm, không xót thương người và giúp đỡ tha nhân khi họ nghèo khổ hay bệnh tật; còn điếc nghe Lời Chúa nhưng nghe tai này lọt qua tai kia, Lời Chúa nói gì, Hội Thánh dạy gì cũng không nhớ để sống và giữ trong cuộc sống nhân tình thế thái này.
Cho nên, trước khi nghe Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta vừa đọc câu: "Lạy Chúa vinh danh Chúa" vừa làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực để xin Chúa hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con hiểu ý Chúa, cảm nhận Lời Hằng sống, để rồi sẵn sàng sống lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc nhưng vì làòng mình không mở ra nên khi về với cuộc, sống Lời Chúa chẳng si nhê gì với mình là vậy!
Thánh Giacôbê trong bài đọc hai dạy: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2,1). Rất rõ ràng, đối xử không thiên tư, tức là không phân biệt đối xử. Đối với gia đình, là chồng vợ hãy mở lòng ra mà tha thứ, chịu đựng, phục vụ và yêu thương khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, bệnh tật cũng như mạnh khỏe. Là con hãy mở lòng ra để yêu thương, vâng lời và chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ về già ốm đau. Là những người làm lớn có chức quyền, hãy mở lòng ra để đón nhận, lắng nghe và hướng dẫn mọi người trong tình yêu thương chân thành. Và là người Công giáo, hãy mở lòng ra để biết cho đi những gì mình có để nâng đỡ, ủi an và giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình vì “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Chính những hành động đó phương thế tột nhất giúp ta đạt được Nước Trời mai sau vì Chúa Giêsu đã nói: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, cá
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết yêu thương mọi người. Xin dạy chúng con yêu người như Chúa, sống cho tình yêu, chết vì tha nhân. Xin dạy chúng con biết đón nhận mọi người, Chúa ơi dạy con biết mở lòng ra, trở nên bài ca chan hòa yêu thương. Amen.
Trình thuật về phép lạ chữa người điếc và ngọng này duy nhất chỉ có thánh Maccô trình bày. Chúng TN23-B136
Trình thuật về phép lạ chữa người điếc và ngọng này duy nhất chỉ có thánh Maccô trình bày. Chúng ta thấy có những chi tiết hơi lạ: Chúa Giêsu không chữa anh như đã chữa bao nhiêu bệnh nhân khác, chỉ bằng một lời nói… mà Ngài làm như một nghi thức:
- Ngài đem bệnh nhân ra khỏi đám đông, - Ngài đặt tay, thấm nước miếng, - Ngước mắt lên trời, thở dài và nói một lời: “Hãy mở ra”.
Người điếc và ngọng này do người ta đem đến với Chúa, những người đó có lẽ là những người Do Thái ở vùng dân ngoại, đã nghe biết những phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác. Và đúng thế, Ngài đang ở vùng Thập tỉnh là vùng đất xôi đậu, người Do Thái chỉ là thiểu số.
Trước đó, Chúa Giêsu đã chữa cho con gái bà Xyrô-Phênixi ở gần đó và danh tiếng Ngài đã lan rộng đến miền Thập Tỉnh này. Điều này chứng tỏ, sứ mệnh của Ngài không hạn hẹp trong dân Do Thái mà thôi, mà cả dân ngoại cũng được hưởng nhờ, mặc dù “ơn cứu độ đến từ người Do Thái”.
Chúa Giêsu chấp nhận chữa cho người tật nguyền này, nhưng Ngài không làm giữa đám đông, mà đem anh ra khỏi đám đông. Có thể Ngài chỉ muốn làm âm thầm, sợ dân chúng tưởng Ngài làm một thứ ma thuật, bùa phép gì đó.
Ngài muốn tiếp xúc với bệnh nhân trong riêng tư để cho họ thấy rằng chính Ngài ban cho họ hồng ân của Ngài. Phải gặp gỡ Ngài trong một gặp gỡ thân tình mới cảm nhận được hồng ân.
Ngài làm những cử chỉ rõ rệt như chạm đến nơi bị bệnh tật. Chính Ngài làm cho cơ thể họ lành mạnh, không do một nguyên nhân ngoại lai nào khác.
Ngài lấy nước miếng chấm vào lưỡi, không phải như nhiều người tưởng đó là cách chữa bệnh của dân địa phương, vì họ cho nước miếng là một dược tá. Nhưng chỉ chấm một chút mà thôi thì làm sao chữa bệnh? Các bà mẹ thường nhai cơm cho con khi con còn nhỏ là một cách rất tốt để giúp cho con tiêu hóa dễ dàng. Nước miếng của người mẹ rất công hiệu. Đây chỉ là một cử chỉ tượng trưng chứng tỏ một liên đới thật sâu xa giữa Ngài với bệnh nhân và giúp cho bệnh nhân được khỏi bệnh.
Để chữa bệnh điếc, Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và sau đó mới truyền: “Hãy mở ra”.
Tại sao Ngài làm như thế? Thánh Máccô chỉ tường thuật và không giải thích. Bệnh này không trầm trọng như bệnh cùi, sao Ngài lại làm những cử chỉ khác thường như thế? Người điếc này là hình ảnh của biết bao nhiêu người điếc, không nghe, không nói, những người hững hờ với lời mời gọi của Chúa. Ngài thở dài như phải cố gắng lắm để chữa lành bệnh nhân, và sau đó mới truyền lệnh: “Hãy mở ra”. Có điều gì đó đang đè nặng con tim Ngài. Sự dửng dưng của chúng ta trước lời mời gọi của Ngài là chướng ngại để Lời Chúa có thể đi vào tâm trí chúng ta. Phải dùng cả quyền năng của Ngài mới mở cửa tâm hồn chúng ta.
Quyền năng của Ngài đã giải thoát bệnh nhân. Chúng ta chỉ có thể nghe Lời Ngài và công bố rõ ràng những gì Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta tiếp cận với Ngài, riêng lẻ, phải được Ngài chạm đến, phải được thấm nước miếng của Ngài.
Đức tin được phát sinh nhờ lắng nghe như thánh Phaolô đã xác quyết (Rm 10, 17). Thảm kịch của con người là không muốn lắng nghe Lời Chúa. Nhưng khi Chúa mở tai chúng ta, chúng ta sẽ nghe được tiếng Ngài và lòng chúng ta đón nhận Ngài, chúng ta mới hiểu được quyền năng và tình thương của Ngài.
Câu chuyện người điếc ngọng này nhắc chúng ta nhớ đến tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rủ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình”. (Hs 3,16).
Thiên Chúa đối xử với chúng ta như thế, yêu thương chúng ta như thế, sao chúng ta không muốn nghe Lời Ngài? Sao chúng ta cứ tìm hạnh phúc nơi trần thế mà lãng quên tình yêu luôn săn đón của Ngài? Ngài luôn nhẫn nại đợi chờ. Ngài vẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta trở về, không mỏi mệt. Ngài mở tai chúng ta, đồng thời cũng thoa nước miếng vào lưỡi chúng ta để chúng ta nói được rõ ràng, để chúng ta mở miệng ngợi khen Ngài, công bố những kỳ công và tình thương của Ngài.
Ngài phải đợi chờ đến bao lâu?
Đến bao giờ chúng ta mới mở miệng loan truyền tình yêu của Ngài?
Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu, để yêu, để công bố cho mọi người. Chúng ta có cảm thấy rằng nghe được tiếng Chúa là một hồng ân không: “Phúc cho tai chúng con vì được nghe!”
Chúng ta đã từng nghe Lời Chúa, chúng ta có chú tâm không? Chúng ta đánh mất không biết bao nhiêu hồng ân!
Sau khi chữa lành người điếc và ngọng này, dân chúng kinh ngạc và ngợi khen: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”!
Người tàn tật này là hình ảnh của nhiều người trong chúng ta. Anh là bằng chứng cụ thể của quyền năng Thiên Chúa. Chính nhờ anh mà nhiều người nhận ra bàn tay Chúa thi ân cho con người.
Khi chúng ta lắng nghe và công bố những việc làm của Chúa, chúng ta thành môi miệng của Ngài. Khi chữa lành người bị quỷ ám ở Ghêrasa, anh ấy xin Ngài cho anh theo Ngài, nhưng Chúa bảo: “Con hãy về tường thuật lại cho mọi người biết những gì Chúa đã làm cho con”.
Chúng ta hãy đến với Chúa, xin Ngài mở tai chúng ta và đem những người anh em điếc, ngọng đến với Chúa, như dân địa phương đã đem người tàn tật này đến để được chữa lành; và hơn nữa, chính chúng ta hãy làm cho mọi người xung quanh hiểu được Chúa thương họ như thế nào qua những hành vi bác ái của chúng ta.
Chúng ta hãy đi theo vết chân của Ngài, làm mọi sự cho tốt đẹp để mọi người thấy những việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Tuy chúng ta không làm phép lạ, nhưng cũng có thể làm được nhiều việc nếu chúng ta dám để cho Ngài sử dụng con người chúng ta, cuộc sống chúng ta.
Nhiều lúc chúng ta đầy thiện chí, sẵn sàng làm mọi việc cho Chúa, nhưng khi chạm vào thực tế, bị người khác tấn công, xuyên tạc, chúng ta nản chí, rụt rè…Những người dấn thân làm việc Chúa đều kinh nghiệm những giai đoạn khó khăn như thế.
Chúa Giêsu luôn gặp trở ngại và chống đối, nhưng Ngài luôn đi tới cùng, không chạy trốn. Chúng ta tưởng rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có thể làm mọi việc mà không cần phải cố gắng, vì Ngài quyền năng. Nghĩ như thế là lầm to. Ngài đã mặc lấy thân phận con người, Ngài phải luôn phấn đấu để vượt qua mọi trở lực, vì Ngài luôn vâng lời Cha Ngài và trung thành với sứ mệnh Cha đã giao. Cảnh sầu muộn trong vườn Ghếtsêmani vẫn rõ nét trước mắt chúng ta.
Theo Ngài, chúng ta không thể “ngồi mát, ăn bát vàng”. Nhưng cần phải phấn đấu! Phải nói rõ ràng Lời Chúa cho một thế giới “dị ứng” với tất cả những gì là “thiện”, là một điều không dễ. Chính vì thế mà nhiều người đã “bỏ Thầy và rút lui”.
Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta có “một quả tim biết lắng nghe” như Salômôn, vì nghe bằng tai vẫn chưa đủ, phải nghe bằng con tim, lời nói của chúng ta mới có sức thuyết phục.
Chúa Giêsu đến với chúng ta và “ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến hôm nay qua tấm bánh để thấm nhập vào xương thịt chúng ta, giúp chúng ta trở thành “lắng nghe” và thành “lời” sống động, vì “không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì”. Có Ngài là sinh lực, là Tình Yêu. Ăn lấy Ngài để có sức dấn thân trọn vẹn hơn.
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta.
Suy niệm:
Dân gian bảo rằng: “điếc hay ngóng, ngọng hay nói”, đó là vì người đó muốn tiếp nhận thông tin TN23-B137
Dân gian bảo rằng: “điếc hay ngóng, ngọng hay nói”, đó là vì người đó muốn tiếp nhận thông tin, lắng nghe tiếng nói của người khác, cũng như muốn truyền đạt thông tin, muốn nói để cho người khác hiểu mình. Vì vậy mà người mắc bệnh câm điếc sẽ dễ trở nên bực bội, uất ức khi họ bị mất đi tương quan với thế giới bên ngoài. Cho nên, hôm nay, trong đoạn Tin Mừng, người câm điếc được những người thân, bạn bè của mình đưa đến xin Chúa Giêsu chữa lành.
Khi thuật lại việc Chúa Giêsu đến với những người những người ngoại quốc vùng Tyrô, Siđon, cũng như miền Thập Tỉnh Decapolis, thánh sử Marcô muốn nhắm đến những người ngoại thuộc Hy Lạp và La Mã trở lại Kitô giáo. Qua đó, ngài làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu không đóng khung sứ vụ của mình trong nền văn hóa của Israel nhưng mở rộng sứ vụ loan báo Tin mừng ra cho lương dân.
