Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 51-100 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên

Thứ tư - 28/08/2019 06:04
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 51-100 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 51-100 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 51-100 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
-------------------------------

Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-14: "Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhằm một ngày Sabbat Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên
trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại". - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------

TN 22-C51: IDOL ! THỜ NGẪU TƯỢNG ! 2
TN 22-C52: BỮA TIỆC ĐỜI TA MỘT TẤM TÌNH.. 5
TN 22-C53: DỰ TIỆC.. 7
TN 22-C54: Khiêm nhường. 13
TN 22-C55: Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn. 15
TN 22-C56: Ghế Giám Mục. 16
TN 22-C57: Chú giải của Noel Quesson. 19
TN 22-C58: Chú giải của R. Gutzwiller 24
TN 22-C59: Chú giải của Fiches Dominicales. 27
TN 22-C60: TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXII TN.. 31
TN 22-C61: CHAN HÒA NIỀM VUI 34
TN 22-C62: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN.. 40
TN 22-C63: KHIÊM TỐN.. 42
TN 22-C64: Con người khiêm tốn. 44
TN 22-C65: KHIÊM TỐN TRƯỚC CHÚA.. 46
TN 22-C66: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXII – 2001. 47
TN 22-C67: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN, năm C.. 49
TN 22-C68: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN.. 51
TN 22-C69: KẸT ! 53
TN 22-C70: Chúa Nhật 22 quanh năm, C.. 56
TN 22-C71: Chúa Nhật 22 Quanh Năm.. 59
TN 22-C72: CHÚA NHẬT 22 QUANH NĂM, C (2004) 62
TN 22-C73. Hãy học với Chúa Giêsu mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng. 65
TN 22-C74. HẠ MÌNH ĐƯỢC NÂNG CAO, TỰ CAO SẼ BỊ HẠ XUỐNG.. 71
TN 22-C75. LÀM  LỚN.. 72
TN 22-C76. Đặt Mình Nơi Chỗ Cuối 74
TN 22-C77. Chúa Nhật 22 Thường Niên. 78
TN 22-C78. DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC.. 79
TN 22-C79. Chúa tôn vinh kẻ khiêm nhường và kẻ khiêm nhường tôn vinh Chúa. 81
TN 22-C80. Cây cao dễ gãy. 90
TN 22-C81. Khiêm nhường phục vụ. 91
TN 22-C82. Con đường khiêm nhường. 93
TN 22-C83. Thiên Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường. 96
TN 22-C84. Khiêm hạ. 98
TN 22-C85. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông. 101
TN 22-C86. NHẬN VÀ CHO NHƯNG-KHÔNG.. 106
TN 22-C87. XIN MỘT CHỖ NHẤT TRONG ĐẤT THÁNH.. 109
TN 22-C88. HÃY KHIÊM NHƯỜNG.. 113
TN 22-C89. NGỌN ĐÈN DƯỚI CHÂN BÀN THỜ.. 115
TN 22-C90. SỰ THẬT KHÔNG NHÌN THẤY.. 117
TN 22-C91: KHIÊM TỐN LÀ CÁCH SỐNG CỦA CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI 119
TN 22-C92: CHÚA NÂNG CAO KẺ KHIÊM NHƯỜNG.. 121
TN 22-C93: KHIÊM HẠ.. 122
TN 22-C94: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN.. 124
TN 22-C95: GIẢNG VỀ NHÂN ĐỨC KHIÊM NHƯỢNG.. 127
TN 22-C96: NGỒI VÀO CHỖ CUỐI 130
TN 22-C97: KHIÊM NHƯỜNG VÀ PHỤC VỤ.. 133
TN 22-C98: HÃY NGHĨ ĐẾN KẺ KHÓ NGHÈO.. 136
TN 22-C99: GHẾ DÀNH RIÊNG.. 138
TN 22-C100: TÔI LÀ NGƯỜI KHIÊM TỐN NHẤT TRẦN GIAN! 140

-------------------------------

 

TN 22-C51: IDOL ! THỜ NGẪU TƯỢNG !


Lc 14, 1. 7 – 14

 

Ở địa bàn tỉnh Kontum, thuộc Tây Nguyên, con sông Ịăk Bla dù là hiền lành vào mùa khô hạn hoặc: TN 22-C51


Ở địa bàn tỉnh Kontum, thuộc Tây Nguyên, con sông Đăk Bla dù là hiền lành vào mùa khô hạn hoặc hung dữ vào mùa mưa lũ, cũng khiến người ta ngạc nhiên, bởi thay vì chảy xuôi hướng về Biển Đông như mọi dòng sông Việt Nam, thì nó chảy ngược lên phía núi cao và đổ vào sông Mékong. Việc con cái hư làm ê mặt mẹ cha, học trò hư làm xấu mặt nhà trường và thầy cô, kẻ dưới làm sai khiến cấp trên thẹn thùng hỗ ngươi,…là những chuyện xảy ra thường ngày. Nước mắt chảy xuôi, là chuyện chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng khi nước mắt chảy ngược, khi người lớn làm thế hệ trẻ mất mặt, khi cha mẹ làm cho con cái ê chề nhục nhã, khi thầy cô khiến cho học trò xót xa đau khổ, thì phải đi tìm căn nguyên. Mẫu số chung của các phản ứng ấy là: BẼ BÀNG !

“Bẽ bàng” thay cho học trò và gia đình, khi tốn kém bao công sức tiền của, để rồi sau nhiều năm học tập tưởng rằng sẽ làm cho cha mẹ được nở mặt nở mày, thì bị choáng váng lúc biết con mình “ngồi nhầm lớp”: học lớp năm, lớp bảy mà đánh vần không ra, mà cộng trừ nhân chia không làm được, nhưng vẫn cứ [ bị buộc phải ] đều đặn lên lớp và nhận bằng khen vì thành tích học tập. Đến kỳ thi tốt nghiệp, sau bao công đèn sách, mang vào phòng thi tất cả vui mừng và hy vọng của cha mẹ họ hàng, thì kết quả thật phủ phàng: có trường tốt nghiệp… 0%. Tâm hồn nhớp nhúa, mặt dày mày dạn của những ban giám hiệu, của những thầy cô thật đáng sợ, vì sự bình thản của họ trước tai ương tày trời mà họ gây ra. Họ - những tội đồ - thản nhiên chỉ tay về các cháu học sinh vô tội và tội nghiệp ấy để rủ bỏ trách nhiệm. Chỉ có phụ huynh là chết cả cõi lòng. Chỉ có các em học sinh là bẽ bàng ! Và cũng chỉ có các nạn nhân bão lụt là bẽ bàng, khi tiền bạc và vật phẩm cứu trợ của đồng bào cả nước gửi đến chia sẻ, lại bị bớt xén tư túi trong khi nhiều cá nhân và gia đình khốn đốn, đói khổ. Người dân bẽ bàng khi thấy công lao mồ hôi nước mắt của mình đem nộp thuế, lại bị những đám cán bộ thoái hoá biến chất nhan nhản khắp cả nước, đủ mọi cấp bậc vị trí, không khác nào một đại dịch, thản nhiên nướng vào những canh bạc đỏ đen, vào những ”cơn vui suốt sáng, trận cười thâu đêm” dâm dật, trác táng.

Bẽ bàng thay cho muôn tạo vật, khi sự dữ bước vào thế giới thụ tạo qua việc Lucifer “ngồi nhầm chỗ” và trút sự thất bại do kiêu căng đó lên con người. Xa-tan đã muốn “chọn chỗ cao nhất”, là “vị trí” của Thiên Chúa. Sau khi bị Thiên Chúa phạt nặng nề đời đời, Xa-tan xúi giục loài người bắt chước y “chọn chỗ cao nhất”, bằng việc ngờ vực mệnh lệnh của Thiên Chúa, để mong mau chóng không chỉ giống như hình ảnh của Thiên Chúa, mà muốn được là Thiên Chúa. Loài người những tưởng sẽ vâng phục Đấng Tạo Hoá, nhưng rồi lại nghe theo “đám phản loạn”, nghĩa là cũng phạm vào tội danh “kiêu ngạo” và bị khai trừ khỏi Vườn Địa Đàng. Từ đó, CÁM DỖ mang ý nghĩa: Xa-tan làm mọi cách để giữ loài người trong tội kiêu ngạo. Bao lâu con người còn kiêu căng, còn ỷ vào mình, còn coi khinh tha nhân, còn tìm chỗ cao về tinh thần và vật chất, phân biệt đối xử, nhiều khi bất chấp mọi thủ đoạn để đạt ý muốn, thì vẫn nằm trong quyền lực và sự kiềm tỏa của Xatan. Chúa Giê-su chỉ cho con người thấy tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa Cha, để con người bẽ bàng khi thấy sự vong ân bội nghĩa của mình, thấy kiếp nô dịch cho tội lỗi và cho ma qủy, mà quay về với Chúa.  Khởi đầu của mọi tâm tình thống hối, là lòng khiêm nhu tự hạ ( x. Pl 2, 6 – 8 ). Chỉ khi nào chúng ta biết quỳ xuống rửa chân cho anh em ( x Ga 13, 1 – 20 ), thay vì nâng cao mình lên bằng việc coi anh em như những nấc thang để mình dẫm lên, vươn cao, thì mới hiểu được tinh thần Nước Trời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su tuyên chiến với tội kiêu ngạo. Cánh cửa hẹp Nước Trời phải chen chúc, xô lấn để vào được ( trong Tin Mừng Chúa Nhật trước ) không thể chấp nhận kiêu căng. Hay nói đúng hơn, phải tiêu diệt kiêu ngạo để có thể qua Cửa Hẹp. Quy tắc ấy dành cho hết mọi người và con cái Chúa cũng không có ngoại lệ ! Sự Chết đã len được vào thế gian bằng kiêu ngạo, thì phải bị tống khứ khỏi thế gian bằng Sự Hạ Mình Vâng Phục.

Thay vào bản tình ca con hát, con mời Chúa dự thính một buổi biểu diễn âm nhạc đang nỗi đình nỗi đám ở đất nước Việt Nam.: Vietnam Idol ! Thực ra chỉ là một cuộc thi âm nhạc bắt đầu từ ngày 23.05.2007, ăn theo bản gốc American Idol ( Mỹ ) và Pop Idol ( Anh ) được Việt Nam hoá. Phương châm của cuộc thi là biến một người từ vô danh – con số 0 – thành người nỗi tiếng ( from zero to hero ). Vietnam Idol đang trong giai đoạn kết thúc, mỗi tuần sẽ là  một cuộc “đãi cát tìm vàng”: trong mười thí sinh lọt vào chung kết trên tổng số sáu ngàn người tham gia ban đầu, mỗi tuần sẽ có một “sao” rụng, cho tới khi chỉ còn một “sao” duy nhất trụ lại được và trở thành “Idol - thần tượng”. Điều con muốn nói là cái “logo” của chương trình: hình đuôi một con chim công xòe ra với bao hào quang vây quanh. Nếu con voi chết vì cặp ngà và con sư tử chết vì tiếng hống, thì chim công chết vì bộ lông. Không có bộ lông, chim công không khác nào một con gà mái hoặc một con quạ xấu xí. Cái đuôi rực rỡ lại trở thành cái họa sát thân. Rất nhiều những kẻ làm cho trái tim Hội Thánh mưng mủ, với việc luôn ở tư thế sẵn sàng đưa ra những lời cay độc để chỉ trích, phê bình Đức Giáo Hoàng và các chủ chăn khác. Họ xòe cái đuôi tri thức mà họ cho là hào quang của họ.

Một bàn tay hòng che kín bầu trời. In cauda venenum: họ cố che dấu lòng kiêu căng, nhưng cái đuôi thì chẳng thể dấu được, cái đuôi – hậu  ý – đầy tà ý, xấu xa, độc ác, rồi cũng xuất hiện: đuôi của quỷ dữ Xa-tan, made in hỏa ngục ! Chỉ một Tự Sắc ( proprio motu ) “Summorum Pontificum” về phụng vụ, mà Đức Thánh Cha phải loan báo, phải chuẩn bị tinh thần cho mọi tín hữu ngay từ khi Người lên ngôi giáo hoàng và sau ngày công bố, còn để thêm hơn hai tháng mới đến ngày có hiệu lực thi hành: 14 tháng 9, lễ suy tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô ! Đức Thánh Cha nuốt lệ, để van xin tín hữu Công Giáo chấp nhận nội dung của tự sắc nhằm hiệp nhất và hàn gắn những chia rẽ trong nội bộ, để trước khi mời gọi các Giáo Hội Ki-tô Giáo khác hiệp nhất, thì phải “tề gia, nội trợ” trước đã ! Người mời gọi mọi tín hữu – trong đó có những người “chống đối chuyên nghiệp” – ngước  nhìn Thánh Giá, nơi Chúa Giê-su Ki-tô chịu khổ nạn chỉ vì tự hạ vâng phục Chúa Cha. Nhưng vẫn nhan nhãn những loại “trứng khôn hơn vịt”, sẵn sàng “vạch áo cho người xem lưng”, thích thú vì những xào xáo mà họ gây nên. Rồi những kẻ một thời mượn cớ để ly khai, nay Giáo Hội chìa bàn tay ra để họ có thể trở về trong vòng tay hiệp nhất và giữ trọn danh dự, thì vẫn lòng chai dạ đá. Hoá ra từ trong sâu thẳm, họ đã chủ trương ly khai, chống đối và làm theo sở thích. Quidquid latet apparebit: bất cứ sự gì dấu diếm rồi cũng sẽ lộ ra và cái đuôi chứa nọc độc – in cauda venenum – rút cuộc cũng không che đậy được nữa ! Với những hạng người này, chỉ còn một từ thích hợp: hết thuốc !

CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 65

-------------------------------

 

TN 22-C52: BỮA TIỆC ĐỜI TA MỘT TẤM TÌNH


Trời có mây cao với gió thanh
Đất đầy sự nghiệp những tay lành
Cũng như phơi phới đi vào tiệc
Bữa tiệc đôi ta: một tấm tình...

( thơ Xuân Diệu )

 

Tiệc mời ta tham dự, bao giờ cũng có tình. Tình người. Tình bạn. Tình thân thương trong gia đình: TN 22-C52


Tiệc mời ta tham dự, bao giờ cũng có tình. Tình người. Tình bạn. Tình thân thương trong gia đình. Chí ít, là tình của đôi ta. Các thứ tình ấy đều được mang vào buổi tiệc lòng mến có Chúa tham dự, như trình thuật đã kể lại, ngày hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Luca không chỉ kể về tiệc, về tình mà còn về Vương Quốc Nước Trời. Chính đó là mục tiêu mà mọi con dân nhà Đạo đều nhắm tới. Về tiệc hôm nay, nhóm Pharisêu vẫn muốn xem Đức Chúa làm những gì, vào ngày Sabát. Và, Chúa có lẽ đã bị chỉ trích, vào lúc Ngài mở lời.

Lời Ngài mở, không nhằm đối đáp với bọn người xấu chỉ muốn hỏi xem Ngài có những hành vi chống lại lề luật, không thôi. Lời Ngài, là về dụ ngôn với những ảnh hình, rất thực tế. Thực tế như sự thực đang diễn ra trước mắt gồm các thực khách đến dự. Và một thực tế khác, là: Đức Chúa vẫn ngồi cùng bàn với đủ mọi hạng người: từ kẻ giàu sang quyền thế, đến người nghèo hèn, tội phạm. Ngài đến với hết mọi người. Ngài đến như giọt nắng giọt mưa đổ tưới trên đầu mọi thần dân.

Lời Ngài nói bằng dụ ngôn, nhằm đáp ứng lề lối mà thực khách thời đó vẫn hành xử, khi vào tiệc. “Họ chỉ muốn chọn chỗ nhất mà ngồi.” ( Lc 14, 7 ). Vào thời buổi này, các buổi tiệc do quan “lớn” khoản đãi, đều có định chỗ trước cho khách ngồi vẫn là chuyện thực tế, rất ý nhị. Các đấng bậc có vai vế quan trọng được xếp chỗ gần chủ nhà. Có tiệc, chủ nhà còn định chỗ bằng cách để thẻ bìa có đề tên.

Lời Ngài tỏ bày hôm nay, đảo lộn mọi trật tự của đời thường. Đức Chúa vẫn thường khuyên dạy: “khi được mời đi ăn, thì đừng ngồi vào chỗ nhất”. Làm theo như thế, kẻ bon chen cạy cục sẽ không tránh khỏi tình trạng khó xử. Và, đôi lúc cảm thấy phẩm giá con người bị xuống thấp. Nếu làm theo đề nghị của Ngài, chắc cũng có người sẽ coi đó như hành động dưới cơ, thiếu tự tin. Tình cảnh này được coi như một tai ương giao tế đến bất ngờ. Nhưng ở đây, khi Đức Giê-su kể dụ ngôn, Ngài không cố ý khuyên ta nên hành xử hoàn toàn từng chữ, theo nghĩa đen.

Điều Ngài muốn khuyên nhủ, chỉ là: ở nơi Vương Quốc Nước Trời, việc chọn chỗ nhất nơi bàn tiệc là chuyện không nên, dễ gây hiểu lầm. Bởi lẽ, ý nghĩa và tinh thần của Vương Quốc Nước Trời không qui vào vị thế xã hội. Thứ đời phàm lúc nào cũng đổi thay. Với nhà Đạo, chuyện quan trọng chỉ nằm ở chỗ: làm sao duy trì được tương quan giữa chúng ta với Chúa, và với mọi người cho tốt đẹp.

Đừng quá bận tâm đến vị thế chỗ ngồi. Hoặc, thứ bậc và địa vị. Đến yếu tố sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hoặc giai cấp. Vị thế đích thực trong tương quan với Chúa, không thể cân đo đong đếm bằng nghề nghiệp, chức tước hoặc danh xưng. Nhưng, bằng độ sâu độ dài của tình yêu. Bằng  quyết tâm phục vụ Chúa qua giao tế với người đời, sống quanh ta.

Điều quan trọng khác, không phải là: hỏi xem mọi người nghĩ thế nào về mình. Vẫn coi mình là ai. Đối xử với mình như thế nào. Nhưng, là dựa vào mức độ chăm sóc tỏ bày tình thương yêu của ta đến người khác. Đến cả những người dưng khác họ, nữa.

Thái độ và lối hành xử mà Đức Chúa vẫn khuyên mọi người nên có, lại được củng cố thêm bằng lời thư thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất rõ ràng: “Anh chị em đã lên núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa” ( Dt 12, 22 ).

Đoạn cuối truyện kể trình thuật hôm nay, Đức Chúa hướng thẳng về phía người thủ lãnh nhóm Pharisêu. mà bảo họ: “Khi các ông đãi khách ăn trưa ăn tối, thì đừng mời bạn bè, hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại các ông”. (Lc 14: 12)

Ở thời buổi này, lời khuyên nhủ của Đức chúa có thể áp dụng cho các vị có chức, có tiền. Cả trong nhà Đạo, lẫn ở ngoài đời ta chỉ nên mời những người nghèo khó, hoặc thân cô thế cô. Những người không có khả năng tham dự bất cứ bữa tiệc nào. Dù linh đình hay thanh bạch. Chỉ nên mời mọc những người không có khả năng mời trở lại. Hoặc, những người không có ý định mua chuộc, hay tham ô, nhũng lạm. Tức, họ chẳng làm gì có sức có quyền để ta nhờ vả, thăng tiến bản thân trong thang cấp cầm quyền.  

Điều mà trình thuật hôm nay muốn nói đến, là: hãy hoạt động để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Xã hội mang hình vòng cung, hay quả cầu. Trong vòng cung trái cầu ấy, không ai ở quá cao. Cũng chẳng có người ở nơi rốt hết. Tức là, mọi người đều có quyền lợi đồng đều, như nhau. Mọi người đều ở vị thế tương đối khá, để có thể san bớt cho những người còn thiếu thốn, nợ nần. Và, nếu đặt một bàn tròn ở giữa, thì mọi người đều có thể với tay chung phần , dự tiệc vui không thua kém ai. Bữa tiệc mà trong đó mọi người đều ngang phần. Đó là Nước Trời ở trần gian.

Có lẽ, sẽ có người cho đây là chuyện viển vông, không tưởng. Chỉ là chuyện viển vông, nếu nghĩ rằng chuyện ấy sẽ xảy đến ngày một ngày hai. Hoặc, vào thế hệ kế tiếp. Thế nhưng, xã hội như thế là Nước trời đích thực, ta có thể bắt đầu trước nhất với mái ấm gia đình mình. Sau đó, lan tỏa ra từng nhóm nhỏ mà ta đang sinh hoạt, chung sống. Cộng đoàn giáo xứ tại địa phương là ví dụ rất cụ thể cho xã hội ấy. Một Nước Trời ở trần gian. Một xã hội có thể thực hiện được.

Vào Tiệc Thánh, ta vẫn thực hiện điều này khi san sẻ bánh và rượu đã thành Mình Máu Chúa. San sẻ thực phẩm nuôi sống linh hồn và cũng san sẻ chuyện trò tâm giao với nhau bên bàn tiệc của lòng mến, agapè.

Vào thời giáo hội tiên khởi, cộng đoàn các thánh vẫn làm như thế. Và ngày hôm nay, ở nhiều nơi trong các giáo xứ, người đồng Đạo chúng ta vẫn sống như thế. Đó chính là điều Chúa muốn mọi người thực hiện. Ai làm rồi, cứ thế tiếp tục. Đó là thực trạng của Hội thánh hôm nay. Đó chính là Nước Trời ở đây. Bây giờ. Là tình huống rất Đạo. Là bữa tiệc rất phải lẽ. Hợp với Đạo. Đạo của Chúa. Đạo làm người.

Trong vui mừng cử hành Tiệc thánh rất agapè, ta hãy  hát lên những lời hưng phấn, cứ mừng vui mà hát rằng:

“Tôi vói lên cao, chào Đức Tin
Tôi chào sáng sớm, ban trưa, xế chiều
Đêm về vẫn cứ thôi cúi chào
Tôi thấy trong tôi mừng reo
Tôi thấy chung quanh chào nhau
Tôi cũng không quên chào đứa tôi đâu
Chào… lời chào bình yên
Chào… lời chào bình yên” ( Phạm Duy – Lời chào bình yên )
Vâng, đúng đấy. Cứ chào nhau đi. Vui tươi chào nhau. Chào, vì bây giờ ta đang bình yên. Bình yên đang ở trong nhà của Đức chúa. Nhà của Nước Trời. Rất bình yên.

Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH ( Úc ), bản dịch của MAI TÁ

-------------------------------

 

TN 22-C53: DỰ TIỆC


- Trần Mỹ Duyệt

 (CN 22 TN – Lc 14, 1.7-14)

 

Tôi có một người quen, và cũng là một người được biết đến nhiều qua những sinh hoạt tôn: TN 22-C53


Tôi có một người quen, và cũng là một người được biết đến nhiều qua những sinh hoạt tôn giáo, đoàn thể. Anh rất được mọi người thương mến. Nhưng cái đại họa của sự thương mến và quảng giao rộng rãi ấy là anh luôn luôn nhận được những thiệp cưới, hỏi, và tang chế.

Gọi là đại họa, vì tính trung bình mỗi tháng anh cũng được 1 đến 2 thiệp mời đi dự đám cưới. 1 hoặc 2 lời mời tham dự đám tang. Như vậy, với số tiền lương hưu trí của anh ngoài phần chi tiêu việc nhà cửa, điện nước cũng như những thứ bảo hiểm lủng củng khác, còn lại là đem đóng xâu cho những bữa tiệc cưới, những vòng hoa phúng điếu hoặc lời phân ưu trên báo chí, hay đài phát thanh. Nếu tháng nào mấy người con anh chị không thương tình yểm trợ đôi chút, thì hai tấm thân già ấy chỉ còn đủ tiền mua chai nước tương và mấy miếng đậu hũ.

Nhưng cái gọi là đại họa không chỉ là đóng tiền cho những bữa ăn, bữa tiệc, hoặc phân ưu, mà là hậu quả của những bữa tiệc ấy. Nào là tôm hùm. Gà muối. Vịt Bắc Kinh. Cháo bào ngư. Cơm chiên Dương Châu. Cùng với những món ăn khác trong các bữa tiệc ấy cứ ngày này qua tháng khác tích lũy lại trong tấm thân già thiếu vận động kia để rồi, hầu như hàng tuần hay hàng tháng lại một lần thăm bác sĩ. Bác sĩ trị tiểu đường. Bác sĩ trị cao máu. Bác sĩ trị thấp khớp. Bác sĩ bệnh tim. Bác sĩ đường ruột và tiêu hóa. Hết thuốc tây đến thuốc tàu, và thuốc nam. Cứ thỉnh thoảng tôi lại được anh kể cho nghe một phương thuốc thần diệu mới. Nước lã. Nước nóng đun sôi để nguội. Nước gạo lất. Rượu ngâm tỏi. Nhưng rốt cuộc, tôi vẫn thấy anh chị đều đều đi thăm bác sĩ và nhà thương.

Xem ra như vậy, Chúa Giêsu đã có lý để cảnh giác chúng ta về những bữa tiệc mà Ngài gọi là linh đình kia. Những bữa tiệc mà trong đó người ta tranh nhau ngồi ghế nhất, bàn nhất. Những bữa tiệc mà người ta tranh nhau lên phát biểu và bày tỏ ý kiến. Những bữa tiệc mà nếu người chủ quên không nhắc đến tên, và chức vụ mình, thì lập tức có phản ứng ngay. Những bữa tiệc mà chúng ta phải đáp lễ hoặc được mời để rồi phải trả lễ: “Khi nào anh em chuẩn bị bữa trưa hoặc bữa tối, đừng mời bạn bè, anh em, người thân, hoặc những kẻ giầu có. Vì họ sẽ mời lại anh em để trả lễ. Không. Khi anh em mở tiệc, hãy mời những kẻ ăn xin và què cụt, và đui mù. Anh em sẽ được vui mừng vì những người này không trả lễ lại được anh em, và anh em sẽ được trả lại trong ngày sống lại” (Lc 14:12-14).

Lời Chúa quả thật là đúng, cách riêng nếu đem áp dụng vào những trường hợp tương tự như trường hợp của anh chị mà tôi vừa đề cập đến ở trên. “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hoặc “có đi có lại, mới toại lòng nhau.” Cứ thế, người ta lòng vòng rơi vào cái bẫy sập của tham lam ăn uống, vui chơi, và mầu mè hình thức, đó là chưa kể nhiều người còn mang cái bệnh “phú quý sinh lễ nghĩa”, và các căn bệnh về thể xác hết sức phiền phức.

Đừng mời những người thân quen, bạn hữu và giầu có, nhưng hãy mời những kẻ đui, què, và nghèo khổ. Theo Chúa, một đàng sẽ chỉ nói lên tính khoe khoang, thói mê ăn uống, và ích kỷ. Một đàng khác cũng sẽ chỉ nói lên sự âm thầm, đạm bạc, nhưng lại với một tấm lòng rộng mở. Hai thái cực, hai lối sống trực tiếp liên quan đến hai hạng người mà chúng ta phải chọn lựa trong bàn tiệc cuộc đời.

