Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-C Bài 101-150 Hãy đi vào cửa hẹp:
--------------------------------- Phúc Âm: Lc 13, 22-30: "Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Thỉnh thoảng tôi nghe vài ba người giáo dân nói (có thể thật, và có thể nói chơi) với một linh mục: Khi nào lên thiên đàng, cha nhớ kéo con lên với! Dĩ nhiên vị linh mục ấy cũng trả lời cho qua lần: Một người lên cũng chưa chắc, phương chi hai người, nặng qúa rớt xuống chắc!
Qủa thật vào Thiên Đàng là kết qủa của cả cuộc sống được dệt bằng các việc lành và các nhân đức, nhất là phải được Chúa nhận ra dấu chỉ thuộc về Người khi còn sống. Đó là những điều kiện của Bài Tin Mừng hôm nay.
Tôi cũng như các bạn sẽ giống như những người muốn cùng Chủ Nhà ăn Tiệc đến gõ xin Chủ mở cửa. Nếu được Chủ mở cửa, sẽ thuộc về số phận hạnh phúc thiên thu. Nhưng nếu bị từ chối, sẽ mãi mãi mất hạnh phúc Nước Trời bên Chúa.
Điều kiện mở cửa của Chúa cho chúng ta là bước qua cửa hẹp vào Nước Trời khi còn tại thế. Cửa hẹp xem ra đơn giản với vài ba mệnh lệnh: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta... Cửa hẹp là sống theo ý Chúa khi chu toàn các giới răn, các lời khuyên Phúc âm và các bổn phận Kitô hữu như các thánh đã thực hiện, để có thể thuộc về và mang những dấu chỉ con cái Chúa.
Trong thực tế cuộc sống Kitô hữu, xem ra bề ngoài ai cũng đang bước qua cửa hẹp Nước Trời, nhưng rất có thể sẽ bị Chúa từ chối với những lời lạnh lùng khi đến gõ cửa:'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Và cuộc đối thoại sẽ tiếp tục: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Tại sao vậy?
Vì bề ngoài sẽ không đáng kể để trở thành một Kitô hữu đích thực! Có thể trước mắt người đời, họ xem ra rất đạo đức khi tham dự lễ hàng ngày, nhất là các lễ Chúa nhật. Rất có thể họ có mặt ở nhiều hội đoàn và tặng nhà thờ tiền bạc. Rất có thể họ thường thăm viếng bệnh nhân tại các bệnh viện hay nhà hưu dưỡng. Rất có thể, theo lời họ nói, họ đã từng ăn uống với Chúa khi rước lễ hoặc tham dự tiệc tùng gây quỹ bác ái. Rất có thể họ đã nghe Chúa giảng dạy khi tham dự không biết bao nhiêu lần các phần phụng vụ Lời Chúa. Điều bất công cho họ, dù đã làm tất cả những việc ấy, vẫn bị Chúa từ chối mở cửa vì coi họ là những kẻ gian ác!
Những kẻ gian ác là ai vậy? Dựa theo cuộc đối thoại của Tin Mừng hôm nay, chắc chắn họ là những kẻ giả hình, chỉ thi hành nghi thức, mà không đem ra thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống. Có thể chính họ đã gây ra biết bao chia rẽ và hận thù trong gia đình, trong cộng đoàn và ngoài xã hội khi không tiếc lời kết án, dèm pha, vu khống, bỏ vạ cáo gian, nói hành nói xấu đủ mọi hạng người, và hầu như không muốn hoặc rất khó tha thứ cho tha nhân. Họ không ngại ngùng vì lợi lộc riêng tư bày mưu làm hại và cướp cả gia tài, danh dự và cuộc sống kẻ khác. Họ luôn lén lút ngoại tình che dấu vợ hay chồng mình,vv... Nói chung không còn giới răn nào nguyên vẹn tinh tuyền trong cuộc sống nội tâm của họ. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi và tình yêu Chúa từ lâu lắm rồi! Điều thảm hại là chính họ không biết mình là những kẻ gian ác! Vì thế họ cứ tự nhiên gõ cửa Nước Trời để xin Chúa mờ cho, nhưng đã qúa muộn, vì cánh cửa sự sống đã khép lại, và đời sau làm gì còn giờ để ăn năn hối cải!
Những câu kết của Phúc âm hôm nay có vẻ lạ lùng, vì những kẻ "từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa." Chính kết luận của Chúa là những lời cảnh cáo gay gắt buộc chúng ta hãy bước vào đường lối từ bỏ mà Người gọi là hẹp; nhưng cũng là những lời khích lệ khi chúng ta vì cuộc sống vất vả lam lũ, vẫn sẵn sàng lắng nghe và thực hành Lời của Người một cách chân thành, vẫn kiên tâm chịu đựng những khổ nhục người đời lăng mạ, để yêu mến Chúa và anh chị em đồng loại, vẫn trung thành chu toàn bổn phận người Kitô hữu cộng tác với Giáo Hội xây dựng Nước Trời, vv... Và đấy là dấu chỉ thuộc về Chúa để hy vọng Người sẽ mở cửa Nước Trời cho chúng ta vào giờ sau hết.
Phải chăng chỉ có một ít người được cứu thoát? Thắc mắc này hẳn đã xuất phát từ lời giảng dạy: TN 21-C102
Phải chăng chỉ có một ít người được cứu thoát? Thắc mắc này hẳn đã xuất phát từ lời giảng dạy của Chúa Giêsu về những điều kiện và những thái độ phải có để được vào Nước Trời. Thế nhưng qua câu trả lời, chúng ta nhận thấy điều quan trọng đối với Chúa Giêsu và cũng là điều Ngài muốn nói với những kẻ đã nêu lên câu hỏi, đó là người ta phải cố gắng, phải chiến đấu mới mong được vào Nước Trời, bởi vì một mặt cửa vào Nước Trời thì nhỏ hẹp, mặt khác, thời gian dành để cho người ta vào Nước Trời thì vắn vỏi.
Trong cuộc chiến đấu để được vào Nước Trời sẽ không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay đúng hơn, có gốc gác tốt. Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắm đến những người Do Thái cứng lòng tin. Họ suy luận rằng: Tước hiệu dân riêng của Chúa, tước hiệu con cháu của Abraham, là một bảo đảm chắc chắn, là một tấm giấy ưu tiên để được vào Nước Trời. Thế nhưng tiên tri Isaia đã từng loan báo về cách xử sự của Thiên Chúa trong thời cứu chuộc, trong ngày phán xét: Ngài sẽ quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, Ngài sẽ dẫn đưa mọi người từ các dân nước mà đến. Sự phân biệt giữa người được vào bàn tiệc và kẻ ở ngoài, giữa người được ở trong bàn tiệc với Abraham, Isaac và Giacob, với kẻ bị đuổi ra chốn tối tăm, ở đó chỉ có khóc lóc và nghiến răng, giữa người được cứu chuộc và kẻ bị hư đi, lý do là ở chỗ họ có chiến đấu đủ và đúng thời đúng buổi để đi ngang qua khung cửa hẹp hay không?
Tất cả mọi người từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam đều được đặt trong một điều kiện bình đẳng để được vào Nước Trời. Chính trong điều kiện này mà người sau hết có thể trở nên trước hết và những kẻ trước hết có thể tụt xuống sau hết. Nhu chúng ta đã thấy, điều quan trọng Chúa muốn nói đến đó là phải qua cửa hẹp, thế nhưng qua cửa hẹp là gì?
Tôi xin thưa qua cử hẹp là thi hành ý Chúa, là từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa, là dám bán tất cả những gì mình có để làm phúc bố thí cho những kẻ nghèo túng, là liều mất mạng sống mình vì người khác. Nói tóm lại là đi con đường Chúa Giêsu đã đi.
Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước toà phán xét Ngài không hỏi chúng ta: Đã chịu phép Rửa tội chưa? Có phải là người công giáo hay không? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi đó là chúng ta có làm và sống như Chúa đã dạy hay chưa.
Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy một tình trạng đáng lo ngại cho: TN 21-C103
Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy một tình trạng đáng lo ngại cho nền đạo đức Việt Nam. Nền đạo đức bốn ngàn năm văn hiến đang trong tình trạng suy đồi, băng hoại thật trầm trọng. Điển hình như các vụ việc gần đây nhất như sau:
"Hiệu trưởng mua dâm học sinh và Chủ tịch tỉnh bị cáo buộc mua dâm ở Hà Giang. Hai vợ chồng bị kết án 20 năm tù mỗi người vì hành hạ một bé trai tại Cà Mau. Một nữ sinh cứa cổ người tình. Một thanh niên chặt đầu người yêu cũ. Bên cạnh đó là tệ trạng hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị buôn lậu với giá nhiều khi chỉ một triệu đồng Việt Nam (tương đương khoảng 50 MK) một người..."
Đó là hậu quả của một lối sống dễ dãi, ẩu thả của xã hội Việt Nam hôm nay. Họ thích tìm sự dễ dãi cho mình đến mức độ bất tuân luật pháp. Họ đề cao tự do, tự lập đến nỗi không cần tôn giáo, và tệ hơn nữa là loại trừ tôn giáo. Họ hành xử theo cách nghĩ của mình, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý truyền thống của cha ông. Chúng ta biết rằng không có tôn giáo thì con người sẽ tự do hành động theo ý mình nên chẳng sợ "trời có mắt" để mà "làm điều lành tránh điều dữ" hay lời khuyên của tiền nhân "ở hiền gặp lành". Không có tôn giáo con người không có sự sống thần linh hướng dẫn dễ lầm đường lạc lối và điều chắc chắn là chẳng ai nghe ai. Nhìn chung, ai cũng biết rằng cuộc sống dễ dãi sẽ đi tới chỗ diệt vong. Ai cũng biết rằng sự suy đồi của họ sẽ làm nghèo đất nước, làm khổ gia đình, và giết chết bản thân. Nhưng tính hưởng thụ đã đẩy họ vào con đường truỵ lạc để tranh thủ hưởng thụ theo kiểu mà Nguyễn Công Trứ bảo rằng:
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Con đường với lối đi thanh thoát, nhẹ nhàng khỏi những tham lam bất chính, những quyến luyến phù phiếm mau qua. Chúa mời gọi chúng ta cần phải sống tỉnh thức kẻo sẽ ân hận ngày mai, khi mà mọi người từ đông sang tây đều đến dự tiệc cưới còn mình bị tống ra ngoài. Chúa nhắc nhở chúng ta còn có một sự sống hạnh phúc viên mãn là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn bên Chúa. Đó chính là mùa xuân vĩnh viễn, là hạnh phúc ngàn đời. Đó chính là hạnh phúc mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm và chiếm hữu cho dù phải hy sinh những danh lợi thú trần gian, có khi bằng cả mạng sống ở đời này. Sự sống và hạnh phúc vĩnh viễn đó chỉ đạt được khi chúng ta biết sống hy sinh, biết tự chủ bản thân theo đường lối Chúa, biết sống cao thượng, biết tránh xa những thói đời xấu xa.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay luôn ham sướng sợ khổ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp...; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.
Người ta vẫn nói: "Hãy dừng lại trước khi qua muộn". Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay. Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen.
Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời TN 21-C104
Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ khi ý thức và mỗi ngày, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
- cửa hẹp (c. 24), - cửa khóa (cc. 25-27), - số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29), - câu tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.
- Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
- Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.
- Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài.
- đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)
Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.
Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp. + Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” ( Lc 13, 24 )
Lo ngại tình trạng béo phì ngày càng gia tăng tại Dubai, chính quyền thành phố vùng Vịnh giàu có: TN 21-C105
Lo ngại tình trạng béo phì ngày càng gia tăng tại Dubai, chính quyền thành phố vùng Vịnh giàu có này, quyết định thực hiện sáng kiến đặc biệt, là “đổi trọng lượng lấy vàng”. Theo đó, mỗi kg mà một người dân “quá khổ” giảm được sẽ tương ứng với giải thưởng 1 gram vàng, theo mức giá ở Dubai là 30 bảng ( tương đương 963.000 VND ). Tuy nhiên để được nhận giải thưởng, trong vòng 30 ngày, mỗi người đó phải giảm được ít nhất 2 kg.
Chương trình sẽ bắt đầu vào ngày 19.7.2013. Đây là kế hoạch mới nhất để khuyến khích lối sống lành mạnh tại UAE. Gần đây, chính quyền các địa phương tại UAE liên tục cảnh báo người dân về chứng béo phì gia tăng, do chế độ ăn thức ăn nhanh và ít tập thể dục của người dân nước này. Chương trình còn có 3 giải thưởng thông qua rút thăm may mắn, dành cho những người giảm cân hiệu quả nhất, với mỗi giải thưởng là 1 đồng xu vàng trị giá 3.600 bảng ( 116 triệu VND ) ( Linh San, Người Lao Động, theo Guardian ).
Trong khi chính quyền thành phố Dubai đang tích cực kêu gọi tiết giảm ăn uống, giảm cân, tránh béo phì, được thưởng vàng, thì Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu khẩn thiết kêu gọi mọi người chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào tham dự bàn Tiệc Thiên Quốc.
Chiến đấu với xác thịt
Cuộc chiến vô hình này vô cùng dai dẳng trường kỳ và khốc liệt, từ khi có trí khôn đến khi xuôi tay nhắm mắt. Từ nhu cầu bản năng sinh tồn, ăn uống, ngủ, nghỉ, tiệm tiến trở nên những nhu cầu giả tạo, hay sa hoa, phù phiếm, ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi. Từ nhu cầu sinh sống biến hóa thành nhu cầu hưởng lạc.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 )
Biết từ bỏ đi tất cả những gì ưu ái dành cho bản thân. Tiết chế, thanh đạm, đơn sơ, tri túc, tiện túc, hà thời túc, bỏ đi những nhu cầu hưởng thụ, chính là chiến đấu với chính bản thân. Để qua được cửa hẹp, thân xác phải tránh béo phì, gọt bỏ hết tham sân si, trở nên nhỏ nhắn, gọn ghẽ, mảnh mai. Muốn vậy, luôn khiêm tốn, cúi đầu xuống, thành tâm đấm ngực ăn năn, sám hối, bỏ đi tính mê nết xấu, tội lỗi nặng nề, mới có thể thanh thoát nhẹ nhàng bước qua cửa hẹp.
Chiến đấu với đam mê
Ngày hôm nay, ma quỷ không còn dáng dấp dễ sợ như xưa. Chúng đội lốt những hình dáng mỹ miều đáng yêu. Những cám dỗ tà dâm, xác thịt hiện diện thường trực và gần gũi suốt ngày qua net, báo chí, TV. Những cám dỗ tham lam của cải, chức tước, danh vọng còn được khích lệ tăng trưởng không ngơi qua media, truyền thông, truyền hình.
“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con ngưởi được bào đảm nhờ của cải đâu” ( Lc 12, 15 ).
Những đam mê cao quý như văn chương, nghệ thuật, thể thao, đang bị lạm dụng, biến dạng thành những thú vui bịnh hoạn, phục vụ cho những kè tà tâm, tà ý. Vậy Kitô hữu chúng ta cần cảnh giác tinh tế nhận ra, khước từ và tẩy chay. Cuộc chiến đam mê thầm lặng không kém khốc liệt.
Chiến đấu với thế gian
Cờ bạc, rượu chè, trai gái, ma túy đang là hiểm họa của mọi người, mọi nơi. Chúng là hệ quả tất yếu của nền văn hóa hưởng thụ, nền văn minh sự chết. Tuy nhiên chúng quá lộ liễu, khiến dễ tránh xa.
Nhưng chiến đấu chống lại xu thế xã hội mới lắm gian nan thách thức. Một xã hội chạy theo những giá trị phù hoa, hào nhoáng, những thần tượng sớm nở tối tàn, những luân lý phản tự nhiên, những lý thuyết vô thần, vô đạo, vô nhân, phi luân, phi nghĩa. Một xã hội vô cảm, kiêu ngạo và vị kỷ. Dám chống lại, lội ngược dòng đời, mặc lời chê bai, miệt thị là dám chiến đấu chống lại cái ác, sự dữ, thế gian và những của phù vân.
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13 ).
Thánh Phanxicô Assisi như điên cuồng theo Chúa, dám từ bỏ cuộc sống nhung lụa, tương lai sáng lạn vinh hoa phú quý, để khoác tấm áo thô rách rưới, cũ rich, dám ôm hôn người phung hôi hám, bần thỉu, vì cảm nghiệm Chúa đang hiện hữu nơi người bệnh hoạn ấy.
Thánh Phaolô đã minh định trải qua cuộc chiến đấu dũng cảm can trường: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện” ( 2Tm 4, 6 – 8 ).
Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Chúa ( Đường Hy Vọng, số 106 ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cúi đầu, khiêm nhường và từ bỏ bản thân, sám hối ăn năn tội lỗi, cùng biết quan tâm, yêu thương tha nhân, trở nên bé nhỏ, để vào được cửa hẹp.
Lạy Mẹ, vốn khiêm nhu, vững tin và vâng phục, xin dạy chúng con luôn biết chiến đấu kiên cường với chính bản thân, ma quỷ và thế gian, để chúng con được ơn cứu rổi. Amen.
Có nhiều dụ ngôn nói về vận mệnh con người trong ngày Cánh Chung, nhưng có lẽ dụ ngôn trong: TN 21-C106
Có nhiều dụ ngôn nói về vận mệnh con người trong ngày Cánh Chung, nhưng có lẽ dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Luca 13, 22 – 30 là một trong những dụ ngôn “đáng sợ” nhất. Dụ ngôn kể lại việc chủ nhà khép cửa từ chối tiếp đón thực khách.
Thật vậy, không gì kinh khiếp hơn việc cánh cửa bị khép lại, vì nó đồng nghĩa với việc mọi niềm hy vọng đều tắt ngúm. Chủ nhà ở đây được hiểu là Thiên Chúa. Cánh cửa bị khép lại cũng chính là thời gian đã kết thúc. Khi thời giờ được ấn định cho mỗi người đã hết, cũng chính là lúc Thiên Chúa xét xử địa cầu. Nhưng nhân loại vô tâm không lắng nghe, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, sống buông thả, mặc sức phóng túng theo những dục vọng cá nhân. Để rồi thời gian dừng lại, con người mới hối hả níu kéo những gì đã mất thì đã muộn: “Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi vào” ( Lc 13, 25 ). Lúc này, mọi lời cầu xin dường như vô hiệu, vì đã quá muộn: “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến” ( Lc 13, 25 ).
Một khi đã bị Thiên Chúa từ khước, cũng chính là lúc vận mệnh cuộc đời đã kết, không còn cơ hội được cứu vãn. Tật nguyền của nhân loại chính là đây. Khi con người ta đủ ăn đủ mặc, sung sướng giàu sang… mấy ai biết nghĩ đến Thiên Chúa, biết cảm tạ Đấng tạo dựng nên mình, chỉ những khi nào gặp gian nan khốn khó, bệnh tật, nghèo đói, sa cơ thất thế… người ta mới biết nghĩ đến Ngài để mà chạy vạy, cầu xin, khấn bái… Dường như nhân loại chỉ biết đến cái lợi của mình mà thôi.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, rất kiên nhẫn và hết mực bao dung. Ngài không khắt khe với bất kỳ ai, Ngài không thiên tư tây vị riêng một người nào. Ở nơi mỗi con người, mỗi số phận Ngài đều đã an bài một con đường, một kiếp sống khác biệt. Quan trọng không phải kẻ giàu người có, nhưng trên hết vẫn là sự nhận biết, kính sợ Thiên Chúa và thương yêu anh em. Nhân loại thường tìm cho mình con đường ngược lại, chống đối Thiên Chúa và cung phụng bản thân. Không ai muốn bỏ mình, muốn hy sinh, ai cũng ngại đau khổ, ngại thập giá, ngại thiệt thòi, mất mát. Bởi vậy, đường càng thênh thang thì càng chật, nhưng đường hẹp ngày càng lại thênh thang!
Đức Giêsu đã dạy nhân loại: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” ( Lc 13, 24 ). Đường đã hẹp đã khó đi, lại càng phải chiến đấu mới có thể thủ đắc được, đó cũng chính là cái khó mà mọi người từ khước. Nhất là trong thời đại hiện nay, có thể nói một thời đại con người đặt nhu cầu cá nhân lên vị trí ưu việt. Người ta có thể làm bất cứ gì để có thể thỏa mãn dục vọng cá nhân bất chấp đạo lý, bất chấp thủ đoạn, chỉ cần bản thân cảm thấy thỏa mãn, sung sướng, hạnh phúc là đủ.
Cứ vậy, cứ vậy, con người ngày càng lầm lũi đi vào cõi tiêu diệt. Vòng xoáy của đam mê tham vọng cuốn lấy họ, xoay tròn trong trụy lạc. Bóng tối sự dữ và hưởng thụ che mờ lương tâm và lý trí họ, cuối cùng… ngày của Thiên Chúa đến, ngày chủ nhà đóng cửa cài then, khép lại mọi cơ hội, con người mới bắt đầu hốt hoảng cầu cứu, van nài lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhưng đã muộn mất rồi! Bản án đã được đóng dấu, không còn cơ hội để cứu vãn: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính” ( Lc 13, 27 ).
Còn lời nguyền nào đáng sợ hơn thế nữa. Không phải Thiên Chúa khắt khe với nhân loại, nhưng chính là vì lòng con người đã ra mê muội, chai cứng không đón nhận Ngài. Thời gian Thiên Chúa cho con người tồn tại giữa thế gian cũng chính là thời gian để họ lập công đức cùng nhìn lại lối sống mình, thời gian ấy là thời gian hồng phúc, là cơ hội cho tất cả những ai muốn làm lại cuộc đời. Trớ trêu thay, có mấy ai trong lúc tham vọng điên cuồng, ngụp lặn trong bể tham vọng của lòng đam mê sắc dục, tiền tài, chức vị… còn biết nghĩ đến ngày cánh cửa công chính khép lại.
Tiền bạc, của cải vật chất có thể giúp con người mở toang mọi cánh cửa thành công trong cuộc sống. Nhưng không thể nào mở được cánh cửa thiên đàng, chỉ có tình yêu và lòng mến, chỉ có sự kính yêu Thiên Chúa và thương yêu tha nhân mới giúp họ đạt được hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, đối với con, không gì hãi hùng hơn giây phút một mình chống chọi với nỗi cô đơn, sợ hãi trước những cánh cửa khép kín. Không chỉ cửa danh vọng, sự nghiệp, tiền tài, tình yêu, sức khỏe… nhưng còn là cánh cửa của niềm tin và lòng mến. Nhất là cánh cửa của lòng thương xót Chúa khép chặt, thì không còn gì bất hạnh hơn.
Xin giúp con, luôn biết sống trung thành với Thiên Chúa và chan hòa với tha nhân. Cho dù ngày ấy là ngày nào con cũng không phải khiếp đảm lo sợ, vì đã tình thương Thiên Chúa cứu độ. Để rồi con biết can đảm chiến đấu bước đi trên con đường hẹp của Chúa, dẫu có khiến con đổ máu vì hy sinh, mất mát cũng không hề hấn gì.
Xin giúp con hiểu rằng, cho dù cánh cửa cuộc sống có bị khép chặt cũng không quan trọng bằng cánh cửa của lòng thương xót Chúa.
Xin giúp con, đang khi lao động mệt mài kiếp sống, không phải vì cửa của tham vọng bạc tiền do con người xây dựng, mà hãy sống cho những cánh cửa thần linh Thiên Chúa đang mở sẵn chờ con.
Năm 1980, anh em tôi gặp lại cha Phaolô Huỳnh Ngọc Cảnh ( Chánh xứ Trung Tín, Quảng : TN 21-C107
Năm 1980, anh em tôi gặp lại cha Phaolô Huỳnh Ngọc Cảnh ( Chánh xứ Trung Tín, Quảng Ngãi, Giáo Phận Quy Nhơn ), tại Căn Cứ 2, ngài đang làm chánh xứ Trung Ngãi, Giáo Phận Xuân Lộc.
“Chúng con chào cha”. Mừng quá, ngài nói: “Hoàng, Viện đó hả ! đang ở đâu ?” – “Thưa cha, tụi con ở Bình Tuy” – “Ông bà già thế nào ?” – “Dạ, cũng đang ở Bình Tuy, làm rẫy” – “Vậy mà cha tưởng các con đi vượt biên cả rồi” – “Làm sao mà đi được cha. Cũng phải có ơn gọi xuất ngoại mới được đó !” – “Ồ, thế thì ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !”
Cha bảo hai anh em ở lại ăn trưa với cha. Bữa cơm đẫm lệ: một chén cơm trắng, bốn cái củ khoai, hai con cá trích mặn, ba cha con chia nhau. “Có người chỉ ăn toàn củ nần thôi đó con. Mùa năm rồi mất trắng”.
“Ồ ! Thế thì ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !” Tôi nghĩ câu nói của cha vừa là lời cảm thông, an ủi, vừa là khuyến khích chúng tôi chấp nhận và tận dụng cơ hội Chúa ban để sống và giữ vững Đức Tin trong tình thế thực khó khăn, trong hoàn cảnh thật bi đát. Bữa ăn của cha nói quá nhiều điều. Câu nói và cuộc sống ấy hẳn đã thực hiện đúng Lời Chúa hôm nay: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”.
Trở về, chúng tôi chia sẻ câu nói của cha cho mọi người trong nhà, trong xóm và Giáo Xứ. Mọi người thấy ấm lên một niềm vui sống vì lý tưởng công chính, lý tưởng nên thánh hơn là buồn phiền chán nản trước cái đói, cái khổ, cái cùng cực chưa từng có. Người người sốt sắng kinh nguyện ngay trên rẫy trên nương. Nhà nhà đọc kinh chung tối sáng. Nhà Thờ xa, không có Linh Mục, lại không có phương tiện nào khác hơn đi bộ và xe đạp, mà Chúa Nhật nào cũng đông tràn ra ngoài. Mọi người chia sẻ cho nhau từng chút mắm muối, cái củ nần, củ khoai, nửa con cá khô, hạt gạo cỏ le qua bữa…
Ủy Ban Nhân Dân xã nằm cạnh Nhà Thờ, vì xây dựng trên đất của Nhà Thờ, nên mọi sinh hoạt ở Nhà Thờ trước mắt họ. Tội nghiệp, chú em tôi tập hát cho ca đoàn tại Nhà Thờ, rồi tại nhà, không xong, anh em ca đoàn hẹn nhau làm vần công tập hát ngay trên ruộng, đông, đủ. Thế mà chú và vài người vẫn bị mời lên mời xuống vì tội hội họp không có phép.
Hoàn cảnh có làm cho con người ta nên thánh không ? Tôi cảm ơn Cha đã nhắc nhở để cách nào đó chúng tôi biết Chúa không nói gì, nhưng ngài biết cả. Ngài đang dùng những biến cố, những hoàn cảnh mà thanh luyện Đức Tin của con cái người. Chúa luôn ban cho con cái mình điều tốt nhất. Đừng lầm tưởng hoàn cảnh xấu ấy là một tai họa.
Thiết tưởng hoàn cảnh không thuận tiện, cách nào đó, cũng là “lối hẹp” mà Chúa ban cho để con cái Ngài tiến vào Nước của Người. Gọi là “cách nào đó” vì thực ra, tự nó, hoàn cảnh, biến cố không giúp gì, nếu chúng ta không trân quý nó như ân lộc Chúa ban, không lắng nghe suy gẫm điều Chúa muốn nói qua đó, không tận dụng tối đa để thực thi Lời Chúa dạy.
Tìm đến Chúa trong hoàn cảnh bi đát ấy có phải đã là công chính không ? Hay đó là loại đạo đức cảm tính, loại đạo đức cầu lợi, cầu an ? Con người ta chỉ nhớ đến Chúa, kêu cầu Chúa lúc lâm cảnh khốn cùng, lúc bế tắc, lúc bí lối trong cái túi của số phận nghiệt ngã ? Con người ta chỉ tìm đến Chúa lúc sa cơ tàn mạt, thất bại trăm bề, lúc cùng cực bi đát, nợ nần chồng chất, sỉ nhục tràn trề ? Như thế là giữ đạo cho mình hay giữ đạo cho vinh danh Chúa ? Thiết tưởng, cách sống đạo đức ấy vẫn chưa hẳn là công chính theo ý Chúa muốn. Câu trả lời rất cụ thể khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Năm 2000, Cha Gioan NVH. cho biết Giáo Dân Việt Nam mà cụ thể là Giáo Xứ cha ít đi Lễ hơn rồi, từ khi có cơm trắng cá tươi, và nhất là khi có điện, có tivi, có xe máy… Ấy là năm 2000, kinh tế có phần khá khá hơn tí, mà đã quên Chúa rồi, huống là năm 2013 thì sao ? Tôi bỗng nhớ lại cha Phaolô và câu nói của ngài: “Ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !”
Hóa ra chúng tôi đã hiểu lầm ý cha chăng ? Ý cha bảo là chấp nhận hoàn cảnh để “nên thánh” kia mà ! Nên thánh đâu chỉ là chấp nhận hoàn cảnh ấy để chỉ nhớ tới Chúa mà kêu cầu ngài ban ơn này, ơn nọ, rồi hết cái hoàn cảnh bi đát đó, lại quên !
Như vậy, con đường hẹp mà Chúa muốn chúng ta đi, không phải là con đường hẹp do hoàn cảnh xã hội tạo nên, mà là con đường hẹp Chúa Giêsu đã đi và chính mình chọn lựa để bước theo.
Chiến đấu để đi con đường hẹp phải là tự mình buông khỏi những lệ thuộc quá đáng vào những thực tại trần gian hấp dẫn, để hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu.
Chiến đấu để đi con đường hẹp là xóa khỏi lòng trí những vấn vương mùi đời, xóa khỏi tâm hồn những đam mê bất chính, xóa cho trắng tay những nắm níu phù du mà tưởng là vĩnh cửu.
Chiến đấu để đi còn đường hẹp còn là gọt bỏ cái tôi, cái tài, bỏ bớt hành lý phù vân cồng kềnh, bỏ bớt lòng tham bận bịu, bỏ đi những khao khát bất chính, bỏ cả trí hiểu tưởng siêu phàm để chỉ còn là một lòng tín thác vào Chúa Giêsu.
Trong bài thơ “Buông 2” ( Thi Ca Cầu Nguyện số 129 ), tác giả Ả Giang Hồ viết:
“Em gọt cái tôi nên nhỏ lại.
Cho vừa lối hẹp đến trời cao.
Em dũa cái tài thành bé tí.
May ra mới lọt cửa mà vào.
Em bớt hành trang ngày một xíu.
Cho đỡ cồng kềnh bước thấp cao.
Em bỏ phù vân luôn bận bịu.
Mới hay nhẹ bước đến chừng nào.
Em bại cánh tay thèm nắm níu.
Ngộ mình dại dột khát hư không.
Em đốt tiêu tan muôn trí hiểu.
Chỉ còn một phó thác trinh trong…”
Vâng, đường hẹp là con đường của Chúa Giêsu, là con đường nên thánh. Chính Chúa Giêsu đã mở ra cho chúng ta con đường khiêm cung tự hạ, con đường phục vụ hy sinh, con đường Thánh Giá để làm cho chúng ta nên công chính, nên thánh.
Nhưng, xin đừng lầm tưởng những người làm các việc đạo đức như dâng lễ, rước lễ, đọc kinh, từ thiện, giảng dạy… là các thánh nhân, là những người vào trước trong Nước Thiên Chúa, như bao người lầm tưởng: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Bởi vì, không phải các việc đạo đức ấy làm cho ta nên thánh, nhưng chỉ có lòng yêu mến Chúa Giêsu và khát khao nên một với Ngài mới làm cho chúng ta nên thánh, nên công chính. Ý hướng ấy, sách tu đức gọi là “ý ngay lành”.
Hèn chi, Chúa Giêsu đã cảnh cáo những người đồng bàn với Chúa, đã nghe Lời Chúa giảng dạy rằng: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !”
Bạn và tôi, những người sớm được Chúa kêu gọi vào Hội Thánh Chúa, chúng ta cần xem xét lại các việc đạo đức của mình có ý ngay lành là “yêu mến Chúa và khát khao nên một với Người không” mới hy vọng vào được Nước Người.
Lạy Chúa Giêsu, cả cuộc đời chúng con, nếu không nên thánh thì uổng lắm. Nếu không được vào Nước Chúa thì uổng lắm. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, yêu mến con đường thập giá Chúa đã đi, con đường hẹp dẫn chúng con vào Nước Thiên Chúa. Amen.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Thật khó! Vì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, chẳng ai có thể: TN 21-C108
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Thật khó! Vì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, chẳng ai có thể sống vừa lòng hết mọi người. Bổn phận của chúng ta là phải sống tốt lành theo lương-tâm-chính-đáng, theo công lý của Chúa, chúng ta không thể ngăn cản chuyện thế gian: “Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bụm miệng người thế gian”. Như văn hào Victor Hugo ( Pháp ) xác định: “Lương tâm là Thiên Chúa trong mỗi con người”.
Bản tính con người ai cũng thích khoảng rộng cho thoải mái: Nhà to, cổng lớn, lối rộng, chứ không ai muốn chịu tù túng trong khoảng chật hẹp. Tinh thần cũng vậy. Thế nhưng sự dễ dàng dẫn tới dễ dãi, rồi hóa hư thân, mất nết. Sự thiếu thốn có thể khiến người ta phải hy sinh và chịu đựng nhiều thứ, nhưng chính sự khó nghèo mới khiến người ta thành nhân thực sự. Chúa Giêsu giải thích rạch ròi: “Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13 – 14 ). Phàm cái gì nhiều thì thường, còn cái gì hiếm thì quý. Bình thường mà vô thường biết bao ! Là người Công Giáo, đại văn hào Victor Hugo cũng đã cảm nhận: “Đau khổ là hoa quả, Chúa không khiến nó sinh ra trên những cành quá yếu ớt mà không chịu nổi”.
Thiên Chúa tuyên phán qua ngôn sứ Isaia: “Còn Ta, Ta biết rõ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tácsít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tuvan, Giavan, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc” ( Is 66, 18 – 19 ). Cách nói của Cựu Ước có vẻ “xa lạ’ với chúng ta ngày nay, nhưng không phải vậy, có lẽ vì cách nói xưa đơn giản và bình dị, còn chúng ta ngày nay phức tạp quá nên hóa “xa lạ” mà thôi.
Rồi Đức Chúa phán tiếp: “Giống như con cái Ítraen mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên Núi Thánh của Ta là Giêrusalem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lêvi” ( Is 66, 20 – 21 ).
Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh và chí thiện, trí óc phàm nhân không thể suy thấu. Cảm tạ và chúc tụng là bổn phận tuyệt đối của chúng ta. Nhận biết được điều tối quan trọng như vậy, tác giả Thánh vịnh mời gọi: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người !” ( Tv 117, 1 ). Tại sao ? Lý do thật đơn giản nhưng vô cùng chính đáng: “Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” ( Tv 117, 2 ). Đó là tình yêu bao la, sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa, ngày nay Giáo Hội quen gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Thực ra Đức Mẹ đã gọi như vậy trong Kinh Magnificat rồi mà chúng ta không để ý: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời” ( Lc 1, 50, 54 – 55 ).
Trong cuộc sống đời thường, đứa con nào khó khăn, khổ sở, thì cha mẹ quan tâm hơn. Cha mẹ vì thương con, muốn con nên người nên cũng sửa dạy đứa con nào ngỗ nghịch, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Thiên Chúa dựng nên chúng ta nên Ngài vẫn luôn tôn trọng quy luật Ngài đã tạo nên, vì Ngài không muốn “lập dị”. Trong tinh thần đó, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” ( Dt 12, 5 – 6 ). Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy ?” ( Dt 12, 7 ).
Theo bản tính nhân loại, sự thật rất hiển nhiên: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành” ( Dt 12, 11 – 13 ). Rất rõ ràng, rất thực tế !
Đúng ra tục ngữ Việt Nam nói rằng “cái khó ló cái khôn”, nhưng chúng ta thường hiểu sai và đọc sai là “cái khó bó cái khôn”. Không, vì nếu vậy thì còn chi đáng nói ! Nhà ái quốc Phan Bội Châu ( 1867 – 1940 ) đã so sánh: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Và chí sĩ Nguyễn Thái Học ( 1902 – 1930 ) cũng dõng dạc: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chứng tỏ rằng sự gian khó là thứ “xa xỉ phẩm” cần thiết để người ta khả dĩ thành nhân và sống có ý nghĩa hơn. Tức là phải ĐI QUA CỬA HẸP.
Quả thật, chính gian khổ đã tạo nên những vĩ nhân lừng danh thế giới, khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục, trong Công Giáo cũng rất nhiều những vị Thánh lớn là nhờ “đi đường hẹp”. Vấn đề của chúng ta là có DÁM hay KHÔNG DÁM hành động như vậy mà thôi ! Đừng bao giờ việc cớ: Vì, tại, bởi, nếu, giá mà…
Một hôm, trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ thắc mắc: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” ( Lc 13, 23 ). Ngài bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” ( Lc 13, 24 ).
