Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 23-C Bài 101-150 Hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình theo Chúa
------------------------------- Phúc Âm: Lc 14, 25-33: "Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. "Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'. "Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------
- LÀM MÔN ĐỆ - TỪ BỎ - TÍNH TOÁN CHO KỸ - MUỐI NHẠT
Lc 14 ,25 – 33
Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem - sẽ chịu thương khó - chết thập giá - Phục Sinh vinh quang: TN 23-C101
Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem - sẽ chịu thương khó - chết thập giá - Phục Sinh vinh quang. Phục sinh vinh quang là đích đến cuối cùng.
Tự hạ - phục vụ - hy sinh đời nầy cho đời sau để được phúc khi nguời công chính sống lại.
Cụ thể hơn: đi theo Đức Giêsu - làm môn đệ. Học với Người. Người dạy: đi theo - làm môn đệ thì phải từ bỏ. Từ bỏ là điểm then chốt trong giáo huấn của Đức Giêsu. Nhưng xem ra khó hưởng ứng vì người ta muốn thêm chứ không muốn bớt, muốn nhiều hơn và nhiều hơn nữa, càng nhiều càng tốt. Từ bỏ cha mẹ, vợ con ( ít người đi tu), mạng sống (không hiểu nổi!). Đòi hỏi quá đáng! Ngày nay người ta không muốn nghe nói tới nữa là. Không ép buộc. Là mời gọi, là đề nghị yêu thương, là tình yêu. Là đòi hỏi tất yếu không thể khác được. Muốn thì được như lời hứa. Không muốn thì không được. Tùy. Tự do.
Chẳng những đòi hỏi từ bỏ mà còn vác thập giá nữa vì Đức Giêsu vác thập giá, chết thập giá rồi mới được sông lại vinh quang. Cái giá của sự sống lại vinh quang phải gồm đủ các hạng mục ấy không thiếu món nào được. Nói cách khác Người tự hạ, tự hủy. Phải đổi bằng tất cả những cái mình có.
Đức Giêsu bảo đừng vội. Suy nghĩ đi. Tính toán cho kỹ đi. Hãy lựa chọn cái tốt nhất.
Không bỏ thì có giữ được không? Bỏ cái không giữ được thì nên chứ. Không bỏ thì cũng mất nhưng mất trắng còn bỏ theo lời Đức Giêsu dạy thì được lại gấp bội thì lợi hơn nhưng vì không rỏ nên không tin. Có người rỏ nên tin và đã từ bỏ tất cả và đã được y như lời Đức Giêsu nhờ đọc và hiểu thông suốt Lời Đức Giêsu. Đó là Phanxico Assisi, là Phanxico Xavie, là Ignatio Loyola....Không hiểu Lời Chúa nên không tin. Học hiểu Lời Chúa thì sẽ tin và có phúc. Ít người chịu học hiểu Lời Chúa nên cũng ít người tin và cũng ít người được phúc.
Đi theo - làm môn đệ - có đạo - muốn lên "thiên đàng" không chỉ là rửa tội, ghi sổ, rước lễ, thêm sức, con sinh ra ở họ nầy, có trong sổ họ nầy, gốc ở họ nầy.... Ta không biết!
Phải trả giá. Mỗi cái đều có giá cả hẳn hoi. Muốn rẻ, muốn cho không thì chỉ những cái ế, của hôi. Còn làm thì toàn là bậy bạ mà muốn được thưởng lớn là nước trời, sự sống vĩnh cữu, hạnh phúc đời đời thì được sao? Bỏ cái nhỏ nhoi ít ỏi, tạm bợ để được cái lớn lao, vĩnh cữu không đáng sao? Hãy suy nghĩ, tính toán. Đừng để rồi hối không kịp! Hãy tính toán cho kỹ và hãy lựa chọn cho đúng. Sai một ly đi một dặm. Sai cả cây số, cả cuộc đời thì tới đâu. Đi lạc xa nuớc Thiên Chúa. Ngoài nước Thiên Chúa là nước Satan, đâu đâu cũng là nước Satan.
Hãy tính toán. Xây tháp phải tính toán sao cho hoàn thành tốt đẹp. Đánh giặc phải tính toán coi có thắng nổi không. Nếu không thì lo mà cầu hòa cho vẹn toàn. Không tính toán kỹ lưỡng thì không có cơ mai thành công. Làm thì phải chắc chắn có kết quả và phải kết quả tốt nhất. Không có tương đối thuyết trong vấn đề sinh tử nầy. Không có làm lại. Một lần quyết định cho mãi mãi. Khắc nghiệt đấy.
Không nói tất cả. Là nói môn đệ, tín hữu. Là muối thì phải mặn để làm gia vị cho món ăn được ngon. Tín hữu phải có "tin". Muối nhạt chỉ còn ném ra đường cho người ta dày đạp lên. Tín hữu mà không tin cũng vậy thôi. Môn đệ thì càng tệ hơn.
Không đến được Phục sinh vinh quang thì đến đâu? Không được nước Thiên Chúa thì được gì? Không được sống lại để sống đời đời thì được gì? Hãy tính toán.
Nhạc sĩ Linh mục Thành Tâm DCCT đã viết bài ca " Theo Chúa " tương đối khá gây ấn tượng đối: TN 23-C102
Nhạc sĩ Linh mục Thành Tâm DCCT đã viết bài ca " Theo Chúa " tương đối khá gây ấn tượng đối với những người đang theo Chúa . " Con nguyện theo Chúa suốt cuộc đời...", lời ca thánh thót nhưng mang đầy ý nghĩa, theo Chúa suốt cuộc đời là một cuộc hành trình thật vất vả, nhưng cũng đầy hạnh phúc. Theo Chúa là theo Ngài về Giêrusalem để chịu nạn, chịu chết. Thực tế, có nhiều người theo Chúa vì tò mò, vì tư lợi, vì danh vọng.
Thánh Luca viết :"Có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu. Người ngoảnh lại bảo họ rằng nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta ". Chúa Giêsu đã dùng động từ " bỏ " xem ra là nặng nề, nhưng thực chất Chúa muốn với mọi người đã chọn Chúa thì phải coi Chúa trên hết, đặt sinh mạng của mình trong bàn tay quan phòng của Chúa. Tình yêu cha mẹ, vơ con luôn là cái gì đó rất thiêng liêng, nhưng nó có thể cản bước con người dấn thân theo Chúa.Tình yêu đối với Thiên Chúa sẽ thanh lọc, thánh hóa mọi tình yêu nhân loại.
Thánh Maximalianô Kolbê đã chết thay cho một tử tội vì ông còn vơ, còn con. Thánh nhân đã coi Chúa hơn cả mạng sống mình và yêu thương đồng loại như yêu thương Chúa. Gương các thánh tử đạo Việt Nam đã cho chúng ta thấy nhiều vị thánh đã coi Chúa cao cả hơn vợ, con, hơn cha mẹ, hơn gia đình, một mực trung kiên với Chúa dẫu có hy sinh mạng sống. Theo Chúa là một cuộc hành trình đức tin thật cam go, có nhiều người đã bắt đầu nhưng đã bỏ cuộc.Sở dĩ họ bỏ cuộc vì không biết tính toán trước không biết định liệu trước, không có dự toán, dự trù. Theo Chúa,con người cũng phải khôn ngoan, tính toán như người làm thuê khôn ngoan, tỉnh thức chờ chủ về, nhưng người quản lý bất lương, như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn, mà lại mang dầu theo, như người khôn xây nhà trên đá vv...Chúa cũng cho chúng ta suy nghĩ về câu chuyện ông Vua sắp lâm chiến với ông Vua khác. Ông Vua đã ngồi lại, bàn bạc với nội các, với các nhà cầm quân, lượng định quân số, vũ khí, khả năng vv...Nếu thấy không thắng nổi thì phải sai người đi cầu hòa trước. Người theo Chúa cũng vậy khi đã bước theo Chúa thì không còn quay mặt lại, không còn tiếc nuối gì nữa.
Theo Chúa là phải " vác Thập Giá mà theo Chúa " bởi vì theo Chúa phải chấp nhận hy sinh, từ bỏ, chấp nhận những điều kiện mà Chúa đã vạch ra.
Hyacinthe Vulliez đã viết :" Liệu rằng Chúa Giêsu không xứng đáng với triều đại Thiên Chúa ? Người đã nói :" Ai cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không đáng được vào Vương Quốc của Thiên Chúa ?". Và đám đông đã đi theo Người, Người quay về phía họ.Nhưng đây không phải là điểm để giải thích rằng Người đang đạt đến thành công.Người cũng không cho mình cái cảm giác ngất ngây trong vinh quang, cũng không cho phép mình đạt đến sự thỏa mãn cách chính đáng, như các ngôn sứ được lắng nghe và ngưỡng mộ.Người quay lại đằng sau không phải để rời bỏ cán cày, nhưng để thấy rõ những kẻ theo Người, ai có quyết định vững vàng để bước theo Người. Như những người hướng dẫn viên leo núi, họ có ánh nhìn một cách thận trọng bằng cách quay lại đằng sau để xác minh xem mọi thứ liệu có ổn không và lắng nghe thử xem có những tiếng thở hổn hển cách mệt nhọc, hay có những bước chân nặng nề và kéo lê. Đỉnh núi ? Chúa Giêsu dẫn đám đông đến với Chúa Cha, đến Nước Trời.Một bước đi trong niềm hân hoan.Người dặn dò, khuyên nhủ và hướng dẫn chúng ta, nhưng Người cũng đòi hỏi sự cộng tác từ chúng ta, chúng ta không" hà tiện " những cố gắng của mình, cũng không quá bận tâm đến những thứ không cần thiết. Nhưng hãy bước những bước đi thật chậm để tiến lên ".
Vâng, theo Chúa là phải từ bỏ, phải hy sinh, phải vượt thắng. Theo Chúa là phải phó thác, chuyên cần và sẵn sàng tiến bước, làm theo ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng luôn bước theo con đường của Chúa và bền đỗ trong ơn gọi mà Chúa đã yêu thương gọi mời chúng con.
Chúng ta sống trong thời đại tạm gọi gọi là phí của bởi vì các hãng sản xuất chủ trương làm sản: TN 23-C103
Chúng ta sống trong thời đại tạm gọi gọi là phí của bởi vì các hãng sản xuất chủ trương làm sản phẩm có giới hạn thời gian. Sau thời gian ấn định máy móc tự nó hư hỏng. Mua được bộ phận thay thế đã khó, tiền công sửa tốn gần bằng mua máy mới vì thế thảy nó vào thùng rác là khôn hơn cả. Những quốc gia tiên tiến trở thành những thùng rác lớn. Người ta sống trong bãi rác, trên bãi rác vì nhà nào cũng có thùng rác lớn nhỏ trong nhà, ngoài ngõ.
Có lẽ xài xong rồi dục xuất phát từ những nhà thời trang. Mùa đông bắt đầu người ta chuẩn bị quảng cáo bán đồ mùa hè và cứ thế nối tiếp nhau hết mùa này sang mùa khác. Cạnh tranh thương mại, sản phẩm rẻ, hàng hoá trưng bày bắt mắt là một cám dỗ lớn với người có khả năng mua sắm. Cám dỗ lớn hơn nữa là cách chưng diện trên người, dấu chỉ của người theo kịp thời đại. Người ta nhìn nhau, định giá trị con người bằng những thứ chưng diện trên người. Hàng hoá mới có mặt trên thị trường bao giờ cũng đắt đỏ. Người có khả năng quàng nó lên người trước thiên hạ ngấm ngầm hãnh diện. Họ là những người đáng thương đói khát lời khen, tâng bốc của người khác. Dấu chỉ của một nội tâm yếu kém.
Mua sắm trở thành nhu cầu của một vài giới và vì mua nhiều nên cần phải thải bớt dành chỗ cho đồ mới mua. Đồ bỏ không phải là hư hay dở mà là lỗi thời nên cần loại bỏ. Chạy theo thời trang trở thành lối sống mới và lối sống đó ảnh hưởng nhiều đến đời sống tâm linh. Canh tân nhà cửa bằng cách dục bỏ đồ cũ trong nhà và thay bằng những thứ mới. Nhiều nhà ngày nay coi treo hình tượng ảnh Chúa và các thánh là lỗi thời. Gia đình không có dấu chỉ đức tin hay biểu tượng đức tin quanh nhà. Bên ngoài như thế đời sống nội tâm cũng không kém. Từ bỏ nhà thờ, từ bỏ kinh sáng tối và thay vào đó là những chương trình vui nhộn khác. Nghèo khổ, đói khát tâm linh nên chạy theo những xu nịnh, lời khen, nịnh hót bên ngoài mà muốn có những điều đó thì cần phải khoe ra để người biết mà ca tụng.
Có người cho rằng đức tin Kitô giáo là sản phẩm của khối óc. Mà là sản phẩm nên có lúc hết hạn, hết thời nên cần phải bỏ. Đức tin Kitô giáo được coi là hàng thời trang. Thời trang nào cũng có thời, thích hợp cho một số nên bỏ khi không còn cảm thấy thích hợp. Đức tin Kitô giáo trở thành thứ yếu khi người ta quá chú trọng bề ngoài, coi thường, lơ là nhu cầu tâm linh. Đức tin Kitô giáo là sản phẩm của khối óc. Đây không phải là óc của nhân loại mà là óc của Con Thiên Chúa giáng trần. Đó là sản phẩm của tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu vị tha, không vị lợi có giá trị bất biến, có giá trị đời đời. Đức tin Kitô giáo không phải là thời trang mà là nhu cầu của tâm tinh, giúp sống an vui, hạnh phúc. Tâm hồn an vui tìm bình an nội tâm mà không quá chú trọng đến vật chất bề ngoài, lời khen chê, bình phẩm.
Đức Kitô nhắc nhở chúng ta cần loại bỏ, vất vào thùng rác những gì nguy hại cho đức tin. Không dính bén đến những gì cản trở mến Chúa, yêu người. Cần loại bỏ ngay người hay những vật mình yêu mến nếu chúng ngăn cản ta đến với Chúa. Điều căn bản cần giữ là tình yêu Chúa thể hiện qua đức ái. Hãy mặc lấy tâm tình yêu thương nơi Thiên Chúa và làm cho tình yêu đó sống động mãnh liệt trong cuộc sống qua. Chân lí thực và lợi ích tích cực đức tin mang lại giúp ta sống an vui, tự tại.
Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức: TN 23-C104
Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức Giêsu thấy người ta theo mình rất đông. Có những người theo Ngài chỉ vì tính hiếu tri, tò mò; lại có những người theo vì mong được chứng kiến hay trực tiếp lãnh nhận được một vài phép lạ như Chúa đã làm; lại có những người theo vì hy vọng Đức Giêsu thiết lập một vương quốc oai hùng theo kiểu trần gian; tuy nhiên, cũng có những người theo Chúa vì muốn được ơn cứu độ. Ngài biết rõ họ. Vì thế, như một mẫu số chung, Đức Giêsu đưa ra một điều kiện tiên quyết cho hết mọi người, hầu giúp họ trắc nghiệm lại thái độ theo mình của đám đông: "Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được"(Lc 14, 26-27).
Vậy điều kiện đó của Đức Giêsu có hợp lý không?
1. Đi theo và làm môn đệ
Đi theo ai là làm môn đệ cho người ấy. Đi theo Chúa tức là tôn nhận Chúa làm chủ của mình. Đi theo Chúa cũng là lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; sống cuộc sống như Ngài đã sống, và cùng chung số phận như chính Ngài đã chịu.
Đây là đặc tính của người môn đệ, đồng thời cũng là điều kiện cần để theo Chúa. Thấy được tính hệ trọng của sự việc, Đức Giêsu đã quay lại và bảo họ, hay đúng hơn là nhắc cho họ về thái độ cần có khi đi theo mình. Tinh thần đó chính là sự dứt khoát, tiên quyết để thoát ra khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống hầu xứng đáng trở thành môn đệ.
Thật thế, hành trình đi theo Chúa của người môn đệ được ví như người leo núi, hay đi qua cửa hẹp. Nếu muốn leo lên núi được, cũng như qua được cửa hẹp, thì người lữ hành phải thanh thoát và nhẹ nhàng, phải vứt bỏ lại tất cả những thứ cồng kềnh làm cản bước chân và hành trình của mình. Cũng vậy, theo Chúa thì cũng phải có thái độ như thế, tức là phải từ bỏ mọi sự để chỉ nhìn thẳng vào Chúa và nhắm tới đích mà tiến bước: "Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được".
Đây có phải là đòi hỏi thái quá không? Và có đi ngược lại với sự thảo hiếu với cha mẹ và nghĩa vụ đối với gia đình không?
Thưa không! Bởi vì Chúa không đòi hỏi người môn đệ phải bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em... một cách vô lý, nhưng ý Ngài muốn nói rằng, nếu vì điều đó làm cho chúng ta không thể theo Chúa được, hay làm cho chúng ta mất ơn cứu độ thì hãy từ bỏ, bởi lẽ mọi sự sẽ qua đi, nhưng có Chúa là có tất cả, có Chúa là có cả một gia tài, thấy được rồi thì phải tìm mọi cách mà giữ lấy (x. Mt 13,44-52).
Như vậy, con người không chỉ có cuộc sống hiện tại, mà còn có cuộc sống mai sau, mà cuộc sống đời đời mới là cứu cánh tối hậu của mình. Khi hiểu như thế, thì chữ "dứt bỏ" đồng nghĩa với chữ "nghét" ở đây phải hiểu theo nghĩa "yêu thương", tức là cần có một sự lựa chọn ưu tiên, lựa chọn cái tốt hơn. Điều này được sáng tỏ nhờ Lời Chúa phán: "...ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi" (x. Mc 12:28-34). Khi hiểu như thế, ta thấy tình cảm dành cho cha mẹ, vợ con và anh chị em...là những người ta phải yêu thương, nhưng họ cũng là con của Chúa, cũng là thụ tạo như chúng ta. Vậy thì khi phải lựa chọn, ta phải chọn Đấng đã tác thành và trao ban họ cho ta. Có một thái độ như thế, ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa được. Đây là một sự lựa chọn mang tính thứ bậc: Chúa là trên hết, mọi sự là thứ yếu, nên cần phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên để làm môn đệ của Chúa.
Khi có thái độ như thế, người môn đệ biết yêu Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ mình là từ bỏ ý riêng và thay vào đó là thánh ý Thiên Chúa, mà ý Thiên Chúa chính là yêu Ngài trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình. Như vậy, khi từ bỏ mọi sự để theo Chúa, ta lại được Chúa và mọi người nhờ vào tình yêu mà ta dành cho Chúa, thật đúng như lời Chúa nói: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này ..."
2. Theo Chúa là vác thập giá hàng ngày mà theo
Tuy nhiên, theo Chúa là từ bỏ mọi sự không thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải vác thập giá mà theo thì mới trọn vẹn ý nghĩa là người môn đệ của Đức Giêsu.
Thập giá trong đời sống hằng ngày của người môn đệ được ví như cây gậy của người leo núi, như chiếc đèn của kẻ đi đêm, như biển chỉ dẫn của khách lộ hành. Không có gậy, người leo núi sẽ mệt và đôi khi không có thể làm điểm tựa khi đã mỏi gối chùn chân. Không có đèn đi trong đêm, người ta dễ dàng sa xuống hố hoặc vấp ngã. Không có biển chỉ đường, người ta dễ lạc lối. Như thế, thập giá hằng ngày chính là những hy sinh thử thách giúp con người trưởng thành và sống có ý nghĩa hơn. Quả vậy, khi suy tư về vấn đề này, Đức cố Hồng Y Thuận, vị Tôi Tớ Chúa đã nói: "thánh mà không vượt qua thử thách là thánh giả"; "thánh lâm thời".
Ơn cứu độ của chúng ta có được là nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Như vậy, vác thập giá mà theo Chúa tức là đón nhận tất cả những hy sinh, gian khổ vì Chúa và phần rỗi của mình cũng như anh chị em: "Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được" (Lc 14,27).
Điều kiện để theo Chúa thật khó khăn và cam go như thế, nên Đức Giêsu muốn kẻ đi theo mình phải lựa sức, phải cẩn trọng. Vì vậy, Ngài kể cho họ nghe hai dụ ngôn của người xây tháp và ông vua đi giao chiến. Nếu muốn xây tháp, mà không biết chọn chỗ nào cho phù hợp, mục đích của việc xây tháp là gì, và cần bao nhiêu thợ, cát, đá, sắt, gạch...hay khi giao chiến mà không biết mình có bao nhiêu quân, địch bao nhiêu, những thuận lợi, khó khăn của ta và địch, nói chung là không biết tính toán trước thì thật là một kẻ dại dột, và như thế, thất bại là lẽ đương nhiên. Cũng vậy, lựa chọn theo Chúa là một chuyện khó, nhưng sống sự lựa chọn đó, tức là làm chứng cho Chúa còn khó hơn gấp bội. Đức Giêsu biết được điều đó, nên một mặt Chúa đòi hỏi phải dứt khoát, từ bỏ mọi sự để theo thì mới xứng đáng, nhưng đàng khác, Ngài cũng cảnh báo chúng ta phải suy tính cho cẩn thận, kẻo rồi dở đi mắc núi, dở lại mắc sông: "Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta".
3. Sống lời Chúa hôm nay
Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả..., yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Nói cách khác, tình yêu với Thiên Chúa bao trùm mọi tình cảm khác của con người, và như ngọn hải đăng soi sáng cho mọi người nhìn thấy nhau thế nào, thì khi yêu Chúa, ta cũng dễ nhận ra nhau là anh chị em của ta. Nói cách khác, khi yêu Chúa, ta sẽ thăng hoa được mọi thứ tình cảm tự nhiên, và như thế, ta lại được lại mọi người như là cha, mẹ và anh chị em của ta.
Chính vì thế, mà khi cần, tức là những tình cảm tự nhiên làm cho ta bị chậm trễ hay cản bước ta đến với Chúa và đi theo Chúa thì cần phải loại bỏ hết tất cả để đi theo Chúa và thi hành điều Chúa truyền. Đây chính là định luật ưu tiên trong đời sống của người Ki tô hữu.
Lạy Chúa Giê su, Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Xin cho chúng con nhận ra chân lý này, để sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Xin ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn đủ sức mạnh, hầu vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa cho nên. Amen.
Kinh nghiệm bị từ chối ai cũng có. Ai cũng có lần bị từ chối và cũng có lần từ chối người khác: TN 23-C105
Kinh nghiệm bị từ chối ai cũng có. Ai cũng có lần bị từ chối và cũng có lần từ chối người khác. Ta vừa là nạn nhân vừa là người gây tổn thương cho người khác. Dù là gì chăng nữa thì cũng có lí do biện hộ cho hành động của mình. Khi bị chối từ như thế nhẹ nhàng thì bỏ qua rồi quên bẵng trong chốt lát; nặng thì để nó đeo sau lưng thời gian ngắn và nặng nhất là ôm ấp ủ nó trong lòng. Sung sướng gì khi phải ôm đá tảng trong lòng, ngày đêm sầu khổ. Điều rõ ràng từ chối hay bị từ chối là một thực tế trong cuộc sống, không ai tránh khỏi. Đau buồn do bị từ chối gây nên là điều không thể tránh. Có khác chăng là người đau buồn nhiều và dai dẳng hơn trong khi lại có người đau buồn ít và cũng để cho cho qua mau hơn. Người để cho đau buồn đến và đi nhanh là người có tinh thần cởi mở và khiêm nhường. Chính cởi mở và khiêm nhường giúp học biết đau thương vì bị từ chối có giá trị tích cực riêng của nó. Khi nhận biết giá trị tích cực của từ chối là biết đón nhận điều lợi ích cho bản thân. Người đó dùng kinh nghiệm trên để xét mình, tự tìm hiểu và sát hạch chính mình từ đó rút ra kinh nghiệm riêng biệt, làm giầu gia tài kinh nghiệm thực tế, sống động cho tương lai. Trái lại, không chấp nhận chỉ trích, từ chối là tự làm cho vấn đề trầm trọng hơn và từ những suy nghĩ trong đầu làm cho vấn đề đáng chán ghét trở nên kinh tởm hơn.
Kinh nghiệm của những kẻ mong trả đũa cho thấy họ đau khổ, mất bình an. Phúc âm thuật lại Đức Kitô sai các sứ giả của Ngài đi loan báo tin Ngài đến làng của người Samaritanô. Khi nghe tin này dân làng không muốn đón tiếp các sứ giả tỏ thái độ bực dọc vì bị từ chối. Để trả đũa cho sự việc các ông xin cho lửa trời xuống thiêu rụi, giết chất dân trong thành. Trước thái độ hằn học trả đũa của các sứ giả Đức Kitô đã nghiêm cấm các ông không được hành động lỗ mãng đồng thời Thầy trò đi sang làng khác Lk 9,54
Điều may mắn người được sai đi không phải là các môn đệ mà là những sứ giả. Những vị này đã tin theo Đức Kitô, nghe Ngài giảng dậy, mong trở thành môn đệ chân chính. Tin và theo Đức Kitô chưa đủ biến các ông thành người môn đệ chân chính bởi vì tin và theo chưa biến đổi tâm hồn và trái tim các ông. Người môn đệ chân chính là người cần có tâm tình của Đức Kitô, cần có trái tim của Đức Kitô. Khi nào có được trái tim sẵn sàng tha thứ, yêu thương mới là môn đệ thực thụ, ngoài ra thì còn phải học rất nhiều.
Để giúp các ông tránh khỏi nơi thị phi Thầy trò lánh sang làng khác. Bước khỏi nơi thị phi thì hoàn cảnh và vật cảnh chung quanh thay đổi dẫn đến thay đổi tâm tình. Ra khỏi chốn thị phi chỉ là cách giải quyết tức thời. Để giải quyết vấn đề tận gốc rễ Đức Kitô giáo huấn các ông nếu người ta từ chối đón nhận thì đi nơi khác, không cần phải tức tối, bực dọc. Thực tế cuộc đời là thế luôn có người từ chối lại cũng luôn có người đón nhận. Tìm chưa đúng nơi, đúng chỗ, đúng người thì không cần bực dọc.
Chính Đức Kitô cũng có nhiều kinh nghiệm bị từ chối. Phúc âm hôm nay cho thấy cả ba người muốn đi theo Ngài nhưng cả ba đều có những lí do riêng và điều kiện kèm theo. Đức Kitô không chấp nhận điều kiện kèm theo cho việc phục vụ Tin Mừng. Bao lâu ngưòi ta chưa coi việc rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn tất cả mọi sự thì việc đi theo vẫn là nửa vời. Để được tâm tình ưu tiên rao giảng Tin Mừng việc đầu tiên là cần bỏ chính mình, í riêng mình và lối sống quen thuộc, thay vào đó là tâm tình cởi mở, khiêm nhường, dấn thân, tha thứ và học nơi Đức Kitô. Không cần học nơi ai khác.
Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là "đi theo" và "làm môn: TN 23-C106
Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là "đi theo" và "làm môn đệ". Thánh Luca đã sử dụng hai cụm từ này rất khéo léo: "Khi ấy có rất đông người 'đi theo' Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ... thì không thể 'làm môn đệ' tôi. Ai không vác thập giá mình mà 'đi theo' tôi thì không thể 'làm môn đệ' tôi được".
Quả vậy, có rất đông người "đi theo" Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là "môn đệ" của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết "từ bỏ" và "vác thập giá" thì mới thực sự "là môn đệ" của Chúa Giêsu. Nói cách khác, "người đi theo" chưa hẳn là "người môn đệ". Cũng như người-nói "Lạy Chúa, lạy Chúa" chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa. Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu. Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, đó là từ bỏ và vác thập giá (x. Sợi Chỉ Đỏ, Chúa Nhật 23 Thường Niên C).
"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành mà Chúa Giêsu nói với "đám đông những người" đang đi theo Ngài. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, chứ không nói theo kiểu úp mở, hay như kiểu tiếp thị, quảng cáo để chiêu dụ khách hàng. Ngài nói thẳng rằng theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa.
Giả như Chúa Giêsu bảo rằng ai muốn đi theo Ngài thì lên taxi, lên xe hơi, hay lên máy bay mà đi, có lẽ sẽ có khối người đi theo. Đàng này Chúa lại bảo một chuyện ngược đời: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Gọi là ngược đời vì ở đời có ai thích "vô sản", có ai thích "khổ đau" bao giờ. Chấp nhận từ bỏ là chấp nhận "vô sản" một cách nào đó, chấp nhận thập giá cũng có nghĩa là chấp nhận "khổ đau" không hơn không kém. Bởi đó, từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ, càng không muốn vác thập giá. Có những người thờ thập giá nhưng không vác thập giá; vác thập giá của mình, chứ chưa nói đến chuyện vác thập giá của người khác. Có những người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu, nhưng không quý chuộng thập giá mình. Tất cả những người đó không xứng là môn đệ của Chúa Giêsu.
Một điểm nữa rất rõ trong lời mời gọi của Chúa Giêsu là "Hãy vác thập giá hằng ngày". Vác thập giá không phải chỉ là một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, hoặc chỉ vác thập giá của hôm qua hay hôm nay, mà là hằng ngày, mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Ngày nào cũng có thập giá, không nặng thì nhẹ, như lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó".
John Newton đã nói rằng: "Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !".
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con cảm thấy chán nản buông xuôi vì những thử thách quá nặng nề. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, nhất là cho chúng con có đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để chúng con có thể vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa đến cùng. Amen.
------------------------------------
TN 23-C107: HÃY TIẾN ĐẾN LÃNH NHẬN LƯƠNG THỰC KHÔN NGOAN
Lc 14, 25-33
Lm. Jude Siciliano, OP
Cách đây ít năm, trong lúc đang tiếp chuyện, tôi bỗng chưng hửng trước lời bình của một bạn trẻ: TN 23-C107
Cách đây ít năm, trong lúc đang tiếp chuyện, tôi bỗng chưng hửng trước lời bình của một bạn trẻ mới 25 tuổi đầu. Cậu ta tự giới thiệu về mình như một "thanh niên kiểu mẫu của lứa tuổi 25", đã có bằng cử nhân trong tay và một công việc tươm tất. Dù xét về phía cá nhân, cậu ta chẳng gặp phải vấn đề gì gọi là khủng hoảng, ấy thế mà cậu lại đi bàn chuyện dàn xếp những nỗi khuất tất của cuộc sống nhân sinh, đại thể như về công ăn việc làm, về những mối tương giao với bậc sinh thành, bằng hữu, cũng như với cô bạn đầu gối tay ấp của cậu. Tắt một lời, cậu nói: "Con hãy còn trẻ, thế nhưng lại hay bi quan yếm thế, ước chi con có thể chọn lựa lại từ lúc đầu thai. Đời rõ là bể khổ!".
Một người trẻ mới sống có ngần ấy năm trong đời mà đã thốt lên như vậy đấy! Hẳn cậu đã từng phạm sai lầm và ra như những điều đó đã dạy khôn cậu. Cậu đang lớn lên cùng với sự khôn ngoan về cuộc đời, tức là những điều mà tác giả Sách Khôn Ngoan gọi là, "những gì thuộc hạ giới." Lèo lái cuộc đời thật khó, vì đôi khi chẳng biết hướng nào là đúng. Một trong những vấn đề của kiếp nhân sinh, là làm thế nào để chúng ta có thể học hiểu và bước đi trong đường lối Chúa?
Trăm năm trước Đức Ki-tô giáng sinh, tác giả sách Khôn Ngoan đã ngộ ra điều này: "Nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Loài người chúng ta vốn yếu nhược, tầm nhìn có hạn và các chọn lựa của chúng ta lại bị chi phối bởi những áp lực từ bên trong cũng như bên ngoài, giữa ý thức và vô thức.
Theo Kinh Thánh, sách Khôn Ngoan luôn được gán cho Sa-lô-môn. Ông đã sống trước khi sách ra đời những 10 thế kỷ, ấy thế nhưng sách Khôn ngoan vẫn kín múc và phô bày tinh thần cũng như mức độ ảnh hưởng của ông. Trong khi dâng lời cầu nguyện, Sa-lô-môn đã được Thiên Chúa hứa ban bất cứ điều gì ông muốn. Ông đã chọn sự khôn ngoan để nâng đỡ ông trong việc thực hiện những quyết định trong đời sống thực tiễn mỗi ngày. ("Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?" [1V 3,9]). Nếu người bạn trẻ của tôi có thể kết luận rằng, "Đời là bể khổ!" và nhận ra việc thực hiện những quyết định đúng đắn là điều hệ trọng giữa lúc còn thanh xuân như vậy, thì anh chị em cứ thử nghĩ xem, trong vai trò là một lãnh đạo được Thiên Chúa tấn phong, Sa-lô-môn cần đến sự khôn ngoan biết dường nào, sự khôn ngoan mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể trao ban.
Tác giả sách Khôn Ngoan đã sống giữa một thế giới thấm đẫm văn hóa Hy-lạp, một xã hội được các triết gia và luân lý gia Hy-lạp hướng đạo. Người Hy-lạp yêu mến việc truy tầm sự khôn ngoan, họ nổi danh nhờ các triết gia, hệ thống thư viện, phô diễn nghệ thuật và tri thức khoa học của họ... Họ đã tin rằng, họ có thể đạt được sự khôn ngoan bằng những nỗ lực tự thân. Tuy nhiên tác giả sách Khôn Ngoan và Đức Giê-su (đặc biệt trong Tin Mừng hôm nay) đã có ý định nói đến một kiểu khôn ngoan hoàn toàn khác biệt. Sự khôn ngoan ấy không phải do con người nỗ lực mà thành, nhưng hoàn toàn là do ân ban của Thiên Chúa. ("Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh?").
Chúng ta sống trong một thế giới bị dẫn dắt bởi vô vàn các hình thái khôn ngoan thế tục đang thách thức sự khôn ngoan của sách thánh. Đấy chính là phông nền dành cho các bài đọc hôm nay. Xã hội của chúng ta không hứng thú với chuyện ấp ủ, tìm kiếm đường lối của Thiên Chúa như bài đọc một cho biết, hoặc cũng chẳng sẵn sàng dâng hiến ("từ bỏ mọi sự") theo như những gì Đức Giê-su đã giải thích cặn kẽ cho những ai mong ước trở thành môn đệ của Người như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta vẫn đang lữ hành cùng với Đức Giê-su và những bạn hữu của Người hệt như tình trạng mà Lu-ca đã kể: "Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su." Ở thời điểm đó, có thể có rất đông dân chúng đang hiện diện với Người, thế nhưng khi Đức Giê-su càng tiến gần đến Giê-ru-sa-lem, và khi những nỗ lực của Người xem ra không còn dính bén với các toan tính kiếm tìm danh vọng của họ, thì càng có nhiều người bỏ đi. Tuy vậy, Đức Giê-su vẫn chờ đợi những ai đi theo người đến tận giây phút cuối cùng, tức là khi họ chứng kiến được điều sẽ xảy ra cho Người và cảm nghiệm được điều họ sẽ được mời gọi. Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người vẫn tiếp tục tỏ lộ những đòi hỏi dành cho những ai bước theo Người. Người muốn chúng ta từ bỏ những suy nghĩ đặt nền trên sự khôn ngoan của thế gian. Người muốn chúng ta được sống và hạnh phúc, biết đón nhận chính Người cũng như đường lối của Người là con đường đưa đến Thiên Chúa, và đưa đến những sự thật về chính chúng ta.
Người càng tiến gần đến Giê-ru-sa-lem, thì càng có nhiều người thuộc số đám đông đi theo sẽ tản hàng. Người vẫn khuyên nhủ họ: đừng đợi đến lúc sau này rồi mới chịu biến đổi theo những đòi hỏi thiết yếu của người môn đệ; khôn ngoan là chọn lựa ngay bây giờ, chọn lựa không dựa trên sự khôn ngoan phù phiếm theo thói thế gian, nhưng là trên sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban tặng. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa là một hồng ân. Chúng ta có thể đón nhận và sống bằng sự khôn ấy không? Và sống bằng sự khôn ngoan ấy là sống như thế nào? Đức Giê-su trả lời cho chúng ta qua các việc làm và giáo huấn của Người.
Rõ ràng, Đức Giê-su không tiến cử cho chúng ta một đạo giáo tiện nghi thoải mái. Người cho chúng ta hay, cuộc đời của chúng ta được đóng ấn bằng thập giá. Điều ấy được bày tỏ qua cung cách Người đã sống cùng những gì Người chọn lựa.
Hai dụ ngôn Người gởi đến cho chúng ta hôm nay gợi ý rằng, đừng nên bước vào mối tương giao môn đệ một cách thất thường. Chúng ta không gia nhập một câu lạc bộ xã hội hoặc một tôn giáo lúc nào cũng nhắm đến chuyện dành thế thượng phong! Cũng chẳng phải tự dưng trở thành môn đệ của Đức Giê-su chỉ vì chúng ta đã được sinh ra trong một gia đình Ki-tô giáo. Suốt cuộc đời, Đức Giê-su đã cân nhắc, quyết định mỗi ngày về chuyện làm thế nào để đối phó với lề thói thế gian và các tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo thời bấy giờ. Người đòi chúng ta phải rập khuôn theo Người. Người cho chúng ta biết, hãy suy nghĩ cho đến cùng trước khi tận hiến cho Người. Rồi trong khi thực hiện, hãy trao hiến tất cả sức lực.
Tuy nhiên, trong kiếp sống vắn vỏi này, ai trong chúng ta là người có thể khẳng định mình đã sống hết mình hết sức với ơn khôn ngoan ấy? Đại đa số chúng ta vẫn đang trở nên người môn đệ qua tiến trình từng ngày; từng chút từng chút một, chúng ta cân nhắc các chọn lựa và hành động của mình thật cẩn thận. Tôi phải làm gì trong vị thế là người môn đệ của Đức Giê-su? Khi tôi hoang mang không biết làm thế nào giải gỡ được vấn nạn ấy, thì ấy là lúc tôi thực hiện điều Sa-lô-môn đã làm, là cầu xin sự khôn ngoan. Trên thực tế, nói đúng ra chúng ta phải cầu xin sự khôn ngoan mỗi ngày; cuộc sống luôn phức tạp và nào có ai biết được thách thức và chọn lựa mà mình sẽ phải đối diện trong ngày hôm nay. Điều làm nên cuộc sống không phải là điều tôi nắm trong tay hoặc chỗ đứng của tôi trong gia đình và xã hội, nhưng là Đức Giê-su. Chính vì thế, mọi thứ phải được đặt để dưới chân Người.
Trong thánh lễ hôm nay, cùng với bánh và rượu, chúng ta có thể đặt lên bàn thờ những ước nguyện của chúng ta, để cuộc đời của mỗi người được Đức Giê-su biến đổi. Cuộc đời của chúng ta cũng y như sự dang dở của bánh và rượu. Thế nhưng, vị chủ tế sẽ nhân danh chúng ta rồi đặt tay trên của lễ và trên cả chúng ta nữa để nguyện rằng: "xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này để biến thành Mình và Máu Đức Ki-tô." Đấy là điều mà chúng ta cầu xin cho chính chúng ta và cho cộng đoàn đức tin, tức là được trở nên như Đức Ki-tô và sẵn sàng có thể vác lấy thập giá mà bước theo Người.
Bài đọc hai hôm nay cho chúng ta một cái nhìn rất riêng về cuộc đời của thánh Phao-lô. Đây là Chúa Nhật duy nhất chúng ta được nghe trích đoạn từ thư Phi-lê-môn (thư Phi-lê-mon chỉ xuất hiện một lần theo lịch phụng vụ lời Chúa trong thánh lễ). Điều ấy như thể đang không trèo lên gác nhà để lục tìm chiếc rương cũ có lưu lại bức thư mà ông bà gửi lại cho con cháu. Tuy nhiên, trong các bức thư như thế, tình cảm và mối quan tâm mà ông bà để lại cho đám tử tôn thật tỏ tường. Bức thư vắn tắt của thánh Phao-lô gởi cho Phi-lê-mon rất giống với kiểu bức thư ấy. Thánh Phao-lô gọi Ô-nê-xi-mô là "đứa con" của ngài với giọng văn như có ý nói, "lão già" (như ngài tự nhận) đã yêu mến Ô-nê-xi-mô đến nhường nào.
Các thư của thánh Phao-lô thường được gởi đến các cộng đoàn, phần lớn là các giáo hội ngài đã giúp thiết lập. Thư gởi Phi-lê-mon là bức thư cá nhân duy nhất (và do chính tay ngài viết) mà chúng ta có được. Ngài đã thảo thư này trong tù quãng năm 25 C.N. Phi-lê-môn vốn là một người đạo theo ở Cô-lô-xê và Ô-nê-xi-mô là nô lệ của ông ta, người đã lấy trộm vài thứ có giá của gia đình chủ rồi bỏ trốn. Chắc hẳn Ô-nê-xi-mô đã gặp thánh Phao-lô tại Ê-phê-xô rồi trở thành môn đệ Đức Ki-tô và ngày càng trở nên thân thiết với thánh nhân, người đã xem ông như "ruột thịt". Ra như Ô-nê-xi-mô đã trở nên rất hữu dụng cho thánh Phao-lô trong khi ngài bị giam cầm, tuy nhiên ngài đã gởi trả anh cho Phi-lê-môn.
Mặc dù thánh Phao-lô không đưa ra một giáo huấn nào nhằm chống lại chế độ nô lệ, thế nhưng ngài đã khẩn nài Phi-lê-môn nhận lại Ô-nê-xi-mô, "không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa." Thánh Phao-lô tha thiết xin Phi-lê-môn bỏ đi mối tương quan chủ tớ vốn được chấp nhận trong văn hóa thời đó, để nhận lại Ô-nê-xi-mô trong một tương giao mới mẻ và triệt để hơn, tức là như anh em trong Đức Ki-tô. Điều Phi-lê-môn được yêu cầu phải làm cũng là điều Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta hôm nay, là "dứt bỏ" mọi sự sở hữu để bước theo Người, đặt Người trên mọi sự sở hữu.
Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Đức Ki-tô? Ngày hôm nay chúng ta không còn cùng nhau cử hành việc thờ phượng giống như hình thức thời các môn đệ tiên khởi, bởi lẽ chúng ta chạy hết chặng đường ấy và đã tiến ra bục nhận huy chương vàng. Thay vào đó, giờ đây chúng ta đang ở trong tình trạng đợi ngày hoàn tất, nghĩa là chấp nhận những điều liên quan đến việc chưa thành toàn trong quá trình trở nên người môn đệ. Chúng ta cần Đấng là chính sự Khôn Ngoan như thần lương cho cuộc lữ hành. Chúng ta cũng biết rất rõ, đời là bể khổ như anh bạn trẻ của tôi đã nói. Thế nhưng, chúng ta hãy tiến đến để lãnh nhận lương thực khôn ngoan hầu chúng ta có thể sáng suốt chọn lựa trong khi tiếp tục hành trình hồi hương về Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
"Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi... Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27-33).
Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra trên đây là cho hết mọi người chứ không riêng gì một ai. Tin:TN 23-C108
Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra trên đây là cho hết mọi người chứ không riêng gì một ai. Tin Mừng Luca ghi rõ là khi ấy có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu và Người đã nói những lời ấy với tất cảm đám đông. Kitô hữu chúng ta có lẽ quá quen với hình ảnh thập giá và cả sự từ bỏ nhờ các cử hành Phụng Vụ, đặc biệt trong mùa Chay thánh. Phải chăng vì quen quá nên hóa nhàm? Và hệ quả kéo theo là không nắm được, đúng hơn là không hiểu đúng, chưa hiểu hết nội hàm của thập giá cũng như sự từ bỏ.
Nếu hiểu được thập giá và sự từ bỏ đúng như sự tự hủy và như thập giá của Chúa Kitô, đó là chịu án bất công, là chẳng còn hình tượng người ta nữa, là nên như người bị phỉ nhổ, như người bị Thiên Chúa đoán phạt... thì có lẽ khó có ai dám trả lời cách hiên ngang là con muốn theo Chúa, con muốn làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tiên liệu nhiều khó khăn mà những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người phải chịu, nên đã căn dặn rằng cần khôn ngoan suy xét cẩn thận. Đừng để chuyện "xôi hỏng, bỏng tay" xảy ra vì thiếu khôn ngoan cân nhắc sự tình cũng như định lượng sức mình. Đừng mạo hiểm khởi công xây tháp mà không hoàn thành nổi để rồi bị người ta chê cười! Đừng mạo hiểm đem quân lính đánh nước người khi không đủ sức để rồi mang lấy thất bại thảm hại! Ai? Ai trong chúng ta, từ người hèn kém tội lỗi đến người tài cao, đức đầy dám nói mình đủ sức làm môn đệ của Chúa Kitô? Ai có thể tự nhận mình đủ đức, đủ tài, đủ khả năng để đi theo Chúa Kitô trên con đường thập giá?
Vậy thử hỏi phải làm sao đây? Bản thân kẻ hèn này xin tự thú nhận mình thật bất tài và bất xứng. Với sức riêng mình, tôi không thể nào làm môn đệ Chúa Kitô được. Với khả năng và cả đạo hạnh riêng mình, tôi không thể nào vác được thập giá mình, cũng không thể nào từ bỏ hết những gì mình có để theo Chúa Kitô. Thế thì phải làm sao đây? Không lẽ rút lui hoặc giơ tay xin hàng?
Với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể được. Ngay đêm Tiệc Ly, Chúa Kitô đã mở cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh bế tắc này. Chính Người đã tự nguyện rủ bỏ vị thế là Thầy và là Chúa để cúi xuống với từng người trong các môn đệ (x.Ga 13). "Thầy không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu" (Ga 15,15).
Hãy biết khôn ngoan làm bạn của Chúa Giêsu. Đỉnh cao của mạc khải là ở đây. Thiên Chúa không muốn con người làm tôi tớ hay làm môn đệ mà là bạn hữu của Người. Cái hình ảnh Giavê Thiên Chúa ngày ngày đi dạo với tổ tiên Ađam- Evà gợi mở thực tại tốt đẹp này. Có được người bạn là Giêsu Kitô thì chuyện thập giá mình sẽ không còn là vấn đề. Vì chính người bạn Giêsu luôn sẵn sàng nâng đỡ, đồng hành và có khi vác thay thập giá cho ta. Bài thơ "vết chân trên cát" của thi hào Tagor là một cảm nghiệm về một chân lý trong tình bạn. Con ơi, những lúc bão cát nổi lên, con chỉ còn thấy một dấu chân, đó là dấu chân của Ta, vì những lúc ấy là lúc Ta đang cõng con trên vai Ta.
Khi đã là bạn hữu thì không có gì là khoảng cách, là bí mật. "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết bởi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết." (Ga15,15). Khi ta biết mở cõi lòng, biết bày tỏ mọi bí ẩn tâm can cho Giêsu, từ chuyện tốt đến chuyện xấu, từ những việc lành đã làm đến những sự dữ xấu xa đã phạm thì ta đang trao dâng hết những gì ta có, cho người bạn Giêsu. Và đây chính là lúc ta thực sự bỏ hết những gì mình có (Avoir - To have). Chính khi ta mở tâm trí đón nhận chân lý Chúa Kitô tỏ bày và sống theo chân lý ấy thì chúng ta đã thực sự từ bỏ những gì chúng ta là (Être - To be).
Ý định của Chúa nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi Thần khí thánh" (Kn 9,17). Nếu Chúa Kitô không tự nguyện cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, nếu Người không minh nhiên tỏ bày rằng Người không còn gọi các môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu, chắc hẳn con đường về trời, con đường theo chân Chúa Kitô quả là vượt quá tầm tay, vượt quá khả năng loài người chúng ta.
Vấn đề đặt ra là khi nào và làm sao chúng ta có được sự chắc chắn, dù tương đối, rằng chúng ta đang là bạn hữu của Chúa Giêsu? Một trong những cách thế hữu hiệu để làm bạn Chúa Giêsu đó là hãy làm như Người đã làm (x.Ga 13,15). Đó là nhận nhau như người anh em thân thuộc, như là bằng hữu nghĩa thiết. Đây là nội dung chính những dòng thư của Thánh Phaolô gửi đến ông Philêmon. Ngài xin Philêmon đón nhận lại Ônêsimô, không phải như một người nô lệ mà như một người anh em rất thân mến, dù cho Ônêsimô đáng phải chết vì là nô lệ mà đã bỏ trốn khỏi nhà của chủ. (Bài đọc 2). Đón nhận nhau như là anh em, như là bằng hữu thì không chỉ loại bỏ những hành vi đàn áp, bất công, quan liêu kẻ cả... mà còn phải thực tâm chia sẻ những gì mình đã có được, đã nghe biết, đã hưởng nhận...cho nhau.
Giả như đang còn đó những sự việc, những sự thật đáng nói, cần chia sẻ mà các vị bề trên còn giữ kín với người bề dưới thì người bề dưới vẫn chỉ mãi là những nô lệ hay tôi tớ mà thôi. Một thực tế khó chối cãi đó là khi sự giữ kẻ, sự giữ bí mật xuất hiện trong đời sống vợ chồng thì người giữ kẻ, giữ bí mật cách nào đó không còn xem người phối ngẫu là bạn trăm năm, là bạn đời, chưa kể có trường hợp chỉ xem nhau như người tôi tớ.
Chưa nhận nhau làm bạn trong cách sống, trong cung cách đối xử, thì chắc chắn chúng ta chưa thật sự là bằng hữu của Chúa Kitô. Và cũng khá chắc chắn rằng quá trình vác thập giá mình, quá trình từ bỏ chính mình của chúng ta đang trong cảnh tình "đơn thương, độc mã". Độc mã, đơn thương để chiếm được Nước Trời, để có được hạnh phúc thật quả là một sự liều lĩnh thiếu khôn ngoan và không lượng sức.
Biết sống, biết hành xử với nhau như là bạn hữu thì chúng ta luôn là bạn hữu của Chúa Kitô. Có người bạn Giêsu đồng hành thì chuyện vác thập giá, chuyện từ bỏ chính mình cho dù vẫn là khó nhưng luôn là có thể được. "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Có người bạn có thể làm được mọi sự luôn ở bên ta, đồng hành với ta thì không có gì là không thể.
Đôi bạn trẻ đã đính hôn xem ra khá hạnh phúc chỉ một nổi vóc dáng bên ngoài như đôi đũa lệch. Chàng ta "ngắn tầm" hơn cô nàng gần 20 phân (20 cm). Sau buổi học giáo lý hôn nhân, được sự đồng ý của cô nàng, anh chàng bèn trao nụ hôn đầu đời cách say đắm trong cái thế phải đứng trên viên đá chẽ của công trình đang xây dựng, để cho vừa tầm cao. Sau đó anh chị bên nhau đi về. Cô nàng thoáng thấy người yêu dáng đi hơi nặng nhọc mà chưa hiểu nguyên do. Có lẽ vì trời tối. Đi được một quảng anh chàng thỏ thẻ xin lặp lại "việc yêu" như ban nảy. Gật đầu chấp thuận thì cô nàng chợt thấy người yêu dừng lại, đặt viên đã lớn đã giấu sau lưng, mang theo nảy giờ, rồi đứng lên trên bày tỏ tình yêu. Được yêu nhưng xem chừng quá vất vả. Không biết kiên trì được bao lâu. Bỗng khi tay trong tay, anh chàng nghe cô nàng thầm thỉ: "Anh ơi, đừng cố vất vả quá! Em cúi xuống một chút là ổn thôi".
Làm bạn của Giêsu thì hơn làm môn đệ của Người. Một kiểu khôn ngoan mà rất nhiều vị thánh như Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Têrêxa Hài Đồng Giêsu...đã chọn lựa.
Nếu xét theo nghĩa từ chương, chúng ta đã không ai tuân giữ lời dạy, "Kẻ nào đến với Ta mà : TN 23-C109
Nếu xét theo nghĩa từ chương, chúng ta đã không ai tuân giữ lời dạy, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (Lc. 14:26). Thêm vào đó, Chúa Giêsu rõ ràng tuyên bố, "Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (27) trong khi nơi khác Ngài lại nhắc nhở, "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không?" (Mt. 6:25-27) (Bản dịch 1994). Thử hỏi, bất cứ ai nghe được những lời này họ sẽ nghĩ thế nào? Đâu là chân lý Chúa muốn dẫn dắt chúng ta tới và vì lý do chi những câu nói đối nghịch nhau như nước với lửa đã hai ngàn năm lẻ vẫn bền vững ngự trị nơi Phúc Âm.
Thử để ý nhận định nơi tâm hồn của mình đã bao nhiêu lần nghe công bố lời Phúc Âm, cố gắng chấp nhận những lời giảng giải coi bộ hợp lý, hợp tình, nhưng vô tình chợt nghĩ lại, chắc chắn cũng có câu Phúc Âm nào đó mang nghĩa chống nghịch hẳn lại. Có lần nói chuyện với một người bạn trên điện thoại, ông ta nhắc đến câu truyện Phúc Âm về mười nàng trinh nữ, năm cô được gọi là khờ dại và năm cô khôn ngoan. Ông ta nói rằng, nếu năm cô khờ dại đứng lỳ đó đi theo đoàn rước dâu nào ai dám ngăn cấm vì dẫu sao thì các cô cũng đã được chọn. Tôi chợt nghĩ, ông bạn này nhìn sự việc theo quan điểm dân chủ tây phương vào thời điểm này, bất chấp hình thức, lề thói ngày xưa của dân Do Thái. Dẫu không giải thích, tôi vẫn nghĩ rằng năm cô phù dâu được gọi là khờ dại chỉ vì nghe bảo sao làm vậy. Các cô bị từ chối không được tham dự tiệc cưới, nói cách khác, không được chọn làm cung tần mỹ nữ nơi hoàng cung chỉ vì thiếu suy nghĩ, không tự đặt vấn đề tại sao mình làm vậy, tại sao mình chấp nhận như vậy, và tại sao mình tin như vậy.
Đồng ý rằng, được sinh sống nơi thế kỷ 21, chúng ta thông minh, biết nhiều sự việc hơn những người sống đồng thời với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, tại sao chúng ta vẫn còn mang tâm trạng Lời Chúa tự đối nghịch; câu nọ phản ngược lại câu kia. Thử hỏi, cứ theo như truyền thống tốt lành, "Vâng lời trọng hơn của lễ," và cứ nghiêm cẩn thực thi đúng đắn lời dạy, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta," có lẽ ngay từ khi còn nhỏ, chúng ta đã bị bố mẹ tống cổ ra khỏi nhà. Đàng khác, nếu thực thi một cách đơn sơ chất phác như thế, sao có thể thực hành, "Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta;" Đồng thời, sao tâm hồn có thể bay bổng nơi cuộc sống vô tư, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa hầu thể nghiệm lời dạy, "Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể," hãy cứ thảnh thơi, an hưởng cuộc đời như chim trời tự do tự túc nơi khoảng không gian vô hạn định.
Mở rộng lòng nhận xét về chính mình, chúng ta đành đấm ngực nhận chân rằng sở dĩ cảm thấy bối rối bởi sự nghịch lý theo nghĩa từ chương được viết nơi Phúc Âm chỉ vì chúng ta đã không suy nghĩ; chúng ta đã tưởng rằng cứ ngoan ngoãn tuân theo lề luật hoặc lặp lại những gì được dạy bảo là quá đủ, quá tốt lành trước mặt Thiên Chúa. Thực tâm nhận xét, thiếu suy nghĩ hoặc không suy nghĩ Phúc Âm, chúng ta đã tự minh chứng mình khinh chê Lời Chúa. Tất nhiên, chẳng có tội nào lớn lao hơn tội này nơi cơ hội làm người được may mắn biết đến Lời Chúa, được nghe Lời Ngài, và có thừa thông minh để nghiệm chứng cũng như thể nghiệm.
Thử hỏi tự đáy lòng mỗi người; những gì được coi là thân thiết đối với chúng ta hơn cha mẹ, vợ chồng, hoặc con cái, tài sản? Chúng ta đã bao nhiêu lần nghe hoặc lặp lại câu Phúc Âm, "Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó," nhưng thử tự đặt vấn đề, chúng ta sẽ thấy chưa chắc; bởi thực tâm nhận định, lòng dạ của chúng ta đang để tâm để trí theo đuổi ước muốn ước mơ nào đó. Nhiều người cho rằng vợ chồng, con cái là những gì thân thiết nhất đối với họ. Vậy thử hỏi họ có thể nhớ được đã bao nhiêu lần những rắc rối, phiền hà, giận dỗi xảy đến nơi gia đình họ. Lý do gì phát sinh những sự thể phiền hà này? Xin thưa, ông cho ông là đúng; bà bảo bà là mẫu mực; thế là cái đĩa bay, cái nồi bể khiến cơm không lành, canh không ngọt, nhưng vẫn thân thiết bởi sau những cơn mưa thì trời lại sáng.
Nếu để tâm suy nghĩ, chúng ta thấy Lời Chúa nói đến trường hợp nào đó đã xảy ra nơi tâm hồn của mình. Lời Chúa nói về chính mình, nói về sự thể diễn tiến nơi tâm tư mà chúng ta đã không kiểm chứng nên chưa gặp. Những diễn tiến tâm hồn này được gọi hành trình đức tin, hành trình nghiệm chứng để thực sự nhận biết, thực sự cảm nhận sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.
Bởi nơi cuộc sống, con người đã quá quen với lối suy nghĩ thế nhân nên Phúc Âm dùng những sự việc, sự thể thế tục mong dẫn dắt tâm trí chúng ta xét lại tâm hồn của mình hầu đạt tới cảm nhận và từ đó thăng tiến nơi hành trình nghiệm chứng đức tin. Như vậy, Phúc Âm đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, hoặc phương thức để chúng ta áp dụng nghiệm xét tâm hồn chính mình. Đây là phần nào ý nghĩa lời dạy của Chúa Giêsu nơi Phúc Âm, "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống."
Chẳng hạn chúng ta tự hỏi; tại sao câu nói, "Ai có tai thì nghe" được Phúc Âm lặp đi lặp lại những tám lần, Nơi Matthêu ba lần (Mt. 11:15; 13:9, 43), Marcô ba lần (4:9, 23; 7:6), và ở Luca hai lần (8:8; 14:35). Trước hết, chúng ta quá quen với lối nói "tai nghe, mắt thấy," và đương nhiên chấp nhận như thế không gì nghi ngờ, khúc mắc. Nhưng chúng ta đã thử bao giờ tự hỏi tai mình có nghe và mắt mình có nhìn hay không? Ai là người sinh ra không có tai ngoại trừ trường hợp hiếm hoi đặc biệt, thế sao lại phải nhắc tới vấn đề có tai thì nghe. Như vậy, lý do gì câu nói được ghi lại.
Khi đã tự đặt vấn đề tại sao lại nói có tai thì nghe và để ý phân định, chúng ta nhận ra điều hiển nhiên mà đã bao lâu nay không để ý. Đó là đôi tai không thể nghe; cặp mắt chẳng thể nhìn. Sự thể hiển nhiên là đã biết bao người từ xưa tới nay qua đi, khi linh hồn đã rời khỏi xác thì cho dù người nào đó có đôi mắt đẹp và sáng đến mấy thì chúng chẳng còn có thể nhìn thấy gì; đồng thời dẫu cho tai họ thính đến mấy khi còn sống thì cũng chẳng còn có thể nghe gì nữa. Sự chết chứng minh rõ ràng trước mắt chúng ta; tai không thể nghe tự nó, và mắt chẳng thể nhìn tự nó, nhưng chúng chỉ là phương tiện cho linh hồn con người hoạt động, cho linh hồn liên hệ với thế giới chung quanh. Chính cái hồn nhìn, cái hồn nghe; đôi tai, cặp mắt chỉ là phương tiện.
Câu nói quá đơn giản nơi Phúc Âm mà chúng ta thường chấp nhận, nay để tâm nghĩ lại, quả thật không đơn giản chút nào. Xét thế, câu "Ai có tai thì nghe" nói về thực trạng tâm hồn, thực trạng linh hồn nơi mỗi con người. Ai để tâm trí nghiệm chứng, suy tư Phúc Âm thì mới có thể cảm nghiệm được Lời Chúa nói về sự thể nào đã và đang xảy đến nơi mình. Phúc Âm dùng sự việc, sự thể diễn tiến nơi cuộc đời để nói về thực thể diễn tiến nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và giúp chúng ta nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Nhận ra phương pháp, cách thức Phúc Âm áp dụng để dẫn dắt chúng ta qua câu "Ai có tai thì nghe," Lời Chúa qua bài Phúc Âm tuần này, chủ nhật 23 C, nhắc nhở, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (Lc. 14:26), và "Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (27). Phúc Âm dùng sự thể thân thiết nhất đối với một người theo con mắt thế tục để khuyến khích chúng ta đặt lại vấn đề nơi tâm hồn. Cũng một suy luận tương tự, câu hỏi được nêu lên, vậy điều gì, sự gì thực sự được coi là thân thiết nhất đối với lòng dạ, tâm hồn một người? Xin thưa chính là ước muốn, niềm mơ, khát vọng, ý định, quan niệm.
Nhưng làm sao chứng minh? Chúng ta thử thẳng thắn nhìn lại diễn tiến cuộc sống. Nếu nói rằng mối tương quan nhân sinh giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái trong gia đình là thân thiết nhất thế tại sao những cãi lẩy, giận hờn, đôi khi đĩa bay, chén bay, và nồi cũng tan luôn đã không chỉ một lần mà những bao nhiêu lần xảy đến trong liên hệ thân thiết của chúng ta? Đặt vấn đề như thế, chúng ta thấy những rắc rối trong gia đình được phát sinh từ bất đồng ý kiến, đối nghịch quan niệm.
Biết được sự thể thân thiết nhất đối với một người là ý nghĩ, quan niệm, ước muốn, ước mơ, chúng thân thiết với một người hơn tình nghĩa vợ chồng, hơn liên hệ cha con, bố mẹ. Thực tại nơi lòng mỗi người chứng minh như thế. Đem áp dụng vào lời dạy của Chúa GiêSu, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (Lc. 14:26), chúng ta nhận thực được Lời Chúa muốn nói với chúng ta điều gì. Như vậy, Lời Chúa dạy chúng ta, khi suy nghiệm Lời Chúa, lời Phúc Âm, nếu chúng ta còn bị lệ thuộc, còn để ý niệm, quan điểm, ước mơ thế tục ảnh hưởng, làm mẫu mực tất nhiên không thể nào nghiệm được Lời Chúa nói gì. Chúng ta cần dứt khoát; mọi ý nghĩ được dẹp sang một bên, lòng mở rộng đón nhận Lời Chúa để đặt vấn đề về mọi mặt sao cho có thể thực sự áp dụng nơi mọi trường hợp nơi cuộc đời bằng cách hồi tâm xét lại Lời Chúa muốn nói về sự thể nào đã xảy ra trong cuộc đời chúng ta nơi quá khứ. Chúng ta có thể chấp nhận Lời Chúa trong trường hợp nào, và chuyện gì đã xảy đến được Lời Chúa nhắc nhở như thế.
Tóm lại, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta nên chấp nhận cuộc đời và mở rộng tâm hồn nghiệm chứng đồng thời áp dụng trong cuộc sống theo sự hướng dẫn của Phúc âm.
Nguyện xin Thánh Thần của Chúa Giêsu luôn soi sáng cho chúng ta biết nghiệm suy lời Ngài, và xin Chúa chúc lành nơi mọi người.
Mỗi giây phút trong cuộc sống, có thể nói được là một cuộc vượt qua, liên tục những cuộc vượt: TN 23-C110
Mỗi giây phút trong cuộc sống, có thể nói được là một cuộc vượt qua, liên tục những cuộc vượt qua, nối dài thành một cuộc vượt qua to lớn nhất đối với mỗi con người đó là vượt từ sự sống hữu hạn đến cuộc sống vô biên, vĩnh cửu. Vì, được sinh ra trên trần gian, là để vượt qua cái trần gian nầy mà trở về với nguồn cội duy nhất là Thiên Chúa. Nhưng để vượt qua được những lớp hàng rào cản dày đặc của những giá trị trần thế, và nhất là của chính cõi lòng mơ màng ảo tưởng của ta thì không dễ chút nào, bởi vì những giá trị ấy luôn có sức cuốn hút lạ kỳ đến nỗi ta kéo ta chùng xuống, giam hãm ta trong cõi hồng trần, làm cho ta nặng nề không thể cất cánh bay lên được, không thể vượt qua được.
Từ bỏ tiêu cực
Có thể nói một cách tiêu cực rằng : Dù cho mọi thụ tạo trên trần gian có giá trị đến đâu, có xinh đẹp và đầy quyến rũ đến đâu, có ý nghĩa đến đâu, kể cả thân xác mình...nếu ta cố bám víu lấy nó, nếu ta không buông bỏ nó, thì nó cũng đã bỏ ta trước. Không ai giữ được cho mình cái mình đang có cho đến ngàn thu, bởi vì tất cả những gì mình đang có đều có thời hạn của nó: thời hạn của sắc đẹp, thời hạn của sức khỏe, thời hạn của kinh tế tài sản vật chất và kể cả thời hạn của một hạnh phúc gia đình trần gian. Có thể mỗi người đếu đã có một trải nghiệm về sự phủ phàng của thời gian, của tình yêu, của tiền bạc và của tất cả những gì có thể gọi được là "không gì cả". Vâng khái niệm hư không, và sự phũ phàng, bội ước của của cải vật chất thế gian trong cựu ước và của một vài tôn giáo mới chỉ dừng lại ở một mức tiêu cực: hãy buông bỏ tất cả, vì ta không buông bỏ nó, nó cũng rời xa ta; tất cả chỉ là phù vân.
Từ bỏ tích cực
Trong trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa chúng ta lên một tầm cao mới về tính tích cực của sự từ bỏ: Không đợi các giá trị trần thế bỏ ta, nhưng chính chúng ta phải từ bỏ những giá trị trần thế ấy trước khi sự phũ phàng xảy đến. Từ bỏ Cha Mẹ, vợ con...vả cả mạng sống mình, không phải vì không có giá trị, không phải vì Cha Mẹ, vợ con và mạng sống mình là xác đất vật hèn hay hư nát, nhưng vì để dành trọn chính mình cho Thiên Chúa, và cho sứ vụ Ngài giao: Cứu rỗi mình và cứu rỗi nhân loại.... Tính tích cực của Tin Mừng cũng cho thấy tính triệt để dành cho người theo Chúa Kitô- một Thiên Chúa Ngôi Hai đã từ bỏ Ngôi Vị của mình là Thiên Chúa, để mặc lấy một con người thật, nhưng là người mẫu công chính của Thiên Chúa Cha trong Nước Thiên Chúa. Tôi không muốn hiểu là phải bỏ cha bỏ mẹ theo kiểu hiểu của lương dân Việt Nam đối với giáo lý công giáo, nhưng tôi muốn hiểu là nếu cha mẹ anh chị và các giá trị trần thế làm vật cản tôi đến với Chúa và đến với ơn cứu rỗi thì chắc chắn là tôi phải triệt để tuân hành luật từ bỏ của Chúa. Cũng vậy, luật từ bỏ đòi hỏi tôi luôn đứng trước một sự chọn lựa giữa Thiên Chúa, với trần gian; giữa ơn cứu rỗi với sự chết ngàn thu, giữa cái thiện và cái ác, giữa điều có lợi cho cái vĩnh cửu và cái vô bổ vô ích...
Từ bỏ là tỉnh thức trước nguy cơ li tán
Một sự lựa chọn sáng suốt không dễ dàng tí nào, nếu tôi không trọn vẹn lòng tin cậy mến dành cho Thiên Chúa dưới ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần.Tôi phải tỉnh táo luôn luôn trước nguy cơ li tán giữa tôi và Thiên Chúa, vì các giá trị trần gian luôn lôi kéo lòng tin cậy mến của tôi về phía chúng nó. Một cha xứ miền quê nọ than phiền rằng: có điện thật có hại, vì khi có điện, ai nấy lo sắm cho mình một cái ti vi, mà chương trình ti vi chiều nào cũng có những cuốn phim tình cảm dài nhiều tập hay đáo để được phát vào ngay giờ lễ. Thế là nhà thờ trở nên vắng người tham dự thánh lễ, may ra còn giữ được lễ ngày Chúa nhật. Có một lần ngồi với anh em phan sinh trước sân nhà xứ, nhìn lên mái nhà, tôi thấy một mạng nhện thật lớn, có cả năm bảy con con ve sầu nằm chết khô trong trung tâm mạng nhện. Tôi nghĩ đến tôi. Có thể tôi cũng đang là một trong những con ve sầu ấy. Con nhện trần gian cuốn tôi vào và giam tôi chết khô trong đó. Nó đã giăng bẫy tôi, bắt đầu bằng những sợi tơ rất mong manh, nhưng khi đã vướng vào chỉ cần một sợi tơ khó thấy ấy, là tôi có thể lạc vào cả một huyệt động không đường thoát thân. Tình cảnh con ve sầu tôi thật bi đát. Như vậy, từ bỏ triệt để phải được bắt đầu bằng việc cắt đứt ngay những sợi tơ ban sơ, nhỏ nhất, mong manh nhất, khó thấy nhất, dễ lầm tưởng nhất. Đôi khi tôi tự mâu thuẫn, khi có những quyết định thật hoành tráng, quyết định yêu mến và dâng hiến trọn vẹn cho Chúa chẳng hạn, mà không cắt đứt nỗi một sợi tơ đam mê. Tôi đang nói dối mà tôi vẫn không hề hay biết.
Từ bỏ là vác thập giá
Thập giá trở thành Thánh giá cứu rỗi tôi, chỉ khi nào tôi biết thu hồi niềm tin cậy mến mà tôi đã đặt trọn vẹn vào những giá trị trần thế, để đặt lại đúng chỗ niềm tin cậy mến của tôi vào Chúa Giêsu Kitô cứu thế. Tôi không ảo tưởng là tôi có thể vác thập giá của Chúa, hay thập giá của anh em, khi tôi chưa vác nổi thập giá của tôi, chính là sự chiến đấu và chiến thắng các cuốn hút của những giá trị trần thế. Chúa Giêsu biết điều răn thứ nhất của Thiên Chúa đã dạy: "Kính mến Chúa trên hết mọi sự" là một thách đố lớn cho con người của mọi thời đại, nên, thiết nghĩ, Thập giá mà Chúa muốn người theo Chúa phải vác trên vai, chính là sự chấp nhận buông bỏ cách dứt khoát, cách triệt để những cái không-là-gì-cả so với sự sống vĩnh cửu, sự sống và sự sống giàu sang dồi dào trong Thiên Chúa, với Thiên Chúa. Chấp nhận buông bỏ tất cả không lưu luyến, không tiếc nuối, để dành cho Thiên Chúa, đúng là một thập giá thật nặng nề cho con người. Nhưng khi đã chấp nhận buông bỏ được tất cả, thì thập giá ấy lại là niềm vinh dự và là phần thưởng cao quí cho ta: Sống cuộc sống vĩnh cửu ngay khi còn trong tình trạng hữu hạn. Buông bỏ, vác thập giá, ngay hôm nay chính là vượt qua trước cái tình trạng hư vong để tiến vào cung lòng Thiên Chúa hằng sống, hằng hữu, để được hằng sống và hằng hữu với Ngài.
Lời Chúa Giêsu dạy cho chúng ta hôm nay, tưởng như nghe chói tai, kỳ cục, và bất thường với đời sống gia đình xã hội, nhưng thật ra là lời mặc khải tình yêu tha thiết của Thiên Chúa Cha, muốn quy tụ tất cả vào trong tình yêu của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con chỉ tôn thờ và kính mến một mình Chúa. Xin thu hồi lại niềm tin cậy mến mà chúng con đã đặt lung tung vào những giá trị phàm trần hữu hạn. Xin cho chúng con chu toàn điều răn thứ nhất quan trọng : " Kính mến Chúa trên hết mọi sự". Amen.
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe hôm nay khởi đầu với lời mời gọi thật dứt khoát của Chúa Giêsu: TN 23-C111
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe hôm nay khởi đầu với lời mời gọi thật dứt khoát của Chúa Giêsu đối với những ai muốn làm môn đệ của Ngài: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta". Sau đó, Chúa Giêsu lại tiếp tục nêu lên hai ví dụ cho thấy rằng ai sẵn sàng từ bỏ tất cả để làm môn đệ của Ngài, thì không phải là người khờ dại, nhưng đó là người khôn ngoan nhất.
Đòi hỏi của Chúa Giêsu mới nghe qua tưởng chừng như vô lý, nhưng thật ra theo người khôn ngoan theo Tin mừng không phải là người không chiếm hữu, nhưng còn phải là người chiếm hữu thật nhiều nữa. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa người khôn ngoan theo Tin mừng và khôn ngoan theo thế gian là điều họ chiếm hữu. Người khôn ngoan theo Tin mừng thì chiếm hữu điều vĩnh viễn, không ai có thể lấy mất được. Còn người khôn ngoan theo thế gian, thì tìm kiếm những điều trước mắt nay còn mai mất.
KHÔN NGOAN CỦA CON NGƯỜI
Nói đến một người khôn ngoan, chúng ta thường có suy nghĩ: đó là người giỏi tính toán, luôn thành công trong cuộc sống. Thậm chí, nhiều khi chúng ta còn đồng hóa người khôn ngoan với người giàu có, học giỏi, có địa vị trong xã hội. Nói chung, những phân định, phán đoán về sự khôn ngoan của chúng ta thường bị chi phối trước hết bởi những điều mà hiện tại tôi và quý OBACE đang đụng chạm, đang nhìn thấy bằng các giác quan bên ngoài của mình. Chúng ta nghĩ rằng ai sỡ hữu được nhiều trong cuộc sống hiện tại thì đó là người khôn ngoan. Thế nhưng đó lại là những điều không chắc chắn, như lời tác giả sách Khôn ngoan trong bài đọc một: "Những dự định của chúng ta đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề". Chúng ta thường bị vẻ hào nhoáng bên ngoài che lấp, nên không nhìn thấy được giá trị thật của từng sự vật. Cha ông chúng ta vẫn từng nói: "Họa hổ, họa bì, nan họa cốt. Tri nhân, tri diện bất tri tâm". Và cho dù có đạt được những giá trị hiện tại, nhưng nếu những giá trị này không phục vụ cho một giá trị cao hơn, vĩnh cửu hơn, thì điều đó cũng như hoa sớm nở chiều tàn. Nó vẫn làm cho tâm hồn của chúng ta trống rỗng, cô đơn.
Tới đây tôi nhớ có câu chuyện kể về một người học trò nọ ở một miền quê nọ. Anh ta rất cố gắng học hành không kể ngày đêm để mong sao đạt được công danh, làm rạng rỡ gia phong. Một hôm, anh ta nghe nói trên một ngọn núi kia có một vị thầy rất thông thái và khôn ngoan, anh ta liền tìm đến để xin thụ giáo. Đến nơi, sau khi đã nghe anh ta trình bày mục đích của mình, vị thầy liền nói: "Anh đi đường xa đã mệt, anh hãy ăn miếng trầu ngồi nghỉ một lát cho khỏe rồi chúng ta sẽ bàn tiếp".
Sau đó, khi đã học hỏi với thầy xong, anh xuống núi lên kinh ứng thí và quả nhiên khoa đó anh đỗ Trạng Nguyên. Thi đỗ xong, anh được nhà vua gả cho cô Công Chúa. Đúng là Song Hỉ. Sau khi lập gia đình, anh ta trở thành Phò mã và được bổ nhiệm về phụ trách ở một phủ giàu có. Lúc đầu, anh ta cũng sống rất thanh liêm, nhưng sau đó, một thời gian, anh ta bắt đầu tham ô. Phủ đệ của anh ta rất lộng lẫy. Sự giàu có của anh nức tiếng cả một vùng. Thế nhưng, cây kim trong bọc lâu ngày cũng lộ ra. Nhà vua biết chuyện và đã ra lệnh bãi chức và tịch thu tất cả tài sản của anh ta để sung vào công quỹ. Đồng thời, ra lệnh chém đầu anh ta để làm gương cho mọi người. Nghe Thánh Chỉ, anh ta rụng rời, hết sức nài van, xin nhà vua cho mình cơ hội để làm lại cuộc đời. Thế nhưng một lời vua phán không thể thâu về. Dọc đường ra pháp trường, anh bị những người dân đứng hai bên đường chửi mắng, la ó và ném những vật dơ bẩn lên người anh. Anh ta sợ quá, người toát mồ hôi, giật mình dậy, thì may thay, đó chỉ là một giấc chiêm bao. Anh vẫn chưa ăn xong miếng trầu.
Thấy anh ta thức dậy, vị thầy liền từ tốn nói: "Nào bây giờ ta bàn tiếp về chuyện của anh". Thế nhưng, anh ta vội từ chối và nói: "Con không còn muốn công danh gì nữa". Và rồi anh ta còn tiếp lời xin được ở lại trong nơi hoang vắng này để tu cùng thầy.
Con đường danh vọng thật chóng qua. Chưa đủ dập miếng trầu, đúng như lời tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: "Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tợ hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
Mặt khác, những nhận định của chúng ta còn bị chi phối bởi chính thân xác chúng ta. Đứng trước mỗi việc, chúng ta thường suy nghĩ: làm như thế tôi được lợi gì, mất gì? Và những lợi ích mà chúng ta nhắm tới lại thường dừng ở cuộc sống hiện tại này. Những cái có trước mắt làm cho chúng ta quên mất điều vĩnh cửu, những thú vui tạm bợ khiến chúng ta quên mất niềm hạnh phúc viên mãn ở nơi Thiên Chúa. Và như vậy, ai chọn những điều tưởng chừng như rất khôn ngoan đó lại là người khờ dại nhất.
KHÔN NGOAN THEO KINH THÁNH
Khôn ngoan theo Kinh Thánh không phải là tính toán phần lợi cho riêng mình, hay tính toán theo tính ích kỷ của mình, nhưng là nhìn mọi sự với tấm lòng vị tha của Tin Mừng. Chính vì thế, trong bài đọc hai khi thánh Phaolô đã mời gọi Philêmon thay vì xử phạt, thì hãy đối xử với Ônêsimô, một người nô lệ chạy trốn như một người anh em trong Đức Kitô. Khi cư xử như vậy, xem ra Philêmon có vẻ thua thiệt, nhu nhược, nhưng thật ra đó là cách đối xử khôn ngoan nhất, bởi từ đây, Philêmon không những chẳng mất đi một người nô lệ Ônêsimô, nhưng còn được thêm một người anh em trong Đức Kitô.
Khôn ngoan theo Kinh Thánh còn đòi chúng ta phải biết lo liệu, tính toán thật kỹ càng để có một chọn lựa sáng suốt. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu nói: "Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết xem có đủ để hoàn tất không?". Việc suy nghĩ, tính toán của chúng ta không phải là để dành phần được trước mắt, nhưng là làm sao để có thể chiếm hữu được gia sản vĩnh cửu, không ai lấy mất được là Nước Trời. Đó là một sự khôn ngoan đủ để sẵn sàng bỏ đi những thú vui, và cả những tình cảm cho dù xem ra là chính đáng như tình cảm của cha mẹ, vợ con, anh chị em, nhưng một khi những điều đó đi ngược lại với giáo huấn của Tin mừng, thì chúng ta phải dũng cảm từ bỏ.
Đó còn là một sự khôn ngoan khi đứng trước mọi sự, luôn biết chọn Chúa làm cùng đích của cuộc đời mình.
KẾT
Tóm lại, người khôn ngoan thật, khôn ngoan theo tinh thần của Tin mừng là người sẵn sàng chấp nhận hy sinh, chấp nhận gian khổ, dũng cảm vượt qua những món lợi trước mắt, để dành lấy gia nghiệp muôn đời ở nơi Thiên Chúa.
Giờ đây, ý thức sự yếu đuối và giới hạn của bản thân, mỗi người chúng ta hãy dọn mình sốt sắng để đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể vào lòng, để rồi với sự soi sáng và sức mạnh của Ngài, chúng ta biết chọn lựa và đủ sức sống khôn ngoan theo Lời Chúa dạy. Amen.
"Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Luca 14: 27)
Chúa Giêsu, khởi sự sứ vụ rao giảng Nước Trời, đã kêu gọi người ta "sám hối và tin vào Tin Mừng": TN 23-C112
Chúa Giêsu, khởi sự sứ vụ rao giảng Nước Trời, đã kêu gọi người ta "sám hối và tin vào Tin Mừng", rồi Ngài kêu gọi người ta đi theo Ngài làm môn đệ, hay môn đồ.
Dừng xe nơi một ngã tư đèn đỏ ngoài phố San Jose, CA, tôi nhìn thấy nơi đàng sau chiếc xe đậu phía trước có câu viết bằng tiếng Anh: "Life is wonderful." Cuộc đời chúng ta kỳ diệu, hay "cuộc đời chúng ta là hoa hồng" (la vie est en rose), chính là khi chúng ta đi theo Chúa Giêsu. Đa số thanh niên đi theo "bông hồng biết nói." Đa số thiếu nữ đi theo "hoàng tử của lòng em!" Nhưng một Phanxicô Assisi đã chọn người yêu là Thượng Đế. Một Têrêxa Avila đã chọn Đấng Tình Quân là Chúa Giêsu. Một Elizabeth Chúa Ba Ngôi đã chọn Người Tình Trăm Năm là Chúa Giêsu v.v...
Ở đời này, làm bất cứ điều gì cũng phải trả một cái giá nào đó. Chúa Cứu Thế đã nói rằng, "Ai muốn được cứu rỗi thì phải đi con đường hẹp, phải qua cửa hẹp." Hôm nay Ngài tuyên bố điều kiện cho những kẻ muốn đi theo Ngài làm môn đệ là "phải vác thập giá." Điều kiện này xem ra... khó nuốt! Vì thập giá là cây gỗ nặng, là phải bỏ mình, là phải hy sinh, là phải khắc khổ.
Người tín hữu nhìn cây thánh giá của Chúa Giêsu nơi trên đó Ngài đã bị đóng đinh và treo lên trên đồi Sọ (Calgary) như là biểu tượng của sự cứu rỗi, cứu độ nhân loại là chính mình. Nhưng một Đại sư Phật Giáo (mà tôi quên tên) đã thấy nơi cây thánh giá của chúng ta hình ảnh của sự từ bỏ bản ngã (ego). Ông nói đại để: Cây thánh giá của người Công giáo gồm có hai thanh gỗ. Một thanh dài chiều đứng là chữ "I" trong Anh ngữ có nghĩa là "Tôi"; còn thanh gỗ thứ hai ngắn hơn, được đặt vào ngang thanh gỗ thứ nhất. Điều này có nghĩa là "cái tôi" của tôi phải bị gạch chéo, tức bị xóa bỏ đi.
Vậy, vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu, chính là phải xóa bỏ "cái tôi đáng ghét" ("le moi est haissable," nhận định của Blaise Pascal) của mình đi.
Nhà tỷ phú Warren Buffet, người Mỹ, đã khuyên các bạn trẻ, "Hãy lánh xa thẻ tín dụng và đầu tư vào bản thân. Cần nhớ: Con người tạo ra của cải, của cải không tạo ra con người. Sống cách nào giản dị nhất. Đừng làm theo cái gì người khác nói, lắng nghe họ nhưng hãy làm điều gì khiến bạn thoải mái. Đừng chạy theo nhãn hiệu nổi tiếng, hãy mặc cái gì làm bạn dễ chịu. Đừng phung phí tiền bạc vào những cái không cần thiết mà hãy tiêu tiền cho những người thực sự cần được giúp đỡ." (Phụ Nữ Người Việt)
Vào sáng Chúa Nhật ngày 2-9-2007 tại thánh lễ đại trào ở đồng cỏ Montorso, Loreto, Italia, ĐGH Benedictô 16 đã kêu gọi gần nửa triệu người trẻ hiện diện, "Các con đừng đi theo con đường kiêu ngạo, trái lại hãy theo con đường khiêm nhường. Các con hãy đi ngược dòng: đừng nghe theo những tiếng nói vụ lợi và chiêu dụ, từ nhiều phía ngày nay đang tuyên truyền những kiểu sống đầy kiêu hãnh và bạo lực, cường quyền và muốn đạt được thành công với bất kỳ giá nào, tìm kiếm sự hào nhoáng và sở hữu mà coi nhẹ cuộc sống thực." (bản dịch Lm Trần Đức Anh, OP)
Vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu làm môn đồ, là từ bỏ những gì lôi kéo chúng ta đi xuống, đi xuống chỗ thật thấp kém, và là nắm bắt lấy, đón nhận lấy những gì kéo chúng ta đi lên, đi lên chỗ thật cao cả của chân-thiện-mỹ.
Ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và ….. Cứ tưởng câu nói đầy màu: TN 23-C113
“Ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Cứ tưởng câu nói đầy màu gay gắt ấy chỉ là một tuyên cáo lạnh lùng, giăng ngang trời, mở lớn trước mắt các môn sinh. Nhưng không! Đặt vào đúng vị trí, bối cảnh của nó, “hic et nunc” của nó, thì đó chính là một lệnh truyền đuổi cổ. Chúa Giêsu đang đi đường, quanh và sau Ngài, có rất đông người đi theo. Chúa Giêsu dừng lại, quay mặt lại về phía đám đông mà nói câu ấy: “Ai đến với tôi”. Như thế, rõ ràng câu nói ấy mang tính chất thanh lọc, loại bỏ; không chấp nhận tính chất a dua, rồng rồng theo mẹ. Theo ý Ngài, việc chọn theo Ngài phải là:
1- Thứ nhất là một lựa chọn trưởng thành và ý thức.
Ai đến với tôi. Đó là một lựa chọn tự do, không hề ép buộc. Người đi theo Chúa, phải luôn được học hỏi, để biết người mình đi theo là Ai? Và Ngài là thế nào? Phải nhận ra được, thần tính siêu việt của Ngài. Đi theo Ngài, không phải là đi theo một con người, mà là đi theo Đấng là cội nguồn đời mình. Đấng vượt lên trên cả cha mẹ, anh em ruột thịt. Và chính vì thế, phải luôn gắn kết với Ngài, trên tất cả mọi sự gắn kết. Đến với Ngài, là luôn tìm sự sáng trong tâm trí từ lời chỉ dạy của Ngài. Lời Ngài là ánh sáng soi dẫn cho mình. Và những việc làm của Ngài, là khuôn vàng thước ngọc cho mình bước theo. Nhưng bên cạnh đấy, còn một điều hệ trọng mà người đi theo Chúa không được phép quên. Đó là đừng tưởng, mình trọn vẹn đi theo Chúa, đời mình sẽ gặp toàn may mắn. Nghĩ thế là sai rồi. Bởi đường Chúa đi, là đường đau khổ. Cho nên, khi gặp đau khổ thì đừng than thân trách phận, mà phải can đảm, vác đau khổ mà đi.
2- Và bước thứ hai, người đi theo Chúa phải làm là phải biết nhìn lại và đánh giá lại về đời mình.
Câu chuyện về người xây tháp, đã phải ngồi tính toán chi tiết cho công việc sắp tới, là một nhắc nhở cho kẻ muốn theo Chúa. Mỗi người có một khả năng riêng, một hoàn cảnh riêng, mình phải ngồi suy nghĩ lại điều gì còn thiếu sót chưa thể vượt qua? Điều gì còn làm mình bị ngáng trở khiến mình không thể tiến lên? Lòng tự ái, sự nhút nhát, sự lười biếng. Ta nhìn lại, để luôn bắt đầu lại. Không bao giờ là quá trễ, quá muộn rồi. Tình yêu là trọn vẹn, không thích bị phân chia. Vì thế, Chúa Giêsu muốn những ai đi theo Ngài, phải luôn trọn vẹn với Ngài, cả trong tâm trí, cả trong hơi thở trong kiếp sống làm người.
Hỏi:
1- Trong đời bạn, Chúa được xếp hạng mấy? 2- Theo bạn, bạn đi theo Chúa, hay bạn bắt Chúa đi theo bạn?
(25) Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ: (26) “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. (27) Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. (28) Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? (29) Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: (30) “Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có sức làm cho xong việc”. (31) Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống, bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? (32) Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. (33) Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Bấy giờ có đông người đi theo Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ lại tưởng Người sắp đi lãnh: TN 23-C114
2. Ý CHÍNH: Bấy giờ có đông người đi theo Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ lại tưởng Người sắp đi lãnh đạo cuộc cách mạng chống lại đế quốc Rô-ma giành độc lập theo chủ nghĩa Thiên Sai Do thái. Để đám đông khỏi bị ảo tưởng về sứ vụ cứu thế của mình, Đức Giê-su đã dạy họ ba điều kiện để có thể theo làm môn đệ cua Người: Một là họ phải yêu mến Người trên cả tình cảm gia đình ruột thịt và mạng sống của mình. Hai là họ phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình mà đi theo Người. Ba là họ phải khôn ngoan suy tính kỹ trước khi quyết định theo Người giống như một người sắp xây tháp cao hay như một ông vua sắp đem quân đi giao chiến với quân thù.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25-27:
+ Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su : Cuộc hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51) trùng hợp với cuộc hành hương của người Do thái lên dự lễ Vượt Qua tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế có nhiều người cùng đi với Đức Giê-su làm thành một đám người rất đông.
+ “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con”...: Tiếng Do thái không có lối văn so sánh. Do đó, khi muốn diễn tả ý hơn kém, người ta thường dùng lối văn song đối như “yêu” đối với “ghét” hay “từ bỏ”. Như vậy “từ bỏ” cha mẹ... chỉ có nghĩa là “yêu ít hơn”. Chính Mát-thêu đã hiểu như thế khi viết: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy”... (Mt 10,37). Do đó khi nghe Đức Giê-su dùng kiểu nói có vẻ cứng rắn như “từ bỏ cha mẹ”, chúng ta sẽ không nghĩ rằng Người loại bỏ giới răn thứ tư là “Thảo kính cha mẹ” (x. Lc 18,20). Ở đây, Người đòi những ai muốn làm môn đệ phải dành mọi sự quý giá nhất cho Người.
+ “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy": Những ai muốn theo Đức Giê-su thì phải vác thập giá mình mà theo Người. Thập giá hôm nay là những hy sinh và từ bỏ mà người tín hữu phải chấp nhận khi bước theo Chúa.
- C 28-30:
+ Ai trong anh em muốn xây một cây tháp...: Đây là một ví dụ cho thấy cần phải suy nghĩ kỹ trước khi khởi sự làm một việc quan trọng. Chỉ những ai bền chí, có suy trước tính sau và không nản lòng thối chí mới có thể theo làm môn đệ của Người.
- C 31-33:
+ Hoặc có vua nào...: Cũng như việc quyết định giao chiến của một ông vua cần phải cân nhắc thận trọng thế nào, thì việc quyết định đi theo Đức Giê-su cũng cần phải được suy tính kỹ càng trước khi quyết định như vậy.
+ Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được: Đây là lần thứ hai Đức Giê-su nhắc đến sự từ bỏ của cải như điều kiện để trở thành môn đệ của Người.
4. CÂU HỎI:
1) Khi đòi những ai muốn làm môn đệ của mình phải dứt bỏ tình cảm gia đình hoặc từ bỏ cả mạng sống của mình, phải chăng Đức Giê-su đã phế bỏ điều răn thứ tư dạy “con cái phải thảo kính cha mẹ” ?
1. LỜI CHÚA: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi” (Lc 14,26):
2. CÂU CHUYỆN:
GHÊN SÊ-Ơ (Gale Sayers), một cầu thủ chơi ở hàng hậu vệ của đội banh CHI-KÊ-GÔ BE-Ơ (Chicago Bears) vào thập niên 1960, được đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong làng bóng đá chuyên nghiệp Hoa kỳ. Chung quanh cổ của cậu lúc nào cũng đeo lủng lẳng một chiếc mề đay bằng vàng, trên có khắc ba chữ “I am Third” nghĩa là “Tôi là thứ Ba”. Khi được hỏi lý do, anh đã cho biết như sau: “Chúa là thứ Nhất, tha nhân là thứ Hai, và tôi là thứ Ba”. Trong quyển tự thuật cuộc đời của mình, Ghên viết: “Tôi cố gắng sống câu nói ghi trên tấm mề đay của tôi. Không hẳn lúc nào tôi cũng sống được như vậy. Nhưng dù sao việc đeo câu ấy cũng giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa” (Theo Mark Link SJ).
3. SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy những ai muốn đi theo làm môn đệ của Người phải có đủ 3 điều kiện như sau: Một la phải có tinh thần siêu thoát, hai là phải vác thập giá đời mình, ba là phải suy tính khôn ngoan và kiên trì đi theo Người.
1)Điều kiện thứ nhất là phải có tinh thần siêu thoát từ bỏ: như lời Đức Giê-su: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”: Vì tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn kém, nên người ta thường dùng lối văn song đối như: "yêu và ghét bỏ". Ghét bỏ nghĩa là yêu ít hơn. Câu này tương đương với câu trong Tin Mừng Mat-thêu như sau: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy" (Mt 10,37). Qua câu này, Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ của Người phải đặt Người lên hàng đầu, trên cả tình yêu đối với cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và trên cả mạng sống của mình nữa.
Như thế, một khi theo Đức Giê-su, người môn đệ vẫn phải yêu mến cha mẹ, người thân và bản thân, phải quí mến của cải là hồng ân Chúa ban… Nhưng họ phải coi Đức Giê-su đứng hàng đầu: khi cần phải chọn một trong hai thì người môn đệ phải chọn Đức Giê-su hơn tất cả.
2)Điều kiện thứ hai là phải chấp nhận vác thập giá đời mình mà theo Đức Giê-su: như Người đã nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy":
Thập giá ở đây được ví như một cây gậy đi đường rất hữu ích cho một vận động viên leo núi: Vì nếu không có cây gậy dò đường và chống đỡ thì họ sẽ dễ dàng bị mệt mỏi, chán nản bỏ cuộc nửa chừng và có thể còn bị tai nạn nữa. Nhờ biết bỏ đi những rào cản, người môn đệ mới dễ dàng vác cây thập giá đời mình mà theo sau Đức Giê-su.
Người tín hữu cần biết chấp nhận các thử thách như: khi bị kẻ gian giật mất bóp tiền, điện thoại di động, xe cộ… chúng ta sẽ không quá buôn phiền tiếc của. Hoặc khi có cha mẹ, vợ chồng hay người thân qua đời… Chúng ta cũng đưng quá đau buồn buông suôi mọi sự. Rồi khi gặp những điều trái ý như làm ăn thua lỗ, thi rớt đại học, khi bị người yêu bỏ rơi… chúng ta hãy bình thản đón nhận, coi đó như thập giá phải vác để theo sau làm môn đệ Đức Giê-su.
3)Điều kiện thứ ba là phải khôn ngoan và kiên trì: Khôn ngoan suy tinh xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi để theo Đức Giê-su hay không. Giống như một người muốn xây một cây tháp phải khôn ngoan suy nghĩ về khả năng tài chính của mình. Hoặc như một ông vua trước khi xuất chinh phải biết đánh giá tình hình để có quyết định xứng hợp. Có thể sau khi đi theo Chúa nhiều người vẫn bị nản lòng bỏ Chúa khi găp hoàn cảnh khó khăn. Khi đó hãy nhìn gương của các tông đồ: ban đầu các ông theo Đức Giê-su là để hy vọng sẽ được chia sẻ quyền lực địa vi trong Nước Trời Người sắp thiết lập. Nhưng Đức Giê-su đã dần dần thanh luyện suy nghĩ của các ông, và phải đến sau khi Đức Giê-su phục sinh, nhờ ơn Thanh Thần, các ông mới hiểu rõ thế nào là đi theo Chúa; và đã can đảm từ bỏ mọi sự để theo làm môn đệ của Người.
4)Hôm nay chúng ta phải làm gì để xứng đáng là môn đệ Đức Giê-su ? : Câu chuyện “Tôi là thứ Ba” minh chứng cho điều Đức Giê-su nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nói cách khác, Khi phải chọn lựa chúng ta phải ưu tiên chọn Đức Giê-su là thứ nhất cho cuộc đời mình.
- Sống là chấp nhận từ bỏ: Hôm nay có những điều xấu chúng ta phải từ bỏ như: rượu chè, ma túy, trụy lạc... Tuy nhiên cũng có những điều tốt mà chúng ta vẫn phải từ bỏ để chọn một điều tốt hơn như: Bỏ nghề đang làm để làm nghề mới phù hợp với ơn gọi, chọn ngành học hợp với khả năng lại vừa tốt cho ơn gọi... Từ bỏ thường hay làm cho ta tiếc nuối. Chẳng hạn: Từ bỏ chiếc giường êm ấm để thức dậy đi lễ sáng; Từ bỏ một cuốn phim hay đang xem trên Ti-vi để đọc kinh tối chung gia đình; Từ bỏ đi chơi ngày Chúa nhật để theo học lớp giáo lý hôn nhân và đi làm công tác xã hội... Cuộc sống hôm nay cho chúng ta có nhiều cơ hội để chọn lựa. Bình thường, người ta dễ chọn cái tầm thường hơn điều cao cả, chọn khoái lạc thấp hèn hơn hạnh phúc vững bền, chọn ích lợi bản thân hơn ích chung tập thể.
- Ki-tô hữu là người chọn làm môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là chọn đi con đường hẹp. Đức Giê-su đòi môn đệ phải coi Người trọng hơn tất cả mọi mối dây tình cảm như tình cha con, vợ chồng, danh vọng của cải... Những điều nói trên tuy đáng quí, nhưng cũng chỉ có giá trị tương đối mà thôi. Ki-tô hữu là người dám từ bỏ tất cả noi gương Đức Giê-su, Đấng đã từ bỏ vinh quang thần linh để trở nên một người phàm. Từ bỏ chính là chọn vào Nước Trời ngang qua cửa hẹp với Đức Giê-su.
- Sự từ bỏ ở đây không phải chỉ cần làm một lần là đủ, nhưng muốn trở thành môn đệ Đức Giê-su, chúng ta phải không ngừng từ bỏ. Đây là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ. Cần tránh thái độ nửa chừng thỏa hiệp. Bây giờ không còn phải là thời gian ngồi suy tính nữa, mà mỗi người chúng ta phải dứt khoát từ bỏ mọi vướng víu để trung thành đi theo làm môn đệ Đức Giê-su đến cùng.
4. THẢO LUẬN:
1) Nếu phải từ bỏ tất cả những gì bạn đang có như tiền bạc, địa vị, đam mê... để trở thành môn đệ Đức Giê-su, thì theo bạn, từ bỏ điều nào là khó nhất ?
2) Khi gặp một người yêu ghét đạo công giáo, nhất định không cử hành lễ nghi hôn phối trong nhà thờ thì bạn sẽ phải làm gì ?
3) Cụ thể ngay hôm nay bạn quyết tâm từ bỏ điều gì đang cản trở bạn đi theo làm môn đệ Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã nhiều lần dạy chúng con rằng: Muốn trở thành môn đệ của Chúa thì chúng con phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá là việc bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa. Chúa ơi, đây quả thật là một điều cam go và không dễ thực hiện chút nào ! Bởi vì con cảm thấy dường như lúc nào cũng có những thập giá đè nặng trên vai con: bệnh tật, đau khổ, công việc, sự vất vả hy sinh, mất mát và thất bại... Mà thập giá ấy lại sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời con. Thập giá con phải mang không thể tập thành thói quen và luôn biến dạng mỗi ngày mỗi khác... Chính vì thế mà con đã ý thức rằng: Theo Chúa đòi con phải luôn trong tư thế từ bỏ và hy sinh. Không phải chỉ cố chịu đựng một lần, nhưng là chịu đựng suốt đời. Từng giờ phút qua đi là những giờ phút con phải vác thập giá để tiến bước theo Chúa đến đỉnh đồi Can-vê. Xin giúp con sẵn sàng vác cây thập giá đời con, vì tin rằng chính Chúa cũng đang vác thập giá đi trước con và hằng ban ơn nâng đỡ, giúp con đủ sức vác thập giá đời mình đi theo Chúa đến trọn cuộc đời.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 14:25-33)
Chúng ta thường nghe đi nghe lại nhiều lần Chúa đưa ra những điều kiện để làm môn đệ Người:: TN 23-C115
Chúng ta thường nghe đi nghe lại nhiều lần Chúa đưa ra những điều kiện để làm môn đệ Người: dứt bỏ gia đình, từ bỏ cả mạng sống mình, vác thập giá. Nhưng có lẽ chúng ta lại ít để ý tới phần sau của bài Tin Mừng, trong đó Chúa khuyên chúng ta hãy “ngồi xuống tính toán cho kỹ” trước khi quyết định. Theo Chúa không phải là chuyện cảm xúc nhất thời, nhưng là một cam kết sau khi đã chọn lựa một quyết định.
Thánh Lu-ca ghi lại khung cảnh Chúa nói về quyết định làm môn đệ Người, đó là cùng đi đường với Chúa Giê-su là một đám rất đông người. Nhưng những người thực sự theo Chúa thì không hẳn là hết cả đâu, hơn nữa Chúa Giê-su cũng không quan tâm đến số đông người đi theo mình cho bằng số người thực tâm muốn làm môn đệ Người. Vì thế Chúa đã thẳng thắn dạy họ cần phải suy nghĩ kỹ càng, bởi đây là một quyết định trưởng thành cho cả một đời người. Để diễn tả cách cụ thể quyết định trưởng thành này, Chúa Giê-su đã dùng một vài thí dụ: người xây tháp phải biết tính toán phí tổn, và ông vua đi giao chiến phải biết điều nghiên lực lượng quân địch cũng như thực lực của quân mình. Xây nhà đã là một công việc đòi hỏi tính toán kỹ, nhưng xây tháp thì phải tính toán nhiều hơn nữa. Nhà mặc dù có xây dở dang, nhưng vẫn có thể sử dụng được và ít người để ý đến; còn tháp là công trình lớn nên phí tổn khó lượng định hơn và ai đi qua cũng có thể nhìn thấy công việc bị bỏ dở. Nếu so sánh việc xây tháp với việc ông vua đem quân giao chiến với một nước khác thì việc giao chiến lớn lao hơn nhiều. Tuy nhiên quyết định làm môn đệ Chúa lại còn đòi hỏi sự tính toán kỹ lưỡng hơn thế nữa.
Tại sao quyết định ấy cần được cân nhắc kỹ lưỡng? Đó là vì những điều kiện để làm môn đệ Chúa đều mang tính cách dứt khoát và ưu tiên. Chúng ta không thể bắt cá hai tay, vừa theo Chúa vừa theo tiền bạc danh vọng. Chúng ta không thể theo Chúa nửa vời, “tay cầm cày mà còn ngoái cổ nhìn lại đằng sau”. Tất cả những điều kiện ấy đều đi ngược lại với bản chất con người chúng ta, nên không dễ dàng chấp nhận.
Không phải Chúa muốn tiêu cực, dồn chúng ta tới tình trạng bỏ cuộc, phải thôi xây tháp hoặc phải sai sứ đi cầu hòa! Việc gì là không thể thực hiện đối với chúng ta thì vẫn có thể đối với Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta làm một quyết định trưởng thành, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận tất cả những hậu quả có thể xảy ra vì quyết định ấy. Thí dụ một khi đã chọn lối sống của Chúa Giê-su, chúng ta không thể theo lối của người đời; nếu đã chọn yêu thương như Chúa Giê-su, chúng ta phải yêu tha nhân như yêu mình và yêu thương cả kẻ thù nữa; nếu đã chọn tha thứ giống như Chúa Giê-su, chúng ta phải tha thứ thật lòng và nhân từ… Chọn theo Chúa và sống lối sống của Chúa quả thực còn khó khăn hơn cả việc xây tháp và đem quân giao chiến với nước khác! Phần chúng ta là làm quyết định rõ ràng và dứt khoát, rồi cố gắng hết mình. Việc còn lại thuộc về Chúa và ơn sủng của Người. Chúa chẳng nói với chúng ta “không Thầy đố mày làm nên” hay sao? Vì thế chúng ta cứ vững tâm mà theo Chúa, không cần do dự vì những điều kiện khắt khe Người đã thẳng thắn nêu ra.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước khi chúng ta được rửa tội, vị linh mục đã hỏi chúng ta về quyết định trưởng thành làm môn đệ Chúa. Chúng ta quyết tâm từ bỏ ma quỷ, tội lỗi và những quyến rũ của nó. Chúng ta quyết tâm tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, cứu độ và thánh hóa chúng ta. Chúng ta vững tin những điều Thiên Chúa mặc khải và dạy dỗ chúng ta qua Giáo Hội Chúa Ki-tô. Câu trả lời của chúng ta phải là câu trả lời trưởng thành do chính chúng ta hoặc do cha mẹ thay mặt cho chúng ta. Vì thế những điều Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay cũng chỉ là một nhắc nhở chúng ta về sự cam kết khi chúng ta được rửa tội, cam kết làm môn đệ Chúa Ki-tô.
Chúng ta đang ở trong đám đông “cùng đi đường với Chúa Giê-su”, nhưng chúng ta hãy tưởng tượng như Chúa quay mặt lại, nhìn thẳng vào mắt chúng ta mà hỏi: Con có thực sự muốn “đi theo” Thầy không? Bạn hãy trả lời Người đi!
Ngày 2.8.2013, canô mang số hiệu H29, tuy tải trọng chỉ 18 khách, nhưng đã chở đến 30 người: TN 23-C116:
Ngày 2.8.2013, canô mang số hiệu H29, tuy tải trọng chỉ 18 khách, nhưng đã chở đến 30 người trong chuyến hành trình từ huyện Gò Công Đông ( tỉnh Tiền Giang ) đến Vũng Tàu. Bất ngờ gặp sóng lớn, canô bị lật úp, cách bờ biển Cần Giờ khoảng 4 km.
Chàng trai Trần Hữu Hiệp, 26 tuổi, quê Thanh Hóa, cũng là hành khách bị nạn trên canô, đã cố gắng cứu vớt được 4 người suýt chết đuối. Thấy một người phụ nữ đang mang bầu, yếu ớt bám vào thân canô, anh Hiệp đã không tiếc mạng sống, cởingay áo phaođưa cho người này.
Nhường áo xong, anh Hiệp bám vào thành tàu cùng bạn hữu, nhưng liên tục bị nhiều cơn sóng khác đánh dạt ra. Anh bơi vào lại, nhưng chỉ được một lúc lại bị đánh ra xa tiếp. Nhiều con sóng khác lại ập vào, anh Hiệp lúc này đã kiệt sức lại trôi ra xa.
Những người đồng cảnh ngộ liền cố gắng níu giữ anh Hiệp. Tuy nhiên lúc này anh đã quá kiệt sức, không thở được nữa. Tay bám tàu, họ cố gắng níu giữ lại anh Hiệp, nhưng một cơn sóng khác lại đánh anh ra xa. Rồi liên tiếp những sóng đánh tơi tả, thân xác anh Hiệp trôi mất hút vào trong đêm tối. ( Tổng hợp trên net ).
Trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điều kiện làm môn đệ. Tiên quyết là chọn theo Người hay không. Tiếp theo là từ bỏ những quan hệ thân thuộc, đến sẵn sàng hy sinh mạng sống như gương dũng cảm nêu trên. Cuối cùng là chấp nhận những thương đau, khốn khổ để theo Người.
Chọn lựa
“Chọn lựa chính là loại trừ” ( Choisir, donc exclure ), triết gia Henri Bergson thừa nhận sự hiển nhiên về chọn lựa. Anh Trần Hữu Hiệp đã loại trừ sinh mạng mình, để cho chị phụ nữ mang thai được sống. Tuy nhiên chẳng hề dễ dàng khi chọn lựa, nếu không cân nhắc tầm quan trọng, ưu tiên phục vụ tha nhân hơn bản thân.
Chiến đấu hay hòa hoãn, xây dựng hay thúc thủ, sống cho mình hay chết cho người, đều là vấn đề tương phản, mâu thuẫn gay gắt, cần phải lựa chọn. Không thể bắt cá hai tay, chẳng được gì.
Dựa vào lương tâm, căn cứ vào Tin Cậy Mến, để tìm hiểu Thánh Ý, mà chọn lựa cái tốt nhất hay cái không tốt bằng, cái thiện hay cái ác, cái thánh thiện hay cái tầm thường.
Nếu băn khoăn khó phân định tốt xấu, thì nguyện xin Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, ban can đảm để chọn lựa và theo đuổi. Lửa Mến sẽ minh định sự chọn lựa chính xác, phù hợp Thánh Ý Chúa.
Nếu chưa tỏ tường thì nhờ các đấng tu trì, đạo đức. Các ngài sẵn sàng giúp chọn lựa theo sự khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, tiên vàn cần đến lòng khiêm nhường và phó thác, noi gương Mẹ tự hạ, sẵn sàng Xin Vâng, cảm tạ và ngợi khen hồng ân lãnh nhận, mới được Chúa đoái thương chỉ bào đàng ngay nẻo chánh. Vì “chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Sự lựa chọn, phân định tốt xấu còn được Đức Giêsu khẳng định thật rõ ràng:“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” ( Mt 6, 24 ).
Từ bỏ
Từ bỏ là loại trừ đi, không quan tâm hay chú trọng. Đến với Chúa luôn ưu tiên số một, vượt trên tình cảm gia đình, huyết tộc và cả sinh mệnh. “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Thời điểm này, Đức Giêsu không còn nhắc đến sự quyến luyến với vật chất của cải phù vân nữa, mà hơn nữa, còn đòi hỏi người môn đệ vượt qua tình cảm gia đình. Theo thói đời, thường những tình cảm này tuy được cho là cao quý và đáng trân trọng, nhưng không thể trở nên sức cản khi đến với Chúa.
Những người tận hiến cho Chúa, đều phải dứt áo xa lìa mái ấm, hy sinh những tình cảm huyệt tộc để có thể đến với tha nhân, đến với Chúa trong những hình hài xa lạ, khốn khổ hay tội lỗi trầm luân. Người giáo dân cũng thế, cần nhìn ra bên ngoài tổ ấm, quan tâm, săn sóc và phục vụ những người cơ nhỡ, bần hàn.
Mặt khác, từ bỏ chính mình vì "Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô” ( Gl 3, 27 ). Mặc lấy Đức Kitô là bỏ đi con người cũ, vốn đầy đam mê những phù phiếm thế gian, vốn sa đọa tội lỗi, mà sống Lời Chúa thật sự, tin yêu và phục vụ.
Chấp nhận
Trong cuộc sống, chẳng một ai thoát khỏi những gánh nặng thường ngày đè nặng trên vai. Kẻ lo âu về vật chất, kẻ thì khắc khoải tinh thần. Mỗi người đều có thánh giá dài ngắn, nặng nhẹ khác nhau. Nhưng chẳng có thánh giá nào êm ái, dễ chịu. Cũng chẳng thể nào vác thay cho ai.
“Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được".
Chấp nhận hy sinh, đau khổ, khinh khi, rẻ rúng, chịu bách hại, tù đầy vì danh Chúa, vì Nước Chúa, nếu muốn làm môn đệ. Nhờ ơn Chúa, nhờ sức mạnh của Đức Chúa Thánh Thần, người môn đệ chấp nhận mọi đầy đọa, mọi thách đố, để bước theo cuộc khổ nạn, chịu hiến tế theo Đức Giêsu.
Đức cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã chấp nhận toàn hiến, qua 14 bước theo Đức Giêsu:
Con theo từng bước của Chúa trên Đường Hy Vọng: Bước lang thang ra chuồng bò ở Bêlem, Bước hồi hộp trên đường trốn sang Ai cập, Bước bồn chồn trở về trú ngụ Nagiarét, Bước phấn khởi lên Ðền thánh với Mẹ Cha, Bước vất vả suốt 30 năm trời lao động, Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng, Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc, Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt, Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân, Bước ê chề vác thánh giá lên đồi tử nạn, Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, Không tiền không bạc, Không manh áo, không bạn hữu, Chúa Cha cũng xem chừng bỏ rơi Chúa, Nhưng Chúa phó thác tất cả vào tay Cha. ( Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá )
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con chưa đủ can đảm làm môn đệ của Chúa. Chúng con còn đang chần chừ, chân trong chân ngoài. Vừa muốn theo Chúa, vừa muốn hưởng thụ lạc thú thế gian. Trong khi Chúa muốn chúng con quyết định dứt khoát, theo Chúa hay không. Xin Chúa ban cho chúng con Tình Yêu nồng nàn, cùng Tin, Cậy nhiệt thành, để quyết tâm theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin cứu giúp chúng con biết từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân, để cố gắng noi gương Mẹ, xin vâng theo Thánh Ý Chúa mãi mãi. Amen.
Lẽ thường tình trên trần gian, khi đã yêu rồi, người ta thấp thỏm mong chờ nhau, nhớ nhung ngóng: TN 23-C117
Lẽ thường tình trên trần gian, khi đã yêu rồi, người ta thấp thỏm mong chờ nhau, nhớ nhung ngóng đợi chút tin nhau, khát khao được ở mãi bên nhau… và mong theo nhau cho đến hết cuộc hành trình, thậm chí, người ta không muốn sớm kết thúc cuộc hành trình yêu trên trần gian xinh đẹp ấy. Người đang ở giai đoạn “tuổi yêu đi” thuở nhớ nhung, thuở mới cưới và trong “tuổi yêu lại” thuở hấp hôn trước khi hấp hối lìa đời, hẳn rõ hơn ai hết. Vợ chồng yêu nhau, cha mẹ yêu con cái, con cái yêu cha mẹ, bạn bè quí mến nhau, mọi người thương nhau… làm cho cuộc sống tươi đẹp và ý nghĩa.
Cả tuần nay, không hiểu sao ông H. có vẻ buồn, thơ thẩn, nhớ nhớ quên quên như người mất hồn. Bà H. hỏi ông: “Có chuyện gì mà ông bần thần ra vậy ?” Ông than phiền: “Chẳng có gì đâu bà ơi. Nghĩ lại mà tủi thân, ngày nào mấy đứa nhỏ còn đi học đại học, chúng nó gọi điện về hoài, lúc réo xin tiền, lúc khai ốm, lúc bảo buồn, chán, nhớ nhà. Bây giờ chúng nó ra trường đi làm rồi, cả tuần, không thấy đứa nào gọi về hỏi thăm cha nó tí. Tui nhớ chúng nó. Tui buồn thân tui. Có vậy thôi…”
Và từ tình cảm của ông dành cho con mình, ông lại nhớ đến tình của Thiên Chúa, Cha trên Trời, dành cho ông, cho mỗi con cái của Người. Là một người cha trong gia đình, còn thương con, nhớ con đến vậy, huống chi là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, là Cội Nguồn Tình Yêu, lại không biết thương nhớ, mong mỏi, và lo lắng cho mỗi người chúng ta sao ? Và nhất là khi chúng ta thờ ơ, nguội lạnh với Người.
Chúng ta chỉ nhớ đến Chúa, đến với Chúa, kêu nài Chúa khi chúng ta túng thiếu, đói khổ, bệnh tật, gặp thử thách gian nan thôi sao ? Có khác gì mấy nhỏ đi đại học gọi điện về cho cha nó réo tiền, réo bệnh ? Khi yêu nhau thì người ta mong muốn mọi sự tốt lành cho nhau, hay chỉ mong đòi hỏi cho được phần riêng mình ?
Nếu tình yêu thế gian còn biết mong mọi sự tốt lành cho nhau thì đối với Chúa, tại sao khi yêu Chúa, ta lại không mong muốn, dành để mọi sự tốt lành cho Thiên Chúa ? Thật vô lý khi chúng ta nói yêu Chúa mà chỉ cầu lợi cho mình, chẳng cầu lợi gì cho Chúa !
Gần đây, xuất hiện một từ nhà đạo mới mới, nghe ngồ ngộ, nhưng cũng nói lên một hiện trạng đáng quan tâm: “Lễ Mối”, “Làm Lễ Mối”, “Mối Lễ”. Là thế này, có người hỏi cha sở trẻ ở một miền quê nọ:
- Giáo Xứ có đông Giáo Dân không, thưa cha ?
- Dạ ! Khoảng một ngàn hai”.
- Nhà Thờ nằm ngay giữa khu dân cư tập trung thế này, chắc là người ta đi Lễ ngày thường đông lắm ?”
- Dạ không đâu, con chỉ “làm lễ mối” cho khoảng vài chục ông bà cụ thôi. Hôm nào “mất mối” là biết có người sắp mời xức dầu một “mối lễ” !
Có phải còn bao nhiêu người khác đang yêu cuộc sống ngắn hạn này hơn là yêu mến Chúa, hay vì nhà mình lúc này đang còn yên hàn, thư thả, dư giả ?
Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta: “Ai không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Các nhà thần học, chú giải Kinh Thánh, thường giải thích cho chúng ta biết về động từ “dứt bỏ” trong bản văn Kinh Thánh có nghĩa là “yêu ít hơn”. Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn khi thì bảo “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu”… khi thì lại bảo “hãy bỏ nhau” đâu.
Với cảm nghiệm thiêng liêng riêng, tôi hiểu là “người môn đệ của Chúa Giêsu là người làm tất mọi sự trên đời này vì yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến Thiên Chúa” – trong đó có cả việc “yêu cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa”. Vì thực ra mà nói, nếu không yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến Thiên Chúa thì cả bạn, cả tôi chẳng bao giờ có thể yêu ai cho đúng nghĩa Tình Yêu chân chính – hoặc dừng lại ở chặng tình cảm tự nhiên hoặc lún sâu vào chỗ tình yêu vụ lợi.
Hơn nữa, Chúa muốn chúng ta hiểu rõ về sự mong manh của trần gian, của kiếp người, và chỉ có Chúa là hằng hữu, là vĩnh cửu. Người môn đệ Chúa Giêsu, khi đã yêu mến và nhìn nhận Tình Yêu Chúa là hằng hữu, sẽ ngộ ra mọi tương quan trong cuộc đời hẳn phải dẫn về cùng đích tối thượng là sống trong Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta không thể dễ dàng để cho một tương quan nào trên cõi đời có thể ghì kéo chúng ta ra khỏi Thiên Chúa ngay ở đời này và cả đời sau. Tất cả mọi tương quan tình cảm, vật chất đều có thời hạn của nó. Vì thế, người môn đệ Chúa phải nhắm đến tương quan ưu tiên hơn cả là yêu mến Thiên Chúa và vì yêu mến Thiên Chúa mà chu toàn mọi sự ở đời theo Thánh Ý của Chúa.
Có chuyện vui rằng: Một đôi cụ ông cụ bà sống với nhau rất hạnh phúc. Hai cụ thường xin Chúa cho họ được điếc, để khỏi nghe tiếng Chúa gọi về, để được sống bên nhau mãi mãi. Có được đâu ! Rồi một ngày, một cụ cũng phải chia tay người yêu dấu mà về với Thiên Chúa là Cha, Người Yêu Dấu muôn đời !
“Dứt bỏ” không có nghĩa là không biết quí trọng những tặng phẩm tuyệt vời Chúa ban, nhưng hãy mặc cho những tặng phẩm tuyệt vời ấy một giá trị ngắn hạn, chuẩn bị cho một giá trị vững bền. Yêu nhau ở đời này hẳn phải là chuẩn bị cho một cuộc tình dài lâu nơi Thiên Quốc. Vì vậy, yêu nhau ở đời này là chấp nhận một cuộc chia ly tạm thời với niềm tin có một cuộc trùng phùng vĩnh cửu.
Đó là thách đố khó vượt qua. Đó là thập giá khó chấp nhận. Nhưng Chúa Giêsu rất dứt khoát: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
“Yêu là chấp nhận chia ly Chia ly đời nầy, gặp lại đời sau Sẽ là còn mãi trong nhau Và trong Thiên Chúa dạt dào Tình Yêu”. ( Hồ Giang A )
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con biết chúng con có một Thiên Chúa là Cha trên Trời luôn yêu thương mong đợi chúng con về với Cha. Tạ ơn Chúa là Đường dẫn chúng con về với Cha. Nguyện xin cho chúng con luôn chu toàn tất cả các việc trên đời chỉ vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Lực sĩ bơi lội Michael Phelps, người được nhiều huy chương nhất trong tất cả các kỳ thi Thế Vận Hội, TN 23-C132
Lực sĩ bơi lội Michael Phelps, người được nhiều huy chương nhất trong tất cả các kỳ thi Thế Vận Hội, cách đây hai năm đã suýt tự tử. Vào thời điểm đó, anh bù đắp khoảng trống và nỗi đau của mình bằng ma túy và rượu, vì thế những thứ này còn đưa anh vào vòng xoáy hủy hoại hơn. Năm 2009, anh bị cấm bơi ba tháng vì một bức hình anh hút được lan truyền trên mạng; dù bị phạt nhưng cũng không ngăn anh tiếp tục cuộc chơi. Tệ hơn nữa khi anh bị bắt lần thứ hai, vì tội say rượu lái xe trong vòng mười năm.
Phelps ở dưới đáy. Những ngày sau khi bị bắt, anh sống cô lập và anh tiếp tục uống. Trong một buổi phỏng vấn với hãng tin ESPN, anh thú nhận: "Tôi không còn một sự tự tin nào. Tôi nghĩ không có gì có giá trị và thế giới sẽ tốt hơn nếu không có tôi. Tôi tự nhủ, tốt nhất là tôi nên tự tử". Các huy chương vàng cũng không an ủi anh được: anh không còn tìm được ý nghĩa cuộc đời.
Sự quan phòng đã làm cho gia đình và các bạn của anh thuyết phục được anh vào một trung tâm phục hồi để đuổi các tư tưởng xấu này. Dù mới đầu anh không muốn nghe, nhưng cuối cùng anh chấp nhận số của mình và đi trên con đường chữa lành. Phelps mang theo anh quyển sách Mục đích hướng dẫn đời sống ( The Purpose Driven Life ) của Rick Warren. Đó là quyển sách do lực sĩ Ray Lewis tặng anh, lực sĩ Lewis là cựu phòng vệ của đội Ravens của Baltimore. Không những anh đọc mà anh còn cho nhiều bệnh nhân khác mượn, họ đặt cho anh biệt danh "Michael Người Rao Giảng".
Các lực sĩ đều mê huy chương, đó là sự tưởng thưởng cho công trình khó nhọc. Nhưng sự chú ý của truyền thông chỉ có một thời gian. Trong khi Đức Tin dựa trên tình yêu, một tình yêu giúp tìm lại thăng bằng và phối cảnh. Ngoài việc tìm lại Đức Tin trong thời gian ở trung tâm phục hồi, Phelps cho biết, một phần sự rối loạn của mình là do sự thiếu vắng người cha. Khi anh 9 tuổi, cha mẹ của anh ly dị và để bù cho sự thiếu thốn này, anh bắt đầu bơi. Một khi đã chinh phục được nước thì nỗi đau lại trồi lên mặt.
Trong tuần lễ gia đình ở trung tâm, Phelps đã có dịp tiếp xúc với cha mình và đã giúp anh chữa lành. Lần đầu tiên họ ôm nhau từ nhiều năm nay, điều này đã giúp Phelps đi tới đàng trước. Một vài tháng sau khi ở trung tâm phục hồi, Phelps ngỏ lời xin cô bạn gái Nicole Johnson của mình làm đám cưới. Họ đã đính hôn và sẽ làm đám cưới sau kỳ thi Thế Vận Hội. Khi lần đầu tiên bồng con mình trên tay, Phelps đã khóc. Anh thổ lộ với hãng tin ESPN: "Tôi bàng hoàng không nói lên lời. Tôi nhận ra thế nào là một tình yêu thật".
Đứng trước trách nhiệm mới của gia đình, cuộc thi thế vận kỳ này sẽ là lần chót. Nhờ ơn Chúa, lực sĩ Phelps đã ra khỏi vực thẳm để về với cuộc sống. Có thể anh không hoàn hảo, nhưng Đức Tin của anh đã dẫn anh đi trên một con đường mới. Anh hiểu, dù số lượng huy chương vàng có nhiều như thế nào thì chúng cũng không có khả năng cứu được anh. ( Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch, Đối với Michael Phelps mọi huy chương không thể sáng chói nếu không có Chúa ).
Kình ngư huyền thoại Michael Phelps, vô địch huy chương vàng Olympic hôm nay đã không thể đạt những kỳ tích, nếu không có sự đồng hành của bà mẹ Debbie Phelps. Người đã quyết tâm rèn luyện Michael Phelps vượt qua nỗi sợ xuống nước từ hồi 7 tuổi và hội chứng tăng động giảm chú ý ADHD lúc 9 tuổi. Khi đã lên đỉnh vinh quang, Michael Phelps lại đắm đuối vào những cám dỗ ma tuý, rượu chè, cờ bạc, cá ngựa, nhưng nhờ trông cậy vào ơn Chúa và tình yêu, anh lại tiếp tục gặt hái huy chương thế vận hội. Anh đã có tiền tài, danh vọng, chỉ thiếu có Chúa, nên mới lạc lối.
Trong Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu nêu lên những điều kiện bắt buộc tuân theo, để làm môn đệ Người, để đi theo Người. Đó là từ bỏ vật chất, tình cảm thế tục và chấp nhận thập giá. Ở đời, bất cứ ai chẳng nhiều ít, cũng đều vấp phải đau khổ, khó khăn, thách đố, nên ra sức tránh né. Nhưng Đức Giêsu lại đòi hỏi phải gánh vác lấy, không được từ chối: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Thập giá bản thân
Thách đố nặng nề hơn cả chính là tính xác thịt. Chống lại bản năng, thú tính, ham muốn, chính là một thập giá bất khả phân ly, liên tục cho đến nhắm mắt xuôi tay. Có thể gọi là thập giá tu thân. Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu hãm mình, không nô lệ bản thân: “Chúng ta hãy ăn ở đứng đắn, như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng". (Rm 13, 13-14 ).
Tiếp đến, thập giá còn là bổn phận và trách nhiệm, mà bất cứ ai sống trong cuộc đời cũng phải gánh vác. Làm con cái, cha mẹ, làm tu sĩ, Linh mục, đều có trọng trách, đều được Chúa giao cho một nén, hay nhiều nén bạc sinh lãi, tuỳ theo khả năng ( Mt 25, 14-20 ). Đó chính là thập giá tích đức. Mong ngày sau, được hân hạnh nghe lời khen của Ông Chủ: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” ( Mt 25, 21 ).
Thập giá Kitô hữu
Ngoài thập giá tha nhân, như quan tâm, nhân ái, tận tuỵ chăm sóc, tận tình phục vụ những người cô quả, nghèo đói, bệnh hoạn, đau khổ, bị bỏ rơi, cần được yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ, người tín hữu Kitô còn phải vác thập giá chứng nhân, gieo vãi hạt giống Tin Mừng khắp nơi. Như chính Đức Giêsu đã trao phó nhiệm vụ cao cả cho các môn đệ, những người theo Người: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” ( Cv 1, 8 ).
Đức Giêsu cũng thẳng thắn tiên báo những gian khổ, nguy hiểm, thách đố, dành cho các môn đệ khi thi hành sứ vụ: "Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” ( Mt 10, 16 ). Những thập giá đau đớn, xót xa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” ( Mt 10, 22 ).
Tránh né vác thập giá, hay “khôn ngoan” thoả hiệp, thông đồng, hiệp lực, cộng tác với quyền lực đen tối của sự dữ, với văn minh sự chết, để cọng sinh, hỗ tương, thuận lợi “giữ đạo,” đều là trắng trợn nguỵ biện, xảo ngôn, cùng đối phó, phản nghịch, antichrist, bất trung với Tin Mừng. “Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta” ( Lc 14, 27 ).