Chúa Giêsu có cách chữa xem ra hơi khác lạ với việc đặt ngón tay vào tai người bệnh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời và hô lớn: “Ephata – mở ra”, để tai họ được mở ra và nghe được, miệng lưỡi mở ra và nói được. Điều này bởi vì con người chúng ta là xác đất vật hèn, người trần mắt thịt, nên Chúa chữa với những gì cụ thể, để con người cảm nhận tỏ tường bằng xúc giác.
Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta. Ngày nay, với những thiết bị công nghệ điện tử, mạng internet phủ sóng khắp nơi, và người ta dễ dàng biết chuyện Tây chuyện Tàu, bàn luận chuyện Âu, chuyện Mỹ. Thậm chí tin tức người ta truyền nhau còn nhanh hơn nhà báo chuyên nghiệp săn tin. Thế nhưng rồi con người ta cũng dễ sống khép kín. Người ta bịt kín bởi cặp kín đen, chiếc tai phone, với cái đầu lắc lư, bước chân nhịp nhịp theo điệu nhạc sập sình, đôi môi lẩm nhẩm theo các ca từ đã dần dần làm cho con người ta trở nên bị bệnh “câm điếc” về tinh thần, sống vô cảm trước nhu cầu cần giúp đỡ từ người xung quanh, sống không đoái hoài tới công bằng chân lý khi nhan nhản bên tai những bất công sai trái trong xã hội, sống mặc kệ tiếng nói lương tâm miễn sao có lợi cho mình là được. Và không khỏi kéo theo bệnh điếc lác trong việc lắng nghe và sống theo lời Chúa mời gọi trở nên thánh, bệnh ngọng ngịu ngại ngùng trong việc loan báo Tin Mừng tình thương Chúa cứu chuộc con người.
Vậy chúng ta rất cần để cho mình được Chúa chữa lành, cũng như giúp đưa nhau đến cho Chúa phục hồi khả năng “nghe - nói” nơi chúng ta. Bài đọc I trích sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết đối với bất cứ con người nào. Trái lại, với lời “Ephata”, Người luôn thứ tha, mở ra con đường cho chúng ta bước đi. Vì đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở cửa phụ; khi Ngài đóng một cánh cửa nào đó lại thì đồng thời Ngài lại mở ra nhiều cánh cửa khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó. Vì thế, trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời mà mỗi chúng ta đang đối diện, chúng ta được mời gọi không trở nên bi quan, tuyệt vọng đối với chính mình cũng như người khác. Thiên Chúa luôn luôn là niềm hy vọng và ơn cứu độ mỗi chúng ta.
Chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ: "Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế! Ông thưa với thiên thần: -Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu. Thiên thần đáp lại: -Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi. Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, nghe bằng tai, không đủ, nói bằng miệng không diễn tả được hết. Xin cho con cũng biết dùng cả trái tim mình để lắng nghe, dùng đôi tay đôi chân mình để diễn tả sự quan tâm anh chị em mình. Lạy Chúa, xin hãy chạm vào chính con nữa và ra lệnh “Epphatha – hãy mở ra” để con cũng được chữa lành, hầu có thể “lắng nghe” tiếng Chúa mời gọi để nói về Chúa cho anh chị em bằng những hành động bác ái cụ th,ể giúp đỡ cho những người đang cần đón nhận Tin Mừng. Amen.
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả TN23-B138
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời:
- Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gởi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!...
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khoá chặt lại: mở Radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản....
Chúa đã tạo dựng nên ta có tai để nghe Lời Chúa, có mắt để đọc Lời Chúa, có miệng để ca tụng Chúa. Ngoài những mục đích cao cả đối với Chúa, chúng ta còn phải liên kết với tha nhân đủ mọi phương diện. Thế mà ở đây lại có người vừa câm lại vừa điếc, thật là tội nghiệp. Nên người ta thương hại đem kẻ khuyết tật đó đến cùng Chúa Giêsu để được chữa lành. Họ đã tìm cầu tình thương rất đúng chỗ, nguồn thương xót vô bờ bến của Chúa đã ra tay cứu vớt kẻ bất hạnh đó….
Hôm đó Chúa Giêsu đi từ địa hạt Tyrô qua Sidon đến gần biển Galilê giữa miền Thập Tỉnh, người Do Thái coi miền 10 thành phố này như vùng đất ngoại giáo. Theo thánh Marcô thuật lại: “Người ta đem đến một người vừa câm vừa điếc cho Chúa Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh ấy”. Trong lúc người ta chờ đợi Chúa chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và đầy quyền năng của Ngài, thì thánh sử Marcô làm mọi người ngạc nhiên khi ông thuật lại việc Chúa Giêsu đã chữa lành theo cách các thầy lang làm theo những dấu chỉ bề ngoài. Và để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc ra xa khỏi đám đông. Rồi Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ. Chúa cũng đã dùng cử chỉ bề ngoài đó để biểu lộ ý lực bên trong: Ngài ngước mắt lên trời khẩn nài để chỉ nguồn gốc quyền năng từ Thiên Chúa. Ngài thở dài và nói: “Ephata” nghĩa là hãy mở ra. Đây là lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ.
Lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu có hiệu quả ngay lập tức: Đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh ta bắt đầu nói rõ ràng. Sự kiện siêu vời này làm phấn khởi nơi đám đông dân chúng, nhưng Chúa lại muốn họ giữ kín, đừng nói điều đó với ai. Như vậy chúng ta thấy cuộc đời công khai của Chúa Giêsu vẫn còn là cuộc đời ẩn dật giữa nhân loại, vì thế lai lịch của Đấng Kitô không được biểu lộ công khai ngay, mà chỉ được công bố cách rõ ràng cho mọi người sau khi Người chịu chết và sống lại. Nhưng dù Chúa cấm họ vẫn hứng khởi loan truyền ra rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Đây là phản ứng của dân chúng được chứng kiến hiệu quả của phép lạ mang tính cách thần linh; sự việc mà con người đã bó tay; đó là dấu chỉ quyền lực của Thiên Chúa được thực hiện do Chúa Giêsu. Cảm hứng của quần chúng Do Thái với lời tung hô ca ngợi làm cho chúng ta liên tưởng đến sách Sáng Thế Ký nói về công việc ngợi khen công trình sáng tạo vũ trụ: “Mọi sự Người làm, Thiên Chúa đều thấy tốt đẹp (St.1,31)”. Ngày xưa Chúa tạo dựng vũ trụ loài người, bây giờ Chúa lại tái tạo thế giới, đó là dấu chỉ Thiên sai mang nguồn ơn cứu độ cho trần thế.
Chúa đã dịu dàng mau mắn dủ lòng thương xót đối với người câm điếc về thể lý, chắc hẳn Chúa lại còn quan tâm đến người câm điếc về mặt tâm linh gấp bội: Chúng ta câm khi không biết mở miệng ra ca tụng Chúa, không biết nói những lời hữu ích xây dựng. Chúng ta điếc khi không biết đón nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, không biết lắng nghe và đối thoại với tha nhân. Chúa đã muốn phục hồi sự câm điếc tinh thần như bài đọc tiên tri Isaia hôm nay đã báo trước: “Này đây Thiên Chúa đến để cứu thoát các ngươi: Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Qua câu chuyện Chúa chữa lành cho người câm điếc, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta mau mắn chạy đến với Chúa qua Giáo Hội để nhận những ơn lành Chúa ban cho đời sống thường ngày. Qua Bí tích rửa tội chúng ta đã được Chúa chữa trị bệnh câm điếc Đức Tin: Được mở tai để đón nhận Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng danh Chúa.
Tiếp đến là như những người trong Tin Mừng hôm nay, họ đã đem kẻ câm điếc đến cùng Chúa, chúng ta cũng hãy mau mắn đem người câm điếc tinh thần để Giáo Hội chữa trị, để họ cũng được hiệp thông vào cộng đoàn Nước Trời.
Cuối cùng chúng ta hãy cố gắng trở nên chân tay cho người què cụt, làm đôi mắt cho ai đui mù, làm tai cho người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được v.v.
Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mk 7:37) Xã hội loài người có những TN23-B139
Suy Niệm: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mk 7:37) Xã hội loài người có những tương quan ảnh hưởng đến nhau, đời trước liên hệ đến đời sau. Nếu cha mẹ làm điều thiện, thì con cháu được hưởng phúc. Nếu người thân gây điều ác, thì gây hậu quả xấu cho mình và gia tộc. Văn hóa Việt Nam có nhiều châm ngôn dạy cách sống ở đời. Chẳng hạn: “Mẹ hiền để đức cho con.” Nếu trong gia đình ai sống thất đức thì cũng gieo họa cho con cháu: “đời cha ăn mặn, thì đời con sẽ khát nước”. “Một người làm nên, thì cả họ được cậy. Một người làm bậy, thì cả họ mất nhờ!” Văn học tây phương cũng có câu: “Cha ăn chua, thì con bị ê răng!” Có chuyện kể một người mẹ hiền giáo dục con. Ngày kia bà đem con đi phố mua hàng cùng mấy người hàng xóm. Họ để con tụ họp và chơi đùa với nhau. Sau khi mua đủ những thứ cần dùng, các bà ra tìm con. Thấy chúng đang trêu ghẹo một người tàn tật ngồi ăn xin ở góc phố. Có một số bà cười và khen con mình có khiếu khôi hài! Còn bà mẹ này thì nghiêm nghị, đến gọi con ra về. Khi tới nhà, bà nhỏ nhẹ giải thích cho con biết thông cảm những bất hạnh của kẻ tàn tật. Bà giúp con biết sự may mắn của mình và khích lệ con biết thương yêu và làm việc thiện cho kẻ khác, nhất là những người tàn tật. Phúc thay, người con biết nghe lời mẹ, và sau này sống ơn gọi dòng thánh Gioan Thiên Chúa. Dòng này chuyên lo săn sóc người bất hạnh trong xã hội. Người mẹ này là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu. Biết sống theo tinh thần ‘cứu thế’ của Đức Giêsu. Suốt đời sống trần gian, Đức Giêsu không bới móc tội lỗi, hoặc nói xấu ai. Ngài không vu oan, bịa chuyện để làm tổn thương danh dự kẻ khác. Thực ra là con người, về phần xác không ai hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu chưa bị tật này, thì bị bệnh khác đang âm thầm tàn phá sức khỏe ở bên trong!
Về phần hồn cũng thế, ai tự mãn là toàn thiện, thì chính họ đang bị bệnh tâm linh! Bệnh thể xá c ít truyền nhiễm, còn thứ bệnh tâm linh tai hại ghê gớm! Những người cùng đồng lõa, thích nghe chuyện xấu của kẻ khác thì chính họ cũng đang ở vào tình trạng nhiễm bệnh! Tội nghiệp, nhiều người đang mang thứ bệnh này mà không biết, vì thế mà họ gieo nhiều điều xấu gây ngột ngạt cho cộng đoàn! Thực Hành: “Linh hồn tôi ơi! Hãy ngợi khen Chúa.” (TV 145:2) Vì thấy mọi người bất toàn nên Chúa mới đên cứu. Xin Chúa chữa bệnh trong linh hồn con. Xin Chúa dạy con biết loan truyền lòng nhân hậu của Chúa.
Kinh Thánh trình bày với chúng ta Thiên Chúa vừa là Đấng Sáng tạo, vừa là Đấng Giải phóng. Là TN23-B140
Kinh Thánh trình bày với chúng ta Thiên Chúa vừa là Đấng Sáng tạo, vừa là Đấng Giải phóng. Là Đấng Sáng tạo, Ngài làm cho vạn vật từ hư vô trở thành hiện hữu; là Đấng Giải phóng, Ngài dẫn đưa con người tới bến bờ của tự do. Như thế, người tin Chúa luôn cảm thấy vinh dự và tự hào, vì được Chúa dựng nên, đồng thời cũng được Ngài cứu thoát. Lịch sử dân tộc Do Thái đã chứng minh điều này.