Mời ai và ai mời?

Lời Chúa xẩy ra trong đời sống tâm linh đã phản ảnh cách rõ ràng trong đời sống thực tế. Hậu quả của lối sống có vay có trả thường đem chúng ta đến gần và liên quan đến những người, những hoàn cảnh và những lối sống.  Đó là những người bạn tinh thần của chúng ta. Những người mà chúng ta sẽ mời và được mời lại. Ảnh hưởng của những người bạn, và những bữa ăn ấy thật là khó lòng tưởng tượng. Tác dụng của nó trong đời sống tâm linh còn tùy thuộc nhiều ở những thực đơn của những bữa tiệc ấy nữa.

Trong đời sống tinh thần, chúng ta cũng có những người bạn kiêu căng, tự phụ, ích kỷ, tham lam, và dục vọng. Hay những người bạn khiêm tốn, tự hạ, rộng rãi, đơn nghèo, và trong sạch. Những người bạn kiêu căng, tự phụ, ích kỷ, tham lam, và dục vọng là những người bạn mà nếu chúng ta mời, chúng ta sẽ được mời lại. Bởi vì nếu đụng chạm đến người, đến tính kiêu căng của ai đó, chúng ta sẽ không được yên ổn hoặc bỏ qua. Tính kiêu căng nọ, đụng chạm tính kiêu căng kia sẽ nẩy sinh sự tranh cãi không bao giờ cùng tận. Cũng một cách tương tự, những người với tính tình tự phụ, ích kỷ, tham lam và dục vọng. Những người bạn này, những anh em thân thiết tinh thần này, cũng sẽ mời lại chúng ta nếu như chúng ta vô tình hay hữu ý mời mọc.

Thế là những bữa tiệc giữa những khách mời kiêu căng, tự phụ, ích kỷ, tham lam, và dục vọng ấy sẽ được đãi bằng những thực phẩm hợp với thực khách, những thực phẩm nuôi dưỡng tính kiêu căn, lòng tham lam, tính ích kỷ, và những ham muốn dục vọng như ai giầu hơn ai. Ai đeo cái vòng cảm thạch, cái nhẫn hạt soàn to và bóng hơn ai. Ai đẹp và sửa sắc đẹp ở đâu đẹp hơn ai. Ai có địa vị cao hơn ai. Và ai học thức hơn ai.  Và như Chúa Giêsu đã nói, tham dự những bữa tiệc như thế, mời những bạn bè như thế, chúng ta đã đánh mất phần thưởng đời sau của những người được mời vào bàn tiệc vĩnh hằng.

Còn như nếu chúng ta chỉ mời những tâm hồn khiêm tốn, tự hạ, đơn nghèo, và trong sạch. Những người khố rách áo ôm. Những người thấp cổ bé miệng. Những người không có tiếng nói và nếu có nói thì không được ai nghe. Những người mà xã hội cho là đui mù, què cụt, và bần cùng, chúng ta sẽ không phải quan tâm đến những lời mời đáp lễ. Bởi vì chính những thực khách được mời này cũng như chúng ta không có gì để mà khoe khoang, để mà trưng diện, để mà có qua, có lại. Ta đến với họ, và họ đến với ta chỉ bằng với tấm lòng chân thành và quý mến. Nồi khoai, nồi ngô luộc. Nải chuối, trái đu đủ hay vài trái dừa. Chùm chôm chôm hay vài trái xoài. Tóm lại, họ chỉ có tâm hồn và lối sống khiêm nhường, trong sạch, và khó nghèo. Nhưng rồi, Đấng ngự trên cao. Đấng đã dậy chúng ta phải chọn lựa khách mời ấy, lại mời chúng ta thay cho họ vào bàn tiệc nước trời trong ngày sống lại.

Chúa phán: “Khi nào anh em chuẩn bị bữa trưa hoặc bữa tối, đừng mời bạn bè, anh em, người thân, hoặc những kẻ giầu có. Vì họ sẽ mời lại anh em để trả lễ. Không. Khi anh em mở tiệc, hãy mời những kẻ ăn xin và què cụt, và đui mù. Anh em sẽ được vui mừng vì những người này không trả lễ lại được anh em, và anh em sẽ được trả lại trong ngày sống lại” (Lc 14:12-14).

Dĩ nhiên, Chúa không nhằm nhấn mạnh đến những thực tế xẩy ra trong cuộc sống thường ngày, nhưng điều mà Ngài muốn nhấn mạnh đến là ở khía cạnh tâm linh. Ở những người mà chúng ta mời hay được mời trong đời sống tâm linh.  Đó là chúng ta mời Satan, qủy dữ, mời kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ, sắc dục, ảo vọng về quyền thế, địa vị.  Hay chúng ta mời Thiên Chúa, mời các thần thánh, mời khiêm tốn, đơn sơ, khó nghèo, và trong sạch vào bàn tiệc cuộc sống mình. Thực phẩm dùng thường ngày sẽ đem lại sức khoẻ, và ảnh hưởng đến cuộc sống con người của mình. Thực phẩm tinh thần cũng ảnh hưởng và tác dụng đến đời sống tâm linh của chúng ta như vậy.

NGƯỜI VẪN KỂ CHUYỆN CỔ TÍCH

 Phêrô Vũ văn Quí CVK64

Nguyên việc Chúa Giêsu cùng ngồi vào bàn ăn với nhóm Pharisêu và cùng đối diện với người bệnh phù thủng, cũng đã giúp tôi cảm nhận được sự khiêm hạ và lòng yêu thương cũa Người. Đồng thời qua hai câu chuyện kể trong bài Tin Mừng Luca hôm nay, Người còn muốn tôi hãy cố gắng tiếp tục để cho Thần Khí của Người dẫn dắt đời sống đạo của mình hầu vượt qua được nghịch lý của cuộc sống xã hội hiện đang còn quá nhiều những con người “cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”(Lc 14, 7) và chỉ thích mời những người có khả năng đáp lễ dự tiệc.

            Sống đạo như vậy là đi ngược lại dòng chảy, là tiếp tục để cho Đấng Đang Sống vẫn chính là Người kể chuyện cổ tích thời nay.

Chuyện cổ tích là thế này....

            Khi tôi còn đi học Kinh Thánh tại Học Viện Mục Vụ thuộc Tổng Giáo Phận Saigòn, tôi đã ghi nhận được câu chuyện cổ tích trong bàn tiệc Lời Chúa qua khóa học này. Khóa học “Kinh Thánh 100 tuần” dựa theo tác phẩm “THE BIBLE IN 100 WEEKS” của linh mục Marcel LE DORZE, M.E.P, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, đã qui tụ được rất nhiều học viên. Con số gần 300 học viên quả là rất bất ngờ đối với những người phụ trách Học Viện. Ngoài giờ học chung, mỗi tuần một ngày, tại hội trường, lớp được chia thành 20 tổ để cùng nhau chia sẻ những cảm nghiệm mà, trong tuần, Lời Chúa đã chạm đến, đã tác động vào đời sống của mình. Và cũng thật bất ngờ với tôi cũng như với rất nhiều người khác, khi trong tổng số gần 300 học viên đó có một linh mục trẻ tham dự. Chúng tôi biết được học viên đó là linh mục bởi trong lớp có một số ít anh chị em đang là giáo dân trong giáo xứ của ngài. Và khi sinh hoạt tổ, anh chị em chúng tôi có vài gợi ý cần ngài sẻ chia để dễ hòa nhập hơn. Vị linh mục trẻ tuổi rất chân thành nói với chúng tôi với những ý gần gũi và thân mật.

            Lý do nào thúc đẩy cha đến ngồi chung và lắng nghe anh chị em giáo dân chúng tôi chia sẻ. Cha phó liền bộc bạch với nội dung được tóm lược như sau

- Khóa “Kinh Thánh 100 tuần”, đối với ngài, rất cần thiết và bổ ích. Trước hết, cũng như anh chị em, ngài khao khát yêu mến Lời Chúa. Riêng ngài, dù là linh mục phó xứ, nhưng chưa được tham dự tinh thần của khóa học này, nghĩa là cùng nhau đọc từ sách Sáng Thế cho đến cuốn cuối cùng là sách Khải Huyền của Gioan. Đặc biệt, ngài muốn lắng nghe được những cảm nghiệm của anh chị em, sau khi đọc, gẫm suy rồi cầu nguyện. Những cảm nghiệm thực tế đời thường mà chắc chắn ngài chưa hề chạm tới được. Bởi Lời Chúa là Lời sống động, sẽ tác động đến từng người vào từng góc cạnh của cuộc sống. Nhờ vậy, ngài có thêm những cảm nhận mới, thiết thực, vì khi chia sẻ Lời Chúa, anh em chúng tôi không nói theo kiến thức của mình mà là nói ra những gì Thần Khí Lời Chúa soi dẫn, tác động. Do đó, ngài rất trân trọng những cảm nghiệm quí giá đó. Nó không chỉ thuần phát xuất từ lý trí mà từ con tim sống động do Thần Khí dẫn dắt, lèo lái, uốn nắn

Với câu hỏi mà anh em chúng tôi quan tâm là liệu cha không cảm thấy mình thấp kém khi cùng ngồi chia sẻ với giáo dân chưa từng có kinh nghiệm trong vấn đề này, cha phó đã chân thành trao đổi và mời gọi cùng chiêm ngắm Đức Kitô như thánh Phaolô viết cho cộng đoàn Philipphê mà ngài đã nằm lòng

“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8)

Thế thì linh mục như ngài có là gì mà khi cùng đồng hành chia sẻ, cầu nguyện với giáo dân lại tự cho mình thấp kém được....”Hãy nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”(Ga 19, 37)

Đây là câu chuyện cổ tích vì sống theo tinh thần Phúc Âm của Chúa là qua cửa hẹp, là:

“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14, 11).

Có lẽ chắc chắn cuộc sống hiện nay vẫn còn nhiều người “cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”, nên lời mời gọi tha thiết của Chúa thật thiết tha hơn lúc nào hết.

Và câu chuyện cổ tích thứ hai là thế này...

Sau khi nghe nhà văn Hương Vĩnh giới thiệu về khuôn mặt cổ tích là chị Nguyễn thị Vinh cùng với 15 người khác lập nhóm Tiếng Vọng (Écho) trên conggiaovietnam.net, tôi cảm thấy mình như được tiếp sức để làm sao có thể gặp được con người lạ thường ấy. Và rồi sau khi trao đổi qua điện thoại với chị, tôi hiểu ra động cơ thúc đẩy chị. Chỉ đơn giản là chị đã lắng nghe được Lời Chúa nói với chị:

“Vì xưa Ta đói, các ngưới đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngưới đã tiếp sức; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom;Ta ngồi tù, các người đã đến thăm”..... và rồi:

“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 26, 35-36. 40)

Và nhờ vào sự thúc đẩy của Thần Khí Lời Chúa, chị đã không ngần ngại chạy đến với những người bị bệnh AIDS đang cần sự chăm sóc của chị. Họ đang chui rúc nơi những gầm cầu, nơi công viên, nơi những nhà hoang và những nơi mà không người quan tâm để ý đến. Từ đó, chị đã dùng những gì tích lũy lại được, thay vì dồn vào để lo lắng cho mình, cho chồng và cho con cái ăn uống, học hành, chị đã san sẻ những phần đầu tư chính đáng ấy giúp đỡ những người gặp khốn khó hoạn nạn và quá đau khổ vì bị xã hội bỏ rơi.

Khi trao đổi thực tế với chị, tôi mới thấu được là chính sức mạnh của Thần Khí Đức Kitô đã thúc đẩy mãnh liệt chị lao vào công việc mà ngay cả đến những đầy tớ của nhân dân cũng không dám quên mình như chị. Như vậy, Đức Kitô Phục Sinh Đang Sống vẫn là Người kể chuyện cổ tích thời nay qua những con người “tự hạ mình” mà yêu thương bác ái vô vị lợi với người đồng lọai.

Tôi tin rằng chị đã lắng nghe được lời Chúa Giêsu nói với người thủ lãnh nhóm Pharisêu hôm nay trong bài Tin Mừng là

“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. (Lc 14, 13-14)

Còn tôi, Lời Chúa hôm nay cũng như những chuyện cổ tích mà tôi được lắng nghe và sống đã giúp tôi nhìn lại mình. Tôi vẫn còn nhiều điều cần phải điều chỉnh cả hai chiều kích: sự tự hạ và bác ái vô vị lợi. 

Lời thánh Giacôbê nhắc nhớ tôi để tôi dâng lên Chúa tận sâu trong tâm hồn lời nguyện xin tha thiết. Lời ấy âm vang mãi trong tôi:

“Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhấc anh em lên.” (Gc 4, 10).

-------------------------------

 

TN 22-C54: Khiêm nhường

 

Tối hôm ấy, ông nhà văn quyết định đem vợ và 4 đứa con của mình đi xem phim tại một rạp: TN 22-C54


Tối hôm ấy, ông nhà văn quyết định đem vợ và 4 đứa con của mình đi xem phim tại một rạp hát. Khi họ đến thì trong rạp mới chỉ có sáu người. Và khi họ bước vào thì cả sáu người trong rạp đều đứng lên vỗ tay. Ông nhà văn mỉm cười đáp lễ. Sau khi ngồi vào chỗ, ông nhà văn bèn quay sang bà vợ và nói:

- Có lẽ họ đã nhận ra anh vì hình ảnh của anh được đăng trên báo và những tác phẩm của anh được quảng cáo một cách rộng rãi.

Ngay lúc đó, có một chàng thanh niên tiến đến bắt tay ông. Ông nhà văn bèn hỏi:

- Làm sao anh nhận ra tôi.

Thế nhưng, chàng thanh niên đã trả lời:

- Tôi chẳng hề biết ông là ai cả. Sở dĩ chúng tôi vỗ tay khi ông và gia đình bước vào rạp là vì viên quản lý rạp hát đã bảo: Nếu không có thêm bốn khán giả cho đủ mười người thì ông ta không thể chiếu xuất phim này.

Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ông nhà văn là một người nổi tiếng, cho nên cũng chỉ là điều thường tình, khi ông nghĩ rằng chàng thanh niên đến bắt tay ông đã nhận ra ông là ai. Và khi hay chàng thanh niên ấy cho hay chẳng hề biết ông là ai, thì tôi không hiểu phản ứng của ông nhà văn như thế nào? Hụt hẫng và chới với, hay là chấp nhận giới hạn nhỏ bé và khiêm tốn của mình.

Vậy sự khiêm tốn là gì? Chúng ta phải sống thế nào mới được gọi là người khiêm tốn? Phải chăng khiêm tốn là tự hạ mình xuống và cho rằng mình kém cỏi? Phủ nhận những giá trị đích thực của mình hay giảm thiểu nó đi?

Tôi xin thưa: Không phải là như thế. Đức khiêm tốn mang một chiều kích sâu xa và tốt đẹp hơn thế nhiều. Khiêm tốn không phải chỉ là ít nghĩ về mình, mà hơn thế nữa còn là không nghĩ gì về mình hết. Riêng với chúng ta, những người Kitô hữu, khiêm tốn cũng có nghĩa là trở nên giống hệt như Chúa, Đấng đã từng nói: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng… Và Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.

Như vậy khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.

Trong mối liên hệ với Chúa cũng như với người khác, chúng ta hãy sống khiêm tốn, từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm, nhờ đó mà chúng ta sẽ được người khác yêu mến và hơn nữa được chính Chúa chúc phúc. Bởi vì càng khiêm tốn, thì chúng ta cùng trở nên cao cả và càng được Chúa yêu thương.

-------------------------------

 

TN 22-C55: Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn


-Charles E. Miller

 

Một nghi thức ấn tượng và đơn giản đã xảy ra trong phụng vụ ngày thứ Sáu tuần thánh. Sau khi mọi: TN 22-C55


Một nghi thức ấn tượng và đơn giản đã xảy ra trong phụng vụ ngày thứ Sáu tuần thánh. Sau khi mọi người đã tụ họp lại, vị linh mục và những thừa tác sấp mình xuống im lặng trước bàn thờ. Đó là sự diễn tả kính sợ và khiêm nhường trước Thiên Chúa. Vị linh mục và các thừa tác nằm trước bàn thờ như những người đã chết. Nhưng tiếp đó họ đã đứng lên để trình bày rằng họ đã sống lại từ cõi chết của tội lỗi và sống một đời sống mới trong Đức Kitô.

Nghi thức cổ xưa này đã được diễn tả một cách ít bi kịch hơn trong phần nghi thức thống hối của Thánh Lễ. Trước Thiên Chúa và trước anh em, chúng ta đã nhận biết tội lỗi của chúng ta và nhu cầu cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta sấp mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Đó là phương cách đầy đủ mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Khi các con được mời đến dự tiệc cưới, hãy đi và ngồi những chỗ rốt bét”. Chúa Giêsu đã hướng dẫn theo sự khôn ngoan mà chúng ta đã nghe trong sách Khôn ngoan: “Hãy để cho công việc của anh em được hướng dẫn trong sự khiêm nhường, anh em càng lớn, anh em càng khiêm nhường và anh em sẽ được nghĩa với Thiên Chúa”.

Tìm kiếm ơn nghĩa với Thiên Chúa mà chúng ta phải có: Nhờ Người Con dâng hiến chính mình trên thánh giá, mà Chúa Cha đã Phục Sinh chúng ta trong sự sống mới. Khi chúng ta hạ mình khiêm nhường trong nghi thức thống hối –sau khi chúng ta đã sấp mình một cách thiêng liêng hoặc đã đặt mình vào chỗ rốt bét- Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy đến chỗ cao hơn”. Chúng ta có thể được dẫn lên chỗ của chúng ta với giá trị mà Đức Kitô đã mặc lên trên chúng ta. Chúng ta có thể thông dự một cách đầy đủ vào trong hy tế và bữa tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.

Có lẽ một số người trong chúng ta vướng mắc trong vấn đề khiêm nhường này. Chúng ta có thể nhấn mạnh về sự tội lỗi và sự bất xứng của chúng ta một cách quá độ mà quên rằng những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta để Phục Sinh chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Kitô đã kêu gọi chúng ta tới sự thật, không phải gian dối nhưng là sự khiêm nhường. Nói cách khác, một số người trong chúng ta có thể có thái độ hơi sai lệch, một chút ích kỷ, hoặc những gì giống như thế và ngay lập tức chúng ta ngần ngại tiến đến chỗ cao nhất nơi Tiệc Cưới. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đừng kiêu ngạo, nhưng hãy khiêm nhường.

Sự quân bình cần thiết khi chúng ta nghĩ rằng, dù chúng ta có giá trị hay không có giá trị. Phụng vụ cho chúng ta môt sự quân bình bằng việc khuyến khích chúng ta một mặt chấp nhận rằng mình tội lỗi và mặt khác bảo đảm rằng chúng ta một cách nào đó được Đức Kitô Phục Sinh khỏi sự chết của tội lỗi.

Trong kinh nguyện Thánh Thể thứ hai, linh mục đã thưa với Thiên Chúa nhân danh tất cả chúng ta: “Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài”. Bản Latinh thật sự mạnh mẽ bởi đã chuyển dịch theo nghĩa chữ sẽ như thế này: “Chúng con tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm cho chúng con nên xứng đáng đứng trước nhan Ngài diện đối diện”.

Những người khiêm nhường phải cẩn thận đừng bao giờ nghĩ rằng Đức Kitô thì không làm một việc tốt khi cứu chuộc họ. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta vẫn còn là những tạo vật khốn khổ, những người đó thì không bao giờ làm hài lòng Thiên Chúa.

Trước khi hiệp lễ vị linh mục tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian phúc cho những ai được kêu gọi đến dự bữa tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bữa tiệc này không phải là bữa tối sau cùng. Đó là bữa tiệ cưới lớn lao của Chúa trên thiên đàng (Kh 19). Quả thật, phúc cho chúng ta là những kẻ thấp hèn bởi vì chúng ta là như thế và nhờ Thánh Thể chúng ta sẽ được dẫn tới chỗ cao hơn trên Nước Trời và chúng ta sẽ vui hưởng tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.

-------------------------------

 

TN 22-C56: Ghế Giám Mục


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Đức Giám Mục Helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của: TN 22-C56


Đức Giám Mục Helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của ngài được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức trong xã hội.

Ngày nọ, Đức Cha Camera tiếp một số nông dân nghèo tại Tòa Giám Mục. Nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho vị Giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một bác nông dân cao niên đứng gần chiếc ghế bỏ không ấy, Đức Cha Camera đến cầm tay ông ấy dìu ông ngồi xuống chiếc ghế giám mục của mình.

Đối với một con người sống chết cho người nghèo như Đức Cha Camera thì hẳn đây không phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình và những người nghèo.

Thưa anh chị em,

Cử chỉ của Đức Cha Camera đối với người nghèo hoàn toàn trái ngược với cử chỉ của nhóm Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ tranh giành ngồi vào chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Chúa Giêsu đã chứng kiến được cảnh chọn chỗ nhất nầy khi Ngài đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh của những người Biệt phái Pharisêu. Ngài đã kể cho khách dự tiệc một ví dụ để dạy cho họ một bài học, không chỉ là thuật xử thế mà còn về đức khiêm tốn hoàn toàn trái ngược với cái óc tự phục, háo danh của họ.

Bài học thật là đơn giản: Theo Chúa Giêsu dạy, người khách tới dự tiệc không nên tự động tìm cho mình chỗ nhất, nhất là khi không chắc rằng mình là người khách quý nhất của đám tiệc. Chỗ nhất là để dành cho người nhất, chỗ sang trọng là để dành cho người sang trọng. Do đó mới có sự mời người nầy lên, mời người kia xuống. Nếu được mời lên thì càng được vinh dự trước mặt các người khác mời; còn nếu bị mời xuống thì càng thêm xấu hổ trước mặt mọi người. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng là đương nhiên trở thành người nhất, người sang trọng. Người nhất, người sang trọng, dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất, là người sang trọng, và cuối cùng vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Vì vậy, Chúa nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.

Nghe thoáng qua, xem ra Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về cách xử thế ở đời và ẩn núp trong cung cách đó, có một chút gì là tính toán: Giả vờ ngồi chỗ cuối, để rồi được chủ tiệc mời lên trên và khi đó sẽ được danh giá trước mặt mọi người. Đó là khiêm tốn giả tạo, là kiêu ngạo trá hình. Cần phải lưu tâm đến câu kết luận của Chúa: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Câu châm ngôn nầy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của ví dụ: Ở đây, không còn là cách xử thế ở đời nữa, nhưng là giáo huấn về Nước Trời được sánh ví với bữa tiệc. Việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là việc của chủ tiệc chứ không phải của khách mời. Cũng vậy, việc tham dự vào Nước Trời không tùy thuộc vào sự đánh giá của con người về chính mình, nhưng tùy thuộc vào lời mời gọi và đánh giá của Thiên Chúa. Còn người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy thôi, không hơn không kém. Do đó, để ngồi đúng chỗ của mình, mỗi người phải tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không so sánh với người khác. Vì chỉ có Thiên Chúa mới đánh giá đúng địa vị đích thực của mỗi người. Trước mặt Chúa, con người chỉ là một tạo vật bé nhỏ, nghèo khó vô cùng. Và khi đó, khiêm nhường chính là sự thật, giúp chúng ta hiểu đúng đắn con người của mình.

Người khiêm nhường vì hạ mình sát đất, nên không còn có thể ngã xuống đâu được nữa, cũng chẳng có ai tranh dành chỗ thấp ấy, nên họ luôn có sự bình an và còn được cảm tình của nhiều người. Trái lại, người kiêu ngạo như leo lên ngọn núi cao, dễ bị chóng mặt và té xuống tan xương nát óc. Đồng thời, vì tranh dành địa vị, tiếng khen hơn người nên bị mọi người ghen ghét và tâm hồn không lúc nào bình an thực sự.

Anh chị em thân mến,

Lời Chúa hôm nay đụng chạm đến những người Biệt phái Pharisêu tự phụ, giả hình. Họ vẫn tự dành cho mình chỗ nhất ở mọi nơi và ngay cả trong Nước Trời. Họ dựa vào những tước hiệu nầy nọ để bắt cả Thiên Chúa phải dành quyền ưu tiên họ vào Nước Trời mà quên mất rằng mình phải trở nên con người xứng đáng với chỗ nhất đó. Thực ra, chẳng những đối với người Biệt phái, mà Tin Mừng hôm nay còn đụng chạm đến cái tôi của mỗi người chúng ta. Tuy không nói ra, nhưng thực ra ai cũng tìm kiếm danh vọng, địa vị, thích được người khác kính nể, ca tụng, thích được nổi bật giữa đám đông, gây được ảnh hưởng trên dân chúng.

Ngày nay, khiêm nhường thường bị con người coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược, nhưng lại được Thiên Chúa tôn lên. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôn nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.

Chính Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã bỏ chỗ nhất để ngồi vào chỗ cuối cùng khi Ngài nhập thể làm người ở giữa loài người. Nói như Cha Huvelin: “Đức Kitô là Ngài về chỗ đó nữa”. Và Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài… hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy… và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giêsu Kitô là Đức Chúa” (Pl 2,6-11).

Khiêm nhường còn là một bộ mặt của tình yêu: Vì yêu thương con người, Thiên Chúa ở tầm cao vô biên đã hạ mình xuống ở tầm cỡ kích thước của con người. Ngài xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật. Chúa không kết thân với kẻ giàu có, quyền thế. Trái lại, ngài quan tâm chiếu cố những người nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ.

Vì vậy, ngay trong bữa tiệc nầy, sau khi đã cho khách mời một bài học về việc chọn chỗ chót, Chúa Giêsu cũng không quên hướng về ông chủ tiệc để nhắc nhủ ông về việc mời khách dự tiệc. Chúa nói: khi mời khách dự tiệc, đừng mời những người giàu sang, quyền thế. Vì như vậy chỉ là hình thức trao đổi để trục lợi. Mời người để được người mời lại. Hãy mời những người nghèo khó, không có khả năng đáp đền. Chúa nói như vậy, vì chính ngài đã xử sự như vậy. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đáp lễ.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54).

-------------------------------

 

TN 22-C57: Chú giải của Noel Quesson


Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa

 

Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh: TN 22-C57


Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà “một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu mạnh nhất.

Luca ghi nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt. Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc. Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô 15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn” là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.

Những ngày Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?

Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.

Vậy Đức Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó, rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện vì đó là thời thượng!

Trước tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.

Người muốn khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ, Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận vào Nước Thiên Chúa?

Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn

Vâng, để được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng. Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội, không trộm cắp, bất chính, ngoại tình... con làm điều lành, con ăn chay và bố thí...” (Lc 18,9-14).

Không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu, sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm 3,21-31; Gl 2,16-21).

“Anh hãy ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô. Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).

Phải nhỏ bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.

Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên

Tính kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất... “Không phải vì anh em công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ... (Đệ nhị luật 9,5~ - 4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống... đào nhiệm... bò lết... nhượng bộ... đầu hàng... Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến.... Tuy nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Nhưng để nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh, Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối? Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”. Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!

Chúng ta không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác, thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như các thần linh... như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng chúng ta.

Trong bữa ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân... Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ... Thầy đây Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).

Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi

Xung quanh đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).

Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ

Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích, đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người. Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…

Như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại

Người ta thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:

Trước tiên những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng ta?

Kế đó là bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi người?

Sau cùng, bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thướng mà không chờ đền đáp lại.

-------------------------------

 

TN 22-C58: Chú giải của R. Gutzwiller


KHIÊM NHƯỜNG (14, 7-11)

 

Lời khuyến dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ là vấn: TN 22-C58


Lời khuyến dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ là vấn đề lịch sự. Ở đây Ngài còn nhận định trong phạm vi hoàn toàn tự nhiên. Ngài thấy khách dự tiệc chọn chỗ tốt nhất, nên mới lên tiếng nhắn nhủ: ‘khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, nhưng hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết. Trong trường hợp này, gia chủ sẽ đến và nói: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’.

Theo phép lịch sự, không nên ngồi trên mà trái lại nên tế nhị kín đáo tìm chỗ thấp. Sắp xếp chỗ ngồi là phận sự của gia chủ chứ không phải khách tiệc. Khi nhấn mạnh về xã giao, Đức Giêsu đã xử sự khác thường: người ta cũng có thể nói Ngài giả hình vì Ngài khuyên thực khách mưu mô ở dưới để được đưa lên hàn trên: ‘Khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được vinh dự trước mặt những người dự tiệc’.

Tuy nhiên nếu tìm chỗ dưới với hậu ý hay hy vọng được lên cao, đó chẳng phải là khiêm tốn giả tạo và nhún nhường một cách tinh vi sao?

Tự cao là điều không nên có nơi Kitô hữu.

Thực sự đối với Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Chắc chắn lời cảnh cáo những người biệt phái của Ngài hoàn toàn có tính cách tự nhiên, nhưng còn tiềm ẩn trong đó một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng nước Thiên Chúa, một đề tài đã được Thánh Luca nói đến trong đoạn trước. Thực vậy, Thánh Luca đã viết: ‘và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’. Lời đó cũng ám chỉ những người sau hết sẽ trở thành trước hết và ngược lại.

Chúng ta phải hiểu lời đó của Đức Giêsu trong tương quan với ý tưởng này: ‘Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên’. Trong tương giao giữa người với người, khiêm nhường thường quá chịu ảnh hưởng phức tạp của mặc cảm thua kém, yếu hèn tự nhiên, ảo tưởng sai lầm và nhận định thiếu thực tế. Không thể ngây ngô nghĩ rằng mình thua kém tha nhân. Có thể người này hơn người kia về sức mạnh thể xác, sắc đẹp, thông minh, năng lực, ưu điểm, tinh thần, và các đức tính luân lý. Dẫu thế họ vẫn phải đối đáp với người khác với tinh thần khiêm nhu.

Thái độ đó chỉ có ý nghĩa –ý nghĩa đích thực- khi ta biết đối chiếu không phải giữa người này với người kia, nhưng là giữa Thiên Chúa với con người và rút ra những qui tắc cho mối tương quan đó. Khi đó khiêm nhượng trở thành chân lý và giúp ta hiểu đứng đắn con người mình.

Trước nhan Thiên Chúa, con người là tạo vật sánh với Đấng Tạo hoá, tạm thời với Vĩnh cửu, tương đối với Tuyệt đối, bất tất đối với tất yếu, hữu hạn đối với Vô hạn, cho nên dưới mọi khía cạnh vẫn là bé nhỏ trước vĩ đại. Hơn thế, con người còn khiếm khuyết nữa và đã mang thân phận tội lỗi, con người như tội nhân ra trước quan toà, con nợ đứng trước chủ nợ, dơ bẩn trước vẹn sạch, tội nhân trước Đấng Thánh.

Xét như thế –và như thế mới là cái nhìn chính xác- khiêm nhường là một thái độ tất yếu duy nhất. Ước mong con người, dù có khiếm khuyết cũng được mời tham dự bàn tiệc nước trời với sự khoan hồng đặc biệt. Và với tâm tình tri ân, hẳn họ sẽ hoan hỷ chấp nhận chỗ kém.

Nếu Thiên Chúa mời gọi họ đến với Ngài, thì hẳn Ngài sẽ cho họ chỗ trọng hơn. Đó là một ân xá mà không thể không ngạc nhiên. Đấy là một vinh dự mà Thiên Chúa ban, lẽ ra họ không đáng được. Chỉ có ai tự hạ với ý thức mình là hư vô mới có thái độ chân chính, mới biết rõ lời mời gọi là ân sủng. Như thế, họ mới ở trong tình trạng sẵn sàng nhận ân sủng đó, ân sủng sẽ nâng họ lên cao.

Trái lại, ai tưởng mình cao trọng –họ nghĩ như thế vì ảo tưởng nào không rõ- thì chiếm lấy cho mình những điều thuộc về Thiên Chúa, thiếu ý thức về tính nhưng không của việc tuyển chọn, thiếu tư cách và thiếu chuẩn bị tư tưởng để đón nhận ân sủng.

Như thế, trong nước Thiên Chúa, khiêm nhường là điều kiện tiên quyết và cơ bản, là nhân đức chính danh Kitô giáo, bắt nguồn từ tinh tuý sâu xa nhất của cử chỉ đạo đức.

Lời nói của Đức Giêsu vượt ra ngoài tầm yêu sách của phép lịch sự và cách xử thế bên ngoài, nó đem lại cho nhân loại đi xuống chiều sâu khôn dò của lòng khiêm hạ, và tiến lên chiều cao thăm thẳm của ân sủng Thiên Chúa.

VÔ VỊ LỢI (14, 12-14)

Đức Kitô đòi hỏi gia chủ phải vô vị lợi. Ông không nên mời bằng hữu và những người giàu có quen biết để họ sẽ đãi lại hay dễ dàng lợi dụng cho mình: Không: ông ta nên mời những người không hy vọng đền đáp hay không thể đối xử lịch thiệp với mình: người ăn xin, què quặt, tàn tật và mù loà.

Ngay lúc đó Đức Giêsu đã quy hướng về đời sau: ‘Vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’. Ở đây có hai điểm nổi bật:

Trước hết, quan điểm của Đức Giêsu về đời sau. Đang lúc dự tiệc trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ thành tựu hoàn toàn trong vinh quang của Ngài.

Tiến về thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Sự viên mãn trần gian là mục tiêu viên mãn của siêu nhiên. Thế nên, Ngài để hết tâm tư vào thời sau hết, điểm này cho thấy lý do những điểm khai triển của Ngài trong suốt bữa tiệc.

Khi nói về việc chữa lành trong ngày Sabat và về luật nghỉ lễ, Ngài đã nghĩ đến ngày Sabat vĩnh cửu, trong ngày đó, mọi người sẽ được lành mạnh và được nghỉ ngơi trong Chúa. Ngày Sabat phàm trần có lẽ chỉ là sự tiền dự, là ánh chớp ngắn ngủi của ngày Sabat vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao được phép chữa lành và sự chữa lành đáp ứng tinh thần của ngày này.

Khi đề cập đến vấn đề chỗ hơn chỗ kém, điều này chính yếu ám chỉ môt cuộc đảo ngược giá trị và địa vị trong thế giới bên kia.

Những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế phải hạ xuống. Người giầu có trở về tay trắng và kẻ nghèo nàn sẽ được giầu sang. Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn, và Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.

Những người mù loà và bất toại trong tiệc cưới cũng được như vậy. Xét theo bề ngoài họ là những người có vẻ tàn tật và bạc phận, nhưng đối với Thiên Chúa, trong tâm hồn, họ có thể là một người giàu có, một kẻ mạnh mẽ tiến đến Thiên Chúa, một người tinh mắt được cái nhìn của đức tin soi chiếu. Họ đúng là một thực khách được mời dự tiệc của Chúa.

Trái lại, một người lân cận ‘tư sản’, một người bạn (có thể là bạn đãi bôi), một thân nhân, có thể thực sự lại là người xa cách Thiên Chúa; nói theo lối tu đức, có lẽ giao du với họ cũng chẳng được ích lợi gì.

Thứ nữa, người ta có thể tự hỏi xem việc ám chỉ về đời sau là thời mà ‘khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’ đã không che dấu tâm trạng ích kỷ, đạo đức hơn lòng vô vị lời chân thành sao? Phần thưởng hứa ban là gì nếu không phải là việc chiếm hữu Thiên Chúa.

Con người có thể và phải ao ước đến gần Ngài bao nhiêu có thể, kết hợp với Ngài một cách sâu xa để được nhận biết Ngài một cách sâu thẳm nhất trong cuộc sống mai hậu.

Con người được sáng tạo vì Thiên Chúa và sống bởi Thiên Chúa, khát khao Ngài mãnh liệt. Vì niềm vui và hạnh phúc là hiện thân của Thiên Chúa mà tâm tư con người luôn khát khao những thứ này.

Đức Kitô đề cập đến điều đó. Chính Thiên Chúa ấn định những ước vọng đó trong bản tính nhân loại. Con của Ngài còn củng cố và khai triển thêm. Vinh danh Thiên Chúa và hạnh phúc của thụ tạo đều hợp với nhau và biến nên một trong thế giới bên kia.

Cho nên, ước vọng đó của con người thật chính đáng. Trong bàn tiệc vĩnh cửu, niềm vui sẽ ngự trị mà không bị hạn hẹp. Do đó, con người có thể và phải mong ước được tham dự bàn tiệc đó và ở đây sẽ nhận được phần thưởng mà Đức Kitô luôn nhắc nhở và mới thực là mục tiêu chi phối hành vi cuả chúng ta.

-------------------------------

 

TN 22-C59: Chú giải của Fiches Dominicales


ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Từ chuyện ăn uống

 

Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá: TN 22-C59


“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.

Chuyện mời Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố ý dò xét Người” (14,1).

Vừa vào bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).

2. Mọi quy tắc về ngôi thứ bị đảo lộn:

Đến lúc vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau “cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.

Sử dụng lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.

Chúng ta đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh, gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗi cuối...”

Trong suốt lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.

N. Quesson đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”

3. Thành phần được mời cũng bị xáo trộn.

Sau khi ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối...”. Và nhân danh tính chất mới mẻ của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề lối thông thường của loài người chúng ta.

Theo lẽ thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)

Khi thuật lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi (x. 1Cr 11,17-22. 33-34).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Một lô-gic mới không ai ngờ.

“Những ai mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.

Lời Đức Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.

Một cách kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những người nghèo.

Theo cái logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật, què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?

Vẫn cứ mãi “hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.

2. Thiên Chúa tự tỏ ra trong sự ẩn mình

(“Missel Emmaus des dimanches”, trg l091).

“Không gì ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.

-------------------------------

 

TN 22-C60: TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXII TN


 (Nam C)

Luc 14, la.7-14

 BÁNH Ú ĐI, BÁNH DÌ LẠI

 

 Cũng làm từ gạo nếp,nhưng bánh ú được gói với nhân thịt có hình tháp trước khi nấu chín;còn: TN 22-C60


Cũng làm từ gạo nếp,nhưng bánh ú được gói với nhân thịt có hình tháp trước khi nấu chín;còn bánh dì hay còn gọi là bánh dầy, hoặc bánh quết, thì dùng chày giã nhuyễn nếp đã nấu chín,ngắt từng viên tròn đặt trên lá.

 Quy tắc xã giao ở đời vẫn luôn là thế. Lý thuyết về kinh tế học hành vi (behavioral economics) có thể giải đáp vấn đề này. Cụ thể là lý thuyết về “có đi có lại mới toại lòng nhau” (reciprocity) trong hành vi kinh tế. Tóm lại đó là sự “sòng phẳng với nhau”: từ quan hệ giữa các quốc gia,giữa các tổ chức trong xã hội, giữa những cá nhân với nhau, đều cần có sự “sòng phẳng” nầy, để củng cố lòng tin và giữ vững các giềng mối. Nhưng vô tình quy tắc nầy lại mặc nhiên tạo ra tính “môn đăng hộ đối” và rút cuộc chỉ là những cuộc trao đổi,hai bên cùng có lợi. Ngoài lý do không muốn tự mang vào cổ cái ách đạo đức,tôn giáo,có thể khiến họ rất dễ “há miệng mắc quai”, Trung Quốc (và Việt Nam) không mặn mà gì với việc thiết lập bang giao với Toà Thánh, vì chẳng có lợi lộc kinh tế gì. Đó là điều mà Chúa Giêsu chỉ trích quyết liệt hôm nay, tại nhà một thủ lãnh Biệt phái, những kẻ thường xuyên bị Chúa Giêsu đả kích mạnh mẽ vì thói giả hình,hợm mình và xa lánh người nghèo khó,bất hạnh.

 Ngày 05.08.2010, Hãnh tin AP đưa tin  40 gia đình và cá nhân giàu có nhất nước Mỹ, bao gồm ít nhất 30 tỷ phú, vừa tuyên bố sẽ hiến tặng một nửa tài sản cho các hoạt động từ thiện theo kêu gọi của hai tỷ phú Warren Buffett và Bill Gates, trong một sáng kiến có tên là The Giving Pledge (cam kết hiến tặng), để thuyết phục những người Mỹ giàu có nhất tặng của cải cho những lý tưởng xứng đáng trong lúc còn sống hoặc sau khi chết đi. Ông Buffett gọi 40 cam kết hiến tặng này là bước khởi đầu đầy hứng khởi.Bill Gates và Warren Buffet ước tính, nếu tất cả các tỷ phú Mỹ hưởng ứng, tổng số các khoản tiền quyên góp được sẽ lên tới gần 600 tỷ USD! Những tâm hồn có những suy nghĩ và quyết tâm thật đáng nể. Chẳng hạn như tỷ phú Warren Buffet dám tuyên bố là: “Hơn 99% tài sản của tôi sẽ được đưa vào tổ chức từ thiện khi tôi qua đời” và  muốn tiền của mình sẽ được người khác sử dụng một cách hữu ích và đóng góp cho xã hội. Điều ta dễ nhận ra, ấy là ảnh hưởng tinh thần và giáo dục không chỉ nhân bản,mà bén rễ sâu Kitô giáo nơi những tỷ phú nầy, khác xa với sự hưởng thụ ích kỷ của những tỷ phú “mới nỗi” (arriviste) từ các nước thuộc liên xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa vô thần. Những người nầy không từ một thủ đoạn nào để làm giàu và tăng thế lực: vụ sữa nhiễm chất mélamine ở Trung Quốc năm 2008 hoặc chuyện những “làng ung thư” ở Việt Nam do các công ty hoá chất gây ra, bất cần lưu ý đến sự sống chết của người dân, là những điển hình. Đuổi dân nghèo và tịch thu đất đai của họ, để xây sân golf, biệt thự,casino, resort phục vụ thú ăn chơi sa đoạ, trác táng, là những gì xảy ra hằng ngày.

 Ngày 05.03, Tạp chí Forbes bình chọn bà Trần Thụ Cúc (Chen Shu Chu),61 tuổi, người Đài Loan, là nhà từ thiện kiết xuất nhất năm 2010 và ngày 29.04,Bà được tạp chí Time xếp vị trí thứ tám trong số 100 nhân vật tiêu biểu của năm 2010. Không có tài sản lớn lao như các tỷ phú, thậm chí là nghèo và sống rất đạm bạc: Hằng ngày, bà cảm thấy vui nhất, là sau khi làm việc vất vả được ăn một bát mì nóng, thỉnh thoảng có thêm mấy món rau xanh. Bà  là người chuyên bán rau xanh ngoài chợ Đài Đông và đem toàn bộ số tiền kiếm được giúp đỡ những người thiếu thốn như trẻ mồ côi, bệnh tật. Bà đã lặng lẽ góp vào quỹ từ thiện tới 10 triệu đồng tiền Đài Loan, tính ra khoảng 320.000 USD! Tạp chí Time đã trích dẫn một câu nói của bà: "Tiền phải dùng cho người cần nó mới hữu ích". Trong khi đó,một đất nước nghèo như Việt Nam, lại vung tiền qua cửa sổ mỗi năm hàng chục ngàn tỷ đồng cho 7.966 lễ hội trên toàn quốc, chưa kể hàng chục ngàn lễ kỷ niệm, khai mạc,khánh thành,…Bất cứ dịp nhỏ nào cũng được những đầu óc vụ lợi biến thành lễ hội! (thời sự 19:00 VTV1 22.08.2010)

 Từ thiện và bác ái có thể ví với việc vẽ một bức tranh. “Công việc từ thiện” đích thực có thể phát xuất từ lòng nhân ái, tình nhân đạo, lại hoàn toàn không phải tự phát,ngẫu hứng, mà do nền tảng giáo dục nhân bản tốt đẹp từ gia đình, từ cộng đồng tôn giáo.Nhưng vẫn chỉ là những nét ký hoạ đẹp, chưa làm nên một tác phẩm hội hoạ giá trí đích thực. “Công việc bác ái” chính là những mảng màu làm cho những nét ký hoạ trở nên rõ nét, sống động. Nhưng muốn bức tranh có giá trị, thì phải người hoạ sĩ tài năng phả vào đó cái “thần”. Vì thế mà một bức vẽ hoa súng (les nymphéas) của Monet [ông có tới khoảng 60 bức như thế] được bán đấu giá tới hơn 30 triệu bảng Anh,trong khi một bức vẽ hoa súng của một thợ vẽ may mắn lằm cũng chỉ bán được vài trăm ngàn đồng Việt Nam. Cái “thần” mà “từ thiện” còn thiếu để trở thành “bác ái”, chính là ‘Thần Khí” tình yêu Chúa Kitô. Nói cách khác, “bái ái” là “từ thiện” vì Chúa Kitô, chứ không chỉ đơn thuần là một cử chỉ nhân đạo,một hành vi nhân ái, cho dù việc từ thiện có gía trị vật chất lớn đến đâu đi
nữa,như trường hợp các tỷ phú Mỹ nêu trên đây. Và đó là điều khác biệt giữa họ với Mẹ Têrêxa Calcutta, vị chân phước của Giáo Hội mà cả thế giới vừa kỷ niệm 100 năm ngày sinh vào Thứ năm ngày 26 tháng 8 vừa qua.

 Dù người ta tôn vinh Mẹ là ‘thiên thần của người nghèo”,nhưng như Đức Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã phân tích trong bài “Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa Calcutta” (13.10.2009), Mẹ đến với người nghèo, say mê phục vụ người nghèo, theo bốn phương cách:

 Phương cách thứ nhất: cầu nguyện.Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện.Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niệm trong hoạt động. Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa.

Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me (tức là các con đã làm cho chính Thầy – Mt 25). Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo.Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu. Không chỉ như các tỷ phú hào hiệp quảng đại, không chỉ như bà Trần Thụ Cúc, Mẹ Têrêxa yêu Chúa và phục vụ Chúa qua người nghèo. Vì thế Mẹ không chỉ tìm mọi cách giúp đỡ người nghèo khổ bất hạnh, mà Mẹ còn cho họ trái tim Mẹ, cả cuộc đời Mẹ: Từ Trái Tim đến trái tim: Qua Trái Tim Yêu Thương Vô Biên của Chúa Giêsu là suối nguồn đến trái tim của những người khốn khổ. Trái Tim Chúa Giêsu là mạch trường sinh, vì thế bác ái không chỉ quan tâm đến vật chất và tinh thần, mà còn – và chủ yếu – là bằng gương sáng và lời cầu nguyện, cầu xin ơn sự sống muôn đời trong Nước Trời cho hết mọi người. Không có mục tiêu nầy, thì việc bác ái vẫn chỉ hữu danh vô thực và vẫn chỉ là việc từ thiện.

 Dễ hiểu là khi nhìn ra Chúa nơi con người - nhất là người nghèo khổ,bất hạnh – thì không có chuyện “bánh ú đi, bánh quy lại” nữa! Chẳng phải chúng ta thưa với chủ: chúng tôi làm điều đáng làm và phải làm mà thôi, ư? Hơn nữa, từ thiện hay bác ái thì cũng chỉ là chia sẻ những nén bạc Chúa giao cho hay nói chính xác hơn: chúng ta trả một phần tiền lãi trong những nén bạc mà Chúa đã giao. Từ thiện luôn đi kèm với vật chất cụ thể (tiền bạc,cơm bánh,thuốc men,..).Không ai đi làm từ thiện với nụ cười, ánh mắt..suông. Bác ái thì khác: vật chất chỉ là thứ yếu,là phương tiện. Nụ cười, ánh mắt,lòng trắc ẩn,tình thương, chăm sóc ân cần, và bình an Chúa Kitô (qua lời cầu nguyện) mới là chính yếu. Vì thế, từ thiện chỉ cải thiện điều kiện sống của những người được hưởng, còn bác ái biến đổi thân phận con người và cả nhân loại, san bằng mọi khoảng cách.

 Chuyện kể rằng: Ghi lại danh sách khoảng 30 nhà hảo tâm gửi tiền đến Hộp Thư Từ Thiện Đài Truyền Hình  tỉnh K.H,- kẻ ít cũng 100.000, người nhiều nhất là 2 triệu đồng,- và chọn ngẫu nhiên 2 em nhỏ, 3 cụ già, 4 người dân buôn bán nhỏ.Kết quả thật bất ngờ: không có một người Công giáo nào trong số đó. Tuần thứ nhất tháng 04.2010 như thế. Tuần thứ ba tháng 06.2010 cũng chẳng khác chút nào: người Công giáo nghe bác ái, nói bác ái, đọc kinh bác ái và không cần làm từ thiện! Người Công giáo đóng góp nhiều khoản (ví dụ tiền bỏ oi, tiền xin lễ,…), cũng là làm việc bác ái rồi: xay lúa kẻo bế em,mà!

 ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 64

-------------------------------

 

TN 22-C61: CHAN HÒA NIỀM VUI


 Tác giả: Cố Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, op.

  (Lc 14:1.7-14)

 Viết ngày: 02.09.2007.

 

Mẹ Têrêsa Calcutta là một linh hồn tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa yêu mến Chúa va: TN 22-C61


 Mẹ Têrêsa Calcutta là một linh hồn tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa yêu mến Chúa và nồng nhiệt ước mong “làm cho Chúa nguôi ngoai cơn khát tình yêu và các linh hồn.”  Mặc dù “vóc dáng nhỏ bé, nhưng đức tin cứng như đá, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được ủy thác sứ mệnh loan báo Thiên Chúa khao khát yêu thương nhân loại, nhất là những người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.[1]  

 Chính ở nơi tận cùng bằng số của kiếp người, Mẹ Têrêsa đã gặp gỡ Thiên Chúa và đã hoàn thành sứ mệnh cứu độ của Ðức Kitô.  Phải chăng từ Tin Mừng Luca hôm nay, Mẹ đã rút ra được bài học cụ thể cho chiều hướng dấn thân của mình giữa nhân loại.  Chúng ta thử theo hướng dấn thân của Mẹ để tìm một bài học ý nghĩa và giá trị từ Tin Mừng cho người nghèo khổ hôm nay.

 NIỀM VUI ÐẠI HỘI

 Nhìn vào tiệc cưới, Ðức Giêsu nhận thấy có nhiều cảnh thật tức cười.  Có những khách quý ngồi chỗ cuối và khách xoàng ngồi chỗ sang.  Cảnh lộn xộn trong tiệc cưới diễn tả tất cả tâm trạng con người trong xã hội.  Thói kiêu căng và tham vọng làm cho con người không còn nhìn ra sự thật về chính mình.  Họ là những con người thích “chơi nổi,” và muốn mọi người nhìn vào họ như mẫu điển hình.  Họ biến mọi người thành nấc thang đưa họ lên đài danh vọng.   Khi nêu lên thói rởm đời giữa tiệc cưới, Chúa cũng muốn phơi bày tất cả dáng vẻ kiêu căng của các thủ lãnh nhóm Pharisêu.   Các tông đồ cũng không khá hơn.  Họ đã từng tranh nhau chỗ ngồi bên tả hữu Chúa.  Sự thật làm gì có nơi những tham vọng kệch cỡm đó ?!

 Sự thật cũng không thể hiện diện nơi những con người chọn sai vị trí. Theo đúng hướng dẫn của chủ tiệc, những người quyền quý sẽ tìm thấy chỗ ngồi giữa những người cùng địa vị hay kiến thức.  Có lẽ vì khiêm tốn, họ đã muốn nhường những chỗ cao sang cho người khác.  Nhưng khiêm tốn không phải là tự giáng cấp.  Người khiêm tốn đích thực biết đánh giá đúng mức và chân thành phục vụ đúng như cam kết.  Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi tìm nơi phục vụ, chứ không phải tìm thanh thế.

 Trên thực tế cũng có những người tỏ vẻ khiêm tốn để lũng đoạn người khác.  Có những người giả vờ khiêm tốn để che giấu nhu cầu muốn mọi người biết đến danh mình. Không nên tìm cách xóa mình một cách giả tạo, nghĩa là không nên trút bỏ trách nhiệm hay công việc mọi người đang trông chờ nơi chúng ta. 

 Người khiêm tốn đích thực chỉ so sánh mình với Ðức Kitô.  Làm thế, họ ý thức về tình trạng tội lỗi và những giới hạn của mình.  Mặt khác, họ cũng nhận ra những hồng ân và sức mạnh của mình mà hành động theo sự hướng dẫn của Chúa Kitô.  Họ không muốn giống như người đầy tớ đem chôn vùi nén bạc xuống lòng đất.  Trái lại, không phải vì muốn khoe khoang, khi họ đem nén bạc đầu tư để tạo cơ hội dấn thân phục vụ mọi người.  Nếu đúng thế, họ sẽ được Chúa ban thưởng như những đầy tớ trung tín.  Chỉ có người khiêm tốn đích thực mới hưởng trọn vẹn niềm vui.

 Khiêm tốn không còn là một nhân đức thuần túy luân lý, nhưng đã được nâng cao lên đức tính của Thiên Chúa.  Trong Con Chúa, khiêm tốn không còn là điều kiện, nhưng đã trở thành sức mạnh cứu độ.  Khi sinh trong máng cỏ Bêlem, rửa chân các môn đệ tối Thứ Năm Tuần Thánh, hay chết trần truồng trên Thánh giá, Ðức Kitô đã cho thấy thân phận và sứ mệnh Người gắn liền với lòng khiêm cung sâu thẳm.  Có khiêm tốn mới chấp nhận cảnh khó nghèo cùng cực như thế.

 Con người khiêm tốn sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón tiếp mọi người, giàu sang cũng như nghèo khó, và đặc biệt ưu tiên cho những người nhỏ bé. Chỉ khi nào khiêm tốn và khó nghèo thực sự, chúng ta mới trở nên giống Chúa Giêsu, biết đồng cảm với những người cùng khổ.  Người đã đến trần gian để cứu mọi người, không loại trừ ai.  Người bị trấn lột hoàn toàn.  Bởi thế, Người mới tự do cứu giúp mọi người, cả giàu lẫn nghèo.  Nếu cũng bị ràng buộc vào những tiếng khen, danh vọng, quyền lực, chắc chắn Chúa đã không thể xả thân hết mức như thế.  