Thử thách gian khổ là "giấy phép theo Chúa" để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá mà theo Ta" ( Đường Hy Vọng, số 714 ).
Lạy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót, chúng con quá mỏng dòn, yếu đuối, dễ ngã lòng, xin Chúa luôn ban Thánh Thần đến an ủi, khích lệ, phù hộ chúng con can trường vác thập giá hàng ngày, luôn trung thành theo Chúa.
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu chúng con luôn chấp nhận những khó khăn, vất vả, đắng cay trong đời cho nên, cho đẹp lòng Chúa. Amen.
Có một con đường đưa con người đến với thế giới, đó là con đường Yêu Thương. Từ Tình Yêu : TN 23-C119
Có một con đường đưa con người đến với thế giới, đó là con đường Yêu Thương. Từ Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa, Ngài tạo dựng và trao gửi con người vào thế giới để sống và sống dồi dào. Ngài không muốn gì khác hơn ngoài việc con người được sống hạnh phúc. Ngài đã trao ban cho họ tất cả, tự do và trí khôn để phân biệtt điều lành điều dữ.
Nếu chỉ có một con đường duy nhất đưa nhân loại vào thế giới, thì cũng không con đường nào khác hơn có thể đưa họ về với Trời. Muốn trở thành môn đệ của Đức Giêsu, bạn chỉ có thể vác thập giá mới đi theo Ngài được. Đi theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ tất cả để chọn một Thiên Chúa duy nhất, để chỉ tôn thờ và yêu mến một mình Ngài, yêu trên tất cả mọi sự, ngay cả chính bản thân mình: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 15, 26 ).
Đòi hỏi của Đức Giêsu xem chừng gắt gao quá, nhưng không phải quá đáng. Nhìn lại, mới thấy việc từ bỏ ấy chính là ân phúc cho mình. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không cần gì nơi con người, trái lại, Ngài còn trao ban ân sủng của Ngài cho thế giới. Nhưng Thiên Chúa cần con người tôn thờ và yêu kính để nhân loại nhận biết sự hiện diện quyền năng của Ngài trong thế giới và nơi chính cuộc đời họ.
Những đòi hỏi Đức Giêsu đặt ra được hiểu theo nghĩa bóng, chính là việc chọn lựa phải tôn kính Thiên Chúa lên vị trí ưu việt. Thế giới ngày nay lại hoàn toàn đảo ngược, người ta sẵn sàng loại bỏ tính mạng của tha nhân để đặt mình lên trên tất cả, một thế giới của chủ nghĩa cá nhân thực dụng. Tha nhân bị loại trừ, ngay cả người trong cùng một gia đình, cùng một huyết thống, huống chi Thiên Chúa là Đấng linh thiêng vô hình. Thời đại hôm nay ngày càng bị tục hóa, người ta chỉ còn biết sống và hưởng thụ. Cho nên, người ta không loại trừ bất kỳ thủ đoạn nào để thỏa mãn tham vọng cá nhân.
Muốn vượt thắng chính mình không chút dễ dàng. Thế nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 15, 27 ). Thập giá, khó khăn bao giờ cũng bắt đầu từ chính mình, vì con người yêu mình hơn tất cả. Ai không yêu bản thân mình, người đó đi ngược với bản năng tự nhiên Thiên Chúa đã phú bẩm. Thế nhưng, phải yêu thế nào cho đúng, cho đẹp. Yêu mình chứ không phải nuông chiều những ý muốn, sở thích trái quấy của mình để sống thỏa mãn dục vọng mà gây tổn hại cho người khác. Chỉ những ai từ khước được chính mình, làm chủ được những dục vọng của mình mới có thể đi theo Đức Giêsu cho trọn. Thập giá của bản thân chính là đây.
Không chỉ từ bỏ bản thân, ý muốn, sở thích… nhưng đi theo Chúa là phải từ bỏ tất cả, từ bỏ hết những gì mình có: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 15, 33 ). Lời khẳng định của Đức Giêsu xem chừng đáng sợ quá. Làm sao có thể từ bỏ hết tất cả mọi thứ, mọi nhu cầu, mọi của cải gắn liền với sự hiện diện của mình nơi trần gian này được ? Cái khó không hệ tại việc làm sao có thể ấy, nhưng chính là lòng muốn, là tình yêu. Giả như bạn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa thực sự, thì không gì nơi trần thế này có thể tách bạn ra khỏi lòng mến và tình yêu với Ngài được. Mọi sự đều có thể nếu như có Tình Yêu. Ngược lại, không gì khó khăn hơn việc đánh mất yêu thương.
Lạy Chúa, nếu như chỉ có một con đường duy nhất đưa con vào trần gian, và cũng không còn con đường nào khác hơn có thể đưa con về với Ngài, thì mọi con đường trần thế này đều không phải là tất cả. Cho dù sóng gió cuộc đời có đẩy đưa con đến đâu, về đâu cũng chẳng là gì, chỉ cần trên con đường ấy có Thiên Chúa, có Tình Yêu.
Thế nhưng, làm gì có con đường yêu thương thực sự trên cõi này nếu như con không vác thập giá mình để bước. Thập giá của sự hy sinh, từ bỏ, của lòng khiêm nhường, của tha thứ và yêu thương.
Vậy thì, dẫu có bị ném vào đâu, dẫu có phải bôn ba lặn lội tận phương nào cũng đều không quan trọng nữa rồi, chỉ cần trên con đường ấy có Thiên Chúa thôi. Nghèo đói hay bệnh tật, cô đơn hay sỉ nhục… tất cả rồi cũng qua đi, cũng chỉ là tạm bợ, là hào nhoáng, là phù vân. Xin giúp con đừng đi đường nào khác, ngoài con đường Chúa đã đến với con và đang đưa con về...
Người ta nói: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn”. Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình: TN 23-C120
Người ta nói: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn”. Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình thường hoặc quan trọng, thì cũng đều phải tính toán – dù mức độ có khác nhau. Tính toán chứ không mưu mô, lọc lừa, lươn lẹo, ranh ma, vụ lợi hoặc thực dụng... Thế nhưng người ta cũng nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Còn Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” ( 1Cr 3, 6 ). Đó mới là vấn đề ! Với Thiên Chúa, tính toán không nhằm tư lợi mà là từ bỏ chính mình. Cách tính toán của Thiên Chúa thật là độc đáo ! Đúng vậy: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” ( Kn 11, 20 ).
Chuyện đời sống, chuyện sinh hoạt hằng ngày, ai cũng phải biết tính toán đã đành, lớn tình chuyện lớn, nhỏ tính chuyện nhỏ. Chuyện tâm linh cũng cần biết tính toán sao cho hợp Ý Chúa, hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Sống đúng bậc mình trong hoàn cảnh hiện tại là biết tính toán để nên thánh, là biết làm đẹp lòng Chúa.
Tính toán có thể là cộng, trừ, nhân hoặc chia. Nhưng phải tính toán sao có lợi cho tha nhân: CỘNG lại tình người, TRỪ đi hận thù, NHÂN lên yêu thương, CHIA sẻ lòng thương xót, và đừng bao giờ CHIA rẽ. Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa ? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi ? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững” ( Kn 9, 13 – 14 ). Và rồi tác giả nhận định: “Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” ( Kn 9, 15 ).
Thực tế quá phũ phàng, nhưng sự thật là vậy, không ai có thể chối cãi. Có lần Chúa Giêsu cũng nói: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” ( Mt 26, 41; Mc 14, 38 ). Phàm nhân là cát bụi, quá mỏng dòn, quá yếu đuối, thế nên mới phải cố gắng tỉnh thức kẻo sa chước ba thù: ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Thứ nào cũng ghê gớm, dữ tợn, đủ sức làm chúng ta đắm chìm trong vũng lầy tội lỗi. Do đó mà luôn phải cẩn trọng, tỉnh thức. Tỉnh thức cũng là một cách tính toán vậy !
Tác giả sách Khôn Ngoan đại diện chúng ta thân thưa với Chúa: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng ? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh ? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” ( Kn 9, 16 – 18 ).
Quả thật, cuộc đời là thế. Có những điều tưởng chừng dễ như trở bàn tay, ấy vậy mà chúng ta phải vất vả lắm mới may ra làm được; và có những điều tưởng như trong tầm tay, thế mà lại vuột khỏi tầm tay khiến chúng ta buồn não lòng. Tính toán chi li, tính toán rất kỹ, thế mà chẳng nên công cán gì, y như “dã tràng se cát biển Đông” vậy ! Vì thế, dù chuyện to hay nhỏ đều phải nhờ ơn Chúa: Tất cả đều là Hồng Ân.
Thánh Gióp nhận định: “Chúa có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện” ( G 13, 15 – 16 ). “Tâm phật, khẩu xà” đúng là Pharisêu chính hiệu. Cách sống thường nhật của chúng ta đối với tha nhân quan trọng hơn động thái khúm núm trong Nhà Thờ. SỐNG ĐẠO quan trọng hơn GiỮ ĐẠO. Từ cửa Nhà Thờ trở ra mới chứng tỏ ai là môn đệ đích thực của Đức Kitô, chứ không phải chỉ từ cửa Nhà Thờ tới bàn thờ.
Tác giả Thánh Vịnh nói rằng: “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi” khi Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !” ( Tv 90, 3 ). Đối với Thiên Chúa chỉ có hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai, không có khái niệm thời gian hoặc không gian, không có khái niệm dài hoặc ngắn: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi !” ( Tv 90, 4 ). Thời gian là của Chúa, ngay cả sự sống và những gì chúng ta sở hữu cũng không thuộc quyền của chúng ta, mà chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quyền quản lý. Tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm. Khoảng trăm năm đời người xem chừng dài lắm, nhưng cũng chỉ như thoáng chiêm bao, tựa bóng câu qua cửa sổ, không khác đóa phù dung hoặc con thiêu thân: “Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” ( Tv 90, 5 – 6 ). Quả thật, tuổi đời càng tăng thì người ta càng cảm thấy thời gian như ngắn hơn trước, dù một giờ vẫn đủ 60 phút, một thực tế bất biến. Qua đó, chúng ta hiểu và chắc chắn rằng Thiên Chúa bất biến, chỉ tại nhân loại biến thiên mà thôi.
Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” ( Tv 90, 12 ). Đó là tỉnh thức, là biết lo liệu, là biết tính toán. Sẵn sàng như vậy nên người ta khát khao được ngụp lặn trong Biển Tình Yêu của Chúa: “Lạy Chúa, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” ( Tv 90, 13 – 14 ).
Chúng ta quản lý cuộc đời mình một cách tốt đẹp nếu biết cầu xin Chúa phù trợ: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” ( Tv 90, 17 ).
Chắc hẳn vì thế mà Thánh Nữ Faustina xác định: “Tôi không tìm hạnh phúc ngoài nội tâm nơi Chúa cư ngụ. Tôi hạnh phúc khi Chúa ở trong tôi. Tôi ở với Ngài mãi mãi. Đó là nơi thân mật của Ngài và tôi. Tôi an toàn ở bên Ngài. Đó là nơi không bị loài người dò xét. Đức Mẹ khuyến khích tôi giao tiếp với Chúa bằng cách này” ( Nhật Ký Thánh Faustina, số 454 ).
Hay quá ! Nhưng chúng ta thường LỢI DỤNG CHÚA hơn là TÍN THÁC vào Ngài – mà miệng lưỡi hoặc bề ngoài chúng ta vẫn oang oang: Con tín thác vào Chúa. Hãy cẩn trọng kẻo bị ảo tưởng, vì sự lợi dụng và lòng tín thác rất “gần” nhau, khá giống nhau. Có lẽ nhiều người đang lâm tình trạng này mà không biết đấy !
Trong thư gởi cho Philêmôn, Thánh Phaolô viết: “Tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi là một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô” ( Plm 1, 9-10 ). Thánh Phaolô PHẢI kêu gọi BÁC ÁI vì người ta thường lầm lẫn các cạnh của “tam giác yêu thương”. Đó là Bác Ái, Công Bình, và Bố Thí. Ba cạnh có vẻ “giống” nhau và “đều” nhau, nhưng thức tế không phải vậy. Ví dụ, trong âm nhạc, “nửa cung” có vẻ giống nhau, dù gọi là bán-cung-dị hoặc bán-cung-đồng ( có vẻ rất giống nhau khi dùng piano – thực tế rõ ràng với phím ĐEN và TRẮNG – theo bán cung Tây Phương, nhưng thực tế hai nửa cung ấy hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo kiểu bán cung của Ấn Độ, và bán cung Việt Nam cũng tương tự ).
Chuyện có vẻ riêng tư khi Thánh Phaolô gởi thư riêng cho Philêmôn, nhưng thực sự vẫn là chung, cái riêng ở trong cái chung, và cái chung ở trong cái riêng: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Thiết tưởng không cần nói gì thêm, vì quá rõ ràng rồi !
Bác a1i là yêu thương. Yêu thương bằng hành động chứ không thể nói suông bằng đầu môi chót lưỡi. Dễ hay khó ? Vừa khó vừa dễ. Tùy. Cái từ “TÙY” này mới thật là “đáng sợ” đấy ! Vấn đề là đừng “đạp trên”, đừng “đội dưới”. Nghĩa là đừng mặc hai loại áo, một loại vạt trước dài và một áo vạt trước ngắn. Nói thẳng ra là đừng nịnh trên mà hù dưới. Kiểu này nhiều người “mắc” lắm !
Một hôm nọ có vẻ “đẹp trời”, thấy có rất đông người cùng đi đường, Đức Giêsu quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 14, 26 – 27 ). Nghe “choáng” quá, vì “sốc” ghê đi. Người ta chỉ thích “vội vàng vơ vét về” ( 5 V ) thế mà Đức Giêsu lại bảo phải “BỎ”, phải “BIỆT” dù “BIẾT” – toàn là “bờ”. Chán chết được ! Ấy thế mà có “chết” được đâu !
Chúa Giêsu rất khoái dụ ngôn, cái gì cũng dụ ngôn, nhưng ngụ-ngôn-thực-tế chứ không ngụ-ngôn-bịa-đặt. Ngài vừa truyền thống vừa tân kỳ, cứ thản nhiên “bổn cũ soạn lại” khi phân tích: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà” ( Lc 14, 28 – 32 ).
Chúa Giêsu chỉ là thợ mộc, đục đẽo thôi, chứ không hề là thợ xây, không là thầu khoán, thế mà lại nói chuyện xây dựng. Nghe mà “chói tai”. Mà “chói” thật, vì bọn thầu khoán cũng phải tâm phục khẩu phục chứ nói chi lũ thợ xây, thợ hồ.
Còn nữa, Chúa Giêsu cũng chẳng kinh nghiệm làm vua ngày nào, thế mà lại tính chuyện giao chiến như một tướng quân. Thủ tướng hoặc đại tướng quân sự cũng phải tôn Ngài làm Đại Sư thôi. Lạ thật !
Cuối cùng, Đức Giêsu Kitô nói thẳng: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 14, 33 ). Cái chữ B này “to” lắm. Nó có thể là BIÊN GIỚI ( bờ cõi quốc gia ), là BIỆT DANH ( cõi riêng tư ), là “bới bèo ra bọ” ( bề trên tìm cách triệt hạ bề dưới, bề dưới tìm cách hạ bệ bề trên ), là BAO CHE ( phe cánh ), là BƯỚNG BỈNH ( kiêu ngạo, tôi luôn là “số dzách” ). Nếu vậy thì… BỎ !
Nhưng lưu ý: chữ BỎ của Chúa là “bỏ mình”, mang nghĩa khiêm nhường, còn chữ BỎ của chúng ta là “vứt bỏ” mang nghĩa kiêu ngạo, là mặc kệ. Ranh giới giữa hai chữ BỎ ấy chỉ nhỏ bằng sợi tóc. Hãy nhớ câu này: Cẩn tắc vô ưu. Cẩn trọng cũng là một dạng tính toán vậy !
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống đúng ý nghĩa tích cực của chữ BỎ mà Chúa Giêsu đã sống, BỎ MÌNH chứ không BỎ NGƯỜI KHÁC. Xin giúp chúng con biết tính toán cho đúng phép tính của Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Người Công Giáo suy tôn, thậm chí tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là: TN 23-C121
Người Công Giáo suy tôn, thậm chí tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là nhãn hiệu ( logo ) của Thiên Chúa Giáo, cũng như chữ Phạn của Phật Giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi Giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Các biểu tượng này được những người theo các tôn giáo hoặc học thuyết quí trọng và đề cao, điều đó là lẽ thường tình.
Thế nhưng chỉ có người Công Giáo là thật sự suy tôn, tôn thờ Thập Giá vì họ biết rằng mình không đơn thuần chỉ tôn kính một biểu tượng, lưu giữ một báu vật để gợi nhớ những kỷ niệm xa xưa mà đấng sáng lập tôn giáo mình đã phải chịu. Họ càng không tôn thờ vì muốn đề cao những đau khổ hay chết chóc mà cây thập tự là một hình ảnh tiêu biểu. Khổ giá, mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ; nó nói lên cách thâm sâu nhất niềm tin của họ, nó chứa đựng niềm hy vọng vĩ đại nhất họ mang nơi mình.
Tại sao vậy ?
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu nơi dương thế chỉ là để công bố có một điều mà nhân loại chưa từng được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…”
Nhưng thập giá còn nói lên điều đó cách thâm sâu hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ dám chết cho nhân loại tội lỗi. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ). “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 78 ).
Như thế suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn một tình yêu vĩ đại nhất chưa từng bao giờ được biết tới. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn đồng treo trên cây gậy trong sa mạc. Rắn đồng treo trên cây nói lên tình yêu trung thành của Giavê đối với dân riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch. Không may hình ảnh này đã bị họ lãng quên không biết từ thuở nào rồi. Còn các Kitô hữu, họ sẽ không ngừng đề cao Thánh Giá vì nó nói cho họ biết về một Thiên Chúa đầy từ nhân và hay thương xót, đã yêu thương họ tới mức chấp nhận cái chết khổ nhục.
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn Ơn Cứu Độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ hiểu Thiên Chúa đã ban Ơn Cứu Độ cách nhưng-không cho con người, không do bất cứ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là thân mẫu Maria đứng chết lặng dưới chân thập giá; người thứ hai, theo truyền thuyết lâu đời của Giáo Hội, chính là Maria Mácđala ôm lấy chân thập giá; tiếp đến là các môn đệ Gioan và Phêrô v.v… Tất cả họ, mỗi người mỗi kiểu, đều biểu dương Thập Giá như nguồn Ơn Cứu Độ và niềm hy vọng duy nhất của đời mình. Họ suy tôn Thánh Giá trong cảm nhận sâu xa con người thấp hèn và tội lỗi của mình. Và nơi Thập Giá, họ làm cho niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ bừng sáng lên nơi mình.
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới là "yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù" ( Lc 6, 27 – 35 ) "yêu thương như Thầy đã yêu thương" ( Ga 13, 34 – 35 ). Họ biết rằng Thập Giá là con đường hoàn thiện, không phải vì Thập Giá làm cho họ nên tốt hơn hay giảm bớt phạm tội, nhưng vì càng vào sâu trong Thập Giá – hay càng suy tôn Thánh Giá với cả tâm hồn – cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân hậu giống như Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”.
Qua suy tôn Thánh Giá, họ tiến sâu hơn vào một Thiên Chúa thứ tha, để rồi chính họ cũng trở nên dễ dàng tha thứ; họ đề cao một Thiên Chúa không lên án, để rồi họ cũng không dám lên án những người anh em lỗi phạm; họ tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng không dám đoán xét những người anh em sống quanh mình ( Lc 6, 36 – 37 ). Đúng là không suy tôn Thánh Giá, Kitô hữu chúng ta không thể nào đạt tới "sự thánh thiện" độc đáo này như Tin Mừng Đức Giêsu mong đợi.
Giáo Hội vì thế luôn coi việc suy tôn Thánh Giá qua cử hành Thánh Lễ là trung tâm điểm của đời Kitô hữu. Điều đó thật chí lý ! Tuy nhiên vẫn tồn tại nơi nhiều người chúng ta nguy cơ duy trì khuynh hướng hạ thấp việc suy tôn này xuống tầm một việc sùng kính đạo đức hay một biểu lộ tình cảm xót thương. Trong khi lẽ ra "Suy tôn Thánh Giá" phải là tuyên xưng một niềm tin-cậy-mến thâm sâu nhất mà một Kitô hữu có thể có. Việc suy tôn này cần được biểu lộ cách hữu hình qua cử hành Bí Tích Thánh Thể, qua việc trưng Thánh Giá khắp nơi, qua việc làm dấu Thánh Giá nhiều lần trong ngày… nhưng quan trọng hơn hết vẫn là bằng chính đời sống hiện sinh mà họ thực hiện trong cuộc sống thường nhật.
"Suy tôn Thánh Giá" sẽ chính yếu hệ tại ở việc sống sâu xa tình yêu cứu độ mà Thiên Chúa từ nhân đã in đậm trong thẳm sâu cõi lòng. Riêng tôi, tôi có thực xác tín điều đó không ?
Lạy Chúa Kitô chết treo trên thập giá ! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Maria hay thánh Gioan, nhưng cũng có nhiều khi con lại dễ suy tôn hơn như Mácđala hay Phêrô. Dầu với biểu hiện nào đi nữa, xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận Tin Mừng cứu độ, và trong nếp sống hiền hòa nhân ái với hết mọi người. Xin cho việc suy tôn Thánh Giá thực sự trở thành lẽ sống đời con. Amen.
Phát biểu trong Thượng hội đồng Giám mục thế giới, nhóm họp tại Rôma vào tháng 10.1990, Đức Cha TN 23-C122 Lượng
Phát biểu trong Thượng hội đồng Giám mục thế giới, nhóm họp tại Rôma vào tháng 10.1990, Đức Cha Nguyễn Văn Hoà, Giám mục Nha Trang đã đề cao chứng tá của đời độc thân linh mục. Ngài cho biết: Sở dĩ các linh mục ở Việt Nam được kính trọng là nhờ ở đời sống độc thân. Đồng thời cũng nhờ đời sống độc thân mà các linh mục xứng đáng được gọi là thầy. Như chúng ta đã biết linh mục là Alter Xtus, là Đức Kitô thứ hai. Nếu Đức Kitô đã được gọi là Thầy nhờ vào sự tận hiến của Người, thì các linh mục cũng thế, muốn được gọi là thầy, thì cũng phải sống tâm tình hiến dâng.
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã nhiều lần xác quyết: Ai không từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Là môn đệ của Chúa, chúng ta phải trở nên giống Người, có nghĩa là chúng ta cũng phải dâng hiến, và sự dâng hiến trọn vẹn nhất cho Chúa, chính là cuộc sống độc thân của các linh mục và tu sĩ.
Trên bình diện Giáo Hội, sự độc thân của các linh mục tu sĩ chính là một kho tàng Thiên Chúa đã trao tặng cho Giáo Hội, bởi vì nhờ đó các ngài không còn bị ràng buộc bởi hôn nhân, bởi gia đình, bởi tài sản và những tiện nghi vật chất khác nữa.
Nhìn vào xã hội Việt Nam, chúng ta thấy có những thuận tiện cho việc độc thân của linh mục và tu sĩ, bởi vì các tín hữu luôn quý mến và nâng đỡ các ngài, chính những tình cảm nồng hậu ấy trở nên như một hàng rào bảo vệ cho sự độc thân của các ngài. Đó không phải chỉ là một ơn riêng cho bản thân linh mục mà còn là một quà tặng chung cho Giáo Hội, bởi vì các ngài trở nên như những chứng tá cho Giáo Hội, đồng thời qua sự độc thân ấy, các ngài như muốn mời gọi tất cả chúng ta: Hãy sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, đó cũng là một ơn gọi chung cho mọi người tín hữu.
Thực vậy, sự nên thánh không bao giờ có một biên giới bởi vì mọi người đều được mời gọi để nên thánh. Các linh mục và tu sĩ thì nên thánh qua bậc độc thân của mình, còn người giáo dân thì nên thánh qua bậc gia đình và môi trường sống của mình. Chính vì thế sống bậc gia đình không phải là một cái gì thấp kém nhưng cũng là một ơn gọi. Nếu chúng ta trung thành trong đời sống vợ chồng, nếu chúng ta chu toàn được những bổn phận của mình trong phạm vi gia đình, chúng ta cũng có thể nên thánh.
Chúa Giêsu không đến để hạ giá đời sống gia đình, nhưng trái lại Người đã nâng nó lên hàng bí tích và lấy nó làm hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Người và Giáo Hội. Nếu như linh mục phải đi cho đến tận cùng lời cam kết độc thân của mình, thì chúng ta, những người giáo dân, chúng ta cũng phải đi cho đến tận cùng lời cam kết hôn nhân của mình.
Bởi đó chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục cũng như cho mỗi người chúng ta biết sống trọn vẹn cho Chúa trong bậc sống của mình ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người TN 23-C123
Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn "xây tháp" và "đi giao chiến". Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được". Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời gọi hãy từ bỏ. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Đức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Đức Giêsu là Hy vọng, là Đường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.
Bền bỉ, kiên trì, đi cho trọn đường, đó là thánh giá đời người. Để là người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Đức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Đã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là "Thiên Chúa là trên tất cả". Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Để có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là "chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau" (Mc 10,29-30).
Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp... nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.
Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.
Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết ?
Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Đức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy?
Lạy Chúa, Để con có thể gắn bó với Ngài tha thiết hơn nữa, con ước mong ý thức con trở nên bao la như trời biển, mênh mông như vũ trụ, trải rộng như loài người khắp mặt đất, sâu thẳm như quá khứ, sa mạ, trùng dương, tinh vi như hạt nhân nguyên tử, thâm thúy như tư tưởng của lòng người. Phải chăng con cần gắn liền với Chúa từ mọi địa điểm của vũ trụ bao la này, và để con đừng sa chước cám dỗ rập rình trong mọi hành vi táo bạo, để chúng con đừng bao giờ lãng quên là chỉ có Chúa mới đáng được tìm kiếm qua mọi sự.
Bài đọc 1 Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng” “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban TN 23-C124
Bài đọc 1 Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng” “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan”. Vì theo Thánh Kinh, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa đồng nghĩa với Lời Chúa. Từ đó, nghe lời sự Khôn ngoan là căn tính đầu tiên của người môn đệ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Co 1, 24, 30 ) cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh, từ bỏ nữa” “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” Nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao ? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân thiết nhất, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. ). Ngài yêu cầu phải "bỏ" cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Có người đặt câu hỏi” Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải ... mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu, nên Ngài thêm” “Ai không vác thập giá mình mà theo, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đức Giêsu có thích khổ đau và thậy giá không? Không, Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, từ bỏ tính kiêu căng, thói tham lam, để chúng ta thoát khỏi những đam mê vật chất, hầu sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Đức Giêsu nói đến "Thập Giá". Vác thập giá bước theo Đức Kitô không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Đức Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Đức Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma” “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật.” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con muốn từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, nhưng trên đường đi, chúng con sợ bị mất một phần của đời sống, sợ mất tự do, sợ đau khổ, sợ không có khả năng, không thực sự muốn bước đi theo Chúa và trở thành môn đệ Chúa. Lạy Chúa, chúng con dâng cho Chúa 'ước muốn theo Chúa của chúng con' và chúng con mở cửa lòng mình cho Chúa. Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo, hiệp nhất với Chúa cho đến trọn đời. Amen.
Vẫn trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết đau khổ và cái chết đang chờ đón ở cuối cuộc hành TN 23-C125
Vẫn trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết đau khổ và cái chết đang chờ đón ở cuối cuộc hành trình. Ngài phải uống chén đắng. Tuy nhiên, khi đến giờ, Ngài thấy nó không dễ. Ngài phải trải qua một cơn hấp hối kinh hoàng và đã xin Chúa Cha cất chén ấy. Thế nhưng, Ngài đã giữ vững lòng trung tín. Điều làm cho Ngài kiên vững, đó là tình yêu. Ngài yêu Chúa Cha, muốn thực hiện ý định của Người. Ngài biết Chúa Cha muốn bày tỏ tình yêu sâu xa của Người với nhân loại, qua sự thành tín và lòng yêu thương của Ngài. Lòng thành tín và yêu thương này được trả bằng chính mạng sống của Ngài. Bởi vậy, Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha: Chết khổ nhục trên Thập giá. Qua cái chết đó, Ngài cũng thể hiện tình yêu của Mình đối với nhân loại: "Không ai có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13).
Đang khi đó, có rất đông người cùng đi với Đức Giêsu, nghĩ rằng: Ngài là Đấng Messia, là nhà lãnh đạo quân sự, một Đavít mới, tiến về Giêrusalem, để giải phóng Israel khỏi sự áp bức đô hộ của người Lamã, khôi phục đất nước. Đức Giêsu không muốn họ theo Ngài cách mù quáng. Ngài không che dấu những khó khăn, vất vả, hi sinh. Ngài cho họ biết, đi theo Ngài sẽ gặp nhiều đau khổ: Phải "dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình" (Lc 14, 26).
Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: "Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời". Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.
Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: "Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích "Hành trình đến tự do", 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.
Phêrô, một hôm, đã hỏi Chúa: "Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con được gì?". Đức Giêsu trả lời: "Chúng con sẽ được gấp trăm ở đời này, cùng với sự bắt bớ và tù đày".
Vâng, làm môn đệ theo Đức Giêsu, phải chịu bắt bớ, tù đầy. Môn đệ không hơn Thầy. Đức Giêsu đã chịu đau khổ, môn đệ không có con đường nào khác. Nhưng cái gì làm môn đệ có thể chịu đau khổ? Thưa, tình yêu. Chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự. Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn, bị cáo gian, bị xỉ vả, đánh đòn, chế nhạo, phỉ nhổ, đội mão gai, đóng đinh vào Thập giá... Người đã chịu tất cả những điều đó vì tình yêu. Hơn nữa, Người đã biến đổi đau khổ, sự nhục nhã thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đó là chiến thắng của tình yêu trên mọi sức mạnh hủy diệt. Trong Người, không có gì khác ngoài Tình yêu thương. Ngay cả khi chịu đóng đinh, Người vẫn yêu thương: "Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Những đau khổ của Người sẽ ra vô ích, nếu Người không chịu đựng với tình yêu thương. Không phải những đau khổ của Người đã cứu rỗi nhân loại, nhưng bởi tình yêu thương của Người.
Ai giả bộ thích chịu đau khổ, thật điên rồ. Đau khổ là thứ hầu hết chúng ta muốn tránh. Thế nhưng, người môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ vì yêu. Vì yêu, họ có thể dứt bỏ cha mẹ, anh em, chị em và cả mạng sống mình (Lc 14, 26). Vì yêu, họ sẵn sàng phục vụ mọi người. Vì yêu, họ chấp nhận mọi đau khổ. Họ tỏ lòng trung tín của mình trong đau khổ. Đau khổ là cách thể hiện tình yêu cao vời nhất.
Để thực hiện điều đó. Người môn đệ cần phải lượng sức mình, phải tính toán xem mình có đủ khả năng tiến bước hay không. Chúng ta không thể làm việc gì quá khả năng. Nhưng tất nhiên, chúng ta không biết trước khả năng của mình đến đâu. Chúng ta có thể tự đánh giá khả năng của mình hoặc quá thấp, hoặc quá cao. Điều quan trọng nhất là tự biết mình. Đức Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn ngắn: Người xây tháp và vua đi giao chiến. Một người xây tháp cần phải tính toán phí tổn, xem có hoàn thành nổi không? Vua đi giao chiến, phải tính xem số lượng quân đội của mình, có đủ sức đương đầu với đối phương không? Qua hai dụ ngôn đó, Ngài muốn bảo: Những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài, cần phải suy nghĩ chín chắn.
Có thể, có một ai đó theo Chúa, nhưng không phải là môn đệ, họ chỉ là kẻ theo đóm ăn tàn trong một công việc vĩ đại, chỉ là người nói chứ không làm. Có một vị vua đến thăm Thiền viện của thiền sư Lin Chi, ông kinh ngạc vì có đến mười ngàn tu sĩ ở đó. Muốn biết chính xác con số các tu sĩ, nhà vua hỏi thiền sư: "Thầy có bao nhiêu môn đệ?" Lin Chi đáp: "Có bốn hoặc năm người".
Phần những người đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng hỏi: Có bao nhiêu người là môn đệ đích thực của Ta.
“Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh, phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều TN 23-C126
Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh, phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều chúng ta mong muốn. Cách sống này người ta gọi là ”Khổ nhục kế”. Khổ nhục kế cũng là cách người ta dùng hy sinh, dùng nhục hình để nói lên lòng thành của mình.
Chuyện kể rằng tại lối vào một trung tâm mua sắm sầm uất ở tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) đã thực sự bị ùn tắc trước "sự cố nghiêm trọng": một thanh niên quỳ gối nhất quyết không chịu đứng lên, khiến cho mọi người xúm lại coi! Ngay cả khi cảnh sát đến can thiệp, anh chàng cũng không chịu rời vị trí để trả lại sự yên tĩnh cho đường phố!
Anh chàng cho biết bản thân đang cực kỳ đau khổ và giày vò vì đã không giữ lời hứa với người yêu mà uống rượu, khiến cô nàng tuyên bố đường ai nấy đi! Khổ thân anh chàng lếch thếch chạy theo năn nỉ và mất dấu cô bồ ở trung tâm mua sắm này. Vì thế, anh ta quyết định quỳ gối cho đến khi nào cô ấy xuất hiện mới thôi. May mà sau vài tiếng "thi gan", anh chàng đã khiến cho trái tim cô gái "chảy nước" nên cô đã đến và đưa anh ta đi.
Hóa ra để được việc đôi khi phải từ bỏ, từ bỏ danh dự, từ bỏ chính mình để được điều mình mong ước. Tựa như một cậu học sinh cần từ bỏ những niềm vui vô bổ để tập trung học hành mới mong công thành danh toại. Cuộc sống không có vinh quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế.
Cuộc sống của người môn đệ cũng phải trải qua gian khổ, hy sinh, tập luyện và từ bỏ. Đôi khi phải hy sinh hay từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.
Chúa Giê-su cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giê-su đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giê-su đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.
Là người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gi so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thường hạnh phúc thiên đàng.
Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen.
Chúa Nhật 23 thường niên: Sách Khôn ngoan 9,13-18; thư gởi Philemon 9-17; Lc 14,25-33.Các bài đọc TN 23-C127
Chúa Nhật 23 thường niên: Sách Khôn ngoan 9,13-18; thư gởi Philemon 9-17; Lc 14,25-33.
Các bài đọc và bài tin Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan.
I- Sách Khôn Ngoan nêu một thực tế: tại sao con người “mất khôn” và làm sao có thể trở nên khôn?
Con người mất khôn vì: “ Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.
Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng nhắc các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).
Thân phận con người là như thế. Bao nhiêu lần chúng ta tự đấm ngực sau khi đã làm một chuyện đáng tiếc: “Sao lúc đó mình không nghĩ ra… Sao lúc đó mình ngu thế!”…
Đó là cái giới hạn thứ nhất. Cái giới hạn thứ hai càng khó vượt qua:
“Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai do thấu nổi hay chăng?”
Chúa Giêsu cũng nói với ông Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin,thì giả như tôi nói nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?”(Ga 3,12).
Câu trả lời rất rõ ràng và dứt khóat: “Ý định của Chúa, nào ai bíết được, nếu tự chốn cao vời, Ngài chẳng ban Đức khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho bíết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”
Các tông đồ đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để ở với Chúa và được Chúa đích thân dạy dỗ suốt ba năm trời, mà càng học càng ngu, khiến Chúa phải than: “Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao? Lòng anh em chai đá thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao” (x. Mc 8,17-18).
Rút cục thì phải chờ đến khi Chúa đã vào trong vinh quang Phục Sinh, Chúa mới giải được cái huyệt ngu cho các ông: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45).
Tin Mừng Gioan nói rõ hơn: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16,13).Vậy ra Thánh Thần là “ngón tay”của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Vinh Quang dùng để giải huyệt ngu và giúp trí nhớ cho các môn đệ.
Môn đệ thuộc thế hệ thứ hai, tức là các tín hữu do các Tông Đồ dạy dỗ cũng vẫn còn bị “điểm huyệt” cho hóa ngu. Trong bức thư đầu tiên gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và là bản văn xưa nhất trong sách Tân Ước, thánh Phao lô diễn tả cách thức ngài dạy dỗ tín hữu: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ… Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào Nước và vào vinh quang của Người” (I Th 2,7.11-12).
Cuối thư, ngài khuyên họ: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ coi thường ơn làm ngôn sứ. Hãy cân nhắc mọi sự, điều tốt hãy giữ lấy, mọi thứ xấu hãy lánh xa” (5,18-22).
Trong bức thư thứ hai gởi cho cùng một cộng đoàn này, thánh Phaolô đã phải cảnh giác họ: “Về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, chúng tôi xin anh em điều này: anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hỏang sợ vì một mặc khải của thần khí, một lời nói hay một bức thư được coi như là do chúng tôi và làm cho anh em tưởng là ngày của Chúa đã đến. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Th 2,1-3).
Như vậy là sớm có những ngón tay khác tìm cách điểm huyệt làm cho ngu! Sư phụ của cái ngón điểm huyệt làm cho ngu vẫn là kẻ thù truyền kiếp: Xa-tan. Trong thư thứ hai gởi tín hữu Corintô, thành Phaolô vạch mặt chỉ tên nó: “… kẻo chúng ta bị Xa-tan lường gạt, vì không phải chúng ta không biết ý đồ của nó”(2Cr 2,11); “Lạ gì đâu, chính Xa-tan cũng giả dạng thiên thần” (11,14).
Trong thư gởi tín hữu Ga-lát, [là thư thứ hai, về thời gian, sau thư I Th], thánh Phaolô quở trách họ cũng giống Chúa Giêsu quở trách các tông đồ: “Hỡi những người Ga-lat ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em… Anh em ngu xuẩn như thế sao?” (Gl 3,1.3). Rồi trong phần khuyên bảo, thánh Phaolô nhắc lại điều sách Khôn Ngoan đã nói: “Thật thế, tính xác thịt đam mê những điều trái ngược với Thần Khí… khiến anh em không làm được những điều anh em muốn” (5,17).
Cái nọc độc của Xa-tan thấm sâu đến nỗi người ta lừa dối chính mình: “Nếu ai tưởng mình là cái gì mà chẳng là cái gì cả, thì lừa gạt chính mình” (6,3). Nó có thể trở thành một thứ bệnh dịch: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo huấn lành mạnh, nhưng theo những đam mê của chính mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa ngáy muốn nghe. Họ sẽ ngỏanh tai đi không nghe sự thật, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2Tm 4,3-4).
Cuối cùng thánh Phaolô còn gặp phải một “Anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian” (2Tm 4,10).
Xa-tan có trăm nghìn ngón để điểm vào cái huỵêt làm cho hóa ngu. Nó có nội gián ngay trong lòng ta, nó có đồng minh và tay chân bao vây ta. Thánh Phaolô bíêt thế, nên từ trong tù, ngài đã viết cho tín hữu Ephêsô: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha… Nguyện xin Chúa ban cho anh em được mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người… để cùng các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết lòng yêu mến của Đức Kitô” (Ep 3,14-19).
II. Bài đọc thư Philêmon cho chúng ta thấy thánh Phaolô đã vận dụng sự Khôn Ngoan của tin Mừng để giải quyết một vấn đề xã hội của thời ngài: vần đề nô lệ. Philêmon là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là “người bạn yêu quý và cộng sự viên”.
Không hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon, tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Nhưng anh ta rất khôn, tìm đến gặp thánh Phaolô đang ở trong tù. Và đối với thánh Phaolô anh ta đã trở thành “đứa con tôi sinh ra trong cảnh xiềng xích…nó là ruột thịt của tôi”. Anh ta trở nên người hữu ích đến nỗi thánh Phaolô ngỏ ý: “Tôi muốn giữ nó ở bên tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi không muốn làm gì mà không có sự ưng thuận của anh…”.
Tương quan giữa Ônêximô, người nô lệ đã bỏ trốn, và Philêmon, ông chủ, bây giờ thế nào?
“Có lẽ nó đã rời xa anh một thời gian, chính là để anh vĩnh viễn được lại nó, không phải như một người nô lệ nữa, nhưng còn hơn một người nô lệ, như một người anh em yêu quý: đặc bíệt yêu quý đối với tôi, phương chi đối với anh lại còn hơn bíêt mấy, xét cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”.
Sự biến đổi tuyệt vời: người nô lệ trở thành người anh em trong Chúa của ông chủ.
Cách mạng kiểu Mac-xít thay đổi bằng cách lật ngược trật tự xã hội, đổi vai: chủ xuống làm nô lệ, nô lệ lên làm chủ. Ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975, còn đi tới khẩu hiệu: “thằng trời kia xuống làm dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”, bởi vì nông hội có thể “thay trời làm mưa” và có thể “nghiêng đồng tát nước ra sông”. Cách mạng triệt để tới thế là cùng!
Sự Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em của chủ, “cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả anh lẫn tôi”.
Tin Mừng không chủ trương lật đổ, nhưng biến đổi các tương quan từ bên trong:
“Thưa anh em, mỗi người đang ở địa vị nào khi được kêu gọi thì cứ ở địa vị đó. Bạn là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm, dù có thể được tự do, tốt hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. Thật thế, người nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Kitô. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (I Cr 7,20-23).
Sự thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa để kết hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28).
Xã hội tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).
III. Sự Khôn Ngoan Chúa dạy trong bài Tin Mừng.
Sách Tin Mừng Luca nói “dai” nhất và “triệt để” nhất về những điều kiện để làm môn đệ.
Nói “dai” nhất:
Sau lần thứ nhất Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó, Lc không kể gì về phản ứng của các tông đồ, mà để cho Chúa Giêsu tuyên bố liền điều kiện làm môn đệ. Sau lần thứ hai, Chúa ân cần sửa dạy cách hành xử “chống thập giá” của các tông đồ, rồi “cương quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Vừa lên đường thì lại xảy ra chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan muốn làm môn đệ Elia, khiến lửa từ trời xuống đột người ta, rồi chuyện ba người lần lượt xin theo Chúa hoặc được gọi theo Chúa, và được nghe những điều kiện một cách cụ thể.
Đến chương 14 thì Lc lại kể những lời Chúa nói về điều kiện làm môn đệ.