Bài Sách thánh thứ nhất trích ngôn sứ Isaia. Tác giả mời gọi chúng ta hãy can đảm và đừng sợ. Đừng sợ! bởi vì Thiên Chúa sắp can thiệp. Ngài sắp đem lại cho dân Ngài chiến thắng. Đoạn sách này được viết trong bối cảnh dân Do Thái còn đang lưu đày tại Babylon, vào thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Nơi lưu đày tha hương đất khách, ngày đêm họ tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa cứu giúp, giải phóng và đưa họ về quê cha đất tổ. Chính lúc họ đang âu sầu khổ cực, Chúa nói với họ qua ngôn sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: can đảm lên đừng sợ! đã đến thời Thiên Chúa cứu thoát“. Với giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, vị Ngôn sứ diễn tả ngày Chúa can thiệp bằng những hình ảnh rất vui tươi sinh động: người mù sẽ nhìn thấy, kẻ què sẽ đi được, người điếc sẽ nghe thấy và người câm sẽ reo hò. Ước vọng nóng bỏng của người mù là có thể nhìn, của người què là đi được, của người câm là có thể nói, của người điếc là có thể nghe. Qua hình ảnh diễn tả, vị Ngôn sứ muốn khẳng định rằng, vào ngày Thiên Chúa can thiệp, con người sẽ đạt được tất cả những gì mong muốn chờ đợi. Thiên Chúa sẽ bù đắp cho họ nỗi thống khổ họ đã phải chịu trong quá khứ và ban cho họ tràn đầy niềm vui. Sau gần 40 năm lưu đày tại Babylon, Chúa đã dùng Vua Kirô người Ba Tư để trả tự do cho người Do Thái vào năm 538. Kirô là vị vua giải phóng dân Israen khỏi cảnh lưu đày. Ông được coi như sứ giả Chúa gửi đến. Từ đây, cảnh lưu đày chấm dứt. Vua Kirô cũng là người cho phép dân Do Thái hồi hương, tái thiết Đền thờ và quê hương xứ sở. Sau những tháng ngày xa quê, họ trở về trong niềm vui vỡ òa. Lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện. Người Do Thái hát vang bài ca: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng như trong mơ…” (Tv 126,1).
Với nhãn quan Kitô giáo, cuộc trở về của người Do Thái từ kiếp lưu đày là hình bóng cho cuộc giải phóng con người mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã đến giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người hứa ban cho họ tự do đích thực, không còn bị tội lỗi chi phối và điều khiển. Người tin vào Chúa Giêsu sẽ không còn là nô lệ của tội lỗi, nhưng được mặc lấy sự thánh thiện. Những dấu chỉ Thiên sai đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Thánh Mác-cô đã ghi lại một phép lạ Chúa chữa người vừa câm vừa điếc. Nhờ tác động của Chúa, “tai anh ta mở ra và lưỡi như hết bị buộc lại”. Kiểu nói của Mác-cô muốn diễn tả người bị câm điếc cũng giống như một tù nhân. Anh ta bị nhốt kín nên giờ được mở ra, bị xiềng xích gông cùm nên giờ được tháo cởi. Nói tóm lại, anh được giải phóng khỏi cảnh tù tội và được đưa trở lại hội nhập với cuộc sống bình thường. Thánh Mác-cô cũng là một tác giả hay nói đến việc Chúa Giêsu cấm người ta loan tin, sau mỗi khi Người làm phép lạ. Đây là lối trình bày có chủ ý, vì thánh Sử muốn liên hệ đến những “trào lưu thiên sai” thời bấy giờ, muốn chủ trương một đấng thiên sai theo kiểu trần tục, mang màu sắc chính trị. Chính vì thế, Chúa Giêsu không muốn người ta đồn thổi về Người như một vị anh hùng của thời đại theo nhãn giới trần gian.
Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian để giải phóng con người khỏi quyền lực tà thần. Quả thật, con người được Thiên Chúa sáng tạo có ý chí và tự do, nhưng con người cũng bị cầm buộc bởi biết bao thứ quyền lực: tiền bạc vật chất, đam mê dục vọng, ghen ghét hận thù, ích kỷ vô tâm. Con người vừa bị giam cầm bởi những quyền lực bên ngoài, vừa bị giam cầm bởi những khuynh hướng bên trong, tức là do chính bản thân mình. Chúa Giêsu giúp chúng ta thoát khỏi những ràng buộc đó để trở nên những con người tự do, không còn bị lệ thuộc, để rồi chúng ta toàn tâm toàn ý phụng sự Thiên Chúa trong tình con thảo thân thương.
Hình ảnh Thiên Chúa là Đấng Giải phóng hướng chúng ta về niềm hy vọng. Quả vậy, trong cuộc sống hôm nay, đối diện với sự dữ, thiên tai, chiến tranh, bạo lực, nhất là đại dịch Covid-19, nhiều người cảm thấy hoang mang. Nhiều người khác lại phàn nàn kêu trách Chúa trước thảm hoạ mà nhân loại đang phải gánh chịu. Là những người tín hữu, chúng ta tin rằng Chúa không dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người. Chúng ta tin rằng Ngài sẽ can thiệp để cứu giúp chúng ta. Nếu trong Phúc âm, nhiều lần Chúa Giêsu đã chữa lành người liệt, người mù, người câm, người bị quỷ ám và thậm chí đã cho người chết được sống lại, thì chúng ta tin rằng người không bỏ rơi chúng ta trong hoạn nạn đau thương. Sứ điệp của Lời Chúa là sứ điệp của niềm hy vọng. Đời sống người Kitô hữu cũng được ghi dấu bởi niềm hy vọng vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương và là Đấng Giải phóng con người.
Ephata – Hãy mở ra! Đó là lệnh truyền kèm theo phép lạ để chữa người điếc và ngọng. Chúng ta cũng cần cầu xin Chúa quyền năng mở tai chúng ta để lắng nghe Lời Chúa, mở mắt chúng ta để nhận ra những nhu cầu và nỗi thống khổ nơi anh chị em xung quanh. Bằng một lối hành văn rất đơn sơ cụ thể, Thánh Giacôbê, trong bài đọc II, đã giáo huấn chúng ta bằng những ví dụ cụ thể, cho thấy ở đời này, chúng ta có khuynh hướng trọng người giàu, khinh người nghèo. Một người giàu có thì được đón tiếp trọng vọng, trong khi một người nghèo khó thì được đón tiếp miễn cưỡng và hững hờ. Hậu quả của quan niệm đầy thành kiến đó là một thứ bác ái bằng môi miệng. Theo thánh Giacôbê, điều nguy hại là thái độ phân biệt này tồn tại ngay trong các buổi hội họp của cộng đoàn hoặc trong các cử hành phụng vụ. Thánh nhân mời gọi chúng ta hãy nhận ra nơi những anh chị em nghèo sự phong phú giàu có của Đức tin. Lý do để sống bình đẳng còn dựa trên ơn gọi chung của mọi tín hữu, đó là ơn gọi thừa hưởng vương quốc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người. Như vậy, giữa cuộc sống còn nhiều thiếu thốn và khổ cực, tình liên đới của người Kitô hữu với anh chị em mình sẽ góp phần diễn tả lòng thương xót của Chúa, góp phần loan báo Tin Mừng của Người.
Cuộc sống này bao la và vô cùng phong phú. Có những điều chúng ta không thể cảm nhận bằng con mắt giác quan, nhưng còn bằng lý trí, bằng con tim và nhất là bằng Đức tin. Xin cho chúng ta có con mắt tâm hồn sáng suốt. Con mắt tâm hồn trong sáng sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là con đường chính trực; đôi chân nhiệt thành sẽ giúp chúng ta ra khỏi vỏ bọc ích kỷ của mình để đến với tha nhân; đôi tai tinh thông sẽ giúp ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa; môi miệng chân thành sẽ giúp ta nói những lời thân thiện. Xin Chúa mở miệng chúng ta để chúng ta biết ca ngợi Chúa và dùng lời nói nối kết tình hiệp thông. Như thế, chúng ta đã thực sự được Thiên Chúa giải phóng và trở nên con người tự do, sự tự do của những ai tin tưởng phó thác nơi Ngài.
Chúng ta hãy tâm niệm lời dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Không bao giờ được chán nản, đừng mất niềm tin, đừng bao giờ để cho niềm hy vọng của các con bị dập tắt. Thực trạng có thể thay đổi, con người có thể thay đổi. Các con hãy tìm cách là những người đầu tiên mang lại điều tốt lành, đừng học thói quen làm điều ác, nhưng đánh bại nó bằng điều tốt lành.”
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quanTN23-B141
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ.
Có dịp đến thăm Trung tâm Khiếm thính Lái Thiêu, Thuận An, Bình Dương hay Trung tâm Khiến thị Ánh Sáng tại Lagi, Bình Thuận, sẽ thấy câm điếc và mù loà thật là khổ sở ! Cảm thông với những người câm điếc, người mù loà, chúng ta mới thấy quý cái tai cái miệng và đôi mắt của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe nói và thấy là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng: “họ đem đến cho Người một kẻ vừa điếc vừa ngọng, và xin Người đặt tay trên anh”. Mọi lần Đức Giêsu chỉ đặt tay, hoặc nói một lời, thậm chí người ta chỉ cần sờ vào áo Người là xong. Lần này thì “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông”, rồi làm nhiều động tác: đặt ngón tay vào lỗ tai, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói “Epphata” nghĩa là “hãy mở ra”. Kết quả: “lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”. Anh này được chữa cả cả tai và lưỡi một lượt. Tại sao Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông? Tại sao Người làm nhiều động tác hơn mọi khi?
Chúa Giêsu đem người điếc ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm thật dịu dàng. Người điếc luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho nghe, người điếc càng cảm thấy thất vọng hơn. Chúa tỏ sự ân cần, trân trọng vì biết người điếc đang gặp khó khăn trong đời sống. Người chạm vào tai, vào lưỡi. Người ngước mắt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, “một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có”, rên một tiếng như than thở với Thiên Chúa, “một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ” (chú giải của Fiches Dominicales), rồi phán một lời như lời tạo dựng. Lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng.
Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Vẫn có đó nhiều người như những Pharisiêu mọi thời mọi nơi, họ nghe rõ, nghe đúng, nhưng làm như không nghe, không biết. Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng. Bài đọc thứ nhất cho ta chìa khóa tìm ra nguyên nhân của căn bệnh này đó là sự sợ hãi, thiếu can đảm. Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!”. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắn nhủ các môn đệ rằng: hãy can đảm lên, đừng sợ! Khi sống lại, Đấng Phục lặp đi lặp lại nhiều lần “đừng sợ” với các môn đệ. Sợ khổ, sợ bị thua thiệt, sợ bị bách hại...là những cái sợ khiến nhiều người hành xử như chẳng thấy, chẳng nghe và họ đã không dám mở miệng. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự sử dụng để bước vào đời.
Câm và điếc là tật nguyền của lưỡi và tai. Lưỡi không thể nói và tai không thể nghe. Không nói được và không nghe được khiến cho người câm điếc không hiểu được thế giới chung quanh họ, và thế giới chung quanh cũng bị ngăn cách với người câm điếc. Đó là câm điếc thể lý.
Trong nhân gian, còn có nhiều bệnh câm điếc khác. Câm điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hóa. Câm điếc vì hiểu lầm, vì định kiến.Câm điếc vì bịt tai không muốn nghe và ngậm môi vì giận dữ. Câm điếc trước sự thật, giả câm giả điếc không dám làm chứng cho chân lý. Câm điếc khi không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, của trẻ thơ bơ vơ.Nhưng còn có một loại câm điếc khác to lớn hơn, nguy hiểm hơn, đó là câm điếc tâm linh. Khi bị câm điếc tâm linh, ta không nghe được Lời Chúa nói với ta trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng. Không dám mở miệng để ngợi khen Chúa và làm chứng cho Ngài. Đó là lúc ta bỏ ngoài tai lời của Chúa nói với ta về sự thật, về chân lý, về yêu thương và hòa giải. Khi bị câm điếc tâm linh, ta ngoan cố ở lỳ trong tội lỗi, ta cố tình ở lỳ trong cái chết của tâm hồn, không thèm nghe lời mời gọi hối cải thúc dục của Chúa Thánh Thần. Nếu câm điếc thể lý đáng buồn và đáng sợ, thì câm điếc tâm linh còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội. Câm điếc tâm linh làm ta lìa xa Chúa, đánh mất Ơn Thánh Sủng, dẫn đưa ta đến cái chết đời đời. (từ R. Veritas)
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh. Có người giả điếc giả câm để khỏi nghe lời giáo huấn của cha mẹ hay đấng bậc bề trên, để khỏi phải thực thi điều hay lẽ phải, thậm chí còn giả mù để khỏi thấy những nhọc nhằn của tha nhân, hay tội lỗi của chính mình.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ. Người ta bị câm điếc khi đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II. Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc".
