Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 101-150 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
------------------------------------
Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-14: "Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhằm một ngày Sabbat Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên
trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại". - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------
TN 22-C101: THIÊN CHÚA PHÂN PHỐI CÁC CHỖ NGỒI 2
TN 22-C102: HỌC SỐNG KHIÊM HẠ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU.. 6
TN 22-C103: Hãy Khiêm Nhường. 13
TN 22-C104: Bài học khiêm nhường từ một bữa tiệc. 15
TN 22-C105: VỊ TRÍ 17
TN 22-C106: TỰ HẠ VÀ YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ.. 21
TN 22-C107: DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC.. 25
TN 22-C108: Phú quý. 27
TN 22-C109: Khiêm tốn là nhận ra chính mình. 29
TN 22-C110: Thứ nhất khiêm nhường. 30
TN 22-C111: Khiêm tốn và vô vị lợi 32
TN 22-C112: Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa. 35
TN 22-C113: Khôn ngoan hay lịch duyệt trước mặt Thiên Chúa. 38
TN 22-C114: Sống cho người nghèo. 40
TN 22-C115: Bài học từ nước. 41
TN 22-C116: Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ - Dã Quỳ. 45
TN 22-C117: Hãy ngồi chỗ cuối 47
TN 22-C118: BỊ DÒ XÉT.. 50
TN 22-C119: CHỖ DANH DỰ.. 51
TN 22-C120: Bài học khiêm hạ - Huệ Minh. 53
TN 22-C121: Những bàn tiệc. 56
TN 22-C122: Hạ mình xuống. 60
TN 22-C123: 24. Bệnh 'muốn làm lớn' 62
TN 22-C124: “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. 64
TN 22-C125: Khuyến khích sống khiêm hạ. 66
TN 22-C126: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 22. 72
TN 22-C127: KHUYẾN KHÍCH SỐNG KHIÊM HẠ.. 75
TN 22-C128: THIÊN CHÚA NÂNG NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG LÊN.. 84
TN 22-C129: Luận về chữ “ăn”. 86
TN 22-C130: Khiêm tốn. 90
TN 22-C131: Hạ xuống & tôn lên. 92
TN 22-C132: THƯƠNG XÓT LÀ PHỤC VỤ NHỮNG NGƯỜI HÈN YẾU.. 95
TN 22-C133: Hãy sống như Thầy Giêsu. 97
TN 22-C134: Khiêm nhường đích thực. 99
TN 22-C135: Hãy ở khiêm nhường. 101
TN 22-C136: Danh dự được dành cho người khiêm nhường. 113
TN 22-C137: Khiêm nhường. 117
TN 22-C138: Giảng về nhân đức khiêm nhượng. 119
TN 22-C139: KHIÊM NHƯỜNG VÀ KIÊU NGẠO.. 122
TN 22-C140: KHIÊM HẠ ĐỂ THẤY TRỜI CAO.. 124
TN 22-C141: NGỒI GẦN BÊN CHÚA.. 126
TN 22-C142: ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG.. 127
TN 22-C143: KHIÊM TỐN. 128
TN 22-C144: KHIÊM NHƯỜNG- 130
TN 22-C145: NGƯỜI SAU HẾT SẼ NÊN TRƯỚC HẾT.. 132
TN 22-C146: CHỖ RỐT HẾT.. 134
TN 22-C147: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN_C.. 136
TN 22-C148: HAI THÁI CỰC.. 141
TN 22-C149: ĐƯỢC VINH DỰ.. 147
TN 22-C150: KHIÊM TỐN – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ CAO CẢ.. 149
------------------------------------
(Luca 14,1.7-14 – CN XXII TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi đã than vãn trên Giêrusalem, Đức Giêsu trong TM Lc lại di chuyển; nhưng trong thực tế, mãi đến 14,25, ta mới thấy là Người lại đang ở trên đường. Còn bây giờ, ta thấy Người đi vào nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để chia sẻ với ông một bữa tiệc nhân một ngày sabát. Người đã tận dụng hoàn cảnh để ban những lời khuyên khôn ngoan về cách ứng xử trong các bữa tiệc do Người đang nhận xét về các thực khách.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần với một câu mở đầu:
* Mở: Hoàn cảnh (14,1);
1) Dụ ngôn về các chỗ ngồi (14,7-11);
2) Nguyên tắc cư xử đúng đắn (14,12-14).
3.- Vài điểm chú giải
- ăn cưới (8): Từ ngữ Hy Lạp gamos, đặc biệt ở số phức, có thể hiểu theo nghĩa tổng quát là “một bữa tiệc”.
- Xin mời ông bạn lên trên cho (10): Lời này khiến chúng ta nhớ đến Cn 25,6-7, nhưng ở đây được áp dụng vào bối cảnh một bữa tiệc. Xem thêm Hc 3,17-20.
- phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (11): Câu này là chìa khóa của dụ ngôn về các chỗ ngồi. Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên”. Các động từ ở thì tương lai có ý nói rằng sự việc sẽ xảy ra vào Ngày phán xét chung.
- đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con (12): Không được hiểu câu này theo nghĩa chữ chặt. Bài học là không được bác ái đối với người thân cận theo những động lực trần tục, vì lợi lộc cá nhân. Câu nói của Đức Giêsu trong ngôn ngữ Sê-mít có thể dịch là: “Đừng chỉ mời bạn bè…”.
- vì ông sẽ được đáp lễ (14): Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “vì ông sẽ được Thiên Chúa đáp lễ”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Giai thoại được tác giả Lc kể hôm nay xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Đức Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày sabát. Người khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Đấy là quy luật thông thường, nhưng cũng cứ có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
* Dụ ngôn về các chỗ ngồi (7-11)
Quả thật, một trong những bận tâm chính của con người là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Đức Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Đức Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Dường như Đức Giêsu ban một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Đức Giêsu không có mục đích nhắc lại một quy luật ứng xử khôn khéo. Người đã nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Đức Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
* Nguyên tắc cư xử đúng đắn (12-14)
Sau đó, Đức Giêsu lại lưu ý chủ nhà, mà cũng là các thực khách, về một thực tại khác. Người ta có thói quen chỉ thiết lập những quan hệ với những người ngang tầm với mình. Những người bị loại trừ thường là những người bần cùng khốn khổ. Xu hướng loại trừ này cũng là một thứ tìm kiếm cái tôi, bao bọc cái tôi. Đức Giêsu dạy phải mở rộng vòng tròn đến cả những người bị loại trừ. Ở đây chúng ta thấy Người phác ra hai khối bốn nhóm rõ ràng: “bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có” và “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Khối thứ nhất là gồm những người có thể được mời đến ăn uống với ta. Còn quan hệ với nhóm sau chẳng đưa lại gì cả, cũng chẳng tăng thêm uy tín xã hội của mình. Những người tàn tật, què quặt, đui mù không được phép đi vào Đền Thờ Đức Chúa (x. Lv 21,18; 2 Sm 5,8). Thân phận của họ cho thấy họ đầy tội lỗi, trong khi cộng đồng dân Chúa gồm toàn những người hoàn thiện. Thế nhưng chính họ lại là những người phải được mời, chính họ là những người ta phải hiệp thông với, chính họ là những người phải được nhìn nhận là có giá trị và phẩm giá ngang hàng với chúng ta. Đức Giêsu không ngăn cản việc ăn tiệc với bà con thân hữu, nhưng Người phản đối chủ trương loại trừ và hành vi loại trừ những người thất thế. Khi nói “sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”, Đức Giêsu không hề muốn người ta bỏ kiểu tính toán trần thế, để liếc đến những lợi lộc trên trời; thật ra Người đề nghị chúng ta khi cư xử, thì nghĩ đến giai đoạn kết thúc, lúc mọi người sống lại, khi không còn các nhóm bị loại trừ nữa. Khi đó, những người nghèo và những người đau khổ vì thiếu thốn sẽ hoàn toàn bình đẳng với những người khác. Nếu bây giờ trên trần gian, chúng ta coi họ như những người kém giá trị và không muốn hiệp thông với họ, chúng ta đã tự loại mình khỏi sự hiệp thông được thể hiện khi người chết sống lại.
+ Kết luận
Cả hai phần của bài Tin Mừng đều có câu kết nói đến cách nhìn của Thiên Chúa (c. 11 và c. 14). Như thế, chúng ta được nhắc nhớ là mình đang sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài không phân biệt đối xử, nên Ngài cũng chờ đợi con cái Ngài không phân biệt đối xử trong quan hệ với nhau. Là con cái của một Cha chung, mỗi người phải sống với người khác, bất kể giàu ngèo, sang hèn, với trọn tình bác ái, được diễn tả cụ thể qua việc phục vụ lẫn nhau.
5.- Gợi ý suy niệm
1 Những gì xuất hiện trong bài tường thuật (người ta chọn chỗ nhất) đã có những thiên hình vạn trạng tại mỗi mức sống của cuộc sống chung giữa con người với nhau và trong mỗi tầng lớp xã hội. Mỗi người nhắm lên cao và muốn cỡi lên đầu lên cổ kẻ khác. Thật khó mà nhìn nhận rằng người thân cận cũng có những quyền và giá trị như chúng ta. Chúng ta lại muốn rằng họ phải thấp kém hơn chúng ta. Dường như chúng ta chỉ chắc chắn về giá trị và tầm quan trọng của mình khi chúng ta có thể từ trên cao nhìn xuống người khác và có thể lượng định họ như là kém giá trị hơn chúng ta. Có một căn hộ lớn, có một xe hơi đẹp, có một địa vị khả quan, một người bạn đời đảm đang, những đứa con thông minh,…, tất cả những điều này đều tốt. Nhưng dường như tất cả những thứ này chỉ có giá trị khi người ta có thể đối chiếu với người khác, khi người ta có trhể cảm thấy và còn chứng minh được là mình hơn người khác! Người ta đua tranh tìm uy thế ngay cả trong lễ an táng và nơi nghĩa trang!
2. Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
3. Dựa vào những giáo huấn của Đức Giêsu tại những chỗ khác (Lc 18,9-14; 22,24-27), ta thấy rằng việc phục vụ và quan tâm đến thiện ích của người khác phải chiếm chỗ của tham vọng và bận tâm đến tầm quan trọng của chính mình. Tất cả năng lực được vận dụng vào việc duy trì và gia tăng hào quang của mình phải nhường chỗ cho việc phục vụ người khác, trước nhan Thiên Chúa.
4. Một nhóm nào đó được nhìn nhận là các thành viên có phẩm giá ngang nhau. Như thế, họ có thể hiệp thông và trao đổi với nhau. Điều này được diễn tả ra qua những lần mời nhau ăn tiệc. Cái vòng tròn các thân hữu được giới hạn, tức là có việc loại trừ. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy một điều khôn ngoan: Sau này, khi sống lại, ra trước mặt Thiên Chúa, mọi người sẽ ngang nhau. Do đó, nếu giờ đây, chúng ta loại trừ kẻ khác, thì chúng ta đang đặt mình vào nguy cơ không thể chung sống với họ trong ngày kẻ chết sống lại.
5. Thật ra, chúng ta không yêu thương những người nghèo để “xứng đáng” có một chỗ tốt hơn trên thiên đàng! Dù thế nào, chúng ta cũng không xứng đáng nhận điều gì cả; thiên đàng được ban không cho chúng ta. Phải yêu thương người nghèo chỉ vì một lý do duy nhất: bởi vì Đức Giêsu đã cho thấy rằng thật là tuyệt với khi có thể yêu thương như Thiên Chúa, không hề vì một liên hệ nào, không chờ đợi đáp trả. Khi yêu thương như thế, chúng ta nhận được phần thưởng cao quý nhất, đó là trở nên giống Cha trên trời, chúng ta trải nghiệm niềm vui của Ngài (x. Lc 6,35).
-------------------------------
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN C
Hc 3,19-21.30-31 ; Dt 12,18-19.22-24a ; Lc 14,1.7-14
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14
(1) Một ngày Sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: Họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời thì hãy ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (12) Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
2. Ý CHÍNH:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các người Pha-ri-sêu và cũng dạy các môn đệ của Người hai bài học về cách đối nhân xử thế: Một là ai được mời dự tiệc phải khiêm tốn để tránh tranh giành nhau chỗ ngồi hơn kém. Hai là các người chủ tiệc phải mời cả những người nghèo khó, tàn tật... đến tham dự. Đây là điều kiện để được Chúa mời tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1:
+ Đức Giê-su đến nhà một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu: Tin mừng Lu-ca cho thấy người đứng đầu nhóm Pha-ri-sêu ở đây có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã mời Người đến nhà mình dùng bữa (x Lc 11,37),
+ Dùng bữa: Tin mừng ghi lại nhiều sinh hoạt của Đức Giê-su liên quan đến việc dùng bữa: Dự tiệc cưới tại Ca-na (x. Ga 2,2), dự tiệc do người Pha-ri-sêu khoản đãi (x. Lc 14,1), ăn cơm gia đình ở làng Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,38-42), đồng bàn với nhiều người thu thuế tội lỗi (x. Mt 9,10), hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,19-21; 15,36-38), dùng bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước cuộc khổ nạn (x. Lc 22,14-20). Ngoài ra, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su cũng dùng bữa tối với hai môn đệ tại làng Em-mau (x. Lc 24,30), ăn cá nướng trước mặt môn đệ (x. Lc 24,41-43) và ăn sáng với các ông tại bờ hồ Ga-li-lê (x. Ga 21,9-13).).
+ Họ cố dò xét Người: Ở đây những người Pha-ri-sêu dò xét không phải để bắt lỗi, nhưng chỉ để tìm hiểu về Đức Giê-su.
- C 7-9:
+ Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi: Đây là thái độ biểu lộ thói kiêu ngạo của người Pha-ri-sêu khi thích tìm kiếm hư danh trước mặt người khác.
+ Khi anh em được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất...: Đức Giê-su dạy bài học khôn ngoan và phép xã giao khi đi dự tiệc cho người Pha-ri-sêu và các môn đệ.
- C 10-11:
+ Thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”...: Điều kiện để được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là phải trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3-4). Cần ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, coi mình chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), để không cậy vào sức riêng khi làm các công việc siêu nhiên, nhưng biết cậy trông vào ơn Chúa trợ giúp (x. Ga 15,5).
+ Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống...: Tội nặng nhất chính là tội kiêu ngạo và trái lại, nhân đức lớn nhất là khiêm nhường như lời ca ngợi của Đức Ma-ri-a: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Thánh Phao-lô cũng đề cao sự khiêm hạ của Đức Giê-su trong thư Phi-lip (x Pl 2,6-11). Chính Người đã hạ mình rửa chân cho môn đồ và sau đó đã dạy các ông bài học về tình yêu thương lẫn nhau (Ga 13,14).
- C 12-14:
+ Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè... Lời dạy của Đức Giê-su trái với lối ứng xử thông thướng của người đời. Những hạng người được Đức Giê-su đề cập tới ở đây đều là những người nghèo: Nghèo tiền bạc (so sánh với Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến sự nghèo khó trong tâm hồn), bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm hạ (x. Lc 18,14). Chính Đức Giê-su cũng được sinh ra như một người nghèo. Qua câu này Người kêu gọi mọi người hãy đối xử tốt với những ai đang lâm cảnh khốn cùng, làm ơn cho những người không có khả năng báo đáp. Đó là điều kiện để được vào Nước Trời ở đời sau.
4. CÂU HỎI:
1) Hãy kể ra những lần Đức Giê-su dùng bữa được ghi trong Tin mừng ?
2) Khi dạy người dự tiệc chọn ngồi chỗ cuối để được chủ nhà mời lên cỗ trên. Phải chăng đó cũng là một hành động ngầm kiêu ngạo ?
3) Đức Giê-su đã dạy thế nào về giá trị của đức khiêm nhường ?
4) Thánh Phao-lô dạy về gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giê-su ra sao trong thư thứ hai gửi giáo đòan Phi-líp ?
5) Tội nặng nhất khiến Lu-xi-phe và các thần dữ phải sa hỏa ngục và tội tổ tông làm cho ông bà A-đam E-và bị đuổi ra khỏi Địa đàng là tội gì ?
6) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để ban ơn cứu độ, giải thóat lòai người khỏi chết và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11).
2. CÂU CHUYỆN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờ-lo-ri-đơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pi-tơ-bớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Su-lơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Mai-ơ-mi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Mai-ơ-mi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Su-lơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Su-lơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Su-lơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Su-lơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Mai-ơ-mi xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà họ vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Su-lơ tươi cười hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn nhận ra tôi sắp đến đây vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: Trong vòng 15 phút nếu không có thêm 4 khán giả nữa vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải sống khiêm tốn noi gương Người. Đông Su-lơ đã thể hiện đức khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Su-lơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Su-lơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường ông sẽ phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Su-lơ mà thôi !
3. SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các người biệt phái hai bài học này: Một là nếu họ là khách được mời thì cần phải khiêm tốn để ngồi vào đúng chỗ xứng hợp với địa vị của mình, tránh cảnh “trèo cao té đau. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến nữa. Vì cũng vậy, Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai có lòng khiêm nhường và có tinh thần nghèo khó (Lc 14,21). Vậy khiêm nhường là gì ? Phải chăng khiêm nhường là phủ nhận giá trị thực của mình ? Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường của Đức Giê-su?
1)Thế nào là khiêm nhường ?
- Khiêm nhường là học và sống noi gương Đức Giê-su: Muốn biết khiêm nhường là gì chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương Đức Giê-su như Người đã dạy: ”Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Đức Giê-su « vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ rửa chân các ông trong bữa tiệc ly và dạy các ông cũng phải rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Người còn thể hiện khiêm nhường qua hành động «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giê-su thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái đã tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ về cách ứng xử khiêm nhường như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
- Khiêm nhường noi gương Đức Ma-ri-a: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng « đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng », Đức Ma-ri-a đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu « xin vâng » như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Ê-li-sa-bét đã có thai được sáu tháng, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm và mở chào hỏi bà Ê-li-sa-bét trước. Cuối cùng Đức Ma-ri-a còn ở lại để phục vụ bà ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con rồi mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức các khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Ma-ri-a khi được bà Ê-li-sa-bét khen có phúc đã ca ngợi Chúa trong kinh Ma-nhi-phi-cát như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương tiện để phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình nên sẽ giữ thái độ bình tĩnh khi nghe kẻ khác phê bình và sẵn sàng tu sửa để ngày một hoàn thiện hơn. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Chúa Giê-su đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Chúa Giê-su đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao và giả hình: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28; Lc 11,44).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giê-su?
- Phải tránh thói xấu kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay người thân của mình. Tránh công khai xúc phạm người khác.
Tránh khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và tránh chứng tỏ sự trổi vượt của mình hơn bạn bè.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh thể hiện qua việc dèm pha nói xấu để hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muôn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó có điều kiện thăng tiến phát triển.
- Thực tập đức khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận biết sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp. Vì như Đức Giê-su đã dạy môn đệ: ”Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại hãy nhận nguyên nhân là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi hoàn toàn do hoàn cảnh hay người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giê-su: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 35-45).
4. SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ ra ngoài qua những thái độ cử chỉ nào khi tiếp xúc với tha nhân ?
2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào ?
3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi có kẻ dưới quyền làm trái ý mình thì có phải là người khiêm nhường không ?
4) Khi nghe người khác phê bình chỉ trích trực tiếp hay qua một người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thực hành đức khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền... cũng chính là thói xấu của mỗi người chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pha-ri-sêu bài học khiêm nhường và cũng gián tiếp dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất... Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
- LẠY CHÚA. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết thông cảm và mở rộng lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa tôn vinh trước tòa phán xét sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
-------------------------------
(Chúa Nhật XXII Thường Niên, C)
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.
Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).
Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.
Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.
Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.
Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.
Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.
Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!
Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?
Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.
Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
-------------------------------
TN 22-C104: Bài học khiêm nhường từ một bữa tiệc
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 14:1,7-14)
Trời đánh còn tránh miếng ăn. Nhưng thật là nực cười vì một bữa tiệc vẫn có thể là cơ hội để Chúa Giê-su dạy cho người ta một bài học! Bài học hôm nay về đức khiêm nhường rút ra từ sự kiện “khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”.
Ngày xưa việc sắp xếp chỗ ngồi cho khách dự tiệc cưới thường là tùy nghi, chứ không có bảng tên của khách được để trên bàn tiệc như ngày nay. Nhưng điều không thể thiếu là thế nào cũng có một vài bàn dành riêng cho những người vị vọng, gọi là cỗ nhất. Những người xứng đáng ngồi bàn này sẽ được chủ nhà đích thân dẫn đến và mời ngồi vào cỗ nhất. Nếu vậy thì trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, những người tự ý chọn ngồi vào cỗ nhất là những người cho rằng mình xứng đáng ngồi ở đó, hay nói khác đi là những người “tự tôn mình lên”. Trái với hạng người tự tôn là người khiêm nhường.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã trích một đoạn trong sách Huấn ca dạy về đức khiêm nhường, tuy chỉ là lời khuyên đơn sơ nhưng rất tuyệt vời (3:17-18,20,28-29). Đoạn Kinh Thánh nêu lên một vài lợi ích và mấy điều thực hành thực tế. Trước hết đối với người đời, người nhũn nhặn khiêm tốn “sẽ được mến yêu” hơn người kiêu căng. Kinh nghiệm đời sống hằng ngày cho chúng ta thấy rõ điều này. Đối với Thiên Chúa, người khiêm tốn càng làm lớn lại càng tự hạ, nên “sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”, vì thái độ và việc họ làm không phải để vinh danh mình, nhưng để phục vụ và tôn vinh Chúa. Ngoài ra có hai việc người khiêm nhường cố gắng thực hành trong đời sống. Thứ nhất, họ “để tâm nghiên cứu các ẩn dụ”. Không phải là họ nghiền ngẫm những vấn đề lớn lao như những nhà bác học hay chuyên môn, nhưng nói một cách dễ hiểu đó là học hỏi Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống. Một điều khác hết sức thực tế, là họ “ao ước có tai thính để nghe”. Lắng nghe là thái độ của người khiêm nhường. Đối với họ, lắng nghe là hạ mình xuống để đón nhận ý kiến, lời khuyên và thậm chí cả những lời sửa sai của người khác. Nhất là đối với Lời Chúa, lắng nghe sẽ giúp cho người khiêm nhường rút ra được không biết bao nhiêu bài học phong phú từ Kinh Thánh. Chúa nói với chúng ta qua Kinh Thánh, còn Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục vai trò linh hứng khi giúp chúng ta hiểu và suy niệm Lời Chúa, đồng thời cũng dẫn chúng ta vào những tâm tình cầu nguyện để uốn nắn tâm hồn chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su từng kể dụ ngôn tiệc cưới để nói về việc Chúa mời gọi mọi người lãnh nhận ơn cứu độ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói về một bữa tiệc, nhưng thái độ kiêu căng của những người tranh nhau chọn ngồi vào cỗ nhất và bài học Chúa Giê-su dạy về sự khiêm nhường hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta đối với bữa tiệc ơn cứu độ Chúa thết đãi chúng ta. Giống như những người Pha-ri-sêu tự cho mình là thánh thiện và chu toàn lề luật, nên đáng ngồi cỗ nhất, nhiều khi chúng ta cũng mang tính tự tôn ấy mà khinh thường những anh chị em “tội lỗi” hoặc kém đạo đức trong cộng đoàn. Trái lại, nhìn nhận thân phận tội lỗi hoặc “hạ mình xuống” mới là thái độ căn bản giúp chúng ta tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, vì Chúa đâu có đến để kêu gọi những người công chính, nhưng kêu gọi những người tội lỗi.
Những lời Chúa Giê-su nói với kẻ đã mời Người một cách nào đó có lẽ ám chỉ về chúng ta là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” đã được Thiên Chúa, Ông Chủ hào phóng, mời vào dự tiệc cưới Nước Trời. Những hình ảnh “khiêm nhường” này nói lên thân phận đích thực của chúng ta, tuy bất xứng, nhưng lại được tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa rộng lượng cứu độ. Vậy đứng trước tình yêu hải hà ấy, chúng ta lại càng phải khiêm nhượng xác tín mình cần đến Chúa. Nếu Chúa Ki-tô đã đi con đường khiêm nhường trút bỏ vinh quang và thập giá để cứu độ chúng ta, thì chúng ta cũng phải lấy lòng khiêm nhường nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình mà cố gắng bước theo tiếng gọi Tin Mừng và làm môn đệ Chúa Ki-tô.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-------------------------------
Người ta có câu nói ví von: “Thả con cá sặt, bắt con cá rô”. Câu này có ý nói về chuyện “có qua có lại” khi đối xử ở đời với nhau, chứ chẳng mấy ai cho không bao giờ, bởi vì người ta quan niệm rằng cách thể hiện như vậy mới khả dĩ làm “toại” lòng nhau !
Cuộc sống luôn có nhiều loại tiệc tùng, liên hoan hoặc ăn mừng, từ nhỏ tới lớn, người ta tổ chức có ý nhắm vào “mối lợi” là vật chất – một dạng “tự kinh doanh” rất thực tế. Có những người được mời thì vui mừng và hãnh diện; có những người được mời lại thấy miễn cưỡng và cảm thấy khổ sở, bởi vì họ phải lo “chạy tiền” – hóa con nợ bất đắc dĩ.
Các loại tiệc mừng, người ta mời những người “mặt to, đầu lớn” là để được hãnh diện, được thơm lây. Chẳng phải tiệc tùng, khi thấy ai có “máu mặt” thì người ta thích bám theo, tìm cách tiếp cận để nói vài lời hoặc xin chụp hình, chẳng khác gì kiểu “cáo mượn oai hổ”, nhưng người ta lại biện hộ rằng “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Ít ra người ta cũng có dịp để khoe mẽ, ngày nay gọi dạng đó là… “chảnh”. Nói chung, ai cũng muốn vị trí của mình phải cao hơn người khác.
Mà thật, cứ có dịp tiệc tùng thì sẽ rất dễ thấy nhiều người “chảnh” rõ ràng. Họ thích “nổi trội”, được ăn trên và ngồi trước, muốn chứng tỏ mình có “thế giá”, ưa khoe khoang đủ thứ, nhất là “cái mã” bề ngoài ( trang phục, trang sức, … ), nhưng người ta lại không muốn nhận mình là “ưa hình thức”, dù hoàn toàn rỗng tuếch. Ôi, thật chán ngán thay cái thói đời !
Đó là một dạng tự đề cao hoặc tự tôn, một kiểu kiêu căng “tinh vi” lắm. Phàm nhân vốn dĩ có “cái tôi” rất… TO, thế nên từ ngàn xưa, tác giả sách Huấn Ca đã chân thành khuyên người ta sống khiêm tốn: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa” ( Hc 3, 17-18 ).
Có nhiều hành động “tự” rất đáng có: tự hạ, tự lập, tự thú, tự nguyện, tự làm, tự học, tự tìm hiểu, tự nghiên cứu, … thế nhưng lại có những dạng “tự” rất nguy hiểm: tự tôn, tự kiêu, tự mãn, tự hại, tự tử, tự sát… Một dạng “tự” là KHÔN ( khéo, ngoan, giỏi ), một dạng “tự” là KHỜ ( dại, ngốc, ngu ). Có thể nói rằng đó là hai dạng người chủ yếu trong nhân loại.
Thiên Chúa là Đấng tự hạ nên Ngài rất yêu quý những người khiêm nhu: “Vì quyền năng Đức Chúa lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường” ( Hc 3, 20 ). Khiêm nhường đối lập với Kiêu ngạo ( hai động thái đều bắt đầu bằng mẫu tự K ). Việt ngữ thật là độc đáo đấy ! Sách Huấn Ca so sánh và giải thích: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe” ( Hc 3, 28-29 ).
Người khiêm nhường thì biết chạnh lòng thương, biết xót thương người khác. Tất nhiên họ cũng là người thanh thản, bình an, vui mừng trong lòng ( chứ không cần toe toét cái miệng cười mới là vui mừng ).
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Những người công chính múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời, niềm hoan lạc trào dâng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân. Danh Người là Đức Chúa; trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở. Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ, chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người. Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc, còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn” ( Tv 68, 4-7 ).
Như đã nói, Thiên Chúa yêu quý những người khiêm nhường, nghĩa là họ được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo tận tình: “Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa ân hậu, gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi, Ngài đã bổ sức cho. Lạy Thiên Chúa, đàn chiên của Ngài đến ở nơi đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo” ( Tv 68, 10-11 ). Người khiêm nhường là người “nghèo” về phương diện “tài sản” của trần thế: kiêu hãnh, khinh miệt, chỉ trích, mê muội, tức giận, ghen ghét, mưu mô, xảo quyệt, ích kỷ,…
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa” ( Dt 12, 18-19 ). Đó là cách nói của Thánh Phaolô về giao ước của Thiên Chúa ưu ái dành cho chúng ta, dù chúng ta chỉ là những tội nhân khốn kiếp. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt quá trí hiểu của phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu thấu !
Thánh Phaolô dẫn chúng ta tời một vị trí cao hơn: “Nhưng anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên Trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên Trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng Vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” ( Dt 12, 22-24 ).
Nợ máu là loại nợ khó trả nhất, nhưng phải trả, trả cho tới cùng, Chúa Giêsu có cách nói là “trả hết đồng xu cuối cùng” ( Mt 5, 26 ). Tất cả chúng ta đều mắc món “nợ máu” này – nợ máu với Đức Giêsu Kitô, và nợ tình với tha nhân – cũng là một dạng “nợ máu” vậy. Vị trí của chúng ta là “con nợ”, phải liệu thanh toán trước khi Thẩm Phán Giêsu trở lại xét xử. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Hãy nói cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Ta… Đây là dấu hiệu thời kỳ cuối cùng, sau đó sẽ là Ngày Công Lý” ( Nhật Ký Thánh Faustina, số 848 ).
Biết được như vậy, chúng ta không còn lo tranh giành vị trí nữa. Điều quan trọng không phải là VỊ TRÍ mà là HƯỚNG ĐI. Đâu phải là “có râu ngồi đâu cũng lớn”, lớn để làm gì ? Làm lớn mà làm láo thì có xứng đáng ? Có quyền để hành người ta thì có xứng đáng để người ta nghe theo ? Mua quyền, giành chức với nhau để làm gì ? Chức quyền, địa vị hoặc danh vọng có là những thứ cần thiết để được Thiên Chúa ưu tiên cho vào Thiên Đàng ?
Trình thuật Lc 14, 7-14 nói về VỊ TRÍ – “chỗ ngồi” và các “thực khách nghèo khó”. Thánh Luca cho biết rằng, vào một ngày sa-bát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh của nhóm Pharisêu ( * ) để dùng bữa. Nhóm này không tốt lành gì, vì họ chỉ cố ý dò xét Ngài mà thôi.
Chúa Giêsu nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, hãy vào ngồi chỗ cuối để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Vô cùng thực tế, vì chúng ta vẫn thấy xảy ra tại các đám tiệc xưa nay, không cứ gì thời Chúa Giêsu, nhưng ngày nay người ta có “phương pháp” tinh vi hơn, và tất nhiên cũng khó nhận thấy hơn. Có những người “nổ” hơn bom, cốt để khoe khoang, tự cho là mình “thông thái”, nhưng thật ra chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi !
Nói về vị trí nhưng Chúa Giêsu muốn giáo huấn về đức khiêm nhường – nhân đức nền tảng của các nhân đức, viên đá chính trong tòa-nhà-nhân-đức và lâu-đài-hoàn-thiện. Đức khiêm nhường vô cùng quan trọng nhưng lại không dễ thực hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn, mà nào có mấy ai muốn và dám đè bẹp nó xuống. Không có mà còn dám nói có, huống chi là có chút ít, và rồi có ít xít ra nhiều, có bé xé ra to. Thế đấy !
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Ngài: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Chúa Giêsu nói thật, không bóng gió, không bông đùa, nhưng liệu có mấy ai thực hiện đúng như vậy ?
Có thể nói rằng “ai sống khiêm nhường là người hoàn thiện”. Tuy nhiên, văn sĩ Lev Nikolayevich Tolstoy ( 1828-1910, người Nga, có tác phẩm nổi tiếng là “Chiến Tranh và Hòa Bình”, 1869 ) đã nhận xét: “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn thì bạn không còn khiêm tốn nữa”. Một câu nói đáng lưu ý, đầy tính triết-lý-sống. Bởi vì ý thức ở đây muốn nói tới việc “cố ý” hoặc “ra vẻ” khiêm nhường, đã biết, tức là bắt đầu giả dối. Tương tự, khi chúng ta nghĩ là mình vô vi là không vô vi rồi. Hay quá sức !
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết mình là ai và đứng ở chỗ nào, chân nhận mình là hạt bụi nhỏ nhất trong các hạt bụi, và thực sự là vậy. Do đó, con không có gì để khoe mẽ, bởi vì con hoàn toàn tay trắng, tất cả là của Ngài, do Ngài thương ban, nếu không có Ngài thì con không thể làm được gì – dù là điều nhỏ nhoi nhất. Nếu con là bài thơ, con xin được Ngài gieo vần; nếu con là khúc nhạc, con xin được Ngài hòa âm; nếu con là bài văn, con xin được Ngài liên kết. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
( * ) Theo nguyên ngữ tiếng Do Thái, chữ Pharisêu có nghĩa là “riêng biệt” hoặc “tách rời”. Do đó, những người thuộc nhóm này luôn tỏ ra mình “ngon” hơn người khác, ngày nay gọi đó là “chảnh”. Họ lo giữ luật nghiêm ngặt ( hơn 600 điều khoản ), nhưng họ lại không thực thi điều Thiên Chúa dạy – tức là chỉ “giả hình” mà thôi. Họ là những người mà Chúa Giêsu đã từng phải nói gay gắt và thẳng thắn: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rápbi” ( Mt 23, 1-7 – x. Mc 12, 38-40; Lc 11, 43-46 và Lc 20, 45-47 ).
