Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-C Bài 51-100 Hãy đi vào cửa hẹp
------------------------------------ Phúc Âm: Lc 13, 22-30: "Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
NHỮNG NGƯỜI DO THÁI BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU MỜI
Điệp khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm: TN 21-C51
Điệp khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm địa lý của cuộc hành trình này; nó còn loan báo một thông tri quan trọng sẽ được cung cấp trong cảnh tiếp theo (13,31-35).
Trình thuật này được dẫn nhập bằng câu 23. Một người lạ mặt hỏi: Phải tin ai? Phải tin các Kinh sư, là những người khẳng định rằng: Mọi người Israel đều tham dự vào thế giới tương lai (Misnha, Sanhedrin X, 1) hay tin những kẻ khác, đối với những người này những kẻ bị hư đi thì nhiều hơn những kẻ sẽ được cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX, 15)? Cách thế mà Chúa Giêsu dùng để nói về tính cách cấp bách của việc hoán cải (13,3-5) phải chăng không xếp Ngài vào nhóm thứ hai?
Nhưng Chúa Giêsu lại không quan tâm đến vấn nạn kiểu kinh viện này. Trước khi trả lời, Ngài đóng khung nó bằng cách nói với tất cả các người xung quanh (cùng một cảnh như ở 12,13-14) và nhấn mạnh đến sự cố gắng:”Hãy chiến đấu để vào phòng tiệc qua được cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan trọng là mỗi người phải thay đổi cách sống. Chính vì thế, lời đáp của Chúa Giêsu không xác định về số ít người được cứu thoát nhưng về tính cách nghiêm trọng của cuộc sống hiện tại của con người. Nhiều người sẽ chen chúc vào cửa hẹp mà không vào được. Ngoài việc cửa hẹp dẫn đến niềm vui của bàn tiệc, thực ra còn phải nói đến một yếu tố thứ hai: thời gian gấp rút vì cửa sắp đóng. Tìm cách vào, giữa đám đông hỗn độn, ở phút chót là chuốc lấy thất bại.
Khi nói đến thời điểm mà cửa sẽ đóng, lời cảnh cáo trở thành đe doạ: Việc đóng cửa lại do lệnh của một nhân vật chủ chốt, ông chủ nhà, mà không ai khác hơn là những kẻ đối thoại với Ngài mới xin mở cửa cho họ và do đó, họ phải nhắc đến việc trước đây họ cùng ăn uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời đáp nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh từ đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ Kinh Thánh (x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta không chọn các ngươi, các ngươi không thuộc về những kẻ được chọn”. Ở đây không hề có việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng cách gián tiếp trích Thánh vịnh 6,9. Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ bởi vì họ làm điều xấu. Có những liên hệ – hời hợt với vị Sứ Giả cũng chẳng ích lợi gì khi mà người ta không chịu hoán cải. Chẳng ai tự động mà được cứu rỗi. Việc thuộc về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Sinai, và là dân đầu tiên được nghe giảng Tin Mừng nơi công cộng và trong các hội đường, cũng chẳng cho người ta được tấm vé vào Nước Thiên Chúa đâu. Điều cần thiết phải làm là hoán cải và đón nhận lời rao giảng ấy.
Từ đó, Chúa Giêsu đi đến hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết, việc loại ra khỏi Vương Quốc đến liền sao phổ quát ở câu 27 sẽ gây ra khóc lóc và nghiến răng, giận dữ và hối hận cay đắng nơi kẻ đối thoại với Ngài. Bực bội, họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích thực, đại diện bởi các tổ phụ và tất cả các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình an, đặc điểm của Vương Quốc trong khi chính họ phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của họ – xác quyết thứ hai: - thiên hạ sẽ đến từ bốn phương trời: đó là những dân tộc ngoại giáo sẽ vào tham dự ơn cứu độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về các dân tộc hành hương về Giêrusalem để dâng lễ vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is 60,3tt), Chúa Giêsu để ý không nói đến tên của thành; vì vậy, thành này không còn là địa điểm nơi mà Thiên Chúa muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc là một thực tại siêu việt. Với hình ảnh được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc gia chủ nghĩa đó, Chúa Giêsu thêm một hình ảnh ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế giới mới diễn tả một hiệp thông trọn vẹn giữa con người với Đấng cứu thoát họ:”Thiên Chúa sẽ dẫn đưa những kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật với Ngài và biến họ thành những người nhà của Ngài” (J.Schlosser).
Phần kết luận (c.30) làm ta nhớ đến sấm ngôn của ông Simêon khi ông nói về sứ vụ của Chúa Giêsu như duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại rằng Vương Quốc sẽ kéo theo sự đảo ngược các tình trạng của con người (x. những mối phúc và hoạ ở 6,20-26). Giữa những kẻ đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù những người này đã được các ngôn sứ loan báo từ lâu về việc Vương Quốc ngự đến. Tuy nhiên đây cũng không phải là luật tổng quát: câu kết luận hiểu ngầm rằng những kẻ kỳ cựu đến trước nhất sẽ chia sẻ chỗ nhất với những kẻ mới đến từ khắp thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ ràng thuận lợi cho Israel hơn là ở những đoạn song song của Marcô và Matthêu.
Lời cảnh cáo có tính cách ngăn đe trước hết được nói với các thính giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào những năm 28-30; dưới cái nhìn của Luca, chỉ một số ít trong họ đã hoán cải, như nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, và có thể vào được Nước Trời. Trong các thính giả này đặc biệt được nhắc tới, cũng là số ít thôi, những kẻ dám làm điều bất chính tột độ cộng tác vào việc hành quyết Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng đừng quên rằng những lời Tin Mừng này vẫn còn tính thời sự và là tiếng mời gọi hoán cải. Sẽ càng không có việc cứu rỗi tự động cho các Kitô hữu cứ khất lần đến ngày mai. Việc canh tân đời sống luôn luôn cần được lặp lại không ngừng. Đối với mọi người, cửa đều hẹp cả: những ai trong họ làm điều bất chính không có thể nại vào sự thân thiết hời hợt với Chúa Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã đóng rồi.
Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản: TN 21-C52
Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản văn:
Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong bài giảng trên núi.
Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với” (Mt 25,11) là kết luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.
Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22) là một giáo huấn về sự cầu nguyện.
Câu 28, “từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của ông đại đội trưởng dân ngoại (Mt 8,11).
Câu 30, “những người sau rốt trở thành những người đầu tiên” (Mt 19,30 và 20,16).
Vậy Luca liên kết những lời mà Đức Giêsu đã nói trong những trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có một bản văn mang tính nhất quán cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được chọn. Đức Giêsu khẳng định hai chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên đàng thì hẹp, nhưng những dân ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng Mêsia, còn những người đầu tiên được mời ở lại bên ngoài.
Trang sách này của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong một chừng mực, chúng ta thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn những câu của Đức Giêsu, mặc dù không trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu đã không “biết” gì cả, cũng không làm “xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một điều có chú ý. Người đã thật sự trao Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những lúc khác nhau... đồng thời cũng là công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người... “Ai nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn... tự do trong Thần Khí... để việc giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có thể soi sáng những vấn đề của chúng ta hôm nay.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.
Luca trở lại việc Đức Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng. Người bước đi! Luca, bạn thông hành của Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời sống Kitô hữu cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có xơ cứng, dừng lại bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần của kế hoạch Thiên Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hội nhập trong thời gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các con mỗi ngày cho đến tận thế”.
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”
Một câu hỏi nóng bỏng, luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân bản, căng phồng máu của những quan hệ tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều được cứu, chính người ấy không thể được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Một lần nữa, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói những người được cứu sẽ nhiều hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy không làm Người quan tâm và ngay sau đó, Người đưa các thính giả trở về với tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ thể để “bước vào” sự sống đời đời... vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần gì phải lo lắng? Nếu rất ít người được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công sức mà chắc gì đã được? Vì thế, Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi Người về với quyết định mà mỗi người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni và đồi Gôn-gô-tha.
Người không cho chúng ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người đã không sống nó. Trong một đoạn văn khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Để chiếm được Nước Trời, cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng tôi, khi vượt qua những điều kiện giới hạn là những bó buộc đang đè nặng trên cuộc đời tôi?
Thánh Phaolô cũng dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê 1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1 Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường, đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7). Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng “vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời sống Kitô hữu không phải là một cái ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất tiền, ban cho cả những người tội lỗi. Còn phải chấp nhận ơn đó... mà không hoàn toàn khép kín lại trên ơn đó.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’
Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín. Lời mời gọi bước vào trở nên cấp bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải “bước vào trong Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể đó là ngày sau rốt.
Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’
Dân Israel, ý thức về giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận những người dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết: “Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc kinh Shema Israel”. Trái lại, đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng được ăn uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe Người “giảng dạy” giờ đây áp dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn tiệc thánh thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể bù đắp tất cả những giờ khác trong tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách Người.
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi quyết định độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Quả thật, ngay cả dân ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy, thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở thành một cánh cửa mở rộng cho mọi người không phân biệt.
Số phận bi thảm của Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể vào Nước Trời như thế, nghĩa là không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng tộc, một gia đình, hoặc thực hành một vài nghi thức không thể đem lại cho chúng ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ là ảo tưởng... Điều chủ yếu là sự dấn thân bằng tất cả con người chúng ta trong mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng ta chớ phán xét những người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người... 2% về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu... ở trần gian này, chúng ta không bao giờ biết được có phải tự do ấy no anh em chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con người, xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài.
Một lần nữa Luca xác định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có: TN 21-C53
Một lần nữa Luca xác định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có tính thần học hơn là địa lý: Người đang tiến gần đến Thành Thánh, nơi chính Người phải đi trước qua “cửa hẹp” của cuộc khổ nạn để dẫn đưa anh em
mình vào dự tiệc Nước Trời. Sau đó, Người còn tuyên bố trong câu 33: “Tôi phải tiếp tục đi, vì một Ngôn sứ mà chết ngoại thành Giêrusalem thì không được”.
Chính lúc đó một người đối thoại vô danh - Luca viết: “Có kẻ hỏi Đức Giêsu: ‘Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?’. Một vấn nạn thường được đưa ra tranh luận giữa các kinh sư và luật sĩ thời đó: kẻ thì bảo “mọi người Israel sẽ được dự phần vào thế giới đang đến”, người khác lại quả quyết “chắc chắn số kẻ bị hư mất sẽ nhiều hơn số người được cứu”.
Theo thói quen thường làm trong tình thế tương tự, Đức Giêsu tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi có tính lý thuyết của người đối thoại, nhưng mượn một dụ ngôn, trong trường hợp này là dụ ngôn Cửa Hẹp, Người đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ cho thính giả mọi thời, xưa cũng như nam Thay vì đoán xa đoán gần về số lượng ít hay nhiều kẻ sẽ được chọn, tốt hơn họ nên lo cho phần rỗi của chính mình một cách sao cho thật thiết thực. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào người nói rõ như thế. Động từ Hy Lạp được Luca dùng ở đây và được dịch là “Hãy chiến đấu”, chính là “agoomdesthé”: một động từ gợi lên ý tưởng đấu tranh vật lộn, từ đó có chữ “agonie” (có nghĩa là ‘lâm chung’ ‘cuộc vật lộn sau cùng’). Như thế đủ thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu dành cho kiếp sống hiện tại của con người.
2. Trước khi cánh cửa được khoá lại
Bởi cánh cửa, cái cửa chật hẹp ấy, sẽ được “khoá” lại, nên người ta cần phải khẩn trương đón nhận lời dạy của Đức Giêsu và đem ra thực hành. Thời giờ không còn nhiều. Không hề có chế độ ưu tiên trong việc tham dự bàn tiệc Nước Trời. Đâu phải cứ thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng là phải biết đón nhận lời loan báo nước Trời và mau mắn hoán cải, nếu không sẽ phải nghe tiếng trả lời từ trong nhà: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”.
Thật đau đớn vỡ mộng cho những kẻ tưởng rằng cứ thuộc về dân của Chúa là đương nhiên nắm chắc trong tay tấm vé vào dự bàn tiệc Nước Trời. Họ sẽ phải đứng ngoài cánh cửa đã khép kín, trong lúc cả một đám đông dân ngoại “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Và để hoạ lại lời tiên tri của ông già Ximêon: “Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng những kẻ đứng chót (dân ngoại) sẽ lên hàng đầu, và cả những kẻ đứng đầu (dân Đo Thái) sẽ xuống hàng chót”. Hugues Cóusin lưu ý, “Lời cảnh báo được gởi đến trước hết cho những thính giả Do thái cư ngụ ở Giuđê là Galilê trong những năm 28-30. Tuy nhiên chúng ta đừng quên: những lời của Phúc Âm luôn luôn mang tính hiện tại và nhằm mời gọi một sự hoán cải. Không thể có một thứ ơn cứu độ dọn sẵn cho những Kitô hữu không lo thực hành ngay việc canh tân liên lỉ đời sống mình” (“L’evangilc de Luc”, Centurion, trg 198-199).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Quyền công dân Nước Trời
“Nước Thiên Chúa là một thực tại mầu nhiệm. Nước ấy hiện diện như một hạt giống bé nhỏ đang vươn lên thành cây cao bóng cả. Nó được vùi vào trong bột như chút men làm dậy cả khối bột. Để được đự phần vào nước ấy, con người phải để cho Nước ấy biến đổi, phải để cho men của Nước ấy làm dậy bột. Nếu chỉ đóng vai kẻ ngoài cuộc hay kính nhi viễn chi thôi thì không đủ phải bước vào, mà cánh cửa lại chật hẹp, nó chỉ mở ra cho những ai nỗ lực bước qua. Đức Giêsu đã đến giữa nhân thế, và loài người có thể lui tới gặp gỡ Người: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng như thế không đủ. Nhưng sau đó phải bước theo Chúa, phải vào trong Nước Trời qua chính cửa hẹp đó, nếu không sẽ mãi là kẻ xa lạ: “Ta không biết các anh từ đầu đến”. Để gặp gỡ Đức Kitô không nhất thiết ưu tiên cho những ai đã từng gần gũi với Người. Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân tộc đã sinh ra người trên đời, nhưng đồng thời cũng liên can đến tất cả chúng ta. Thuộc thành phần “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc, chính chúng ta cũng dễ dàng tháo lui không dám bước qua cửa hẹp. Hành trình của sự hoán cải không có lối đi vòng nào khác: “Cút di cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chỉ có một thứ giấy thông hành thôi, đó là phải đổi đời. Chính nó sẽ cấp cho chúng ta quyền công dân của Nước Trời. Khi điều đó được sáng tỏ, chúng ta mới thấy mọi thứ giả tạo sẽ lộ nguyên hình: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
2. Trở lại với nguồn mạch Tin Mừng
Dựa vào lời dạy của Đức Giêsu, Thánh Luca muốn đưa ra câu trả lời chính xác cho một tình huống khá cụ thể, trong đó kẻ thuận người chống về vấn đề dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh. Người thuận thì cho rằng Nước Thiên Chúa luôn mở rộng cho tất cả những ai tìm kiếm và muốn bước vào. Người chống thì chủ trương phải thuộc thành phần ưu đãi, nghĩa là phải được cắt bì theo luật Do Thái mới được gia nhập. Giáo huấn của Đức Giêsu đã qua rõ. Rõ đến nỗi đụng chạm và gây vấp phạm đến tất cả những ai từng bám vào những đặc ân và ngoại lệ, những bảo hiểm an toàn dành cho những tín hữu “ngoan đạo”. Nhưng Đức Giêsu lại chẳng để ý gì đến chuyện thuộc thành phần nào, chuyện đặc quyền đặc lợi hay việc giữ đúng phép đạo.
Nếu cánh cửa có hẹp, nó vẫn đủ rộng để đón mời mọi người và mỗi người. Nhưng lối vào không thênh thang. Để lọt được vào trong, đòi phải có sự mềm mại của tình yêu đáp trả tình yêu đang thao thức, đang xét xử và đón mời. Ở đây, chúng ta được nghe nhắc lại tầm quan trọng của đức tin và việc sống đạo, mà chủ yếu là thực hành hai giới răn chính mà thực tế chỉ là một giới răn tình yêu. Cần phải lên án cả lối nhìn nghiêm khắc của Jansénisme lẫn chủ trương dễ dãi buông thả, cả sự bối rối sợ hãi lẫn thái độ thoải mái vô tư.
Hãy dẹp sang một bên những bảng thống kê và con số, những suy đoán vô ích, những nỗi lo lắng và tin tưởng vu vơ. Tốt hơn, chúng ta hãy trở về với nguồn suối Tin Mừng. Chính nơi đó người ta tìm được tất cả những gì mình phải là và phải làm, để trở nên và mãi là “công dân Nước Trời”.
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể lại câu chuyện chạy đua của thỏ và rùa. Con thỏ rất nhanh chân, còn rùa thì bước đi không thể so bì được với ai. Thế mà kết cuộc rùa đã thắng thỏ. Rùa biết thân phận mình, nên cố hết sức, tận dụng hết khả năng của mình để vượt chặng đường qui định. Rùa vẫn biết khả năng thắng cuộc rất mong manh.
Nhưng chính sự cần cù vượt khó: vượt qua sự mệt nhọc, vượt qua khả năng giới hạn của bản thân, vượt qua sự chê cười của đối phương. Chính những cố gắng đó đã đưa rùa đến chiến thắng.
Còn thỏ, quá ỷ lại vào tài năng bản thân, nên cứ lo rong chơi thoải mái, tìm của ăn để thưởng thức. No nê rồi mà thỏ vẫn còn nhìn thấy rùa đang lê từng bước chân nặng nề chưa đi đến đâu. Thỏ mỉm cười ung dung đánh một giấc ngon lành. Khi chợt tỉnh dậy, thỏ không còn nhìn thấy rùa đâu nữa. Thỏ bèn tăng tốc, vận dụng hết khả năng mình có, khi nhìn thấy bóng dáng rùa từ xa, thì không còn kịp nữa, rùa đã đến nơi. Thỏ đành ôm hận mà quay trở về với thất bại.
Có tài năng, nhưng quá ỷ lại, không biết vận dụng, không biết cố gắng, thì cũng trở nên vô dụng. Còn biết cố gắng vượt khó, sẽ thành công.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ và những người thời bấy giờ: "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Ngài bảo thế và Ngài đã làm gương. Ngài đã đi qua cửa hẹp của con đường Thập Giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự vâng phục, vâng phục đến hy sinh mạng sống. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự nhục nhả, bị người đời khinh chê. Ngài đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng để đem sự sống đến cho con người. Vì yêu thương mà Ngài đã kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại để chiến thắng. Mặc dù là Con Thiên Chúa, Ngài không ỷ lại, không tự hào, nhưng với tất cả sự khiêm nhường và nhẫn nhục, mang lại chiến thắng, chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Chính vì thế Ngài kêu gọi mọi người đi trên con đường chiến thắng đó .
Trong mọi thời đại loài người luôn đi tìm con đường sự sống. Biết bao người đã nhìn thấy được con đường nhưng họ vẫn đi tìm, vì con đường mà họ hìn thấy không đúng như họ mong muốn, nên họ cứ mãi đi tìm, để rối đành ôm nỗi hận trong sự thất bại. Rất nhiều người không muốn đi trên con đường mà họ đã có được chiếc chìa khóa trên tay, họ không muốn mở cửa con đường, vì họ không muốn bước vào: nó chật hẹp quá, nó khó khăn quá và nhiều lúc không biết con đường đi đến đâu mới đạt được mục đích. Chiếc chìa khóa họ có trong tay trở nên vô dụng, vì không giúp gì được cho họ. Họ cũng đành ôm nỗi thất bại trong cuộc đua về đích.
Chúng ta, những người của thời đại mới, Chúa Giêsu cũng trao cho mỗi người chiếc chìa khóa của con đường sự sống: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Chúng ta đã nghe, đã biết rất nhiều. Chúng ta biết rất rỏ con đường dẫn đến sự sống là con đường như thế nào. Nhưng chúng ta dể mang tâm trạng của con thỏ trong cuộc đua với rùa.
Trước tiên vì quá ỷ lại vào sức khỏe. Chúng ta ngở rằng thời gian còn dài, nên cứ mặc tình tìm sự hưởng thụ cho thân xác mà một ngày kia nó sẽ bị tiêu hao đ; vậy mà nó vẫn được phục vụ hết sức chu đáo, nhiều khi quá mức cần thiết, để rồi bất chấp tất cả, bất chấp cả tiếng nói của lương tâm ngay chính, bất chấp cả tiếng nói của con tim yêu thương, bất chấp cả tiếng kêu than của sự bất công mà chúng ta đã gây nên.
Chúng ta cũng ngỡ rằng, mình làm một số việc mà mình cho là đạo đức, những việc đó bảo đảm an toàn cho sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế chúng ta cứ cho con người mình thoải mái trong lời nói, trong suy tư, trong những toan tính, và trong cách đối xử với người khác. Coi chừng chính những gì chúng ta ngỡ là đạo đức theo như mình muốn. Những gì chúng ta cho là bảo đảm, nó sẽ phản bội chúng ta. Giống như tài năng chạy nhanh của con thỏ đã phản bội nó vì sự ỷ lại và khinh dể kẻ khác. Không lẽ cuối cùng chúng ta sẽ lãnh nhận một câu nói phủ phàn:" Ta không biết các ngươi từ đâu tới".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết tìm đúng con đường đi đến sự sống và can đảm bước đi cho đến cùng.
1 . Mỗi năm, cứ đến mùa thi đại học, các thí sinh xem ra lắm kẻ buồn và ít người vui, bởi vì năm nào cũng vậy, số dự thi thì nhiều, nhưng số được tuyển thì ít. Cánh cửa vào đại học, nhất là hệ chính quy xem ra rất hẹp, chỉ dành cho những thí sinh cố gắng, có phương pháp học tốt mới được vào. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, cửa vào Nước Trời là cửa hẹp, nhưng là cửa hạnh phúc, chúng ta làm gì để có thể qua cửa đó được ?
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày để giảng dạy, giúp cho người nghe dễ hiểu. Qua hình ảnh “cửa hẹp” này làm chúng ta có thể có những suy nghĩ sau:
2 . Nếu cửa Nước Trời hẹp, hẳn là do chủ nhà Giêsu và những người được mời vào phải “nhỏ bé”. Dĩ nhiên ở đây không nên hiểu theo nghĩa thể lý mà là luân lý. Đức Giêsu là Đấng cao cả nhưng chọn con đường hèn mọn mà như thánh Phaolô đã tóm gọn trong thư gởi tín hữu Philipphê. Người là Thiên Chúa mà sẵn sàng trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa để làm con người, mà lại là con người hèn mọn và chấp nhận chết ô nhục trên thánh giá để chuộc tội chúng ta (x.Plp 2,6-7). Vậy ai muốn vào Nước Trời thì hãy trở nên nhỏ bé, mọn hèn như Đức Giêsu.
3 . Nếu cửa Nước Trời là hẹp, mà ta muốn vào dễ dàng thì hành trang của ta phải gọn nhẹ. Gọn nhẹ đó là bớt đi, cắt xén đi những việc không tốt nơi con người mình. Bớt đi lòng vị kỷ, hẹp hòi ; bớt đi những đam mê, dục vọng xấu ; bớt đi sự hận thù, ghen ghét ; bớt đi sự xảo trá, gian tham ; bớt đi lòng tự cao, tự đại… nói gọn là bớt đi, cắt tỉa đi những gì làm cản trở ta không thể đến với Chúa và tha nhân được. Có như vậy thì mới có thể vào Nước Trời.
4 . Nếu cửa Nước Trời là hẹp, để qua cách dễ dàng thì phải có sức mạnh. Sức mạnh nỗ lực của bản thân chưa đủ, mà cần nhất là sức mạnh của ơn Chúa giúp. Đức Giêsu đã thấy trước nên Người đã đưa ra phương cách, để ta có thể qua cửa đó được, là mến Chúa và yêu người. Người cũng đã lập các bí tích để nâng đỡ, chữa lành hoặc ban những ơn cần thiết cho người Kitô hữu. Vậy mà ta thờ ơ với các bí tích, nhất là bí tích giải tội và Mình Thánh Chúa thì làm sao có thể vào Nước Trời được !
5 . Nếu ta hình dung vào Nước Trời là có cửa, thì hãy nhớ rằng đã có cửa thì có lúc cửa mở và có lúc cửa đóng. Vì thế như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Đức Giêsu cho biết khi cửa đóng rồi, thì chủ nhà sẽ từ chối người đến gõ cửa, dù bất cứ lý do gì (x Lc 13,25-27). Cửa đóng lại là biểu tượng của giờ cánh chung hay giờ chết của mỗi người. Cửa đóng lúc nào, ai mà biết được ? Cho nên hãy cố gắng sống thật tốt ngay những phút giây nầy, không chần chờ gì nữa.
6 . Nếu ta hình dung vào Nước Trời thì phải qua cửa, tuy hẹp, nhưng Thiên Chúa mời gọi mọi người vào cửa ấy, từ Đông chí Tây, từ Nam đến Bắc, tất cả đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời không trừ ai với điều kiện đơn giản là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa và thực hành những điều Người dạy:”Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”(Lc 11,28). Như vậy không được chễnh mãn, ỷ lại mình là Kitô hữu, thì đương nhiên được hạnh phúc Nước Trời, như người Do thái xưa quan niệm là dân riêng của Thiên Chúa, thì Ngài phải lo cho. Hãy nhớ Thiên Chúa là Đấng nhân từ nhưng cũng công bằng vô cùng, là Kitô hữu mà thôi chưa đủ mà còn phải sống đời sống của Kitô hữu nữa thì mới đáng được hạnh phúc Nước Trời.
7 . Nếu ta hình dung vào Nước Trời phải qua cửa hẹp, chính mình phải qua đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn người thân của mình qua cửa đó nữa. Thì những bậc phụ huynh, những người có trách nhiệm hãy lo cho con em mình về cả ba phương diện: thể dục, trí dục và đức dục. Phương cách giáo dục hiệu quả nhất đó chính là bằng đời sống gương mẫu. Khi bảo con đừng chưởi thề nói tục mà ta mở miệng ra là văng tục thì làm sao dạy được nó. Bảo con đi Lễ thờ phượng Chúa mà ta không bao giờ đi, thì thật là khó thuyết phục nó...!
8 . Qua cửa hẹp mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời, tuy biết vậy mà nhiều khi chúng ta không cố gắng. Thí sinh ra sức học để thi vào trường này trường nọ, nhưng rồi bằng cấp, chức vị không thể trường tồn, bởi cái chết sẽ kết thúc tất cả. Lực sĩ ra sức luyện tập, kiêng cử đủ điều nhưng rồi kỷ lục cũ sẽ nhường chỗ cho kỷ lục mới! Còn hạnh phúc Nước Trời thì không bao giờ mất, vậy ta càng có lý do cố gắng hết sức để bước theo Đức Giêsu vào cửa hẹp bởi chính Người là đường là sự thật và là sự sống. Amen.
Bệnh lý lịch, gốc gác, ConÔngCháuCha, trước đây đã một thời làm hư hoại xã hội VN, bại hoại nhân phẫm con người. Hiện tại không phải không còn, nhưng hôm nay tự nơi xã hội ý thức được mầm bệnh để mà tránh, ý thức được tác hại của căn bệnh mà tự đề phòng. Tự nhận ra căn bệnh để chừa, tự nhận ra mầm bệnh để tránh, đó là cách phòng tránh bệnh hữu hiệu nhất của thứ bệnh hoang tưởng, bệnh lý lịch, gốc gác. Có người sẽ hỏi: Trong nhà đạo, có thứ bệnh này không? – Xin thưa: Có đấy. Gioan Tẩy giả đã chưởi thẳng vào nhóm biệt phái: đừng ỷ mình là con cháu Abraham …. Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói cùng chủ đề này. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Trước hết hãy thử đọc lại Phúc âm, xem Chúa muốn nói về chuyện này thế nào?
* Mt 7, 21: “Không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa thì được vào Nước Trời; chỉ có người tin và làm theo Ý Chúa Cha mà thôi”.
* Mt 7, 13-14: Hãy vào qua cữa hẹp, vì nó sẽ đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm …
* Mt 19, 24: Người giàu có vào Nước Thiên Chúa thì khó biết bao; con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nưóc Thiên Chúa ….
* bài TM hôm nay: Chúa nói: hãy phấn đấu vào qua cữa hẹp ….vì có nhiều người tìm cách vào mà không được vào…
* Tám mối Phúc cũng là lời chúc , lời mời gọi cho những ai vào Nước Trời bằng cách qua cữa hẹp như ý câu trên (Lc 13,
Qua tất cả những câu Phúc Âm trên và qua chính lời Chúa Giêsu nói cho ta hai ý này:
Phải tự mình phấn đấu qua cửa hẹp mà vào Nước Trời …
Nước Trời không thuộc về kẻ có gốc gác mạnh, con cháu Abraham, để mà ỷ lại. b/. Lời Chúa Giêsu nói trong Bài Tin Mừng hôm nay xem ra như nhắm đến nhóm người biệt phái, kinh sư. Lời nói rõ ràng và cứng rắn, không một chút nễ nang: Muốn vào Nước Trời ……hãy phấn đấu vào qua cửa hẹp....Khi cửa đã đóng: ông chủ bảo, ta không biết các ngươi … Bấy giờ các ngươi sẽ phải khóc lóc nghiến răng… kẻ đứng hàng chót sẽ lên đầu, kẻ đứng đầu sẽ xuống chót…
Từ chổ minh định con đường vào Nước Trời, phải là một cuộc phấn đấu tự mình, Chúa Giêsu đả kích quyết liệt một thứ bệnh: hoang tưởng lý lịch – gốc gác – COCC. Đây là một thứ bệnh trầm kha, đáng sợ, dù nó không đưa đến cái chết, nhưng quả thật nó làm cho tinh thần ta ra nghèo nàn dài dài, dẫn đến mất …..trắng luôn. Người mắc bệnh không nghỉ rằng mình là kẻ khốn khổ đáng thương ở trên đời này…Đó chính là thứ bệnh hoang tưởng: lúc nào cũng tưởng mình KHÔN - tưởng mình NGON. Cái mình dở nhiều thì tưởng mình dở ít, tưởng mọi việc không đến nổi nào. Điều mình bình thường ở bậc trung, thì lại cho là hay ho hơn hẳn mọi người. Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy người mắc bệnh này sẽ bẻ bàng cay đắng lắm, vì những lời Chúa Giêsu nói y như gáo nước lạnh tạt ngay vào mặt họ, chỉ mong cho họ hiểu chính mình mà thôi.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ngày xưa, người Do thái thường tự hào vì có tổ phụ Abraham, vì họ là con dòng cháu giống. ngày nay một số người công giáo vẫn còn nghỉ như vậy. Bệnh lý lịch đã ăn vào tận xương tủy của dân tộc VN, nên thực tế bỏ ngay không phải là chuyện dễ. Thời bao cấp đã nổi cộm vì chuyện này. Chúa Giêsu chỉ trích gay gắt và còn nói mạnh mẻ: hãy coi chừng…kẻo người chót lại lên hàng đầu, người đứng đầu lại xuống hàng chót. Ta nghỉ làm sao? Bao lâu nay ta thuộc vào hàng nào đây?
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng muốn cái gì đó rộng rãi và thoải mái. Ở một ngôi nhà: TN 21-C57
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng muốn cái gì đó rộng rãi và thoải mái. Ở một ngôi nhà rộng rãi và đầy đủ tiện nghi thì thích hơn một ngôi nhà tù túng, chật hẹp. Đi trên một con đường lớn rộng thì cảm thấy dễ chịu hơn một con đường gồ ghề, nhỏ bé. Đối với người tín hữu, dường như chúng ta cũng muốn Chúa và Giáo hội rộng rãi và cho chúng ta được thoải mái trong việc giữ và sống đạo. Tuy nhiên, đằng sau những sự rộng rãi ấy quan trọng là có thật sự mang lại lợi ích cho chúng ta không.
Có lẽ, chúng ta sẽ thất vọng khi thấy Chúa và Giáo hội có vẻ như không đáp ứng được mong muốn của mình. Hơn nữa, với câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng Chúa nhật hôm nay lại càng làm cho chúng ta thất vọng hơn. Khi ấy, có người hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?". Chúa Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi ấy mà lại nói: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được". Vậy "cửa hẹp" ở đây là gì và tại sao cần phải vào qua cửa ấy lại còn phải chiến đấu?
Trước hết, chúng ta hãy tin chắc là Thiên Chúa luôn muốn cứu độ con người và luôn mong muốn cho mọi người được hạnh phúc thật. Cho nên với câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta cũng hãy tin chắc là vì Người muốn chúng ta được cứu độ và hạnh phúc thật. Vì thế, cửa hẹp ở đây chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rộng hơn, có tính cách thiêng liêng hơn.
Vì yêu thương và vì muốn cứu chuộc chúng ta nên chính Chúa Giêsu đã chọn qua cửa hẹp. Chúa Giêsu lên Giêrusalem nghĩa là Người chấp nhận đi vào con đường thập giá, con đường tử nạn. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu ở trần gian cũng là đi vào cửa hẹp. "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự..." (Pl 2, 6 - 8)
Như thế, nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta thấy cửa hẹp là những gì không theo như ý muốn của riêng mình mà theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Khi chúng ta biết làm theo ý muốn Chúa Cha chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta và người khác lợi ích thiêng liêng, quý giá. Cho nên vì lợi ích của ta và của người khác và nhất là vì yêu, chúng ta sẵn sàng chọn vào qua cửa hẹp.
Chúng ta thấy, hai người nam nữ yêu nhau thật lòng sẽ vì nhau và hạnh phúc của nhau mà sẵn sàng từ bỏ những ý muốn và sở thích riêng tư. Cũng thế, một đứa con vì yêu cha mẹ nên sẽ bằng lòng vui vẻ từ bỏ những điều cha mẹ không muốn mình làm vì lợi ích của mình. Đó là những cửa hẹp.
Chúa Giêsu đã hứa: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy". (Ga 14, 25). Vậy nếu cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình chúng ta cũng sẽ biết đáp lại bằng tình yêu. Một trong những cách đáp đền tình yêu Chúa là chúng ta chọn vào qua cửa hẹp. Vào qua cửa hẹp là chúng ta sống theo những gì Chúa và Giáo hội truyền dạy. Chắc chắn khi quyết tâm sống theo những gì Chúa và Giáo hội dạy thì đòi hỏi chúng ta cần phải chiến đấu nhiều với bản thân mình. Cho dù trước mắt chúng ta sẽ thấy hơi gò bó, chật hẹp nhưng chúng ta hãy tin chắc đằng sau cửa hẹp ấy là một cuộc sống hạnh phúc bền vững.
Lời Chúa hôm nay đề cập đến một vấn đề nhiều lần trong cuộc sống người tín hữu đã lo lắng: TN 21-C58
Lời Chúa hôm nay đề cập đến một vấn đề nhiều lần trong cuộc sống người tín hữu đã lo lắng và muốn có một giải đáp thật rõ ràng: vấn đề "phải chăng chỉ có ít người được cứu độ ?". Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi, nhưng Ngài hướng chúng ta suy nghĩ theo một hướng khác "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Vấn đề không phải là ít hay nhiều người được cứu độ, vấn đề ấy là của Thiên Chúa, vấn đề của chúng ta là "phải vào" và "ngả đường nào đưa ta vào".
Chúa thấy một thực tế nhiều khi thật đau thương "Nhiều người tìm vào mà không vào được". Không ít người "đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy giữa các công trường" của họ. Cũng như nhiều tín hữu hôm nay có thể nói với Ngài như thế. Nhưng cuối cùng họ cũng chỉ nghe được một câu trả lời nghiệt ngã "Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới". Tuy nhiên Ngài cũng nói tới một thực tế ngược lại "Người ta từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc nước Thiên Chúa". Và Đức Giêsu đã nói tới những con người đã vào Nước Thiên Chúa: Abraham, Isaac, Giacob và các tiên tri để mời gọi mọi người hãy "cố gắng vào qua cửa hẹp", mà chính bản thân Ngài cũng đang tiến vào.
Thực vậy, Thánh Sử Luca khi nói tới hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu là nói tới cuộc Vượt Qua của Người. Hành trình trở nên nhỏ bé, trở nên như không... Cũng chính Ngài đã chẳng từng tuyên bố "Ta là cửa chuồng chiên" đó sao ? Cửa duy nhất cho chiên đi qua để được nuôi sống. Những lời Tin Mừng ấy chẳng thúc bách chúng ta cởi bỏ lối sống đạo trong những hình thức lễ hội để chia sẻ với Đức Giêsu một lối sống khiêm hạ và tự hủy để hoàn tất mọi ý muốn của Thiên Chúa đó sao ? Đức Giêsu vẫn thường vào các hội đường mỗi ngày thứ bảy, và không bao giờ vắng mặt ở Đền Thờ Giêrusalem trong những dịp lễ của người Do Thái, nhưng Tin Mừng cho thấy ngay trong chính các Hội Đường và cả trong đền thánh Giêrusalem, Đức Giêsu luôn là hiện thân của Một Thiên Chúa đến gặp gỡ và nuôi dưỡng dân Ngài. Chính thái độ này gây nên những căng thẳng, mâu thuẫn giữa Ngài và các lãnh đạo Hội Đường. Isaia đã chẳng nói về Thiên Chúa rằng "Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ" đó sao ? Và "Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới, đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi, sẽ vững bền như vậy". Hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu, hành trình đi vào "Nơi Cực Thánh" của Ngài chính là hành trình hiến mạng sống mình để quy tụ con cái Thiên Chúa khắp nơi về một mối, hành trình trở nên tấm bánh bị bẻ ra cho một thế giới mới được khai sinh. Nói theo thánh Phaolô đó là hành trình "nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời", hành trình đi "bạt cho thẳng đường đi, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành". Như thế đời sống đạo chân thật chính là như Isaia nói trở nên "một dấu lạ", người "rao giảng cho các dân biết vinh quang" của Thiên Chúa, nó mang 2 chiều kích không thể tách rời "chiều kích Thiên Chúa" và "chiều kích huynh đệ".