Có lẽ người hỏi không thỏa mãn chút nào với câu trả lời của Chúa như vậy. Thế nhưng, dù họ không phản ngôn thì chắc hẳn họ cũng thấy có gì đó “khác lạ” và “ngược đời” quá đỗi ! Họ im lặng tức là họ đã cân nhắc, cân nhắc thì phải suy nghĩ. Đêm đó, họ sẽ về và phải vắt tay lên trán suy tư về “lời lạ” của Chúa Giêsu, rất có thể họ phải trằn trọc suốt năm canh không chừng !
Chúa biết thừa là họ đang “đâu cái điền” lắm lắm ! Kệ, Ngài cứ tỉnh queo: Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào”, thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !” Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” ( Lc 13, 22 – 27 ). Chúa Giêsu thích giản dị, thẳng thắn, nghiêm túc, nên những điều Ngài nói cũng luôn bình dị, thiết thực và gần gũi với đời sống dân chúng. Hầu như ai cũng có thể hiểu, trừ người câu nệ hoặc cố chấp!
Ngài nói rõ ràng: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 28 – 29 ). Người Việt chúng ta có câu: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái “trái tai” bị chúng ta lợi dụng quá nhiều! Tương tự, khi chúng ta thấy ai đó được hãnh diện về điều gì đó ( ví dụ: người đoạt giải trong một cuộc thi nào đó ), có người bắt khao, có người ganh tỵ, có người làm ngơ, có người bĩu môi, đủ dạng, đủ kiểu. Nhưng chúng ta đâu biết rằng người đó đã nỗ lực và khổ luyện như thế nào mới được vậy. Gian khổ càng dày, hạnh phúc càng cao. Thiên Chúa tuyệt đối chí công !
Vào Nước Trời cũng vậy. nếu cứ thảnh thơi và khơi khơi đi vào thì chẳng có gì đáng nói, đáng công, đáng thưởng. Những người chịu thiệt thòi ở cuộc đời này, nếu biết kết hợp với cuộ khổ nạn và tử nạn của Đức Kitô, thì sẽ lợi ích lắm. Chắc chắn Thiên Chúa có kế hoạch độc đáo của Ngài. Những người đó không chỉ chịu thiệt thòi mọi thứ ở cuộc đời tạm này, mà thậm chí họ còn bị chúng ta khinh khi, miệt thị, ruồng rẫy. Nếu họ chịu khổ đủ thứ mà “tương lai” không rạng rỡ thì hóa ra Chúa bất công. Không phải vậy ! Và Ngài tuyên bố thẳng thắn: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” ( Lc 13, 30 ).
Câu nói này là lời “nhắc khéo” mà Chúa Giêsu đang nói với những ai đang an nhàn hưởng thụ cuộc sống, đang ung dung tự tại, đang vinh thân phì da ở đời này vậy !
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “lách mình” vào những hang cùng ngõ hẻm của cuộc đời để chúng con tôi luyện chính mình mau chóng nên hoàn thiện và nên giống Con Một Yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Có những người sau hết sẽ nên trước hết. Câu Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta biết giá trị TN 21-C109 Lượng
Có những người sau hết sẽ nên trước hết. Câu Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta biết giá trị của sự kiên trì như lời Chúa cũng đã bảo: Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát. Trong phạm vi xã hội người ta thường nói: Đầu xuôi đuôi lọt. Nhưng trên phạm vi cứu rỗi thì không như vậy, bởi vì kẻ gọi thì nhiều người chọn thì ít.
Lucifer trước kia là vị thiên thần mang ánh sáng, nhưng rồi đã hoá thành ma quỷ. Giuđa trước kia là một trong số 12 tông đồ Chúa, nhưng rồi đã trở thành kẻ phản bội. Chính vì thế thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta: Nhiều người chạy đua nhưng chỉ có một người lãnh được phần thưởng. Ai tưởng mình đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã. Và thánh Gregoriô đã nói: Dũng khí của việc thiện là sự bền tâm, vì thế hãy nắm giữ cho chắc kẻo nó bị tuột mất. Vậy tại sao chúng ta phải kiên trì và bền đỗ?
Lý do thứ nhất là vì bản tính con người vốn hay thay đổi, có mới nới cũ, đồng thời lại ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu bên ngoài ma quên mất mục đích tối hậu của mình.
Lý do thứ hai là vì thế gian cám dỗ. Kinh Thánh đã nói: Trần gian thì thuộc về ác thần, đầy dẫy những gương mu gương xấu và những dịp tội xô đẩy làm cho chúng ta vấp ngã. Trần gian thường đánh bóng và tô điểm lộng lẫy những thứ trái cấm, nào sách vở báo chí, nào phim ảnh tuồng kịch, nào truyền thanh truyền hình, nào thời trang và nghệ thuật. Càng là trái cấm thì lại càng quyến rũ mãnh liệt, cho nên nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ quay lưng chống lại Thiên Chúa lúc nào không hay biết.
Lý do thứ ba là vì ma quỷ ghen tương với hạnh phúc chúng ta, nó rình rập tìm mọi sơ hở để lôi kéo chúng ta vào vòng tội luỵ, để rồi cuối cùng cũng phải lãnh nhận hình phạt hoả ngục như nó. Có một câu danh ngôn nói rằng: Ma quỷ không bao giờ ngủ, nó không dại gì tấn công một kẻ đã thuộc về tay nó. Thánh Giêrôminô viết: Ma quỷ không tìm những người ngoài, nhưng hối hả xông vào những người thuộc về Giáo Hội. Những người con của Đức Kitô. Họ là như những miếng mồi ngon, những món ăn béo bở của nó.
Và sau cùng lý do thứ tư là vì bản tính của chúng ta thì yếu đuối có thể sai lỗi bất kỳ lúc nào. Để an ủi mình, chúng ta nghĩ đến trường hợp của Phaolô, của Madalena, của Phêrô, của người trộm lành. Nhưng ai dám bảo đảm rằng sau khi lầm đường lạc lối chúng ta chắc chắn sẽ quay trở lại. Ai dám chắc rằng mình sẽ đủ nghị lực, đủ ơn thánh để chỗi dậy và trở về cùng Chúa như đứa con hoang đàng. Hoả ngục chứa đầy những người trước tốt sau xấu.
Có một vị kia ở thành Sebaste, bị bắt và bị ngâm trong nước đông lạnh cùng với 39 đồng bạn khác. Nhưng rồi y đã chối bỏ đức tin để được ngâm trong nước ấm. Chính lúc đó thì y chết và mất hết mọi công nghiệp. Hơn nữa con người chúng ta thì dễ nản chí và chóng đầu hàng. Một lần thất bại sẽ làm cho chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa. Bao lâu còn sống trong thể xác, chúng ta còn có thể bị thua chước cám dỗ. Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi 7 lần huống là chúng ta. Cái khác biệt là sau mỗi lần sai lỗi họ đều biết chỗi dậy. Và những lần sai lỗi ấy là những dịp để họ tập khiêm nhường và gia tăng lòng mến Chúa. Tục ngữ đã bảo: nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ, hữu chí cánh thành, có công mài sắt... Trên phạm vi siêu nhiên Chúa cũng bảo: Ai bền đỗ đến cùng...
Tin Mừng Chúa Nhật 21 Thường Niên C là những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu: "Hãy phấn đấu đi TN 21-C110
Tin Mừng Chúa Nhật 21 Thường Niên C là những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu: "Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào". Như người chủ đóng cửa ngôi nhà lại, thì Đức Giêsu cũng sẽ "đóng" bữa tiệc cánh chung, ngăn không cho những người làm điều ác, những người không nhận biết Người đi vào tham dự. Bàn tiệc Nước Trời dành cho những ai thành tâm thiện ý, "mến Chúa và yêu người".
"Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào". Đó là lời nhắn nhủ của Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Vào thời Đức Giêsu, những lời này là một thách đố đối với người Do Thái. Vì họ luôn tin rằng, họ sẽ có phần trong thời đại sắp đến, trong bàn tiệc Nước Trời, bởi vì họ là dân đặc tuyển, được ưu tiên. Đức Giêsu đã loại trừ quan niệm đặc tuyển này. Điều quan trọng là họ có thực hiện những lời Người dạy dỗ hay không.
Đời sống kitô hữu là một hành trình thiêng liêng đi qua cửa hẹp. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến nỗ lực, nhiều nỗ lực để có thể vượt qua cánh cửa hẹp. Để có được một đời sống hạnh phúc, một gia đình tốt đẹp... chúng ta cần đi qua "cửa hẹp", cần nhiều nỗ lực, cần hy sinh, cần chiến đấu, "Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Tôi".
Nhưng cánh cửa hẹp này chỉ được mở từ bên trong, vào một lúc nào đó. Chỉ một mình Thiên Chúa mới quyết định mở và mở lúc nào, tức là Người quyết định tất cả. Thiên Chúa mở cánh cửa hẹp, bởi vì cánh cửa tâm hồn chúng ta còn hẹp. Để đi vào vương quốc Tình yêu, chúng ta cần loại bỏ sự hẹp hòi, kiêu ngạo, những gì chống đối lại tình yêu. Nói khác, cánh cửa tâm hồn chúng ta có rộng mở thì cánh cửa vương quốc Tình Yêu mới rộng mở. Đó là lý do tại sao lối vào vương quốc của Thiên Chúa đòi cố gắng và hy sinh.
"Người đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót". Những người từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc dường như là những người đứng chót, nhưng lại là người đầu đi vào Nước Thiên Chúa. Còn những người bị ở ngoài dường như là những người đã từng "ăn, uống" với chủ nhà, đã từng nghe những lời giảng, dạy... Nói chung, họ là những người ở gần chủ. Họ đồng bàn với chủ, nhưng lòng họ thì lại xa chủ. Thế nên ông chủ tuyên bố: tôi không biết các anh là người ở đâu cả.
Là người kitô hữu, chúng ta thuộc về Giáo hội qua bí tích Rửa tội, chúng ta "gần" Đức Kitô hơn những người chưa lãnh bí tích Rửa tội, nhưng có thể chỉ là "sự gần gũi bên ngoài". Trong khi đó, những người không phải là kitô hữu, họ dường như "xa" Đức Kitô, nhưng họ lại rất gần Người qua việc đáp trả lời mời gọi của Chúa Thánh Thần trong lương tâm họ. Họ là những "kitô hữu vô danh".
Nếu các người đĩ điếm và những người thu thuế đi vào Nước Thiên Chúa trước cả những người Pharisêu, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng có nhiều người không phải là kitô hữu cũng sẽ đi vào Nước Thiên Chúa trước nhiều người kitô hữu.
Phải chăng chúng ta là những kitô hữu "theo lý lịch?"
Phải chăng chúng ta "ở trong nhà" nhưng lại "không gần" Đức Giêsu?
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết đi qua cánh cửa hẹp để chúng con có thể bước vào vương quốc của Chúa, vương quốc của Tình Yêu. Chìa khóa mở cửa vương quốc này là các mối phúc thật. Nhờ các mối phúc, chúng con sẽ nhận ra cái gì là chính yếu, quan trọng, trường cửu và cái gì là phụ tùy, phù phiếm, chóng qua. Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự tự mãn, là người kitô hữu, nhưng lại là "kitô hữu theo lý lịch". Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sợ hãi, sợ thiếu thốn, sợ hy sinh, phấn đấu. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát ...... Chúa Giêsu không trả lời có nhiều hay ít. TN 21-C111
Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không?" Chúa Giêsu không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự chọn lựa của con người. Nhưng nhân cơ hội nầy, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết phải đi vào cửa hẹp mới được cứu độ. Ngài nói: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được".
Vậy, vào cửa hẹp nghĩa là gì?
Là sống theo lề luật Chúa.
Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả như bao nhiêu người khác... Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn, có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.
Vậy thì cửa hẹp đưa con người đến đâu?
Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một lộ trình nhất định, đó là quỹ đạo trái đất. Phải mất 365 ngày và 6 giờ, trái đất mới quay hết một vòng quanh mặt trời, và cứ thế suốt niên đại nầy sang niên đại khác. Quả là gò bó, trói buộc, là đường hẹp triền miên.
Thế nhưng bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định điều hoà. Nếu một ngày nào đó, trái đất 'cảm thấy' đi theo quỹ đạo là gò bó, là đường hẹp, để rồi đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái... chỉ một chút xíu thôi mà!... thì đó là ngày cùng tận của vũ trụ và thế giới!
Chiếc tàu nghĩ rằng tại sao tôi cứ phải bị gò bó bởi hai đường sắt? Tại sao tôi không chạy nhảy như hươu nai, băng qua đồi núi, băng qua cánh đồng như bao nhiêu muông thú. Thế rồi nó thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do tung hoành... Hậu quả của sự chọn lựa 'khôn ngoan' nầy sẽ vô cùng bi thảm. Nhưng nếu nó chấp nhận đi theo hai đường rây chật hẹp, nó về đến ga chót thật an toàn.
Trong gia đình, người vợ nghĩ rằng: thật uổng phí cuộc đời nếu ngày nào cũng nấu ăn, rửa chén, dọn nhà, quét sân... để sống cho chồng và cho con. Tại sao tôi không tự giải thoát mình khỏi vòng cương toả của gia đình? Tại sao lại phải chọn cửa hẹp, lại phải đi đường hẹp? Tại sao tôi không thể bay nhảy như những cô gái trong các hộp đêm?
Thế rồi cô đã chắp cánh bay, và kết cục là gia đình đổ vỡ, cuộc đời của cô lụi tàn trong đau thương và tủi nhục.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: 'Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!', thì Chúa sẽ bảo: 'Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!' và "Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài."
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ đạo... chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.
Vậy thì bước qua cửa hẹp là giá phải trả (có gì mà không phải trả giá!) cho hạnh phúc đời nầy và hoan lạc vĩnh cửu mai sau.
Chúng ta đứng trước một Vương Quốc mở ra cho tất cả mọi người, nhưng chỉ được một số ít người TN 21-C112
Chúng ta đứng trước một Vương Quốc mở ra cho tất cả mọi người, nhưng chỉ được một số ít người khám phá. Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta, và không có dân tộc nào được lựa chọn một cách độc quyền. Thiên Chúa giúp chúng ta đi thẳng đường và tin tưởng tiến tới bằng các cuộc can thiệp của Người trong cuộc sống của chúng ta. Dù nhiều lúc rất căng thẳng. Khẳng định rằng cánh cửa hẹp không phải là dấu chỉ của sự bi quan, nhưng là bằng chứng cho thấy rằng ơn gọi của con người được chú trọng một cách nghiêm chỉnh.
Is 66, 18-21
Trở về sau lưu đày, người Do thái vấp phải một thực tại đời thường đáng thất vọng. Nịềm phấn khởi lúc trở về đã tan biến đi và nhường chỗ cho thái độ dửng dưng, bỏ mặc muốn ra sao thì ra. Tiếp nối lời rao giảng của Isaia, một Tiên tri tìm cách mang lại can đảm khi mô tả tương lai vinh quang của Dân tộc ưu tuyển. Giê ru sa lem sẽ trở nên kinh thành vinh quang nơi mọi người sẽ đến để gặp gỡ Thiên Chúa. Thánh Vịnh 116
Tất cả các dân tộc trên hoàn vũ đều được mời gọi họp tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Hr 12,5-7.11-13
Gợi lại cuộc lữ hành dài của người tín hữu về Kinh thành của Thiên Chúa, tác giả khuyến khích độc giả mình hãy chứng tỏ lòng kiên trì. Con đường khó khăn có thể khiến người ta thất vọng, nhưng điều cốt yếu là cần phải hiểu các thử thách trong cuộc đời như là một lời Chúa mời gọi chúng ta chỉnh sửa lại các khiếm khuyết làm chậm đà tiến của chúng ta.
Tin mừng Lc 13,22-30
NGỮ CẢNH
Với câu chuyển đoạn (13,22), ở đây Lu ca tiếp tục cấu trúc dàn dựng các biến cố của Chúa Giê su trong viễn cảnh một chuyến đi về Giê ru sa lem (9,51).
Đây là chuyến đi của một người chinh phục sẽ đánh đuổi quân đế quốc La mã chăng? Các môn đệ của Chúa Giê su có thể đã nghĩ như cậy, đặc biệt sau khi đã nhận biết Ngài là Đáng Cứu thế, Đấng Messia (9,20). Nhưng chương trình của Chúa Giê su hoàn toàn khác hẵn.
TÌM HIỂU
Đoạn tin mừng nầy trả lời cho câu hỏi nền tảng: Ai sẽ được cứu độ? Chúa Giê su trả lời: đó là những người đi qua cửa hẹp (13,24). Hình ảnh cái cửa được lặp lại trong một dụ ngôn để cho thấy rằng những ai nại vào những ưu quyền mình đang có sẽ bị lọai trừ (13,25-28), còn những người khác, đến từ các khắp mọi nơi, sẽ được chấp nhận (13,29). Bài tin mừng khép lại bằng một câu nói khẳng định sự đảo lộn tình thế ấy (13,30).
Những người được cứu thoát: X. Mt 7,13-14. Động từ “cứu” trong tin mừng Lc chỉ sự cứu độ toàn bộ con người ở bên kia cái chết (1,77; 2,30; 3,6t; 7,50; 9.24; x. Cv 2,47; 4,12).
Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai? Theo những điều kiện nào? Đó cũng là câu hỏi được đặt ra khi ý thức về sự cần được một Đấng Khác cứu độ (x.18,26). Chúa Giê su từ chối đưa ra con số chính xác những người được chọn, nhưng nhắc nhở cho những người được chọn đầu tiên, người do thái và chúng ta, rằng ơn cứu độ không bao giờ là một điều đắc thủ có sẵn.
Hãy chiến đấu: từ hi lạp chỉ cuộc chiến đấu, trận đấu (x. Pl 1,30; 1Tm 6,12; 2Tm 4,7). Do đó cần phải có sức mạnh (16,16). (Trong 22,44 một từ tương đương được một vài tác giả dịch là “hấp hối”). Cả khi sự cứu độ là một ơn ban, cũng không lọai trừ sự nỗ lực về phía con người.
Vào qua: vào đâu? Trong c.25 tác giả nói là vào nhà và trong c.29 lại vào bàn ăn. Động từ mạnh nghĩa không có tân ngữ, ám chỉ đến việc đi vào Nước Thiên Chúa (x. 11,52;18,17.25), được trình bày như một bữa tiệc (14,15). Do đó, từ “vào” đồng nghĩa với “được cứu độ”: người được Thiên Chúa cứu độ là người đi vào nhà của Thiên Chúa.
Cửa hẹp: không dễ tìm ra ý nghĩa của hình ảnh nầy. Trong Mt 7,13-14 cửa hẹp đối nghịch với cửa rộng, con đường thênh thang, nghĩa là sự dễ dãi. Do đó, cần phải nép mình, uốn mình mà đi vào, trở nên nhỏ bé (9,48), liều mất mạng sống mình (9,23-24).
Có thể tìm theo hướng khác, Chúa Giê su nói Ngài là cửa (Ga 10,7-9). Tại cửa đền thờ, Phê rô và Gioan chữa lành một bệnh nhân “nhân danh Chúa Giê su”, và danh ấy cho phép người bệnh đi vào trong đền thờ (Cv 3,1-10). Do vậy, Chúa Giê su là đấng cho phép đi vào trong Nước Trời. Nhưng người đi theo phải chấp nhận vác thập giá như Ngài (9,23) và chấp nhận phép rửa (12,50). Cánh cửa đích thực của ơn cứu độ là thập giá Chúa Giê su: Chúa Giê su bị đóng đinh cho phép người trộm lành cùng với Ngài đi vào Thiên đàng (23,43).
Không thể được: câu tuyên bố gây ngạc nhiên: tại sao người muốn vào lại không thể vào đó được ? câu trả lời ở phần sau.
Chủ nhà: trong đoạn 12,36-40 cũng nói về một ông chủ nhà hi vọng nhìn thấy đầy tớ của mình tỉnh thức khi ông đi ăn cưới trở về; chủ nhà đó được đồng hóa với Con Người, nghĩa là với Chúa Giê su. Ở đây, Chúa Giê su một lần nữa là chủ nhà, và người gõ cửa, dường như là cửa nhà Quan Án, không còn phải là Ngài nữa, mà là các đầy tớ; ở đây chủ nhà đang ở trong nhà, còn người đầy tớ đứng ở ngòai. Hai cách nhìn bổ túc cho nhau: nói về việc tính sổ trong lần gặp cuối cùng với Chúa. Câu truyện tương đương với dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt 25,1-13, nhưng chủ điểm của nó hơi khác một chút. Mt nhấn mạnh hơn về việc thấy trước, còn Lu ca thì lại chú ý đến sự kiện là người ta không biết lợi dụng thời cơ để đi vào khi thời cơ đến (Is 55,6).
Thưa Ngài: tước hiệu nầy chắc chắn là của Chúa (x.6,46), nhưng không đủ để nói rằng Ngài là Chúa, cần phải có các điều kiện tương xứng (6,47).
Chúng tôi đã từng được ăn uống: x. Mt 7,22-23. Bị từ chối ngay từ lần đầu tiên khiến những người gõ cửa phải nài nỉ. Ám chỉ đến những bữa ăn mà Chúa Giê su dùng với họ (7,36;11,26), đến giáo huấn mà ngài ban cho họ trên các công trường (7,30-34). Đối lại với đám người nầy, chúng ta có thể nhớ lại các môn đệ, với các bữa ăn với Chúa Giê su phục sinh (Lc 24,3-.41-43; Cv 10,41).
Khác với trường hợp trong dụ ngôn người bạn quấy rầy trong đêm (11,5-8), anh ta đạt được điều mình muốn, ở đây sự nài nỉ chẳng những không đưa đến kết quả nào, mà còn chống lại họ. Lời quở trách của Chúa Giê su nhắm đến những người đương thời cậy dựa vào các ưu quyền của mình để đòi được cứu độ. Nhưng “Thiên Chúa có thể biến những hòn đá nầy thành con cái ông Abraham” (3,8). Thánh Phao lô sau nầy sẽ khai triển luận chứng nầy trong Rm 2.
Ta không biết các anh: câu nói thật khủng khiếp! Chúa Giê su từ chối chấp nhận các tước hiệu mà người ta lạm dụng để phá cửa xông vào Vương quốc. Huyết tộc hoàn toàn vô hiệu trước sự thân thuộc đích thực từ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa (8,19-21).
Cút đi cho khuất mắt ta: trích dẫn Tv 6,9 ở đây chỉ một sự bất tương ứng tuyệt đối giữa sự sống với Thiên Chúa và đời sống gian ác. Nó không lọai trừ sự thương xót, nhưng cho thấy rằng trách nhiệm của sự chọn lựa hôm nay ở trong tay chúng ta.
Khóc lóc nghiến răng: kiểu nói chỉ có ở đây trong Lc, trong khi ở Mt xuất hiện đến 6 lần.
Các câu 28-29 là một vài lời nói mà Mt 8,11-12 gom lại sau khi người đầy tớ viên bách quan được chữa bệnh. Chúng nhấn mạnh sự mâu thuẩn giữa sự khước từ của những người nói rằng mình gần gủi với Chúa Giê su, và sự tiếp nhận của các người dân ngọai đến từ khắp các chân trời: họ sẽ gặp các tổ phụ và các tiên tri trong nước Thiên Chúa. Bên đây vang tiếng kêu đau đớn, còn bên kia rộn rã niềm hân hoan dự tiệc. Đây là lần đầu tiên Lu ca nói đến tiệc cưới, hình ảnh chỉ Nước Trời (x. Is 25,6), sẽ được lặp lại trong đoạn 14,7-24 và trong 22,30. Đặc tính phổ quát của ơn cứu dộ là một chủ đề Lu ca rất ưa thích.
Dự tiệc: x. 14,15
Đứng chót: trong một ngữ cảnh khác, Mt (19,30;20,16) nói: “nhiều người đứng chót”. Mc cũng nói như thế trong 10,31 (x. chú thích). Dường như chỉ có Luca áp dụng câu nói nầy cho những người được kêu gọi vào lúc chót, tức là các dân ngọai và những người được kêu gọi trước tiên, tức là người Híp pri. Nhưng bản văn không nói đến việc một dân khác thay thế dân nầy, mà chỉ khẳng định rằng trước mặt Thiên Chúa không có ưu tiên hay đặc quyền đặc lợi gì cả: mỗi người sẽ bị xét xử theo cách sống của mình (x. Êd 18).
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay khá lạ lùng. Nó nói với chúng ta về khung cửa hẹp, về cửa đóng kín, về những người bị lọai trừ khỏi Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta chịu khó đào sâu các bản văn Thánh Kinh, chúng ta sẽ khám phá thấy rằng đây là một trang tin mừng đem lại nhiều hi vọng. Quả thật, nó nói với chúng ta về Thiên Chúa muốn qui tụ tất cả mọi người trong Vương Quốc của Ngài. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã loan báo trong bài đọc thứ nhất: “Ta đến qui tụ mọi người thuộc mọi dân nước và mọi ngôn ngữ. Chúa Giê su đến xác nhận sứ điệp đó: “Người ta sẽ từ Phương Đông, phương Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Vấn đề là nhiều người đã không hiểu đúng. Họ quên rằng để vào Nước Thiên Chúa, phải qua cửa hẹp. Và để vượt qua, phải giải thoát mình khỏi những ưu tiên. Giàu sang, vinh dự mà chúng ta ki cóp trong suốt cuộc sống của mình sẽ không có ích lợi gì cả. Đã cùng ăn cùng uống với Đức Ki tô không thôi chưa đủ. Điều quan trọng là đã cho Ngài ăn qua những người nghèo mà chúng ta gặp trên đường chúng ta; đó là đã chia sẻ cho người đói, cho người mất tất cả. Ngang qua họ, chính Đức Ki tô hiện diện và gõ cửa nhà chúng ta.
Việc có được vào Nước Thiên Chúa hay không tùy thuộc vào vị trí mà chúng ta dành cho Đức Ki tô trong đời sống chúng ta. Đi lễ, làm tuần cửu nhật, hòan thành những việc đạo đức là rất tốt; nhưng những điều đó phải nói lên một ý muốn thâm sâu của tâm hồn. Phải làm điều Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, là rủ bỏ tất cả những gì cản trở chúng ta. Đó chính là bước qua cửa hẹp. Sự chọn lựa ấy dẫn chúng ta đến việc từ bỏ những cái vô giá trị để thực sự chọn lựa kho tàng đích thực.
Đó là cánh cửa hẹp mà Chúa Giê su đã vượt qua. Ngài đã mở lối cho chúng ta đi theo Ngài. Một lần nữa, điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta vất bỏ gánh nặng mà chúng ta mang trong mình. Những hành lí cồng kềnh chỉ làm cho bước đi trở nên khó khăn hơn mà thôi.
Trong cuộc lữ hành về với Thiên Chúa cũng thế. Chúng ta chỉ có thể thực sự tiến tới trước nếu chúng ta bước đi một cách nhẹ nhàng. Đi một cách nhẹ nhàng là tạo khỏang trống trong chúng ta, đó là ra đi khỏi những chuyện cãi cọ trong giáo xứ, đó là giải phóng khỏi những ý tưởng của chúng ta, những thành kiến, những truyền thống của chúng ta. Điều quan trọng nhất không phải là trung thành với truyền thống mà là tiến lên trong sự trung thành hơn đối với Chúa Giêsu Kitô. Vào qua cửa hẹp là chấp nhận những sự thanh tẩy cần thiết. Những ai muốn được cứu độ bằng sự dễ dãi sẽ bị bỏ lại bên ngòai. Những ai cho rằng ơn cứu độ là của riêng mình có thể bị thất vọng. Người ta không chiếm hữu cho mình ơn cứu độ, nhưng phải tiếp nhận như một ơn ban nhưng không.
Đi theo Chúa Giê su qua cửa hẹp. Đó là điều đòi hỏi chúng ta. Nhưng khi suy nghĩ kĩ, chúng ta khám phá ra rằng vần đề đích thật ở chỗ khác: Cái gì hẹp? Có thật sự là cái cửa không? Hay là chính tâm hồn ? Bài tin mừng mời gọi chúng ta mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa và người khác. Cánh cửa tâm hồn có được mở rộng ra không tùy thuộc mỗi người chúng ta. Chính đó là nơi mà Đức Ki tô chờ đợi và hẹn hò với chúng ta.
Vào qua cửa hẹp còn là đi ra khỏi sự tự mãn của mình và đặt trọn vẹn cuộc đời chúng ta trong tay của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi đi vào bằng cách đặt bước chân của chúng ta trong bước chân của Ngài và đi theo Ngài trong tình yêu, tha thứ và phục vụ anh em. Cánh cửa đó chính là cánh cửa mà Chúa Giê su đã đi qua từ hang đá đến thập giá. Chúng ta đang trên đường đi theo Ngài. Nhiều khi việc đi theo đòi hỏi chúng ta phải hi sinh, nhưng điều quan yếu là biến tất cả cuộc đời chúng ta thành một hành vi yêu thương như Chúa Giê su đã làm.
Nhiều người thất vọng vì họ đang sống trong bóng tối đằng sau một khung cửa hẹp và đóng kín. Họ không còn biết gán cho cuộc sống họ ý nghĩa gì. Nhưng qua kẽ hở cánh cửa, họ phải nhìn thấy một tia sáng mặt trời rọi vào. Đó là ánh sáng Đức Ki tô đấng chiến thắng sự chết và sự dữ. Như đã nói trong bài đọc thứ hai, ánh sáng ấy sẽ mang lại sức sống cho “những đôi tay rã rời và những đầu gối mệt mỏi”; nó sẽ giúp cho chúng ta can đảm trên đường. Ngày Chủ nhật, Đức Ki tô chịu đóng đinh và sống lại cho chúng ta nghe Tin mừng cứu độ và ban cho chúng ta Bánh sự sống để tất cả cuộc sống của chúng ta trở thành lời Tạ ơn. Ngài đến gặp chúng ta để dạy cho chúng ta trở thành những dấu chỉ của đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi dân tộc.
Ngày xưa, các môn đệ Đức Giêsu đã từng băn khoăn thắc mắc: Ai sẽ là người được cứu? Và theo TN 21-C113
Ngày xưa, các môn đệ Đức Giêsu đã từng băn khoăn thắc mắc: Ai sẽ là người được cứu? Và theo quan niệm thời ấy, số người được cứu thoát thì ít.
Câu hỏi này phát xuất từ một quan niệm về Thiên Chúa. Người ta cho rằng Thiên Chúa là Đấng nghiêm khắc, luôn đưa ra những đòi hỏi rất cao, và người nào không thực hiện những yêu cầu ấy, sẽ không được cứu thoát. Người ta cũng nghĩ rằng ơn cứu độ là do những cố gắng lập công của con người, ai thực hiện đầy đủ những tiêu chuẩn do lề luật quy định, người ấy sẽ được cứu thoát.
Trước câu hỏi này, chỉ có một giải đáp duy nhất: Giêsu - có nghĩa là "Thiên Chúa cứu". Nhờ Người, với Người và trong Người, mọi kẻ tin đều được cứu thoát. Đây chỉnh là điều mà Đức Giêsu đã nỗ lực bày tỏ trong suốt cuộc đời của Người. Rao giảng, chữa lành, làm phép lạ... tất cả đều cho thấy rằng người ta phải tin vào Người, phải nhờ vào Người mới được cứu thoát. Nhưng đó lại là điều mà người Do-thái không muốn chấp nhận. Họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để loan báo Tin Mừng cứu độ. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng họ không nghĩ rằng vị ấy chính là Đức Giêsu. Họ muốn được cứu thoát, nhưng lại không chấp nhận Đức Giêsu. Trong khi đó, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo: nếu không tin vào Người, họ chẳng được cứu; nếu không đi qua cửa là Đức Giêsu, họ sẽ chẳng vào được Nước Thiên Chúa.
Câu hỏi tưởng chừng rất xưa ấy, ngày nay vẫn còn được nhắc lại. Vẫn có nhiều người của thời đại này cứ băn khoăn thắc mắc về con số những người được cứu, những người được lên thiên đàng. Họ nghĩ ra nhiều điều, thoạt nghe, có vẻ đúng; nhưng xét kỹ, thì không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Nói cách khác, vẫn có nhiều người quan niệm về Thiên Chúa theo những suy nghĩ cũ kỹ, không dám sống thực với Thiên Chúa. Họ tính toán từng hành vi, từng suy nghĩ, không phải để yêu mến Thiên Chúa hơn, nhưng chỉ là để thực hiện những chỉ tiêu mà họ đề ra, và nghĩ rằng những điều đó đem lại cho họ ơn cứu độ.
Bởi đó, để trả lời cho câu hỏi này, hay hơn nữa, chẳng nên đặt vấn đề như thế này làm gì - điều quan trọng là phải gắn bó với Đức Giêsu, bước đi theo Người. Đức Giêsu đã đi trên con đường hẹp, đã chịu đau khỗ, người ta cũng phải làm như vậy, nếu muốn được cứu. Thiên Chúa không đưa ra những chỉ tiêu, để rổi lấy đó mà xét đoán con người. Chỉ tiêu duy nhất - nếu có thể gọi như thế, đó chính là lòng yêu mến, là bước đi theo Đức Giêsu với tất cả nỗ lực của mình.
Bước qua cửa hẹp
Như thế, vấn đề không phải là xem có bao nhiều người được cứu, nhưng là ai dám bước qua cửa hẹp? Ai dám đi theo Đức Giêsu, bỏ lại tất cả, chấp nhận làm môn đệ của Người cách vô điều kiện? Ở đây, cửa hẹp không phải là một cách thức thi tuyển nhằm loại bớt một số người, dựa theo một số tiêu chuẩn đạo đức. Người ta sẽ không phải chỉ đi qua cửa hẹp một lần trong đời, nhưng là suốt cả đời mình. Người ta không thi tuyển vào Nước Thiên Chúa để rổi sau đó không bao giờ thi lại.
Đó là cả một hành trình dài, hành trình của tình yêu. Người ta sẽ phải thường xuyên theo dõi xem mình có đi đúng đường hay không, có đi theo Đức Giêsu hay đã đi ra ngoài con đường do Người hướng dẫn. Cửa hẹp mở ra một con đường, và con đường đó dẫn tới Nước Trời. Người ta phải đem tất cả nỗ lực ra để sống, để đi. Cũng chẳng cần phải chen lấn, xô đẩy nhau, vì mỗi người có cánh cửa của mình, và cánh cửa ấy luôn mở rộng. Người ta cũng chẳng phải cứ đứng ngoài cửa mà gõ, nhưng là có can đảm bước qua hay không. Muốn như thế, người ta sẽ phải vất bỏ những thứ cổng kềnh, những thứ gì cản trở để có thể đi qua cửa ấy.
Đúng thế, đến với Đức Giêsu, đi với Người, có nghĩa là bước đi trên con đường thập giá, chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Đức Giêsu đã không đi con đường nào khác. Chính qua thập giá, Người đã đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại.
Một điều an ủi cho con người là, trên hành trình đó, họ có Đức Giêsu là người hướng dẫn, là bạn đổng hành, là người nâng đỡ. Người Ki-tô hữu không tự mình xoay xở, không cô đơn, nhưng có Đức Giêsu cùng đi với họ. Chính Người sẽ đưa ra những chỉ dẫn cần thiết trong những chặng đường khác nhau.
Tuy vậy, đó không phải là nẻo đường dễ dàng, không phải là con đường trơn tru bằng phẳng. Qua cửa hẹp, đã cần có cố gắng. Đi trên đường, lại cần có sức mạnh. Những người lười biếng sẽ chẳng được vào Nước Trời. Chỉ những ai đem hết sức mình để đi theo Đức Giêsu, mới được tham dự vinh quang của Người.
Niềm tự hào duy nhất
Phải chăng, một ngày nào đó, chúng ta sẽ đến trước mặt Chúa và thưa: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi." Chúng ta lấy làm tự hào về những việc đạo đức của mình, và chúng ta tin chắc rằng mình sẽ ở chỗ nhất?
Thế nhưng, câu trả lời không phải như chúng ta mong đợi: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta." Đang khi chúng ta nghĩ rằng mình sẽ chiếm được địa vị cao, thì lại có những người ở khắp mặt đất, từ đông sang tây, được mời vào dự tiệc, còn chúng ta lại bị gạt ra ngoài. Tại sao thế?
Như Đức Giêsu đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình, người Ki-tô hữu cũng lên đường tiến về quê trời. Trước khi phục sinh trong vinh quang, Đức Ki-tô đã trải qua con đường đau khổ. Cũng vậy, trước khi đạt tới vinh quang vĩnh cửu, người Ki-tô hữu phải sẵn lòng chấp nhận những vất vả, những khó khăn của cuộc hành trình. Và, như đã nói, cuộc hành trình đó là đi theo Đức Ki-tô, tiếp nối con đường Người đã đi. Bởi đó, niềm tự hào của người Ki-tô hữu là mình đã đi theo Đức Ki-tô, gắn bó với Người, bỏ lại tất cả mọi sự, cả những gì đáng yêu quý nhất, để yêu mến Người. Tất cả những việc làm, dù rất đạo đức, của con người, nếu không có lòng yêu mến, cũng trở thành vô giá trị, bởi vì họ chỉ làm những việc đó theo ý mình, chứ không phải vì Đức Ki-tô.