-------------------------------
Vào ngày thứ sáu, 28.11.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ankara-Esenboga, thay vì lên một chiếc xe limousine Mercedes bóng nhẫy, lộng lẫy, dành cho quốc khách, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại tự ý lên một chiếc xe Volkswagen Passat tầm thường, cùng ở trong đoàn xe đón ngài, khiến các quan chức Thổ bất ngờ, lúng túng không biết phải ứng xử ra sao.
Trước khi bắt đầu cuộc công du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ ý không muốn đi xe sang trọng, nhưng chính phủ Thổ làm ngơ. Nhưng rồi họ cũng đành chấp nhận, khi ngài lên chiêc xe Volkswagen Passat không bọc sắt chống khủng bố. Khi đến thăm bảo tàng Hagia-Sofia-Museum, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng dùng xe Renault Clio rất nhỏ thay vì xe Mercedes sang trọng.
Quan sát viên cho rằng đây là một tấm gương khiêm nhường. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hiện thân của sự khiêm nhường đạm bạc, muốn bày tỏ với Tổng Thống Thổ Recep Tayyip Erdogan vừa cho xây xong dinh thự tổng thống tốn đến hơn 500 triệu Euro. Tổng Thống Erdogan là người chuộng sang trọng, xa xỉ, hệt như chính trị gia ở nhiều nước khác. ( Duong Hong-An, Tấm Gương Khiêm Nhường )
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đầy Tớ các đầy tớ của Chúa, đã dứt khoát từ chối sự ưu ái đặc biệt dành cho quốc khách, để hoà mình vào công chúng, theo như huấn dụ Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu được mời dự tiệc trong ngày Sabath tại nhà một thủ lãnh Pharisêu. Thấy thực khách tranh giành nhau chỗ ngồi trên, Người giảng huấn về lòng khiêm nhường và yêu thương phục vụ.
Tự hạ
“Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa” ( Hc 3, 18 ). Lời giáo huấn của kinh sư Ben Sira sau này được Đức Giêsu tóm tắt cụ thể và súc tích hơn: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" ( Mc 9, 35 ). Lời Chúa không chỉ dành cho những người lãnh đạo có chức có quyền, mà còn dành cho tất cả mọi người, đều cần khiêm tốn, tự hạ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiêm hạ trước Thiên Chúa, vì con người chỉ là tạo vật đầy khiếm khuyết, bất toàn, hữu hạn trước Đấng Tạo Hoá chí tôn toàn năng, vĩnh cửu. Tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Chúa trao ban nhưng không, từ thân xác, tinh thần, linh hồn, sở trường, trí tuệ, tài năng. "Tất cả là hồng ân,” như Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm sống, tuy đời ngài ngắn ngủi, đầy gian nan, thử thách.
Trong tâm tình khiêm hạ, biết ơn, cảm tạ, nhạc sĩ Phanxicô đã thành tâm cảm nhận phận hèn con người, chẳng biết lấy gì báo đáp Đấng Tạo Hoá: "Lạy Chúa con chỉ là thọ tạo, Chúa thật ( í a ) sang giàu. Có gì mà dâng Chúa đâu, có gì mà dâng Chúa đâu. Vì trước mặt Chúa Thái Sơn cũng mọn hèn, dòng sông cả mấy sâu có là mấy đâu. Giữa đời con đây nhỏ bé, biết tìm chi dâng tiến Ngài." ( Ns. Phanxicô, "Con chỉ là thọ tạo" ).
Tiếp đến, mỗi người còn cần khiêm tốn với đời, vì biết bao học thuật, nghệ thuật, kiến thức được chắt lọc, tích luỹ từ hàng bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu công sức sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, của các nhà thông thái, học giả, khoa học gia, nghệ sĩ. Chẳng qua, ai đó biết làm mới lại, đào sâu thêm, hay dựa vào đó sáng chế. “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: Dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ ?” ( Gv 1, 9 ).
Cuối cùng, ai cũng thật cần khiêm nhường với tha nhân, vì chẳng ai tài sắc vẹn toàn. Người được cái này, thì mất cái nọ. Cũng chẳng ai nắm tay thâu đêm. Nên luôn phải hãm mình khiêm hạ, chớ tự cao, tự đắc, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn, kinh rẻ, xúc phạm tha nhân, kẻo bị luận phạt. “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt” ( Mt 5, 22 ). Hơn nữa, có khiêm nhường mới có thể nhận ra cái sai, cái thiếu sót, lỗi phạm của mình, để học hỏi, canh tân, nhờ tha nhân giúp đỡ, chỉ dạy.
Tóm lại, khiêm nhường là đức tính thiết yếu của thân phận làm người, dám can đảm chấp nhận sự thật của chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh, dẫu có bẽ bàng, yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi, xấu xa, để biết ứng xử đúng đắn, lễ độ, cung kính, với Chúa và tha nhân. Với người Kitô hữu, càng nhất thiết phải sống thật khiêm hạ, vì Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14, 6 ), vì Người đã hết sức chân tình khuyên nhủ và mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng” ( Mt 11, 29 ). Nếu không thì “kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó” ( Hc 3, 28 ).
Trước nhan Thánh Chúa, dù đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm cũng cần luôn khiêm nhường thân thưa: “Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” ( Lc 17, 10 ). Đừng vênh váo, kiêu căng kể lể, khoe khoang công đức, như dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” ( Lc 19, 10-14 ).
Yêu thương phục vụ
Bữa tiệc của một thủ lãnh Pharisêu hôm nay phục vụ thật chu đáo, nhằm phô trương thanh thế, bánh ít đi bánh qui lại, vừa có tiếng lẫn có miếng. Nên ngoài Đức Giêsu và các môn đệ, thực khách còn lại toàn là các bậc vị vọng, đáng kính, đồng trang lứa, đồng vai vế, chức sắc, quyền cao chức trọng, “phe ta” cả. Chẳng hề thấy bóng dáng một người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù, sứt mẻ nào dám bén mảng đến. Nếu ông chủ tiệc hào phóng, tha thiết mời cả những kẻ bần cùng khốn khó ấy vào chung vui, thì chắc hẳn “ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại." Nhưng sự khôn ngoan thế gian chẳng bao giờ dễ dàng chấp nhận như thế.
Tin Mừng luôn nghịch lý thế gian. Người thủ lãnh “không dùng quyền uy mà thống trị,” trái lại trở nên người phục vụ thân thương và chu đáo, như Đức Giêsu đã xác định công khai sứ vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” ( Lc 22, 24-27 ). Vì thế, Người khuyên nhủ các môn đệ, các tín hữu Kitô hãy noi gương phục vụ: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” ( Ga 13, 1-15 ).
Theo Đức Giêsu, phục vụ tha nhân hoàn toàn vô vi lợi, thắm tình yêu thương, bác ái, nhân ái, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai.
Dân Việt ta có câu: “Thương người như thể thương thân,” cũng giống với Tin Mừng: “Hãy yêu người thân cận như chính bản thân mình” ( Mt 22, 35-40 ). Người thân cận nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn cần được giúp đỡ, chính là Đức Giêsu ẩn mình: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; … ( Mt 25, 35-36 ).
“Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” ( Đường Hy Vọng, số 509 ).
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. ( Thánh Augustino )
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu và soi sáng chúng con nhận biết mình là "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" trước Thiên Chúa chí thánh, để chúng con luôn biết khiêm hạ với Chúa và với tha nhân. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con luôn yêu thương phục vụ mọi người trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-------------------------------
Chúa Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giêsu dạy hai bài học: khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
1. Khi được mời dự tiệc
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ.
Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
2. Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” ( Lc 1, 51-54 ). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
-------------------------------
Phú quý sinh lễ nghĩa, cha ông chúng ta vốn thường mỉa mai như vậy. Những kẻ có tiền bạc, có địa vị bao giờ cũng thích cho người khác biết đến mình và trọng vọng. Vì thế họ phải phô trương, phải chọn nơi, chọn chỗ để xuất hiện. Ăn nói cho có điệu bộ, có kiểu cách, đúng là trưởng giả học làm sang.
Trước kia thói ham danh vọng và địa vị còn xâm nhập vào cả nơi nhà Chúa mà đáng lý ra ở đó tất cả đều chỉ là anh em, bình đẳng. Không thiếu gì nhà thờ bên tây cũng như bên ta, có những ghế và bàn quỳ dành riêng cho các vị phú hào, chức sắc, có bảng đồng ghi tên đàng hoàng, dù họ không tới ngồi, thì cũng chẳng ai được phép thế chỗ. Cò ngày nay thì sao? Chưa hẳn là đã hết chuyện giai cấp trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Chúa thì dạy: Ai đứng đầu thì phải hầu thiên hạ, nhưng trong thực tế, kẻ làm đầu vẫn ở vị trí số một và kẻ hầu hạ vẫn luôn là những người thấp cổ bé miệng trong dân. Chúa Giêsu thì trái lại, tuy là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình xuống làm người và ở giữa chúng ta như một người anh em, như một người tôi tớ. Và trong đêm bị nộp, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ, để dạy cho các ông bài học yêu thương và phục vụ. Ngài nói với các ông rằng: Vua chúa trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần anh em, đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như kẻ nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Bởi lẽ, giữa kẻ ngồi bàn và kẻ hầu bàn ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi bàn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu hạ.
Chính vì đầu óc kỳ thị phong kiến mà người Pharisêu xa tránh những người dân ngoại và kẻ tội lỗi. Họ không muốn bị mang tiếng là bạn bè cùng người thu thuế và tội lỗi, nên họ không bao giờ chung đụng, gần gũi. Chúa Giêsu trái lại, Ngài thường đón tiếp những hạng người này. Không phải chỉ gặp gỡ qua loa đôi ba lần, nhưng là thường xuyên, hơn thế nữa, còn đồng bàn, ăn uống với họ nhiều lần. Thói đời là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, kẻ sang chơi với người sang. Kẻ thấp hèn mà mon men tới gần người sang trọng sẽ bị chê là thấy người sang bắt quàng làm họ. Trái lại, đi lại với những người mang tiếng xấu, sẽ bị thiên hạ đồng hoá với kẻ xấu và xa lánh, chê cười. Chúa Giêsu thì không thế, Ngài nói với bọn biệt phái: Người khoẻ mạnh thì không cần thầy thuốc, chỉ những kẻ đau yếu mới cần đến má thôi. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi sám hối ăn năn. Vì yêu thương nhân loại tội lỗi và để cứu chuộc chúng ta, Ngài đã chẳng ngần ngại hy sinh danh dự, địa vị của mình. Ngài bỏ quên địa vị Thiên Chúa, nhưng không bỏ rơi con người tội lỗi. Hơn thế nữa, Ngài còn hy sinh cả tính mạng vì chúng ta: Con Người đến không để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được những gì để giúp đỡ những kẻ tội lỗi sám hối ăn năn và quy trở về cùng Thiên Chúa.
-------------------------------
– Lm. An Phong
Tin Mừng Chúa Nhật 22 Thường Niên C xoay quanh đề tài Đức Giêsu phê phán những người Pharisêu về thói đạo đức giả, thích phô trương, thích được người ta trọng vọng. Hôm nay, ngay tại bàn ăn trong nhà của chính họ, Người cũng phê phán sự cao ngạo của họ bằng một dụ ngôn.
Nội dung dụ ngôn đó là: Nếu các thực khách tự chọn chỗ ngồi rốt hết, thì ông chủ sẽ mời họ lên chỗ nhất và ngược lại.
Những người Pharisêu là những người thích chọn chỗ nhất. Họ luôn tự đánh giá mình là hạnh kiểm loại "A". Trước mặt Thiên Chúa, họ kể lễ dài dòng những "thành tích" đạo đức của mình. Trước mặt người khác, họ coi thường và cho mình "quyền được hơn người khác".
Nhưng trong vương quốc của Thiên Chúa thì khác: trật tự hiện nay sẽ bị đảo lộn; những chỗ tốt nhất là do Thiên Chúa ban như một quà tặng, chứ không do con người tự chọn cho mình. Như thế, con người có là chi trước mặt Thiên Chúa. Họ cần cúi mình xuống - khiêm tốn.
Khiêm tốn đích thực là nhìn nhận thực tế những gì mình hiện có và mình là. Khiêm tốn đích thực là dám chấp nhận những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa. Khiêm tốn đích thực sẽ mang lại niềm vui, bình an. "Tất cả là hồng ân" (thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).
Đức Giêsu còn đưa ra một lời khuyên nghịch lý: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối... hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù". Không thể hiểu câu này theo nghĩa đen, nhưng cần hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn, tức là về các mối tương quan xã hội khác nhau của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, mỗi người chúng ta thường được người khác đánh giá qua đẳng cấp xã hội, tiền tài, nghề nghiệp... Đó là "môi trường" bao chung quanh một người. Chính những "môi trường" này đã phân chia con người làm nhiều hạng, loại trong cùng một xã hội. Những người cùng một "môi trường" như nhau thường liên kết, giao du với nhau. Từ đó, sự phân cách trở nên ngày càng lớn. Chúng ta thường bị điều kiện hóa bởi "môi trường" của mình. Điều này thường ngăn cản chúng ta không mở rộng vòng tay, tấm lòng tới tất cả mọi người không phân biệt một ai. Đức Giêsu đến để phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. "Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do" (Gl 3,28), không còn người giàu hay người nghèo, thánh nhân hay người tội lỗi. Tất cả mọi người đều phải có chỗ trong con tim của chúng ta, nhất là những người yếu đuối, bất hạnh, tàn tật... Sự khiêm tốn đích thực là nhìn nhận mình chẳng là gì hết trước mặt Thiên Chúa, cho dù mình có thuộc về một "môi trường sống" cao hay thấp; đồng thời nhìn nhận mọi người là anh chị em cùng một Cha trên trời.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình.
Phải chăng chúng ta nhận ra chính mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta nhìn nhận mọi người là anh chị em, cùng một Cha trên trời?
Lạy Chúa,
Chúng con hiểu rằng
tự sức mình chúng con chẳng làm được gì.
Tất cả những gì chúng con có được chỉ là hồng ân.
Xin cho chúng con khiêm tốn đủ
để cho phép người khác giúp đỡ mình,
đồng thời cũng cởi mở đủ
để người khác có thể tìm thấy nơi chúng con
một sự tương trợ khi họ cần đến.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khiêm nhường là một đức tính đáng quý, cần phát huy của mỗi con người. Khiêm nhường sẽ giúp con người thành công một cách vững chắc nhất. Chẳng thế mà trong lịch sử nhân loại đã không có ít bậc danh nhân vì chán ghét cảnh tranh chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh thần khiêm tốn, thanh cao. Thực tế, khiêm nhường là đặc điểm chung của các nhà lãnh đạo tuyệt vời, các vị cao sang đều mến chuộng đức khiêm nhường. Người ăn ở khiêm nhường chẳng những được người đời kính trọng mà cả Thiên Chúa cũng yêu thích kẻ khiêm nhường. Lời Chúa trong sách Huấn Ca dạy: "Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa" (Hc 3, 19-21. 30-31).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học quan trọng là ở khiêm nhường. Người mời gọi chúng ta vượt qua thói háo danh để sống tự hạ và khiêm nhường. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường. Khiêm nhường không có nghĩa là tự coi mình không có giá trị gì, không phải là khinh rể bản thân, hay thụ động, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật, nhận biết thân phận thụ tạo của mình, nhận mình là mình, có sao có vậy, những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa. Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng. Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, có nhiều giới hạn, cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý...
Giữa một thế giới tự cao tự đại, kiêu ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm đoạt, bè phái và chia rẽ, thái độ công kích, đối đầu vẫn thường bị nhầm lẫn là sức mạnh thì người khiêm nhường không được đánh giá cao; bởi người ta đánh đồng khiêm nhường với yếu đuối.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác: "Đừng tìm kiếm chỗ nhất ". Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên Người khuyên chúng ta: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất" (Lc 14,8).
Chỗ nhất là chỗ quan trọng nhất. Ta chọn ngồi chỗ nhất là vì ta thấy mình quan trọng, xứng đáng được hưởng vinh dự đó... Tiếc thay, chỗ nhất chỉ có một chứ không có nhiều, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia... Ở đâu có hai người trở lên là có đụng chạm, chỉ vì có một chỗ nhất. Vì thế Chúa Giêsu khuyên bảo ta: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, tuy có giá trị đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý và bền vững. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, còn ai tự hạ thì rồi được tôn.
Vì muốn chọn chỗ nhất, nên ngươi ta thường thích giao du với người có thế giá, có học, có của, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế mà xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, vì kém cỏi về mọi mặt. Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ ta trong việc chọn khách để mời ăn, nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Người đưa ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh, giảm bớt sự kiêu căng, nâng cao đức khiêm nhường.
Khiêm nhường sẽ giúp cho bản thân mình nhận ra rằng còn điều gì thiếu sót mà mình phải hoàn thiện, học hỏi được từ người khác nhiều điều mà mình không có. Kẻ ăn ở khiêm nhường sẽ khắc phục được rất nhiều khuyết điểm, và hoàn thiện được bản thân. Khiêm nhường luôn đi liền với sự hòa nhã, hòa đồng với mọi người, vì tinh thần không ngừng cố gắng học hỏi. Còn kẻ tự mãn thì luôn thấy người khác là thấp hơn mình, không đáng học hỏi. Bởi vậy đức khiêm nhường vô cùng quan trọng, giúp cho mỗi con người chúng ta có thể thấy được rằng không có điều gì là đủ, là thừa. Càng khiêm nhường, chúng ta càng học được nhiều điều.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết ăn ở khiêm nhường để xứng đáng được Chúa yêu thương. Amen.
-------------------------------
– Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong xã hội ngày nay, người ta nói khá nhiều về sự khiêm tốn. Những khẩu hiệu như ‘Cán bộ là đầy tớ của nhân dân’ được treo dán khắp nơi, nhưng trong thực tế, nhiều khi những biểu thức đó chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch. Ngay cả nhiều anh em linh mục vẫn bị giáo dân than phiền vì thái độ hống hách và quan quyền trong cách ứng xử. Khiêm tốn là một đức tính căn bản và cần thiết trong mọi tương giao xã hội. Hơn thế nữa, đây lại chính là cốt lõi của linh đạo Thập giá mà Chúa nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi khởi nguồn từ chính khuôn mẫu nội tâm mà Đức Giêsu đã diễn bày qua cái chết của Ngài.
Linh đạo Thập giá.
Ngày 19 tháng 05 năm 1997, ông Kofi Anal Tổng Thư ký Liên hiệp quốc phát đi một bản cáo phó gửi đến toàn thế giới với nội dung ‘Một người quyền lực nhất thế giới vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Người giàu quyền lực ấy là ai? Thưa, chỉ là một phụ nữ ốm yếu già nua, đã 87 tuổi, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ mình. Người giàu quyền lực ấy đã phải ngửa tay xin từng cái giường cũ để chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, và khi chết vẫn không có một xu dính túi. Đó chính là Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta. Con người giầu quyền lực ấy là một phụ nữ yếu ớt đã sống khiêm tốn không phải với khẩu hiệu xuông, nhưng bằng lối sống rất cụ thể. Một con người đã can đảm đi đến mọi ngõ ngách của thế giới để chung chia cuộc sống vơi những người cùng khốn. Sự khiêm tốn mà Mẹ Têrêsa đã thể hiện khởi nguồn từ chính Thập giá. Trong cầu nguyện và suy niệm, Mẹ đã nghe văng vẳng lời Chúa Giêsu vang vọng trên Thánh giá: “Ta khát”. Suốt cuộc sống, Mẹ đã cố gắng sao chép lại hình ảnh của Đức Giêsu, đấng ‘vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá’ (Phil 2,6-8).
Thập giá Đức Giêsu là khung quy chiếu căn bản về sự khiêm nhường mà các bài đọc lời Chúa hôm nay trình bày. Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn ca viết: “Càng tự hạ, con càng làm đẹp lòng Đức Chúa. Người được tôn vinh nơi kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng vô phương cứu chữa”. Đương nhiên, các sách Cựu Ước chưa thể đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu, nhưng đã từ từ vén mở cho chúng ta con đường dẫn đến hoàn thiện. Đích đến của con đường này chính là Thập giá.
Trong bài Tin mừng với dụ ngôn về một ông chủ mời các thực khách đến ăn cưới, Chúa cũng đưa ra huấn dụ về sự khiêm tốn. Ngài kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Theo bản tính tự nhiên, ai cũng muốn được mọi người nể trọng, có được địa vị cao sang trong xã hội. Chẳng ai thích trở thành ‘kẻ rốt hết’ trước mặt các bá quan văn võ. Khiêm tốn để hạ mình xuống, điều đó mọi người chúng ta ai cũng biết, nhưng không phải dễ thực hành. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói với một chút cường điệu: “Ai cũng có cái tôi. Khi chúng ta chết rồi, 15 phút sau, cái tôi đó mới chết hẳn”.
Ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh, tác giả sách Sáng thế đã nói đến sự sa ngã của nguyên tổ. Tội đầu tiên du nhập vào trần gian chính là tội kiêu ngạo và người gây ra là Adam. Trong thư Rôma chương 5, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy hình ảnh song đối giữa Adam cũ và Adam mới, là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cho chúng ta được công chính hóa nhờ cái chết của Ngài. Ađam cũ gieo mầm sự chết do kiêu ngạo. Đối lại, Ađam mới làm cho chúng ta nên công chính nhờ khiêm tốn và vâng phục. Nói tóm lại, sự khiêm tốn mà Chúa Giêsu mời gọi, đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, chính là một nền linh đạo khởi phát từ mầu nhiệm Thập giá.
Tinh thần vô vị lợi.
Chúa Giêsu nói dụ ngôn hôm nay trong khung cảnh một bữa ăn. Một người Pharisiêu mời Ngài đến nhà dự tiệc. Đương nhiên, hiện diện trong bữa tiệc hôm đó còn có nhiều vị khách quý khác, có thể có những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ trong xã hội thời bấy giờ. Người ta thường xếp chỗ ngồi theo thứ bậc. Đó là điều rất thường tình và ở đâu cũng thế. Giáo xứ có tiệc mừng, đương nhiên Đức Cha sẽ được ngồi vào chỗ trọng vọng nhất, rồi đến các Cha, các viên chức, rồi mới đến ‘quần chúng nhân dân’. Điều này không có gì đáng nói. Nhưng nhân cơ hội, Chúa dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn, hãy chịu khó ngồi vào chỗ rốt hết để được mời lên trên. Chúng ta không cần bàn đến những nghi tiết xã hội hay những tập tục theo phong hóa địa phương và những chuyện đó không quan trọng lắm. Song, tinh thần khiêm tốn biết hạ mình xuống mới là nội dung mà Chúa nhắm đến để khuyến mời. Tinh thần khiêm tốn này đi đôi với một tấm lòng vô vị lợi. Đây là điều rất thực tế mà chúng ta cần nghiền gẫm để đem ra thực hành.
Trong xã hội hiện nay, người ta vẫn thường áp dụng nguyên tắc ‘Có đi có lại mới toại lòng nhau’ hoặc ‘Ông đưa cái giò bà thò chai rượu’. Người ta thường hay nói: “Ở trên đời này, chẳng ai cho không một cái gì”. Không phải đây chỉ là lề thói xã hội, nhưng ngay cả trong Giáo hội, người ta vẫn hay thực hành theo lối suy nghĩ ấy. Đám cưới con gái tôi, ông đi phong bì 500 ngàn, mai mốt đến đám cưới con gái ông, tôi cũng phải ‘lại quả’ 500, không nhiều hơn cũng chẳng ít hơn. Đó là sự sòng phẳng theo lề thói xã hội. Ngay các Cha vẫn hay ứng xử như vậy. Ngày lễ bổn mạng giáo xứ tôi, Cha đến đồng tế, khi nào đến lễ bổn mạng giáo xứ của Cha tôi cũng sẽ ‘phải’ đến để đáp lễ hay để ‘trả nợ’. Còn Cha không đến, thì tôi, tôi cũng sẽ không đến. Ở một mức độ nào đó chúng ta thấy có vẻ hợp lý, nhưng trong trật tự nước trời thì không phải vậy. Trong trật tự mới này, Chúa có vẻ như thách đố chúng ta. “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Điều Chúa thách đố xem ra có vẻ hơi khác thường và ‘dở hơi’. Nhưng đây lại chính là sự dở hơi thánh thiện phát nguyên từ Thập giá mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn sâu vào. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, không so đo tính toán, không mong được đáp đền. Đó chính là một ‘Tình cho không biếu không’ cách tuyệt đối, một tình yêu vô vị lợi mà chúng ta phải nghiền ngẫm, phải đào sâu và phải cố gắng đem ra thực hành.
Kết luận:
Sự khiêm tốn nội tâm và tấm lòng quảng đại trao ban vô điều kiện là linh đạo Thập giá của tất cả mọi người chúng ta, từ các anh em linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Trong lá thư thứ nhất, Thánh Phêrô tông đồ đã dạy: “Anh em hãy trang điểm bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho những ai khiêm nhường (1P 5,5). Cũng vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Học nơi ngôi trường này, chúng ta phải cần cù, phải siêng năng, phải học mãi, phải học cho đến suốt đời và chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Nhằm một ngày sabbat”: xem ra chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra “trên núi Sion, là thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời”, có sự hiện diện của “muôn ngày thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời” (Bài đọc 2). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn ám chỉ chỗ nhất trong bữa tiệc. Một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Ngài. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho các vị khác, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho những thượng khác đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người quyền chức đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy: “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: "Xin mời ông lên trên!" còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng. Điều mắt con nhìn thấy” (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khác, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng: tôi chọn chỗ dốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất...
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; đôi lúc Ngài cũng thêm vào “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), khi “sự thiện không có ở trong người ấy” (x. Rm 7, 18). Họ “tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét” (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác” (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên “khiêm nhường”. Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn: “Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin” (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
“Những kẻ khiêm nhường” thực sự mới có thể nói lời “tạ ơn” đối với Thiên Chúa (Bài đọc 1) vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể “tạ ơn” Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn ? Vì thế “ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe” (Ibid.), họ nghe tiếng Chúa gọi, và “hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới” (Bài đọc 2), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Thật ý nghĩa trong kính Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ” (Lc 1, 46-48). Đức Maria “đầy ơn phúc”, vì Mẹ đã khiêm nhường tự hạ trước Đấng đổ tràn ơn phúc xuống cho Mẹ: “Ai tự hạ sẽ được tôn lên”. Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn của những người yếu thế ; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngài đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Ph 2, 6-8), vì Ngài muốn “qui tu con cái Thiên Chúa tản mát khắp nơi về một mối”. Đức Giêsu hoàn toàn tự nguyện hạ mình xuống, để nâng chúng ta lên:
“Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17, 24). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cáo cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (x. Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ: “Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo ; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh.” Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính ích kỷ, kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn ; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mới đọc đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay, tôi có cảm tưởng Đức Giêsu quả là một nhà mô phạm đang say sưa giảng dạy một bài học về cách xử thế, điều mà các loại sách ‘học làm người’, bắt đầu từ cuốn ‘Giáo Khoa Thư’ mà tôi đã học từ tấm bé, vẫn thường dạy. Thế nhưng, điều tôi phải xác tín là: đây đích thực là một bài Tin Mừng mà nội dung Đức Giêsu đang đề cập tới là xác định mối tương quan mỗi người chúng ta cần có đối với Thiên Chúa là Cha; phải chăng bài học đó mới chính là điều mà Đức Kitô Giêsu đã phải cất công xuống thế làm người để có thể dạy dỗ loài người chúng ta?
Hình ảnh bàn tiệc hay được Đức Giêsu dùng để chỉ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa; bàn tiệc này được bày biện sao cho mọi người có thể tham dự, từ những kẻ được mời (là dân Do Thái), cho đến bàn dân thiên hạ: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc”. Nếu bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước đã cho chúng ta thấy chỉ những người đi qua được cửa hẹp của lòng khiêm cung mới được vào dự tiệc, thì bài Tin Mừng tuần này cũng đề cập tới điều tương tự: trong bàn tiệc đó, chỗ cao nhất sẽ dành cho ai nhận mình là kẻ khiêm hạ nhất.
Ngoài nghi vấn: ai sẽ được cứu rỗi, ta cũng thường nghe thấy nhiều người ưu tư về chỗ của họ trên thiên đàng. Để giải đáp vấn nạn sau này, câu trả lời hợp lý và lô-gích nhất sẽ là: phải làm nhiều việc lành phúc đức để có công trước mặt Chúa; ai càng giầu công nghiệp thì trên thiên đàng chỗ càng cao. Điều này từ lâu đã từng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người công giáo trung thành giữ đạo, đọc kinh tối sớm, ăn chay hãm mình, tập tành các nhân đức… và làm nhiều việc thiện. Họ mong thu tích cho được thật nhiều công nghiệp, hầu chiếm được chỗ cao chỗ trọng trên thiên đàng mai ngày.
Tôi không biết tư tưởng đó đúng đến đâu trong suy nghĩ của Đức Giêsu, nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã tuyên bố chắc nịch: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!” Như vậy Người khảng định: cho dầu lập công đức có cần thiết tới mấy đi nữa thì điều quan trọng nhất vẫn phải là sở đắc được một lòng khiêm cung chân thành: ai không có lòng khiêm tốn thì không thể vào dự bàn tiệc Nước Trời, còn nếu có vào được đi nữa thì cũng sẽ bị giáng xuống chỗ thấp nhất mà thôi; tại sao lại thế nhỉ?
Đơn giản là vì: Nước Trời tự bản chất, chính là lòng thương xót cứu độ được Thiên Chúa từ nhân ban nhưng không cho hết thảy mọi người. Tự mình con người không ai xứng đáng vào vương quốc đó, kể cả những người được thiên hạ coi là lành thánh, là hoàn hảo nhất. Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không phải là cái gì có thể mua tậu được bằng tiền bạc cũng như bằng các việc lành việc thiện, hay bằng bất cứ nhân đức nào do con người nỗ lực luyện tập mà có. Giá cả duy nhất để có thể mua Nước Trời chính là: khiêm cung đón nhận; chính vì thế mà, ai càng hạ mình khiêm tốn đón nhận bao nhiêu, thì càng lãnh hội trọn vẹn Nước Trời bấy nhiêu.
Hình ảnh mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã sử dụng thật chính xác lắm thay: thiên đàng là hồng ân tình yêu của Thiên Chúa được đổ đầy vào những cái ly cái cốc là tâm hồn mỗi người; ly của ai càng sâu bao nhiêu (khiêm hạ bao nhiêu) thì càng đón nhận được nhiều bấy nhiêu. Hình ảnh này giải thích ngay cả trường hợp của Đức Maria: dù nhận được muôn điều cao cả trọng đại, nhưng Mẹ vẫn luôn xưng mình là tôi tớ thấp hèn nhất của Thiên Chúa. Nói đúng ra, Ma-ri-a được nên cao trọng vô song cũng chỉ ‘vì’ Ma-ri-a đã có lòng khiêm hạ thẳm sâu hơn hết thảy mọi người: Ma-ri-a trở nên cao trọng trước hết trong ánh sáng chói lọi của Tin Mừng mà thôi.
Đúng vậy, chỉ có lòng khiêm hạ mới làm ta hiểu và thâm nhập được vào lòng thương xót Thiên Chúa ban cho nhưng không, để rồi từ đó nẩy sinh ra thứ phục vụ bác ái thuần khiết nhất. Nhiều người vẫn nghĩ rằng: qui luật ngàn đời ‘Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’ cũng sẽ được áp dụng cho phần thưởng trên thiên quốc, thế nhưng theo Đức Giêsu thì qui luật này không áp dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chỉ những ai đã từng khiêm tốn đi thật sâu vào trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa từ nhân, người đó mới có khả năng “đãi tiệc… mà mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù… Họ không có gì đáp lễ”. Và chỉ có ai làm được như thế, tức là thực hành bác ái phục vụ phản ảnh lòng thương xót nhưng không của Thiên Chúa, thì mới xứng đáng được nghe lời khen thưởng của ông chủ từ nhân: Anh mới thật có phúc: vì anh sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Như vậy thì khiêm hạ không những là nhân đức nền tảng của đời sống thiên liêng tu đức trên đó ta xây dựng mọi nhân đức khác, như đã từng được khảng định trong tu đức học; khiêm hạ trong Tin Mừng, khi được diễn tả bằng lòng thống hối chân thành, sẽ là điều kiện và thái độ thiết yếu cho tất cả những ai đón nhận ơn cứu độ. Phải chăng đây mới đích thực là một TIN MỪNG lớn lao hơn hết cho toàn nhân loại, đặc biệt cho những con người tội lỗi và yếu đuối như chúng ta: “ơn cứu độ chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm cung mà thôi!”
Lạy Chúa, xin hãy dạy con: ‘tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu’. Tuy nhiên để có thể làm được các điều ấy, con cần nhận được lòng thương xót vô biên mà Chúa đã ban tặng khi cứu độ con cách nhưng không, bất chấp những yếu đuối và bất xứng của con. Xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, để nhờ đó con có được lòng khiêm hạ chân thành; để rồi trong thấp hèn nhỏ bé của mình, con sẽ cất tiếng ca ngợi tình yêu thương xót của Chúa đến muôn đời. Amen.
-------------------------------
- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập", nghĩa là khi có mùi hương thì tự nó thơm, không cần phải ra đứng ở đầu ngọn gió. Khi một người thực sự là một người tài giỏi, đạo đức, thánh thiện thì hãy để mọi người nhìn nhận chứ đừng tự mình nói ra. Và Người xưa cũng đã từng dạy: "Tự khiêm thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh".