Chúng ta cũng còn phải lưu ý một khía cạnh khác của Tin Mừng "Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại", đây là chiều kích thời gian. Nhiều người kitô hữu không nhận ra được tính cách cấp bách và tức thời của mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Họ sống như là còn quá nhiều năm tháng ! Thật khác với Đức Giêsu, Ngài đã từng khẳng định "Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy luôn băn khoăn thao thức cho đến khi sự việc ấy được hoàn tất". Và nếu chúng ta tìm hiểu kỹ Tin Mừng, chúng ta luôn thấy các Thánh Ký đã nhìn và đã trình bày mọi biến cố đời sống Đức Giêsu trong viễn tượng của cuộc Khổ Nạn Phục Sinh của Người. Như thế thời gian của Đức Giêsu luôn luôn là thời gian của hành trình về Giêrusalem. Giáo Hội thấu hiểu tính cấp bách và tức thời ấy, nên Giáo Hội cũng đã dành một nỗ lực đặc biệt để Thánh Hóa Thời Gian mà Phụng Vụ các giờ kinh là một thực hành kiên trì điển hình.
Quả thật cửa vào Nước Trời tuy là cửa hẹp, và phải lập tức bước vào, nhưng Lời Chúa cũng cho thấy chính Đức Giêsu đã đi trước và mở cửa ấy cho hết những ai tin cậy và bước theo Ngài. Chính trong Thánh Lễ này, khi trao ban Mình và Máu Ngài cho ta, chính là Ngài giúp Ta đi qua cửa hẹp ấy để vào cánh đồng sự sống. Chúng ta hãy tin tưởng và đến với Ngài.
Điều quan trọng nhất trong việc sống đạo là tuân hành thánh ý Thiên Chúa.
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 66,18-21: (18) Còn Ta, Ta biết rõ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta.
· Dt 12,5-7.11-13: (5) Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. (6) Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. (7) Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy.
· TIN MỪNG: Lc 13,22-30
Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung
và kêu mời dân ngoại
(22) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. (23) Có kẻ hỏi Người: «Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?» Người bảo họ: (24) «Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.
(25) «Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: «Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!» thì ông sẽ bảo anh em: «Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!» (26) Bấy giờ anh em mới nói: «Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi». (27) Nhưng ông sẽ đáp lại: «Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!»
(28) «Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. (29) Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. (30) Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Trong đời sống thường nhật, người làm việc không có phương pháp, không có đường lối thì có: TN 21-C59
Trong đời sống thường nhật, người làm việc không có phương pháp, không có đường lối thì có thành công không? Còn trong đời sống tâm linh thì sao?
1. Trong đời sống thường nhật, người làm việc không có phương pháp, không có đường lối thì có thành công không? Còn trong đời sống tâm linh thì sao?
2. Có bao giờ bạn nghĩ rằng có những người mang danh giữ đạo suốt cả đời, thế mà không vào được Nước Trời, chỉ vì họ giữ đạo cách sai lầm không? Phải giữ đạo hay sống đạo cách nào mới đúng?
3. Cốt tủy của Kitô giáo là gì? Nói chung, bạn đã nghiêm túc giữ đúng cốt tủy này chưa, hay chỉ giữ những điều tùy phụ?
Suy tư gợi ý:
1. Muốn thành công, phải đi đúng đường, làm đúng lối
Trong đời sống thường nhật, làm việc gì mà muốn thành công thì cần phải làm cho đúng phương pháp hay cách thức của nó. Để thực hiện những kế hoạch lớn, cần phải đi cho đúng hướng, nếu không đúng hướng, sẽ thất bại ê chề: «sai một ly, đi một dặm». Nhiều người khi làm việc gì thì chỉ biết cắm cúi làm, không cần biết làm thế nào cho đúng để có thể chắc chắn thành công và đạt hiệu quả cao nhất. Dường như họ quan niệm: «cần cù bù thông minh»! Làm không đúng cách, đi không đúng hướng, chẳng những không đạt được mục đích, mà còn gây thiệt hại nữa. Vì thế, có danh nhân đưa ra công thức: «Nhiệt thành + ngu xuẩn = phá hoại».
Dù việc nhỏ hay việc lớn ở trần gian này, muốn thành công, đều cần phải làm cho đúng cách, đúng phương pháp. Việc nên thánh, việc đạt được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, theo quan niệm của người Kitô hữu, là việc quan trọng nhất trên đời. Thế mà nhiều Kitô hữu chẳng cần biết phải làm cách nào để chắc chắn đạt được mục đích ấy, và điều gì cần thiết nhất để đạt được mục đích ấy. Việc quan trọng như thế mà họ cứ thực hiện theo kiểu mò mẫm, làm theo những hiểu biết không chắc chắn, thiếu chính xác! Vì thế, sẽ có nhiều trường hợp người Kitô hữu trung thành giữ đạo cả một đời, tưởng sẽ được Thiên Chúa thưởng công bội hậu, nhưng… rất tiếc không phải như thế! Bài Tin Mừng hôm nay cho ta biết điều không may ấy có thể xảy ra.
2. Muốn vào Nước Trời, phải thi hành thánh ý Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết: «Có nhiều người tìm cách vào (Nước Trời) mà không thể được» vì họ đã sử dụng những cách không đúng, không hiệu quả. Ngài cho thấy cảnh thất bại của họ vào ngày phán xét: họ tưởng những việc họ đã làm ở trần gian để vào Nước Trời sẽ giúp họ vào được Nước ấy. Nhưng sự việc xảy ra thật phũ phàng! Những việc họ đã làm với mục đích vào được Nước Trời là hoàn toàn vô ích, vì những việc không cần thiết thì họ làm một cách thật chăm chỉ, còn việc cần thiết phải làm thì họ lại không thèm làm. Đức Giêsu mô tả cảnh ấy cách rõ rệt hơn trong Tin Mừng Matthêu: «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (Mt 7,22-23).
Theo đoạn Tin Mừng này thì vào ngày phán xét, nhiều người được tiếng là tốt lành thánh thiện – vì đã làm được những việc đạo đức ít ai làm được, như nói tiên tri, trừ quỉ, làm phép lạ – họ tưởng rằng làm được như thế thì chắc chắn mình đã đủ hoặc dư tiêu chuẩn để vào Nước Trời rồi. Nhưng không ngờ Chúa phán một câu khiến họ bật ngửa: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» Thì ra những việc đạo đức ấy tuy được người đời nể phục và ca tụng, nhưng hoàn toàn không ích lợi gì cho việc vào Nước Trời của họ nếu không muốn nói là có hại. Có hại vì chúng làm họ lầm tưởng rằng mình thánh thiện thật sự rồi sinh tự hào, kiêu ngạo.
Vậy thì việc gì là cần thiết để vào được Nước Trời? Đức Giêsu nói rất rõ: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi» (Mt 7,21). Lời Chúa nói thật rõ ràng: điều cần thiết nhất và duy nhất để được vào Nước Trời là thi hành ý muốn của Thiên Chúa (cụm từ «chỉ… mà thôi» nói lên tính duy nhất của điều cần thiết ấy). Thực hiện thánh ý Chúa, đó là điều phải làm trong thực tế, nghĩa là phải hành động thật sự chứ không chỉ nói hay tuyên xưng xuông. Phần đầu của câu Tin Mừng trên còn nhấn mạnh sự vô ích của những lời nói, lời tuyên xưng, hoặc những lời cầu nguyện rỗng tuếch không dẫn đến hành động.
Vậy điều quan trọng và cần thiết để vào Nước Trời là thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Nhưng thánh ý Thiên Chúa là gì? Ngài muốn chúng ta làm gì?
3. Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?
Thiên Chúa là Tình Yêu, và Nước Trời là vương quốc của Tình Yêu, trong đó, Tình Yêu thống trị tất cả. Vì thế, chỉ những ai có tình yêu đích thực mới phù hợp với Nước Trời. Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Ngài chủ yếu muốn chúng ta – vốn được dựng nên theo hình ảnh của Ngài – phản ảnh trung thực bản tính yêu thương của Ngài. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài chỉ đưa ra một lề luật duy nhất là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Ngài không hề đưa ra một giới luật nào khác để mọi Kitô hữu theo Ngài hiểu được tầm quan trọng duy nhất của nó mà tập trung mọi nỗ lực của mình vào đó. Để nhấn mạnh tầm quan trọng duy nhất này, Ngài còn mô tả ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ xét theo một tiêu chuẩn duy nhất: ta đã yêu thương tha nhân ra sao bằng hành động cụ thể: «Xưa Ta đói (khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù…), các ngươi đã (không) cho ăn (uống, tiếp rước, cho mặc, thăm viếng, đến hỏi han…)» ; «mỗi lần các ngươi (không) làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã (không) làm cho chính Ta vậy» (Mt 25,31-46). Không thấy Ngài phán xét theo một tiêu chuẩn nào khác. Vậy, điều Thiên Chúa muốn nơi chúng ta chủ yếu là tình yêu đích thực, nghĩa là biết tích cực yêu thương tha nhân.
Điều rất lạ là Kitô hữu nào cũng biết cốt tủy Kitô giáo là công bằng và yêu thương, nhưng số Kitô hữu – kể cả những người giảng dạy về Kitô giáo – tập trung cố gắng để thực hành điều cốt tủy này dường như không nhiều. Nếu nhiều thì chắc chắn bộ mặt Kitô giáo đã khác hẳn hiện nay. Lời Chúa nói về điều cốt tủy ấy thật chắc chắn và rõ ràng, nhưng người Kitô hữu dường như tập trung cố gắng vào những gì khác chứ không phải vào điều cốt tủy ấy. Hiện nay, đa số Kitô hữu vẫn còn đi vào vết xe cũ đã đổ của người Do Thái, là quá coi trọng hình thức tôn giáo bên ngoài, những tập tục, nghi thức, chỉ biết lãnh nhận các bí tích một cách chiếu lệ thiếu hẳn chiều kích nội tâm, v.v… Đó là những điều mà các ngôn sứ bao đời và cả Đức Giêsu đã đả phá kịch liệt (x. Is 1,11-17; Am 5,21-24; Gr 6,20; 14,12; Mk 3,4; 6,6-8; Mt 5,23-24; 9,13; Mc 12,33; v. v…). Hoặc họ tập trung nỗ lực vào việc giữ những luật này lệ nọ, đủ mọi thứ luật, nhưng luật quan trọng nhất phải tuân giữ là công bằng và yêu thương thì lại bỏ qua.
Chính vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay «có kẻ hỏi Người: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?» và Đức Giêsu đã khẳng định: «Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít» (Mt 22,14; 20,16). Vậy chúng ta phải sống đạo thế nào cho đúng thánh ý Chúa, kẻo cả đời giữ đạo Chúa của chúng ta trở thành «xôi hỏng, bỏng không», hay thành «công dã tràng» thì thật đáng tiếc! Đừng để câu Kinh Thánh sau đây đúng với chính chúng ta: «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, chúng con mang danh là Kitô hữu, nhưng nhiều khi chúng con không sống theo quan niệm và tinh thần của Đức Kitô, mà sống theo quan niệm và tinh thần của ai đấy mà chúng con cho là đúng, hoặc tưởng rằng là của Đức Kitô. Xin giúp chúng con biết rõ Cha muốn chúng con làm gì, và tinh thần của Đức Kitô là gì, bằng cách tham chiếu Lời của Ngài. Đừng để chúng con quan trọng hóa những điều tùy phụ mà coi nhẹ điều chính yếu nhất là thực hiện công lý và tình thương trong cuộc đời mình (x. Mt 23,23b).
Thường con người vẫn thích được tự do thong dong va bước đi trên những con đường rộng thênh: TN 21-C60
Thường con người vẫn thích được tự do thong dong va bước đi trên những con đường rộng thênh thang, tráng nhựa va trơn tru, ít có những ai muốn chọn con đường sỏi đá, trơn trượt, bụi đất, mù sương. Khuynh hướng của con người là thế. Ai cũng thích dễ dãi, thỏa hiệp để được lợi, để được ích riêng cho mình. Ai cũng thích thu vén và tích trữ của cải, ham danh, trục lợi. Chính những cái kềnh càng, những cái vướng víu cản họ khiến họ không vượt được cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
NHỮNG KẺ TRƯỚC HẾT SẼ XUỐNG RỐT HẾT:
Cái trớ trêu và nghịch lý của Tin Mừng vẫn là có nhữg kẻ rốt hết sẽ lên trước hết và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống cuối hết. Biết được cái nghịch lý của Tin Mừng, nhưng con người hầu như đều thích những gì là dễ dãi, những gì là có lợi, những gì là đem lại danh vọng, tài lộc, phú quí cho mình.Những kẻ đứng đầu là những kẻ được Thiên Chúa trao ban cho của cải, dư ăn dư để, lương thực chất đầy kho nẫm, nhưng họ lại là những người không biết chia sẻ cho những kẻ nghèo hèn, thiếu ăn, đói khổ. Họ đã có dư lại muốn vun khoén cho mình, chỉ sống ích kỷ, chỉ nghĩ về mình mà thôi. Họ có thể đã giữ lề luật tỉ mỉ, chi li, nhưng lại ăn ngốn, ăn nghiến ngay cả của cải của bà góa. Họ tuân giữ những điều Hội Thánh buộc nhưng lại giống anh thanh niên giầu có trong Tin Mừng:” Anh buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải “. Những người đứng đầu có thể là những con người được Chúa ban cho địa vị, danh vọng, tài cao, khôn ngoan, thông minh hơn người nhưng họ lại không biết dùng sự khôn ngoan, thông minh để nâng đỡ anh em, phục vụ mọi người, nhưng họ lại dùng sự khôn ngoan, địa vị Chúa trao ban để làm lợi cho chính mình. Vì thế, những cái cồng kềnh, tự mãn, tự khoe của họ đã khiến họ không thể vượt qua cửa hẹp để vào được Nước Trời.
NHỮNG KẺ RỐT TRỞ LÊN TRƯỚC HẾT:
Cái cồng kềnh của những kẻ đứng đầu, những kẻ trước hết là của cải, danh vọng, sự hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn, cái tôi to như cái rún vũ trụ, tham vọng cá nhân, tự kiêu tự mãn, tự cao tự đại đã là những cản ngăn không thể vượt qua để những người này có thể vào được Nước Trời. Tuy nhiên, cánh cửa đã mở ra cho những kẻ thành tâm, thiện chí vào được vì họ đã biết trở nên bé nhỏ, trở nên trẻ thơ như Chúa nói, nghĩa là họ đã ra hư không, từ bỏ chính mình để làm mọi việc theo ý Chúa. Nên, cánh cửa Nước Trời dễ dàng đối với những người thiện tâm thì lại trở nên khung cửa hẹp đối với nhiều người vì cái tôi của họ quá cồng kềnh vì nhiều chuyện trần thế quá.
HÃY BƯỚC QUA CỬA HẸP MÀ VÀO:
Thực tế, Chúa bảo mọi người hãy phấn đấu, hãy hy sinh, từ bỏ để bước qua cửa hẹp. Chúa nói tới cửa hẹp có nghĩa Chúa bảo rằng cửa hẹp chỉ dành cho những con người bé nhỏ chứ không phải những con người khổng lồ, những con người to lớn vv…Cửa hẹp chỉ có những con người nhỏ bé mới luồn lách vào được. Chúa đã từng nói:” Hãy trở nên bé nhỏ” “ Hãy tiếp nhận trẻ thơ “ ( Lc 18, 17 ). Cửa hẹp dẫn con người đến sự sống, đưa con người vào chốn tốt đẹp, vinh quang ( Mt 7, 14 ). Chúa nói hãy tỉnh thức, sẵn sàng và cầu nguyện. Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang dầu. Như người đầy tớ tỉnh thức chờ đợi chủ về, như người quản lý khôn ngoan, lanh lợi, như nông gia tìm được viên ngọc quí vv…Tất cả đều phải tỉnh thức và sẵn sàng cầu nguyện. Đừng để cho sắc dục, danh vọng, của cải, tiền tài làm mờ ám con người, ngăn cản con người, đừng để cho những cái phù phiếm, giả trá, hư vô níu kéo con người, cản ngăn con người và làm cho con người không thể bước qua cửa hẹp. Đừng để cho cửa bị đóng kín như năm cô khờ dại mang đèn lại không mang dầu:” Ta không biết…từ đâu đến “ ( Lc 13, 27 ).
Lạy Chúa, cửa hẹp ít người thích bước vào, nhưng Chúa lại chọn cửa hẹp để vào. Cửa hẹp là thập giá, là đau khổ, là hy sinh, là từ bỏ. Xin giúp chúng con biết bước vào cửa hẹp vì chính Chúa đã chọn con đường hẹp, con đường khổ giá để đi qua.
Chúa Giêsu khi đi rao giảng thường dùng những dụ ngôn, những sự việc thực tế, cụ thể trong: TN 21-C61
Chúa Giêsu khi đi rao giảng thường dùng những dụ ngôn, những sự việc thực tế, cụ thể trong đời sống hằng ngày của người Do Thái lúc đó để diễn tả về Nước Trời, diễn đạt những điều Ngài muốn nói . Phụng vụ Chúa Nhật 21 thường niên, năm C, đặc biệt bài Tin Mừng của thánh Luca 12, 22-30 trích đọc hôm nay, Chúa ví Nước Trời giống như một bữa tiệc cánh chung và qua bữa tiệc này, Ngài chỉ ra một số tiêu chuẩn cốt thiết cho những người đến dự tiệc. Những tiêu chuẩn Ngài đưa ra như phải phấn đấu đi qua cửa hẹp, chịu thử thách khó khăn, vác thập giá là những điều kiện bắt buộc phải có để đi vào Nước Trời. Chúa đưa ra những điều kiện ấy không phải để dọa nạt, làm khó dễ con người, nhưng Ngài khuyến khích họ lạc quan, tin tưởng, cậy trông, phó thác vì đời con người quả quá vắn vỏi, mau qua, chóng tàn.
CON ĐƯỜNG HẸP CỦA CHÚA:
Con đường của Chúa vạch ra không phải là con đường rộng thênh thang, lộng gió, con đường thẳng băng, đầy nhựa, nhưng con đường của Ngài lắm khi có nhiều thử thách, giăng giăng, vướng mắc. Con đường của Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá, đường đau khổ, khó khăn. Tuy nhiên, Chúa đòi hỏi những ai đi theo Ngài rất quyết liệt rằng họ phải phấn đấu đi con đường của Ngài suốt cả cuộc hành trình đời sống của con người. Đường mà Chúa đòi hỏi khác với những suy nghĩ của con người: đường ấy là con đường từ bỏ, ra khỏi chính mình lột xác và không ham danh lợi, vinh quang, phú quí. Tuy nhiên, sống ở đời, có những người hiểu được Lời của Chúa, họ đã sống chia sẻ và hầu như lấy tám mối phúc làm mốc đích để nhắm tới Nước Thiên Chúa. Cũng có những người đã lợi dụng người nghèo để tiến thân, để làm giầu bất chính, để ích kỷ vinh thân phì gia. Chúa Giêsu khi đưa ra những tiêu chuẩn để đi vào Nước Trời , Ngài đã đòi hỏi những điều kiện thật vô tư và công minh. Dù trên đời này con người có tất cả mọi sự đi nữa như danh vọng, của cải, vật chất, nhưng trước mặt Chúa tất cả đều là phù vân, mau tàn, chóng qua. Điều Chúa muốn là:” Hãy đi vào cửa hẹp, hãy bán tất cả để chia sẻ cho người nghèo, vác thập giá và hy sinh ngay cả mạng sống”. Đó là những đòi hỏi hết sức rõ ràng, trong sáng và công minh. Con người chỉ có thể làm đẹp lòng Chúa khi họ biết chấp nhận những tiêu chuẩn Ngài đòi hỏi họ tuân theo.
SỨ ĐIỆP CHÚA TRAO GỬI CHO NHÂN LOẠI, CHO CON NGƯỜI:
Con đường Chúa vạch ra cho nhân loại, cho con người đi xem ra dễ, nhưng cũng rất là khó. Chúa muốn con người chọn tình yêu hơn ham lợi, ích kỷ. Đọc lại Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta đã thấy những tấm gương thật trong sáng và đức tin hết sức vững mạnh của tổ phụ Abraham, Isáac, Giacóp, Môsê và nhiều vị khác nữa; và trải qua lịch sử cứu độ, nhiều vị thánh đã làm gương cho nhân loại bằng cách chọn con đường hẹp, con đường đau khổ, con đường thử thách, con đường tám mối phúc thật để đi vào Nước Trời. Chúa đòi chúng ta chọn lựa hoặc đi theo Chúa hoặc từ khước Ngài. Tất cả đều tùy thuộc sự tự do định đoạt của chúng ta. Quả thực, Chúa đã trấn an nhân loại, trấn an mọi người và từng người, đặc biệt các môn đệ của Ngài:” Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các con đã khấn ban Nước Trời cho các con “. Đây là sứ điệp quan trọng Chúa gửi cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Điều chúng ta cảm thấy thực an ủi là chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa vẫn luôn ở cạnh bên chúng ta để nâng đỡ, an ủi, vỗ về và chở che chúng ta trong suốt cuộc hành trình cam go đi về nhà Cha trên Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Tại sao Chúa Giêsu lại hay dùng dụ ngôn để diễn tả điều Ngài muốn nói ? Bạn hiểu thế nào về Thiên Đàng và Hỏa Ngục ? Bạn cảm nghiệm sao về con đường hẹp ?
Nước Trời mang tính phổ quát hay giới hạn ? Chúa luôn mời gọi mọi người. Nhưng nhiều: TN 21-C62
Nước Trời mang tính phổ quát hay giới hạn ? Chúa luôn mời gọi mọi người. Nhưng nhiều người đã từ chối vì Kitô giáo khắt khe. Nhưng những ai chấp nhận, sẽ nhận được nguồn an ủi lớn lao. Cả một bầu trời thênh thang trước mắt.
CON ĐƯỜNG HẸP.
Nước Trời luôn rộng mở đón nhận muôn dân. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Trên nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở…” (Ga 14:2) Ngôn sứ Isaia cũng nhắc tới tiếng gọi phổ quát của Giavê (Is 66:20). Nhưng hôm nay, tại sao Đức Giêsu lại nói phải chui qua “cửa hẹp” mới vào được Nước Trời. Người không ngần ngại nói sự thật: “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24) ? Tại sao không vào được ? Phải chăng vì họ thiếu đức tin hay những việc lành ? Hay phải chăng họ đã vô lầm cửa ? Phải chăng vì định mệnh khắt khe ? Hay tại họ thiếu ân sủng nên không được Thiên Chúa tuyển chọn ? Nếu thế tự do con người ở đâu ?
Quả thực, lời Chúa chưa vén màn bí mật về số phận con người. Nhưng Đức Giêsu muốn cho thấy hai mặt của một thực tại. Một đàng Nước Trời phổ quát, vì “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Đàng khác, Nước Trời thênh thang đó chỉ có một “cửa hẹp”. Chẳng mấy ai thích cửa hẹp. Nhưng thực tế, “cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong.” (Mt 7:13) Bởi vậy, cần chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24) Nước Trời. Sức chiến đấu đó vừa cho thấy con người tự do vừa mạc khải Thiên Chúa tình yêu. Chính vì tự do nên con người có thể chọn chiến đấu cho những giá trị Nước Trời. Chính vì bản chất là tình yêu, Thiên Chúa mới mời con người đáp trả tình yêu.
Tình yêu sẽ hướng dẫn qua những nẻo đường chông gai. Nhiều khi có những vấp ngã đau điếng trên đường về nhà Cha. Thế nhưng Thiên Chúa đầy lòng yêu thương luôn vực dậy những ai sa ngã. Đôi khi cần những biện pháp hơi mạnh. “Thuốc đắng giã tật”. Xin “đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chờ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy.” (Dt 12:5-6) Không phải lúc nào cũng dễ dàng chấp nhận những lời cảnh giác. Nhưng càng được sửa dạy, càng thấy mình thuộc về Thiên Chúa. Muốn làm con Thiên Chúa, “anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy.” (Dt 12:7) Thiên Chúa không bao giờ sửa phạt cho thỏa cơn giận hay có ý báo thù. Nhưng Người sửa dạy để như gọt đẽo chúng ta cho vừa khung cửa hẹp của Nước Trời. Người sửa dạy khác hẳn với người đời. Quả thế, “những người chịu (Thiên Chúa) rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” (Dt 12:11) Bình an và công chính là đặc tính của Nước Trời. Bởi thế, ngay từ đời này, ta đã cảm thấy tất cả kích thước chật hẹp của cửa trời và cả bầu trời thênh thang trong Nước Chúa.
Nhưng nếu không chịu đi qua cửa hẹp, người ta sẽ cảm thấy nhục nhã của kiếp lưu đầy khỏi Nước Chúa. Thái độ lạnh lùng của Chúa càng gây kinh ngạc cho những ai quan tâm tới những đòi hỏi của Tin Mừng: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” (Lc 13:27) Thật là kinh hoàng khi phải nghe những lời cứng cỏi đó ! Thái độ lạnh lùng đó nhằm xua đuổi và loại trừ những người đã không sống công chính theo lượng ân sủng Chúa. Họ tự hào vì đã dành rất nhiều thời giờ đồng bàn với Chúa và lắng nghe lời Chúa (x. Lc 13:26). Còn ai có thể hiểu biết Chúa hơn họ ? Vậy mà Chúa vẫn lạnh lùng đáp: “Ta không biết các anh từ đâu đến !” (Lc 13:25.27) Người ta đã phí phạm biết bao thời giờ hay cả cuộc đời vì đã quên mất một yếu tố chính tức là mở rộng cõi lòng đón nhận Nước Chúa. Người ta đã quá khép kín tâm hồn và không thi hành tất cả những đòi hỏi của Tin Mừng là sống “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” Không bao giờ Đức Giêsu lại trình bày Nước Chúa như một bánh vẽ. Trái lại, Nước Chúa là một thực tại sống động và là một đòi hỏi gắt gao.
Đòi hỏi gắt gao nhất là phải mở rộng cõi lòng theo chiều kích Nước Chúa. Nếu trong cuộc sống còn một chút gì kỳ thị đông tây nam bắc, chắc chắn không thể vào được Nước Trời. Vì “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Như vậy, những kẻ “còn đứng ở ngoài” sẽ không bao giờ có thể nếm đượchương vị ngọt ngào và thơm tho của bàn tiệc Nước Chúa. Tất cả những người công chính, bất kể phát xuất từ đâu, đều được nhập tiệc với “các ông Abraham, Isaac và Jacob cùng tất cả các ngôn sứ.” (Lc 13:28) Nói khác, họ là những người vất vả phấn đấu để được cứu thoát. Họ phải trả giá bằng chính con người và cuộc đời. Nếu còn lấn cấn với những giới hạn về văn hóa, chủng tộc, màu da, chính kiến, tôn giáo của mình, họ không bao giờ có thể hiểu nổi những chiều kích lớn lao của Nước Thiên Chúa. Vì ơn cứu thoát chỉ dành cho những người biết hòa nhập với sứ mệnh của Đấng đã phán: “Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.” (Is 66:18)
Nước Trời quả thực là một hồng ân dành cho hết mọi người. Nhưng hồng ân đó cũng là tặng phẩm dành riêng cho từng người. Bởi vậy, Nước Trời vừa có chiều kích phổ quát vừa thuộc về từng cá nhân. Phải nhận ra hai chiều kích đó mới thấy niềm hi vọng của mình tươi sáng chừng nào và nỗ lực theo đuổi hi vọng đó lớn lao tới đâu.
NƯỚC CHÚA GIỮA TRẦN GIAN
Nhưng Nước Chúa không ai có thể độc chiếm. Chỉ có Đức Giêsu mới là cửa độc nhất dẫn vào Nước Chúa. Chính Người đã quả quyết: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” (Ga 10:9) Nhưng Người là cửa hẹp hay rộng ? Quả thực, không một nền luân lý thông thường nào có đòi hỏi gắt gao như giáo lý của Đức Giêsu. Thế nhưng, cũng không ai có một sức mạnh giải thoát bằng Người. Bởi vậy, thánh Phaolô đã xác định sứ mạng lớn lao của Đức Giêsu: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1) Chính Người đã tìm được phương giải thoát cho thân phận làm người. Con người không thể thoát ra khỏi luật lệ. Nhưng có nhiều thứ luật trói buộc con người trong vòng nô lệ. Có những luật dẫn tới tự do hạnh phúc. Đức Giêsu đã xác định rõ về bản chất lề luật: “Ngày sabbat được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.” (Mc 2:27) Bởi vậy, luật lệ Nước Trời cũng nhằm phục vụ con người. Đức Giêsu là cửa hẹp nhưng mở ra vô biên. Đó là sự thật.
Sự thật ấy đã được chứng minh qua hai ngàn năm lịch sử. Giáo hội làm chứng Đức Giêsu là “con đường, sự thật và sự sống.” (Ga 14:6) Thế nhưng, vẫn có những người xuyên tạc sự thật và không chịu nhìn nhận sứ mạng đó của Giáo hội. Chẳng hạn, thứ bảy 18/8/2001 vừa qua, Thủ tướng Aán Độ Atal Behari Vajpayee tuyên bố “động cơ” đằng sau các hoạt động bác ái của người Kitô hữu là “chiêu dụ tín đồ” (CWNews 20/08/2001) Rõ ràng, Thủ tướng đã cố tình không muốn đọc thấy sứ điệp Kitô giáo ngang qua những hoạt động vô cùng cần thiết cho những người nghèo khổ và những thành phần bị gạt ra ngoài lề xã hội. Mặc nhiên ông biện minh cho những thái độ thù nghịch tôn giáo đang lan rộng khắp nước Aán độ. Oâng đã khoán trắng việc trợ giúp các nạn nhận lũ lụt đầu năm nay cho Rashtriya Swayamsevak Sangh, một tổ chức Aán giáo cực đoan, thủ phạm đã giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo trong vòng hai năm nay. Tổ chức đã thúc giục các cộng đồng Aán giáo từ chối các phẩm vật cứu trợ từ các tổ chức Kitô giáo (x. VietCatholic 22/8/2001) Trên đất nước đầy những thù nghịch đó, Kitô hữu đang phải chui qua cửa hẹp. Lời chứng càng mạnh mẽ hơn khi nào. Lực lượng thù nghịch càng cố gắng giới hạn sức mạnh Giáo hội, Thánh Linh càng có cơ hội làm cho nhiệm thể Chúa Kitô phát triển. Những nỗ lực thù nghịch chỉ để lộ ra sự sợ hãi trước những ảnh hưởng của Giáo hội. Chẳng hạn, nữ tu Têrêsa Calcutta đã nhá lên cho thế giới thấy tình yêu như ánh sáng đang soi chiếu vào tận những nơi tăm tối nhất trong thân phận làm người và sởi ấm những ẩm thấp nhất nơi những hang cùng ngõ hẻm trên thế giới.
Để tiếp nhận Nước Thiên Chúa và được cứu độ, người ta phải chấp nhận những hậu quả như phải: TN 21-C63
Để tiếp nhận Nước Thiên Chúa và được cứu độ, người ta phải chấp nhận những hậu quả như phải sống trong sự chia rẽ, chống đối của những người không muốn đáp lại lời gọi của Chúa Giê-su, kể cả những người trong cùng một gia đình. Tình trạng này được mô tả một cách cụ thể như “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12:53). Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một khía cạnh khác của việc tiếp nhận ơn cứu độ: để được cứu độ, “hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Vậy muốn qua được cửa hẹp của Nước Trời, ta phải chiến đấu với những gì?
1) Cửa hẹp cứu thoát
Trong Tin Mừng Gio-an, Chúa Giê-su đã ví Người là cửa chuồng chiên, để chiên ra vào và sẽ được sống đời đời (Ga 10:7). Qua Đức Ki-tô, sự sống của Thiên Chúa đến với nhân loại; đồng thời cũng qua Đức Ki-tô, con người tiếp nhận sự sống ấy và đến với Thiên Chúa trong hành trình trở về nhà Cha (x. Ga 5:24.26). Như thế ta nhận thấy tầm quan trọng của cánh cửa Ki-tô như thế nào, vì tất cả thân phận của nhân loại phải tùy thuộc vào cánh cửa ấy.
Nhưng Chúa Giê-su lại làm ta hết sức ngạc nhiên khi Người xác định Người không phải là cánh cửa rộng thênh thang để người ta có thể ra vào thoải mái. Trái lại, Người là “cửa hẹp” và muốn qua cửa hẹp này ta phải chiến đấu thật vất vả.
Chúa Giê-su là Đấng cứu độ phổ quát, được Chúa Cha sai đến để cứu thoát mọi người không trừ ai. Tuy nhiên ơn cứu độ không phải là một phù phép tự nó sẽ đem mọi người về thiên đàng, mà là lời gọi Thiên Chúa mời gọi ta hãy lấy lối sống của Chúa Ki-tô, Con Một Người, như là mẫu mực để noi theo và biến đổi con người của ta nên giống như Chúa Ki-tô. Chính Chúa Ki-tô đã bảo ta: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đường đi cũng có trăm nẻo vạn thứ, nhưng đối với số phận tương lai của ta thì chỉ còn hai con đường: đường thênh thang hay đường chật và cửa rộng hay cửa hẹp. Rồi Người dặn dò ta: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Vậy tại sao cánh cửa Ki-tô lại hẹp và con đường Ki-tô lại chật?
Khi Chúa nói cửa hẹp và đường chật thì Người không lấy bản thân Người làm đơn vị để đo lường rộng hay hẹp, chật hay thênh thang, nhưng là lấy chính kẻ vào cửa hoặc kẻ đi trên đường làm đơn vị đo lường. Khung cửa sẽ rộng nếu người bước vào không đem theo những hành lý lỉnh kỉnh, vàng bạc nặng nề, vợ bé vợ nhỏ... Con đường sẽ thênh thang nếu người đi đường chịu bỏ lại chiếc xe đắt tiền, căn nhà lộng lẫy, những tham vọng xấu xa... Hình ảnh cửa hẹp và đường chật nhắc nhở ta phải từ bỏ mọi sự để bước vào cửa Nước Trời và đi theo con đường Ki-tô mà đến với Thiên Chúa Cha. Đồng thời những hình ảnh ấy cũng mời gọi ta nhìn vào Chúa Ki-tô, Đấng đã từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để nhận lấy thân phận con người khiêm hạ, dẫn ta bước theo con đường Tám mối phúc là con đường hoàn toàn đi ngược với con đường của thế gian (Mt 5:1-12). Đọc Tám mối phúc thật, ta thấy rõ ràng những gì thế gian cho là cửa hẹp hay đường chật thì đó chính là cửa Chúa Giê-su đã qua và đường Người đã đi, rồi Người gọi ta bước theo Người cũng qua cửa ấy và cũng trên con đường ấy.
2) “Hãy chiến đấu”
Bước qua một khung cửa hẹp để vào tuy có thể là khó khăn một chút, nhưng chắc không đến nỗi phải “chiến đấu”. Thế mà Chúa Giê-su không ngại khi nói “hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Vậy nếu phải chiến đấu thì chiến đấu với ai hoặc chiến đấu với cái gì? Chắc chắn đây không phải là chiến đấu để giành lối hay chỗ, như ta thấy cảnh chen lấn chà đạp nhau trong một rạp hát bị lửa cháy hoặc hình ảnh xô đẩy nhau giành lên máy bay Mỹ ngày 30-4-75. Cánh cửa cứu độ luôn luôn mở sẵn. Vấn đề là ở người muốn đi qua cửa ấy mà thôi. Họ có thực sự muốn vào không? Họ có sẵn sàng tuân thủ những điều kiện cần thiết của Đấng Cứu độ không? Người tôn trọng sự tự do lựa chọn của họ chứ không áp đặt gì trên họ. Người gọi họ: “Hãy theo Thầy” (Mt 4:19; Mc 1:17; Ga 1:43; 21:19). Phần họ, họ có thể suy nghĩ cân nhắc, có thể xin theo hoặc bỏ đi. Cũng không phải Chúa gọi và ta đáp lại chỉ một lần, nhưng lời gọi của Người và tiếng đáp của ta là cả một đời người. Có khi ta thấy hăng hái, nhưng cũng có lúc ta thấy chán nản muốn bỏ đi. Quả thực là một cuộc chiến đấu nội tâm liên lỉ. Khi ta yếu đuối bỏ đi, Chúa sẽ nói với ta như đã nói với các Tông đồ: “Cả anh em em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Chọn lựa giữa cửa hẹp và cửa rộng, giữa đường chật và đường thênh thang luôn luôn tạo nên một cuộc chiến đấu mãnh liệt trong tâm hồn ta. Cho nên Chúa Giê-su mới nói “Hãy chiến đấu...”
Một chi tiết thật ý nghĩa là thánh Lu-ca kể lại rằng Chúa Giê-su nói những điều này đang khi Người và các Tông đồ trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Chúa “lên Giê-ru-sa-lem” có nghĩa là Người đi qua cuộc Thương Khó và cái chết khổ nhục, như đi qua cửa hẹp để tiến vào vinh quang Phục Sinh. Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để tuân hành thánh ý Chúa Cha đến độ đổ mồ hôi máu trong Vườn Dầu và chấp nhận chén đắng Người phải uống. Người dạy ta phải chiến đấu mà qua cửa hẹp và Người đã sống những điều Người giảng dạy.