Thật là một điều ghê gớm! Ít khi chúng ta dám nghĩ như vậy. Chúng ta cứ tưởng rằng mình đã "chắc ăn" khi làm điều này, điều nọ; nhưng không, đó không phải là tiêu chuẩn để dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Tiêu chuẩn duy nhất là lòng yêu mến đối với Đức Ki-tô, tin vào Người, phó thác cho Người. Điều này hẳn phải làm chúng ta thay đổi cách sống, cách quan niệm. Theo Đức Ki-tô không còn phải là tin vào mình, nhưng là phó thác vào Người, để Người hướng dẫn, hiệp thông với Người trong tình yêu sâu xa...
Như vậy, đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ phải ra khỏi những an toàn của mình, phải phá đổ những giá trị sai lầm mà xưa nay chúng ta vẫn tin tưởng. Và một khi đã bước qua cửa hẹp, chúng ta bước vào đời sống mới với nhiều điều kỳ diệu và cũng đầy khó khăn. Nhưng, lúc ấy, không còn ai là kẻ đến trước hay đến sau, không còn có những ưu tiên, những đặc ân, nhưng là hiệp thông, là tiến bước, là tin tưởng.
Nước Trời được dành cho những người mạnh, những người can đảm. Những người "khơi khơi", "tà tà" không thể vào được Nước Trời. Chỉ có những người dám liều, dám sống, dám vượt qua. Cửa hẹp, nhưng vẫn mở rộng, vẫn đủ chỗ cho mọi người đi qua. Người ta không phải băn khoăn mình có nằm trong số được cứu hay không, nhưng điều ưu tư là mình đã thực sự đi theo Đức Ki-tô hay không.
Bước qua cửa hẹp - tin tưởng - yêu mến - đi theo. Đó là lời mời gọi gửi đến mọi người. Không thể dựa trên bất cứ điều gì để từ chối lời mời gọi ấy. Tất cả mọi người, dù là ai chăng nữa, dù thế nào đi nữa, cũng phải đứng vào vạch xuất phát, vượt qua cửa hẹp và lên đường.
* * *
Lạy Chúa, hạnh phúc thay kẻ đi trên đường mà không lo ngại, luôn an tâm vì có Ngài trợ giúp. Hạnh phúc thay kẻ sống không quanh co, không sợ hãi, đi trên đường của Ngài mà không có ý định quay trở lại. Hạnh phúc thay kẻ lên đường mà không hỏi tại sao, và theo đuổi dự định của mình cho đến cùng. Hạnh phúc thay kẻ biết ngổi bên chân Ngài, yên lặng và lắng nghe, nhưng tâm hổn luôn bừng cháy.
Ngày 15.9.2000, thế vận hội Ôlympic lần thứ 27 lại diễn ra tại nước Úc. Một lá cờ có nền trắng TN 21-C114
Ngày 15.9.2000, thế vận hội Ôlympic lần thứ 27 lại diễn ra tại nước Úc. Một lá cờ có nền trắng làm nổi bật năm vòng tròn ngũ sắc: xanh dương, vàng, đen, xanh lá cây và đỏ lại được tung bay phất phới. Năm vòng tròn khác nhau nhưng lại được nối kết chặt chẽ với nhau biểu tượng cho sự kết hợp mật thiết của năm châu xây dựng trên tinh thần thể thao bằng hữu và huynh đệ. Ban tổ chức đã ráo riết vận động và thành công trong việc tạo điều kiện cho 199 quốc gia và lãnh thổ về tranh tài thể thao quốc tế. 12.500 vận động viên thay mặt quốc gia đến để tranh nhau từng tấm huy chương mà không có một sự chống đối nào.
Tứ hải giai huynh đệ, có thể nói được là giấc mơ của con người. Vì thế, con người đã chứng kiến bầu khí hân hoan tưng bừng của một ngày khai mạc đại hội khi các đoàn vận động viên đại diện cho các quốc gia diễn hành vào vận động trường, cũng như khung cảnh vui tươi nhộn nhịp khi các vận động viên chung vui nhảy múa trong những giờ phút cuối cùng của nghi thức bế mạc.
Thật ra từ ngàn xưa, giấc mơ tứ hải giai huynh đệ đã được các tiên tri loan báo trong thời Cựu ước, như tiên tri Isaia đã diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Thiên Chúa phán: “Ta đến để qui tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta, chúng sẽ rao giảng và dẫn dắt anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến”. Rồi Đức Giêsu đã đến trong lịch sử nhân loại để biến giấc mơ muôn thuở của con người thành hiện thực. Ngài đã loan báo Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và vì thế bàn tiệc Chúa dọn ra đã mời gọi con cái của Người không phân biệt dòng máu, dân tộc, màu da, tiếng nói, nam nữ già trẻ. Vì mọi dân nước đều được mời gọi tham dự bàn tiệc của Chúa như Chúa Giêsu đã xác tín trong bài Phúc âm hôm nay: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Tuy nhiên cũng giống như các vận động viên đã đến tranh tài thể thao tại cuộc thi Olympic Sydney, chỉ có một số người đạt được huy chương. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lưu ý chúng ta: phòng tiệc Nước Thiên Chúa tuy rộng rãi thênh thang có đủ chỗ cho mọi dân nước, nhưng cửa vào phòng tiệc lại vừa hẹp, lại vừa được mở ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì thế, cần phải tỉnh thức và phấn đấu mới lê chân tiến vào được. Một khi cửa phòng tiệc đã đóng không ai còn có thể tranh luận hay van nài để chủ nhà ra mở cửa một lần nữa.
Vậy phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?
Đâu phải cứ ai thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng phải biết đón nhận lời loan báo Nước Trời và mau mắn hoán cải, ngoài ra còn phải biết phấn đấu để bước chân vào phòng tiệc. Cũng như các vận động viên trong các cuộc tranh tài thể thao phải tranh đấu cam go, phải phấn đấu cao độ để tranh nhau từng ly tại mức đến. Nhưng những thành tích mà họ đã đạt được trong những ngày tranh tài là kết quả của những năm tháng tập luyện gian khổ, của những cuộc đấu sức cam go để được chọn đại diện cho quốc gia mình.
Bàn tiệc cánh chung trong Nước Chúa cũng thế, đây là bàn tiệc của những người thắng trận. Những người đã từng chịu thử thách để chia sẻ cuộc chiến và những khổ đau của Đức Giêsu ở trên bàn thờ thập giá và được tái diễn trên bàn tiệc Thánh Thể.
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh khung cửa hẹp để chỉ những ai muốn vào tham dự phải biết lách mình qua. Nhiều lúc phải biết hy sinh, đổ máu để đi vào. Nhưng hình ảnh khung cửa hẹp này không làm mất đi vẻ hùng tráng huy hoàng, vui tươi qua lời tiên tri Isaia ở bài đọc một, vì đó là điều kiện cần thiết để được vui tươi. Ai không qua khung cửa hẹp để tiến lên thì không thể tham dự vào cuộc hân hoan trở về được. Muốn vui tươi thật sự tận trong lòng phải thanh tẩy, phải lách mình qua khung cửa hẹp. Nếu không sẽ bị loại ra ngoài, chỗ khóc lóc nghiến răng, nơi đó không còn là hân hoan, vui tươi, hạnh phúc nữa.
Thiên Chúa luôn là Chúa của Tình yêu. Người luôn mở rộng cửa, luôn rộng tay để đón mời nhưng chúng ta phải tự hỏi mình có dám, có xứng đáng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào vòng tay của Thiên Chúa hay không? Thiên Chúa không xua đuổi ai nhưng chính chúng ta phải biết dùng tự do và những khả năng Chúa ban cũng như những ơn thánh của Chúa trong đời sống hằng ngày mà về cùng Chúa. Sống như thế, bàn tiệc cánh chung không phải tìm đâu xa mà chính tại nơi mình đang sống trong hiện tại, lúc bấy giờ. Hãy sống niềm vui thiên đàng và hãy bắt đầu ngay từ trần gian này. Nhưng niềm vui đó tùy thuộc ở cách sống của chúng ta, của gia đình chúng ta và xã hội chúng ta đang sống. Khi mỗi người biết sống thật với lòng trời và hợp với lòng người, đó là hạnh phúc. Hạnh phúc đó là chúng ta được tham dự vào bàn tiệc của Thiên Chúa và bàn tiệc đó sẽ kéo dài mãi mãi trong cả đời này lẫn đời sau.
Vừa lọt vào bảng xếp hạng tóp ten của làn sóng xanh, bài hát “bạn tôi”của nhạc sĩ Võ Thiện Thanh đã mau chóng chiếm được tình cảm của khán thính giả. Bài hát đi vào lòng người đặc biệt nơi người trẻ, qua những hình ảnh thật xúc động về người sinh viên trước ngưỡng cửa vào đời với muôn vàn khó khăn: “Bạn tôi sáng nhịn ăn lên giảng đường, bạn tôi sáng đạp xe 20 cây số, thằng đi dạy thêm, đứa làm tiếp thị, thằng làm quán cơm, tối về một gói mì tôm”.
Đúng vậy, cửa vào đại học đã khó, để sống hoài bão của mình, lại càng khó hơn. Vâng! Để được bước chân vào ngưỡng cửa đại học các bạn sinh viên nghèo đã tốn biết bao công lao thức khuya dậy sớm “dùi mài kinh sử”, bỏ hết những cuộc vui chơi, tất bật trên mọi nẻo đường mưu sinh với không thiếu những giọt mồ hôi, nước mắt để thực hiện hoài bão. Và đích điểm sự thành đạt là kết quả của những cố gắng lâu dài mà con đường dẫn đến không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh và phấn đấu.
Con đường vào quê trời cũng vậy, đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa đi qua cửa hẹp. Đó chính là điều Chúa Giêsu mời gọi hôm nay, như chính Ngài đã lựa chọn con đường của thập giá.
Vậy thì mỗi người trong chúng ta hãy chọn cho mình một con đường. Đường cao, đường lưng chừng, hay đường thấp? Tôi xin mượn lời thơ của thi sĩ người Anh, John Oxenham tạm kết cho chủ đề chia sẻ hôm nay:
“Trước mặt mỗi người đều chỉ mở ra một con đường Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp, Linh hồn cao thượng chọn lấy nẻo cao Linh hồn thấp kém bước vào ngõ thấp Và ở giữa hai nẻo đường mù sương ấy, Số còn lại cứ ngập ngừng qua lại, Nhưng mỗi người chỉ có Một con đường mở ra trước mặt: Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp, Mỗi người đều phải quyết định xem: Linh hồn mình sẽ tiến theo lối nào”.
(c.22) Lên Giêrusalem, đối với Đức Giêsu có nghĩa là đi để thực thi thánh ý của Cha, mặc dù TN 21-C115
(c.22) Lên Giêrusalem, đối với Đức Giêsu có nghĩa là đi để thực thi thánh ý của Cha, mặc dù đó là chịu cực hình và chịu chết. Đức Giêsu cũng dùng dịp này để dạy dỗ các môn đệ cách sống của một Kitô hữu
(c.23)… người được cứu thoát thì ít”. Đức Giêsu khi trả lời câu hỏi này đã chuyển sự chú ý từ con số người được cứu thoát sang việc chú ý vào ai là người sẽ được cứu thoát: những ai biết đi vào qua cửa hẹp
(c.24) “Tranh đấu để vào” nói lên hai điều: thứ nhất là sự cố gắng phải có của những ai muốn được cứu rỗi, thứ hai nói lên sự việc không phải tất cả mọi người sẽ đạt được mục đích này
“Cửa hẹp”. Đức Giêsu cũng chính là cửa (xem Gioan 10:7). Chúng ta được cứu rỗi do chấp nhận bước theo Đức Giêsu mặc dù phải chết cho chính mình.
(c.25) Không phải chỉ có sự chật hẹp của khung cửa vào là chướng ngại phải vượt qua mà thôi, nhưng thời gian cũng là yếu tố quan trọng: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” thì không ai, dù là “ít người” (23) hoặc “nhiều người” (25) và ngay cả “anh em” nữa (25) cũng sẽ không vào được.
“Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không đủ sức” ở đây không phải là sức lực thể lý nhưng là sức mạnh tâm linh để trung thành với ơn gọi làm môn đệ và bước theo Đức Giêsu lên Giêrusalem.
(c.27) Làm môn đệ của Đức Giêsu đòi hỏi nhiều hơn là chỉ biết Ngài và những lời giáo huấn của Ngài, nhưng đòi hỏi ta phải cùng chia sẻ cuộc sống, sứ mạng để cùng chết và cùng phục sinh với Ngài
(c.29) Vương Quốc của Thiên Chúa được ví như một yến tiệc. Những ai không muốn cam kết sống theo giáo huấn của Đức Giêsu sẽ bị để đứng bên ngoàị Nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, tất cả mọi người từ đông tây nam bắc nếu chấp nhận, đều được mời gọi.
(c.30) Là người đứng chót hết nghiã là biết chết đi cho chính mình, biết đi qua cửa hẹp mà vào. Đây là điều Đức Giêsu mời gọi những người đứng đầu hãy xuống hàng chót. Một Điểm Chính
Muốn được cứu rỗi chúng ta cần trở nên những môn đệ trung tín sẵn lòng chết đi cho chính mình và cùng bước theo Đức Giêsu lên Giêrusalem.
Suy Niệm
Để tranh đấu mà qua được cửa hẹp tôi cần thay đổi những gì trong cuộc sống? Tôi được mời gọi trở nên bé nhỏ trong phương diện nào.
Vâng! Kính thưa quý vị, lý tưởng sống có nghĩa là sống có lý tưởng, sống có lý tưởng là sống như t TN 21-C116
Vâng! Kính thưa quý vị, lý tưởng sống có nghĩa là sống có lý tưởng, sống có lý tưởng là sống như thế nào? Hay nói cách khác, thế nào là sống có lý tưởng.
Vâng! Xin thưa ngay đó là sống theo gương Chúa Giêsu, vâng chính Người là Thiên Chúa, nhưng Người đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, sống kiếp phàm nhân... (Pl 2,6-11).
Có lẽ không có từ ngữ nào của Kinh Thánh nói rất rõ ràng mà quy chiếu mạch lạc về Đức Giêsu Kitô cho bằng (Pl 2,6-11), nghĩa là tóm lược chân dung Đấng Cứu Thế Giêsu-Kitô.
Lời Chúa (Lc 13,22-30) hôm nay có hai ý chính:
- Vào Cửa Hẹp (Lc 13, 24a)
- Thiên Chúa khước từ sự bất trung của dân Do thái và kêu gọi dân ngoại. (Lc 13, 24b)
Sau khi được Chúa Giêsu giảng dạy, người ta hỏi Người rằng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (c23). Chúa Giêsu bảo: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào (c24a)”.
Như vậy “Cửa Hẹp” là gì? Cánh cửa tượng trưng cho sự đóng mở, cũng tượng trưng cho quyền lực. Theo nghĩa đen, ngày xưa người ta đã biết sử dụng “cái cửa”. Cửa là nơi để qua lại, để ra vào, để ngăn chặn, để đón chào. Vâng, cánh cửa thật là rắc rối! Tại sao? Thưa, chức năng của nó thật đa dạng. Thật ra nó chỉ là một tấm ván chặn đường mà thôi! Nhưng, được gọi là “cái cửa”.
Vâng, lý sự hơi rườm rà một chút, vì sự thật là như vậy. Tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cái cửa để dẫn chứng về sự sống đời đời. Trong Tin Mừng, Người thường dùng hình ảnh nầy. Vâng! Thưa quý vị, vì Chúa Giêsu không dùng từ ngữ triết học, ngoại thương, kinh tế, hay chính trị mà Người dùng từ ngữ bình dân, dễ hiểu, nhưng ý nghĩa triết lý thật cao siêu. Theo đó, Nước Trời được ví như cái cửa, và cái cửa ấy chính là Chúa Giêsu, Người chính là cánh “Cửa Hẹp”, mà những ai muốn vào Nước Trời phải bước qua. Nhưng muốn qua “Cửa Hẹp” phải chiến đấu. Ngày nay, chúng ta không sống ở thời đại đương thời của Chúa Giêsu, cũng như người Do thái. Nhưng Lời Chúa là Lời Hằng Sống, vì vậy lý tưởng sống là sống theo lý tưởng của Chúa Giêsu. Vì Người khẳng định: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. (Lc 13, 24).
Khởi đi từ bài đọc I (Is 66, 18-21) hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa sẽ kêu gọi mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ vào dự tiệc Nước Trời, là nơi có Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa sẽ không còn độc quyền cho dân Dothai nữa, mà là cho hết mọi dân tộc.
Bài đọc II (Dt 12, 5-7.11-13), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng: sự sửa dạy của Thiên Chúa thì cần thiết cho chúng ta. Có nghĩa là Thiên Chúa sẽ lấy tình phụ tử mà sửa dạy ta. (Dt 12, 5-7).
Như vậy “cửa hẹp” chính là con đường mà Chúa Giêsu đã đi, một con đường đầy thử thách, chông gai, đồng thời cũng là con đường tình yêu mà Chúa Cha đã chỉ định cho Người và cho chúng ta. Cửa hẹp, hay là con đường hẹp chính là cuộc đời Chúa cứu thế Giêsu đã đi, chính là con đường Thập giá. Vậy câu hỏi được đặt ra là: Tại sao tôi phải sống con đường hẹp. Thưa theo nghĩa đen, nơi nào rộng rãi, dễ dãi thì tụ tập đông người. Người đời thường chuộng sự dễ dãi, chứ không ai chuộng sự khó khăn. Nhưng nếu trên một chiếc cầu mà quá nhiều người chen chúc, chắc chắn sẽ có ngày chiếc cầu ấy không chịu đựng nỗi,tất cả sẽ rơi xuống dòng sông. Nhưng những ai khôn ngoan thì không chen chúc trên chiếc cầu ấy, thì họ sẽ được bình an.
Đời sống thiên liêng cũng vậy, nếu chúng ta sống dễ dãi buông xuôi, chúng ta chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Như vậy, cuộc sống phải có lý tưởng, nhưng không có lý tưởng nào cao đẹp bằng bước theo Chúa Kitô bằng con đường Thập giá của Người. Vì Người chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Một Sự Sống từ Thiên Chúa mà thế gian không có được.
Ngày nay, thiên hạ đua tranh làm giàu, kiếm tiền bất chấp luân lý, đạo lý. Người Công giáo sống cùng người vô thần, cũng lao theo kiếm tiền, như vậy há chẳng phải là họ đang chiến đấu để vào cửa rộng sao? Cửa rộng cũng phải chiến đấu, tranh giành và sát phạt nhau, phương chi là cửa hẹp.
Như vậy, muốn vào cửa hẹp cũng phải chiến đấu cam go, chiến đấu với bản thân với vô vàn nghịch cảnh. Có nghĩa là từng ý nghĩ, từng hành vi, từng lúc, từng thời luôn quy chiếu về Chúa Giêsu là “Cửa Hẹp” của đời mình, và Chúa chính là mục đích của đời ta, là kim chỉ nam cho cuộc sống của ta. Muốn được vậy, ta phải chấp nhận mọi hy sinh cho cuộc đời mình để bước theo Chúa. Vì cuộc đời Chúa Cứu Thế Giêsu không phải là một cuộc đời trải thảm hoa, mà là một cuộc đời hy sinh, hy sinh trọn vẹn cho Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá càng vinh quang, thì sự hy sinh càng lớn. Chúa Giêsu đã tự hiến tế để dâng mình lên làm hy lễ đền bù cho nhân loại lên đến Tôn nhan Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sửa dạy chúng ta qua chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu-Kitô, đến độ trên Thập giá Người đã kêu lên: “Êloi. Êloi, lamma sa bat tani”, nghĩa là “Lạy Chúa tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi, nhân sao Ngài lại bỏ tôi!”. (Mt 27,46), (Mc 15,34).
Như vậy, Chúa Giêsu không nói suông mà chính Người đã hợp tác với Thiên Chúa Cha để cứu độ thiên hạ, và trao ban cho thiên hạ một con đường sống qua cuộc tử nạn của Người. Do đó, Người không chỉ là Thiên Chúa ở trên cao, mà là một Vị Thiên Chúa hữu hình thật sự đã mang lấy tội lỗi của nhân thế, để trở nên như phàm nhân, sống một kiếp phàm nhân, nhưng không sống như phàm nhân, mà là sống như Thiên Chúa, vì Người đã mang lý tưởng sống đến cho nhân loại, là sống một lý tưởng vì Thiên Chúa và đồng loại là phàm nhân, bởi vì chính Người là Thiên Chúa thật. Amen
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một lý tưởng sống của Chúa, để chúng con sống có lý tưởng là chính Chúa, là cửa hẹp mà Chúa đã dạy chúng con phải chiến đấu mà vào. Amen
Có kẻ hỏi Chúa Giêsu : "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?" Điều này TN 21-C117
Có kẻ hỏi Chúa Giêsu : "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?"
Điều này nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện của người sau khi chết được lên Thiên Đàng. Thánh Phêrô gặp người đàn ông tại cửa, cho ông ta vào và dẫn ông đi tham quan một vòng. Cho đến lúc họ tới một nơi được tường cao bao bọc chung quanh. Khi đi qua đó, thánh Phêrô nói : "Hãy giữ yên lặng khi đi qua nơi này."
"Tại sao ?", người đàn ông hỏi.
"Vì chúng ta có thể làm phiền những người bên trong", thánh Phêrô trả lời.
"Vậy ai ở trong đó ?", ông ta hỏi.
"Những người công giáo. Ông biết không, họ tưởng chỉ có họ là những người được ở đây. Nếu họ biết còn có những người khác nữa trên thiên đàng thì họ sẽ vô cùng thất vọng. Thực tế, vài người trong số họ còn muốn đòi cả tiền nữa."
Người đã hỏi Chúa Giêsu "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?" hẳn phải nghĩ rằng thiên đàng giống như một câu lạc bộ đặc biệt chỉ những thành viên mới được dự phần. Người ấy là một người Do thái và như thế ông ta tin rằng chỉ có người Do thái mới được dự phần vào Nước Chúa. Dân ngoại thì không có hy vọng gì cả. Những người tội lỗi thì hãy quên điều đó đi. (Ý nghĩ là dân tộc được tuyển chọn là một ý nghĩ nguy hiểm. Nếu Chúa chọn một dân tộc nào đó, thì Người không chọn họ để rồi loại trừ những dân tộc khác, nhưng là để phục vụ các dân tộc khác).
Vào lúc người đàn ông lĩnh hội được câu trả lời của Chúa Giêsu, chắc chắn ông đã lấy làm buồn vì ông đặt câu hỏi trong tư thế của những kẻ trước hết. Bởi vì Chúa Giêsu đã làm cho tính kiêu căng của ông tan vỡ như bong bóng xà phòng. Chúa Giêsu đã đảo lộn trật tự. Người nói : "Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót." Đó là một lời tuyên bố đầy bất ngờ gây sửng sốt và bất bình đối với người Biệt phái. Và Chúa Giêsu không dừng lại ở đó. Người đã đối xử tốt với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Người Biệt phái xem điều này như là một sự phản bội lại những người đạo đức như họ. Nhưng Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng rằng Người đến để tìm kiếm và cứu độ những người tội lỗi.
Thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi những câu lạc bộ độc quyền, những câu lạc bộ cùng sở thích, những câu lạc bộ dành cho những kẻ quyền thế, trưởng giả và vân vân. Chúng ta không trông mong Chúa Giêsu đi theo đường lối này. Không, Người không như thế. Người đã loan báo tin vui Nước Chúa đã đến. Với người Do thái, họ nghĩ rằng họ được vào Nước Chúa như một lẽ tất nhiên, thì Chúa nói với họ rằng : hãy thực lòng ăn năn sám hối, nếu không thì đặc quyền của các người sẽ không đem lại điều gì ích lợi cả.
Chúa Giêsu nói sám hối là thái độ cần thiết để vào Nước Chúa. Và Người đã thực hiện việc đưa sứ điệp đó đến nơi phần đông những người mà chẳng ai nghĩ đến. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi sám hối của Chúa, và tiến bước đến Nước Chúa. Trong khi đó, nhiều người có đạo đã cứng đầu chống lại lời kêu gọi hối cải của Người, và như thế họ đã tự ngăn chận chính con đường đưa họ vào Nước Chúa.
Ai sẽ vào được vào thiên đàng, quyết định đó không thuộc quyền chúng ta. Tốt hơn, hãy trao phó điều đó cho sự khôn ngoan và từ bi của Chúa quyết định. Chúng ta đừng làm thay Chúa. Vào ngày sau hết, chúng ta phải nhớ rằng ơn cứu độ không phải là thứ mà chúng ta có thể kiếm được. Đó là ân sủng từ nơi Thiên Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta không cố gắng để làm cho bản thân mình trở nên tương hợp với Nước Chúa. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở nên những thành viên thuộc Dân Chúa tuyển chọn. Chúng ta là "những người trong cuộc". Nhưng chúng ta không chỉ dựa vào điều đó. Chúng ta nỗ lực để sản sinh những hoa trái của Nước Chúa, ấy là, những nhân đức, một cuộc sống tốt đẹp và lòng chân thật.
Trước đây, những phương pháp dùng để giáo dục giới trẻ được dựa trên khả năng chịu đựng : những TN 21-C118
Trước đây, những phương pháp dùng để giáo dục giới trẻ được dựa trên khả năng chịu đựng : những cuộc trắc nghiệm càng tàn bạo mà trẻ vượt qua được, thì càng tốt vì trẻ đã được chuẩn bị để đối đầu với những nguy hiểm cho cuộc sống trưởng thành sau này. Chúng ta thấy một ví dụ điển hình trong nghi thức kết nạp được biết đến tại các bộ lạc Ấn độ, những nghi thức này đã được chỉ định để giúp các bạn trẻ có được vị trí trong thế giới của những người trưởng thành.
Trong một nghi thức như thế, người bạn trẻ được cha mình đưa đến một bãi đất hoang ở trong rừng từ lúc trời chạng vạng tối. Người thanh niên được cho biết là anh sẽ trải qua đêm nay chỉ có một mình và vũ khí duy nhất mà anh ta có là một cái mác. Rồi người cha rời khỏi đó, khi người thanh niên trở về từ khu rừng, anh ta đã không còn là một đứa trẻ nữa.
Thật là một cuộc thử thách đầy sợ hãi mà người thanh niên phải đối đầu. Đó là bóng tối dày đặc. Đó là những tiếng động huyền bí mà thường chẳng hại gì, vô thưởng vô phạt, nhưng lại là những âm thanh dễ hù doạ người ta nhất. Đó là cảm giác như có một con thú đang ẩn nấp đâu đây, đang chờ chộp lấy con mồi ; một cảm giác gây toát mồ hôi lạnh phủ lên khắp cơ thể anh. Giả như anh có một người bạn bên cạnh thì mọi chuyện sẽ khác biết mấy. Nhưng đằng này anh lại có một mình.
Thời gian trôi qua thật chậm chưa từng thấy. Mỗi phút dài như một giờ. Nhưng đến khi màn đêm trôi qua và cuối cùng buổi bình minh bắt đầu sáng rực trên bầu trời thì bóng tối rút lui và những nỗi sợ hãi của người thanh niên biến mất và anh lấy lại nhịp thở bình thường của mình. Rồi từ khu rừng dày đặc, bóng dáng một người xuất hiện, đó chính là cha của anh.
Người thanh niên sẽ chạy đến bên cha, gieo mình vào lòng cha và kêu lên : "Ôi, tạ ơn Chúa, vì cha đã tới !" Sau đó đến lượt người cha ôm con trai mình và nói : "Con trai, ta hãnh diện vì con. Con đã xử sự như một người trưởng thành thực sự !" Người thanh niên đã không hề biết rằng cha của mình đã ngồi gần đó suốt đêm dài để trông chừng anh. Ai muốn trưởng thành đều phải trải qua bài học "đêm rừng" theo một cách nào đó.
Tác giả thư Do thái nói đến một cách thức Chúa huấn luyện chúng ta. Chúng ta được huấn luyện nơi trường học của đau khổ. Tuy nhiên, chúng ta không tập chú đến bản chất thuộc tình cảm đau khổ. Con người khi bị tổn thương đến độ sẽ trở nên cay đắng và thậm chí sẽ không chấp nhận được đền bù.
Nhưng đau khổ có thể là một cơ hội tốt. Giá trị của đau khổ không hệ tại ở sự đau đớn, nhưng hệ tại vào những gì đau khổ đã tạo nên. Đau khổ có thể tẩy sạch một tâm hồn và thay đổi tính cách con người. Đau khổ có thể trổ sinh hoa trái. Đó là một phần không thể thiếu trong việc hình thành một con người thực sự ; đó là con người trưởng thành, sâu sắc và lòng yêu thương. Như Van Gogh đã nói : "Con người phải trải qua khó khăn mới trưởng thành."
Đau khổ là một yếu tố cần thiết trong việc hình thành một Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta đừng xem đau khổ là hình phạt của Chúa. Chúa không trừng phạt ai cả. Đau khổ là một phần của thân phận con người. Chúa để chúng ta đau khổ chỉ bởi vì điều tốt có thể đến với ta từ đó. Đau khổ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Trong đau khổ ta có được kinh nghiệm về quyền lực và tình yêu của Người. Có những sự thật mà chỉ qua đau khổ mới dạy cho ta. Một trong những sự thật đó là lòng trắc ẩn dành cho những người đang đau khổ quanh ta. Lòng trắc ẩn không thể nào học được nếu không trải qua đau khổ.
Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến TN 21-C119
Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào. Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã trình bày: Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy bước vào qua cửa hẹp.
Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy” (Is 66, 22). Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện, cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13, 24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.
Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi. Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng nghe!
Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra. Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng (Lc 13, 28).
Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay nẻo chính. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trước thời Đức Giêsu độ 700 năm, vua Sennakêrit nước Assyrie (Iraq ngày nay) gửi sứ giả TN 21-C120
Trước thời Đức Giêsu độ 700 năm, vua Sennakêrit nước Assyrie (Iraq ngày nay) gửi sứ giả đem thư đến đe dọa vua Êzêkia nước Do Thái, nếu không đầu hàng, sẽ bị tiêu diệt như bao nhiêu nước khác. Sennakêrit nói với Êzêkia: “Ngươi đừng để Thiên Chúa của ngươi lừa dối ngươi rằng: Giêrusalem sẽ không bị phó nộp vào tay ta. Ngươi đã nghe tất cả thiên hạ đã bị tiêu diệt cùng với thần của chúng. Còn ngươi, ngươi thoát được khỏi tay ta ư?”
Vua Êzêkia đã đặt lá thư đe dọa đó trước mặt Thiên Chúa và cầu khẩn: Lạy Chúa, chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa trên mọi nước trần gian, chính Người đã làm nên trời đất… Lạy Chúa, xin nghe những lời Sennakêrit mạ lị Chúa hằng sống … xin cứu chúng tôi khỏi tay nó, để mọi nước trên trần gian nhận biết chỉ mình Chúa là Thiên Chúa thật mà thôi” (2V. 19, 10-19. 35; xem thêm 18, 17-36)
Thế rồi Vua cùng toàn thể triều đình mặc áo nhặm, cầu nguyện, hãm mình và sai quan đến nhờ ngôn sứ Isaia cầu xin Chúa soi sáng. Isaia được Chúa cho biết: “Đừng sợ những lời lộng ngôn đó. Ta sẽ cho nó ngã gục, nó sẽ bị gươm đâm ở chính nhà nó” (2V. 19, 5-7). Khi Sennakêrit đem quân đến bao vây và xiết chặt Giêrusalem như “con chim bị nhốt trong lồng” và xẩy ra ban đêm, Thần sứ Chúa đến sát phạt 185.000 quân của Sennakêrit. Ông phải rút về Ninivê và đang thờ lạy tà thần trong nhà ông. Các con ông đã lấy gươm đâm ông chết (2V. 19, 35-36).
Thế là thành đô Giêrusalem và cả nước Giuda được cứu thoát. Hàng trăm câu chuyện lịch sử cứu thoát như thế đã được kể lại trong Kinh Thánh: Từ thời Noe đến thời Đức Giêsu. Noe được cứu thoát khỏi lụt đại hồng thủy. Abraham được cứu thoát khỏi thờ tà thần. Giuse tổ phụ được cứu thoát khỏi chết dưới giếng sâu, khỏi tù đầy, còn được làm tể tướng nước Ai Cập vĩ đại. Giacob và cả gia tộc được cứu thoát khỏi chết đói. Môsê và dân Israel được cứu thoát khỏi ách nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Đavid được Chúa cho chiến thắng quân Philitinh dũng mãnh và Đavid còn được cứu thoát khỏi cơn ghen tuông của Vua Saolê.
Trong mọi cơn nguy khốn, Israel đã được Thiên Chúa cứu thoát, và ngoài Thiên Chúa hằng sống ra, không còn Thiên Chúa nào khác có thể cứu thoát họ khỏi mọi tai họa, bệnh tật và nhất là sự chết. Những chuyện lịch sử về ơn cứu thoát của Thiên Chúa ban, giúp họ hiểu ơn cứu độ là gì?
Ơn cứu độ vừa là sự giải thoát khỏi mọi nguy khốn như chiến tranh, bệnh tật, thiên tai, nô lệ, đau khổ, sự chết, vừa là hồng ân hạnh phúc vinh quang muôn đời sau khi chết.
Vì thế, khi thấy Đức Giêsu rao giảng về ơn cứu độ, từ làng này qua thành khác, và thấy Người cứu chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, giải thoát kẻ bị quỷ ám, tha thứ cho kẻ có tội và cho kẻ chết sống lại. Người đã làm những việc cứu độ như Thiên Chúa đã làm xưa, nên “Có kẻ đến hỏi Người: Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy?”.
Đây là nỗi băn khoăn lo lắng, thắc mắc của bao nhiêu người, đặc biệt dân Do Thái thời đó. Chưa có ai giải đáp rõ ràng, chỉ có ba chủ trương hẹp hòi là:
Biệt phái cho rằng: Chỉ có người Do Thái mới được cứu độ. Phái khác Essêniên cho rằng: Chỉ có ai thuộc về phái họ mới được cứu độ. Một số khác tin chỉ có một số ít người còn sót lại mới được cứu độ, như kẻ hỏi Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này.
Để giải quyết những thắc mắc lo lắng về việc cứu độ con người, Đức Giêsu đã cho biết: “Tất cả các tổ phụ, các ngôn sứ được ở trong nước trời … và thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa”, như Bài đọc I, ngôn sứ Isaia đã loan báo biết: “Lời Chúa phán … Ta sẽ đến thâu họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, chúng sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta …”
Như vậy số người được cứu độ đông vô kể. Điều quan trọng đối với tôi và mỗi người chúng ta là phải làm gì để được ơn cứu độ. Đây chính là điều Đức Giêsu muốn nhấn mạnh cho mỗi người chúng ta. Muốn chắc chắn được vào nước trời, phải thực hiện hai điều này:
Một là “hãy phấn đấu qua cửa hẹp mà vào”. Thánh Phaolo giải thích trong Bài đọc II: cửa hẹp là những lời khuyên nhủ của Thiên Chúa. Ngài khuyên anh em như khuyên những người con: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy; chớ nản lòng, khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và nhận ai làm con, thì Người mới cho roi cho vọt”. Như vậy, cửa hẹp là những gian nan thử thách, dù gặp khổ cực đến đâu phải biết quyết tâm sống theo lời Chúa dạy. Phải chịu rèn luyện mới được gặt hái những hoa trái. Phải có công mài sắt mới có ngày nên kim. Phải chịu: “lửa thử vàng, gian nan thử đức”
Hai là hãy vào cho kịp thời: “Một khi chủ đã đứng dậy và khóa cửa lại mà anh còn đứng ngoài … thì chỉ còn ở đó, khóc lóc nghiến răng thôi”, mỗi người có một thời gian sống ở đời, không biết lúc nào chủ đến khóa cửa lại, Chúa đến chấm dứt đời sống mình. Cho nên luôn luôn phải cố gắng sống theo lời Chúa khuyên nhủ. Kẻ khô khan lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng, say sưa, ăn chơi, gian ác,nước đến chân nhảy không kịp nữa. Chúa sẽ bảo: “Hỡi quân gian ác, đi cho khuất mắt Ta”. Thật khủng khiếp! Lạy Chúa!
Bình thường trong cuộc sống, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại TN 21-C121
Bình thường trong cuộc sống, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.
Câu hỏi mà một người vô danh đặt ra cho Chúa Giêsu đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đó cũng là câu hỏi thông thường nơi các trường phái của các vị thông luật thời Chúa Giêsu, và là câu hỏi như muốn giới hạn số lượng những người vào Nước Chúa: "Thưa Thầy, phải chăng ít người được cứu thoát?"