Có người kể rằng: Một ngày trong năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
- Con có thấy gì không?
- Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói: “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. Tôi đã không còn mặc cảm vì mình đóng vai phụ. Tôi không còn lệ thuộc bởi vai này vai nọ mà quan yếu ở việc mình hết lòng với việc được giao.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giê-su không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giê-su từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. .. Ngài mong muốn các môn sinh đừng tìm đến những nhà cao cửa rộng, những đại gia sang trọng mà bỏ rơi người nghèo hay coi khinh người nghèo. Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lại không sống cho người nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than...
Chúa Giê-su luôn sống nghèo và vì người nghèo. Ngài đã chọn mái nhà nghèo để cư ngụ. Ngài đã chọn công việc tầm thường để kiếm kế sinh nhai. Ngài đã sống chung với dân nghèo làng Nagiaret. Cuộc đời công khai, Ngài luôn đi cùng người nghèo và đi đến người nghèo để thi ân, để phục vụ. Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen.
-------------------------------
– Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nươc vẫn len lõi chảy không gây xích mích hay hận thù với ai.Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước là biểu tượng cho đức khiêm nhường. Nước luôn tìm chỗ thấp mà chảy xuống. Dù hạ mình thấp hèn nhưng nước thật cao cả vì đem lại sự sống cho mọi loài.
Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận dùng hình ảnh nước để huấn dụ cho các chủng sinh về đức khiêm nhường: "Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên...Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông".
Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất đai. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu làm đất đai ở đó thêm màu mỡ và phì nhiêu.
Bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy rằng: "Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, con sẽ được đẹp lòng Chúa". Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường Thiên Chúa đến với nhân loại. Qua sự khiêm hạ, con người đến với nhau và đến mọi nơi.
Bài Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đi dự bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhường nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Và cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Ông biệt phái mở tiệc đãi khách, thực ra không phải vì khách mà vì mình. Ông mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những người tai to mặt lớn. Ông biệt phái thích khoe khoang nên có lẽ mời Chúa Giêsu chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình. Chúa nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Hãy biết nghĩ đến những người nghèo khó bất hạnh.
Bài học Chúa dạy là đức khiêm nhường và đức bác ái. Hai nhân đức này là nền tảng của đạo đức.
1. Bài học khiêm nhường
Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn.
Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Còn Chúa dạy nói: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên".
Khiêm tốn là ít nghĩ về mình, và nhiều lúc không nghĩ gì về bản thân. Đối với Kitô hữu, khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu: "Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng"; "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Khiêm tốn sống như Chúa Giêsu là không sống cho riêng mình mà sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nhu nhược hèn nhát, nhưng chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, mà là một hành vi yêu thương, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý.
Khiêm nhường còn là khuôn mặt của tình yêu. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không kết thân với người giàu có quyền thế nhưng luôn quan tâm những người nghèo, người bị ruồng bỏ, người ốm yếu tật nguyền, Ngài an ủi và chữa lành cho họ.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, Sách Huấn Ca cũng chỉ cho thấy con đường khiêm tốn là con đường tuyệt đẹp được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu.
2. Bài học bác ái
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy rằng, khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi, không mong đền đáp, làm việc âm thầm.
Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà, hãy mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp trả, và như thế, ông mới thật có phúc vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại.
Người ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi người ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và từ chối giúp đỡ.Chúa Giêsu dạy các môn đệ, hãy sống gần gũi hòa đồng với người nghèo, người bất hạnh. Sống và cư xử tốt với họ dù rằng họ chẳng có gì đáp lại. Lý do là vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là anh em con một Cha nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Con đường bác ái yêu thương là lối vào Nước Trời. Chúa Giêsu chính là hiện thân nơi những người bất hạnh, nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa.
3. Tình yêu như dòng nước.
Bác ái và khiêm nhường là hai nhân đức căn bản. Bác ái là bản chất, khiêm nhu là vóc dáng. Vóc dáng giúp chủ thể thon gọn thuận tiện ở mọi sinh hoạt trong mọi lãnh vực. Bác ái là nền tảng làm nên phẩm giá và tư cách hấp dẫn con người ở mọi nơi mọi thời. Người sống bác ái chính là biết khiêm nhường phục vụ, làm nên vóc dáng xứng hợp với cửa hẹp Nước Trời.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Nước biểu tượng đức khiêm nhường và đặc tính của nước cũng giống như tình yêu. Nước còn là biểu tượng cho mọi phúc lộc của Thiên Chúa. Trong thuật ngữ Kitô giáo, nước được sử dụng như như biểu hiệu của một diễn trình biến đổi và trở về nội tâm. Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Được làm con cái Thiên Chúa qua phép Rửa là hồng ân với đời sống mới, luôn khiêm tốn và bác ái hướng tới trọn lạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.
-------------------------------
Chủ đề suy niệm từ Tin Mừng nói
với chúng ta về một vật rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là chiếc ghế. Tự bản chất, ghế chỉ để ngồi. Nhưng chỗ ngồi ở mỗi vị trí lại có giá trị khác nhau. Vì thế, người ta tranh nhau cái ghế và cố gắng bảo vệ chỗ ngồi của mình bằng mọi cách! Từ hình ảnh "Thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi", Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học về lòng khiêm tốn và nhân đức khiêm nhường. Thế nhưng, giữa một thế giới mà trong đó con người đang giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực, vậy bài học về đức khiêm nhường của Chúa có còn thích hợp với người thời nay nữa hay không?
Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm "Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp." Quan niệm ấy cho ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho người có chức quyền và địa vị ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình cho bằng người khác. Tuy nhiên, mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, vênh vang tự đắc, coi trời bằng vung và chẳng xem ai ra gì! Nhiều khi chính vì địa vị của họ mà người ta rơi vào vùng trời cô đơn, chỉ những kẻ nịnh bợ được lợi mới là bạn. Và đôi khi địa vị của họ cũng trở thành tầm ngắm của nhiều người muốn giành giật. Vì vậy cuộc sống của họ phải đối diện với trăm ngàn mưu mô, cạm bẫy, khó khăn ngay cả với những kẻ thuộc cấp. Khi còn đương chức thì dương dương tự đắc, vì "Miệng nhà quan có gang có thép." Và bao người đón đưa, ca tụng.
Thế nhưng, sông có khúc, người có lúc. Khi có chức quyền thì phải sống sao để khi hết chức, hết quyền người ta vẫn còn lòng quí mến và kính trọng mình. Cách riêng đối với những người đang nắm giữ những chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể..., chúng ta càng phải ý thức và sống cách triệt để lời Chúa căn dặn môn đệ khi thấy họ cãi nhau xem ai là người làm lớn: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." (Mc 9,35) Thực ra, chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa, vì những người khôn ngoan và có khả năng, nhiệt thành, được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ con người, công ích và phục vụ Giáo Hội. Vậy hãy nhớ lời sách Huấn Ca nhắc nhở: "Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa."(Hc 3,18)
Chức quyền chỉ là luân phiên để phục vụ "Quan chỉ nhất thời, dân mới vạn đại." Thế nên, người khiêm tốn sẽ biết khả năng, chức vụ của họ chỉ là phương tiện phục vụ mọi người. Trong đời sống đức tin, chúng ta cần ý thức mình chỉ là một trong những dụng cụ Chúa dùng để phục vụ phần rỗi và ơn cứu độ nhân loại. Chúng ta như những chiếc ghế dùng để ngồi. Thiên Chúa muốn đặt ở đâu cũng không sao. Ai ngồi lên cũng không thành vấn đề. Nếu không còn được dùng nữa, chiếc ghế vui vẻ sẵn sàng nằm trong kho hoặc trở thành những thanh củi để cho đời một chút lửa, một cục than hay một nắm tro tàn.
Chúng ta cần ý thức "Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ. Kiêu căng một chút cũng bằng thừa." Người khiêm tốn thì luôn kính trọng tha nhân, làm việc theo ý chung vì lợi ích tập thể.
Người khiêm tốn ý thức giới hạn của bản thân nên luôn nhận trách nhiệm khi công việc thất bại, còn thành quả là do tập thể.
Người khiêm tốn âm thầm làm việc mà không cần người khác khen ngợi, vì họ biết đó là bổn phận và trách nhiệm của họ.
Người khiêm tốn luôn bình tĩnh nghe sự góp ý của người khác về khuyết điểm của mình và sẵn sàng sửa đổi.
Người khiêm tốn không thích nói về mình, không đề cao mình, những gì họ đạt được là do ơn Chúa và nhờ sự trợ giúp của mọi người.
Người khiêm tốn nỗ lực và ý thức trách nhiệm trong mọi việc đã lãnh nhận, cố gắng với tất cả khả năng và phó thác thành công cùng thất bại trong bàn tay Chúa.
Người khiêm tốn luôn cư xử nhẹ nhàng, hòa nhã và tinh tế với mọi người, luôn đặt lợi ích và quyền lợi của người khác trên bản thân mình.
Người khiêm tốn biết giới hạn của mình và chỉ thực hiện những gì trong tầm tay và khả năng cho phép. Họ không đứng chỉ tay nhưng vén tay áo để cùng làm việc với mọi người.
Người khiêm tốn ý thức chức vụ và quyền hành là để phục vụ, vì thế họ sẵn sàng rút lui khi sức khỏe và khả năng giảm sút không còn đủ hay không phù hợp để phục vụ mọi người.
Người khiêm tốn là người biết nhận định chính xác về bản thân mình trong mọi sự.
Bài học khiêm tốn tuy đơn giản nhưng không phải dễ dàng học và thực hiện trong đời mình. Con công đẹp ở bộ lông, con chồn quí ở bộ da. Nhưng chúng chết hoặc bị săn lùng cũng chỉ vì những thứ mà chúng khoác trên mình! Xin cho chúng ta hôm nay thấm nhuần được bài học khiêm nhường của Chúa- Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Người đã chọn chỗ rốt hết trong thân phận làm người, nghèo hèn trong cuộc sống, đơn giản trong cách ăn nết ở, hòa nhã và thân thiện với tất cả mọi người. Cuối cùng, Người đã chấp nhận hủy mình ra không trong cái chết. Người đã chọn chỗ rốt hết trong bữa tiệc nhân sinh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Qua cuộc sống, Người đã trở nên mẫu gương cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi lòng chúng con nên khiêm nhường giống như Chúa. Amen.
-------------------------------
- Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Đức Giêsu được một người Pharisiêu (trong hàng ngũ lãnh đạo) mời đến nhà dùng bữa. Khi đến, Người cảm thấy mình đang bị dò xét. Bởi các đối thủ đang theo dõi Người sát sao, hy vọng tìm ra lý do, để vu cáo chống lại Người. Đức Giêsu cũng thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, họ tranh giành, tỏ ra kiêu căng tự đắc và ích kỉ. Đức Giêsu đưa ra hai giáo huấn khá ngắn:
Giáo huấn thứ nhất nói với khách được mời.
"Đừng ngồi cỗ nhất". Điều Đức Giêsu nói đây là một quy luật, một châm ngôn đã có từ lâu đời trong nhân gian. Sách Châm Ngôn viết: "Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn, được người ta mời: "Hãy lên đây" tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan" (Cn 25,6-7; St 7,4). Sách Lêvi cũng dạy khách ngồi bàn ăn bằng những lời: "Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp, dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: Hãy ngồi lên "hơn là" đi xuống dưới ngồi".(Lv 7,1-5). Bởi thế, những luật sĩ, các biệt phái không tự ái, khi nghe Đức Giêsu nói "Đừng ngồi cỗ nhất", cho dù họ đang tìm cỗ nhất, bởi họ cho Đức Giêsu chỉ nhắc lại Kinh Thánh.
Tuy nhiên, theo Noel Quesson, lời Đức Giêsu đây, không đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn ... song còn đưa chúng ta sang bình diện Nước Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Thực vậy, không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất, chính là tình cảm về sự công chính bản thân mới là bước cản chúng ta đến gặp Đấng Cứu chuộc. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài. Đức Maria trong kinh Magnificat đã nói: "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường". Đó là việc Thiên Chúa ưa thích, đó là việc Thiên Chúa thường làm. Lời Chúa còn đó: "Hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường thật lòng".
Giáo huấn thứ hai nói với chủ nhà.
Theo lẽ thường, ta chỉ mời những người có liên hệ với mình: Bà con, họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, vật chất hay một cách nào đó. Những người đó đến lượt, họ sẽ mời lại, để đáp lễ theo luật có đi có lại: Ông mất chân giò bà thò chai rượu. Còn những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, thường bị ta bỏ qua.
Luật Dothái dạy: Những người điếc lác, thọt chân, cụt tay, mắt hỏng không được tham dự các sinh hoạt tế tự trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18). Những người Étsênien ở Qumrân còn quả quyết: "Những người đui mù, khuyết tật, thọt chân, què tay không được tham dự hội đường các ngày Sabbát, cũng không được ở giữa hội đoàn của những người danh tiếng".
Giờ đây, Đức Giêsu lại nói với chủ nhà: "Khi ông mở tiệc, đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có. Ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả lễ và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ chết sống lại". Thực ra, đây không phải là những lời mới mẻ.
Sách Khôn Ngoan Aram của người Dothái viết: "Hãy nhận vào nhà bạn kẻ thấp hơn bạn và kẻ nghèo hơn bạn, nếu anh ta ra đi và không trả ơn bạn, Chúa sẽ trả cho bạn". Sách Đệ Nhị Luật dạy: "Ba năm một lần, anh em hãy đưa ra tất cả thuế thập phân của năm ấy, và đặt ở cửa thành anh em, để Thầy Lêvi, người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong thành của anh em sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em chúc phúc cho mọi công việc tay anh em làm" (Đnl 14, 28).
Điều lề luật dạy làm cứ ba năm một lần. Đức Giêsu bảo: Hãy làm bất cứ lúc nào. Khi luật pháp bảo cứ để sẵn cổng thành cho người ta đến dùng, Đức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại. Cuối cùng luật pháp hứa đền bù ở đời này, Đức Giêsu bảo sẽ được báo đáp ở đời sau. Đức Giêsu đã chẳng lặp lại y nguyên luật pháp, Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức, thiêng liêng hơn.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể đây một câu chuyện: Một chủ nông giầu có nọ mời các tá điền và những người làm công dùng bữa cơm tối tại nhà ông. Đây phải gọi là một yến tiệc mới đúng, bởi vì tất cả các món ăn đều được dọn trên các đĩa bằng sứ hay mạ bạc quý giá, còn rượu ngon hảo hạng được rót vào những ly thủy tinh đắt tiền. Bàn ăn được trải toàn khăn bằng vải và một bát nước rửa tay. Có một anh nông dân kia, vì trong đời anh chưa bao giờ được dự một bữa tiệc sang trọng và thịnh soạn đến thế, nên sau khi ăn uống no nê, anh đã bưng bát nước dùng để rửa tay uống cạn. Một vài thực khách sành điệu bắt đầu cười thầm, rồi tiếng cười bỗng bật thành tiếng. Thấy vậy, người chủ tiệc lập tức với tay bưng lấy bát nước trước mặt mình uống cạn. Cử chỉ này làm tắt ngay những tiếng cười chế nhạo sự quê mùa của anh nông dân kia.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng làm như vậy.
-------------------------------
Đức Giêsu được mời dùng bữa tại nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu. Tuy nhiên, ngay khi vừa bước vào nhà, Người đã cảm nhận một thái độ chỉ trích, lạnh lùng hướng về Người. Đối thủ của Người quan sát từng cử chỉ của Người, hy vọng có thể tìm được điều gì để tố cáo Người. Cũng vậy, chúng ta có thể nhìn người khác với cặp mắt thân thiện, giận dữ hay thờ ơ lãnh đạm.
Khi chúng ta nhìn người khác với cái nhìn thân thiện, điều đó có nghĩa là chúng ta đánh giá tốt về họ từ cái dáng vẻ bên ngoài. Nhưng đó cũng là điều hiếm thấy ! Chúng ta thấy được những điều tốt đẹp từ người đó, và sẵn sàng miễn thứ cho những điều chưa tốt. Chúng ta cởi mở và sẵn sàng để học biết về họ. Bắt gặp được cái nhìn thân thiện, chúng ta cảm thấy dễ chịu, thoải mái, cảm thấy mình được đón tiếp ân cần.
Khi ta nhìn vào người khác với cặp mắt thù địch, điều đó có nghĩa là ngay từ lúc khởi đầu ta đã nghĩ xấu về họ qua dáng vẻ bên ngoài. Chúng ta cố tìm cho ra lỗi lầm của họ và cảm thấy thất vọng nếu không tìm được một lỗi gì nơi họ. Chúng ta không cho họ có cơ hội để biện minh cho chính mình vì chúng ta có định kiến về họ. Ngay cả khi ta không thể tìm ra lầm lỗi trong những điều họ nói hoặc làm, thì ta cũng luôn nhìn với một sự nghi ngờ về động cơ hành động của họ. Chúng ta không sẵn sàng học hỏi điều gì nơi họ vì tâm trí ta luôn chống lại họ và tâm hồn ta đã khép kín. Thật kinh khủng khi chúng ta cảm nhận sự nặng nề từ một cái nhìn ác cảm dành cho chúng ta.
Khi chúng ta nhìn người khác với cặp mắt lãnh đạm, có nghĩa là chúng ta không để ý đến họ cách này hoặc cách khác. Chúng ta có thể thấy sự cố gắng của họ, nỗi buồn của họ và ngay cả những giọt nước mắt, nhưng tất cả chẳng có ý nghĩa gì đối với ta. Chúng ta chẳng quan tâm đến hoặc lo lắng cho họ. Quả thật, chúng ta khó mà thấy họ và dường như họ không hiện diện trước ta.
Ngay khi Chúa Giêsu bước vào nhà, Chúa Giêsu đã bắt gặp những ánh mắt soi mói thù địch. Họ đã có thành kiến về Người và muốn gài bẫy Người. Điều mà họ muốn là tìm ra một chứng cớ mà Người không thể chối cãi được.
Nhiều người hay dò hỏi về những lỗi lầm của người khác nhưng lại lơ đễnh trong việc sửa đổi lỗi lầm của bản thân mình. Thực tế, những mối bận tâm về lỗi lầm của người khác khiến cho ta đui mù với chính lỗi lầm của bản thân mình. Vì thế Chúa Giêsu có thể đảo ngược tình thế với những người Pharisêu. Người cũng quan sát họ mặc dầu với một động cơ khác hẳn họ, và Người nhận thấy những điều mà Người không thích.
Trước hết về phía những khách mời, Người đã phê bình về sự tranh giành tầm thường về chỗ ngồi danh dự. Điều này cho thấy họ đến dự tiệc không phải để tỏ ra sự trân trọng đối với chủ nhà, mà chỉ nhắm đến tìm vinh dự cho chính bản thân.
Thứ đến, Người nói với chủ nhà. Ông ta dường như đã làm một việc quảng đại khi dọn tiệc đãi khách. Nhưng thử hỏi ông đã mời những ai dự tiệc ? Ông mời những bạn chí thân, những người sẽ có dịp đáp lễ mời lại ông. Vậy có gì gọi là rộng lượng ở đây ? Đó chỉ là một cách đầu tư tính toán. Chủ nhà sẽ lấy lại những gì đã cho và với một số lợi hậu hĩnh.
Chúa Giêsu đề nghị rằng nếu ông thực sự muốn làm một việc rộng lượng, ông nên mời những người khách mà có thể họ sẽ không bao giờ có dịp đáp lễ lại. Thực sự cho đi là không đòi hỏi đáp trả.
Đây là những bài học dạy ta quan sát những sự việc. Chúng ta quan sát người khác với cặp mắt nào ? Những người Pharisêu nên nhìn đến chính bản thân và lỗi lầm của mình. Và tất cả chúng ta cũng vậy.
Và đâu là giá trị của những công việc tốt chúng ta làm được ? Những người có đạo có thể lại là những kẻ ích kỷ ghê gớm. Giống như cỏ có thể phá hoại cả một khu vườn, thì sự ích kỷ cũng làm huỷ hoại những chứng nhân Kitô hữu. Trao ban là cốt lõi của Tin Mừng. Giá trị của trao ban là cho đi không vụ lợi.
-------------------------------
Một vị thủ lãnh nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu đến nhà dùng bữa. Khi Người đến, Người nhận thấy những người Pharisêu luôn để mắt quan sát Người, và Người cũng đáp lại bằng việc quan sát thái độ của họ. Cái nhìn của họ không phải là cái nhìn đạo đức tốt lành. Họ là những kẻ sùng đạo và luôn tự đặt mình như một gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ lại tranh giành những chỗ danh dự, điều này chứng tỏ họ thực sự là những kẻ tự phụ, kiêu căng và ích kỷ như thế nào. Họ có mặt trong bữa tiệc không phải vì quý mến chủ nhà, nhưng họ chỉ muốn được danh dự cho bản thân mình. Không có lòng khiêm tốn thì không thể là một tấm lòng chân thành được. Chúa Giêsu đã nói: “Ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên."
Khi bước vào một vương cung thánh đường lớn, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và tầm thường. Chúng ta dường như bị lệ thuộc vào những thứ mỏng manh và giả tạo, nhưng lại được nâng lên cách lạ lùng. Vì khi ta tự hạ mình xuống, và lột bỏ những thứ đã tạo cho ta cảm giác về sự quan trọng và tính ưu việt giả tạo, những điều làm ta xa cách mọi người, ta thấy mình được nâng lên. Chúng ta bắt đầu nhận ra sự cao quý đích thật, không hệ tại nơi bản thân ta, mà chính vì chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Mỗi ngày Chúa nhật chúng ta được mời đến dự tiệc, bàn tiệc Thánh Thể. Nơi đây, Chúa là chủ và chúng ta là khách mời. Nơi đây không có chỗ đặc biệt, ta có thể ngồi vào chỗ mà ta muốn. Đặc quyền, thân thế và địa vị không có ý nghĩa gì ở đây. Sự phân biệt không được quan tâm đến. Vì trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Điều đó không có nghĩa là chúng ta bị giáng xuống cùng một mẫu số chung, nhưng nó nâng chúng ta lên với nhau. Chúng ta như những người cùng ở trên đỉnh núi cao. Trên đỉnh núi mà bàn đến chỗ sang, chỗ hèn, chỗ cao, chỗ thấp thì thật là ngớ ngẩn. Trong nhà Chúa cũng vậy. Nơi đây, chỗ nào cũng là chỗ vinh dự. Bước vào nhà Chúa, mọi người cùng bình đẳng. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa nhà Chúa, đặc quyền như khói bay đi và chúng ta trở nên khiêm nhường nhưng đồng thời lại trở nên cao trọng. Chúng ta trước hết phải trở nên khiêm nhường thì mới trở nên cao thượng. Chúng ta phải đem tinh thần này vào trong đời sống của ta.
Một lần kia, ngài thị trưởng thành phố đã mời tất cả mọi người đến dự tiệc. Trong số những người hiện diện, có mặt ngài Daniel lỗi lạc. Ngài Daniel là một học giả vĩ đại và khôn ngoan. Tuy nhiên ông rất khiêm tốn và không thích trở thành khách danh dự. Khi ông tới, ngài thị trưởng mời ông đến ngồi chỗ danh dự ở bàn đầu tiên. Ngài Daniel cám ơn ngài thị trưởng, nhưng bày tỏ rằng ông muốn được ngồi ở giữa những người nghèo ở chiếc bàn cuối dãy gần cửa ra vào. Và ông đã làm như thế.
Khi những quý khách khác tới, ngài thị trưởng mời họ ngồi bất kỳ chỗ nào họ thích. Một cách thản nhiên, họ chọn ngay chỗ ngồi danh dự ở chiếc bàn đầu tiên. Phòng tiệc đầy người và cuối cùng chỉ còn chỗ trống duy nhất ở chiếc bàn cuối dãy. Sau đó, vào những phút cuối, có một quý khách tới. Ngài thị trưởng không còn cách nào khác bèn mời ông khách nọ ngồi vào chỗ trống ở chiếc bàn cuối dãy.
“Nhưng đây là bàn thấp kém nhất”, người khách phản đối.
“Không, đây mới là chiếc bàn cao trọng nhất”, ngài thị trưởng trả lời.
“Tôi không hiểu”, người khách nói.
“Bàn nào có ngài Daniel ngồi thì bàn đó trở nên trang trọng nhất”, ngài thị trưởng trả lời.
Bài học đạo đức của câu chuyện là: Không phải chỗ ngồi làm cho khách mời được danh dự, mà chính bản thân vị khách mới đem lại vinh dự cho chỗ ngồi. Chúng ta không biết Chúa Giêsu đã ngồi ở đâu trong bữa tiệc đó, nhưng cho dầu đó là chỗ nào đi chăng nữa, cũng sẽ trở thành chỗ ngồi danh dự.
Bàn tiệc là một hình ảnh của Nước Chúa. Chúng ta không nên quan tâm đến việc tìm kiếm chỗ ngồi danh dự trong Nước Chúa. Chúng ta phải xem đó như một đặc ân đã được ban tặng cho ta. Bất kỳ trường hợp nào, mọi chỗ trong Nước Chúa đều là những chỗ danh dự.
-------------------------------
Từ ngàn xưa và cho đến ngày nay, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”.
Ta thấy rằng quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28) (bài đọc thứ nhất).
Câu chuyện hôm nay chúng ta nghe được Thánh Luca kể xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Chúa Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày Sabát. Hẳn nhiên với quy luật thông thường của người Do Thái, vụ khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Nhưng rồi cũng vẫn có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Thật thế, rất dễ hiểu rằng con người vẫn thường bận tâm là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Chúa Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Chúa Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
Qua đó, ta thấy Chúa Giêsu chỉ một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Chúa Giêsu muốn gợi lại quy luật ứng xử khôn khéo. Chúa nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Chúa Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với tất cả tâm tình đó, ta được mời gọi nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (Ga 7, 29; 16, 28; 17, 1-26). Quanh ta, cạnh ta, ta vẫn thấy có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Giản đơn để trả lời đó là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Và rồi nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (Ga 6, 38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34).
Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28).
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Ta được mời gọi nhìn lên Chúa Giêsu hạ mình và xả thân một cách quảng đại với anh chị em đồng loại. Và như vậy khi ta sống tinh thần khiêm hạ, xả kỷ không phải chỉ là lời khuyên nhưng trở thành nếp sống đạo mới của chúng ta theo gương Chúa Giêsu, Ðấng đã dạy chúng ta hãy học với Người mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng; và đã mở cửa Nước Trời và bàn tiệc Nước Trời chỉ dành cho những người như vậy.
-------------------------------
– G. Nguyễn Cao Luật, OP
Từ bàn tiệc trần gian
Ðức Giêsu được mời đi dự một bữa tiệc. Tại đó, Người đưa mắt quan sát những sự việc đang xảy ra: những người hầu bàn chạy đi chạy lại, các quan khách trò chuyện trao đỗi, mời chào nhau, người này chọn chỗ nọ, người khác tìm chỗ thuận tiện cho mình. Không có gì thoát khỏi tầm quan sát của Ðức Giêsu. Trong một bữa tiệc như thế, tính cách và tâm trạng của con người được bộc lộ một cách rõ ràng. Trước mắt Ðức Giêsu, tất cả như tạo nên một bức biếm hoạ với cả những nét đáng yêu lẫn đáng ghét. Tất cả như một trò ngu xuẩn, một chuyện ngớ ngẩn.
Nhưng không phải chỉ có thế. Nếu Ðức Giêsu chỉ đến dự tiệc và đứng quan sát thì Người cũng giống như mọi người, hay vượt lên trên một chút mà thôi. Trái lại, Nggười đến với tư cách là Ðấng thiên sai đến tham dự bữa tiệc trần gian để mở ra một bữa tiệc khác, rộng lớn hơn, sang trọng hơn và đích thực hơn. Ðó là bàn tiệc Nước Trời. Người không mất giờ để nghĩ hay nói xấu bất cứ ai, Người có mặt trong bữa tiệc, cũng như trong trần gian này với mục đích khác.
Trước mắt Ðức Giêsu, bữa tiệc hôm nay là một thế giới thu nhỏ, trong đó con người sống, làm việc. Ðó là khuôn mặt của nhân loại với những tranh giành, những mưu toan, những niềm vui và nỗi buổn. Bữa tiệc không phải chỉ là ăn uống, đó là một nghi lễ có tính cách xã hội, trong đó có những nghi thức, có lễ nghi. Bữa tiệc cho thấy khuôn mặt của xã hội với những quy tắc, những giá trị của nó. Như thế, có thể nói rằng, bữa tiệc là một thứ "cơ cấu" được tỗ chức, được quy định cách rõ ràng. Kẻ nào muốn đụng chạm, muốn thay đỗi những nghi thức ấy, quả là liều lĩnh.
Vậy mà Ðức Giêsu muốn thay đỗi tất cả cái "cơ cấu" đó, bởi vì Người muốn hướng xã hội đến một tầm nhìn khác, cao hơn, đúng đắn hơn. Người đã đến trần gian trong thân phận của người tôi tớ, người phục vụ, và Người muốn cho nhân loại thấy đó chính là con đường đúng đắn nhất, con đường dẫn tới Nước Trời. Người đã nhiều lần cho thấy người ta phải sống với nhau trong một tinh thần mới, khác với những điều trước đây, đó là tinh thần khiêm tốn và yêu thương. Do đó, từ một bữa tiệc trần gian, Người đã bày tỏ tinh thần của Nước Trời, Người đã đưa ra một cách ứng xử khác với những thói quen xưa nay.
Còn có bàn tiệc khác
Trong mối quan tâm đến con người và trong tinh thần hiệp thông với Chúa Cha, Ðức Giêsu coi bữa tiệc hôm nay như một hình ảnh của Nước Trời. Nhưng để bữa tiệc trần gian này trở thành dấu chỉ đích thực cho vương quốc Thiên Chúa, cần phải có hai điều kiện:
- Trước hết: "Khi anh được mời đi dự tiệc... thì hãy vào ngổi chỗ cuối." Ðây là cách thế hoạt động của Chúa Cha và cũng là của Ðức Giêsu. Thiên Chúa đã không bắt con người phải hầu hạ, nhưng đã sai Con của Người đến để phục vụ. Con Thiên Chúa đã đến trần gian không phải để áp đặt, nhưng là để bày tỏ Nước Thiên Chúa. Thay vì đến xét xử trần gian, Con Thiên Chúa đã hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc. Trong suốt quãng đời sống trên trần thế, Ðức Giêsu luôn sống như một người nghèo. Người đã chia sẻ thân phận của những người bị loại bỏ, bị đẩy ra bên lề xã hội. Không ít lần Tin Mừng đã thuật lại mối quan hệ của Ðức Giêsu với những người, mà trước mắt con người thời xưa cũng như thời nay, được gọi là những kẻ tội lỗi. Ngay cả những người bị xã hội lãng quên vì bệnh tật, vì hoàn cảnh, Ðức Giêsu cũng đến bên họ để nâng đỡ, để chữa lành. Người đã không từ chối bất cứ ai đến với Người, và cũng chẳng từ chối bất cứ ai cần đến Người.
Bởi đó, chẳng lạ lùng gì khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã sống đến tột cùng của ý tưởng phục vụ, để rổi sau đó, còn đi xa hơn nữa qua việc chịu treo trên cây thập giá.
Chính ở chỗ rốt cùng ấy, Ðức Giêsu đã thông cảm, đã chia sẻ trọn vẹn với tất cả những gì là yếu đuối, là khỗ đau, ngoại trừ tội lỗi của con người. Và từ chỗ rốt cùng ấy, Người đưa con người lên đỉnh cao tuyệt vời, đỉnh cao của những người được chọn, những người được tham gia vào đời sống thần linh. Chính ở chỗ rốt cùng của bàn tiệc trần gian, Ðức Giêsu đưa con người vào dự bữa tiệc Thiên Quốc, trong đó mọi người đều được no thoả.
Phải nói thêm rằng, lời khuyên của Ðức Giêsu, tuy nhắm đến Nước Trời, nhưng cũng cho thấy một cách ứng xử mới trong xã hội; không tranh giành, không kiêu căng, nhưng khiêm tốn... Có lẽ đây cũng là điều cần phải có trong xã hội, nhưng không vì thế mà áp dụng theo nghĩa đen, gây khó khăn cho người khác.
- Thứ nữa, Ðức Giêsu còn đi xa hơn; Người đặt vấn đề về chuyện mời khách: "Khi đãi tiệc... hãy mời những người không có gì đáp lễ." Tại sao vậy?
Ðây cũng là cách thức hành động của Chúa Cha và của Ðức Giêsu. Thiên Chúa mời tất cả nhân loại, dù họ có yếu đau tật bệnh, dù họ có thế nào chăng nữa, đến dự tiệc do Người khoản đãi. Mời mà không đòi hỏi gì, mời cách nhưng không.
Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều được cứu độ, đều được quy tụ trong Nước Trời. Tin Mừng được loan báo cho hết mọi người, và mọi người đều có thể đón nhận không cần có một ưu tiên, một đặc quyền nào. Ai cũng được, miễn là họ đón nhận lời mời và sẵn sàng đáp trả.
Như vậy, cái vòng luẩn quẩn của xã hội thông thường bị phá đổ hoàn toàn, người ta không còn đối xử với nhau theo kiểu "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", nay tôi mời anh, mai anh mời tôi, nhưng đặt trên tương giao mới là tình yêu, là kính trọng. Sự thay đỗi này thật lớn lao: bởi vì mời dự tiệc không chỉ có nghĩa là phân phát lương thực cho những người khốn cùng, nhưng còn là công nhận, còn thăng tiến phẩm giá của họ.