3) “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Có phải Chúa nêu lên một sự kiện có thực hay không? Dĩ nhiên là một sự kiện đáng buồn, nhưng có thực. Nhiều người muốn được cứu độ, nhưng họ không theo cách của Chúa Giê-su, nghĩa là không muốn qua cửa hẹp và đi con đường chật mà Người đã đề ra. Họ muốn mục đích là được Thiên Chúa cứu độ, nhưng lại không chấp nhận đường lối của Đấng Cứu độ là Chúa Ki-tô do Thiên Chúa sai đến, giống như bệnh nhân muốn được chữa lành mà lại không muốn gặp bác sĩ.
Nói đến những người này, Chúa Giê-su muốn ám chỉ những người Do-thái bất trung không muốn nhận Người là Đấng Cứu độ. Nhưng nếu ta muốn hiểu đó là những người Công giáo hôm nay tuy mang danh Công giáo muốn được lên thiên đàng, nhưng lại không muốn theo lối sống của Chúa Giê-su, thì cũng không sai! Họ muốn được rỗi linh hồn, nhưng lại sống ác độc kiêu căng, chứ không hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giê-su. Họ muốn được “cứu độ” bằng đô-la, bằng những tham vọng bất chính, bằng bạo lực... thay vì theo con đường sống khó nghèo, chuyên chăm thi hành ý Chúa. Họ từ chối những phương tiện gây đau đớn vất vả cho họ, như thập giá hằng ngày, những hy sinh và tự chế, để chọn những phương tiện của họ là sống theo vật chất và hưởng thụ. Như thế không phải vì cửa quá hẹp mà là cái tôi của họ quá lớn. Họ mang danh người Công giáo, nhiều khi còn được tiếng là ngoan đạo nhất cộng đoàn, làm những việc đạo đức mà chỉ một ít người có thể làm. Nhưng thực ra họ đang đi theo con đường của họ chứ không phải của Chúa. Rồi một ngày Chúa sẽ nói với họ cũng những lời này: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:27).
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Lời gọi nên thánh là một mệnh lệnh chung cho mọi người trong mọi bậc sống. Lý tưởng của tôi là nên thánh. Vậy tôi đang đáp lại lời gọi ấy như thế nào?
Tôi có xác tín cuộc sống của Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu nội tâm để luôn trung thành với niềm tin vào Chúa Ki-tô không?
Những lúc phải hy sinh hoặc chọn lựa thiệt thòi để sống theo lời dạy của Chúa, tôi có nghĩ đến Chúa Ki-tô là gương mẫu và được thêm phấn khởi không? Lời Chúa dạy “hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” có tác động nào nơi tôi lúc ấy?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh. Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng cũng có những bóng mờ đe dọa. Lạy Chúa Giê-su, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con? Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. A-men.”
Nhìn lại cấu trúc của đoạn thư huấn dụ về đời sống đức tin (10:26 - 12:13), chúng ta thấy thư Do-thái: TN 21-C64
Nhìn lại cấu trúc của đoạn thư huấn dụ về đời sống đức tin (10:26 - 12:13), chúng ta thấy thư Do-thái đã lần lượt trình bày đức tin là gì, những gương mẫu đức tin trong Cựu Ước, đặc biệt và trổi vượt trên hết là gương đức tin của Chúa Giê-su, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin, để đi tới kết luận thực hành qua đoạn trích dẫn sử dụng cho Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Ngay từ còn thơ bé, chúng ta đã được dạy bảo: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Lời ca dao Việt Nam ấy gần gũi và đi theo tinh thần con cái Chúa được mô tả trong sách Châm ngôn 3:11-12: "Này con, chớ khinh thường khi Đức Chúa sửa dạy con, đừng chán ngán khi Người khiển trách. Vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý." Nhắc nhở chúng ta rằng người cha trần gian sửa dạy con cái là vì yêu thương, thư Do-thái đã khuyến khích chúng ta hãy chịu đựng gian khổ, coi như đó là phương thức Cha trên trời sửa dạy chúng ta.
Mặc dù không nêu ra ở đây, nhưng chắc chắn thư Do-thái muốn ám chỉ đến tấm gương siêu việt của Chúa Giê-su và bảo chúng ta hãy học bài học sống động qua cuộc sống của Người. Chúa Giê-su, con người đức tin gương mẫu, luôn được nêu cao cho tất cả nhân loại bắt chước. "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai vâng phục Người" (Dt 5:8-9).
Để chấp nhận phương thức sửa dạy của Cha trên trời, điều cần thiết là chúng ta phải thay đổi cái nhìn về những đau khổ đời này. Nếu chỉ để ý tới hậu quả đau khổ gây ra mà thôi, chúng ta sẽ dễ dàng coi đau khổ là "hình phạt" do những tội lỗi chúng ta phạm. Nếu chỉ nhìn đau khổ qua lăng kính cuộc đời của người chung quanh để thấy họ làm nhiều điều ác mà vẫn sung sướng phây phây, chúng ta sẽ thấy đau khổ mình đang chịu là sự bất công. Nhưng chúng ta được mời gọi hãy nhìn xa hơn nữa, chứ không phải nhìn vào chính đau khổ, có như thế chúng ta mới nhận ra được ý tốt lành và mục đích phương thức sửa dạy của Cha trên trời, tức là "để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người."
Có lẽ tới đây, chúng ta vẫn có thể cho là thư Do-thái quá lý thuyết, thiếu thực tế. Không đâu! Trong câu 11, thư đã nói lên một cảm nghiệm hết sức người và chân thực: "Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền." Phản ứng buồn phiền khi gặp đau khổ là phản ứng tự nhiên của con người. Vậy Ki-tô hữu phải làm gì đối với phản ứng tự nhiên ấy? Họ vẫn phải nhìn về tương lai. Đối với họ, phản ứng buồn phiền chỉ là phản ứng nhất thời, xảy ra "ngay lúc bị sửa dạy" thôi. Cho nên chúng ta phải hướng về hoa trái vui thú sẽ xảy tới sau cái lúc buồn phiền ấy, đó là "bình an và công chính." Đến đây, thư Do-thái lại lập lại hình ảnh người lực sĩ chịu rèn luyện là hình ảnh đã được sử dụng trong bài đọc Chúa Nhật trước. Chúng ta hãy đứng thẳng lên, tập luyện đối đầu với gian nan khốn khó hiện thời và hãy hoàn tất cuộc chạy đua đã được bắt đầu.
Đau khổ là cơ hội để Ki-tô hữu được lớn lên trong đức tin. Đức tin chân chính không thể phát triển nếu không có những gian nan thử thách. Thiên Chúa đã để cho
những đau khổ trở thành cơ hội cho chúng ta thêm lòng tin vào Người. Nhưng Người cũng ban cho chúng ta Đức Giê-su như một gương mẫu và một bảo đảm chúng ta sẽ thực hiện được những gì Người muốn. Con người Giê-su ấy, "khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính" (Dt 5:7). Nói tóm lại, điểm cốt yếu của huấn dụ sống đức tin vẫn luôn luôn là mời gọi Ki-tô hữu nhìn vào Chúa Giê-su như mẫu gương tối cao và linh động, nhất là liên kết mật thiết với Người để "những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời" của chúng ta được "nên mạnh mẽ."
Câu hỏi gọi ý chia sẻ
Tôi hãy chia sẻ kinh nghiệm về đau khổ có ảnh hưởng đối với đức tin của tôi. Đau khổ giúp đức tin của tôi lớn lên như thế nào?
Một cách cụ thể, tôi diễn tả những bước khác nhau khi tôi phải đối diện với đau khổ trong đức tin của mình: buồn phiền lúc đầu, chiêm ngưỡng gương Chúa Giê-su, cầu nguyện, cố gắng xác tín mục đích của đau khổ, nhận ra sứ điệp của đau khổ, tìm ý nghĩa của đau khổ trong kế hoạch tình yêu của Cha trên trời...
Qua kinh nghiệm một đau khổ nào đó trong đời, tôi chia sẻ với anh chị em nhóm hoa trái "bình an" do việc sống đức tin.
Trước đau khổ của anh chị em, tôi sẽ làm gì để hỗ trợ anh chị em, sẽ cùng với Chúa giúp cho những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rã rời của anh chị em được nên vững mạnh?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Con đường Chúa đã đi", CNLT 86.
(Isaia 66,18-21; Thư Hipri 12,11-13; Tin Mừng Luca 13,22-30)
Phúc Âm: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Suy Niệm:
Ngày lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hẳn còn để lại nhiều âm vang trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta: TN 21-C65
Ngày lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hẳn còn để lại nhiều âm vang trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cứ giữ lấy hình ảnh về Ðức Mẹ lúc này đang hạnh phúc ở trên trời, để hiểu rõ các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Bài sách Isaia không mô tả trước hạnh phúc chung cuộc dành cho mọi dân tộc đó sao? Ðể đạt được hạnh phúc ấy, tức là được vào Nước Trời, bài Tin Mừng hôm nay nói chúng ta phải đi qua cửa hẹp. Và kiểu nói này được bài thư Hípri giải thích để chúng ta biết đi qua cửa hẹp tức là chấp nhận đi vào con đường nhiều thử thách và phấn đấu.
Đó là những quan niệm không lạ lùng gì; nhưng phải đem ra thực hành và vì thế cần được suy nghĩ thấu đáo. Chúng ta hãy bắt đầu với bài sách Isaia, rồi bài Tin Mừng và cuối cùng đến bài thư Hípri.
1. Chúa Hứa Ban Nước Trời
Đoạn sách Isaia hôm nay chấm hết tác phẩm dầy những 66 chương mang tên một vị đại tiên tri. Nhiều người coi nó như phần phụ lục, mãi sau này mới được đính vào toàn bộ tác phẩm đã được viết từ lâu. Ðiều ấy không quan trọng, vì đàng nào đây cũng là một đoạn sách thánh, một chương Lời Chúa, có giá trị mạc khải dẫn dắt đời sống chúng ta.
Chúa mở ra trước mắt chúng ta chân trời của thời kỳ cánh chung, tức là sau hết. Người không phải chỉ là Chúa của một dân tộc hay của riêng những kẻ giữ đạo của Người. Ngay từ câu đầu tiên trong đoạn sách hôm nay, Người đã khẳng định chính Người linh động tư tưởng và hành động của các dân tộc. Và như vậy Người làm chủ lịch sử.
Lịch sử này sẽ kết thúc ra sao, thì đây là Lời Chúa: "Ta sẽ đến thâu họp tất cả các nước và các tiếng nói. Chúng sẽ đến và sẽ thấy vinh quang của Ta". Lời nói rõ ràng, chắc chắn, không cần mảy may chú thích. Chúng ta tin vào định mệnh tốt đẹp của các dân tộc. Thiên Chúa đã hứa, đã muốn dân của mọi thứ ngôn ngữ chung cuộc sẽ được nhìn thấy vinh quang của Chúa. Kiểu nói này có nghĩa rằng họ sẽ được hân hoan, hạnh phúc khi Chúa đến trong vinh quang. Chính ánh sáng của Người sẽ xua đuổi mọi u sầu đen tối ra khỏi họ. Hình bóng sự chết cũng sẽ phải lui đi. Và sự sống mới, sự sống bắt nguồn từ ánh sáng vinh quang của Chúa sẽ làm cho mọi loài được sống lại. Chúng ta có thể nghĩ đến quang cảnh của một buổi sáng. Ánh sáng mặt trời tỏa ra đến đâu, đêm tối lui đi đến đó và tất cả tạo vật được hồi sinh trong hạnh phúc. Hình ảnh này giúp chúng ta hiểu Lời Chúa vừa tuyên bố: mọi dân tộc sẽ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa để được sống mới mẻ và trường cửu.
Nhưng Chúa sẽ thâu nạp các dân tộc lại bằng cách nào? Theo một kiểu trình bày rất quen thuộc trong giáo huấn của các tiên tri, ở đây Isaia nói rằng: Chúa sẽ đặt một dấu hiệu giữa các dân tộc để họ nhìn thấy mà đến. Ông không nói rõ dấu hiệu nào. Nhưng ai đọc Kinh Thánh nhiều và nhất là biết tác phẩm của ông thì dấu hiệu mà Chúa sẽ đặt lên làm cờ hiệu cho các dân tộc nhìn thấy để đến chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa là Giêrusalem và núi Sion khi được Thiên Chúa viếng thăm và được rực sáng trong ánh sáng vinh quang của Người, là dân còn sót lại sau thử thách luyện lọc, là Hội Thánh Chúa Kitô, là chính Ðức Kitô vinh hiển phục sinh... Từ ngày cây Thánh giá được dựng lên trên một quả đồi ở Sion và Giêrusalem, Thiên Chúa đã đặt một dấu hiệu giữa các dân tộc để chiếu giãi ánh vinh quang của Người cho họ được nhìn thấy.
Tuy nhiên chưa đủ. Chúa còn sai những người trong số dân còn sót lại sau thử thách tinh luyện mà ở đây tác giả gọi là những kẻ "thoát nạn", đi đến các nước. Tức là Chúa sẽ sai các thánh của Người đến với các dân tộc, để những tông đồ này nói cho mọi dân về Chúa, để những kẻ chưa bao giờ thấy vinh quang của Chúa, thì nay được thấy và được sống.
Không phương trời nào không được Chúa sai tông đồ đến. Cả những đảo xa xôi nhất và những miền rừng rú mà thổ dân còn sống bằng nghề cung tên. Bất cứ nơi nào cũng sẽ được nghe nói về Chúa và thấy vinh quang của Người. Các dân tộc sẽ trở nên như anh em của người rao giảng Phúc Âm. Họ sẽ tuôn về với Chúa như các đoàn người tiến về Giêrusalem. Họ đi cáng, đi lạc đà, đi đủ mọi thứ phương tiện. Họ giống như các người Do Thái đang mang lễ dâng lên bàn thờ. Hơn nữa, Chúa còn chọn trong đoàn người đang tiến lên đó những tư tế và Lêvi mới cho Người.
Chắc hẳn khi viết câu này, Isaia có lẽ chỉ nghĩ đến các người Do Thái kiều cư nơi dân ngoại tiến về Giêrusalem vào các dịp lễ. Và trong bọn họ sẽ có những kẻ được chọn làm tư tế. Nhưng vì lời Isaia là lời tiên tri, nên chúng ta có thể hiểu tất cả theo mạc khải của Chúa Giêsu. Và chúng ta sung sướng nghĩ rằng các lời tiên tri của sách Isaia quả thật hướng lòng trí chúng ta về thời cánh chung. Thiên Chúa chọn Ðức Giêsu với thánh giá và Hội Thánh của Người làm cờ hiệu cho các dân tộc. Người sai các tông đồ mới đã thoát nạn thế gian và tội lỗi đến nói với các nước về Chúa và Tin Mừng cứu độ. Các dân tộc sẽ hân hoan đứng lên tiến về với Chúa. Người làm cho họ trở nên vương quốc tư tế của Người...
Một viễn tượng như vậy không làm nức lòng chúng ta sao? Ðó thật là những "lời an ủi", danh từ mà người ta vẫn dùng để nói về các lời Isaia trong các chương sau cùng nơi tác phẩm của ông. Tuy nhiên vẫn có những người đọc sách thánh mà không hiểu. Họ không dám tin hoàn toàn vào Lời Chúa. Não trạng ấy Ðức Giêsu đã bắt gặp khi Người đang hành trình truyền giáo, như bài Tin Mừng hôm nay kể. Chúng ta hãy xem Người dạy dỗ như thế nào?
2. Người Ta Phải Ði Vào Đường Hẹp
Tác giả Luca không nói rõ cho chúng ta biết hôm ấy là ngày nào và Ðức Giêsu đang ở chặng đường nào. Chỉ biết Người đang rảo qua các làng mà dạy dỗ và hành trình lên Giêrusalem. Tác giả Luca dùng cuộc đi đường này để thuật lại những Lời Chúa giáo huấn cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta trên đường đi về Nước Trời. Tác giả cho có một người đến hỏi Chúa: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thôi phải không?". Người hỏi ấy là ai, chúng ta không cần biết. Ông ta nói lên tâm trạng của một số người và có thể nói của nhiều người nữa. Thời bấy giờ - cũng như thời nay - người ta hay tranh luận với nhau xem số người được cứu nhiều hay ít vì trong mạc khải có chỗ nói Chúa sẽ cứu các dân tộc, nhưng cũng có chỗ viết: Ơn cứu độ chỉ dành cho những kẻ thoát nạn. Người ta tranh luận với nhau như thế để làm gì? Nếu cuối cùng chẳng phải chỉ là để thỏa mãn tính tò mò? Hoặc hơn nữa, để có một lời hứa lạc quan, tránh cho người ta phải nỗ lực phấn đấu?
Ðức Giêsu hiểu não trạng ấy. Người không để ai lợi dụng mình. Ở đây cũng như ở mọi chỗ khác, khi thấy người ta tò mò muốn biết về tương lai để sống ỷ lại, Ðức Giêsu vẫn từ chối trả lời. Về số người được cứu rỗi, cũng như về ngày giờ cứu độ, và về chỗ ngồi bên hữu hay bên tả Nước Trời, tất cả những điều ấy nằm trong bí mật của Thiên Chúa. Người không cho biết kẻo chúng ta trở nên những kẻ thụ động. Lời hứa cho chúng ta đã rõ ràng, phương hướng cứu rỗi đã được đề ra; được rỗi hay không cũng còn tùy ở mỗi người. Ðức Giêsu chỉ có thể thương người ta bằng cách giới thiệu đường lối cứu độ rõ ràng hơn. Thế nên Người bảo: "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào".
Lời nói này đã được xác định thêm trong câu Người nói tiếp: "Một khi gia chủ dạy khóa cửa rồi và các ngươi đứng ngoài gõ cửa... xin mở... thì sẽ được đáp lại; Ta không biết các ngươi từ đâu đến".
Như vậy, chúng ta có thể hình dung Nước Trời như là nhà của Chúa. Lúc này cửa nhà ấy đang mở để chúng ta vào. Nhưng nó hẹp. Người ta phải cố gắng mà lách vào; kẻo khi chủ nhà đứng lên và đóng cửa lại, không ai còn vào được nữa. Chúng ta có thể hình dung hơn nữa: Nước Trời là nhà Chúa đang mở tiệc cưới. Người ta phải mau mau đi qua cửa hẹp mà vào, kẻo đến khi khai tiệc, cửa sẽ đóng lại và không ai ra vào nữa.
Nhưng vẫn có những kẻ sẽ không vào được. Họ là ai? Ở đây tác giả Luca nói: đó là những người đã ăn uống ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá của họ, nhưng vẫn làm điều tàn ác. Ðó là người Do Thái đồng hương, đồng thời với Ðức Giêsu mà không đổi đời theo lời Người giảng dạy. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi nhà đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ bị tống ra ngoài, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; đang khi ấy những kẻ bên Ðông bên Tây, tức là dân ngoại lại được vào dự tiệc Nước Trời. Há chẳng chứng nghiệm lời ca dao tục ngữ này sao? Có những người cuối sẽ lên đầu hết và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết? Không phải hết mọi người trước hết được nghe Lời Chúa, tức là người Do Thái đều bị xua đuổi. Nhưng có những kẻ trong bọn họ vì không thi hành Lời Chúa nên sẽ bị đuổi ra, để nhường chỗ cho những người cuối hết, là dân ngoại nghe Lời Chúa sau dân Do Thái mà trở lại. Những người lương dân ấy sẽ lên trước hết trong Nước Thiên Chúa.
Ðiều này đã đúng ngay thời Ðức Giêsu, vì đang khi rất nhiều người Do Thái không tin Người, thì có những kẻ lương dân lại được lòng tin. Nhưng điều ấy còn rõ ràng hơn nữa ở thời Luca, vì đang khi các dân ngoại chen chúc nhau đi vào Hội Thánh, phần lớn người Do Thái vẫn có thái độ thù nghịch. Vì sao?
Ðức Giêsu đã nói: Vì họ không chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào. Cửa hẹp đây, dĩ nhiên là các đòi hỏi của đức tin. Nhưng chúng ta sẽ có lý hơn khi nhớ chính Ðức Giêsu đã tự nói mình là cửa chiên. Ai muốn được cứu độ phải tin vào Người và đi qua Người, qua mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Người, để đến với Chúa Cha. Người Do Thái không tin ở Người nên ở ngoài Hội Thánh là nhà Chúa; đang khi các dân tộc thực hiện lời sách Isaia, thấy Ðức Giêsu và Hội Thánh của Người là cờ hiệu Thiên Chúa, đã dựng lên để cứu thế, đang chen chúc nhau đi vào Nước Trời.
Nhưng trong kế hoạch cứu độ, những gì dân Chúa đã sống, từng Kitô hữu cũng phải kinh nghiệm. Và vì thế ai ai cũng phải chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào sản nghiệp Chúa đã hứa ban cho các dân tộc. Và cửa hẹp của chúng ta, theo lời thư Hípri, là những thử thách hàng ngày.
3. Chúng Ta Phải Tu Chỉnh Lại
Quả vậy, đời sống con người quá nhiều đau thương, đời sống Kitô giáo lại thêm nhiều thử thách khác, vì đức tin con người không biết lướt thắng đau thương sẽ thất bại; và người Kitô hữu không vượt qua được thử thách sẽ mất sản nghiệp Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Ðộc giả của thư Hípri đang gặp thử thách. Tác giả viết thư này để an ủi và khích lệ họ. Người đã nại đến gương sống đức tin của các tổ phụ; đặc biệt Người đã bảo họ hãy ngắm nhìn Ðức Giêsu trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Những thử thách họ đang chịu chưa đến nỗi làm cho phải đổ máu mà! Hãy còn là những chiến đấu nhỏ thôi. Và như vậy, họ nên nhớ lại lời sách châm ngôn: "...Chúa thương ai, Người muốn sửa dạy; con nào Người nhận, Người mới cho đòn".
Thật ra, mới nghe, chúng ta có thể coi thường một lời an ủi như thế. Nó phản ánh một kinh nghiệm thông thường: con người lớn lên cần phải giáo dục và giáo dục đòi sửa dạy. "Vì còn gì là con, kẻ người cha không dạy?". Nhưng điều rất tự nhiên trong gia đình lại khó được chấp nhận ở môi trường khác. Và đó là cảm tưởng của chúng ta những khi gặp đau khổ. Chúng ta thấy Chúa không an ủi được chúng ta. Chúng ta phàn nàn vì sao Ngài không chăm sóc chúng ta hơn? Tác giả thư Hípri nghĩ rằng: Chính những lúc ấy chúng ta đã quên Chúa là Cha. Người đã chọn chúng ta giữa muôn muôn người làm con cái Người. Thế thì Người phải sửa dạy chúng ta hơn. Chúng ta phải gặp thử thách hơn những người khác. Không như vậy, làm sao có thể nói chúng ta là con cái Chúa? Và nếu Chúa không sửa dạy, thì làm sao, chúng ta có thể lớn lên làm người trong đời sống Kitô hữu?
Ðàng khác bị sửa dạy thì trước mặt không vui nhưng sau này sẽ thấy lợi ích. Ðây cũng còn là một kinh nghiệm loài người. Nhưng tác giả Hípri đã hướng dẫn chúng ta suy nghĩ sang bình diện đạo đức. Ông nói: Lợi ích của sửa dạy là hoa quả bình an công chính. Con cái Chúa có thể cảm thấy mau lẹ hơn con cái loài người; vì có thể nói ngay khi chấp nhận thử thách người Kitô hữu đã thấy nó như mầu nhiệm tử nạn chứa chấp mầu nhiệm phục sinh, đang khi con cái trong nhà có thể chưa mau mắn nhận ra lợi ích của việc cha mẹ sửa dạy. Các tín hữu khi chấp nhận đau khổ với tinh thần đạo đức sẽ thấy ngay được bình an công chính.
Nói như vậy có phải để chúng ta ao ước thử thách không? Tác giả thư Hípri không đi quá xa như vậy. Ông rất chân thực, và chỉ đưa ra một câu kết luận: chúng ta hãy dùng thử thách để chạy thẳng tắp trên đường đạo đức, chứ đừng đi dệu dạo nữa. Ông muốn nói, vì chúng ta còn hai lòng và chưa hoàn toàn trong đời sống thánh thiện, nên Chúa gởi thử thách đến sửa dạy. Chúng ta hãy tỉnh ngộ đi vào đường ngay. Thử thách sẽ sinh ra bình an công chính. Chúng ta sẽ thành thân hơn và đạt tới những điều Chúa hứa.
Người đã hứa tương lai và đời sống tốt đẹp cho chúng ta như bài sách Isaia đã nói. Người còn xác định phải qua cửa hẹp để vào hạnh phúc. Những thử thách gặp phải trong đời sống đạo đức nhắc nhở chúng ta gò mình hơn vào con đường hẹp. Chúng ta chấp nhận, sẽ thấy hạnh phúc.
Giáo huấn này không phải chỉ rõ trong Lời Chúa hôm nay, nhưng còn cụ thể hơn nữa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Ở đây, chúng ta cử hành lễ Vượt qua của Ðức Giêsu, để kết hợp với cuộc tử nạn của Người, chúng ta mong đạt được các hiệu quả của việc Người phục sinh. Chúng ta phải có tinh thần muốn đi vào con đường hẹp trong thánh lễ này là dâng mình và dâng đời sống làm hy lễ cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể không thực hành tinh thần ấy sau khi dâng lễ sao? Ngược lại, chắc chắn chúng ta sẽ có tinh thần đi vào con đường hẹp nhiều hơn để được vào Nhà Chúa và bàn tiệc của Người sau này cùng với tất cả các dân tộc.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Bài Tin Mừng hôm nay gom lại một số ngôn từ của Chúa Giê-su. Chúa nói về việc gia nhập: TN 21-C66
Bài Tin Mừng hôm nay gom lại một số ngôn từ của Chúa Giê-su. Chúa nói về việc gia nhập Nước Trời đang khi Người đi lên Giê-ru-sa-lem. Đề tài về Nước Trời là một Tin Mừng cho cộng đồng Dân ngoại, nhưng lại là vấn đề nhức nhối đối với cộng đồng Do-thái là những người không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su và sứ mệnh cứu thế của Người. Tiếp nhận Nước Trời có nghĩa là tiếp nhận chính Chúa Giê-su và Tin Mừng Người rao giảng. Việc tiếp nhận ấy đòi một giá đắt, tới độ người ta phải từ bỏ mọi sự và ngay chính bản thân mình để bước theo Chúa. Đối với người Do-thái, bỏ đi tất cả gia sản Lề Luật và truyền thống tổ tiên để ôm ấp một lối sống mới của Tin Mừng quả thực là một thách đố. Nhưng không có chọn lựa nào khác cho họ cả. Thái độ tiêu cực không muốn tiếp nhận Tin Mừng ấy cũng có thể gặp thấy ngay nơi những người hôm nay tuy mang danh Ki-tô hữu, nhưng lại không muốn “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” Nước Trời.
a) Đường lên Giê-ru-sa-lem và đường vào Nước Trời
Sách Tin Mừng thường đặt các huấn dụ và ngôn từ của Chúa Giê-su về việc làm môn đệ trong bối cảnh hành trình lên Giê-ru-sa-lem. Đường lên Giê-ru-sa-lem là đường dẫn đến cuộc Thương khó và cái chết của Chúa Giê-su, nhưng cũng là con đường duy nhất để Người được vinh hiển và để các môn đệ đi theo Người sẽ được chung phần vinh phúc với Người. Đã gọi là đường đi lên thì tự nó đòi hỏi ta phải cố gắng và chấp nhận khổ cực rồi, khổ cực cả thể chất lẫn tinh thần. Chúa Giê-su không lên Giê-ru-sa-lem để được tuyên dương làm vua Ít-ra-en, nhưng để chấp nhận cái chết làm chứng cho giá trị Tin Mừng và biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, “sẵn sàng thí mạng mình vì bạn hữu.”
Đường lên Giê-ru-sa-lem là quãng đường Chúa Giê-su dạy ta phải làm gì và sống thế nào thì mới là môn đệ của Người. Trên con đường này, Chúa Giê-su thường nhân cơ hội những người đến hỏi Người điều này điều nọ mà ban cho ta những lời vàng ngọc, những lời khuyên thiết thực liên quan tới số phận tương lai của ta. Chúa Giê-su sử dụng con đường này để “đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.” Người luôn có mặt trên con đường này để cứu thoát ta. Hôm nay, có người muốn được cứu thoát đến hỏi Chúa: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Đường lên Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho con đường được cứu thoát, thế mà người ta lại đặt vấn đề những người được cứu thoát thì ít! Chúa Giê-su không minh nhiên đồng ý, nhưng cách Người trả lời cho thấy đó là sự thật: “Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Vậy tại sao không thể được?
b) “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”
Lời khuyên của Chúa Giê-su cũng chính là lời giải thích tại sao có nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Khung cửa hẹp là lối vào Nước Trời. Những lời hướng dẫn của Chúa Giê-su ban cho chúng ta là để giúp ta đi lọt khung cửa hẹp ấy. Người bảo ta phải để lại hết trước khi vào, vàng bạc của cải, xe hơi nhà lầu, thậm chí cả đến những tình cảm tự nhiên và hợp lý của con người, để chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng và đi ngược chiều với lối sống của người đời. Cửa hẹp ấy đòi ta phải gạt bỏ thù hằn và yêu thương kẻ thù. Cửa hẹp muốn ta sống luật yêu thương tự trong lòng, thay vì quá tôn trọng và câu nệ những hình thức bên ngoài. Cửa hẹp dạy ta phải đem lời Chúa ra mà thực hành chứ không phải chỉ huyênh hoang kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” (Lc 6:46-47). Chúa Giê-su đã gọi việc chấp nhận sống Tin Mừng là một cuộc chiến đấu. Mà thực, đó là một cuộc chiến đấu, cuộc chiến nội tâm thánh Phao-lô đã cảm nghiệm và phải la lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 7:24).
Người Do-thái thời Chúa Giê-su không muốn từ bỏ lối sống làm nô lệ cho Lề Luật để chấp nhận lối sống của Tin Mừng. Họ ôm lấy Lề Luật như của gia bảo kềnh càng khiến họ không thể qua lọt cửa hẹp của Tin Mừng. Họ khép lòng chỉ dành cho những ai thương yêu họ chứ không muốn mở ra đón nhận kẻ thù và mọi người. Họ thà làm ngơ trước người bộ hành nửa sống nửa chết vì nạn cướp để lên Đền Thờ dâng lễ thay vì thi hành bác ái, cứu giúp người anh em. Mẫu người như họ thì làm sao đi qua được của hẹp. Họ tìm cách để được cứu thoát, nhưng phải là cách do họ đề ra chứ không phải là cách của Chúa.
Ngày nay có biết bao Ki-tô hữu cũng tìm cách vào Nước Trời theo cách riêng của họ. Đối với họ, Lời Chúa chỉ là lớp dầu bóng bên ngoài làm cho họ trông vẻ như những Ki-tô hữu chính danh. Nhưng lối sống của họ lại hoàn toàn không phản ảnh giá trị Tin Mừng chút nào. Thực ra họ đâu có biết Chúa. Biết Chúa ở đây có nghĩa là sống quan hệ với Người. Mà đã không sống quan hệ với Người thì thật là đích đáng khi Người trả lời họ đến gõ cửa nhà Người: “Ta không biết các anh từ đâu đến!” Giống như những người Do-thái từng vỗ ngực xưng mình là con cháu ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp nhưng đã không tiếp nhận Đức Ki-tô và Tin Mừng nên bị loại ra khỏi Nước Trời, thì những Ki-tô hữu có danh mà không sống lý tưởng Ki-tô cũng sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời như vậy. Mang tên Ki-tô hữu không phải là mang thẻ thông hành lên thiên đàng, nhưng là chấp nhận một cuộc chiến đấu cam go, đòi hỏi nhiều hy sinh, phải mất đi mạng sống để được sống đời đời.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Cửa hẹp Chúa Giê-su nói đến có ý nghĩa gì đặc biệt đối với tôi?
Có bao giờ tôi tìm cách vào không? Và cách của tôi là cách nào và có phù hợp với cách của Chúa Giê-su không?
Những kẻ gõ cửa thưa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.” Đó có phải cũng là hoàn cảnh của tôi hiện thời không? Tôi hằng tuần hoặc hằng ngày dự tiệc thánh với anh chị em trước mặt Chúa, nghe giảng dạy và suy niệm Lời Chúa. Nhưng thực sự tôi đã “biết” Chúa chưa, nghĩa là đã sống mối quan hệ mật thiết với Người chưa? Nếu chưa, tôi phải làm gì?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại. Lạy Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 46)
Còn Ta, Ta biết rõ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta.
* Dt 12,5-7.11-13:
Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con.
* TIN MỪNG: Lc 13,22-30: Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do Thái bất trung và kêu mời dân ngoại.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: "Thưa Ngài những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" Người bảo họ: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.
Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: "Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!" thì ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!". Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi". Nhưng ông sẽ đáp với anh em: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính".
Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.
NGẪM
* Câu hỏi gợi ý:
Ý định của Thiên Chúa là gì? 2. Tại sao Chúa Giêsu trách người Do Thái? 3. Chúng ta có đáng: TN 21-C67
* Suy tư gợi ý:
1.Ý định của Thiên Chúa:
Trong cách sống đạo, dường như phần đông giáo dân Việt Nam ít nhiệt thành với việc loan báo Tin Mừng, với việc làm chứng, với việc mở mang Nước Chúa. Dường như họ chỉ giới hạn tầm nhìn và sự quan tâm vào phần rỗi cá nhân hoặc cùng lắm là đến "số phận" của Giáo hội
1. Ý định của Thiên Chúa là gì? 2. Tại sao Chúa Giêsu trách người Do Thái? 3. Chúng ta có đáng Chúa trách như những người Do Thái không?
* Suy tư gợi ý:
1.Ý định của Thiên Chúa:
Trong cách sống đạo, dường như phần đông giáo dân Việt Nam ít nhiệt thành với việc loan báo Tin Mừng, với việc làm chứng, với việc mở mang Nước Chúa. Dường như họ chỉ giới hạn tầm nhìn và sự quan tâm vào phần rỗi cá nhân hoặc cùng lắm là đến "số phận" của Giáo hội. Thế nhưng Nước Thiên Chúa thì có biên cương rộng lớn hơn Giáo hội. Ý định và Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa thì không chỉ giới hạn ở phần rỗi của mỗi con người mà bao trùm cả nhân loại và vũ trụ vạn vật. Sỡ dĩ chúng ta hiểu và sống như thế, vì trong một thời gian dài, chúng ta được dạy rằng Giáo hội và Nước Thiên Chúa là một thực tại hoặc là hai thực tại nhưng đồng hóa với nhau. Thật ra không phải như vậy! Chỉ cần đọc lịch sử Dân riêng Chúa và Tin Mừng một cách chăm chú một chút là chúng ta thấy rõ điều ấy.
Thật vậy, ngay từ thuở đầu, Thiên Chúa đã muốn thông ban đời sống ân sủng thần linh cho con người, nhưng nguyên tổ loài người đã dùng tự do mà chối bỏ ý muốn ấy của Thiên Chúa và phá đổ chương trình của Ngài. Dù vậy Thiên Chúa vẫn không thay đổi Ý định đem hạnh phúc đến cho con người và quy tụ muôn dân muôn nước thành một dân tộc, thành một gia đình: Dân Chúa và gia đình của Cha! Dân Do Thái là khởi điểm của sự qui tụ ấy. Giáo hội tiếp nối vai trò mà Chúa đã giao cho Dân Do Thái xưa, tức vai trò làm dấu chỉ loan báo Nước Trời và làm công cụ xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Trong giảng dậy, Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh, nhiều dụ ngôn để nói về Nước Trời: người gieo giống (Mt 13,23); cỏ lùng (Mt 13, 24-30); hạt cải (Mt 13, 31-32); men trong bột (Mt 13,33); kho báu và ngọc quý (Mt 13, 44-46); chiếc lưới (Mt 13,47-50). Nhưng hình ảnh mà Đức Giêsu thích dùng nhất để nói về Nước Trời là Tiệc cưới (Lc 14, 15-24). Đức Giêsu cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời trong bài giảng Tám Phúc Thật (Mt 5,1-12)! Có thể nói là Đức Giêsu đã dùng hết cách để giúp người Do Thái thời xưa và giúp chúng ta ngày nay hiểu Ý định, Chương trình của Thiên Chúa và vai trò ưu tiên và vinh dự lớn lao mà Thiên Chúa dành cho họ và cho chúng ta.
Để bước vào Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu chỉ đặt ra một điều kiện nhỏ cho người Do Thái xưa và cho người công giáo chúng ta ngày nay: đi qua cửa hẹp. Đi qua cửa hẹp có nghĩa: là tuân giữ luật lệ của Thiên Chúa; là trung thành với giao ước đã ký kết với Người; là đi theo đường lối của Người; là sống theo tinh thần Bát Phúc...
2. Đức Giêsu trách người Do Thái xưa:
Nhưng nhiều người Do Thái đã không chịu đi qua cửa hẹp ấy. Họ thích sống theo sở thích và làm theo ý muốn riêng của mình. Họ thích bày ra đủ thứ tục lệ mà coi thường giới răn của Thiên Chúa. Họ muốn giữ đạo hình thức, phô trương, mầu mè mà không đi vào trọng tâm của Đạo. Họ ỷ vào "gốc gác", "lý lịch con ông cháu cha" của mình mà không chịu phấn đấu và đổ mồ hôi để làm nên sự nghiệp theo Chương trình của Thiên Chúa. Nên họ đã bị Chúa quở trách và từ chối vào thời điểm quyết định.
3. Đức Giêsu trách chúng ta ngày nay?