Để ý trong câu trả lời, Chúa Giêsu không nhằm đến số lượng nhưng là hướng tới một bình diện khác, tức là phẩm chất của những kẻ muốn vào Nước Chúa: họ phải qua cửa hẹp và cố gắng vào đúng lúc, khi còn thời giờ thuận tiện, đừng cậy dựa vào những liên hệ hời hợt bên ngoài với Chúa. Ơn cứu rỗi được Thiên Chúa trao ban cho mọi người: những kẻ trong dân Chúa chọn và cả những kẻ ở ngoài, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để dẹp bỏ mọi hàng rào ngăn cách, thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa.
Ðặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi không được hiểu theo phạm trù số lượng, nghĩa là không phải mọi người tự động đều được cứu rỗi. Sự cộng tác từ phía con người là điều cần thiết. "Hãy vào qua cửa hẹp", hẹp, vì nó đòi con người phải từ bỏ nhiều.
Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả như bao nhiêu người khác... Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn, có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.
Nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng có thể hành xử như vậy: vừa muốn vào Nước Chúa, vừa muốn giữ lấy mọi thứ không phù hợp với Nước Chúa; muốn vào Nước Chúa, nhưng lại không thực hành giáo huấn của Ngài, không canh tân đời sống của mình.
Ngày nay, nhiều người bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc cho những tư nhân để sử dụng vào việc khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc không còn đức tin trên cõi đời ô trọc này nữa.
Dù là thế, ta đừng quá bi quan bởi lẽ tất cả là việc của Chúa. Trái lại, hãy lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7, 14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưngchiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được.
Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng nề của đam mê, xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì sợ hãi không dám dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác, vì cái tôi, vì hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được nước trời hay không là do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề không phải là đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ chính mình, tức là phải từ bỏ những gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng không đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: 'Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!', thì Chúa sẽ bảo: 'Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!' và "Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài."
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ đạo... chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.
Xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ những gì không cần thiết, nhất là những gì mất lòng Chúa, để chúng ta có thể bước qua cửa hẹp trở về Nhà Chúa.
Ở đời, người ta vẫn thường nói với nhau: “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng TN 21-C122
Ở đời, người ta vẫn thường nói với nhau: “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng nhiều tiền!”
Dù muốn dù không thì cái thực tế ê chề này nó vẫn đúng bởi đơn giản con người dù mạnh, dù lớn, dù khỏe cỡ nào đi chăng nữa cũng khó đứng vững trước sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền không chỉ mua được nhiều thứ mà nó có một sức mạnh có thể phá tất cả các cửa mà người ta muốn vào.
Là người dân, ta vẫn thường quen với các thủ tục hành chính mà người ta cũng hay đùa “hành là chính”. Đúng như vậy, để có một tờ giấy nào đó thì người dân phải đi qua các cửa. Là một bệnh nhân, khá kinh nghiệm về chuyện qua các cửa. Nếu vào các bệnh viện hay các cơ quan mà không quen biết hay không có tiền thì sẽ chậm chạp biết là dường nào. Khi đó, muốn qua các cửa dù hẹp cỡ nào đi chăng nữa thì chỉ cần xì tiền ra là có thể qua được hết.
Đời là như vậy, xã hội trần thế là như vậy nhưng Thiên Đàng, Nước Trời lại là khác. Cửa vào Thiên Đàng như Chúa Giêsu nói ngày hôm nay muốn vào thì phải qua cửa hẹp. Cửa ở trần gian có thể mua bằng quyền, bằng tiền hay người ta gọi là nhất thân nhì thế nhưng cửa Thiên Đàng thì đừng trông mong. Dù có tiền, dù có quyền đi chăng nữa cũng không thể nào qua được. Cửa này phải qua bằng nẻo đường duy nhất là tự lực cánh sinh của mỗi người và như Chúa nói cửa hẹp nên phải phấn đấu để mà vào. Phấn đấu này, chiến đấu này không phải chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính bản thân mình.
Và, người ta cũng thường hay nói chiến thắng ai cũng được, chiến thắng cái bên ngoài thì dễ nhưng chiến thắng chính bản thân của mình không phải là chuyện đơn giản. Tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Muốn tề gia thì phải tề chính cái bản thân của mình trước đã.
Với thao thức được cứu độ, ta thấy có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Phải nói rằng ta phải thán phục người này bởi lẽ người này vẫn có một nỗi lòng canh cánh về ơn cứu độ.
Nhìn lại xã hội, tôn giáo thời Chúa Giêsu, ta vẫn thấy man mác một cảm thức tôn giáo, một tâm thức được cứu độ. Chính vì lẽ đó nên người ta mới hỏi Chúa Giêsu.
Ngày hôm nay, thật tình mà nói, cảm thức về tôn giáo, cảm thức về ơn cứu độ dường như nó nhạt nhòa ngay trong chính những người có đạo và thậm chí lãnh đạo tôn giáo nữa. Nói ra xem có vẻ đụng chạm nhưng trong thực tế thì không thể nào phủ nhận được một sự thật phũ phàng như thế này.
Giữa một thế giới vật chất là hàng đầu, hưởng thụ là hàng thứ nhất thì xem ra ơn cứu độ bị nhạt nhòa, xem nhẹ và thậm chí chẳng cần quan tâm.
Có một thực tế nói ra có thể đụng chạm nhưng cũng phải nói rằng đó là khi nhìn vào những gia đình giàu có, gia đình có địa vị một chút thì các đấng các bậc thường xuyên lui tới hơn. Và, kèm theo đó là những bữa tiệc xem ra hoành tráng và chúc tụng nhau. Còn những người nghèo thì dường như gia đình của họ chẳng bao giờ thấy bóng dáng của một vị mục tử, của các đấng các bậc trong Giáo Hội.
Nhiều gia đình khá giả không ngần ngại khoe những tấm hình lẽ ra không cần khoe về những tấm hình chung với những bậc vị vọng, có khi những tấm hình đó được ghi lại nơi những bàn tiệc sang trọng.
Dù muốn dù không, dù lấp liếm, dù che đậy nhưng các đấng khó có thể trả lời được sự hiện diện của mình nơi những gia đìng giàu có.
Tôi đã từng chứng kiến một người phụ nữ tạm gọi là quyền lực, bà có số tất cả các đấng các bậc và có thể gọi bất cứ lúc nào ngay trong khi các linh mục muốn gặp hay phone cho các vị chủ chăn còn e ngại! Vì sao mà lại lộng như vậy? Không cần nói nhiều thì ai ai cũng biết nguyên nhân là vì sao?
Và, chính các vị chủ chăn làm luật đã đạp lên luật khi giỗ của mẹ một vị nhà giàu có đến 8 giám mục và ngoài 100 linh mục! Trong khi đó, đau đớn lòng mà nói những người nghèo thì đừng có mơ thấy hình dáng của các đấng.
Có người tự hào rằng quen gần hết các đấng trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Có người tự hào khoe rằng thích mời cha nào là cha đó phải đến nhà!!!??? Sự hiện diện như vậy dựa vào lý do nào ắt hẳn mọi người đã hiểu vì thật dễ hiểu. Nhà nghèo như nhà của tôi thì dù có nằm mơ 3 giấc cũng không thấy bóng dáng sự hiện diện của các đấng.
Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng nhà nào có các đấng hay đến, lễ nào các đấng đồng tế đông là người thân của mình sẽ được phần phước như người đời thường nghĩ. Nhưng không, trước mặt Chúa là phải vào cái cửa hẹp mới được vào chứ không phải chuyện là chết xong nhiều cha đồng tế là lên thiên đàng.
Nhiều người đã bé cái lầm khi nhìn và suy nghĩ rằng cửa thiên đàng sẽ rộng mở cho những người có quyền và có tiền. Người đời thì nghĩ vậy nhưng điều kiện vào Nước Trời của Chúa lại chính là sự hãm mình, là sự khổ chế bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá.
Ngày hôm nay, người ta tục hóa đời tu, tục hóa tôn giáo để rồi cảm thức vào Thiên Đàng, cảm thức ơn cứu độ không còn nữa. Chính vì xem thường giá trị cứu độ nên rồi người ta ầu ơ ví dầu với việc đạo nghĩa, với việc tham dự Thánh Lễ, các bí tích.
Còn nhớ thời bao cấp, thời khó khăn thì nhiều nơi như Kỳ Đồng, Bình Triệu, Đền Thánh Martino Ba Chuông ... tấp nập người đến đó để học giáo lý, để tìm hiểu, bồi đắp thêm kiến thức và bồi bổ đức tin. Nhưng rồi, dường như thời buổi kinh tế khá ổn người ta không bận tâm đến Giáo Lý, đến đức tin nữa. Có chăng đến những nơi đó để xin xỏ mà thôi.
Ngày hôm nay, người ta không còn cảm thức đức tin để không còn phấn đấu để bước vào cửa hẹp nữa. Chính vì đi theo chủ nghĩa tương đối cũng như lý luận rằng sao cũng được để rồi người ta không còn thao thức, không còn bận tâm cửa hẹp nữa.
Đó là quan niệm chung chung, đó là quan niệm tự do của mỗi người nhưng chúng ta nên chăng nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với chúng ta: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì?”. Câu nói đó dường như vẫn còn đâu đó văng vẳng bên tai của ta để nhắc nhớ ta rằng khi ta nằm xuống cuộc đời ta chẳng còn gì cả, còn chăng là ơn cứu độ, còn chăng là Nước Trời mà ta phải phấn đấu để bước vào.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay nhắc nhớ phận người chúng ta và đặc biệt nhắc nhớ thái độ sống, tâm tình sống của chúng ta trước ngưỡng cửa Thiên Đàng. Thiên Chúa vẫn mở ngỏ, Thiên Chúa vẫn để cho ta tự do bước vào hay không và ta nên nhớ cửa vào vẫn là cửa hẹp.
Nhớ lại hình ảnh của các cửa trong Kinh Thành Cố Đô Huế, ta thấy các cửa đều hẹp để rồi ai muốn qua đó mà trước giờ đóng cửa hay sát giờ đóng cửa thì mọi người phải chạy và tranh thủ ép mình để được vào bởi cánh cửa rất hẹp. Muốn qua đó, con người phải bỏ lại những thứ cồng kềnh bên mình.
Cũng vậy, muốn vào Thiên Đàng, ta phải thao thức, phải có tâm thức hướng lòng về Thiên Đàng để rồi từ đó ta vất bỏ cái tôi nặng nề của ta, cái lòng hận thù, tham sân si của ta. Khi và chỉ khi tâm hồn ta thanh thoát, nhẹ nhõm thì ta mới có thể bước vào và qua cửa hẹp như Chúa mời gọi mà thôi.
Và rồi nhìn lại mình, ta vẫn thấy ta là con người mỏng dòn và yếu đuối, ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta nhất là ơn can đảm để ta từ bỏ những gì vướng víu ạnh ta như cái tôi, cái tính nóng nảy, cái tính ương ương dở dở của ta để ta thanh thoát bước vào cửa hẹp và vào Thiên Đàng như Chúa mời gọi.
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mẹ Giáo Hội mở cho chúng ta những TN 21-C123
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mẹ Giáo Hội mở cho chúng ta những Cửa Thánh và luôn nhắc nhớ chúng ta hãy đến, bước qua Cửa Thánh, hành hương trong lòng thương xót vô tận của Thiên Chúa. Thế nhưng, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta về Cửa Hẹp. Vậy chúng ta cùng dừng lại để nghe Chúa dạy ta làm gì để có thể qua được Cửa Hẹp mà vào, và cánh cửa ấy như thế nào?
Cửa hẹp mà Chúa nói là Cửa vào trong Nước Thiên Chúa, là cửa của những người được cứu thoát từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Khung cửa ấy không để cho những ai cồng kềnh tham sân si vào. Cánh cửa ấy cũng không mở cho ai đó lo thỏa mãn dục vọng. Nhưng khung cửa hẹp chỉ dành cho những người biết chọn lựa cho mình một lối sống theo giới răn và tinh thần của Chúa Kitô. Và cánh cửa hẹp sẽ mở rộng cho người biết ép thân, hy sinh để sống công chính giữa cuộc đời đầy cạm bẫy, quyến rũ, mà không bị Chúa quở trách là "quân làm điều bất chính!" (Lc 13, 27)
"Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống." (Mt 7,14). Thế nên, theo Chúa là chúng ta đi trên con đường dẫn đến hạnh phúc và sự sống. Dẫu rằng ta vẫn nghe Chúa nói "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo."(Mc 8,34) Thập giá hằng ngày của cuộc sống, kẻ theo Chúa hay không theo Chúa đều phải vác. Nhưng những ai theo Chúa thì đón nhận thập giá mà vui và hạnh phúc vì có mục đích. Như người vận động viên, chịu khó, chịu đau khi tập luyện để mong đạt đến một phần thưởng, nên đau mà không khổ sở. Vậy ta vác thập giá theo Chúa thì nỗi đau ấy có một giá trị và sẽ giúp ta thoát cảnh khổ để được sống hạnh phúc, bình an và được hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
Muốn vào được cửa hẹp, ta phải chiến đấu. Chấp nhận đau đớn để giành lấy sự sống vĩnh cửu. Chiến đấu để được vào cửa hẹp chứ không phải miễn cưỡng hay bị ép buộc. "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào." Chúa muốn chúng ta hành động với sự cố gắng hết sức để được cứu độ chứ không nửa vời. "Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được" chỉ vì cái cách họ tìm vẫn là lười biếng, thích an nhàn, thoải mái...! Người Kitô hữu sống cùng và sống giữa một xã hội đầy gian tham, bất công, phân rẽ, sa đọa và hư nát...diễn ra hằng ngày trong mọi hoàn cảnh của đời thường, thì cuộc chiến đấu càng gay go và ta càng phải mạnh mẽ hơn, phải dấn thân và hiến thân hơn theo tinh thần và phong cách của Chúa Kitô.
Chiến đấu để qua được cửa hẹp nhưng cửa lòng ta cần phải rộng mở để yêu thương, phục vụ, chia sẻ và như thế, ta mới có tấm vé để vào cửa hẹp. Chúa Giêsu đã đến trần gian và mở cho chúng ta cánh cửa hẹp Nước Trời. Thời gian Chúa ban cho ta nơi trần gian là thời gian ân phúc, thuận tiện để ta nỗ lực bước vào Cửa Nước Trời. Chúa mong ta sống đức yêu thương cụ thể trong đời thường với những người ghen ghét, vu oan, làm hại... ta. Sống yêu như thế chẳng dễ chút nào nếu ta không chiến đấu với cái tôi ích kỷ và tự mãn! Thực thi việc lành phúc đức, bố thí trong kín đáo và khiêm nhường trái ngược với bản tính khoe khoang, thích biểu diễn cho người đời thấy! Ăn chay, cầu nguyện cách kín đáo và âm thầm cũng không đơn giản so với thói thường của ta hay giả hình, tỏ lộ ra bên ngoài cho mọi người khen ngợi. Không xét đoán, chẳng trả thù nhưng khoan dung, nhân từ như Cha chúng ta. Chẳng gian tham, lường gạt trong buôn bán làm ăn nhưng ngay thật, công bằng. Sống được những bài học mà Chúa Giêsu dạy, chắc chắn đòi chúng ta phải gồng mình chiến đấu với bản thân, với những cám dỗ. Phải cắt tỉa, kiêng kỵ, tập luyện như một tay đua để rồi ta sẽ giành được phần thưởng là sự sống đời đời.
Sẽ có một ngày thời hạn hết, cánh cửa đóng lại. Vậy ta cần phải quyết định nhanh chóng, không được chậm trễ. Ta hãy khôn ngoan để sống trọn vẹn ngày hôm nay như đó là ngày cuối cùng và cũng hãy chuẩn bị cho ngày hôm nay như là ngày ta đến trước Tòa Chúa. Vì khi hết kỳ hạn, đứng trước cửa, ta sẽ chẳng còn cơ hội, không làm gì cho bản thân được nữa. Chúng ta cũng đừng ỷ lại vào danh xưng hay vị trí ta có. Dù ta là Kitô hữu, nhưng nếu ta không sống công chính thì ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực. Hay dẫu ta có sống trong cộng đoàn giáo xứ, tham dự Thánh Lễ, Rước Lễ nhưng đời sống của ta chưa thực sự mến Chúa yêu người thì khi đến trước Chúa, ta sẽ bị xét xử về Tình Yêu. (x. Mt 25, 31-46) Thế nên, chúng ta cần thận trọng như lời thánh Phaolô nhắc: "Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã."(1Cr 10,12)
Ơn cứu độ là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại. Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã qui tụ muôn người thuộc mọi dân tộc để hưởng vinh quang với Chúa. Thế nhưng không phải tất cả mọi người muốn đều được cứu, mà chỉ những ai tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Chúa, chọn lựa đi trên con đường chật và cửa hẹp mới được cùng Người hưởng vinh quang. Chúa Giêsu đã chỉ cho ta phương cách và cũng là điều kiện để có thể vào Cửa Hẹp của Nước Trời là phải Chiến Đấu. Phải sống đạo chứ không chỉ giữ đạo. Yêu thương và Phục vụ là phẩm chất cần có của những ai đã hết mình chiến đấu trong chiến trường bản thân của chính mình và nơi chiến trận trần gian đầy cám dỗ hấp dẫn. Ước mong mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết bám chặt vào Chúa, cậy nhờ sức mạnh và ân sủng Chúa giúp, để có thể vững tâm chiến đấu, chiến thắng và nhẹ nhàng, khiêm nhu, thanh thoát bước vào dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ở cùng chúng con trong mọi trận chiến cuộc đời. Xin giúp sức để chúng con can trường đối diện với những thử thách và chiến đấu bước vào cửa hẹp mà Chúa đang mở chờ đón chúng con. Amen.
Một phụ nữ giàu có rất siêng năng đến nhà thờ. Những tấm biển ghi những đóng góp của bà TN 21-C124
Một phụ nữ giàu có rất siêng năng đến nhà thờ. Những tấm biển ghi những đóng góp của bà được gắn ở nhiều chỗ trong nhà thờ cùng với các vật khác. Ngày nọ bà chết. Thiên thần đón bà ở cửa thiên đàng, đưa bà xuống con đường rộng rãi, hai bên có những ngôi nhà rộng lớn xinh đẹp. Những ngôi nhà nầy ngày càng nhỏ hơn. Cuối cùng họ đến một căn lều. Thiên thần nói với bà, “Đây là phòng của bà.”
Bà ta giận dữ thốt lên, “Cái gì? Có sự lầm lẫn nào chăng?” Thiên thần đáp, “Rất tiếc! Đây là những gì tốt nhất tôi có thể làm xứng với những gì bà đã gởi đi suốt đời bà.” Đâu là động lực chính yếu của tôi trong việc đóng góp, để xây dựng một công trình nào đó?
2. Hạng Kitô hữu nào?
Một thanh niên viết thư cho linh mục tâm sự về cuộc sống của mình: Con là tay bơi lội đứng đầu trong bảng xếp hạng tại Gia-nã-đại. Con bị bạn bè dụ dỗ sử dụng ma túy. Từ đó con bị cắn câu, sức khỏe tinh thần thể xác ngày càng lụn bại. Và tệ hại hơn con thiếu nợ các tay buôn ma túy hơn $3000. Con thấy chỉ còn một lối toát duy nhất là tự tử.
Con cố gắng uống rượu cho nhiều để khỏi sợ hãi khi chuẩn bị lìa đời. Nhưng rồi điều gì đó đã ngăn cản con. Con nhắc điện thoại lên và gọi đến trung tâm cấp cứu. Sau này con mới biết chính điều ngăn cản con tự tử là nhờ lời cầu nguyện của mẹ con. Con được đưa vào trung tâm cai nghiện, và rồi sức khỏe thể lý lẫn tinh thần dần dần bình phục. Trong thời gian cai nghiện, con bắt đầu đọc Kinh Thánh. Càng đọc con càng cảm thấy bình an vui sống. Kinh Thánh giúp con tín thác trọn vẹn vào Chúa, sống tuân phục Chúa và phục vụ mọi người.
Tất cả sự việc đó đã xảy ra cách đây 5 năm. Từ đó đến nay, Chúa ban ơn cho con rất nhiều. Hiện con đang dạy trong một trường Công giáo và hoạt động tông đồ trong giáo xứ con. Ký tên Christopher.
3. Cửa rộng và cửa hẹp
Samurai là một hiệp sĩ hung bạo. Ông đến hỏi một thiền sư, “Yêu cầu ông cho tôi biết thiên đàng hỏa ngục là gì?” Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói, “Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi.”
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu ông ta. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại và nói, “Hỏa ngục là thế đó!”
Nhận được bài học thực tế của nhà sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt thiền sư với tất cả tấm lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn vào con người y và bảo, “Thiên đàng là thế đó.”
4. Tìm chìa khóa Thiên đàng
Có ông vua giàu có quyền thế. Sau khi đã chinh phục các quốc gia láng giềng và những gì vua ưa thích, vua cũng chưa lấy làm mãn nguyện. Vua ước mong tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng. Vua sai các quan tướng đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng chỉ tốn của uổng công vô ích. Sau cùng nhà vua quyết định đích thân đi tìm. Ngày nào vua cũng lặn lội, dầm mưa dãi nắng tìm kiếm. Đến một hôm, vua cỡi ngựa đến trước một bức tường cao, cổng sắt kiên cố. Trước cổng có thiên thần canh gác cẩn mật. Vua liền xuống ngựa, đến với thiên thần trình thật, “Tôi không thể an tâm nhắm mắt, nếu không tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng. Xin thiên thần thương giúp tôi.”
Thiên thần cười nói, “Thực ra trên đời này, có rất nhiều thứ chìa khóa mở được cửa thiên đàng. Có thể nó ở ngay dưới chân vua. Muốn tìm được, nhà vua phải bền tâm chịu khó tìm kiếm.”
Nghe nói thế, nhà vua cố gắng chịu khó tìm kiếm, nhưng tìm mãi không được. Bỗng ngày kia đang lúc đi trong rừng, nhà vua vấp phải một cây nhỏ bé sắp tàn héo bên vệ đường. Vua liền nhổ cây sắp chết đó đem về hoàng cung, tự tay trồng lấy và chăm sóc hằng ngày. Các quan thấy thế thì ngạc nhiên nói với vua, “Sao hoàng thượng bận tâm đến một cây nhỏ bé héo tàn đến thế? Chắc gì nó sống được? Và dù nó có sống đi nữa, thì với tuổi của hoàng thượng, hy vọng gì được nghỉ dưới bóng nó, hoặc hưởng được bông trái của nó?”
Nhà vua thản nhiên trả lời, “Tuy trẩm không còn sống để hưởng, nhưng một ngày nào đó, sẽ có người được nhờ bóng mát của nó, được thưởng thức hoa trái thơm ngon của nó là đủ cho trẩm cảm nhận được hạnh phúc rồi.” Vừa nói xong, nhà vua liền thấy ngay trước mặt chiếc chìa khóa mở cửa thiên đàng.
-----------
Tin Cậy Mến là chìa khóa mở cửa thiên đàng được trao ban cho người Kitô hữ ngày họ lãnh nhận bí tích rửa tội. Nhà vua trong câu truyện trên đây tưởng có thể tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng bằng tiền bạc của cải hoặc bằng uy quyền chức tước nên đã chịu khổ chịu cực chiếm cho được nhiều nước nhiều của, nhưng ông ta hoàn toàn thất bại. Lòng ông ta còn khao khát cái gì
5. Xây dựng thiên đàng
Một bà quý tộc tên là Elizabeth đang quỳ cầu nguyện trong nhà thờ, bỗng nghe như có tiếng Chúa nói, “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ.” Tin chắc đây là lời Chúa bảo mình, bà mướn thợ xây ngay một nhà nguyện. Nhưng xây xong, bà cũng còn nghe như tiếng Chúa bảo như thế mỗi lần bà cầu nguyện. Bà nghĩ chắc Chúa cho là nhà nguyện này nhỏ quá, không xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Có thể Người muốn bà xây một nhà nguyện lớn hơn, đẹp hơn, xứng đáng cho Người hơn, vì Chúa biết sự giàu có Người ban cho bà dư thừa để xây dựng nhà nguyện lớn hơn.
Thế là bà Elizabeth đi tìm mua một miếng đất rộng lớn, thuê thợ xây một nhà nguyện lớn hơn, trang hoàng lộng lẫy nguy nga. Bà nghĩ lần này chắc Chúa phải hài lòng lắm, vì trong vùng không có ngôi đền thờ nào rộng lớn, đồ sộ, đẹp đẽ hơn nữa. Nhưng lạ thay, khi cầu nguyện, bà vẫn còn nghe như có tiếng Chúa nói với bà, và lần này Chúa nói một cách khẩn thiết nài nỉ hơn, “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ.”
Bà ngạc nhiên quá nên hỏi Chúa, “Con đã xây cho Chúa một ngôi nhà lộng lẫy nhất vùng này. Sao Chúa còn bảo con xây nhà cho Chúa ngự nữa? Hay là Chúa muốn con xây dựng một Vương Cung Thánh Đướng lớn nhất và đẹp nhất nước này?”
Tiếng Chúa thì thầm trả lời, “Con hãy nhìn qua bên kia cửa sổ. Con thấy gì ở bên đó?” “Con thấy một gia đình nghèo khổ đang trú ngụ dưới một bóng cây cổ thụ, nhưng việc đó có can hệ gì đến Chúa?”
“Có chứ! Cha không nhờ con xây nhà cho Cha, mà xây nhà cho gia đình nghèo khổ đó. Và đó chính là con xây nhà cho Cha và cũng là xây nhà cho con trên thiên đàng.”
Vào Chúa Nhật ngày 14/4/1985, Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, Linh Mục Tom Maniyangat đang TN 21-C125
Vào Chúa Nhật ngày 14/4/1985, Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, Ấn Độ, để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị tử nạn. Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep. Ngài được chở vội tới nhà thương, cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường. Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết. Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương. Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha. Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh, nói với cha:
"Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời. Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục." Thiên Thần cũng nói rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục nữa."Trước tiên,Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục. Đó là một quang cảnh thật ghê sợ. Tôi thấy Satan và các quỷ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2.000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau,thấy những người khác đang bị bày quỷ dữ tra tấn hành hạ."
Tôi được nói cho biết trong Địa Ngục có bảy"cấp bậc," hoặc bảy tầng đau khổ. Những người "phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác," khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất. Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn như những con quái vật đáng sợ. Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải. Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh. Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh. Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục, mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi. Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi, có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu. Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ. Vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khác, bởi những lời dạy sai lầm và bởi gương xấu của họ.
Sau đó, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi tới thăm Luyện Ngục. Đau khổ chính của những Linh Hồn này là sự bị chia cắt với Thiên Chúa. Có một số người trong Luyện Ngục đã phạm vô số tội trọng khi còn sống, nhưng họ đã làm hoà với Thiên Chúa trước khi họ chết. Mặc dù những Linh Hồn này bị đau khổ ghê gớm, nhưng họ vẫn cảm nhận được sự bình an và nhận biết rằng, một ngày kia họ sẽ được phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Họ xin tôi cầu nguyện cho họ, và nhờ tôi nói lại với người khác cầu nguyện cho họ nữa. Khi chúng ta cầu nguyện cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta sẽ nhận được sự biết ơn của họ và do đó, họ cũng sẽ cầu nguyện cho chúng ta khi được lên Thiên Đàng.
Tiếp theo, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi lên Thiên Đàng, ngang qua một đường hầm với ánh sáng chói lọi. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và niềm vui này trong đời. Và rồi đột nhiên, cửa Trời mở ra, và tôi nghe thấy tiếng nhạc du dương nhất mà tôi chưa từng được nghe. Các Thiên Thần đang ca hát, chúc tụng Thiên Chúa. Tôi được nhìn thấy tất cả các thánh, nhất là Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, và nhiều Giám Mục, Linh Mục thánh thiện, sáng chói như những vì sao. Khi tôi thấy mình ở trước mặt Chúa, Ngài phán với tôi:"Cha muốn con trở lại thế gian. Trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ là dụng cụ bình an và chữa lành cho dân Cha. Con sẽ làm việc ở nước ngoài và sẽ nói ngôn ngữ nước ngoài. Với ơn Cha, mọi sự đều có thể cho con". Sau những lời này, Đức Mẹ phán với tôi: "Hãy làm những gì Ngài bảo con (Ga. 2, 5). Mẹ sẽ giúp con trong sứ vụ của con." Không lời lẽ nào có thể diễn tả được vẻ đẹp đẽ, nét huy hoàng của Thiên Đàng! Nơi đó, chúng ta sẽ được sống đời đời trong bình an và hạnh phúc, vượt xa hàng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa bội phần tốt đẹp hơn bất cứ tưởng tượng nào chúng ta có thể nghĩ tới. Nhan Thánh Người ngời sáng và đẹp đẽ, hơn hàng ngàn mặt trời đang mọc. Các tấm hình đẹp đẽ chúng ta thấy trên dương thế chỉ là bóng mờ của sự lộng lẫy của Người mà thôi. Mẹ Maria ở bên cạnh Chúa Giêsu. Người rất đẹp đẽ, sáng láng. Thiên Đàng là Nhà Thật của tất cả chúng ta: Tất cả chúng ta được tạo dựng để vào Thiên Đàng và đời đời vui hưởng Thiên Chúa.
Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích do các xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên. Các người chung quanh tôi hết sức sợ hãi, hốt hoảng vừa chạy vừa la. Một người trong số họ đến gặp bác sĩ:"Thi thể cha đang rên rỉ!" Bác sĩ vội chạy tới khám nghiệm, liền quả quyết:"Cha vẫn còn sống. Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…" (Nguồn: FOSS/web Phinomenon)
Trong Tin Mừng Chúa nhật 21 Thường niên hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo ngày chung cuộc của mỗi người. Nếu ai chiến đấu quyết liệt vào cửa hẹp, thì sẽ được cứu rỗi. Bằng không, khi cửa đóng sẽ vô phương nài nỉ xin vào trong. Những hình ảnh tuyệt diệu trên Nước Chúa, mà Linh mục Tom Maniyangat thị kiến, càng khẳng định thêm niềm hy vọng của những ai đi theo Chúa đến cùng.
Chiến đấu vào Cửa Hẹp
“Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta.” (Is 66, 18) Ơn cứu độ mang tính phổ quát rộng rãi dành cho mọi người, mọi nơi, mọi dân tộc, không loại trừ bất cứ ai, dù theo tôn giáo nào, khuynh hướng nào, như Lời Chúa phán qua ngôn sứ Isaia. Lòng Thương Xót Thiên Chúa không muốn hư mất bất cứ ai. Đức Giêsu đã công khai khẳng định trước toàn thể công chúng: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14)
Tuy nhiên, ơn cứu độ lại còn mang tính đặc thù, riêng rẽ cá nhân, dành hẳn cho mỗi người. Chính vì thế, Đức Giêsu làm lơ, không trả lời cụ thể câu hỏi huyênh hoang, trâng tráo, ngạo mạn, tự đắc, tự mãn, tự phụ: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" Cứ y như bản thân, nhóm mình, phe ta, đã được ghi thẳng vào sổ được cứu rỗi. Thay vì tỏ bất bình, Người thản nhiên, chân tình, vui vẻ, thân thương hướng dẫn, khuyên nhủ, nhắc người hỏi: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”
Chiến đấu với chính mình, với kẻ nội thù đang ẩn sâu, nấp kín, đang nằm vùng, cài cắm ngay trong thân xác và tâm hồn vị kỷ, là ưu tiên nhất. Vì thế, điều kiện khởi sự theo Chúa chính là từ “bỏ mình.” Thoát ra khỏi ách nô lệ bản năng, tham sân si, lợi lộc, nô lệ tiền tài, vật chất, tiện nghi, nô lệ hào quang danh vọng."Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mc 8, 34)
Chiến đấu với cái tôi, vốn được ảo tưởng là trung tâm vũ trụ, là một cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt và trường kỳ. Thường người ta hay lấy quan điểm, cái nhìn chủ quan, cá nhân, hạn hẹp, phiến diện, lệch lạc, méo mó của mình làm tiêu chuẩn, áp đặt cho tha nhân, có khi cho cả Đấng Tạo Hoá. Vậy không chiến thắng nổi chính bản thân, làm chủ bản thân, thì đừng mơ bước vào cánh cửa chật chội, nhỏ hẹp, vì Nước Trời dành cho những ai mạnh mẽ đấu tranh, như Đức Giêsu đã quả quyết:“Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11, 12; Lc 16, 16)
Dĩ nhiên, không thể nào chiến thắng cái tôi xác thịt ích kỷ, thế gian mưu ma chước quỷ, với thiên hình vạn trạng, nếu không có hồng ân Chúa trợ lực, qua cầu nguyện và hãm mình chay tịnh. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao.” (Ep 6, 12).
Thánh Phaolô đã hoàn toàn phó thác và trông cậy quyền năng Thiên Chúa: “Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi” (Cl 1, 29). Thánh nhân còn ân cần khuyến khích mọi người, qua thư gửi anh Timôthê: “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.” (1Tm 6, 12)
Vơ vét, gom góp, chất đầy lòng tham, ham muốn ngồn ngột, lỉnh kỉnh tiện nghi hưởng thụ, cồng kềnh đam mê, háo danh, háo lợi, thì làm sao có thể vào “cửa hẹp”? Trong khi, Đức Giêsu lại là cửa định mệnh: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 9).
Người đã làm gương, đã thân chinh qua cánh cửa hẹp đó, bằng cuộc tử nạn đau đớn. Rồi sau đó, Người được phục sinh vinh hiển. Vì thế, Người luôn kêu gọi mọi người cố gắng phấn đấu vào được cửa hẹp: “Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 14)
Chiến đấu trước khi cửa đóng
Con đường dẫn đến cửa hẹp cũng được Đức Giêsu tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, vì: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6) Con đường từ bỏ mình, vác khổ giá. Con đường hy sinh, hãm mình. Con đường đơn sơ, khiêm nhường, trong sạch, nghèo khó, vâng phục. Con đường tái sanh, hồn nhiên, ngây thơ như em bé, phó thác như con với cha mẹ. Con đường ăn năn, sám hối kiếp đi hoang trở về với Người Cha Nhân Từ.
Nhưng phận người thì mong manh, mỏng dòn, yếu đuối, sớm nở tối tàn lúc nào chẳng hay. Chẳng biết khi nào cánh cửa cuộc đời khép chặt lại. Vậy cố gắng phấn đấu sống giây phút hiện tại tròn đầy bổn phận và trách nhiệm, chính là vâng phục Thánh Ý Chúa, chính là xả kỷ vị tha, sống cho, sống vì, sống với tha nhân, cùng với tình yêu nồng nàn bác ái, dấn thân phục vụ. Đừng như các cô trinh nữ dại khờ gõ cửa, năn nỉ vô vọng: “Thưa ngài, thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với.” Rồi chỉ nghe câu trả lời hết sức phũ phàng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25, 11-12)
Đừng tự mãn con nhà đạo gốc, tự mãn chăm lễ chầu, kinh nguyện, tự mãn giữ đạo máy móc theo luật định, vì chắc chắn sẽ nghe lời khước từ lạnh lùng: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính."
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đổi "của thiệt" lấy toàn "đồ giả". (Đường Hy Vọng, số 676)
Lạy Chúa Giêsu, xin luôn thức tỉnh chúng con trong từng phút giây, đừng mê hoặc theo bản năng, thế gian và ma quỷ, mà luôn quyết liệt chiến đấu chống lại mọi cám dỗ của sự dữ, của văn minh sự chết, để có thể vào được cửa hẹp bất cứ khi nào Chúa gọi.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, che chở, giúp đỡ cho chúng khi nay và khi lâm tử, luôn sẵn sàng dọn mình bước vào cửa hẹp, hầu được cứu rỗi. Amen.
Một người đến gặp Chúa Giêsu và hỏi," Thưa Ngài, chỉ có vài người được cứu?" Để hiểu được TN 21-C126
Một người đến gặp Chúa Giêsu và hỏi," Thưa Ngài, chỉ có vài người được cứu?" Để hiểu được ý nghĩa câu hỏi trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm thiên đàng của người Do-thái lúc bấy giờ.
Trước hết, người đàn ông này là một người Do thái. Ông ta nghĩ rằng, chỉ có những người Do-thái mới được cứu độ. Cho nên, ông ta hỏi Chúa, chỉ có vài người được cứu độ và lên thiên đàng, còn những người dân ngoại thì không được vào. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu cảnh tỉnh họ, và muốn cho họ hiểu đúng về quan niệm Nước Trời. Ngài trả lời rằng, " Hãy phấn đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được." Chúa Giêsu nói với nguời Do Thái, họ có thể là những người bị loại ra khỏi NướcTrời nếu như họ không chịu ăn năn sám hối.