Ðây chính là điều làm cho Nước Thiên Chúa có được chiều kích lớn rộng bởi vì chẳng có giới hạn nào cả. Bất cứ ai cũng được mời tham dự và được mời cách nhưng không. Người được mời tức là được Thiên Chúa công nhận có quyền tham dự vào vương quốc của Người. Ðó là hồng ân vô thường của Thiên Chúa: Người muốn đưa họ vượt qua những yếu đuối, những lầm lỗi của mình để bước vào đời sống mới. Và dự tiệc cũng có nghĩa là được công nhận, được đổng bàn với Thiên Chúa. Thật là điều cao quý.
Thánh lễ, bàn tiệc của Thiên Chúa
Cho đến ngày nay, thánh lễ của Giáo Hội vẫn tôn trọng hai điều kiện này. Thánh lễ là bàn tiệc do Thiên Chúa khoản đãi và mọi người đều có quyền tham dự, bất kể tuỗi tác, màu da, trình độ văn hoá. Ðức Giêsu đã chịu chết để cứu độ mọi người, và hy lễ đó vẫn được dâng lên để quy tụ về một mối những con người ở các thời đại khác nhau. Thánh lễ là một sự hạ mình của Thiên Chúa để đưa con người lên, là một hiến lễ dưới hình thức một bữa ăn mở rộng cho tất cả. Thánh lễ không còn là bữa tiệc trần gian, nhưng cũng chưa phải là bàn tiệc thiên quốc. Ðây mới chỉ là khai mào, là bước khởi đầu. Tuy thế, ai từ chối tham dự vào bàn tiệc này cũng là từ khước lời mời của Thiên Chúa và như vậy, khó có thể được tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu.
Mỗi ngày Chúa nhật, tín hữu chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ là sống lại hy lễ của Ðức Ki-tô. Bàn tiệc này không chỉ đóng khung trong số những người quen biết, những bạn hữu, nhưng phải mở rộng cho mọi người. Ðiều này đòi chúng ta phải khiêm tốn, phải nhẫn nại: người giàu kẻ nghèo đều bình đẳng trước Thiên Chúa, cùng cử hành hy lễ của Ðức Ki-tô, cùng đón nhận lương thực như nhau là Mình và Máu Người. Những người được mời có thể từ chối, nhưng phần chúng ta, chúng ta không được quyền không mời họ. Ngày xưa, vào thời gian đầu, Thánh Thể được lưu trữ trong Nhà Tạm là để dành cho các anh chị em vắng mặt.
Như vậy, ngay từ hôm nay, Thiên Chúa đã mở tiệc Thánh Thể. Người mời mọi người đến tham dự mỗi ngày, và sau này để tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu. Trong bàn tiệc của Thiên Chúa, mọi người đều có chỗ, không còn kể chỗ đầu hay chỗ cuối, nhưng tất cả đều được no thoả.
* * *
Lạy Chúa,
xin ngự đến trong con,
để chỉ còn là Chúa,
chứ không phải con nữa.
Ước chi con được nên trong sáng
nhờ sự hiện diện và tình yêu của Chúa,
và con trở thành chứng nhân.
Xin thứ tha
biết bao tính toán, bao ngại ngần, bao lười biếng
và khước từ yêu thương.
Xin giúp con
biết đem mọi khả năng
làm tất cả những gì Chúa muốn,
nhờ biết sử dụng mọi điều Chúa ban,
mọi điều Chúa làm trong con.
Xin cho con luôn biết cảm tạ
vì bao ân sủng và thương mến Chúa dành cho.
(theo Claude)
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có một hạng người hay bị Chúa Giêsu chiếu cố, có khi khiển trách nặng lời, đó là những người Pha-ri-sêu. Phải công bằng nhìn nhận rằng: những người Pha-ri-sêu có nhiều cái hay, nhưng đồng thời cũng có nhiều cái dở. Một trong những cái dở đó là giả hình và kiêu ngạo. Họ tự cho mình là hơn người, nên hay tìm chỗ nhất và ghế danh dự trong hội đường hoặc nơi phòng tiệc, và thích được bái chào nơi phố xá. Chúa Giêsu thấy đó là một thái độ cần sửa chữa nên Ngài đưa ra một lời khuyên: khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào chỗ nhất, vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thật ra, trong Cựu Ước cũng đã có những lời khuyên tương tự: “Trước mặt vua, con chớ vênh váo và đừng ngồi chỗ của kẻ quyền cao”, “Hãy ngồi dưới hai hoặc ba chỗ, để thà người ta mời mình lên hơn là bị mời xuống”, và các kinh sư cũng thường dạy: “Tôi nâng mình lên là tôi tự hạ mình xuống, và hạ mình xuống là nâng lên”. Những lời trên đây chúng ta thấy rất gần với lời Chúa dạy hôm nay.
Như vậy, có phải Chúa Giêsu dạy chúng ta một tiểu xảo, một mánh lới không? giả vờ hạ mình xuống để được nâng lên, giả vờ ngồi chỗ cuối, chỗ dưới để được mời lên trên? Chúng ta có thể trả lời ngay: chắc chắn là không. Chúa không dạy chúng ta một tiểu xảo, bởi vì nếu Chúa có ý như vậy thì Ngài đã làm ngược lại chính chủ trương của Ngài. Ngài không dạy chúng ta hạ mình xuống với hậu ý là để được cất nhắc lên, và ai có dụng tâm hay ý đồ như vậy, thì là kẻ háo danh chứ không còn phải là người khiêm nhường nữa.
Hạ mình xuống không phải là một tiểu xảo, một mánh lới mà là chân thành nhìn nhận giá trị thực sự của mình. Nói rõ hơn, hạ mình xuống là khiêm nhường, mà khiêm nhường thực sự là biết mình, biết sự thật về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Chúng ta có biết mình thực sự không? Khó lắm, bởi vì tự ái, kiêu căng, ích kỷ dễ làm chúng ta phán đoán, suy nghĩ, nhận định lệch lạc. Chúng ta hay có khuynh hướng phóng đại: phóng đại những cái tốt, cái hay của mình và phóng đại những cái xấu, cái dở của người khác. Vì thế, hạ mình xuống là sửa lại những phóng đại lệch lạc cho đúng sự thật, đúng với chân giá trị của mình.
Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mẽ cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình, đó là kiêu ngạo hạng nặng.
Kinh nghiệm cũng dạy: khước từ một lời khen thì rất dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê lại rất khó; phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì rất dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán lại rất khó. Giả sử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta hỉnh mũi và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? rõ ràng “cái tôi” của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ “cái tôi” của mình. “Cái tôi” có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.
Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Tập luyện bằng cách nào và thế nào? Trước hết là phải cầu nguyện, bởi vì trong những giây phút thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta sẽ suy nghĩ lại, và nhất là sẽ được ơn Chúa soi sáng để biết rõ chính mình và biết mình làm việc, hành động, đối xử vì tình yêu Chúa hay vì những lý do gì khác như ích kỷ, danh vọng, khoe khoang. Rồi trong thực tế quan hệ với nhau, chúng ta phải tránh đừng bao giờ nói về mình hay so sánh mình với người khác, cũng đừng bao giờ khinh thường, chê bai, nói hành, nói xấu người khác… Tất cả những điều đó đều là “sản phẩm” của khoe khoang và kiêu ngạo. Vì thế, khi cảm thấy bị cám dỗ so sánh mình với người khác hoặc muốn chê bai, nói hành người khác, thì chúng ta hãy làm ngược lại, là chân thành cố gắng tìm hiểu họ, thông cảm với họ, đánh giá cao những tài năng hay những thành quả của họ. Chúng ta hãy tập nói những lời khen và chia vui với những thành công của người khác.
Tóm lại, thái độ kiêu xa, cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu, xa tránh. Trái lại, ai cũng mến yêu những người khiêm nhu, từ tốn. Vậy chúng ta hãy cố gắng loại bỏ tất cả những gì là kiêu xa, cao ngạo và phát triển những gì khiêm nhu, từ tốn.
-------------------------------
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người luôn thích làm lớn,
muốn làm lớn để thỏa mãn lòng tự cao tự đại của mình. Lịch sử đã ghi lại đày dẫy những con người mang bệnh 'muốn làm lớn', muốn trở thành 'mặt trời' để kẻ khác xoay chung quanh:
1/ Vua Babyon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao Phùng, nơi bồng lai cực bắc. Ta sẽ lên chót vót tầng mây, ta sẽ đồng hàng với Thượng Đế” (Is 14:13-14)
2/ César, khi chưa lên ngôi hoàng đế La-mã, đã nói 1 câu trở thành phần nào kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số 1 ở 1 làng nhỏ hẻo lánh bên xứ Gaule, còn hơn làm số 11 ở kinh đô La-mã!”. Cha ông Việt Nam xưa thì nói: “thà làm đầu chuột hơn là đuôi voi”.
3/ Và hiện nay, hàng năm trên thế giới có xuất bản cuốn “Guiness”, sách ghi các kỷ lục thế giới, chẳng hạn: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất..., nghĩa là chỉ những ai số 1 ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn Guiness này, nhiều người đã cố gắng lập những kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Ví dụ: có người đã ra sức phá 1 hơi 2 cái đàn pianô trong vòng 5 phút! Dhanajay Kurksai, người Ấn, được mệnh danh là nhà quán quân của những kỷ lục kỳ cục như sau: năm 1981, anh đứng một chân liền một mạch 35 giờ đồng hồ; năm 1981: đi giật lùi một mạch 65 cây số; năm 1982: nhảy lò cò được 10 giờ 10 phút và nói liền 1 mạch không nghỉ 15 tiếng đồng hồ; tháng 10/1987: nuốt hết 2 kg 600 thủy tinh...
Tham vọng ở trên muôn người đã đẩy nhân loại vào biết bao những thị phi đắng cay. Một ông vua tham vọng bành trướng sẽ phát động chiến tranh. Một thương gia tham vọng giầu có sẽ tìm cách loại trừ người khác. Một ca sĩ, một nghệ sĩ... muốn mình nổi trội thường nói xấu, chê bai lẫn nhau. Một người đàn ông tính gia trưởng luôn nạt nộ vợ con để được “ăn trên ngồi trốc” mọi người. Một người phụ nữ lấn quyền thường hay “mắng con chửi chó suốt ngày”...
Xem ra ở đâu còn có người đầy tham vọng quyền bính thì ở đó vẫn còn những thị phi đắng cay. Ở đâu còn có người thích trưởng giả ở đó còn đó những bất công. Ở đâu còn có người thích “ăn trên ngồi trốc” ở đó vẫn còn những người thích đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Chúa Giêsu khi đến trần gian đã không ngần ngại sống một cuộc sống nghèo nàn như bao người. Ngài đến không để phục vụ mà tìm đến mọi người để phục vụ họ trong yêu thương. Ngài không tìm chốn cung điện nguy nga để dùng tiệc mà đi đến những mảnh đời bất hạnh để chia sẻ cho họ cái bánh, con cá mộc mạc nhưng đầy tình người. Ngài đã cúi mình thẳm sâu để phục vụ như người tôi tớ rửa chân cho ông chủ. Ngài đã hy sinh kể cả tính mạng để mạng lại niềm vui hạnh phúc cho nhân gian.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Xin cho chúng ta biết học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu cùng nhau góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.
-------------------------------
Kính thưa cộng đoàn,
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh sử Luca đã thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà của trưởng nhóm nhóm Pha-ri-sêu. Qua cách ứng xử của Chúa, Chúa đã cho chúng ta nhận ra một thực tại, một căn bệnh trầm kha của con người trần thế đó là ham danh vọng, hay tự mãn cho mình hơn kẻ khác, đồng thời Chúa cũng dậy chúng ta phải có lòng bác ái, vị tha đừng vụ lợi ăn miếng trả miếng. Hãy cho đi mà không cần đáp trả vì chính Chúa sẽ trả công cho chúng ta.
Trong bữa tiệc, Chúa quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông ta, ngồi vào cỗ nhất hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ ông giúp cho một việc nào đó. Nhưng với Đức Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
Lạy Chúa Giêsu, xưa đi dự buổi tiệc, Chúa đã nhận thấy một thói xấu vẫn thường có nơi những người biệt phái là chọn ngồi chỗ nhất. Ngày nay, vẫn còn đó biết bao người vẫn ham tìm danh vọng, chức quyền bằng mọi cách, mọi thủ đọan; vẫn còn đó sự kiêu ngạo, ai cũng muốn mình trổi vượt hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn người khác. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách để chà đạp người khác.
Để được vào nước trời, Chúa muốn chúng con sống khiêm nhường, bái ái với tha nhân, nhưng lạy Chúa điều đó thật khó để chúng con có thể thực hiện được khi chúng con vẫn còn mang trong mình sự ích kỷ, lòng tham, ham danh và kiêu căng.
Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Dụ ngôn được đem ra dạy dỗ không chỉ đơn thuần là một quy luật xã giao, một thứ lịch sự phải có khi giao tế, mời mọc kẻ khác, nhưng Chúa cho thấy đây cũng là quy luật sống trong Nước Thiên Chúa. Ngày phán xét chung, Thiên Chúa sẽ hạ những kẻ kiêu căng xuống. Đừng ai nghĩ rằng trước mặt Chúa mình là thế này thế khác để đòi ân huệ. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không. Nhưng Thiên Chúa ban cho kẻ khiêm nhường và chống lại người kiêu hãnh: một cô gái nghèo nàn như Ma-ri-a đã trở thành nhân vật cao trọng trước mặt mọi người: “Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn nữ tỳ Chúa”; còn người muốn tham vọng bằng Thiên Chúa như E-và, đã thấy mình trơ trọi, bị đuổi khỏi địa đàng. Tại buổi tiệc năm xưa, Chúa đã nhắc nhớ những người biệt phái cần biết điều đó, đừng kiêu hãnh vì dòng tộc Do-thái, vì giữ một số luật lệ, rồi cho đó là công chính và khinh chê những kẻ khác. Ngày nay, Chúa cũng muốn nhắc nhở mỗi người chúng con đừng bao giờ cho mình là đạo đức, tài giỏi, giàu có hơn người…để từ đó dễ sinh ra kiêu căng, khinh dể, coi thường người khác.
Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường (Mt 11, 29). Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quí và bền vững. Vì Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm nhường phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quí. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống khiêm nhường, biết quên mình, sống tự hạ tự hủy mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa!
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống vô vị lợi, sống bác ái, sống hiến dâng mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa! Amen.
-------------------------------
- Lm. Hồ Bặc Xái
A. Khám phá sứ điệp Lời Chúa hôm nay
Sứ điệp nổi rõ nhất qua Bài đọc I, đáp ca và bài Tin Mừng là Khuyến khích sống Khiêm hạ.
- Bài đọc I chứa đựng những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.
- Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ vinh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
B. Tìm hiểu sứ điệp
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
- Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
- Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: Chúa Giêsu lấy việc mời khách dự tiệc làm thí dụ:
- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (xem 2Sm 5,8; Lv 21,18).
- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là Đấng chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a)
Tác giả thư Do thái khích lệ các kitô hữu gốc do thái đang gặp khó khăn: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
C. Rao giảng sứ điệp
I. GỢI Ý GIẢNG
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
1. Vinh dự trong cuộc sống:
- Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó vinh dự hơn (tiếng “chủ tịch”nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi”là vinh dự.
- Những người tự chọn chỗ vinh dự nghĩa là tự tô vẽ vinh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, vinh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ vinh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống”ở thể thụ động, một kiểu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ vinh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Vinh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Rất nhiều thí dụ trong Thánh Kinh: Abel và Cain; Giacóp và Êsau; Giuse và các anh; Đavít và các anh; Đức Maria v.v)
2. Đền đáp trong cuộc sống:
- Nhiều người mong sự đền đáp nơi người ta. Vì thế họ làm gì cũng theo óc tính toán: “do ut dat”(tôi cho nó để nó cho tôi). Nhưng mong đợi như thế chưa chắc là sẽ được thỏa mãn, bởi vì có khi người ta không đền đáp cân xứng với mong đợi của mình, thậm chí có khi người ta còn không nhớ ơn để mà đền đáp. Và cho dù người ta có đền đáp thì cái mà người ta đền đáp cũng chỉ có giá trị tạm bợ ở đời này.
- Chúa Giêsu dạy chúng ta khôn ngoan hơn, đừng chờ mong sự đền đáp của người ta, mà hãy nghĩ tới sự đền đáp của Thiên Chúa. Một mặt, Thiên Chúa không bao giờ quên những việc lành chúng ta làm; mặt khác Chúa mà đền đáp thì dĩ nhiên sự đền đáp ấy chẳng những cân xứng mà còn bội hậu.
- Chúa còn hứa rằng khi ta làm một việc tốt cho những người không có khả năng đền đáp thì chính Chúa sẽ thay họ đền đáp cho chúng ta. Những người không có khả năng đền đáp là “những người tàn tật, què quặt và đui mù”, nói tóm lại là những người nghèo.
II. ĐỂ THAM KHẢO THÊM
1. Đức tin bị vỡ mộng (Bài đọc II – Thư Do thái)
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ Kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé (Viết theo Flor McCarthy).
2. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!”Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự (Sưu tầm).
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy hai đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
- Sao vậy?
- Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sẽ được cho lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng thêm một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
- Tin vui gì?
- Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
- Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
- Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo (Sưu tầm).
-------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa được nghe một đoạn Tin Mừng do thánh Luca thuật lại.
Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy mọi người chúng ta điều gì?
- Chúa dạy về sự khiêm nhường.
- Đúng như chưa đủ.
- Chúa dạy về cách sống ở đời!
- Rất chính xác! Đúng là muốn muốn dạy chúng ta về cách sống ở đời.
Để dạy về vấn đề này, Chúa đã dùng ngay hình ảnh một bữa tiệc mà Chúa được mời tham dự để cho những gì Chúa muốn nói trở nên cụ thể và dễ hiểu hơn.
Nhìn vào một bữa tiệc Chúa thấy người ta có những ứng xử khác nhau. Nhân cơ hội này Chúa đã đưa ra hai lời khuyên mà cha thấy lời khuyên nào cũng một bài học rất cụ thể và hữu ích cho mỗi người chúng ta nếu chúng ta muốn sống một cuộc đời thanh thản vui tươi, hạnh phúc và được mọi người nể phục kính trọng.
1. Lời khuyên thứ nhất:
"Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất.(Lc 14,8)
Tại sao thế? Thưa vì người Do thái ngày xưa cũng như nhiều người ngày nay thường làm khi được mời dự tiệc thì thường hay chọn cho mình một chỗ "nhất", chỗ danh dự để ngồi. Chọn như thế không phải vì chỗ đó có món ăn ngon hơn, nhưng là vì chỗ đó được quan tâm, được nhiều người để ý tới nhiều hơn. Những người tự chọn chỗ cho mình chỗ danh dự như thế thường là những người tự tô vẽ danh dự cho mình, muốn cho mọi người thấy mình là quan trọng nên buộc mọi người phải quan tâm để ý đến mình. Chúa thấy đây là những việc làm nhiều khi không đúng sự thật mà cái gì không đúng sự thật thì Chúa không thích, Chúa không muốn.
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này: Chuyện về một nhà văn Pháp tên là Alexandre Piron ông qua đời năm 1773. Khi còn sống, ông thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Boulogne giữa thủ đô Paris của nước Pháp. Một ngày kia, sau khi đi dạo, ông đến ngồi nghỉ trên một ghế đá, đàng sau ghế đá có một bức tường cao. Chỉ một lát sau, ông vô cùng ngạc nhiên vì trong đám người đang đi dạo qua đó, một vài người hướng về phía ông ngả mũ cúi chào; cũng có người còn bái gối nữa. Đoàn người tiếp tục đi và vẫn có người làm như vậy. Nhà văn cúi đầu đáp lễ. Ông không thể ngờ được rằng ông lại được nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến như thế. Ông thầm mong giả như lúc này mà các bạn bè trong văn giới chứng kiến được cảnh tượng này thì hay biết mấy. Nhà văn đang say sưa với bả vinh hoa đó thì chợt ông để ý thấy trong số những người đang bái chào ông, có một bà lão đã để lộ một thái độ khác thường. Cũng giống như những người khác, bà lão cúi chào rồi tiến lại gần chỗ ông hơn, rồi thầm thì điều gì đó ông nghe không rõ đoạn ngước mắt nhìn lên phía tường cao trên đầu ông. Ngạc nhiên trước cử chỉ đó, nhà văn ngoái lại phía sau cố nhìn lên phía trên... Thì ra những người đi dạo đó dừng lại không phải để tỏ lòng ngưỡng mộ ông, mà chỉ để tỏ lòng tôn kính, thờ lạy Chúa Giêsu trên thánh giá được treo trên bức tường đó. Hổ thẹn vì khám phá đó, Alexandre Piron vội vã đứng dậy đi nơi khác.
Hãy coi chừng chúng con! Nếu không cẩn trọng thì nhiều khi trong cuộc sống chúng ta cũng sẽ mắc vào tính kiêu ngạo như thế.
Cha kể cho chúng con thêm một câu chuyện nữa: Đây là câu chuyện do chính Đức thánh Giáo hoàng Gioan 23 kể. Ngài nói: Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng (để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ), tôi rất lo lắng và sợ hãi, trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng như vậy. Choàng tỉnh dậy, tôi ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Kể từ đó, tôi đã cố gắng áp dụng câu đó trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày: Đừng tự coi mình là quan trọng. Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng.
Còn tôi là ai trong cái thế giới bảy, tám tỷ người này. Ai cũng cho mình là quan trọng rồi, mà tôi còn muốn đòi mọi người phải coi mình là quan trọng nữa sao? Đừng tự coi mình là quan trọng, tệ hơn đừng tự coi mình quá quan trọng. Sồng như thế chúng ta mới có cuộc sống thanh thản và hạnh phúc.
2. Lời khuyên thứ hai:
"Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại".(Lc 14,12-14)
Đây quả là một lời khuyên rất khó thực hiện nhất là đối với hoàn cảnh ngày hôm nay. Quả là khó nhưng không phải là không có!
Ngày nay người ta thường dùng bữa nhậu để củng cố địa vị, mở rộng quan hệ làm ăn, gây thanh thế, mánh mung... Ai dại gì mà đãi những loại tứ cố vô thân, què quặt đui mù. Sống giữa cuộc sống hôm nay, hãy coi chừng kẻo chúng ta cũng bắt chước người khác sống theo phương châm có đi có lại, bỏ con tép bắt con tôm như thế...
Sống như thế thì có gì là tốt đẹp như ý Chúa muốn đâu. Trong Tin Mừng có lần Chúa bảo ngay cả những người bên lương, những người thu thuế, những người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?. Chúa muốn những người làm con cái Chúa phải có cuộc sống hoàn thiện hơn, vươn cao hơn cái tầm thường của cuộc sống thế gian.
Chúng ta phải cám ơn Chúa vì hôm nay khi nhìn vào cuộc sống thực tế, chúng ta không thể không vui mừng vì thấy chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người hằng ngày trong các cơ quan tổ chức bác ái xã hội của Giáo Hội đang sống đáp ứng lại lời khuyên của Chúa Giêsu một cách hế sức tốt đẹp. Chúng ta hãy đứa mắt nhìn đến những việc làm của cộng đoàn Nữ tử Bác ái của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta hằng ngày chăm lo cho những bữa cơm dành cho hàng ngàn ngàn những người nghèo. Hoặc những bữa cơm của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho những người vô gia cư thiếu thốn gần đây. Hay còn nhiều những việc làm âm thầm kín đáo khác của những anh chị em thiện nguyện đang chăm lo cho những người đói khổ thiếu thốn mà không cần ai biết tới!!!
Tất cả những việc làm như thế có phải là để đáp ứng lại lời khuyên của Chúa Giêsu hay không? Phải quá đi chứ! Tất cả là để chứng minh cho thế giới, một thế giới đang cằn cỗi vì thiếu tình thương biết rằng tình thương của Chúa vẫn còn ngự trị trên trái đất này để làm cho cuộc sống của con người trên hành tinh trái đất con người đang sống được tốt đẹp hơn.
Để kết thúc cha kể cho chúng con câu chuyện này. Đây là câu chuyện tưởng tượng nhưng đã được dựng thành phim: Truyện kể rằng một ký giả nọ được phép xuống hỏa ngục làm phóng sự. Anh đến hỏa ngục đúng giờ ăn trưa. Trên bàn đầy ắp món ăn cao lương mỹ vị, nhưng trông ai cũng ốm o, gầy gò, xanh xao như chết đói vậy. Anh ta rất thắc mắc, nhưng khi thấy họ ăn thì biết ngay. Ai cũng có một đôi đũa dài được gắn vào tay, họ không thể gắp thức ăn cho mình mà chỉ có thể gắp cho người khác. Nhưng ai cũng giành giật cố sao gắp bỏ vào miệng mình. Kết quả là đồ ăn đổ tung tóe, họ lấy đũa chọc nhau, đập nhau, và kết cục ai cũng bị đói hết. Anh ký giả hoảng quá vội bay lên Thiên đàng thì cũng đúng giờ ăn. Cũng đầy đồ ăn cao lương mỹ vị, ai cũng được gắn cho một đôi đũa dài vào tay, nhưng trông ai cũng béo tốt phương phi. Bắt đầu ăn, ai cũng cố gắng gắp thức ăn cho người bên cạnh, họ cười nói vui vẻ. Kết cục ai cũng được ăn no nê, thoải mái... Kết thúc bài phóng sự, anh ký giả viết: Ích kỷ chỉ lo cho mình và vị tha lo giúp đỡ người khác cách quảng đại, đó là điểm khác biệt giữa hỏa ngục và Thiên đàng.
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết sống khiêm nhường bác ái noi gương Chúa. Amen.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
-------------------------------
CHÚA NHỰT XXII THƯỜNG NIÊN
Năm C
"Xin ông hãy nhường chỗ"
(Lc 14,9)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.
- Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ danh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là "danh, lợi và thú". Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
- Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
- Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
- Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
- Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì "hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên".
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
- "Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui": ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ "người nghèo". Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8 ; Lv 21,18).
- "Họ không có gì đáp lễ": người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời ("ông sẽ được đáp lễ": thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
- Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng "chủ tịch" nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy "chỗ ngồi" là danh dự.
- Những người do thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống": Động từ "Bị hạ xuống" ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v.v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
- Người do thái làm theo óc tính toán: do ut dat. Cái lợi là được người ta đền đáp
- Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là "chỗ nhất" trên trời cao, nhưng lại chọn "chỗ cuối" dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là "tự nhận mình là không và Chúa là tất cả", nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta "đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại", thì chúng ta "mới thật có phúc", vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu "ăn miếng trả miếng". Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người" (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (TP)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp: trong cơ quan, trong trường học, trong hội đoàn v.v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản lý v.v.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế: có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề: "Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót". Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác ?
Sau đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ:
- Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
- Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
- Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người "tội lỗi" v.v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại ; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
5. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: "Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà !" Người chủ nhà nhanh trí đáp: "Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi". Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự ; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những cục vàng kia để làm gì thế ?
Thánh Phêrô giải thích:
- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
- Sao vậy ?
- Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: "Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả". Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
- Tin vui gì ?
- Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
- Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
- Nghĩa là anh nghèo chứ gì ! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu nói: / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
2. Con người vốn có rất nhiều tham vọng: / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
3. Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
4. Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
----------------------------------
TMĐP- Xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền lành, khiêm nhường như Chúa dạy, bằng học với Đức Mẹ, với các thánh nam nữ, và với tất cả những ai “hiền lành, khiêm nhường” sống bên cạnh chúng ta.
Tất cả các bài đọc phụng vụ của chúa nhật này đều quy về nhân đức khiêm nhường, được coi là nền tảng của các nhân đức.
Là nền tảng vì không khiêm nhường, sự thánh thiện sẽ được ví như người ta xây nhà trên cát, sóng biển ập vào, tất cả sẽ sụp đổ, tiêu tan.
Nhưng tại sao phải khiêm nhường?
Vì khiêm nhường làm đẹp lòng Chúa, như sách Huấn Ca đã quả quyết: “Càng làm lớn, còn càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi kẻ khiêm nhường”(Hc 3, 18-20). Trái lại, kiêu căng làm mất lòng Thiên Chúa, như Luxiphe đã “muốn bằng Thiên Chúa” và dấy binh chống lại Ngài, nên đã bị trục xuất ra khỏi Thiên Đàng và tống xuống hoả ngục; như Ađam, Evà đã “muốn biết những gì Thiên Chúa biết”(x. St 3,5) cũng đã bị đuổi khỏi địa đàng.
Vì khiêm nhường là đức tính của người khôn ngoan do biết mình có giới hạn, nên không tham vọng những điều qúa khó, những việc vượt sức mình (x. Hc 3, 21), nhưng cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa bằng “để tâm nghiên cứu các ẩn dụ và ao ước có tai thính để lắng nghe”(x. Hc 3,29). Với thái độ nhún nhường, đằm thắm, không huyênh hoang, kiêu hãnh ấy, người khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và được mọi người mến yêu (x. Hc 3, 17).
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ sự khôn ngoan của người khiêm nhường khi ân cần căn dặn: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”(Lc 14,8), nhưng “hãy ngồi vào chỗ cuối để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn”(Lc 14,10), hơn là để bị sượng sùng, bẽ mặt khi chủ nhà mời rời bỏ chỗ anh đã tự chọn, vì phải nhường chỗ cao ấy cho người quan trọng, quyền quý, thế giá hơn anh.
Lời căn dặn này không chỉ thuần túy là bài học lich sự, nhưng là đòi hỏi căn bản của người môn đệ Đức Giêsu, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường tận đáy lòng”(Mt 11,29); vì Ngài “đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2, 7); vì Ngài đến trong thế gian để trở nên tôi tớ phục vụ mọi người (x. Mt 20,28); vì Ngài đã khiêm hạ quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ (x. Ga 13,3-17); vì Ngài đã tự hạ làm kẻ có tội chịu hình phạt đóng đinh, “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mt 20,28).
Đòi hỏi căn bản ấy đặt nền móng trên sự chân nhận: tất cả những gì con người là, con người có đều đến từ Thiên Chúa, đều là hồng ân được ban từ lòng thương xót của Ngài. Chính Ngài mới là tác giả của mọi kỳ công, nguồn mạch mọi ơn phúc, Khởi Nguyên và Cùng Đích của mọi thụ tạo được Ngài dựng nên. Vì thế, kiêu căng là thái độ vô lý và lố bịch trước Thiên Chúa, và với anh em, chưa kể đó là điều Thiên Chúa gớm ghét, kinh tởm, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng thi ân cho kẻ khiêm nhường”(1P 5,5).
Noi gương Đức Maria đầy ơn phúc hơn mọi người nữ, vì Mẹ đã tin Thiên Chúa đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn của mình, và giơ tay biểu dương sức mạnh của lòng thương xót trên những ai khiêm nhu kính sợ Ngài (x. Lc 1, 48-50), và thánh Gioan Tẩy Giả, dù được mọi người tung hô vẫn một lòng khiêm nhường và một mực công bố trước đám đông say mê, thần tượng mình: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1,30), và “tôi không đáng cởi quai dép cho Người”(Ga 1,27), bởi “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”, “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30), chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ngày càng trở nên hiền lành, khiêm nhường hơn như Chúa dạy, bằng học với Đức Mẹ, với các thánh nam nữ, và với tất cả những ai “hiền lành, khiêm nhường” sống bên cạnh chúng ta đang làm chứng bằng đời sống khiêm nhu, nhân hậu của họ Đức Giêsu, Đấng đến trong thế gian như người tôi tớ khiêm hạ để yêu thương, phục vụ mọi người.
Jorathe Nắng Tím
---------------------------------------
(Suy niệm của Lm Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Hai tư cách được đề cập tới xoay quanh một bàn tiệc đã vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay TN 22-C129
Hai tư cách được đề cập tới xoay quanh một bàn tiệc đã vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay. Tư cách một, là khi bạn là “khách” đi dự tiệc, thì bạn phải làm sao. Tư cách hai, bạn là “chủ”: khi bạn đãi tiệc ai, bạn phải mời những người nào… Mỗi tư cách có một lời nhắn nhủ riêng của Chúa cho họ. Tôi không gặp thấy một điểm chung nào Chúa muốn nói với, cho cả chủ mời lẫn khách dự tiệc. Vì thế tôi không chọn lời, mà chọn một chữ chung cho cả khách lẫn chủ trong bữa tiệc, là chữ “ăn” để xây dựng cho bài giảng hôm nay.
1. Tầm quan trong của “ăn” trong hành vi và lời dạy của Chúa
2. Bên kia chữ ăn (Beyond eating).
***
1. Tầm quan trọng của "ăn" trong hành vi và lời dạy của Chúa
- Hành vi: Trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Ngài liên quan đến cái ăn: Ngài đi ăn cưới tại Cana. Ngài ăn tiệc do những người biệt phái khoản đãi, mà bài Tin Mừng hôm nay là bữa tiệc do chính thủ lãnh nhóm Pharisêu mời đến. Ngài chia sẻ thân mật với bữa cơm gia đình của ba chị em Mattha, Maria và Lazarô, mà ở đó Matta rối ríu với món gỏi này, món nộm kia, còn Maria khôn ranh ngồi nghe lời Ngài. Ngài lại ngồi ăn ngồi uống đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi. Rồi cả sau khi sống lại, Ngài cũng hiện ra trong lúc ăn uống. Luca ghi: “Đang khi các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: ‘Ở đây anh em có gì ăn không?’ Họ đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24, 41-43). Nhưng quan trọng hơn cả đó là Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ tại nhà Tiệc Ly. Và khi sống lại, 2 môn đồ trên đường Emmau nhận diện được Chúa cũng là qua bữa ăn: Khi đồng bàn với họ (chứ không phải khi cầu nguyện với họ), mắt họ mở ra (Lc 24,31) (làm như thấy đồ ăn thì sáng mắt ra!).