Còn chúng ta ngày nay? Chúng ta có đáng bị Chúa Giêsu quở trách như người Do Thái xưa không? Nhìn vào cách sống Đạo của chúng ta ngày nay, chúng ta không khỏi tự ái ngại cho chính mình: Chúng ta đi lễ đi thờ cho có lệ và cho thế là đủ. Chúng ta thờ ơ với việc học hỏi Giáo lý, Thánh Kinh, Giáo huấn của Giáo hội, vịn cớ là chúng ta ít học và phải vất vả làm ăn sinh sống, không có thời gian. Chúng ta chạy theo đồng tiền, danh vọng và thú vui một cách mù quáng và tưởng mình có quyền sống như những người không biết Chúa. Chúng ta buôn gian bán lận như người không biết có luật công bình bác ái, mà lương tâm không hề ray rứt. Chúng ta làm những việc, những nghề mà một người có lương tri lành mạnh không bao giờ dám làm mà lại biện minh cho việc làm của mình là để sống và để nuôi gia đình. Chúng ta ngại hy sinh, từ bỏ vì cho rằng chỉ có dại mới cho đi, chỉ có khờ mới từ bỏ. Chúng ta sống đóng kín, ích kỷ, chỉ biết có mình và sợ phải chia sẻ của cải, thời giờ với người khác vì cho rằng sống "thủ cho kỹ" là khôn là ngoan, sống bác ái là khùng là dại. Chúng ta thích đi những con đường cao tốc, thênh thang chứ không muốn đi những con đường gồ ghề, dốc khó. Chúng ta muốn bước vào cánh cổng rộng mở chứ không chịu bước qua cửa hẹp. Điều mâu thuẫn là trong khi đó, chúng ta lại muốn sau này được cùng với các tổ phụ và ngôn sứ, ngồi bên Chúa để dự Tiệc Nước Trời. Nói cách khác, chúng ta muốn được cả chì lẫn chài, muốn sung sướng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Sao chúng ta "khôn" thế?
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, Cha muốn chúng con xây dựng Nước Cha trong tâm hồn, trong gia đình và trong cộng đoàn của chúng con! Cha còn muốn chúng con xây dựng Nước Cha trong xã hội Việt Nam hôm nay.. Cha kêu mời chúng con đến làm việc cho vườn nho của Cha! Xin Cha cho chúng con ý thức hơn nữa về trách nhiệm loan báo và xây dựng Nước Cha trong môi trường sống của chúng con!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy và đã làm gương cho chúng con là phải đi qua cửa hẹp để vào Nước Trời; là phải hy sinh, từ bỏ và chết đi để xây dựng và mở mang Nước Thiên Chúa.. Xin Chúa giúp chúng con biết noi theo gương Chúa, biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa mà xây dựng Nước Trời trong môi trường sống của chúng con!
Lạy Chúa Thánh Thần, vì yếu đuối và hèn nhát nên chúng con sợ phải bước qua cửa hẹp. Xin Chúa ban sức mạnh nâng đỡ chúng con, để chúng con bước theo Đức Giêsu, dấn thân vào con đường xây dựng Triều Đại của Thiên Chúa trong môi trường sống của chúng con!
"Hãy cố gắng qua cửa hẹp để vào Nước Trời" (Lc 13,24)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: "Người ta sẽ đưa tất cả những anh em các của thuộc mọi dân tộc về" - Đáp ca: "Muôn nước hỡi nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi hãy chúc tụng Người" - Tin Mừng: "Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" - "Hãy cố gắng qua cửa hẹp để vào Nước Trời" (Lc 13,24)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Dân do thái là dân riêng của Chúa. Còn chúng ta chỉ là dân ngoại. Vậy mà chúng ta đã được Chúa TN 21-C68
Dân do thái là dân riêng của Chúa. Còn chúng ta chỉ là dân ngoại. Vậy mà chúng ta đã được Chúa thương, cho chúng ta biết Ngài và quy tụ chúng ta lại trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta hãy cám ơn tình thương của Chúa, và hãy cầu nguyện để ngày càng có thêm nhiều người được biết Chúa và đến với Ngài.
II. Gợi ý sám hối
- Rất ít khi chúng ta biết cám ơn Chúa vì ơn được biết Ngài.
- Cũng rất ít khi chúng ta quan tâm làm cho nhiều người khác cũng được biết Chúa như chúng ta.
- Chúng ta ngại đi qua "cửa hẹp", nghĩa là ngại khó khăn, ngại cố gắng. III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 66,18-21)
Đây là đoạn kết của sách Isaia, qua đó Thiên Chúa tỏ cho biết giai đoạn cuối của chương trình cứu độ của Ngài là tất cả mọi dân tộc (chứ không riêng gì dân do thái) sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài.
2. Đáp ca (Tv 116)
Thánh vịnh này nhấn mạnh lại ý tưởng của bài đọc I: kêu mời mọi nước mọi dân hãy ca ngợi và chúc tụng Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 13,22-30)
Hai câu trong đoạn Tin Mừng này đáng chú ý nhất:
c.23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại ; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.
c.24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh "đi qua cửa hẹp".
- "Đi qua": Động từ "qua" diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết "đi qua" (thay đổi cách sống) thì mới vào nhà được.
- "Cửa hẹp" diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19,24, Mc 10,25, Lc 18,25).
Như thế, số lượng những kẻ vào Nước Trời (nhiều hay ít), và lý lịch của những người ấy (do thái hay dân ngoại) đều không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
4. Bài đọc II (Dt 12,5-7.11-13) (Chủ đề phụ)
Đoạn thư do thái này bàn đến những gian truân khốn khó.
Như chúng ta đã biết, các kitô hữu gốc do thái phải chịu nhiều khốn khó từ phía đế quốc rôma lẫn phía Do thái giáo.
Tác giả cho họ biết rằng những gian nan khốn khó đó là những việc Chúa cho phép xảy ra để thử thách và sửa dạy họ. Mà Chúa thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế, họ đừng ngả lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
IV. Gợi ý giảng
1. Ai sẽ được cứu rỗi ?
Thời Chúa Giêsu nhiều người Do thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu "Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi ?" thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời "Phải" để xác nhận quan điểm của họ.
Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp "Phải" chỉ có một ít người sẽ được cứu rỗi" thì sẽ sinh hậu quả là những người Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ "Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích". Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp "Ơn cứu rỗi được ban cho số đông" thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rồi mà.
Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:
- Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết ; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo Lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo Lời Chúa.
- Chúa còn nói:"Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra", ie có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo Lời Chúa.
Trên đây là ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin mừng, áp dụng cho dân Do thái và các dân khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng vv thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo Lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo Lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến 2 quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin mừng nên vẫn được cái là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. Còn quan niệm thứ hai là về những người "Kitô hữu ngoại đao", nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì ? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.
Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc he hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, áp đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vả xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói "Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con". Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy". Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.
Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo Lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.
Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo.
Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói "Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa". Ông còn khuyên người khác "Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa,. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực.
Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao ? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao ! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hể mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi ; không phải hể có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin mừng trong mọi tình huống cuộc đời.
Xin Chúa giúp chúng ta không chỉ là những người Kitô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Kitô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình.
2. Cửa nào Chúa đã đi qua ?
Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: "Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế ! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào !" Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
- Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc:
- Nhà của tôi đó thật sao ? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được ?
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:
- Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi !
"Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót" (Lc 13,30). Đó là bất ngờ đau đớn cho "những kẻ đứng đầu". Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua "cửa hẹp" mà vào được Nước Trời.
"Những kẻ đứng đầu" có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua "cửa hẹp" mà vào được Nước Trời.
"Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào" (Lc 13,24). Nếu Chúa đã bảo hãy "chiến đấu" tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được "cửa hẹp". Nếu Chúa đã nhắc đến "cửa hẹp" thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: "Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào" (Lc 18,17).
"Cửa hẹp dẫn đến sự sống" (Mt 7,14), cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ "chủ nhà đứng dậy và khoá cửa lại" (Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng ; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó !à cửa rộng thênh thang ; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh ; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: "Ta không biết các anh từ đâu đến" (Lc 13,27) (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
3. Thử thách giúp nên người
Ở một số bộ lạc da đỏ, có tục lệ sau đây: khi một trẻ trai đến tuổi thành niên, người cha của nó sẽ dẫn nó vào rừng, giao cho nó một cây giáo, sau đó người cha rút lui để lại nó một mình trong rừng suốt đêm hôm ấy. Trong đêm đó, nó sẽ phải một mình ở trong rừng, đối diện với nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thú dữ. Nếu nó hèn nhát đòi theo cha về nhà thì nó vẫn bị coi là trẻ con. Nhưng nếu nó chịu đựng được tất cả và sáng hôm sau rời khỏi khu rừng trở về với gia đình thì nó được chính thức công nhận là người một trưởng thành.
Nếu nói theo bài Tin Mừng hôm nay thì cái đêm khó khăn trong rừng ấy là cái "cửa hẹp" ; còn nếu nói theo bài đọc II thì đó là "thử thách". Có qua thử thách hay cửa hẹp đó thì chàng thiếu niên mới trở thành người.
Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người ?
- Vì nó thanh luyện tâm hồn - Vì nó rèn luyện đức tính - Và vì nó sinh nhiều hoa trái tốt
Chẳng những giúp ra nên người, gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt:
- Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại, nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta.
- Nó khiến ta tìm đến Chúa - Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền phép Chúa - Nó giúp ta cảm nhận được tình thương của Chúa - Và nó khiến ta biết thương xót những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.
4. Chuyện minh họa
a/ Cửa hẹp
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (...) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài
b/ Tiếng Chúa
Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta ; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta ; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C.S. Lewis).
c/ Vào thiên đàng
Một Rabbi do thái kia có đứa con theo Kitô giáo. Khi ông chết, Chúa Cha cho ông vào thiên đàng. Nhưng ông nói:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng vào thiên đàng đâu, vì đứa con của con đã bỏ đạo Giavê để theo đạo Kitô.
- Có sao đâu ! Đức Chúa Cha an ủi, Ta thông cảm, Ta thông cảm. Ngày xưa Con của Ta cũng thế !
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chút nữa khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho "Nước Cha trị đến" để ngày càng có thêm nhiều người nhận biết Chúa và đến với Chúa.
VI. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại với cuộc sống hằng ngày với biết bao cực nhọc và đau khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta biết đó chính là những thử thách mà vì yêu thương chúng ta nên Chúa mới gởi đến cho chúng ta. Đó chính là cái cửa hẹp mà chúng ta cần phải qua đó mới vào được Nước Trời. Vậy chúng ta hãy vui lòng đón nhận tất cả những cực nhọc và đau khổ ấy với lòng yếu mến.
Ngoài cuốn Guinness ghi các kỷ lục mới trên thế giới về mọi lãnh vực, hằng năm các tờ báo: TN 21-C69
Ngoài cuốn Guinness ghi các kỷ lục mới trên thế giới về mọi lãnh vực, hằng năm các tờ báo như Forbes và Times đều đưa ra danh sách những nhân vật lọt vào “top”: Tạp chí Forbes có lẽ được biết đến nhiều nhất với danh sách định kỳ về tài sản,vì nó thường sử dụng những điều tra đáng tin cậy để xác định tài sản thực tế của cá nhân, từ đó Forbes xếp hạng những người,những công ty giàu có nhất ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Vừa qua tạp chí nầy đã làm chủ tịch Fidel Castro nỗi cáu khi ước đoán ông nầy đang sở hữu một tài sản 550 triệu USD! Tạp chí Times chuyên về xã hội, hằng năm xếp hạng 100 nhân vật hoặc sự kiện nỗi bật hoặc có ảnh hưởng nhất trên thế giới về mỗi lãnh vực hoặc mỗi khía cạnh. Ví dụ: 100 khuôn mặt ảnh hưởng nhất, có thể là tốt như Mẹ Têrêxa hoặc xấu như Osama Bin Laden. Nhưng dù xét dưới khía cạnh nào,nên ích hay có hại, thì họ đếu là những người đã phấn đấu và thi thố hết tài năng để chiếm lĩnh những vị trí được công nhận ấy. Và con đường họ đã trải qua, chắc chắn không phải trải gấm và rộng thênh thang,mà phải năm gai nếm mật, phải vượt qua bao thử thách, gian nan, thất bại mới có được ngày hôm nay và phải tiếp tục để giữ vững thành quả. Họ đã phải luôn ‘vượt lên chính mình”
Trong mỗi trận thi đấu ở môn thi đấu, huy chương vàng,huy chương bạc,huy chương đồng chỉ có một chiếc. Để đứng được trên bục cao, đón nhận vinh quang, hàng triệu vận động viên đã ngày đêm tập luyện, thi đấu, đổ mồ hôi và cả máu, có khi mang chấn thương và tàn phế cả đời, qua nhiều lần tuyển chọn, giao đấu và cuối cùng cũng chỉ có ba người chiến thắng. Ở những giải Marathon, hàng ngàn – có khi hàng chục ngàn - người tham dự, nhưng cũng chỉ có ba người về đầu được nhận giải. Song với đa số, giải thưởng chỉ là phụ. Họ có thể về hạng chót,nhưng vẫn thấy hạnh phúc,vì điều quan trọng đối với họ,là đã ‘vượt qua chính mình”. Họ đã không bỏ cuộc.
“Vượt Lên Chính Mình” – do HTV phối hợp thực hiện - là chương trình giáo dục, giải trí mang tính xã hội và nhân bản cao được phát từ năm 2005 và được khán giả truyền hình yêu thích. Nó tạo ra cơ hội cho các gia đình nghèo có thể nhận được sự hổ trợ về tài chính để xóa nợ ngân hàng và được cấp thêm vốn để thoát khỏi cảnh nghèo và đổi đời, nếu qua cuộc thi họ chứng minh được là có khả năng, nghị lực và làm giỏi trong nghề nghiệp của họ. Câu nói được người dẫn chương trình lập lại mỗi lần: “chúng ta chỉ thật sự thất bại khi từ bỏ mọi nỗ lực”, đã tiếp thêm nghị lực cho rất nhiều người khi gặp khó khăn,thử thách trong cuộc đời. Vinh quang không dành cho người không có ý chí vượt khó và kiên trì. Thành công không đến với những người ỷ lại, ươn lười,”ngồi chờ sung rụng”. Trong tất cả mọi lãnh vực đều như thế, đạo cũng như đời, không có đất cho những hạng “chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng”. Thành công,vinh quang,chiến thắng chỉ đến với những người có thể vượt qua “cửa hẹp” khó khăn nhất,là chính bản thân. Ai đã đọc tác phẩm “À marche forcée” (tạm dịch: bước chân khổ sai), - người thật việc thật - của nhà văn Slavomir Rawicz, đều thấy ý chí “vượt lên chính mình” của con người thật đáng nể, khó tin nhưng có thật: đó là chứng từ, tường thuật lại cuộc mạo hiểm vượt ngục không thể tin được do tám tù nhân vào năm 1942, thoát khỏi trại lao động khổ sai sô-viết. Cùng nhau họ vượt qua Siberia, sa mạc Gobi, nước Tây Tạng trong thời gian hai năm ròng và qua hàng ngàn cây số, sống sót nhờ tình bạn và sự tương trợ không thể nào quên.
Bên cạnh vô vàn câu chuyện và gương sáng “vượt lên chính mình”, người ta cũng nghe những chuyện vừa đáng thương,vừa khôi hài: Ngày 25 tháng 7 vừa qua, Đài Phát Thanh Hy Vọng đưa tin về sự cố bi thảm xảy ra tại đại nhạc hội Love Parade ở Duisburd, Đức,làm 19 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương.Nguyên nhân được cho là do dẫm đạp lên nhau, vì chỉ có một lối vào duy nhất qua một đường hầm, nhưng có quá đông người chen lấn để vào. Ở Thái Lan, hộp đêm hạng sang Santika ở BangKok,bị hoả hoạn khiến cho hơn 60 người thiệt mạng và hơn 200 người bị thương. Cảnh sát cho hay các nạn nhân chết vì bị bỏng, ngạt khói và bị thương do giẫm đạp lên nhau để tìm lối thoát khỏi câu lạc bộ này.Lực lượng cứu hoả đã được báo động ngay sau lúc nửa đêm nhưng khi họ tới nơi thì hộp đêm này đã vô cùng hỗn loạn với hàng trăm người chen nhau tìm đường sống. Còn nhớ năm 2005, đài BBC đưa tin vụ hoả hoạn tại một quán bar ở Trung Quốc đã cướp đi sinh mạng của 26 người, do quán bar trái phép nầy không có bình cứu hoả trong khi cửa thoát hiểm lại quá bé. Trước đó vào tháng 12 năm 2000,cũng tại Trung Quốc, hoả hoạn xảy ra trong một câu lạc bộ đêm giết chết 309 người.Trong vụ này, các cửa thoát hiểm đều bị khoá khiến các nạn nhân mắc kẹt bên trong. Cửa hẹp vào Thiên Đàng cũng phải nhanh tay lẹ mắt, chen lấn mà vào, nhưng không phải như thế nầy!
Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói đến và là điều kiện mà mọi Kitô hữu phải thực hiện, để được cứu rỗi,chính là cửa mà chính Người đã đi qua, trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, hay nói chính xác hơn: Mầu Nhiệm Cứu Độ khởi từ Lời Thiên Chúa hứa sau khi Ađam và Evà phạm tội cho đến Khi Chúa Giêsu Phục Sinh, được cấu thành và nối tiếp bằng những thiếu thốn nghèo khổ, đau đớn, hy sinh và cái chết tức tưởi trên thập giá. Chính xác hơn nữa ; Chúa Giêsu đã phải đánh đổi phục sinh và vinh quang bằng sự vâng lời và tự hạ “cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2, 6-8). Con đường Chúa Kitô đã đi, cánh cửa Chúa Kitô đã qua, chắc chắn hẹp hơn con đường và cánh cửa mà Người muốn chúng ta phải qua. Thoái thác,tránh né con đường hẹp, cánh cửa hẹp, nghe theo đam mê dục vọng và danh lợi, tức là chúng ta chà đạp lên thập giá và không muốn được cứu rỗi. Con đường chúng ta đi và được viện ra hàng trăm lý do để bao biện, là để nuông chiều và thoả mãn xác thịt, bỏ bê những bổn phận thờ phượng tri ân hằng ngày và sống ích kỷ, thiếu bác ái. Thánh Phaolô nói: “Chúa họ thờ là cái bụng” ( Pl 3,19 a). Biết bao Kitô hữu đã bằng cuộc sống, chối bỏ Thánh Giá của Chúa Giêsu, gạt bỏ thập giá của bản thân (x. Mc 8,34; Mc 10,38).
Có ba “chân lý” mà chúng ta có thể khẳng định với nhau: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng không giống ai. Thứ hai, Thiên Chúa luôn làm những chuyện khác đời,ngược đời. Nếu Thiên Chúa cũng “giống ai”, thì con người đã không được dựng nên và đã không tồn tại qua những hành động phản bội,tội lỗi,vong ân. Nhưng Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa trong tính “lập dị”,khi Người luôn làm những chuyện ngược đời, như bắt Con Một làm người, chịu nạn và chịu chết chỉ để tỏ cho bọn thế nhân bất xứng rằng Người yêu thương chúng vô biên. Và hôm nay, trong bài Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ những điều ngược đời nữa: hãy vào Nước Trời bằng cửa hẹp. Thiên Chúa không thanh minh. Người chỉ cho biết:” tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy (Isaia 55,6-8). Chúa Giêsu cũng không thanh minh. Người chỉ nói:”vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16,23). Chúa Kitô cũng không muốn các môn đệ - và chúng ta - thanh minh. Người chỉ nói:”ai muốn theo Ta,thì hãy từ bỏ chính mình,và hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Cha nào con nấy;Thầy nào trò nấy: Xưa nay vẫn thế!
Nhưng “chân lý” thứ ba quan trọng hơn cả, chứng minh cho hai “chân lý” trên đây. Đó là Kitô giáo và Giáo Hội Công giáo tồn tại bền vững chính nhờ những cái ngược đời,những cái không giống ai ấy. Một hiến chương Nước Trời mà những người ưa đấu tranh vì công lý, coi là “nhu nhược”, nhát đảm và chủ bại. Nhưng bao nhiêu thế lực mạnh mẽ,hung tàn,đã bách hại và muốn hủy diệt Đạo Thánh Chúa đã biến mất,còn chăng là để lại những tiếng xấu bị muôn đời phỉ báng. Những chủ thuyết nầy nọ, cả trong lẫn ngoài Giáo Hội, tưởng chừng làm cho Giáo Hội phải sụp đổ ngày một ngày hai, thì lần lượt tan rã như những vệt khói mờ. Chỉ vì chúng giống con người, hình thành từ lòng dạ đen tối, độc ác và tham lam của con người không tin nhận Chúa, mang tất cả bản chất hư đốn của loài người tội lỗi. Còn Đạo Chúa, Giáo Hội Chúa nghĩ khác, làm khác, “ngược đời”, vì thế vẫn mãi tồn tại, vẫn mãi bền vững. “Con người đâu phải mạnh mà thắng” (I Sm 2,9).
Đâu phải tuyên bố “vượt qua cửa hẹp” là đã thực hiện Lời Chúa và vào được Nước Trời và đương nhiên được ông chủ mở cửa Nước trời cho (x. Lc 13, 25 – 27). Bởi vậy mà trong khi những người từ Đông,Tây,Nam,Bắc lũ lượt vào Nước Trời, còn con cái lại bị loại ra ngoài. Phép rửa là một dấu ấn,chứ không phải là một bảo chứng. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn các nén vàng được giao (x. Lc 19, 11 -27).
Muốn “qua cửa hẹp”,muốn đi con đường Chúa Kitô đã đi, để vào được Nước Trời, phải “vượt lên chính mình”!
Cuộc sống của con người trên dương thế này phải đối diện với nhiều trạng thái và hoàn cảnh: TN 21-C70
Cuộc sống của con người trên dương thế này phải đối diện với nhiều trạng thái và hoàn cảnh khác nhau. Những trạng thái và hoàn cảnh đó được ví như những cánh cửa cuộc đời. Có những cánh cửa rất lớn; rất rộng, nhưng cũng có nhiều cánh cửa rất hẹp: Cửa hẹp khi học sinh thi vào đại học. Cửa hẹp khi người công nhân đi xin việc làm. Cửa hẹp của bệnh nhân đang chiến đấu tranh giành giữa sự sống và cái chết. Cửa hẹp trong cảnh mất mát chia lìa của người thân yêu trong gia đình..v..v..
***
Bạn thân mến! Sống là phải phấn đấu để bước qua cửa hẹp. Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nỗ lực thật nhiều. Nếu thiên đàng có cửa, thì chắc hẳn vào được cửa thiên đàng cũng phải phấn đấu với rất nhiều cố gắng và quyết tâm nỗ lực… Cửa hẹp mà vào được thì mới quý, mới hãnh diện.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở ta: “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp”(Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống đời đời”(Mt 7,14). Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình, cái tôi nặng nề vì những thu tích cá nhân, cái tôi phình to vì tự hào và kiêu căng đầy tham vọng.
Thật ra cửa vào Nước Trời rộng thênh thang, không phải là cửa hẹp, nhưng hẹp vì “cái tôi” của ta quá to lớn cồng kềnh . Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người có thể vào được, vì vào Nước Trời cần phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu. Cần nỗ lực liên tục để cắt xén “cái tôi” của ta, để giữ cho “cái tôi” của ta trở nên bé nhỏ; khiêm hạ trước Thiên Chúa và cởi mở trước anh em.
Cái tôi của ta luôn có khuynh hướng phình to vì những thu tích cho chính mình: tri thức, tiền bạc, khả năng..v..v.. Cả những kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ… cũng có thể làm cho “cái tôi” của ta trở nên xơ cứng và phình to.
Phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ thì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Cần phải biến đổi và tự hạ để có thể vào được Nước Thiên Chúa (Mt 18,3-4). Quả thật, đời sống người Kitô là một cuộc chiến đấu không ngưng nghỉ, một cuộc chiến đấu liên lỉ với chính mình. Khi ta cắt xén “cái tôi” của mình, khi ta tự hủy thân phận của mình, ta sẽ dễ dàng đi qua cửa hẹp, để bước vào cuộc sống hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng chính là “Cửa” để ta bước vào Nước Trời. Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu:
Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình sâu thẳm: Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thầy, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã tự nguyện để bị đối xử như một tội nhân.
Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ: Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Trong cuộc tử nạn, Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã khai mở con đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã bước qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người, phải phấn đấu để khiêm tốn hạ mình, phải từ bỏ cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức cho con để con không ngừng nỗ lực phấn đấu với chính mình, biết “bỏ mình, vác thập giá mình” mỗi ngày mà bước đi theo Chúa. Amen.
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1: Isaiah 66:18-21 – BĐ2: Do Thái 12:5-7,11-13 – PÂ:Luca 13:22-30)
Hôm nay, ngồi nghe tâm sự bạn trẻ nhiễm HIV trên mạng, lòng tôi se buồn. Nỗi buồn càng: TN 21-C71
Hôm nay, ngồi nghe tâm sự bạn trẻ nhiễm HIV trên mạng, lòng tôi se buồn. Nỗi buồn càng ngấm khi đọc số liệu về tình trạng HIV tại Việt nam. “Năm 2000, số người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam là 122.000 người, sáu năm sau con số đó tăng lên hơn gấp đôi, vượt trên 280.000 người. Trung bình mỗi ngày Việt Nam có hon 100 ca nhiễm mới. Cho đến tháng 6 năm 2006, tại Việt Nam mới chỉ có 1500 người được điều trị bằng ARV nhờ tiền của chính phủ Mỹ, trong khi đó số người chết vì AIDS trong năm 2005 là 14.000 người.”[1]
Nỗi buồn càng tăng khi thấy các bạn hối hận về quá khứ và lo lắng trước tương lai. Con đường thênh thang đầy đam mê tuổi trẻ đã dẫn các bạn đến thảm trạng hôm nay. Nhưng bỗng một bạn trẻ nhiễm HIV cho mình có phước hơn nhiều người, vì có thời gian chuẩn bị ngày gặp Chúa. Nỗi buồn ngừng hẳn lại. Một chân trời mới đã mở ra. Phải phấn đấu tới mức nào, bạn trẻ mới có một niềm tin như thế ? Có phải bạn trẻ ấy đang “chiến đấu (với ác thần) để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24) Nước Thiên Chúa không ? Ðức tin quả là một sức mạnh phi thường !
CÓ TRỜI CÓ TA
Chúa Giêsu đem đến một cơ hội cuối cùng cho những người muốn vào Nước Thiên Chúa. Người lên đường lên Giêrusalem, xuyên qua các thành thị và làng mạc. Ðó là cuộc hành trình chót. Trên đường, Người dạy dỗ quần chúng. Ðây đó trong Tin Mừng Mathêu cũng có những cảnh tương tự. Một cửa hẹp (Mt 7:13). Tiếng các thiếu nữ kêu gào (Mt 25:11). Một câu trả lời tiêu cực: “Ta không biết các ngươi.” (Mt 7:22). Một cuộc đổi đời: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu.” (Mt 8:11)
Thoáng đọc qua Tin Mừng Luca hôm nay, ai cũng nhận thấy có một sự căng thẳng ngay từ đầu. Cánh cửa khép lại để bao kẻ chen nhau ngoài ngưỡng cửa. Chủ nhà cấm cửa thực khách và nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến … Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” (Lc 13:25.27) Thật là lạ lùng và đau xót !
Ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa. Chính Chúa có sáng kiến đó. Người quy tụ. Người sai đi. Người chọn các tư tế và Lêvi ngoài những bộ tộc truyền thống để lắng nghe sứ điệp này: “Ta là cửa !” (Ga 10:9) Ðó không phải là một cánh cửa mở rộng cho đủ mọi hạng người, nhưng chỉ cho những ai được Thiên Chúa tiền định nên đồng hình đồng dạng với Con của Người (x. Rm 8:29.30). Bởi thế, ơn cứu độ hoàn toàn là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa.
Rõ ràng chúng ta không thể tự cứu rỗi. Không có cách nào tự mình phấn đấu để được Thiên Chúa ưng nhận. Không phải do sức riêng, con người có thể chiến đấu và chiến thắng. Nói thế không có nghĩa con người hoàn toàn thụ động và không cần nỗ lực đóng góp chút gì vào công trình đó. Nếu không, Chúa Giêsu đã không quả quyết: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11:12)
Như thế rõ ràng ơn cứu độ là một công trình của cả Thiên Chúa lẫn con người. “Có Trời mà cũng có ta !” Chính vì thế, con người không hoàn toàn vô trách nhiệm về phần rỗi của mình. Nếu mọi người sẽ được cứu độ, chẳng ai cần cố gắng làm việc lành và cũng chẳng cần sám hối nữa. Nếu Ðức Giêsu mạc khải ít người được tuyển chọn, người ta sẽ nản chí sờn lòng và dễ dàng bỏ cuộc. Tôi hy sinh làm gì nữa ... nếu tôi biết mình sẽ không bao giờ vượt qua cửa ải quá nhỏ như thế. Nhưng không ! Ðức Kitô mạnh mẽ kêu gọi chúng ta cố gắng hết sức để được cứu độ, nghĩa là trở nên công chính.
Như thế, ơn cứu độ cũng là công trình của tất cả chúng ta. Các tín hữu phải trở nên những sứ giả và có trách nhiệm làm chứng tích cực cho anh em mình về hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Mọi người sẽ nhìn xem cách họ đón nhận và đáp trả hồng ân ấy như thế nào. Chúng ta chỉ lảng tránh lời mời gọi của Thiên Chúa khi bỏ quên người thân cận, gia đình, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp của mình. Chính trong lối sống, tư tưởng, lời nói, hành động, phán đoán của chúng ta, ơn cứu độ đang diễn ra. Nói khác, sự công chính được thành hình từ môi trường chúng ta đang sống.
Sống giữa bao nhiêu thử thách và cám dỗ, con người phải nỗ lực hết sức mới có thể trở nên công chính. Có khi phải liều cả mạng sống mới có thể chen chân vào Nước Trời. Chúa Giêsu là một thí dụ điển hình. Viễn ảnh cái chết ở Giêrusalem cũng không làm Chúa chùn chân trước sứ mệnh cứu độ nhân loại.
CĂNG THẲNG
Dù Israel không nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðấng Thiên sai, Thiên Chúa cũng không ngưng kế hoạch cứu độ nhân loại. Chư dân đã đến chiếm chỗ dân Do thái trong bàn tiệc Nước Trời. Dù được mời gọi trước tiên, Do thái đã bị chư dân qua mặt.[2] Thiên Chúa thực hiện lời hứa cho nhân loại và tập hợp muôn dân (Is 66:18-21). Không có dân tộc nào được ưu đãi đặc biệt. Israel đích thực gồm mọi người tin vào Thiên Chúa. Ðây là sự kiện quan trọng thánh Luca nhấn mạnh khi ông hướng Tin Mừng về Dân Ngoại (x. Rm 4:16-25; Gl 3:6-9).[3] Vấn đề không phải là Do thái hay Dân Ngoại. Vấn đề chủ yếu là có “thi hành ý muốn của Thiên Chúa” (Mc 3:35) là Ðấng công chính hay không.
Cuối cùng mọi sự được giải tỏa khi “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Chắc chắn đây phải là những người công chính, không phân biệt chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp v.v. Bởi đấy, không nên ngạc nhiên khi trong Nước Thiên Chúa đầy những người nghèo, thấp cổ bé họng, bị khinh miệt và gạt ra bên lề xã hội. Tuy nghèo hèn và bị đời lãng quên, nhưng họ thật “vĩ đại” trước nhan Thiên Chúa, vì đã trung thành giữ lời cam kết với Chúa. Họ trở nên công chính vì đặt Thiên Chúa trên tất cả mọi giá trị trần gian. Bởi đấy họ đủ điều kiện để nhập tiệc Nước Trời với mọi người trên thế giới.[4]
Tự bản chất, Nước Thiên Chúa là sự công chính. Những bọn người bất chính, làm sao đủ điều kiện ? Không đủ điều kiện không phải vì những bất chính quá khứ, nhưng vì không biết nhìn nhận tội lỗi mình và chấp nhận ơn tha thứ của Chúa. Tuy có lắng nghe và khâm phục những phép lạ của Chúa, nhưng vì quá tự tin và cố bám vào những thành tích và truyền thống, nên họ không quan tâm và tin tưởng vào Thiên Chúa cứu độ.
“Trong hoàn cảnh sống ngày nay, công lý rất quan trọng, vì giá trị cá nhân, phẩm giá và quyền lợi con người bị đe dọa một cách nghiêm trọng bởi các xu hướng lạm dụng các tiêu chuẩn lợi nhuận và quyền tư hữu một cách thái quá ở khắp nơi.”[5] Từ đó mọi hình thức bất công mới xuất hiện trong xã hội. Muốn được cứu độ hay nên công chính, Kitô hữu không thể làm ngơ hay im lặng trước những cảnh cường quyền đàn áp dân oan. Lời mời gọi của Thiên Chúa vang lên mãnh liệt hơn lúc nào hết !
Chúng ta có thể giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi ấy mà có thể được cứu độ hay hạnh phúc cho riêng mình không ?! Dĩ nhiên, nếu cứ tiếp tục im lặng, không những chúng ta có thể bị lạm dụng vào mục tiêu bất chính, mà còn rơi vào ảo tưởng mình vẫn làm chứng cho sự thật và sống công chính. “Chúng ta phải tố cáo tội bất công và bạo lực đang len lỏi vào xã hội bằng nhiều ngả và hiện thân trong xã hội. Biết bao vấn đề xã hội nảy sinh từ sự bất công trên thế giới. Khi nhân quyền bị lãng quên hay chà đạp, tình trạng lạm dụng và bất quân bình sẽ nổi lên và đưa tới biến động xã hội. Bạo lực và bất công sẽ tràn lan. Công bằng xã hội là câu trả lời đích xác cho những vấn đề lớn lao đó.”[6]
Bất công là nguồn gốc sinh ra mọi vấn đề xã hội. Thế nên muốn chữa trị những căn bệnh xã hội, phải chữa tận gốc. “Thực vậy, công lý không phải chỉ là một quy ước thuần túy nhân loại, vì những gì là ‘công chính’ trước tiên không do luật pháp, nhưng do bản chất sâu xa của con người quy định.”[7] Nói khác, con người và xã hội không thể quyết định hay thay đổi những tiêu chuẩn công lý. Công lý cũng như nhân quyền không tùy thuộc vào văn hóa, hoàn cảnh, dân tộc, luật pháp v.v. Phát xuất từ bản chất sâu xa của con người, công lý là một tiếng nói phổ quát nằm sâu trong lương tâm con người.
Thực tế, công lý đòi con người hy sinh nhiều hơn bác ái, có khi mất cả mạng sống. Nếu chỉ lo làm bác ái, chúng ta chỉ chạm tới ngọn, mà chưa đụng tới gốc. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc ! Nếu không, vấn đề ngày càng phình to hơn. Công cuộc bác ái nhiều khi trở thành một trò chơi thời thượng trước mắt những kẻ cầm quyền. Bản chất vấn đề xã hội vẫn còn nguyên vẹn. Những kẻ độc tài và bộ máy đàn áp có thể sống chung với những người và cơ quan làm việc bác ái, nhưng không bao giờ có thể đồng hành với những người tranh đấu cho công lý và hòa bình. Chẳng ai chết vì những công cuộc bác ái bao giờ. Trái lại, có nhiều người chết vì công lý. Trong đó Chúa Giêsu là số một.
THẾ ÐỨNG GIÁO HỘI
Tóm lại, trên phương diện cá nhân hay tập thể, sự công chính vẫn là điều kiện duy nhất và cần thiết nhất cho công cuộc cứu độ. Ở cấp độ quốc gia hay quốc tế, công lý là mẹ sinh ra hòa bình. Bởi thế, ngày nay nhiều người thiện chí và tổ chức không ngừng săn tìm công lý cho xã hội. Giáo Hội Công Giáo rất vui mừng khi được kể vào số đó.
Quả thực, tiếp nối công trình của Thày Chí Thánh, Giáo Hội luôn làm chứng và hy sinh cho công lý và hòa bình nhân loại. Ðó là điều kỳ vọng duy nhất thế giới đang đặt nơi Giáo Hội Công Giáo toàn cầu và địa phương. Thực thế, ông Kagefumi Ueno, Tân Ðại sứ Nhật Bản tại Tòa Thánh nhận định: “ÐGH là một hạng ‘người canh giữ’ tình hình quốc tế. Cộng đồng quốc tế kỳ vọng Người nói về hòa bình và công lý.” [8] Ông thú nhận Tòa Thánh có một giá trị và thẩm quyền đạo đức được cả các thẩm quyền ngoài Kitô giáo tôn trọng. Khi phát biểu về các vấn đề quốc tế, từ việc giải trừ vũ khí hạt nhân đến các cuộc đàn áp tại Phi châu hay Á châu, tiếng nói của ÐGH được nhanh chóng phổ biến khắp thế giới và thu hút sự chú ý quốc tế. Tóm lại, theo ông Tân Ðại sứ Nhật Bản, Vatican rất độc đáo và gây nhiều ấn tượng vì lập trường vô tư và cương quyết trước những vấn đề luân lý xã hội và chính trị quốc tế ! [9]
Dựa vào đâu Giáo hội có được một tiếng nói mạnh mẽ như vậy, trong khi nhân loại ngày càng xa dần Thiên Chúa và bị trần tục hóa ? Thưa, chính vì muốn cho mọi người thấy tầm vóc cao cả và giá trị đích thực của mình như món quà vô giá của Thiên Chúa, nên Giáo hội không ngừng tranh đấu hồi phục quyền làm người cho nhân loại. Theo Rose Busingye, một Nữ Y tá săn sóc bệnh nhân AIDS ở Uganda, Phi châu, vấn đề lớn nhất lục địa Phi châu không phải là sự nghèo đói hay thiếu thốn các cơ sở hạ tầng, nhưng là “sự vắng bóng một thẩm quyền cho thấy đang thiếu một lý tưởng và một ý nghĩa cuộc sống.” Theo cô, đó là nguyên chính gây nên sự bất an nói chung trong tương quan nhân vị. Hằng ngày cô phấn đấu với hiện tượng này. Không những lo đáp ứng những nhu cầu vất chất cho bệnh nhân, cô còn cố gắng làm cho họ ý thức về giá trị của họ. Giá trị này không thể bị suy giảm ngay cả khi họ chìm ngập trong nỗi khốn cùng.