 Mở tiệc đãi những người kém may mắn như thế là tạo cho người nghèo cũng được ăn uống và trọng đãi như người giàu.  Khi vì tình yêu đích thực hoạt động hoàn toàn bất vụ lợi, chúng ta sẽ đem lại sự bình đẳng xã hội, mà chẳng cần phải đấu tranh giai cấp.   Trong cuộc sống, phải ưu tiên chăm sóc những người nghèo khó và bệnh tật, vì Ðức Kitô đã muốn đồng hóa với họ.  Chính nơi khuôn mặt đôi khi dị dạng của một số người, chắc chắn chúng ta gặp Thánh Nhan Chúa Kitô (x. Mt 25:35-45).

 Dưới ảnh hưởng Thần Khí, Chúa Giêsu đặc biệt hiến thân cho người nghèo, bệnh tật và tội lỗi.  Ðó là lý do tại sao Chúa khuyên chúng ta làm tiệc đãi những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù, những người không có gì để trả ơn chúng ta.  Nhưng chính họ lại là những ân huệ Thiên Chúa ban cho những người giàu có. Quả thế, họ mở ra cơ hội cho người giàu tạo nên những giá trị và ý nghĩa đích thực cho cuộc sống.  Ðó là kinh nghiệm bất cứ ai làm việc bác ái cũng cảm thấy sau khi giúp những người nghèo khổ và kém may mắn.  Một niềm vui và hạnh phúc khôn tả tràn ngập tâm hồn và cuộc đời.

 Ở ÐỜI MUÔN SỰ CỦA CHUNG

 Chỉ những người khiêm tốn mới có khả năng mở rộng tâm hồn và hòa mình với mọi người, nhất là những người nghèo khổ.  Theo Ruusbroek, càng khiêm tốn, con người càng lặn sâu trong Thiên Chúa, để thấy mình liên đới với người nghèo.  Chính vì thế, khi xét đến đặc ân Tin Mừng dành cho người nghèo, Giáo Hội nhắc lại nhiều lần rằng “những người may mắn hơn hãy từ bỏ một số quyền lợi của mình mà dùng tài sản để phục vụ người khác cách quảng đại hơn.”[2]  Giúp đỡ người nghèo là phục vụ Chúa Kitô.  Khi hoạt động cho người nghèo, Giáo hội luôn sánh vai với họ và coi họ như những người anh chị em của mình.  Tình bằng hữu này bắt nguồn từ tình yêu Chúa Cha trong Ðức Giêsu Kitô.  Nếu người nghèo là anh chị em, Giáo Hội sẽ chia sẻ tận tình tất cả những gì mình nhận được từ Thiên Chúa. 

 Người nghèo trở thành một mối phúc cho Giáo hội.  Quả thực, “tình yêu Giáo Hội dành cho người nghèo được gợi hứng từ các Mối Phúc trong Tin Mừng, từ sự nghèo khó của Ðức Giêsu và sự quan tâm của Chúa về người nghèo.  Tình yêu đó liên quan tới cái nghèo vật chất và nhiều hình thức nghèo nàn về văn hóa và tôn giáo nữa.”[3]  Sự nghèo khó nào cũng bắt nguồn từ bất công.  Bởi đấy, chống lại bất công là cứu con người khỏi sự nghèo khốn cả vật chất lẫn tinh thần. 

 Làm việc  bác ái hay bố thí cũng được Giáo hội coi là hoạt động cho công lý, đẹp lòng Thiên Chúa.  Thực vậy, “khi chú tâm tới những nhu cầu của những người đang lâm cơn quẫn bách, chúng ta trả cho họ những gì của họ, chứ không phải của chúng ta.  Chúng ta trả nợ do công lý đòi hỏi, hơn là thực thi công việc từ thiện.”[4]  Nghe thế, chắc nhiều người không hài lòng.  Từ trước đến nay, họ vẫn hãnh diện về bao nhiêu công tác từ thiện, bố thí, làm phúc, bác ái.  Họ đã chia bớt bao nhiêu của cải cho người nghèo.  Của cải đó do chính họ vất vả làm ra, chứ có lấy của ai đâu ?  Sao bây giờ lại ăn nói “vô ơn” như vậy ?!

 Thực ra, tất cả đều là hồng ân.  Của cải là những món quà họ đã đón nhận từ Thượng đế.  Nói khác, Thiên Chúa trao cho họ quản lý những món quà đó, nhưng vẫn giữ quyền làm chủ.[5]  “Của cải là một ơn lành do Chúa ban để ông chủ xử dụng và lưu chuyển, cho cả người khốn cùng có thể hưởng dùng.”[6]   Thánh Basiliô Cả minh họa: “một con thác lớn chảy xối xả vào miền đất phì nhiêu, qua hàng ngàn kênh đào.  Vậy thì, qua hàng ngàn đường lối khác nhau, bạn hãy làm cho của cải đến nhà những người nghèo khó.  Mục đích Chúa trao tặng những món quà đó là để họ tiếp tục trao đi cho người khác.” 

 Tất cả những công cuộc bác ái đều cần thiết cho con người hoàn thành sứ mệnh và tạo nên ý nghĩa cũng như giá trị cuộc đời.  Như thế, mới hiểu tại sao khi “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đi mù,” (Lc 14:13) chúng ta lại trở thành những người “thật có phúc.” (Lc 14:14)  Tiếp tục cho đi là cách tốt nhất chuẩn bị đón nhận hồng ân cao cả nhất “trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14:14)   Quả thế, “Chúa Giêsu đến thiết lập ‘Nước Thiên Chúa,’ để con người có một lối sống mới trong xã hội: công bình, huynh đệ, liên đới và chia sẻ.  Trong Thánh Linh, con người được kêu gọi trả lại công lý cho người nghèo, giải thoát người bị áp bức, an ủi những người bị bách hại, tích cực tìm kiếm một trật tự xã hội mới để giải quyết thỏa đáng sự nghèo túng vật chất và kiềm chế những lực lượng đang ngăn trở các nỗ lực giải thoát người hèn yếu nhất khỏi những hoàn cảnh khốn cùng và kiếp nô lệ.”[7]  Có thế, mối phúc một người mới được nhân lên đến ngàn lần. 

 MONG ÐỢI GÌ NƠI GIÁO HỘI ?

 Bình thường ai cũng muốn giao du với những người quyền thế, giàu sang để thăng quan tiến chức.  Chỉ có những tâm hồn khiêm tốn mới nhìn thấy mối liên đới trách nhiệm với những người nghèo khó và quan tâm tới hạnh phúc của họ.  Quả thế, nếu không có một tâm hồn khiêm tốn và  nghèo khó, chắc chắn Ðức Giêsu đã không thể đề nghị mời những người nghèo khó, đui mù, què quặt đến dự tiệc. 

 Hiện nay, hàng tỷ người nghèo đói đang chầu chực ngoài các bàn ăn thịnh soạn của bao người giàu có.  Họ không có gì để ăn !  Trước tình trạng ấy, Giáo Hội có thể làm gì ?  Có phải con người đang mong chờ những món quà viện trợ từ Vatican hay các tòa giám mục ?  Làm sao Giáo Hội có khả năng để giúp đỡ một số người đông đảo như thế ?  Giáo hội có phải là một đế quốc đâu !  Vậy nhân loại mong chờ gì nơi Giáo Hội ?

 Trước hết, nhân loại không trông mong những giúp đỡ vật chất nơi Giáo Hội cho bằng tiếng nói bênh vực công lý.  Tiếng nói Giáo hội thật cần thiết để đánh động lương tâm con người trước một vấn đề trầm trọng của thời đại.  “Khởi đầu Tân Thiên Niên Kỷ, tình trạng nghèo đói của hàng tỷ người, nam cũng như nữ, là ‘vấn đề duy nhất thách thức lương tâm con người và Kitô hữu.’[8]  Nghèo đói đặt ra một vấn đề bi đát về công lý.  Trong nhiều hình thức và hậu quả khác nhau, đặc tính của vấn đề là sự phát triển bất quân bình vì người ta không nhìn nhận “quyền mọi người đều có chỗ ngồi như nhau ‘trong bữa đại tiệc chung.’  Tình trạng nghèo đói như thế khiến không thể thực hiện một nền nhân bản Giáo hội hằng hy vọng và theo đuổi cho con người và các dân tộc có thể ‘khá hơn’ và sống trong những điều kiện nhân bản hơn.”[9]  Thực tế, bao nhiêu tổ chức và chính phủ đã thất bại trong việc giải quyết vấn nạn lớn lao đó.  Nếu Giáo hội cũng làm như mọi người, chắc chắn vấn đề vẫn còn nguyên vẹn.  Nhân loại không lối thoát.  Người nghèo vẫn gặp bế tắc …

 Rất may, “cuộc chiến chống lại nghèo đói tìm được động lực mạnh mẽ khi Giáo hội dành tình yêu ưu tiên và lựa chọn đứng về phía người nghèo.[10]  Khi tái khẳng định nguyên tắc liên đới, học thuyết xã hội của Giáo Hội đòi phải cổ võ ‘thiện ích của mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi người.’[11]  Ngay trong cuộc chiến chống nghèo đói, nguyên tắc liên đới phải luôn đi kèm với nguyên tắc bổ trợ nhờ đó có thể nuôi tinh thần sáng tạo, nền tảng mọi phát triển xã hội và kinh tế trong các nước nghèo.[12]  Nên coi người nghèo “không phải như một vấn nạn, nhưng như những người có thể nắm vai trò chính yếu trong việc xây dựng một tương lai nhân loại mới và nhân đạo hơn cho mọi người.”[13]  Những người cô đơn giữa anh em cũng phải được kể vào số những người nghèo khổ nhất về tinh thần.

 Còn ai cô đơn bằng linh mục Nguyễn Văn Lý giữa cảnh tù đày hôm nay ?  Người ta nghĩ sao khi một người lên giọng đả kích: “Đây không phải là lần đầu tiên cha Lý bị bọn cộng sản bỏ tù. Những lần trước cha Lý phải vào tù thì không thấy những “nhà chống đối” lên tiếng! Tại sao lần này họ lại làm to chuyện và đổ dầu lửa lên hội đồng Giám Mục Việt Nam. Những chuyên viên đánh phá này chắc hẳn phải có lý do và mục tiêu riêng của họ.”[14]  Lần trước chưa có cảnh bịt miệng, nên chưa lột trần được sự thật.  Chính cảnh tượng đó đã  “làm to chuyện,” trước khi có những tiếng nói bênh vực cho cha và kêu gọi lương tâm  những người có trách nhiệm liên đới.  Những người có trách nhiệm liên đới với linh mục trước tiên phải là các vị giám mục.  Bởi vậy mới có vấn đề phải đặt ra với các ngài.

[…]

Người ta không mong chờ các giám mục Việt nam “yêu thương và săn sóc cha Lý hơn bất cứ một con chiên nào.”  Việc đó ai cũng làm được !  Nhưng mọi người nỏ mắt trông chờ các giám mục lên tiếng bênh vực công lý.  Ai dám nói ÐGH Gioan Phaolô không tuyên bố nẩy lửa về quê hương của người khi xe tăng Liên Xô sắp tràn vào Ba lan ?  Ai dám bảo Tòa Thánh Vatican không phản đối nhà nước bất công khi đưa ra bản án nặng nề cho cha Lý trong vòng mấy tiếng chớp nhoáng ?  Chẳng lẽ Tòa Thánh không khôn ngoan và sáng suốt bằng các giám mục Việt nam ?!  Tòa Thánh đã dám nói theo công lý.  Tòa Thánh can đảm vạch ra những nét kệch cỡm trong lối xử phi nhân, chứ không tìm cách bới lông tìm vết nơi cá nhân cha Lý.  Vấn đề không phải khôn ngoan hay sáng suốt, nhưng có can đảm dám nói lên sự thật hay không. 

 Bao giờ ta mới bừng tỉnh trước Lời Chúa: “Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ;
nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr 1:17b) ?!
 Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự thật và can đảm bênh vực những anh em đang đau khổ vì chính anh em mình.  Amen.
 đỗ lực 02.09.2007.
 

[1] http://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20031019_madre-teresa_en.html
[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 158.
[3] Giáo Lý Công Giáo, sô 1033.
[4] Thánh Grêgôriô Cả, Regula Pastoralis, 3, 21: PL 77, 87, trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 184.
[5] x. Thánh Grêgôriô Cả, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 329.
[6] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 329.
[7] ibid, số 325.
[8] ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư  Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 558; x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 47: AAS 59 (1967), 280, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
[9] ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ  điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366; x. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ  điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1993, 1:AAS 85 (1993), 429-430.
[10] x. ÐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn đọc trước Ðại Hội các Giám Mục Châu Mỹ Latinh lần III, Puebla, Mexico (28.01.1979), I/8: AAS 71 (1979), 194-195,  trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
[11] ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư  Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 566; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
[12] x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 55: AAS 59 (1967), 284; ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư  Sollicitudo Rei Socialis, 44: AAS 80 (1988), 575-577; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
[13] ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ  điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366.; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.

-------------------------------

 

TN 22-C62: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN


Lc 14, 1. 7 – 14

Anh chị em thân mến.

 

Trong cuộc sống đời thường, mọi người thường trao đỗi nhau để tạo cho mình những nhu cầu cần: TN 22-C62


Trong cuộc sống đời thường, mọi người thường trao đỗi nhau để tạo cho mình những nhu cầu cần thiết. Người có tiền thì dùng tiền để đỗi lấy những gì mình muốn, hai bên đồng ý nhau và mỗi người nhận phần của mình. Đó là cuộc trao đỗi sòng phẵng.

Thế nhưng cũng có người sau khi nhận được phần của mình rồi, mới nhận biết mình đã bị lợi dụng, vì người kia muốn được lợi hơn cái họ đã trao đỗi, nên họ đã lừa dối bạn trao đỗi với mình. Đó là vì con người thường muốn được hơn cái mình đã bỏ ra, muốn được hơn cái mình đang có. Cũng vì lý do đó mà biết bao nhiêu tranh chấp, biết bao hận thù vẫn còn tiếp diễn.

Chúa Giêsu nhìn thấy những ưu tư lo lắng của con người trong mọi thời đại. Ngay trước mắt Ngài đây, mọi người đang cố ngoi lên trong một việc không đáng là gì. Họ cố tìm một chỗ ngồi trong buổi tiệc. Cố khẳng định mình trong cuộc sống thuộc mọi lãnh vực, bằng tất cả mọi phương cách, những cách chính đáng và cả không chính đáng họ cũng không từ bỏ. Ngài nhìn thấy hướng đi sai lầm như thế, Ngài cho họ một bài học: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ dược nâng lên".

Ngài lấy thí dụ chỗ ngồi trong buổi tiệc và cả những khách mời dự tiệc. Mọi người đều mong muốn được cái mà mình không xứng đáng, hay khá hơn là đòi đền đáp lại cách sòng phẳng như một cuộc mua bán. Ngài bảo họ hãy làm việc đừng mong đền đáp, như thế trong ngày những người công chính sống lại, sẽ được đền đáp xứng đáng.

Chúa Giêsu cũng muốn nói với từng người trong chúng ta, những người của thời đại mới, đặt biệt hơn là những người đang lắng nghe Ngài đây. Ngài đang nhìn thấy những tranh chấp, những ưu tư lo lắng cho cuộc đời nầy của mọi người. Ngài cũng nhìn thấy những cuộc trao đỗi sòng phẳng và cả những bất công. Ngài còn nhìn thấy những lọc lừa, những mưu mô, hầu chiếm đoạt cái mình không đáng được, để cố ngoi lên trong mọi hoàn cảnh và tìm lợi ích riêng tư cho mình.

"Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ dược nhắc lên".

Lời nói của những ngày xa xưa nhưng vẫn thực tiễn, vẫn cấp bách và vẫn còn hiệu lực đối với những người của ngài hôm nay.

Trong đời sống hằng ngày, mỗi người cố gắng để vươn lên, đó là một điều rất tốt. Chính nhờ thế mà xã hội mới được tiến bộ. Nhưng điều quan trọng là phương cách để vươn lên như thế nào? Và để làm gì? Mỗi người để ra một chút suy tư nhìn lại con người, nhìn lại cách sống của mình.

Chúng ta cố gắng, vất vã suốt cuộc đời để đạt được cuộc sống như ngày hôm nay. Nhưng mỗi người có bằng lòng về chính mình chưa, hay chúng ta đang còn mong muốn điều gì, đang còn đòi hỏi điều gì nữa? Mỗi người hãy nhắm mắt lại để nhìn lại cuốn phim cuộc đời đã qua và tự đánh giá về mình: xem giờ nầy chúng ta đang được nâng lên hay hạ xuống? Lời Chúa nói:" Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên" có làm cho chúng ta rung động chút nào không?

Có khi nào trong cuộc sống chúng ta dám cho đi mà không tính toán, chúng ta dám làm việc mà không đòi trả công xứng đáng, chúng ta dám chấp nhận cuộc sống mà không một lời phiền trách. Nếu cuộc sống được như thế thì chúng ta đã yên tâm có một chỗ ngồi xứng đáng mà không cần phải dùng một thủ đoạn nào của trần gian để chiếm lấy.

Nhưng nếu chúng ta thấy mình cứ có những tính toán sòng phẳng trong cuộc sống, hay còn tệ hại hơn, muốn chiếm lấy điều mình không đáng được, cứ muốn đưa mình lên, cứ muốn tìm những lợi lộc riêng tư cho bản thân mà bất chấp tất cả. Nếu như thế, chúng ta nên hồi tâm xin Chúa tha thứ, để rồi chúng ta bắt đầu lại với những gì tốt đẹp hơn.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để biết sống như lòng Chúa mong ước.

-------------------------------

 

TN 22-C63: KHIÊM TỐN


Lc 14, 1. 7 – 14

 

Dân gian ta có câu: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, qua câu tục ngữ nầy cho: TN 22-C63


1 . Dân gian ta có câu: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, qua câu tục ngữ nầy cho thấy con người thường ham danh vọng, những người Pharisêu thời Đức Giêsu và ngay cả chúng ta thời nay cũng dễ phạm lề thói nầy. Vì thế trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, từ việc rất tự nhiên trong cuộc sống đó là chỗ ngồi nơi bữa tiệc và khách được mời dự tiệc, Đức Giêsu muốn hướng sang đời sống thiêng liêng, khiêm nhường và phục vụ vô vị lợi, như là những điều kiện để được tham dự bàn tiệc Nước Trời.

2. Thực ra, nơi các đám tiệc, cỗ nhất hay chỗ nhất không hẳn phải có gì đặc biệt hơn những mâm hay chỗ khác! Nhưng ta muốn ngồi chỗ quan trọng, vì chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị. Điều đáng nói là ta thường tự nâng mình lên, trong khi thực sự vị thế của mình không được như vậy! Tự nâng mình lên thể hiện tính kiêu căng của con người, là rơi vào mưu chước của ma quỷ. Xưa kia, vì nổi loạn chống lại Thiên Chúa nên Satan, nguyên là thiên thần, bị phạt làm tà thần, ma quỷ. Vì ngã theo sự xúi dục của ma quỷ, với thái độ kiêu căng, muốn trở nên như Thiên Chúa (x. St 3,5) mà Adong - Evà không còn được sống hạnh phúc với Thiên Chúa nữa ! Có thể nói từ đó kiêu căng ăn sâu tâm khảm của con người nên tội “kiêu ngạo” đứng đầu trong danh sách các tội mà con người hay phạm. Với tội kiêu căng nầy con người tự đưa mình vào chỗ chết: khước từ Thiên Chúa là nguồn sống thật và chống đối lẫn nhau…

3 . Chính vì yêu thương con người, Đức Giêsu đã không ngần ngại dùng phương cách trái ngược lại. Với bài giảng đầu tiên trên núi, Tám Mối Phúc Thật (Mt 5,1-12), mối phúc đầu tiên mà các mối khác có thể quy hướng vào, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có “tinh thần nghèo khó”, biểu hiện của sự khiêm tốn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Không được cậy dựa vào tiền của mà hãy cậy dựa vào Thiên Chúa và ý thức rằng những gì ta có được là do tình thương của Ngài ban cho, để rồi phải biết dùng để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân cách khiêm tốn.

Đức Giêsu cũng đã mời gọi chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,28-30). Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu có thể nói là một chuỗi bài học khiêm hạ đáng cho chúng ta suy gẫm và noi theo, chẳng hạn như: Vua cả trời đất mà lại chọn nơi sinh ra là hang bò lừa ở Bêlem ; Vua cả trời đất lại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ của mình ; Vua cả trời đất mà lại chịu chết ô nhục trên thập giá ; Vua cả trời đất mà âm thầm ẩn mình qua Bí Tích Thánh Thể nơi nhà tạm vắng lạnh…

Sự khiêm hạ của Đức Giêsu đem lại sự sống mới cho chúng ta, thánh Phaolô từng nói: Bởi một người mà tội đã xâm nhập vào trần gian, mà bởi tội thì có sự chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô còn dồi dao biết mấy cho muôn người (x.Rm 5, 12-15). Sự khiêm hạ của Đức Giêsu còn được Chúa Cha ghi nhận và tôn vinh Ngài (x. Plp 2,8-9).

4 . Khiêm tốn không phải tự coi thường mình hay là giả vờ hạ thấp mình để được nâng lên, mà khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về mình, giới hạn của mình để từ đó sống trong tâm tình gắn bó với Thiên Chúa, là nguồn sống đích thực. Khiêm tốn để có thể sống hài hoà với tha nhân, qua việc học hỏi hoặc chia sẻ kinh nghiệm... Nhờ khiêm tốn có thể tránh những bất hoà với nhau, thực tế trong cuộc sống không thiếu những trường hợp do hơn thua nhau một lời nói, một chỗ ngồi mà người ta tìm cách hãm hại nhau. Nhờ khiêm tốn mà con người có thể bắt tay nhau để xây dựng xã hội đời nầy và cùng nhau hướng tới hạnh phúc đời sau.

5 . Cách tích cực hơn khiêm tốn là dùng những gì mà Chúa ban cho ta để phục vụ chứ không tìm tư lợi. Sự hiểu biết cũng như chức quyền trong Giáo Hội hay ngoài xã hội không gì hơn để phục vụ, chứ không phải để thoả mãn danh vọng, ích kỷ của mình. Tiền bạc của cải phong phú không để hưởng thụ riêng mình mà phải biết chia sẻ cho người cùng túng. Chính thái độ phục vụ cách khiêm tốn vô vị lợi, sẽ được nhiều người biết đến và yêu mến ; dân gian ta có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương”. Chúa muốn cho người môn đệ luôn có tinh thần như thế, nên trong đoạn Tin Mừng nầy, không những Ngài dạy phải có tinh thần khiêm tốn mà còn dạy tinh thần phục vụ vô vị lợi. Ngài dạy rằng:”Khi đãi khách… đừng mời bạn bè, anh em… mà hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14, 12-13), đây chỉ là một kiểu nói nhấn có nghĩa là “đừng chỉ mời” những người thân thích, giàu có, mà hãy mời cả những người nghèo khó.

6 . Nước Trời không có chỗ cho người kiêu căng tự phụ, chỉ nghĩ đến bản thân mình, bài học của bè Satan, của Adong - Evà vẫn còn đó. Ngược lại Đức Maria, nhận mình là nữ tỳ thấp hèn của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ tha nhân, thế nhưng Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ trọng hậu như thế nào ?

Ước mong rằng mọi người chúng ta biết sống khiêm tốn, bác ái vô vị lợi để chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc ngay đời nầy và bảo đảm hạnh phúc đời sau. Amen.

-------------------------------

 

TN 22-C64: Con người khiêm tốn


Lc 14, 1. 7 - 14

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình..” (Lc 3, 24)

Anh chị em thân mến,

 

Đức Hồng Y Jos. Bernadin của Tổng giáo phận Chicago, Mỹ, tâm sự với các chủng sinh: Từ ngày: TN 22-C64


Đức Hồng Y Jos. Bernadin của Tổng giáo phận Chicago, Mỹ, tâm sự với các chủng sinh: Từ ngày Ngài nhận giáo phận Chicago, hầu như không thiếu ngày nào, mỗi ngày Ngài đều nhận một lá thư gởi đến chưởi Ngài là “son of bitch” (chó đẻ!) Tại sao vậy? Vì Ngài theo đường hướng của Giáo hội, luôn lên án các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản, nên bị chưởi như thế! Đức HY Bernadin, đã khiêm tốn sẵn lòng để cho người ta chưởi bới… Bài TM hôm nay, chính Chúa Giêsu dạy cho mọi người cách xử thế khiêm tốn trước mặt Chúa, cũng như tha nhân.

Nhân khi thấy khách được mời dự tiệc, họ hay lựa chổ nhất, có khi còn coi thường người khác nữa, Chúa Giêsu dạy cho họ bài học khiêm nhượng, một thứ khiêm nhượng chân thật, và bên trong, phát xuất từ đáy lòng…. Vì thế:

a/. khiêm nhượng là chấp nhận sự thật về chính mình: người xưa có câu: “khiêm nhượng không phải là nghỉ ít hơn về cái mình có; nhưng là ít nghỉ về mình. Thực sự, khi ai ít nghỉ về mình, hay không nghỉ về mình nữa, làm sao họ có thế tự phụ được? Thánh Augustinô nói: Khiêm nhượng làm cho con người trở nên thiên thần; nhưng kiêu ngạo làm thay đổi các thiên thần thành ma quỉ.

Thánh Phêrô dạy: “anh em hãy lấy đức khiêm nhượng mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhương “.

b/. khiêm nhượng là biết mình có tội: Ma quỉ (Lucifer) chính là những thiên thần mang ánh sáng; vậy mà khi thiên thần phạm tội thành ma quỉ, chúng không nhận, cũng không biết mình có tội. Nếu ma quỉ đã nhận mình có tội, và biết mình có tội, thì cũng đống nghĩa với ăn năn, chúng sẽ được tha rồi. Thực tế nơi ma quỉ không có khiêm nhượng, ngược lại chỉ có kiêu căng mà thôi…

Biết mình thấp hèn, tội lỗi trước mặt Chúa và anh em, đó chính là nền tảng của đức khiêm nhượng, cũng là nên tảng của việc cầu nguyện để đưa ta tới với Thiên Chúa

c/. Chúa Giêsu là mẫu gương của đức khiêm nhượng: Ai đã xem qua cuốn phim Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, mới có thể nhờ đó hiểu được phần nào Khổ đau của Con Thiên Chúa phải chịu vì nhân loại chúng ta, nhất là mới có thế hiểu được: dù là Con Thiên Chúa, Ngài khiêm tốn biết bao, như lời thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Philipphê (2, 6-9): …. Đức Giêsu vốn dỉ là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân giữa trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, và chết trên thập giá……

d/. Gợi ý sống và chia sẻ: Khiêm nhượng thật sự là tự biết mình, cả về ưu lẫn khuyết điểm. Biết cái ưu điểm là để phát huy, làm cho lớn mạnh thêm, đồng thời cũng sẵn sàng lãnh trách nhiệm với mọi người, với tập thể. Biết cái khuyết điểm là để sửa chữa, phấn đấu vươn cao lên. Đó mới là đức khiêm nhượng thật sự. bao lâu nay ta đã thực hành đức khiêm nhương như thế nào? Cũng có một thứ gọi là khiêm nhượng ống điếu, khi trước mặt người khác, ta cũng giả bộ nhận lỗi, cũng xỉ vã mình; nhưng sau lưng thì tìm cách tự bào chữa… ta đã sống như thế nào đây?