Chúa Giêsu thường bị những người biệt phái và luật sĩ bắt gặp trong các bữa ăn, đến độ những người biệt phái gọi Ngài là một tên "mê ăn uống," nhậu nhẹt say sưa. Chúa Giêsu có lần nói "Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: `Ông ta bị quỷ ám.' Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: `Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi (Lc 7:34).
- Lời dạy: Nhưng bữa ăn quan trọng và ý nghĩa đến độ Chúa Giêsu đã lấy đó làm một trong những đề tài chủ yếu trong những lời rao giảng của Ngài. Có biết bao nhiêu lần Chúa Glêsu đã ví Nước Trời như một bữa tiệc, và như bữa tiệc cưới. Nước Trời là một tiệc cưới, trong đó Thiên Chúa mời gọi mọi người đến dự tiệc, không trừ một ai. Vậy trong hành vi và trong ngôn từ, Chúa Giêsu gắn bó với chữ ăn, với bữa tiệc khá đậm đà khiến ta phải suy nghĩ về tầm quan trọng của nó.
Nếu Đức Giêsu là người Việt-Nam, giảng bằng tiếng Việt, thì chắc hẳn Ngài còn sử dụng nhuần nhuyễn chữ “ăn” này trong nhiều lãnh vực khác nữa.
Có lẽ không có ngôn ngữ nào trên thế giới này mà chữ ăn xâm nhập vào đủ các góc cạnh của cuộc sống như ngôn ngữ Việt.
- Không có một động tác nhai nào mà vẫn cứ gọi là ăn: Nào là ăn gian, ăn bám, ăn quỵt, ăn đứt, ăn hiếp, ăn thua, rồi lại ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm (trộm đồng hồ chứ đâu phải ổ bánh đâu, vậy mà cứ ăn thôi: ăn trộm).
- Hoà hợp với nhau thì có ăn khớp, ăn nhịp, ăn jeu và ăn ý. Động tác hoà hợp vợ chồng cũng không vắng được chữ ăn: ăn nằm, ăn ở, ăn đời ở kiếp.
- Cái không ăn được, vẫn cứ ăn: ăn ảnh, ăn khách, ăn tiền: “ông ấy ăn tiền dữ lắm”.
- Cái không được ăn, vẫn gọi là ăn: ăn chay. Chữ ăn chay này làm tôi nhớ lại thủa nhỏ khi nghe người lớn nói, hôm nay ăn chay đó, cũng đòi mẹ cho mình ăn chay nữa. Thấy ăn là đòi của con nít, chứ đâu hiểu ăn chay là không ăn. (Déjeuner. Breakfast: ăn sáng là phá chay).
- Chắc Chúa Giêsu người Việt sẽ dạy chúng ta một từ “ăn” hơi xưa một chút, nhưng vẫn còn hiểu được: ăn lời. Con cái không ăn lời cha mẹ, con cái hư; các ngươi không ăn lời Ta (nghe và giữ lời Ta) sẽ không được vào Nước Trời. “Không phải cứ nói lạy Chúa lạy Chúa là được vào nước Trời, nhưng…”
- Và dĩ nhiên, Chúa Giêsu người Việt sẽ luôn nhắc nhở chúng ta ăn… ăn-năn. Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần.
Ta đang trong mục tìm hiểu về tầm quan trọng của chữ ăn trong hành vi và tư tưởng của Chúa Giêsu. Ta cũng tưởng tượng nếu Ngài giáng sinh trên đất Việt, con của đức nữ trinh Nguyễn thị Mít thì ắt hẳn Ngài sẽ dùng chữ "ăn" nhiều hơn nữa trong lời giảng với đầy đủ các góc cạnh ý nghĩa khác nhau của nó. Và Ngài, Đức Giêsu người Việt sẽ dự nhiều bữa ăn hơn nữa, như người ta vẫn thường đồn thổi: người Việt gặp nhau là mời nhau đi ăn cái đã.
Chúa Giêsu, tuy không là người Việt, nhưng rất coi trọng bữa ăn, như chúng ta đã kể sơ qua trên kia. Ngài rất nhiều lần ví nước Trời như bữa ăn, -mà bữa ăn lớn cơ- tức là bữa tiệc. Không phải tiệc trang trọng hội nghị khuôn phép, mà là tiệc hân hoan vui mừng: tiệc cưới. Nước Trời ví như nhà vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử… Nước Trời ví như 10 nàng trinh nữ đi đón chàng rể, chứ không phải đón chủ tịch, đón tổng thống. Đón chàng rể là có ăn, có tiệc…
Chính Ngài đã làm một hành vi để đời, là lập bí tích Thánh-Thể trong bữa ăn, chứ không phải trên núi cao khi cầu nguyện, trong đền thờ lúc dâng hương. Và chính bí tích Thánh Thể lại là một bữa ăn. “Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống.” “Ai ăn… sẽ được sống đời đời.”
Vì Chúa Giêsu đề cao bữa ăn trong hành vi và lời dạy của Ngài, nên chắc hẳn Ngài có ý gì đó chứ, chứ không phải Ngài chủ trương sống để ăn đâu. Ăn để sống thì có thể. Và thế là ta qua phần 2: Cái bên kia của bữa ăn (beyond eating).
2. Bên kia chữ ăn
Chúa muốn dạy gì khi Chúa đề cập nhiều đến chữ ăn, đến bữa tiệc. Bài Tin Mừng hôm nay hé cho ta một lời đáp: Chia sẻ. Ngài muốn dạy: hãy chia sẻ. Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14).
Chúa lập bí tích Thánh Thể không phải để cho ta thờ lạy đâu. Quỳ sốt sắng hát thờ lạy Chúa, thờ lạy Chúa… không phải là lý hiện hữu của Mình Thánh Chúa. Chúa lập bí tích này trong bữa ăn, và chính bản thân bí tích là một bữa ăn, là để “chia sẻ.” Ngôn ngữ phụng vụ thủa ban đầu thay vì gọi thánh lễ, là gọi đích danh tên thực của nó: lễ bẻ bánh. Không phải tấm bánh nguyên, mà là bẻ ra. Bẻ ra để chia, chứ không phải bẻ ra cho nhỏ để dễ nuốt. Đại Hội Thánh Thể Quốc tế tổ chức tại Lộ Đức năm nào có đề tài thật thích hợp: Tấm bánh Bẻ ra. Người cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: tất cả hãy cầm lấy mà ăn…Bẻ ra tức là chia sẻ, chứ không phải để nguyên giữ cho riêng mình. Có nhiều hình thức để bẻ ra chia sẻ và cũng có nhiều cái khác-cái-ăn để sẻ chia.
Tạm kết ở đây:
Chúa ăn nhiều và nói nhiều về ăn. Không phải là Chúa tham ăn hay là tay sành điệu về các món nhậu. Ngài muốn dạy một điều: ăn là cái dễ chia sẻ hơn cả. Quần áo, có thể vừa hoặc không. Điện thoại di động chia cho ai mà họ không biết dùng thì cũng như không. Riêng ăn, thì dễ chia sẻ nhất, nhất là khi người ta đói. Đói, ăn gì cũng ngon. Thánh lễ là một bữa ăn. Nếu ta không có tinh thàn chia sẻ, thì việc ăn Mình Thánh Chúa quả là một xúc phạm, vì Ngài không còn là tấm bánh bẻ ra chia cho mọi người. Thánh Phaolô cũng nói mạnh hơn thế trong thư 1Cr 11: Ăn mà không biết sẻ chia, là ăn lấy án phạt!
Hãy có tấm lòng biết chia sẻ.
-----------------------------
Đọc thêm:
1. Carlos là đứa trẻ đường phố thuộc khu ngoại ô vòng đai của Manila. Tuổi thơ đã để lại trên bé nhiều vết sẹo chìm, lắm vết thương lòng không sao chữa lành được. Nhưng linh mục coi xứ gần đó lại thường thấy cậu ở trong nhà thờ, nên ông rất thán phục đức tin can trường của cậu bé. Một ngày kia, trong khi ngồi toà giải tội –loại toà hộp, rất kín đáo- vị linh mục thấy cậu bé Carlos này rút một cọng cây lau nơi chổi quét nhà thờ. Cậu ép một miếng kẹo cao su đã dùng nơi một đầu của cọng lau và rồi nhét cọng lau với đầu có kẹo cao su dính đó vào khe thùng tiền của kẻ khó, gọi là poor box. Cậu vất vả kéo ra từng tờ giấy bạc, từng đồng tiền kẽm. Rồi cẩn thận, cậu trả cọng lau về với cái chổi và bước nhanh ra khỏi nhà thờ. Vị linh mục quyết định đi theo xa xa. Ông thấy cậu dừng chân tại quầy bán bánh, mua một bao to bánh mì nóng hổi và đi thẳng tới một nơi các trẻ em đường phố khác đang tụ họp tại đó. Các em cầu nguyện và ăn tất cả những chiếc bánh đó. Một buổi họp mặt thật hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện là: vị linh mục đó, quyết định gia nhập vào nhóm trẻ bụi đời này.
2. Bữa ăn mang ý nghĩa chia sẻ. Nhưng nếu không sẻ chia được bữa ăn vì chưa đủ hoàn cảnh, thì ta cũng có thể sẻ chia những thứ khác. Các bạn trẻ đây có thể chia sẻ tri thức, chia sẻ học vấn, chỉ vẽ cho nhau, giúp đỡ giới thiệu nhau tìm việc làm… tất cả đều là ý nghĩa bên kia của bữa ăn. Riêng cái này, các bạn có thể và làm ngay được là chia sẻ niềm vui, chia sẻ nụ cười cho nhau. Ăn nơi cái miệng, và nụ cười cũng nơi cái miệng, cửa môi:
3. Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc. Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp kia hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống vui tươi, hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Vậy là bạn không thể thoái thác vì nói rằng mình không đẹp để cười, hoặc cười không được đẹp. Hãy cứ chia sẻ niềm vui, bạn sẽ có niềm vui.
--------------------------------
– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Web
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái TN 22-C130
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu nữ đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếu nữ xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu là một thầy dạy rất bén nhạy. Ngài nắm lấy một cơ hội, một thắc mắc, một biến cố TN 22-C131
Chúa Giêsu là một thầy dạy rất bén nhạy. Ngài nắm lấy một cơ hội, một thắc mắc, một biến cố và biến nó thành một bài học.
Hôm nay, Ngài dạy chúng ta một bài học khiêm nhượng khi vào nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu dự tiệc.
Đây là một chuyện thực tế đã trở thành một bài học quí báu. Ngài thấy những khách mời tranh nhau tìm ngồi vào chỗ nhất, từ đó Ngài đưa ra một bài học thực tế là đừng tìm chỗ nhất kẻo rủi ro bị mời vào chỗ rốt hết. Tìm chỗ rốt hết, không phải là tìm cách để được mời vào chỗ nhất, như thế là một thứ giả hình, nhưng là ẩn mình trong sự nhỏ bé của mình.
Trong sách Tin Mừng, chỉ một lần duy nhất, Chúa Giêsu bảo chúng ta học với Ngài: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Hiền lành và khiêm nhượng là hai chị em sinh đôi, không bao giờ rời nhau. Con người hiền lành mới khiêm tốn và con người khiêm tốn mới hiền lành.
Đức khiêm nhường là một bông hoa nhỏ nhưng quí hiếm vì rất khó tìm thấy nó trong xã hội loài người. Trong xã hội nào cũng vậy, người ta thường tìm thấy những thói kiêu căng, tự mãn, ý muốn thống trị, khoe khoang… và không mấy khi tìm thấy sự khiêm tốn. Người đời luôn tìm cách đè đầu thiên hạ, đòi ưu tiên cho bản thân mình, đè bẹp những người chung quanh. Không có mấy người âm thầm phục vụ.
Chúa Giêsu bảo chúng ta học với Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhượng”, vì chính Ngài là sự khiêm nhượng tự bản thể. Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã từ bỏ mọi vinh quang, “hạ mình, mang lấy thân phận tôi hèn, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Thánh Phaolô đã vẽ ra khuôn mặt của Ngài trong mấy câu ngắn ngủi đó, và chúng ta, nếu là môn đệ Ngài sẽ không thôi nhìn ngắm và học với Ngài.
Nếp sống của Ngài cho chúng ta thấy rằng, Ngài là sự khiêm nhường đích thực. Ngài là Tình Yêu, và tình yêu luôn là khiêm tốn. Những người đã kinh nghiệm tình yêu thực sự hiểu được điều này, “Yêu là nghèo nàn, lệ thuộc và khiêm tốn”. Người yêu nói với người yêu: “Em là niềm vui của anh” phải chăng là thú nhận sự nghèo nàn của mình, vì không có em anh không thể nào vui được trọn vẹn”. Hay nói: “Em là tất cả của anh”, phải chăng anh không là gì cả, nếu không có em”. (Cha Varillon)
Chúa Giêsu là tình yêu, vì thế Ngài tìm thấy ý nghĩa của đời Ngài nơi chúng ta, những tạo vật hèn mọn của Ngài. Ngài là Tình Yêu trọn vẹn, vì thế Ngài khiêm tốn đến mức độ tối đa. Nếu chúng ta không hiểu được tình yêu, chúng ta cũng không thể hiểu sự khiêm nhường là gì. Nhiều người không biết yêu thương là gì, vì họ không bao giờ biết mình nghèo nàn và lệ thuộc. Họ sẽ thất bại trong tình yêu. Tình yêu của họ chỉ là ngoài môi miệng.
Bài học khiêm nhường của Chúa Giêsu, xem ra không khó nhưng lại là một bài học khó nuốt hơn hết. Vì thế chúng ta không mấy khi thấy sự khiêm nhường nơi những người sống quanh ta. Ngay cả trong Giáo hội, khiêm nhường cũng rất hiếm. Sự kiêu căng thì đầy dẫy khắp nơi. Nó luồn lách trong tất cả mọi sinh hoạt của Giáo hội, nó ngụy trang dưới những hình thức đạo đức và khi nó bùng phát thì như một căn bệnh nan y. Chính những người kiêu căng lại không bao giờ nhìn nhận mình kiêu căng và cũng không biết mình kiêu căng, và ngược lại tưởng mình khiêm nhường, nhất là nơi những người nắm quyền lãnh đạo.
Chúng ta cần nhìn ngắm Chúa Giêsu khiêm nhường, lắng nghe lời Ngài, là mẫu gương tuyệt đối cho chúng ta, để học với Ngài, sống như Ngài. Chính nhờ sự khiêm tốn của Ngài, chúng ta mới được cứu thoát. Ngài nói rõ mà không sợ nói dối: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Nếu lời nói và cuộc sống của Ngài không đi đôi với nhau thì Ngài chính là một tên lừa bịp. Nhưng chúng ta thấy, nơi Ngài, lời nói và hành động là một. Nơi khác Ngài nói với các môn đệ: “Ở giữa chúng con Thầy là người tôi tớ”. Nếu Ngài nói mà không làm thì các môn đệ làm sao tin Ngài? Ngài làm tôi tớ không những cho các môn đệ mà cho mọi người. Ngài chữa bệnh cho biết bao nhiêu người bệnh hoạn tật nguyền. Phải chăng đó chính là một hành động phục vụ trong khiêm tốn? Chữa bệnh như Ngài là một điều khiến mọi người sửng sốt kinh ngạc, thế nhưng Ngài không để ý đến những lời ca tụng người ta dành cho Ngài. Ngài chỉ biết phục vụ. Hành động khiêm tốn nổi bậc nhất của Ngài là khi Ngài quì gối rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em hãy rửa chân cho nhau”. Một bài học đáng giá cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta! Một bài học khiêm nhượng thẩm sâu. Bài học thâm thúy hơn nữa chính là cái chết tự nguyện cho con người, chết một cách nhục nhã không thể nói được, đau thương đến tột cùng, trần trụi, xấu hổ. Cha Huvelin đã nói về Ngài bằng một câu rất chính xác: “Chúa Giêsu đã chọn chỗ rốt hết đến nỗi không ai dành được chỗ đó của Ngài”.
Khiêm tốn là một trạng thái của tâm hồn, nhìn nhận thân phận nhỏ bé bọt bèo của mình và chỉ tin cậy vào một mình Chúa thôi. “Anh em có gì mà anh em không nhận lãnh?” Thánh Phaolô đã nói như thế. Người khiêm tốn tự nhận mình hoàn toàn là hư không, nếu có được gì là do hồng ân của Chúa thôi.
Một tác giả đã nói: “Phải thật nhiều nhục nhã mới có được một chút khiêm nhượng”. Con người luôn mang trong mình một mầm mống kiêu căng, và cũng vì kiêu căng, con người trở thành tàn ác man rợ. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải đi con đường tự hạ của Thầy Chí Thánh. Chỉ có khiêm nhường mới tạo được hạnh phúc. Chúa Giêsu đã mang lại cho chúng ta hy vọng và bình an vì chính Ngài đã khiêm nhượng thẳm sâu, bỏ mình triệt để. Chúng ta, dù yếu đuối, cũng hãy cố gắng theo Ngài.
Các thánh đã đi con đường khiêm tốn đó và đã thành công. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, vẫn xem mình như một nữ tỳ của Thiên Chúa. Ngài luôn xin vâng. Nhờ khiêm tốn Mẹ đã vâng phục ý Chúa trọn hảo trong mọi tình huống, đến đỉnh đồi Canvê. Tất cả các thánh đều có một khuôn mặt duy nhất là khiêm tốn. Chúng ta hãy nhìn những đấng thánh quen thuộc nhất của chúng ta,chúng ta không thấy có đấng thánh nào kiêu căng, độc tài, mà chỉ thấy những con người khiêm nhu nghèo khó, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống cho Chúa và cho anh em.
Chúa Giêsu đã chọn chỗ rốt hết, chúng ta chọn chỗ nào?
Chúa Giêsu sẽ có mặt nơi bàn thờ hiến tế này, Ngài đến không dưới hình thức oai phong uy hùng mà trong một tấm bánh nhỏ, khiêm nhu. Đến để cho không tất cả. Hãy nhận lấy quà tặng vô giá đó của Ngài và đi theo Ngài suốt cuộc đời chúng ta, trong một cuộc sống hiến dâng và vâng phục. Hạnh phúc của chúng ta không phải là thế gian đầy tội ác này mà là Ngài. Chỉ có Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Theo Ngài trên con đường khiêm nhu, chúng ta mới có sự sống sung mãn và hạnh phúc.
---------------------------------
Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Thói thường ở đời, ai cũng muốn mình hơn người khác: mình phải nổi hơn, giỏi hơn, giàu có TN 22-C132
Thói thường ở đời, ai cũng muốn mình hơn người khác: mình phải nổi hơn, giỏi hơn, giàu có hơn, thế lực hơn... để được người hầu kẻ hạ, ăn trên ngồi trốc. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác, người khác ở đây là người ngang hàng với họ, chưa nói đến người thấp kém, nghèo khổ, bệnh tật. Cho nên, chuyện thương người phục vụ như Chúa Giêsu dạy hôm nay, chắc nhiều người nói với rằng Chúa ơi, con không thể làm theo Lời Chúa được. Nhưng, thử hỏi những người như thế có mấy người thương mến, mấy ai cảm phục. Cho nên, nhạc sĩ Vũ Thành An khẳng định rằng: "Mai về sau nước mắt khô cạn, khi xa đời, thương cho đàn con. Triệu người quen có mấy người thân. Khi lìa trần có mấy người đưa”. Vì thế, Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng", tấm lòng đó là lòng thương xót biết phục vụ nhau, vì ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau huống chi là bây giờ.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải có tấm lòng thương xót phục vụ không phải là chuyện phục vụ có qua có lại mới toại lòng nhau nhưng mà phải phục vụ cho không, phục vụ không đòi đền đáp như thế mới đẹp lòng Thiên Chúa. Qủa thế, Lời Chúa trong bài đọc 1 Sách Huấn Ca dạy "Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa". Thêm nữa, Chúa Giêsu dạy: "Khi nào chúng ta đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, khuyết tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại". Vì vậy, thư Do thái trong bài đọc hai khẳng định rằng nếu phục vụ những người nghèo khổ là có phúc cho chúng ta vì chúng ta là những kẻ đã được ghi tên trên trời.
Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành lòng thương xót của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua cái chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Qủa thế, Chúa Giêsu đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiarét. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các Tông đồ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây, nghèo hèn, khuyết tật, ốm đau, tội lỗi.. đều được Chúa thương xót phục vụ, cứu độ hết mọi người.
Để thương xót phục vụ mọi người như Chúa Giêsu, chúng ta cần xóa mình, xoá những chức vụ, địa vị, sang giàu hay đặc quyền mình có. Chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu thương xót để phục vụ nhau, đặc biệt với những người nghèo vì họ là thịt máu Chúa Kitô. Cho nên, Chúa Giêsu dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà chủ yếu là tình người với nhau. Tình người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, mất Chúa và mất tha nhân nào có ích gì. Cụ thể, Chân Phước Teresa Calcutta mà Hội Thánh sắp phong thánh Ngài kể rằng Năm 1962, Mẹ được giải thưởng đầu tiên về công việc Nhân Ðạo của Mẹ. Năm 1979, được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1985, được trao Huy Chương Tự Do, huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ. Mẹ đã dùng tất cả những số tiền giải thưởng này để thiết lập thêm nhiều trung tâm chắm sóc những người khuyết tật, bệnh hoạn và sắp chết.
Vì vậy, trong buổi tiếp kiến hơn 20 ngàn khác hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô tại Rôma ngày 22-6-2016 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Các người nghèo, người bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô. Có biết bao lần chúng ta găp gỡ một người nghèo đến gặp chúng ta! Chúng ta cũng có thể quảng đại, có thể cảm thương, nhưng không đụng tới tay họ. Chúng ta cho họ một đồng bạc, nhưng tránh đụng tới tay họ, chúng ta vứt đồng bạc ở đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng sợ hãi đụng tới người nghèo và người bị loại trừ, bởi vì Ngài ở trong họ. Họ là anh em của chúng ta! Kitô hữu không loại trừ ai hết, nhưng cho họ chỗ và để cho tất cả mọi người đến”.
Ước gì qua Lời Chúa và Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước Ngài vào trong cung lòng, ban cho chúng ta tình yêu thương xót để rồi sau Thánh lễ này, cùng hiệp thông với Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành lòng thương xót phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì chưng, trong cuộc sống, nếu chúng ta không thương xót người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa Kitô có lòng thương xót như Ngài không? Nói như lời những lời của Thánh Giacôbê Tông Đồ có thể nói rằng lòng thương xót mà không có việc làm là lòng thương xót chết”. Xin Chúa cho chúng ta biết thương xót nhau như Chúa đã thương xót chúng ta. Amen.
---------------------------
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm qua tôi mới nói chuyện với một chị rất đạo đức. Chị nói rằng cha xứ của chị rất tuyệt vời TN 22-C133
Hôm qua tôi mới nói chuyện với một chị rất đạo đức. Chị nói rằng cha xứ của chị rất tuyệt vời. Giá mà các cha giống được như cha ấy thì người bên lương theo đạo hết! Chẳng có ai làm được như cha ấy! Tôi nói: Oh rất tốt! Vậy cha xứ chị dạy giáo lý và rửa tội được bao nhiêu người trong một năm? Chị nói: cha xứ con không có thời gian dạy giáo lý, nhưng người bên lương đến đông lắm? Tôi nói rằng: con số đông không quan trọng, quan trọng là họ đã đến để gặp Chúa hay chỉ muốn tìm phép lạ? Ngày xưa tôi ở Nam Cát Tiên mỗi lần phát gạo thì người bên lương vẫn đông gấp đôi bên đạo, nhưng họ đến để lấy lương thực chứ không phải để theo đạo, mà Chúa cũng không muốn người ta theo đạo vì phép lạ hay vì lương thực! Và tôi nói tiếp: thưa chị, các linh mục chúng tôi chỉ cố gắng trở nên giống như Chúa Giêsu thôi, và chúng tôi để Chúa dùng chúng tôi theo ý Chúa miễn sao danh Chúa được vinh hiển. Vì mỗi người Chúa ban một cách sống để mình tôn vinh Chúa trong khả năng của mình. Mỗi cha có một khả năng. Mỗi cha có một cách để truyền giáo. Điểm chung của họ là trở nên giống Thầy Chí Thánh Giêsu yêu thương và phục vụ.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy trở nên giống Chúa trong khiêm nhu và bác ái. Khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giêsu không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giêsu từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào... Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lạibỏ rơingười nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than...Nhìn lại cách sống đôi khi mình lại chẳng bằng người bên lương. Tôi đã từng đến chữa bệnh thầy Tư Ngoan tại An Giang. Bệnh nhân rất đông, đa số người nghèo. Điều lạ là bếp ăn của thầy luôn có đồ ăn miễn phí cho người nghèo. Hàng trăm người tự lấy đồ ăn theo ý thích của mình. Thật ấm áp tình người. Thầy chữa bệnh cũng chẳng lấy tiền, chủ yếu là sống vì người nghèo và cho người nghèo.
Chúa Giêsu luôn sống nghèo và vì người nghèo. Liệu rằng người môn đệ Chúa có dám sống cho người nghèo hay không? Các điểm hành hương của chúng ta đã có phòng ăn nhân ái cho người nghèo chưa? Rất tiếc là chưa, nhưng lại nhan nhản dịch vụ ăn ngủ, buôn bán tranh ảnh để kiếm tiền cho trung tâm. Rấtmong các điểm hành hương nên có những xuất ăn miễn phí không nhiều nhưng ít là vài trăm xuất cho những ngày cao điểm cũng là điều nên làm.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Chúa Giêsu đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Một người đang tuyệt vọng vượt ngàn dặm đến cửa Phật, nói với sư trụ trì: "tôi thực lòng muốn học TN 22-C134
Một người đang tuyệt vọng vượt ngàn dặm đến cửa Phật, nói với sư trụ trì: "tôi thực lòng muốn học hội họa, nhưng không sao tìm ra được một người thầy mà tôi khả dĩ hài lòng”.
Vị sư trụ trì hỏi: "anh đã bôn ba lặn lội khắp nơi như vậy mà vẫn không tìm được một người thầy nào sao?”
Người thanh niên kia nói: "hầu như toàn là hữu danh vô thực, tôi chẳng những gặp mà còn xem tranh của họ nữa, thấy tranh họ vẽ còn chả bằng tranh của tôi”.
Sư trụ trì nghe vậy cười nói: "lão tăng tuy không hiểu gì về hội họa nhưng cũng có thú sưu tập những kiệt tác của các bậc danh tiếng. Tài nghệ của thí chủ đã không thua kém gì họ, mong thí chủ hạ cố vẽ cho lão tăng một bức”. Nói rồi bèn sai một sadi mang bút giấy ra.
Sư trụ trì nói tiếp: "lão tăng vô cùng yêu thích thú uống trà, vì thế cũng thích ngắm nhìn những họa tiết uốn lượn trên những bộ ấm trà cổ. Thí chủ có thể vẽ cho lão tăng một ấm trà và một tách trà không?”
Người thanh niên không chút ngần ngại: "điều đó thì có gì khó”.
Anh ta chấm mực, điêu luyện đưa bút lướt trên giấy. Chẳng mấy chốc, dần dần hiện ra một ấm trà, nghiêng nghiêng, từ vòi ấm tuôn ra một dòng nước, rót vào miệng một chiếc tách có hoa văn tinh xảo. Đặt bút xuống, anh ta hỏi: "tôi vẽ như vậy, lão hòa thượng đã hài lòng chưa?”
Sư trụ trì vừa cười vừa lắc đầu: "thí chủ vẽ quả thực rất đẹp, có điều đã vẽ sai vị trí của chúng, lẽ ra cái tách trà phải ở bên trên còn ấm trà ở bên dưới”.
Người thanh niên cười lớn: "sao lão hòa thượng lại có thể nhầm lẫn như vậy nhỉ? Trước giờ chỉ có trà được rót ra từ ấm vào tách chứ có thấy từ tách đổ lại ấm bao giờ đâu?”
Lão trụ trì cười đáp: "té ra là thí chủ cũng hiểu điều này sao? Thí chủ luôn khao khát được học hỏi kinh nghiệm từ những bậc cao nhân mà thí chủ lại luôn đặt cái tách của mình cao hơn so với những ấm trà, thử hỏi làm sao thí chủ có thể thu nhận được những kinh nghiệm cũng như trí tuệ từ người khác đây?”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói “mời ông lên trên cho” thì không phải Ngài chỉ dạy chúng ta sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Nhưng Chúa Giêsu đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Cũng như chàng thanh niên kiêu căng trong câu chuyện, luôn cho mình là tài giỏi hơn người, nên chẳng bao giờ thấy được cái hay nơi người khác để học hỏi thêm. Khi rót nước, ấm luôn phải để cao hơn tách, nhưng chàng thanh niên này lại luôn muốn để tách cao hơn ấm thì làm sao có thể nhận được nước trà từ ấm đổ ra.
Cũng như một thanh niên kia tìm được việc làm trong một cửa hàng lớn. Ngay ngày đầu tiên đi làm, người chủ đưa cho anh ta một cây chổi và nói: "anh quét nhà đi nhé!”
Quá ngạc nhiên, anh chàng thanh niên trả lời: "nhưng tôi là người có bằng đại học mà!”
"Ồ, xin lỗi!”, ông chủ nói: "rất tiếc là trường đại học không dạy anh việc đó. Đưa chổi đây, tôi sẽ chỉ cho anh”.
Cuộc sống luôn rộng lòng ban phát cho ta những bài học quý giá. Những món quà lớn nhất lại nằm ở thấp nhất, món quà càng quý thì càng ẩn sâu hơn. Ta phải để mắt quan sát và phải mở rộng lòng mình ra đôi khi mới thấy được chúng. Vì thế ta phải khiêm nhường, phải cúi đầu xuống thấp từ tầm cao mới, ta có thể sẽ tìm kiếm được rất nhiều món quà quí giá và ý nghĩa như dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi người, không phân biệt giai TN 22-C135
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi người, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái. Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diện nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu, vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” (Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là: hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì:
- Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
- Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
- Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
+ Bài đọc 2: Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
+ Bài Tin mừng: Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta:
- Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
- Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp: Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy biết nhìn xuống.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
1. Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa” (Lc 14,1).
ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm: việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
a) Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn: “Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con: “Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
b) Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
II. NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
1. Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ: “Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là: Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau:
- Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
- Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
- Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện: Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ: “No Pope, no God”: không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
2. Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
Vậy khiêm nhường là gì? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống, phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói: “Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi:
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người: “Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện: Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh: bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì: “Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện: Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa:
- Ai đó?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp:
- Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng:
- Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn:
- Ai đó?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp:
- Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời:
- Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia: “Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị:
- Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói:
- Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng: giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này: “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
3. Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán: “Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng: “Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly”: Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc: “Do ut des”: cho đi để lấy lại.. Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là: “Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do:
- Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
- Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
- Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằêng: cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
- Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu: “Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói: “Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui: Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là: “Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố: “Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói:
- Tại sao mọi người cười tôi như vậy?
Một trong những người khách mới trả lời:
- Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả (R.Veritas).
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Người khiêm nhu tự hạ sẽ được nên cao trọng, được nghĩa trước mặt Thiên Chúa và được người khác yêu mến.
Người ham danh vọng và tham lam sẽ bị xét xử nghiêm khắc. Đối với những người như thế, lời TN 22-C136
Người ham danh vọng và tham lam sẽ bị xét xử nghiêm khắc. Đối với những người như thế, lời Chúa trong Tin mừng hôm nay là những qui luật giúp sống khiêm nhường và bác ái. Người khiêm nhu tự hạ sẽ được nên cao trọng, được nghĩa trước mặt Thiên Chúa và được người khác yêu mến.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng Lc 14,1.7-14
Chọn lựa chỗ danh dự
Ngao ngán trước những nhận định của con người dựa trên ưu thế của sự giàu có, danh dự cá nhân, quyền lực xã hội để rồi có thái độ kiêu ngạo, Chúa Giêsu khuyên mọi người phải biết sống khiêm nhu tự hạ, biết quên mình và biết quảng đại bác ái với người nghèo khổ.
a. "Ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất…". Lời Chúa Giêsu qua dụ ngôn chọn chỗ này không nhằm dạy về nghệ thuật ứng xử để thành đạt hay được vinh dự chỗ chốn đông người bằng thủ đoạn khéo léo. Thực ra lời khuyên của Chúa là một châm ngôn thường tình đã có lâu đời trong dân gian (Cn 25,6-7; Hc 7,4; 13,9-10). Ở đây Chúa muốn nhấn mạnh đến sự đảo lộn vị trí trong Nước Chúa để khuyên dạy mọi người sống khiêm nhu. Thiên Chúa luôn đứng về phía những người thấp bé, mọn hèn. Số sót, bà góa, người nghèo… sẽ được Thiên Chúa quan tâm và nâng đỡ yêu thương hơn (Lc 1,52; Tv 147,6; Ez 21,13).
b. "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên": Câu này là chìa khóa để hiểu dụ ngôn về việc chọn chỗ ngồi. Động từ được dùng ở thể thụ động (passif) ám chỉ hành động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa sẽ hạ bệ hoặc nâng ai lên. Ở đây không còn nói đến bình diện nhân bản nữa mà nói đến chính việc xét xử của Thiên Chúa. Những người Luật sĩ, Biệt phái tự cho mình có đặc ân vì đã tuân giữ lề luật cách tốt nhất hơn những người khác, nên Thiên Chúa sẽ ưu đãi họ và ban cho họ có chỗ nhất trong Nước Trời. Chúa Giêsu kín đáo cho họ biết không phải như vậy đâu mà chỉ là chỗ rốt hết mà thôi.
c. "Đừng mời bạn bè, anh em ngươi…". Câu này chắn hẳn không thể hiểu theo nghĩa chữ đen được vì như thế Chúa khuyên đừng qua lại thân thiết với anh em, bà con và bạn hữu sao? Nhưng ở đây phải hiểu là Chúa muốn mọi người biết quan tâm yêu thương những người khốn khó. Yêu thương tha nhân không bắt nguồn từ tình cảm tự nhiên hay từ một quyền lợi riêng tư nào mà luôn là một tình yêu vô vị lợi sẵn sàng cho đi không mong báo đền. Có thể hiểu câu nói của Chúa là 'đừng chỉ mời…'
II. GỢI Ý SUY NIỆM:
1. Thiên Chúa ở bên người khiêm nhường:
Lời Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay xem ra đảo lộn mọi trật tự hay ít ra cũng cho thấy có sự khác biệt giữa thế gian và Nước Trời. Ai tự tôn mình lên ở đời này sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống trong Nước Ngài và ngược lại. Chính kinh nghiệm đức tin của dân Do Thái đã minh chứng điều ấy: Thiên Chúa sẽ nâng cao người phận nhỏ, người quyền thế bị lật đổ, người giàu có trở về tay không và nghèo đói sẽ no đầy ơn phúc. Từ lời tiên báo của Tiên tri Êdêkien, đến lời kinh Magnificat của Đức Maria và nay lời dạy của Chúa Giêsu đều minh nhiên nói lên chân lý: Thiên Chúa đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công.