Sau lần thứ ba loan báo cuộc thương khó thì chỉ thấy “một sự im lặng đáng sợ” từ phía các môn đệ.
Tới bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng, sau khi Chúa đã lập bí tích Thánh Thể, trao Mình và Máu làm của ăn của uống và tuyên bố “bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”, thì Lc kể” “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong các ông được coi là người lớn nhất”, khiến Chúa Giêsu phải lặp lại một cách quyết liệt hơn bài học đã dạy sau lần thứ hai và đặt chính mình Chúa làm gương mẫu: “Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,21-27àso với Ga 13).
Lc nói “triệt để” nhất:
lần thứ nhất nói về điều kiện làm môn đệ: “Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo…” (9,23-26).
Lần thứ hai” “Ai đến với tôi mà không… thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình và đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi (14,26-27).
Tình triệt để hiện rõ trước tiên ở cụm từ “thập giá hàng ngày”, chứ không phải lâu lâu gặp một lần!
Cách phát biểu lần thứ hai thì như một “định lý đảo” trong tóan học, so với lần thứ nhất là “định lý thuận”. Trong tóan học, khi một định lý thuận có định lý đảo thì không có cách nào thóat được!
Chúa nói với mọi người: Cái phiền là Chúa không nói riêng với các môn đệ vẫn theo Chúa hay với các vị trong nhóm Mười Hai, mà nói với mọi người (9,23 và 14,25). Vậy thì điều kiện này không chỉ dành cho ông cha, bà phước hay ông thầy khổ tu, mà dành cho mọi người.
Làm sao Chúa có thể đòi mọi người như thế được? Ở lần thứ nhất, Chúa giải thích: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất…”. Rõ ràng là khi bị đặt trong một hoàn cảnh phải chọn lựa quyết liệt, thì phải chọn Chúa hơn chính mạng sống mình, hơn mọi của cải trần gian, hơn danh vọng. Đó là trường hợp các thánh tử đạo, tổ tiên chúng ta và những người tử đạo đương thời…
Nhưng Lc Chúa nói đến “thập giá hàng ngày” kia mà! Sách Tin Mừng này đặc biệt thích “hàng ngày” và “hôm nay”. Thiên thần báo tin cho các người chăn chiên: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (2,11). Chúa Giêsu trong Hội Đường Nadaret: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai quý vị vừa nghe” (4,21). Khi Chúa vào nhà ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Và trên thập giá, Chúa đáp lời người trộm cướp kêu xin: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trong kinh Lạy Cha, “Xin cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (11,3).
Ngày nào cũng là “Hôm nay” của ơn cứu độ, ngày nào cũng cần lương thực ngày ấy. Vì thế mà thập giá là nơi treo ơn cứu độ cũng hiện diện hàng ngày như lương thực.
“Thập giá hàng ngày” trở nên khó hiểu vì chúng ta thường hỉểu thập giá là cái gì đau khổ lắm, nên chỉ khi nào gặp chuyện đau khổ lắm mới đem lời “thập giá” ra an ủi nhau!
Trong lời Chúa tuyên bố, chúng ta có thể thấy “từ bỏ chính mình” là nói một cách trừu tượng, “vác thập giá mình hàng ngày” là kiểu nói bằng hình ảnh. Ở thời Chúa Giêsu hai chữ thập giá gợi lên cái gì thì ai cũng biết, và cảnh người bị treo trên thập giá không phải là họa hiếm. Có lẽ những người nghe Chúa cũng đã từng thấy cảnh đó rồi. Bị treo lên thập giá thì chẳng còn gì cả, trần truồng trước con mắt mọi người, ai đi qua cũng có thể phỉ báng, chim trời xuống mổ hay muỗi cắn cũng không đuổi được nữa. Một người bị kết án tử hình đã vác lấy thập giá của mình mà đi thì không còn gì là của mình nữa rồi.
Như vậy hình ảnh “vác thập giá mình hàng ngày” diễn tả trọn vẹn nhất sự từ bỏ, giống như Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11). Chính lời giáo huấn trong bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng cho chúng ta hiểu vác thập gia hàng ngày là đem bản thân và những gì mình có ra phục vụ anh chị em.
Cái khôn của Tin Mừng là “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”, bỏ cái giới hạn để được cái vô hạn, bỏ cái mau qua để được cái vĩnh cửu. Bỏ bóng bắt mồi chứ không bỏ mồi bắt bóng! Có nhiều cách bỏ.
Trong Tin Mừng Lc có các môn đệ “bỏ mọi sự mà đi theo Chúa” (5,11), lại có các phụ nữ giầu có ôm hết của cải mà đi theo Chúa: “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (8,3). Có ông Da-kêu vừa được Chúa gọi và xin cho vào trọ ở nhà ông, ông đã thưa: “Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài của tôi, tôi cho người nghèo”(19,8). Có ông Giuse Arimathê dùng uy tín của mình để đơn thân đi gặp Philatô xin xác Chúa Giêsu và chôn trong ngôi mộ mới (23,59-53).
Trong sách Công Vụ và các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy nhiều người như ông Philêmon, biến nhà mình thành nơi hội họp cho cộng đoàn tín hữu. Cặp vợ chồng Pơ-rit-ki-la và A-qui-la liên kết với thánh Phaolô phục vụ các cộng đoàn ở Corintô, Ephesô, Rôma.
Quả thật điều kiện làm môn đệ áp dụng cho mọi người, mọi bậc sống. Làm môn đệ của Chúa không phải là một nếp sống dành riêng cho một số người, nhưng cho mọi người. Ai cũng được mời gọi làm môn đệ của Chúa cả.
Cái trớ trêu của cuộc đời là có những người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên” một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao giờ thấy mình hạnh phúc.
Trong chuyện “Bao Công xử án”, có chuyện một ông trong hoàng tộc bị kết tội mưu phản và bị chém đầu. Nhưng tòa án có ba con dao khác nhau: con dao có đầu con chó để chém dân đen (Cẩu đầu trảm), con dao có đầu con hổ để chém quan chức (Hổ đầu trảm) và con dao có đầu con rồng để chém người hoàng tộc (Long đầu trảm). Đáng lẽ theo đúng tội thì phải giáng xuống hàng dân đen. Nhưng Bao Công nể mặt hoàng tộc, ra lệnh “Hổ đầu trảm”. Ông hoàng đòi “Phải xử ta bằng Long đầu trảm”! Bao Công ra lệnh “Cẩu đầu trảm”!
Đúng là “cà cuống chết đến đít còn cay”.
Ngày nay trong các nước nghèo của châu Á, châu Phi, bên cạnh số người thật lòng đáp lại tiếng Chúa gọi, cũng có những kẻ “khôn ngược”: đó là những người chẳng có gì để bỏ, ngòai “chính mình”, nhưng lại ôm theo vào chủng viện, vào tu viện với cái ước mơ “vinh thân phì gia”, “một người làm quan cả họ được nhờ”.
Thật đáng báo động vì nguy hiểm cho tương lai của Giáo Hội.
Thế là đảo lộn Tin Mừng! Thay vì lột bỏ hết để theo Chúa thì lại cùng chia áo sống của Chúa với “quân dữ”, lợi dụng tài sản của Giáo Hội, lợi dụng lòng tốt của giáo dân, của ân nhân trong và ngoài nước… Giáo Hội tại các nước giàu đã chịu bao nhiêu thiệt thòi, có khi phá sản vì những gương xấu của linh mục, tu sĩ. Giáo Hội tại các nước nghèo không cẩn thận thì lại “nuôi ong tay áo”, tới lúc nào nó đốt cho rồi bay đi thì hối không kịp.
Phần cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy tiếp sự khôn ngoan của Tin Mừng. Chúa kể hai dụ ngôn về khôn ngoan ở đời là phải biết tình tóan. Rồi chuyển qua sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Cũng vậy, ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi”. Lại một định lý tóan học! Nhưng sao lại “cũng vậy”? Hai thí dụ đều là phải biết tính tóan, áp dụng vào con đường làm môn đệ thì lại không có tính toán mà chỉ có “trọn gói”!
“Cũng vậy” nghĩa là giống nhau. Giống nhau ở chỗ nào đây?
Giống nhau ở chỗ hai bên đều là khôn cả”
Khôn ở đời là phải bíêt tính tóan,
khôn của Tin Mừng là không tính tóan.
Tuy Chúa Giêsu học nghề thợ mộc, quen đo đạc: đo cuộc sống cũng lấy “khủyu tay” (Lc 12,12,27), nhưng đến khi nói về điều kiện để theo Chúa thì Chúa xóa hết các động từ “cân, đo, đong, đếm”, chỉ bíêt “trọn gói”.
Chúa khôn thiệt. Không cân, đo, đong, đếm thì không chia chác được.
Chúa cũng không cân, đo, đong, đếm từ khi làm người cho đến khi trút hơi trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Xin Chúa cho con một tí cái khôn của Chúa đi, con sẽ hạnh phúc suốt đời và muôn đời.
Một đám rất đông người theo Chúa Kitô, cùng đi với Chúa Kitô. Lý do nào, động lực nào thúc đẩy họ? TN 23-C128
Một đám rất đông người theo Chúa Kitô, cùng đi với Chúa Kitô. Lý do nào, động lực nào thúc đẩy họ? Vì phép lạ hoặc lời giảng dạy hoặc họ đã nhận ra Chúa là Đức Kitô? Câu hỏi nào cũng có thể đúng với một số người trong đám đông hỗn tạp này cả (x.Lc 14,25-38)
Chúa dạy họ. Ta có thể đoán được cái gì họ chưa có, Chúa mới dạy, “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”, dịch đúng là “Nếu ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”.
Một lời dạy đọc ra “chói tai”, vi phạm giới răn thứ tư. Ngôn ngữ Cựu ước thiếu lối so sánh “mà hơn”, họ dùng lối đối ngẫu, cặp đối lập thay vào, thí dụ: Thiên Chúa thương Giacóp và ghét Esau, có nghĩa là “Thiên Chúa thương Giacóp hơn Esau” (Mal 1, 2-3). Như vậy, lời Chúa dạy trên phải hiểu: Nếu ai đến với Ta mà thương yêu cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình hơn Ta thì không thể làm môn đệ Ta.
Đó là điều kiện tiên quyết đòi hỏi rất hợp lý hợp tình. Đặt Chúa trên các giá trị khác. Tình gia đình sâu thẳm, ai cũng nhận thế. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nhưng công của Chúa, tình của Chúa thương ta còn hơn cả cha mẹ, mến Chúa hơn cha mẹ là đúng. Chúa là cha mẹ ở bậc cao nhất vì Chúa tạo dựng mọi sự, quan phòng và cứu chuộc, chết cho ta đươc sống nên ta mến Chúa hơn cha mẹ là đúng.
Ai còn đặt một thứ tình yêu nào trên tình yêu Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Biết đặt đúng giá trị con người, sự vật, biết ưu tiên cho tình yêu mến Chúa ta phải từ bỏ, phải hy sinh, phải chịu thiệt cái này cái kia nghĩa là phải vác thập giá theo Chúa. Không hy sinh, không từ bỏ, không hạn chế điều này điều kia, ta chỉ có thể mến Chúa ngang hàng với những thứ khác (tiền bạc, danh vọng, vợ con), ta không xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Nền tảng của con người môn đệ Chúa là yêu mến Chúa hơn mọi thứ khác hợp lý, hợp luật (yêu cha mẹ là hợp lý hợp luật, yêu anh chị em là hợp lý hợp luật v.v…). Còn thứ hạng của môn đệ, cách thể hiện người môn đệ thì khác nhau. Không phải ai cũng bỏ mọi sự theo Chúa như Mười Hai Tông đồ được. Có người xin theo Chúa, Chúa đã dạy ở nhà làm “Tông đồ giáo dân”. Chúa nói với đám đông hai dụ ngôn để họ cân nhắc, ước lượng sức của mình, biết mình nên thuộc loại môn đệ nào:
Dụ ngôn xây tháp, phải tính toán tiền bạc xem có đủ không. Xây dở chừng, không hoàn thành, người ta sẽ cười cho.
Dụ ngôn ông vua sắp đi giao chiến với vua khác, tính toán cẩn thận xem mình có đủ lực thắng không. Không thắng thì tốt nhất là đi cầu hòa, hiệp thương.
Như vậy, đối với những người theo Chúa để làm Tông đồ như linh mục, tu sĩ đã dấn thân thì nên dấn thân trọn vẹn vì đã suy tính cân nhắc rồi. Từ bỏ tất cả để sống phục vụ Chúa và tha nhân. Bất nhất là không ra gì hết.
Đối với giáo dân, đời sống trần thế là đối tượng tông đồ, làm sao cho mọi sinh hoạt trần thế có tinh thần Tin Mầng. Gia đình, công sở, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm đều là nơi ta tiếp xúc, làm việc, sinh sống thể hiện người môn đệ của Chúa. Đời sống nào cũng phải đúng đắn, hợp luật. Thanh niên chưa lập gia đình, phải sống đời “độc thân tạm thời” cho thật đàng hoàng, đạo đức. Người lập gia đình, chọn bạn trăm năm chứ không phải mười năm, đôi ba năm rồi ly dị. Người công nhân phải chuyên cần, đem sức lao động phục vụ bản thân, gia đình và xã hội.
Đời sống nào cũng đòi hỏi quyết tâm, dấn thân trong tinh thần vì yêu mến Chúa hơn tất cả.
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì........... (Lc 14,27-33). Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra TN 23-C129
"Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi... Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27-33). Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra trên đây là cho hết mọi người chứ không riêng gì một ai. Tin Mừng Luca ghi rõ là khi ấy có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu và Người đã nói những lời ấy với tất cảm đám đông. Kitô hữu chúng ta có lẽ quá quen với hình ảnh thập giá và cả sự từ bỏ nhờ các cử hành Phụng Vụ, đặc biệt trong mùa Chay thánh. Phải chăng vì quen quá nên hóa nhàm? Và hệ quả kéo theo là không nắm được, đúng hơn là không hiểu đúng, chưa hiểu hết nội hàm của thập giá cũng như sự từ bỏ.
Nếu hiểu được thập giá và sự từ bỏ đúng như sự tự hủy và như thập giá của Chúa Kitô, đó là chịu án bất công, là chẳng còn hình tượng người ta nữa, là nên như người bị phỉ nhổ, như người bị Thiên Chúa đoán phạt... thì có lẽ khó có ai dám trả lời cách hiên ngang là con muốn theo Chúa, con muốn làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tiên liệu nhiều khó khăn mà những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người phải chịu, nên đã căn dặn rằng cần khôn ngoan suy xét cẩn thận. Đừng để chuyện "xôi hỏng, bỏng tay" xảy ra vì thiếu khôn ngoan cân nhắc sự tình cũng như định lượng sức mình. Đừng mạo hiểm khởi công xây tháp mà không hoàn thành nổi để rồi bị người ta chê cười! Đừng mạo hiểm đem quân lính đánh nước người khi không đủ sức để rồi mang lấy thất bại thảm hại! Ai? Ai trong chúng ta, từ người hèn kém tội lỗi đến người tài cao, đức đầy dám nói mình đủ sức làm môn đệ của Chúa Kitô? Ai có thể tự nhận mình đủ đức, đủ tài, đủ khả năng để đi theo Chúa Kitô trên con đường thập giá?
Vậy thử hỏi phải làm sao đây? Bản thân kẻ hèn này xin tự thú nhận mình thật bất tài và bất xứng. Với sức riêng mình, tôi không thể nào làm môn đệ Chúa Kitô được. Với khả năng và cả đạo hạnh riêng mình, tôi không thể nào vác được thập giá mình, cũng không thể nào từ bỏ hết những gì mình có để theo Chúa Kitô. Thế thì phải làm sao đây? Không lẽ rút lui hoặc giơ tay xin hàng?
Với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể được. Ngay đêm Tiệc Ly, Chúa Kitô đã mở cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh bế tắc này. Chính Người đã tự nguyện rủ bỏ vị thế là Thầy và là Chúa để cúi xuống với từng người trong các môn đệ (x.Ga 13). "Thầy không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu" (Ga 15,15).
Hãy biết khôn ngoan làm bạn của Chúa Giêsu. Đỉnh cao của mạc khải là ở đây. Thiên Chúa không muốn con người làm tôi tớ hay làm môn đệ mà là bạn hữu của Người. Cái hình ảnh Giavê Thiên Chúa ngày ngày đi dạo với tổ tiên Ađam- Evà gợi mở thực tại tốt đẹp này. Có được người bạn là Giêsu Kitô thì chuyện thập giá mình sẽ không còn là vấn đề. Vì chính người bạn Giêsu luôn sẵn sàng nâng đỡ, đồng hành và có khi vác thay thập giá cho ta. Bài thơ "vết chân trên cát" của thi hào Tagor là một cảm nghiệm về một chân lý trong tình bạn. Con ơi, những lúc bão cát nổi lên, con chỉ còn thấy một dấu chân, đó là dấu chân của Ta, vì những lúc ấy là lúc Ta đang cõng con trên vai Ta.
Khi đã là bạn hữu thì không có gì là khoảng cách, là bí mật. "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết bởi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết." (Ga15,15). Khi ta biết mở cõi lòng, biết bày tỏ mọi bí ẩn tâm can cho Giêsu, từ chuyện tốt đến chuyện xấu, từ những việc lành đã làm đến những sự dữ xấu xa đã phạm thì ta đang trao dâng hết những gì ta có, cho người bạn Giêsu. Và đây chính là lúc ta thực sự bỏ hết những gì mình có (Avoir - To have). Chính khi ta mở tâm trí đón nhận chân lý Chúa Kitô tỏ bày và sống theo chân lý ấy thì chúng ta đã thực sự từ bỏ những gì chúng ta là (Être - To be).
Ý định của Chúa nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi Thần khí thánh" (Kn 9,17). Nếu Chúa Kitô không tự nguyện cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, nếu Người không minh nhiên tỏ bày rằng Người không còn gọi các môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu, chắc hẳn con đường về trời, con đường theo chân Chúa Kitô quả là vượt quá tầm tay, vượt quá khả năng loài người chúng ta.
Vấn đề đặt ra là khi nào và làm sao chúng ta có được sự chắc chắn, dù tương đối, rằng chúng ta đang là bạn hữu của Chúa Giêsu? Một trong những cách thế hữu hiệu để làm bạn Chúa Giêsu đó là hãy làm như Người đã làm (x.Ga 13,15). Đó là nhận nhau như người anh em thân thuộc, như là bằng hữu nghĩa thiết. Đây là nội dung chính những dòng thư của Thánh Phaolô gửi đến ông Philêmon. Ngài xin Philêmon đón nhận lại Ônêsimô, không phải như một người nô lệ mà như một người anh em rất thân mến, dù cho Ônêsimô đáng phải chết vì là nô lệ mà đã bỏ trốn khỏi nhà của chủ. (Bài đọc 2). Đón nhận nhau như là anh em, như là bằng hữu thì không chỉ loại bỏ những hành vi đàn áp, bất công, quan liêu kẻ cả... mà còn phải thực tâm chia sẻ những gì mình đã có được, đã nghe biết, đã hưởng nhận... cho nhau.
Giả như đang còn đó những sự việc, những sự thật đáng nói, cần chia sẻ mà các vị bề trên còn giữ kín với người bề dưới thì người bề dưới vẫn chỉ mãi là những nô lệ hay tôi tớ mà thôi. Một thực tế khó chối cãi đó là khi sự giữ kẻ, sự giữ bí mật xuất hiện trong đời sống vợ chồng thì người giữ kẻ, giữ bí mật cách nào đó không còn xem người phối ngẫu là bạn trăm năm, là bạn đời, chưa kể có trường hợp chỉ xem nhau như người tôi tớ.
Chưa nhận nhau làm bạn trong cách sống, trong cung cách đối xử, thì chắc chắn chúng ta chưa thật sự là bằng hữu của Chúa Kitô. Và cũng khá chắc chắn rằng quá trình vác thập giá mình, quá trình từ bỏ chính mình của chúng ta đang trong cảnh tình "đơn thương, độc mã". Độc mã, đơn thương để chiếm được Nước Trời, để có được hạnh phúc thật quả là một sự liều lĩnh thiếu khôn ngoan và không lượng sức.
Biết sống, biết hành xử với nhau như là bạn hữu thì chúng ta luôn là bạn hữu của Chúa Kitô. Có người bạn Giêsu đồng hành thì chuyện vác thập giá, chuyện từ bỏ chính mình cho dù vẫn là khó nhưng luôn là có thể được. "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Có người bạn có thể làm được mọi sự luôn ở bên ta, đồng hành với ta thì không có gì là không thể.
Đôi bạn trẻ đã đính hôn xem ra khá hạnh phúc chỉ một nổi vóc dáng bên ngoài như đôi đũa lệch. Chàng ta "ngắn tầm" hơn cô nàng gần 20 phân (20 cm). Sau buổi học giáo lý hôn nhân, được sự đồng ý của cô nàng, anh chàng bèn trao nụ hôn đầu đời cách say đắm trong cái thế phải đứng trên viên đá chẻ của công trình đang xây dựng, để cho vừa tầm cao. Sau đó anh chị bên nhau đi về. Cô nàng thoáng thấy người yêu dáng đi hơi nặng nhọc mà chưa hiểu nguyên do. Có lẽ vì trời tối. Đi được một quãng anh chàng thỏ thẻ xin lặp lại "việc yêu" như ban nãy. Gật đầu chấp thuận thì cô nàng chợt thấy người yêu dừng lại, đặt viên đã lớn đã giấu sau lưng, mang theo nãy giờ, rồi đứng lên trên bày tỏ tình yêu. Được yêu nhưng xem chừng quá vất vả. Không biết kiên trì được bao lâu. Bỗng khi tay trong tay, anh chàng nghe cô nàng thầm thĩ: "Anh ơi, đừng cố vất vả quá! Em cúi xuống một chút là ổn thôi".
Làm bạn của Giêsu thì hơn làm môn đệ của Người. Một kiểu khôn ngoan mà rất nhiều vị thánh như Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Têrêxa Hài Đồng Giêsu... đã chọn lựa.
Trên báo chí, người ta vẫn đọc thấy chuyện về các vận động viên phải hy sinh một số những điều TN 23-C130
Trên báo chí, người ta vẫn đọc thấy chuyện về các vận động viên phải hy sinh một số những điều mình ưa thích, chẳng hạn phải kiêng một món ăn nào đó để khỏi tăng trọng lượng, bỏ một thói quen nào đó không phù hợp với môn thể thao mình đang theo đuỗi. Và rồi, họ phải dành nhiều thời gian, nhiều sức lực để tập luyện, nhờ đó thành tích thể thao càng lúc càng được nâng cao.
Trong việc kinh doanh sản xuất, cũng có những người bỏ cả sản nghiệp của mình để mong làm giàu hơn nữa. Đôi khi người ta giật mình vì có những người bỏ ra hằng trăm triệu để làm vốn kinh doanh. Hoặc có những người nghèo, nhưng say mê một công việc nghiên cứu nào đó, cũng đành phải bán những vật dụng thân thiết nhất của mình để có phương tiện tiếp tục công trình dang dở.
Cuộc đời là như thế, vẫn có những hy sinh, những từ bỏ, vẫn có những lựa chọn, những phiêu lưu. Hy sinh, từ bỏ là chấp nhận mất mát, chấp nhận thiếu thốn và cũng có lúc phải đau khổ, đau khổ xé lòng. Những hy sinh, những từ bỏ ấy có một mục đích: đáp ứng điều mình lựa chọn và tin chắc rằng đó là điều cao hơn, và điều ấy sẽ thành công. Đó cũng là cuộc phiêu lưu bởi vì sẵn sàng bỏ ra những gì mình đang có để đạt tới điều cao cả hơn.
Từ ý tưởng đó, xin trở lại với bài Tin Mừng. Đức Giêsu đi "lên" Giê-ru-sa-lem. Phía sau, phía thấp hơn là Na-da-rét, là gia đình thân thuộc, và cả miền Ga-li-lê, nơi Người cảm thấy như nhà của mình, và cũng ở đó, dân chúng đã nghe Người giảng dạy, đã tin Người một phần nào. Phía trước, ở trên cao, là thành đô, nơi những kẻ chống đối Người thường lui tới. Tuy nhiên, Người phải "đi lên", phải đến thành đô, vì tại nơi chốn biểu tượng này, tất cả những điều Người thực hiện từ lâu nay sẽ đi đến kết thúc. Người phải đi lên để chu toàn trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và hoàn tất sứ mạng đã được trao phó. Trước mặt Người là những nguy hiểm đang đợi chờ, cả mối đe doạ đến mạng sống. Người biết rằng ở Giêsu-sa-lem, các đối thủ của Người đang tìm cơ hội, tìm lý lẽ để hại Người. Đã nhiều lần Người phê phán các hành vi của họ, tố cáo thói giả hình, và cũng đã từng xô đỗ những đặc quyền của họ. Người làm những điều đó vì lòng yêu thương, vì muốn đưa họ đến chân lý, nhưng họ lại coi Người là một đối thủ nguy hiểm, một kẻ phản loạn.
Tất cả những nguy cơ này, Đức Giêsu biết rõ. Người đi lên Giê-ru-sa-lem, chấp nhận những hiểm nguy. Người không chỉ bằng lòng với những điều đã đạt được ở Ga-li-lê, Người phải thực hiện những điều đó tại Giê-ru-sa-lem nữa, và làm cho những điều Người loan báo đạt tới kết cục toàn vẹn. Người sẵn sàng "bỏ vốn" để đạt được thành công cuối cùng, thành công dứt khoát. Vốn liếng của Người chính là mạng sống chứ không phải điều gì khác.
Đây thực là một mẫu gương về sự dấn thân. Người Kitô hữu được mời gọi đi lên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, bỏ lại những gì mình đang nắm giữ, và đem cả con người mình bước vào con đường hẹp, con đường phiêu lưu với Thiên Chúa.
Chọn Đức Giêsu hơn tất cả
Trên con đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu suy nghĩ về tất cả những điều sắp xảy ra. Phía sau Người là các môn đệ, những người đã được Người mời gọi, quy tụ để theo Người và làm chứng cho Người. Như môn đệ của nhóm Pha-ri-sêu, các ông đi theo Người, sẵn sàng lắng nghe những giáo huấn của Thầy. Các ông là những người được Đức Giêsu tỏ lòng yêu mến. Nhưng liệu các ông có hiểu rõ sứ mạng của Người cũng như những việc Người cần thực hiện ?
Trong tâm trí các ông, Đức Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem để đón nhận vinh quang, Người sẽ hoàn thành Vương quốc Người đã từng loan báo, và như vậy, chắc hẳn các ông cũng sẽ được thông phần. Các ông đã bỏ mọi sự, cả gia đình thân thuộc, nghề nghiệp và tương lai của mình để đi theo Người, nên lúc này, tâm hổn các ông tràn trề hy vọng sẽ được đền bù xứng đáng. Đọc lại câu chuyện các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và lời thỉnh cầu của bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (xem Mt 20,21), người ta hẳn thấy rõ điều ấy.
Thực ra, đó cũng là chuyện bình thường của con người. Ai chẳng mong rằng những vất vả của mình được đền bù, người nào bỏ vốn ra làm ăn mà không mong thu lời. Thế nhưng, chương trình của Thiên Chúa lại khác. Đoạn đường các ông đã đi, chưa phải là tất cả. Còn có những khó khăn, những nguy hiểm lớn hơn đang chờ các ông ở phía trước. Như Đức Giêsu, các ông sẽ còn trải qua những đau khổ ghê gớm hơn nữa, và phần thưởng không phải là cuộc sống vinh quang ở trần gian, nhưng là ở trong Nước Thiên Chúa.
Bấy giờ, Đức Giêsu biết được những điều đang ám ảnh các tông đồ, Người quay lại và đưa ra một lời cảnh cáo rất ghê gớm: đi theo Người, tức là chấp nhận chương trình của Người, đồng thời chấp nhận luôn những đòi hỏi nằm trong chương trình đó. Những đòi hỏi ấy như thế nào ?
Trước hết là yêu mến Đức Giêsu hơn tất cả, và mang lấy thập giá của mình. Điều này không có gì là phi nhân bản. Đức Giêsu biết rằng trong cuộc đời vẫn có những chọn lựa nền tảng buộc đặt vấn đề lại. Vào những lúc như thế, người ta thường đưa ra những tình cảm chính đáng nhất như cái cớ để tránh những chọn lựa cần thiết.
Không thể là môn đệ của Đức Kitô khi vẫn sống theo tính ngẫu hứng, theo một hệ thống tư tưởng. Cần phải ý thức về thân phận của mình, đảm nhận thân phận ấy trong cuộc sống thường ngày, và hoàn thành thân phận ấy, không để cho bất cứ điều gì làm lung lạc, làm biến chất hay tiêu diệt. Đi theo Đức Giêsu là một cuộc sáng tạo trường kỳ, không được quay lại đàng sau, dù bất cứ vì lý do gì.
Như thế, tính cách độc đáo của Nước Trời đòi buộc nằm ngay ở trong nội tâm mỗi người. Đó không phải là một việc này việc nọ thành công, cũng không phải là vinh quang vì được người đời nhắc đến. Tính cách này không buộc người ta phải trở thành những anh hùng, nhưng là vượt qua chính mình ; nó cũng không kêu gọi con người sống cách tuỳ thích, nhưng kêu mời trao tặng. Trong việc lựa chọn này, lý do căn bản luôn luôn được gợi hứng từ tình yêu.
Sau nữa, đi theo Đức Giêsu là chấp nhận phiêu lưu, là đánh đổi cả đời mình. Người ta không biết trước điều gì sẽ xảy ra, nên Tin Mừng mời gọi những người muốn trở thành môn đệ Đức Kitô phải sẵn sàng, phải biết dự liệu: biết sử dụng những phương tiện để đạt tới mục đích. Nếu không dự liệu trước, không những công cuộc này bị thất bại, nhưng còn phá huỷ cả điều đã lôi cuốn, đã hấp dẫn, đã mời gọi con người bước theo. Ở đây, điều đáng nhấn mạnh là cần phải đạt tới Nước Trời. Đức Giêsu đã báo trước điều này: Người không có ý làm những người nghe nản lòng, nhưng muốn họ nhận định rõ ràng về tầm mức của công việc. Họ phải đánh đổi tất cả để được tất cả, phải đem tất cả của cải và sức lực của mình vào cuộc, phải chấp nhận những hy sinh lớn lao, bởi vì ơn cứu độ là một cuộc phiêu lưu mà không có gì so sánh nỗi.
Niềm vui tiến về phía trước
Năm 1992, cả thế giới hân hoan mừng kỷ niệm 500 năm khám phá ra Châu Mỹ. Để có được thành công này, Christophe Colomb đã đem toàn bộ gia tài của mình ra để thực hiện chuyến đi, đồng thời phải lấy uy tín và ảnh hưởng của mình để thuyết phục nhà vua. Cuối cùng sự liều lĩnh và gan dạ của ông đã đem lại kết quả tuyệt vời: khám phá ra Tân thế giới.
Người môn đệ đi theo Đức Giêsu cũng phải liều lĩnh và gan dạ. Họ chấp nhận phiêu lưu với Đức Giêsu, chấp nhận chương trình của Người, đồng thời sẵn sàng và vui vẻ mang lấy thập giá của mình. Họ tin tưởng vì những nỗ lực của họ không uổng phí. Họ vui vẻ bước đi vì biết rằng những gian truân hiện tại không đáng kể gì so với tương lại rực rỡ ở phía trước. Đây là nét đặc trưng của Kitô giáo, trong đó có dấu ấn của nhà nghệ sĩ đồng thời là một người khám phá. Không gò bó, không an phận ; họ sẵn sàng bỏ lại đàng sau tất cả những gì đã có để lao mình về phía trước, và đó là niềm vui, niềm vui của sự từ bỏ, niềm vui của những đỉnh cao mới.
Nước Thiên Chúa vẫn ở phía trước, vẫn có một khoảng cách vô tận, nhưng đồng thời vẫn trong tầm tay.
* * *
"Hồng ân quý giá, đó là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng. Vì kho tàng ấy, người ta sẵn lòng đem bán tất cả những gì mình đang có. "Hồng ân quý giá, đó là viên ngọc quý. Vì viên ngọc ấy, người lái buôn sẵn sàng đem cả tài sản ra đánh đổi. "Hồng ân quý giá, đó là vương quốc của Đức Kitô. Vì vương quốc ấy, con người sẵn sàng vứt bỏ con mắt gây sa ngã. "Hồng ân quý giá, đó là lời mời gọi của Đức Kitô. Vì lời mời ấy, các môn đệ bỏ chài lưới để đi theo. "Hồng ân quý giá, đó là Tin Mừng mà người ta phải khám phá luôn. Đó là ân huệ mà người ta phải cầu xin. Đó là cánh cửa mà người ta phải gõ." ... theo D. Bonhoeffer
Hạnh phúc không có nghĩa là sở hữu mọi thứ hoàn hảo, mà là biết can đảm nhìn xa hơn các khuyết TN 23-C131 Ephata
Hạnh phúc không có nghĩa là sở hữu mọi thứ hoàn hảo, mà là biết can đảm nhìn xa hơn các khuyết điểm của mình và của người khác. Thật là không dễ, thế nên mới phải cố gắng không ngừng, từng giây, từng phút... Hãy cố gắng nhận thức về quá khứ của mình – dù xấu xa và hèn hạ, cứ hy vọng và vững tin vào tương lai, rồi chấp nhận mình là chính mình. Đó là một cách từ bỏ và chấp nhận.
Tác giả Brian Tracy ( sinh ngày 5.1.1944 tại Vancouver, Canada ), một người viết về chủ đề tự-giúp-bản-thân, nhận định: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là tặng phẩm của tình yêu vô điều kiện và sự chấp nhận – The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance”. Sự chấp nhận ở đây là cách chấp nhận vui vẻ chứ không miễn cưỡng.
Có nhiều động từ cần thiết, nhưng có lẽ BỎ và NHẬN là hai động từ quan trọng: Bỏ những cái xấu xa để nhận những điều tốt lành. Cần phải khôn ngoan kẻo hóa thành “thả mồi, bắt bóng”. Với các Kitô hữu có dạng “cao cấp” hơn: từ bỏ chính mình và đón nhận thập giá của cuộc đời ( của mình và của người ). Quả là “căng” thật đấy !
Thánh Tiến Sĩ Têrêsa Avila nói: “Cái gọi là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa chính là ở trong việc yêu người như yêu chính mình, có một ý chí cương quyết không lay động, liên tục sống theo Thánh Ý của Thiên Chúa, giữ cho tâm hồn khiêm tốn, mộc mạc và trông cậy vào Thiên Chúa”. Thánh nhân không trực tiếp dùng chữ “bỏ” và “nhận”, nhưng chúng ta vẫn khả dĩ nhận thấy bóng dáng của hai động thái đó.
Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa cầu nguyện: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa ? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi ? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững. Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” ( Kn 9, 13-15 ).
Phàm nhân là vậy, như Chúa Giêsu đã nói: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” ( Mt 26, 41 ). Chỉ là bụi cát nhỏ nhoi, nay còn, mai mất, thế mà lúc nào cũng chỉ muốn nổi loạn, bởi vì “cái tôi” luôn to lớn nên lúc nào cũng phải hơn người khác, kém thua một chút là khó chịu, thậm chí còn dám “coi trời bằng vung” nữa. To gan, lớn mật thật !
Từ bỏ “cái tôi” là từ bỏ chính mình. Thật là khó. Khó lắm ! Nhưng không bỏ không được, vì nó xấu, là cái đáng ghét ( Pascal ). Vả lại, không bỏ nó thì không thể nên người mới, không biến đổi thành con người mới thì không thể hoàn thiện, không hoàn thiện thì không thể lên Trời và không thể nên thánh.
Tác giả sách Khôn Ngoan so sánh: “Những gì thuộc hạ giới, con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng ? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh ? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” ( Kn 9, 16-18 ).
Những thứ phàm tục chẳng là gì, thế mà vẫn nhiêu khê và bí ẩn, huống chi những điều trên Trời, chúng ta chẳng thể nào hiểu được khi còn đang “tạm trú” nơi thân xác này. Không ai trường sinh, bất tử. Đó là điều chắc chắn, là quy luật muôn thuở. Thế mà người ta có ngán gì đâu. Máu sôi và bốc lên tới chỏm rồi, nếu có “xả láng, sáng về sớm” cũng chỉ là chuyện nhỏ. Và như đã nói trên đây, trời cũng chỉ như “cái vung” mà thôi !
Thánh Vịnh dẫn chứng rạch ròi: “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngài phán bảo: ‘Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !’ Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi ! Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” ( Tv 90, 3-6 ). Đó là sự thật. Đời người tưởng dài mà ngắn, chẳng khác chi đóa phù dung, sớm nở và tối tàn, thế mà đổi màu sắc liên tục – tượng trưng thất tình và lục dục của con người. ( * )
Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống. Người biết là người khôn ngoan, biết biến đổi cái bình thường và tầm thường trở nên siêu phàm. Tác giả Thánh Vịnh là người khôn ngoan nên đã biết cầu nguyện chí lý: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” ( Tv 90, 12-14 ). Cầu nguyện chân thành như thế thì làm sao Thiên Chúa chối từ cho đành ! Cầu nguyện như vậy là khôn ngoan, còn “người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần” ( Hc 19, 23 ). Sách Huấn Ca cho biết thêm: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan” ( Hc 1, 14 và 18 ). Đức khôn ngoan vô cùng quan trọng trong cuộc sống !
Phàm nhân có khôn ngoan tới mức nào cũng chẳng là gì, có làm được công to việc lớn cũng chẳng đáng chi. Tại sao ? Bỏi vì ai cũng chỉ là tội nhân, là những kẻ xấu xa, không đáng gì trước mặt Thiên Chúa chí thánh. Do đó, ai cũng cần cậy nhờ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nghĩa là phải khiêm nhường cầu nguyện: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” ( Tv 90, 17 ).
Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, kiêu ngạo một chút là quá thừa. Công sức nỗ lực hoàn thiện bao ngày mà lên mặt khoe khoang một chút là tiêu tan hết. Kiêu ngạo như que diêm nhỏ bé, nhưng nó vẫn có thể thiêu rụi cả một tòa nhà nguy nga tráng lệ.
Tương tự, đốm-lửa-kiêu-ngạo cũng có thể thiêu rụi cả lâu-đài-khiêm-nhường mà chúng ta đã dày công xây dựng – nếu bất cẩn. Thật chí lý với lời nhắc nhở của tiền nhân: “Cẩn tắc vô ưu”.
Trong thư gởi cho ông Philêmôn, Tông đồ Phaolô tha thiết yêu cầu: “Tôi là Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô” ( Plm 9b-10 ).
Thánh Phaolô có quyền nhưng không muốn dùng quyền để hành người khác, đó là thể hiện đức khiêm nhường. Thánh nhân nói rõ ràng với ông Philêmôn: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện” ( Plm 12-14 ). Đó là tôn trọng người khác. Có khiêm nhường mời khả dĩ tôn trọng người khác, biết tôn trọng người khác là dám từ bỏ mình, từ bỏ mình là yêu thương người khác.
Vì yêu thương tha nhân, vì xót thương “đứa con tình thần”, Thánh Phaolô sẵn sàng hạ mình mà cầu xin người khác: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi” ( Plm 15-17 ). Động thái thật tốt đẹp !
Trình thuật Lc 14, 25-33 cho viết hai động thái – NHẬN và BỎ: “Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” và “từ bỏ hết những gì mình có”.
Thánh Luca cho biết rằng hôm đó có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì KHÔNG THỂ làm môn đệ tôi được”. Chắc chắn Ngài không “xúi dại” chúng ta, không bắt chúng ta bất nhân mà bất hiếu với cha mẹ hoặc coi thường các thân nhân, vì Ngài rất nhân hậu, và Ngài cũng không hề bắt chúng ta không chăm lo cho sự sống của mình.
Người Việt có câu: “BÁN anh em xa, MUA láng giềng gần”. Có người sửa là “vắng anh em xa…”, vì cho rằng chữ “bán” nặng nề quá. Thật ra không phải vậy, tiền nhân muốn đặt hai vế với hai động từ đối lập: Bán và Mua. Còn chữ “xa” ở đây là xa cách về địa lý, chứ không là “xa” theo nghĩa bóng – chẳng hạn, bà con xa, họ hàng xa. Còn láng giềng thì phải gần, không có láng giềng xa.
Chúa Giêsu không hề tính toán với chúng ta về lòng yêu thương, về lòng thương xót, nhưng Ngài dạy chúng ta phải biết tính toán tỉ mỉ, rạch ròi. Ngài phân tích với hai ví dụ cụ thể:
“Ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà”.
Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Tiền nhân dạy như vậy. Đó là người khôn ngoan. Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta phải cố gắng sống khôn ngoan để đối đầu với ba thù ( xác thịt, thế gian, ma quỷ ). Tuy nhiên, “thằng quỷ” ranh ma nhất chính là “thằng” ở gần chúng ta nhất: xác thịt – tức là chính chúng ta, chứ “chẳng ai trồng khoai đất này”. Thảo nào Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta phải cố gắng từ bỏ nó, bằng mọi giá. Cuối cùng, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng vậy, ai trong anh em KHÔNG TỪ BỎ hết những gì mình có thì KHÔNG THỂ làm môn đệ tôi được”.
Ai cũng có cách quan sát. Người ta quan sát Chúa Giêsu và người khác, nhưng với ác ý là xoi mói và tìm cách bắt bẻ, chúng ta cũng thường làm như vậy với nhau; còn Chúa Giêsu, Ngài quan sát để biết tình huống ra sao mà “gỡ rối” cho người khác.
Tiền nhân ví von: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả thật, Việt ngữ cũng chí lý lắm: TÔI là TỒI, vì TÔI thích TỐI nên lắm TỘI. Toàn là mẫu tự T, thật là “tê” quá chừng, vừa TÊ vừa TÁI. Theo ngoại ngữ, chữ Santa ( thánh nhân ) nếu hoán vị các mẫu tự sẽ biến thành Satan ( ma quỷ ), một làn ranh mong manh. Kỳ lạ quá, và cũng đáng sợ quá !
Việt ngữ của chúng ta không thể hoán vị theo dạng này, nhưng Việt ngữ lại có dạng “độc đáo” khác, ví dụ: Tôi tưởng mình TIN YÊU nhưng tôi chỉ là YÊU TINH; tôi tưởng mình là người biết LẮNG NGHE, nhưng tôi chỉ muốn người khác phải LẮNG xuống, còn tôi không NGHE ai ráo trọi; tôi muốn người khác THẤU HIỂU hoàn cảnh của tôi, còn tôi có THẤU cũng không chịu HIỂU cho họ. Ui da, lạy Chúa tôi !