-------------------------------

 

TN 22-C65: KHIÊM TỐN TRƯỚC CHÚA


Lc 14, 1. 7 – 14

 

Mỗi khi dâng Thánh lễ, trước hết Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sám hối. Giáo hội muốn nhắc: TN 22-C65


Mỗi khi dâng Thánh lễ, trước hết Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sám hối. Giáo hội muốn nhắc chúng ta nhớ, trước Chúa mình chỉ là những tôi tớ hèn mọn, là những con người tội lỗi cần được Chúa xót thương và ban ơn. Đấy là thái độ khiêm tốn cần thiết cho người tín hữu chúng ta trước Chúa.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mượn hình ảnh người được mời đến dự tiệc để dạy chúng ta: " ... Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

Có người phụ nữ kia một hôm nằm mơ thấy mình được gặp Chúa:

Chúa hỏi: "Chị là ai?"

Chị trả lời: "Dạ, dạ con là vợ của ông biện A ở họ đạo X, giáo phận Y nè Chúa nhớ con không?"

Chúa đáp lại: "Ta không hỏi con về chuyện đó, Ta hỏi con là ai?"

Chị ta tưởng Chúa chưa nghe rõ nên mới trả lời lớn hơn: "Dạ con là vợ của ông biện..." và thêm một hơi: "con đi lễ misa mỗi ngày, con ăn chay mỗi tuần và 4 đứa con nhờ con biết nuôi dạy nên chúng nó đã thành tài hết rồi Chúa ơi: 2 đứa làm bác sĩ, một đứa làm kỷ sư và một đứa làm giáo viên..."

Chị nghĩ trong lòng sẽ được Chúa khen nhiều lắm. Tuy nhiên, Chúa vẫn nói với chị là Người không hỏi điều đó. Chị buồn lắm không biết trả lời thế nào nên lặng thinh hồi lâu. Sau đó, chị trả lời trong nước mắt: "Dạ con là một con người yếu đuối tội lỗi nhưng vẫn được Chúa thương tha thứ và cho làm con Chúa."

Không ngờ chính câu trả lời ấy Chúa đã gật đầu và tỏ vẻ rất đồng ý. Chị sực tỉnh giấc và nhớ lại dường như từ đó đến giờ mình sống kiêu ngạo quá. Những gì mình làm chỉ với ý muốn khoe với Chúa và người khác thôi. Từ đó về sau, chị đã sửa mình. Chị vẫn sống và làm tiếp những gì đã làm nhưng với thành ý đền ơn Chúa và đền tội mình, chứ không còn ý nghĩ kiêu ngạo như trước.

Thái độ lúc đầu của chị này, làm ta nhớ lại dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18, 9- 14). Người Pharisêu cũng đã hãnh diện khoe với Chúa đủ điều nhưng vẫn không được Chúa khen. Ngược lại, người thu thuế đứng cuối đền thờ không dám ngước mặt lên mà rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" đã được Chúa khen.

Như thế, một trong những thái độ quan trọng và cần thiết của chúng ta trước Chúa là hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn như thế là chúng ta đón nhận chính con người thật của mình. Chúng ta chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.

Nếu Chúa Giêsu không khiêm tốn đón nhận những gì Chúa Cha trao phó có lẽ chúng ta sẽ khó mà nhận được ơn cứu chuộc. Và cả cuộc đời của Chúa Giêsu, biết bao lần dư khả năng dùng quyền phép của mình nhưng Người vẫn khiêm tốn chẳng tỏ ra. Chẳng hạn, khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc Chúa Giêsu đã phải khiêm tốn lắm mới không đáp lại những thách thức của ma quỷ. (Lc 4, 1 - 13). Vì thế, chúng ta hãy sống luôn trong thái độ khiêm tốn trước Chúa và luôn nhớ lời Người dặn: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

-------------------------------

 

TN 22-C66: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXII – 2001

 

Hôm nay, Đức Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa. Một sự việc: TN 22-C66


Hôm nay, Đức Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa. Một sự việc bình thường trong xã hội Do Thái: người ta thường mời bạn hữu về nhà, sau buổi cầu nguyện ở Hội Đường ngày Sabbat. Người ta không chú trọng đến việc ăn uống, vì chỉ là những món ăn bình dị, nhưng là cơ hội để trao đổi và thảo luận về cuộc sống. Chúng ta cũng đã có dịp thấy Chúa Giêsu đến dùng bữa ở nhà Simon biệt phái.

          Đời thường trong những cái bình dị nhất của nó vẫn là nơi Thiên Chúa hiện diện, viếng thăm và mang lại cho nó một ý nghĩa mới, một định hướng, một sức mạnh. Và người ta phải biết đón nhận những dấu chỉ của nó. Đấy chính là điều sách Đức Huấn Ca nhắc nhở.

          Chả cần phải là một người thông minh, tài trí, cũng có thể thấy ở những bữa ăn ngày Sabbat ấy không có những hạng người nghèo khổ, bọn cùng đinh, bọn tội lỗi, bọn thu thuế hay đĩ điếm.. Một người Do Thái chân chính không thể hòa mình với bọn người ti tiện này. Đó là sự phân chia giai cấp hết sức rõ ràng trong xã hội Do Thái, sự phân chia mang tính "tôn giáo". Từ sự phân chia ấy, hình thành một lối suy nghĩ, một lối sống mặc nhiên, thầm kín nhưng hết sức mãnh liệt: "phải được xã hội thừa nhận địa vị ưu tuyển,thế giá đạo hạnh trước mọi người", lối sống mà Đức Giêsu luôn phải đối diện: "sống giả hình", "những kẻ được mời, chọn chỗ nhất". Cách sống và suy nghĩ ấy đã đẩy xô đại đa số những người nghèo khổ vào nỗi tủi nhục "không danh phận", trong đời thường của những bữa ăn, và cả trong kinh nguyện và thờ phượng nữa.

          Xã hội chúng ta tự hào về nếp sống văn minh, nhưng vấn đề cũng không kém phần gay gắt. Cứ nhìn vào những tổ chức cưới hỏi, ma chay người ta có thể hiểu được cái não trạng giả hình ấy đã chồng chất thêm mâu thuẫn và bất ổn: có những đám cưới thuê bao cả 30 xe đời mới trong đám rước dâu chỉ để đưa rước 50 người khách mời..

          Sự có mặt của Đức Giêsu trong bữa ăn hôm nay, hay ở nhà Simon biệt phái, cũng như trong mọi hiện diện khác mau chóng bộc lộ tính chất TIN MỪNG. Nếu như khi đồng bàn với những người nghèo, với bọn thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu bộc lộ thái độ trân trọng, yêu thương, tha thứ, để bất kể là ai trong số họ cũng nhận ra được tấm lòng bằng hữu của Người, được giải phóng khỏi tâm trạng bị khinh miệt, bị kết án, bị loại trừ, thì ở đây Người tố giác tính chất "giả hình", "tính ưa chuộng địa vị, tìm kiếm thế giá", để đòi hỏi phải mở rộng bữa ăn cho những người nghèo.

          Có một sự thật trong đời sống Đức Giêsu mà chúng ta phải làm sáng tỏ để hiểu con người và sứ điệp của Người: Không những người nhận vào ăn trong nhà những người tội lỗi, mà chính nhà của Ngài, hay những nơi Ngài cư ngụ, người ta thường thấy bọn cùng đinh tội lỗi đồng bàn với Ngài và các môn đệ, thế nên có dư luận kết án Ngài "là kẻ mê ăn uống và say sưa với bọn đàng điếm và tội lỗi". Bữa Tiệc Ly chỉ là bữa cuối cùng Ngài thết đãi họ. Bữa ăn là một sinh hoạt đời thường, nhưng bữa ăn của Đức Giêsu lại luôn mang tính LOAN BÁO TIN MỪNG. Bữa ăn giải phóng cho con người. Những gì được nói tới trong dụ ngôn hôm nay, thực chất chỉ là phản chiếu SỰ THẬT ĐỜI SỐNG của Đức Giêsu.

          Qua đó chúng ta có cảm nghiệm chắc chắn là "Bữa Tiệc Nước Trời" đã hiện diện ngay giữa những bữa tiệc đời thường khi nó được mở ra cho những người nghèo khổ. Khi người nghèo được kính trọng, được yêu thương, được tha thứ, được là bạn hữu. Rõ ràng điều ấy không thể đi đôi với thái độ "ưa tìm chỗ nhất", thái độ "vinh vang trong kiếm tìm địa vị, kiếm tìm thế giá, dù là thế giá đạo đức". Thái độ "lắng nghe", thái độ "hiền lành và khiêm nhường", thái độ "bao dung và tha thứ" phải là thái độ cơ bản trong mọi "bữa ăn Nước Trời". Đây chính là sự lớn lao và kỳ diệu của Mạc Khải Giao Ước mới mà thánh Phaolô nói tới trong đoạn thư của Người. Mạc Khải về "cộng đoàn các thánh", một cộng đoàn trong đó sự bao dung, quảng đại, hiệp nhất và thứ tha trở thành nếp sống thường hằng trong mọi sinh hoạt, một cộng đoàn, ở đó, người nghèo tìm lại được nhân phẩm cao cả của mình.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

-------------------------------

 

TN 22-C67: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN, năm C


Lc 14, 1.7-14

LẠY CHÚA CON CÓ LÀ GÌ !

 

Sống trong một thế giới văn minh vượt bực, ai cũng chỉ muốn cho mình có của ăn, của để dư: TN 22-C67


Sống trong một thế giới văn minh vượt bực, ai cũng chỉ muốn cho mình có của ăn, của để dư thừa. Ai cũng muốn cho mình có địa vị giầu sang, chức quyền cao trọng. Ai cũng muốn cho mình được người khác nể trọng và khen ngợi. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta cái nhìn hết sức trái ngược với ý nghĩ của con người. Con người thích thái độ tự kiêu, tự mãn, Chúa lại dậy con người phải khiêm nhượng.

AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG VÀ AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN:

Đức Giêsu là người khiêm nhượng tuyệt đối. Người yêu thích sự khiêm nhượng và làm gương cho mọi người về sự khiêm nhu, tự hạ. Người là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ:” Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…”( Pl  2,6-7 ). Chúa là Đấng cao vời, cao quí, là Cha và là Thầy, nhưng Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Sự tự hạ của Người vô cùng tuyệt vời, vô cùng quí giá vì:” Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá “ ( Pl 2, 8 ). Chúa làm gương và Chúa dậy con người qua dụ ngôn trong Tin Mừng Lc 14, 7-14 . Chúa cho thấy khi dự tiệc có nhiều người cứ hăm hở, háo hức chọn chỗ nhất, chỗ cao ở bàn tiệc. Còn Chúa chớp lấy cơ hội này, Người khuyên con người hãy khiêm nhượng, chọn phần chót hết, nghĩa là chọn địa vị sau chót:” Khi được mời dự tiệc cưới, đừng chọn chỗ nhất, sợ có nhân vật nào có địa vị, quan trọng cũng được mời…ngược lại khi được mời hãy ngồi vào chỗ cuối. Xem ra chọn chỗ cuối trong bữa tiệc phải được thực hiện cách tự nhiên, đơn sơ, không hề có hậu ý gì , nếu không sẽ trở nên giả hình, kiêu ngạo một cách tinh tế vì xếp chỗ ngồi là quyền của chủ nhà chứ không thuộc quyền của khách. Hạ mình xuống là khiêm nhượng, mà khiêm nhượng thực sự là biết mình, biết về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Khiêm nhượng như Chúa dậy là coi mình là không và coi Chúa là tất cả. Chỉ khiêm nhượng như thế mới đáng được Chúa tôn lên. Gương Đức Mẹ trong Tin Mừng và gương của thánh Giuse. Mẹ coi mình là nữ tì của Chúa và là người phục vụ trong yêu thương. Thánh Giuse tự hạ nhận Mẹ về nhà mình và dưỡng nuôi Chúa Giêsu.

LỜI KHUYẾN CÁO CỦA CHÚA TIỀM ẨN MỘT Ý NGHĨA SÂU XA:

Tiệc cưới đối với Chúa Giêsu là Nước Trời và trong đó kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên và kẻ nào tự tôn, tự kiêu, tự đại sẽ bị hạ xuống. Chúa Giêsu muốn đưa nhân lọai, đưa con người đi vào chiều sâu của đời sống. Cuộc đời con người không chỉ ở trần gian, với của cải vật chất, với danh dự, chức vị cao quí, nhưng con người còn có một cuộc đời mai sau. Do đó, Chúa đưa con người đi vào chiều sâu của sự khiêm hạ mà vươn tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Trời là một hồng ân cao quí mà chỉ có những ai khiêm nhượng, chỉ những ai hiểu biết và nhận ra Chúa là tất cả thì họ mới có thể lãnh nhận được Nước Thiên Chúa. Còn những kẻ tự kiêu tự đại, tự tôn, tự mãn tưởng mình có thể vào Nước Trời cách dễ dàng mà không phải cố gắng hy sinh, vác thập giá mà theo Chúa thì quả thực Nước Thiên Chúa vượt ra khỏi tầm tay của họ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng cao kẻ phận nhỏ, kẻ khiêm nhượng. Ađam và Eva vì tự mãn muốn bằng Thiên Chúa, nên ông bà đã hoàn toàn bị hạ xuống. Mẹ Maria vì khiêm nhượng, Chúa nâng Mẹ lên:” Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả “ ( Lc 1, 48-49 )

Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu căng, tự kiêu, tự mãn.

Xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con nhận ra giới hạn con người của mình và tín thác vào Chúa vì Chúa là tất cả cho con người chúng con. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

-------------------------------

 

TN 22-C68: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN


Lc 14, 1.7-14

 HÃY HỌC CÙNG TA:” HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG”

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Khiêm nhượng xem ra dễ nhưng lại là một điều tối ư phức tạp và khó khăn không lường. Sống: TN 22-C68


Khiêm nhượng xem ra dễ nhưng lại là một điều tối ư phức tạp và khó khăn không lường. Sống trên đời, con người luôn muốn tự khẳng định mình, muốn vượt lên những cái tầm thường để tìm một địa vị nào đó như muốn có tiền của nhiều, có nhà lầu xe hơi, có những phương tiện văn minh hợp với đà tiến của xã hội, của thế giới. Ra ngoài xã hội, người ta muốn mình được đề cao, bái chào và đi dự tiệc tùng, họ muốn được ngồi trên bàn ăn cao, cỗ đầy, mâm tốt vv…Tuy nhiên, phụng vụ Chúa Nhật XXII thường niên, năm C và đặc biệt bài Tin Mừng của thánh Luca 14, 1.7-14 trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu lại đưa ra những tiêu chuẩn mới đi ngược lại với những suy nghĩ và với thái độ hám danh, ham địa vị của con người. Chúa Giêsu dậy nhân loại, con người bài học về đức khiêm nhượng.

 SỰ KHIÊM NHƯỢNG CHÚA GIÊSU ĐỀ NGHỊ:

Đọc lại Tin Mừng, chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình thương của Chúa. Những dụ ngôn, ví dụ Chúa Giêsu đưa ra để dậy dỗ các môn đệ, dậy dỗ nhân loại và mỗi người được rút tỉa từ những sự việc thực tế xẩy ra trong xã hội của người Do Thái lúc đó. Có những dụ ngôn càng suy nghĩ kỹ, chúng ta càng cảm thấy thấm thía lời của Chúa dậy bảo. Có những chuyện xem ra nực cười, có những ví dụ làm cho người ta chua xót, đắng cay, có những chuyện rất hóm hỉnh làm cho con người phải suy đi nghĩ lại hoài để rút ra bài học mà sống xứng hợp.

 Hôm nay, Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một thủ lãnh nhóm Pha-ri-siêu. Ngài để ý thấy khách được mời tới dự tiệc cứ nao nao, háo hức dành chỗ nhất, dành mâm cao trong bữa tiệc. Chúa Giêsu nhân sự việc trên đã nói cho họ một dụ ngôn để cảnh tỉnh và dậy họ. Ngài nhắc các người dự tiệc hãy có thái độ khiêm tốn, nhường nhịn, nhún nhường, chọn mâm cuối, chọn chỗ chót trong chỗ tiệc:” Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật quan trọng nào được mời…Xin ông nhường chỗ cho vị này” ( Lc 14, 8-9 ). Trái lại, khi anh được mời, anh hãy chọn chỗ cuối, chỗ chót hết. Chúa Giêsu khi đưa ra dụ ngôn này, Ngài muốn kêu gọi con người phải có thái độ khiêm nhượng thực sự. Bởi vì, nếu không có lòng khiêm tốn thực trong lòng thì việc giả bộ ngồi dưới để cho chủ mời lên trên là một sự khiêm nhượng giả tạo. Thái độ ấy, Chúa Giêsu hoàn toàn đố kỵ. Vì nó chỉ là thái độ kiêu ngạo tinh tế mà đã là giả hình Chúa Giêsu không bao giờ chấp nhận, thỏa hiệp. Chúa Giêsu muốn con người phải có đức khiêm nhượng thật phát xuất tự tâm hồn biết nhìn nhận và tôn trọng sự thật.

 CHÚA GIÊSU LÀM GƯƠNG VỀ ĐỨC KHIÊM NHƯỢNG:

Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu về việc chọn chỗ nhất, chỗ cuối trong bữa tiệc cưới trần gian còn tiềm ẩn ý nghĩa thật sâu xa hơn về bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc Nước Trời. Do đó, ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống và ai tự khiêm hạ sẽ được nâng lên. Bữa tiệc Nước Trời mà Chúa Giêsu ám chỉ trong đó mọi người sẽ được mời:” Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bè bạn, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có…Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”( Lc 14, 12-14 ). Chúa Giêsu dẫn con người, đưa loài người đến thời cánh chung, đến đời sau. Chúa cho thấy trong thời vinh quang, địa vị người hèn kém được nâng lên, kẻ cao ngạo bị hạ xuống đúng như trong bài ca tạ ơn, Mẹ Maria đã hát:”…Người nâng cao kẻ khiêm nhượng, Người đánh đổ người quyền quí khỏi ngai báu”( Lc 1, 52 ). Chúa Giêsu là gương hoàn hảo nhất về đức khiêm nhượng. Người là Thiên Chúa, nhưng đã chối bỏ địa vị…mang thân xác phàm, ngoại trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-11 ). Chúa đã hạ mình cúi xuống rửa chân cho các môn đệ và sự khiêm nhượng tuyệt hảo của Người là chấp nhận cái chết vì tình yêu để cứu độ mọi người, cứu chuộc nhân loại:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Bên cạnh Chúa chúng ta có mẫu gương khiêm hạ của Đức Mẹ, thánh cả Giuse và các thánh.

 Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con luôn hiểu được rằng sự khiêm nhượng sẽ giúp chúng con gần Chúa và được Chúa yêu thương, chúc lành.

 GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

Dụ ngôn tiệc cưới nói gì cho bạn ?
Chúa Giêsu dậy gì cho bạn trong dụ ngôn tiệc cưới hôm nay ?
Xin bạn hãy kể ra một số gương khiêm nhượng trong Cựu Ước và Tân Ước ?

-------------------------------

 

TN 22-C69: KẸT !


Chúa Nhật 22C Thường Niên.

 

Đức khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình yếu đuối và bất xứng trước nhan Thiên Chúa: TN 22-C69 


Đức khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình yếu đuối và bất xứng trước nhan Thiên Chúa toàn hảo và nhân lành.   Người khiêm nhường nhận thức rằng người nghèo nhất tại bàn tiệc cũng xứng đáng, có lẽ xứng đáng hơn họ, vì người nghèo gần Đức Giêsu và sứ vụ của Người nhất (x. Fahey 1994:577, 579).

HAI THÁI ĐỘ SỐNG.

Đức Giêsu đã đưa ra những hình ảnh thật sống động để diễn tả đức tính vô cùng cần thiết trong Nước Chúa: khiêm nhường.   Nói khác, sống trong Nước Chúa cũng giống như  trường hợp “anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất.  Trái lại, hãy ngồi vào chỗ cuối.” (Lc 14:8, 10)  Đó là thái độ của người được mời vào dự hôn lễ Con Chiên (Kh 19:7)   Chỉ có thái độ đó mới thực sự làm cho người dự tiệc cưới Con Chiên được hạnh phúc.   Thái độ khiêm cung là thái độ của người nghèo Giavê, người được hưỡng mối phúc đầu tiên và được mời vào chung vui trong Nước Chúa.   Chỉ những người nghèo như thế mới được mời mà thôi.   Trên đời, họ bị thiệt thòi đủ mặt, nhưng lại được Chúa chúc phúc:  “Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên !” (Kh 19:9)

Khi đón nhận được hạnh phúc đó, họ sẵn sàng lên đường.   Hành trình của họ rất đơn giản.  Họ chỉ cần một chiếc áo cưới là lòng khiêm cung.   Aùo đó rất đơn sơ.   Lối phục sức và thái độ của họ không lôi kéo nổi ai, ngoài Chúa.   Chính khi tìm đến chỗ cuối, họ đã biết rõ thân phận và địa vị của mình.  Cuộc sống đã đẩy họ vào đường cùng.  Nhưng Thiên Chúa luôn xuất hiện ở đường cùng để giải cứu những ai hết lòng tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Người.   Cách xử sự đó khác hẳn với người đời.   Người đời chỉ chú trọng đến những ai ăn trên ngồi trốc và tranh giành miếng đỉnh chung.   Bởi đó mới có những cảnh vinh nhục.   Vinh nhục đó có khi diễn ra ngay trong bàn ăn.   Người tự kiếm vinh hoa không tương xứng với mình có thể trải qua những giây phút bàng hoàng, “phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14:9)   Ngược lại, có những cảnh vinh thăng bất ngờ.   Giá trị được nâng cao khi chủ tiệc phát hiện: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” (Lc 14:10)  

Cảnh vinh nhục đó chỉ diễn ra tại một xó góc nào trong bữa tiệc, nhưng cũng trở thành một bài học khôn ngoan cho hậu thế: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14:11; Ed 22:32)   Sự thật vẫn là sự thật.   Đánh giá quá mức về mình nhiều lúc không phù hợp với thực tế.   Thái độ khôn ngoan đòi phải kiên nhẫn chờ đợi Thiên Chúa.   Tính chủ quan dễ mê hoặc lòng người.   Đức Giêsu muốn tránh cho môn đệ khỏi mắc tính chủ quan đó.   Nên Người dặn dò kỹ lưỡng.

Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ mượn khung cảnh tiệc cưới để dạy một bài học cao siêu hơn.   Thiên Chúa chính là chủ tiệc cưới Con Chiên.   Tiệc cưới chính là Nước Trời.  Chính Người sắp xếp mọi thứ bậc trong bữa tiệc.   Con người không có quyền định đoạt cho chính mình.   Bởi vậy thái độ tự tôn không thể chấp nhận được.   Nếu biết mình, con người sẽ thấy ngay vị thế của mình trong bữa tiệc.   Ai chẳng muốn tìm chỗ “ngon” ?  Nhưng chỉ có những người đánh giá mình thấp hơn những người khác, mới được vinh dự nghe lời chủ tiệc: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” (Lc 14:10)   Chỗ vinh dự này không ai tự dành cho mình.   Nhưng Chúa cho ai, nấy được.   Không phải vì tài năng hay đức độ, con người có thể đạt đến công trạng xứng đáng hưởng vị thế đó.   Nhưng con mắt Chúa để ý đến những ai hèn mọn.   Chính Đức Maria đã phải thốt lên: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1:48) khi cảm nhận hồng ân Chúa vượt ngoài mọi dự tính.   Chính vì hạ mình quá sâu thẳm, nên Mẹ đã được Chúa cất nhắc lên trên các thiên thần và loài người.   Không còn vinh dự nào lớn hơn !   Mẹ là người khách đã ngồi chỗ thấp nhất trong bữa tiệc. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ chính mình,.   bởi thế Mẹ đã có thể hòa mình với mọi người và có thể trải rộng tình thương trên toàn thể nhân loại.   Bởi đó đã được vào dự hội vui với Chúa. Mẹ đã được mời lên cao hơn chín phẩm thiên thần !

Chính vì thế Mẹ đã trở thành gương mẫu cho những ai muốn vào dự tiệc cưới Con Chiên.   Thái độ khiêm cung đã khiến Mẹ gần gũi những người khó nghèo và đau khổ.  Nếu đứng vai chủ tiệc, chắc chắn Mẹ đã mời “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.” (Lc 14:13)   Họ là những người bị gạt ra ngoài xã hội chỉ vì “không có gì đáp lễ” (Lc 14:14) theo lối sống “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” hay “bánh ích đi, bánh qui lại” ngoài xã hội.    Nhưng chính khi mời những người như thế, mới thấy tính cách vô tư và quảng đại của người chủ tiệc.   Phải có một tấm lòng, một lối sống và một cái nhìn khác thường mới có thể thái độ như vậy.  Một tấm lòng vô vị lợi.   Một lối sống khiêm cung, hòa mình với những người nghèo khổ.   Một cái nhìn vượt khỏi những tính toán trần tục và vươn cao trên những biên giới đời này.   Có thế “ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14:14)   Chính niềm hi vọng đó đã khiến ông coi tất cả chỉ là phương tiện phục vụ con người. Càng phục vụ những người nghèo khổ, càng nắm chắc niềm hi vọng.  “Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.” (Hc 3:20)  Trước mặt ông, con người không được đánh giá qua của cải trần thế.   Chỉ có niềm tin mới có thể xác định giá trị con người mà thôi.   Niềm tin đó mạc khải cho ông thấy mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và là đối tượng cứu độ của Đức Giêsu.   Đó chính là giá trị đích thực khiến Thiên Chúa mời mọi người vào dự tiệc Nước Trời.

TÌM MỘT CHỖ TRONG TIỆC CƯỚI.