Kế đến, Chúa Giêsu bảo họ, hãy vào "cửa hẹp". Ngài dùng nhìn ảnh cửa hẹp để minh họa, vì cách suy nghĩ, hành xử và lối sống của họ đi ngược lại với đường lối của Thiên Chúa. Họ tự cho mình người là người thánh thiện, công chính hơn người dân ngoại, tất nhiên, họ sẽ được vào thiên đàng. Điều này nhắc tôi nhớ câu chuyện một người đàn ông chết và được lên thiên đàng. Anh ta đến gặp ông thánh Phêrô tại cổng, và sau đó anh ta được đưa đi xem nhiều nơi. Rồi họ đến một nơi đặc biệt để giam giữ các tội nhân đang đền tội trong đó với bức tường bao bọc kính đáo chung quanh. Khi đi ngang qua, thánh Phêrô bảo anh ta phải giữ thật im lặng. Anh ta hỏi, tại sao? Thánh Phê-rô trả lời, vì ta không muốn làm phiền và cho họ biết con. Với sự nghi ngờ này, anh ta hỏi lại thánh Phê-rô, vậy ai ở trong đó vậy? Ngài trả lời: ở trong đó có nhiều giáo dân và cha xứ của con. Câu chuyện này nói lên điều gì cho chúng ta. Điều đáng thương nhất đối với con người trong thời đại này, đó là sống ảo tưởng về mình, đưa mình lên trở thành "thánh". Cho nên, Chúa bảo người Do-thái và cả chính chúng ta hãy đi vào cửa hẹp là thế. Nhờ đó, nó giúp chúng ta ý thức về mình bởi con người luôn có tính tự cao và kiêu căng.
Cửa hẹp là thế nào? Nó không phải là không gian nhỏ hay cửa hẹp mà là thái độ và đức tính khiêm tốn cần có của con người, để chúng ta bước vào Nước Trời. Cửa hẹp không phải là không gian hẹp mà là cánh cửa của trái tim biết mở ra với với Thiên Chúa và đến với tha nhân. Con đường hẹp là con đường của hy sinh và từ bỏ. Vì cánh cửa rộng thênh thang dễ dẫn chúng ta vào con đường sai lạc. Chúng nghĩ nghĩ rằng, chúng ta là người có đủ tự cách và cao trọng để bước vào, giống như một ông chủ lớn hiên ngang phải đi vào cửa chính. Đó là lối sống ảo của các nhà tư tế và kinh sư, và đó cũng là lý do tại sao, Chúa đưa em nhỏ đến và bảo dân chúng rằng, " Ai muốn vào Nước Trời thì trở nên trẻ nhỏ này." Vì trẻ nhỏ hiền lành, đơn sơ, khiêm tốn, phó thác và vâng nghe theo cha mẹ chúng.
Điều sau cùng cũng là điều quan trọng nhất, Chúa Giêsu làm cho mọi người phải ngạc nhiên và khó hiểu khi Ngài công bố: "Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót." Nghe câu nói này, chúng ta có thể khó hiểu với những gì chúng ta đang sống trên đất nước Mỹ. Một ví dụ cụ thể, đó là khi mọi người vào tính tiền sau khi mua hàng, thì họ phải sắp hàng theo thứ tự, người đến trước sẽ đứng trước người đến sau. Họ không có được ưu tiên theo kiểu ông lớn thì được lên hàng đầu. Thế nhưng, Chúa Giêsu làm chúng ta từ ngạc nhiên này đến ngạc khác. Đó là việc Chúa ưu tiên cho người đến sau. Họ nghĩ rằng, Chúa ưu tiên cho kẻ đến sau được lên hàng đầu thì không có sự công bằng cho người đến trước. Từ thắc mắc này, Chúa lại mở ra cho dân chúng một cái nhìn mới về ơn cứu độ. Đó là Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng cho những người tội lỗi vào. Kẻ sau chót sẽ lên hàng đầu, và kẻ hàng đầu sẽ xuống hàng chót là thế, bởi vì kẻ chót là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải để trở về với Chúa. Thiên đàng sẽ vui mừng khi một nguời tội lỗi biết ăn năn sám hối và quay trở về còn hơn cả 99 người không cần sám hối. Cũng như theo tín lý thần học, đó là ơn cứu độ phổ quát là dành cho tất cả mọi người và mọi dân tộc.
Tóm lại, chúng ta cần biết rằng, ơn cứu độ không phải là những gì chúng ta mua được mà là ân ban của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi người con dân của Ngài bước vào Nước Trời với điều kiện bằng con đường hẹp. Con đường của hy sinh và từ bỏ cái tôi ích kỷ chật hẹp để vươn tới với tha nhân và trở về cùng Thiên Chúa. Mỗi lần ta từ bỏ một thói xấu là lúc ta đi vào cánh cửa hẹp.
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa, Mẹ Maria và các thánh đồng hành cùng với chúng con để đi về Nước Trời. Amen.
Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, vì thế, Người không loại trừ ai. Khi đến trong trần TN 21-C127
Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, vì thế, Người không loại trừ ai. Khi đến trong trần gian, Đức Giêsu đã thi hành sứ mạng ấy và không ngừng loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng, sứ mạng này đã không làm cho người Dothái hài lòng, bởi lẽ họ luôn nghĩ chỉ mình dân tộc Israel mới được Thiên Chúa thương và cứu chuộc, còn các dân tộc khác chỉ là dân ngoại.
Chính vì lý do này, mà hôm nay, một người đã đứng lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy”?
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không trả lời cho biết số lượng và thành phần được cứu, mà nhân cơ hội này, Ngài đã vạch ra cho họ một con đường để được cứu chuộc, đó là: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).
1. Bối cảnh tạo nên lời giáo huấn
Thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta thấy câu chuyện được đặt vào giai đoạn Đức Giêsu tiến về thành Giêrusalem nhân dịp lễ Cung hiến Đền thờ.
Trên hành trình này, Đức Giêsu đã rảo qua các làng mạc, thị trấn để giảng dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ phải sám hối, cầu nguyện và từ bỏ những thứ trái ngược với đức tin và đạo lý Tin Mừng để được cứu chuộc.
Khi nghe Đức Giêsu giảng, có một người đã cất tiếng hỏi Ngài: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi?” (Lc 13, 23).
Câu hỏi này mang tính tập thể, bởi vì nó được khởi đi từ quan niệm độc tôn chủng tộc của người Dothái. Bởi vì người Dothái luôn nghĩ rằng: chỉ có những người thuộc dòng dõi con cháu Apraham, và phải ở trên phần đất mà cha ông truyền lại, hay ít ra là phải nói tiếng Dothái, vì đây là Tiếng Thánh, rồi phải sớm tối đọc kinh Shema thì mới được cứu độ.
Khi quan niệm như thế, họ đã loại bỏ hết những thành phần của các dân tộc khác và không chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu về ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc.
Thừa hiểu được tâm trạng tự kiêu, tự đại, độc tôn, đặc lợi mà những người Dothái tự nhận cho mình, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học.
Tuy nhiên, Ngài đã không trực tiếp trả lời câu hỏi được đưa ra. Bởi lẽ Đức Giêsu đến không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người. Vì thế, Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc.
Thật vậy, nếu trả lời là: “Chỉ có một số ít được vào”, thì phải chăng lại khơi lên tính tự mãn nơi dân tộc vốn có cái nhìn ích kỷ và hẹp hòi này, và lẽ đương nhiên, họ không cần cố gắng nữa vì nghĩ rằng: số ít ấy chính là dân tộc Dothái. Còn nếu Đức Giêus nói là: “Số người được cứu sẽ rất đông”, thì cũng sẽ làm cho mọi người thờ ơ, ỷ lại và cũng không cần cố gắng làm chi, vì đàng nào thì ơn cứu chuộc cũng sẽ đến với mình.
Chính vì lý do trên, mà Đức Giêsu đã không trả lời theo số lượng, nhưng Ngài nhắm tới phẩm chất. Bởi vì: ơn cứu chuộc là của Thiên Chúa, và Ngài ban cho hết mọi người, moi nơi và mọi thời, miễn sao những người muốn được cứu phải đi theo con đường của Thiên Chúa.
Chính thánh Phaolô cũng đã xác quyết rằng: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này” (Mt 18,14).
Nói như thế, không có nghĩa là cứ muốn vào là được, hay cứ ngồi lỳ và ỷ nại vào ơn Chúa, lại càng không phải cậy dựa vào uy thế của bản thân, hay dân tộc... Điều này cũng được Gioan Tẩy Giả nhắc nhở những người Pharisêu và Sađucêu: “Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…” (Mt 3,7t).
Vì thế, muốn được cứu, phải chiến đấu để mà vào. Không cố gắng sẽ chẳng được vào, vì con đường đưa tới ơn cứu chuộc là con đường hẹp.
2. Muốn vào được Nước Trời, phải đi qua cửa hẹp
Khi nói đến vấn đề cửa hẹp, chúng ta cần hiểu biết thêm rằng:
Ở đất nước Dothái thời Đức Giêsu, dân chúng sống trong các thành phố và làng mạc được bao bọc bởi những bức tường thành. Thời đó không có đèn điện. Vì thế, khi trời tối, các cổng dẫn vào thành phải được đóng cẩn thận và các cửa vào nhà cũng được đóng kín để tránh nguy cơ trộm cướp ban đêm.
Chính vì thế, mà những người đi ra khỏi thành, nếu về trễ thì không thể vào được cổng chính, vì các cổng chính đã đóng chặt và không ai dám mở cửa cho vì sợ kẻ thù tấn công...
Họ chỉ có thể lách vào các cổng phụ, còn gọi là cửa hẹp. Người Dothái cũng gọi cửa này là: “Mắt của cái kim”. Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao thánh sử Luca có nhắc đến ở chương 18, câu 25: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Thời đó người đi buôn thường chất đầy hành lý trên lưng lạc đà, muốn qua cửa hẹp thì phải vứt bỏ hết tất cả, và con lạc đà phải khom mình, quỳ gối thì mới mong lọt qua cửa này.
Khi Đức Giêsu lên tiếng mời gọi bước qua cửa hẹp, ấy là Ngài muốn mời gọi người đương thời phải từ bỏ những thứ không cần thiết và sẵn lòng bước qua cửa hẹp. Lời mời gọi ấy chính là biết sống chừng mực, thực thi huấn lệnh của Thiên Chúa cách trung thành và biết hy sinh cũng như chấp nhận mọi khó khăn... phải sống tự chủ và sống có trách nhiệm.
Tuy nhiên, không phải dửng dưng và nghĩ rằng: muốn vào lúc nào thì vào, không! Phải bước vào đúng lúc, đúng nơi, đúng giờ, vì: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” (Lc 13,25).
Như vậy, lời mời gọi phấn đấu để vào qua cửa hẹp, ấy chính là sự hoãn cải thường xuyên.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Con người thời nay thường chịu ảnh hưởng bởi nền văn minh hưởng thụ. Họ có khuynh hướng ăn sổi ở thì, chụp giật chớp nhoáng...
Lựa chọn này không chỉ dừng lại ở ngoài xã hội, nhưng nó còn ảnh hưởng và chi phối ngay cả đến đời sống đạo của nhiều người tín hữu. Vì thế, dù có đạo hay không có đạo, dù là Công Giáo hay tôn giáo khác, người ta thường chọn cho mình một sự thoải mái dễ chịu, không muốn gò bó.
Chẳng hạn như: theo đạo nhưng không muốn thực thi Lời Chúa, vì Lời Chúa làm ta phải dẹp bỏ nhiều thứ không phù hợp. Đi lễ phải lựa chọn cha. Cha nào giảng ngắn, giảng hay thì đi... Ít khi đi sớm, đến cận kề giờ lễ mới tới. Đến rồi thì viện đủ mọi lý do để ở ngoài theo kiểu đi lễ “ôm” và đi lễ “lòng vòng”. Lại có người thích giữ đạo theo kiểu “gốc cây”. Họ cũng chọn nhà thờ, nào là nhà thờ đẹp, rộng thoáng mát, và có ghế nệm êm, máy lạnh...
Khi tham dự thánh lễ, nếu cha giảng những giáo huấn của Giáo Hội mà đụng chạm đến cuộc sống của ta là khùng lên và tỏ vẻ khó chịu...
Lại có những người thường ưa nói hành, nói xấu người khác hơn là nhận ra và đón nhận điều tốt nơi anh chị em. Hay vẫn còn những người dùng tiền của công khó của cha mẹ, bản thân hay của người khác vào những chuyện bất chính... Rồi cũng không thiếu những bạn trẻ lao mình vào rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng “đi qua cửa hẹp”, tức là phải từ bỏ những thứ không cần thiết và hãy cố gắng để thay đổi cách sống cho phù hợp với đạo lý Tin Mừng. hãy biết cẩn trọng trong việc lựa chọn, bởi vì, cửa hẹp sẽ đẫn đến sự sống, còn cửa rộng và lối thênh thang như tiền của, sắc dục, và sự dễ dãi sẽ dẫn đến cái chết trầm luân muôn kiếp. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc cho chúng ta biết vào đúng lúc, đúng giờ, bởi vì: hãy sám hối khi ta còn có thể và có cơ hội, kẻo lỡ quá muộn, chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa, lúc đó không ai cho vào và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ bị quăng vào nơi khóc lóc và nghiến răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi trên con đường của Chúa đã đi, đó là con đường hẹp. Xin cho chúng con luôn biết khước từ những con đường thênh thang rộng rãi, vì con đường này sẽ dẫn đến diệt vong. Amen.
Bài Tin Mừng đề cập tới nhiều điều: ai được cứu độ ai không? Cần gắng công vào cửa hẹp, những TN 21-C128
Bài Tin Mừng đề cập tới nhiều điều: ai được cứu độ ai không? Cần gắng công vào cửa hẹp, những người cuối hết sẽ lên hàng đầu và những người đứng đầu lại lùi xuống chót. Tuy đề cập tới nhiều điều nhưng đều nhắm làm sáng tỏ một vấn đề cốt thiết nhất của con người, đó là ơn cứu độ: ai được cứu độ và làm thế nào để được cứu độ?
Trước hết, có người đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, phải chăng chỉ có ít người được cứu độ?”. Chắc chắn người hỏi là một người Do Thái, vì đây là điều thắc mắc thường xuyên của những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu. Trước câu hỏi ấy, đã có nhiều câu trả lời, nhưng người nào thuộc nhóm nào cũng cho rằng: chỉ có những người thuộc phe nhóm của họ mới được cứu độ. Theo chiều hướng đó, câu hỏi đặt ra ở đây có thể hiểu theo hai cách: Thứ nhất, hoặc người hỏi muốn Chúa Giêsu trả lời đúng hay sai sự kiện cho rằng chỉ ít người được cứu độ, có nghĩa là qui việc cứu độ về phía Thiên Chúa: Ngài chỉ cứu một số ít thôi. Mà nếu như thế, những người không được cứu có quyền đổ thừa cho Thiên Chúa, vì Ngài không cứu họ chứ không phải tại họ, giống như một học sinh lười, đi thi bị rớt, thì thản nhiên cho rằng chỉ vì giám khảo khó quá chứ không phải tại mình lười hay kém. Thứ hai, hoặc người hỏi mang tâm trạng tự tôn của người Do Thái, dân riêng của Chúa, tự cho mình là số ít được cứu độ, và chẳng cần xét đến cách sống của mình ra sao, vì thế nào mình cũng sẽ được cứu.
Chúa Giêsu trả lời thế nào? Ngài nói: mọi người đều được cứu độ. Nhưng được cứu độ hay không là hoàn toàn do mỗi người. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ? hoặc tôi có được cứu độ không? Trái lại, bất cứ ai, thuộc bất cứ dân tộc hay ngôn ngữ nào, thuộc thành phần xã hội ra sao, đều phải biết tự hỏi: Tôi có muốn được cứu độ không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các phương pháp và dùng những phương thế tương xứng. Phương pháp và phương thế Chúa Giêsu chỉ dạy ở đây là gắng vào cửa hẹp. Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào, tức là cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh, đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Đàng khác, nước trời là phần thưởng chỉ dành cho những ai đã gắng công, phấn đấu, tỏ ra xứng đáng, biết tự kềm chế, hãm mình, từ bỏ. Nói khác đi, nước trời không dành cho những ai chỉ muốn dễ dãi, ăn sẵn, chiều theo bản năng, chạy theo những quyến rũ trần thế, thích hưởng thụ.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nêu lên cho chúng ta một sứ điệp, một lời mời gọi: “Hãy phấn đấu để được cứu độ”. Phải phấn đấu, vì đường dẫn đến nước trời không thể và không phải là con đường dễ dãi mà đa số con người thích chọn, nhưng là lối hẹp. Chính Chúa Giêsu đã chọn lối hẹp, và tất cả những ai muốn theo Ngài, muốn được cứu độ cũng phải chọn lối hẹp.
Vua Sác-lơ thứ năm, một lần kia gọi hoàng tử đến và cho hoàng tử được lựa chọn. Trên bàn, vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên, vua nói: “Con chọn cái nào?”. Suy nghĩ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiềm?”. Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào triều thiên đáp: “Thưa cha, nhờ thanh kiếm này con sẽ được triều thiên kia”. Chúng ta cũng thế, nhờ thanh kiếm đi vào lối hẹp, tức là cố gắng vượt qua gian khổ, khó khăn, thử thách, chúng ta sẽ chiếm được triều thiên nước trời.
Đến một ngày nào đó, khi cánh cửa sự sống khép lại, chúng ta phải từ giã cuộc đời, chúng ta sẽ bước sang một cuộc sống mới mà ở đó sẽ hết tranh đấu và không còn đổi thay nữa, khi đó số phận đời chúng ta được quyết định một lần dứt khoát hoặc suớng hay khổ. Nhưng căn cứ vào đâu để quyết định sự sướng hay khổ, tức là chúng ta được thưởng hay bị phạt? Thưa căn cứ vào cuộc đời chúng ta đã sống ở trần gian, nghĩa là số phận đó hoàn toàn tùy thuộc vào cách chúng ta đã sống ở đời này. Vì thế, đời sống ở trần gian, tuy ngắn ngủi, một trăm năm là cùng, nhưng lại rất quan trọng, vì quyết định số phận đời đời của chúng ta. Đó là lý do Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy đi vào con đường hẹp, hãy vào cửa hẹp.
Có người đã nói: cuôc đời này chẳng khác gì một bãi mìn, bãi mìn được ngụy trang bằng đủ mọi mầu sắc quyến rũ, ham mầu sắc mà quên hiểm nguy chúng ta sẽ bị ngộ nạn đau thương. Hương nồng của tửu điếm đã hủy hoại no ấm của bao gia đình; mùi thơm của hồng lâu đã lót đường cho bao đời người đi vào trụy lạc; thế lực của đồng tiền đã đưa vào lò sát sinh từ tình nghĩa phu thê đến ơn sâu phụ tử, mẫu tử; vị ngọt của danh vọng đã là cái hố chôn sống bao đời người.
Muốn thoát khỏi bãi mìn này, chúng ta phải biết đi vào con đường hẹp là xa tránh, chứ đừng ham thích dễ dãi, đừng hảo ngọt để khỏi ngộ nạn thảm thương. Chúa nói: “Nước trời chỉ thua sức mạnh”. Muốn có sức mạnh phải gian lao tập luyện, kẻ buông thả chẳng khi nào có được. Và đường vào nước trời là đường hẹp, muốn đi tới đó phải chấp nhận chông gai, kẻ sợ trách nhiệm, sợ phấn đấu, chẳng khi nào tới được. Xin Chúa cho chúng ta luôn có được ý chí mạnh mẽ để dám vươn lên khỏi nếp sống tầm thường của mình để sống tốt đẹp, cao thượng trong mọi hoàn cảnh.
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, cha đố chúng con Chúa muốn nói về vấn đề gì? - Chúa muốn TN 21-C129
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, cha đố chúng con Chúa muốn nói về vấn đề gì?
- Chúa muốn nói về những điều kiện mà những người muốn vào nước trời của Chúa phải có.
- Chúa muốn nói về những kết cục của những người không chịu đi theo con đường của Chúa.
- Rất đúng! Chúng con rất thông minh. Bây giờ cha cắt nghĩa thêm.
Cha thấy như Chúa nói: Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời.
Như vậy, ai muốn vào Nước Trời thi phải nỗ lực phấn đấu. Nhưng phấn đấu thế nào?
1. Trước hết phải phấn đấu để hạ mình xuống. Chúng con thấy ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Người nghèo phấn đấu để trở thành giầu có. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14,11). "Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ" (Lc 22, 26). "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào" (Mc 10,15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để phình to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. "Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19, 21). "Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5, 3).
2. Thứ đến phải nhớ: Cửa vào Nước Trời thì hẹp vì được làm theo kích thước của Ðức Giê-su.
Cửa này "thấp" vì Ðức Giê-su đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thầy, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Cửa này bé vì Ðức Giê-su đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Ðức Giê-su đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ðức Giê-su đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Ðức Giê-su đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Ðức Giê-su phấn đấu hạ mình thẳm sâu và thu mình thành bé nhỏ nghèo khó. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp này để vào được Nước Thiên Chúa mà thôi.
Vì con đường đưa tới nước trời là con đường hẹp:"Hãy vào qua cửa hẹp"
Sẽ không có phần thưởng cho những kẻ ươn lười. Sẽ không có sự cứu độ cho những ai không cố gắng đi theo đường lối của Chúa.
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này: Câu chuyện về DÉMOSTHÈNE nhà hùng biện danh tiếng nhất cổ Hy Lạp (385-322 tr.Th. C).
Chúng con có biết DÉMOSTHÈNE đã mất bao nhiêu năm để rèn luyện mình trở thành người hùng biện số một của Hy Lạp không? - 15 năm năm đấy chúng con. Nói vậy chúng con cũng chưa thấy hết được nỗ lực của ông như thế nào. Lịch sử kểm lại rằng: Ngay từ nhỏ ông là người bị ngọng.
Để sửa lại tật bị ngọng này, ông ngậm sạn và ra bãi biển để tập nói.
Để đánh át được tiếng ồn của đám đông, ông cũng lại ra tận bờ biển tập gầm thét làm sao cho tiếng của ông lấn át được tiếng sóng gió. Để cho ngực khỏe, và sức chịu đựng được lâu, ông đọc những bài văn thật dài. Trời sinh ra, ông không có được con người lịch thiệp như mọi người, ông đã nghĩ ra cách này để sửa chữa những bộ điệu vụng về của ông. Chúng con có biết ông làm cách nào không? Ông cắm bốn thanh gươm giới hạn bốn phía. Rồi ông tập múa may tay chân trong giới hạn những thanh gươm đó. Bất cứ cử động nào ra ngoài mực thước đã định, sẽ mang lại cho chủ nó một vết thương.
Người đời sau này hết lời ca tụng ông, coi ông như một mẫu gương sáng cho một con người biết làm cho mình thành một con người nổi tiếng.
Đây là một ít lời khôn ngoan chúng ta có thể suy nghĩ:
“Hoạn nạn không thể làm ngã lòng một người can đảm”. (Sách châm ngôn, 2)
“Tai họa sinh ra đức hạnh”. (CN. 4, 6)
“Lửa thử vàng, gian nan thử người quả quyết”. (CN. 5, 8)
Lịch sử của các bậc vị nhân còn ghi lại biết bao gương sáng để khích lệ chúng ta. Nhiều khi chính số phận hình như chống lại họ. Nhiều khi cản trở hiện ra trước dự định, nhưng rồi họ chỉ dùng tính lạc quan để chống lại nó, và họ đã thắng.
Cha kể thêm cho chúng con câu chuyện này: Christopher Columbus, (khoảng 1451 – 1506) là một nhà hàng hải người nước Tây Ban Nha....Lịch sự kể lại Christopher Columbus trước khi hoàn thành dự định của mình, trong 18 năm trường, ông đã đi khắp Châu Âu, chỗ nào ông cũng thấy những lời vu khống ông. Nhưng với bầu nhiệt huyết sôi nổi, với ý chí sắt đá, ông đã thắng tất cả những lời đó và đã thực hiện được cái một giấc mơ vĩ đại trong đời ông: Đó là đi tìm Tân Thế giới - một lục địa mới. Chúng con có biết lúc ấy ông bao nhiêu tuổi không? Năm mươi tám tuổi! Năm mươi tám tuổi! Cái tuổi mà thường thường người ta đã được nghỉ. Thế mà lúc ấy ông mới bắt đầu công việc ông đã dự định và ông đã thành công. Hay như Beethoven, một nhạc sĩ trứ danh, đến khi gần điếc hẳn, mới sáng tác được một bản nhạc hay nhất.
Người Pháp có một câu châm ngôn này: "Bạn hãy tự cứu lấy mình trước và trời sẽ giúp bạn sau " (Aide toi, le ciel t' aidera)
Vâng quả đúng như thế. Chúng ta không thể vào Nước Trời mà không phải cố gắng. Xin Chúa giúp cho chúng ta được can đảm vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống nhất là phải can đảm làm những gì Chúa đã làm, sống những gì Chúa đã sống để mai sau chúng ta được Chúa thưởng công trên nước trời. Amen.
Người Việt chúng ta thường nói: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Tác giả thư Do TN 21-C130
Người Việt chúng ta thường nói: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Tác giả thư Do Thái lại khẳng định: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy người ấy và có nhận ai làm con thì mới cho roi cho vọt”. Như thế, điểm gặp gỡ giữa văn hóa Việt Nam và truyền thống Thánh Kinh ở quan niệm rằng, việc sửa dạy khiển trách là cần thiết để giúp con người trưởng thành. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những khó khăn thất bại chúng ta gặp trên đường đời cũng giống như những bài học quý giá, nếu biết chân thành đón nhận sẽ giúp ta thành công trong tương lai. Như cây nho cần được cắt tỉa để có nhiều trái hơn, con người cũng cần được sửa dạy để nên hoàn thiện. Một văn sĩ người Pháp đã viết: “Con người không được giáo dục, như thú hoang được thả vào đô thị, gặp ai nó cắn người đó”.
“Hãy vào qua cửa hẹp!”. Đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta cũng hiểu Chúa Giêsu muốn ám chỉ một cuộc sống có kỷ luật và tuân theo giáo huấn của Người. Thông thường, người ta học điều xấu thì rất nhanh và rất dễ, nhưng học điều tốt thì rất chậm và rất khó. “Cửa hẹp” mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên nhẫn và chuyên tâm thực hiện Lời Chúa. Để thực thi Lời Chúa, chúng ta phải trải qua những cố gắng hy sinh. Như những vận động viên muốn đạt giải quán quân phải khổ chế tập luyện, những ai muốn nên thánh phải chấp nhận tuân giữ những kỷ luật khắt khe. Một lối sống giả tạo bề ngoài sẽ bị kết án là “đồ bất chính”. Giáo huấn Tin Mừng cần được thấm nhuần và trở nên nguồn động lực cho cuộc sống chúng ta, chứ không chỉ hời hợt bề ngoài. Chúa lên án những ai chỉ giữ Đạo bằng môi miệng, còn thực tế thì đủ mọi mưu mô tính toán và gian lận.
Lời Chúa không chỉ bao gồm sự ngọt ngào, mà còn sự cay đắng; không chỉ có những lời khen ngợi mà còn những lời trách móc. Người có đức tin trưởng thành biết đón nhận cả sự ngọt ngào và cay đắng của Lời Chúa để tự ngẫm và sửa mình, nhờ đó nên hoàn thiện.
“Cửa hẹp”, theo tác giả thư Do Thái, đó là sự kiên nhẫn trong thử thách. “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” Những gian khó mà chúng ta gặp phải trên đường đời, nếu được đón nhận bằng cái nhìn đức tin, sẽ được coi như sự sửa dạy của Chúa để chúng ta nên con người hoàn thiện. Mà nếu Chúa sửa dạy ai, là vì Ngài yêu thương người đó và muốn kéo người đó lên kẻo chìm sâu trong bùn lầy.
Giáo huấn của Chúa cũng nhằm phê phán lối suy nghĩ mang tính “tự tôn” của khá nhiều người Do Thái đương thời, nhất là giới Pharisiêu và Luật sĩ. Họ coi trọng những chức danh, những tước hiệu cùng với trang phục bề ngoài và coi đó là những lý do để tự hào và coi thường người khác. Họ nghĩ mình thuộc về dân Chúa chọn, được ưu tuyển và có nhiều lợi thế, chắc chắn họ được Chúa yêu thương hơn. Những người đợi ở cửa phòng tiệc sau khi cửa đã đóng lại cố tìm cách trưng dẫn những bằng chứng cho thấy mối thân thiện của họ với ông chủ, nhưng ông đã tuyên bố dứt khoát: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khỏi mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Trong bối cảnh này, việc gợi lại những bữa ăn uống với ông chủ hay những kỷ niệm đẹp với ông chỉ là sự che đậy một lối sống bất nhân.
Cuộc sống có một định hướng và một mục đích trong tương lai. Trong khi hưởng thụ cuộc sống hiện tại, chúng ta không quên mục đích và định hướng ấy, dù cuộc đời đau khổ hay hạnh phúc, dù cuộc sống ngắn hay dài. Ngôn sứ Isaia nói đến ngày mà muôn dân sẽ quy tụ để tôn vinh Thiên Chúa. Lúc đó, những người công chính sẽ được hưởng vinh quang và phần thưởng Chúa hứa ban cho người trung thành. Đó cũng là lúc mà Chúa Giêsu gọi là “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Tiếc thay, những người vẫn tự hào cho mình là “con dòng cháu giống” lại bị đuổi ra ngoài, nơi chỉ có khóc lóc nghiến răng, tức là chỉ có đau khổ và thù hận.
Hãy sống thật trước mặt Chúa và trước mặt anh em. Điều ưu tiên đối với người tín hữu là làm sao để sống tốt giữa một cuộc đời đầy biến động, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”. Như đóa sen vươn lên giữa bùn lầy mà vẫn thanh tao và tỏa hương thơm ngát, chúng ta được mời gọi kiên trì và vững tin. Đó là mối ưu tư hàng đầu chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ai chấp nhận đi qua cửa hẹp sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính, như Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta.
Bài đọc 1 (CN.XXI/TN-C – Is 66, 18-21) trình thuật Lời Đức Chúa hứa ban ơn cứu độ xuống cho TN 21-C131
Bài đọc 1 (CN.XXI/TN-C – Is 66, 18-21) trình thuật Lời Đức Chúa hứa ban ơn cứu độ xuống cho Dân Người (“Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ðức Chúa phán: giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Ðức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Ðức Chúa - đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà - về trên núi thánh của Ta là Giê-ru-sa-lem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lê-vi - Ðức Chúa phán như vậy.”). Suy niệm bài đọc 1 sẽ thấy con đường cứu độ tưởng chừng như rộng thênh thang; số đông người được đón tiếp và đưa bằng “ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà”.
Đến bài Tin Mừng (Lc 13, 22-30) thì sự thể khác hẳn. Mở đầu bài Tin Mừng, Thánh sử Lu-ca viết: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" Người bảo họ: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 22-24). Tâm trạng chung của con người khi đi theo một nhân vật quan trọng – thứ nhất đây lại là nhân vật tầm cỡ Đấng Cứu Độ – có thể cứu giúp mình thoát khỏi cảnh khổ cực; thường hay thắc mắc không hiểu có đông người được Đấng ấy cứu thoát hay không? Nếu là số đông được cứu thoát, thì người thắc mắc sẽ vui mừng vì cho là mình đã làm đúng, còn nếu là số ít thì người ấy sẽ thất vọng và có thể quay ngược 180 độ, bỏ đi một nước.
Thay vì trả lời thẳng vào thắc mắc của kẻ đặt câu hỏi, Đức Giê-su lại trả lời: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 24). Như vậy thì Đức Giê-su đã gián tiếp cho biết số người được cứu thì ít mà số đông lại là những kẻ không được cứu (vì không qua được cửa hẹp). Chủ ý của Lời dạy là muốn cho mọi người hiểu rằng: Được cứu hay không là do chính bản thân người xin cứu, chớ không phải ở nơi Đấng Cứu Độ. Đúng vậy, "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài." (Thánh Au-gus-ti-nô). Biết bao nhiêu lần Đức Giê-su Thiên Chúa đã chữa lành cho những kẻ đui mù, câm điếc, phong hủi, què quặt, nhưng lần nào Người cũng nói: “Đức tin của anh em đã chữa lành anh em”.
Còn một điểm nữa là: Muốn được cứu thì phải chiến đấu. Một cách cụ thể, nếu biết toàn tâm toàn ý dốc hết sức mình để chiến thắng cái tôi vị kỷ, tội lỗi với những dục vọng thấp hèn bất chính, thì sẽ được cứu. Còn nếu cứ tìm cách dùng những âm mưu bất chính với tấm lòng bất trung thì chắc chắn sẽ bị “đuổi ra ngoài”. Cũng bởi vì con đường cứu chuộc là con đường gian nan khó nhọc, phải chấp nhận mọi thử thách nghiệt ngã, mọi hy sinh mất mát kể cả mạng sống mình – như chính Đấng Cứu Độ đã kinh qua – thì mới mong gặt hái chiến thắng. Vì thế, cánh cửa hạnh phúc đích thực luôn luôn là “cửa hẹp và đường chật”, còn “cửa rộng và đường xá thênh thang” chỉ đưa đến diệt vong mà thôi. Cái hình ảnh cửa hẹp khiến người nghe khó hình dung được, vì nói về Nước Thiên Chúa ai cũng nghĩ rằng đó là một Nước, một Vương Quốc mênh mông không biên giới, vô hạn định. Đã không có giới hạn rõ rệt thì tại sao lại có cửa hẹp?
Một lần nữa, Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn với những Lời dạy “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) trái ngược nhau nhằm gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe. Trong Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu, Lời dạy trên được diễn tả rõ hơn: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 13-14). Cùng một ý như vậy, có lần Đức Giê-su còn dạy các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." (Mt 19, 23-26). Con lạc đà chui qua lỗ kim là một chuyện không tưởng, vậy mà còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Thiên Chúa. Phải chăng cái lỗ kim ấy chính là cửa hẹp?
Cửa hẹp là cửa khó vào. Muốn vượt qua được cửa hẹp phải biết thu nhỏ mình lại, mà thu nhỏ mình lại thì tức là phải ăn kiêng để giảm béo, bớt cân, còn phải trui rèn ý chí, tập luyện thể lực. Nói cách cụ thể là phải hãm mình ép xác, khiêm tốn, hy sinh. Thu nhỏ mình là khiêm nhường chịu lụy, là “ai muốn đoạt áo trong của mình thì hãy cho họ luôn cả áo ngoài”, là “ai vả má bên trái thì hãy đưa cả má phải cho họ vả tiếp” (Mt 5, 38-44); nhưng đồng thời còn phải biết xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi hẹp hòi, ích kỷ, phải biết mở rộng trái tim, thực hành bác ái. Chính vì thế, nên cửa hẹp chẳng ai muốn vào dù đã được mách bảo qua được cửa hẹp là vào được cõi phúc. Người ta chỉ thích đi tìm những cửa rộng, bởi đó là lối đi có những mời gọi ngọt ngào, những cuốn hút mê đắm.
Quả thật số người vào được cửa hẹp chỉ là thiểu số, còn đa số vẫn là những kẻ không vào được. Họ là ai? Đó là những người ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá của họ, nhưng vẫn làm điều phi nhân bạc nghĩa. Ðó là những người Na-da-ret đồng hương, những người Do Thái đồng thời với Ðức Giê-su – nhất là những kinh sư, luật sĩ, tư tế chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê” mà giảng dạy – đã không tin thì chớ, mà còn âm mưu giết hại cả Đấng Cứu Độ. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi nơi đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ bị tống vào nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; trong khi có nhiều người từ khắp nơi Ðông, Tây, Nam, Bắc (tức là dân ngoại) lại được vào dự tiệc Nước Trời. Tiêu đề bài Tin Mừng hôm nay đã nói lên tất cả: “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do Thái bất trung và kêu mời dân ngoại” (Lc 13, 22-30).
Dân chính hiệu (được tuyển chọn) là những người đứng hàng đầu thì bị tống ra ngoài, để dân ngoại là những kẻ tới sau đứng ở hàng cuối lại được vào dự tiệc Nước Trời. Chuyện khó tin nhưng có thật 100% ("Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót." – Lc 13, 30). Vậy đó! Cũng cần nói rõ Đức Giê-su chỉ nói “Có những kẻ…”, chớ không phải tất cả. Vậy thì không phải tất cả những kẻ “đứng hàng đầu” đều xuống cuối và tất cả những kẻ “đứng hàng cuối” sẽ được lên hàng đầu. Chung quy thì chỉ có những ai tin nghe và sốt sắng hành động theo Lời dạy của Đấng Cứu Thế, thì dù có tới sau, đứng cuối, cũng sẽ được lên hàng đầu. Và chỉ những kẻ bất lương mới bị tống ra ngoài mà thôi.