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau. Người đời thường hay đổ thừa mọi điều là do "cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Nhưng cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện xấu xa nếu nó được hỗ trợ của cái tai không biết phân biệt tốt xấu, thật giả.
Người bình thường luôn có đôi tai thính, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa và lời anh em, mở rộng tâm hồn ra để đón nhận Chúa và đón nhận anh em. Mở miệng ra để nói lên sự thật, nói những lời xây dựng thay vì phá đổ, lời tha thứ thay vì oán thù, lời yêu thương thay vì ghen ghét, lời hòa giải thay vì phân ly. Có như vậy, chúng ta sẽ trở thành những người có khả năng đối thoại thân tình với Chúa và với anh em.
Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa. Hãy “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (x. J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107).
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa", và làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm. Amen.
Khẩu hiệu của trường nữ sinh Công giáo SJB (St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học TN23-B142
Khẩu hiệu của trường nữ sinh Công giáo SJB (St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học Thánh Gioan Tẩy Giả), GP New York, thật tuyệt vời: “Parare Domino plebem perfectam – Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo.” Đó là loại chìa khóa chuyên biệt để “mở” tương lai. Ước gì nền giáo dục của Việt Nam cũng biết “mở ra” hướng tốt lành như vậy!
Trong thời gian nguy kịch vì dịch cúm Tàu hiện nay tại Việt Nam nói chung, cách riêng theo thứ tự là Saigon, Bình Dương và Đồng Nai, lời nhắc nhở của Thánh Marguerite Marie Alacoque (1647-1690, người được Chúa Giêsu mặc khải Thánh Tâm) thực sự cần thiết để mỗi chúng ta cố gắng tích cực hơn: “Một linh hồn công chính có thể xin được ơn tha thứ cho cả ngàn tội nhân.” Đó là điều đẹp lòng Chúa và sẽ được Ngài tha thứ như Ngài đã thay đổi số phận của dân thành Ninivê xưa.
Cái gì bị khóa thì phải được mở. Nhiều dục vọng sinh ra tai họa, thế là “bị khóa.” Con người quá bận rộn nên đánh mất trái tim và hủy diệt tấm lòng. Đó là một cách Thiên Chúa cảnh báo con người, phải dừng lại để được mở ra. Đại dịch hiện nay cho thấy tình trạng sống của con người đang bị khóa chặt, cần phải hồi tâm để được Thiên Chúa mở khóa.
Đơn giản và dễ hiểu: Mở ra ngược với đóng vào, khép lại. Chỉ những gì bị đóng mới cần được mở. “Vừng ơi, mở ra!” là câu thần chú đã được Kasim sử dụng để mở cửa hang trong truyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” – truyện cổ dân gian của Ai Cập và Ba Tư, nói về Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Kasim là anh của Ali Baba, giàu có và tham lam, nhưng không mở được cửa hang nếu niệm các câu thần chú khác. Ổ khóa nào thì phải dùng chìa khóa đó.
Có nhiều dạng khóa và cần được mở: Mắt mù, miệng câm, tai điếc,... Thậm chí đôi khi tim cũng cần được mở – chẳng hạn, mở van tim vì bị hẹp. Các cơ phận rất cần mở để cơ thể hoạt động bình thường, đúng chức năng. Tuy nhiên, tâm linh còn cần được mở hơn: Mở ra với Thiên Chúa, với tha nhân, với đức tin, với đức khôn ngoan, với việc thiện, với đức ái, với lòng thương xót,...
Thật thú vị với nhận xét của đại nhân Khổng Tử: “Đạo làm quân tử có bốn điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can gián, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận đối với việc sửa mình; đời có bốn cái lo: Lo đức ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc.” Câu nói này thực sự khiến chúng ta phải quan ngại, bởi vì đôi khi mình đang “bị khóa” mà cứ tưởng đang “mở rộng.”
Qua trình thuật Is 35:4-7a, ngôn sứ Isaia cho biết: Sau khi xử tội Êđôm và Giêrusalem toàn thắng, Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Thiên Chúa ra tay cứu thoát những bần dân khốn khổ vì họ bị thế lực trần gian đàn áp, ức hiếp.
Thiên Chúa mở khóa cho họ: Mắt người mù được thấy, tai người điếc được nghe, người què nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm reo hò. Mọi sự hoàn toàn khác hẳn, thế cờ đảo ngược: Kẻ yếu nên mạnh, chuyển bại thành thắng. Con người biến đổi, thiên nhiên cũng nên khác: Nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Mọi thứ đều được chính Thiên Chúa “mở ra” một cách kỳ diệu.
Là con người yếu đuối, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình trạng bị ma quỷ “khóa chặt” khi phạm tội – tức là bị nó xiềng xích, và rồi lại có kinh nghiệm được Thiên Chúa mở ra khi thành tâm sám hối, không chỉ vài lần mà rất nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 146:2) Dù cho hoàn cảnh có thế nào thì Thiên Chúa vẫn mãi là nơi ẩn náu và sức mạnh của các tín hữu: “Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay, tiếng Người vang lên là trái đất rã rời. Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.” (Tv 146:7-8)
Chỉ là hòn đá vô tri vô giác mà Thiên Chúa còn làm cho trở nên con cái của Tổ phụ Ápraham thì mọi thứ khác chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài. Vô tri bất mộ. Càng trải nghiệm về Ngài thì người ta càng được mở ra, can đảm công khai mời gọi người khác: “Đến mà xem công trình của Chúa, Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu. Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.” (Tv 146:9-10) Quân IS dù có tàn ác và đe dọa dân lành thì cũng chẳng đáng gì, Thiên Chúa chưa ra tay vì Ngài kiên nhẫn chờ họ hoán cải để được hưởng tình thương xót.
Không chỉ là lời khuyên mà còn là mệnh lệnh khi Thánh Giacôbê dạy chúng ta “phải kính trọng người nghèo.” Cái nghèo ở đây không chỉ nghèo về vật chất mà cả về tâm linh nữa. Người nghèo khổ là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn và ra tay cứu giúp họ bất cứ lúc nào.
Thánh Giacôbê lịch sự nhắn nhủ: “Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư.” (Gc 2:1) Rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này,’ còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’ thì anh em đã chẳng tỏ ra KỲ THỊ và trở thành những THẨM PHÁN ĐẦY TÀ TÂM đó sao?” (Gc 2:2-4) Chắc hẳn lời thật như vậy đang “chạm” vào tự ái của mỗi chúng ta. Cái mà người ta vẫn gọi là bình đẳng thì có thể lại không hề bình đẳng, chẳng hạn trong hệ lụy giàu – nghèo.
Thực tế đời thường cho chúng ta thấy cách cư xử đối lập với Thiên Chúa, không chỉ ở giáo dân, mà cả nơi người mệnh danh là mục tử. Sự thật chứ không hư cấu, không bịa đặt. Họ chỉ thích “chiên béo” và thân thiết với các giáo dân có “máu mặt” hoặc khá giả mà thôi.
Được biết rằng linh mục H. (xứ B., hạt T., Gp X.) nhận một phong bì tiền xin lễ từ một người trong ban hành giáo, linh mục này liền xé phong bì, và nói với giọng gắt gỏng: “Xin lễ có một trăm ngàn sao? Từ nay ông đừng nhận phong bì xin lễ của ai nữa nhé!” Linh mục này thường xuyên “gần gũi” với những người có máu mặt trong xứ. Thật đáng buồn biết bao! Rồi giáo dân sẽ là những con chiên như thế nào khi họ cứ phải chứng kiến các động thái như vậy? Một linh mục trẻ khác (chưa được ba năm), hằng tháng gởi tiền vào ngân hàng, người ta nói là “sướng quá,” linh mục này nói một câu xanh rờn: “Vì tôi là linh mục mà!” Một câu nói xem chừng rất ư bình thường nhưng lại chứa đầy vẻ cao ngạo. Đáng trách hay đáng thương với “máu” Biệt Phái như vậy?
Quả thật, cứ cái “thói” phân biệt đối xử và kỳ thị như họ thì người nghèo không bao giờ được vào Thiên Đàng, bởi vì họ “mở toang” với người giàu có, sang trọng, chức quyền,... nhưng lại “khép chặt” với người hèn mọn, yếu đuối, nghèo khổ,... Nhưng may thay, bởi vì Thiên Chúa hoàn toàn đối lập với họ, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng, luôn nói thẳng nói thật chứ “không vị nể ai.” (1 Pr 1:17) Kẻ nào lộng hành, ỷ thế cậy quyền, mạo nhận mình hơn người khác, chắc chắn Thiên Chúa sẽ “khóa” đối với họ. Ngài không thể “mở” với những kẻ đối lập với Ngài.
Trong xã hội Việt Nam, chúng ta thường nghe nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.” Không sai chút nào! Có lẽ ngày xưa Thánh Giacôbê cũng thấy trái tai gai mắt nên mới tiếp tục nhắn nhủ: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã CHẲNG CHỌN NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ trước mặt người đời để họ trở nên NGƯỜI GIÀU ĐỨC TIN và THỪA HƯỞNG VƯƠNG QUỐC Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5) Cách đặt vấn đề rất khó trả lời. Ai mạnh mẽ trả lời thì mới xứng đáng là môn đệ của Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không thì chỉ là “đồ giả.” Mà “đồ giả” thì Chúa Giêsu rất ghét. (xem Mt 23:13-33; Lc 6:24-26; Mt 11:21-24; Lc 10:13-15; Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2; Pl 3:2; Kh 22:15; Mt 23:33)
Chịu khó đọc lại mấy đoạn Kinh Thánh vừa nêu, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy mình bị điếc và ngọng. Tại sao? Bởi vì lỗ tai lùng bùng và cổ họng ú ớ chẳng thành lời.
Việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng được tường thuật trong Mc 7:31-37. Hôm đó, Ngài rời vùng Tia để đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài, và xin Ngài đặt tay trên anh ta. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Kể ra thì Chúa Giêsu cũng chơi “sốc” thật. Thế nhưng đó là cách thức của Ngài, dùng động thái bề ngoài để người ta dễ hiểu mà thôi.
Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha! – Εφφαθα – Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta MỞ RA, lưỡi như HẾT BỊ BUỘC LẠI. Anh ta nói được rõ ràng. Nhưng Ngài cấm họ kể cho người khác biết. Tuy nhiên, phàm nhân vốn hiếu kỳ nên thường thích làm ngược lại. Thật vậy, Chúa Giêsu càng cấm họ thì họ lại càng đồn ra. Mà cũng không nên trách họ, vì họ hết sức kinh ngạc khi chính họ “mục kích sở thị” tỏ tường chứ chẳng phải nghe ai nói lại, thế nên họ bàn tán với nhau: “Ông ấy làm VIỆC GI CUNG TỐT DẸP cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” Lạ quá mà, không thể không cho người khác biết.
Thành tâm và thành tín, Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin MỞ miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Xin được mở miệng để chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa chứ không để mỉa mai hoặc nguyền rủa người khác. Đó cũng là một dạng khiêm nhường. Nhưng cũng nên lưu ý cách triết lý của Lev Tolstoy (người Nga): “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn nghĩa là bạn không còn khiêm tốn nữa.” Ước gì mỗi chúng ta luôn biết cầu nguyện với tất cả lòng thành tín!
Yêu thương là chìa khóa vạn năng có thể mở mọi loại khóa. Thánh Vincent de Paul khuyên: “Hãy rộng mở lòng nhân ái cho tha nhân, để không một ai túng thiếu nào gặp được chúng ta mà không được giúp đỡ. Hỏi thử chúng ta sẽ hy vọng vào đâu nếu như Thiên Chúa cũng rút lại lòng nhân ái của Người dành cho chúng ta?”