Dạy cho con người biết giá trị của mình là giải đáp cho những vấn đề Phi châu hôm nay. Cô kết luận: “Hy vọng của Phi châu cũng là hy vọng toàn thể nhân loại cần đến, đó là biết mình là ai.”[10] Nói khác, hy vọng đó tăng lên theo mức độ nhân quyền con người được hưởng trong một xã hội công bằng. Tất cả giá trị con người nằm ở đó !
Niềm hy vọng đã nhú lên trong xã hội và Giáo Hội Việt nam chưa ? Bao lâu nhân quyền bị chà đạp và công lý chưa có tiếng nói, niềm hy vọng vẫn còn tắt ngúm. Trách nhiệm đó về ai ? Dĩ nhiên không thể quy trách cho hàng lãnh đạo Giáo Hội mà thôi. Nhưng trong tình thế hiện tại, có lẽ giáo dân cũng không thể làm gì hơn với cơ chế cứng ngắc trong Giáo Hội. Bởi thế, “người tín hữu đang chờ đợi nhiều cải cách làm sao để công việc chung của giáo hội không phải là ưu lo riêng, phận vụ riêng của một giới, một bậc sống mà của mọi tín hữu. Và không phải trong nguyên tắc nhưng trong thực tế áp dụng với những điều kiện thực hiện được.”[11]
Trong một thế giới đầy biến động và nhiều bất công hôm nay, “Giáo hội có bổn phận phải biện minh, giải thích, bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền không chỉ bằng lời nói, nhưng hơn nữa còn phải bằng hành động và cuộc sống của mình. Hơn ai hết, Giáo hội không được làm cho thế giới chúng ta ngày nay phải thất vọng về nỗi khao khát công lý và ước muốn sôi nổi tìm về nhân tính của mình.”[12] Nhưng làm sao Giáo Hội có thể hoàn thành sứ mạng đó, nếu bộ máy giáo quyền còn quá nặng nề, giáo dân thiếu hiểu biết và chỉ cúi đầu vâng phục ? Còn lâu giấc mơ mới thành sự thật, vì giáo dân không tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để trở nên những Kitô hữu trưởng thành dám lãnh trách nhiệm trước lịch sử !
Lạy Chúa, tất cả sức mạnh chúng con ở nơi Chúa. Xin cho chúng con luôn phấn đấu cho quê hương và thế giới sống trong công lý và hòa bình. Amen.
Lc 13:22-30: 22 Ngài rảo khắp các thành các làng, mà giảng dạy và tiếp tục hành trình đi Yêrusalem. 23 Có người nói với Ngài: "Thưa Ngài, ít người được cứu thôi phải không?" Ngài nói cùng họ: 24 "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì Ta bảo các ngươi: Có lắm kẻ sẽ tìm cách vào, nhưng không thể được."
25 Một khi gia chủ dậy khóa cửa rồi, và các ngươi bắt đầu đứng ngoài gõ cửa, mà rằng: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi!"; đáp lại, Ngài sẽ bảo các ngươi: "Ta không biết các ngươi từ đâu đến". 26 Bấy giờ các ngươi lên tiếng nói: "Chúng tôi đã ăn đã uống trước mặt Ngài, và Ngài đã giảng dậy nơi phố xá của chúng tôi". 27 Nhưng Ngài sẽ bảo các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi tự đâu đến; Hãy kéo đi xa Ta, hết thảy phường tàn ác".
28 "Ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng, khi các ngươi thấy Abraham, Ysaac và Yacob cùng các tiên tri hết thảy trong Nước Thiên Chúa, còn các ngươi thì bị đuổi ra bên ngoài. 29 Và người ta sẽ từ phương Ðông phương Tây, từ phương Bắc phương Nam mà đến, và được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa."
30 "Và này có những người cuối hết sẽ nên đầu hết, và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết".
Đoạn nầy ở vị trí khởi đầu giai đoạn hai của hành trình lên Giêrsalem (x. 9:51). Chủ đề của đoạn: TN 21-C72
Đoạn nầy ở vị trí khởi đầu giai đoạn hai của hành trình lên Giêrsalem (x. 9:51). Chủ đề của đoạn được đưa vào bởi câu hỏi: “Thưa Thầy, ít người được cứu thôi phải không?” (13:23). Câu trả lời của Chúa Giêsu là những lời khuyến cáo (13:24-30), chia thành 3 đoạn nhỏ: - Mệnh lệnh “Hãy vào cửa hẹp” (13:24); - Khuyến dụ bằng hình ảnh dụ ngôn (13:25-27); - Kẻ đứng ngoài và người bên trong cửa; và kết luận (13:28-30).
Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên Giêrusalem (c. 22), dù biết cái chết đang chờ đợi Người tại đó (13:33). Người trả lời cách chắc chắn những câu hỏi đặt ra cho Người. Người không ngần ngại đòi hỏi họ và nói sự thật về sự cứu độ. Luca dùng hình ảnh ẩn dụ “cửa” để bàn về đề tài nầy. Để trả lời câu hỏi về số người được cứu độ (c. 23), Chúa Giêsu ra lệnh chiến đấu vào cửa hẹp, và cho lời giải thích (c. 24). Sẽ tới lúc chủ nhà đóng cửa lúc ấy mọi sự sẽ được quyết định cách dứt khoát và không thay đổi được nữa (cc. 25-27). Người đứng ngoài cửa sẽ bị loại bỏ (c. 28a); người bên trong cửa sẽ dự tiệc Nước Trời (cc. 28-30). Cố sức vào “cửa hẹp”, nhưng đừng để quá muộn!.
Đi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy (c. 22). Bài giảng đầu tiên nói về sự chiến đấu để vào Nước Trời (cc. 23-30). Người nào đó đặt ra câu hỏi về số người được cứu độ (c. 23). Ông quan tâm về số lượng “ít người được cứu độ”. Khi trả lời cho ông, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ (2:11), đồng ý với mối lo ngại nầy của người ấy là “nhiều người” không vào được (c. 24b). Ít người được cứu độ và nhiều người hư mất. Chính vì nguy cơ rất lớn nầy mà Người ra lệnh phải chiến đấu để vào (c. 24a), và vào trước khi cửa đóng (c. 25).
Luca mời gọi “chiến đấu”, agôn, (c. 24a), từ vựng riêng của Luca (x. Mt 7:13). Mệnh lệnh nầy ở thì hiện tại có tính cách kéo dài. “Chiến đấu”, như trong một cuộc thi đấu, là đòi hỏi cố gắng lớn để có thể dành phần thưởng (x 1 Co 9:25). Chiến đấu phải hao tốn sức lực (x. Col 1:29). Phải kiên trì chiến đấu cho đến khi vào được cửa hẹp. Đối lại với sự chiến đấu nầy là “không chịu nổi”, “không đủ sức”, ouk ischyô, (c. 24b). “Cửa” là yếu tố phân chia hai không gian: bên trong nhà và ngoài nhà. Bên trong là sự thông hiệp (x. 12:36-37); ngược lại, là bên ngoài (x. 11:7). Vậy mệnh lệnh “hãy cố vào cửa hẹp” mời gọi kiên trì cho đến cùng cho đến khi vào được tiệc Nước Trời (cc. 28-29); vì có nhiều người đã khởi đầu nhưng không vào được. Họ đã không đủ sức và kiên trì cho đến cùng.
Khuyến dụ tiếp theo được trình bày dưới hình thức cuộc đối thoại (13:25-27): - Cửa đóng. Lời cầu xin (c. 25a) - Trả lời (c. 25b); - Lời giải bày (c. 26) - Trả lời (c. 27). Sau mệnh lệnh, Chúa Giêsu khuyến dụ phải vào cửa hẹp ấy đúng lúc, nghĩa là trước khi chủ nhà đóng cửa (c. 25). Thời gian gắng sức vào cửa hẹp có giới hạn, tuy không xác định là lúc nào. Cửa ấy sẽ đóng lại cách dứt khoát do chủ nhà quyết định. Ai không vào trước thời gian ấy là quá muộn, và tình cảnh họ sẽ thảm khốc. Trong lời đối thoại thứ nhất (c. 25), Luca cho thấy không có một liên hệ hiểu biết nào giữa chủ nhà và những người đứng ngoài.
Trong lời đối thoại thứ hai (cc. 26-27), những người đứng ngoài nhắc cho chủ nhà nhớ một vài liên hệ: “ăn và uống trước mặt”, thấy “Người giảng dạy nơi phố xá chúng tôi”. Họ muốn chủ nhà nhận ra họ trong tương quan hổ tương. Nhưng đây chỉ là những liên hệ bề ngoài. Lần nữa Người tuyên bố thẳng thắn là “không biết họ từ đâu đến”; nghĩa là không biết họ bởi nguồn sống nào. Lời khẳng định tiếp theo “những người làm điều bất chính” chứng tỏ họ đã không sống theo lời của Người. Và “Hãy đi xa Tôi” gợi lên sự phán xét cuối cùng. Vậy, vào cửa hẹp và vào đúng thời liên hệ mật thiết với nhau. Không thể trì hoãn, mà phải gắng vào ngay bây giờ. Đó là sống làm sao để được chủ nhà nhận biết mình là ai.
Hai cảnh tương phản: người bên ngoài và bên trong cửa (cc. 28-30). Tình cảnh sau cùng của những người nầy tương tự như trường hợp của người giàu có và Lazarô (x. 16:23). Những người bên ngoài cửa: thụ động “ngồi đó” ở cửa, thất vọng “khóc lóc”, và nổi giận “nghiến răng” (c. 28a; Cv 7:54). Cụm từ “khóc lóc và nghiến răng”, diễn tả sự nổi loạn vì không được chấp nhận, được dùng nhiều trong Matthêô hơn là Luca (Mt 8:12; 13:42.50; 22:13; 24:51; 25:30). Đối lại với họ, là những người dự phần bàn tiệc Nước Trời (cc. 28b-29). Các tổ phụ của Israel (Abraham, Isaac, Giacóp), các ngôn sứ (c. 28b): thành phần tiêu biểu của giao ước cũ. Những người đến từ khắp nơi trên mặt đất, được diễn tả bằng cách nói “họ đến từ bốn hướng” đông tây nam bắc (c. 29), là thành phần của giao ước mới. “Tiệc trong Nước Thiên Chúa” là sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa trong sự công chính. Chúa Giêsu là Đấng Công Chính (23:47), những người dự tiệc cũng là những người công chính, đối lại với những người “bất chính” ngồi ngoài cửa. Họ đã dọn tiệc cho những người nghèo, tàn tật, mù lòa (14:13), nên Thiên Chúa dọn tiệc thiên quốc cho họ khi “người công chính sống lại” (14:14). Công thức ở kết luận “Những người cuối hết sẽ nên đầu hết…” (c. 30) có thể hiểu là chỉ Thiên Chúa mới có thể đánh giá mỗi người tùy theo sự chiến đấu của họ để vào cửa hẹp (c. 23). Vậy số phận mỗi người được định đoạt khi cửa đóng lại.
Hành trình lên Giêrusalem sẽ chấm dứt bằng cái chết được thực hiện trên thánh giá. Chúa Giêsu phải chiến đấu để hoàn tất sứ mạng nầy. Môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải chiến đấu qua cửa hẹp, nghĩa là đi vào trong cuộc đời và lời của Người. Vì chỉ ngang qua Người mới có thể vào Nước Trời (x. Gio 10:7.9; 14:6).
Bài Tin Mừng hôm nay không phải là tin vui mà là tin buồn. Tại sao vậy? Trước hết buồn vì: TN 21-C73
Bài Tin Mừng hôm nay không phải là tin vui mà là tin buồn. Tại sao vậy? Trước hết buồn vì Chúa Giê-su phải nói lên sự thật phũ phàng: Số người được cứu thoát không phải là nhiều. Thứ hai, buồn vì Chúa phải đành lòng đuổi đi chính con cái mình: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi những quân làm điều bất chính”. Thứ ba, buồn vì trong khi các tổ phụ dân Do-thái cùng các ngôn sứ “được ở trong Nước Thiên Chúa” thì dân chúng Do-thái lại bị đuổi ra ngoài.
Để hiểu rõ hơn tin buồn này, có lẽ chúng ta nên nhìn lại cách sắp xếp của bài Tin Mừng. Trước hết một người Do-thái hỏi Chúa Giê-su có phải số người được cứu độ thật là ít hay không. Chúa trả lời bằng cách sử dụng hình ảnh cửa hẹp. Chúa Giê-su so sánh việc “được cứu thoát” giống như đi qua cửa hẹp mà vào để “dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Giống như “chủ nhà” đang ở đằng sau cửa hẹp ấy chờ đợi khách dự tiệc bước vào, Chúa Giê-su cũng đang chờ đợi dân Do-thái là con cái Thiên Chúa bước qua cửa hẹp mà vào nước Chúa. Nhưng thật đáng tiếc, phần đông họ lại không muốn đi qua cửa hẹp này. Đã có lần Chúa Giê-su khẳng định với họ: “Tôi là cửa cho chiên ra vào… Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Gio-an 10:7.9). Họ ngoan cố đứng ở bên ngoài, mặc dù cửa vẫn mở sẵn sàng cho họ. Họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su và đáp lại Tin Mừng của Người. Rồi khi Chúa là chủ tiệc “đã đứng dậy và khóa cửa lại”, họ mới “bắt đầu gõ cửa” và xin Người mở cửa cho họ. Họ lý giải với Người rằng họ “đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của họ”. Tuy nhiên đó không phải là những điều kiện để được vào nước Chúa, mà là họ phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Kết cục thật đáng buồn! Đáng lẽ họ là những người được ưu tiên vào nước Thiên Chúa thì lại bị đuổi ra ngoài, vì họ ngại cửa hẹp và vì muốn mải mê ở bên ngoài để “làm những điều bất chính”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Những người Do-thái, nhất là nhóm Pha-ri-sêu, nghe Chúa Giê-su nói thẳng về số phận không được cứu thoát của họ chắc sẽ thất vọng và tức giận lắm! Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính không? Lời lý giải của người Do-thái có thể cũng là của chính chúng ta. Chúng ta là những kẻ đã “từng được ăn uống trước mặt Chúa và Chúa cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng ta”, tức là từng tham dự Thánh lễ và được nghe giảng dạy về lời Chúa. Nói khác đi, chúng ta từng vỗ ngực xưng mình là những người Công giáo, là những người trong hội đồng mục vụ, trong hội đoàn này nọ… Nhưng điều quan trọng không phải là danh nghĩa người Công giáo, mà là có thực sự sống theo chân lý Tin Mừng của Chúa Giê-su hay không. Để sống lời Chúa, chúng ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Hình ảnh này có vẻ tức cười, nhưng quả thực như vậy. Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải để lại bên ngoài tất cả những gì cồng kềnh làm nghẽn lối. Những cồng kềnh ấy mang nhiều ý nghĩa lắm. Là những tham lam vật chất hoặc danh vọng địa vị. Là những đam mê thú vui xác thịt, ăn uống rượu chè, bài bạc cá độ. Là tính ích kỷ, không quan tâm tới những thiếu thốn hoặc đau khổ của người khác… Để lại sau lưng tất cả những cồng kềnh này không dễ dàng đâu, nhưng đúng là một cuộc “chiến đấu” nội tâm hết sức cam go. Tuy thế chúng ta không nản lòng, vì biết rằng Chúa đang chờ chúng ta đằng sau cửa hẹp ấy!
Thánh Luca hôm nay thuật lại rằng: trên đường tiến lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rảo qua các: TN 21-C74
Thánh Luca hôm nay thuật lại rằng: trên đường tiến lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa đi vừa giảng dạy, thì có kẻ đến hỏi Ngài: “Lạy Thày, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu độ?”
Tại sao lại có câu hỏi này? Tại sao người Dothái lại băn khoăn về số người được cứu độ?
Tại vì có quan niệm: Chúa chỉ cứu độ dân Dothái, còn dân ngoại Ngài tiêu diệt hết! Cụ thể như ông Giôna trốn lệnh Chúa không đi giảng cho dân thành Ninivê, vì ông nghĩ có giảng cũng vô ích. Chúa đâu có cứu dân ngoại!
Khi quan niệm như vậy, họ quên mất rằng tình thương Chúa bao trùm cả vũ trụ. Chúa muốn cho tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ. Điều này không phải đợi đến thời Tân ước mới được mạc khải, mà ngay thời Cựu Ước xa xưa, qua lời tiên tri Isaia, Chúa đã phán: “Ta sẽ đến tập hợp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta…”
Thế nên, Chúa Giêsu mới không trả lời thẳng vào vấn đề được nêu ra là ít hay nhiều người được cứu độ. Vì nếu trả lời “nhiều người được cứu độ” thì người ta sẽ sống buông thả, phóng túng, chẳng cần cố gắng hy sinh và tuân giữ lề luật cũng được nắm chắc phần rỗi. Còn nếu trả lời “ít người được cứu độ”, thì người ta sẽ buông xuôi, thất vọng, có cố gắng hy sinh hãm mình, sống thánh thiện cũng chẳng đến lượt mình.
Vâng, Chúa Giêsu không muốn người ta quan tâm đến số lượng người được cứu độ. Điều mà Chúa muốn con người quan tâm là phải làm gì để được cứu độ. Bởi thế, Chúa mới bảo kẻ đến hỏi Chúa rằng: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời, vì Ta bảo các ngươi: có lắm kẻ sẽ tìm cách vào mà không thể được”.
Nhưng thế nào là cửa hẹp, là đường hẹp mà Chúa muốn ta phải đi?
Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho ta 3 cách đi đường hẹp để vào Nước Trời:
1/ Hãy cẩn trọng trong lời nói: Chúa Giêsu biết rõ nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Ngài không nói, vì nói ra không lợi cho ai, trái lại còn có hại và làm cho vinh danh Chúa bị che khuất!
Vậy không phải mọi sự hiểu biết, mọi sự thật buộc ta lúc nào cũng phải nói ra. Chỉ buộc ta nói sự thật, khi sự thật ấy mang lại ích lợi cho người nghe, hầu diễn tả vinh quang Thiên Chúa, nghĩa là nói đúng lúc đúng chỗ, nói khi cần phải nói, nói với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, không thể phát ngôn bừa bãi. Hơn nữa Chúa dựng nên ta có hai lỗ tai, nhưng chỉ có một cái miệng. Nên ta cần phải nghe nhiều hơn nói.
2/ Hãy khó với mình và quảng đại với người khác:
Chúa dạy: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp” là mời gọi ta tự khép mình vào con đường hẹp, chứ không phải ta khắt khe với người khác, nhưng lại dẽ dãi với mình. Cụ thể:
Về tiền của: Đừng tự cho phép mình tiêu xài thoải mái, cho dù tiền của đó do mình làm ra. Thường đối với bản thân, ta tiêu xài xả láng, còn đối với người khác thì ta keo kiệt, tính toán, ngay cả với những bậc sinh thành dưỡng dục ta, ta cũng tính toán thiệt hơn: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.”
Về thời giờ: Một ngày có 24 tiếng, bao nhiêu thời gian ta dành cho Chúa và tha nhân?
Thường mỗi ngày ta dành nhiều giờ để chè chén say sưa, vui chơi giải trí, buôn dưa lê, nói chuyện tào lao … nhưng giờ cầu nguyện, đi lễ, làm việc bác ái giúp đỡ tha nhân thì chẳng có là bao. Ta cần phải sắp xếp thời gian cho ta, cho Chúa và tha nhân cách hợp lý và khoa học.
Về việc lành: Hãy khuyến khích nhau làm việc lành, nhưng ta không nên lấy sự nhiệt tình sốt sắng của ta mà bắt người khác phải sống y như vậy. Vì làm thế sẽ gây gánh nặng cho nhau.
Về điều xấu: Không nên dung túng và bao che cho nhau, cần phai sửa lỗi cho nhau. Nhưng đừng đòi lấy cái rác ra khỏi mắt người khác, mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.
3/ Hãy coi tất cả đều là hồng ân Chúa:
Thường ta chỉ nhìn nhận những gì xảy đến vừa ý mình là ơn Chúa ban, còn điều “xui xẻo” là bị Chúa phạt! Tác giả thư Do thái (trong bài đọc II) đã lưu ý chúng ta: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, có nhận ai làm con thì Người mới cho roi vọt.” (Dt 12,6). Đúng là “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.
Cổ Học Tinh Hoa kể rằng: Khấu Chuẩn thuở nhỏ ham chơi, không chịu học hành. Bà Mẹ ông vốn nghiêm khắc, nhưng lại rát mực thương con.
Một hôm Khấu Chuẩn bỏ học đi chơi. Biết được bà giận lắm. Đang dệt vải, thấy Khấu Chuẩn về, bà liền lấy thoi cửi ném vào Khấu Chuẩn. Thoi cửi rơi trúng vào chân Khấu Chuẩn máu chảy đầm đìa… Ông bị thương, ít lâu sau mới khỏi. Từ đó Khấu Chuẩn không dám chơi bời lêu lổng, quyết tâm chăm lo học hành. Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức Tể Tướng. Nhưng lúc đó mẹ ông đã qua đời. Mỗi khi sờ đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc và nói rằng: “Chính nhờ cái vết thương này mà ta nên người đây!”
Như thế, con đường rộng thênh thang là con đường chết. Con đường hẹp đầy gian nan là con đường sống.
Lạy Chúa, xin cho con can đảm bước đi trên con đường hẹp, là con đường chính Chúa đã đi từ Belem đến Núi Sọ- con đường nghèo khó và thánh giá, để con được vào dự tiệc trong Nước Trời cùng với tổ phụ Abraham và các thần thánh trên trời. Amen
Ở chương 9 câu 51 tác giả Phúc Âm Luca đã trình bày chi tiết: “Khi ngày được cất về trời đã: TN 21-C75
Ở chương 9 câu 51 tác giả Phúc Âm Luca đã trình bày chi tiết: “Khi ngày được cất về trời đã đến gần, Đức Giêsu nhất quyết lên đường lên Giêrusalem.” Bản văn Hy Lạp còn nói rõ: Ngài nhất quyết “hướng mặt” (‘prósopon sterizon’) đi Giêrusalem. Nơi Giêrusalem thành đô của Thiên Chúa, có đền thờ Thiên Chúa, biểu tượng sự hiện diện của Chúa với Dân Người. Chính vì thế, Đức Giêsu có tâm tình đặc biệt với Giêrusalem. Hơn thế nữa, tại Giêrusalem Ngài sẽ chịu đau khổ, chết, và “cất nhắc” về trời. Đi Giêrusalem là chuyến đi định mệnh của Đức Giêsu, đi Giêrusalem là quyết định vâng theo ý Cha để hy sinh chính mình như sự vâng phục yêu thương cao cả nhất và cũng là tình yêu cao vời nhất cho nhân loại để họ được nối kết lại với Thiên Chúa. Khi lựa chọn lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã chọn đi vào “cửa hẹp,” Ngài hạ mình hơn nữa, Ngài trở nên khiêm nhường nhỏ bé hơn nữa, Ngài bỏ ý mình chết đi cho mình hơn nữa để theo ý Cha. Đi Giêrusalem là vào qua “cửa hẹp” để về cùng Cha.
Đoạn Phúc Âm Luca của Chúa Nhật hôm nay trình bày: Trên con đường lên Giêrusalem để chu toàn ý Cha, một câu hỏi đã được đặt ra cho Đức Giêsu: “Có phải chỉ một số ít người sẽ được cứu rỗi?” (Lc 13:22-23) Đây là một câu hỏi hàm chứa một sự giới hạn những người được tuyển chọn. Đức Giêsu không giới hạn con số những kẻ được cứu rỗi, Ngài cũng không giới hạn ơn cứu độ của Ngài trong dân Do Thái, nhưng Ngài đặt điều kiện cho bất cứ ai muốn được cứu rỗi là “phải vào cửa hẹp”. Vào “cửa hẹp” là trở nên giống Đức Giêsu, là đồng hình dạng với Ngài, là vâng phục tin tưởng, khiêm nhường, yêu vì người khác. Vào “cửa hẹp” là lên Giêrusalem vác thập giá với Ngài đến tận đồi Canvê để được cất nhắc về trời.
Nhiều người đi theo Đức Giêsu, ăn uống đồng bàn với Ngài, có đám đông kéo theo Ngài khi Ngài vác thập giá đến đồi Canvê, ngay cả các môn đệ tháp tùng Ngài lên Jerusalem, nhưng thật sự họ vẫn chưa vào được “cửa hẹp.” Chỉ khi họ tin vào Đức Giêsu và chấp nhận vác thập giá hằng ngày trong cuộc đời mình với vâng lời, khiêm nhường, tin tưởng và yêu mến, họ trở nên giống Ngài khi đi qua “cửa hẹp.” Như vậy họ đi trên con đường của Thày mình để được “cất nhắc” về trời.
Để vào được “cửa hẹp” người ta phải thích ứng mình với cửa hẹp. Người cao phải cúi xuống, người “quá khổ” phải làm cho người mình gọn gàng mà lách mình qua “cửa hẹp.” Đức Giêsu là “cửa hẹp”, là khuôn mẫu cho mọi người đào luyện mình với ân sủng để qua Ngài mà đến được với Thiên Chúa Cha. Đi qua “cửa hẹp” để trở nên giống Đức Giêsu với những nhân đức của Ngài, người ta phải khổ công, kỷ luật mình, để cho Thiên Chúa “sửa dạy” mình với “roi vọt” như thư Do Thái dạy (Dt 12:6). Nhưng Đức Giêsu bảo đảm: qua “cửa hẹp” người ta sẽ đạt đến sự sống vĩnh cửu.
Những ngày đầu sau khi vừa đặt chân đến Hoa Kỳ vào cuối tháng 4 năm 1975, chúng tôi được: TN 21-C76
Những ngày đầu sau khi vừa đặt chân đến Hoa Kỳ vào cuối tháng 4 năm 1975, chúng tôi được học thêm Anh ngữ để chuẩn bị cho những chương trình huấn luyện sau này. Người thầy Anh Văn của chúng tôi là một nữ tu Dòng Máu Thánh Chúa tên là Lilian. Nữ tu Lilian là một người có thân hình to lớn, và tướng đi mạnh bạo như đàn ông nên chúng tôi đã đặt cho bà một tên cúng cơm “Sơ Lính Làng”. Lính Làng là phiên âm chại của chữ Lilian. Và từ đó, chúng tôi thay vì gọi nữ tu Lilian, thì gọi là “sơ lính làng”.
Ngoài thân hình to lớn, dáng vẻ bề ngoài như đàn ông Sơ Lính Làng còn thuộc thành phần nữ tu với đầu óc tiến bộ, mà từ ngữ quá khích thường gọi là cấp tiến. Bà rất thích làm linh mục, và hết mình ủng hộ tư tưởng nữ giới làm linh mục, nên tôi là một trong những học trò ưa làm bà nổi nóng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn là những học sinh ngoan và rất dược Sơ Lính Làng yêu quí và hay hỏi ý kiến. Và một hôm, nhân một bài văn tự chọn, đề tài được trích từ Thánh Kinh, tôi đã dùng câu Thánh Kinh của Thánh Sử Luca: “Hãy cố mà vào cửa hẹp” (Lc 13:24), để trêu chọc bà.
Tôi đã viết bài luận văn dựa vào câu Thánh Kinh trên, nhưng với lối cắt nghĩa rệu rạo, cốt để bà hiểu rằng tôi có ý chọc quê bà, vì bà mập quá. Bài văn của tôi được bà chiếu cố rất kỹ, với lời phê bằng bút pick mầu đỏ: “Khi anh về Thiên Đàng trước tôi, hãy nhớ nói với Thánh Phêrô rằng ông ấy cần phải sửa lại cửa Thiên Đàng để tôi có thể vào được”.
Bẵng đi sau hơn 30 năm, giờ đây không biết Sơ Lính Làng đã về Thiên Đàng chưa, hay vẫn còn chờ tôi để nhắn lời với Thánh Phêrô. Nhưng hôm nay, khi ngồi một mình suy nghĩ lại lời Chúa Giêsu, tôi bỗng giật mình và sửng sốt. Tôi thấy tôi mới là người cần phải xin Thánh Phêrô sửa lại cửa Thiên Đàng. Và tôi mới là người phải nói với Sơ Lính Làng nhờ nhắn với Thánh Phêrô sửa lại cửa Thiên Đàng để tôi có thể lọt vào được trong đó. Lý do vì lúc này tôi quá mập, quá phì nộn. Tôi không thể lách mình lọt vào cửa hẹp Thiên Đàng được.
Mập mạp, phì nộn tâm linh:
Theo cơ thể học và sinh vật học, một người phì nộn và béo mập thường là do bệnh tật, hoặc do ham ăn, ham uống. Thêm vào đó là lười không chịu hoạt động. Chính vì thế mà những chương trình giảm ký, làm đẹp thân hình, đặc biệt cho giới phụ nữ, đã lên đến hằng chục tỷ Mỹ Kim mỗi năm. Đâu đâu cũng có những phòng tập thể dục. Đâu đâu cũng có những bác sỹ thẩm mỹ. Tóm lại, tham ăn, và ươn lười là hai yếu tố chính làm cho con người trở nên mập mạp và béo phì.
Cũng như sự mập mạp và to lớn của thể xác, sự mập mạp và to lớn thiêng liêng khiến nhiều người quá khổ để có thể lọt vào được cửa Thiên Đàng. Đi tìm nguyên nhân của chứng bệnh mập phì tâm linh, chúng ta cũng thấy mình thường vướng mắc vào hai yếu tố đã làm cho con người trở thành phì lũ thể xác, tức là tham lam ăn uống, và ươn lười hoạt động.
- Tham lam ăn uống: Người mập thường bao giờ cũng mắc chứng tham ăn uống. Không chỉ do yếu tố sinh lý mà còn do ảnh hưởng tâm lý. Một thân hình mập mạp, to lớn đương nhiên đòi hỏi nhiều thực phẩm. Và khi thực phẩm có trước mắt, thì ảnh hưởng tâm lý càng làm gia tăng cơn đói khát, khiến càng ăn càng thấy đói, và thèm ăn.
Trong lãnh vực tâm linh, người mắc chứng tham ăn cũng thấy mình tự nhiên thèm thuồng và đói khát. Đói khát và thèm thuồng danh vọng, quyền lực, giầu sang, và dục vọng. Có thể nói như người mắc chứng mập phì thể xác, càng thấy danh vọng, càng thấy quyền lực, càng thấy giầu sang, và càng thấy dục vọng, thì cơn đói và khát tâm linh cũng như tâm lý kia lại càng trổi dậy cách mạnh mẽ. Chính vì vậy, nhiều khi con người bị cào cấu, ngấu nghiến, hăng say chạy chọt, kiếm tìm và chiếm hữu cho được những thức ấy, hầu khỏa lấp cơn đói tâm linh.
Và trong khi tranh dành nhau những miếng ăn ấy, con người đã trở nên độc ác, hung dữ đến bất chấp lương tri. Ganh tỵ với người này người khác. Bực tức, và cuớp dật của người này, người khác. Sẵn sàng nhắm mắt trước những cơn đói khát chính đáng của đồng loại, miễn sao thấy mình no thỏa. Và từ đó, tấm lòng trở thành chai cứng. Trí óc trở nên hẹp hòi, và toan tính. Con người đã để mất sự nhẹ nhàng, nét vui tươi hạnh phúc, và sự bình an tâm hồn mà Chúa Giêsu đã nói đến trong bài giảng Tám Mối Phúc Thật: “Phúc cho những ai đói khát sự công chính” (Mt 5:6).
- Ươn lười hoạt động: Và rồi khi linh hồn trở nên mập phì , cũng là lúc linh hồn trở nên ươn lười và thụ động. Như ông phú hộ mà Thánh Luca đã ghi lại, người ta cũng tự nói với lòng mình: “Hãy ăn uống thỏa thuê. Hãy hưởng thụ” (Lc 12:19).
Đời sống tâm linh là một cuộc hành trình gian khổ. Đòi hỏi phải luyện tập và tự chế mỗi ngày. Như những người muốn có thân hình thon gọn và trẻ đẹp, cần phải tự chế và tập luyện. Họ không thể chỉ dựa vào những cuộc giải phẩu thẩm mỹ, hoặc những viên thuốc giảm cân.
Không! Vẻ đẹp của mình là phải do chính mình luyện tập. Nhưng một khi đã mắc chứng ươn lười, thì làm gì có thân hình thon gọn, trẻ đẹp. Và lúc ấy, cái tâm lý làm đẹp lại thúc đẩy con người chìm vào những ảo tưởng, ảo giác trong khi vẫn cứ tham lam ăn uống. Đó là tư tưởng dối gạt mình rằng, tôi còn trẻ. Tôi vẫn có thời giờ. Và lúc này tôi cần phải thành công, và có công danh sự nghiệp trước đã. Ngày mai sẽ lo.
Sự ươn lười và dối gạt mình ấy mục đích là để tránh né hy sinh, tự chế. Tránh chấp nhận thử thách và đau khổ trên đường hoàn thiện hóa cuộc sống. Tránh khỏi những kìm hãm, và cố gắng tâm linh. Nó khiến con người không còn lo đến phần rỗi mình. Không thực hành điều mà Thiên Chúa muốn mình phải thực hành và phải sống. Đời sống tâm linh, do đó, đã lịm chết, không còn sinh động và năng nổ như Chúa muốn nó sinh động và năng nổ.
Hãy vào cửa hẹp:
Lời Chúa hôm nay chợt thức tỉnh tôi, và cho tôi biết rằng, tôi không thể sống và hành động như tôi đang sống và hành động như hiện nay: Tham lam, đói khát, và ươn lười, thụ động. Sự tham lam, đói khát. Sự ươn lười, thụ động tâm hồn.
Những triệu chứng này, những lý do này chính là nguyên nhân khiến tâm hồn tôi trở thành phì lũ, trở thành béo mập quá khổ để rồi, tôi chỉ có thể đứng trước cửa Thiên Đàng mà nhìn vào với tâm hồn nuối tiếc.
Lậy Chúa, xin cho con biết tiết độ, biết chế ngự những ham muốn vật chất, và những cái chỉ thuộc về thế giới mau qua này, để đời sống con trở nên thanh thản, bình an và nhẹ nhàng. Để con có thể vào được cửa hẹp Nước Trời, để cùng với Mẹ Maria và muôn thần thánh đời đời ca vinh tình yêu Ngài. Amen.
Cuộc đời đầy người giàu, đầy người khỏe, đầy người tài giỏi, đầy người nắm chắc quyền lực: TN 21-C77
Cuộc đời đầy người giàu, đầy người khỏe, đầy người tài giỏi, đầy người nắm chắc quyền lực trong tay, đầy người khôn, đầy người đẹp, nhưng mà tất cả đều có một điều giống nhau, là dù có đẹp, có giàu, có giỏi, có khỏe mấy đi nữa, thì cũng không nhảy qua cái hố định mệnh, chỉ dài có 2 mét và rộng 7 tấc. Định mệnh đã viết sẵn cho kiếp người như thế. Nhưng mà, cái hố định mệnh ấy, chỉ là cái dấu chấm hết cho cuộc đời trần thế này thôi. Chứ chưa chấm dứt cuộc đời của con người, bởi vì băng ngang qua cái hố định mệnh ấy, gởi thân xác lại cho lòng đất giữ hộ, phần chính yếu của con người là linh hồn, sẽ bước vào cuộc sống bên kia, là kết quả cuối cùng của cuộc sống gian trần, mà đời sống gian trần là sự lựa chọn giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa tình yêu và hận thù. Cho nên ở bờ bên kia, sẽ có nơi thưởng là Thiên Đàng, và nơi phạt là hỏa ngục.
Người ta hỏi Chúa: Có đông người được vào Thiên đàng không? Chúa không trả lời, mà chỉ chỉ cho con đường chắc chắn để vào thôi. Đó là hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào. Cửa hẹp. Nói tới cửa, là nói tới lối đi vào. Nơi con người, có muôn vàn lối đi, lối đi của lý trí, lối đi của trái tim, lối đi của ngũ giác: xem, nghe, nếm, ngửi, sờ. Chúa nói, phải đi qua cửa hẹp thì tất cả những lối đi ấy, phải đi qua lối cửa hẹp cả. Vậy cửa hẹp là gì? Thưa:
1- Là luôn chọn theo ý Chúa.
Bà Eva hôm xưa, chỉ vì chọn ý mình, là con đường tự do phúng túng, cho nên đã bị loại trừ. Con người có tự do, nhưng tự do của con người thường được lựa chọn, theo dục vọng của mình. Vì thế, thường đánh mất phẩm giá của mình. Lựa chọn theo ý Chúa, là một điều khó khăn. Vì thế, Chúa bảo phải phấn đấu. Chiến đấu để thắng lợi, cần rất nhiều cố gắng, và mệt nhọc đớn đau.
2- Cửa hẹp là phải biết từ bỏ.