Trong đời sống hiện tại của con người hôm nay, chúng ta thường có khuynh hướng xem nhẹ, thậm chí coi thường những người nghèo, những người thấp hèn hơn chúng ta và tôn trọng những người giàu có, những người có quyền thế, có địa vị trong xã hội. Lời Chúa cho chúng ta thấy đừng lầm tưởng như thế, ở nơi Thiên Chúa giá trị con người được nhìn nhận cách khác hẳn, đảo ngược hẳn và phá tung mọi hàng rào ngăn cách con người với nhau. Trong Nước Chúa không có phân biệt nô lệ hay tự do, Do Thái hay Hy Lạp. Cho nên, chúng ta phải biết trân trọng nhau trong tư cách tất cả đều là con người, đều là con cái Chúa, là anh chị em của nhau.
2. Khiêm nhu tự hạ là con đường đi đến Nước Trời:
Khi dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường, về sự tự hạ và khi mời gọi mọi người hãy đến học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm nhường, Chúa Giêsu đã đi bước trước thực hiện triệt để những gì Người giảng dạy. Người thực sự là con người của sự khiêm nhu tự hạ: Từ một vị Thiên Chúa, Người đã hạ mình làm người bần cùng trong thế gian; từ một người Thầy Người đã tự hạ rửa chân cho các môn đệ; từ một Đấng phán một Lời mọi sự liền có Người đã tự hạ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết cách nhục nhã. Không ai có thể khiêm hạ hơn Người được nữa. Nơi Chúa Giêsu, sự khiêm hạ đã đi đến tột cùng. Chính nhờ thế mà Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Người (Pl 2,6-9). Theo lời Chúa dạy, con đường đi tới Nước Trời, được Thiên Chúa Cha yêu thương nâng lên chính là thái độ sống khiêm nhu tự hạ. Sự khiêm nhu tự hạ mà Chúa dạy không phải là sự chịu lụy, nhịn nhục theo kiểu 'cố đấm ăn xôi" nhưng là một sự chọn lựa tự do trong tinh thần yêu thương và phục vụ; biết mình phải làm gì, phải sống và phục vụ hết mình như thế nào.
Khiêm nhu tự hạ muôn đời là một nhân đức cần thiết để trưởng thành, để nên Kitô hữu thánh thiện. Nhìn vào những gì mình đã đạt được, đã có nhất là do nỗ lực của cá nhân, chúng ta có quyền tự hào về mình. Nhưng khi nhìn lên những anh chị em khác nhất là nhìn đến Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy mình chẳng là gì cả. Tất cả là do tình yêu của Chúa mà thôi, còn tôi vẫn mãi là người yếu đuối, bất tài vô dụng.
3. Khiêm nhu tự hạ để trở nên tất cả cho mọi người:
Sự khiêm hạ chỉ có thể có nơi những tâm hồn biết yêu mến Thiên Chúa mà thôi. Chính vì yêu Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã vâng lời hạ mình. Mỗi người cũng sẽ chỉ đạt được sự khiêm hạ trong tình yêu mến Chúa và tha nhân mà thôi. Yêu thì sẽ tôn trọng, sẽ hòa đồng xóa đi mọi ngăn cách, sẽ biết quên mình phục vụ. Chúa Giêsu đã tự hạ mình để ở cùng mọi người, đã tự hạ mình để phục vụ mọi người. Người hạ mình để trở nên người của mọi người. Sau khi trình bày dụ ngôn về việc chọn chỗ nhất để dạy về đức khiêm nhường, Chúa Giêsu tiếp tục khuyên về việc mời khách dự tiệc. Qua lời khuyên dạy, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến chính tình bác ái vô vị lợi. Ngay cả trong việc thiết tiệc cũng phải giữ cho được tình bác ái. Phải quan tâm đến người nghèo khổ, đến người bất hạnh. Như thế, có sự nối kết giữa sự khiêm nhu tự hạ và lòng bác ái. Khiêm hạ mà không bác ái, không phục vụ thì chả ích lợi gì. Khiêm hạ là phương thế để thể hiện tình yêu sẵn sàng dấn thân đến với người khổ đau, phục vụ chăm sóc họ. Khiêm hạ không phải là việc đơn giản nhún nhường nơi bữa tiệc, nơi chốn đông người. Khiêm hạ không chỉ thuần túy là việc tự nhận mình yếu kém, bất tài rồi trốn tránh trách nhiệm. Khiêm hạ chính là thái độ biết quên mình để yêu thương, hiện diện và phục vụ mọi người như Chúa Giêsu.
Khiêm hạ để trở nên tất cả cho mọi người là điều khó khăn trong thực tế cuộc sống hôm nay. Kitô hữu chúng ta phải luôn sẵn sàng ra đi, phải mặc lấy tâm tình phục vụ thì mới có thể sống được tinh thần hạ mình. Nhiều khi có làm được một tí gì cho ai thì đã vội lên mặt tự hào, đã vội cho mình có quyền nghỉ ngơi bắt người khác phục vụ. Đó chính là cám dỗ thường xảy ra, Kitô hữu chúng ta phải tỉnh thức.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu đã yêu thương hạ mình làm người rốt hết để cứu độ chúng ta. Trong niềm tri ân cảm tạ, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh, nhất là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và các linh mục biết noi gương Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh sống một cuộc sống khiêm hạ, biết phục vụ hơn là đến để phục vụ.
2. Khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó, đui mù, tàn tật… Chúng ta cùng cầu xin cho trong xã hội ngày càng có nhiều người quảng đại biết yêu thương quan tâm chăm sóc đến những người bệnh tật, bất hạnh và bị bỏ rơi.
3. Ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người luôn biết sống khiêm tốn theo lời Chúa dạy, để tất cả biết yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, nhờ đó kiến tạo sự hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn và trong toàn thể Hội thánh.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ. Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Chúa Giêsu, Con Một Chúa hạ mình ở giữa chúng con để yêu thương và cứu độ mọi người. Xin Chúa gia tăng ân sủng, đức tin cậy mến để chúng con biết sống khiêm nhu hạ mình phục vụ anh chị em như Chúa Giêsu đã sống. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Ham thích tiền bạc, danh vọng địa vị, là khuynh chiều tự nhiên của con người. Thực vậy, con TN 22-C137
Ham thích tiền bạc, danh vọng địa vị, là khuynh chiều tự nhiên của con người. Thực vậy, con người ai cũng thích được ca ngợi khen tặng, ai cũng muốn được đề cao, ai cũng muốn được trổi trang hơn người khác. Trong đời sống, người ta thường để cho khuynh hướng này điều khiển cung cách cư xử. Hôm nay Đức Yêsu đã dạy những người thời của Ngài về cách xử thế khi được mời dự tiệc, khi thiết tiệc đãi khách. Đừng cho mình trổi trang hơn người khác, đừng ngồi vào chỗ nhất để khỏi phải bị mời xuống mà bẽ mặt, đừng tìm danh tiếng khi làm tiệc đãi khách.
Mỗi người đều có điểm độc đáo riêng mà Thiên Chúa ban tặng; chẳng hạn, một người có sức khỏe thể lý, người khác lại có trí thông minh vượt bậc, người có tinh thần an vui thanh thản, người khác có óc phán đoán chính xác, người có tài khéo về chân tay, người khác có lòng nhân từ hiền hậu. Tất cả những điều đó là nét đẹp Thiên Chúa ban cho mình, mỗi người cần nhận ra để trân trọng và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân kỳ diệu này. Tuy nhiên, có một số người lại tự hào về điều đó như thể nó là của riêng họ, do công sức của họ, nên họ khinh thường những người không có tài năng đó. Người cho rằng những nét đẹp đó là của mình do mình thì tự kiêu, kẻ muốn có nét đẹp đó mà không có đâm ra tự ti. Nếu ai để khuynh chiều này điều khiển cung cách hành xử, thì người đó không thể sống hạnh phúc thật.
Đức Yêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, nhưng Ngài đã không đòi được đối xử ngang hàng với Thiên Chúa; Ngài đã tự hủy mình trở nên một con người như bất cứ con người bình thường nào trên trần gian này, Ngài lại còn chấp nhận cái chết thậm chí bị chết trần trụi ô nhục trên thập giá. Ngài chấp nhận và trân trọng người khác, cụ thể qua cách đối xử với các môn đệ của Ngài. Ngài không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gẫy cây sậy bị dập. Ngài luôn trân trọng mọi người, không hủy diệt ai cho dù người ta muốn tru diệt Ngài. Ngài là người trổi vượt trên mọi người nhưng lại sẵn sàng hòa đồng với mọi người, thậm chí cùng đứng xếp hàng chung với những tội nhân để chịu phép rửa tại sông Jordan.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Đức Yêsu không chỉ nhận sự thật về chính mình, nhưng Ngài còn hạ mình hòa đồng với những người tội lỗi. Ngài trở nên Đấng gánh tội trần gian. Ngài gánh tội của tất cả mọi người. Đức Yêsu là Đấng khiêm nhường tột cùng. Khiêm nhường là tôn trọng sự thật; nhưng sự thật và tự hủy không loại trừ nhau. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đã tự hủy để là một con người hoàn toàn như bất cứ ai khác. Đức Yêsu đã tự hủy để sống với bất kỳ ai. Ngài sống với những người tội lỗi, để giúp họ nhận ra sự thật về chính họ, để họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng, và để họ trở về với Thiên Chúa.
Nhận ra sự thật về chính mình, tức là, nhận biết mình là tội nhân được Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi lỗi lầm. Nhận biết mình được như hiện tại, là nhờ quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa; nếu tự sức mình, mình đã tệ hơn những ai tệ hại nhất. Ý thức như vậy, mình không khinh thường người khác; trái lại, mình vẫn trân trọng những người hiện đang còn hành xử sai lầm, vì tin rằng với ơn của Thiên Chúa, với quyền năng của Thánh Thần, người này có thể sẽ được biến đổi và cũng sẽ thành người tuyệt vời như những người tuyệt vời khác.
Người khiêm nhường thật, là người nhận ra những tài năng của người khác là ân huệ Thiên Chúa thương ban cho họ, nên kính trọng họ và ca ngợi Thiên Chúa vì những hồng ân kỳ diệu này. Họ không ganh tỵ vì những gì Thiên Chúa ban cho tha nhân, nhưng tạ ơn Thiên Chúa vì qua những hồng ân này họ và những người khác cũng được hưởng nhờ. Hồng ân Thiên Chúa ban cho một người, nếu mình biết quý trọng, nó cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho mình ở một mức độ nào đó. Người khiêm nhường đích thực, là người hạnh phúc với những hồng ân tha nhân được hưởng. Người khiêm nhường đích thực, là người luôn nhận ra và biết ca ngợi tình yêu Thiên Chúa trong mọi trường hợp.
Khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình, sẵn sàng hòa đồng với tha nhân, là con đường giúp con người sống bình an hạnh phúc thật. Đòi mình vượt trội hơn người khác, đòi người khác phải kính trọng mình, sẽ làm mình bất an bất hạnh. Con đường Đức Yêsu đi, là con đường hạnh phúc mà Ngài chỉ cho con người. Ai bước theo Ngài, sẽ sống trong bình an. Con đường Đức Yêsu đi, là con đường để tha nhân sống triển nở và hạnh phúc với mình. Để tha nhân lớn lên và hạnh phúc, là chính mình cũng được triển nở và hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Mọi sự đều dễ dàng đối với người khiêm tốn. Bạn nghĩ sao về câu nói này?
2. Theo bạn, làm sao để là người khiêm tốn thật sự?
3. Đức Yêsu có là người khiêm tốn không? Theo bạn, Đức Yêsu khiêm tốn như thế nào, ở điểm nào?
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang)
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc.14,11)
Sự quan trọng của nhân đức khiêm nhượng
Kiêu ngạo là vua của các tính xấu, là đầu của mọi tội lỗi. Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị TN 22-C138
Kiêu ngạo là vua của các tính xấu, là đầu của mọi tội lỗi.
Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị Chúa đuổi ra khỏi thiên đàng, trở thành ma quỷ khốn nạn trong hỏa ngục. Vì kiêu ngạo, hai tổ tông loài người là ông Adong và bà Evà bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng, không những làm cho mình bất hạnh, mà còn làm cho con cháu mình sau nầy cũng mất hạnh phúc. Vì kiêu ngạo, tháp Babel bị sụp đổ, tên khổng lồ Goliát bị giết chết. Vì kiêu ngạo, nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế Do Thái ngày xưa bị Chúa Giêsu loại ra khỏi nước Trời.
Trái lại, nhân đức khiêm nhượng là vua của các tính tốt, là vị chỉ huy của các nhân đức. Không có tính tốt nào mà không đặt nền móng trên nhân đức khiêm nhượng, không có nhân đức nào mà không đặt cơ sở trên nhân đức khiêm nhượng.
Chúa không thể nào yêu ta được nếu ta không khiêm nhượng. Kẻ nào kiêu ngạo, Chúa hạ xuống thấp; kẻ nào khiêm nhượng, Chúa nâng cao lên.
Chúa không thể nào tha tội cho ta được nếu ta không khiêm nhượng. Chúa tha mọi tội cho ông Giakêu, cho bà Mađalêna, cho người trộm lành vì họ có lòng khiêm nhượng. Còn ai kiêu ngạo, Chúa không ban ơn tha thứ cho họ.
Chúa loại ta ra khỏi nước Trời nếu ta không khiêm nhượng. Chúa phán rõ: "Nếu các con không trở nên bé nhỏ như các trẻ thơ, các con không được vào nước Trời đâu".
Chúa Giêsu rất khiêm nhượng
Chúa Giêsu nhấn mạnh về đức khiêm nhượng. Ai hạ mình xuống, mới được nâng lên. Ai là sau hết, mới trở nên trước hết. Khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ dưới. Người nào làm lớn, hãy lo phục vụ những người ở dưới họ. Khi làm xong việc gì cho Chúa, phải tự nói rằng: "Tôi chỉ làm việc tôi phải làm, tôi chỉ là đầy tớ vô dụng". Khi bố thí, khi làm việc lành, đừng để tay trái biết việc tay mặt làm. Khi cầu nguyện, đừng cầu to tiếng giữa chợ búa cho người ta thấy mà khen, nhưng cầu nơi kín đáo cho Chúa thấy mà thôi. Phải khiêm nhượng như trẻ nhỏ mới được vào thiên đàng.
Không những nhấn mạnh về sự quan trọng của đức khiêm nhượng, Chúa Giêsu còn treo cao gương khiêm nhượng trước mặt mọi người. Chúa Giêsu khiêm nhượng trong đời sống thế trần: sinh khiêm nhượng (chọn một bà mẹ nghèo, sinh ra nơi miền xa, không có nhà trú, không có chỗ trọ, nên phải chào đời trong một hang lừa hôi hám, nằm lạnh lẽo trong máng cỏ rơm của bò lừa, giữa đêm khuya đầy sương tuyết, không có chăn mền ấm áp); sống khiêm nhượng (sống tại Nazarét là nơi dân nghèo; làm nghề thợ mộc vừa đủ nuôi gia đình; ra đi giảng đạo với hai bàn tay trắng; chọn những môn đệ trong hạng người nghèo hèn, thất học, không có địa vị gì trong xã hội; sống lang thang không có chỗ trú ngụ nhất định, nhiều lúc thầy trò phải nhịn đói cho qua ngày đêm); chết khiêm nhượng (bị bắt như một tên tội phạm nặng nề; bị đánh đập sĩ vả ê chề, bị lên án xử tử công khai, bị lột hết áo quần ra và bị đóng đinh chết đứng trên hai miếng gỗ, bị treo lên giữa trời và đất cho mọi người chế nhạo; phải mượn mồ của kẻ khác để tạm chôn một cách vội vàng).
Và hiện giờ cho đến tận thế, trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu sống khiêm nhượng một cách lạ lùng trong các Nhà Tạm trên khắp hoàn cầu: sống triền miên thinh lặng, hoàn toàn giấu ẩn tính cao sang huy hoàng của Con Thiên Chúa, chịu đựng mọi sĩ nhục lăng mạ của loài người tội lỗi, chịu đựng những sự thờ ơ của ngay những người tin Ngài, luôn chờ đợi, không ép buộc ai, chỉ biết mời mọc: "Hãy đến với Ta, Ta bổ sức lại cho".
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ, trong tâm tình và trong hành động.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về mình.
Trong quá khứ, tôi đã thế nào? Tôi đã là không không, tôi không đáng là gì, tôi mới có đây thôi. Nếu Chúa đã không thương cho tôi chào đời, thì tôi sẽ đời đời không bao giờ có mặt trên đời nầy đâu. Hiện tại, tôi đang thế nào?
Hiện tại, tôi chỉ là kẻ tội lỗi vì tôi phải luôn luôn đấm ngực mình mà nói: "lỗi tại tôi mọi đàng". Hiện tại, tôi phải luôn đọc lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng: "Cầu cho con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử". Hiện tại, tôi không có gì vì cái gì tôi đang có là do Chúa cho tôi mượn, do Chúa ban cho tôi. Hiện tại, tôi không đáng gì, vì chỉ cần một làn gió nhẹ thổi vào sau lưng tôi, chỉ cần một mạch máu nhỏ bị đứt trong quả tim tôi, chỉ cần một vỏ dưa làm trượt chân tôi, cũng đủ làm cho tôi chết ngay tại chỗ, bỏ vợ, bỏ con, bỏ hết của cải gia tài sự nghiệp.
Trong tương lai, tôi sẽ thế nào? Hãy nhìn một nấm mồ là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của tôi sau khi thân xác tôi chết: bụi đất, thúi tha, giòi bọ, xương cốt héo khô. Còn về số phận của linh hồn tôi sau khi chết, tôi hãy nhìn xuống hỏa ngục hơn là nhìn lên thiên đàng, vì tôi đâu chắc chắn được mình sẽ chết lành, bởi lẽ chỉ cần một nháy mắt mà tôi chết thình lình, không kịp ăn năn tội vì Chúa, thì đủ để mất linh hồn đời đời.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong tâm tình. Tôi phải xác tín và thành thật nhìn nhận mình là kẻ yếu đuối, kẻ tội lỗi, chứ không phải chỉ nói ra những lời bên ngoài mà thôi. Tôi phải có lòng khiêm nhượng thật như lời Chúa nhấn mạnh: "khiêm nhượng thật trong lòng", chứ không phải giả bộ khúm núm, khép nép bề ngoài. Tôi phải thật tâm muốn cho kẻ khác biết tôi là kẻ hèn hạ, đáng khinh, đáng chê, đáng bị bỏ rơi, là kẻ có lỗi, là kẻ có tội. Tôi phải thành thật khinh chê mọi sự ở đời nầy vì Chúa. Tôi thật tình thích làm những công việc khiêm hèn, những công việc không ai để ý tới. Tôi vui mừng thật trong lòng khi thấy ai được việc, được thành công, hơn tôi về mặt nầy mặt khác. Tôi luôn vui vẻ bằng an trong tâm hồn khi tôi làm được việc cũng như khi tôi làm hỏng việc, khi tôi được lợi cũng như khi tôi bị thất lợi, khi tôi được khen cũng như khi tôi bị c
Nhân đức khiêm nhượng còn là một nhân đức trong thái độ. Tôi ăn nói dịu dàng. Cử chỉ điệu bộ của tôi nết na. Tôi không chữa lỗi, tôi không đổ lỗi, tôi không khoe khoang, tôi không khinh dễ kẻ khác, tôi không lên án ai, tôi không xa lánh ai, tôi không xử tệ với người nào. Tôi ý tứ trong khi cười, trong khi ăn, khi uống. Tôi vâng lời một cách nhanh chóng, vui vẻ và hoàn toàn. Tôi nhịn nhục, tha thứ kẻ khác. Tôi nói lời cám ơn kẻ chỉ trích tôi, kẻ lên án tôi. Tôi nói lời xin lỗi kẻ hiểu lầm tôi. Tôi không bao giờ nhắc lại những gì người ta đã làm cho tôi một cách bất công hoặc có ý xấu. Tôi luôn mĩm cười với mọi người.
Ích lợi của đời sống khiêm nhượng.
Người nào khiêm nhượng thì được Chúa luôn ở gần bên: "Ta ngự trên trời cao nhưng ta vẫn ở gần bên kẻ nào hối cải và khiêm tốn"; được Chúa ban ơn: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhượng"; được Chúa cứu giúp: "Thiên Chúa hạ kẻ kiêu căng nhưng cứu giúp người khiêm nhượng"; được Chúa nâng lên cao: "Ai tâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên"; được Chúa tha tội: "Người thu thuế đứng ở xa, không dám ngữa mặt lên trời, lại còn đấm ngực nói: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo thật các ngươi: "Người nầy khi trở về nhà, sẽ được nên công chính"; được Chúa cho thoát cơn hoạn nạn: "Khi Ta khép các cửa trời mà không có mưa, khi Ta ra lệnh cho cào cào châu chấu phá hoại xứ sở, hoặc khi Ta cho ôn dịch hành hạ dân Ta, nếu dân Ta biết hạ mình xuống lấy Danh Ta mà cầu khẩn..., thì từ trời cao, Ta sẽ nghe lời họ và Ta sẽ cho xứ sở họ thoát cơn hoạn nạn"; được Chúa dẫn dắt và dạy dỗ: "Chúa dẫn dắt người khiêm nhượng theo đường công chính. Chúa dạy dỗ người khiêm tốn biết đường lối Ngài"; được Chúa nhậm lời cầu nguyện: "Chúa thương nhậm lời kêu cầu của người khiêm nhượng. Chúa nâng đỡ tâm hồn họ, Chúa lắng tai nghe họ".
Người kiêu ngạo dễ bị trượt, dễ bị bổ, dễ bị té, dễ bị nhào vì họ trèo lên cao, vì họ đứng trên cao.
Người khiêm nhượng không bao giờ bị trượt, bị bổ, bị té, bị nhào vì họ luôn ngồi dưới đất, luôn nằm sát đất, luôn đứng chỗ thấp. Nếu người khiêm nhượng có trèo lên cao, có đứng trên cao, thì họ cũng không bị trượt, không bị bổ, không bị té, không bị nhào vì họ bám chặt vào Chúa là Đấng không bao giờ nghiêng ngã, vì họ được bàn tay vô cùng chắc chắn của Chúa nâng đỡ.
Hạnh phúc thay người sống đời khiêm nhượng. Họ nhìn Thánh Giá. Họ cầm Thánh Giá. Họ ôm Thánh Giá. Họ hôn Thánh Giá. Họ mang Thánh Giá. Thánh Giá dạy họ sống đời khiêm nhượng thật của Chúa Giêsu: vui lòng chịu mọi sự sĩ nhục; im lặng không nói lời gì lên án ai; tha thứ cho kẻ làm hại mình; cầu nguyện cho kẻ làm mất lòng mình; cầu nguyện cho mình và cho mọi người được vào nước thiên đàng như người trộm lành xưa; hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa sắp đặt mọi sự; chu toàn mọi việc bổn phận lớn nhỏ của mình cho đến hơi thở cuối cùng; vui lòng dâng lên cho Chúa mọi nỗi đau khổ phần xác phần hồn.
Lạy Mẹ Maria, mặc dầu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao sang, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn xưng mình là tôi tá của Chúa, luôn luôn sống như người nữ tỳ của Chúa, xin Mẹ luôn dạy con sống đời khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu Con Mẹ: "Hãy học cùng ta vì Ta khiêm nhượng thật trong lòng".
-----------------------------
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một tác giả tu đức đã khẳng định: “Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”. Điều đó cho thấy TN 22-C139
Một tác giả tu đức đã khẳng định: “Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”. Điều đó cho thấy, nếu chúng ta luyện được đức khiêm nhường, thì đương nhiên sẽ có các nhân đức khác. Nói cách khác, trong tiến trình nên hoàn thiện, chỉ cần có được đức khiêm nhường là đủ.
Khiêm nhường là tự hạ. Đó là định nghĩa của tác giả sách Huấn Ca (Bài đọc I). Nói như thế, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường theo đúng nghĩa nhất. Ngài tự hạ khi sáng tạo con người và muôn loài muôn vật, như một tác giả đã viết: qua công trình sáng tạo, Thiên Chúa giống như nước thuỷ triều, tự rút lui để nhường chỗ trống cho con người và các loài thụ tạo. Thiên Chúa còn tự hạ mình khi Ngài cúi xuống để tâm sự với con người. Những dòng tâm sự này được ghi lại trong Kinh Thánh. Kinh Thánh là câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với con người. Câu chuyện tình ấy bao gồm những “hồi”, những “pha” gay cấn, nhưng cuối cùng thì lòng thương xót của Chúa vẫn như đại dương bao trùm tất cả, kể cả tội lỗi của loài người. Thiên Chúa tự hạ một cách sâu xa nhất qua màu nhiệm nhập thể. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận loài người. Người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Người chấp nhận trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống nghèo khó, bị khinh miệt và kết án như một kẻ tội đồ.
Nếu Thiên Chúa khiêm nhường tự hạ, thì con người lại có xu hướng tự nâng mình lên. Thật là trớ trêu, tham vọng của ông bà Nguyên tổ! Ông bà đã muốn phủ nhận thân phận thụ tạo của mình để lên ngang hàng với Thiên Chúa. Ước vọng điên rồ của ông bà đã để lại hậu quả nghiêm trọng, đó là sự chết và đau khổ. Sự kiêu ngạo đã làm đổ vỡ mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và mối tương quan giữa con người với nhau. Kiêu ngạo cũng là nguyên nhân gây đổ vỡ biết bao gia đình cũng như gây nên xung đột. Thánh Luca kể lại với chúng ta, trong bối cảnh một bữa tiệc, trong khi những người biệt phái cố dò xét Chúa thì Chúa lại quan sát xem thái độ của họ. Nhân việc có nhiều người chọn chỗ sang cho mình, Chúa nói đến sự khiêm nhường tại bàn tiệc. Đương nhiên ai trong chúng ta cũng hiểu giáo huấn của Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ ngồi nơi bàn tiệc, mà còn là cách ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Bởi lẽ theo tâm lý tự nhiên, ai cũng muốn mình trội nổi hơn người khác. Trong cuộc sống chung, ai cũng muốn cho lập trường của mình là nhất và cách sống của mình là mẫu mực. Qua hình ảnh chỗ ngồi tại bàn tiệc, Chúa muốn mỗi chúng ta hãy nghiêm túc suy tư về cách sống của mình trong gia đình, trong cộng đoàn và trong xã hội.
Lòng khiêm nhường đi đôi với bác ái. Vì vậy, trong phần tiếp theo của Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói đến việc mời khách dự tiệc. Thông thường, người ta đối xử với nhau theo kiểu “hòn bấc quăng đi hòn chì quăng lại”, hoặc “thả con săn sắt bắt con cá rô”, có nghĩa là cho đi chút ít với ước mong nhận lại nhiều hơn. Trong khi đó Chúa lại dạy chúng ta những chuyện “ngược đời”: cho đi mà không mong nhận lại, hoặc có nhận lại, thì đó là phần thưởng ở trên trời mai sau, vào lúc các kẻ lành sống lại.
Khi sống khiêm nhường và chuyên tâm làm việc thiện, chúng ta đã được tham dự vào đời sống vĩnh cửu ngay khi còn đang sống trên trần gian. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả đời sống của những người công chính. Họ đã tới núi Sion, thành trì của Thiên Chúa. Đây là cách diễn tả hạnh phúc và phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa trong quan niệm của người Do Thái. Tác giả đã so sánh sự khác biệt giữa núi Sinai của Cựu ước với núi Sion của tương lai. Nếu ở núi Sinai, người Do Thái vừa ra khỏi Ai Cập được chứng kiến sấm chớp, mây mù, giông tố, thì ở núi Sion, họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa hằng sống. Họ cũng được chiêm ngưỡng Đức Giêsu, Đấng đã hạ mình sống thân phận con người và được Thiên Chúa đặt làm trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ý thức được như thế, cuộc đời chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn, vì dầu còn nhiều khó khăn gian khổ, chúng ta được sống trong tình thương của Chúa và hiệp thông với tất cả những ai yêu mến Ngài.
Một tác giả đã viết: “Có người thường xuyên bực bội than vãn cho rằng đất trước mặt mình chật chội quá. Nếu người ấy lui lại đàng sau một vài bước, sẽ thấy đất đằng trước mình rộng lớn hơn”. Người ta cũng thường nói: “Kiêu ngạo đến mấy cũng chẳng đủ, kiêm nhường bao nhiêu cũng chẳng thừa”. Vâng, nếu chúng ta biết sống khiêm tốn, cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn, tình yêu thương sẽ triển nở và mọi người sẽ sống thân thiện chan hòa.
---------------------------------
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chỗ ngồi là một quan tâm đối với nhiều người hôm nay. Chỗ ngồi chưa quan trọng bằng việc đã TN 22-C140
Chỗ ngồi là một quan tâm đối với nhiều người hôm nay. Chỗ ngồi chưa quan trọng bằng việc đã nhận ra mình là ai và ngồi chỗ đó làm gì? Câu hỏi đó cần được trả lời: Khiêm hạ để thấy trời cao.
Khiêm hạ là một thái độ nhận ra được chính mình. Mình chẳng là gì, nếu Chúa chẳng ban cho. Mình chẳng làm được chi, nếu Chúa không thực hiện cho. Mình có thâu hoạch được gì, công của mình thì ít, được nhiều người góp sức và phần nhiều vẫn thuộc về Thiên Chúa. Như Mẹ Maria nhận ra điều ấy trong cuộc sống: “Chúa đã làm cho tôi những sự trọng đại” (Lc 1, 48)
Khiêm hạ để thấy mình dễ vỡ, chẳng ra sao, nếu Chúa không đưa tay gìn giữ:
“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.” (Tv127,1).
Khiêm tốn để nhận ra mình có giỏi cũng chưa phải là giỏi nhất và cũng không phải là giỏi mọi mặt. Con người vốn có nhiều giỏi nhất nên cũng cần có nhiều bàn tay góp sức, nhiều người chung chí hướng. Người khiêm tốn ở chỗ cao bao giờ cũng biết cám ơn những người đã cộng tác. Thánh Phao lô khuyên bảo: “Đừng làm điều gì vì lòng ích kỷ, hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, xem người khác đáng tôn trọng hơn mình. Mỗi người trong anh em đừng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, nhưng phải quan tâm đến lợi ích của người khác nữa”(Pl 2, 3- 4)
Khiêm tốn để thấy trời cao.
Trong tâm tình tạ ơ của Chúa Giêsu với Chúa Cha, Chúa Giê su thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25). Khi vua Đavit dâng lên lời Thánh Vịnh 8, chắc hẳn vua Đavit đang ngước mắt ngắm tầng trời cao thẳm, với một tâm hồn bình an, dù trải qua nhiều sóng gió. Sự tĩnh lặng của cõi lòng và của thinh không làm say đắm lòng người, vua Đavit cất tiếng ca tụng: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8, 4 – 5).
Trong lúc nhìn mình chẳng là gì, vua Đavit lại thấy con người lại quá quan trọng với Chúa. Có là chi mà muôn vật đựợc Chúa tín nhiệm trao cho quyền coi sóc vũ trụ Chúa dựng nên. Có là chi mà Chúa bận tâm xuống thế làm người. Ngẫm xem bao điều khi con người nhận ra bé nhỏ mà Chúa đã ban cho bao la hồng ân.
Đặc biệt Đức Maria cũng đã chiêm niệm Lời Chúa trong lịch sử của dân tộc và cuộc đời cá nhân để nhận ra: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” trong một chiều kích: “linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui mừng trong Đấn cứu độ tôi” Lc 1, 46, 48).
Con người khiêm hạ nhìn ra bao điều hay, nhiều điều tốt đẹp và đặc biệt khám phá ra cả: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm.” (Tv 19, 2)
------------------------------------
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, khi trò chuyện với Chúa, ta thích chọn cho mình một chỗ ngồi thoải mái, dễ cầu nguyện TN 22-C141
Hôm nay, khi trò chuyện với Chúa, ta thích chọn cho mình một chỗ ngồi thoải mái, dễ cầu nguyện nhất. Ở bên Chúa, ta được trải lòng, được Người dẫn vào những góc khuất trong tâm hồn. Ta nhận ra Lời Chúa đang nói với chính ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).