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở khóa đời chúng con và làm cho cửa lòng chúng con không bao giờ khóa chặt trước đau khổ của tha nhân, nhất là trong lúc tù túng vì dịch bệnh hiện nay. Xin siết chặt sợi tình yêu và sợi thương xót của Ngài để chúng con trở nên khí cụ bình an của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục
Đức Giêsu chữa lành cho một người “vừa điếc vừa ngọng”. Việc chữa lành này xẩy ra tại miền TN23-B143
Đức Giêsu chữa lành cho một người “vừa điếc vừa ngọng”. Việc chữa lành này xẩy ra tại miền Thập Tỉnh- vùng đất của dân ngoại, phía bên kia biển hồ Galilê. Sự giúp đỡ- đem anh đến với Đức Giêsu, của các bạn bè anh ta thật có ý nghĩa: Giúp anh ta tìm lại ý nghĩa sống trọn vẹn cho cuộc đời mình: Được nghe, được nói, được gần gũi, được giao tiếp, được mở lòng với người khác- vốn là nhu cầu không thể thiếu của bất cứ con người nào.
Chúng ta nghe Chúa nói: -Qua tạo vật là “anh Mặt trời, chị Mặt trăng, anh Lửa, chị Nước, mẹ Đất, chị Chết” (Th.Phanxico Assidi); -Qua Lời của Người trong Kinh thánh, trong Phụng vụ; -Qua các biến cố lớn, nhỏ đang xẩy ra trên hành tinh này. -Nhất là, nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói hết những gì cần thiết cho Ơn Cứu Độ của chúng ta. “Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta nơi Người Con” (Dt 1, 1-2). Liệu chúng ta có nghe được tiếng Chúa nói, thúc giục trong tâm hồn chúng ta, để được thăng tiến trong Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến mỗi ngày không?
Chúng ta nói với Chúa- cầu nguyện, không chỉ bằng ngôn từ, mà bằng cả tâm hồn chúng ta. Như Lời từ tâm hồn vang lên ngợi ca, chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa thế nào, thì Lời từ miệng lưỡi phải kiến tạo an bình và huynh đệ như thế. “Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được” (Gc 3, 9-10). Liệu lời nói của chúng ta có mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta không ?; Vì “đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ trắng án; Và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12, 36-37).
Chúng ta mở lòng, mở trí để chấp nhận, chia sẻ, thông cảm, thương yêu anh chị em mình, nhất là gần gũi, khích lệ và nâng đỡ những tâm hồn tan vỡ. Một tâm hồn khép kín như “cửa im ỉm đóng”- vô hồn, vô tri và vô nhân, thì không ai có thể mở được. Sự cố chấp, định kiến, thiếu bao dung có thể như là những “ổ khóa” kiên cố, cứng nhắc không dễ phá bỏ được và làm “biến dạng” khiến con người không còn là chính mình: Tha hóa. Liệu chúng ta sống thanh thản, mở lòng, thông cảm và chia sẻ với mọi người như Ơn Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4, 1).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin mở lòng chúng con để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa; Xin Chúa mở miệng chúng con để ngợi khen tôn vinh Chúa; Và xin cho cuộc đời chúng con trở thành lời ngợi ca tình yêu Thiên Chúa với nhân loại. mục lục
Khoa học ngày nay đã sáng chế ra một loại ngôn ngữ bằng dấu chỉ (sign language) để giúp những TN23-B144
Khoa học ngày nay đã sáng chế ra một loại ngôn ngữ bằng dấu chỉ (sign language) để giúp những người bị tật nguyền như câm và điếc có thể giao tiếp với người khác. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay vẫn còn những dạng ‘câm và điếc tân thời’ khác như tiếng nói của những người bị áp bức, nghèo khổ không được đón nhận. Họ có miệng nhưng cũng như không, vì tiếng nói của họ có ai nghe thấu chăng! Và những người có uy quyền và thế lực lại chọn bị điếc để khỏi bị áy náy.
Những người sống cùng thời với Đức Giê-su thì không được như vậy. Vì điếc nên họ không thể nghe và mức độ cảm thông với người khác cũng bị suy giảm. Vì bị câm nên họ không thể nói, vì thế việc làm cho người khác hiểu đuợc tâm tư và nguyện vọng của họ cũng gặp nhiều khó khăn. Tình trạng này kéo dài từ ngày nay sang ngày khác, nên sinh ra khó khăn trong việc giao tiếp. Cuối cùng, cả hai phía đều không vượt qua được các khó khăn này, và cuộc sống của những người bị câm và điếc càng ngày càng bị cô lập và xa cách với cộng đoàn.
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mác-cô kể lại việc Đức Giê-su đã chữa cho một người vừa bị câm lại bị điếc được khỏi bịnh. Đức Giêsu không chỉ phục hồi tình trạng tật nguyền cho ông mà còn ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách giữa ông và cộng đoàn. Từ đó, ông ta nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe, hiểu và thông cảm với ông ta hơn.
Kính thưa anh chị em,
Như vậy, việc chữa lành hôm nay không chỉ dừng lại việc chữa bịnh về mặt thể lý, nhưng còn nói lên việc Thiên Chúa tín trung, giữ lời hứa và tái tạo thế giới mới, một thế giới mà trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ một nỗi lầm than nào; sẽ không còn tật nguyền nhưng đầy sự sống; sẽ không còn đói khát, âu lo và chiến tranh nhưng là hòa bình. Thế giới sẽ tràn đầy niềm vui và hoan lạc. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa đã khai mạc trong Đức Giê-su. Trong ngày đó, những ai tưởng như mình đã chết, đã đui mù, đã câm điếc, què quặt và những tật nguyền giống như thế… sẽ được chữa lành. Tất cả sẽ vùng lên, hân hoan, vui mừng reo hò vì Đấng cứu độ đã đến và giải thoát họ khỏi tất cả những tật nguyền và hoạn nạn nói trên.
Khi Tin Mừng Mác-cô ghi lại cho chúng ta những điều kỳ diệu của Đức Giê-su như việc làm cho người câm nói đuợc, người mù trông thấy và người điếc nghe được thì có nghĩa là lúc mà những gì đã được loan báo về Nước Thiên Chúa bởi các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ I-sa-ia nay đã được thực hiện. Đức Giê-su, một con người bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt ta. Người không chỉ đứng đó mà nhìn ngắm rồi phán dậy. Người hiện diện một cách thật tích cực. Người hiện diện bằng hành động. Những tật nguyền đã làm cho con người sống trong đau khổ nay được tháo bỏ. Những hàng rào quan niệm khiến cho con người bị cô lập và mất đi mối hiệp thông như nói không ra tiếng, nghe không thấy âm sắc… tất cả đuợc cởi bỏ.
Hôm nay, Đức Giê-su đến để khai mạc thời đại mới. Tuy, bổn phận của chúng ta là Tin vào những gì mà Đức Giêsu đã làm. Nhưng, vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng phải tin rằng những gì mà Đức Giê-su đã thực hành vẫn được thể hiện qua cuộc sống của chúng mình.
Đó là hồng ân. Chúng ta không chỉ là những người thừa hưởng gia nghiệp mà còn có bổn phận làm cho gia nghiệp mà chúng ta đã lĩnh nhận càng ngày càng phát triển rộng lớn hơn. Có nghĩa là, chúng ta cũng đuợc mời gọi, trong cuộc sống, trở thành những người biết san sẻ hồng ân và niềm vui khi được cứu độ cho người khác nữa.
Đó là ân phúc thật trọng đại, vì biết rằng mình đã thuộc về Thiên Chúa. Nhưng làm thế nào, chúng ta làm cho người khác biết được mối tương quan ‘thuộc về’ Chúa của chúng ta cho người khác nhận biết. Có nghĩa là chúng ta cần có chứng từ khiến người khác nhận ra mối tương giao thật mật thiết giữa Chúa và ta. Đây không chỉ là một sự thuộc về dựa trên niềm tin, còn hơn thế nữa, nó cần có các chứng từ kèm theo. Và các chứng từ cần được minh chứng bằng chính cuộc sống mình.
Nói khác đi, những ai đã thuộc về Thiên Chúa thì đều cảm nhận được niềm vui của Thiên Chúa, Đấng giải thoát, nâng đỡ và tháo gỡ những gông cuồng, đau khổ đang đầy đọa cuộc sống ta. Cho nên, trong niềm vui mừng và hân hoan đó, chúng ta không được phép khư khư giữ cho riêng mình mà còn phải biết nghĩ đến người khác, quan tâm cho những ai đang sống với các nỗi khổ đau, đang chịu thiệt thòi mà họ phải gánh chịu; rồi như Đức Giê-su, chúng ta sẵn sàng sống và chia sẻ cho họ nguồn ơn cứu độ mà chính bản thân mình đã đươc lĩnh nhận.
Chúa đã làm xong phần của Người, còn chúng ta, phải làm gì để xứng đáng với vinh dự là môn đệ của Đức Giê-su, Đấng đã mở tai cho người điếc, mở luỡi cho người câm, giải oan cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa cho muôn dân? Vấn nạn này chất vấn và theo chúng ta cả đời và với tư cách của tín hữu, chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước các đau khổ của những con người mà Chúa đã đến để làm bạn với họ.
Tóm lại, Đức Giêsu đã đến để đưa quyền năng của Thiên Chúa vào thế giới này hầu tái tạo trời mới đất mới và trao ban sự sống mới cho muôn dân thế nào thì chúng ta cũng cần thể hiện như thế. Có nghĩa là cuộc sống của chúng ta cần được mở rộng và mở lớn hơn.
‘Mở’ ra cho bản thân và người khác nhìn thấy Chúa nơi phần sâu thẳm nhất của đời mình.
‘Mở’ cho ánh sáng lời Chúa chiếu thấu tâm can của mình, vì đó là nơi kín ẩn mà Thiên Chúa muốn ngự trị.
‘Mở’ tung những ‘mặt nạ’ khiến dung mạo của Chúa bị bóp méo trong cuộc sống.
‘Mở’ để nhìn, để nghe, để cảm thông, để buớc đến, để an ủi, để vỗ về và để san sẻ tình thương cho bao nhiêu người đang chờ đợi bàn tay và con tim của chúng ta….
Cuối cùng là ‘Ép-pha-tha – hãy mở ra’ để Chúa làm chủ mọi sự trong và ngoài của chúng ta. Amen. mục lục
Đặt mình vào hoàn cảnh của dân Israel và của chính người câm điếc trong Tin Mừng Marcô hôm TN23-B145
Đặt mình vào hoàn cảnh của dân Israel và của chính người câm điếc trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa. Có Chúa mọi sự sẽ trở nên tốt lành, người bệnh được chữa lành.
Lâm cảnh cùng quẫn
Israel được Chúa chọn là dân riêng, vì thế mà được Chúa yêu thương, chăm sóc giữ gìn như con người mắt Chúa. Vậy mà họ đã phản bội lại tình yêu ấy, đi thờ ngẫu tượng, sống bê tha, luân lý suy đồi. Lời Chúa qua các ngôn sứ nhắc nhở đều vô ích, nên lưu đầy là ‘liều thuốc mạnh’ Chúa phải dùng để sửa trị dân. Họ phải chịu cảnh cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần. Họ phải đi bộ cả ngàn cây số, cuộc sống sống thiếu thốn, đức tin bị thử thách, khiến họ đặt ra những câu hỏi: Có Thiên Chúa hay không ? Nếu có thì tại sao Ngài lại để đất nước, thành thánh Giêrusalem và Đền thờ bị phá hủy ? Hay là Thiên Chúa yếu hơn thần Marduk ? Thiên Chúa có còn nhớ lời hứa nữa hay không ?
Khi lâm cảnh cùng cực họ mới nhận ra cái giá phải trả do tội lỗi gây ra. Tội xúc phạm đến Thiên Chúa đã đẩy họ ra khỏi vòng tay yêu thương của, hạnh phúc tiêu tan, họ lâm vào cảnh nước mất nhà tan, lối tận đường cùng trong cảnh lưu đày.
Sống hy vọng vào Chúa
Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Họ bị cướp bóc và đuổi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và giả như họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước, mà có thoát chạy về nước thì ở đó cũng chẳng còn gì.
Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi quân Babylon đánh thì Isai tuyên sấm : "Can đảm lên, đừng sợ ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người" (Is 35, 4). Những lời trên mới đẹp làm sao, vì nó chứa đầy tình thương của Thiên Chúa đối với dân đang lâm cảnh nước mất nhà tan, chẳng thể nhìn, nghe không được và lê bước được cũng không xong. Tin vui Chúa đến làm cho người mù nhìn thấy được, người điếc sẽ nghe được, người què nhảy nhót như nai, người câm nói được (x. Is 35, 4-7). Những lời trên thắp sáng niềm tin và hy vọng cho dân Chúa.
"Effatà - Hãy mở ra"(Mc 7, 34). Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha, đến để hoàn tất lời hứa. Lời Chúa Giêsu hô to sau hơi thở dài trước mặt người câm điếc, với bàn tay đưa ra đụng vào tai và lưỡi anh ấy, "tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng"(Mc 7, 37).
Từ việc chữa lành người câm điếc "mở ra" cho cho thế giới chúng ta một sự khởi đầu với các quan năng nghe Lời Chúa và cất lời ca tụng những điều kỳ diệu của Chúa. Chúa đã làm người để con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng nghe tiếng Chúa, tiếng của tình yêu nói với con tim, và dạy con người học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền cho nhau những công trình tốt đẹp Chúa đã làm.
Thế giới đang cần Chúa chữa
Ngày nay nhiều người mất khả năng nghe lời Chúa và tiếng nói của đồng loại. Có người mất khả năng nói ngôn ngữ của tình yêu, hòa bình và xây dựng với chính mình cũng như tha nhân. Có người mù không nhìn thấy những điều kỳ diệu của Đấng Sáng Tạo mà ca tụng Chúa, cũng như không thấy được sự tốt đẹp nơi tha nhân.
Isaia loan báo, sẽ đến ngày Thiên Chúa đến đem lại niềm vui khi mở mắt người mù, mở tai người điếc, cho người què đi được và người câm nói được. Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đã thực hiện lời Isaia tiên báo năm xưa là chữa lành cho người câm điếc để anh nghe và nói được. Hành động Chúa kéo anh ta ra khỏi đám đông hỗn độn gồm cả dân ngoại lẫn dân Do Thái để anh thuộc về Chúa chứ không còn thuộc về loài người nữa. Chúa Giêsu đặt tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh chứng tỏ Chúa không chỉ đụng chạm đến tai, đến miệng của anh, mà Chúa còn chạm đến trọn con người, gồm trái tim và tâm hồn anh nữa. Chúa Giêsu không chỉ chữa anh khỏi câm, ngọng, Chúa còn mở tai, mở mắt tâm hồn để anh có thể nhận ra Người là Thiên Chúa quyền năng và lắng nghe Lời của Chúa.
Ngày nay, có quá nhiều tiếng ồn bên ngoài và cả bên trong ta, như âm thanh của tiền bạc, danh vọng và các thú vui, làm giảm khả năng nghe, nhìn và nói về Thiên Chúa, lời Chúa không thấm vào tâm hồn chúng ta được. Nhiều người mất khả năng lắng nghe nhau bởi họ không muốn nghe người khác hay họ nói nhiều hơn nghe. Nguy hiểm hơn là tình trạng câm điếc trong tâm hồn đang xảy ra nơi chúng ta, khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, không nhìn thấy những việc tốt đẹp Chúa làm trong đời ta. Có người điếc vì làm ngơ trước lời kêu cứu của anh chị em đang gặp khổ đau. Có người câm vì sợ hãi không dám nói lên sự thật và không dám bênh vực sự thật. Có nhiều người vì quyền lợi, địa vị hoặc vì một thứ bổng lộc nào đó của xã hội, mà chấp nhận biến mình thành kẻ câm, điếc hoặc mù lòa.
Lạy Chúa, xin đến chạm vào tai, môi miệng và mắt con, để con nghe được tiếng Chúa, thấy được tha nhân và ca tụng Chúa đến muôn thủa muôn đời. Amen. mục lục
Bạn có biết ĐIẾC có nghĩa là gì không? Thường thường người ta hay nói điếc là bị hư cái máy TN23-B146
Bạn có biết ĐIẾC có nghĩa là gì không? Thường thường người ta hay nói điếc là bị hư cái máy nghe, tức là lủng màng nhĩ. Đúng, nhưng chưa đủ, bởi vì có người hai màng nhĩ rõ ràng còn lành lặn, còn tốt nguyên, không hề bị sứt mẻ hay lủng liếc chi cả, nhưng vẫn bị… điếc như thường. Tôi tạm gọi đó là bị ĐIẾC TÂM LINH. Ví dụ:
• Mẹ Giáo Hội dạy bảo, khuyên răn, cảnh cáo con cái: “Không được ủng hộ và không được thực hành những việc trái với luân lý, và đi ngược lại với luật của Thiên Chúa, ví dụ như ngừa thai, phá thai (Abortion), trợ tử (Euthanasia), dùng phôi thai người để thí nghiệm (Stem Cell Research)… Thế nhưng rất nhiều người, trong đó có cả những tín hữu, và cả những chính trị gia Công Giáo…vẫn cứ tỉnh bơ và tệ hơn nữa, còn công khai chống báng, phê bình và chỉ trích Mẹ Giáo Hội…
• Cha mẹ khuyên răn, bảo ban con cái: “Con phải gìn giữ thân xác của con cũng như của bạn con, không được ăn nằm, không được chung đụng, không được ăn ở với nhau trước khi lễ cưới…” thế nhưng con cái cứ tỉnh như ruồi, làm như không có chuyện gì xảy ra, cứ ăn chơi, trác táng, cứ ăn chung nằm chạ rồi sanh con đẻ cái, rồi phá thai rồi triệt sản …
• Cha sở, cha phó, thầy phó tế, giảng từ ngày này qua ngày khác, hết năm này sang năm khác, khuyên điều, mời gọi khản cả cổ: “Các bí tích là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng một cách nhưng không, các bí tích sinh nhiều ơn ích cho cả xác và hồn…đặc biệt là bí tích Thánh Thể, Thánh lễ Misa rất cao quý, rất quý trọng, anh chị em hãy sắp xếp thời gian tới tham dự hằng ngày, chịu khó đi xưng tội, rước lễ…” Vậy mà ngày nào lễ cũng chỉ loe ngoe mấy ông bà cụ già, còn thanh niên và các đôi vợ chồng trẻ thì chỉ xuất hiện vào những ngày lễ trọng và những lễ Chúa Nhật.
• Các cha các cụ không ngừng nói về nhân đức công bằng: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, không được gian dối, không được gian lận, không được cho thiên hạ ăn bánh vẽ và thịt lừa, không được làm hôn thú giả, đám cưới giả, khai gian…” thế nhưng bàn dân thiên hạ chẳng nghe gì cả, cứ đua nhau ra tòa li dị giả, về Việt nam cưới vợ giả, nhưng qua đến đây thì lại sống thật với nhau!
• Đức Giám Mục rồi bề trên bảo ban, khuyên nhủ, răn đe và cảnh cáo rằng: “Là linh mục rồi thì con phải làm gương sáng, phải lo chú tâm và chịu khó soạn bài giảng cho tươm tất, phải siêng năng và nhiệt thành trong việc cử hành các bí tích, đặc biệt là bí tích Giải Tội, phải tránh những đam mê, tránh hút thuốc lá, uống bia rượu, nhậu nhẹt …” thế nhưng tôi cứ vâng dạ cho qua lệ, cứ lờ tít đi như chẳng hề có chuyện gì xảy ra cả! Đường tôi tôi đi, cách tôi tôi làm, các đấng nói gì thì mặc các đấng!
Bạn có bị điếc cái kiểu tâm linh giống như trên không vậy? Nếu bạn không bị điếc kiểu đó, thì tôi xin chúc mừng và chia vui với bạn, vì bạn là người may mắn, khoẻ mạnh và là người tốt lành thánh thiện. Còn nếu bạn nhận ra rằng, bạn đang trong tình trạng bị điếc tâm linh, bạn cố tình không muốn nghe những lời dạy dỗ, khuyên răn của ông bà cha mẹ, và đã cố tình bỏ ngoài tai những lời giáo huấn, khuyên bảo của Mẹ Giáo Hội, cũng như của các đấng bề trên thay mặt Chúa ở trần gian này… thì xin bạn hãy thay đổi ngay hôm nay đi.
Xin hãy mau mau chạy đến với một Bác sĩ rất nổi tiếng, Ngài chuyên chữa trị nhũng loại điếc, nhất là điếc tâm linh. Tên của vị Danh Y tài ba này là Giêsu Kitô, Ngài tài giỏi vô cùng và Ngài có những cách chữa bệnh rất ư là độc đáo. Đây là những thông tin về phòng mạch của Bác sĩ Giêsu:
• Điện thoại: 1-800-ĐI XƯNG-TỘI (Phòng Làm Việc)
hoặc 1-333-CẦUNGUYỆN (Di Động 24/7)
• Website: www.thamdựthánhlễ.net hoặc www.thamdựchầuThánhThể.org
• Email: đọckinhthánh@nămphútmộtngày.com
Phải ĐẾN GẶP bác sĩ Giê-su thì Ngài mới khám, mới chẩn đoán và chữa trị cho chúng mình được. Nếu không chịu ĐẾN GẶP Ngài thì tôi e rằng bệnh điếc của chúng mình khó lòng có thể khỏi được!
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, để chúng mình biết chú ý lắng nghe và tuân theo những sự dạy dỗ, chỉ bảo và khuyên răn của Chúa cũng như của các đấng bề trên, nhờ vậy bạn và tôi mới đi đúng đường, không bị lạc lối và không bị rơi vào những cạm bẫy và những hầm hố của Satan giăng mắc trong đời sống hàng ngày.
Xin Chúa chúc lành, gìn giữ và ban cho bạn những ngày cuối tuần thật nhiều niềm vui, bình an và hạnh phúc. mục lục
Tai để nghe, mắt để nhìn. Thiên Chúa ban cho con người hai cơ quan đó là để giúp con người sống TN23-B147
Tai để nghe, mắt để nhìn. Thiên Chúa ban cho con người hai cơ quan đó là để giúp con người sống đúng nghĩa con người, đạt Chân Thiện Mỹ, nghĩa là phải dùng mắt và tai để phục vụ mình, tha nhân và Thiên Chúa. Khi mà con người không có khả năng dùng hai cơ quan đó hay dùng không đúng với chức năng của nó là chúng ta có lỗi với đấng đã ban cho chúng ta những cơ quan đó bằng cách này hay cách khác. Người có tôn giáo gọi hành động đó là “phạm tội” hay bị sa vào cảnh “tù đày”.
Qua bài đọc hôm nay (Is 35:4-7), tiên tri Isaiah báo hiệu cảnh tù đầy cuối cùng của dân Israel tại Babylone.
Cuộc xuất hành của dân Chúa ra khỏi gông cùm Ai Cập là mẫu mực chúng ta suy nghĩ về ơn cứu độ và cuộc hành hương vĩ đại của loài người hướng về Thiên Chúa. Tiên tri Isaiah đã gặp phải một cộng đồng bị lưu đầy đã quá chán nản. Ngài nhắc nhở họ hãy nhớ lại những ngày họ vượt thoát khỏi cảnh tù đầy ở Ai Cập mà vui mừng.
Những hình ảnh “xuất hành” Người Mù Nhìn Thấy, Kẻ Què Đi Được, Người Câm Nói và Người Chết Sống Lại là những dấu hiệu phi thường. Được Thiên Chúa giải thoát và cứu độ, mọi dân tộc, mọi người sẽ trở về đất tổ bằng con đường sa mạc trong một cuộc xuất hành mới. Tiên tri nói: con đường duy nhất là con đường thánh phải đi qua nếu chúng ta muốn được cứu rỗi.
Ở giữa sa mạc, suối nước sẽ dư thừa. Những kẻ đau khổ sẽ được quyền năng Thiên Chúa cứu chuộc. Kẻ bệnh tật ốm đau sẽ được chữa lành, nếu họ đến với Chúa. Isaiah đã kể ra những đau khổ được Thiên Chúa chữa lành: “Lúc đó mắt mù sẽ trông thấy, tai điếc sẽ nghe được, người què quặt sẽ đứng dậy nhảy múa như hiêu nai và miệng lưỡi người câm sẽ phát ra tiếng nói và hát bài ca vui mừng.”