Thân xác con người, gắn liền với trần tục, xa hoa, hưởng thụ, ăn chơi, tiếng khen, tiền bạc, xa xỉ. Và tất cả các thứ đó, là những thứ rất hấp dẫn, và bám víu chặt chẽ với con người, chúng gây hỏa mù, để con người bỏ quên mất phần linh hồn và hạnh phúc đời sau. Cho nên, để có hy vọng bước vào cõi phúc vĩnh hằng, ta phải biết dứt bỏ, để không vương víu và kềnh càng, hầu linh hồn có thể nhẹ nhàng mà hướng thượng. Sự dứt bỏ nào mà chả đớn đau. Nhưng biết sao được, cái gì cũng có cái giá của nó. Muốn được cái hạnh phúc vĩnh cửu, người ta phải biết đánh đổi bằng những đau đớn của mình.
Gợi ý suy niệm
1- Bạn thường chọn ý Chúa hay là ý của riêng bạn trong những quyết định của mình? 2- Sau mỗi từ bỏ, bạn có thấy mình cao thượng?
Nửa đêm có người đến kêu cửa giựt ngược: Xin cha làm phước mẹ con chết hụt mất! Không: TN 21-C78
Nửa đêm có người đến kêu cửa giựt ngược: Xin cha làm phước mẹ con chết hụt mất!
Không trả lời nhiều ít được. Vì nếu nói nhiều thì chắc có tội, khỏi lo. Nếu nói ít thí chắc không có tội rồi, khỏi lo! Cũng không vì một số điều kiện nhất định nào đó được. Không thể ra giá ơn cứu độ hay Nước Thiên Chúa bằng một giá nào nhất định được vì không phải là một món hàng vật chất có giá cả nhất định mà là một giá trị thiêng liêng vô giá, phải đổi bằng tất cả những gì mình có. Người ta muốn biết chắc một số điều kiện rồi cố chịu khó lo cho đủ, có tấm giấy bảo như "miễn tử bài" rồi tha hồ, giờ chót Chúa ban ơn trở lại , bảo đảm không sợ mất linh hồn Giữ 7 thứ sáu đầu tháng RTTT ĐCG bảo đảm giờ chót được ơn ăn năn trở lại hoặc 9 thứ 7 đầu tháng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria cũng hứa như vậy..Rất nhiều người tin như vậy.
Hãy cố gắng. Chịu khó. Làm một hai chút trong một thời gian nào đó chưa gọi là cố gắng. Cố mà gắng là phải đeo bám luôn. Đá banh ngày nay là áp sát và đeo bám, hở chút là thua. Đội nào sức trẻ đeo bám tốt thì hạn chế được thất bại. Cố gắng thì phải liên lỉ,không sơ hở như CG nói "như người đợi chủ đi ăn cưới về". Có nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Không phải tại cửa không vào được vì cửa là để cho mọi người vào, mà là tại có người không tìm thấy cửa, tìm chỗ không có cửa.
Vào qua cửa hẹp! Cửa hẹp khó vào. Nhưng hỏng chật đâu vì ít người thích vào. Cố gắng thì vào được.
Dể thì không đáng mấy xu. Càng khó càng đắc gía. Độ khó làm thành giá trị của phần thưởng cao vì có số điểm cao.
ĐG minh họa bằng dụ ngôn: khi chủ nhà đứng dậy khóa cửa lại các người còn đứng ở ngoài gõ cửa gọi xin mở thì ông sẽ trả lời "ta không biết các ngươi là ai". Giờ chót là vậy. Đợi giờ chót thì sẽ gặp như vậy đó! Dù có nhắc tới "chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt ngài, ngài đã từng giảng dạy trên các đường phố chúng tôi. Năm cô trinh nữ không có dầu phải ra hàng mà mua, trở lai kêu cửa. Cũng nghe đáp "Ta không biết" một cách khô khốc! Nặng hơn, khốc liệt hơn: Cút! Đi khỏi mặt ta, đồ làm điều gian ác! Làm điều gian ác mà muốn vào được sao? Không làm điều Chúa dạy là làm điều gian ác.Thế gian không vào Nước Trời được vì là thế gian. Nước Trời là công chính, thánh thiện. Không làm điều Chúa dạy thì là làm điều gian ác, là thế gian. Ở ngoài mà khóc lóc nghiến răng nhìn thấy từ Nam chí Bắc từ Đông sang Tây thiên hạ tựu đến ăn tiệc sung sướng vô cùng còn con cái trong nhà thì bị bỏ ở ngoài.
Trước hết sẽ nên sau hết. Sau hết sẽ nên trước hết. Trước hết: Do thái rồi những kẻ chức cao quyền trọng, được nhiều đặc ân đặc lợi trong Giáo Hội. Hoặc tự ỷ là đạo dòng, con ông trùm ông câu gì đó!
Là câu trả lời cho những người giữđạo chót, sợ chết hụt.
Là cả một con người, cả một đời sống với rất nhiều việc làm tốt xấu. Giờ chót giải quyết cách nào đây. Xin CG lấy máu châu báu của Nguời rửa con cho sạch bóng cho con lên thiên đàng luôn. Có lẽ nên dạy dễ như vậy cho người ta ham mà giữ đạo nhiều. Nhưng là lừa gạt.
Bỏ Phục sinh cả chục năm, giờ chót rước cha giùm cho trở lại để được rỗi linh hồn, chết hụt mất linh hồn tội nghiệp.
Đạo Chúa nhật, đi lễ bậy bạ một chút Ở ngoài hay đi lễ "ôm". Trung thành là từng giây từng phút. Chủ về muộn canh hai hoặc canh ba, còn như kẻ trộm, lúc bất ngờ.
Thưởng thiện phạt ác là sao nếu cả đời "làm điều gian ác" Chúa Giêsu bảo "cút" thì ai dám bảo là lên thiên đàng bằng giờ chót. Thiên đàng là phần thưởng lớn lao chỉ dành cho những đầy tớ trung thành bất cứ lúc nào chủ đến cũng sẳn sàng.
CG chẳng bảo trước hết sẽ nên sau hết cơ mà.
Vậy hãy cố gắng mà vào qua cửa hẹp bằng sự trung thành sẳn sàng luôn, chịu khó hy sinh, dám bán hết của cải bố thí cho người nghèo khó rồi theo "Ta" .
Chắc không ít người ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết là con đường dẫn tới sự sống: TN 21-C79
Chắc không ít người ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết là con đường dẫn tới sự sống đích thực và vĩnh cửu là con đường: "Vào qua cửa hẹp". Và ai biết tìm kiếm và chiến đấu để vào qua cửa hẹp thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đó là điều Chúa Giêsu quả quyết cho tất cả chúng ta. Vấn đề không phải là có bao nhiêu người được cứu độ vì "Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở"; cũng không phải là chuyện ai được tiền định để hưởng sự sống đòi đời "Không phải gọi Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu"! Nhưng vấn đề là làm sao tìm thấy "con đường hẹp" và "vào qua cửa hẹp" cách anh hùng và trung tín.
Vấn đề đặt ra: "cửa hẹp là cửa nào?" Làm sao để có thể tiến bước trong con đường mà cửa hẹp dẫn đưa qua?
Khi nói "Hãy phấn đấu vào qua cửa hẹp", chắc chắn Chúa Giêsu không nói đến vấn đề rộng hẹp theo nghĩa vật chất, nhưng mang nghĩa tinh thần và thiêng liêng. Nhìn vào chính cuộc sống và chọn lựa của Chúa Giêsu, ta có thể thấy được một vài đặc tính của con đường hẹp:
Con đường hẹp là con đường của sự từ bỏ: từ bỏ những gì đi ngược lại với phẩm giá và lương tâm của con người dù nó có lợi lộc nhiều đến mấy đi nữa! Từ bỏ những quyến luyến hay việc tôn thờ lệch lạc như thần tài, bói toán, sắc dục . . .
Con đường hẹp là con đường của hy sinh: sẵn sàng chịu mất giờ, mất công sức, mất tiền của vì hạnh phúc của anh chị em mình; vui lòng nhường nhịn với những tranh chấp nhỏ nhen vì muốn gây tinh thần hoà thuận với mọi người . . .
Con đường hẹp là con đường của yêu thương và tha thứ: Con đường của tình yêu và tha thứ là con đường đẹp nhất, nhưng cũng là con đường nhiều chông gai nhất. Bởi lẽ, yêu thương vô vị lợi là cúi mình xuống tận cùng để nâng người khác lên, là sẵn sàng nhận lãnh lấy những chỉ trích, những hiểu lầm của người khác. Cái chết nhục nhằn của Chúa Giêsu trên Thập giá đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Con đường hẹp là con đường vâng phục Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa trong cuộc đời ta thường rất khác với ý ta muốn. Chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời ta cũng có nghĩa là chấp nhận bỏ mình, trở nên không không để Chúa tự do hành động trong đời ta và ta sẵn sàng bước theo Chúa trên những con đường mới lạ, gập ghềnh và chẳng mấy ai đi! Nhưng Chúa sẽ đưa ta vào con đường huyền nhiệm của yêu thương và sự sống.
Nói tóm, Con đường hẹp là con đường Thập giá mà Đức Giêsu đã đi. Nhưng xem chừng, con đường hẹp như thế này không mấy hấp dẫn đối với nhiều người hôm nay, nhất là khi cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và giàu sang! Theo lẽ thường, ai cũng thích bước đi trên con đường rộng rãi, phẳng phiu và dễ dãi. Đó là con đường tự do để hưởng thụ, tự do làm những gì mình thích bất chấp hậu quả.
Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh với mọi người rằng: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người lại đi qua đó." (Mt 7,13). Chúa để cho chúng ta tự do để chọn lấy cho mình một con đường. Trước mắt chúng ta luôn có hai con đường mở ra: con đường hẹp với những hy sinh, chịu đựng, nhịn nhục nhau vì yêu và một con đường rộng thênh thang với đầy dẫy sự hưởng thụ và hấp lực trần gian.
Có một câu chuyện rất hay sau đây tôi xin được kể như một kết thúc: " Một thanh niên giàu có than phiền với bạn: "Người ta không thích tôi. Họ cho rằng tôi ích kỷ và keo kiệt. Nhưng tôi đã hứa là sau khi tôi qua đời, tôi tặng tất cả những gì tôi có cho một tổ chức từ thiện" .
Bạn anh nói: "Ồ, câu chuyện của bạn làm tôi liên tưởng đến cuộc trò chuyện giữa Bò và Heo. Heo đến phàn nàn với bò:' Người ta luôn nói tốt về bạn. Vâng, điều đó là sự thật, vì bạn cho họ sữa. Nhưng họ nhận nơi tôi nhiều hơn: dăm bông, thịt muối, mỡ và có khi họ nấu cả chân tôi. Chẳng ai giống tôi. Nhưng đối với họ, tôi chỉ là một con lợn, một con lợn để làm thịt. Tại sao thế ?'
Bò suy nghĩ một lát và nói: 'Có lẽ điều đó đúng. Nhưng bạn chỉ cho thịt khi bạn chết rồi; còn tôi, tôi cho sửa ngay lúc tôi còn sống."
Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng: Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các TN 21-C80
Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng: Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được hội nghị tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này:”Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết, rồi hãy ăn năn trở lại, hãy vui sống đã”.
Biết bao người đã không nghĩ đến hậu quả mà chỉ nhất thời thỏa mãn những cơn mê say của danh lợi thú trần gian. Họ lao đầu vào cuộc chơi mà không nghĩ đến hậu quả. Họ tìm cách thỏa mãn đam mê của mình mà bất chấp những hành động bạo ngược với gia đình và xã hội.
Theo báo Kiến Thức: Ngồi co ro trong một góc nhỏ của Trung tâm giáo dục xã hội Thanh Hà, Hải Dương, nhìn cảnh đoàn tụ, vui vẻ của các trại viên khác với gia đình, Tùng bỗng thấy hụt hẫng, tim nhói đau xen lẫn nỗi ân hận vô cùng. Chỉ vì đua đòi, ham mê rượu chè đã khiến Tùng mất đi tất cả, từ hạnh phúc gia đình đến tương lai, tình cảm và nhân cách. Để rồi bây giờ, khi rượu không còn, cơn say đã tỉnh, mất quyền tự do, tình thân nhạt nhòa, Tùng mới ân hận vì những gì mình đã làm…
Sinh ra trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là công chức nhà nước, nên cuộc sống của Tùng luôn là niềm mơ ước của bao đứa bạn cùng trang lứa. Sống trong cảnh được cưng nựng, nên từ nhỏ Tùng đã có tính ỷ lại, muốn hưởng thụ, lười lao động. Không nằm ngoài quy luật, Tùng trượt sâu vào hố đen tội lỗi, gây bao muộn phiền, đau đớn cho gia đình và xã hội. Để hôm nay, ngồi trong nhà lao, mới nghĩ lại thì quá muộn...
Cuộc đời nếu biết trước ngày mai sẽ ra sao có lẽ sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Cuộc đời nếu biết rằng thời gian chẳng còn nhiều, có lẽ con người sẽ sống có trách nhiệm hơn, sẽ sống tốt hơn. Nhưng đáng tiếc nhiều người đã không nghĩ đến ngày mai, nhiều người lại cho rằng còn quá nhiều thời giờ nên vẫn đàng điếm xa hoa, vẫn lao vào biết bao cuộc vui thác loạn...
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa hẹp mới đưa ta tới sự sống đời đời. Cửa hẹp đòi phải hy sinh. Cửa hẹp đòi phải phấn đấu, phải nỗ lực không ngừng. Cửa hẹp đòi ta không được chiều chuộng thân xác, không tìm thỏa mãn thú vui xác thịt. Còn đường thênh thang cho ta thỏa mãn cơn khát nhất thời nhưng lại là thuốc độc khiến ta mất mạng đời đời, có khi niềm vui chóng vánh còn để lại những hệ lụy đắng cay trong cuộc đời.
Có một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một ngôi nhà theo ước mơ. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một ngôi nhà, hai vợ chồng đã tan vỡ (...)
Quả thực, con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài. Không có thành công nào lại không là kết quả của một nỗ lực hy sinh. Không có một vinh quang nào lại không kèm theo khổ luyện và phấn đấu. Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát nhất thời mà phải hướng tới mục đích lâu dài. Đừng vì niềm vui nhỏ, mau qua mà đánh mất niềm vui to lớn viên mãn trong Nước Trời. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đi vào con đường hẹp để từ bỏ những niềm vui bất chính mau qua, những danh vọng hão huyền. Ước gì chúng ta luôn can đảm chiến đấu can trường để chống lại những cám dỗ của danh lợi thú trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và thêm ơn cho chúng ta. Amen. --------------------------------------
"Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết, nhiều người sẽ tìm vào mà vào không được"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc 13, 22-30, có người đến hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, phải: TN 21-C81
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc 13, 22-30, có người đến hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" (Lc 13, 23). Chúa Giêsu đã nhìn ra sự kiêu hãnh, tự coi mình là công chính của những người này. Ngài không trả lời trực tiếp. Nhưng một cách gián tiếp Ngài đã ám chỉ rằng có nhiều người đánh mất sự cứu rỗi vì chỉ dựa vào tước vị như là thành phần của dân được tuyển chọn. Ngài lo lắng cho họ (Pl 2, 12). Hãy cố gắng vào bằng cửa hẹp! (Lc 13, 24).
Hình ảnh về cửa hẹp được Chúa Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bởi vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao? Có ai mở cổng cho họ vào? Không! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn nấp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
Những người trở về trễ phải khép mình chui qua mọt cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là "mắt của cái kim" - "the eyey of the needle". Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý!
Trong Luca chương 18, 25: "Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Thiên Chúa". "Lỗ kim" ở đây chính là cửa hẹp. Người đi buôn với hàng hoá cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hoá và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quỳ gối xuống may ra mới lọt!
Khi Chúa Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bỏ hết mọi của cải trần gian. sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là con đường hy sinh và vất vả. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui và hạnh phúc đời đời.
Theo thánh Têrêsa Avila, cửa hẹp là nơi nhỏ bé trong trái tim, nơi một người sắn sàng thưa "vâng" hay "không' đối với điều mà người đó biết là thật. đó là nơi mà không có quyền lực bên ngoài nào có thể xâm nhập hay làm áp lực đến sự chọn lựa của một người được. Đó là "trung tâm của linh hồn' nơi Thiên Chúa ngự trị
Chúa Giêsu muốn chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Ngài dự tính chương trình cho mỗi người mà Ngài ban cho mỗi người ân sủng để chấp nhận ý định của Ngài. Chúng ta phải sửa dạy chính mình bằng cách sống theo những lời giảng dạy và hành động của Chúa Giêsu. Sự cứu rỗi của chúng ta không chỉ được bảo đảm hoàn toàn bởi chúng ta thuộc về một tỏ chức giáo hội của những người có lòng tin được gọi là Công Giáo; nhưng nó phải được bảo đảm vì chúng ta sống lời Chúa Giêsu mỗi ngày (Ga 12, 47-50)
"Các người hãy có gắng vào qua cửa hẹp" (Lc 13, 24). Lời của Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hôm nay cố gắng thực hành điều chúng ta đã tin trong ánh sáng của những lời dạy bảo của Chúa Giêsu, và không hành động theo những tiêu chuẩn của trần thế vật chất, vô luân và vô tín ngưỡng. Bước qua cửa hẹp có nghĩa là giữ và sống lời Chúa Giêsu và giảng huấn của Giáo Hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước qua cửa hẹp là nhìn vào chính chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới ánh mắt của Ngài, vì biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta. Bước qua cửa hẹp là thay đổi quan niệm sống vì không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, ... thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến hai quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin Mừng nên vẫn được coi là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người "Kitô hữu ngoại đạo", nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin Mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Ta thấy trong Cựu ước, ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói "Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa". Ông còn khuyên người khác "Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa". Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực. Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin Mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao ? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, chưng diện, thú vui không lành mạnh... Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, thành kiến đối với người này người khác...Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?
Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật... càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.
Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: "Nước chảy đá mòn", "Kiến tha lâu đầy tổ", "Có công mài sắt có ngày nên kim", thì trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: "Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo". "Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi". Cũng vậy, nếu ở đời "Có khó mới có miếng ăn". "Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng", thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm kiếm những giá trị thuộc về Nước Trời. Amen
Loài người trên thế giới này tự hào vì mình biết nhiều và cao trọng hơn các loài khác. Nhưng có nhiều: TN 21-C82
Loài người trên thế giới này tự hào vì mình biết nhiều và cao trọng hơn các loài khác. Nhưng có nhiều người không biết một điều quan trọng là: tôi sẽ đi đâu về đâu? Nhiều người không biết hoặc không muốn biết sự thật đằng sau cái chết dù họ có cảm nhận ít nhiều về vấn đề tâm linh con người.
Người Do Thái nhờ có Mạc khải nên có lòng mong chờ ơn Cứu chuộc. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng ơn cứu chuộc, họ chú ý lắng nghe và hỏi Chúa Giêsu về số lượng người được cứu. Nhưng Chúa Giêsu muốn giúp họ hiểu thêm về tiêu chuẩn được ơn cứu độ. Đó là hãy vào qua cửa hẹp. Con đường về nhà Cha là con đường hẹp, con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi. Thế gian luôn muốn mở nhiều con đường thênh thang không qua thập giá: con đường của danh, lợi, thú. Đó là những ngõ cụt không đưa đến Thiên Đàng, có khi đó là những cái rọ do ma quỷ bày ra cho loài người tự chui vào và nô lệ cho thế gian. Loài người nếu không biết trông cậy vào Chúa thì sớm muộn cũng bị quỉ ma lừa gạt cách này cách khác. Ma quỉ có thể dựa vào xu hướng chung của con người là tìm sự dễ dãi, thích giàu sang, hưởng thụ, sống theo sở thích, sống vô kỷ luật, ích kỷ, kiêu căng để dẫn con người đi sai con đường lương tâm chỉ bảo. Vì vậy, Chuá Giêsu đã xuống thế làm người, dạy chúng ta phải tìm những điều cao quý, biết bỏ mình phục vụ trong tình bác ái, sống vượt trên mọi tham vọng, và vâng phục thánh ý Chúa. Theo Chúa thì phải lội ngược dòng đời, sống yêu thương, vị tha theo gương Chúa Giêsu. Môn đệ Chúa hãy nghĩ đến phần rỗi linh hồn hơn là phần xác, nghĩ đến ích lợi chung trước khi lo cho tư lợi riêng. Đó không phải là điều Chúa Giêsu đã dạy bảo chúng ta và được ghi lại trong Tin Mừng, được nhắc đi nhắc lại thường xuyên trong các giờ cầu nguyện sao?
Đau khổ và sự dữ trên trần gian là do tội lỗi gây ra. Con cái Chúa cũng không tránh được đau khổ khi sống trên trần gian này. Chính Chúa Giêsu cũng không tìm cách tránh đau khổ. Ngài mang lấy đau khổ của nhân loại mà đưa lên cây thập giá. Vì muốn cứu giúp chúng ta, Ngài không ngại hy sinh. Tuy hôm nay chúng ta còn gặp nhiều gian khó nhưng chỉ là những khổ ải tạm thời. Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng ta một nơi hạnh phúc đời đời, nâng đỡ chúng ta bằng hành động yêu thương, cho chúng ta niềm hy vọng về tương lai xán lạn Chúa dành sẵn cho con cái mình trên quê trời. Những khó khăn chúng ta đang chịu nhắc bảo cho chúng ta biết rằng: Chúng ta đang ở quê tạm, nơi rèn luyện bản thân để trưởng thành trong tình yêu chứ chưa phải là quê thật. Thư gởi tín hữu Do Thái đã nhắc bảo chúng ta: Chúa sửa dạy ai là kẻ người yêu mến và đánh đòn...(Dt.12, 5-7) có người con nào mà cha không sửa phạt vài lần. Những lúc Chúa gởi đòn roi thì ai cũng buồn, nhưng sau này, sẽ mang lại quả bình an và công chính (Dt.12,11-18) Chúa biết cách nào hay nhất để sửa dạy chúng ta, giúp chúng ta đi đúng đường chân lý. Dĩ nhiên, khi Chúa gởi thử thách đến thì chúng ta khổ, nhưng chúng ta hãy nhớ lời Chúa nói với thánh Phaolô: ơn ta đủ cho con. Chúa không cất mọi khó khăn cho chúng ta, nhưng chúa muốn rèn luyện chúng ta nên tinh ròng. Cuộc sống ở trần gian mau qua, không phải khổ sở lâu. Rồi Chúa sẽ sớm đưa chúng ta về hưởng thiên đàng, một phần thưởng cao quí hơn những gì lòng người dám ước mong. Phần thưởng này dành cho những ai biết sống tốt, biết yêu mến đồng loại, trở nên giống Đức Giêsu là Con Một Chúa Cha cũng là Chúa chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi con đường hẹp, con đường sống theo giới răn Chúa, con đường vì tha nhân, phục vụ cho hạnh phúc đời đời của nhân loại, để mai sau được thừa hưởng Nước Trời.
Tất cả mọi người trên trần gian này đều được mời gọi gia nhập Nước Chúa. Cửa luôn mở ra cho: TN 21-C83
Tất cả mọi người trên trần gian này đều được mời gọi gia nhập Nước Chúa. Cửa luôn mở ra cho tất cả mọi người vào như là "cửa hẹp", và phải qua kịp thời. Một khi đã được vào thì phải sống xứng đáng, do đó để được phải mỗi người cần phải cho Chúa sửa chữa uốn nắn.
1. Cửa vào Nhà Chúa
Nhà Chúa luôn niềm nở, đón tiếp nhưng người ta chỉ có thể vào qua một cửa, cửa đó mở ra cho những người đến đúng lúc và có sự chuẩn bị xứng đáng. Tuy nhiên cửa đó lại là cửa hẹp, và người ta phải cố gắng mới được vào Quả thực, bài Tin Mừng hôm nay giáo huấn cho chúng ta biết về cái gọi là "cửa hẹp" được gia bội lên bằng một dụ ngôn về cửa đóng với những lời cảnh cáo thật đáng lo ngại.
2. Cửa hẹp
Theo bối cảnh lịch sử tôn giáo Israel chúng ta hiểu khá rõ về cửa hẹp mà Đức Giêsu nói đến ở đây là cái cửa mà người Do Thái giáo thời đó từ chối không muốn bước qua. Cửa hẹp đó chính là lòng tin vào Đức Kitô. Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa.
Ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu nói có người đặt ra liên quan đến con số những người được chọn: "thưa Thầy, ít người được cứu rỗi phải không" Ngài đã đáp lại rằng trong số những người Do Thái thời bấy giờ, thì có nhiều đã từ chối không nhận Ngài, là cứu Chúa đã hứa, họ muốn tìm lối khác nhưng không được vào (c24).
3. Cửa đóng
Như đã nói trên, dụ ngôn cửa đóng đã được vận dụng để làm tăng thêm tầm quan trọng của cửa hẹp, buộc người ta phải đi qua lúc còn đang mở. Cửa tuy hẹp nhưng là cửa mở. Song mở thì cũng có thời có lúc mà thôi chứ đâu mở mãi bao giờ. Tất nhiên lúc mở là lúc muốn cho người ta ra vào, còn lúc đóng là lúc không còn muốn cho người ngoài vào cũng chẳng muốn cho người trong ra nữa. cho nên lúc mở cho vào mà không chịu vào, đến lúc đóng có muốn vào thì không được vào nữa, cho dù có đứng ngoài kêu gào, van xin cũng trở nên vô ích thôi, còn bị mắng đuổi đi nữa là đàng khác "Ta không biết các ngươi" và "Hãy xéo đi xa Ta"
Cái khổ nhất cho người không được vào là có kẻ khác đang sung sướng dự tiệc bên trong, nhất khi những người được vào đó lại là những người ở xa mà đến. Còn mình, ở gần, được mời, nhưng vì không khôn ngoan, nên phải đứng ở ngoài. Có khóc lóc, buồn sầu, nóng giận, hay nghiến răng cũng chỉ thế thôi, và càng thêm khổ tâm. Vì "có mà không biết đón nhận"
Hiểu như trên chúng ta thấy Chúa dùng những dụ ngôn "cửa hẹp" và "cửa đóng" là để cảnh tỉnh những người Israel cứng lòng. Họ là những người được xem là "dân riêng", những người được hứ là sẽ được Đấng Thiên Sai cứu thế trước các dân tộc khác. Nhưng tới lúc Ngài đến, Ngài giảng dạy, Ngài làm những phép lạ cả thể để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa thì người ta lại không tin không nhận. tin Chúa Giêsu chính là điều kiện tối cần để được ơn cứu rỗi, cho nên được ví như là "cửa hẹp" độc nhất, người ta phải qua không còn lối nào khác nữa. bất cứ ai tin Ngài đều được cứu rỗi và ngược lại ai không tin thì bị luận phạt. không gì có thể thay thế được lòng tin đó. Chính Chúa Giêsu đã trả lời "Ta không biết các ngươi, phương gian ác hãy xéo đi". Do đó, người Do Thái tuy được gọi trước, nhưng lại là kẻ đến sau vì chậm tin, và một số khác bị loại ra ngoài vì họ cứng lòng tin. Còn những người ngoại, tuy được gọi sau nhưng vì sự mau mắn nên họ là những người vào trước cả những người được mời trước.
Hạnh phúc cho ta là được biết Chúa, tin Chúa, sống trong gia đình của Chúa như một người con, được Chúa sửa chữa cho nên thành toàn. Đây có phải là một sự đổi mới do ta không? Và do ai? Tin Chúa là được vào gia đình của Chúa, nhưng sống trong nhà Chúa ta còn phải trung thành, và cố gắng sống theo giáo huấn của Chúa nữa. chắc chắn ai cũng biết mình chưa thành toàn, còn nhiều lỗi lầm, nhưng sẵn sàng để Chúa sửa chữa bằng cách này hay cách khác. Tôi có nhận ra những góp ý, xây dựng từ những người xung quanh mà Chúa gởi đến trong cuộc sống không. Ngoài ra chúng ta cũng được mời gọi góp phần xây dựng nước Chúa bằng cánh hướng dẫn anh em xung quanh để nhằm đưa họ vào Nước trời cùng với chúng ta. Amen
Cuộc sống chúng ta đang sống không trọn vẹn cho bất cứ ai. Ðiều này thích hợp cho người này lại bất: TN 21-C84
Cuộc sống chúng ta đang sống không trọn vẹn cho bất cứ ai. Ðiều này thích hợp cho người này lại bất lợi cho người kia. Do đó, cuộc sống là một chuỗi những sự lựa chọn. Người sống bậc tu trì hay gia đình được mời gọi sống sao cho phù hợp với bậc sống của mình. Người sống nơi thành thị hay thôn quê cũng có cách sống phù hợp với nơi họ sống. Cũng vậy người kitô hữu chúng ta cũng được Chúa Giêsu kêu mời sống sao cho phù hợp với tư cách là một công dân nước trời.
Ðoạn Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh những người Do thái quá ỷ lại vào mình. Họ có cái nhìn hơi cục bộ. Họ nghĩ rằng số người được cứu thoát rất ít. Dường như số đó chỉ dành riêng cho họ. Cho nên, ngày nọ trên đường Chúa Giêsu lên Giêrusalem thì có một người đến hỏi Người: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" (Lc 13, 23). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà Người nói: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được." (Lc 13, 24.) Nghĩa là Nước Trời mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người chứ không dành riêng cho nhóm người nào. Những ai có cách sống phù hợp sẽ được gia nhập Nước Trời.
Cách sống phù hợp với Nước Trời mời gọi chúng ta chiến đấu. Chiến đấu không phải với ai mà chiến đấu với chính bản thân của mình. Bản thân chúng ta thường hay ích kỷ, ham mê những sự đời này hơn là những thực tại thiêng liêng.
Lối sống ích kỷ sẽ đưa con người chúng ta đến một con người nghèo nàn, khô khan và ngày càng đánh mất bản chất nguyên thủy của một con người. Vì bản chất nguyên thủy của chúng ta được dựng nên để sống chung, sống với, sống cho và sống vì người khác. Nói cách ngắn gọn con người nguyên thủy là con người biết mở ra.
Cách đây 3 tuần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15 - 16). Chúng ta hãy biết tích lũy cho mình kho tàng trên trời ngay trong cuộc sống hôm nay.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được trở thành công dân Nước Trời. Muốn vậy, chúng ta hãy tự chiến đấu với sự ích kỷ của mình, chiến đấu với sự ham thích những thực tại đời này. Chúng ta hãy chọn cách sống mở ra vì người khác và ham thích những thực tại thiêng liêng cao quý. Ðó là cách sống phù hợp với Nước Trời.
Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp: TN 21-C85
Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp hạnh phúc trong một căn phòng chật hẹp. Họ bàn nhau phải kiếm nhiều tiền để mua một căn nhà khang trang đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng với đồng lương công nhân như hiện nay thì đủ sống được cũng còn là may. Rồi một hôm cô vợ được một người quen giới thiệu làm chiêu đãi viên trong một quán bia ôm. Công việc này được tiền "bo" của khách cao gấp chục lần so với đồng lương công nhân trước đó. Anh chồng vì muốn sớm đổi đời nên đã đồng ý cho vợ đi làm. Anh hy vọng sau một thời gian vài ba năm ăn nhịn để dành, hai vợ chồng sẽ mua được ngôi nhà ưng ý và sẽ cho vợ nghỉ làm. Nhưng sự việc xảy ra lại không đơn giản như họ nghĩ. Từ khi đi bán bia ôm, cô vợ làm ra nhiều tiền và được nhiều người vừa giàu có lại vừa có địa vị theo đuổi tán tỉnh, dần dần đã thay đổi tính nết, trở thành một con người khác hẳn. Cô không còn mặn nồng với người chồng mà cô đánh giá là bất tài, lười biếng và chỉ biết ăn bám vào vợ. Từ suy nghĩ trên, cô hay tỏ ra khinh chồng và ăn nói chua ngoa. Cô cũng thường gắt gỏng và la lối chồng với những lời thô tục khó nghe, khiến anh cảm thấy rất buồn bực. Anh ta chỉ còn biết bầu bạn với rượu bia để giải sầu. Cuộc sống chung của hai người không còn nồng ấm và vui vẻ như trước. Cuối cùng họ đã ra tòa xin ly hôn. Thật đúng như lời Chúa phán: "Con đường rộng rãi là đường dẫn tới hư mất" (Mt 7,13), và người đời cũng có câu "sự thành công không đến một cách ngẫu nhiên, nhưng chính là kết quả của những cố gắng liên tục kèm theo sự kiên nhẫn lâu dài" hoặc "Có công mài sắt có ngày nên kim".
3. SUY NIỆM:
Tin mừng hôm nay trình bày về những điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập là: Phải vào qua cửa hẹp, phải vào kịp thời trước khi cửa đóng, và phải đủ các điều kiện để được vào trong Nước Thiên Chúa.
1) PHẢI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA NGANG QUA CỬA HẸP:
- Đức Giê-su đã tự ví Người là cửa: "Tôi là cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào". Theo thánh Phao-lô: "Bước qua cửa hẹp" là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giê-su đã dạy:"Không phải cứ kêu "lạy Chúa, lạy Chúa" mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào" (Mt 7,21).
- Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng: là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thập giá mà Đức Giê-su đã xin bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha (x Lc 22,41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9,23).
- Bước qua cửa hẹp là phải loại trừ "cái tôi": Ở đây là chiến đấu với "cái tôi" ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, "cái tôi" phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì "cái tôi" quá to. Cần phải làm cho "cái tôi" ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). "Cái tôi" của chúng ta luôn có khuynh hướng phình to do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho "cái tôi" ấy bị xơ cứng và to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (x. Mt 18,3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gio-an Tiền Sứ khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giê-su: "Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
2) PHẢI NHANH CHÂN BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA CHO KỊP THỜI:
Thời gian rất cấp bách, đòi mỗi người phải mau chóng quyết định bước vào Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, vì để sang ngày mai sẽ là quá trễ. Phải bắt đầu ngay từ hiện tại, vì mỗi giây phút, mỗi biến cố trong cuộc đời chúng ta đều có giá trị đưa ta vào hay ngăn chặn ta trước cửa Nước Thiên Chúa bị đóng lại. Tránh đừng để "khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại" ta mới đến gõ cửa nài van: "Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!" thì đã quá muộn. Vì bấy giờ chủ sẽ bảo: "Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !" (Lc 13,25).
3) ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯƠC THIÊN CHÚA:
- Phải chiến đấu để vào Nước Trời: Đời sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua "cái tôi" ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta trong giờ phán xét khi nói với chúng ta: "Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" (Mt 25,21).
- "Ta không biết các ngươi": Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giê-su, đã nhiều lần nghe Người giảng dạy và đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính !" (Lc 13,27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không muốn mở cửa tâm hồn cho Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.
- Sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay:
Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không ? Lời chữa mình của người Do-thái cũng có thể là của nhiều ngừơi hôm nay. Vì chúng ta cũng đã từng tham dự thánh lễ và nghe rao giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay tham gia vào các hội đoàn công giáo tiến hành... Nhưng điều quan trọng Chúa đòi là chúng ta có sống lời Chúa không ? Mỗi người cần thực hành lời Chúa hôm nay: "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào".
Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải bỏ lại bên ngoài những đồ đạc cồng kềnh làm nghẽn lối, là thói tham lam tiền bạc của cải, những sự tranh giành địa vị quyền hành, những đam mê lạc thú bất chính, những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm thừa mứa, những cuộc bài bạc cá độ có thể gây tán gia bại sản. Đó cũng còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người bên cạnh... Vất bỏ những thói hư nói trên thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc "chiến đấu" nội tâm trường kỳ và đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng Chúa luôn ban ơn Thánh Thần cho chúng ta và đang chờ để đón chúng ta vào hưởng hạnh phúc đời đời ở phía bên kia cánh cửa cuộc đời là giờ chết của chúng ta.
4. CÂU HỎI:
1) Cửa hẹp đối với các tín hữu hôm nay là gì ? 2) Tôi hiện đang mắc thói hư nào nghiêm trọng nhất ? 3) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư ấy hầu xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cửa hẹp ít người muốn bước vào, nhưng Chúa lại chọn đi qua cửa hẹp và đòi chúng con cũng phải qua cửa ấy để vào Nước Trời. Cửa hẹp chúng con phải qua chính là những đau khổ thập giá, là những hy sinh từ bỏ các đam mê lạc thú bất chính... Xin cho chúng con luôn chọn đi con đường hẹp, dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Ước gì khi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, kèm theo sự hãm mình cùng những đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, chúng con sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa và hy vọng chắc sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời đời sau.
Có người hỏi Đức Kitô phải chăng chỉ có một số người được nhận ơn cứu độ? Đức Kitô trả lời người: TN 21-C86
Có người hỏi Đức Kitô phải chăng chỉ có một số người được nhận ơn cứu độ? Đức Kitô trả lời người đó là: "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được" Luca 13,24
Câu trả lời của Đức Kitô gây ngạc nhiên không nhỏ. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu í nghĩa cánh cửa hẹp. Thứ nhất, cửa thì luôn nhỏ hơn cổng. Cửa mà lớn hơn cổng sẽ trở thành dị hình, cấm địa, ngăn cản người ra vào. Thứ hai, vì là cửa hẹp nên việc ra vào không dễ dàng. Muốn ra vào cửa hẹp phải khắc chế, loại bỏ 'mỡ béo' không cần thiết ngăn cản ta lọt qua cửa. Loại bỏ bất cứ gì ngăn cản ta vào nước trời, những gì không mang lợi ích cho người và cho mình. Thứ ba, vì là cửa hẹp mỗi lần chỉ một người đi lọt và phải cố gắng mới có thể đi lọt vì thế không thể kết đảng, lập bè, tạo phái để cùng tiến vào. Thứ tư, cửa đó không phải mở vĩnh viễn mà đến một ngày giờ nhất định không ai biết trước cửa đó sẽ đóng. Một khi cửa đóng không ai có quyền mở trừ người giữ cổng. Ở đây chúng ta cũng dành vài hàng cho chữ đóng. Chữ đóng đây có lẽ ít nhắc đến cửa đóng, then gài nhưng nhấn mạnh đến tâm hồn đóng kín của người muốn qua cửa. Đóng kín tâm hồn không đón nhận lời mời qua cửa hẹp. Đóng kín tâm hồn để người đó phán đoán sai sự thật cho rằng cửa đó mở thường trực vĩnh viễn và người đó bất cứ khi nào muốn có thể ra vào tuỳ í. Thứ năm, cửa hẹp không phải nói đến vật chất tạo cửa mà nói đến con người giữ cửa. Người vừa là cửa vừa là người giữ cửa là chính Đức Kitô khi Ngài tuyên bố rõ:
Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Gioan 10,9
Qua cuộc tử nạn và thập giá của Đức Kitô, Người mở cửa thiên đàng cho nhân loại. Chúng ta bước theo thập tự Đức Kitô để được vào nước Ngài. Để bước qua cửa đó chúng ta cần kiên trì, cố gắng hết khả năng chống lại chước ma quỉ cám dỗ, chống lại bất cứ điều gì ngăn cản ta mến Chúa, yêu người. Những ai cố gắng làm điều đó đều được vào, bất kể người đó là dân Chúa chọn hay người đó là dân ngoại. Tất cả đều được mời. Bất cứ ai chân thành đáp lại lời mời sẽ được vào.