Trong cuộc sống, nhiều khi ta băn khoăn chọn cho mình một vị trí trổi vượt, thích được đề cao, thích được coi trọng. Nhìn vào bữa tiệc tại nhà người Pharisêu, ta thấy khuôn mặt của những khách dự tiệc – họ là những người có nhiều băn khoăn. Ai cũng chọn cỗ nhất mà ngồi. Họ quan tâm đến cách mà người ta nhìn mình, vì thế càng ngồi vào cỗ nhất, họ càng thể hiện được mình là người quan trọng. Chúa Giêsu khuyên họ hãy chọn ngồi chỗ cuối. Một người khiêm tốn thật sự sẽ không tự đề cao mình nhưng hạ mình xuống. Nếu thực sự họ là người quan trọng thì chính chủ nhà sẽ mời lên cỗ trên. Khi nhìn xuống, người ta dễ thấy mình hơn người mà ngộ nhận rằng mình quan trọng nhất. Nhìn vào cách ăn diện và vị trí của người khác, ta chỉ thấy được bề ngoài. Vẻ bề ngoài thường dễ đánh lừa người khác. Tận sâu trong lòng mỗi người, sự thật về những góc sáng – tối thì chỉ mình Chúa mới thấu rõ. Người ta cố tình che dấu chính mình bằng cách phô trương vẻ bề ngoài. Ta cũng có thể tự đánh lừa mình cùng một cách như thế. Nhưng Chúa Giêsu muốn ta chọn cách khác. Ta có thể nhìn nhận đúng vai trò và vị trí của mình chỉ khi nào ta biết khiêm tốn và cúi xuống phục vụ những người bất hạnh.
Người Việt có câu “cục đất ném đi hòn chì ném lại” hay “có qua có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là khi cho ai cái gì thì người ta luôn mong được đền đáp tương xứng. Người ta tính toán vụ lợi, chẳng ai cho không ai cái gì. Chúa Giêsu chia sẻ với người đã thiết đãi Chúa bữa tiệc rằng, khi ông đãi tiệc thì đừng mời những người thân, những người quen biết nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù vì họ không có gì để đáp lễ. Giá trị cho đi không hệ tại những gì ta nhận được ở đời này nhưng là phần thưởng cao trọng trên trời. Đừng nghĩ đến những bữa tiệc linh đình mà ta không thể tổ chức hay không phải lúc nào cũng có dịp tổ chức. Điều mà Chúa Giêsu dạy dỗ ta chính là tinh thần phục vụ vô vị lợi, xuất phát từ lòng bác ái đích thực. Ta không thể thiết đãi ai đó một bữa tiệc nhưng đối với một người nghèo đang đói lả thì một chiếc bánh mì cũng là cả một bữa tiệc lớn. Ta có thể lấy một ly nước mát mời người giao hàng uống trong khi ta nhận hàng, hay đơn giản nở một nụ cười và lời cám ơn với họ. Những chi tiết nhỏ như thế rất dễ bị bỏ qua, quên lãng hay bị xem là không cần thiết. Khi sống cạnh những em khiếm thị, ta nhận ra mình có thể làm biết bao nhiêu việc nho nhỏ cho các em với một trái tim đầy tình yêu thương: dẫn các em đi lễ, ân cần chuẩn bị từng phần cơm cho các em, nói cho các em biết những vật cản, … Ta có thể nâng niu từng chi tiết nhỏ như thế và thực hiện chúng với tất cả tấm lòng. Đối với Chúa, một việc bác ái nhỏ bé được thực hiện với một tâm hồn khiêm tốn thật sự còn đẹp hơn muôn vàn công việc to lớn nhưng thiếu lòng bác ái đích thật.
Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã cho con được nhìn thấy khuôn mặt của Chúa trong cuộc thương khó. Chúa đã che dấu vinh quang rạng ngời mà nhận lấy một khuôn mặt bầm dập bị người ta khinh dể. Chúa đã cho con thấy đỉnh cao của sự tự hạ vì yêu thương. Xin giúp con đừng quá bận tâm đến vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng quan tâm chăm sóc ngôi nhà nội tâm và khiêm nhường phục vụ theo gương Chúa. Xin cho con từng ngày biết ngồi gần bên Chúa để con cũng biết yêu thương những anh chị em nghèo khổ của Chúa. Amen.
-------------------------------
Anna Cỏ May
Có cha xứ nọ đến thăm gia đình thân quen. Ông bà hỏi thăm về con gái mình xem nó đi tu TN 22-C142
Có cha xứ nọ đến thăm gia đình thân quen. Ông bà hỏi thăm về con gái mình xem nó đi tu thế nào, vì biết cha là người hay đến dâng lễ trong Dòng đó. Cha xứ nói: “Cứ mỗi lần tôi đến dâng lễ là thấy con gái bà ngồi ở ghế đầu. Có lẽ, nó thánh thiện, học giỏi nên được ngồi ở đó”. Tưởng chừng là như vậy, nhưng thật ra cô gái có chiều cao khiêm tốn.
Ngày nay, không chỉ vì chiều cao khiêm tốn mà một số người được xếp ngồi đầu nhưng có những người luôn ngồi ghế đầu vì bổn phận, họ là những nhà lãnh đạo; cũng có những người thích chơi nổi, muốn cho mọi người biết mình là ai trong các cuộc hội họp hay ở nơi đông người. Cho nên, họ đã chuẩn bị cho mình từ trang phục, đồ dùng, phương tiện đến vị trí ngồi sao cho mọi người biết và để ý đến mình. Đó là một trong những thái độ của tính kiêu ngạo, cho mình là nhất, là người quan trọng. Thái độ ấy dễ dẫn đưa chúng ta đến sự khinh chê người khác. Nếu sống trong thái độ này, chúng ta sẽ trở nên người như thế nào trong xã hội và trước mặt Thiên Chúa? Chúng ta dễ đạt được và thỏa mãn sự kiêu ngạo ở đời này nhưng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chẳng là gì. Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Khi mang trong mình sự kiêu ngạo, chúng ta khó gặp được Chúa mỗi khi đến với Ngài. Có những người dường như rất khiêm nhường khi đến với Chúa nhưng khi ra cuộc sống họ lại có cách hành xử khác. Như vậy, đức khiêm nhường chưa đạt đến sự trọn hảo. Chúng ta không chỉ khiêm nhường với Chúa mà còn cả tha nhân xung quanh chúng ta.
Vậy đức khiêm nhường có dành riêng cho ai không?
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi những ai đi dự tiệc hãy khiêm tốn ngồi chỗ cuối. Còn ông chủ thì hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (x Lc 14,12-14). Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi tầng lớp hãy trở nên khiêm nhường mà đến với nhau. Không chỉ khiêm nhường ở bên ngoài mà cả trong lòng mình, để tránh sự khiêm nhường giả dối. Chúa Giêsu là nguồn đức khiêm nhường, Ngài vẫn mời gọi mọi người học sự khiêm nhường (x Mt 11,30), vì khiêm nhường phá tan hàng rào ngăn cách giữa chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta không chỉ được lời cả thế gian mà còn được cả phần rỗi linh hồn (x. Mc 8, 36). Thánh Phaolô dạy rằng: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Đức khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn chúng ta đến hiệp thông huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu! Đức khiêm nhường rất cần cho mỗi người chúng con nhưng sao chúng con vẫn chưa thực hiện được? Xin Chúa giúp và biến đổi chúng con để biết sống khiêm nhường mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con được trở nên người có phúc. Amen.
-----------------------------
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Một ông thủ lãnh mời ăn, Mấy người biệt phái, đứng căn chỗ ngồi. Vào bàn chỗ nhất phần tôi, TN 22-C143
Một ông thủ lãnh mời ăn,
Mấy người biệt phái, đứng căn chỗ ngồi.
Vào bàn chỗ nhất phần tôi,
Dụ ngôn Chúa dậy, đừng ngồi chỗ cao.
Nhiều người ân trọng đức cao,
Xứng danh trọng vọng, bước vào ngay bên.
Khi mời dự tiệc trong đền,
Chọn bàn rốt hết, ngồi yên dưới cùng.
Chủ nhà nhận biết bao dung,
Ngỏ lời mời bạn, hãy cùng bước lên,
Xin mời qúi vị lên trên,
Thật là vinh dự, xứng tên phận người.
Ai mà kiêu ngạo ở đời.
Tự mình cất nhắc, danh hời đáng chê.
Khiêm cung hạ xuống chẳng nề,
Người đời khen ngợi, cận kề mến yêu.
Chúa rằng khi dọn cơm chiều,
Đừng mời bạn hữu, rủ nhiều bà con.
Người nghèo tàn tật héo hon,
Đón vào dùng bữa, điểm son phúc lành.
Theo thói thường, người đời coi trọng chỗ ngồi nơi bàn tiệc hơn là mâm cỗ. Chúng ta rất quen thuộc với kiểu cách ở đời là ngồi vào bàn tiệc phải theo vai vế và địa vị trong xã hội. Người ta coi rất trọng hình thức và vị thế trong cộng đoàn xã hội. Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà rằng: Khi dọn tiệc, hãy mời những người nghèo khó, què quặt đui mù, ông sẽ có phúc. Khó thật! Mấy ai có thể áp dụng.
Quan sát việc chọn chỗ ngồi trong bữa tiệc theo phong tục tập quán, người ta rất quan trọng hóa về địa vị và phẩm giá con người. Chúa Giêsu đi ngược lại với những suy nghĩ của những người đương thời. Chính Chúa đến bằng con đường khiêm nhu. Khiêm nhượng chính là một nhân đức. Khiêm nhượng là chấp nhận đúng sự thật mình có. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn đời, thấy rằng chúng ta còn thua kém biết bao nhiêu người về lòng đạo đức, về khả năng, về sự hiểu biết và về kinh nghiệm cuộc sống. Chúng ta có gì mà không phải là do hồng ân đã lãnh nhận. Trước mặt Chúa, chúng ta còn nghèo túng hơn nhiều. Chúng ta chỉ là tro bụi và chỉ như là hơi thở thoáng qua. Chúa rút hơi thở, chúng ta trở về hư vô.
Chúa Giêsu khi xưa ra rao giảng trong hoàn cảnh của hai nền văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Người Hy Lạp coi sự khiêm nhường như là một sự thoái hóa và nhu nhược. Còn người Do Thái coi là một nhân đức. Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự khiêm tốn. Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Họ muốn nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giầu có hơn và có thế lực hơn. Vì thế, họ đã không ngần ngại tìm cách hạ thấp hay chà đạp người khác xuống. Đúng thế, kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Không ai ưa người kiêu ngạo. Ngay cả những người kiêu ngạo cũng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.
Truyện kể: Có hai vị bô lão ngồi lại với nhau tâm sự. Một người nói: Khi tôi còn trẻ, tôi hay kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo làm tôi lo lắng. Tôi lo về những cái người khác nghĩ hay nói về tôi. Khi tôi trưởng thành và khôn ngoan hơn. Tôi không để ý tới những lời người khác nói về tôi. Nay tôi già rồi, tôi nhận ra rằng chẳng có ai để ý hay nghĩ gì về tôi cả. Thật ra, nhiều người nghĩ mình là quan trọng, để rồi nghĩ rằng người khác lúc nào cũng để ý đến mình và rồi chúng ta trở nên kiêu căng.
Khiêm tốn không phải là sự hèn nhát mà là sự can đảm và dũng mạnh. Chỉ những ai mạnh mẽ mới dám hạ mình phục vụ anh chị em. Khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy yêu thương và là một thái độ hoàn toàn tự do. Khiêm tốn mở đường tự do cho chúng ta đi vào Nước Trời.
--------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Trong những năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ. Chúa Giêsu đã tiếp xúc với mọi lớp người TN 22-C144
Trong những năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ. Chúa Giêsu đã tiếp xúc với mọi lớp người, Ngài đã thông cảm, chạnh lòng thương xót tới đám đông dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc. Chúa Giêsu đã đụng chạm tới mọi nỗi khổ đau của con người. Ngài quan sát những sự việc xẩy ra trong xã hội Do Thái lúc đó để đưa ra những dụ ngôn nhằm dạy các môn đệ và mọi người.Hôm nay, nhân được mời dự tiệc cưới do một thủ lãnh Pharisêu mời, Chúa Giêsu thấy một số khách mời chọn cỗ nhất để ngồi.Chọn cỗ nhất để ngồi có nghĩa tự mãn, tự đề cao mình, coi mình là hơn người khác, có địa vị, chỗ đứng cao hơn người.Do đó, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu dụ ngôn về sự khiêm nhường.
Vâng, Chúa Giêsu đã nói :” Khi anh được mời đi ăn cưới,thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: xin anh nhường chỗ cho vị này “ ( Lc 14,8-9 ).Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta điều này, Ngài cũng muốn nhắc nhở mọi người :’ Đừng tranh giành quyền thế, ham mê địa vị, đến độ phải để cho người khác triệt hạ…Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa thâm trầm hơn, ấy là có những người tự đặt chỗ cho mình về mặt thiêng liêng, về mặt đạo đức, tự cho mình là xứng đáng dù mình có lỗi phạm…Đối với Chúa thì khác, Ngài có cái nhìn từ chiều sâu, từ cõi lòng của mỗi người. Ngài đã nói :” Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “. Đứvc Giêsu mời gọi con người hãy từ bỏ sự tự mãn, tự kiêu, tự đại để sống khiêm tốn. Khiêm nhường là tự nhận tất cả là do Chúa và chúng ta được lớn lên mỗi ngày nhò tha nhân, nhờ anh chị em xung quanh. Người khiêm tốn không coi địa vị, chức vụ là quan trọng, nhưng tất cả đều được đặt dưới sự quan phòng của Chúa. Người khiêm tốn không tự mình vinh vang, tự tôn coi mình có địa vị cao hơn người khác mà đặt mình dưới bàn tay uy quyền của Chúa như Chúa đã từng nói :” Ta đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ “. Người khiêm tốn là người hân hoan phục vụ trong yêu thương, hầu hạ người khác với tâm hồn quảng đại, yêu thương. Con người chúng ta thường đánh giá người khác dựa trên địa vị, chức tước trong xã hội.Tuy nhiên có những người thấp cổ bé họng không có ghế, không có chỗ đứng trong xã hội, nhưng họ có tấm lòng, có lương tâm thì còn hơn những người có chức vị mà sống không tốt vv…Trong bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu đang nói với những người Biệt phái cùng dự tiệc với Ngài và các môn đệ của Ngài.Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc “ tiệc cưới “ của người Do Thái thời đó, để nói về Nước Thiên Chúa “ các người Do Thái là dân Chúa chọn, họ được mời tham dự Nước Trời nhưng họ từ chối,tuy nhiên, các người nghèo khó, tàn tật, đui mù cũng được Chúa mời, những người này đã nhận lời và được vào Nước Trời. Đây là điều Chúa đã tiên báo : dân ngoại giáo sẽ vào thya chỗ dân Do Thái được mời trước.
Chúa nhắc nhở con người, cảnh giác chúng ta đừng quá bám víu vào thế gian, vào cuộc đời mau qua này, đừng đặt con người chúng ta trên của cải, danh vọng, địa vị vì có người đến sau sẽ trở nên trước hết và có người đến trước sẽ trở nên rốt hết. Chúa đã đồng hóa mình với kẻ khó nghèo, tàn tật, bất hạnh, tù đầy, bị ngược đãi vv…Cho nhưng không, vô vị lợi, không tính toán là điều quan trọng cho mỗi môn đệ của Chúa. Khiêm tốn, tự hạ là điều Chúa quý chuộng. Lucifer vì quá kiêu ngạo nên đã bị Thiên Chúa giáng phạt. Goliath cho mình là to lớn, sức mạnh vô song, tự mãn, tự tôn, nên đã bị cậu bé Đavít quật chết…
Chính vì thế, chọn cỗ nhất, chọn chỗ nhất nơi tiệc cưới, nơi những cuộc hội họp có đông người là tự mãn với địa vị, với chức danh của mình. Chúa nói hãy khiêm tón ngồi ở dưới để khi gia chủ tới mời lên ngồi trên cao, lúc đó người được mời sẽ được danh dự trước mặt mọi người. Chúa còn nói đừng mong người khác đáp trả khi họ nghèo nàn, túng thiếu. Chúng ta đã đón nhận nhưng không phải cho lại nhưng không vv…Khiêm tốn sẽ được tôn lên.Tự mãn, kiêu ngạo sẽ bị hạ xuống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn vì tất cả đều từ Chúa. Chúng con đã nhận nhưng không, thì phải cho lại nhưng không. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra sự khiếm khuyết, yếu đuối của chúng con và luôn đặt cuộc sống, sinh mạng của chúng con dưới sự quan phòng của Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.ChúaGiêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu bài học gì nhân tiệc cưới hôm nay?
2.Khiêm nhường là gì ?
3.Thủ lãnh các người Biệt phái là ai ?
4.Tại sao những người Biệt phái lại luôn chống đối Chúa Giêsu ?
5.Tội kiêu ngạo là tội gì ?
------------------------------
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Câu châm ngôn nói lên tâm lý bình thường của người TN 22-C145
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Câu châm ngôn nói lên tâm lý bình thường của người Việt nam, thích được danh giá, khen tặng giữa nơi đông người. Xã hội Việt nam ngày xưa rất cô lập với lũy tre làng khi mà những chuyến du lịch xa hay những tin tức chưa đến được với quần chúng thì cái đình làng bé nhỏ của quê nhà là nơi mọi người thường gặp gỡ và cũng là nơi nhiều người muốn được danh giá và khen tặng.
Trong truyền thống minh triết của những người do thái, những bậc hiền triết đã biết huấn luyện cho mọi người có một tầm nhìn khác hơn và cập nhật hơn. Những đức tính khiêm nhường, hiền lành phục vụ phải là những đức tính mà họ phải khắc cốt ghi tâm, bởi vi đó là những đức tính được Thiên Chúa yêu mến và quí chuộng. Không phải khi làm lớn có địa vị cao là dịp để người ta nên kiêu căng tự phụ hống hách, mà đó là lúc họ càng phải biết khiêm nhường và hiền lành để phục vụ, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, và Thiên Chúa yêu thương những người biết sống khiêm nhường hiền lành phục vụ: “càng làm lớn thì con càng phải hạ mình trong mọi sự và đó là điều đẹp lòng Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Đấng quyền năng cao cả”.
Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay liên hệ tới việc Chúa Giêsu nhận xét và đưa ra lời khuyên cho những người đồng bàn nhân việc người dự bữa ăn ở nhà của một thủ lãnh người biệt phái. Vào thời Chúa Giêsu, đối với những người do thái, nơi người ta thường gặp gỡ nhau vào những dịp ăn uống trong những bữa tiệc nơi các gia đình. Trong giới vị vọng lúc bấy giờ là những luật sĩ và những người biệt phái, nhiều người vốn có tâm lý thích chọn chỗ nhất trong đám tiệc để được mọi người khen tặng và kính trọng. Đây là một tâm lý bình thường và trở nên phổ biến. Nhận xét cách người ta thường lựa chọn chỗ ngồi trong các đám tiệc, Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên thực tế đầy khôn ngoan thận trọng cho họ : khi được mời dự tiệc, đừng vội chọn chỗ nhất trong đám tiệc, lỡ khi có người khác cao trọng hơn bạn cùng đi vào thì chủ nhà sẽ phải nói với bạn nhừơng chỗ cho người danh giá hơn; nhưng ngược lại hãy biết chọn chỗ thấp để chủ nhà sẽ đến mời bạn vào chỗ cao hơn, khi đó bạn sẽ được danh giá và kính trọng trước mặt mọi người. Mặt khác, Chúa Giêsu còn đưa ra một lời khuyên khác nữa dành cho những người tổ chức tiệc tùng. Họ hãy biết mời những người nghèo khổ túng thiếu là những người không có khả năng mời lại mình.
Nếu chỉ dừng lại ở những lời khuyên này, có lẽ những lời dạy của Chúa Giêsu cũng giống những lời dạy của một bậc thầy khôn ngoan dạy xử thế khác. Chúa Giêsu không chủ đích dừng lại ở những lời dạy của một bậc thầy dạy cách xử thế khôn ngoan trong trường đời. Vào thời kỳ này, những bậc thầy do thái cũng đưa ra những lời khuyên đầy khôn ngoan như thế trong việc chọn chỗ ngồi trong đám tiệc hay khi tổ chức các bữa ăn mời khách đến dự tiệc tại nhà mình. Viễn tượng của lời dạy của Chúa Giêsu mới mẻ hơn ở chỗ bắt đầu hướng đến sự đảo lộn mọi trật tự vào cuối thời gian khi mà chính Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách quyết định. Lúc bấy giờ những người sau hết sẽ nên trước hết, những người trước hết sẽ nên sau hết và những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và những ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chúa Giêsu bắt đầu mở rộng tầm nhìn của những người do thái để họ biết hướng đến viễn tượng quyết định cuối cùng của cuộc đời con người thay vì chỉ khư khư hạn hẹp trong góc nhìn thiển cận của mình. Ở trong đời sống xã hội, con người có những tương quan và đã ao ước được kính trọng giữa mọi người thế nào, thì họ hãy biết khôn ngoan để được đón tiếp và kính trọng trong bàn tiệc của Nước Thiên Chúa là vận mệnh quyết định của con người sau này. Trong bàn tiệc này, sự kính trọng sẽ không còn đặt trên địa vị sang hèn như trong xã hội con người nữa, mà sự kính trọng sẽ thuộc quyền quyết định của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ quyết định dành sự kính trọng này cho những người đã biết tự hạ, sống khiêm nhường trong cuộc đời trần thế, họ sẽ được nâng cao; hay những người đã biết quảng đại mời những người nghèo khổ túng thiếu đến dùng bữa tại nhà mình, khi mà họ không có gì để trả lại, nhưng chính Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ trong ngày người công chính sống lại. Những hành vi khiêm nhường phục vụ và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ sẽ là điều kiện để được Thiên Chúa thưởng công khi mà Thiên Chúa là Đấng vô cùng giàu có và đại lượng sẽ trả công bội hậu cho họ.
Thời nào cũng thế, chúng ta dễ bị ám ảnh và chi phối bởi những cái nhìn hạn hẹp, người làm lớn quyền cao chức trọng dễ trở nên tự kiêu, người không có địa vị cao thì lại ao ước có địa vị và xem địa vị là lúc mình được ăn trên ngồi trước thiên hạ. Tâm lý hám danh cầu lợi làm cho tầm nhìn của chúng ta trở nên hạn hẹp và gò bó trong cái nhìn thiển cận hẹp hòi. Chúa Giêsu bắt đầu thúc đẩy chúng ta mở rộng tầm nhìn hướng đến những chân trời rộng lớn hơn và quyết định hơn, để rồi có cách hành xử thích hợp trong cuộc đời hiện tại, đừng để mình bị thúc đẩy và chi phối bởi những thói đời chật hẹp. Bởi vì như những lời giải thích trong bài đọc thứ hai của thư Do thái nhắc nhở, chúng ta đang tiếp cận với thực tại mới và quyết định là chúng ta đang tiến tới núi Sion, núi thánh của Thiên Chúa và là Giêrusalem thiên quốc và chung quanh chúng ta là muôn vàn thiên thần và các thánh là cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, những linh hồn của những người công chính, và nhất là chúng ta đang đến cùng Thiên Chúa là Đấng phán xét mọi người, và đến cùng Đức Giêsu là trung gian của giao ước mới. Một hành trình và điểm đến quan trọng như thế khích lệ và soi sáng cho bước đi của mỗi người chúng ta là bước đi trong ánh sáng của những lời dạy của Chúa Giêsu để biết sống khiêm nhường và quảng đại với mọi người. Lời dạy của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về căn tính chân thật của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là những người được Thiên Chúa mời gọi đến chung hưởng hạnh phúc vô tận của Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vào hạnh phúc chân thực này, nơi bàn tiệc quyết định là Nước Thiên Chúa khi mà Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mọi người, khi mà Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng ta cách dư dật cho những gì mà chúng ta đã biết cho người khác cách quảng đại trong cuộc đời trần thế.
-----------------------------------
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Vào thời Đức Giêsu, dường như người ta chưa có thói quen xếp chỗ ngồi trước trong bữa tiệc TN 22-C146
Vào thời Đức Giêsu, dường như người ta chưa có thói quen xếp chỗ ngồi trước trong bữa tiệc. Cho nên, khi Đức Giêsu được một Thủ lãnh Biệt phái mời đến dự tiệc, Ngài trông thấy có những người tìm ngồi chỗ danh dự.
Có những người lại giả vờ ngồi chỗ rốt hết, nhưng cố ý để chủ nhà mời lên trên cho hãnh diện. Đây là thói quen của những người Biệt phái, họ thường ưa thích ngồi chỗ cao trong nơi đám tiệc và Hội đường.
Ngày nay, trong bất cứ bữa tiệc nào, chuyện xếp chỗ ngồi là việc khá quan trọng. Chỗ ngồi thường được xếp theo tuổi tác, địa vị và quan hệ xã hội.
Thế nhưng, trong bàn tiệc Nước trời thì khác hẳn: chỗ danh dự nhất chính là chỗ rốt hết. Người nào càng khiêm tốn bao nhiêu thì sẽ được Chúa cao nâng bấy nhiêu. “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Đức Giêsu không bao giờ dạy một chân lý nào mà Ngài không làm gương trước. Nếu trần gian này ví như một bàn tiệc, thì khi bước vào bàn tiệc trần gian, Ngài đã chọn cho mình một chỗ rốt hết.
Ai trong chúng ta dù nghèo đến đâu đi nữa, thì cũng sinh ra trong một ngôi nhà êm ấm; còn Đức Giêsu sinh ra trong hang lừa máng cỏ, thiếu thốn mọi tiện nghi.
Anh chị em cho dẫu có nghèo đi chăng nữa, thì cũng có một mái nhà hay ít ra một túp lều để che nắng che mưa; còn Đức Giêsu nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu”.
Chúng ta dầu thiếu thốn đến đâu đi nữa thì khi chết cũng nằm trên giường, y phục đầy đủ, con cháu họ hàng ấm cúng. Còn Đức Giêsu khi Ngài chết trên cây thánh giá, chỉ mình trần thân trụi không mấy người thân bên cạnh.
Chúng ta dù có cùng cực đến mấy đi nữa khi chết còn có nấm mồ để chôn; còn Đức Giêsu phải chôn nhờ nơi ngôi mộ người khác. Thật đúng là “sinh vô gia cư tử vô địa táng”.
Đức Giêsu chọn chỗ rốt hết không phải là Ngài không có khả năng, Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, Ngài có đầy đủ tất cả, nhưng Ngài tự chọn chỗ rốt hết, để làm gương cho chúng ta sống tinh thần khiêm tốn.
Chẳng những Đức Giêsu dạy chúng ta chọn chỗ rốt hết, nhưng Ngài còn để lại gương khiêm tốn phục vụ bằng việc rửa chân cho các môn đệ. Đang dùng bữa tiệc ly, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, quỳ gối xuống rửa…. Cởi áo choàng là cởi bỏ địa vị Thiên Chúa, lấy khăn thắt lưng và quỳ gối là đóng vai đầy tớ. Ngài dạy chúng ta khi phục vụ người khác, thì đừng nghĩ đến địa vị của mình, nhưng noi gương Chúa hạ mình xuống phục vụ như người tôi tớ.
Đức Giêsu biết trước Phêrô sẽ chối Ngài; Giuđa sẽ phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn rửa hết 12 đôi chân. Ngài rửa đi những yếu đuối tội lỗi của các ông; Ngài lau sạch những bàn chân còn vương lấm bụi trần, tranh giành chỗ thấp chỗ cao, để các ông xứng đáng dự tiệc với Ngài.
Qua đó, Đức Giêsu muốn chúng ta bắt chước Ngài rửa chân cho nhau. Cần rửa đi những gì chưa hài lòng nhau giữa vợ chồng và con cái; cần rửa sạch đi những bất đồng chia rẽ với nhau trong tình làng nghĩa xóm.
Đức Thánh Cha Piô XII nói rằng: “Nếu trong gia đình mà người chồng biết quên mình đi chỉ nghĩ đến vợ và con cái; nếu người vợ biết quên mình chỉ lo cho chồng con; và con cái biết quên mình chỉ nghĩ đến cha mẹ và anh em, thì gia đình đó là thiên đàng trần thế”.
Thật vậy, nếu mỗi gia đình là một bàn tiệc, mà ai cũng tìm chỗ rốt hết, có nghĩa là quên mình để sống cho người khác, thì gia đình đó thật hạnh phúc biết bao.
Anh chị em thân mến,
Cử hành Thánh lễ, là chúng ta tham dự một bữa tiệc. Chúa là chủ tiệc, chúng ta là khách được mời. Chúa đãi chúng ta bằng chính Thịt Máu của Ngài.
Chớ gì mỗi lần tham dự bàn tiệc thánh, không phải chúng ta chọn chỗ rốt là đứng cuối, hay đứng ngoài nhà thờ, nhưng chúng ta hãy học lấy tinh thần khiêm tốn như Chúa đã làm gương cho chúng ta.
Đọc lại những trang Tin mừng, không thấy Đức Giêsu mời chúng ta học nơi Ngài cách làm phép lạ; học nơi Ngài cách chữa bệnh hay đi rao giảng; nhưng chỉ mời gọi chúng ta học nơi Ngài bài học duy nhất đó là “Hiền lành và khiêm nhường”.
Xin cho mỗi người chúng ta là những học sinh giỏi được tốt nghiệp trong mái trường Giêsu, để ngày sau được Thầy Giêsu cao nâng chúng ta vào bàn tiệc nước trời. Amen.
-----------------------------
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11)
Anh chị em thân mến
Tuần trước Chúa nói với chúng ta: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” và ở một nơi khác trong TM Chúa TN 22-C147
Tuần trước Chúa nói với chúng ta: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” và ở một nơi khác trong TM Chúa bảo con đường Chúa mời gọi chúng ta bước vào là con đường hẹp. Đây là con đường chính Chúa đã đi và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.
Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó thì từ Chúa nhật hôm nay cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.
A– Hôm nay chúng ta bắt đầu với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường.
1. Các bản văn Phụng vụ hôm nay đều ít nhiều nói về vấn đề này.
+ Bài Sách Đức Huấn Ca nói: càng làm lớn, càng phải hạ mình trong mọi sự.
+ Bài Tin Mừng: Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
+ Nâng lên đến đâu thì bài Thánh Thư trả lời: Đến Thành trì của Thiên Chúa hằng sống.
2. Nói tới khiêm nhường thì cũng phải nói tới kiêu ngạo. Kiêu ngạo đối nghịch với Khiêm nhường.
+ Sách Đức huấn ca nói: tai họa dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa.
+ Bài Tin Mừng cũng cảnh cáo: Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống.
Hôm ấy trên con đường đẫn quân đi dánh nước Nga, Vua Napoléon của nước Pháp thấy quyền uy của mình cao như núi, ông nhìn lên trời và tự nhiên buột miệng thốt lên: “Trời là của Chúa. Còn trái đất là của ta”
Chính trong trận chiến này Napoléon đã bị thảm bại và sau đó bị đầy ra đảo Saint Hélène và chết tủi nhục tại đó.
Quả đúng là “Ai tự đưa mình lên sẽ bị hạ xuống.”
Thánh Giacobê nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Jac 4,6)
Gabriel Meurier một nhà tư tưởng lớn của Pháp nói: “Kiêu căng đi trước, tủi nhục và tai họa sẽ bén gót theo sau”
B- Thiên Chúa lại yêu thích những ai khiêm nhường. Nhưng khiêm nhường là gì? Sống khiêm nhường là sống như thế nào?
+ Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động không dám nhận trách nhiệm – trách nhiệm làm người ở đời và trách nhiệm làm con Thiên Chúa.
Khiêm nhường lại càng không phải là đeo vào cho mình một thứ mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác, làm cho người khác phải để ý đến mình.
Trong Tin Mừng đã nhiều lần Chúa đã cảnh cáo mấy ông Biệt phái và luật sĩ về cái tội này: Họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, thích ngồi ở cỗ nhất trong bàn tiệc chỉ với một mục đích là làm cho người ta đễ chú ý đến mình. Đó là một thứ mặt nạ của sự kiêu ngạo.
Khiêm nhường là biết can đảm nhận lãnh những trách nhiệm cũng như biết cậy nhờ vào ơn của Chúa mà cố gắng chu toàn.
Tấm gương của Abraham trong Cựu Ước là một thí dụ. Abraham ý thức rất rõ ông chỉ là tro bụi trước mặt Chúa, (Kn 18,27) nhưng lại rất chân thành, dám cả gan nhận lấy trách nhiệm, mạnh dạn mặc cả với Chúa về số người công chính cần phải có để xin Chúa tha cho thành Sôđôma và Gomôra.
Giêriêmia đã từ chối việc Thiên Chúa chọn ông làm ngôn sứ – lấy lý do là mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6) Nhưng khi đã nhận trách nhiệm Chúa trao thì ông đã trở thành người hết sức khiêm tốn và can đảm.
Một vị đạo sĩ kia tu hành đã được lâu năm. Ông tự cảm thấy rất bằng lòng với các nhân đức của mình. Chính vì thế mà một hôm kia ông mạnh dạn đến trước thần Silva mà cầu nguyện như thế này:
– Lạy Ngài, con đã làm mọi việc tốt lành. Con đã chăm chỉ tu hành không sai sót một ly. Ngài hãy truyền lệnh cho con làm bất cứ điều gì, con sẽ sẵn sàng làm tất cả.