Lời tiên đoán của Isaiah về cuộc sống mới được thể hiện qua bài tin mừng Máccô nói về Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc (Mc 7:31-37). Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ về những điều gọi là bệnh hoạn và đau khổ trong Tin Mừng.
Người bệnh là những người bị sa ngã vì bản tính bất toàn của mình. Chúa Giêsu chữa họ để họ trở về trạng thái bình thường, như người cùi được sạch, người mù nhìn thấy, người câm nói được v..v…
Chúng ta không rõ Chúa Giêsu chữa lành theo những giai đoạn nào. Chúa không làm ảo thuật. Chúa chữa người điếc bằng cách sờ vào tai họ cho chúng ta thấy đau khổ của người điếc là vì tai không nghe được….
“EPHPHATHA, HÃY MỞ RA”
Giáo Hội sơ khai rất ngỡ ngàng khi thấy Chúa chữa lành người câm điếc. Cử chỉ chữa lành của Chúa liên hệ khá mật thiết với nghi thức Rửa Tội của Kitô giáo. Vị làm phép rửa đặt ngón tay vào lỗ tai và sờ vào môi, đầu lưỡi người chịu phép rửa và nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Ephphatha, Hãy mở ra!” Chúa đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được. Người chịu phép rửa đã được sạch mọi tội lỗi.
BÀI HỌC LẮNG NGHE
Thị giác liên quan đến sự vật, thích giác liên quan đến con người. Thị giác phải thi hành bằng khoa học, bằng quan sát khách quan. Thích giác phải thi hành qua tương quan giữa con người với nhau nhưng lại có tính chủ quan. Khi chúng ta dùng mắt nhìn người và sự vật, chúng ta hoàn toàn làm chủ những gì đến với con mắt chúng ta, vì chúng ta có thể nhắm mắt khi ước đoán hay tưởng tượng. Khi chúng ta đọc lời Kinh Thánh, chúng ta có thể nhắm mắt và ngừng đọc. Trái lại, tai -không như mắt- ta không thể bịt tai lại. Chí có cách duy nhất để không nghe là rời khỏi nơi có tiếng nói!
Chúng ta học hỏi về người khác bằng cách nghe và lắng tai nghe để hiểu điều họ nói. Ngôn ngữ biểu lộ ý nghĩ của con người trong khi thị giác không như vậy. Thị giác biểu hiện tính khách quan. Nếu chúng ta muốn học hỏi về Thiên Chúa, chúng ta phải lắng nghe Lời Người với tất cả lòng và trí chúng ta.
Khi nhìn lên ảnh Chúa, chúng ta không thấy Chúa nói gì với chúng ta. Nhưng satan hiện ra như một thiên thần, còn Chúa coi như đổ vỡ hết, một thân xác bị tan nát, chết treo trện Thập giá. Ai có thể nói được điều đó không cần niềm tin ở con mắt và lỗ tai?
Khi chúng ta đọc Kinh Thánh, chúng ta có “nghe thấy” lời kinh thánh nói không? Kinh Thánh không biểu chúng ta đọc Lời Chúa nhưng biểu chúng ta lắng nghe lời Chúa. Đó là lời kinh vĩ đại của Israel: “Shema, Israel,” “Hãy nghe đây, Hỡi Israel.” Một người nào đó phải đọc Lời Chúa cho tôi nghe để tôi thực sự hiểu thấu Lời Chúa.
Niềm tin Kinh Thánh không có tính cá nhân nhưng có tính cộng đồng. Nói và nghe bao hàm một chấp nhận hỗ tương. Chấp nhận và tương kính là yếu tố chính của cộng đồng, và chỉ có cách đó chúng ta mới có thể không nghe bằng cách rời khỏi phòng họp, rời khỏi cộng đồng và tự mình bước ra đi. Buồn thay, đó là trường hợp của những người đã từ bỏ cộng đồng Giáo hội, tuyên bố đã tìm thấy tự do, tự chủ và sự thật trong quạnh hưu, xa cách khỏi cộng đồng của niềm tin!
Điều mà họ tìm thấy không phải là sự quạnh hưu đúng nghĩa, nhưng là cô đơn, ích kỷ, một chủ thuyết cá nhân khắc khổ. Nghe và lắng nghe thực sự bao hàm một chấp nhận quyền bính và là thành viên của cộng đồng.
ĐIẾC THỂ XÁC VÀ ĐIẾC TINH THẦN
Những câu chuyện chữa lành phản ảnh sự tương quan đầy quyền năng và mật thiết giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa và lòng trắc ẩn của Người. Chúa chữa lành bằng Lời và đụng chạm thể xác. Điếc thể xác và điếc tinh thần thì giống nhau. Chúa Giêsu gặp một loại người điếc bẩm sinh, một loại là dân Pharisieu, một loại nữa là không chấp nhận Lời Chúa. Chúa băn khoăn không chỉ vì tàn tật thể xác mà cả tàn tật tinh thần và đạo lý.
Thế giới ngày nay có rất nhiều người điếc Lời Thiên Chúa, nhưng không phải điếc thể xác mà là điếc tinh thần do tội lỗi. Chúng ta thường xuyên phạm tội coi như bình thường và dần dần trở thành điếc và mù lời Chúa kêu gọi chúng ta hằng ngày.
Nếu điếc và câm là hoàn toàn mất khả năng liên lạc hay tình liên đới tốt với người hay cộng đồng thì chúng ta phải hiểu rằng mỗi người chúng ta, một cách nào đó, đều có thể bị khiếm khuyết không nghe không nói được. Giá trị của liên lạc như nghe và nói không đơn giản chỉ là không nói không nghe được mà là thi hành hay không thi hành nhiệm vụ của mình là yêu thương.
Chúng ta có mù và điếc hay không khi chúng ta tỏ ra có cảm tình hay kỳ thị người này người nọ chỉ vì họ giàu sang hay nghèo hèn (x. Gc 2:1-5). Nên nhớ Thiên Chúa chọn lựa kẻ nghèo hèn và hứa thưởng công cho họ (x. Gc 2:5).
Chúng ta điếc khi chúng ta không nghe lời yêu cầu giúp đỡ, tỏ ra lãnh đạm và vô cảm trước những khổ đau bệnh hoạn của những người anh em hàng xóm hay đồng bào. Như vậy là chính anh em đã đồng lõa đàn áp những kẻ nghèo đói khổ sở đang bị ức hiếp, là xúc phạm đến danh tính Đức Giêsu Kitô (x. Gc 2:6-7).
Cha mẹ điếc khi không chịu tìm hiểu một số hành động kỳ lạ của con cái rồi không thèm để ý đến việc chúng kêu cầu lòng yêu thương của mình.
Chúng ta điếc khi chúng ta chỉ biết chúng ta, không thèm để ý đến thế giới bên ngoài vì vị kỷ, kiêu hãnh, tức giận, ganh tương hay ngoan cố, không chấp nhận tha thứ cho tha nhân.
Chúng ta điếc khi chúng ta từ chối không nhìn nhận những kẻ đau khổ ở quanh ta, không nhìn nhận tình trạng bất bình đẳng, nghèo đói, đàn áp, ức hiếp, bất công của một chính thể độc tài toàn trị và sự tàn phá của chiến tranh.
Chúng ta điếc khi chúng ta từ chối lắng nghe tiếng cầu cứu của những đứa trẻ chưa được vinh hạnh thở khí trời, của những người mà cuộc sống của họ đang gặp nguy hiểm vì già yếu, tật nguyền, bệnh hoạn kinh niên, cả những kẻ muốn kết liễu cuộc sống của họ vì lòng thương xót đặt không đúng chỗ.
CÁI ĐIẾC CỦA NHẠC SĨ BEETHOVEN
Nhạc sĩ kiêm nhà dương cầm trứ danh người Đức là Ludwig van Beethoven (1770-1827), một trong những nhạc sĩ nổi danh và được mọi thế hệ trên thế giới yêu mến nhất. Điều mà tôi không hề biết cho tới gần đây là Beethoven bắt đầu điếc không nghe được khi ông 28 tuổi. Cái điếc này đã cho ông một nội cảm sâu xa vượt quá khỏi những gì ông có thể nhìn thấy và nghe được.
Beethoven đã biết ngay từ thuở thiếu thời, đối với Thiên Chúa âm nhạc là tuyệt vời và độc nhất. Ông đã ý thức điều đó khi ông viết nhạc. “Ngay từ thời thơ ấu tâm hồn tôi đã thấm nhuần đầy tình yêu thương. Và tôi luôn luôn cố gắng hoàn thành những việc vĩ đại ấy.” Trong nhiều bức thư, ông đã bày tỏ ước vọng phuc vụ Thiên Chúa và nhân loại bằng âm nhạc. “Lạy Chúa toàn năng, Chúa nhìn thấu lòng con…và Chúa biết nó tràn đầy tình yêu nhân loại và ước vọng làm điều thiện.”
Cuộc đời của Beethoven là cả một nghịch lý. Một đàng, cuộc sống cô đơn của ông vì điếc lác đã là một gánh nặng cho ông, một đàng đời sống tinh thần nội tâm của ông lại bùng phát thành một loại âm nhạc lừng danh có một không hai. Nhiều lần cái điếc của ông đã đưa ông tới bờ vực thẳm và ông đã nguyền rủa nó. Tuy nhiên ông đã chấp nhận. Có thể vì ngoài sức chịu đựng, nhưng vì thánh ý Chúa thì phải chịu vậy.
Chớ gì Lời Chúa nói với người điếc được lặp lại cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Ephphatha, hãy mở ra!” Chớ gì tai, mắt, lòng chúng ta mở rộng để nghe, để nhìn, để biết, để hiểu Tin Mừng Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô!
Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, không thể nghe người TN23-B148
Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần bị ngọng. Vì ngọng nên nói chẳng ai hiểu, và vì điếc nên cũng chẳng hiểu ai. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng, khiến cho bệnh nhân rất cô đơn, buồn khổ. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta mới thấy quý đôi tai và miệng lưỡi của mình, là một quà tặng lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta.
Thật phúc cho anh chàng khuyết tật gặp được Đức Giêsu, Ngài kéo riêng anh ra ngoài, sau vài cử chỉ lạ thường, Ngài liền phán: “Epphatha!” – Hãy mở ra! Tức thì tai và lưỡi anh ta được mở ra, anh ta nghe và nói được rõ ràng. Dân chúng kinh ngạc và thán phục nói rằng:“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”. Biến cố này đã ứng nghiệm lời Ngôn Sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7).
Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật ngọng và điếc, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin và lòng mến trong tâm hồn. Ta không bị câm, vẫn nói được, nhưng lại câm nín trước những bất công và bạo ngược. Nhiều khi ta cũng nói thao thao bất tuyệt, nhưng toàn những điều ta muốn nói chứ không phải điều người khác muốn nghe. Ta ước ao được người khác hiểu mình, nhưng lại không quan tâm tìm hiểu người khác. Ta thấy như có điều gì trói buộc mình, khiến ta ngần ngại, sợ sệt, tránh né… Cũng có khi ta bị ngọng hay câm vì đã có những thương tổn bởi sự châm chọc, khinh miệt, phủ nhận… khiến ta mặc cảm, mất tự tin và co cụm lại. Ngoài những thương tâm do sự vô tâm trong cách hành xử của người khác, thì ít nhiều còn do sự cọ xát quan điểm, lối sống, nhưng thực ra, hệ lụy của vấn đề hệ tại ở tâm hồn ta trước mọi tác động của tha nhân.
Nếu bệnh ngọng làm người khác không hiểu ta, thì bệnh điếc làm ta không hiểu người khác. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe người khác, hay chỉ nghe điều mình muốn nghe. Chúng ta bị điếc khi nghe người khác với thái độ bất ưng, coi thường, ác cảm. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng-sai, hư-thực, hay-dở… nên điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở nơi người nghe phải suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu : “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Chỉ nghe bằng tai thôi thì không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe, mà chỉ chọn chọn lựa những thông tin bổ ích và hữu dụng; không gây phương hại trong đối nhân xử thế, mà cũng không làm vẫn đục tâm hồn. Cha Mark Link nói: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
Có những đam mê, dục vọng và ghen ghét như những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta bị câm nín, ngọng nghịu. Có những kiêu căng, ích kỷ và thành kiến như bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc lác. Thế giới ngày càng thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những con người đơn độc, thành những hòn đảo mù khơi, không còn khả năng cho đi và lãnh nhận, để rồi tàn lụi dần trong sự hoang vu trống rỗng của đời mình.