Thiên Chúa chính là chủ tiệc đích thực.   Khi sai Con Chúa đến trần gian, Người muốn chuyển thiệp hồng đến từng người trong cộng đồng nhân loại.   Bữa tiệc khoản đãi mọi người không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo v.v.   Con Chúa đã hạ mình xuống làm người tôi tớ chuyển thiệp hồng khắp ngang cùng ngõ hẻm.  Nhưng hỏi mấy người đến dự tiệc ?  (Mt 22:1-10)  Cuối cùng chỉ có “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” nhập tiệc mà thôi.   Vâng lời Chúa, Giáo hội đã xả thân giúp đỡ những người nghèo khổ, xấu số.   Giáo hội mong đợi gì ?  Phải chăng mong chiêu dụ tín đồ ?   Thực ra, Giáo hội chỉ biết phục vụ.   Nếu người ta đọc được ý nghĩa chứng từ, Giáo hội hân hoan cảm tạ Chúa.  Nếu họ muốn giải thích sai chứng từ, Giáo hội cũng chỉ biết cầu nguyện và kiên nhẫn làm chứng.  Muốn hay không muốn trở thành tín đồ, việc hoàn toàn tùy thuộc quyết định cá nhân.

Trước ông chủ tối cao là Thiên Chúa, chúng ta đều là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” cả.   Thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn cứ tưởng mình đáng chiếm chỗ tốt hơn, ngon hơn những người khác.  Nhất là khi có chức có quyền, chúng ta lại càng tưởng mình xứng đáng hơn.   Nhưng thật ra “càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa” (Hc 3:18) và chiếm được lòng người nữa.   Chức vị không làm con người cách xa anh em đồng loại, nhưng chỉ là một phương tiện đưa mọi người “tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời.” (Dt 12:22-23)   Đại hội đó phải diễn ra ngay tại thế, giữa các cộng đồng dân Chúa.   Thế nhưng, nhiều cộng đồng vẫn chưa chấp nhận sự có mặt của những người anh em khác màu da, phong tục, văn hóa.  Trong Đại Hội Liên Dòng Toàn Quốc Hoa Kỳ mới đây, nữ tu Mary Mollison cho biết trong lịch sử phần đông các dòng tu tại Hoa Kỳ đã không thâu nhận các thành viên thuộc các sắc tộc khác.   Ngày nay nhiều dòng “đang thực hiện tìm đường lối để xóa bỏ sự kỳ thị chủng tộc trong các cộng đoàn chúng ta.” (VietCatholic 29/8/2001)  Như thế, chính những người hiến trọn đời cho Tin Mừng vẫn chưa thực hiện được một đòi hỏi căn bản của Tin Mừng.  Có những cấp độ mâu thuẫn ngay trong Giáo hội Hoa Kỳ.  Ví dụ giáo phận cho phép thành lập các giáo xứ Việt Nam biệt lập, trong khi Hội Dòng Hoa Kỳ vẫn bắt buộc anh em Việt Nam lệ thuộc. Hi vọng chính sách toàn cầu hóa sẽ ảnh hưởng lớn tới các cộng đồng dòng tu tại đây.  Vấn đề kỳ thị phải chấm dứt, Tin Mừng mới có thể rao giảng cho mọi người.

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

-------------------------------

 

TN 22-C70: Chúa Nhật 22 quanh năm, C


(Lu-ca 14: 1.7-14)

 

Nội dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn đấu: TN 22-C70


Nội dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào.  Tỉ dụ thực tiễn này chuẩn bị đưa ta đến một thái độ cần thiết để ta được thuộc về vươn

          Nội dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào.  Tỉ dụ thực tiễn này chuẩn bị đưa ta đến một thái độ cần thiết để ta được thuộc về vương quốc ấy, đó là sự khiêm nhượng.  “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;  còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14:11).  Để nói lên bài học khiêm nhượng, Chúa Giê-su lợi dụng ngay một hoàn cảnh sống trong xã hội:  khung cảnh khách dự tiệc lựa chỗ trọng vọng nhất mà ngồi.

1)  “Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”

          Không phải mọi người Pha-ri-sêu đều là kẻ thù của Chúa, điển hình là ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu trong câu truyện hôm nay đã mời Chúa Giê-su đến dùng bữa tại nhà ông chắc phải là một người bạn của Chúa.  Bữa ăn đông người, vì có Chúa là thượng khách.  Quang cảnh nhộn nhịp của bữa tiệc cũng không che nổi hình ảnh nhiều người đến dự tiệc đã dành chỗ ăn trên ngồi trốc, một thái độ không thể chấp nhận đối với những người được mời đến dự tiệc Nước Trời.

          Khách được mời đến dự tiệc cưới là do lòng tốt của người mời, chứ không phải họ có quyền muốn đến là đến.  Do đó, được mời đến là một ân huệ khách nhận được từ người mời và mục đích họ đến là để đáp lại ân huệ của người mời chứ không phải để tìm vinh dự chỗ cao trọng cho mình.  Việc sắp xếp chỗ ngồi hoàn toàn do người mời, không phải do đòi hỏi của khách dự tiệc.  Một ngày kia, anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an đến xin Chúa Giê-su cho các ông được ngồi hai bên tả hữu của Chúa, Người đã trả lời:  “Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu.  Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy được” (Mc 10:39-40).

          Cũng vậy, Thiên Chúa Cha là chủ tiệc cưới Nước Trời và Chúa Giê-su là chàng rể, còn toàn thể nhân loại là khách được mời.  Khi ta đáp lời mời cứu độ của Chúa, đến gia nhập vào Vương quốc của Người, điều kiện trên hết ta phải có là có lòng khiêm nhượng.  Khiêm nhượng để nhận biết đây là một ân huệ vô cùng lớn lao Chúa ban cho ta.  Nếu không khiêm nhượng, ta sẽ lầm tưởng mình xứng đáng được mời vào và sẽ coi thường ân huệ mà không hết lòng hết sức làm bất cứ gì để đền đáp ân huệ ấy.  Lãnh nhận ơn cứu độ là để cho mình được biến đổi, như cục đất sét mặc cho bàn tay thợ gốm uốn nắn.  Vì thế lời đầu tiên Chúa Giê-su rao giảng khi Người khai mở Triều Đại Thiên Chúa là:  “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), hoặc:  “Thầy bảo thật anh em:  Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc10:15).  Làm sao sám hối và đón nhận ơn cứu độ như trẻ em được, nếu ta không có lòng khiêm nhường?

2)  “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;  còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”

          Châm ngôn người xưa nói về cách xử sự khôn ngoan của người được mời đi ăn cưới là hãy chọn chỗ thấp để được chủ mời lên chỗ cao hơn.  Nhưng Chúa Giê-su không dạy ta làm điều ấy, mà Người chỉ mượn hình ảnh người khách được chủ tiệc mời ngồi lên cỗ trên và người khách bị mời xuống cỗ dưới để nói lên một chân lý:   phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;  còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. 

Thực vậy, trước mặt Chúa ta có là gì đâu.  Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức thân phận mình:  “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8:4-5).  Vậy mà A-đam và E-và những tưởng mình là quan trọng, còn muốn được như Thiên Chúa nên đã bất tuân mệnh lệnh Người.  Thế là đang được ở trong Vườn địa đàng bị đuổi ra và thân phận trở nên khốn nạn và đau khổ.  “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”.

Tuy nhiên trong kế hoạch cứu độ Thiên Chúa muốn phục hồi thân phận làm con cái cho A-đam bằng một nguyên lý ngược lại:  ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.  Vậy để thực hiện kế hoạch theo nguyên lý này, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần gian.  Chúa Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, đã hạ mình xuống làm người (Ga 1:14) và nhận lấy thân phận tôi đòi và vâng phục Thiên Chúa hoàn toàn đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá.  Chính nhờ hạ mình và khiêm nhượng tuyệt đối, Chúa Ki-tô đã được Thiên Chúa siêu tôn (Pl 2:7-9).

Chúa Ki-tô đã vạch sẵn con đường cứu độ để những ai theo Người và tin vào Người thì sẽ không phải hư mất đời đời.  Nhiều người Do-thái đã không tin vào Chúa Ki-tô, nhưng hãnh diện vì có Lề Luật và tin rằng việc giữ Lề Luật sẽ cứu độ họ.  Họ đặt việc giữ Lề Luật lên trên việc sống theo Tin Mừng của Chúa Ki-tô cho nên họ sẽ bị hạ xuống, nghĩa là không được cứu độ.  Trái lại, dân ngoại đã khiêm nhượng đón nhận Tin Mừng và đáp lại lời gọi của Thiên Chúa.  Thánh Phao-lô đã nói với người Do-thái về thực trạng này:  “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại...” (Cv 13:46). 

Não trạng của người Do-thái vẫn còn nằm trong nhiều người Công giáo hôm nay.  Họ nghĩ rằng họ mang danh là Công giáo thì thế nào cũng tốt hơn người không có đạo.  Có những người Công giáo khác thì cho rằng họ làm những việc đạo đức trong giáo xứ, như làm thừa tác viên cho rước lễ, đem Mình Thánh Chúa cho người già cả, điều khiển ca đoàn... thì chắc chắn họ là những người đạo đức hơn những người khác.  Đúng là một cách “tôn mình lên” thật kín đáo và nguy hiểm.

3)  “Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”

          Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học.  Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhượng nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ.  Nhưng cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời.  Tuy Chúa Giê-su kêu gọi chủ nhà hãy tỏ lòng hào hiệp đối với kẻ nghèo khó, nhưng Người cũng mở cho ta thấy một khía cạnh khác của bữa tiệc Nước Trời.  Được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và đáp trả không chỉ là việc cá nhân, nhưng mang chiều kích cộng đồng.  Nếu chính ta đã được Thiên Chúa mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ thì ta cũng phải chia sẻ ơn cứu độ ấy với nhau.  Mỗi Ki-tô hữu phải là người đãi tiệc, giúp đem ơn cứu độ đến với những anh chị em nghèo khó, tức là những người đang cần được cứu độ.

          Ta có trách nhiệm đối với phần rỗi của anh chị em, nhất là đối với những người ta có trách nhiệm.  Linh mục là người đãi tiệc.  Cha mẹ cũng là những người đãi tiệc.  Thầy cô dạy giáo lý cho các em cũng đóng vai trò đãi tiệc.  Triều Đại Thiên Chúa là thời gian Người đãi tiệc.  “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc:  tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6).  Ta tiếp tay với Thiên Chúa để giúp cho bữa tiệc cứu độ càng thêm đông, bằng cách kêu mời anh chị em đến.  Ta làm công việc ấy khi ta cho họ thấy cuộc sống của ta đang được ơn cứu độ biến đổi và ta đang sống như con cái Thiên Chúa.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Được Chúa mời gọi đến dự tiệc cánh chung, tôi đã đáp lại như thế nào?  Từ chối vì bận rộn?  Lần lữa nói với Chúa để ít nữa sẽ lo lắng phần hồn?  Khiêm tốn và vui mừng đến để thi hành ý Chúa muốn cứu độ tôi?

          Có khi nào tôi vỗ ngực cho mình là người Công giáo tốt không?  Việc “tôn mình lên” thường biểu lộ bằng những cách nào nơi tôi?  Lời nói?  Thái độ khinh người?  Thích so sánh hơn thiệt?

          Nếu tôi là bậc làm cha mẹ, tôi nghĩ gì khi nghe người bạn phàn nàn về con cái rồi kết luận: “Thôi, kệ xác nó.  Nó lớn rồi, có linh hồn thì phải lo mà giữ!”?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su,
          xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
          nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
          dễ thấy Chúa hiện diện
          và hoạt động trong đời con.
          Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
          xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
          khép kín và nghi ngờ.
          Xin dạy con sự hiền hậu
          để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
          Xin dạy con sự khiêm nhu
          để con dám buông đời con cho Chúa.
          Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
          vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
          hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau.  A-men.”
                             (Trích RABBOUNI, lời nguyện 14)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-------------------------------

 

TN 22-C71: Chúa Nhật 22 Quanh Năm


Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       Do-thái 12: 18-19, 22-24a

 

Bài đọc hôm nay là phần mở đầu của đoạn huấn dụ cuối cùng về đời sống đức tin vào Chúa: TN 22-C71


Bài đọc hôm nay là phần mở đầu của đoạn huấn dụ cuối cùng về đời sống đức tin vào Chúa Ki-tô (12:14-13:19). Có lẽ chúng ta nên nhìn lại mục đích của thư Do-thái để hiểu tại sao có huấn dụ này. Thư được viết cho những người Do-thái đã trở lại Ki-tô giáo. Sau khi trở lại, ban đầu họ cũng quảng đại và can đảm (6:10; 10:32-34), nhưng về sau đâm ra chán nản và mệt mỏi (5:11; 10:25), rồi phải đối phó với bách hại nên bị cám dỗ bỏ cuộc (10:35-36). Hơn nữa, cám dỗ nguy hiểm nhất, đó là nhớ lại việc cử hành phụng tự Do-thái cũ với cảnh tưng bừng náo nhiệt, nếu đem so sánh với lễ nghi cử hành Thánh Thể trong vẻ đơn sơ khiêm tốn của Ki-tô giáo, người ta muốn quay về đường cũ. Do đó chúng ta hiểu lý do tại sao thư Do-thái muốn đề cao vai trò Thượng Tế của Chúa Giê-su và khích lệ Ki-tô hữu gốc Do-thái hãy kiên nhẫn và trung thành.

          Trong thư có ba lời khuyến cáo mạnh mẽ: phải trưởng thành trong đức tin (5:11-6:20), phải kiên trì và tránh nguy cơ chối đạo (10:26-39), và đừng mất cơ hội cuối cùng để đến với Thiên Chúa qua vị Trung Gian là Đức Ki-tô (12:14-17). Như vậy, sau lời khuyến cáo cuối cùng này, thư Do-thái cho chúng ta thấy viễn tượng một Thành đô mới của Thiên Chúa hằng sống và cũng là nội dung của bài đọc hôm nay.

          Đến với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô đòi Ki-tô hữu gốc Do-thái phải nhận ra sự ưu việt của Ngài. Do đó, thư Do-thái lại trở lại với chủ đề về sự ưu việt của Chúa Giê-su đã được trình bày trong những phần trước. Hãy nhìn vào sự khác biệt giữa thế hệ Do-thái cũ và cộng đồng Ki-tô hữu mới. Dân Chúa trong Cựu Ước không trung thành với Chúa, còn Giáo Hội Chúa Ki-tô thì phải sống đức tin (xem 3:7-4:11). Không giống như dân Chúa ngày xưa đã hãi sợ không dám đến gần núi Xi-nai, Giáo Hội Chúa Ki-tô hôm nay đã tới "thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời."

          Ai bảo đến với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô và trong Giáo Hội là buồn tẻ nhạt nhẽo? Thư Do-thái đã trả lời chúng ta qua một hình ảnh vô cùng sống động. Trong Thành đô của Thiên Chúa, trước hết có "muôn vàn thiên sứ" là hình ảnh thánh Gio-an đã nhìn thấy trong thị kiến của ngài (Kh 5:11). Tiếp đến là "các con đầu lòng của Thiên Chúa" tức là những người lành thánh thời Cựu Ước đã được lên trời nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giê-su. Cũng có "những người công chính đã được nên hoàn thiện." Nhưng sự hiện diện ý nghĩa và cao cả nhất trong Thành đô của Thiên Chúa, đó là sự hiện diện của "vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su." Cho nên khi nói "Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội" là thư Do-thái muốn so sánh sinh hoạt của Giê-ru-sa-lem mới với những ngày hội, lễ đền của Giê-ru-sa-lem cũ. Qua những sinh hoạt tưng bừng bề ngoài kia, dân Chúa thời xưa đã không thể đến với Thiên Chúa là vì họ không có một Đấng Trung Gian. Sinh hoạt phụng tự tưng bừng không thể nào đóng vai trò trung gian được. Chỉ có Đấng đã mặc lấy thân phận con người chúng ta, đã vâng lời Thiên Chúa, sống đức tin đến độ "cam chịu khổ hình thập giá", mới đủ tư cách để làm chiếc cầu nối kết Thiên Chúa với con người, trời với đất mà thôi.

          Tóm lại, thư Do-thái khai triển hai chủ đề liên kết với nhau là đức tin và lòng kiên trì. Đức tin là lẽ sống và kiên trì là áp dụng đức tin vào đời sống. Về chủ đề đức tin, Chúa Giê-su là "khai mở và kiện toàn" đức tin. Về chủ đề kiên trì, Chúa Giê-su là gương mẫu tuyệt vời. Những gì về đức tin và kiên trì được nói với những Ki-tô hữu gốc Do-thái vẫn là những gì được nói với chúng ta hôm nay. Có thể chúng ta không gặp chính những bách hại và đau khổ của Ki-tô hữu gốc Do-thái. Nhưng hôm nay những bách hại và đau khổ đến với chúng ta dưới những hình thức khác, có khi còn tinh vi và nguy hiểm hơn xưa nhiều. Không phải là gươm giáo tù đày, nhưng là những độc dược vô hình, thấm nhiễm và hủy hoại từ từ đời sống thiêng liêng chúng ta.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Có khi nào tôi nhận định rõ ràng hai lối sống đạo: một đàng là bề ngoài, hời hợt; một đàng là nội tâm, cầu nguyện? Lối sống đạo thứ hai đã đưa tôi tới Thiên Chúa qua Đức Ki-tô như thế nào?

          Khi tham dự những cử hành Phụng vụ của Giáo Hội, tôi có nhận thức sự ưu việt của Đức Ki-tô không? Người bảo tôi phải "thờ phượng trong thần khí và sự thật" (Ga 4:24) nghĩa là gì?

          Trong mọi kinh nguyện, Phụng vụ..., lời kết thúc luôn là "Nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con." Tôi thấy lời kết này ý nghĩa như thế nào? Và tôi có thực sự sống tinh thần "nhờ Đức Ki-tô"để đến với Chúa Cha không?

          Tôi hiểu thế nào về vai trò Trung Gian của Chúa Giê-su? Gio-an 14:6 có tầm quan trọng nào đối với tôi?

          Những buổi chia sẻ và cầu nguyện của nhóm có thể hiện được góc cạnh nào của "thành đô Thiên Chúa hằng sống" không? Nếu chưa thì chúng tôi phải làm gì?
Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Xin hiệp nhất chúng con", Ca Nguyện Linh Thao, trang 178, hoặc "Lên Đền Thánh", CNLT 161.

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-------------------------------

 

TN 22-C72: CHÚA NHẬT 22 QUANH NĂM, C (2004)


(Lu-ca 14: 1.7-14)

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước nói với chúng ta về số phận của những người Do-thái không: TN 22-C72


          Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước nói với chúng ta về số phận của những người Do-thái không nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế và không đón lấy Tin Mừng Người rao giảng như cửa hẹp đưa đến phần rỗi đời đời.  Họ đóng tâm hồn lại trước lời mời gọi căn bản của Tin Mừng:  “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.”  Một trong những lý do của thái độ tiêu cực ấy chính là lòng kiêu căng tự phụ, cậy vào gốc gác là dân tuyển chọn của Thiên Chúa và con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp mà khinh miệt những dân tộc khác.  Chính Chúa Giê-su đã cảnh cáo họ:  “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, còn họ lại bị đuổi ra ngoài” (Lc 13:29,28b).  Lời cảnh cáo ấy được lập lại trong câu truyện Tin Mừng hôm nay và trong khung cảnh bữa tiệc do một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu khoản đãi Chúa.  Tuy nhiên lời cảnh cáo được trình bày khéo léo qua một dụ ngôn, nhấn mạnh đến thái độ cốt yếu để đón nhận Nước Thiên Chúa, đó là người ta phải có lòng khiêm nhường đích thực.

 a)  Từ bữa tiệc trần gian đến bữa tiệc Nước Trời   

          Chúa Giê-su thường được mời dự tiệc, do bạn hữu Người như tại nhà chị em ông La-da-rô hay tại tiệc cưới Ca-na, có khi do cả những người vẫn bị coi là kẻ thù của Người nữa như ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu trong trình thuật hôm nay.  Tiệc cưới đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong lời giảng của Chúa Giê-su.  Chúa Giê-su dùng hình ảnh tiệc cưới như một dụ ngôn để trình bày một bữa tiệc thiêng liêng, tức là việc Thiên Chúa khai mở thời đại cứu chuộc, bắt đầu bằng việc nhập thể của Con Một Người (Mt 22:1-14).  Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi, không riêng gì dân Ít-ra-en.  Đặc tính phổ quát của ơn cứu chuộc đã được ám chỉ ngay từ đầu khi thiên sứ cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa tại Bê-lem:  “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).

          Đến với nhân loại, Chúa Giê-su đã trở nên “bánh hằng sống từ trời xuống, để ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:51).  Trong bữa tiệc Nước Trời, Chúa Giê-su đã cống hiến cho ta cao lương mỹ vị là chính Lời của Người.  Nếu lương thực của Chúa Giê-su là thi hành ý và lời của Chúa Cha (Ga 4:34), thì lương thực của ta trong bữa tiệc Nước Trời cũng sẽ là thực hành những lời dạy của Chúa Giê-su.  Mời gọi ta lắng nghe và sống lời Người là điều Chúa lập đi lập lại nhiều lần.  Người còn dùng hình ảnh thực tế như xây nhà để ví với việc lắng nghe và sống lời Người.  Ai nghe và thực hành những điều Người dạy thì giống như người khôn xây nhà trên nền bằng đá, còn ai nghe mà không đem thực hành thì như người ngu xây nhà trên nền cát.

          Để dự tiệc hoặc để tiếp nhận Lời của Chúa Giê-su, ta không thể có thái độ tự mãn tự tôn.  Đó chính là điều nhiều người Do-thái thời Chúa Giê-su đã làm.  Họ tự tôn là họ có Lề Luật, có ông Mô-sê, đến độ không muốn tiếp nhận Lời Thiên Chúa nhập thể và Chúa Giê-su là Mô-sê Mới.  Bởi vậy, Chúa Giê-su mới nói dụ ngôn dự tiệc để nhấn mạnh chân lý mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en:  “Cái thấp được nâng cao, cái cao bị hạ thấp” (Ed 21:31).  Mục đích của dụ ngôn không phải để dạy ta mánh mung kiếm lấy vinh dự, nhưng chỉ để ta hiểu khiêm nhường là thái độ phải có để tiếp nhận giáo lý của Chúa Giê-su.

 b)  Mở lòng đón nhận Nước Trời với lòng khiêm nhường

          Khi ta cho mình là nhất và quan trọng thì mọi người khác và mọi sự khác sẽ là thứ yếu.  Khi trong ta chứa đầy cái tôi thì ta không thể đón nhận những gì của người khác.  Do đó, khi đề cập tới mức độ tiếp nhận Nước Trời, Chúa Giê-su đã gọi một em nhỏ tới, đặt em giữa các môn đệ và nói:  “Thầy bảo thật anh em:  nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.  Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18:3-4).  Trẻ em trong lòng không có gì cả nên dễ dàng tiếp nhận những gì người lớn dạy bảo.  Ở nhà trẻ em coi mẹ là trên hết.  Đến trường thì cô giáo là tất cả.  Mọi sự điều gì cũng là mẹ bảo thế, cô giáo nói như vậy.  Khiêm nhường của trẻ em thật là đáng yêu biết mấy.

          Chúa Giê-su biết ta khó mà tập sống khiêm nhường như vậy.  Cho nên Người nói với ta là những người coi mình trưởng thành và không cần nghe ai:  Anh em phải trở lại mà nên như trẻ em.  Cuộc hoán cải hoặc trở lại ấy đòi ta hằng ngày phải từ bỏ bản thân, lối suy nghĩ, cách xử thế theo người đời... để hoàn toàn chấp nhận những giá trị của Tin Mừng.  Trong lòng ta càng rỗng bao nhiêu thì ta càng chứa đựng Chúa và Lời của Người bấy nhiêu.  Càng đề cao thế giá của Lời Chúa thì ta càng dễ dàng chấp nhận những đòi hỏi của Lời ấy và để cho Lời ấy biến đổi con người mình.  Cá không ăn muối cá ươn.  Nếu ta không để cho Lời Chúa ướp mặn con người mình, những ô nhiễm của trần gian sẽ làm cho ta chóng ra hư thối.  Khiêm nhường là để cho thanh gươm hai lưỡi của Lời Chúa cắt tỉa, giúp ta nhìn thấy cả hai thực tại, thực tại Chúa là Đấng nào và thực tại ta là ai.

          Cuộc hoán cải trở nên như trẻ em cần phải được thực hiện tới mức độ đòi hỏi ta phải trả giá đắt.  Nếu đọc tiếp Tin Mừng thánh Lu-ca cho tới gần cuối chương 14, ta sẽ thấy Chúa Giê-su nói với những kẻ “cùng đi đường” với Người:  “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26).  Có lẽ thánh Lu-ca cho ta một viễn tượng đẹp đẽ về Nước Trời gồm những môn đệ tương lai của Chúa ở khắp nơi và mọi thời, đang cố gắng lắng nghe và sống Lời Chúa, để sau khi trở nên muối họ sẽ ướp trần gian này cho mặn lại.

 c)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.  Đó có phải là mệnh lệnh quan trọng nhất đối với tôi không?  Tại sao tôi vẫn phải tiếp tục hối cải (quay lưng lại tội lỗi và hướng mặt về Chúa) và đón nhận Tin Mừng?  Đây có phải là hai động tác của cùng một hành động không?  Tôi đã thực hiện điều này thế nào trong cuộc sống?

          Những trở ngại nào đặc biệt làm cho tôi khó lắng nghe và sống Tin Mừng?

          Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật, tôi có ý thức tầm quan trọng của bàn tiệc Lời Chúa cũng giống như bàn tiệc Thánh Thể không?  Tôi phải làm gì để chú ý nghe đọc Lời Chúa?  Mỗi tuần, tôi phải làm gì để rút ra một bài học thực hành từ Lời Chúa trong Thánh lễ?

 Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su,
          sống cho Chúa thật là điều khó.
          Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
          Chúa đòi con cho Chúa tất cả
          để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
          Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
          để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
          Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
          để cây đời con sinh thêm hoa trái.
          Chúa cương quyết chinh phục con
          cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
          Xin cho con dám ra khỏi mình,
          ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan,
          để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
          dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
          Ước gì con cảm nghiệm được rằng
          trước khi con tập sống cho Chúa
          và thuộc về Chúa,
          thì Chúa đã sống cho con
          và thuộc về con từ lâu.  A-men.”
                             (Trích RABBOUNI, lời nguyện 30)

 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-------------------------------

 

TN 22-C73. Hãy học với Chúa Giêsu mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng


Chúa Nhật 22 Thường Niên Năm C

 (Huấn ca 3,17-18.20.28-29; Thư Hipri 12,18-19.22-24a; Tin Mừng Luca 14,1.7-14)

 Phúc Âm: Luca 14,1.7-14

"Hãy ngồi chỗ cuối"

(1) Một ngày sa-bát kia, Ðức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này". Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho". Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

"Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó"

(12) Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại".