Một vài tư tưởng diễn giải sai trái giáo huấn của Đức Kitô. Hướng dẫn gây hiểu lầm cho đức tin nông cạn. Thứ nhất nói Thiên Chúa không loại ai ra khỏi nước của Ngài vì thế không cần phải làm gì cũng được vào nước Thiên Chúa. Thứ hai cho rằng làm thế nào một Thiên Chúa yêu thương lại có thể ngăn cản con người vào nước của Ngài. Nếu Ngài làm như thế thì đâu còn là một Thiên Chúa yêu thương nữa. Hai tư tưởng lí luận hợp lí này có được một số tín đồ. Hãy cẩn thận với lí luận lầm lạc đó vì nó không ăn khớp với giáo lí của Đức Kitô. Ngài dậy chúng ta phải cố gắng phấn đấu để vào nước Ngài. Một người không đón nhận lời Chúa, không quan tâm đến giáo huấn của Ngài, thờ ơ với nỗi thống khổ của anh em họ có thực sự cần đến Thiên Chúa và cần đến tha nhân chăng. Đức Kitô nói rõ cho chúng ta hay ngoài Ngài ra không ai có khả năng hay cách nào khác dẫn chúng ta đến nước của Ngài.
Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy Gioan 14,6
Điều này cho thấy không còn cửa hẹp thứ hai, không còn con đường nào khác ngoài Đức Kitô. Ngài là cánh cửa duy nhất, con đường duy nhất dẫn dến nước trời. Kitô hữu từ chối cửa hẹp đi theo con đường rộng mở là trái với giáo huấn của Đức Kitô. Từ chối nhận biết Đức Kitô nhưng mong được Ngài biết đến là điều nghịch lí. Không cố gắng phấn đấu vào nước trời đòi được đối xử như kẻ cố gắng phấn đấu vào nước trời là đòi hỏi ngang ngược, nghịch lí.
Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng: TN 21-C87
Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào. Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã trình bày: Đây Chúa phán: "Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy bước vào qua cửa hẹp.
Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy" (Is 66, 22). Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện, cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13, 24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.
Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi. Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng nghe!
Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra. Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng (Lc 13, 28).
Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay nẻo chính. Amen.
Vấn đề được cứu rỗi luôn là vấn đề được mọi người Kitô hữu quan tâm và trân trọng. Đối với quan: TN 21-C88
Vấn đề được cứu rỗi luôn là vấn đề được mọi người Kitô hữu quan tâm và trân trọng. Đối với quan niệm hẹp hòi của người Do Thái xưa:" Chỉ có ít người được cứu rỗi ".Việc nhiều hay ít người được cứu rỗi hay không, không phải là điều quan trọng. Do đó, đừng tò mò, đừng quá lo lắng, mà con người hãy xem mình có được kể vào số những người được chọn, được cứu rỗi hay không ? Thực tế, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp vấn đề này, không muốn mạc khải về việc này mà Chúa đã rất khôn ngoan trả lời và câu trả lời của Ngài cũng là điều kiện tiên quyết, căn bản để được cứu rỗi:" Hãy cố gắng đi vào cửa hẹp ".
Đối với Chúa Giêsu đường rộng thênh thang dẫn chúng ta vào chốn hư đốn. Đường rộng hay cửa rộng là những thái quá của cuộc sống, những đam mê của cải, những ham mê danh vọng, thú vui ở đời. Đường rộng là con người tự ý làm theo mình, tự xô đẩy mình vào chỗ tối tăm, hư đốn. Cửa rộng là những sa hoa phung phí, của cải đầy kho nhưng không biết chia sẻ như dụ ngôn ông Phú hộ mà Chúa Giêsu minh họa trong Tin Mừng. Đường rộng là con đường mà người thanh niên giầu có tuy đã thực hành nhiều điều luật tốt lành trong đới sống Đạo nhưng lại không muốn phân chia, chia sẻ của cải cho người nghèo khó, mà lại cứ thích thẳng cánh cò bay, thích đi trên những con đường nhựa rộng thênh thanh, tự do chạy nhảy...Chúa Giêsu đề cập đến cửa hẹp ở đây không có nghĩa rằng Ngài hẹp hòi, ích kỷ, bo bo giữ của, nhưng chỉ tại con người chưa sẵn sàng, chưa nhỏ đủ để bước vào Nước Trời, bởi vì con người còn quá cồng kềnh, còn quá khổ, còn quá to để không thể bước vào cửa hẹp. Cửa hẹp là sự cồng kềnh của những vướng mắc, của những hưởng thụ vv...Cửa hẹp là sự cồng kềng của cái tôi cứng cỏi, hẹp hòi, ích kỷ, của cái tôi hèn nhát không dám dấn thân, không dám tiến bước.Nên, cánh cửa Nước Trời mà những người thiện chí, những người tốt dễ dàng bước vào thì đối với nhiều người đã trở thành khung cửa hẹp, vì cái tôi của họ quá cồng kềnh. Cho nên, vấn đề vào Nước Trời hay không, không phải do Chúa không muốn con người vào mà do con người làm cho mình quá khổ, quá cồng kềnh khiến con người không vào được cửa hẹp.
Nữ tu Bênêđita Thánh Giá-Dòng Xitô đã viết một đoạn rất hay:" Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ' Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào !', thì ông sẽ bảo anh em.' Ta không biết các anh từ đâu đến!'.Những lời nói của ông chủ quả thật làm lung lay thái độ của chúng ta.Lời Chúa muốn kết hiệp với chúng ta hơn là những ảo tưởng vô nghĩa của chúng ta, từ nơi sâu thẳm chúng ta nhận ra mình trống rỗng, yếu đuối tầm thường. Chúng ta nghe Chúa Giêsu nhắc đến hai lần:" Ta không biết các anh từ đâu đến !" .Lúc đó tiếng kêu của người mù có thể phát xuất từ nơi sâu kín của con tim chúng ta bị rỉ máu:" Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi"( Lc 18, 38 ).Nếu chúng ta chấp nhận sự bất lực của chúng ta để thực hiện việc giải thoát chính mình đơn thuần bằng những nỗ lực của chúng ta, lúc ấy, cửa hẹp sẽ rộng mở và đôi mắt chúng ta cũng mở ra. " Cửa Chuồng Chiên " ( Ga 10, 7 ), đó là Chúa Giêsu với đôi tay giang rộng trên thánh giá và ôm lấy toàn thể vũ trụ. Được Thiên Chúa Cha gọi mời, Người cũng mời gọi những con người đến từ mọi quốc gia và ngôn ngữ. Cha Christian de Chergé đã viết:" Thánh giá là chìa khóa của ngôi nhà mà chúng ta phải bước vào và là chìa khóa của những điều bí ẩn ".
Nói tóm lại con đường vào Nước Trời là do mỗi người chứ không phải Chúa. Chính vì thế, không phải chúng ta đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ như Chúa đã dạy:" Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Thầy vì Nước Trời về những ai giống như chúng ". Trở nên nhỏ bé là biết trở nên đơn sơ, trong trắng, thánh thiện và biết từ bỏ tất cả những gì không phù hợp, không theo ý của Chúa. Chúng ta thực sự phải khám phá Nước Trời qua Tình Yêu của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa ngày 11.08.2013:" Tình yêu của Thiên Chúa là kho tàng đích thật của chúng ta.Đó là một tình yêu trao ban giá trị và vẻ đẹp cho tất cả mọi sự, một tình yêu trao ban sức mạnh cho gia đình, công ăn việc làm, học hành, tình bạn, nghệ thuật và mọi sinh hoạt của con người. Nó cũng trao ban ý nghĩa cho cả các kinh nghiệm tiêu cực và tội lỗi của chúng ta nữa ". Sống tình yêu của Chúa và chấp nhận nói lời " Xin Vâng " như Đức Mẹ là chúng ta đang bước vào con đường hẹp, bước cửa Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con mau mắn tìm kiếm Nước Trời, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy Đức Kitô. Xin cho chúng con biết tìm kiếm thánh ý Chúa hơn là tìm kiếm con người của mình.Amen.
Chọn "cánh cửa hẹp" của tình yêu hay chọn con đường rộng thênh thang của bạo lực?
Không biết anh chị em đã đọc loạt sách nhan đề "Bị Bỏ Lại" (Left Behind) hay chưa? Đây là loạt: TN 21-C89
Không biết anh chị em đã đọc loạt sách nhan đề "Bị Bỏ Lại" (Left Behind) hay chưa? Đây là loạt 16 quyển thiểu thuyết của tác giả Tim LaHaye & Jerry B. Jenkins. (Cũng có một loạt sách dành cho trẻ em nữa.) Những quyển sách này nói đến Ngày Tận Thế, trình bày cái được gọi là viễn cảnh Kitô giáo vào những ngày cùng tận của thế giới. Ba quyển trong số những tiểu thuyết này đã được dựng thành phim. Cách đây 10 năm thì 4 trong số những tiểu thuyết này từng giữ vị trí hàng đầu trong danh mục "Sách bán chạy nhất" (Best seller). Lời lẽ trong sách dựa trên những bản văn khải huyền của cả Tân Ước lẫn Cựu Ước. Loạt sách "Bị Bỏ Lại" lấy theo nghĩa đen những hình ảnh hão huyền trong Sách Thánh với những hình ảnh hết sức thi vị. Ý nghĩa của quyển sách nhằm "trả lời" cho những thắc mắc về kết cục lịch sử của hầu hết chúng ta - Có một trật tự luân lý nào trong vũ trụ hay không? Liệu rằng công lý có được thực thi và ánh sáng có thắng được bóng tối hay không?
Dùng lời Sách Thánh như bằng chứng, Những quyển "Bị Bỏ Lại" phỏng đoán về một kết cục "hoan hỉ" sẽ đến. Nó sẽ xảy đến nhanh như chớp; Đức Giêsu sẽ trở lại và đón chỉ một số tín hữu về thiên đàng, chỉ những người tốt thật sự, những kẻ khác sẽ bị bỏ lại. Sẽ chỉ có một ít người được hạnh phúc viên mãn, còn đại đa số sẽ phải khốn khổ vô vàn - những kẻ bị bỏ lại. Cô dâu bị bỏ lại ở ngay bàn thờ; Các gia đình than khóc vì người mẹ bị bắt đi; hàng trăm hành khách trên máy bay khóc la cho đến chết trong khi chỉ viên phi công được nhấc lên và được cứu thoát, ... Vì con người chán ngấy với những đau khổ và sự dữ trên thế giới nên loạt sách "Bị Bỏ Lại" có vẻ như mang lại cho con người sự an ủi và khích lệ: Hãy kiên tâm vững trí, đừng bỏ cuộc, cái thiện sẽ chiến thắng.
Anh chị em có thể thấy ngay cả các môn đệ của Đức Giêsu cũng có những bận tâm tương tự về việc ai sẽ được ở bên trong và ai sẽ bị loại ra bên ngoài nước Thiên Chúa. "Lạy Thầy, những kẻ được cứu thoát thì ít, có phải không?" Có thể các ông hỏi câu này vì chính các ông đang gặp quá nhiều sự chống đối. Có lẽ các ông ngạc nhiên và thất vọng vì người ta không quan tâm gì đến việc đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu. Có thể các môn đệ cũng giống như chúng ta chán nản vì tình trạng bi đát của thế giới "sắp đến ngày tận thế".
Với câu hỏi như thế, các môn đệ dường như nghĩ rằng họ là những người trong số ít ỏi được chọn; trong câu hỏi của các ông âm vang tiền đề của loạt sách "Bị Bỏ Lại" rằng người được chọn sẽ được cất nhắc đi, trong khi đó những kẻ còn lại sẽ bị loại ra và bỏ lại. Các môn đệ có thể đã muốn Đức Giêsu giảng một sứ điệp mạnh mẽ hơn về địa ngục và sự trừng phạt để thức tỉnh dân chúng, làm cho họ sợ hãi mà quay lại ăn năn hối cải và đón nhận Người - cũng như cả các môn đệ nữa. Thế nên xưa nay, sợ hãi cũng là cách giúp người ta biến đổi.
Nhưng chúng ta có nghĩ rằng đó là cách Thái Tử Hòa Bình sẽ trở lại? Phải chăng Thiên Chúa chồng chất những sợ hãi lên những kẻ ngoan cố như những quyển tiểu thuyết "Bị Bỏ Lại" mô tả? Chúng ta sẽ hoán cải quay về với Thên Chúa theo kiểu nào nếu vì sợ, chứ không phải vì yêu mến? Và thêm nữa, liệu chúng ta có tin rằng chỉ có người Kitô hữu mới được cứu hay không? Giáo Hội không dạy chúng ta như thế.
Vì thế, khi các môn đệ Đức Giêsu hỏi về việc "chỉ có một số ít" được cứu, Người phủ nhận câu hỏi và nói rằng con số không phải là vấn đề then chốt. Nhưng, còn có một vấn đề đáng lưu ý khác dành cho các môn đệ của Người: Các ông có nghĩ là các ông sẽ được xét xử tử tế chỉ đơn giản vì các ông được cho rằng đã bắt chước Đức Giêsu hay không? Có phải tự nhiên các ông cho rằng mình được chọn vì các ông đã cùng ăn với Người và Người giảng dạy giữa các ông hay không? Câu trả lời của Đức Giêsu khiến con cái Giáo hội không được dễ chịu, vì Người nói cũng các ông, "Nếu nghĩ mình đứng đầu sẽ xuống hàng chót." Anh chị em biết rằng Đức Giêsu đã thức tỉnh các môn đệ của Người cũng như những kẻ có cái nhìn thiển cận và tự cho mình là đạo đức. Nhưng thực tế thì chính những người được cho là "nhiệt thành đạo đức" lại là người đã chối Đức Giêsu.
Đức Giêsu và môn đệ của Người đang đi lên Giêrusalem. Chúng ta biết quyển sách này sẽ kết thúc như thế nào, không phải là với một "trạng thái sung sướng ngất ngây" chiếm lấy Đức Giêsu và miễn cho Người khỏi những khốn khó. Thiên Chúa sẽ không vượt thắng sự giữ bằng bạo lực và sự phá hủy, nhưng bằng chính thập giá của Đức Kitô. Qua việc chịu đau khổ và bị đánh gục, lòng thành tín của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa và tình yêu Người dành cho chúnh ta sẽ thứ tha và cứu thoát thế giới. Có thể "cánh cửa hẹp" mà Đức Giêsu bảo chúng ta "phấn đấu" để đi qua là chúng ta cần phải tiếp tục yêu thương - ngay cả những người đối nghịch với chúng ta và cố tình hãm hại chúng ta - vì đó chính là cách Chúa Giêsu đã hành xử như thế.
"Cánh cửa hẹp" là hình ảnh về cuộc đời của Chúa Giêsu và ân sủng Người trao ban là hy sinh chính mình cho tha nhân. Đây chính là sự đau khổ đặc biệt và hiến tế chính mình mà Người mời gọi chúng ta bước vào: tha thứ là một cánh cửa hẹp; phục vụ và tặng ban của cải, thời gian cho những ai đang cần cũng là một cánh cửa hẹp; tạm gác lịch trình và thời biểu của mình qua một bên để dành thời gian lắng nghe những nỗi đau của người khác cũng là cánh cửa hẹp; sống cẩn trọng và thanh đạm, sở hữu ít đi để người khác có thể có nhiều hơn đó cũng là cánh cửa hẹp; lên tiếng thay cho những ai bé cổ thấp họng, thậm chí điều đó khiến chúng ta trở thành bất thường, cũng là một cánh của hẹp; Đức Giêsu nói rằng những người đến bên cửa và nài xin ân huệ vì những người này biết Người và thậm chí gọi Người là "Chúa" thì không hẳn nhiên được vào. "Tôi không biết các anh từ đâu đến." Người sẽ nhận ra nhưng con người này ngay cửa nếu như Người nhận thấy chính Người bên trong họ, nếu Người thấy nơi họ: ánh mắt của Người - ánh mắt nhìn thấy những gì bị ẩn dấu; thấy môi miệng của Người nơi họ - môi miệng dám lên tiếng thay cho những kẻ bé nhỏ trong xã hội; thấy đôi tay của Người - đôi tay chìa ra chăm sóc và cảm thông; đôi tai của Người - đôi tai biết lắng nghe những người không được ai nghe đến. Khi Chúa Giêsu mở cửa để xem coi ai đang gõ cửa, Người muốn thấy sự tương đồng trong gia đình - những anh chị em của Người.
Vậy thế giới sẽ kết thúc như thế nào? Tương lai nào Chúa dành cho chúng ta? Điều đó đã được quyết: hòa bình thì mạnh hơn bạo lực. Vậy liệu đời sống hiện tại của chúng ta có ảnh hưởng đến tương lai mà ta hy vọng không? Chúng ta sẽ chọn "cánh cửa hẹp" của tình yêu hay lại chọn con đường rộng thênh thang của bạo lực? Nỗi sợ hãi địa ngục của coon người đã giúp bán được mười triệu quyển sách. Nhưng Thiên Chúa đã chọn cánh cửa hẹp; đã bước vào thế giới của chúng ta bằng cánh của hẹp của tình yêu và mở rộng cánh của ấy cho chúng ta bước vào.
Thoặt nghe đến từ cửa hẹp người ta nghĩ ngay đến những gian truân, khó khăn, vất vả. Sự liên tưởng: TN 21-C90
Thoặt nghe đến từ cửa hẹp người ta nghĩ ngay đến những gian truân, khó khăn, vất vả. Sự liên tưởng này không sai, nhưng nguời ta có thể lầm khi chỉ dán mắt vào độ hẹp của cánh cửa mà quên nhìn thực tại đằng sau nó. Đó là Nước Trời, là Vương quốc của tình yêu, là hạnh phúc vĩnh cửu. Các biến cố lịch sử thường được nhìn nhận cách khách quan và trung thực hơn sau một thời gian cần thiết nào đó. Tương tự như thế, có nhiều sự thật chỉ được biểu lộ hay được nhận biết cách khá chính xác hơn với cái nhìn từ phía sau. Chúng ta cần phải tự hỏi rằng Thiên Chúa ban hạnh phúc vĩnh cửu, vương quốc Nước trời cho những ai? Thật dễ dàng trả lời đó là cho tất cả những tạo vật mà Người dựng nên, các loài hữu hình và vô hình mà trong đó có loài người chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhẩt trong các loài hữu hình được tạo dựng.
"You get what you pay" (tiền nào của nấy). Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự gắng công nỗ lực. Và chắc chắn để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực gắng công càng nhiều hơn gấp bội. Có nhiều cách thế cũng như lãnh vực phải gắng công để đạt hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng trong tất cả những sự gắng công ấy thì việc nỗ lực trở nên "con người" là một nỗ lực nền tảng, không thể thiếu. Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời cho con người thì có thể nói cách không thể sai lầm rằng những ai đích thực là con người thì sẽ được hưởng nhận hạnh phúc ấy.
Theo nhãn quan này thì việc bước qua cửa hẹp chính là những cố gắng để trở nên con người như thuở ban đầu được tạo dựng. Trước khi Ngôi Lời nhập thể, dù được ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn qua vũ trụ thiên nhiên và đặc biệt qua tiếng lương tâm, nhưng con người khi tìm cách trở nên chính mình, trở nên con người, thì vẫn một cách nào đó còn mò mẩm như đi trong đêm tối. Các hiền triết cổ đại thường mời gọi đồng loại ưu tiên cho việc "biết mình". Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân. Đến thời viên mãn với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa thì chân dung và căn tính "con người" đã được mạc khải cách toàn hảo nơi chính Đức Giêsu Kitô. "Người chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" là "Trưởng tử giữa các loài thọ tạo"(x.Col 1,1). Lần giở các trang Tin Mừng, chúng ta cùng xem Chúa Kitô đã trình bày chân dung "Con Người" như thế nào.
Con người được tạo dựng có nam có nữ (x.Mc 10,6): Con người là loài được dựng nên chứ không phải tự mình mà có hay hiện hữu cách ngẫu nhiên. Dữ kiện phái tính cách nào đó khẳng định tính hữu hạn và tính hướng tha của con người. "Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ". Nhiều thi nhân ví von cuộc đời như là quá trình tìm kiếm cái phần nửa của bản thân mình. Hội Thánh dạy rằng con người là hữu thể hướng đến tha nhân và hướng về Tuyệt đối. Như thế bước qua cửa hẹp là nỗ lực làm chủ khuynh hướng tìm mình cách vị kỷ cũng như làm chủ sự tự mãn, tự cao cho mình hoàn hảo hay toàn năng.
Con người là loài có thể xác nên có các nhu cầu ăn uống nghỉ ngơi...(x.Mt 11,19). Tuy nhiên con người còn có linh hồn thiêng liêng làm linh động thân xác. Mặc dù có sự góp phần không thể thiếu của thân xác, nhưng chính linh hồn qua các cơ năng luận suy, phán đoán, chọn lựa mới làm nên giá trị tốt, xấu, đúng sai của các hành vi. Vì không phải những gì bên ngoài vào trong con người làm cho con người ra ô uế mà chính những gì bên trong phát xuất ra...(x.Mt15,11). Bước qua cửa hẹp là nỗ lực thanh luyện linh hồn đồng thời dùng linh hồn để hướng dẫn và làm chủ thân xác.
Lề luật hay ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người có ra vì ngày Sabbat hay vì lề luật (Mt 12,8; Mc 2,28). Khi sống thành bầy đoàn, loài vật giành giật và duy trì địa vị thống trị của chúng chủ yếu bằng sức mạnh của cơ bắp. Dĩ nhiên khi đã già yếu thì vị trí thống trị của chúng bị đe dọa và đến lúc nào đó bị tước đoạt bởi cá thể khác mạnh hơn. Con người thì nhờ có lý trí đã biết vận dụng lề luật để duy trì quyền uy và sự thống trị của mình. Là sản phẩm do tay con người lập nên, lề luật đã được khách quan hóa thành ý của thần minh, thành ý trời, để một cách có chủ ý phục vụ quyền lợi cho những người làm nên lề luật ấy. Như thế, một cách nào đó con người đã tự phong thần phong thánh cho bản thân. Khi bắt người khác tuyệt đối quy phục lề luật mình làm ra thì mình đã nô lệ hóa tha nhân bằng chính ý chí chủ quan của mình. Bước qua cửa hẹp chính là nỗ lực cởi bỏ những ràng buộc khiến ta và tha nhân trở thành nô lệ cho sản phẩm của con người, để đưa chính mình và tha nhân trở thành những chủ nhân thực sự đối với các thực tại trần thế theo thánh ý Thiên Chúa truyền ngay tự buổi đầu thưở tạo dựng (x.St 1,26; 2,20)
Con Người đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mc 10,45). Đến thế gian này, một trong những sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa đó là mạc khải cách đủ đầy và hoàn hảo căn tính của con người, vốn là loài được dựng nên, là hình ảnh của Thiên Chúa. Nét khác biệt và sự trỗi vượt của loài người trên các loài thọ tạo hữu hình không chỉ được thể hiện bằng trí khôn, một khả năng giúp con người ngày càng phát triển mọi mặt, mà còn được thể hiện qua ý chí tự do. Các loài vật bậc thấp khi yêu thích sự gì thì bị thôi thúc chiếm hữu nó bằng mọi giá. Trái lại tình yêu nơi con người lên đến đỉnh cao nơi động thái dâng hiến. Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu tự hiến thân vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Bước qua cửa hẹp là gột bỏ những rào cản khiến chúng ta không thể yêu thương tha nhân bằng sự tự hạ mà dâng hiến, bằng sự quên mình để phục vụ như Chúa Kitô đã yêu thương (x.Ga 13,34).
"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em"(Lc 12,32). Thiên Chúa yêu thương trao ban Hạnh Phúc Nước Trời cho con người. Như thế chúng ta có thể nói rằng để được vào Nước Trời, tức là để có được hạnh phúc đích thật thì chúng ta phải là con người. Vào qua cửa hẹp chính là sự nỗ lực gắng công từng ngày gột bỏ những gì khiến chúng ta không còn là con người hoặc làm chân dung con người nơi chúng ta bị biến dạng. Một vài điều cần gột bỏ đó là sự tự cao, tự đại cho mình toàn năng, toàn hảo hay toàn tri; đó là sự vụ lợi ích kỷ; đó cũng là những ý đồ thống trị tha nhân bằng sức mạnh của quyền lực, thế quyền và lẫn thần quyền, bằng các thể chế luật lệ phi nhân, bất hợp lý do chính mình dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của bản thân mình, tập thể của mình...
Chúa Nhật hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta con đường sống đạo là con đường khó khăn, phải leo dốc: TN 21-C91
Chúa Nhật hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta con đường sống đạo là con đường khó khăn, phải leo dốc, phải qua "Cửa Hẹp." Nhưng chúng ta cứ cố gắng và cầu nguyện rồi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả để tới đích điểm là quê hương thật Nước Trời.
Bài đọc I (Tiên tri Isaia 66:18-21): Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa sẽ hướng dẫn Dân Chúa đi theo đường lối Chúa và quy tụ thành một Dân của Chúa được sống trong một "Trời Mới và Đất Mới." (Hình ảnh cuộc sống mới, cuộc sống hạnh phúc trên Nước Chúa). Bài Đọc II (Thơ Do Thái 12: 5-7,11-13): Chúa sửa dậy chúng ta qua những đau khổ chúng ta gặp trong suốt cuộc đời; chúng ta hãy vui vẽ chấp nhận mọi khổ đau hằng ngày để được đi theo Chúa; đồng thời cũng nâng đỡ lẫn nhau, cùng vác đỡ gánh nặng cho nhau để cùng bước đi trong cuộc Hành Trình Đức Tin hướng về quê hương thật Nước Trời. Bài Phúc Âm (Luca 13:22-30): Mọi người chúng ta "từ Đông sang Tây" đều được mời dự tiệc "Nước Chúa" nhưng chúng ta phải đi qua "Cửa Hẹp," đó là sự cố gắng sống đức tin hằng ngày và chấp nhận những Thánh Giá trong cuộc sống.
Ai trong chúng ta cũng thích đi qua cửa rộng thênh thang; ai trong chúng ta cũng thích đi con đường bằng phẳng, chứ không ai thích đi con đường lên dốc. Nhưng Chúa bảo chúng ta muốn vào Nước Chúa " Hãy qua Cửa Hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn Cửa Hẹp và đường chật thì đưa đến Sự Sống, nhưng ít người tìm được lối ấy." (Matthêu 7:13-14).
"Cửa hẹp" để chỉ những khó khăn mà chúng ta phải trải qua, nếu chúng ta muốn theo Chúa đi về cuộc Sống Mới, cuộc sống vĩnh cữu. Có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải chấp nhận để theo Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống; vì thế Chúa bảo chúng ta "Nước Trời dành cho những ai biết nổ lực!" (Matthêu 11:12) và "Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình đi, vác thánh giá hằng ngày mà theo tôi." (Matthêu 16:24).
Thánh giá đầu tiên chúng ta phải vác là chính thân xác yếu hèn của chúng ta. Thân xác chúng ta luôn đòi hỏi những thỏa mãn nghịch với giới răn Chúa do tính ham danh, ham lợi, ham thú gây ra. Lòng ham hư danh đưa đến những tranh chấp địa vị và gây ra tị hiềm, thù hận. Tính ham mê tiền của sinh ra tham lam, gian lận. Ham mê thỏa mãn các dục vọng thể xác sinh ra những sa ngã đắm đuối. Muốn theo Chúa, chúng ta luôn phải vượt thắng những đòi hỏi đó của xác thịt để chu toàn các giới răn Chúa và sống xứng đáng các tín hữu, những người con tốt lành, thánh thiện của Chúa, như Chúa bảo "Hãy nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh."
Ngày nay trong "thời buổi văn hóa sự chết," người ta coi thường lề luật sống của Chúa; nhưng chúng ta, các tín hữu của Chúa, chúng ta phải can đảm đi ngược lại: nhất định không phá thai, không chủ trương tự do luyến ái, không chủ trương ly dị, không chấp nhận đồng tình luyến ái, không chấp nhận "nam lấy nam, nữ lấy nữ mà thành vợ chồng."
Hơn nữa, nhiều khi vì quyết tâm sống theo lề luật Chúa qua sự giảng dạy của Giáo Hội mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh: phải mất việc, mất địa vị trong xã hội. Mới đây (Trong tháng 7/2010), Giáo Sư Kenneth Howell tại Đại Học Illinois đã bị đe dọa sa thải vì giảng dạy theo đúng đường lối của Giáo Hội. Đã có những bác sĩ, y tá mất việc vì nhất định không chịu cộng tác vào việc phá thai tại bệnh viện. Nhiều chính trị gia thất cử vì chủ trương bảo vệ giáo huấn của Giáo Hội. Đó là những hy sinh thật lớn lao, những "Cửa Hẹp" mà chúng ta phải đi qua, nếu chúng ta muốn là những tín hữu thật của Chúa.
Chấp nhận những hy sinh đó là chúng ta chấp nhận đi theo "Cửa Hẹp," là chúng ta muốn sống như những tín hữu của Chúa, những con người luôn tôn trọng sự sống, tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng bản thân và giá trị thật của con người biết sống theo lý trí, chứ không chạy theo những trào lưu hỗn loạn của thời đại (2 Phêrô 3:3-10).
Cả cuộc đời, Mẹ Maria và các Thánh đều đã đi qua "Cửa Hẹp," đã luôn sống theo thánh ý Chúa, chứ không sống theo thế gian, xác thịt, và ngày nay Mẹ và các Thánh đã được vinh hiễn trên Nước Trời.
Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn can đảm sống Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, dù vì thế mà phải hy sinh, nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống của mình, như các Thánh tử đạo xưa nay. Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau.
Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu rất hỏi nóng bỏng thường được đặt ra: TN 21-C92
Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu rất hỏi nóng bỏng thường được đặt ra vào thời Chúa Giêsu và ngay cả ngày hôm nay.
Extra ecclesiam nulla salus?
Đối với những người Do thái, họ quan niệm rằng: Để được cứu độ, phải thuộc về đạo Do thái, nói tiếng Do thái và sống trên đất Do thái.
Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: "Extra ecclesiam nulla salus: ngoài giáo hội thì không có ơn cứu độ"(san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.
Trong hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.
Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (x 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ. Ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai.
Và tôi thấy đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về viễn tượng cánh chung trời mới đất mới của nhân loại, trong ngày đó Thiên Chúa quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ về với Người (x. Is 66,18-21). Và bài Tin mừng cũng xác nhận: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Vâng, ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, đó là niềm hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội.
Không phải "bao nhiêu", nhưng "làm sao" để được cứu rỗi.
Nhưng nói như thế không có nghĩa là ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa thôi, nhưng để được cứu độ Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người. Thánh Augustino có một câu nói rất nỗi tiếng: "Để dựng nên con, thì Thiên Chúa không cần đến con, nhưng để cứu độ con, thì Thiên Chúa cần đến con".
Đức Kitô hôm nay không trả lời bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua hẹp". Người đang nói tới sự cộng tác của con người. Đó là nét dễ thương của Thiên Chúa chúng ta, Người không làm hết, không "bao sân" mà Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.
Muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ càng. Muốn chơi bóng rổ giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, gầy như sương mai thì phải "diet". Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải "diet", vì phải "qua của hẹp"! Mập thù lù làm sao mà vào được! (just kidding)
"Vào của hẹp" là nói NO với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng, nói NO với những cách kiếm tiền phi đạo đức và nhân bản. Nói NO với những thái độ tự cao tự đại, gây chia sẽ bè phái...
"Vào của hẹp" là nói YES với những giá trị của Tim mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân nhất những người nghèo khổ. Mẹ Terêxa Calcuta nói rằng: "Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng".
"Vào cửa hẹp" là để cho Chúa "quở trách... sửa dạy...và đánh đòn" (Dt 12:5-6) mình khi chúng ta sai lỗi. Chúa thương mới cho "cho roi cho vọt" đó.
Và khi chúng ta nói Yes như thế với Chúa là chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó, thiên đàng đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen.
Một lần nữa, thánh sử Luca nhắc đến lộ trình của Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem cùng với các: TN 21-C93
Một lần nữa, thánh sử Luca nhắc đến lộ trình của Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem cùng với các môn đệ. Hành trình lên Giêrusalem phải chăng là hành trình đi qua cửa hẹp nhưng đồng thời cũng là hành trình mở ra tiệc cánh chung mà ở đó một khi cửa phòng tiệc đã đóng lại, thì không ai có thể bước vào.
Một vấn nạn vẫn thường xảy ra những cuộc tranh luận trong giới chức tôn giáo thời đó về việc vào thời sau hết, ai sẽ là người tham dự vào thế giới mới? Phải chăng là dân tộc Israel hay còn một dân tộc nào khác nữa? Và, phải chăng số người được cứu rỗi sẽ rất ít, mà kẻ hư mất thì lại nhiều? Vấn nạn đó vẫn chưa có lời giải đáp cho đến khi có người đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, những người được cứu thì ít, có phải không?".
Sở dĩ người Dothái hỏi Chúa vấn nạn trên là bởi vì họ vốn cho rằng ơn cứu rỗi chỉ dành cho riêng họ mà thôi. Nay họ chờ mong Chúa xác nhận lại quan điểm đó của họ. Dụng ý của họ ở đây là gì? Chúng ta thấy nếu Chúa Giêsu đồng tình với cách họ quan niệm, vô hình trung, người Dothái sẽ dựa vào đó mà sinh ra kiêu căng, tự mãn vì đã nắm chắc phần rỗi, chả cần cố gắng cho bản thân cũng như cho cộng đồng. Còn những người không phải Dothái thì sao? Chắc một điều họ sẽ sinh ra chán nản, căm ghét tất cả, vì cho rằng có cố gắng cũng vô ích bởi ơn cứu rỗi đâu có dành cho mình. Ngược lại nếu Chúa Giêsu cho rằng ơn cứu rỗi cho một số đông thì chắc chắn sẽ có kẻ tự cho mình đang nằm trong số đông đó, rồi sinh ra căn bệnh ỷ lại, bình chân như vại, chả cần cố gắng tập tành nhân đức gì nữa, vì biết chắc đã có giấy "thông hành" vào nước trời rồi, sợ gì.
Chính vì thế, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi này. Trái lại Người đưa ra một lời cảnh báo cho hết mọi người đừng đoán già đoán non ai sẽ vào hưởng hạnh phúc mai sau, số lượng ít hay nhiều,... mà phải lo cho lợi ích phần rỗi của mình cho xứng đáng bằng cách "chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào".
Cửa hẹp ở đây là gì? Trước hết, cửa hẹp ở đây chính là hành trình lên Giêrusalem của Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu nhất quyết tiến về Giêrusalem, tức là Người chấp nhận bước vào con đường hẹp- con đường sẽ dẫn Người đến cái chết bi thảm trên thập giá. Con đường hẹp mà Chúa đi cũng là con đường thách đố của lòng tin, tình yêu và nguồn cậy trông; con đường đó đòi hỏi cần phải có sức phấn đấu cao và sự kiên trì thật vững vàng. Sau nữa, con đường hẹp đó còn là một cuộc vận lộn sau cùng, nghĩa là cuộc chiến đấu sau hết trong giờ phút lâm chung- giờ phút quyết định trước khi cửa tiệc cánh chung nước trời khoá lại. Thấy được như thế, chúng ta mới hiểu rõ lời cảnh báo của Chúa Giêsu mang tính cấp thiết trong đời sống hiện tại như thế nào.
Như thế, Chúa Giêsu không hề có chế độ ưu đãi nào trong việc tham dự bàn tiệc Cánh chung. Con đường hẹp và đàng sau đó là phòng tiệc cánh chung không dành cho những ai "hữu danh vô thực". Tức là không phải cứ mang danh Kytô hữu, là con cháu Apraham thì đương nhiên được chủ nhà Giêsu mở cửa mời vào. Cuối con đường hẹp là căn phòng dự tiệc nước Thiên Chúa chỉ mời đón những ai biết đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và đem ra thực hành, những con người không ngừng hoán cải, không ngừng cải thiện đời sống mình theo gương Thầy Chí Thánh.
Đường theo Chúa Giêsu không thênh thang dễ đi nhưng là gồ ghề chật hẹp, vì đó là con đường chứng nhân, con đường mời gọi sống các giá trị Tin mừng. Thế nên, đối với những ai yêu mến con đường này, tuy có hẹp nhưng vẫn đủ rộng để mời gọi, để hấp dẫn họ bước vào. Một khi chúng ta chấp nhận bước vào con đường hẹp Tin mừng với một trái tim nồng cháy, chắc chắn cửa nước trời sẽ rộng mở đón chúng ta vào dự tiệc và được chính chủ nhà là Thiên Chúa không ngừng yêu mến và trở nên người phục vụ chúng ta.