Như vậy là đã rõ: Để qua được cửa hẹp, vào được Nước Thiên Chúa, để chiếm hữu được Nước Trời, không phải chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi quyết tâm đã đành, nhưng còn phải có được đức khiêm nhường, đức nhẫn nại, vượt khó, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ thử thách, và nhất là phải bền lòng với Đức ÁI, kiên trung với Đức TIN, dốc lòng trông CẬY vảo Thần Khí của Đấng Cứu Độ đến sửa dạy cho nên người môn đệ đích thực. Tục ngữ Việt Nam có câu “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, người Ki-tô hữu hôm nay hãy coi lời khuyên gửi tín hữu Do Thái như một liều thuốc chữa căn bệnh bất trị của mình: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con.” (Dt 12, 5-7). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXI.TN-C).
"Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta". (Is 66,18).
Những lời trên của tiên tri Isaia, được vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu TN 21-C132
Những lời trên của tiên tri Isaia, được vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, bước vào Chúa nhật thứ XXI thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ phổ quát đời đời, đúng như Tin Mừng Luca loan báo: "Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa" ( Lc 13, 30)
Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 1-2 của Công Đồng Vaticanô II khẳng định: Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại... Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô.
Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng của tạo vật" (Col 1,15). Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha "đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em" (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được phác thảo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ, được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi thánh Grêrôriô I, mọi người công chính từ Adam, "từ Abel công chính đến người được tuyển chọn cuối cùng" sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha. Hiến chế Giáo hội "Lumen Gentium", 1-2
Bài đọc I, Isaia khuyến khích dân chúng lưu đầy trở về, đây là điều cần thiết. Trên đường hồi hương, phải nhiệt thành không trễ nải, vì Đền thờ bị phá hủy, vua bị truất ngôi, đất đai bị người ngoài chiếm đóng. Giữa lúc đó, dân ngoại sống trà trộn với dân Do thái không đi đày, và dân Do thai tự hỏi nhau : Thiên Chúa mà cha ông họ ở Giêrusalem tin có còn không ? Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn giữ với lời hứa: "Ta đến quy tụ mọi dân tộc...sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem". (Is 66, 18-21)
Về phần mình, Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa. Trên thực tế, kiểu nói, "sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc" dân ngoại, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là lời hứa tất cả mọi dân trên toàn cõi địa cầu. Ở đây, lời hứa : ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân. Từ nay, anh em sẽ được hiểu là dân ở giữa dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa loan báo: "Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ", và Ngài kết luận: "Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi".
Vậy là Thiên Chúa tự mạc khải mình là Đấng trung thành, giữ trọn điều đã loan báo. "Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời" (Tv 116,2).
Thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng "Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt" (Dt 12, 5-7.11-13).
Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Và đây chính là lý do Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp. Các bản văn Chúa nhật tuần này gợi lên câu hỏi về tương quan giữa ta với Thiên Chúa. Nghe lời Đức Giêsu dạy mà thôi chưa đủ, cần phải sẻ chia cùng tấm bánh là chính Đức Giêsu, để được cứu chuộc. Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi đổi mới cách nghĩ của chúng ta và từ bỏ gắn bó với những thứ không cần thiết ở thế giới chóng qua này. Nói cách khác, chúng ta ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chính Ngài là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ có nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ và được phục sinh, vượt qua cái chết với tất cả những quan niệm hạ giới để bước vào thượng giới của Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa trung thành, xin ban ơn sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa, chúng con có được Chúa là Đấng mang lại cho chúng con gia nghiệp muôn đời Chúa hứa. Amen.
Nỗ lực là rán sức, cố gắng tối đa khi thực hiện điều gì đó. Văn sĩ Triết gia Elbert Green Hubbard (1856-1915 TN 21-C133
Nỗ lực là rán sức, cố gắng tối đa khi thực hiện điều gì đó. Văn sĩ Triết gia Elbert Green Hubbard (1856-1915, Hoa Kỳ) nói: “Không biết đã bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi thì người ta sẽ đạt được thành công”. Người ta luôn phải tự khó với chính mình, nhưng phải thoải mái với người khác. Đó là dạng nỗ lực cơ bản nhất.
Nói đến nỗ lực là nói đến những việc khó, càng khó càng phải nỗ lực nhiều. Ví dụ như lách mình cho lọt vào khe hở để vào bên trong khi cửa bị đóng, hoặc đi vào những ngõ ngách nào đó. Ai đã tới Hà Nội thì biết thế nào là “ngách”, đúng là phải “lách” thật. Và còn rất nhiều thứ khác phải sử dụng đến nỗ lực.
Người Việt có câu: “Ở rộng người cười, ở hẹp người chê”. Thật là khó, kiểu nào cũng khổ, bởi vì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, chẳng làm sao có thể sống vừa lòng hết mọi người, dù là người tốt lành nhất. Thật vậy, không ai tốt lành như Chúa Giêsu, thế mà Ngài vẫn bị người ta ghen ghét. Thế nhưng, nhân chi sơ tính bổn thiện, vì lương thiện là căn tính của con người được Thiên Chúa tạo dựng. Do đó, bổn phận của chúng ta luôn phải sống tốt lành theo lương-tâm-chính-đáng, theo công lý của Chúa, chứ không thể lấy cớ và tự biện hộ: “Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bụm miệng người thế gian”. Văn hào Victor Hugo (Pháp) xác định: “Lương tâm là Thiên Chúa trong mỗi con người”. Thật là tuyệt vời!
Theo bản năng nhân loại, không ai thích “tù túng”, nghĩa là ai cũng thích có khoảng rộng cho thoải mái: Phòng ốc khang trang, nhà to, cổng lớn, lối rộng,… chứ không ai muốn “ép mình” ở trong khoảng chật hẹp, gò bó. Về lĩnh vực tinh thần cũng tương tự. Thế nhưng sự dễ dàng dẫn tới dễ dãi, dễ dãi quá hóa hư thân, mất nết. Sự thiếu thốn có thể khiến người ta phải hy sinh và chịu đựng nhiều thứ, nhưng chính sự nghèo khó lại có thể giúp người ta thành nhân – thực sự và đúng nghĩa.
Sự thật vẫn là sự thật, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, và thường có sự đối lập. Chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn giải thích: “Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà NHIỀU NGƯỜI lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ÍT NGƯỜI tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Theo lẽ tự nhiên, cái gì nhiều thì bình thường, còn cái gì hiếm thì quý giá. Nhưng sự bình thường vẫn có thể khác thường. Là một tín nhân, đại văn hào Victor Hugo cũng đã cảm nghiệm sâu sắc: “Đau khổ là hoa quả, Chúa không khiến nó sinh ra trên những cành quá yếu ớt mà không chịu nổi”. Thánh Phaolô xác định: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10:13).
Chữ Khôn và chữ Khốn chỉ khác nhau cái “dấu sắc”. Với người này thì có thể là “cái khó BÓ cái khôn”, nhưng với người kia thì có thể là “cái khó LÓ cái khôn”. Cùng một tình huống, một hoàn cảnh, một vấn đề,… nhưng kết quả khác nhau – xấu hoặc tốt, hại hoặc lợi.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi của ngôn sứ Isaia để tuyên phán: “Còn Ta, Ta BIẾT RÕ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tác-sít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tuvan, Giavan, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc” (Is 66:18-19). Cách nói của Cựu Ước có vẻ “xa lạ” với chúng ta ngày nay, nhưng không phải vậy. Có phải vì cách nói ngày xưa đơn giản và bình dị, còn chúng ta ngày nay phức tạp quá nên hóa “xa lạ” và cảm thấy nhiêu khê chăng? Rất có thể là như thế.
Và rồi Đức Chúa tiếp tục tuyên ngôn: “Giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giêrusalem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lêvi” (Is 66:20-21). Thiên Chúa luôn dùng những hình ảnh gần gũi với đời sống con người để họ có thể hiểu được ý Ngài.
Với trí óc phàm phu tục tử, con người không thể hiểu hết ý Thiên Chúa vì Ngài là Đấng toàn năng, chí minh và chí thánh. Nhưng cảm tạ và chúc tụng Ngài là bổn phận tuyệt đối của chúng ta. Nhận biết được điều tối quan trọng như vậy, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!” (Tv 117:1). Lý do? Thật đơn giản nhưng vô cùng chính đáng: “Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” (Tv 117:2). Vả lại, “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4:19).
Quả thật, đó là khối tình mầu nhiệm của Thiên Chúa, sâu thẳm và khôn dò, cũng chính là Lòng Thương Xót bao la vô tận của Ngài. Từ ngàn xưa, chính Đức Mẹ cũng đã đề cập Lòng Chúa Thương Xót khi Mẹ dâng lời tán tụng Thiên Chúa qua thánh ca Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng THƯƠNG XÓT những ai kính sợ Người. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại LÒNG THƯƠNG XÓT dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1:50, 54-55).
Đối với con người trong cuộc sống đời thường, đứa con nào có cuộc sống khó khăn, khổ sở, chắc chắn vẫn được cha mẹ quan tâm hơn – thế mới là “nước mắt chảy xuôi”. Cha mẹ vì thương con, muốn con nên người nên cũng sửa dạy đứa con nào ngỗ nghịch, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Thiên Chúa dựng nên chúng ta nên Ngài vẫn luôn tôn trọng quy luật Ngài đã tạo nên, vì Ngài không muốn “lập dị”. Ngài cho chúng ta được quyền tự do nhưng Ngài cũng sửa trị vì yêu thương chúng ta. Nước mắt không bao giờ chảy ngược!
Cũng với tinh thần đó, Thánh Phaolô đã khuyến cáo: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:5-6). Và rồi ông còn nhấn mạnh: “Anh em hãy KIÊN TRÌ để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” (Dt 12:7). Ai không bị nói tới là coi như “đồ bỏ” rồi. Vì thế, đừng tự ái mà để cho “cái tôi” vùng lên và nổi loạn.
Thánh Phaolô đề cập một sự thật rất hiển nhiên theo bản tính nhân loại: “Ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành” (Dt 12:11-13). Rất rõ ràng, rất thực tế, và cũng rất đời thường.
Có Khó mới nên Khôn, nhờ Khôn mà bớt Khổ và khỏi Khốn – “ca hát” hay “khờ” còn tùy người (cả nghĩa đen và nghĩa bóng đối với KH). Chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đã có cách so sánh thú vị: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Và chí sĩ Nguyễn Thái Học (1902-1930) cũng đã dõng dạc minh định: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chứng tỏ rằng sự gian khó là thứ “xa xỉ phẩm” cần thiết để người ta khả dĩ thành nhân và sống có ý nghĩa hơn. Theo cách nói của Chúa Giêsu, đó là cách ĐI QUA CỬA HẸP để có thể vào được Nước Trời.
Quả thật, lịch sử đã cho thấy rằng chính gian khổ đã tạo nên những vĩ nhân lừng danh thế giới, khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục, trong Công giáo cũng rất nhiều vị thánh lớn là nhờ “đi đường hẹp” dẹp “đường rộng”. Vấn đề của chúng ta là có DÁM hay KHÔNG DÁM hành động như vậy mà thôi! Đừng bao giờ viện cớ với mấy liên từ “khó chịu” này: Vì, tại, bởi, nếu, giá mà, ước gì, phải chi,… Chỉ có nguy thôi!
Ngày xửa ngày xưa, trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Rồi có kẻ thắc mắc nên phải hỏi: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13:23). Ngài ôn tồn bảo họ: “Hãy CHIẾN ĐẤU để qua được CỬA HẸP mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24). Có lẽ người hỏi không thỏa mãn chút nào với câu trả lời của Chúa như vậy. Thế nhưng, dù họ không phản ngôn thì chắc hẳn họ cũng cảm thấy có gì đó “khác lạ” và “ngược đời” lắm. Họ im lặng. Có thể họ chưa đồng ý nhưng cũng đã cân nhắc, mà cân nhắc thì phải suy nghĩ. Đêm đó, họ về nhà và phải suy tư nhiều về những “lời lạ” của Chúa Giêsu, rất có thể họ phải trằn trọc và khó ngủ. Biết đắn đó là có tín hiệu tốt rồi.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu biết thừa là họ đang “đâu cái điền” lắm. Kệ, Ngài vẫn tỉnh queo và nói tiếp: Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào”, thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”. Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:22-27). Chúa Giêsu luôn thích giản dị, thẳng thắn, nghiêm túc, nên những điều Ngài nói cũng luôn bình dị, thiết thực và gần gũi với đời sống dân chúng. Hầu như ai cũng có thể hiểu, trừ những người câu nệ hoặc cố chấp. Có tai mà không muốn nghe, có nghe cũng không muốn hiểu, lời vào tai này liền luồn sang tai kia mà bay theo gió…
Không ngập ngừng, không úp mở, không bóng gió, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13:28-29). Người Việt cũng có câu: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái “trái tai” bị chúng ta lợi dụng nhiều quá!
Tương tự, khi chúng ta thấy ai đó được hãnh diện về điều gì đó (ví dụ: người đạt giải trong một cuộc thi nào đó), có người bắt khao, có người ganh tỵ, có người làm ngơ, có người bĩu môi,… Thậm chí mua chiếc xe cũng bị đòi “rửa xe”, làm được cái nhà cũng phải “mừng tân gia”. Đủ dạng, đủ kiểu, đủ mức. Nhưng chúng ta đâu biết rằng người đó đã nỗ lực và khổ luyện như thế nào mới được vậy, và cũng chẳng thiếu sự mất mát nào đó. Gian khổ càng dày, hạnh phúc càng cao. Thiên Chúa tuyệt đối chí công. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Thánh Vịnh cũng nói rõ ràng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127:1). Bao nhiêu nỗ lực cũng vô ích mà thôi!
Quá trình vào Nước Trời cũng vậy. Nếu cứ thảnh thơi, sống khơi khơi, chơi tà tà trong lúc hành trình thì chẳng có gì đáng nói, đáng công, đáng thưởng. Những người chịu thiệt thòi ở cuộc đời này, nếu biết kết hợp với cuộc khổ nạn và tử nạn của Đức Kitô thì sẽ lợi ích lắm. Chắc chắn Thiên Chúa có kế hoạch độc đáo của Ngài. Những người đó không chỉ chịu thiệt thòi mọi thứ ở cuộc đời tạm này, mà thậm chí họ còn bị chúng ta khinh khi, miệt thị, ruồng rẫy. Nếu họ chịu khổ đủ thứ mà “tương lai” không xán lạn thì hóa ra Thiên Chúa bất công. Thế nhưng không phải vậy! Và Ngài tuyên bố thẳng thắn: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13:30). Một dạng hoán vị vô cùng thú vị – khốn đốn cho người nọ và ngạc nhiên cho người kia. Giờ G đã điểm. Không thể thay đổi được gì nữa!
Câu kết luận của Chúa Giêsu là lời “nhắc khéo” với những ai đang an nhàn hưởng thụ cuộc sống, đang ung dung tự tại, đang vinh thân phì da ở đời này. Thánh Phaolô cũng đã có lần cảnh báo: “Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con tỉnh thức, can đảm và khôn ngoan “lách mình” vào những lối hẹp của cuộc sống đời này để tôi luyện chính mình có thể nên hoàn thiện và nên giống Con Một Yêu Dấu của Ngài. Xin Ngài ban ơn cho mọi người sống đúng trách nhiệm và bổn phận của mình, xin nâng đỡ những người đau khổ để họ biết dùng chính đau khổ làm bậc thang lên Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tổng thống Washington, lúc sinh thời, từng phát biểu: “Không nên chỉ đánh giá thành công qua TN 21-C134
Tổng thống Washington, lúc sinh thời, từng phát biểu: “Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.
Trải nghiệm nhiều trên đường đời, trong sự tiến thân, nhất là trên con đường chánh trị vừa phải khéo léo, vừa phải khôn ngoan, mà Washington đã đưa ra nhận định xác thực gần như là “chân lý” về lối sống ở đời.
Thói thường, ai mà không thích đi con đường rộng. Nhưng không có bất cứ ai nhờ lối sống dễ dãi, buông thả, thoải mái…, lại có thể thành thân, thành nhân. Vì thế, lời Chúa Giêsu: “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” là lời dạy chúng ta, ngày nào còn sống trên đời, thì ngày ấy đồng nghĩa với việc chúng ta phải tự đào tạo mình, rèn giũa mình.
Nếu sống ở đời, thành công sẽ không bao giờ là kết quả của ươn lười, thiếu trách nhiệm với bản thân, với tương lai đời mình…, thì đời sống thiêng liêng, sự thánh thiện cũng sẽ không bao giờ mở ra với bất cứ ai không tập tành nhân đức, không khổ luyện đêm ngày, không chấp nhận hy sinh gian khổ, không chuyên chăm cầu nguyện, không biết đặt Chúa ở trước mặt mình, không đặt Chúa làm trung tâm sự nghiệp của mình, không lo tuân hành giới răn Chúa…
Chiến đấu ở đây còn là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình. Nó nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham vọng… Thật ra, cửa vào sự sống không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ, một cái tôi bé nhỏ, một cái tôi nhu mì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Như viên đá cuội, trải qua nhiều thời gian, được sóng biển mài giũa thành viên đã nhẵn nhụi, tôi cần nỗ lực liên tục trong thời gian, để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Khi chúng ta tập tành nhân đức, khổ luyện bản thân, hy sinh và từ bỏ, hủy mình ra không, giữ luật Chúa, trung thành sống theo lời Chúa dạy…, đó là cách chúng ta nép mình qua cánh cửa hẹp, là cách chúng ta thao luyện bản thân để đạt tới ơn cứu độ đời đời.
Thánh Phaolô ví cuộc hành trình tiến về bến bờ hạnh phúc ấy như một cuộc chạy đua, như người lực sĩ, trước khi ra thao trường thi đấu, họ cần phải thao luyện, tập dược thường xuyên, mới có thể hy vọng đạt huy chương.
Thánh Phaolô còn nói về chính sự khổ luyện của bản thân: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện” (2Tm 4, 6-8).
Cuộc đời có biết bao nhiêu cám dỗ và lôi cuốn, đòi ta phải chiến đấu cam go. Chỉ khi can đảm, không thỏa hiệp hay nhân nhượng với kẻ thù, không để mình sa vào lôi cuốn của bóng tối, ta mới có thể hoàn thành xuất sắc cuộc đời mình như thánh Phaolô.
Ta đừng để đến ngày kia, khi trình diện trước tòa Chúa, lại bị Chúa chối rằng: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13, 27).
Bởi dù hôm nay chúng ta vẫn dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm... nhưng chúng ta vẫn cứ trơ trơ, xơ cứng và không thay đổi, không để Chúa đi vào đời mình.
Vì thế, dù ta có thực hành nhiều việc đạo đức, Chúa vẫn không quen biết ta, và ta vẫn xa lạ trong mắt Chúa.
Tóm lại, Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ, và luôn ý thức để thắng cám dỗm, để tiến về phía thiêng liêng, luôn biết hăng hái đi về phía trước trong sự khiêm nhu và cậy dựa vào sức mạnh của ơn Chúa ban.
Ước gì một ngày kia, từng người chúng ta được gọi về trình diện trước tôn nhan Chúa, đều được Chúa vui mừng khen ngợi: “Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín… hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25, 21). mục lục.
QUA CỬA HẸP (Phỏng theo Lc 13,22-30)
“Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” Chúa dạy con học biết lối vào Thiên đường vĩnh phúc thanh cao Tin Mừng Chúa hứa con nào dám quên… Ý cửa hẹp là nền công phúc, Hãy khôn ngoan tỉnh thức trông chờ Chờ ngày Chúa gọi bất ngờ Vượt qua cửa Tử tới bờ Tình Thương… Có những kẻ theo đường tục hoá Ngã gục ngay trước cửa Thiên Đình, Vì mang tội lỗi đầy mình, Phải đày tới chốn ngục hình thảm thương. Có những kẻ sống đời tiêu cực, Nghĩ rằng ta, chính thức hữu danh, Chẳng lo sống đạo thiệt tình Làm sao xứng đáng hiển vinh muôn đời. Chúa cho biết: người thời Cựu Ước Ápraham, I sắc, Tiên Tri Biết bao vị thánh xưa kia Mọi người có mặt chẳng hề thiếu ai... Vinh quang Nước Chúa muôn đời… mục lục.
Có lẽ nghịch lý nhất của Tin Mừng là làm cho nhiều người khó chịu, khó ưa, khó chấp nhận, khó TN 21-C135
Có lẽ nghịch lý nhất của Tin Mừng là làm cho nhiều người khó chịu, khó ưa, khó chấp nhận, khó theo đuổi, thậm chí là loại bỏ, vì những đòi hỏi của Tin Mừng luôn ngược lại với thực tại hay ước vọng của con người.
Hay nói khác đi, muốn sống đúng với Tin Mừng để đảm bảo cho sự sống vĩnh cửu thì đòi hỏi phải có những điều kiện khá gắt gao. Chẳng hạn như muốn theo Chúa Giêsu cách trọn vẹn thì phải từ bỏ mọi sự và vác thập giá: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo”; muốn có một kho tàng trên trời thì phải bán những gì mình có ở đời này mà bố thí cho người nghèo: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19,21); muốn đoạt được Nước Trời thì điều kiện cần là phải có tinh thần nghèo khó: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); ai muốn làm lớn trong Nước Trời phải là người „nhỏ lại“ và là người phục vụ: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26)… Quả đúng là những điều kiện gắt gao mà con người chẳng dễ dàng để đón nhận để bước tiếp trên con đường trọn lành mà Tin Mừng đòi hỏi.
Thánh Luca, trong Tin Mừng của mình, cũng cho ta biết, Chúa Giêsu đòi hỏi sự nghịch lý mà có lẽ nhiều người khó chấp nhận, đó là phải đi qua “cửa hẹp” để vào Nước Trời: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13,24). Ôi! Tại sao vào Nước Trời khó quá vậy, phải đi qua cửa hẹp mới được vào? Đúng là nghịch lý thật!
Một thực tế xảy ra trong xã hội loài người, đó là người ta luôn phấn đấu để đi lên, hay để lớn lên, vĩ đại, chứ chẳng ai lại phấn đấu để tụt xuống, hay nhỏ lại! Người ở địa vị thấp hèn thì cố gắng phấn đấu để được địa vị cao hơn. Người hèn kém thì phấn đấu để được trọng vọng hơn trong xã hội. Người phải phục vụ thì phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có tiền của xây nhà lớn hơn, xây biệt thự. Người ta cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Đường hẹp, đường nhỏ, đường quanh co, người ta cũng cố gắng để mở con đường lớn hơn, thẳng hơn cho dễ dàng lưu thông. Và đương nhiên, người ta vẫn thích đi đường rộng, đường thông thóang hơn là đi trên những con đường chật hẹp, nhiều người qua lại; người ta cũng thích đi qua cửa cao, rộng, hơn là cửa hẹp, thấp phải khom lưng, cúi sát… Thế nhưng, Chúa Giêsu lại đòi hỏi người ta đi vào đường hẹp, vào cửa hẹp để đến Nước Trời! Đúng là nghịch lý thật! Khó chịu thật! Vậy, chúng ta phải thực thi như thế nào cho đúng với đòi hỏi Chúa Giêsu?
Những gì đối với loài người thì không thể, còn đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể (x. Lc 1,37). Có thể nói, nghịch lý của Thiên Chúa đối với loài người lại trở thành một điều kiện cương quyết để giúp con người ta đạt đến hạnh phúc thật, hạnh phúc Nước Trời. Hay nói đúng hơn, “nghịch lý” của Thiên Chúa lại trở thành một chân lý sống của Kitô giáo là phải kinh qua đau khổ thì mới đạt được hạnh phúc: “Ai gieo trong nước mắt sẽ gặt trong hân hoan”.
Thật ra, lời mời gọi đi qua cửa hẹp để vào Nước Trời mà thánh Luca trình bày ở đây, là muốn kêu mời mọi người sống hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu. Hay nói khác đi, là con người sống mối tương quan mật thiết và trọn vẹn với Chúa Giêsu. Sống trọn vẹn với Chúa Giêsu là sống những gì Người đã sống và thực thi những điều Người truyền dạy. Chúa Giêsu đã dạy những gì Người đã sống, và sống đúng những điều Người đã dạy. Đó là mẫu gương tuyệt hảo nhất để chúng ta noi theo và sống hiệp thông trọn vẹn với Người.
Chỉ hiệp thông với Chúa Giêsu với vẻ bề ngoài thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải hiệp thông cách trọn vẹn với ý muốn của Người và xây dựng mối tương quan thân tình với anh chị em đồng loại, thực hiện điều Tin Mừng đòi hỏi là đi qua “cửa hẹp” để tiến lên quê trời. Đó mới đúng là niềm vui, hạnh phúc vĩnh cửu.
“Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Đó là chân lý sống của Kitô hữu và là điều kiện đòi buộc của Tin Mừng. Con người có đáp ứng đòi buộc của “nghịch lý” này để đạt đến hạnh phúc của Nước Trời hay không?
Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình thiêng liêng đầy khó khăn, phải đi qua cửa hẹp. Do đó, Đức Giêsu muốn mời gọi những tín hữu đi theo Người phải nỗ lực thật nhiều, để có thể vượt qua cánh cửa hẹp đó. Vì cánh cửa hẹp đó cũng chính là Đức Giêsu: “Ta là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9). Như thế, muốn có được đời sống hạnh phúc trong Nước Trời thì chúng ta cần đi qua “cửa hẹp”, cần nhiều nỗ lực, cần hy sinh, chiến đấu, vì chính Đức Giêsu cũng đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, để sau đó mới đạt được vinh quang. Người mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo tôi”. Chấp nhận vác thập giá đời mình cách vui vẻ đi theo Chúa là chúng ta đã đi qua cửa hẹp để vào Nước Trời.
Vậy nên, hãy đón nhận điều nghịch lý của Tin Mừng đòi hỏi, để đạt đến chân lý của Nước Trời. Hãy đi qua cửa hẹp Giêsu, để vào Nước Trời rộng thênh thang, nơi có nhiều chỗ ở mà Chúa Cha sẽ ban tặng cho những ai hiệp thông với Người: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga 14,1).
Trong cuộc đời, ai cũng mong muốn được ở trong một không gian rộng rãi và thoải mái. Ở trong TN 21-C136
Trong cuộc đời, ai cũng mong muốn được ở trong một không gian rộng rãi và thoải mái. Ở trong một ngôi nhà rộng rãi và đầy đủ tiện nghi thì thích hơn một ngôi nhà tù túng, chật hẹp. Đi trên một con đường rộng lớn thì cảm thấy dễ chịu hơn một con đường gồ ghề, nhỏ bé.
Trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta cũng muốn Chúa và Giáo hội rộng rãi và cho chúng ta được thoải mái trong việc giữ và sống đạo. Thế nhưng, con đường dẫn tới sự sống đích thực và vĩnh cửu là con đường: „Vào qua cửa hẹp“. Ai biết tìm kiếm và chiến đấu để vào qua cửa hẹp thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Ơn cứu độ không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, hay của một giai cấp nào, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy. Thiên Chúa mong muốn cho tất cả mọi người đều đạt được hạnh phúc viên mãn, và Ngài trao ban đầy đủ những phương tiện cần thiết, để mỗi người có thể lãnh nhận được hạnh phúc đó. Thế nhưng, Chúa không thể cứu độ con người mà không có sự cộng tác của con người. Chính mỗi người sẽ phải chọn lấy con đường đúng đắn, và kiên trì tiến bước.
Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, Chúa nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24). Chúa dùng động từ “chiến đấu”. Chiến đấu có nghĩa là cố gắng, hy sinh, vượt thắng như Chúa đã từng nói: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá của mình mà theo Ta”. Chính vì thế, chiến đấu đòi hỏi con người phải nỗ lực, phải vất vả gian nan lâu dài mới vượt qua được cửa hẹp.
Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận bước vào con đường hẹp, con đường dẫn Người đến cái chết bi thảm trên thập giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của con đường Thập giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự vâng phục, vâng phục đến hy sinh mạng sống. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự nhục nhã, bị người đời khinh chê. Ngài đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng để đem sự sống đến cho con người. Vì yêu thương mà Ngài đã kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại để chiến thắng. Mặc dù là Con Thiên Chúa, Ngài không ỷ lại, không tự hào, nhưng với tất cả sự khiêm nhường và nhẫn nhục, để chứng tỏ tình yêu thương của Ngài dành cho con người.
Con đường hẹp mà Chúa đi là con đường khổ nạn, hy sinh rồi mới vinh thắng. Nhưng lại là con đường cho những người khôn ngoan bước theo, con đường đó dẫn đưa họ đến nguồn vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
Trải qua bao thế hệ, con người vẫn luôn đi tìm con đường sự sống. Biết bao người đã nhìn thấy được con đường nhưng họ vẫn đi tìm, vì con đường mà họ nhìn thấy không đúng như họ mong muốn, nên họ cứ mãi đi tìm, để rối đành ôm nỗi hận trong sự thất bại. Rất nhiều người không muốn đi trên con đường mà họ đã có được chiếc chìa khóa trên tay, họ không muốn mở cửa để bước vào, vì nó quá chật hẹp, vì quá khó khăn và nhiều lúc không biết con đường đi đến đâu mới đạt được mục đích.
Chúng ta, những con người của thời đại mới, Chúa Giêsu cũng trao cho mỗi người chiếc chìa khóa của con đường sự sống. Nếu chúng ta muốn theo Chúa đi về cuộc Sống Mới, cuộc sống vĩnh cữu. Có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải chấp nhận để theo Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống; vì thế Chúa bảo chúng ta: „Nước Trời dành cho những ai biết nổ lực!“ (Mt 11,12) và „ai muốn theo Tôi, hãy bỏ mình đi, vác thánh giá hằng ngày mà theo tôi“ (Mt 16,24).
Quả thật, đây là một cuộc “chiến đấu“ nội tâm trường kỳ và đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không nên nản lòng, vì xác tín rằng Chúa luôn ban ơn Thánh Thần cho chúng ta và đang chờ để đón chúng ta vào hưởng hạnh phúc đời đời ở phía bên kia cánh cửa cuộc đời của chúng ta.
Con đường hẹp và đàng sau đó là phòng tiệc cánh chung không dành cho những ai „hữu danh vô thực“. Tức là không phải cứ mang danh Kitô hữu, là con cháu Abraham, thì đương nhiên được chủ nhà Giêsu mở cửa mời vào. Cuối con đường hẹp là căn phòng dự tiệc Nước Thiên Chúa chỉ mời đón những ai biết đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và đem ra thực hành, những con người không ngừng hoán cải, không ngừng cải thiện đời sống mình theo gương Thầy Chí Thánh. Amen.
--------------------------------------
TN 21-C137: HÃY CHIẾN ĐẤU ĐỂ QUA ĐƯỢC CỬA HẸP MÀ VÀO”
(Lc 13,22-30)
Bảo Tâm
Đã là người, ai cũng thích và ao ước có một cuộc sống thoải mái, sung sướng, đầy đủ tiện nghi TN 21-C137
Đã là người, ai cũng thích và ao ước có một cuộc sống thoải mái, sung sướng, đầy đủ tiện nghi vật chất. Thế nhưng, hạnh phúc thường không tự nhiên đến với con người, trái lại nó phải được đánh đổi bằng việc con người phải hy sinh và lao tâm khổ tứ. Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng chân nhận quy luật ấy khi dựng lên trước mặt các môn đệ một khung cửa mà Người đã gọi đích danh là khung cửa hẹp và mời gọi họ đi qua. Khung cửa ấy Thiên Chúa cũng mở ra cho vận mệnh con người, và con người cũng phải đi cửa ấy qua để bước vào đời sống của Thiên Chúa, nơi đó, con người sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đích thực và viên mãn.
Có một câu chuyện kể như sau: Một người phụ nữ giàu sang, được mọi người rất mực tôn trọng. Bà ấy chết. Khi tới thiên đàng, có một thiên sứ đến đón và đưa bà đến nhà bà sẽ ở.
Mỗi lần đi qua những ngôi nhà xinh đẹp, bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ rộng hơn cái lều một chút.
Thiên sứ bảo: “Đây là nhà của bà”.
Bà nói: “Cái gì vậy? Tôi không thể nào sống trong đó”.
Thiên sứ đáp: “Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!” Đây là kết quả cho những ai thích bước đi trên con đường thênh thang rộng rãi trên hành trình tiến vào Nước Trời.
Câu chuyện trên đây làm chúng ta liên tưởng đến quy luật nhân quả trong cuộc sống đời thường. Tạo Hóa vốn dĩ rất công bằng, không dành ưu tiên tuyệt đối cho bất kỳ người nào và cũng không trút hết tất cả mọi bất hạnh trên một người nào. Bởi cuộc sống luôn có một sự bù trừ xứng đáng: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc13,30).
“Những kẻ đứng hàng đầu” có thể đó là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ, trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua cửa hẹp mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu” có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc, thay vì dùng ơn Chúa ban để nâng đỡ mọi người, phục vụ tha nhân, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
Những người này chỉ muốn tiến bước trên con đường rộng rãi và dễ dãi. Đối với họ, cuộc sống là một sự an nhàn và hưởng thụ. Họ không phải bận tâm lo lắng cho những chuyện tương lai, vì với họ, tương lai là một sự an toàn và vui vẻ. Và như vậy, với những người đã có đủ tất cả, Thiên Chúa đối với họ như một vị thần thừa thãi, họ không cần đến Ngài!
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao Thiên Chúa lại muốn con người bước qua “cửa hẹp” để vào Nước Trời?
Câu trả lời chỉ có thể là vì Thiên Chúa đã đi trên con đường ấy. Thiên Chúa chọn đến với con người qua khung cửa hẹp. Ngài không chọn giải pháp cứu độ dễ dàng. Ngài đã sai Con Một xuống thế làm người, chịu chết trên Thánh giá vì loài người, và để cứu rỗi loài người. Rõ ràng Thiên Chúa đã bước vào đời sống con người qua khung cửa hẹp. Tình thương Thiên Chúa đối với con người bao la, nhưng Ngài đã chọn con đường nhỏ hẹp, và cũng từ khung cửa hẹp đó là khung cửa duy nhất Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đã cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Nếu Thiên Chúa đã qua “khung cửa hẹp” để đến với con người thì con người cũng hãy đi qua “cửa hẹp” ấy để đến với Thiên Chúa. Vì “cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến chỗ diệt vong” (Mt 7,13).
Qua được “cửa hẹp” để vào Nước Trời không phải là ta nới rộng kích thước của khung cửa cho vừa với kích cỡ của mình, mà chính là gọt giũa đời sống của mình sao cho gọn gàng, tương thích với khung cửa dẫn vào sự sống để đến với Thiên Chúa. Thế nên, vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân ta quá cồng kềnh, nặng nề không thể bước qua khung cửa đang sẵn chờ ta. Vì thế, ta hãy trút bỏ những cồng kềnh vướng víu để có thể nhẹ nhàng vượt qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời: có những cồng kềnh về vật chất làm choán hết quỹ thời gian hằng ngày, có những cồng kềnh đi liền với những nết xấu thuộc bảy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, nóng giận, ganh tị, dâm ô… Chỉ khi nào con người tự trở nên nhỏ lại, thì Thiên Chúa mới có thể lớn lên trong họ. Họ mới có thể là những lữ hành bước trên con đường hẹp, con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chọn lựa cho mình con đường đưa đến sự sống đời đời, đó là con đường hẹp của hy sinh, từ bỏ. Con đường ấy chính là con đường mà Chúa đã chọn và khuyên dạy chúng con bước theo. Xin giúp chúng con trung thành đi trên con đường hẹp này cho đến cùng. Amen.
Xin Đức Giêsu, Đấng “là Đường và là Cửa“ (x. Ga 14,6; 10,9) cho chúng con luôn sẵn sàng lên TN 21-C138
TMĐP- Xin Đức Giêsu, Đấng “là Đường và là Cửa“ (x. Ga 14,6; 10,9) cho chúng con luôn sẵn sàng lên đường về Giêrusalem với Chúa và cùng Chúa đi qua Thánh Giá của Lòng Thương Xót là Cửa Hẹp dẫn chúng con vào vinh quang của Chúa buổi sáng Phục Sinh.
Nếu thời Đức Giêsu, có người đã hỏi Ngài:”Thưa Ngài, những người được cứu rỗi thì ít, có phải không?” (Lc 13, 23), thì thời nay, nhiều người cũng đặt vấn đề với Chúa về con số những người được rỗi linh hồn.
Trước vấn nạn này, Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời ít hay nhiều, tỷ số phần trăm người được lên Thiên Đàng, số lượng chính xác nguời lành được cứu rỗi, nhưng Ngài nói cho chúng ta biết phải làm cách nào để nắm chắc phần rỗi, phải sống thế nào để bảo đảm phần thưởng Nứơc trời sau cuộc sống trần gian, và cách Ngài dạy chính là “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24).