Suy Niệm:

 

Tuần lễ trước, Chúa đã dạy chúng ta phải đi qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. Và tác giả thư Hípri: TN 22-C73


Tuần lễ trước, Chúa đã dạy chúng ta phải đi qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. Và tác giả thư Hípri đã giúp chúng ta nhận thấy các thử thách và khó khăn xảy đến cho người tín hữu đang mở ra trước mắt họ con đường hẹp mời họ đi vào. Nhưng đó chỉ là một cách áp dụng, một khía cạnh của con đường hẹp. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một khía cạnh khác và một cách áp dụng mới. Chúa dạy chúng ta phải khiêm nhường. Thoạt nghe chúng ta có thể nghĩ đây là một giáo huấn đơn sơ; nhưng đọc kỹ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ thấy đó là bài học rất sâu xa. Chúa dùng lời nói và kiểu nói thông thường của loài người, nhưng lại muốn gợi đến những mầu nhiệm thâm thúy. Chúng ta hãy xin ơn soi sáng để hiểu ra ý Chúa.

 1. Hãy Ở Khiêm Hạ

Bài sách Huấn ca cho chúng ta những lời khuyên thực tế. Tác giả là Ben Sira, và vì thế tác phẩm của ông còn được gọi là Siracide. Chúng ta xét đến nội dung và nhất là công dụng của cuốn sách và đặt tên cho nó là Huấn ca, vì lẽ đặc biệt từ thời thánh Cyprianô nói thường được Giáo hội dùng để giáo huấn tân tòng (và vì thế trong tiếng Pháp nó còn được gọi là: Ecclesiastique, tức là sách để Giáo hội dùng để dạy dỗ). Nội dung của nói quả thật có giá trị huấn luyện.

Tác giả là một người Do Thái đạo đức, khả giả, và khôn ngoan ở thời Hy Lạp đô hộ, tức là vào khoảng năm 200 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Ông thấy văn minh Hy Lạp đang chi phối đời sống của dân Chúa. Triết lý Hy Lạp cũng đang len lỏi vào tâm tư của nhiều người. Ben Sira không bài ngoại nhưng cân nhắc. Ông suy nghĩ đắn đo. Ông thấy Lời Chúa vẫn trổi vượt. Làm sao để đồng bào của ông cũng thâm tín như vậy? Ben Sira mượn lối văn khôn ngoan, đi từ những kinh nghiệm thực tế, suy nghĩ theo lương tri và nhận ra ơn cứu độ chỉ có nơi Lời Chúa mạc khải. Ông viết các suy tư vụn vặt của ông ra giấy trắng mực đen, để dạy dỗ con cháu và môn sinh trung thành với Lời Chúa. Ông đem Lời Người vào thực tế, hòa hợp sự khôn ngoan triết học với chân lý mạc khải, làm ra quyển sách có giá trị này để dạy dỗ người đời.

Hôm nay trong đoạn sách vừa nghe, tác giả khuyên chúng ta hãy ở khiêm hạ. Các bản dịch không nhất trí với nhau về mọi từ ngữ; nhưng ý chính vẫn được tôn trọng. Ben Sira khuyên rằng: trong mọi sự, kể cả trong giàu có và lúc thế lực, chúng ta hãy ở khiêm hạ. Tư thế của ông cho phép ông khuyên như vậy mà không sợ bị phản đối: vì ông cũng là người giàu có và có thế lực. Kinh nghiệm cho ông thấy rằng cả khi có tiền có quyền, tốt hơn cứ ở khiêm hạ vì hai lẽ: vừa đẹp lòng người vừa đẹp lòng Chúa.

Người ta vẫn thích thái độ khiêm hạ, vì nó nói lên lòng kính trọng kẻ khác và ý chí nhẫn nhục không muốn đè bẹp một ai nhưng chờ đợi sự hiểu biết của mọi người. Nó gây được lòng thiện cảm của mọi người đang khi vẫn làm cho mọi người thấy khả năng đích thực của người có thế lực. Người có khả năng càng nhiều khiêm hạ bao nhiêu càng dễ thành công bấy nhiêu vì khả năng của họ chinh phục được cả lòng người nữa. Còn đối với Thiên Chúa, thái độ khiêm hạ của con người là cớ để Chúa càng mở rộng lòng rộng rãi đối với họ. Người thấy họ bé nhỏ trước mặt mình, nên Người càng thương và càng muốn ban ơn. Chính vì vậy mà tiên tri Sôphônia đã nhìn thấy Dân Chúa sau này gồm toàn những người khiêm hạ, tức là những người khó nghèo được đầy ơn vì họ biết mình hèn hạ ở trước mặt Chúa nên được Người đổ đầy ơn Cứu độ (3,12). Chúng ta ngày nay còn hiểu rõ giá trị của thái độ khiêm hạ này hơn nữa vì chính Ðức Giêsu đã dạy: Hãy học với Ta mà ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,28-30).

Thế là từ một nhận xét theo kinh nghiệm thấy rằng con người cư xử khiêm hạ luôn luôn được mọi người chấp nhận, tác giả sách Huấn ca tìm thấy giá trị sâu xa của thái độ ấy nằm trong Lời Chúa, và mạc khải của Người. Chính Người muốn huấn luyện dân được tuyển chọn nên những con người hiền lành và khiêm nhường để được chấp nhận trong thời kỳ cứu độ. Viễn tượng này làm cho lời khuyên khiêm hạ của tác giả có giá trị bất khả kháng vì hết mọi con cái Israen thời bấy giờ không sợ gì hơn bị loại khỏi những con số được cứu vớt.

Tuy nhiên tác giả còn muốn triển khai thêm. Ông cho thấy nết xấu ngược lại, tức là tính kiêu ngạo là một thứ bệnh nan trị. Nó là thứ cây xấu đã đâm rễ từ trong lòng người ta, thì hành vi ngôn ngữ hết thảy của họ đều xấu xa tội lỗi. Ông có thể đã nghĩ đến thái độ của Pharaô kiêu căng cố chấp nên đã đi từ thảm hại này đến thẩm hại khác. Có lẽ ông cũng đã nghĩ nhiều hơn đến thái độ của dân Do Thái trong suốt lịch sử cứng đầu cứng cổ và lòng dạ chai đá đối với Lời Chúa. Ông nghĩ rằng con người có tư cách, sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng lãnh được Lời Hứa của Người phải là kẻ khôn ngoan có thái độ môn sinh, biết nhận xét thực tại nhưng nhất là biết lắng nghe Lời. Hai thái độ này làm cho người ta biết sống và đạo đức. Người ta phải học hỏi và quan sát thực tế, nhưng nhất là phải để Lời Chúa hướng dẫn tâm tư. Một con người như vậy sẽ đẹp lòng Chúa và không sợ sai lầm. Họ là người khôn của Nước Trời, vượt xa sự khôn ngoan của thế gian.

Lời của Ben Sira đã đem đạo vào đời. Quan niệm và tư tưởng của ông còn rất mới. Tuy nhiên chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu còn dạy dỗ cụ thể và sâu xa hơn nữa, làm chứng Tân Ước sẽ kiện toàn Cựu Ước.

 2. Hãy Hạ Mình Xuống

Theo thánh Luca, hôm ấy là ngày Sabát; người ta vừa đi lễ vừa nghỉ ngơi. Các gia đình ăn uống khá hơn ngày thường. Và người ta dễ mở tiệc đãi khác, vậy, một đầu mục Biệt phái mời Ðức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông. Có lẽ ông cũng chẳng có thịnh tình đặc biệt gì đối với Người. Nhiều người Biệt phái khác cũng đã mời Người dùng bữa (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Họ đều muốn dò xét xem Người là con người thế nào. Nên có nhiều Biệt phái và Luật sĩ cũng được mời đến ăn để tiếp chuyện Người.

Theo thông lệ, khi mời các bậc "thầy" đến dùng bữa, người ta muốn nghe biết đạo lý của các Ngài. Ðức Giêsu vẫn được tôn là "Thầy", nên hôm nay trăm mắt cũng đổ dồn vào Người để đón nghe lời đạo lý. Nói đúng ra, hôm nay đã có cớ để Ðức Giêsu mở miệng phát biểu. Có một người mắc bệnh thủy thủng đứng trước mặt Người. Người hỏi các Luật sĩ và Biệt phái: có được chữa bệnh ngày hưu lễ không? Họ không muốn trả lời. Nhưng Người đã cho người kia được khỏi bệnh, để làm chứng - hay nói đúng hơn, để gợi lên ý tưởng - Người là Ðấng Cứu Thế đã đến ở giữa họ. Người muốn chữa lành tâm tư tội lỗi của mọi người.

Thế nên thấy Luật sĩ và Biệt phái luôn chọn chỗ nhất, chỗ cao nơi bàn ăn cũng như nơi hội đường, Ðức Giêsu nhớ đến những câu trong bộ sách Khôn ngoan, đặc biệt mấy lời trong sách Huấn ca và Châm ngôn nói rằng: Ông lớn mời con, con hãy ở xa, để ông càng xích lại mời (Hc 13,9); Con đừng xin địa vị cao sang với Vua Chúa (7,4); Trước mặt vua, con chớ nên vênh váo và đừng ngồi vào chỗ của kẻ quyền cao; bởi, được người ta nói: "xin mời lên đây" thì tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt vương công (Cn 25,6-7). Ít ra những lời Ðức Giêsu nói với Biệt phái và Luật sĩ hôm nay đã phản ánh và làm dội lại lập trường khôn ngoan được ghi trong Sách thánh. Người ta có thể thấy Người cũng có lập trường chính thống và họ không thể phản đối Người. Hơn nữa Người đã nhắc lại cho người ta và cho những người "kiêu ngạo nhất" giáo lý của sách Huấn ca dạy mọi người hãy ở khiêm hạ. Và Người đã áp dụng giáo lý ấy vào một trường hợp cụ thể và cho những con người cụ thể.

Chúng ta có thể hỏi: Không biết các Luật sĩ và Biệt phái có khó chịu khi nghe những lời như vậy không? Nhưng rõ ràng Ðức Giêsu đã muốn dùng lối văn gián tiếp, kiểu văn khôn ngoan của thời đại; nên họ có khó chịu cũng không đến nỗi nào.

Người cũng dùng một kiểu nói như vậy để hướng về phía chủ nhà đã mời Người. Ông ta cũng muốn được nghe một lời nào cho riêng mình, theo như tâm lý của mọi người khi mời một bậc thầy đến dùng bữa để được nghe lời khôn ngoan. Người dạy: "khi nào thết tiệc, ngươi hãy mời những kẻ ăn mày, tàn tật, què quặt, đui mù; và ngươi sẽ có phúc, vì họ không có gì báo đền ngươi lại. Bởi chưng ngươi sẽ được báo đền khi kẻ lành sống lại".

Ðây cũng còn là những điều dạy trong luật pháp, nhưng hoặc không rõ, hoặc bị quên lãng. Ðức Giêsu đã triển khai giáo huấn của sách Thứ luật nói rằng "Cuối mỗi ba năm, ngươi sẽ đem ra tất cả thập phân về hoa lợi của ngươi năm ấy và ngươi sẽ cất lại trong cổng thành ngươi; để Lêvi, người không có phần hay cơ nghiệp chung với ngươi, và khách cư ngụ, cùng mồ côi quả phụ ở trong cổng thành ngươi sẽ đến; họ sẽ ăn và được no nê; ngõ hầu Thiên Chúa của ngươi chúc phúc cho ngươi trong mọi công việc ngươi làm" (14,28). Ðiều mà luật pháp dạy làm cứ mỗi ba năm Ðức Giêsu nói hãy làm bất cứ lúc nào. Và khi luật pháp bảo cứ để sẵn đó cho người ta đến dùng, Ðức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại; cuối cùng luật pháp hứa cho người ta được đền bù ở đời này, Ðức Giêsu nói sẽ được báo đáp ở đời sau. Ðức Giêsu đã chẳng lặp lại ý nguyên luật pháp; Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức thiêng liêng hơn.

Nhưng như vậy chúng ta chỉ mới nhìn sự việc đúng lúc xảy ra trong cuộc đời của Ðức Giêsu khi Người còn tại thế. Thánh Luca khi viết lại bài Tin Mừng hôm nay đã có một kinh nghiệm mới hơn. Người đang sống trong Hội Thánh mà vẫn nhìn thấy Hội Thánh cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta sẽ không hiểu hết ý của Người nếu dừng câu chuyện lại ở thời Ðức Giêsu. Qua câu chuyện ấy, chúng ta còn phải đón nhận giáo huấn của thánh Luca về bàn tiệc Thánh Thể và Hội Thánh.

Khi mở đầu bữa ăn bằng việc chữa lành một người bị thủy thủng, Ðức Giêsu không muốn bữa ăn Người dự nên bữa tiệc cánh chung và cứu thế hay sao? Thiên Chúa, trong ngày cứu độ, sẽ chữa lành mọi tật bệnh và tội lỗi của loài người và đưa họ vào tiệc cưới muôn đời của Người. Nếu thế thì không thể có những người kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn ở bàn tiệc này, nhưng khi thay vào chỗ của họ là những kẻ khó nghèo, tàn tật, què quặt, đui mù.

Thế nên những người đã được đưa vào bàn tiệc như vậy vừa phải có tinh thần khiêm hạ, vừa phải có lòng quảng đại vô vị lợi. Chỉ khi nào như vậy, các bàn tiệc Thánh Thể mới diễn tả được bữa ăn tiệc ly của Chúa. Ngày dùng bữa tiệc ấy, Người đã hạ mình như thế nào để rửa chân cho môn đệ và Người đã trao ban rộng rãi vô vị lợi làm sao khi phó nộp thân thể mình làm của ăn và của uống!

Suy nghĩ như vậy, các bài Kinh Thánh chúng ta vừa đọc mới thật sự ý nghĩa; và mới giúp chúng ta đi sang bài thư Hípri.

 3. Hãy Tiến Lại Gần

Tác giả đang nói những lời "an ủi". Người so sánh số phận dân cũ và dân mới. Tôn giáo thời nào cũng đưa người ta đến gần Thượng đế. Nhưng ngày xưa ở núi Sinai, dân Cựu Ước đã tiến lại gần núi thánh mà rụng rời. Quang cảnh trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng làm cho con cái Israen phải xin với Môsê làm sao để Thiên Chúa đừng nói thẳng với họ kẻo họ chết hết. Xin Người cứ dùng ông mà mạc khải tôn ý. Ðạo cũ vì thế không thể thoải mái được. Ðó là giai đoạn còn luyện lọc thanh tẩy.

Nhưng đạo mới không còn như vậy nữa. Tất cả đã thay đổi. Chúng ta ngày nay đã được tiến lại gần núi Sion và Giêrusalem thiên đài, tức là đã được đưa sang một thế giới khác, thế giới thiêng liêng của Thiên Chúa hằng sống. Các yếu tố thiên nhiên vật chất như lửa, mây, sấm, chớp không còn nữa. Người tín hữu lúc này được bao vây toàn bằng những thực tại thiêng liêng: nào là cộng đoàn những trưởng tử đã được đăng ký trên trời, tức là cộng đoàn các tín hữu đã được ghi danh vào sổ hằng sống, nào là vạn vạn thiên thần trong ngày đại hội. Nhất là người theo đạo mới đã được tiến lại gần ngai ân sủng là chính Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người nhưng vô cùng khoan dung rộng rãi với con cái, nhờ Ðấng trung gian mới là Ðức Giêsu đã đổ máu rửa sạch tội lỗi chúng ta.

Ðó là thế giới đức tin của người tín hữu. Họ đã được đưa vào từ ngày chịu phép Thánh Tẩy; và ngày nay mỗi khi đến gần bàn thờ để cầu nguyện và cử hành Thánh Thể họ lại được đưa vào thế giới thiêng liêng cao cả ấy. Thân phận của họ như vậy thì các chỗ ngồi và ngôi thứ ở trần gian này còn đáng quan tâm nữa không? Nói đúng hơn, ơn Chúa đã đưa con người vào thế giới thiêng liêng tốt đẹp như vậy để họ thấy phải đem thực hiện tương tự như thế trong đời sống trần gian. Nơi đó con người được hòa đồng với mọi người trong tình bác ái tốt đẹp và quảng đại, thì họ cũng phải thi hành những tinh thần ấy khi sống trong xã hội với mọi người.

Nếu những điều kiện chúng ta vừa nói trên đây là đúng, thì chúng ta hãy nghĩ đến công việc chúng ta đang làm. Chúng ta đang ở gần bàn thờ. Chúng ta sắp hiệp thông trong thánh lễ. Ðây không phải là bàn tiệc Nước Trời sao? Ở đây không được có óc biệt phái, nhưng phải hòa hợp.

Hơn nữa, phải xem gương Ðức Giêsu hạ mình và xả thân rất quảng đại. Chúng ta có thể nào dự lễ sốt sắng rồi về nhà lại sống phân biệt ích kỷ? Các bài Kinh Thánh hôm nay đưa chúng ta vào thánh lễ, thì thánh lễ phải đưa chúng ta vào đời sống, để tinh thần khiêm hạ, xả kỷ không phải chỉ là lời khuyên nhưng trở thành nếp sống đạo mới của chúng ta theo gương Ðức Giêsu, Ðấng đã dạy chúng ta hãy học với Người mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng; và đã mở cửa Nước Trời và bàn tiệc Nước Trời nguyên cho những người như vậy.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

-------------------------------

 

TN 22-C74. HẠ MÌNH ĐƯỢC NÂNG CAO, TỰ CAO SẼ BỊ HẠ XUỐNG


CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 14, 1.7-14

 

Ý lực của Chúa Nhật XXII tường niên, năm C cho chúng ta thấy cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu: TN 22-C74


Ý lực của Chúa Nhật XXII tường niên, năm C cho chúng ta thấy cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu giảng dạy:” Tự cao và khiêm nhượng “. Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án những người Pharisêu, những bậc thông thái, những nhà lãnh đạo tôn giáo giả hình, tự cao, tự mãn, hống hách và luôn đề cao những kẻ khiệm hạ, từ tốn…” Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “ ( Lc 14, 11 ).

Đọc những trang Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi bỡ ngỡ và ngạc nhiên. Bỡ ngỡ và ngạc nhiên khi thấy cái thói rởm của những người Pharisêu: họ nới rộng thẻ kinh, kéo dài tua áo. Đi đâu họ cũng muốn ngồi chỗ nhất và muốn cho mọi người gọi họ là thầy. Hãy xem thái độ của người Pharisêu cầu nguyện trong Đền thờ…Tất cả đều là tự khoe, kể công và hãnh diện tự kiêu tự đại trước mặt người khác. Chúa đã từng ca tụng Thiên Chúa Cha:” Lạy Cha là Chúa Trời Đất, Con xin ca tụng Danh Cha vì Cha đã mặc khải những điều đó, mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” Những kẻ bé mọn là những kẻ khiêm nhượng. Chúa yêu thương những kẻ bé mọn, những kẻ khiêm nhượng, tự hạ. Ngài luôn lên án gắt gao những Pharisêu, những kẻ giả nhân giả nghĩa, những kẻ tự tôn tôn. Ngài không những yêu thương những kẻ khiêm nhượng, tự hạ mà còn làm gương cho mọi người. Ngài là Thiên Chúa nhưng đã không đòi ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã tự hủy mình ra không, sống kiếp phàm nhân ngoại trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-11). Chúa là vị Chúa, là Thầy mà lại quì xuống rửa chân cho các môn đệ, các đầy tớ của mình. Chúa đã tự hạ không phải để được ca tụng, khen ngợi mà để yêu thương và phục vụ. Sự khiêm hạ của Chúa là cái chết cứu độ, cái chết yêu thương trên thập giá. Khiêm nhượng là hy sinh, là trao ban như thánh Gioan đã viết:” Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người “ ( Ga 3, 16 ). Đây là sự trao ban vô vị lợi, sự trao ban nhưng không và tự hạ tột đỉnh. Chúa dạy hãy trao ban, hãy khoản đãi tiệc vô vị lợi, không biệt giầu nghèo bởi vì có yêu thương vô vị lợi người ta mới “ đãi tiệc những kẻ khó nghèo, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại người khác “. Đây đúng là bữa tiệc Nước Trời mà Chúa Giêsu khoản đãi. Ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại là ơn cứu độ phổ quát không dành riêng cho bất cứ dân tộc nào, người nào nhưng Chúa luôn đòi con người dự tiệc phải mặc áo cưới, đó là sự sám hối trở về thật tình, đó là sự đáp trả một chút tình thương của Chúa.  Chúa luôn yêu thương những người nghèo hèn, khiêm nhượng và thấp cổ bé họng. Điều này chúng ta nhận thấy rằng chính sự khiêm hạ, tự tốn luôn được Chúa yêu thương và đề cao đến nỗi trong Kinh Nguyện Thánh Thể thứ hai, vị chủ tế đã thay mặt mọi người thân thưa với Thiên Chúa:” Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài “.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được bữa tiệc lớn lao Chúa mời gọi chúng con là bữa tiệc trên Nước Trời ( Kh 19 ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

-------------------------------

 

TN 22-C75. LÀM  LỚN


CHÚA NHẬT XXII, THƯỜNG NIÊN, NĂM C

(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)

 

Chúa nhật hôm nay nói đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Khiêm tốn là sống đúng theo: TN 22-C75


Chúa nhật hôm nay nói đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Khiêm tốn là sống đúng theo con người trung thực của mình và biết tôn trọng mọi người, dù giầu sang hay nghèo khó, dù ở địa vị nào trong xã hội.

Bài đọc I (Sách Huấn Ca  3:19-21,30-31): Khi chúng ta hạ mình xuống để phục vụ thì sẽ làm  đẹp lòng Chúa: “Càng làm lớn còn càng phải hạ mình trong mọi sự, và đó là điều đẹp lòng Chúa” và cũng được mọi người yêu qúy. Bài Đọc II (Thơ Do Thái 12:18-19,22-24): Cuộc hành trình Đức Tin của chúng ta là để đi về quê hương thật của chúng ta,  và đến với Chúa là Cha chúng ta, cùng muôn vạn Thiên Thần và các Thánh trên trời. Đó là cùng đích cuộc đời sống đạo của chúng ta. Bài Phúc Âm (Luca 14:1,7-14): Chúa Giêsu kể Dụ Ngôn “Tiệc Cưới” để dậy chúng ta bài học khiêm nhường: “Ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống…”Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy lo phục vụ những người “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” hơn là lo lấy lòng những người quyền quý. Vì Nước Trời dành cho những ai biết khiêm tốn phục vụ vô vị lợi những người  cùng khốn trong xã hội.

Tội kiêu ngạo được kể như tội đứng đầu trong “Bẩy Mối Tội Đầu.”  Tổ tông loài người đã phạm tội vì kiêu ngạo “Muốn nên bằng Đức Chúa Trời!” (Sách Khởi Nguyên 3:1-7). Tính tự cao tự đại luôn tiềm ẩn nơi mọi người chúng ta. Ai cũng muốn là một “Ông Vua,” muốn đưa mình lên trên người khác, “Cái Tôi” là nhất và coi thường kẻ khác. Càng ở địa vị cao, chúng ta càng dễ tự cao tự đại, coi mình hơn người khác, khinh dể mọi người. Vì thế mà trong Bài đọc I hôm nay, Sách Đức Huấn Ca đã cảnh tỉnh chúng ta “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình xuống trong mọi sự, thì con sẽ làm đẹp lòng Chúa…”

Chính Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Ăn Tình Thương, đã cúi xuống rửa chân cho các Tông Đồ (Gioan 13:4-14) để dạy các Tông Đồ và mọi người chúng ta bài học khiêm tốn phục vụ: “Như Thầy đã nêu gương cho anh em, anh em cũng hãy làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Gioan 13:15).

Mẹ Maria khi được Sứ Thần truyền tin, được diễm phúc vô cùng cao cả là Mẹ Đấng Cứu Thế, nhưng Mẹ đã thưa lại với Sứ thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền!” (Luca 1:26- 38), và suốt đời Mẹ luôn sống âm thầm, nghèo khó tại ngôi làng quê Nagiaret cùng với Thánh Giuse, người thợ mộc nghèo khó. Khi Đức Mẹ đến thăm bà Elisabeth và được Bà Elisabeth chúc tụng “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ…” (Luca 1:42-45), Mẹ đã khiêm tốn quy hướng tất cả về Chúa trong Bài ca  “Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa …” (Luca 1:46-55).

Thánh Giuse được diễm phúc làm Cha nuôi Đấng Cứu thế, nhưng suốt đời Ngài cũng sống âm thầm, khiêm tốn và vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và đã chết trong thầm lặng.

Thánh Gioan Baotixita khi được dân chúng kéo đến rất đông để nghe Ngài giảng và ban phép rửa thống hối, Ngài đã không tự đưa mình lên, nhưng Ngài đã thẳng thắn nói với dân chúng: “Tôi chỉ ban phép rửa bằng nước, nhưng Đấng quyền thế hơn tôi đang đến. Tôi không xứng đáng cởi dép cho Người!” (Luca 3:16).

Khi Thánh Phêrô chữa một người què, dân chúng kéo đến và cho là do quyền năng của Ngài mà chữa được người què. Nhưng Ngài đã phải cải chính ngay “đó là do quyền năng của Thiên Chúa…”(Công Vụ 3:1-16).

Thánh Phaolô, vị Tông Đồ đã hy sinh cả cuộc đời bôn ba khắp nơi để xây dựng và phát triển Giáo Hội Chúa lúc ban đầu, nhưng Ngài luôn khiêm tốn coi mình là kẻ “sinh non,” là kẻ đã “bách hại Đạo Thánh Chúa lúc ban đầu,” và tự nhận mình yếu đuối, mỏng dòn như chiếc “bình sành” (2Côrintô 4:7...)

Đức Giáo Hoàng là người được Chúa chọn để kế vị Thánh Phêrô, làm vị Đại diện Chúa ở trần gian, làm đầu Giáo Hội; địa vị thật cao trọng và được biết bao tín hữu tôn kính , nhưng luôn xưng mình là “Tôi tớ của các tôi tớ.” (Servus Servorum).

Cuộc đời âm thầm của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh đều dạy chúng ta bài học khiêm tốn phục vụ mọi người.

Tính kiêu ngạo gây ra tị hiềm, tranh chấp, nói hành nói xấu và chia rẽ, thù hằn. Trái lại lòng khiêm tốn , biết tôn trọng người khác, là nền tảng để xây dựng Hòa Bình trong xã hội. Ngay trong gia đình, tội kiêu ngạo cũng gây ra bao bất hòa , tranh chấp giữa vợ chồng và nhiều khi đưa đến ly tán. Trái lại nếu biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, vợ chồng cùng khiêm tốn tôn trọng lẫn nhau và yêu thương phục vụ con cái thì cuộc sống gia đình thật hạnh phúc biết bao đúng như câu nói “Mái Ấm Gia Đình.”

Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, chúc lành cho mọi người chúng ta, gia đình chúng ta, và giúp chúng ta luôn biết sống khiêm tốn, yêu thương và phục vụ lẫn nhau, nhất là phục vụ những người nghèo khó, bịnh tật, những người cần sự giúp đỡ của chúng ta.