Rộng lớn có cửa biển. Nhỏ hơn nhắc đến cửa sông. Nhỏ hơn nữa là cửa giao thông hào. Cửa gắn: TN 21-C94
Rộng lớn có cửa biển. Nhỏ hơn nhắc đến cửa sông. Nhỏ hơn nữa là cửa giao thông hào. Cửa gắn liền với cuộc sống con người. Sống nhờ cửa miệng, thác kí cửa mồ. Đi lại, di chuyển có cửa xe. Mạnh khoẻ ra vào cửa nhà; đau ốm đến cửa bệnh viện. Việc đạo thăm cửa thánh đường, ăn chơi viếng cửa phòng trà. Các cửa lớn nhỏ trên chưa phải là cửa hẹp vì trừ cửa mồ ra thì các cửa đều dễ ra vào. Khi người mời ta. Khi ta mời người. Khi mình tự đến, khi được chở đến. Hôm nay Chúa nói đến cửa hẹp. Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu. Cửa hẹp không người canh giữ nhưng muốn vào phải chiến đấu. Chiến đấu có kẻ thắng, người thua. Không phải lúc nào cũng thắng nhưng nếu ngưng chiến đấu sẽ thua suốt đời. Vào qua cửa hẹp là có tất cả, bị loại ra là mất tất cả. Cửa hẹp ban sự sống vì thế
'có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được'.
CANH CỬA
Cửa có lính canh ngày đêm như cửa nhà tù, cửa trại lính, cửa ngân hàng, cửa khách sạn sang trọng. Cửa có những giờ mời đón mọi người không phân biệt tuổi tác. Hoàn toàn tự do thích thì đến buồn thì đi như cửa nhà chùa, nhà thờ. Cửa có giờ giấc nhất định thông báo giờ mở, giờ đóng như cửa tiệm, văn phòng. Cửa lúc nào cũng then gài, khoá kĩ là cửa nhà, cửa di trú. Những cửa này chưa phải là cửa hẹp, đủ điều kiện là qua lọt. Vào cửa hẹp phải tranh đấu để vào.
LUẬT CỬA
Cửa nào cũng có những luật lệ phải giữ, hướng dẫn phải tuân theo và điều kiện phải hoàn hành. Luật trước khi vào cửa phải gọi điện thoại giữ chỗ như nhà hàng, khách sạn; luật phải theo sau khi vào cửa như đi coi văn nghệ, xem thể thao, đôi khi phải giữ luật ngay cả khi đã về nhà chẳng hạn như làm điều bác sĩ dặn phải thực hành khi xuất viện. Vào cửa tiệm có luật trong tiệm; vào xe có luật trong xe. Nhà hàng có luật nhà hàng; tư gia có luật gia đình. Nói đến cửa là nói đến những điều kiện dán trên cánh cửa hay luật lệ sau cánh cửa đó.
LUẬT CỬA HẸP
Cửa hẹp có những luật buộc phải theo. Tuy là cửa hẹp nhưng luật của cửa này lại không hẹp. Ảnh hưởng của nó lớn lao, bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống cá nhân và tha nhân.
Luật cửa hẹp đơn giản, ngắn gọn và thực tế. Vì luật đơn giản nên người ta coi thường. Vì coi thường nên dễ phạm luật. Vì dễ phạm nên luật đơn giản lại khó hoàn thành càng đơn giản càng khó giữ.
Luật ngắn gọn giữ cả đời cũng không xong. Luật ngắn gọn nên dễ nhớ. Nhờ dễ nhớ nên khi phạm luật là nhận ra ngay, biết sai lầm, phạm luật.
Luật cửa hẹp thực tế đến độ nó gắn liền với cuộc sống, khi thức làm việc cũng như khi nghỉ xả hơi và ngay cả khi ngủ. Ở đâu, nói gì làm gì cũng thấy luật thật gần, hữu dụng.
Cửa hẹp rất hẹp nhưng kiểm soát thế nào cũng có sơ sót, lầm lỗi vẫn nhiều, sơ sẩy vẫn lắm. Cửa rất gần nhưng rất khó kiểm soát, canh chừng. Cửa rất gần nhưng tiếng vang lại xa. Cửa hẹp nhưng ảnh hưởng của cửa rộng lớn.
CHIẾN ĐẤU
Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu mà vào, phải cố gắng vận dụng khả năng riêng để vào. Không thể vào cửa hẹp bằng tìm cách luồn lọt, hối lộ, nịnh bợ hay bằng mánh khoé giảo hoạt, tính toán. Phúc Âm nói rõ
'hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào'.
Phúc Âm không nói rõ chiến đấu với ai, hay chiến đấu với thứ gì để vào được cửa hẹp.
CỬA MIỆNG
Cửa hẹp đây không gì khác hơn chính là cửa miệng con người. Muốn vào cửa hẹp việc đầu tiên cần phải làm là kiểm soát cửa miệng. Rõ ràng cửa miệng không có người canh giữ thì không thể chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính mình. Thất bại kiểm soát cửa này sẽ đóng các cửa ta muốn vào và bắt ta vào cửa ta không muốn đến.
Như đã phân tích ở trên cửa này hẹp, rất gần với ta nhưng lại cũng rất khó kiểm soát. Không kiểm soát, ăn bậy dẫn đến cửa bệnh viện; hút bậy dẫn đến tàn gia bại sản; uống bậy dẫn đến rượu vào lời ra; nói bậy dẫn đến gây gỗ, cãi vã: nhẹ thì tức giận, nặng thì bè phái, hằn thù. Người ta không thể mánh lới, gian dối, luồn cúi với chính mình. Điều có thể làm được, cần làm là phấn đấu với chính mình. Phúc Âm ghi rõ
'hãy chiến đấu để qua cửa hẹp'.
Để điều khiển được cuộc sống trước hết phải phấn đấu với chính cửa miệng, kiểm soát cửa miệng, miếng ăn, lời nói. Động lực bên trong thúc đẩy không ai rõ nhưng lời nói ra từ cửa miệng ảnh hưởng đến cuộc sống. Lời nói khôn mang phước lộc, lời nói khờ nhận tiếng cười chê, lời nói dại giết tình bạn, gây tình thù, hiềm khích.
Phương thể duy nhất lọt qua cửa hẹp là phấn đấu, điều khiển cửa khẩu. Chiến đấu với cửa này chính là chiến đấu với chính mình, với cá nhân, bản thân, cá tính, phương cách sống, lề lối suy nghĩ và ngay cả đức tin. Thắng được cửa miệng là thắng được chính mình. Làm chủ được mình đáng hưởng sự sống đời đời.
Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức.: TN 21-C95
Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức. Nếu nhận, anh sẽ không có đủ thời giờ cho vợ và 4 con trai của anh vì anh sẽ phải làm các ngày cuối tuần nữa. Bù vào đó lương anh sẽ được tăng thêm mười ngàn đô. Nhưng anh Hướng đã khước từ vì tin rằng "tình yêu" mà anh dành cho vợ con quí giá hơn nhiều.
Cách đây hai năm ban điều hành của công ty một lần nữa, đề cử để anh được thăng chức. Lần này anh nhận, lý do vì các con anh đã khôn lớn mà vợ anh lại không thể đi làm được. Không may cho anh là vào đúng thời gian ấy, người chị ruột của anh qua đời khiến anh không chú tâm học hành được nên về cuối khóa anh đã thi rớt. Trở về công ty anh bị ông giám đốc quăng hồ sơ lên bàn rồi giận dữ nói: "Đáng lý tôi không cho anh đi học. Đáng lý ra tôi không nghe lời ai hết. Anh đánh mất cơ hội cuối cùng này của anh rồi, biết chưa!"
Thật là ê chề nhục nhã cho anh Hướng. Anh chia sẻ nguyên văn như sau: "Lòng tôi tan nát. Điều đáng buồn là tôi đã để cho lời lẽ ông giám đốc hủy diệt tôi. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Ý chí quyết tâm phụng sự Chúa bấy lâu nay bỗng trở nên vô dụng. Tôi thấy tôi không thể nào bước theo Chúa trong tình trạng này. Tôi tự hỏi "Tại sao lại xảy ra việc này?" Có vẻ như tôi không còn có thể yêu thương được nữa. Tệ hơn nữa là tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Cái chết của người chị làm tôi đau khổ nay lại đưa đến việc ông chủ hạ nhục tôi."
"Mọi sự như sụp đổ quanh tôi. Tôi thấy tôi không còn đối diện được với việc làm ở sở cũng như với gia đình và cuộc sống. Tôi ngại ra khỏi giường mỗi sáng và chỉ muốn thu mình để tránh né thế giới bên ngoài. Mỗi khi gặp mặt ông giám đốc, tôi càng thấy thêm phẫn uất tức giận. Tôi trở nên cay đắng thù hằn. Suốt đời tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với ai cả. Tôi thấy tôi có bổn phận yêu thương nhưng vẫn bướng bỉnh cãi lại."
Chọn theo một con người bị bỏ rơi
"Ngày kia tôi phải thú thực với vợ tôi: Anh không thể sống nổi mãi thế này. Vợ tôi chú ý lắng nghe và đề nghị cùng nhau cầu nguyện để xin Chúa giúp sức. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và khi ấy tôi biết mình phải chọn theo Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Tôi cảm thấy được bình an và mạnh mẽ hơn."
"Ngày kia khi rời khỏi văn phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy có sức thôi thúc tôi quay lại nói với ông: "Tôi xin thưa là không phải tôi muốn lên án ai hoặc xin xỏ điều gì. Sau khóa huấn luyện khi ông nói chuyện với tôi, tôi bị mất tinh thần đối với công ty. Tôi trở nên oán hờn và nhiều lần tôi đã có những thái độ không tốt đối với ông."
"Ông giám đốc ngắt lời anh Hướng khi nói: "Tôi chẳng bao giờ cố y làm cho anh buồn. Anh biết tôi giận thì la lối rồi sau lại quên ngay." Khi anh Hướng xin ông giám đốc tha cho anh về cách anh đối xử với ông ta thì người đàn ông thường có vẻ lạnh nhạt ấy đã ứa đầy nước mắt. Ông thinh lặng một lúc rồi cất tiếng: "Tôi xin lỗi ông, tôi thật không ngờ việc tôi làm khiến ông phải buồn phiền." Rồi ông bắt đầu thăm hỏi về tôi và gia đình tôi một cách thân mật. Tôi thấy chúng tôi đã nối lại được nhịp cầu đã đứt đoạn."
Điều bất ngờ xảy ra là khi ông giám đốc về hưu, một người đàn ông trẻ hơn nhiều, đứng đầu công ty. Anh chỉ mới có 32 tuồi. Vì thiếu kinh nghiệm, anh gặp khó khăn. Anh đã xin gặp riêng tất cả các nhân viên trong công ty, mỗi lần bốn người. Chỉ có anh Hướng một mình được ông giám đốc mới mời riêng tới văn phòng để gặp. Kết quả là anh đã được gởi đi học một khóa huấn luyện rồi được thăng chức một cách ngon lành.
Câu chuyện kể trên gợi ý để ta suy nghĩ về cửa hẹp trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu khuyến cáo ta "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào" (c.24). Nhưng lời dạy đó được nêu trong bối cảnh nào? Làm thế nào hiểu và áp dụng lời khuyên đó một cách chính xác? Nhất là ta được Chúa Giêsu khuyến cáo phải chiến đấu để qua cửa hẹp nhằm đạt tới điều gì đáng kể?
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy đây là lần thứ hai tác giả Luca nhắc nhớ ta về cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm tới đích điểm là Giêrusalem (c.27).
Luca cho thấy khó khăn và thử thách
Lần thứ nhất Luca gắn liền Giêrusalem dưới đất với Giêrusalem trên trời, dĩ nhiên ngang qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đó là lúc Luca trịnh trọng loan báo: "Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem" (9,51). Ngay ở lần loan báo đầu tiên về cuộc hành trình đi Giêrusalem, Luca đã cho thấy khó khăn và thử thách. Thoạt tiên Đức Giêsu và các môn đệ bị một làng Samari từ khước (cc. 53-54). Kế đến chính Đức Giêsu muốn thách đố những ai muốn bước theo Người. Người thứ nhất xin theo liền được cho biết rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." Người thứ hai xin về chôn táng cha già trước đã, thì đã không được phép vì "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa." Người thứ ba cũng được yêu cầu phải có thái độ dứt khoát vì "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." (cc. 57-62).
Bây giờ là lần thứ hai, Luca cho biết Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem (c. 22). Vấn đề được nêu trầm trọng hơn lần thứ nhất nhiều với câu hỏi "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" (c.23). Bởi lẽ ơn cứu thoát nói đây là chính sự sống còn của con người, tức là ơn cứu độ, chứ không phải chỉ là vấn đề từ bỏ mọi sự hoặc phải từ bỏ ngay như nói ở trên (Lc 9,56-62).
Chính Đức Giêsu là cửa hẹp
Và để trả lời, Đức Giêsu đòi hỏi một sự chính xác. Người muốn người ta nhắm thẳng bản thân Người theo bề sâu, tức là biết Người. Không có gì có thể thay thế được cái biết nội tâm đó. Cho nên cả những kẻ sống sát bên Người, "ăn uống trước mặt Người, và Người cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố" của họ (c.26), họ cũng vẫn bị loại ra ngoài nếu họ thực sự không biết Người.
Như vậy, chính Đức Giêsu là cửa như Người tuyên bố trong Tin Mừng của Gioan: "Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu." (Ga 10,9). Cửa hẹp trong Luca còn có ý nói về chính bản thân Đức Giêsu chứ không thể là ai khác. Điều này Tin Mừng của Gioan cũng nói rõ với lời tuyên bố của Đức Giêsu là "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Đức Giêsu còn là cửa hẹp theo nghĩa Tân Ước như lời tông đồ Phêrô lớn tiếng công bố trong ngày lễ Ngũ Tuần rằng: "Toàn thể nhà Israen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36) và "Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ." (4,16).
Biết Đức Giêsu nơi con tim
Nhưng như vậy thì phải cắt nghĩa thế nào về Tin Mừng của Matthêu về cuộc phán xét chung? Nếu biết Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để vào hưởng Nước Thiên Chúa, theo bài Tin Mừng hôm nay, thì phải hiểu như thế nào về tình trạng hết sức sửng sốt của những người công chính chưa hề nhận biết Chúa khi họ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, v.v... (Mt 25,37tt)? Thưa, những người công chính ấy đã được biết Đức Giêsu tận gốc do họ được đánh động bởi chính Thần Trí của Đức Giêsu phục sinh là Thần Trí luôn được ban cho họ để giúp họ làm việc lành. Họ không chỉ biết Đức Giêsu theo cái biết hời hợt nông cạn theo ý nghĩ mà thôi, nhưng còn biết Người thâm sâu nơi con tim mình.
Quả thật, cũng chính cái biết nội tâm ấy đã giúp anh Hướng sống tinh thần chiến đấu để vào cửa hẹp. Anh và vợ anh đã cùng nhau cầu nguyện xin Chúa giúp sức để lướt thắng cơn khủng hoảng. Nhờ vậy anh nhận ra mình phải chọn theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Đó là lúc anh được bình an và có sức mạnh để giải quyết trực diện vấn đề khó khăn với ông giám đốc nơi sở làm việc của anh.
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca: TN 21-C96
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
- cửa hẹp (c. 24), - cửa khóa (cc. 25-27), - số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29), - câu tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.
- Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
- Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.
- Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài. - đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)
Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is 25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.
Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.
+ Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
(22) Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. (23) Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ: (24) “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào. Vì tôi nói cho anh em biết: Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. (25) Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa mà nói: “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào !”, thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !” (26) Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. (27) Nhưng ông sẽ đáp với anh em: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” (28) “Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. (29) Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. (30) Và kìa, có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
Trong Tin mừng hôm nay, Lu-ca ghi lại những đòi hỏi của Đức Giê-su để được vào Nước Thiên: TN 21-C97
2. Ý CHÍNH: Trong Tin mừng hôm nay, Lu-ca ghi lại những đòi hỏi của Đức Giê-su để được vào Nước Thiên Chúa là phải đi qua “cửa hẹp”, tức là phải tránh làm điều ác. Thực tế xảy ra là dân ngoại sẽ từ khắp bốn phương thiên hạ đến tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa chung với các Tổ phụ dân Do thái, đang khi chính dân này lại bị loại ra ngoài Nước Thiên Chúa để vào trong hỏa ngục, nơi phải khóc lóc và nghiến răng.
3. CHÚ THÍCH:
- C 22-24:
+ Đức Giê-su ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy: Trên đường từ miền Ga-li-lê (Bắc), theo đường bộ về Thủ đô Giê-ru-sa-lem thuộc miền Giu-đê (Nam), Đức Giê-su đã đi ngang qua nhiều thành thị làng mạc.
+ Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?: Thời Đức Giê-su có hai quan niệm về ơn cứu độ trái ngược nhau: Phe lạc quan thì cho rằng bất cứ ai gốc Do thái, tuân giữ Luật pháp Mô-sê, thì đương nhiên sẽ được ơn cứu độ. Còn phe bi quan, chịu ảnh hưởng của sách mạo thư (4 Esdra) thì chỉ có rất ít người được ơn cứu độ mà thôi.
+ Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được: Không vào được vì đã quá muộn (x. c. 25), hoặc vì muốn đi con đường rộng thênh thang là đường dẫn tới diệt vong (x. Mt 7,13-14), hay vì khổ người quá to, vì tham lam tiền bạc thú vui nên không thể đi lọt qua được cửa hẹp.
- 25-27:
+ Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại: “Cửa khóa lại” là biểu tượng của ngày tận thế chung toàn thể nhân loại hay giờ chết riêng của mỗi người. Những kẻ không sống theo ý Chúa, khi phải ra trước tòa Chúa phán xét thì đã muộn, vì bấy giờ cửa đã khóa lại.
+ “Thưa Ngài xin mở cửa cho chúng tôi vào !”: Đợi đến lúc gần chết hay lúc tận thế mới chịu hồi tâm sám hối và nài xin vị Thẩm phán mở cửa cho vào thì đã muộn.
+ “Ta không biết các anh từ đâu đến !”: Đây là kiểu nói Do thái, tương đương với câu: “Ta không biết các ngươi là ai”. Vị Thẩm phán không nhận những người Do thái xấu xa làm gia nhân. Để được làm dân Thiên Chúa thì nguyên việc thuộc dòng giống Áp-ra-ham không đủ (x. Lc 3,8 ; Ga 8,33-41), mà còn phải biết đón nhận Đức Giê-su, nghĩa là phải được vị Thẩm phán cánh chung nhận biết nữa (x. Lc 13,25-27).
+ “Ta không biết các anh từ đâu đến”: Lời tuyên bố được lặp lại hai lần nói lên sự dứt khoát từ chối những kẻ cố chấp không tin Đức Giê-su và không chịu ăn năn sám hối được vào Nước Thiên Chúa.
+ “Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !”: Hình phạt đau khổ nhất trong hỏa ngục là không được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa, không được nhận Người là Cha của mình.
- C 28-30:
+ Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng: Kiểu nói này diễn tả hình phạt hỏa ngục, dành cho những kẻ làm điều gian ác. Trong hỏa ngục, chúng sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tức giận.
+ Khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa: Những ai đi qua cửa hẹp nghĩa là sống công chính sẽ được về với các Tổ phụ dân Do thái là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp và các Ngôn sứ, nghĩa là sẽ được hưởng ơn cứu độ. Giống như trường hợp La-da-rô nghèo khổ khi chết được thiên thần đem vào lòng Tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 16,22).
+ Còn mình lại bị đuổi ra bên ngoài: Những người Do thái cố chấp không chịu đón nhận Tin mừng Đức Giê-su rao giảng sẽ bị loại ra ngoài và chịu hình phạt.
+ Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót: Người Do thái luôn được ưu tiên đón nhận ơn cứu độ (x. Cv 3,26). Nhưng họ đã từ chối, nên Tin mừng đã được rao giảng cho dân ngoại (x. Cv 13,46; 18,6). Qua đó cho thấy có sự thay đổi thứ tự trước sau giữa dân Do thái và dân ngoại.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su dạy phải đi con đường nào để được cứu độ ? 2) Hành động của ông chủ khóa cửa lại diễn tả điều gì ? 3) Muốn được ơn cứu độ thì nguyên việc thuộc dòng giống Do thái, và được sống đồng thời với Đức Giê-su đã đủ chưa ? Đòi người ta phải có những điều kiện quan trọng nào khác ? 4) Điểm nổi bật nhất giúp phân biệt giữa thiên đàng với hỏa ngục là gì và những ai sẽ bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa ?
Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp hạnh phúc trong một căn phòng chật hẹp. Họ bàn nhau phải kiếm nhiều tiền để mua một căn nhà khang trang đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng với đồng lương công nhân như hiện nay thì đủ sống được cũng còn là may. Rồi một hôm cô vợ được một người quen giới thiệu làm chiêu đãi viên trong một quán bia ôm. Công việc này được tiền “bo” của khách cao gấp chục lần so với đồng lương công nhân trước đó. Anh chồng vì muốn sớm đổi đời nên đã đồng ý cho vợ đi làm. Anh hy vọng sau một thời gian vài ba năm ăn nhịn để dành, hai vợ chồng sẽ mua được ngôi nhà ưng ý và sẽ cho vợ nghỉ làm. Nhưng sự việc xảy ra lại không đơn giản như họ nghĩ. Từ khi đi bán bia ôm, cô vợ làm ra nhiều tiền và được nhiều người vừa giàu có lại vừa có địa vị theo đuổi tán tỉnh, dần dần đã thay đổi tính nết, trở thành một con người khác hẳn. Cô không còn mặn nồng với người chồng mà cô đánh giá là bất tài, lười biếng và chỉ biết ăn bám vào vợ. Từ suy nghĩ trên, cô hay tỏ ra khinh chồng và ăn nói chua ngoa. Cô cũng thường gắt gỏng và la lối chồng với những lời thô tục khó nghe, khiến anh cảm thấy rất buồn bực. Anh ta chỉ còn biết bầu bạn với rượu bia để giải sầu. Cuộc sống chung của hai người không còn nồng ấm và vui vẻ như trước. Cuối cùng họ đã ra tòa xin ly hôn. Thật đúng như lời Chúa phán: “Con đường rộng rãi là đường dẫn tới hư mất” (Mt 7,13), và người đời cũng có câu “sự thành công không đến một cách ngẫu nhiên, nhưng chính là kết quả của những cố gắng liên tục kèm theo sự kiên nhẫn lâu dài” hoặc “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng hôm nay trình bày về những điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập là: Phải vào qua cửa hẹp, phải vào kịp thời trước khi cửa đóng, và phải đủ các điều kiện để được vào trong Nước Thiên Chúa.
1)PHẢI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA NGANG QUA CỬA HẸP:
-Đức Giê-su đã tự ví Người là cửa: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Theo thánh Phao-lô: “Bước qua cửa hẹp” là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giê-su đã dạy:”Không phải cứ kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào” (Mt 7,21).
-Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng: là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thập giá mà Đức Giê-su đã xin bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha (x Lc 22,41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9,23).
-Bước qua cửa hẹp là phải loại trừ “cái tôi”: Ở đây là chiến đấu với “cái tôi” ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, “cái tôi” phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì “cái tôi” quá to. Cần phải làm cho “cái tôi” ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). “Cái tôi” của chúng ta luôn có khuynh hướng phình to do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho “cái tôi” ấy bị xơ cứng và to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (x. Mt 18,3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gio-an Tiền Sứ khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giê-su: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
2)PHẢI NHANH CHÂN BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA CHO KỊP THỜI:
Thời gian rất cấp bách, đòi mỗi người phải mau chóng quyết định bước vào Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, vì để sang ngày mai sẽ là quá trễ. Phải bắt đầu ngay từ hiện tại, vì mỗi giây phút, mỗi biến cố trong cuộc đời chúng ta đều có giá trị đưa ta vào hay ngăn chặn ta trước cửa Nước Thiên Chúa bị đóng lại. Tránh đừng để “khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” ta mới đến gõ cửa nài van: “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!” thì đã quá muộn. Vì bấy giờ chủ sẽ bảo: “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !” (Lc 13,25).
3)ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯƠC THIÊN CHÚA:
- Phải chiến đấu để vào Nước Trời: Đời sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua “cái tôi” ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta trong giờ phán xét khi nói với chúng ta: “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
- “Ta không biết các ngươi”: Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giê-su, đã nhiều lần nghe Người giảng dạy và đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính !” (Lc 13,27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không muốn mở cửa tâm hồn cho Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.
- Sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay:
Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không ? Lời chữa mình của người Do-thái cũng có thể là của nhiều ngừơi hôm nay. Vì chúng ta cũng đã từng tham dự thánh lễ và nghe rao giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay tham gia vào các hội đoàn công giáo tiến hành… Nhưng điều quan trọng Chúa đòi là chúng ta có sống lời Chúa không ? Mỗi người cần thực hành lời Chúa hôm nay: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.
Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải bỏ lại bên ngoài những đồ đạc cồng kềnh làm nghẽn lối, là thói tham lam tiền bạc của cải, những sự tranh giành địa vị quyền hành, những đam mê lạc thú bất chính, những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm thừa mứa, những cuộc bài bạc cá độ có thể gây tán gia bại sản. Đó cũng còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người bên cạnh… Vất bỏ những thói hư nói trên thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc “chiến đấu” nội tâm trường kỳ và đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng Chúa luôn ban ơn Thánh Thần cho chúng ta và đang chờ để đón chúng ta vào hưởng hạnh phúc đời đời ở phía bên kia cánh cửa cuộc đời là giờ chết của chúng ta.
4. CÂU HỎI:
1) Cửa hẹp đối với các tín hữu hôm nay là gì ? 2) Tôi hiện đang mắc thói hư nào nghiêm trọng nhất ? 3) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư ấy hầu xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cửa hẹp ít người muốn bước vào, nhưng Chúa lại chọn đi qua cửa hẹp và đòi chúng con cũng phải qua cửa ấy để vào Nước Trời. Cửa hẹp chúng con phải qua chính là những đau khổ thập giá, là những hy sinh từ bỏ các đam mê lạc thú bất chính… Xin cho chúng con luôn chọn đi con đường hẹp, dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Ước gì khi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, kèm theo sự hãm mình cùng những đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, chúng con sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa và hy vọng chắc sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời đời sau.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 13:22-30)
Thiên Chúa mở cửa ơn cứu độ cho mọi người, không trừ ai. Kế hoạch cứu độ của Người được khởi: TN 21-C98
Thiên Chúa mở cửa ơn cứu độ cho mọi người, không trừ ai. Kế hoạch cứu độ của Người được khởi sự từ dân Do-thái và mở rộng cho muôn dân. Cho nên đáng lẽ dân Do-thái phải là những người đầu tiên được diễm phúc đi qua cửa ấy mà vào Nước Thiên Chúa. Nhưng thực tế không phải như vậy, như Chúa Giê-su đã ám chỉ dân Do-thái là những người “bị đuổi ra ngoài” trong khi “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Sở dĩ có tình trạng như vậy cũng là vì “cửa hẹp” của Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Chúa Giê-su không ngần ngại cho mình là lý do gây nên chia rẽ, và hôm nay hiểu theo một ý nghĩa nào đó, Người đã mặc nhiên khẳng định mình là “cửa hẹp”. Hay nói đúng hơn, lối sống của Người và các môn đệ được ví như “cửa hẹp” qua đó người ta mới vào được Nước Thiên Chúa.
Trong bài giảng về “Mục tử Nhân lành”, Chúa Giê-su đã chẳng tuyên bố Người là “cửa chuồng chiên” (Gio-an 10:7), để chiên qua đó mà ra vào và được sống hay sao? Đối với Ít-ra-en Mới, tức là toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã đặt Chúa Giê-su làm “cửa chuồng chiên”, đồng thời cũng làm Mục tử Nhân lành để dẫn dắt họ về Nhà Cha. Chúa Giê-su đã được sai đến trần gian và quy tụ người ta làm môn đệ Người, đưa người ta đi theo lối sống của Người. Cũng như đòi họ phải đi qua cửa hẹp, Chúa Giê-su đã công khai thách đố những ai muốn làm môn đệ Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lu-ca 9:23). Như vậy, khi Chúa Giê-su nói “hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” thì cũng giống như “hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày” mà thôi! Chúng ta cứ thử tưởng tượng ra một cánh cửa hẹp duy nhất và một đám đông chen chúc nhau đi qua. Chắc chắn là một cuộc chiến gian nan vất vả. Nào là phải nhanh chân, phải bỏ lại những hành lý không cần thiết, phải tránh khỏi bị đạp giẵm lên nhau mà chết. Phải yêu thương kẻ thù. Phải buông ra nhiều thứ: tiền bạc, danh vọng, hận thù, những thú vui trần gian… và biết bao nhiêu kẻ nội thù trong đời sống thiêng liêng. Đó là chưa kể đến kẻ thù ma quỷ luôn tìm cách gạt gẫm, mời gọi chúng ta theo chúng mà đi trên con đường thênh thang dẫn đến diệt vong (Mát-thêu 7:13).
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có thời hạn. “Khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” cũng là thời điểm phán xét và kết thúc. Lúc ấy, những người đã không chịu làm môn đệ Chúa Giê-su và đã không qua cửa hẹp của Người mà vào Nước Thiên Chúa, lại đứng trước cửa hẹp và khiếu nại rằng mình đã từng “quen biết” Người! Phải, họ đã từng được ăn uống với Người, từng được nghe Người giảng dạy, nhưng họ chẳng khi nào chịu “từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Người”. Không phải cứ mang danh con cháu của các tổ phụ Do-thái, hoặc mang danh “Ki-tô hữu” là đương nhiên được vào Nước Thiên Chúa đâu! Đấy đích thực là một cảnh báo cho tất cả những ai vỗ ngực là Ki-tô hữu mà không hề sống theo đường lối của Chúa Ki-tô vậy.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta hơi nản lòng một chút. Chúng ta phải “chiến đấu” là điều không mấy ai thích. Rồi qua cửa hẹp đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Thêm vào đó là cảnh “khóc lóc nghiến răng” của nhiều con cái các tổ phụ Do-thái, vì họ bị đuổi ra ngoài. Nhưng thực ra Chúa Giê-su đã cho chúng ta một Tin Mừng vĩ đại: Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa! Chúng ta mừng vì ơn cứu độ là phổ quát. Chúa đã ban cho chúng ta một ân huệ lớn lao, là mọi người đều được mời gọi và có khả năng làm môn đệ Chúa Giê-su. Tuy là “cửa hẹp”, nhưng không phải là không thể đi qua. Để qua được cửa hẹp, chúng ta hãy để cho Chúa Giê-su uốn nắn chúng ta. Tác giả thư Do-thái đã khích lệ chúng ta: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách, vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy” (Do-thái 12:5-6). Chắc chắn Chúa sẽ “sửa dạy” chúng ta để làm sao chúng ta trở nên vừa với khuôn “cửa hẹp” mà vào dự tiệc đời đời của Cha trên trời.
Xin cho đoàn con biết vâng theo lời Chúa dạy, noi theo việc Chúa làm để đi theo con đường hẹp mà Chúa mời gọi.
Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát…..”. Thế là, muốn vào Nước Trời, muốn: TN 21-C99
Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không" Chúa Giê-su không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự định đoạt của mỗi người. Và nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su chỉ dạy một lối đi giúp cho con người đạt được ơn cứu độ: Đó là đi vào cửa hẹp. Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”
Thế là, muốn vào Nước Trời, muốn nhận được ơn cứu độ, phải theo cửa hẹp, đường hẹp mà vào.
Nhưng tại sao phải đi vào cửa hẹp?
Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo nhất định và không bao giờ được đi trệch ra ngoài. Thế là trái đất phải quay theo đúng quỹ đạo Chúa vạch ra cho mình không hề sai lệch.
Bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định, hài hoà. Nhưng giả sử trái đất không đi theo quỹ đạo gò bó, chật hẹp nầy, mà đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái, thì đó là ngày tận cùng của thế giới!
Trong lĩnh vực giao thông đường sắt, nhà thiết kế đã tạo ra hai đường ray chật hẹp cho con tàu chạy trên đó. Bao lâu con tàu nương theo hai đường sắt chật hẹp ấy mà tiến tới, thì nó sẽ về ga cuối an toàn. Nhưng nếu đầu tàu muốn thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do trên những con đường thênh thang, để băng mình qua những cánh đồng bát ngát, thì nó sẽ gây ra thảm họa đau thương!
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa cũng vạch ra cho họ một “quỹ đạo”, đó là quy luật yêu thương. Đây cũng là con đường hẹp, vì muốn sống yêu thương thì phải từ bỏ lòng tham lam ích kỷ, phải quên mình để phục vụ tha nhân. Nhưng nếu con người đi trật ra ngoài “quỹ đạo yêu thương”, họ phải nhận lấy hậu quả vô cùng tai hại.
Đường hẹp đưa đến vinh quang
Con đường hẹp của học sinh, sinh viên, của nhà nghiên cứu là gác bỏ những thú vui và nếp sống an nhàn… để miệt mài nghiên cứu học tập, nhờ đó, họ đạt được những thành quả lớn lao.
Nói chung, bất kỳ một thành tích hay một kết quả lớn lao trong bất cứ lĩnh vực nào cũng chỉ được gặt hái bằng những hy sinh phấn đấu, bằng những nỗ lực kiên trì, tức là phải thông qua đường hẹp mới đạt được chúng.
Không theo đường hẹp là tự rước hoạ cho mình
Nếu mỗi người chúng ta không đi theo đường hẹp Chúa Giê-su đề nghị mà cứ sống buông thả theo đam mê dục vọng hư hèn của mình, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường ray; chúng ta sẽ gánh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có nài van với Chúa rằng: “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”, thì Chúa sẽ bảo: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” và “bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng...” (Lc 13, 28)
Lạy Chúa Giê-su,
Mặc dù là Thiên Chúa cao cả và quyền năng, thế mà Chúa cũng đã chọn con đường hẹp, là tự xóa bỏ mình đi, trở thành tôi tớ trung thành của Thiên Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết. (Philip 2: 6-11)
Xin cho đoàn con biết vâng theo lời Chúa dạy, noi theo việc Chúa làm để đi theo con đường hẹp mà Chúa mời gọi, là sống theo luật yêu thương bác ái, nhờ đó, chúng con sẽ được an bình hạnh phúc đến muôn đời.
Có một vài hình ảnh cửa hẹp mà Chúa Giêsu hay nhắc đến, đó là cửa Đền Thờ Giêrusalem, nơi: TN 21-C100
Có một vài hình ảnh cửa hẹp mà Chúa Giêsu hay nhắc đến, đó là cửa Đền Thờ Giêrusalem, nơi Ngài thường đi vào để tham dự các nghi thức thánh và giảng dạy. Cửa vào có một lối từ cuối dành cho mọi người mà thôi; hoặc cửa khác Chúa Giêsu nhắc nhiều hơn, đó là cửa chuồng chiên. Cửa này hẹp và chỉ có một lối cho cả đàn chiên vào; người chăn chiên thì gác tại cửa; hay một loại cửa khác nữa rất hạn chế và đòi hỏi người vào đúng giờ, đó là cửa phòng cưới. Mấy cô thiếu nữ khờ ngủ quên đã không được vào tiệc cưới với chàng rể ban đêm hơi giống với hình ảnh cửa hẹp của bài Phúc âm hôm nay.
Trong thực tế của Nước Trời, cửa không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh, đúng hơn là các phương tiện dẫn vào Nước Trời. Nước Trời đây phải hiểu theo nghĩa trong Phúc Âm mà Chúa Giêsu nói qua các dụ ngôn; do đó, Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa tồn tại vĩnh cửu, và do đó, nó vẫn tiếp tục cho đến ngày tận thế trong ý nghĩa loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Người ta sẽ nhận ra ngay tính cách hẹp và rộng của Nước Trời nếu hiểu rõ ràng và chính xác ý nghĩa các Lề Luật, các phương tiện nên thánh và các giáo huấn của Chúa Giêsu.
Điều quan trọng khác mà Chúa Giêsu nhắc trong Phúc âm hôm nay, đó là câu nói hơi có tính thất vọng: Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được! Nếu đọc kỹ Phúc âm trước đó về hình ảnh những người đam mê của cải vật chất, sẽ hiểu tại sao các môn đệ lại hỏi Chúa: Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ? Và câu trả lời mang tính thất vọng kia sẽ trở thành thực tế, bởi vì tính cách hẹp của cửa không hệ tại cửa hẹp, mà hệ tại tấm lòng hay ý muốn của con người. Họ muốn vào mà không vào được, vì lòng họ còn đầy đam mê và những ý muốn bất chính, hoặc tâm hồn họ không hướng về Nước Trời, mà chỉ hướng về trần thế với đủ thứ cám dỗ đưa đến sa đọa và diệt vong. Họ tự đóng cửa Nước Trời chứ không phải Chúa, bởi họ khinh thường Lề Luật và các phương tiện nên thánh cũng như các giáo huấn mà Chúa đã truyền dạy!
Có thể nói cuộc đời người Kitô hữu theo Chúa luôn là hành trình đi vào cửa hẹp của Nước Trời. Bước đến Nhà Thờ các ngày Chúa Nhật hay tham dự các Bí Tích... gợi họ những quyết tâm không ngừng trong việc chọn Chúa và Nước Trời. Khi chọn Chúa thì cửa Nước Trời sẽ mở; nhưng khi xa Chúa thì họ sẽ tự động đóng cửa ấy lại! Quả thực Chúa cần ta để Ngài ban ơn cứu độ; ngược lại ta rất cần Ngài để lãnh ơn cứu độ đó.