Qua phép lạ này, Đức Giêsu không chỉ phá đổ bức tường câm điếc cho người bệnh, đem lại cho anh ta một đời sống bình thường, và có khả năng thiết lập tương giao với mọi người, mà còn cho ta thấy Ngài đã phá đổ bước tường giữa Do Thái và dân ngoại, giữa con người với con người, và đặc biệt là bức tường giữa con người với Thiên Chúa.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng muốn kéo riêng ta ra với Ngài và thì thầm lên tiếng: “Epphatha” – Hãy mở ra! Hãy đón nhận lời quyền năng và và tình thương của Ngài, để ta đừng câm điếc trước Thiên Chúa và tha nhân. Đón nhận ân huệ này, Chúa mời gọi ta cũng hãy có những thái độ sống tốt nhất để giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Điếc và ngọng thể chất ai cũng biết, điếc và ngọng tâm linh khó mà lường, đây là bệnh ít nhiều ai cũng vướng, khiến cuộc đời có những nỗi bi thương.
Trong cuộc sống có thể nhiều thứ điếc, điếc vì đã có định kiến với ai, nên khi nghe là tìm cách chê bai, khiến tương giao lại trở thành ngang trái.
Điếc vì không muốn sống hiệp thông, vì tự mình đã đóng kín cửa lòng, hoặc đã đánh mất niềm hy vọng, không nghe được tiếng Chúa bên trong.
Cuộc sống cũng có nhiều thứ ngọng, vì ích kỷ đã làm cho cứng đọng, vì tham lam và cố chấp tự kiêu, nên lời lẽ nói ra không ai hiểu.
Ngọng vì luôn lo âu và sợ sệt, sợ khinh chê và thua thiệt ở đời, sợ xui rủi và tai ương đưa tới, nên co ro mà nói chẳng nên lời.
Có thứ ngọng phát xuất từ lười biếng, lo an thân tránh mọi chuyện thế trần, không còn ý thức sống lòng nhân, làm cho tinh thần mình xa lạc.
Xin mở tai con để lắng nghe Lời Chúa, lời trần tình lời sự sống trường sinh, xin mở miệng con để chúc tụng tôn vinh, vì đời con là công trình của Chúa.
Xin cho con dám lắng nghe hết mọi điều, cho dù tha nhân nói bằng nhiều kiểu, con vẫn nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Amen.
Bức tranh, bức tượng, dù có sinh đẹp tới đâu cũng chẳng ai gọi là người, đó là sự thật. Người anh TN23-B149
Bức tranh, bức tượng, dù có sinh đẹp tới đâu cũng chẳng ai gọi là người, đó là sự thật. Người anh chị em chúng ta diện mạo không dễ nhìn, rầu rĩ buồn nhiều hơn là vui, phát âm không rõ ràng, cũng chẳng ai nói đó là bức tượng. Giá trị bức tranh đẹp hay sự sống động của bức tượng hết sức chuẩn, cũng chỉ là tác phẩm “vô hồn”. Nói khác đi, dù bạn là danh hoạ đại tài, là điêu khắc gia bậc nhất thiên hạ, cũng không thể cài đặt vào tác phẩm “độc nhất vô nhị” của mình thứ tình yêu biết nói biết cười. Ngôn ngữ, khối óc, con tim, là đặc ân ta đang có để diễn tả, để minh chứng, ta là “tác phẩm” đặc biệt hơn muôn loại muôn vật. Chúng ta chỉ thực sự đặc biệt, khi đã được mở trí lòng, nhận lãnh, chia sẻ, sống đúng sống đẹp trước các tương quan gia đình, xã hội.
Cũng nên đặt vấn đề, tại sao lại có chuyện đưa kẻ câm điếc đến gặp Đức Giêsu, mà không phải là mang đến thầy thuốc chuyên nghiệp, hay một thầy tư tế nào khác ? Có phải gia đình người thân của anh chàng câm điếc nhận ra Đức Giêsu là vị Thầy quyền năng, hay chỉ là việc làm tự nhiên: có bệnh vái tứ phương ? Bậc khôn ngoan luôn nhắc con cháu rằng: hiểu mình, hiểu bạn, sau đó hãy mở kho tàng của mình ra cho đời. Số thân nhân hôm đó, chúng ta hôm nay, đã tự biết mình, tự hiểu bạn, đã nghe, đã thấm nhuần đạo lý yêu thương được bao nhiêu, hay ai bảo sao ta làm vậy: Đức Giêsu hình như là thầy thuốc giỏi ? Vâng, Đức Giêsu không từ chối đám đông đến cùng Ngài, không dập tắt hy vọng của những ai muốn được chữa trị vết thương thể xác, tâm hồn. Mở trí, mở lòng, mở đường, dẫn mọi người đến ơn cứu độ sẽ mãi mãi là sứ mạng Đức Giêsu, Ngài sẽ thực hiện cho nhân loại qua các thời đại.
“Hãy mở ra”, chính là mệnh lệnh Đức Giêsu quyền năng nói với kẻ câm điếc hôm xưa, còn hôm nay thì sao ? Hiện tại ta có câm điếc, có khổ đau bệnh tật, có nhu cầu cần được cứu chữa không, tất nhiên hàng ngày chúng ta vẫn kêu cầu Đức Giêsu, Đấng là Thầy là Thiên Chúa cứu độ. Qua hình ảnh người mù xem thấy, và số đông nhân loại lòng đầy thán phục Đức Giêsu, đang khích lệ chúng ta: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”. Phải mở lòng, mở trí, người ta mới nghe được, nói được, làm được, đó là điều cần thiết cho bản thân, gia đình xã hội. Thực ra, Đức Giêsu dư biết thao thức của kẻ điếc là nghe được, ước muốn của người câm là nói được. Tình yêu của Đức Giêsu còn biết đến người nghèo đói, người đau khổ, cần được giải thoát, ai cũng mơ ước được mở lòng, mở trí, do đó, mỗi người đều phải nỗ lực, bày tỏ niềm tin của mình.
Cha ông chúng ta hết sức chí lý, khi để lại những kinh nghiệm thật quý báu: kẻ bần cùng nhất trên đời này, không phải là người không có một đồng xu dính túi, nhưng là kẻ không có nổi một ước mơ đẹp. Bạn và tôi chẳng nghèo, chẳng câm điếc, nhưng không có nghĩa là không cần tình yêu thương, không cần được thông suốt, ít ra cũng có một mơ ước: sống tốt, sống đẹp, trước những điều kiện mình đang sở hữu. Đức Giêsu mở miệng, mở tai kẻ câm điếc, chắc không phải vì anh ta giầu, không phải vì anh ta là ân nhân, đúng hơn anh là người đau khổ, là đối tượng của Thiên Chúa yêu thương. Đức Giêsu sẽ còn tiếp tục mở tâm trí, mở cõi lòng, hay mở mắt tâm hồn từng người trong chúng ta, và đưa dẫn chúng ta đến tận cùng của hạnh phúc, vì đó là sứ mạng của Ngài.
Niềm vui của người câm điếc năm xưa là nghe được, nói được, nhưng hạnh phúc của anh ta sẽ không dừng lại ở đó, mà phải thực hành điều tốt nhất, gọi là sống đức yêu thương. Đức Giêsu chắc chắn sẽ không hỏi, hỡi người anh em, ai đã mở tai, mở miệng lưỡi cho anh ? Có chăng, Ngài sẽ nói, anh đã nghe được, nói được, anh hãy làm điều cần thiết, hầu có hạnh phúc thật, đang chờ anh ở phía trước. Đức Giêsu không hỏi, trí lòng anh chị em đã được mở khi nào, nhưng Ngài sẽ nói anh chị em có tin Ta vẫn đồng hành, mở cánh cửa tình yêu, rồi sẽ chờ để mở cửa nước trời cho anh chị em không ? Đúng như câu thành ngữ: chữ tín là chìa khoá của thành công, hành động bác ái phải là kết quả ta đã nhận lãnh.
Các chuyên gia có đưa ra một nhận định khá thú vị: hầu hết các loài hoa có mầu trắng đều rất thơm, hoa có mầu sắc rực rỡ thường không thơm. Những ai nơi cuộc sống, vượt thắng được khó khăn phức tạp, lại là người dễ thực thành đức yêu thương nhiều hơn cả. Tình yêu thương của Đức Giêsu không dừng lại việc mở miệng lưỡi, mở tai cho người câm điếc, Ngài sẽ còn mở rộng con tim khối óc của từng người qua các thời đại, khi chúng ta tin và bày tỏ niềm tin của mình. Tất cả mọi người sinh ra trên đời đều được yêu thương, do chúng ta không phải là con ro-bốt vô cảm, nên tình yêu thương phải lớn lên theo thời gian. Mỗi chúng ta không phải là bức tranh, không phải là bức tượng vô tri vô giác. Người hạnh phúc không phải là người có mọi thứ tốt đẹp nhất, mà là người biết lắng nghe, biết nói chính xác, và biết hành động yêu thương đúng với ơn ban của Đấng đã mở trí mở lòng cho bạn. Amen.
Có câu chuyện vui kể rằng: Thưa bác sĩ, xin ông cứu chồng tôi ngay. Anh ấy bị điếc. – Lâu chưa? TN23-B150
Có câu chuyện vui kể rằng: Thưa bác sĩ, xin ông cứu chồng tôi ngay. Anh ấy bị điếc.
– Lâu chưa?
– Mới hôm nay thôi ạ.
– Sao bà biết đích xác thế?
– Hôm nay, khi tôi nói về tiền chợ, tiền điện, tiền nước, tiền ship hàng với xấp hóa đơn tiền, đáng lẽ mặt chồng tôi phải tái đi khiếp hãi, thế mà anh ấy vẫn tủm tỉm cười ngớ ngẩn trông tội tội là.Không nói gì, người như mất trí luôn rồi .. .
Ở đời, đôi khi có những người giỏi giả điếc để có thể trốn tránh giải quyết vấn đề, hay có thể là trốn tránh sự thật. Điều ấy ta có thể thấy trong những vùng phong tỏa, hay cách ly vì đại dịch rất nhiều lời kêu cứu vì đói, vì người thân đau bệnh, nhưng đầy tuyệt vọng. Họ kêu cầu giảm tiền điện, giảm tiền nước , giảm các loại cước phí phục vụ nhu cầu đời sống nhưng dường như cho tới nay nhưng tiếng kêu than ấy chưa thực sự đáp ứng được nguyện vọng của người nghèo khó, hay đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Và chắc chắn, còn rất nhiều những tiếng kêu vô vọng của những người bất hạnh nhưng chỉ nhận được sự phớt lờ giả điếc của tha nhân.
Xem ra người điếc thì đáng tội nghiệp, còn người giả điếc thì đáng khinh. Cái điếc nào cũng cần chữa trị. Điếc thể lý cần chữa trị để họ có thể hiểu tha nhân và hòa nhập với cộng đồng. Điếc tâm hồn lại càng cần được chữa trị bóc trần lớp băng đá của ích kỷ để giúp tâm hồn họ biết cảm thông và chạnh lòng thương xót anh em. Đây là loại giả điếc làm ngơ để mặc kệ những lời kêu cứu của người khổ đau đang kêu cầu họ.
Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Nhưng cái điếc đáng sợ vẫn là loại điếc tâm hồn biểu lộ ra cách sống giả điếc làm ngơ. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả anh chị em đang gặp khó khăn về giao tiếp của thể lý hay tâm hồn. Xin Chúa hãy chữa lành cho tất cả mọi người. Xin Chúa Giê-su hôm nay, cũng nói với từng người: “Ephata”. Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường ích kỷ để chia sẻ giúp đỡ những anh em đang gặp hoạn nạn,bất hạnh vì đại dịch.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.