Thần Silva hiện ra và nói:
– Tất cả mọi việc con làm đều tốt. Giờ đây, Ta sẽ thử con một lần nữa: con hãy lấy một cái đĩa đựng đầy dầu và đội ở trên đầu – rồi con cứ như thế mà đi qua các đường phố. Nhớ không được để một giọt dầu nào rơi ra ngoài.
Người tu sĩ sau khi nghe lệnh đã hân hoan lên đường. Sau khi đi một vòng, mà chiếc đĩa đựng dầu vẫn không rơi mất một giọt. Ông liền trở lại trước tượng thần Silva với hy vọng sẽ được Thần trọng thưởng. Nhưng vừa thấy vị tu sĩ đó tới Thần nói ngay:
– Quả thực con đã cố gắng hết sức nhưng tiếc thay là đầu óc của con lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình, đến phần thưởng của mình mà chẳng bao giờ con nghĩ đến ta, đến lòng tốt cũng như tình thương của ta. Giả như con có đánh đổ một vài giọt dầu nhưng lòng của con vẫn nhớ đến ta thì điều đó có lẽ sẽ làm ta vui hơn. Hoặc như con có sống bớt khắc khổ, bớt hãm mình ép xác mà giữ được lòng yêu mến đối với ta thì điều đó có lẽ sẽ tốt hơn. Đàng này cho đến nay, con làm tất cả những điều đó vì lòng kiêu hãnh, chỉ vì muốn được ta khen và chiếm được phần thưởng mà thôi. Quả thực là con chưa xứng đáng là môn đệ của ta.
Sống sao cho đúng với đạo làm con không phải dễ. Phải có một lòng khiêm nhường chân thực mới có thể sống được như thế.
+ Theo ngài Cha Mark Link thì khiêm nhường là một cái gì sâu xa và đẹp đẽ hơn như chính lời Chúa đã chỉ dẫn: “Hãy học với ta vì ta hiền lành và khiêm nhường” Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ.
Vậy thì sống khiêm nhường là sống như Chúa đã sống, không phải cho mình nhưng là cho người khác.
Khiêm nhường là biết dùng những khả năng như Chúa đã dùng khả năng của Ngài để không phải làm vinh danh cho riêng Ngài nhưng là mưu ích cho người khác.
Hà khưu Thượng nhân hỏi Tôn thúc Ngao:
– Có ba điều chuốc vạ vào thân ông đã biết chưa?
+ Tôi chưa được biết.
– Tước vị cao người ta ganh.
Quyền thế lớn người ta ghét
Lợi lộc nhiều người ta oán.
+ Không phải như thế:
Tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường.
Quyến thế tôi càng lới tôi càng ở khiêm cung
Lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho người chung quanh. Như thế thì làm sao mà thiên hạ có thế oán tôi được!
Đó là một trong những cách sống khiêm nhường như Chúa đã sống.
+ Nhiều người còn định nghĩa khiêm nhường là biết chấp nhận sự thật. Đây là một việc không dễ dàng. Chấp nhận sự thật thường đi đôi với việc phải điều chỉnh lại cách sống của mình.
Triết gia Diogène sống với một con chó trong một cái thùng gỗ bên vệ một con đường. Ông hạn chế đến mức tối đa những nhu cầu cần thiết đến nỗi cái chén múc nước ông cũng ném đi khi thấy hai bàn tay bụm lại cũng hứng được nước.
Nghe danh nhà hiền triết, một hôm Vua Alịchsơn Đại đế ..đứng cạnh cái thùng và lễ độ lên tiếng:
– Tiên sinh cần gỗ, quả nhân xin. . .
Triết gia trả lời: “Ta cần ngươi đứng tránh ra để nắng có thể dọi vô cửa thùng của ta.”
Tên tùy tùng của nhà vua rút gươm ra toan chém, nhưng vua gạt đi và nói: “Nếu ta không là Alịchsơn thì ta muốn làm Diogène.
Sau đó bằng một giọng điệu của bậc làm thầy, Alịchsơn nói với tên lính hầu cận:
– Người sinh ra ta là cha của ta: Đó là Hoàng đế Philiphe. Người dạy ta biết sống cho xứng đáng là Thầy của ta: Đó là Aristode.
Ông ngụ ý muốn nói: Diogène là bậc thầy của mình.
Biết cúi đầu nhìn nhận điều hay lẽ phải cho dù điều đó có đụng chạm đến danh tự, dến uy quyền, đến lợi lộc của mình. Đó cũng là cách sống khiêm nhường.
-------------------------------
Trầm Thiên Thu
Có lẽ người ta thường đồng hóa hai trạng thái Sống và Tồn Tại, cho rằng giống nhau vì “còn TN 22-C148
Có lẽ người ta thường đồng hóa hai trạng thái Sống và Tồn Tại, cho rằng giống nhau vì “còn thở”. Thật ra đó là hai thái cực khác nhau. Không giống nhau, hoặc khác nhau, bởi vì người ta nỗ lực để “tồn tại” mà chưa chắc thực sự nỗ lực “sống”.
Cuộc sống đa dạng nên cũng luôn có nhiều thái cực, khác nhau hoặc đối lập với nhau. Chắc chắn không ai cao tới mức không phải vói tới hoặc ngước lên, và cũng chẳng ai thấp đến nỗi không cần cúi xuống. Cuộc đời đôi khi cần ngước lên và đôi khi lại cần cúi xuống. Ngước lên dễ dàng nhưng cúi xuống không dễ, thậm chí là khó lắm. Ở đây, ngước lên ngụ ý kiêu căng, hống hách, tự tôn; cúi xuống ngụ ý tự hạ, khiêm tốn, biết mình là gì. Thế mà Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao đã “HẠ MÌNH, VÂNG LỜI cho đến nỗi bằng lòng CHỊU CHẾT, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Nhìn lại mình mà tự thẹn và thấy mình đáng ghê tởm!
Trong Việt ngữ, có điều thú vị về các từ “láy” làm mạnh nghĩa, và biến thành các từ kép: Trắng toát – đen thui, cao ráo – thấp tè, nóng ran – ẩm thấp, giàu sang – nghèo hèn,… Về cái giàu thì miễn bàn, còn cái nghèo thì thường kèm theo những chữ “khó ưa” – như nghèo khổ, nghèo khó, nghèo mạt,… Vì thế, người nghèo luôn cần được quan tâm, nâng đỡ, chia sẻ,… vì họ luôn sống “khó khăn”, gặp “khổ đau” và chịu “hèn hạ” – thậm chí còn bị nhục. Đúng là khổ thật. Thảo nào Chúa Giêsu rất thương dân nghèo!
Nói về cái nghèo, cố NS Lam Phương mô tả trong ca khúc “Kiếp Nghèo” thật não nề: “Đường về đêm nay vắng tanh, rạt rào hạt mưa rớt nhanh, lạnh lùng mưa xuyên áo tơi, mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh. Lầy lội qua muôn lối quanh, gập ghềnh đường đê tối tăm, ngập ngừng dừng bên mái tranh nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi.” Cảnh nghèo thê thảm quá, người nghèo khổ não quá. Người nghèo khổ sở mọi thứ, nhọc nhằn trên từng cây số!
Nghèo thì buồn, không chỉ tả tơi mà còn chơi vơi, đơn côi – vì không ai thèm đến gần. Thật thấm thía với nhận định của văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ): “Người nghèo hy vọng được MỘT thứ, người xa xỉ hy vọng được RẤT NHIỀU thứ, người tham lam hy vọng được TẤT CẢ.” Một thực tế xã hội chua chát biết bao! Ông là người trào phúng nhưng ý tưởng lại rất nghiêm túc. Đó là cái cười đau đáu về con người. Người nghèo là người đến chẳng ai mong, đi không ai giữ, ở chẳng ai cần, người ta có nhìn thấy họ cũng coi như không.
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4: 8 & 16) Đạo Chúa là Đạo Yêu Thương. Vì thế, yêu thương vô cùng cần thiết trong cuộc sống – cả tâm linh và đời thường. Chúa Giêsu bảo: “Người nghèo lúc nào anh em cũng có với anh em.” (Mt 26:11) Giáo Hội phân ra rõ ràng 14 mối thương người – gồm 7 điều về “thương xác” và 7 điều về “thương hồn”. Thánh Gioan đã phân tích rạch ròi: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Quá đỗi rõ ràng, không thể không hiểu hoặc biện hộ!
Lời khuyên trong sách Huấn Ca nói rõ ràng: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3:17-18) Biết vậy mà không dễ thể hiện, đôi khi xuôi lời nói mà trái việc làm – gọi là nói suông. Thật vậy, người làm nhỏ (bề dưới) không hạ mình thì cũng chẳng dám vênh váo. Chết liền! Người làm lớn (bề trên) khó mà hạ mình, vì sĩ diện to lắm. Thế nên càng dễ khoác lác. Chúa Giêsu rất ghét, như Ngài nói về kinh sư và biệt phái: “KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình!” (Mt 23:13-32) Tại sao vậy? Bởi vì họ “nói mà không làm.” (Mt 23:3)
Kinh Thánh xác định: “Quyền năng Đức Chúa lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.” (Hc 3:20) Khiêm nhường là nhân đức nền tảng của các nhân đức, Thiên Chúa rất thích người khiêm hạ. Đức Maria cũng đã từng cất cao lời: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:51-52)
Con người có “tính bổn thiện”, nhưng chữ TÔI biến dạng đủ kiểu với dấu giọng (Tối, Tồi, Tội) Tương tự, chữ Tiền cũng khá thú vị: Tiền y như Tiên, khéo dùng thì có thể Tiến (tiến bộ, thăng tiến), keo kiệt thì hóa Tiện (hà tiện, bần tiện, đê tiện) Tôi và Tiền đều là mẫu tự T, và cả hai đều có thể biến người ta thành kiêu ngạo. Sách Huấn Ca nói: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe. Bác ái đối với người nghèo.” (Hc 3:28-29)
Chắc chắn rằng bác ái với người giàu thì dễ, và người ta thích hơn; còn bác ái với người nghèo ư? Thôi, miễn bàn! Tại sao? Giúp người nghèo thì chẳng ai biết, vì không được trao “bằng ân nhân”, không được ghi tên vào “sổ vàng”, không hãnh diện trước bàn dân thiên hạ. Có lẽ “sổ vàng” cũng tương tự một dạng “tệ nạn” trong tôn giáo. Bác ái rất khó. Thật ra chúng ta chỉ mới ở mức “bố thí” hoặc “công bằng”, vì bác ái là cho chính cái mình vẫn cần, còn chúng ta chỉ cho người khác những gì dư thừa mà thôi. Chưa thực sự đúng nghĩa bác ai đâu!
Thật đáng quan ngại với lời dạy của đại nhân Khổng Tử: “Đạo làm quân tử có BỐN điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận với việc sửa mình; đời có BỐN cái lo: Lo đức có ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc.” Ôi, không hề đơn giản chút nào!
Liên quan vấn đề công bình, bác ái, từ thiện,… (dạng “nhạy cảm” lắm), Chúa Giêsu bảo: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm.” (Mt 6:3) Có lẽ Chúa cũng chỉ muốn người ta đạt được mức tối thiểu là “bố thí” mà thôi chứ chẳng đòi hơn. Nhưng dù vậy thì cũng chán lắm, vì không ai biết thì buồn lắm. Chúa chơi ép ghê đi! Không, Ngài không ép, mà chỉ cảnh báo. Đúng là “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19:24; Mc 10:25) Thế nên, những ai bố-thí-thầm-lặng mới xứng đáng nên công chính. Người công chính thật hạnh phúc, bởi vì Thánh Vịnh mô tả: “Những người công chính múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời, niềm hoan lạc trào dâng.” (Tv 68:4)
Vui vì nhờ ơn Chúa chứ không phải vui vì mình làm được điều này hay việc nọ. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân. Danh Người là Đức Chúa; trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở.” (Tv 68:5) Ngài không là Chúa của người giàu, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước, người chỉ tay năm ngón, người được tiền hô hậu ủng, người có uy thế, danh vọng, quyền lực,… nhưng Ngài là “Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ.” (Tv 68:6) Thật vậy, “kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc, còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn.” (Tv 68:7) Ngài là hiện thân của Công Lý và Hòa Bình – xuất phát từ Chân Lý.
Trong một dịp đại lễ, một giám mục (người Việt) chia sẻ điều này: “Làm giám mục, tôi có mấy cái sợ: thứ nhất là sợ đi đến đâu cũng được người ta đón rước long trọng, băng-rôn, cờ xí, trống kèn, tôi rất sợ, sợ sau này tôi sẽ nghiện tiếng kèn, đến những nơi người ta đón tiếp đơn giản lại thấy thiếu thiếu. Cái sợ thứ hai là sợ sẽ không còn được nghe sự thật nữa, vì mọi người sẽ không bao giờ dám nói thật với mình, và mình sẽ sống trong ảo tưởng.” Có lẽ không cần phải nói gì thêm nữa!
Đó là một ý tưởng nghiêm túc, thông thoáng, đổi mới, mạnh dạn, nhưng thiết tưởng có lẽ vẫn có chút tiêu cực, vì chưa thực sự “cúi xuống”. Sẽ là tích cực nếu dám nói thẳng và cương quyết: “Xin đừng đón tiếp tôi long trọng như vậy, hãy bỏ hết cờ xí, băng-rôn, trống kèn,…” Nếu cần thì “làm thành luật”. Thế nhưng… Than ôi! Và rồi nếu có ai dám ý kiến ý cò gì thì lại “sinh tội ra”. Mà có ai dám nói thật và làm thật như vậy chưa? Có. Chính ĐGH Phanxicô đang tiên phong nêu gương. Nhưng ai sẽ quyết tâm noi gương ngài? (Gãi đầu hoặc gãi tai…).
Con người yếu đuối, thế nên cứ phải không ngừng chấn chỉnh, uốn nắn, sửa đổi. Chúng ta cùng chân thành thân thưa với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa ân hậu, gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi, Ngài đã bổ sức cho. Lạy Thiên Chúa, đàn chiên của Ngài đến ở nơi đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo.” (Tv 68:10-11) Chúa Giêsu luôn “dính liền” với cái nghèo: Sinh nghèo, sống nghèo và chết nghèo.
Vốn con nhà nghèo, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã tận dụng “cái vốn” đó để nên giống Đức Kitô, với quyết tâm khi còn sinh thời: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn.” Tương tự, Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã viết trong chúc thư: “Sinh trưởng trong sự nghèo nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của đời giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và giám mục.”
Đối với các tu sĩ, một trong ba lời khấn là “tuyên thệ sống khó nghèo”. Khấn nghèo là một vế, sống nghèo hay không là vế khác. Chúa Giêsu và các thánh – đặc biệt là Thánh Phanxicô Assisi – đã sống KHÓ NGHÈO, nhưng chúng ta lại sống KHÓ (mà) NGHÈO. Kể ra cũng “căng” thật chứ chẳng đùa đâu. Nói gì thì nói thì Cái Nghèo cũng chán thật: tả tơi, đơn côi, rã rời, rối bời, chơi vơi, buồn lơi,… Nhưng Chúa Giêsu không hề văn hoa bóng bẩy!
Người giàu thì sướng rơn, khỏe re, lại “có uy” nữa, bởi vì “miệng nhà giàu có gang, có thép”. Họ có thể làm cho “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, thay đen đổi trắng dễ như trở bàn tay. Thật vậy, lý của người giàu có sai cũng hóa đúng, còn lý của kẻ nghèo có đúng cũng bị coi là sai!
Cái gì cũng có hệ lụy, với kiểu “nhãn tiền” hoặc “nhân quả” đặc trưng. Thánh Phaolô nói: “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa.” (Dt 12:18-19) Rất rõ ràng, không mơ hồ. Kinh Thánh khuyên chúng ta “đừng ngại lên tiếng khi cần thiết” (Hc 4:23) nhưng “đừng nói trái sự thật” (Hc 4:25).
Có lẽ Thánh Phaolô sợ chúng ta chưa hiểu nên tiếp tục giải thích và “nói toạc móng heo” luôn: “Nhưng anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben.” (Dt 12:22-24) Một sự liên đới chặt chẽ, liên đới mọi thứ, không liên quan cái này thì cũng liên quan cái khác, đồng thời đó cũng là mối liên kết trong toàn thể Giáo hội. Tính liên đới như tấm lưới, phần nào cũng liên quan lẫn nhau – cả cái tốt lẫn cái xấu.
Trình thuật Lc 14:1, 7-14 đề cập đức khiêm nhường qua việc “chọn chỗ cuối” khi là khách được mời dự tiệc và “mời người nghèo” khi là chủ đãi tiệc.
Thánh Luca cho biết: Vào một ngày Sa-bát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa. Họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn về việc dự tiệc: Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này.”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.
Điều Chúa nói giản dị, dễ hiểu đối với mọi trình độ. Nhưng đó chỉ là chuyện bình thường, vấn đề Ngài muốn cảnh báo chúng ta điều thực tế mà lại rất quan trọng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Hai chiều ngược nhau, hai thái cực khác hẳn. Nhưng đó là vấn đề cốt lõi Chúa Giêsu muốn nói tới!
Đặc biệt hơn, Đức Giêsu nói với gia chủ: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Ôi chao, thật là “căng” quá chừng!
Quả thật, nghe thấy “sốc” lắm. Đãi tiệc tốn kém, vậy mà lại “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” thì lỗ to. Mời những người “tai mắt” mới có phong-bì-dày-cộm, mời người nghèo thì làm gì có lời? Lấy gì mà “trang trải”, lấy gì bù lỗ đây? Coi bộ không ổn chút nào! Thế nhưng Chúa Giêsu nói thật, không đùa, không bóng bẩy, không mơ hồ, không lý thuyết,…
Thông thường, sự thật vốn dĩ dễ gây mất lòng. Người dám sống nghèo là người thực sự can đảm, mạnh mẽ. Người giàu được người ta tôn trọng, đề cao; còn người nghèo bị người ta coi thường, hạ bệ, ghét bỏ,… Thật may vì Thiên Chúa lại luôn đề cao cái nghèo và thương xót người nghèo. Dĩ nhiên “cái nghèo” có nghĩa đen và nghĩa bóng, về vật chất hoặc tinh thần, nhưng khi nói đến cái nghèo thì người ta thường nghĩ ngay tới nghĩa đen về vật chất. Chắc chắn cái nghèo dạng nào cũng khổ.
Qua trình thuật của Thánh Luca, có hai điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn: [1] Đức khiêm nhường đích thực, [2] Không tính toán khi cho đi. Hai điều đó có liên quan lẫn nhau, chứng tỏ một tâm hồn chân chính và đạo đức. Kinh Thánh đã xác định: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35) Động thái “cho” cũng là một cách dấn thân, hy sinh, quên mình, từ bỏ mình. CHO và NHẬN có liên quan đức khiêm nhường. Cho và Nhận đều cần đúng cách – dĩ nhiên biết “cách cho” là thể hiện yêu thương, nhưng biết “cách nhận” cũng là cách yêu thương, vì không phụ lòng quý mến người khác. Sự vay mượn cũng có liên quan: “Kẻ thương người thì biết cho vay mượn, tiếp tay với người là tuân giữ điều răn. Khi người ta cần, con hãy cho vay mượn; khi con vay mượn, hãy trả đúng hạn kỳ” (Hc 29:1).
Không dễ thực hành bài học KHIÊM NHƯỜNG và CHO–NHẬN, nghĩa là khó áp dụng – nhưng “khó” chứ không phải là không làm được, nếu thực sự cố gắng và quyết tâm thì sẽ làm được. Và đặc biệt là có lợi ích cụ thể, như Kinh Thánh đã nói: “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền bù tội lỗi.” (Hc 3:30)
Thánh Lm Phanxicô Xaviê (1506-1552) nói: “Linh mục giảng cao siêu thần học mà không thực hành điều mình giảng thì chỉ là linh mục khoác lác.” Không chỉ đối với linh mục mà ai cũng là kẻ khoác lác nếu ngôn hành bất thuận. Chính Chúa Giêsu cũng đã lặp đi lặp lại điệp khúc “khó nghe” này: “KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình!” (Mt 23:13-32). Tại sao họ bị Ngài nguyền rủa nặng lời vậy? Bởi vì “họ nói mà không làm” (Mt 23:3). Thế thôi, nhưng phải tự “liệu hồn” đấy!
Kinh Thánh cho biết “sự lạ” này: “Có cái nhục đưa đến tội lỗi, và cũng có cái nhục là vinh quang và ân sủng.” (Hc 4:21). Cái nhục cũng có loại tốt và loại xấu. Thật thú vị. Tuyệt!
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con sống đức ái đúng nghĩa, đặc biệt là đối với những người nghèo, đồng thời cũng xin giúp chúng con can đảm sống nghèo để có thể chết nghèo như Đại Sư Giêsu, nhờ vậy mà chúng con có thể được trở thành công dân của Nước Trời mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
--------------------------------
Lm. Jos. DĐH.
Tại trần thế này, chỗ nhất, chỗ vinh dự, thuộc về người giầu, người có chức quyền, người tài giỏi TN 22-C149
Tại trần thế này, chỗ nhất, chỗ vinh dự, thuộc về người giầu, người có chức quyền, người tài giỏi thông thái, “vị thế” ấy đã quá quen đến độ chẳng mấy ai còn “phân bì” gì nữa. Tâm lý tự nhiên, người ta thích đi bên người đẹp, được gần người hiền tài tham mưu vấn kế, và có đại gia hậu thuẫn cho mọi công việc, ít nhiều cũng vừa “có tiếng, có miếng”: làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại. Được nổi tiếng nổi danh, được ăn trên ngồi chốc, được kẻ dưới cung phụng hầu hạ, thời nào cũng có kẻ mơ tưởng như thế. Đành rằng cuộc sống có giai cấp: giầu nghèo, trí thức bình dân, người lớn trẻ nhỏ, từ ban đầu, gia đình xã hội không có ý phân chia thứ bậc 1-2-3, đúng hơn, chúng ta nên chú trọng vào sự bình đẳng ở đời là nâng đỡ, bổ túc, giúp nhau cùng sống tốt, sống hạnh phúc với vị thế của mình.
Có một sự thật sẽ không thay đổi, đó là ngồi vào bàn tiệc để ăn, chẳng ai bước vào bàn tiệc để dòm ngó, để nhìn người khác thưởng thức, làm thế thì thật là vô duyên. Vấn đề rắc rối phức tạp ở “chỗ ngồi”, đã đưa đẩy khách và chủ tiệc cùng ngại ngùng khó xử, vì cái tính xấu bộc lộ, khi nhiều người cứ lo tìm chỗ nhất, chỗ quan trọng, quên đi cái chính yếu là “ăn tiệc”. Nếu không ý thức đâu cái chính cái phụ trong cuộc sống, người ta sẽ trở nên “lố bịch”, nên trò cười cho thiên hạ mà thôi. Ngồi sát gần ca sĩ, cùng lắm là được gọi là “fan” hâm mộ của ca sĩ mà thôi ; cho dù ngồi ghế nhất, ghế chót, hoặc ngồi gần người nổi tiếng trong buổi tiệc, cũng là chung vinh dự được mời đi dự tiệc. Để nói lên kinh nghiệm trong việc giáo dục, người xưa có câu: gần đèn thì sáng, hẳn các ngài có ý nhắc hậu thế: chơi với người tốt, sống gần người đức độ, luôn là dịp thuận tiện để học hỏi và sớm trở nên người hữu ích.
Cách sống của mỗi người chính là câu trả lời: thân thế gia tộc, năng suất lao động, hiệu quả của công việc ; vì khi được khen thưởng, bao giờ cũng vinh dự cho đương sự, và cả dòng tộc còn được thơm danh. Tại buổi tiệc nhà người biệt phái, Chúa Giêsu cho thấy lý do tại sao có chuyện tìm kiếm chỗ nhất, làm ảnh hưởng xấu đến các tương quan, làm xáo trộn bầu khí buổi tiệc, thưa, vì người ta hiểu nhầm, hiểu không đúng giá trị của “khách” được mời dự tiệc. Hạnh phúc của chủ tiệc là có đông đủ khách mời, được hiện diện trong buổi tiệc chính là vinh dự của khách với chủ, quan trọng là bạn được mời, được tham dự bàn tiệc. Nếu hiểu những kẻ ở ngoài phòng tiệc là những người xa lạ, bất xứng, họ không may mắn được mời dự tiệc, hẳn người ở phòng tiệc sẽ vinh dự biết bao, vì họ là người được thương yêu, được tuyển chọn, được tham dự bàn tiệc với chủ của họ.
Chúa Giêsu lên tiếng tại bàn tiệc năm xưa, trước là vì yêu thương mà khách được mời tham dự với chủ tiệc, sau là đừng lo tìm kiếm chỗ vinh dự trần thế mà quên đi nghĩa vụ phải chu toàn để được mời tham dự bàn tiệc Nước trời. Chỗ nhất, chỗ trọng, ghế số 1, ghế vinh dự, ở trần gian, người ta có thể đầu tư, dùng tiền của, dùng mưu để có ; chỗ vinh dự, chỗ hạnh phúc ở Nước trời không ai tự mình đến được, tất cả đều nhờ tình yêu và ơn thông hiệp trong Đức Kitô, Đấng sẽ biến đổi, dẫn đưa vào bàn tiệc với Ngài. Tại sao ở trần thế này người ta xem chỗ ngồi quan trọng hơn cả đồ ăn thức uống trên bàn, tại sao có chuyện ảo tưởng mình là khách quý trong khi ta còn nhiều tính xấu: ganh tỵ với anh chị em, nghi ngờ, bất hiếu với cả đấng bậc sinh thành ? Trả lời chung cho những thắc mắc, đó là hãy khiêm tốn để biết mình là ai, vì có cầu nguyện, có đời sống các bí tích, người ta mới đủ sức thắng vượt được những vinh quang trần thế đu đeo ám ảnh.
Cha ông chúng ta có câu: hãy học hỏi kinh nghiệm nơi kẻ khác, nhưng phải tự chỉ huy mình. Tại bàn tiệc năm xưa, Chúa Giêsu đã cho thấy chỉ những ai khờ khạo mới lầm tưởng chỗ ngồi quan trọng hơn đồ ăn thức uống, chỉ những ai trẻ con, chưa trưởng thành, mới hiểu lầm mình là nhân vật quan trọng, mình là khách quý trong mọi nơi chốn. Chúa Giêsu sẽ còn nối kết giữa khách được mời dự tiệc trong cùng một niềm vui, bởi ai cũng là khách quý, ai cũng vinh dự nhận biết mình được yêu thương, nếu tin nhận và sống tình hiệp thông với Đức Kitô. Chỗ ngồi, chỗ nhất, chỗ trọng, trong hiện tại của mỗi người kitô hữu phải được chu toàn, phải là thực thi đức bác ái: “khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt đui mù, các ông sẽ có phúc”. Chúa không chỉ cân nhắc phải khiêm tốn, đừng lo tìm vinh quang trần thế, mà còn lưu ý chúng ta hướng đến tình người, khi mà người nghèo, người không đồng quan điểm, họ vẫn là anh chị em của ta, là trọng trách mà chúng ta phải yêu thương, bổ túc giúp đỡ họ. Amen.
------------------------------
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật này, mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề khiêm nhường như là TN 22-C150
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật này, mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề khiêm nhường như là con đường dẫn tới sự cao cả. Trong thời đại hôm nay, có nhiều người muốn trở thành người tốt, người vĩ đại, người nổi tiếng, được mọi người biết đến và ca tụng. Tuy nhiên, có rất nhiều người hiểu sai về sự cao cả. Vậy sự cao cả đích thực của con người là gì? Đâu là con đường dẫn tới sự cao cả đích thực? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay giải thích cho chúng ta hiểu thế nào là một người cao cả nhờ sống khiêm nhường.
1- Càng làm lớn, càng tự hạ
Trong bài đọc I, trích sách Huấn Ca (3,17-18.20.28-29) dạy chúng ta rằng: khiêm nhường là con đường dẫn tới sự cao cả. Người khiêm nhường đích thực là người cao cả đích thực: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.”
Thật vậy, khiêm nhường là nhân đức nền tảng cho đời sống con người. Khiêm nhường trong tiếng La Tinh là từ humilis, phát xuất từ humus, có nghĩa là đất. Theo nghĩa đen, người khiêm nhường là người cúi xuống sát mặt đất và là người hạ mình xuống thấp. Đối với Thiên Chúa, người khiêm nhường là người ý thức về sự nhỏ bé của mình, chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng giòn. Người khiêm nhường là người hiểu rõ khoảng cách giới hạn giữa mình với Đấng Tạo Hóa.
Đối với tha nhân, người khiêm nhường cũng là người biết tôn trọng người khác, đón nhận những khác biệt và những khả năng của họ. Người khiêm nhường cũng là người có thái độ thân thiện và lịch sự, tế nhị với người khác; người biết lắng nghe và học hỏi từ người khác. Bởi lẽ, không ai tự mình là đầy đủ, mỗi người cần được người khác bổ túc và giúp đỡ. Người khiêm nhường là người biết giúp đỡ người khác, đặc biệt là đối với những người nghèo. Vì họ ý thức rằng những gì họ có là do được lãnh nhận từ chính Thiên Chúa, nên họ cảm thấy cần phải chia sẻ với người khác.
2- Sự cao cả Thiên Chúa trong sự tự hạ của Chúa Giêsu
Trong bài đọc II, trích thư Do Thái (Dt 12,18-19.22-24a) sự cao cả và vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ qua “Đấng Trung Gian của giao ước mới là Đức Giêsu.” Nếu trong Cựu Ước, nhiều lần sự cao cả của Thiên Chúa được diễn tả trong sự khác biệt và tách biệt khỏi thế giới phàm tục, thì trong Tân Ước, sự vĩ đại của Thiên Chúa được bày tỏ trong sự gần gũi và trong hạ mình nơi Đức Giêsu. Bởi lẽ, Con Thiên Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi; Người trở thành con của một người thợ mộc nghèo hèn; Người cũng bị cám dỗ và gặp những khó khăn như chúng ta. Người đã hạ mình chịu chết trên thập giá vì ơn cứu độ loài người. Người được Thiên Chúa siêu tôn, trở thành Đấng Trung Gian và Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Như thế, đối với Thiên Chúa, khiêm nhường và tự hạ là con đường dẫn tới sự cao cả và vinh quang. Đó là con đường mà Thiên Chúa đã chọn để cứu độ chúng ta.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu gửi tới chúng ta những giáo huấn quý báu về đức khiêm nhường trong một hoàn cảnh rất cụ thể, đó là khi đi dự tiệc. Chúa Giêsu nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Người nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,12-14).
Như thế, theo Chúa Giêsu, khiêm nhường là không tự đề cao mình, nhưng để người khác đánh giá mình cách khách quan, hay nói cách khác, hãy để Thiên Chúa đề cao chúng ta, chứ đừng tự đề cao mình.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy: khi nào chúng ta đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ta, như thế, ta được đền đáp rồi. Đây cũng là một hình thức của khiêm nhường, nghĩa là người biết đi ra khỏi khung cảnh gia đình, bạn bè, và người thân, để mở rộng và quan tâm đến những người ngoài, nhất là những người bị bỏ rơi, người nghèo khổ. Khiêm nhường cũng là cố gắng làm một việc tốt cho người khác, mà không cần được trả công và đền ơn đáp nghĩa.
3- Những mẫu gương về khiêm nhường
Trong Giáo Hội, chúng ta có rất nhiều mẫu gương về đức khiêm nhường. Trong số đó, chúng ta có thể kể tên một số nhân vật nổi bật: Trước hết, đó là thánh Augustinô, một giáo phụ nổi tiếng, có sự hiểu biết uyên thâm, nhưng trong cuốn Tự Thuật, ngài khiêm tốn cầu nguyện: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Ngài luôn ý thức về sự yếu đuối và giới hạn của mình, chỉ có nhờ ơn Chúa giúp, mới có thể vượt qua những thử thách gian truân.
Thánh Tôma Aquinô là một nhà thần học nổi tiếng thời Trung Cổ, ngài được mệnh danh là “tiến sĩ Thiên Thần.” Ngài viết rất nhiều sách triết học và thần học mà ngày nay vẫn còn rất giá trị. Nhưng trong một lần thị kiến nhìn thấy Thiên Chúa, ngài nhìn nhận rằng những gì ngài đã viết chẳng là gì hết so với thị kiến về Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI là một người rất uyên thâm về thần học từ cổ chí kim, nhưng trong một cuộc hội thảo về đối thoại liên tôn, trước một câu hỏi lớn, ngài vẫn thừa nhận rằng “đây là một câu hỏi khó, tôi không tìm ra câu trả lời.” Đó là thái độ của người khiêm tốn.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi viếng thăm mục vụ tại Manila, Philipines, một em bé hỏi ngài, tại sao Thiên Chúa lại để sự dữ xảy ra? Ngài chân thành trả lời rằng: “Trước mầu nhiệm sự dữ, cha cũng không có câu trả lời.”
Những con người tầm cỡ và hiểu biết như thế vẫn thừa nhận mình không thể trả lời hết các câu hỏi từ cuộc sống. Các ngài là những mẫu gương cụ thể cho chúng ta về đức khiêm nhường đích thực của Kitô giáo.
Như thế, theo Kinh Thánh, khiêm nhường là hạ mình xuống, nhìn nhận giới hạn của mình, tỏ ra thân thiện, tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ người khác, không tự tôn mình lên, nhưng để Chúa nâng mình lên. Khiêm nhường là con đường dẫn tới sự cao cả.
Chúng ta hãy thiết tha cầu xin Chúa giúp chúng ta biết sống đức khiêm nhường này mỗi ngày trong tương quan với Chúa và tha nhân. Amen!
---------------------------------