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết rõ con để con can đảm từ bỏ “cái tôi” của con, và có thể đón nhận mọi thập giá của cuộc đời này, xin cũng giúp con biết rõ Ngài để con yêu mến Ngài, quyết tâm hành động để có được Ngài mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Ghi chú:
( * ) THẤT TÌNH gồm: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục; LỤC DỤC gồm: ( 1 ) Sắc Dục: ham muốn thỏa mãn đôi mắt; ( 2 ) Thính Dục: ham muốn thỏa mãn đôi tai; ( 3 ) Hương Dục: ham muốn thỏa mãn cái mũi; ( 4 ) Vị Dục: ham muốn thỏa mãn cái miệng; ( 5 ) Xúc Dục: ham muốn thỏa mãn thể lý; ( 6 ) Pháp Dục: ham muốn thỏa mãn ý nghĩ.
Đại văn hào Dostoyevsky, khi mới 20 tuổi ông đã viết tác phẩm đầu tiên Tội ác và hình phạt. Điều TN 23-C132
Đại văn hào Dostoyevsky, khi mới 20 tuổi ông đã viết tác phẩm đầu tiên Tội ác và hình phạt. Điều đó chứng minh sự thành công lớn của ông. Ông trở nên nổi tiếng rất nhanh. Lời nịnh hót có thể dễ dàng len lỏi vào đầu óc ông, nhưng cũng chính thực tế ấy mà không lâu sau đó, ông đã công kích vào những điều xấu xa của nhà cầm quyền. Bị buộc tội oan là người theo đường lối vô chính phủ, ông bị bắt giữ cùng với một số người khác và bị kết án tử hình. Tuy nhiên, bản án đó đã được giảm xuống thành án tù. Ông và các bạn tù bị đày đi Siberia. Dostoyevsky đã trải qua bốn năm lạnh lẽo tại đó. Mười năm sau, ông trở lại với nghề viết văn.
Thay cho sự cay đắng và huỷ hoại, những kinh nghiệm đó lại làm cho ông phong phú thêm. Giờ đây ông dùng đến kinh nghiệm của mười năm đau khổ để viết, mười năm ấy đã cho ông sức mạnh và chất liệu. Mỗi khi có ai đến hỏi ông : “Ông có quyền gì mà dám lên tiếng cho con người ?”, thì ông chỉ cho họ thấy những vết sẹo do xiềng xích để lại trên da thịt ông và nói : “Đó là quyền của tôi.” Những người đặt câu hỏi với ông đành phải im lặng.
Với bạn bè, những người bị thất đảm bởi những đau khổ ông đã chịu đựng, ông nói : “Nhà tù đã cứu tôi, nhà tù đã biến đổi tôi hoàn toàn trở thành con người mới. Siberia và án tù đã trở thành thú vui tuyệt vời của tôi. Chỉ có ở đó tôi mới có thể trải qua một cuộc sống thanh bạch và hạnh phúc. Chỉ có ở đó tôi mới nhìn thấy bản thân tôi rõ ràng, nơi đó tôi học được sự hiểu biết về Chúa Kitô. Nơi đó là một trường học tốt. Điều đó đã củng cố niềm tin và đánh thức tình yêu của tôi đối với những người đã cùng phải chịu đựng bao đau khổ với sự nhẫn nại. Điều đó cũng củng cố tình yêu của tôi với nước Nga và mở mắt cho tôi thấy những phẩm chất tuyệt vời của người Nga.”
Thánh Phaolô cũng đã chứng tỏ mình là môn đệ của Chúa. Thánh nhân cũng bị tù tội và bị xiềng xích (bài đọc 2). Điều này giúp thánh nhân khi nói về việc bước theo Chúa thêm thuyết phục khả tín.
Khi các bạn trẻ đến gặp mẹ Têrêsa và bày tỏ ý nguyện muốn gia nhập tu hội của mẹ, mẹ không chút nghi ngại đã đặt họ đối diện nơi môi trường mà họ sẽ dấn thân. Mẹ nói : “Công việc của chúng tôi rất vất vả. Chúng tôi phục vụ người nghèo và người vô gia cư 24 giờ một ngày.”
Cùng một cách thức ấy, Chúa Giêsu đã không che giấu những khó khăn, vất vả và hy sinh mà những người muốn theo Người sẽ phải chịu. Người khẳng định rằng đó chẳng phải là con đường dễ dàng. Vì thế, sau này họ sẽ không thể phàn nàn rằng : “Ồ, chúng tôi không bao giờ nghĩ sự việc lại như thế.”
Chúa Giêsu không ủng hộ thái độ can đảm của kẻ mù quáng. Thực tế, Chúa đã ngăn cản điều đó. Chúa nói rằng việc đi theo Người phải đặt nền tảng trên lẽ phải, sự khôn ngoan, biết đánh giá, có nhận thức sâu sắc để thấy những gì mà họ phải thực hiện.
Điều quan trọng nhất là tự đánh giá để biết mình. Chúng ta không buộc phải trao ban vượt quá sức so với khả năng của mình. Dĩ nhiên, chúng ta không thể nói trước được chính xác khả năng của mình. Chúng ta có thể hoặc tự hạ thấp hoặc tự nâng mình lên. Và chúng ta cần những cuộc thử thách để biết được khả năng tốt nhất của mình.
Chúng ta nhận được sự khích lệ từ mẫu gương của các tông đồ. Tin Mừng cho thấy họ phải gắng sức khi theo Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không loại bỏ họ. Thật rõ ràng là chính họ đã học được rất nhiều bài học từ những lỗi lầm của mình. Chỉ sau cái chết và sự sống lại của Chúa thì họ mới trở thành những người theo Chúa thực sự.
Nhìn vào các tông đồ để ta khám phá ra sự bất xứng của bản thân. Tin Mừng đem hy vọng đến cho những Kitô hữu bị vấp ngã. Sự hối hận và cơ hội làm lại luôn là điều có thể. Chúa Giêsu rộng lượng đầy khoan dung với ai cố gắng đáp lại lời mời gọi của Người.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hề che giấu sự thật với các tông đồ. Người TN 23-C133
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hề che giấu sự thật với các tông đồ. Người cho họ thấy những khó khăn, vất vả và hy sinh mà những người muốn theo Người phải gánh chịu. Người khẳng định rằng đó chẳng phải là con đường dễ dàng. Vì thế sau này họ sẽ không thể phàn nàn rằng : “Ồ, chúng tôi không bao giờ nghĩ sự việc lại như thế.”
Có những người đi theo Chúa mà không phải là môn đệ của Chúa. Có những người trà trộn vào quân ngũ dù chẳng phải là chiến sĩ. Có người chẳng chu toàn trách nhiệm công việc của mình, hoặc chỉ thực hiện một phần việc nào đó mà thôi. Có người trong những công việc lớn, chỉ như kẻ ‘theo đóm ăn tàn’. Có người chỉ thích nói mà chẳng muốn làm.
Một ngày nọ, có một người đến gặp một vị giáo sư nổi tiếng để hỏi về một chàng thanh niên : “Có người nói với tôi rằng anh ta là một trong những học trò của ông. Điều đó có đúng không ?” Và giáo sư trả lời : “Người thanh niên đó quả thật đã tham dự các lớp học của tôi, nhưng tôi cho rằng anh ta chưa bao giờ là sinh viên thực sự của tôi.”
Trở lực lớn nhất của Giáo Hội đó là nhiều người chỉ theo Chúa ở một khoảng cách an toàn, mà có rất ít người là môn đệ đích thực, những người sống theo những điều Chúa dạy.
Hãy nhìn thẳng vào vấn đề. Thật chẳng dễ dàng gì khi muốn trở thành một môn đệ của Chúa Kitô. Để làm môn đệ, có nhiều đòi hỏi thực tế mà người ta không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, ta thấy nhiều người thường xuyên đến nhà thờ cách thoải mái, mà hầu như lại không quan tâm đến cảnh khốn cực của người thiếu thốn, tiếng rên la của người nghèo. Ngày nay người Kitô hữu được mời gọi từ bỏ nhiều thứ mà với người khác đó lại là những điều bình thường.
Một số người theo Chúa lại nhụt chí ngay khi những yêu cầu được đặt ra với họ, giống như tuyết tan nhanh dưới ánh mặt trời. Những người khác thì bị huỷ hoại chỉ vì sự chống đối và chỉ trích, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió thổi tắt.
Khi nhà vua đến thăm thiền viện của Lin Chi, vị thiền sư uy tín, nhà vua đã kinh ngạc khi biết có khoảng hơn mười ngàn thầy tu sống ở đó. Muốn biết con số thầy tu chính xác nên nhà vua hỏi : “Thầy có bao nhiêu đồ đệ ?”
Lin Chi trả lời : “Bốn hoặc năm.”
Chúa nói việc đi theo Người phải đặt trên lẽ phải, sự khôn ngoan, biết đánh giá, có nhận thức sâu sắc. Chúng ta không thể trao ban quá với khả năng của mình. Dĩ nhiên, chúng ta không thể nói trước được khả năng của mình là tới đâu. Chúng ta có thể hạ thấp hoặc tự nâng mình lên. Và chúng ta cần những cuộc thử thách để biết được khả năng tốt nhất của bản thân.
Chúng ta nhận được sự khích lệ từ mẫu gương của các tông đồ. Tin Mừng cho thấy họ phải gắng sức khi theo Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không loại bỏ họ.
Nhìn vào các tông đồ để ta khám phá ra sự bất xứng của bản thân. Tin Mừng đem hy vọng đến cho những Kitô hữu bị vấp ngã. Sự hối hận và cơ hội làm lại luôn là điều có thể. Chúa Giêsu rộng lượng đầy khoan dung với ai cố gắng đáp lại lời mời gọi của Người.
Có những người xây dựng những mục tiêu rất lớn trong đời, nhưng rồi họ chẳng bao giờ đạt TN 23-C134
Có những người xây dựng những mục tiêu rất lớn trong đời, nhưng rồi họ chẳng bao giờ đạt được. Tại sao không ? Vì họ không chấp nhận phải trả giá.
Đây là câu chuyện về thiếu nữ mang tên Antoinette, rất đẹp nhưng lại nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời, trở nên giàu có. Ước mơ duy nhất của cô là lấy một người chồng giàu. Nhưng cuối cùng cô lại lập gia đình với một công chức nhà nước. Anh ta cố gắng đem lại cho cô hạnh phúc, nhưng không thể có khả năng mua sắm những thứ mà cô mơ ước như quần áo đẹp, nữ trang, nhà cửa đầy đủ tiện nghi và vân vân.
Cô không chịu đi làm và suốt ngày chỉ ở nhà để buồn khổ và thất vọng. Cô phàn nàn rằng vợ chồng cô chưa một lần đi chơi. Một lần nọ, chồng cô được mời tới dự một buổi tiệc sang trọng, nhưng cô phàn nàn không có bộ trang phục phù hợp. Vì thế chồng cô phải rút hết số tiền tiết kiệm khiêm tốn trong ngân hàng để Antoinette mua bộ đồ mới. Sau đó, cô mượn một sợi dây chuyền của Marie, một người bạn học cũ, và đi dự tiệc.
Thế rồi cô đến buổi tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất trong bữa tiệc hôm đó và gây sự chú ý của tất cả mọi người. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà sau lúc nửa đêm rạng sáng, cô khám phá ra với tất cả nỗi bàng hoàng, cô đã đánh mất sợi dây chuyền.
Họ tìm kiếm khắp nơi nhưng không thể nào tìm ra. Cô không có can đảm để nói với Marie sự thật, vì thế họ đã mua một sợi dây chuyền mới trông giống hệt sợi đã bị mất. Nó đáng giá 40.000 francs và họ đã phải mượn số tiền này với lãi suất rất cao. Khi họ trả sợi dây chuyền lại cho Marie, cô bạn đã không nhận ra được sự khác biệt. Thực vậy, Marie đã để vào ngăn bàn mà không chút mảy may nhìn lại.
Giờ thì Antoinette biết thế nào là nghèo đói thực sự. Nhưng cô đã nhất quyết dự phần trách nhiệm vào việc trả nợ. Họ trả lại căn hộ và dọn đến một căn phòng ở tầng hầm. Họ cho người giúp việc nghỉ. Cô tự làm việc nhà và còn ra ngoài làm thêm việc nữa. Họ hà tiện từng đồng xu một. Họ phải mất mười năm để trả nợ và giờ đây trông Antoinette như một bà già. Một ngày nọ, cô gặp Marie, người bạn cũ trên đường.
“Ồ, trông chị già làm sao !”, Marie nói.
“Tôi đã phải trải qua một thời gian rất nhiều khổ cực từ khi chúng ta gặp nhau lần cuối, và tất cả chỉ bởi vì bạn mà ra”, Antoinette trả lời.
“Bởi vì tôi ? Tôi không hiểu gì cả.”
Và sau đó cô đã kể cho bạn nghe về chuyện mất sợi dây chuyền và việc họ đã phải làm lụng cực nhọc như thế nào để trong ngần ấy năm có được số tiền để trả món nợ. Nghe đến đó Marie nói : “Nghĩa là chị đã mua một chuỗi hạt kim cương để đền cho tôi ?”
“Vâng”, Antoinette nói “và bạn đã không bao giờ biết được điều đó.”
“Ồ, Antoinette tội nghiệp của tôi !”, Marie kêu lên “Sao lại như thế, bạn biết không : sợi dây chuyền của tôi chỉ là đồ giả. Giá trị của nó cao lắm chỉ đáng 400 francs mà thôi.”
Giả như ngay từ lúc đầu, Antoinette cố gắng dẫu chỉ phân nửa những nỗ lực của mình để đạt được những điều cô muốn trong cuộc sống, thì mọi thứ đã là của cô và cô đã không phải lãng phí mất đi những năm tháng quý giá của mình. Đằng này, cô đã tốn thời gian ngồi không và mơ mộng.
Chúa Giêsu chỉ có một mục tiêu duy nhất trong cuộc sống, đó là thực hiện sứ mạng mà Cha của Người đã giao cho Người. Người đã sống hết mình vì sứ mạng đó. Và Người vui lòng trả bằng mọi giá để có thể thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cho thấy Người đã dẫn đầu lên Giêrusalem. Người biết điều gì đang đợi Người nơi đó. Đau khổ, bị loại trừ và cái chết được đặt cuối hành trình của Người. Nhưng Người muốn đón nhận tất cả.
Và Người chờ đợi hoàn toàn nơi các tông đồ. Người nói về cái giá phải trả của người môn đệ. Khi Người nói rằng các môn đệ phải ‘ghét cha mẹ’, điều này không được hiểu theo nghĩa của từ ngữ. Người muốn nói với họ rằng phải luôn sẵn sàng, nếu cần thiết phải hy sinh ngay cả những điều quý giá nhất trong cuộc sống. Trong vài trường hợp hiếm khi họ phải lựa chọn giữa Chúa hoặc người thân yêu ruột thịt của họ.
Với ý nghĩa của hai dụ ngôn ngắn, Chúa Giêsu chỉ ra rằng trở nên môn đệ của Chúa là lời mời gọi nghiêm túc. Họ có thể bị khủng bố và ngay cả bị giết chết. Trong vấn đề này cũng giống như các vấn đề khác của cuộc sống, như kinh doanh và chính trị, ta không thể bước đi một cách mù quáng. Ta phải lượng giá trước khi thực hiện, và rồi xét xem ta đã sẵn sàng đương đầu chưa.
Mục tiêu mà Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta vô cùng quan trọng, mục tiêu đích thực của cuộc sống hiện nay và cuộc sống vĩnh cửu sau này. Không có mục tiêu nào cao hơn mục tiêu đó. Và điều đó không dễ dàng chút nào. Không có người nào trở thành môn đệ của Chúa Giêsu mà không phải vác thập giá. Nhưng Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối. Người luôn đổ tràn ân sủng xuống trên những ai thật lòng muốn tiến bước theo Người.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế : Chúng ta cùng dâng lời cầu xin Thiên Chúa, để ta được trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Xướng : Cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội : để các ngài rao giảng Tin Mừng bằng lời nói và gương sáng cho toàn thế giới.
Xướng : Cầu nguyện cho các vị lãnh đạo trong xã hội, để họ đẩy mạnh nền công lý và hiệp nhất trên thế giới.
Xướng : Cầu nguyện cho tất cả những ai đang phải chịu đau khổ vì niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Xướng : Xin ân sủng Chúa gìn giữ đôi mắt chúng ta luôn hướng nhìn về Người để tiến bước theo Người với một sự cam kết kiên vững.
Chủ tế : Lạy Chúa là nguồn sức sống của chúng con, Chúa biết chúng con yếu đuối. Xin cho chúng con đưa tay bám chặt vào tay Chúa với niềm hoan lạc, và vui lòng bước đi trên nẻo đường của Ngài. Chúng con cầu xin ...
Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem, nơi cuộc tử nạn thập giá đang chờ TN 23-C135
Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem, nơi cuộc tử nạn thập giá đang chờ Người. Trên con đường ấy, có nhiều người đang đi cùng với Chúa. Đi cùng nhưng có lẽ họ đã chưa thực sự theo và là môn đệ của Chúa! Vì thế, Chúa đã chỉ cho họ biết những điều kiện để trở thành môn đệ. Với mỗi người Kitô hữu, qua Phép Rửa, chúng ta cũng được mời gọi trở thành môn đệ của Chúa. Vậy ta cùng dừng lại để nghe những lời Chúa nhắn nhủ với chính chúng ta hôm nay.
- "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con. anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được."- Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta một sự từ bỏ trọn vẹn để gắn bó với Người cách triệt để. Thoạt nghe những lời này, ta cảm thấy như khó chấp nhận và không để thực hiện. Thế nhưng, chúng ta biết rõ rằng Chúa muốn chúng ta yêu thương những người thân của ta. Tình yêu con cái, tình yêu vợ chồng, tình huynh đệ, tình bạn bè... trong sáng đều được Chúa chúc lành và thánh hóa. Nhưng ở đây, Chúa muốn tình yêu chúng ta yêu Thiên Chúa phải là tình yêu lớn nhất, tình yêu vượt qua tất cả tình yêu khác và linh hoạt tất cả. Tình yêu dành cho Chúa là yêu hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Như trong Mười Giới Răn ta vẫn đọc "Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự."
Chúa Giêsu khẳng định ai muốn theo Chúa và trở thành môn đệ thì cần yêu mến Chúa hơn bất cứ ai khác, hơn cha mẹ, anh em, vợ chồng. Vì "Ai yêu cha, yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy."(Mt 10,37) Khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trái tim chúng ta sẽ rộng mở và rồi ta có thể yêu cha mẹ, anh em với một tình yêu phổ quát, không điều kiện, không biên giới, vô vị lợi chứ không phải chỉ là một tình cảm cỏn con ích kỷ và hẹp hòi!
Vì thế, để theo Chúa Giêsu, chúng ta cần yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chọn một mình Chúa là Chủ, là Chúa của đời ta. Thách đố cho chúng ta, nhất là những bạn trẻ Kitô hữu, chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao danh vọng, tiền tài... người ta đam mê những cầu thủ bóng đá, những minh tinh màn bạc hay ngôi sao ca nhạc...và xem họ là thần tượng đời mình! Vậy khi được hỏi: Bạn hâm mộ ai nhất? Yêu thích ai nhất? Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy mạnh dạn và thực lòng trả lời : Đó là Chúa Giêsu- Thần tượng của tôi, Đấng tôi hâm mộ, yêu mến nhất. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp và đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, để dẫu cho cuộc sống đầy dẫy những cám dỗ, khó khăn ngăn cản, ta vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu và có thể vác thập giá đời mình theo Người.
- "Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được."- Theo Chúa Giêsu, đòi ta trả một giá đắt; cần phải đầu tư không tiếc công sức và tâm trí; cần phải dấn thân trọn vẹn "Vác Thập giá mình". Trong thời đại chúng ta, không còn thấy những cảnh vác thập giá trên đường, nhưng những thính giả của Chúa và những độc giả của thánh Luca thì đã chứng kiến tất cả cảnh những người bị kết án tử phải vác thập giá đến tận nơi người ta đóng đinh mình. Và Chúa Giêsu không quên điều đó vì Người đang trên đường lên Giêrusalem, ở đó, chính Người sẽ trao tặng cho chúng ta khung cảnh đau thương với thân xác tan nát vì roi đòn và thập giá trên vai vác đến tận nơi hành hình Người. Đó là con đường thập giá, con đường của dấn thân và tự hiến, con đường đánh bại tội lỗi, sự dữ và cái chết, con đường dẫn đến vinh quang Phục Sinh vinh hiển của Chúa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những người Kitô hữu "Vác thập giá mình đi theo Chúa" với lòng trung tín đến cùng trong mọi hoàn cảnh diễn ra trong cuộc sống đời thường. Những đau khổ, khó khăn của cuộc sống Kitô hữu không làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Không còn những chịu đựng nhăn nhó, miễn cưỡng...nhưng là nhìn ngắm và đón nhận đau khổ như một sự hiệp thông với Chúa Giêsu, như được tham dự với công trình cứu độ và như một "Bước theo Chúa". Khi chúng ta biết đón nhận những đau khổ, bệnh tật, yếu đuối của bản thân, vất vả lao động, lo toan cho gia đình, .....với lòng quảng đại và tin tưởng, ta sẽ được tràn đầy bình an, hy vọng, vượt thắng được những sợ hãi, những bất công và chia rẽ trong cuộc đời.
Vác thập giá mình theo Chúa là chúng ta đi trên con đường riêng của Chúa Giêsu, con đường mang đến cho nhân loại ơn cứu độ. Khi đối mặt với gian nguy, đau khổ, sự dữ... đáp trả duy nhất của Kitô hữu là hy sinh hiến thân, là trao ban cả cuộc sống riêng, là yêu thương phục vụ. Chúng ta đừng trốn tránh hay quên đi thập giá đời mình nhưng hãy can đảm vác và bước đi trong vui tươi, hạnh phúc. Ta chọn theo Chúa, đón nhận những đau đớn như thập giá trên vai nhưng ta không khổ sở, vì chính thập giá là trường đào luyện ta trở thành môn đệ của Chúa. Chính Chúa Giêsu đã bước đi trên con đường thập giá và ai biết từ bỏ tất cả để đi theo Người, sẽ được tiến vào sự sống vinh quang. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng đi trước và chúng ta theo sau Chúa.
- "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được."- Từ bỏ là khởi đầu cho một chọn lựa. Chọn lựa ấy đòi chúng ta suy tính và phải bền chí như hai việc Chúa đưa ra là xây dựng và chiến đấu. Theo Chúa, cần có sự suy nghĩ chín chắn. Phải "Ngồi xuống" để tính xem ta cần làm gì, chuẩn bị gì và phải từ bỏ những gì. Chúa muốn chúng ta là suy nghĩ để biết từ bỏ những gì không phù hợp với lối sống của người theo Chúa, chứ không phải tính toán thiệt hơn theo kiểu thế gian. Như thánh Phêrô, nhiều lúc ta cũng so đo với Chúa "Thầy coi, ...chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" (Mt 19,27) Nhưng ta tin chắc vào phần thưởng mà Chúa Cha nhân lành sẽ ban cho chúng ta là sự sống đời đời làm gia nghiệp và được là con cái của Thiên Chúa tình yêu. Ước gì ta có thể xác tín như thánh Phaolô "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu-Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô."( Pl 3,8)
Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta, chính Người đã thực hiện, đã sống và nêu gương cho ta. Chúa đã từ bỏ tất cả vinh quang và địa vị là Thiên Chúa để nhập thể, sống như con người. Chúa đã yêu thương nhân loại đến cùng, đã vác thập giá trong suốt hành trình làm người, đã xuống tận cùng nỗi khổ đau của con người và đã chết trên thập giá để cứu chúng ta. Tất cả chúng ta được mời gọi cách cá nhân trở thành môn đệ của Chúa và bước đi theo Người. Điều kiện để trở thành môn đệ của Chúa là "Yêu mến Người trên hết mọi sự, vác thập giá mình và từ bỏ hết những gì mình có", không dễ thực hiện chút nào! Thế nhưng Chúa không đòi chúng ta thành công, mà Người chỉ mong ta cố gắng. Vậy chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần để rồi từng ngày, chúng ta có thể trở thành những Kitô hữu trung thành và những môn đệ tốt lành của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từ bỏ tất cả để nhập thể, nhập thế; đã vác thánh giá, Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ chúng con. Xin nâng đỡ và giúp sức cho chúng con dám từ bỏ những danh lợi thú thế gian mà can đảm vác thập giá bước theo Chúa. Amen.
Lời Chúa như ngọn đèn pha soi tỏ sự thật về chúng ta. Tôi chưa thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu TN 23-C136
Lời Chúa như ngọn đèn pha soi tỏ sự thật về chúng ta. Tôi chưa thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu, nếu cách này hay cách khác, tôi còn loay hoay tìm kiếm “những gì đó” cho mình dọc theo con đường tôi theo Chúa. “Những gì đó” có thể là tiền bạc, của cải vật chất, song cũng có thể là quyền lực, danh vọng, địa vị… Và tôi chưa thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu, nếu người ta nhìn vào tôi và họ không tìm thấy một thập giá nào cả, mà có khi lại là những thứ đối nghịch với thập giá!
Trang Tin Mừng hôm nay phải được gọi theo thánh Phaolô là “sự điên rồ của Thiên Chúa”. Sự điên rồ đã thúc đẩy Chúa Giêsu đến độ hóa thân làm người và chết cho tất cả những người tội lỗi.
Những ai chọn theo Đức Kitô không còn có thể ở lại trong bình diện lí luận nữa, mà phải đi vào tình yêu. Và chỉ như thế chúng ta mới thể lắng nghe và đón nhận lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay:
“Nếu ai muốn theo Thầy mà không yêu mến Thầy hơn cha, mẹ, vợ con và ngay cả cuộc sống riêng của mình thì không thể làm môn đệ Thầy”.
Nghe lời ấy, chúng ta rất dễ bị cám dỗ muốn so sánh Chúa Giêsu với một người độc tài áp đặt những đòi hỏi phi lí.
Chúa Giêsu nói với những ai muốn làm môn đệ Người. Người nói với quần chúng đông đảo, làm chứng Người muốn kêu gọi hết mọi người và muốn mọi người được hạnh phúc.
Do đó, Lời của Chúa Giêsu không dành riêng cho một nhóm người nào. Ðừng bảo những lời ấy chỉ có giá trị đối với người Do Thái đồng thời với Người. Cũng đừng nói ngày nay những lời ấy chỉ dành cho linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta ngày hôm nay. Người bảo: Muốn đến với Người và làm môn đệ của Người phải ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa. Lại phải vác khổ giá mình mà đi sau Người. Và phải từ bỏ của cải mình đi hết thảy.
Dĩ nhiên Chúa chẳng vô lý đòi chúng ta bỗng dưng phải bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống và của cải. Con người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng ta đến với Chúa và làm môn đệ của Người, thì có chi mà phải ghét bỏ? Nhưng khi mà những sự ấy trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chua, thì hôm nay Người bảo chúng ta phải dứt khoát lựa chọn: hoặc bỏ chúng để được Người, hoặc giữ chúng mà mất Người. Không có lối thoát nào khác. Không phải vì Chúa quá đòi hỏi; nhưng giữa ánh sáng và tối tăm, giữa tình yêu và hận thù, người ta phải lựa chọn.
Thế nên, tiếp theo Chúa bảo người ta phải suy nghĩ, cân nhắc. Như người muốn xây tháp, như vua sắp đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi, đánh trận sẽ thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn.
Người ta phải suy nghĩ trước khi đi theo Chúa. Và theo Chúa không như theo bất cứ một ai. Những người Do Thái đồng thời với Ðức Giêsu còn có thể hiểu lầm được, chứ ngày nay chúng ta đã thấy rồi, Chúa đã đi con đường thập giá, ai muốn đi sau Người, cũng phải mang lấy thập giá.
Kẻ muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô phải vác thập giá đi sau Ðấng đã vác thập giá mở đường cứu độ cho muôn người. Ðối với những thính giả ở thời Ðức Giêsu, điều này có một ý nghĩa rất cụ thể. Người ta vẫn thấy những tên tù tội phải vác thập giá đi đến nơi chịu tử hình. Ngày nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu đi như thế. Ai đi sau Người tất bị khai trừ bởi những ai phủ nhận đường lối Người đã đi. Không chấp nhận bị khai trừ như vậy không thể làm môn đệ của Người được. Và khi đi vào con đường thập giá như vậy, làm sao còn có thể bám vào của cải thế gian nữa? Do đó hãy hiểu hai đòi hỏi "ghét cha mẹ" và "từ bỏ của cải" như là điều kiện và hậu quả của việc lựa chọn đi vào đường lối của Chúa, khi tình yêu tự nhiên và của cải thế gian ngăn trở người ta bước đi sau Chúa để trở thành môn đệ của Người.
Khi theo Ngài, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vác thập giá mình mà theo (Lc14, 27). Thập giá ở đây là gì? Đó chính là đời sống ta, là trách nhiệm mà Thiên Chúa trao gửi cho ta. Hãy hoàn thành trách nhiệm của mình một cách hoàn hảo, chúng ta sẽ hân hoan và tự tin đi theo Người. Nếu bạn là một người tu sĩ ư? Hãy sống trọn đời sống của người tu sĩ. Bạn là một người cha ư? Hãy sống trọn trách nhiệm của một người cha, biết lo cho gia đình và nuôi dạy con cái nên người. Bạn là một giáo sư ư? Hãy làm trọn bổn phận của mình, hãy chuẩn bị giáo án đầy đủ và trao gửi tâm huyết, kiến thức của mình cho thế hệ trẻ để giúp họ nên người trưởng thành. Vác thập giá mình để đi theo Đức Giêsu chính là đi đến tận cùng của tình yêu. Đó chính là làm mọi việc vì tình yêu.
Và người môn đệ Chúa Giêsu phải là người biết ngồi lại, suy nghĩ như một người muốn xây tháp hay như ông vua chuẩn bị giao chiến (Lc 14, 28-32). Người môn đệ không phải là người vô tri, hành động thiếu suy nghĩ, nhưng là người biết dùng sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban tặng cho anh để phân định và phục vụ tốt hơn. Phục vụ nước Thiên Chúa giữa đời.
Theo Chúa Giêsu là đi ngược lại những cách sống của thời đại chúng ta. Sự chọn lựa của tin mừng có thể kéo theo những đoạn tuyệt đau đớn. Nó sẽ quấy rầy chúng ta trong các thói quen, tiện nghi chúng ta. Đó là trường hợp của những người sẵn sàng hi sinh thời giờ để giảng dạy giáo lí, coi sóc một nhóm trẻ hoặc tham dự vào các hội đòan và làm việc phục vụ giáo xứ. Vị trí ưu tiên dành cho tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, đặc biệt cho những người bé nhỏ, những kẻ đau yếu, những người bị lọai trừ. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đi theo Ngài để trở thành chứng nhân trong thế giới hôm nay.
Của cải đời này cũng thật đáng quý, nhưng khi cần, người ta sẵn sàng từ bỏ của cải để dành lấy những giá trị cao hơn. Khi bị cướp hăm doạ tính mạng và đòi lấy của cải bạc tiền, người ta sẵn sàng bỏ của lấy người. Khi bị một chứng bệnh nan y đe doạ cướp đi mạng sống, người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ bạc để kéo dài đời sống, dù chỉ sống thêm được một năm.
Qua cuộc đời từ bỏ của mình, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy từ bỏ không là mất đi nhưng là được lại và là được lại gấp nhiều lần.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, đó không hề là một chuyện ‘rẻ tiền’, dễ dãi. Bởi vì điều ấy giả thiết rằng người ta phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì thiết thân nhất của mình – dù đó là cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, hay cả mạng sống mình nữa. Nhưng từ bỏ mới chỉ là một phần việc. Phần còn lại càng thách đố hơn gấp bội: Vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu! Thập giá không chỉ gợi liên tưởng cái chết, mà đó còn là cái chết thê thảm, cái chết tận cùng nhục nhã. Chúa Giêsu không hề lập lờ, giấu giếm các điều kiện để theo Ngài. Trái lại, Ngài rất rõ ràng về các đòi hỏi đối với những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Đó là không giữ lại cho riêng mình bất cứ điều gì; trái lại phải sẵn sàng chịu tước mất tất cả, ngay cả mạng sống mình, dù một cách ê chề, nhục nhã.
Nếu chúng ta yêu thương Chúa Giêsu thì ta hãy để Ngài đi vào trong cuộc sống của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là một luồng Ánh sáng đến ở trong cuộc đời chúng ta và biến đổi từ bên trong. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta có thể múc tận nguồn để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta đi theo Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để trở thành nhân chứng nhiệt thành cho tình yêu của Người trong cuộc sống hôm nay.
Có một câu chuyện kể rằng: Một vị linh sư Ấn giáo nổi tiếng kia đang ngồi tĩnh niệm bên bờ TN 23-C137
Có một câu chuyện kể rằng: Một vị linh sư Ấn giáo nổi tiếng kia đang ngồi tĩnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu có đến xin làm môn sinh. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý giá để làm của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra nhưng không tỏ lộ một thái độ nào, không cần nhìn kỹ vào món quà quý giá ấy, ông cầm lấy một viên ngọc và ném xuống sông. Vì tiếc của, người đàn ông liền lặn xuống sông để tìm lại viên ngọc. Nhưng mất suốt một ngày mà ông không tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi và chán chường, ông mon men đến bên vị linh sư và nài nỉ: “Ngài đã ném viên ngọc xuống chỗ nào xin ngài chỉ cho tôi để tôi lặn xuống tìm lại?”. Không nói gì, vị linh sư cầm lấy viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói: “Đó, ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại”. Cử chỉ của vị linh sư Ấn giáo trên đây cho biết một đòi hỏi gay gắt đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả.
Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự từ bỏ như thế: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên là chỉ nói với các môn đệ ngày xưa hay với những linh mục và tu sĩ ngày nay. Không phải thế, chắc chắn Chúa không có ý nói đến những người đi tu mà thôi, nhưng nói với tất cả mọi người. Thực vậy, những điều Chúa nói trên đây có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa đen, nghĩa chặt áp dụng cho những người đi tu, và nghĩa bóng, nghĩa rộng áp dụng cho mọi người.
Nếu hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là hiểu theo sát nghĩa từng chữ, thì đây là điều kiện Chúa đòi hỏi những người theo Chúa và thực sự những ngừơi đi tu đã thực hiện, đã sống theo những lời Chúa nói. Trong cuộc đời của các thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen, có những vị đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo; có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền; có những vị đã bỏ hết tiền bạc của cải để theo Chúa; có những vị đã bước qua con cái để ra đi dâng hiến cuộc đời cho Chúa, hay chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình để được đi tu; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt để được thong dong theo Chúa.
Chẳng hạn thánh Phan-xi-cô Át-si. Truyện kể rằng khi còn là một thanh niên lêu lổng, Phan-xi-cô thường hay đi lễ trễ Chúa nhật. Có một lần khi vừa đến cửa nhà thờ, thì vị chủ tế đang đọc bài Tin Mừng, Phan-xi-cô nghe rõ được câu: “Nếu con muốn nên hoàn thiện thì hãy về bán hết gia sản, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến đây theo Ta”. Phan-xi-cô xác tín lời ấy Chúa nói với chính mình, anh trở về và thực hành đúng như lời Chúa, tơ lụa, vải vóc trong cửa hàng bề thế của gia đình anh đem phân phát cho người nghèo rồi đi theo Chúa và trung thành với sự nghèo khó suốt đời, nên chúng ta thường gọi là thánh Phan-xi-cô khó nghèo.
Trường hợp của thánh Béc-na cũng rất hay. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sớm nhận ra rằng: khó mà được rỗi linh hồn nếu sống ở thế gian, nên ngài đã quyết định từ bỏ, ngài xin đi tu và còn kéo theo bốn người em nữa. Trước khi lên đường, năm anh em đã nói với người em út, tên là Ni-va: “Vĩnh biệt em Ni-va, các anh đi đây, các anh để lại tất cả đất đai, nhà cửa và của cải cho em”. Ni-va trả lời: “Các anh khôn thấy mồ, các anh chọn trời và để lại đất cho em, em không bằng lòng đâu”. Vì thế, sau này Ni-va cũng theo các anh vào tu viện, từ bỏ đất để chọn trời, từ bỏ thế gian để chọn nước trời.
Những trường hợp trên và nhiều trường hợp khác là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Dầu sao những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa nói: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận nhà dòng làm gia đình và nhận những người cùng chí hướng làm anh em, chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh.
Tuy nhiên, nếu hiểu điều kiện từ bỏ theo nghĩa rộng là Chúa nói với mọi người, thì điều đó có nghĩa là phải ưu tiên dành cho Chúa và làm mọi việc để phụng sự Chúa mà thôi, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như danh vọng và của cải trần gian. Đây là một đòi hỏi có tính cách khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: dụ ngôn người muốn xây tháp hay xây nhà và dụ ngôn ông vua hay ông tướng sắp lâm trận: phải biết lượng sức mình, phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, tức là phải tính toán cẩn thận để khỏi hỏng việc, thiệt hại hay thất bại.
Nói rõ hơn, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, nghề nghiệp để đi tu, nhưng Chúa đòi hỏi phải biết từ bỏ những gì cản bước chân chúng ta đi theo Chúa, những gì làm chúng ta xa Chúa, mất sự bình an, nhất là mất Chúa, mất hạnh phúc nước trời.
Tóm lại, không thể làm môn đệ Chúa nếu không dám dứt bỏ, mà lám sao dứt bỏ được nếu không có tình yêu, nên điều kiện theo Chúa là phải có một tình yêu lớn mạnh. Có tình yêu chúng ta sẽ làm được tất cả, và dứt bỏ vì yêu, chúng ta sẽ thấy nhẹ hơn và dễ hơn. Nói khác đi, từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu, khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cuộc sống muốn thăng tiến phải biết từ bỏ. Trẻ con phải từ bỏ cái nôi để tập đi tập đứng. Lớn lên TN 23-C138
Cuộc sống muốn thăng tiến phải biết từ bỏ. Trẻ con phải từ bỏ cái nôi để tập đi tập đứng. Lớn lên một chút phải từ bỏ mái nhà để đến trường học bao điều mới lạ. Trưởng thành lại phải can đảm từ bỏ quê hương để dấn thân vào đời. Từ bỏ cái cũ để nhận cái mới. Phải từ bỏ cái không còn phù hợp mới có khả năng đón nhận cái phù hợp với hiện tại mình hơn. Không từ bỏ con người sẽ đánh mất cơ hội để thăng tiến, để trưởng thành hơn. Từ bỏ dường như là lẽ tất yếu của định luật tự nhiên.
Có một người thanh niên luôn mong muốn mình giỏi hơn người khác, và còn muốn trở thành một học giả lớn. Nhưng qua rất nhiều năm đường học vấn vẫn ở sau nhiều người. Thất vọng, chán nản, chàng đến tâm sự với một đại sư.
Đại sư nói: “Chúng ta đi leo núi đi, đến đỉnh núi rồi con sẽ biết được nên làm như thế nào.”
Trên núi có rất nhiều hòn đá xinh xắn. Mỗi lần thấy người thanh niên nhìn thấy hòn đá ưng ý, đại sư bảo chàng cho đá vào túi để đeo sau lưng. Một lúc sau chàng thanh niên không chịu nổi nữa, nói: “Đại sư ơi, nếu cứ đeo túi này, đừng nói là leo lên đình núi, có khi bây giờ bảo con đi tiếp cũng không thể đi được nữa rồi.”
Khi đó đại sư cười nói: “Muốn tiến lên phải biết bỏ đi, nếu không bỏ đi làm sao có thể lên đỉnh núi được?”. Người thanh niên lặng người, tự dưng trong lòng sáng suốt, cảm ơn đại sư rồi ra về. Sau đó chàng tập trung học hỏi, cuối cùng trở thành một học giả lớn.
Xem ra muốn leo lên được đỉnh núi cuộc đời cần biết từ bỏ. Những viên đá nặng ta mang trong mình là những tham sân si luôn làm ta trì trệ tiến bước. Lòng tham sẽ níu kéo chúng ta ở lại để tranh dành những danh lợi thú mau qua. Sự nóng giận như viên đá cản lối ta tiến bước bình an. Sự mê muội sẽ làm ta đi lầm đường lạc lối.
Bỏ đi không có nghĩa là thất bại, cũng giống như chơi cờ tướng, tuy phải bỏ đi lợi ích nhỏ, nhưng lại nhận được lợi ích lớn hơn. Bỏ đi đôi khi làm cho con người mình thanh cao hơn, đáng kính hơn, như người nghiện ngập bỏ được thói quen xấu sẽ được yêu mến hơn. Bỏ đi những công việc không phù hợp với mình để được kính trọng hơn, như người đi tu thì không buôn bán, không tích góp tiền của... Bỏ đi những thú vui bất chính để sống có trách nhiệm với cuộc đời hơn... Nói chung, con người cần phải biết từ bỏ: từ bỏ những quyền lợi và hư danh, từ bỏ những tranh chấp đấu đá danh vọng, từ bỏ những tình bạn đã thay đổi, những tình yêu đã thất bại, những quan hệ xã giao không có ý nghĩa, những tính cách xấu, những bận rộn và áp lực không cần thiết. Biết cách từ bỏ sẽ làm ta thanh thoát, nhẹ nhàng và bình an.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy can đảm từ bỏ để đi theo Chúa. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.
Chúa Giêsu cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giêsu đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.
Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.
Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen.
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe khơi dậy nơi chúng ta nhiều thắc mắc: Tại sao người Do Thái TN 23-C139
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe khơi dậy nơi chúng ta nhiều thắc mắc: Tại sao người Do Thái đương thời cứ lũ lượt say mê theo Chúa hết ngày này sang ngày khác, đến hết cả lương thực để nuôi thân, đến nỗi Chúa phải làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi sống họ? Phải chăng nơi Chúa có một hấp lực thần linh lôi cuốn quyến rũ họ? Phải chăng lời Chúa rao giảng là một giáo lý cao siêu và đầy khôn ngoan khiến họ phải cảm phục đến sùng mộ? Phải chăng họ đã nhận ra Ngài là Đức Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, vì họ đã từng được mục kích các phép lạ Ngài làm, để thi ân giáng phúc cho họ: Nào người câm nói được, kẻ mù được thấy, người điếc nghe được, kẻ phong cùi được lành sạch, người đã chết được sống lại và biết bao bệnh nhân với đủ mọi chứng bệnh tật đều được chữa khỏi? Thế nhưng, một thắc mắc rất quan trọng khác nữa, khiến chúng ta không thể hiểu nổi là, tại sao người ta cảm phục Chúa, được chứng kiến biết bao phép lạ, được nghe lời giảng dạy khôn ngoan, được lãnh nhận bao nhiêu ơn lành Chúa ban, thế mà chỉ sau đó vài ba hôm họ lại hô hoán đòi Chính Quyền kết án tử hình Ngài?
I. ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ
Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, thì dân chúng lũ lượt theo Chúa, ngoài các lý do trên, còn một lý do khác hằng được họ ấp ủ trong lòng, cha truyền con nối, từ đời nọ qua đời kia, là việc hôm nay Chúa Kitô tiến lên thành thánh Jerusalem, như một cuộc khải hoàn và sau đó, Ngài sẽ thiết lập một Vương Quốc Vinh Quang trần thế, khiến Israel thành một Vương Quốc vĩ đại hùng mạnh của Đấng Thiên Sai, đáng muôn dân muôn nước phải tôn trọng nể vì. Họ tự hào mình là môn đệ của Chúa Kitô và đáng được Ngài cho hưởng vinh quang với Ngài. Chúa đã thấu tỏ tâm tư thầm kín trong lòng họ, Ngài muốn đánh tan cái ảo mộng hão huyền đó, nên Ngài quay lại phán với họ: "Nếu ai muốn theo Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta được. Còn ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta, cũng không thể làm môn đệ Ta được" (Lc 14:25).
Theo quan niệm lương dân và nhãn quan phàm tục, thì những điều kiện Chúa đòi phải có trên đây, để trở nên môn đệ Chúa, là những đòi hỏi quá khắt khe, khiến người muốn theo Chúa phải chán nản, thất vọng bỏ cuộc. Nhưng theo khách quan, những yêu sách Chúa đòi những người muốn làm môn đệ Chúa trên đây, không có gì là quá khắt khe; vì cũng theo các nhà chú giải Thánh Kinh, thì Chúa Kitô đến trần gian là để rao giảng tình yêu thương, chứ không phải hận thù, Chúa không bao giờ phế bỏ giới luật thứ bốn trong 10 Điều Răn Chúa về tình yêu thương và lòng tôn kính hiếu thảo phải có đối với cha mẹ. Cho nên chữ "bỏ" trong bản dịch của chúng ta không có nghĩa là Chúa truyền chúng ta phải "từ" cha mẹ; nhưng là phải chọn Chúa trước cha mẹ. Còn theo các bản dịch khác đúng hơn phải dịch là "ghét". Chữ "ghét", ghét cha mẹ, ghét bản thân, ngôn ngữ Hy Lạp diễn tả ý niệm "thích hơn" bằng lối văn đối ngẫu: Yêu và ghét. Thay vì nói Thiên Chúa thích Giacóp hơn Esau (Mal 1:2-3) tiếng Hy Lạp nói: "Ta thương Giacóp và ghét Esau". Cũng như trong Tin Mừng theo Thánh Mathêu, Chúa phán: "Ai yêu cha mến mẹ hơn Ta, không đáng làm môn đệ Ta" (Mt 10:37).
II. THÁI ĐỘ CÁC THÁNH TRƯỚC LỜI CHÚA GỌI
Trước lời Chúa kêu gọi, các Thánh đã ý thức và thấu hiểu được cái giá trị đích thực và cao quí của ơn gọi làm môn đệ Chúa, các ngài đã can đảm, mau mắn, dấn thân, dứt khoát khước từ tất cả mọi sự, dù cả cha mẹ, họ hàng thân quyến, dù chính cả mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa.
Khi đã quyết định theo Chúa, các Thánh chấp nhận mọi hậu quả, sẵn sàng vui tươi lãnh nhận vác lấy mọi thập giá đau khổ Chúa gởi đến, tất cả mọi cái ngược lại với bản tính tự nhiên của con người, các ngài không phàn nàn kêu trách; trái lại, còn lấy làm vinh dự vì được diễm phúc chịu mọi thống khổ và chịu chết vì lòng yêu mến Chúa.
Thánh Phêrô, Andrê, Giacobê đã mau mắn giã biệt cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, nghề nghiệp chài lưới, để đi theo Chúa làm kẻ chinh phục các linh hồn.
Thánh Mathêu đã dứt khoát bỏ sở thuế vụ phục vụ Chính Quyền Roma, một nghề nghiệp khá có bảo đảm cho cuộc sống, để đi theo Chúa, truyền bá Tin Mừng Cứu Độ cho các linh hồn.
Thánh Alphongsô đã bỏ văn bằng tiến sĩ luật và ghế luật sư danh tiếng thành Napoli, để đi theo Chúa, phục vụ Chúa nơi các người nghèo nàn, những người xấu số bị xã hội loại bỏ; ngài còn lập một Hội Dòng để chiêu tập nhiều anh em cùng chí hướng thực hiện lý tưởng cao cả đó, hầu Chúa được tôn vinh và yêu mến, các linh hồn được cứu độ.
Tất cả các Thánh, mỗi vị một hoàn cảnh, một môi trường, một chức vụ khác nhau, nhưng các ngài đều đã hy hiến trót bản thân và cả cuộc sống, khước từ tất cả những gì trái nghịch tính tự nhiên, hoặc có thể làm cản trở sứ mạng Chúa trao phó; dù phải đoạn tuyệt cả những tình yêu chính đáng, những sở thích và xu hướng ngay lành riêng tư, ngay cả mạng sống mình vì lòng yêu mến Thiên Chúa, miễn là Chúa được tôn vinh sùng bái.
III. THÁI ĐỘ CHÚNG TA TRƯỚC LỜI CHÚA
Thái độ của chúng ta thế nào trước lời Chúa kêu gọi từ bỏ và vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa, để trở nên môn đệ của Người? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cản trở chúng ta trên đường theo Chúa, những gì trái nghịch với giáo huấn và lề luật của Chúa và Giáo Hội không? Chúng ta có sẵn sàng lãnh nhận mọi đau khổ, ghé vai vác mọi thập giá Chúa gởi để đền tội, để lập công, để nên Thánh, để cứu độ tha nhân và để Chúa được vinh danh không?
Tại một xưởng thợ, trong giờ nghỉ, một nhóm công nhân đang ngồi bàn tán chê bai Đạo Công Giáo, cho Công Giáo là mê tín dị đoan, làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán và bản năng tự nhiên của con người. Khi họ vừa dứt lời, một chàng thanh niên đã can đảm lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa, tôi đã phải từ bỏ tất cả". Mọi người đều bỡ ngỡ trố mắt nhìn, anh thanh niên nói tiếp: "Trước kia tôi là kẻ bợm rượu, mê cờ bạc, ưa dối trá lừa đảo, thích ngao du chơi bời dâm đãng; nhưng vì Đạo Chúa tôi đã từ khước tất cả. Vì Đạo Chúa, đã làm cho tôi mất tất cả những tâm địa xấu xa. Xưa kia Satan thống trị gia đình tôi, biến gia đình tôi thành hỏa ngục nơi trần gian; nhưng nay Chúa ban cho gia đình tôi rất được hạnh phúc, vợ chồng thuận hòa, con cái ngoan ngoãn, thực sự đã làm cho chúng tôi cảm thấy được nếm hưởng hạnh phúc Thiên Đàng ngay trên trần gian này".
Sau cùng, người thanh niên thành thực kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết, Đạo Chúa đã làm cho tôi mất tất cả những gì chưa? Hãy làm như tôi, tôi xin cam đoan chắc chắn với các bạn, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta có can đảm từ bỏ tất cả những gì nghịch với lương tâm, trái với luật Chúa và Giáo Hội; quyết tâm sống đúng với giáo huấn của Chúa và Giáo Hội dạy, để tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa và nên môn đệ của Người không?
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa lời "Xin Vâng" như Mẹ, để chúng con được can đảm từ khước tất cả những gì làm cản trở chúng con trên đường theo Chúa và được trở nên môn đệ của Người.
Tin mừng hôm nay diễn tiến trong bối cảnh Chúa Giêsu đang trên hành trình lên Giêru salem. Hành TN 23-C140
Tin mừng hôm nay diễn tiến trong bối cảnh Chúa Giêsu đang trên hành trình lên Giêru salem. Hành trình đó là điểm đến cuối cùng của Người để hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Tại đó, Người sẽ phải trải qua cái chết khổ nhục trên Thập giá. Trên hành trình ấy, có rất nhiều người cũng muốn đi với Người. Họ muốn được gắn bó với Người. Tuy nhiên họ vẫn chưa hiểu hết con đường phía trước đang chờ đợi họ. Họ vẫn đang tin Người là vị vua theo nghĩa trần thế, có quyền năng thay đổi vận mệnh dân tộc và ban cho họ phú quý vinh hoa khi Người hoàn thành sứ mạng. Họ muốn Người làm Vua để đánh đuổi quân ngoại xâm và tái lập vương quốc Ítraen.
Chúa Giêsu biết những khát vọng trần thế ấy nơi họ nhưng không vì thế mà Người xua đuổi họ. Họ cần phải biết rõ hơn những yêu sách của việc đi theo Người, và họ cần phải ý thức về những khó khăn đang chờ đợi họ ở phía trước. Vì thế, Người đưa ra cho họ một lời đề nghị dành cho những ai muốn bước theo người. Người muốn họ phải vượt qua não trạng thông thường ưa tìm hư danh để bước xuống con đường tự hủy.
Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi vừa khẩn thiết vừa đầy thách đố cho những ai còn muốn đi theo Người: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, an hem, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được.” Thoạt nghe, người ta có thể hiểu sai khi cho rằng lời mời gọi như thế đi ngược lệnh truyền yêu mến người thân cận, cũng như đi ngược điều răn thứ IV là thảo kính cha mẹ. Nhưng đây là một đòi hỏi buộc người ta phải chọn Chúa vượt lên trên tất cả những tương quan khác, một chọn lựa có tính tuyệt đối.
Chắc chắn Chúa không dạy người ta phải khinh ghét cha mẹ và gia đình mình, nhưng người môn đệ phải dứt bỏ những tình cảm riêng tư, những gắn bó làm cản trở trong việc thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói cách khác, người đồ đệ không để cho bất cứ điều gì cản trở mình chọn Chúa làm lẽ sống, cho dù đó là những giá trị linh thiêng cao quý như tình cảm đối với gia đình. Điều đó có nghĩa là người đồ đệ phải yêu mến Chúa hơn tất cả những người khác, kể cả những người thiết thân nhất với mình, và thậm chí là chính bản thân mình. Chúa Giêsu phải được đặt ở vị trí đặc biệt và độc nhất trong cuộc đời sống của người đồ đệ. Tình yêu dành cho Người phải vượt lên trên tất cả những tương qua ràng buộc khác. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là loại trừ tình yêu mến đối với tha nhân, nhưng trái lại phải được tăng triển hơn. Bởi vì một khi tình yêu mến đối với Chúa gia tăng thì cũng đòi hỏi tình yêu thương đồng loại cũng phải triển nở. Vấn đề là tình yêu mến dành cho tha nhân không nằm ngoài mối tương quan của chúng ta có với Chúa Giêsu và phải được hội nhập vào mối tương quan đó.
Để củng cố sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình theo Người, Chúa Giêsu đưa ra hai minh họa về người xây tháp và vị vua đi đánh trận. Cả hai đều phải tính toàn chi ly, lượng sức mình có đủ khả năng để đối đầu với công việc vốn gian nan này không. Việc theo Chúa cũng gian nan không kém việc xây tháp và đánh giặc. Từng chặng một đều đòi hỏi phải hao tốn sức lực. việc theo Chúa cũng không thể tính toán bao lâu, bao nhiêu, hay bằng những việc gì nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, xây dựng nước Trời, chiến đấu với sự dữ và chấp nhận chết đi mỗi ngày để được chiến thắng hiển vinh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được mạnh mẽ dứt khoát với tất cả những gì làm cản trở bước đường theo Chúa.
Xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống duy nhất vượt lên trên tất cả những tình cảm dù thiêng liêng nhất là gia đình và ngay cả chính bản thân con.
Xin cho con vui lòng vác lấy thập giá Chúa mỗi ngày và hăng hái bước theo Người. Sau cùng, xin cho con lòng can đảm để biết từ bỏ hết những gì mình có để được làm môn đệ người và ra đi xây dựng Nước Trời, làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Khởi đi từ tính cấp bách của công trình cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi con TN 23-C141
Khởi đi từ tính cấp bách của công trình cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi con người cộng tác với Ngài để mở mang Nước Thiên Chúa. Một phần là mời gọi mọi người, không phân biệt ai để trở nên Môn đệ của Ngài trong Đức Tin và Phép Rửa; một phần mời gọi một số người làm Môn đệ thiết thân, cộng tác với Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ.
Chúng ta có thể nhận thấy sự tuyển chọn của Chúa Giêsu dường như không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào của thông lệ đời thường như: có bằng cấp, có năng lực, có địa vị xã hội, hay giàu sang quyền quý, v.v… Có người bảo rằng: tiêu chuẩn của Chúa Giêsu là không tiêu chuẩn và điều kiện của Ngài là vô điều kiện.
Nói thế nhưng không phải thế. Cả hai bài đọc và bài Tin Mừng đều cho chúng ta thấy việc chọn Chúa và để được Chúa chọn là cả một quá trình tích cực với những đòi hỏi thật gắt gao:
- Phải có đức khôn ngoan đích thực từ nơi Thiên Chúa, để Nhờ đức khôn ngoan mà biết được ý Chúa, thi hành ý định của Chúa để được ơn cứu độ (x. Bài đọc I: Kn 9,13-18).
- Phải có một tình yêu bao dung với hết mọi người, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa (x. Bài đọc II: Plm 9b-10.12-17).
- Phải biết từ bỏ hết những gì mình có và phải vác thập giá mình (x. Lc 14,25-33).
Những điều đó đã cho chúng ta thấy, theo Chúa là phải dành cho Chúa một địa vị tối ưu. Nhưng không phải là chuyện liều mình mù quáng, mà là một hành động và quyết định nghiêm túc: cần phải suy nghĩ, tính toán kỹ càng, cũng như ông vua kia trước khi đi giao chiến hay gia chủ nọ trước khi bắt tay xây dựng một mái nhà, thì việc dấn thân đi theo Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự lựa chọn khôn ngoan và dứt khoát (x. Lc 14,25-33). Tin Mừng nhiều chỗ cho biết thêm, theo Chúa thì phải thực hiện điều này: “Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu mến người thân như chính mình” (Lc 10,27; Mt 22,37-38; Mc 12,30-31).
Theo Chúa và làm Môn đệ Chúa quả thật không đơn giản chút nào. Nhưng ngược lại những điều mà Chúa hứa ban cho người Môn đệ trung tín lại không gì sánh bằng: “Vì phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Lc 18,29-30; Mt 19,29).
II.- MÔN ĐỆ, NGƯỜI LÀ AI?
Môn đệ, Tông đồ, và nhóm Mười Hai là những danh từ quen thuộc trong các sách Tân Ước, đặc biệt là bốn sách Tin Mừng. Có bản Tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai là các Tông đồ, để các ông ở với Chúa Giêsu và để Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng (x Mc 3,13-19); có bản Tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai là những người được tuyển chọn trong số các Môn đệ (x. Lc 6,12-16); cũng có bản tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai với cả hai danh xưng, vừa là Tông đồ vừa là Môn đệ, khi Chúa Giêsu gọi 12 Môn đệ lại, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 10,1-4). Còn trong bản Tin Mừng theo Thánh sử Gioan thì danh từ Tông đồ hầu như không hề được nói đến mà hầu hết tất cả những người trong Nhóm Mười Hai đều được ngài gọi là Môn đệ.
Quả thực, hai danh từ: Tông đồ và Môn đệ trong bốn bản Tin Mừng không thống nhất với nhau, và như vậy cũng nảy sinh một số câu hỏi: phải chăng danh từ Tông đồ và Môn đệ có cùng một nghĩa? Và Nhóm Mười Hai là Tông đồ hay Môn đệ hay cả hai?
Để giải quyết cho vấn đề này, tôi xin chia sẻ với bạn đọc một quy ước, không dám nói là có thể sử dụng cho mọi bản văn, nhưng ít là để làm sáng tỏ và để sử dụng cho trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
1). Môn đệ: là những người tin Chúa, theo Chúa và ước ao lãnh nhận Phép Rửa. Khi lãnh nhận Phép Rửa, họ trở nên Môn đệ của Chúa Kitô, là Kitô hữu và là anh chị em trong Chúa Kitô. Vì thế, từ ngữ “Môn đệ” trong các sách Tân ước, đã trở thành từ quen thuộc để gọi những người Kitô hữu.
2). Tông đồ: là những người ban đầu nhằm để chỉ Nhóm Mười Hai, nhưng danh từ này càng ngày đã được hiểu rộng hơn theo sự phát triển của Hội Thánh Công Giáo, cả về chất lẫn về lượng. Nhưng thường được coi như một danh từ chuyên môm, nhằm vào việc tuyển chọn những người có ơn gọi tham dự vào sứ vụ của Chúa Giêsu, tiếp tục sứ vụ lãnh đạo Dân Chúa, rao giảng Tin Mừng và cử hành ơn thánh qua các Bí tích.
Trong hai danh hiệu trên, ơn gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu là ơn gọi căn bản nhất của người Kitô hữu. Một khi chúng ta là Kitô hữu, chúng ta không thể thờ ơ hay quên mất căn tính và ý nghĩa của Bí tích Rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận là:
- Thanh tẩy mọi tội lỗi, đặc biệt là tội tổ tông truyền. - Làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa. - Là cửa ngõ để ta lãnh nhận ân sủng và các Bí tích khác. - Ban các ơn chức phổ quát: Vương đế, Tư tế và Tiên tri. - Ban ấn tích để tham dự vào ơn cứu độ...
Nhắc lại mấy căn tính và ý nghĩa của Bí tích Rửa tội như vậy, là vì có khá đông Giáo dân thường nghĩ rằng chỉ có các Linh mục, Tu sĩ mới là Môn đệ Chúa Kitô, còn mình chỉ là các tín hữu bình thường không xứng đáng với danh hiệu “Môn đệ Chúa Giêsu Kitô”. Cho rằng, danh dự lớn lao kia là của các Linh mục, Tu sĩ; nên giáo dân cũng cho rằng việc Tông đồ, việc truyền giáo là trách nhiệm của các vị ấy, chứ không phải của mình.
Vì thế mà nhiều người Kitô hữu đã đánh mất căn tính và danh hiệu của mình, không nhận ra mình là Môn đệ của Chúa nữa, nên sống thờ ơ với việc Loan Báo Tin Mừng Cứu Độ, chẳng màng chi đến việc xây dựng và phát triển Hội Thánh, và đôi lúc có người cũng có tinh thần tích cực mà không dám làm vì vẫn cho rằng không phải việc của mình.
Ở đây, xin được một lần xác quyết: mọi Kitô hữu đều được gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu Kitô. Không chỉ có các Tông đồ mà tất cả chúng ta đều được Chúa Giêsu, đều được Thiên Chúa mời gọi, để trở thành Môn đệ đích thực của Ngài, vì chưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa hằng sống, Đấng thực hiện công trình Cứu độ xuyên qua mọi thời đại và cho mọi dân, mọi nước. Ngài muốn chia sẻ công việc của Ngài với mỗi người chúng ta. Hay có thể nói gọn hơn: ơn gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu Kitô là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu bất kể người đó là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ hay Giáo dân.
Khi biết rõ mình là Môn đệ Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận tiến đến việc hoàn thiện con đường theo Chúa, học cùng Chúa, sống cùng Chúa, làm như Chúa và hiến thân vì Nước Trời như Chúa...
III.- MUỐN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA THÌ PHẢI BIẾT TỪ BỎ
1. Từ bỏ để đi theo Chúa:
Trong bốn sách Tin Mừng, có nhiều trình thuật nói về việc các Môn đệ từ bỏ: nào là nghề nghiệp, gia đình, của cải, ruộng vườn, vợ con… để đứng dậy đi theo Chúa Giêsu. Có người từ bỏ cách dứt khoát, không chút luyến tiếc, đứng dậy đi theo lập tức không do dự; có người suy tính rồi mới đi; có người còn xin được về từ giã người thân hay sang ngượng của cải rồi mới đến theo Chúa… Thái độ nào cũng tốt, nghĩa cử nào cũng tích cực. (x. Mt 4,19; Mc 1,17; Lc 5,10; Ga 21,3; Mt 9,9; Mc 2,14; Lc 5,27; Mc 8,34; Lc 9,23; 14,27; Ga 1,43)
Nhưng cũng có những người xin theo làm Môn đệ Chúa mà chẳng muốn từ bỏ chút nào. Phải chăng là quá dính bén với chức vị, gia đình, của cải, và muôn vàn lý do khác níu kéo bước chân theo Chúa của họ. (x. Mt 8,22; 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22)
Ngày nay, một số người khi nghe những bài Tin Mừng có nội dung về việc từ bỏ, lại vặn vọ hỏi rằng: “Từ bỏ để theo Chúa, phải chăng là nghề nghiệp không có giá trị gì, địa vị cũng không có giá trị, gia đình cũng không có giá trị, của cải cũng không nốt, mọi thứ đều vô nghĩa, vô lý, vô giá trị, bỏ hết...? Cũng có người nói rằng: vậy chẳng cần phải đi học, chẳng cần có nghề nghiệp, chẳng cần gia đình vợ con hay chẳng cần làm ra của cải vật chất... để trở nên kẻ vô sản, kẻ trắng tay, chẳng còn gì để bỏ, chẳng có gì để mất, chẳng có gì để luyến tiếc, như vậy sẽ dễ dàng theo Chúa hơn, có Chúa là có tất cả “Đạo Chúa có lúa ăn hoài” Hay “Theo đạo kiếm gạo mà ăn” như thế chẳng phải là tiêu cực lắm sao?”
Hiểu như thế thì đúng là tiêu cực thật rồi. Vì từ bỏ để theo Chúa phải đồng nghĩa với việc tự hiến và phó thác để xây dựng Nước Trời. Theo Chúa Kitô là đi theo tiếng gọi của tình yêu hiến dâng. Những ai muốn theo Chúa phải biết sống tình yêu, một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa, yêu Ngài hơn tất cả và yêu mến Thiên Chúa hơn tất cả, để những thứ khác chỉ là phụ thuộc là hàng thứ yếu mà thôi. Và việc từ bỏ ở đây là để trở nên trọn lành như Chúa đã từng đòi hỏi: “Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu mến người thân như chính mình” (Lc 10,27; Mt 22,37-38; Mc 12,30-31).
Có nhà truyền giáo ví rằng: theo Chúa giống như người đi leo núi, nếu mang theo những thứ nặng nề lỉnh kỉnh thì sẽ không leo nhanh được, dễ mệt, dễ nản, khó lên được đến đích, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Theo Chúa cũng ví như người vào cửa hẹp, nếu mang theo nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bị vướng bận, của cải níu kéo người đó ở ngoài cửa, khó mà vào được cửa hẹp.
Từ bỏ để theo Chúa như Tin Mừng vừa kể: phải bỏ "cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình". Ý Chúa muốn nói tới những điều thiết thân nhất của mỗi người. Không phải bỏ như kiểu người nọ bỏ nhà ra đi hoang đàng - đàn điếm hay như kiểu bỏ của chạy lấy người, mà là bỏ hết, nếu như những thứ ấy làm vướng bận cho việc đi theo Chúa.
Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống là điều chính đáng không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào những thứ đó cản trở hay làm vướng bận con đường theo Chúa, thì người Môn đệ phải can đảm từ bỏ để đặt Chúa lên ưu tiên hàng đầu.
Từ bỏ ở đây còn có nghĩa là từ bỏ tội lỗi, những quyến rũ bất chính, những ràng buộc và nô lệ của vật chất, tiền tài, danh vọng, hưởng thụ… để chấp nhận sống xả kỷ hy sinh, phục vụ và quảng đại biết cho đi, biết chia sẻ… Và nếu khi nào bị hiểu lầm hay bị kết án, bệnh tật hoặc tai ương... chúng ta can đảm vác lấy thập giá. Để hoàn tất trên thân xác mình những gì còn thiếu nơi Nhiệm Thể Chúa Kitô, như Thánh Phaolô đã trải nghiệm: "Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24).
Vì thế, Chúa Kitô đòi hỏi những ai theo Ngài thì phải coi những đối tượng khác cho dù đó là cha mẹ, vợ chồng, hay địa vị, của cải vật chất... cũng chỉ là thứ yếu so với Ngài: “Vì ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm Môn đệ Tôi được” (Lc 14,33).
Đồng thời từ bỏ cái tôi ích kỷ, nhỏ nhen, dấn thân đón nhận thập giá. Vì mục đích là Nước Trời. Những gì chúng ta hy sinh từ bỏ sẽ trở thành lễ vật hiến tế, tiếp tục nối dài hy tế của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian.
2. Từ bỏ để được ban ơn:
“Ai chấp nhận từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Lc 18,29-30; Mt 19,29).
Có rất nhiều người mến mộ theo Chúa Kitô, nhưng không phải ai cũng trở thành Môn đệ của Ngài, nếu như Chúa Cha không ban ơn cho người ấy (x. Ga 6,44a.65). Chính Chúa Giêsu cũng đã nói rõ ràng: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16); và Thầy ở đâu, thì anh em cũng sẽ ở đó. (x. Ga 12,26; 6,44b)
Vậy, điều mà Chúa muốn con người từ bỏ mọi sự để theo Ngài là một đòi hỏi quyết liệt, dứt khoát và tự nguyện để vâng theo Thánh Ý Chúa, thực thi bác ái yêu thương và phục vụ, để trở nên một với Chúa Kitô và để trở nên hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện. Đòi hỏi này, nhắm đến một mục đích là: chúng ta cùng nhau xây dựng Nước Chúa mau trị đến.
IV.- MUỐN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA THÌ PHẢI VÁC THẬP GIÁ MÌNH
Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá? Thưa rằng: Đây là điều có liên quan tới việc từ bỏ. Vì khi từ bỏ, ta không còn vướng bận hay bị cản trở điều gì cả, khi ấy ta có thể thong dong vác thập giá mình mà theo Chúa. Ý nghĩa của việc này là để trở nên hạt lúa, chấp nhận sự mục nát như lời Chúa Giêsu dạy rằng: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
Mỗi người Kitô hữu đều có một cây thập giá của mình, vừa sức mình, do mình tạo nên. Nó tượng trưng cho tính tự hủy, sự hy sinh, sự đền tội, để vượt qua chông gai thử thách gian khổ, để được cộng tác với cây thập giá của Chúa Giêsu đã vác thay cho nhân loại. Cùng với Chúa Giêsu mỗi người vác cây thập giá của mình đến đỉnh đồi của ơn cứu độ. Qua thập giá mới đến vinh quang, qua gian khổ mới thành người vẹn toàn. Đó là tiêu chuẩn và là công cụ để Chúa muốn tuyển chọn và huấn luyện mỗi người chúng ta. Như có đoạn thư của Thánh Phaolô gửi cho dân Dothái rằng: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10); Còn Chúa Giêsu khi kêu gọi những người Dothái đi theo Ngài thì đã minh định rằng: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12).
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận vác thập giá mình đến chỗ tự hiến vì Nước Trời. Ai thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu thì cũng được Chúa Cha ban cho phần phúc tuyệt hảo và bất diệt với Ngài, hưởng chính đời sống mà Thiên Chúa đang sống: “Nhờ vinh quang và sức mạnh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những ơn rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã (vác thập giá mình) thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).
Quả đã rõ rằng: đi theo Chúa Giêsu không những chỉ “tháp tùng” đi theo, sống cuộc sống “có đạo” mà cho là đủ. Đã có nhiều người có đạo mà thái độ sống hâm hẩm, uể oải, hưởng thụ... “Công giáo mà sống hệt ma giáo” thua xa những người ngoại đạo không biết Chúa; và nhiều khi “người lương dân lại sống rất lương tâm”, vì họ biết yêu thương, biết sống công bằng, hòa nhã, từ tâm bác ái.
Đặt ý nghĩa của cuộc “sống đạo” trong ý nghĩa vừa kể, chúng ta sẽ hiểu được những lời thúc dục mạnh mẽ của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Theo Chúa Giêsu không có nghĩa chỉ là “có đạo”, được Rửa tội, thỉnh thoảng đi nhà thờ, xem lễ, lần hạt Mân Côi, sống đời sống “bình thường” là đủ. Nhưng phải trở nên giống Chúa Giêsu, từ tâm tư cho đến thái độ và hành động. Một trong những điều mà ý Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành là: từ bỏ tất cả để vác thập giá mình mà theo Chúa, để sống gắn bó với Chúa và chia sẻ sứ mạng được sai đi của Chúa. Ý nghĩa này đã được Thánh Phaolô diễn tả bằng một câu rất thi vị: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: Đây là lời đáng tin cậy và là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8; 2Tm 2,11).
V.- MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU LÀ NGƯỜI THI HÀNH THÁNH Ý CHÚA CHA
Công trình cứu độ của Chúa Giêsu từ khi nhập thế cho đến khi về trời có thể được tóm gọn trong lời vàng thước ngọc này là: “Thi hành Thánh Ý Chúa Cha”. Và những ai theo Ngài, làm Môn đệ Ngài, cùng Ngài thực hiện công trình cứu độ thì cũng phải thi hành Thánh Ý Chúa Cha. Kinh Thánh kể rằng: Có lần Chúa Giêsu đang trên hành trình rao giảng Tin Mừng thì Đức Maria tìm đến muốn gặp Ngài và người ta báo cho Ngài biết: “Có Mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy”. Chúa Giêsu đáp lại: “Mẹ Tôi và anh em tôi, chính là những ai lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (x. Lc 8,19-21; Mt 12,46-50; Mc 3,31-35).
Ai thi hành Thánh Ý Thiên Chúa, người ấy sẽ sinh được nhiều hoa trái tốt lành. Người ấy sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Ngài về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn (x. Cl 1,10). Hoa trái ấy chính là hoa trái của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (x. Gl 5,22-23a). Như thế, thi hành Thánh Ý Thiên Chúa cũng chính là để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa (x. Pl 1,11; Ga 15,8).
VI.- KẾT LUẬN
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca đã sử dụng những cụm từ rất khéo léo và rất có ý nghĩa, đó là "đi theo và làm Môn đệ"; “từ bỏ và vác thập giá”. "Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm Môn đệ Tôi được... Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm Môn đệ Tôi được" (Lc 14,27.33). Đoạn văn song đối này có thể diễn tả cách khác như sau: “Có thể được làm Môn đệ Chúa Giêsu, nếu người ấy từ bỏ hết những gì mình có và vác thập giá mình mà theo Chúa”.
Rõ rằng, có rất đông người "đi theo" Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là "Môn đệ" của Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là Môn đệ mà thôi. Người đi theo chưa hẳn là người Môn đệ; cũng như người nói "Lạy Chúa lạy Chúa" chưa hẳn là người thi hành Thánh Ý Chúa.
Hành trình theo Chúa Kitô không đơn giản vì phải đối diện với nhiều thử thách và cám dỗ. Do đó, người Kitô hữu phải biết khiêm tốn cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Vì không có ơn Chúa, chúng ta không thể làm được việc gì, chứ chưa kể là việc đi theo Chúa, là việc trọng đại có tầm cỡ cứu độ. (x. Ga 15,7-16; 16,23-28)
Theo Chúa Kitô là một chuyện nghiêm túc cả đời người, phải biết để tâm lưu ý và cân nhắc kỹ lưỡng; phải biết suy nghĩ tính toán; phải biết khôn ngoan chọn lựa; không thể làm một cách nửa vời, hời hợt. Hành động suy tính, và tự do-tự quyết này là điều kiện để con người thể hiện đặc ân khôn ngoan và tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho con người từ khi tạo dựng, đó là đặc ân giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,27).
Vì thế, đã theo Chúa thì phải theo cho đến cùng, quyết tâm dấn thân trọn vẹn. Mỗi người Kitô hữu phải là một Môn đệ chính hiệu, nghiêm túc và thực hành những đòi hỏi luân lý của Chúa; phải luôn nỗ lực phấn đấu không ngừng; phải kiên trì trung thành với đức tin, nếu không, chỉ một cám dỗ nhỏ của mưu ma, chước quỉ, của tính xác thịt và thế gian cũng đủ làm lung lay và sa ngã bỏ Chúa. Vì Chúa đã dạy rằng: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).
Vấn tâm:
- Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy xem lại mối tương quan của mình với Chúa Kitô và với Hội Thánh thế nào? - Chúng ta có thật sự theo và trở nên người Môn đệ chính danh của Chúa hay không? - Tình yêu mà mỗi người chúng ta dành cho công trình cứu độ có hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực không? - Ưu tiên hàng đầu của chúng ta có phải là nỗ lực sống và thực thi Lời Chúa không?
Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn TN 23-C142
Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn Lan Hải, kể chuyện cuộc đời Thánh Nữ Gianna Baretta Molla.
Ngày 24-4-1994, ĐGH Gioan Phaolô II đã tôn phong Bà Gianna lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Quốc Tế về Gia Đình. Ngày 16-5-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.
Bà là một nữ bác sĩ 39 tuổi, đã có chồng và có ba con, và đang mong đón đứa con thứ tư. Nhưng tin vui mau chóng đã trở thành nỗi lo: bà bị khối u phát sinh trong tử cung vào cuối tháng thứ hai của thai kỳ và phải mổ. Trong nghề y, Gianna hiểu rõ giới hạn của khoa học thời đó. Để cứu người mẹ, bệnh viện bắt buộc phải nạo thai và cắt cục bướm. Mổ cắt khối u để cho bào thai phát triển là điều vô cùng nguy hiểm cho tính mạng người mẹ, nhất là giai đoạn cuối khi sinh con, nhưng bà đã quyết định giữ con mình trong niềm tin tưởng phó thác.
Trước ngày sinh, Gianna tâm sự với cha linh hướng: "Con cầu nguyện liên miên trong những ngày này. Với niềm tin và hy vọng, con phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng. Con sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của con". Trước khi lên bàn mổ, bác sĩ phẫu thuật hỏi lần cuối: "Tôi phải cứu ai bà hay con bà?'' - Gianna trả lời: "Cứu con tôi và đừng lo gì cho tôi". Vị giáo sư người Do Thái, mặc dầu không đồng ý với Gianna, đã làm theo ý bà, và ông đã thốt lên: "Thật đúng là người mẹ Công Giáo".
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ. Bà nói với một Nữ Tu làm y tá trong nhà thương: "Chị yêu quý, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn con tôi được sống". Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khỏe mạnh, mang tên Emanuela "Chúa ở cùng chúng ta". Sau ca mổ, Gianna rất đau đớn, nhưng bà vẫn can đảm phó thác, dâng mình cho Chúa như một của lễ hy sinh, với một tâm hồn khiêm tốn tin tưởng. Gianna muốn kết hợp sự đau đớn của mình với sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Một tuần lễ sau Phục Sinh, Gianna đã nhắm mắt vĩnh viễn về Trời với Chúa, miệng luôn lẩm bẩm: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa".
Trong nghi lễ phong thánh, ĐGH Gioan Phaolô II ca ngợi Thánh Nữ: "Ngài được hồng ân Chúa ban cho một gia đình đầm ấm, một đức tin và tình yêu sung mãn. Ngài là một người mẹ hạnh phúc, nhưng khi thọ thai đứa con thứ tư, ngài đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Trong cuộc dằn co giữa hai lựa chọn, hoặc là cứu lấy mạng sống mình, hoặc là bảo toàn sự sống của thai nhi trong bụng mình, ngài đã không ngần ngại tự hy sinh mình. Ngài quả đã cho chúng ta một chứng tá hào hùng, để lại cho chúng ta bài ca tán dương sự sống để chống lại trào lưu suy tư thoái hóa ngày nay đang lan rộng khắp hành tinh này.". Thánh nữ đã noi gương Chúa Kitô "yêu thương những người thân của mình còn trong thế gian và yêu thương họ cho đến cùng”.
Trang Tin Mừng hôm nay có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là ‘đi theo’ và ‘làm môn đệ’: "Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.
Quả vậy, có rất đông người "đi theo" Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là "môn đệ" của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói những lời rất thẳng thắn và chân thành với “đám đông những người” đang đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa. Từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Cuộc đời Thánh Gianna Beretta là một hành trình đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa. Gianna sinh ở Magenta nước Ý vào ngày 4-10-1922. Cô là con thứ mười trong gia đình mười ba người con, có một người anh làm linh mục. Bố mẹ Gianna rất đạo đức, luôn dạy con cái biết cầu nguyện và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngay từ buổi thiếu niên, Gianna đã lãnh nhận một niềm tin hiến dâng và một nền giáo dục kitô giáo sâu đậm. Nền giáo dục này đã dạy cô coi cuộc sống là sự dâng hiến tuyệt diệu cho Thiên Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và xác tín vào sự cần thiết hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Trong những năm còn học trung và đại học, bên cạnh việc chăm chỉ học hành, Gianna đã diễn tả niềm tin của mình bằng nhiệt tâm dấn thân vào công tác tông đồ cho giới trẻ trong tổ chức ‘Action Catholique’ của Ý. Cô cũng tham gia vào tổ chức từ thiện của Hội Dòng Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, đặc biệt chăm sóc trẻ em, người già cả và người nghèo
Gianna là một thiếu nữ tài giỏi bước ngành y khoa. Năm 1949 cô lấy bằng bác sĩ y khoa và giải phẫu tại Đại Học Pavia. Năm sau, cô mở một dưỡng đường ở Mesero, gần Magenta. Hai năm sau đó, cô có bằng về chuyên khoa nhi đồng của Đại Học Milan. Sau đó, bác sĩ Beretta chuyên chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, cũng như người già và người nghèo.
Bác sĩ Gianna đảm trách công việc y khoa không vì lý do tài chánh, hay ngay cả lý do từ thiện. Đối với bà, hành nghề y khoa là một "sứ vụ." Trong những năm theo học, bà đã tình nguyện phục vụ người già, người bệnh tật với tư cách là một thành viên của tổ chức Thánh Vinh Sơn Phaolô. Là một bác sĩ, bà gia tăng sự phục vụ độ lượng dưới một hình thức của "Công Giáo Tiến Hành": giáo dân tình nguyện làm việc theo nhu cầu và tinh thần của Giáo Hội. Bà là một phụ nữ trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết, một người thích leo núi mạo hiểm và trượt tuyết.
Cuộc hôn nhân vào năm 1955 đã đem lại cho Bác Sĩ Gianna một cơ hội để phát triển "sứ vụ" của bà. Ông bà Gianna và Pietro Molla là một đôi vợ chồng vui vẻ. Là một phụ nữ quân bình và có lương tri, bà đã thành công khi hài hòa sự nghiệp của một người mẹ, một người vợ và một bác sĩ.
Khi gặp nghịch cảnh phải phá thai để được sống, bà Gianna phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của mình. Sự từ bỏ như thế là cách diễn tả một tình yêu. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu mới có cơ may phát minh và sáng chế… Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng.
Laura con gái của thánh nữ đã nói về mẹ mình như sau: Mẹ tôi là một người đàn bà hạnh phúc. Mẹ tôi yêu cuộc sống cho đến chết và biết chấp nhận mọi sự Chúa ban, ngay cả đau khổ. Mẹ Gianna đã đón nhận thập giá bằng tình mẫu tử cao quý.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người. Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Ba điều kiện: từ bỏ, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu thật không dễ dàng chút nào. Phải phấn đấu thường xuyên, phải chiến đấu từng ngày cho nên bao giờ cũng gây nên đau khổ thể xác và tinh thần. Bằng tình yêu vượt qua đau khổ để nên môn đệ Chúa Giêsu là niềm hạnh phúc và là một vinh dự.
Thánh Gianna là chứng nhân sống đạo thời nay, người có tâm hồn giàu cảm thương đối với những người bệnh tật đau khổ, hy sinh mạng sống vì người mình yêu, phản ánh tình thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Chúa Giêsu? Ai muốn đi theo Chúa Giêsu phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp chúng con được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường tình yêu như Chúa đã đi. Amen.
Từ bỏ luôn đòi hỏi một sự quyết tâm cao,luôn biểu lổ,chứng minh bản lãnh cương quyết, mạnh mẽ TN 23-C143
Từ bỏ luôn đòi hỏi một sự quyết tâm cao,luôn biểu lổ,chứng minh bản lãnh cương quyết, mạnh mẽ khôn lường của con người.Có những cái con người chúng ta phải mạnh dạn, can đảm dứt bỏ như những điều tiêu cực rượu chè, ma túy,sì ke và những tật xấu làm hư hỏng con người. Dứt bỏ những điều xấu để chọn những điều tốt là việc làm tối ư cần thiết cho đời sống của mình. Chọn một việc tốt hơn, bỏ một tật xấu vì lòng yêu mến chúng ta sẽ thấy nhẹ nhõm hơn, vui vẻ hơn. Từ bỏ vì yêu sẽ không bao giờ bị mất mát Chúa đã từng nói :” Cho thì có ý nghĩa hơn nhận “. Cuộc sống càng tiến bộ văn minh càng khiến ta phải chọn lựa. Có những người thích hưởng thụ, không dám hy sinh không can đảm để dứt bỏ những cái phù du, tạm bợ, mau qua của cuộc sống này. Càng văn minh, nhiều người lại ít nghĩ đến hạnh phúc vững bền mà Chúa Giêsu thường dạy :”Hãy tìm kiếm Nước Trời hơn là những sự hay hư nát ở đời này “.
Môn đệ của Đức Giêsu là người thuộc về Chúa, chọn Ngài là gia nghiệp, là lẽ sống của mình đến nỗi Chúa đã nói :”Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ,vợ con, anh em,chị em,và cả mạng sống mình nữa,thì không thể làm môn đệ tôi được “ ( Lc 14,26 ).Theo Đức Giêsu đòi hỏi rất gắt gao, bởi vì người theo Chúa phải từ bỏ những gì thân quý nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh chị em, đặt Chúa lên trên hết ngay cả mạng sống của mình nữa. Thực tế, cha mẹ, vợ con, anh chị em là những người thân quý của mình, có thể xem được là nguồn sống, là sức sống của mình.Tuy nhiên, muốn đạt được Chúa, người theo Chúa phải dứt khoát từ bỏ vì tất cả thụ tạo đều tương đối so với vinh quang, sự bền chắc và vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Cứ học xem bài học mà Đức Kitô để lại cho nhân loại : “ Ngài là Thiên Chúa nhưng đã từ bỏ địa vị đồng hàng với Thiên Chúa. Chấp nhận hóa kiếp làm người để sống cho sống vì con người ngoại trừ tội lỗi “…Từ bỏ là dứt khoát, là can đảm dứt khoát tất cả cho Chúa và đặt Ngài lên trên hết mọi sự. Vác thập giá là học nơi Đức Giêsu:” Hiền lành và khiêm nhượng “.Học nơi Đức Giêsu coi thập giá là phương thế sinh ơn cứu độ mà chính Chúa đã vác lấy. Mang lấy thập giá nghĩa là mang lấy thân phận được cứu chuộc để sống cuộc sống của Chúa Giêsu.