Qua lời kêu gọi “Hãy chiến đấu”, Đức Giêsu khẳng định cuộc sống hiện tại của mỗi người là một cuộc chiến: cuộc chiến giữa Thiên Chúa và Thần Dữ, giữa Thiện và Ác, giữa Gian Dối và Sự Thật, giữa Tình Yêu và Hận Thù, giữa Khiêm Tốn, Hiền Lành và Kiêu Căng, Bạo Lực, giữa Sự Sống và Hủy Diệt, giữa Thiên Đàng và Hỏa Ngục …
Chính vì cuộc sống là cuộc chiến cam go giữa tốt – xấu, công chính và bất chính, mà mỗi người phải là một chiến binh, nghĩa là phải chọn lựa liên lỷ để đứng vào một chiến tuyến, thuộc về một hàng ngũ, ở trong một đội quân mà không thể đi hàng hai, vừa bên này vừa bên kia, như Đức Giêsu đã nói với quan tổng trấn Philatô khi bị điệu ra trước mặt ông: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian cho mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18 ,37).
Sự thật mà người chiến binh thuộc quyền Đức Giêsu phải ra sức chiến đấu chính là sự thật của Tình Yêu, sự thật của một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Đấng đã hứa Nước Trời cho những ai có lòng xót thương như Ngài (x.Mt ), và quả quyết chỉ những người đã chiến đấu cho lòng thương xót, chịu nhiều thương tích vì xót thương anh em, và sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để thực hiện giới luật yêu thương trong cuộc chiến ở trần gian mới xứng đáng đón nhận huân chương anh dũng dành cho những chiến binh của Nước Trời khi được chính Đức Giêsu, Vua Tình yêu, Thống Lãnh của đạo quân lòng Thương Xót tuyên dương công trạng ở ngày sau hết: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25,34).
Như thế, Cửa Hẹp Nước Trời mà Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay không là con số được định sẵn, hoặc gắt gao giới hạn số người được tuyển dụng kiểu “numerus clausus” như những cuộc thi tuyển vào trường lớn, hoặc vào các chức vụ hành chánh trọng yếu, bởi chính Ngài đã qủa quyết:”Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29) được ngôn sứ Isaia tuyên sấm: “Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta … Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc” (Is 66,18.19), cũng như thánh vịnh đã hân hoan cất lời nói lên mức độ bao phủ vô cùng lớn lao của Nước Trời: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người! Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” (Tv 116,1-2), nên sẽ không có chuyện giới hạn số người được nhận vào Nước Trời, cũng không có vấn đề thiếu chỗ trên Thiên Đàng, vì “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” (Ga 14,2), như Ngài đã bảo đảm. Nhưng Cửa Hẹp là đòi hỏi phải từ bỏ những hành trang lỉnh kỉnh của ích kỷ để sống quảng đại với mọi người; là đòi hỏi phải cởi bỏ xích xiềng của tham vọng bất chính để sống công bình, chính trực và tôn trọng quyền lợi của người khác; là đòi hỏi phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng, cửa quyền, phách lối để hiền hoà, nhân hậu, biết cảm thông và chạnh lòng thương người kém may mắn hơn mình trong cuộc sống; là đòi hỏi phải khiêm tốn để Chúa sửa dậy hầu được trở nên”đồng hình đồng dạng “mỗi ngày hơn với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, Đức Vua nhân hậu chỉ biết xót thương, chữa lành, cứu sống mọi người, không trừ ai (x.Dt 12, 5-10).
Thực vậy “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa” chính là quân lệnh kêu gọi chúng ta là các chiến binh thuộc quyền Đức Giêsu, Vua Tình Yêu hãy từ bỏ những gì trái ngược lòng nhân ái, những tư tưởng, lời nói, việc làm đối nghịch giới luật Yêu thương, và chỉ giữ lại trên mình một hành trang thánh thiện, “vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa” (Dt 12, 14), mà “Thiên Chúa thánh thiện, vì Ngài xót thương”, nên thiếu lòng thương xót, chúng ta không thể vào được Nước Trời, vì cửa Nước Trời chỉ mở cho những người có trái tim hay chạnh lòng thương xót, mà không đủ rộng để những khổng lồ của ích kỷ, kiêu căng, những cồng kềnh của tham vọng, mưu đồ bất chính, những kho tàng kếch xù của hư danh, vật chất kiếm được trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của người khác lọt vào.
Xin Đức Giêsu, Đấng “là Đường và là Cửa” (x. Ga 14,6; 10,9) cho chúng con luôn sẵn sàng lên đường về Giêrusalem với Chúa và cùng Chúa đi qua Thánh Giá của Lòng Thương Xót là Cửa Hẹp dẫn chúng con vào vinh quang của Chúa buổi sáng Phục Sinh.
Có kẻ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?" Đó là TN 21-C139
Có kẻ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?" Đó là một người Do thái. Và ông ta luôn tin rằng chỉ có người Do thái mới được vào Nước Chúa. Còn người dân ngoại thì đừng hy vọng gì cả.
Chúa Giêsu đã dùng chính câu hỏi của người đó để bày tỏ lời cảnh báo những người đương thời. Người nói: "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được." Người cũng nói với những người Do thái rằng họ có nguy cơ không được vào Nước Chúa vì họ không chú ý đến lời Chúa mời gọi hãy ăn năn sám hối.
Cổng chính vào một toà lâu đài bao giờ cũng rộng rãi, bạn sẽ dễ dàng bước vào nếu có đầy đủ chứng từ hợp lệ, chứng từ này không liên quan gì đến cuộc sống tốt hay xấu của bạn. Những người vào bằng lối cổng chính thường có thái độ dương dương tự đắc vì họ tự đánh giá mình thật quan trọng, họ cảm thấy họ có quyền bước vào vì tư cách cá nhân của họ.
Nhưng trong các toà lâu đài, bạn cũng sẽ thấy một cửa hẹp bên cạnh. Để vào lối cổng này, bạn phải làm cho chính mình trở nên nhỏ đi. Bạn phải trở nên khiêm tốn và giải thoát mình khỏi bất kỳ điều gì gây vướng víu bạn.
Minh hoạ này giúp ta hiểu điều Chúa Giêsu muốn nói "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào." Điều này cũng giúp ta hiểu được tại sao trong một lần khác, Người lại nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào" (Lc 18,17). Những người nhỏ bé được vào Nước Trời. Tại sao ? Vì họ có thể dễ dàng khi làm cho mình trở nên bé nhỏ và điều đó làm cho họ dễ dàng đi qua những lối chật hẹp.
Những điều này thật quan trọng với chúng ta. Chúng ta không nên lặp lại lỗi lầm của những người đương thời với Chúa Giêsu, những người đã nghĩ rằng họ có quyền ưu tiên để vào Nước Chúa. Chúng ta phải thực sự muốn vào Nước Chúa và phải chuẩn bị cho điều đó. Chúng ta phải cảm thấy hạnh phúc, ngay cả khi phải làm cho mình trở nên nhỏ bé để đi qua những nơi chật hẹp.
Đó phải là thái độ của chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ rằng mọi thứ đã được sắp đặt sẵn cho ta, chúng ta chỉ cần có mặt, trình thẻ để nhận diện hoặc đơn giản nói với người gác cổng rằng chúng ta quen biết ông chủ và đã sẵn sàng để được bước vào bên trong. Điều quan trọng cuối cùng chính là phẩm chất của cuộc sống chúng ta.
Bao nhiêu người sẽ được vào Nước Chúa ? Có thật như lời người Do thái đã nói là chỉ có một số ít người được vào không ? Nước Chúa phải chăng là một câu lạc bộ chỉ dành cho các thành viên ? Dĩ nhiên là không phải. Người nào sẵn sàng bước qua cửa hẹp thì sẽ được tiến vào.
Vào ngày sau hết, chúng ta phải nhớ rằng ơn cứu độ không phải là thứ mà chúng ta có thể kiếm được. Đó là ân sủng từ nơi Thiên Chúa. Chúa Giêsu mở cửa Nước Trời cho kẻ tội lỗi, và qua thái độ khiêm tốn và thống hối về tội lỗi của mình, họ đã chứng tỏ họ là những người được tuyển chọn chứ không phải là những kẻ vốn tự cho mình là đạo đức. Hãy nghĩ đến tên trộm lành đã được vào Nước Chúa trong những giây phút sau cùng của cuộc đời.
Thật sự, ơn cứu độ là một ân sủng từ Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta không cố gắng làm cho mình trở nên xứng đáng để vào Nước Chúa. Và chúng ta phải mở rộng lòng mình với anh em và không ganh tỵ với sự rộng lượng của Chúa đã dành cho họ.
ĐI QUA CỬA HẸP ĐẾN HẠNH PHÚC THÁNH THIỆN VÀ VÀO NƯỚC TRỜI MAI SAU
Tuần vừa qua tôi đọc trên trang mạng thấy một trường hợp rất đặc biệt là em Thùy Chi làm bài TN 21-C140
Tuần vừa qua tôi đọc trên trang mạng thấy một trường hợp rất đặc biệt là em Thùy Chi làm bài thi bằng miệng vì em dị tật bẩm sinh liệt tứ chi, phải đi lại bằng xe lăn, em ngồi đọc cho giám thị chép lại. Phòng thi của em chỉ có em với 3 giám thị: một giám thị đọc đề, một giám thị ngồi chép lại lời giải và một giám thị khác ngồi giám sát cả thí sinh và giám thị chép, cùng với 1 máy quay phim, 1 ghi âm để đảm bảo khách quan và công bằng cho thí sinh. Sau 10 tiếng làm bài, Thùy Chi được người ta đẩy ra khỏi phòng thi, em nở nụ cười thật tươi cho biết: “Em làm được bài, đề thi không khó, bài thi của em dài 8 trang. Hy vọng em sẽ đậu đại học vì em đã chiến đấu với bao nhiêu gian khổ em tin chắc sẽ chiến thắng”. Và thật sự sau đó em đã đổ vào đại học.
Vì cuộc sống mưu sinh, đòi hỏi chúng ta phải đi qua nhiều cửa hẹp: cửa hẹp hy sinh gian khổ học hành để thành nhân, thành thân; cửa hẹp buôn bán từng bát bún, từng ổ bánh mì, hay từng nắm sôi để có đồng tiền bát gạo nuôi thân và gia đình, cửa hẹp của mồ hôi lau công vất vả trên nương đồng để có mùa gặt bội thu; cửa hẹp của thức khuya dậy sớm để chăm sóc từng co gà, con heo, con cá mong có được của ăn của để… Vì vậy, nếu ta đi qua cửa hẹp trong đời sống vật chất, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng, hy sinh, vất vả, đồ mồ hôi sôi nước mắt và thậm chí đỗ máu nữa. Trong đời sống đức tin cũng vậy, phải qua cửa hẹp: cửa hẹp của việc thờ phượng Chúa ngày lễ Chúa nhật hay kinh sáng tối phải đúng giờ, đúng buổi không bê trễ hay của hẹp là sống trệt để cho Lời Chúa dù phải thiệt thân… Vì vậy, nếu trong đời sống đời thường và đời sống đức tin, chúng ta phấn đấu qua được những cửa hẹp ấy, chúng ta sẽ thành công, thành đạt, hạnh phúc bình an và thánh thiện, chính lúc ấy những hy sinh vất vả của chúng ta thật đáng quý, trân trọng, đáng khâm phục làm sao! Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), cửa hẹp ở đây là “cửa hẹp dẫn đến hạnh phúc và sự sống đích thực ở đời này và sự sống đời sau trong Nước Trời” (Mt 7,14).
Như thế, đường đưa đến hạnh phúc và vào Nước Trời hẳn không phải rộng thênh thang, tự do thỏa mái trong tội lỗi, mà là cửa hẹp phải chiến đấu tiêu diệt tội lỗi, tính ương lười bê trễ trong việc thờ phượng Chúa. Trên đường dương thế hôm có muôn ngàn khó khăn và cạm bẫy đang giăng lối, cho nên cả cuộc đời là Dân của Chúa ở dưới đất thấp này, chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: (thế gian, quỷ dữ, xác thịt). Vì vậy, chúng ta hãy cầm lấy vũ khí sự sáng là Lời Chúa để chiến đấu với chính mình mới là quan trọng. Vì chiến đấu với cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, tham danh lợi thú; của tự ái ích kỷ lo vun vén cá nhân mình mà không biết chia sẻ, phục vụ, yêu thương, cái tôi ương lười bê trễ trong việc tham dự thánh lễ Chúa nhật hay đọc kinh sáng tối. Chỉ vì những cái tôi cồng kềnh, nặng nề, phình to nên Cửa Trời trở nên hẹp, chúng ta không vào được là vậy.
Chúa Giêsu đã chiến đấu để được cái tôi khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nên Ngài là Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vì ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá để chiến thắng tử thần và mang lại sự sống vinh quang muôn đời cho chúng ta. Vì thế, LỜI Chúa trong bài đọc 2, thư gởi tín hữu Do thái dạy chúng ta rằng chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách, gặp những thương tích nhưng phải can trường vì Thiên Chúa vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài sửa dạy, bổ sức, nâng đỡ tất cả chúng ta chiến thắng như Chúa Giêsu, Con Một của Ngài. Vì vậy, Lời Chúa dạy: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
Chúng ta thường nghĩ rằng chiến đấu cho thể xác như kiêng ăn, uống để được lành bệnh hay hy sinh gian khổ như Em Thùy Chi dù thân xác bị tàn nhưng không phế nhờ em chiến đấu can trường với chính mình, em đã đi con đường hẹp là sự hy sinh khổ luyện để có được những vinh quang như lòng em mong muốn cũng dễ. Còn chiến đấu hy sinh, đi con đường hẹp cho Tin Mừng, Chúa thì khó lắm, nên chẳng mấy ai đi. Đồng ý đi qua cửa hẹp mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi khó thật, nhưng ông Nguyễn Bá Học nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, Còn Lời Chúa nói: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10,13). Vì vậy, chúng ta chỉ cần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được mọi sự lành, dù Ngài bảo chúng ta đi qua cửa hẹp, có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con của Ngài và được sống vĩnh hằng với Ngài. Chúng ta chỉ cần tin vào Lời Ngài và lấy Lời Ngài làm khí cụ để chiến đấu đi qua cửa hẹp và chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng vinh quang: đó là được bình an, hạnh phúc đích thực cho mình, gia đình và giáo xứ mình… ngay ở đời này và được vào Nước Trời mai sau.
Cuộc sống hôm nay có rất nhiều cám dỗ lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, nên dễ tránh đi con đường hẹp. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết nỗ lực đi con đường hẹp là là hy sinh, tham dự thánh lễ đúng giờ, siêng năng đọc kinh sáng tối, sống thánh thiện, yêu thương, phục vụ và sẻ chia với với ai đang đau khổ hầu ông Chủ là Thiên Chúa sẽ mở cửa Nước Trời đón chúng ta vào Nước Ngài mai sau. Amen.
Thiên Chúa luôn mời gọi, nhưng con người vẫn từ chối. Ai chối từ sẽ mất mát, ai tiếp nhận tình TN 21-C141
Thiên Chúa luôn mời gọi, nhưng con người vẫn từ chối. Ai chối từ sẽ mất mát, ai tiếp nhận tình yêu Chúa, người ấy sẽ hạnh phúc với Ngài. Điều này mọi tín hữu đều biết nhưng biết là một chuyện, mà làm là một chuyện khác.
Chúa Giêsu nhân cơ hội một người nêu lên thắc mắc, Ngài nhắc chúng ta phải làm thế nào để được cứu thoát. Câu hỏi này đậm nét truyền thống của các ông kinh sư cho rằng chỉ có một số ít người được cứu thoát mà thôi, những người giữ đúng luật.
Chúa Giêsu không nói rõ là ai sẽ được cứu mà gần như muốn ám chỉ mọi người đều có thể được cứu thoát với điều kiện là phải chiến đấu để qua được cửa hẹp.
Chúng ta thường hiểu những so sánh này theo nghĩa đen, vì thế chúng ta dễ hình dung một cánh cửa. Nhưng cửa ở đây phải hiểu theo một nghĩa rộng hơn, không là một nơi, không là một vật, có chiều kích dài rộng, nhưng là một người.
Cửa hẹp này chính là Chúa Giêsu: “Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu thoát. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Vào cửa hẹp tức là vào trong tình yêu của Ngài. Muốn thế, Ngài bảo chúng ta phải chiến đấu.
Tình yêu nào không phải chiến đấu?
Tình yêu của con người là một cuộc chiến cam go. Tình yêu là một chọn lựa và là một chọn lựa dứt khoát. Dấn thân mà không có tháo thân. Giữa nhiều người, tình yêu chỉ chọn một. Tình yêu cũng có rất nhiều kẻ thù. Phải loại trừ tất cả những gì không thích hợp với tình yêu: ích kỷ, vụ lợi, giận dữ, lười biếng… Cuộc chiến này cam go không khác gì những cuộc chiến trong những giải tranh tài. Nhiều người đã thất bại trong tình yêu vì không đủ can đảm chiến đấu. Vì thế “nhiều người muốn vào mà không vào được”.
Chúa cũng cho thấy rằng, sẽ có lúc “chủ nhà sẽ đứng dậy và khóa cửa lại” và chúng ta sẽ bị loại trừ. Chúng ta đến quá trễ.
Thời gian chúng ta đang sống là thời gian của lòng thương xót, Chúa mong chúng ta bước vào tình yêu của Ngài, Ngài vẫn đang chờ đợi. Nhiều người không biết, và nếu có biết cũng không màng để ý.
Giuđa đã theo Chúa mấy năm, đã từng được dạy dỗ, đã từng sống kề cận Chúa, nhưng anh vẫn chưa bước vào được cánh cửa tình yêu của Ngài. Chắc Giuđa cũng biết phải sống thế nào, nhưng anh đã yêu tiền hơn Chúa. Anh đã làm tôi mọi cho thế gian và đã gặt hái kết quả của sự tham lam.
Sẽ có một ngày, nhiều người sẽ kêu cửa một cách vô vọng, vì khi cửa mở họ không bước vào. Họ sẽ khẩn nài vô ích: “Chúng tôi đã ăn uống với Ngài, nhưng không yêu Ngài. Ngài đã từng giảng trên các đường phố của chúng tôi, mà chúng tôi không nghe”.
Chúa vẫn nhẫn nại đợi chờ. Chúa vẫn tha thiết mời gọi. Chúa đã làm bất cứ điều gì để cứu chúng ta. Phúc cho chúng ta khi chúng ta nghe tiếng Ngài. Chúa cũng cảnh báo chúng ta, những người đã được hồng ân đức tin: đừng tưởng rằng mình sẽ vào được hạnh phúc của Chúa mà không cần cố gắng. Phải chiến đấu, nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài. Con đường gian ác rộng thênh thang, và nhiều người đã ham thích con đường dễ dàng đó.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, đã từ vinh quang của Ngài đến mở cửa Nước Trời cho chúng ta. Ngài phải mướt mồ hôi máu, đau đớn quằn quại trên thập giá, chúng ta sẽ đi con đường nào khác?
Con đường của Ngài là “bỏ mình, vác thập giá”, chúng ta sẽ đi con đường hưởng thụ, gian ác để vào Nước Trời được sao?
Chúng ta có quyền chọn lựa. Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Chúa, chúng ta được tạo nên trong tự do. Ađam đã không biết sử dụng tự do của mình và đã sai lầm. Những người được Chúa mời gọi như Matthêu, Giakêu, Maria Mađalêna, Phaolô… họ vẫn có thể từ chối và họ đã không từ chối. Những người đó đã từ vực sâu vươn lên, là những người ở xa mà đã trở thành gần, trở thành công dân Nước Trời, người nhà của Thiên Chúa, đang lúc các kinh sư, luật sĩ lại chối từ.
Chúng ta thuộc hạng người đã chối từ chăng?
“Các ngươi chớ cứng lòng”. Chúa đã từng trách dân Do Thái qua các tiên tri: “Dân này thờ Ta ngoài môi ngoài miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng”. “Tình yêu của các ngươi như sương ban mai, mau tan mau biến…” Trong sách Khải Huyền, Chúa cũng nói: “Ngươi không nóng cũng không lạnh, hăm hẳm, Ta sẽ mửa ngươi ra…”
Đừng để quá trễ. Thời giờ thương xót vẫn còn, hãy mau mắn vào qua cửa hẹp. Cố gắng để không bị loại ra ngoài. Đừng quá tin vào tài khéo của mình, tưởng rằng thế gian này đủ cho chúng ta: “Thế gian này đang qua đi”, hãy bám vào Chúa là Đấng tồn tại và là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Người ta đổ máu để tranh nhau một chút phù hoa, nằm xuống vẫn tay không: “Dù lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì?”
Chúng ta nhìn thấy trước mắt chúng ta, bao nhiêu người giàu có mà không có một ngày yên vui. Những yến tiệc trần thế, những cuộc vui vật chất chỉ đem lại chán buồn, ngột ngạt. Nguồn vui ơi! Ngươi ở đâu?
Một thanh niên, con một đại gia Nhật. Cậu vừa tốt nghiệp đại học, là sự hãnh diện của cha mẹ, sẽ thay thế cha mình quản trị những xí nghiệp của ông. Cha cậu cho cậu đi du lịch khắp thế giới trong ba tháng. Chàng đi rất nhiều nơi trên thế giới, hưởng tất cả mọi thứ chàng thích. Lúc về nhà, cậu trở nên ít nói, trầm tư. Mẹ cậu tưởng rằng đi xa về mệt, cũng không hỏi han gì. Một ngày kia, không thấy cậu xuống dùng cơm. Chuông reo nhiều lần không thấy trả lời. Mọi người hoảng hốt chạy lên phòng. Bước vào phòng thấy cậu nằm trên giường, đầu cắm xuống đất, trong tay còn cầm một tờ giấy: “Xin giã từ cha mẹ và mọi người. Con chán sống, vì đời con chẳng có ý nghĩa gì cả. Vĩnh biệt!”
Một người khác. Ngôi sao sân khấu Ève Lavallìere. Vào thập niên 1930, cô đang ở đỉnh cao vinh quang. Đột nhiên cô khám phá ra Chúa Giêsu nhờ đọc “chuyện một tâm hồn của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Cô bỏ tất cả danh tiếng, tiền bạc, sống một đời sống khắc khổ ẩn dật cho đến chết, chỉ yêu một mình Chúa thôi. Nàng đã vào qua cửa hẹp và đã đạt tới hạnh phúc.
Đó là một trong biết bao nhiêu người ở xa đã đến dự tiệc với Abraham…
Hãy lắng nghe tiếng gọi khẩn thiết của Chúa chúng ta để “được vào sự yên nghỉ của Ngài”. Đừng trì hoãn, vì chúng ta mong manh.
Cửa đang mở chờ đón chúng ta. Cửa đó chính là “Mình Ta, để cho thế gian được sống”. Hãy nhanh chân đến với nguồn thương vô biên đang mời gọi.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI Thường Niên năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu TN 21-C142
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI Thường Niên năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Is 66: 18-21
Vị ngôn sứ hậu lưu đày, I-sai-a đệ tam, gợi lên ý định của Thiên Chúa là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất thành một dân duy nhất, dân của Ngài. Để thực hiện điều này, ơn gọi phổ quát của dân Ít-ra-en phải đóng một vai trò chính yếu.
Dt 12: 5-7, 11-13
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái an ủi cộng đoàn Ki-tô hữu, nhưng một cách rất đặc biệt khi chỉ cho thấy mối liên hệ giữa những gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa, như một người cha, sửa dạy những ai Ngài yêu thương. Vì thế, hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong gian nan thử thách.
Lc 13: 22-30
Thánh Lu-ca tường thuật những lời nghiêm khắc của Đức Giêsu lên án dân Ít-ra-en, dân đã được kêu gọi đầu tiên, nhưng vì cứng lòng tin nên từ chối nhận ra Ngài. Vì thế, Ngài công bố rằng Nước Thiên Chúa sẽ được mở rộng cho muôn dân muôn nước.
BÀI ĐỌC I (Is 66: 18-21)
Chương 66 là chương cuối cùng của toàn bộ sách I-sai-a. Vị ngôn sứ, biệt danh I-sai-a đệ tam, ngỏ lời với cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, cốt yếu là những người hồi hương trở về từ cuộc lưu đày tại Ba-by-lon, chán nãn trước những chướng ngại lớn lao mà họ phải đối mặt với.
Trong sấm ngôn này, chúng ta gặp lại giọng điệu lạc quan và những viễn cảnh vinh quang mà vị ngôn sứ này hé mở cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
1. Sứ điệp phổ quát:
Sứ điệp mà vị ngôn sứ loan báo mang chiều kích phổ quát. Sứ điệp bao gồm hai chuyển động: chuyển động thứ nhất của Ít-ra-en là sai những sứ giả vào trong toàn thể thế giới, và chuyển động thứ hai của muôn dân muôn nước là trợ giúp con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi để đưa họ trở về Giê-ru-sa-lem.
Chuyển động thứ nhất dựa trên chủ đề “nhóm còn sót lại”, diễn ngữ này lần đầu tiên xuất hiện tại ngôn sứ A-mốt vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, được ngôn sứ I-sai-a đệ tam khai triển vài năm sau đó và là sứ điệp trọng tâm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị với dung mạo Người Tôi Trung. Những người lưu đày xưa kia, “những kẻ sống sót của chúng” sẽ là hạt nhân tái sinh của dân Chúa chọn. Một tôn giáo được thanh lọc và phổ quát, đó là thành quả rõ ràng nhất và phong phú nhất của thời gian đau khổ dài lâu ở đất khách quê người. Ít-ra-en trở thành một dấu hiệu ở giữa muôn dân. Việc dân Chúa chọn được phục hưng chứng thực vinh quang của Đức Chúa, tức là quyền năng của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi các biến cố. Những sứ giả của dân Chúa chọn sẽ ra đi loan báo vinh quang của Đức Chúa đích thật cho “các dân tộc ở góc biển chân trời, những đảo xa xôi, chưa từng được nghe nói đến Ngài, chưa hề thấy vinh quang của Ngài”.
Nét đặc thù của ngôn sứ I-sai-a đệ tam là biết liên kết chiều kích hoàn vũ và chủ nghĩa quốc gia. Ở nơi vị ngôn sứ hậu lưu đày này có vài điểm nhấn “phục thù”. Ít-ra-en đã chịu biết bao tủi nhục làm tôi cho muôn dân, rồi một ngày kia muôn dân sẽ phải kính trọng họ, chạy đến với họ và xin được phục vụ họ. Màu sắc này nổi bật trong bức tranh về chuyển động thứ hai: “Người ta sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ muôn dân về dâng cho Chúa… Họ sẽ đem chúng đến tận Núi Thánh của Ta”. Sứ điệp hoàn vũ vĩ đại này mà vị ngôn sứ loan báo được vài hoàn cảnh lịch sử chính xác gợi lên.
2. Khoa thần bí mới về Đền Thờ:
Người ta có thể định vị niên biểu của lời sấm này, chắc hẳn vào năm 520 trước Công Nguyên. Công việc tái thiết Đền Thờ khởi sự vào năm 521 và hoàn tất vào năm 515. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, niềm tự hào hãnh diện của toàn thể dân Ít-ra-en, dù ở miền Bắc hay ở miền Nam hoặc ở Hải Ngoại, một lần nữa sắp chứng thực Thiên Chúa hiện diện và hành động ở giữa dân Ngài. Đó là dấu chỉ hữu hình của việc Thiên Chúa tuyển chọn.
Nhưng thời gian đã thay đổi. Khoa thần bí về Đền Thờ đã mất đi viễn cảnh hẹp hòi này. Ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố một lời chứng đáng chú ý nhất. Ông để cho Đức Chúa lên tiếng ngay từ câu đầu tiên của chương 66 này: “Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi?”.
Nhưng nếu Đức Chúa đã chấp nhận tái thiết Đền Thờ này, Ngài công bố bằng những ngôn từ mà Chúa Giêsu sẽ lấy lại: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7). Đó là tư tưởng mới của vị ngôn sứ. Đó là ý nghĩa của sấm ngôn mà chúng ta được mời gọi gẫm suy.
3. Một nhãn quang mới về các dân tộc khác:
Vào lúc trở về từ cuộc lưu đày, những người hồi hương đã gặp thấy ở Giê-ru-sa-lem nhiều dân tộc khác cư ngụ. Điều này sẽ đặt ra nhiều vấn đề, nhất là hôn nhân của con cái Ít-ra-en với dân ngoại giáo. Một phần những người ngoại kiều này đã góp sức vào việc xây dựng lại tường thành và chắc chắn cũng vào việc tái thiết Đền Thờ. Đây là thời điểm mà phong trào thu nạp các tín đồ mới nảy sinh, nghĩa là chấp nhận ngoại kiều được tham dự vào tôn giáo của Đức Chúa, với điều kiện là tuân giữ những điều khoản cốt yếu của luật Mô-sê (ngày sa-bát, phép cắt bì) và những đòi hỏi luân lý mà luật đòi buộc. Người ta có thể phỏng đoán rằng đây là một sự mới mẽ lớn lao mà vị ngôn sứ đặt trên môi miệng của Đức Chúa, Ngài sẽ chọn cho mình giữa muôn dân “những tư tế và những thầy Lê-vi”. Đây là biểu thức táo bạo nếu chúng ta nghĩ đến những yêu sách về một dòng dõi tư tế đối với tầng lớp giáo sĩ của dân Ít-ra-en.
Ngoài sự phỏng đoán này, còn có một phỏng đoán khác: Đền Thờ được tái thiết nhờ sự trợ giúp tài chính của đế quốc Ba-tư. Tài chính ngoại quốc này là bày tỏ niềm tôn kính đối với Đức Chúa. Còn hơn thế nữa, khi Đền Thờ được hoàn thành, vua Ba-tư sẽ truyền dâng hy lễ mỗi ngày lên Thiên Chúa Ít-ra-en, do vua đài thọ.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 5-7, 11-13)
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái này mời gọi những người Ki-tô hữu gốc Do thái bị bách hại hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong những gian nan thử thách. Tác giả đưa ra trước một lý chứng được định vị vào trong hàng các sách minh triết, nhưng ông đem lại cho lý chứng này một chiều kích mới: có mối liên hệ giữa gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa sửa dạy chúng ta như một người cha:
Chính vì Thiên Chúa là Cha và vì Ngài muốn con cái Ngài nên thập toàn: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nãn lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt”. Sở dĩ tác giả khuyên như vậy vì ông dựa vào một bản văn của sách Châm Ngôn: “Này con, chớ khinh thường khi Đức Chúa sửa dạy con, đừng chán ngán khi Người khiển trách. Vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3: 11-12).
Ở nơi lời khuyên này, phải đọc thấy mẫu gương của Chúa Ki-tô, như tác giả đã viết trong cùng bức thư này: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5: 8). Như vậy, “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy, Người đối xử với anh em như với những người con”. Đây là Ki-tô hóa đề tài truyền thống của Kinh Thánh.
2. Sự ích lợi của việc Thiên Chúa sửa dạy:
Được Thiên Chúa sửa dạy như người cha đầy yêu thương như thế, cuối cùng chúng ta sẽ gặt hái được hoa trái là bình an và thánh thiện, những giá trị đem lại cho những người Ki-tô hữu một niềm tin tưởng vững chắc. Bởi vậy, “hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ”. Tác giả có chủ ý chọn những hình ảnh này trong bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 35: 3), bản văn gợi lên cho những người lưu đày Ba-by-lon ơn cứu độ sắp đến gần. Những nỗi gian truân như “Lửa thử vàng gian nan thử đức” rèn luyện chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên con đường cứu độ.
Tác giả trích thêm một bản văn khác của sách Châm Ngôn 4: 26: “Đường con đi, hãy san cho phẳng”, để chúng ta chạy mà không bị trật bước. Hình ảnh của viện động viên chạy đua trong thao trường mà tác giả bắt đầu khai triển và kết thúc trên cùng một viễn cảnh (12: 1 và 12: 13: phương pháp văn chương đóng khung). Tác giả muốn nói rằng gian nan thử thách, được hiểu như vậy, đem lại cho đức tin một sự kiên vững khôn sánh.
TIN MỪNG (Lc 13: 22-30)
Thánh Lu-ca ra công biên soạn một cuộc hành trình dài của Chúa Giêsu từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc hành trình này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên bắt đầu với câu: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (9: 51), còn hai giai đoạn còn lại thì được dánh dấu bởi mốc điểm: “Trên lên Giê-ru-sa-lem” (13: 22; 17: 11). Đây là công trình biên soạn độc đáo của thánh Lu-ca. Trong suốt cuộc hành trình dài lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu vừa đi vừa giảng dạy cho các môn đệ và đám đông dân chúng về cách thức sống đời môn đệ.
Câu mở đầu của đoạn trích hôm nay: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy” (13: 22) đánh dấu giai đoạn thứ hai của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Lu-ca tập hợp lại thành nhóm nhiều lời nói của Đức Giêsu liên quan đến việc đi vào Nước Trời, mà chúng ta cũng gặp thấy tại thánh Mát-thêu, nhưng được thánh Mát-thêu trình bày riêng lẽ và trong những bối cảnh khác nhau. Việc thánh Lu-ca liên kết chúng lại với nhau gây nhiều cảm xúc nơi người đọc: cửa vào Nước Trời thì hẹp; cửa này sẽ đóng lại trước những người Ít-ra-en cứng lòng tin, nhưng sẽ rộng mở cho lương dân trên khắp thế giới.
1. Chiều kích biểu tượng của cửa:
Một người trong đám đông nêu lên cho Đức Giêsu một câu hỏi trang trọng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Vấn đề về số người được tuyển chọn nhiều hay ít là một chủ đề gây tranh luận sôi nổi trong các trường phái kinh sư. Vào thời Chúa Giêsu đã hình thành nên hai quan niệm về ơn cứu độ trái ngược nhau. Những người Pha-ri-sêu có xu hướng lạc quan nghĩ rằng mọi con cái Ít-ra-en đều sẽ được cứu độ. Những người khác, như người hỏi Đức Giêsu này, thì lại bi quan vì cho rằng chỉ một ít người đạt được ơn cứu độ.
Đức Giêsu không trả lời cho anh cách trực tiếp nhưng gián tiếp: số người được cứu độ tùy thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người. Vì thế, không ai bị loại trừ, nhưng phải biết rằng cửa vào Nước Thiên Chúa thì hẹp, vì thế phải phấn đấu mà vào. Ý tưởng chuyển từ số lượng sang chất lượng: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm lấy được” (Mt 11: 12) và “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24: 13).
Chúa Giêsu ngầm gợi lên đề tài truyền thống về hai con đường. Thánh Mát-thêu khai triển đề tài này trong một đoạn văn đối xứng mà thánh ký đặt vào phần kết thúc Diễn Từ Trên Núi: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7: 13). Còn thánh Lu-ca thì trung thành với chiều kích biểu tượng của cửa. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Động từ Hy-lạp gợi lên ý tưởng về cuộc chiến đấu. Thánh Phao-lô dùng động từ này để diễn tả nỗ lực bền bỉ trong cuộc chiến mà thánh nhân đương đầu vì đức tin (Pl 1: 30; 1Tx 5: 8; 2Tm 4: 7).
2. Dân Ít-ra-en cứng lòng tin bị loại ra bên ngoài:
Thời gian cứu độ có kỳ hạn, cơ hội ngàn năm một thuở đã qua đi: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại…”. Vài người sẽ gõ cửa… Thiên Chúa sẽ không mở: “Ta không biết các ngươi từ đâu tới”.
Thánh Mát-thêu gợi lên cửa sẽ đóng lại theo cùng một cách tương tự trong dụ ngôn “năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại”: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!”. Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 24: 11-12). Năm cô trinh nữ khờ dạy này đã không biết sống trong tư thế sẵn sàng. Cũng vậy, dân Ít-ra-en cứng lòng tin, có thể biện bác: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng đã quá trể rồi. Chúa Giêsu tiếp tục trích dẫn Tv 6: 9: “Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Dân Ít-ra-en đã không biết nhận ra giờ Thiên Chúa viếng thăm. Vì thế, Đức Giêsu sẽ khóc thương thành thánh Giê-ru-sa-lem (Lc 19: 41-44).
3. Cánh cửa mở rộng cho lương dân:
Đối với những người đã được gọi ngay từ đầu nhưng vì cứng lòng tin mà từ chối vào Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu loan báo ơn cứu độ cho muôn dân muôn nước: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Ngài lên Giê-ru-sa-lem hướng về hy lễ cao vời của Ngài, được dâng hiến cho muôn người.
Bài diễn từ đặc biệt được gởi đến những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ mình là con cái của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp nên chắc chắn được cứu độ. Không, lối vào Nước Thiên Chúa tất yếu là “cửa hẹp”. Ấy vậy, chính Chúa Giêsu đã công bố Ngài là Cửa: Chính ở nơi Ngài mà người ta phải đi qua để được cứu độ: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9). Nhưng dân Ít-ra-en đã từ chối. Qua cánh cửa đức tin này, đông đảo lương dân sẽ đến dự bàn tiệc Thiên Quốc.
Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ TN 21-C143
Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc:”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”?
Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không” nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà! Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời:”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24). Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng:”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng:”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói:”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 66.18-21.
Cộâng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.
Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước.
Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.
+ Bài đọc 2: Dt 12,5-7.11-13.
Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách để giáo dục và chữa trị họ.
Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
+ Bài Tin mừng: Lc 13,22-30.
Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính:
a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực.
b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải.
c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đi qua cửa hẹp mà vào.
I. NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI?
1. Trên đường đi Giêrusalem.
Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là: sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.
2. Một câu hỏi.
Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng:”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy? Chúng ta cần phải biết người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.
Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết:”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.
Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc:”Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ”? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.
3. Một câu trả lời.
a) Không trả lời thẳng.
Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.
Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ: “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà!
Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết:”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói:”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.
Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất: ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.
b) Phải hành động để được cứu độ.
Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.
Truyện: Đừng ảo tưởng.
Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay:”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo:”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu:”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết”? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”?
Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.
Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…
c) Đừng dựa vào gì khác.
Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu:”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn:”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI.
1. Phải qua cửa hẹp mà vào.
Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi:”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói:”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).
a) Cửa hẹp là gì?
Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao? Có ai mở cổng cho họ vào? Không! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
Trong Luca chương 18, câu 25:”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quì gối xuống may ra mới lọt.
(Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).
b) Cửa rộng là gì?
Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.
Truyện: Khoái lạc trong một đêm.
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ:”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,)Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
c) Bước qua cửa hẹp là gì?
Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.
d) Phải vào đúng lúc là gì?
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.
Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế, mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.
2. Qua cửa hẹp là phải chiến đấu.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói:”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.
Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16).
(Quesson).
Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng:”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.
Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý:”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.
Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô:”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
Nhiều khi huấn luyện để ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.
Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau: Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ:”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên:”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứ
a bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
3. Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.
Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.
Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.
Chúng ta phải khẳng định hai điều:
* Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.
* Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.
4. Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.
Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).
Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).
Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
Truyện: Có sự đảo ngược.
Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo:”Đây là nhà của bà”. Bà nói:”Cái gì vậy? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp:”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…
Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như:
- Nước chảy đá mòn. - Kiến tha lâu đầy tổ, - Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán:”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc:”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.
Cung thế, nếu ở đời: ”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta!
Có một cảnh tương phản ngồ ngộ xảy ra cách đây hơn 30 năm, trong thời kỳ còn bao cấp, là TN 21-C144
Có một cảnh tương phản ngồ ngộ xảy ra cách đây hơn 30 năm, trong thời kỳ còn bao cấp, là thời kỳ hạn chế du nhập văn hoá từ các nước “tư bản”. Lúc đó người ta cho chiếu bộ phim tình cảm Liên Xô với tựa đề “Cánh cửa mở rộng”. Mua được một chiếc vé đã là gây cấn rồi: nào là chờ chực, xếp hàng, nào là chen lấn, đẩy xô… Nhưng khi có vé rồi mà vào cửa thì cũng không dễ gì! Tựa phim là “Cánh cửa mở rộng”, nhưng cánh cửa sắt của rạp không chịu mở rộng, mà chỉ hé mở một chút vừa đủ cho một người đi nghiêng qua để kiểm soát vé cho dễ. Quả là một cảnh tượng tương phản thú vị: chen nhau đi vào cửa hẹp để xem “Cánh cửa mở rộng!”
Cách đây nhiều năm lại có cảnh tương phản khác: cả ngàn học sinh chen chúc nhau để mua cho được một bộ đơn xin dự thi vào Đại Học Mở ở đường Võ Văn Tần, Saigon mà không được. Bộ hồ sơ dự thi đã hết. Báo chí đặt tựa đề cho cảnh này là: “Cánh cửa Đại Học Mở đã đóng”.
Vậy thì khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nhà Cha có nhiều chỗ lắm, (chứa bao nhiêu cũng không chật), mà sao hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại nói: Hãy đi qua cửa hẹp mà vào. Phải chăng vì Nước Trời ít chỗ, cần hạn chế: Có một cái tương phản nào đó trong tư tưởng của Chúa chăng? Chắc chắn ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì qua hình ảnh “Cửa hẹp”. Cửa hẹp là gì? Và Cửa hẹp không là cửa gì?
1. Cửa hẹp không phải là:
- Nơi bán vé: Trước khi đi vào rạp xem chiếu phim, trước khi vào sân vận động xem đá bóng, trước khi lên xe, người ta thường xếp hàng, thò tay vào một ô cửa hẹp để mua vé. Tùy sức chứa của rạp, của sân, của xe, mà người ta bán một số vé tương đương với sức chứa.
Sức chứa của Nước Trời thì vô tận, nên không cần phải có ô cửa hẹp để bán vé. Ta cũng không cần phải hỏi xem Nước Trời có bao nhiêu chỗ để liệu mà tìm cách mua vé vào, như đi xe ta thường hỏi xem xe bao nhiêu chỗ 4-12-15-20 chỗ…
Sở dĩ Chúa nhắc đến cửa hẹp là nhằm trả lời cho câu hỏi của một số người: “Thưa Thầy, phải chăng những người được cứu thì ít lắm phải không? (những người vào Nước Trời thì ít?)
Chúa không trả lời “phải, ít lắm” để rồi ta thất vọng khi nghĩ rằng chắc mình lọt sổ thôi. Chúa cũng không trả lời “nhiều lắm,” để rồi ta buông thả vì nghĩ rằng thế nào mình cũng thuộc số người được cứu.
Những người hỏi con số: số ghế số chỗ trong Nước Trời là những người không biết ất giáp gì về Nước Chúa, bởi lẽ Nước Trời đâu phải là quota, là hạn ngạch, định mức, là sức chứa, số ghế. Cứ đi vào cửa hẹp là đến Nước Trời. Nhưng cửa hẹp không phải là nơi bán vé vào Nước Trời, thì cửa hẹp cũng không phải là nơi soát vé.
- Nơi soát vé: Cũng có rất nhiều người trong chúng ta, hiện nay, vẫn nghĩ rằng mình đã nắm trong tay được vé vào Cửa Trời. Xin thưa ngay: Cửa trời không có lối đi hẹp để soát vé đâu. Những chiếc vé mà ta nghĩ rằng thánh Phêrô, kẻ giữ cửa sẽ hỏi, ta có trong tay, như: chứng chỉ Rửa tội, Thêm sức, có dấu đỏ, dấu nổi đàng hoàng…; tờ Phép Lành Toà Thánh mà nhiều gia đình có với lời ghi chú xưa “là bảo đảm cho phần rỗi đời đời”; Rước lễ 5 ngày thứ bảy đầu tháng với lời hứa của Đức Mẹ, 9 ngày thứ sáu đầu tháng với lời hứa của Thánh Tâm; lại còn chuỗi Thương Xót hằng ngày… Đã ba lần bảy lượt lãnh được ơn toàn xá khi làm việc này việc nọ, khi hành hương chỗ này chỗ kia; những chiếc vé đó tốt, nhưng nên nhớ không có cửa hẹp để soát vé đó đâu, để rồi mình ỷ y như khi mua được vé xe lửa, vé xem phim, vé tàu bay là an tâm, đến giờ ta chìa vé ra để vào.
Cửa hẹp cũng chẳng phải là nơi ta chìa ra tờ lý lịch trong sạch ba đời, dòng dõi các thánh tử đạo vẻ vang…; hay lá thư tay của những ô dù ông cha này, giám mục nọ ở trong dòng họ để rồi được cho qua. Vậy cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là gì?
2. Cửa hẹp là gì?
Xin được lấy lại cảnh tương phản về bộ phim “Cánh cửa mở rộng” nói trong mở đề để gọi Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là “Cửa mở rộng.” Mở rộng tức là mở luôn luôn, mở cho mọi người. Cửa hẹp không phải là nơi để hạn chế: hạn chế thời gian (mở buổi sáng, đóng buổi chiều; hạn chế con số (1 tỉ rưỡi thôi nhé!); hạn chế tầng lớp (người nghèo mới được vào)... Không phải! Cửa hẹp là cửa mở rộng. Ai muốn vào cũng được. Vào giờ nào cũng được. Điều kiện duy nhất của nó là vì nó hẹp, nên muốn vào phải bỏ lại những hành trang cồng kềnh.
- Những hành trang cồng kềnh đó, là tội lỗi của chúng ta. Ta không bỏ lại ta không vào được cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó, là những thú vui trần gian. Ta không biết từ bỏ, ta không lách qua được cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó, là lòng tham danh lợi lộc. Ta không từ bỏ, ta không chui lọt qua khung cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó, là những mối thù nặng nhẹ với anh chị em trong nhà hay ngoài mái ấm gia đình. Ta không từ bỏ, khi đi qua cửa hẹp, sẽ bị vướng mắc, như chiếc áo rộng dính vào ốc này vít kia của cánh cửa hẹp, khiến ta không thể dễ dàng đi qua được trơn tru.
Có hai người lính trẻ đang nói chuyện với nhau về việc tin theo Chúa Kitô. Một người nói: “Tôi không thể nói hết cho anh biết, tin theo Chúa Kitô thì quí giá biết ngần nào.” Người kia đáp: “Tôi cũng nghĩ đến đó, nhưng tôi thấy tin theo Ngài thì phải từ bỏ nhiều quá. Quả thật tôi đang tính toán đây.” Một sĩ quan đi ngang, nghe vậy, đặt tay trên vai người lính trẻ vừa nói câu trên, mà rằng: “Anh ơi, anh tính giá của sự tin theo Chúa Kitô sao? Thế anh có bao giờ tính giá phải trả khi không tin Chúa Giêsu không?…
Thánh Phaolô đã tính giúp chúng ta trong Pl 3, 8-9: “Tôi coi tất cả mọi sự là thua lỗ, bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu, Chúa tôi, vì Người tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.”
Theo Chúa vào Nước Trời là phải đi qua cửa hẹp. Cửa hẹp không phải là nơi bán vé, nơi soát vé, nhưng cửa hẹp là cửa luôn mở mọi lúc, mở với mọi người, miễn là ta biết từ bỏ hành trang cồng kềnh.
Trong lời hứa Rửa tội, Giáo Hội bắt chúng ta tuyên hứa từ bỏ trước khi tuyên xưng tin, thì chúng ta hãy từ bỏ những hành trang cồng kềnh… để ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Chúa chúng ta qua Kinh Tin Kính. Amen.
Tin mừng Lc 13: 22-30: Việc Thiên Chúa uốn nắn, khiển trách chung qui vì Ngài luôn muốn điều tốt cho con người. Và để con người mỗi ngày nên hoàn thiện mình, con người cần phải bước đi vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp.
Suy niệm
Có lẽ chúng ta từng nghe câu “Quốc có quốc pháp, gia có gia qui”, sống trong một đất nước, một TN 21-C145
Có lẽ chúng ta từng nghe câu “Quốc có quốc pháp, gia có gia qui”, sống trong một đất nước, một cộng đồng một gia đình đều có những qui tắc giúp ổn định cộng đoàn ấy. Chúa cũng có những qui luật đặt ra cho con người, để con người được hoàn thiện dần dần. Vì ai mà chẳng muốn thoải mái và đi trên con đường rộng rãi, nhưng sống có qui tắc sẽ giúp uốn nắn và hoàn thiện mình mỗi ngày.
Vâng, như ông bà ta thường bảo: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Lời này tương tự với lời bài đọc II trích thư Do Thái: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nãn lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt”. Đoạn trích thư mời gọi những người sống đời Kitô hữu hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong những gian nan thử thách để đạt được ơn cứu độ. Thiên Chúa là Cha, mà cha nào lại không thương con cái. Việc Thiên Chúa uốn nắn, khiển trách chung qui vì Ngài luôn muốn điều tốt cho con người. Và để con người mỗi ngày nên hoàn thiện mình, con người cần phải bước đi vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp.
Trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem chịu khổ nạn, Chúa Giêsu vừa đi vừa giảng dạy cho các môn đệ và đám đông dân chúng về cách thức sống đời môn đệ. Và rồi, trước câu hỏi của một người trong đám đông nêu lên rằng “phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Với người Pharisêu, họ có xu hướng lạc quan nghĩ rằng mọi con cái Israel đều sẽ được cứu độ, thế thì không cần phải cố gắng chi nữa vì con người ai cũng có số có phần. Những người khác, như người hỏi Chúa Giêsu này, thì lại bi quan vì cho rằng chỉ một ít người đạt được ơn cứu độ mà thôi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại trả lời một câu khác hơn. Đó là mỗi người hãy tự trả lời cho mình về số phận mình được vào nước Thiên Chúa hay không tùy thuộc vào sự cố gắng của mỗi chúng ta.
Có những người đã được gọi ngay từ đầu nhưng vì cứng lòng tin mà từ chối vào Nước Thiên Chúa. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc Thiên quốc, bởi lẽ đã nhiều lần nghe Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Người làm, đi theo Chúa nơi này nơi kia. Nhưng tiếc một điều, nhiều khi mang danh con cái Chúa nên ỷ lại, sống mối tương quan đó cách hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: "Ta không biết các anh từ đâu đến!"
Nhìn lại chặng đường Kitô hữu của chúng ta, một Kitô hữu đạo gốc, một người được rửa tội ngay từ khi được lọt lòng mẹ hẳn hoi, nhưng chúng ta kiểm điểm lại xem mình có giữ các Điều Răn mà Chúa ban cho cách cố gắng hết sức, có giữ luật Chúa cách có tâm chưa, có tập vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp không hay sống theo những đam mê vô bổ, chọn theo cửa rộng ý riêng, còn chuyện Đạo khi nào gần đất xa trời hẵn hay. Cụ thể chúng ta có bỏ lễ Chúa nhật như là một cuộc hẹn mà tôi không sắp xếp được thì bỏ, hay với lý do không có giờ rảnh để đi lễ, hoặc với suy nghĩ giữ đạo trong lòng được rồi, chỉ đi một vài lễ lớn trong năm là đủ. Hoặc có suy nghĩ đến nhà thờ ngày Chúa nhật như một thói quen, để ngày sau hết ra trước tòa Chúa chịu phán xét thì tự tin rằng tôi không bỏ lễ Chúa nhật nào cả, tôi giữ luật xưng tội rước lễ một năm một lần. Đó là cách chúng ta sống giữ Đạo với mức tối thiểu, lắm khi lại đến nhà thờ với thái độ lo ra chia trí những chuyện bên ngoài, đi lễ cho có, đến nhà thờ theo kiểu đã “check-in” tôi đã đặt chân đến nơi đây, chỉ muốn ngồi xa xa với đủ lý do, đi xem lễ mà lòng không có Chúa, vì nếu có thì không ngồi chat điện thoại, chơi game, tán gẫu trong giờ lễ. Nếu ý thức đến với Thiên Chúa là Cha và trong tương quan là con, chúng ta sẽ chăm chú nghe lời Chúa dạy, siêng năng xưng tội và rước lễ, dành giờ đọc kinh cầu nguyện để lòng mình luôn có Chúa.
Chúng ta còn được mời gọi đến với Chúa với một của lễ con dâng, dâng lên Chúa cuộc sống thường ngày của mình, nỗi vất vả mưu sinh, sự mệt mỏi trong công việc, hoàn cảnh gia đình với những khó khăn, trăn trở, dự tính, sự buồn phiền hay niềm vui, từng lời kinh, tiếng đáp, cũng như phần đóng góp công sức… cộng tác với anh chị em làm lễ dâng lên Chúa. Chúng ta hãy để cho Chúa có một chỗ đi vào đời mình, và khuôn mặt mình đừng để nên xa lạ trước mắt Chúa. Vì hết muôn dân muôn nước,“thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đều được mời gọi đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu”.
Lạy Chúa, Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng việc đón nhận được ơn cứu độ ấy hay không là còn ở phần mỗi chúng con có cộng tác với ơn Chúa để trở nên sinh ích hay không. Vậy xin Chúa cho con ý thức hơn trong đời sống đạo đức của mình luôn có Chúa đồng hành với con. Amen.
Tin mừng Lc 13: 22-30: Trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người được cứu độ? Chúa Giêsu đã mời gọi: "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Nghĩa là phải cố gắng sống thực thi ý Chúa mới được vào.
Trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người được cứu độ? Chúa Giêsu đã mời gọi: "Hãy cố gắng vào qua TN 21-C146
Trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người được cứu độ? Chúa Giêsu đã mời gọi: "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Nghĩa là phải cố gắng sống thực thi ý Chúa mới được vào. Nếu không sống Lời Chúa thì việc làm môn đệ Chúa hay là người cùng dân tộc với Ngài và ngay cả việc đã từng nghe Ngài giảng, từng ăn uống với Ngài cũng chẳng ích lợi gì.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng: Lc 13,22-30
Cửa hẹp
Tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Nhưng không có nghĩa là muốn vào là được. Cánh cửa thì hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nỗ lực sống thực thi ý Chúa; nỗ lực trung thành với niềm tin của mình và nỗ lực sống tình bác ái.
a. Trong số những thính giả của Chúa Giêsu, nhiều người nghĩ rằng họ thuộc về dân được chọn là một sự bảo đảm chắc chắn họ sẽ được vào Nước Trời. Vì thế họ giới hạn số người được vào nên đến chất vấn Chúa: Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ?
b. Chúa Giêsu làm cho họ tỉnh ngộ qua câu trả lời xem ra không ăn nhập gì đến câu hỏi: Các ngươi phải cố gắng vào qua cửa hẹp. Nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Như thế, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời thẳng vào vấn đề nhưng lại đưa ra một lời mời gọi. Ngài biến vấn nạn thành hiện thực cuộc sống. Vấn đề không phải là bao nhiêu người được cứu và ai được cứu, mà là con người có nỗ lực để được Thiên Chúa cứu hay không.
c. Vào cửa hẹp đòi hỏi phải nỗ lực: Nỗ lực tìm kiếm, nỗ lực sống theo ý Chúa. Ai nỗ lực đi theo Chúa thì chắc chắn được cứu độ, được vào Nước Trời dự tiệc mà bất luận họ là ai. Từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam người ta đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Cửa hẹp không của riêng ai:
Hình như thiên hạ luôn bị cám dỗ bởi những toan tính thiệt hơn, thua kém, nhiều ít trong mọi vấn đề cuộc sống. Ngay cả trong đời sống đức tin cũng vậy, người ta tính xem ai được cứu độ và Thiên Chúa cứu bao nhiêu người… Có người đã hỏi Chúa như trong Tin mừng hôm nay: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu?" Và trong tâm trí của nhiều người Do Thái ngày xưa cũng yên chí rằng, là người Do Thái sẽ được cứu hoặc như nhiều nhóm đạo đức thời Chúa Giêsu cũng nghĩ ai thuộc nhóm mình thì sẽ được cứu. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã cho thấy, không có chế độ ưu tiên khi vào qua cửa hẹp. Bất luận là ai cũng có thể được vào miễn là phải cố gắng. Không có một quốc gia, một dân tộc, hay một tôn giáo nào có quyền miễn trừ khi vào Nước Trời cả. Chỉ có tiêu chuẩn cho đời sống cá nhân là lòng trung thành thực hiện Lời Chúa mới là điều kiện để xét được vào hay không. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Quả thật, tất cả là do nỗ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân. Không có thuyết định mệnh ở đây, không có đặc quyền đặc lợi chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.
Đối với Kitô hữu, một khi đã được thanh tẩy, trở nên con cái Chúa thì cũng chưa hẳn đương nhiên vào được cửa hẹp. Đón nhận đức tin chưa đủ mà điều quan trọng hơn là phải sống đức tin, đấy là con đường qua cửa hẹp. Nếu không, thì chính Kitô hữu sẽ bị loại ra đầu tiên trước khi cửa đã đóng lại. Lúc đó không thể nói với Chúa: Lạy Chúa con vẫn hằng đi lễ, rước lễ, đọc kinh cầu nguyện sao con không được vào? Những chuyện đó chưa đủ mà phải nỗ lực sống Tin mừng nữa kìa.
2. Cửa hẹp dễ mấy ai qua:
Cánh cửa vào Nước Trời dầu có hẹp nhưng vẫn đủ rộng để đón mọi người và từng người đi vào. Tuy nhiên, dù có thể đón hết, nó vẫn là cánh cửa hẹp chứ không phải là một lối đi thênh thang. Để qua được, đòi hỏi phải nỗ lực phấn đấu không ngừng trong cuộc sống đức tin. Việc quan trọng chính là sống thực hành giới răn yêu thương. Phải làm sao để mình trở nên men, muối Tin mừng cho thế gian, đây là việc không dễ dàng chút nào đòi hỏi phải cố gắng, kiên trì và nhiều nghị lực. Theo đúng nguyên nghĩa của từ Chúa Giêsu dùng "hãy cố gắng", Luca dùng từ Hy Lạp 'agoonidzesthé' nghĩa là đấu tranh vật lộn, cuộc đấu tranh sinh tử sau cùng. Tất cả sẽ quyết định ở chính hiện tại này, vào hay không vào.
Cửa hẹp ai cũng có quyền mơ ước và có khả năng vào nhưng muốn được vào cần phải cố gắng bằng nỗ lực sống Tin mừng. Vậy mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay đã và đang nỗ lực như thế nào? Cửa tuy có hẹp nhưng chúng ta đừng lo sợ, ơn Chúa đủ cho thiẹn chí của mỗi người chúng ta. Vấn đề là mỗi người hãy quyết tâm vào cho bằng được.
3. Cửa hẹp, cửa vào Nước Trời:
Cửa hẹp hay con đường hẹp và cửa rộng hay con đường thênh thang thường là những ẩn dụ Chúa Giêsu dùng để khuyên bảo mọi người cố gắng phấn đấu trong đời sống đức tin. Cửa hẹp là con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu đòi hỏi sẽ phải đi qua nhiều khó khăn thử thách. Trong Tin mừng Chúa Giêsu đã nói nhiều và rất rõ ràng về con đường thập giá, con đường mà ai muốn theo Người luôn phải đi vào. Qua cửa hẹp cũng là một cách nói về con đường thập giá của Chúa Giêsu. Cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến sự hư mất. Theo Chúa mà không gặp thử thách khó khăn, theo Chúa mà không cần nỗ lực để chỉ biết sống theo đam mê dục vọng xác thịt của mình như Thánh Phaolô đã khẳng định thì không xứng đáng là con cái của Thần Khí, không xứng đáng là con người mới trong Đức Kitô, nghĩa là không thể vào Nước Trời. Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Do Thái ở bài đọc II, tác giả cũng cho thấy con đường khó khăn là đường lối sư phạm mà Thiên Chúa là người Cha nhân ái dùng để huấn luyện chúng ta là những người con của Ngài.
Nhận thức được cửa hẹp là cửa đưa dẫn vào Nước Trời, mỗi Kitô hữu phải có gắng nỗ lực và tin tưởng dấn bước. Vì qua thập giá sẽ đến vinh quang, qua cửa hẹp sẽ vào Thiên Đàng vinh phúc.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, tất cả mọi người đều được Chúa yêu thương mời gọi tiến vào dự tiệc trong Nước Chúa. Trong niềm tin tưởng và hân hoan, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện của chúng ta.
1. Người ta sẽ từ Đông sang Tây; từ Nam chí Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội thánh chính là nơi qui tụ mọi dân nước về với Chúa. Xin cho Hội thánh Chúa luôn kiên trung, vững mạnh và phát triển giữa bao nhiêu khó khăn thử thách trong xã hội hôm nay.
2. Mọi người đều có quyền bình đẳng trước các ân huệ và ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn có được sự khôn ngoan sáng suốt và một tình yêu dân nước chân thành để xây dựng và đưa dân nước có được một đời sống hòa bình, công bằng và bác ái.
3. Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn tin tưởng nỗ lực sống Tin mừng để ai nấy đều xứng đáng vào qua cửa hẹp hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải nỗ lực cố gắng mới mong đạt được ơn cứu độ. Xin Chúa ban tràn đầy ơn Thánh Thần soi sáng trí lòng và nâng đỡ cho chúng con, để chúng con vững bước trên hành trình đức tin. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Lc 13: 22-30: Đức Giêsu nói với chúng ta: “hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó”. Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”.
Đức Giêsu nói với chúng ta: “hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), “vì cửa rộng và đường TN 21-C147
Đức Giêsu nói với chúng ta: “hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó” (Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,14).
Nhưng thế nào là con đường rộng? Và thế nào là con đường hẹp?
Cửa Hẹp là gì?
Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành và trở về trễ khi cổng đã đóng thì những người về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Cửa hẹp này còn được gọi là “lỗ kim” (the eye of the needle), cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
Khi nói đến “cửa hẹp”, nhiều người trong chúng ta cho rằng Thiên Chúa hẹp hòi với chúng ta. Khi đề cập đến “cửa hẹp’ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, khắt khe với chúng ta mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào.
Nói khác đi, cửa Nước Trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh, cồng kềnh với những hành lý mang trên vai như tiền bạc, của cải, danh vọng, thú vui khoái lạc… khiến chúng ta bị vướng ở ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi kiêu căng tự mãn, cái tôi cứng cỏi tham lam… chính vì vậy, cánh cửa Nước Trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta đi vào “cửa hẹp”, nhưng nhiều người trong chúng ta lại phá banh “cửa hẹp” cho thông thoáng để dễ qua lại. Và khốn nỗi nhiều người lại muốn đi vào lối ấy vì trên con đường đó, người ta có thể sử dụng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, đường nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm.
Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi trên con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh lợi, quyền chức, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ” này. Họ chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian!
Quả thật chúng ta luôn bị cám dỗ đi vào con đường rộng, ở đó chúng ta được hưởng ít nhiều những thứ mà người thế gian mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác.
Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực nào thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì Chúa, vì người khác hay vì chúng ta. Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều.
Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thênh thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không!
Coi chừng, chúng ta đang sống trong thế giới ảo, chính vì vậy Chúa cảnh báo chúng ta “sẽ có kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu và những kẻ đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót hết”, tức là sẽ có những bất ngờ trong Nước Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này có thể sẽ rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
Có câu chuyện về một người phụ nữ giàu sang được thế gian rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút.
Thiên sứ bảo: “đây là nhà của bà”.
Bà nói: “cái gì vậy? tôi không thể nào sống trong đó”.
Thiên sứ đáp: “tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!”
Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời.
Một câu chuyện để chúng ta suy nghĩ và lựa chọn. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương TN 21-C148
Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương quan về niềm tin, sự vâng nghe và thực hành lời Chúa. Khi dân Do thái bị lưu đầy, Đền thờ bị phá hủy, ngôi vua bị truất phế, đất đai người ngoài chiếm đóng, số người còn lại phải sống trà trộn với dân ngoại, nên họ hỏi nhau: Thiên Chúa mà cha ông chúng ta tin thờ có còn không? Trong bối cảnh ấy, Isaia khuyến khích người lưu đầy phải trở về không trễ nải, hồi hương là điều cần thiết. Dân ở nhà thì Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc”; “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem” (Is 66, 18-21). Bởi Thiên Chúa là Đấng trung thành, giữ trọn điều Ngài đã hứa. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời” (Tv 116,2). Quả thật, Thiên Chúa là Đấng trung thành và rất mực khoan dung, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Thư gửi tín hữu Do thái chứng minh: “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt” (Dt 12, 5-7.11-13). Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp. Có người đặt câu hỏi: Cửa hẹp là cửa nào, cửa ấy có mấy cánh và ai là cửa? Cứ dựa vào lời Chúa Giêsu mà xác định: Chúa Giêsu chính là cửa, vì Người tuyên bố: 'Ta là cửa.' (Ga 10, 9). Nhưng có người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng rộng lượng vô biên, tại sao lại ví mình chẳng những là cửa, mà còn là cửa hẹp? Xin thưa, cửa hẹp không phải vì cửa ấy nặng nề, khó khăn nhưng là vì Thiên Chúa muốn chúng ta hãy ở khiêm nhường, tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa; nhìn nhận mình là người tội lỗi, cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên khi Chúa Giêsu nói: “Vào qua cửa hẹp”, là Người muốn chúng ta phải thu hẹp mình lại, loại bỏ tính kiêu căng và ngạo mạn là thứ khiến chúng ta phình to ra, lấp cả Thiên Chúa. Chúa Giêsu là “Cửa” cửa ấy có tên là ‘tình thương’, Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, ai sống khiêm nhường thì vào trường Giêsu, cửa tuy hẹp nhưng luôn rộng mở cho hết mọi người. Cửa hẹp nhưng lại có hai cánh, một cánh cửa hẹp, dành cho những loại bỏ sự kiêu căng để đi qua vừa; một cánh cửa rộng mở để Thiên Chúa chào đón tất cả mọi người. Lời Chúa qua miệng tiên tri Isai: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta” (Is 66,18). Những lời trên vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ đời đời, như Tin Mừng Luca loan báo: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30). Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một dòng chảy của tình yêu chan chứa. Dòng chảy ấy phá tan mọi ngăn cách, mở ra những viễn tượng ánh sáng và bình an. Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đổi mới cách nghĩ của chúng ta, khước từ những thứ không cần thiết nơi tạm thế này, ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chúa là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ trong Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ. Lạy Mẹ Maria, Cánh Cửa Thiên Quốc, chúng con nài xin Mẹ dẫn chúng con bước qua cánh cửa của đức tin mà tiến vào một con đường rộng rãi thênh thang, con đường của ơn cứu rỗi. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương TN 21-C149
Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương quan về niềm tin, sự vâng nghe và thực hành lời Chúa.
Khi dân Do thái bị lưu đầy, Đền thờ bị phá hủy, ngôi vua bị truất phế, đất đai người ngoài chiếm đóng, số người còn lại phải sống trà trộn với dân ngoại, nên họ hỏi nhau: Thiên Chúa mà cha ông chúng ta tin thờ có còn không? Trong bối cảnh ấy, Isaia khuyến khích người lưu đầy phải trở về không trễ nải, hồi hương là điều cần thiết. Dân ở nhà thì Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc”; “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem” (Is 66, 18-21). Bởi Thiên Chúa là Đấng trung thành, giữ trọn điều Ngài đã hứa. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời” (Tv 116,2).
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng trung thành và rất mực khoan dung, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Thư gửi tín hữu Do thái chứng minh: “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt” (Dt 12, 5-7.11-13). Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp.
Có người đặt câu hỏi: Cửa hẹp là cửa nào, cửa ấy có mấy cánh và ai là cửa? Cứ dựa vào lời Chúa Giêsu mà xác định: Chúa Giêsu chính là cửa, vì Người tuyên bố: 'Ta là cửa.' (Ga 10, 9). Nhưng có người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng rộng lượng vô biên, tại sao lại ví mình chẳng những là cửa, mà còn là cửa hẹp?
Xin thưa, cửa hẹp không phải vì cửa ấy nặng nề, khó khăn nhưng là vì Thiên Chúa muốn chúng ta hãy ở khiêm nhường, tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa; nhìn nhận mình là người tội lỗi, cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên khi Chúa Giêsu nói: “Vào qua cửa hẹp”, là Người muốn chúng ta phải thu hẹp mình lại, loại bỏ tính kiêu căng và ngạo mạn là thứ khiến chúng ta phình to ra, lấp cả Thiên Chúa. Chúa Giêsu là “Cửa” cửa ấy có tên là ‘tình thương’, Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, ai sống khiêm nhường thì vào trường Giêsu, cửa tuy hẹp nhưng luôn rộng mở cho hết mọi người. Cửa hẹp nhưng lại có hai cánh, một cánh cửa hẹp, dành cho những loại bỏ sự kiêu căng để đi qua vừa; một cánh cửa rộng mở để Thiên Chúa chào đón tất cả mọi người.
Lời Chúa qua miệng tiên tri Isai: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta” (Is 66,18). Những lời trên vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ đời đời, như Tin Mừng Luca loan báo: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30). Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một dòng chảy của tình yêu chan chứa. Dòng chảy ấy phá tan mọi ngăn cách, mở ra những viễn tượng ánh sáng và bình an.
Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đổi mới cách nghĩ của chúng ta, khước từ những thứ không cần thiết nơi tạm thế này, ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chúa là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ trong Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Cánh Cửa Thiên Quốc, chúng con nài xin Mẹ dẫn chúng con bước qua cánh cửa của đức tin mà tiến vào một con đường rộng rãi thênh thang, con đường của ơn cứu rỗi. Amen.
“Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc.13, 29).
Người Do Thái không thể chỉ nại rằng họ là người dân tộc Do Thái để được cứu độ; vì nếu họ TN 21-C150
Người Do Thái không thể chỉ nại rằng họ là người dân tộc Do Thái để được cứu độ; vì nếu họ không sống ngay lành, không cố gắng chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, thì họ vẫn không được cứu độ (Lc.13, 23-28). Mỗi người được mời gọi để sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa, nên mỗi người phải chiến đấu vượt thắng chính mình, vượt thắng những cám dỗ làm mình sa đọa khiến mình không được hạnh phúc thật.
Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho con người. Đức Yêsu là người mẫu để con người bắt chước, để con người sống theo và được hạnh phúc đích thực. Không phải giầu sang, địa vị chức quyền làm con người hạnh phúc, nhưng chính thái độ sống với những chọn lựa đúng đắn làm con người sống triển nở và hạnh phúc. Đức Yêsu đã sống thân phận con người cho đến cùng, chấp nhận cả cái chết, mà thậm chí cả cái chết ô nhục trên thập giá, để trở thành mẫu mực cho tất cả mọi người, kể cả những người đáng thương nhất, bị nguyền rủa nhất, bị coi thường nhất. Ngài nghèo đến độ phải sinh trong chuồng chiên cừu, để những ai không nhà cửa và bị bỏ rơi, vẫn có thể thấy được an ủi thông cảm, vì Thiên Chúa nhập thể đã chia sẻ thân phận cùng khổ như mình.
Những trái ý trong cuộc đời ai mà chẳng gặp. Chính Đức Yêsu trong vườn dầu cũng cảm thấy lo sợ thập giá đang xảy tới với mình, và Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén này; nhưng đừng theo ý con, mà nguyện ý Cha được nên trọn.” Và Ngài đã chấp nhận cái chết như một biến cố không thể tránh khỏi, Ngài cũng bị cám dỗ như thể Thiên Chúa không thương Ngài, như thể Thiên Chúa bỏ rơi Ngài, nhưng Ngài vẫn chống trả cám dỗ: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Yêsu, cho dầu người đời có đối xử với Đức Yêsu như thế nào chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn trung thành và vẫn yêu thương Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do, và con người có thể dùng tự do Thiên Chúa ban làm trái ý Ngài, để hãm hại những người Thiên Chúa yêu thương, thì Thiên Chúa vẫn phải chấp nhận; nhưng Thiên Chúa sẽ làm điều khác để yêu thương con người, chẳng hạn như Ngài đã phục sinh Đức Yêsu từ trong cõi chết, Ngài vẫn liên tục làm mọi sự thành tốt cho những kẻ yêu mến Ngài (Rm.8, 28-39).
Những thất bại trên đời, có thể là những phương tiện Thiên Chúa dùng để giáo huấn con người. Thái độ của người ta đối với đứa con hoang đàng sau khi anh ta phung phí hết tài sản của cha, có thể là dịp rất tốt để người con này trở về cùng cha; cũng tương tự vậy, những thập giá trong cuộc đời có thể được Thiên Chúa dùng để đưa những người Thiên Chúa yêu trở về cùng Ngài. Chuyện ông Giuse bị các anh ghét bỏ và bị bán sang Aicập, cũng như việc ông bị ở tù vì bị vu cáo cưỡng hiếp vợ viên quan mà ông phục vụ, vẫn được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể làm mọi sự thành tốt cho kẻ yêu mến Ngài, kể cả những điều ác hại người ta vô tình hoặc cố tình làm hại họ.
Đức Yêsu một niềm phó thác cho Thiên Chúa bất chấp tất cả những gì người ta làm cho Ngài. Ngài tin rằng Thiên Chúa yêu thương Ngài, và sẽ làm điều tốt nhất cho Ngài; tuy vậy, Ngài cũng không được miễn trừ khỏi cám dỗ: Ngài đã từng bị cám dỗ trước khi bắt đầu rao giảng, Ngài đã từng bị người ta thách thức làm dấu lạ bởi trời, bị người ta thách thức xuống khỏi thập giá để họ tin. Ngài bị khủng hoảng cả về đức tin (Mc.15, 34). Đức Yêsu bị thử thách cám dỗ nhưng Ngài không quỵ ngã. Ngài trở nên niềm hy vọng cho tất cả những ai đang bị cám dỗ. Thiên Chúa không miễn trừ cho ai khỏi bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu và Đức Mẹ, nhưng Ngài bảo đảm ơn Ngài đủ cho tất cả mọi người: “ơn Ta đủ cho con” (2Cr.12, 8). Kết hiệp với Thiên Chúa trong Đức Yêsu, con người vượt thắng cám dỗ. “Anh em hãy tin tưởng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga.16, 33).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Yêsu có một chỗ đứng nào đó trong đời bạn không? Ngài là ai đối với bạn? 2. Đức Yêsu có giúp bạn giải quyết một vài vấn đề nan giải trong đời bạn không? Xin bạn chia sẻ, nếu có. 3. Đức Yêsu có giúp bạn giải quyết mọi vấn đề của đời bạn không? Tại sao bạn tin như vậy?