Trở nên môn đệ của Chúa Giêsu là chấp nhận từ bỏ những chứng hư, tật xấu, những điều tiêu cực cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.Trở nên môn đệ của Chúa là mặc lấy Đức Kitô để sống như Ngài. Từ bỏ là một quyết tâm thực hiện mãi mãi, thực hiện không ngừng. Từ bỏ và dứt khoát từ bỏ những tiêu cực, những điều không tốt là một sự chiến đấu không ngừng. Từ bỏ thật sự là một thái độ của tình yêu. Đã yêu con người không sợ hy sinh từ bỏ, gương Chúa Giêsu dạy nhân loại, dạy mỗi người chúng ta điều này :” Yêu là dám hy sinh, dám trút bỏ ngay cả mạng sống “ vì “ Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Vâng, Chúa mời gọi con người đi theo làm môn đệ Chúa nhưng Chúa đòi hỏi gắt gao, xin mọi người suy nghĩ. Chúa muốn con người chấp nhận số phận như Chúa nhưng Ngài lại tôn trọng sự tự do của con người, nên nhắc nhở con người suy nghĩ và sáng suốt chọn lựa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con được vác chính thập giá của Chúa đã vác, nghĩa là vác chính con người của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con đừng hờ hững với những đòi hỏi gắt gao mà Chúa đòi hỏi khi con người muốn trở nên môn
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Từ bỏ là gì ? 2.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Chúa ? 3.Thập giá là gì ? 4.Chúa nói vác thập giá có nghĩa gì ?
Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta tự nguyện làm môn đệ Người chứ Người không ép buộc chúng ta TN 23-C144
Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta tự nguyện làm môn đệ Người chứ Người không ép buộc chúng ta. Tự do ở đây vừa nói lên thái độ tôn trọng Chúa dành cho chúng ta vừa làm tăng thêm lòng quảng đại của ta khi theo Chúa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày việc theo Chúa Ki-tô là hành động theo đức khôn ngoan, nghĩa là hành động theo ý nghĩa tự do đích thực mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Bài trích sách Khôn Ngoan nói về ý định hoặc thánh ý của Thiên Chúa, nhất là điều gì Người muốn ta thực hiện. Bài đọc 2 trích thư thánh Phao-lô gửi cho Philêmôn là một kinh nghiệm thực tế kể lại việc ngài khuyên người tín hữu này hãy đối xử với tên nô lệ cũ của anh theo thánh ý Chúa. Sau hết là đoạn Tin Mừng Lu-ca cho ta biết điều kiện Chúa Giê-su muốn kẻ theo Người phải thi hành cũng phải được chấp nhận một cách khôn ngoan chứ không mù quáng.
Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là khôn ngoan đích thực. Sách Khôn Ngoan khẳng định khôn ngoan là hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để nhờ đó chúng ta “hiểu thấu thánh ý của Chúa”. Đoạn sách hôm nay mở đầu với câu hỏi: “Ai trong loài người biết được ý định của Thiên Chúa?” và câu trả lời sau đó là “nếu Chúa không ban sự ngoan và không sai Thánh Thần từ trời cao xuống” thì làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa muốn ta làm gì. Tác giả còn lý luận rằng ngay những điều trước mắt mà chúng ta còn không nhận định được rõ ràng thì làm sao có thể hiểu được những sự trên trời, cụ thể là thánh ý Thiên Chúa. Tiếp đến, tác giả còn nhắc nhở ta rằng mục đích Chúa ban cho ta sự khôn ngoan là để “mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa”. Với các điều này, chúng ta có thể hiểu rằng ứng dụng của đức khôn ngoan là để chúng ta biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa, chứ không phải lẽ khôn ngoan của người đời. Như vậy, nếu chúng ta cứ để cho đức khôn ngoan giúp ta sửa lại lối sống cho ngay thẳng và biết được những điều làm đẹp lòng Chúa, chúng ta sẽ được cứu độ. Nói khác đi, đức khôn ngoan là đường dẫn ta đến ơn cứu độ, như thế ta có thể hiểu Chúa Giê-su chính là đức ngôn ngoan của Thiên Chúa giáng trần và là đường đưa ta về với Cha trên trời vậy.
Bài đọc trích sách Khôn Ngoan mở đường cho chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay khi Chúa Giê-su kêu gọi những ai muốn theo Người thì phải chấp nhận những điều kiện khắt khe: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”. Điều kiện quả thực quá khắt khe, nhưng điều cốt yếu là tại sao Người đòi hỏi có vẻ quá đáng như vậy. Rõ ràng Chúa muốn chúng ta phải đặt giá trị của Người lên trên hết, trên cả cha mẹ, vợ con, anh chị em và bản thân chúng ta nữa. Chọn theo Chúa là chọn theo một giá trị tuyệt đối không gì có thể so sánh được. Sau khi đã đánh đổi mọi sự để chọn Chúa rồi, chúng ta lại còn phải “vác thập giá mình” mà theo Người nữa! Dĩ nhiên chúng ta có thể hiểu “thập giá” theo nhiều ý nghĩa. Tất cả những gì làm cho ta không được thoải mái, mất tự do, bị lệ thuộc đều được coi là thập giá. Thập giá có thể là người thân sống bên cạnh mình: người chồng người cha vô trách nhiệm, đứa con ngang bướng hoặc lêu lổng, người hàng xóm khó tính. Thập giá có thể là đau ốm bệnh tật gây đau đớn phần xác lẫn tinh thần. Thập giá nằm ngay trong lối sống của ta, như một tính xấu khó sửa sai, một tội lỗi phạm đi phạm lại vì yếu đuối…
Tóm lại, chúng ta không bao giờ tả hết các loại thập giá. Nếu chỉ hiểu thập giá theo quan niệm loài người, thì ngần ấy thứ thập giá sẽ vùi giập chúng ta, không sao đứng dậy mà bước theo Chúa được. Vậy mà Chúa lại mời gọi ta làm môn đệ Người với tình trạng bị vùi giập thì chắc chắn không đúng với suy nghĩ khôn ngoan của loài người. Nhưng chúng ta đừng quên chính Chúa ban cho ta đức khôn ngoan của Người nên chắc chắn ta có thể thực hiện được điều Người muốn. Hẳn chúng ta không quên lời Chúa Giê-su mời gọi chúng ta: hãy học Người mà sống hiền lành và khiêm nhường, hãy đến với Người và mang theo gánh nặng của chúng ta để Người bổ sức cho chúng ta. Sau cùng Chúa Giê-su nhấn mạnh việc theo Chúa phải là một hành động trưởng thành, tự nguyện và nhất là cần suy nghĩ chín chắn, đã quyết định thì không bỏ ngang, không lùi trước bất cứ khó khăn nào. Tất cả những điều kiện này, chúng ta không thể thực hiện được nếu không được dẫn dắt do Chúa Giê-su và Chúa Thánh Thần là chính Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Câu chuyện Philêmôn đón nhận lại Ônêsimô, tên nô lệ của ông, theo lời khuyên của thánh Phaolô là một thí dụ điển hình thực hành đức khôn ngoan của Thiên Chúa. Nhờ Thần Khí của Chúa Ki-tô, Philêmôn bỏ đi cái nhìn cũ của ông về Ônêsimô. Từ nay anh này không còn là tên nô lệ của ông, nhưng là một người anh em trong Đức Ki-tô. Đức khôn ngoan của Chúa giúp Philêmôn nhìn Ọnêsimô bằng con mắt đức tin và thay đổi lối cư xử của ông đối với tên nô lệ cũ. Quả thực đức Khôn Ngoan đã sửa sai đường lối của Philêmôn cho ngay thẳng, cũng là cách ông đã thực sự “vác thập giá mình” để đón nhận một người anh em mới trong Chúa và cùng người anh em này bước theo Chúa mà làm môn đệ Người vậy. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Sống là phải đấu tranh, chọn lựa. Bởi vì trong cuộc sống, con người có lúc gặp thử thách, gian nan TN 23-C145
Sống là phải đấu tranh, chọn lựa. Bởi vì trong cuộc sống, con người có lúc gặp thử thách, gian nan, chông gai, nên phải chọn lựa, khi chọn lựa có lúc phải chọn lựa cái nài, bỏ cái kia, không ai có thể cùng đi trên hai con đường song song được. Chọn lựa nhiều khi làm con người rất phân vân, có khi đau khổ nữa bởi vì khi chọn lựa không có nghĩa ta chỉ bỏ cái xấu mà nhiều khi ta bỏ cả cái tốt để chọn cái tốt hơn.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu đã nói với đám đông đi theo Ngài :” Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được “ ( Lc 14, 26 ). Theo Chúa là một cuộc hành trình khó khăn vất vả, đòi hỏi cố gắng, phấn đấu, hy sinh.Có những người khởi đầu một công việc nhưng đã không thành công. Có những người theo đuổi một lý tưởng, theo đuổi một con đường nhưng đã bỏ cuộc. Có người bắt đầu một công việc quan trọng nhưng đã bỏ việc. Chúa nói rất rõ :” …Ai trong anh em
Muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? “ ( Lc 14, 28 ). Chúa dạy rất rõ, thực tế người ta không thành công vì không biết lượng giá, không biết tính toán tỉ mỉ, kỹ lưỡng, xem phải làm sao, tốn kém thế nào vv…Thời Chúa Giêsu, vấn đề lượng định, suy nghĩ, nhìn trước …vẫn luôn đòi hỏi sự cần thiết là vậy ! Thời nay cũng vậy thôi bởi vì có nhiều công trình, có nhiều nhà bị bỏ dở dang vì khi làm việc, khi khởi công, nhiều người đã không tính toán cặn kẽ, chi li, do đó, khi làm công trình sẽ nẩy sinh nhiều công trình phụ và như thế số tiền sẽ tăng vọt khiến không đủ tiền để làm vv…
Việc theo Chúa cũng vậy, Chúa nói :” Ai không vác Thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được “ ( Lc 14, 27 ).Đòi hỏi của Chúa Giêsu là đòi hỏi tuyệt đối, bởi vì có lần Ngài đã nói : “ Ai đã đi theo tôi mà còn ngoái cổ nhìn cầy thì không xứng đáng theo tôi…”. Đây là điều kiện thật căn bản để đi theo Chúa Giêsu. Ngài cho rằng một khi đã chọn Ngài thì phải đặt Ngài trên mọi giá trị khác. Thực tế, Chúa không bao giờ phản đối việc thương cha, thương mẹ, yêu mến anh chị em, thân thương với những người lân cận, những người quen thuộc.Tuy nhiên, khi theo Chúa, Ngài muốn chúng ta đặt Ngài trên hết mọi sự vv...Theo Chúa vẫn là mục đích của mỗi người Kitô hữu chúng ta, nên những đòi hỏi của Chúa luôn luôn giúp chúng ta phải can đảm, quảng đại, dấn thân theo Ngài. Chân phước Têrêsa Calcutta đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ Chúa trong người nghèo.Cả đời sống của Mẹ là một lời cầu nguyện liên lỉ. Do đó, ngày 04.9.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tuyên thánh cho Ngài…Vợ chồng ông bà Martin Guérin và Louise Zélie là thân phụ và thân mẫu của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được phong thánh vì đã hoàn thành trách nhiệm của đời sống gia đình một cách xuất sắc, đạo đức và thánh thiện. Các vị thánh là những người khi yêu Chúa đã biết từ bỏ tất cả để hoàn toàn thuộc về Ngài. Đặt lên trên hết và từ bỏ là cách diễn tả tình yêu. Bởi vì, khi yêu ai người ta từ bỏ tất cả mọi sự.
Vâng, muốn làm môn đệ của Chúa, muốn đi theo và ở với Ngài, chúng ta phải mau mắn từ bỏ tất cả và đặt Ngài trên hết mọi sự.
Lạy Chúa Giêsu, theo Chúa là một hành trình đầy gian nan, thử thách. Xin Chúa ban cho chúng con thêm đức tin, lòng quảng đại, quả cảm để dấn thân theo Chúa tới cùng. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao theo Chúa lại đòi hỏi từ bỏ ? 2.Đặt Chúa trên hết nghĩa là làm sao ? 3.Xin ÔBACE kể ra một vài điều kiện theo Chúa ? 4.Tại sao Chúa lại đòi hỏi dứt bỏ cha mẹ, anh chị em vv...để theo Ngài ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 14:25-33)
Nhìn lại những bài Tin Mừng Lu-ca của mấy Chúa Nhật trước, chúng ta có thể nhận thấy đó TN 23-C146
Nhìn lại những bài Tin Mừng Lu-ca của mấy Chúa Nhật trước, chúng ta có thể nhận thấy đó là những bước chuẩn bị giúp chúng ta dứt khoát quyết định làm môn đệ Chúa Giê-su. Hẳn chúng ta còn nhớ đã có những lần Chúa đòi những người đến xin đi theo Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện. Nào là hãy về bán gia tài rồi đem phân phát cho người nghèo (CN 19). Nào là phải chấp nhận sự chống đối bách hại và chia rẽ (CN 20), phải qua cửa hẹp mà vào (CN 21), và phải có tinh thần khiêm nhường (CN 22). Có thể gọi bài Tin Mừng hôm nay là tổng kết những điều kiện làm môn đệ Chúa, để chúng ta chấp nhận như một hành vi dứt khoát là “vác thập giá mình” mà đi theo Người.
Từ bỏ và vác thập giá là hai hành vi tự nó đã nói lên việc chấp nhận những hy sinh. Thực hiện những điều kiện như đã được trình bày trong các Chúa Nhật trước quả là hành vi từ bỏ và vác thập giá. Thí dụ nếu không có tinh thần từ bỏ, làm sao chúng ta dám “bán gia tài để phân phát cho người nghèo?” Làm một công việc quảng đại như thế khác nào “vác thập giá”? Chấp nhận những thiệt thòi và bách hại vì theo Chúa, bỏ lối sống đầy tiện nghi vật chất để theo lối sống “cửa hẹp” nghèo khó, khiêm nhường và phục vụ của Chúa Ki-tô, tất cả đều đồng nghĩa với hành vi từ bỏ và vác thập giá. Như thế, khi chấp nhận từ bỏ và vác thập giá là người ta đã đi tới một quyết định dứt khoát muốn làm môn đệ Chúa rồi! Quyết định là điều quan trọng, nhưng thi hành quyết định còn quan trọng hơn và không luôn dễ dàng. Chính vì vậy, Chúa Giê-su đã trình bày luôn một lúc hai ví dụ để nhắc nhở chúng ta phải “tính toán” hoặc “bàn tính xem” trước khi quyết định!
Ví dụ thứ nhất là việc xây tháp. Xây tháp xem ra đơn giản, nhưng thực tế khó hơn xây nhà và có khi còn tốn kém hơn. Không những nó đòi hỏi phí tổn, mà còn cần thuê thợ giỏi nữa. Tôi có một cha bạn, sau khi nhận xứ mới, ngài bắt đầu xây một đài Đức Mẹ thật lớn. Nhưng sau bốn năm trời, tôi thấy vẫn chỉ xong được mấy ngón chân của Đức Mẹ thôi! Đó là thiếu tính toán vật chất. Còn Chúa Giê-su khuyên chúng ta phải “tính toán” khi xây ngọn tháp thiêng liêng, tức mối tương quan với Người. Nhưng tính toán thế nào đây? Tính toán của việc làm môn đệ Chúa là phải chấp nhận cái giá đắt được trả bằng sự quảng đại hy sinh, nhưng cũng không loại bỏ xác tín những lợi ích khi được đi theo Chúa và sống trong sự tự do của người con Chúa.
Ví dụ thứ hai là ông vua đi giao chiến với vua khác. Xây tháp là công việc thuộc phạm vi gia đình hay cộng đoàn nhỏ. Nhưng việc giao chiến giữa hai quốc gia là việc lớn, nên càng phải bàn tính kỹ lưỡng hơn. Một ông vua khôn ngoan trước khi giao chiến với nước khác chắc chắn phải bàn tính với các quân sư hay cố vấn. Biết địch biết ta, trăm trận đánh trăm trận thắng. Đó là quy tắc không hề thay đổi. Ngoài ra ông vua ấy còn phải biết chọn đường lối thương lượng, nếu thấy lực lượng của nước mình kém hơn nước địch. Một điều khó khăn nhất đối với ông là phải từ bỏ tiếng tăm của mình, khiêm tốn chịu lép vế đối với vua kia và sai sứ đi cầu hòa. Đối với người chọn lựa làm môn đệ Chúa Giê-su, càng đòi hỏi họ phải khiêm nhường hơn nữa, để hoàn toàn tín thác vào sự dạy dỗ và đào tạo của Thầy chí thánh. Người không đối xử với chúng ta theo cách các vua chúa trần gian, trái lại Người còn mong chúng ta đến với Người, ngoan ngoãn để cho Người uốn nắn chúng ta trở nên “đồng hình đồng dạng” với Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hôm nay Chúa Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta hãy ngồi lại với Người để “tính toán và bàn tính” về việc làm môn đệ Chúa. Trước hết Người hỏi chúng ta có thực sự muốn làm môn đệ Người không. Chúng ta sẽ trả lời Chúa từ đáy lòng mình. Người thẳng thắn cho chúng ta thấy những thách đố của việc cam kết ấy. Cảm thấy sợ hãi trước những điều kiện Chúa đề ra là điều tự nhiên. Nhưng Chúa Giê-su không muốn chúng ta nản lòng. Trái lại, Người hứa với chúng ta là chúng ta sẽ được phần thưởng gấp trăm. Một trong những lời hứa làm cho chúng ta vững tâm và tin tưởng nhất, đó là tình yêu vĩnh cửu và sự hiện diện của Người. “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mát-thêu 28:20).
Đức Khôn ngoan ở kề bên Chúa, biết những việc Chúa làm, hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ, biết rõ những gì đẹp mắt Chúa và phù hợp với huấn lệnh của Ngài...Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn ngoan mà được cứu độ.
* Bài đọc 2: Plm 9b-10.12-17:
Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô..Vậy, nếu anh coi tôi là là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.
* Tin Mừng: Lc 14,25-33: Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Từ bỏ hết những gì mình có
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.
NGẪM
* Câu hỏi gợi ý:
1. Từ bỏ và vác thập gía là điều kiện không có không được để theo Chúa Giêsu. 2. Làm thế nào để chúng ta hiểu và thực hiện được bài học khó khăn này?
* Suy tư gợi ý:
1. Từ bỏ và vác thập gía là điều kiện không có không được để theo Chúa Giêsu.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đưa ra một điều kiện với những ai muốn theo Ngài TN 23-C147
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đưa ra một điều kiện với những ai muốn theo Ngài, muốn trở thành môn đệä của Ngài: đó là từ bỏ mình, từ bỏ mọi sự và vác thập giá mình. Điều kiện này là điều kiện không có không được (sine qua non) tức không thể thiếu nơi người muốn theo Chúa. Thật khó hiểu và trái ngược với những gì con người thường suy nghĩ: Theo Chúa, thì phải được chứ sao lại phải mất? Thật vậy, người ta thường nghĩ và đặt vấn đề: tôi sẽ được gì nếu tôi vào đạo? tôi sẽ được gì nếu tôi vào hội đoàn? tôi sẽ được gì nếu tôi đi tu làm linh mục, làm tu sĩ? Ít ai đặt vấn đề là tôi sẽ mất gì nếu tôi chấp nhận theo Chúa? Chính Phêrô cũng đã lên tiếng với Chúa Giêsu thay cho các tông đồ: Thày coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày (hiểu ngầm: thì chúng con sẽ được gì? (Mc 10,28). Rõ ràng hơn nữa là trường hợp của Gioan và Giacôbê: chỉ cách ngày Chúa chịu khổ nạn ít hôm, hai tông đồ thân cận này còn kiến nghị với Chúa để Ngài dành hai chỗ bên tả bên hữu cho hai anh em ông (Mt 20,20-21; Mc 10,36-37). Cách suy nghĩ và hành động của con người -thời xưa cũng như thời nay- khác xa với cách suy nghĩ và hành động của Chúa Giêsu, của Thiên Chúa! Quả như lời sách Khôn ngoan: "Ý định của Chúa, nào ai biết được?"
Đọc hạnh các thánh hay các tâm hồn đạo đức sống gần Chúa, chúng ta đều thấy nổi bật tinh thần hy sinh và đời sống từ bỏ của những vị ấy. Họ thực hiện bài học từ bỏ và vác thập giá bằng nhiều cách khác nhau. Có người thực hiện những hy sinh từ bỏ lớn lao, như thánh Phaolô tông đồ, như thánh Phanxicô Xaviê. Có người chọn những hy sinh từ bỏ nhỏ bé, âm thầm như thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Điều quan trọng không phải là chính việc làm mà là động cơ và lòng yêu mến khi thực hiện những việc làm ấy. Vì thế hy sinh từ bỏ là việc vừa tầm tay và khả năng của tất cả mọi người, không trừ ai.
2. Làm thế nào để chúng ta hiểu và thực hiện được bài học từ bỏ và vác thập giá khó khăn này?
Thật ra sự khôn ngoan loài người không giúp chúng ta được bao nhiêu, khi chúng ta muốn hiểu được ý nghĩa thâm sâu của bài học từ bỏ và vác thập giá. Xu hướng tự nhiên của con người là tích lũy, là thủ đắc, là có thêm. Đàng này là chấp nhận mất mát, là tìm cách cho đi. Sự khôn ngoan loài người không đủ sức thuyết phục chúng ta hành động mà chỉ có sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới giúp chúng ta hiểu và sống bài học từ bỏ và vác thập giá. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta hiểu ý nghĩa thâm sâu của từ bỏ và vác thập giá là trở nên giống Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hạ tự hủy ra không, tuy Ngài là Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và sự điên cuồng để chúng ta dám dấn thân vào con đường mà Đức Giêsu đã đi và mời gọi chúng ta đi theo Người. Chúng ta biết sở dĩ Thiên Chúa không bỏ rơi con người khi tổ tông phạm tội mà lại còn sai Con Một đến thế gian là vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và muốn cứu vớt tất cả mọi người. Con đường cứu độ là nhận biết Thiên Chúa, đón nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa và trở thành môn đệ của Đức Giêsu tức trở nên đồng hình đồng dạng với Người.
Nếu chúng ta dựa vào các sự kiện được kể lại trong Phúc Aâm, thì chúng ta có thể khẳng định như thế này: chúng ta chỉ có thể hiểu và đi vào con đường từ bỏ và vác thập giá một khi chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi, mở tai, mở mắt, mở trí, mở lòng như (hai) anh chàng mù Báctimê ở Giêrikô (Mt 20,29-34; Mc 10, 46-52; Lc 18,35-43).
Vậy thì việc chúng ta phải làm là nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan của Ngài và để cho ơn khôn ngoan ấy điều khiển, hướng dẫn suy nghĩ hành động của chúng ta. Việc chúng ta cần làm là nài xin Đức Giêsu đụng tay đến tai, mắt, trí óc và trái tim chúng ta và để Người mở tai, mở mắt, mở trí, mở lòng cho chúng ta. Không phải là tai, mắt, trí óc và trái tim thể lý mà là tai, mắt, trí óc và trái tim tâm linh của chúng ta. Có như thế, chúng ta mới nghe và hiểu được Lời của Người. Có như thế chúng ta mới nhìn thấy ý nghĩa thâm sâu, cao đẹp của từ bỏ và vác thập giá. Có như thế chúng ta mới có lòng yêu mến và tìm kiếm các cơ hội bỏ mình, bỏ ý riêng, của cải, thời gian, tài trí mà phục vụ Nước Chúa và anh em.
NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn trí toàn năng, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan của Cha, để chúng con hiểu được một phần nào đường lối của Cha và giáo huấn của Chúa Giêsu, Con Cha. Xin ban cho chúng con sức mạnh của Thánh Thần Cha cho chúng con để chúng con yêu mến và thực thi đường lối và giáo huấn ấy!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Chúa đã dậy chúng con bài học của hạt lúa: Hạt lúa không chết đi trong lòng đất thì mãi mãi trơ trọi, không sinh hoa trái gì được. Nhưng nếu hạt lúa chấp nhận thối rữa trong lòng đất thì cây lúa sẽ trổ bông cho mùa gặt chín vàng. Chúng con cảm tạ Chúa về bài học sinh động ấy. Nhưng lạy Chúa Giêsu, bài học lớn nhất mà Chúa dành cho chúng con là chính cách chon lựa, cách sống, cách chết của Chúa. Chúa là Thiên Chúa mà Chúa đã từ bỏ vinh quang, uy quyền của Thiên Chúa để làm người. Chúa là Ngôi Lời của Thiên Chúa mà Chúa đã mặc xác phàm để thành lời của con người, cho con người. Chúng con cảm tạ Chúa về bài học siêu phàm này.
Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là ánh sáng, là sức mạnh của Thiên Chúa. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong chúng con, để hướng dẫn và nâng đỡ chúng con trên con đường từ bỏ và vác thập giá theo chân Đức Giêsu Kitô. Amen. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Đầu tháng 9 vừa qua, dư luận khắp nơi bàng hoàng khi nghe tin về một vụ thảm sát tại Hà Nội: một TN 23-C148
Đầu tháng 9 vừa qua, dư luận khắp nơi bàng hoàng khi nghe tin về một vụ thảm sát tại Hà Nội: một người đàn ông đã cầm dao giết những người trong gia đình em trai ruột. Tất cả có 4 người chết và 1 người bị thương nặng. Lời khai ban đầu của bị can cho thấy động cơ giết người chỉ vì hai anh em ruột tranh chấp đất đai do cha mẹ để lại.
Sau sự việc trên, nhiều người bỗng nhận ra rằng có khi chỉ vì một chút tài sản, vật chất là nguyên nhân làm tan nát tình nghĩa anh em ruột thịt và gia đình. Một bạn đọc đã bộc lộ quan điểm của mình: “Nửa mét đất thực chất chỉ là cái cớ, là điểm khởi đầu cho mâu thuẫn chứ không phải là nguyên nhân chính dẫn đến vụ thảm sát. Nguyên nhân thực sự đó chính là lối sống ích kỷ, coi trọng giá trị vật chất hơn tình nghĩa. Câu chuyện là hồi chuông cảnh báo cho lối sống của cả cộng đồng. Bớt đi sự ích kỷ, nhún nhường trong gia đình, thêm yêu thương chia sẻ, thì chắc chắn những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong đời sống sẽ được giải quyết ổn thỏa”.
Các bạn thân mến, ngay trong lúc này, chúng ta có cảm thấy “giật mình” nhớ lại trong cuộc sống thường ngày đôi khi chỉ vì một chút bốc đồng, một lời nói khó nghe hay một hành động gây hấn của mình đã đem lại những hệ quả đáng tiếc cho gia đình và những người khác không? Không ít thì nhiều, có thể là có đấy! Để sống cùng, sống với và sống vì mọi người đòi hỏi mỗi người chúng ta phải tập hy sinh, từ bỏ “cái Tôi” ích kỷ, hẹp hòi và tự ái của bản thân mình mỗi ngày.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nhắc đến hai chữ TỪ BỎ: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, … và tất cả những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26.33). Điều Chúa Giêsu đòi hỏi là mời gọi những ai muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả để ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, ngay cả chính bản thân cũng như của cải trần gian này. Bởi vì trung tâm điểm của đời sống người Kitô hữu chính là Chúa Giêsu, từ đó mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối là Thiên Chúa. Nhưng đòi hỏi ấy của Ngài không cho phép chúng ta xem nhẹ những liên hệ gia đình, và những điều tốt đẹp khác, ngược lại chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm đó xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.
Khách quan mà nói, một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Chúa Giêsu đối với các môn đệ hay những ai bước theo Ngài chính là việc từ bỏ bản thân mình. Nếu từ bỏ một ít, hay những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng từ bỏ chính mình, tức là loại bỏ những ước muốn xấu xa, những lời nói chua cay gắt gỏng, những thái độ tự phụ bất chính… thì thật sự là một thách đố lớn đối với mỗi người chúng ta. Chúa luôn biết mỗi người chúng ta đều có những hoàn cảnh, khả năng và sở thích riêng, nên Ngài sẽ không đòi hỏi chúng ta những gì vượt quá sức của bản thân. Chỉ cần có lòng yêu Chúa thật sự, và cùng với ơn thánh hóa, chúng ta sẽ nổ lực “làm mới” bản thân mình mỗi ngày để xứng đáng trở thành những môn đệ thân tín của Ngài. Như thế, cách nào đó người kitô hữu cũng đang góp phần “thắp lên” ngọn nến của lòng khoan dung và nhân hậu trong xã hội hôm nay.
Gợi ý suy niệm:
“Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”, những ca từ ý nghĩa trong Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì?
Có lần nào chúng ta cảm thấy vui khi làm một việc có ích cho người khác, và cảm thấy mình nhận nhiều hơn là cho đi?
Tại sao Đức Giêsu nói rằng chúng ta phải “ghét” gia đình của chúng ta và ngay cả bản thân (Lc 14,26)? TN 23-C149
Tại sao Đức Giêsu nói rằng chúng ta phải “ghét” gia đình của chúng ta và ngay cả bản thân (Lc 14,26)? Trong Kinh thánh, thành ngữ “ghét” thường có nghĩa là “yêu ít hơn”. Đức Giêsu sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ để làm cho rõ ràng rằng không có gì được quyền ưu tiên hoặc chiếm chỗ nhất hay vượt trên Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha trên trời tạo dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người và làm con cái của Người. Người đặt chúng ta lên hàng đầu trong tình yêu của Người và quan tâm đến lợi ích và hạnh phúc của chúng ta. Tình yêu của chúng ta dành cho Người là sự đáp trả lại tình yêu và lòng tốt vượt trổi của Người dành cho chúng ta. Tình yêu đích thật đắt giá vì nó sẵn sàng hy sinh tất cả vì người yêu – sẵn sàng dâng hiến tất cả và hy sinh tất cả cho người mình yêu. Chúa Cha ban cho chúng ta Con một yêu dấu của Người, là Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta, Đấng tự nguyện dâng hiến mạng sống mình cho chúng ta trên thập giá làm của lễ đền tội hy sinh vì tội lỗi chúng ta. Cái chết hy sinh của Người đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và sự chữa lành, đời sống mới trong Thần Khí và bình an với Thiên Chúa.
Cái giá của người đi theo Đức Giêsu làm môn đệ
Đức Giêsu sẵn sàng đón lấy thập giá, không chỉ vì vâng phục ý Cha, mà còn vì tình yêu thương xót dành cho mỗi người chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, Satan, và tất cả những gì có thể ngăn cản chúng ta khỏi tình yêu, chân lý, và sự tốt lành của Người. Đức Giêsu biết rằng con đường thập giá là con đường của Cha dành cho mình để dẫn đến vinh quang và chiến thắng trên tội lỗi và sự chết – và vinh quang cho chúng ta nữa. Người cân nhắc và thưa “vâng” với ý Cha. Nếu chúng ta muốn chia sẻ vinh quang và chiến thắng của Người, thì chúng ta cũng phải “cân nhắc” và thưa “vâng” trước tiếng gọi của Người để “vác thánh giá mình và theo Người” là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta.
“Con đường thập giá” dành cho bạn và tôi là gì? Tức là khi nào ý tôi đi ngược với ý Chúa, thì ý Người phải được thực hiện. Con đường thập giá liên hệ đến sự hy sinh, sự hy sinh bỏ mình mỗi ngày và mọi ngày vì danh Đức Giêsu. Điều làm cho sự hy sinh như vậy có thể thực hiện và “ngọt ngào” cho chúng ta là tình yêu của Thiên Chúa đã đổ ra cho chúng ta trong máu của Đức Kitô, Đấng thanh tẩy chúng ta và làm cho chúng ta trở thành một thụ tạo mới trong Người. Thánh Phaolô Tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng “Tình yêu Thiên Chúa đã được đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Chúng ta không bao giờ có thể vượt trổi hơn Thiên Chúa trong tình yêu thương xót và lòng tốt của Người dành cho chúng ta. Vì Người luôn luôn ban cho chúng ta nhiều hơn chúng ta có thể mong đợi hay tưởng tượng. Bạn có cho phép Chúa Thánh Thần lấp đầy lòng bạn và biến đổi đời bạn với tình yêu và lòng th. xót dạt dào của Thiên Chúa không?
Kế hoạch khôn ngoan trước để ngăn chận thất bại và xấu hổ
Hai dụ ngôn song đôi về người xây tháp và người chỉ huy chiến trận có chung điểm gì (Lc 14,28-32)? Cả hai người xây tháp và người chỉ huy đều có nguy cơ tổn thất nghiêm trọng nếu họ không cẩn thận lên kế hoạch trước để chắc chắn họ có thể hoàn tất những gì họ đã khởi sự. Trong một nền văn hóa sợ mất danh dự, người ta muốn tránh tất cả những lời mỉa mai của cộng đồng khi thất bại không hoàn thành được công việc mà họ đã khởi sự một cách nghiêm túc nhất. Cả hai dụ ngôn song đôi vang dội lời chỉ dẫn của sách Châm ngôn trong Cựu ước: “Có khôn ngoan mới dựng được nhà” và “Khi giao chiến, cần lời chỉ đạo, muốn thắng trận, cần nhiều cố vấn” (Cn 24,3-6).
Vào thời Đức Giêsu, mỗi địa chủ, có đủ khả năng xây tường trong vườn của mình như là một sự bảo vệ khỏi những kẻ xâm nhập có thể ăn cắp hoặc gây tổn hại hoa trái của mình. Một cái tháp thường được xây dựng ở một góc tường, và người bảo vệ tháp, đặc biệt là trong thời gian thu hoạch khi kẻ trộm có khả năng sẽ cố gắng trộm cắp hoa màu. Bắt đầu một dự án xây dựng, như một tháp canh, và bỏ nó dở dang, bởi vì kế hoạch tồi tệ sẽ khiến cho cả làng coi thường. Tương tự đối với một vị vua, người quyết định mở một cuộc chiến tranh chống lại một đối thủ mạnh hơn, sẽ bị coi là ngu si nếu ông không dự trù một kế hoạch, đã có cơ hội phong nha của sự thành công. Việc tính toán cái giá và đầu tư khôn ngoan là những điều kiện cần thiết cho kết quả tốt đẹp sắp tới.
Sự trao đổi lớn lao
Nếu bạn đánh giá điều gì đó có giá trị lớn và muốn sở hữu nó, lẽ tự nhiên là phải hỏi xem nó sẽ đòi hỏi bạn bao nhiêu trước khi bạn đồng ý đầu tư cho nó. Đức Giêsu nói thành thật và thẳng thắn với các môn đệ của mình rằng chính họ cũng phải trả giá nếu họ muốn làm môn đệ của Người – nó sẽ đòi cả mạng sống của họ và tất cả những gì họ có trong sự trao đổi sự sống mới và cho kho tàng của vương quốc Thiên Chúa. Chúa Giêsu không cho lý do nào cho sự thỏa hiệp hoặc kỳ kèo. Hoặc chúng ta dâng hiến cuộc sống của chúng ta hoàn toàn cho Người, hoặc chúng ta giữ chúng lại cho bản thân mình. Thánh Phaolô nói, “Chúng ta không thuộc về mình. Chúng ta đã được mua với một giá” (1Cr 6,19 b, 20). Trước kia chúng ta là nô lệ cho tội lỗi và vương quốc tối tăm và áp bức, nhưng giờ đây chúng ta được mua chuộc với giá máu châu báu của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chuộc chúng ta khỏi cuộc sống tối tăm và hủy diệt để chúng ta có thể bước vào vương quốc ánh sáng và sự thật của Người. Đức Kitô ban cho chúng ta tự do chọn lựa ai là người chúng ta sẽ phục vụ ở đời này và đời sau – vương quốc ánh sáng, sự thật, và tốt lành của Thiên Chúa hay vương quốc tối tăm, dối trá, và lừa gạt của Satan. Không có phe trung lập – một là chúng ta chọn vương quốc Thiên Chúa hay chống lại nó.
Bạn yêu ai trước hết và trên hết?
Tình yêu của Thiên Chúa buộc chúng ta chọn lựa ai hoặc những gì sẽ ưu tiên trong cuộc sống của chúng ta. Đặt để bất kỳ mối quan hệ hay sở hữu nào trên Thiên Chúa là hình thức thờ ngẫu tượng – tôn thờ thụ tạo thay vì Đấng tạo hóa và Đấng cai quản mọi sự Người đã tạo nên. Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ kiểm tra xem ai và cái gì mà họ yêu trước nhất và nhiều nhất. Chúng ta có thể bị cai trị và điều khiển bởi nhiều thứ khác nhau – tiền bạc, thuốc, thành công, quyền lực hay danh tiếng. Chỉ có một Thầy là Chúa Giêsu Kitô, mới có thể giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của tội lỗi, tham lam, và sự tiêu diệt. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta – chúng ta sẽ phục vụ và theo ai – con đường và số phận mà Chúa Giêsu đề cử cho chúng ta hay con đường chúng ta lựa chọn để chống lại ý định và mục đích của Thiên Chúa dành cho đời chúng ta. Tắt một lời, là sự chọn lựa giữa sống và chết, sự thật và giả dối, sự lành và sự dữ. Nếu chúng ta chọn Chúa Giêsu và đặt niềm tin cậy nơi Người, Người sẽ tỏ cho chúng ta con đường dẫn tới niềm vui và hạnh phúc đích thật với Cha trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Kho Báu, là Sự Sống, là Tất Cả của con. Không có gì trong đời sống này có thể giá trị hơn niềm vui của sự hiểu biết, yêu thương, và phụng sự Chúa mọi ngày của đời con. Xin nhận lấy cuộc sống con và tất cả những gì con có và lấy nó làm của Chúa cho vinh quang Chúa bây giờ và mãi mãi.
Tác giả: Don Schwager (http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/) Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài TN 23-C150
Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hoàng chiến thắng. Nhưng cũng có người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.
Điều kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Chúng ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hữu chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều khi vô tình đã trở thành những môn đệ “dổm”. Hôm nay chúng ta phải xác quyết lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma quỷ và quyết tâm theo Chúa đến cùng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Kn 9,13-18
Sách Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa.
Đoạn trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều liên quan đến cuộc sống đời đời thì làm sao hiểu thấu được.
Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.
+ Bài đọc 2: Plm 9b-1012-17
Trong lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ônêximô để gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô.
Tuy thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmôn đối với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình.
+ Bài Tin mừng: Lc 14, 25-33
Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng cường, cho nên họ nghĩ rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho những kẻ muốn theo Ngài.
Theo ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa. Theo Ngài tức là làm môn đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện những điều kiện cực kỳ gay go.
Đồng thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc đồng rồi bỏ cuộc.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Muốn làm môn đệ của Chúa
I. GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM
Thánh Luca tường thuật cho chúng ta cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí muốn theo Ngài.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa, và phần phụ nói lên tính cách của việc đi theo Chúa qua hai dụ ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến.
A. PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN
Phần này gồm có hai điều kiện: từ bỏ mọi sự và vác thập giá.
1. Từ bỏ mọi sự
Điều kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên, bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
2. Vác thập giá mình
Ở đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo bằng cách vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của Ngài được.
B. PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN
Người muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa.
Để diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời sau.
II. TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA
Những người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có, để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói rõ: “Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo” trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện.
1. Điều kiện tiêu cực: Từ bỏ
Đức Giêsu nói với đám đông: “Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14,26). Có bản dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc 18,19t)?
Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ “misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài (Nguyễn văn Thái).
Như vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37).
Những lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.
Thánh Grêgôriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.
Không những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si.
Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.
Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác.
Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát.
Đối với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì “bỏ bản thân mình” đi theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý nghĩ về mình hay của mình đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòoàn là theo kiểu của loài người” (Mt 16,23”?
2. Điều kiện tích cực: vác thập giá
Các đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để cho ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài: họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.
Theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc. Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với tinh thần tự nguyện: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
Tuy thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu đâu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ thành công.
John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra , rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!
3. Phải lượng sức mình: lựa chọn
Muốn làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương.
Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ Chúa. Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy:
Xem giỏ bỏ thóc
Hay
Đừng vung tay quá trán.
Sống là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có thể chọn cả hai hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ.
Sự lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như người ta nói: “Đâm lao thì phải theo lao” (Tục ngữ), đã theo Chúa thì phải quyết tâm theo đến cùng vì: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp bmọi bất trắc rủi ro:
Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn, Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay. Đạo vợ chồng đừng có đổi thay, Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau. (Ca dao)
4. Đi theo hay làm môn đệ?
Trong đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã sử dụng những cụm từ này rất khéo: “Lúc ấy có rất đông người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ…thì không thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn đệ.
Có người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng thanh niên rằng:
– Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không?
Vị giáo sư thẳng thắn trả lời:
– Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng anh ta không phải là học trò của tôi.
Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là: “Làm cái gì có lợi cho mình”. Trái lại, một môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình.
Một lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi:
– Ngài có bao nhiêu đệ tử?
Nhà sư Lin Chi đáp:
– Bốn hoặc năm.
Lạ thật! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ! Nếu hôm nay có người hỏi Chúa: Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô hữu, đúng là:
“Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ).
III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY
Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể chấp nhận được không? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.
Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ?
Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn.
Vậy ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên mọi thứ tình yêu; hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng phải quý mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Truyện: Câu chuyện Giới Tử Thôi
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324).
Giáo hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến chế Lumen gentium ghi rõ: “Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium đọan 7).
Sau cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu:
. Bước lang thang ra chuồng bò ở Bê lem. . Bước hồi hộp trốn sang Ai cập. . Bước bồn chồn trở về Nazareth. . Bước phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ. . Bước vất vả suốt 30 năm lao động. . Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng. . Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc. . Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt. . Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân. . Bước ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn. . Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo, không bạn hữu. . Bước khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian. . Bước khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng. . Bước liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”(Trích Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3).