-------------------------------

 

TN 22-C76. Đặt Mình Nơi Chỗ Cuối


Chúa Nhật XXII Thường Niên C

Lc 14:1.7-14: 1 Ngài vào nhà một đầu mục Biệt phái ngày Hưu lễ để dùng bữa; và họ rình xét Ngài. 2 Và này: có một người mắc bệnh thủy thũng trước mặt Ngài. 3 Ðức Yêsu lên tiếng nói cùng luật sĩ và Biệt phái rằng: "Ngày Hưu lễ được phép chữa hay không?" 4 Nhưng họ cứ im lìm, Ngài nắm lấy người ấy mà chữa lành, đoạn cho lui về. 5 Rồi Ngài nói cùng họ: "Ai trong các Ông có đứa con hay bò vật sa xuống giếng, mà lập tức lại không kéo nó lên sao, trong ngày Hưu lễ?" 6 Với lời lẽ đó, họ đã không thể đáp lại gì được.

7 Ngài nói cùng khách dự tiệc một ví dụ, vì thấy họ háo hức chọn cỗ nhất. Ngài nói cùng họ: 8 "Khi ngươi được ai mời vào tiệc cưới, ngươi chớ đặt mình ngay cỗ nhất, kẽo lỡ có người thế giá hơn ngươi đã được người ấy mời, 9 khiến kẻ mời ngươi và người ấy, phải đến bảo ngươi: "Xin nhường chỗ cho ông này" và bấy giờ ngươi phải xấu hổ mà tuột xuống chỗ cuối. 10 Nhưng khi được mời, ngươi hãy đi đặt mình nơi chỗ cuối, để khi kẻ mời ngươi đến nói với ngươi: "Ông bạn! xin tiến lên chỗ cao hơn!" Bấy giờ ngươi sẽ được danh giá trước mặt mọi người đồng bàn với ngươi. 11 Vì phàm kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên".

12 Còn với kẻ đã mời Ngài, Ngài nói: "Khi ngươi dọn điểm tâm hay bữa tiệc, thì đừng cứ mời bạn bè ngươi, anh em, thân thuộc ngươi, hay láng giềng giàu có, kẻo họ sẽ mời đáp lễ ngươi, thành thử ngươi được báo đền. 13 Nhưng khi nào thết tiệc, ngươi hãy mời những kẻ ăn mày, tàn tật, què quặt, đui mù; 14 và ngươi sẽ có phúc! vì họ không có gì báo đền ngươi lại. Bởi chưng ngươi sẽ được báo đền khi kẻ lành sống lại".

 

Sang chương 14, bối cảnh chung là bữa ăn (14: 1.7.12.15). Mở đầu là bữa ăn trong nhà một người: TN 22-C76


Sang chương 14, bối cảnh chung là bữa ăn (14: 1.7.12.15). Mở đầu là bữa ăn trong nhà một người Pharisêô (c. 1); sau cùng là bữa tiệc trong Nước của Thiên Chúa (c.15). Trong đoạn trước Chúa Giêsu mời gọi vào cửa hẹp để có thể vào dự tiệc Nước Trời (x. 13:22-30). Trong đoạn nầy, Người dạy cách sống trong khung cảnh một bữa tiệc: cho người được mời (14:7-11), và người đãi tiệc (14:12-14). Những điều nói trong đoạn nầy sẽ được minh họa thêm bằng một dụ ngôn trong đoạn tiếp theo (14:15-24). Thấy có một nguy hiểm là người ta thường ham muốn những chỗ vinh dự, và mở tiệc tùng như một cách thế tạo tương quan có lợi cho bản thân, Luca trình bày giáo huấn của Chúa Giêsu về sự khiêm tốn và quảng đại cách nhưng không. Sự liên hệ giữa hai phân đoạn nầy được xác định bởi bối cảnh chung, cấu trúc tương tự, từ vựng lập lại và chủ đề liên kết với nhau. Tìm chỗ nhất là muốn nâng mình lên trước mặt mọi người. Và mở tiệc để có lợi cho bản thân là ích kỷ. Trong cả hai trường hợp, người dự tiệc cũng như người đãi tiệc đều nhắm lợi ích cho bản thân hơn là cho người khác. Đoạn tin mừng nầy có thể phân thành hai đoạn song song: 14:7-11 và 14:12-14. Bối cảnh chung của đoạn là bữa ăn tại nhà người Pharisêô mà Chúa Giêsu được mời (c. 1).

Đoạn 14:7-11. Bố cục: - Bối cảnh riêng: thấy những người tìm kiếm những chỗ nhất (c. 7); - Điều không nên làm (cc. 8-9); Điều phải làm (c. 10); Kết luận: quy luật đảo ngược của Thiên Chúa (c. 11).

Tìm kiếm những chỗ nhất giữa công chúng là cám dỗ chung của con người. Chúa Giêsu phê bình những người Pharisêô “chuộng những chỗ nhất, protôkathedria, nơi hội đường” (11:43). Các môn đệ của Người cũng rơi vào cám dỗ nầy. Chúa Giêsu phê bình họ khi họ tranh luận với nhau để dành chỗ lớn nhất giữa họ (9:46-48). Người ngăn dạy các môn đệ Người không được sống theo cách ấy (20:46). Ở đây Người dạy họ phải chọn vị trí nào.

Điều Người nói kể như một dụ ngôn (c. 7). ”Dụ ngôn” ở đây không hiểu theo nghĩa thông thường. Nó chỉ một thí dụ minh họa cho một giáo huấn, và đồng hóa với quy luật tổng quát có tính cách khuyến dụ trong câu kết luận. Thí dụ đây là cách thức chọn chỗ, và quy luật tổng quát là “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (c. 12). Hơn nữa, gọi là “dụ ngôn” vì quy luật nầy phải hiểu cách ẩn dụ (x. 5:36, 13:6, 18:2). Chúa Giêsu quan sát không chỉ sự kiện, mà cả cách thức chọn chỗ. Động từ “chọn”, ở thì quá khứ bất hoàn thành (imperfect) chỉ sự kéo dài, cho thấy người chọn chỗ trong bữa tiệc đang đề cập đến mất nhiều thời gian làm chuyện đó. Và “như thế nào”, pôs, chỉ cách thức chọn lựa.

Giáo huấn của Chúa Giêsu trong cả hai phân đoạn được trình bày như sau: - không làm… (c. 8.12b); - giải thích (c. 9.12c); - nhưng hãy làm… (c. 10.13). Giáo huấn Người đưa ra về việc chọn chỗ đặt trong bối cảnh “tiệc cưới” (cc. 8-10), vì “tiệc cưới” thường được tổ chức long trọng, công khai và có khách thuộc nhiều tầng lớp tham dự. “Tiệc cưới” nầy cũng là tiêu biểu cho tiệc Nước Trời (x. 14:15). Có thể trong tiệc cưới nầy, người ta được tự do chọn lựa chỗ cho mình. Chủ nhà không cắt đặt chỗ cho họ.

 “Chỗ” là những từ quan trọng trong đoạn nầy (14:7.8.9[2x].10). Đó không chỉ là một không gian nơi người ta chiếm, mà theo nghĩa bóng còn chỉ một địa vị và vinh dự. Tuy nhiên, “chỗ” không làm cho con người vinh dự. Hai trường hợp được đưa ra trong dụ ngôn đều là trường hợp của những người ngồi sai chỗ. Người ngồi cao hơn chỗ mình đáng được, sẽ bị mời xuống chỗ thấp hơn. Xấu hổ đến. “Xấu hổ” ở đây là cảm thấy mình bị người ta hạ thấp hoặc coi thường (c. 9). Ngược lại, người thấp hơn chỗ mình phải ngồi, sẽ được mời lên chỗ cao hơn. Vinh dự, doxa, đến (c. 10). Như thế, vinh dự của một người trong bữa tiệc không phải do sự tự ý chọn lựa chỗ của khách được mời, mà là do sự sắp xếp và đánh giá của người đãi tiệc. Sự khôn ngoan đời thường nầy đã được sách Châm ngôn nói đến “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25:6tt). Doxa “vinh dự”, “vinh quang” là từ dùng chuyên nhất cho Thiên Chúa khi nói đến vinh quang của Người (2:9.14.32; 17:18; 19:38), và cho Chúa Giêsu, chỉ vinh quang của Người sau khi sống lại (9:26.31.32; 21:27; 24:26). Như thế, doxa ở đây cũng chính là lời hứa “phúc thật” sẽ được thực hiện trong ngày người công chính sống lại (c. 14).

Kết luận phân đoạn nầy Chúa Giêsu đưa ra một quy luật của Thiên Chúa ngược với đời thường (c. 11); tương tự ở kết luận của đoạn nói về cửa hẹp (13:30). Người chọn cho mình chỗ cao nhất là người tự nâng mình lên; ngược lại là người hạ mình xuống ở chỗ thấp nhất. Việc xác định “chỗ” đúng cho mỗi người là của Thiên Chúa. Cả hai động từ “hạ xuống” và “nâng lên” đều ở thể thụ động, có Thiên Chúa là tác nhân của hành động (x. 1:48-50, 51-52; 13:30). Vậy, Chúa Giêsu dạy phải đặt mình khiêm tốn trước mặt Người (16:15; 18:14).

Diễn từ của đoạn trên ngỏ với khách dự tiệc (c. 7), đoạn nầy nói với chủ tiệc. Đoạn 14:12:14. Bố cục: - Bối cảnh riêng: dọn bữa ăn (c. 12a); - Điều không phải làm (cc. 12b); - Điều phải làm (c. 13); - Kết luận: Mối phúc (c. 14).

Bữa ăn ở đây là “bữa trưa”, ariston (11:38) và “bữa tối”, deipnon (c. 12a; 14:12.16.17.24; 20:46) và “bữa tiếp đãi”, dochç (c. 13; 5:29). Ba từ vựng chỉ ba hình loại bữa ăn khác nhau. Điều nầy ngụ ý là những điều Chúa Giêsu sắp nói sẽ áp dụng cho mọi bữa ăn dọn cho người khác. Động từ “kêu”, phônç, có thể thời ấy người ta mời bằng miệng: “gọi đến” dự tiệc. Mệnh lệnh “đừng gọi” ở thì hiện tại có nghĩa “thông thường đừng gọi”. Nhóm bốn thứ nhất gồm những người thân thuộc và giàu có: bạn bè - anh em - bà con - láng giềng giàu có cấm không được mời (c. 12c). Nhóm bốn thứ hai tương phản với nhóm trước gồm những người nghèo - tàn tật - què quặt - đui mù được khuyên là nên mời (c. 13; x. 7:22; 14:13.21).

Lý do duy nhất không mời nhóm thứ nhất là vì họ có thể “đáp trả lại”, antapodoma (c. 12c) “cho lại” anapodidômi (c. 14 [2x]; x. 6:24; 16:19); trong khi những người thuộc nhóm hai không làm được gì cả! Người nghèo không có tiền bạc. Những người tật nguyền không có ngay cả sức khỏe. Họ thuộc tầng lớp bên lề xã hội và bị loại khỏi những người tham dự lễ tế (Lv 21:17-23). Nguyên tắc không tính chuyện qua lại khi làm một điều gì đó cho người khác đã được Chúa Giêsu đề cập đến. Nếu làm cho người có khả năng đáp trả lại là hành động bởi một động lực ích kỷ; do đó, hành động như một người tội lỗi (6:32-33). Trái lại, nếu cho những người nghèo một dĩa (x. 11:41), mời họ một “bữa tiếp đãi”, chứ không chỉ là bố thí (18:22), là đã hành động theo cách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đặt nhóm nầy ưu tiên trong sứ mạng của Người (4:18; 7:22). Và Người loan báo họ sẽ là thành phần chính yếu dự tiệc Nước Thiên Chúa (x. 14:21).

Mối phúc ở thì tương lai “Anh sẽ có phúc”, vì hướng đến ngày “sống lại của người công chính” (c.14). Trong vế đầu mối phúc có tính cách tương phản: “Anh sẽ có phúc” vì “hiện nay không có gì để trả lại cho anh”. Trong vế sau, như hệ quả “thành thử, gar, anh sẽ được cho lại trong ngày sống lại của người công chính” (x. Cv 24:15). Vậy, phần thưởng của họ chỉ đặt vào Thiên Chúa (6:35).

Ai biết chọn chỗ thấp nhất thì cũng biết quan tâm đến những người thấp nhất giữa con người. Chỗ thấp nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chọn. Tuy nhiên khi đến trần gian ngay cả chỗ thấp nhất Người cũng không có, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng (2:7; Phil 2:6-7). Bởi đó Thiên Chúa đã tôn vinh Người và đặt Người ở chỗ cao trọng nhất là “bên tay hữu Thiên Chúa” (Cv 2:33; 5:31).

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

-------------------------------

 

TN 22-C77. Chúa Nhật 22 Thường Niên


Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng   (Lu-ca 14:1.7-14)

 

Thật là nực cười câu chuyện xảy ra tại nhà người Pha-ri-sêu!  Chúa Giê-su được một thủ lãnh nhóm: TN 22-C77


          Thật là nực cười câu chuyện xảy ra tại nhà người Pha-ri-sêu!  Chúa Giê-su được một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu mời đến nhà dùng bữa.  Chúng ta đừng vội hẹp hòi lên án ông này có ý mời Chúa đến để cho nhóm Pha-ri-sêu “cố dò xét Người”, hoặc để “khoe” với bà con lối xóm mình quen ông lớn.  Chắc chắn Chúa Giê-su cũng có những người bạn Pha-ri-sêu tốt, và ông này là một trong số những người bạn ấy!  Dầu sao đây cũng là cơ hội để Chúa Giê-su dạy mọi người bài học khiêm nhường.  Người ta dò xét Chúa để tìm cách bắt bẻ.  Còn Người thì “nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”, nên thẳng thắn dạy họ!  Bài học của Chúa ngắn gọn, được trình bày bằng một dụ ngôn và ý nghĩa của nó.  Nói là dụ ngôn, chứ thực sự đây cũng là những gì đang xảy ra trước mặt Chúa Giê-su và mọi người khách được mời.

          Vậy dụ ngôn của Chúa Giê-su mở đầu bằng một lời khuyên:  khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào cỗ nhất.  Tại sao lại có lời khuyên như vậy?  Thời nay trong những bữa tiệc quan trọng, khách được mời thường đã được xếp chỗ trước, với bảng tên đặt ngay tại chỗ họ đã được sắp xếp trước.  Nhưng thời Chúa Giê-su không có việc xếp chỗ rõ ràng như vậy, mà tùy gia chủ và cảm tình của ông đối với khách mời.  Ông muốn mời ai ông quý trọng ngồi cỗ nhất là quyền ở ông.  Do đó mới có cảnh dở khóc dở mếu là ông phải đành lòng xin người khách tự ý ngồi vào cỗ nhất hãy nhường chỗ cho người khách chính ông muốn đặt ngồi ở cỗ nhất.  Dụ ngôn đơn sơ vậy thôi.  Mục đích của dụ ngôn chỉ là để nói lên chân lý sau đây:  “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;  còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

          Trong bữa tiệc, ai là kẻ tôn mình lên và ai là kẻ hạ mình xuống?  Kẻ tôn mình lên là người tự ý ngồi vào cỗ nhất, không đợi chủ nhà sắp đặt.  Họ muốn chiếm chỗ ngồi đó để tỏ cho người khác biết họ là nhân vật quan trọng.  Họ không cần biết chủ nhà quý trọng họ tới mức nào, vì họ tin rằng với thanh thế hay địa vị xã hội của họ, nhất định chủ nhà phải dành chỗ danh dự cho họ.  Trái lại, kẻ hạ mình xuống là kẻ tự ý ngồi vào chỗ cuối.  Họ ngồi vào chỗ cuối không phải với ý đồ để sẽ được chủ nhà mời lên chỗ cao hơn, nhưng là họ tin vào cảm tình của chủ nhà và hoàn toàn phó thác cho sự sắp đặt của ông.  Đây là thái độ khiêm nhường đích thực.  Như thế, dụ ngôn cho chúng ta một định nghĩa cụ thể, thế nào là một người kiêu căng tự tôn mình lên và thế nào là một người khiêm nhượng.  Đứng trước mặt Thiên Chúa là chủ nhà mời tiệc, kẻ kiêu căng sẽ bị hạ xuống và kẻ khiêm nhượng sẽ được nâng lên.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Dụ ngôn Chúa Giê-su kể chú trọng tới tương quan giữa khách được mời với chủ nhà, và chỗ ngồi tùy thuộc vào mối tương quan ấy.  Đó cũng là mối tương quan giữa chúng ta với Chúa.  Nếu chúng ta nghĩ là mình quan trọng, không cần tới Chúa, không cần đến sự sắp đặt của Chủ tiệc và tự ý ngồi vào chỗ danh dự, thì chúng ta đâu có nhìn nhận mình tương quan với Chúa.  Còn nếu chúng ta nhận biết chỗ đứng của Chúa trong cuộc đời chúng ta, phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Chúa, Người sẽ luôn ở bên cạnh chúng ta.  Càng sống mối tương quan ấy, tức là sống đúng với thân phận nghèo hèn của chúng ta trước mặt Chúa, chúng ta càng giống như người đi dự tiệc ngồi vào chỗ chót.  Khiêm nhượng như vậy, chúng ta sẽ được Chúa “nâng cao và ban của đầy dư”, điều Mẹ Ma-ri-a đã xướng lên trong bài thánh ca Magnificat.  Chỗ chúng ta không chỉ là chỗ ngồi ở cỗ nhất, mà là chỗ ấm áp nhất trong trái tim Thiên Chúa!         

Lm. Dominic TTL

-------------------------------

 

TN 22-C78. DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC


 Chủ nhật 22 Thường Niên C

         Lc 14,1.7-14

 

 Làm người ai cũng đã từng hơn một lần được mời đi dự tiệc và làm tiệc đãi khách. Chúa Giêsu cũng: TN 22-C78


Làm người ai cũng đã từng hơn một lần được mời đi dự tiệc và làm tiệc đãi khách.

Chúa Giêsu cũng đã từng đi dự tiệc: “Vào một ngày sabat, Đức Giêsu được mời đến nhà một ông thủ lãnh để dùng bữa.”

Quan sát thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, chẳng ai chịu ngồi chỗ cuối, Chúa Giêsu liền kể một dụ ngôn và qua dụ ngôn này, Ngài đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về cách đi dự tiệc và cách đãi tiệc.
 
1.Đi dự tiệc 

Ở đời ai cũng phấn đấu để có một địa vị cao:“Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.”Ngay cả những người đạo đức trong đạo Do thái như các Pharisêu cũng còn tranh nhau chỗ ngồi.

Thế mà Chúa Giêsu lại dạy phải sống khiêm nhường: “Hãy chọn chỗ cuối mà ngồi. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.”

Tại sao Chúa lại dạy như vậy? Thực tế cuộc sống dạy ta rằng những cử chỉ tôn kính có giá trị là những cử chỉ người khác làm cho ta, chứ không phải tự ta làm cho ta. Hơn nữa chính phẩm chất và tư cách của người ngồi trên cái ghế mới quan trọng chứ không phải cái ghế, cái chỗ ngồi là quan trọng! Thế nên đừng có tranh nhau chỗ nhất chỗ nhì, chỗ cao chỗ thấp. Hãy luôn nhớ rằng: "Nước chảy chỗ trũng".

2. Đãi tiệc

Ở đời ai ai cũng mời những người thân quen: “Trông mặt mà gửi vàng”. Xưa nay đều thế cả! Người Pharisiêu cũng thế, họ chỉ mời những anh em, bạn bè và giàu có. Còn Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.” Thật là ngược đời!

Sao Chúa Giêsu lại dạy ngược đời như vậy? Vì công phúc của ta: Nếu ta giúp đỡ một người nào đó mà mong họ giúp lại, thì ta còn ân với nghĩa gì. Còn nếu họ không có điều kiện để mà trả ơn ta, thì ơn phúc của ta vẫn còn đó. Nó như của để dành, ta ký gửi ngân hàng không hư hao mối mọt. Đến ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ nói với ta: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi, vì mỗi lần các ngươi cho kẻ đói ăn, khát uống, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Lúc ấy, ta thật hạnh phúc, sung sướng dường bao.

Chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là nhà giàu có, cho vay mượn rất nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên đi đòi nợ. Trước khi đi Phùng Huyên hỏi: Tiền thu nợ được, ông có định mua gì về không?

Mạnh Thường Quân đáp: Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.

Khi đi gặp các con nợ, Phùng Huyên bảo họ rằng: Các ngươi nợ nần bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả. Rồi ông đem văn tự ra đốt sạch.

Lúc trở về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân: Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, gia nhân đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một “cái ân cái nghĩa”, tôi trộm phép đã mua về cho tướng công.

Nghe nói thế, Mạnh Thường Quân không hỏi gì đến tiền của nợ nần nữa.

Một thời gian sau Mạnh Thường Quân bị bãi chức, gia sản khánh kiệt, phải lui về miền quê. Những người được ông tha nợ liền nhớ đến ơn xưa, thi nhau đón tiếp ông. Bấy giờ Mạnh Thường Quân liền bảo Phùng Huyên rằng: Trước đây tiên sinh đã vì tôi mà “mua ân mua nghĩa”, ân nghĩa ấy ngày nay tôi mới thấy.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn cố gắng học thuộc và thực hành những lời Chúa dạy. Amen

 Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu

-------------------------------

 

TN 22-C79. Chúa tôn vinh kẻ khiêm nhường và kẻ khiêm nhường tôn vinh Chúa

I.- DẪN NHẬP

 

Trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Tin Mừng đã cho chúng ta thấy, Ngài luôn "đi đến": TN 22-C79


Trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Tin Mừng đã cho chúng ta thấy, Ngài luôn "đi đến" và "sống với" dân chúng. Và bất cứ ở đâu, hoặc lúc nào: tại hội trường, trong đền thờ, trên đường phố, ở nông thôn, ngoài bãi biển hay ở bờ hồ, trong hoang địa hay trên núi, kể cả trong những bữa tiệc, v.v… Ngài thường dùng các dụ ngôn hay ngụ ngôn mà giảng dạy, đến nỗi các Tông Đồ phải thắc mắc: "Tại sao Thầy lại dùng các dụ ngôn mà nói với họ?" (Mt13,10; Lc 8,9-10). Phải chăng đây là phương pháp giảng dạy tuyệt vời của Chúa Giêsu?

Như chúng ta đã biết, thói quen của những người Pharisiêu là: trước mặt Thiên Chúa, họ thường hay kể lể dài dòng những thành tích đạo đức của mình; còn trước mặt người khác, nhất là những người nghèo khó, thì họ lại coi thường và đòi người khác phải tôn trọng... Chúa Giêsu không chấp nhận được hành động đạo đức giả đó của họ, nên Ngài thường hay khiển trách họ là kẻ giả hình; vì họ thường hay phô trương, tự cao tự đại, lại thích danh vọng, địa vị mà chẳng bao giờ quan tâm đến những người, tàn tật, đui mù, nghèo khổ... Hành động đó càng thể hiện rõ nét hơn trong khung cảnh của một bữa tiệc.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện nhân dịp một bữa tiệc, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn về phép lịch sự của người “dự tiệc và đãi tiệc”. Tuy nhiên, bài học của Chúa Giêsu không dừng lại chỉ ở bài học xử sự theo kiểu cách lịch sự ngoài đời. Ngài muốn dạy một bài học cao hơn và xa hơn, đó là bài học “tôn trọng người khác”, bài học đó chính là bài học về “Đức khiêm nhường”: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Và như thế, còn hơn tôn vinh một thương hiệu, một tác phẩm hay một danh nhân lỗi lạc..., Chúa Giêsu chỉ tôn vinh kẻ khiêm nhường mà thôi.

II.- TÔN VINH KẺ KHIÊM NHƯỜNG

Trong bài đọc I, sách Huấn Ca dạy rằng: “Càng tự hạ, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa” (Hc 3,18). Còn trong bài đọc II cho thấy rằng: Người được ghi tên trên trời, được dự đại hội của Thiên Chúa, là những người công chính và thánh thiện (x. Dt 12,23). Và trong bản văn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

Đại ý của những câu này là chìa khóa về việc chọn chỗ ngồi, nhưng lại ám chỉ về việc chọn cho mình một vị thế. Trước tiên, Thiên Chúa ưu tiên cho con người quyền tự do lựa chọn, nhưng Ngài vẫn cho những lời khuyên, để sự lựa chọn của con người khỏi lầm đường lạc lối.

Ai tôn trọng Lời Thiên Chúa thì sẽ có được sự khôn ngoan (x. Cn 15,33; 22,4) và sẽ biết được ý Chúa muốn, như lời khuyên của Ngôn sứ Mikha: "Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Thiên Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn" (Mk 6,8). Ai tôn trọng Lời Thiên Chúa, thực thi công bình, nhân nghĩa, khiêm nhường, người ấy sẽ chọn được vị thế đẹp lòng Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa đề cao (x. 2Cr 10,18). Chính Chúa Giêsu cũng đã từng chúc phúc cho kẻ khiêm nhường và dạy họ bài học khiêm nhường của Ngài: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).

Ai tự cao tự đại thì chính “Tính tự cao hạ đứa tự cao xuống, người tự hạ sẽ được tôn vinh” (Cn 29,23; 18,12). Và Thiên Chúa, chính Người sẽ hạ bệ hoặc nâng ai lên, Vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6; Cn 3,34).

Đọc những câu Kinh Thánh trên, quả thực, người viết như vỡ ra một lẽ: về quyền năng của Đấng Tôn Vinh và vinh dự của người được tôn vinh, có cái gì đó giống hệt như kiểu một giao ước, một tương quan qua lại hai chiều giữa Thiên Chúa và loài người; người viết tạm gọi đó là “giao ước khiêm nhường” liệu có được không? Vì, Kinh Thánh cũng từng nói: Thiên Chúa tôn vinh kẻ khiêm nhường và ngược lại kẻ khiêm nhường tôn vinh Thiên Chúa (x. Lc 1,52; Hc 3,20).

III.- THIÊN CHÚA CỦA KẺ KHIÊM NHƯỜNG

“Ai tự tôn mình lên ở đời này sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống trong Nước Ngài và ngược lại, ai tự hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên”.

Lời Chúa dạy hôm nay, xem ra đảo lộn trật tự giá trị đời thường, hay ít ra cũng cho thấy có sự khác biệt giữa thế gian và Nước Trời. Sự khiêm nhường tự hạ mà Chúa dạy không phải là sự chịu lụy, nhịn nhục theo kiểu “nín thở qua cầu hay chịu đấm ăn xôi”. Nhưng là một sự chọn lựa tự do trong tinh thần yêu thương và phục vụ; để biết mình phải làm gì cho tình yêu tha nhân và phải biết sống phục vụ hết mình như thế nào.

Con đường đi tới Nước Trời, được Thiên Chúa Cha yêu thương trao ban chính là thái độ sống khiêm nhường tự hạ: “Vì sức mạnh của Ngài không dựa vào số đông, quyền lực của Ngài chẳng ở nơi người mạnh thế. Nhưng Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhường, là Đấng cứu giúp người hèn mọn, Đấng đỡ nâng kẻ cô thế, Đấng bảo vệ người bị bỏ rơi, Đấng Cứu Tinh của những ai thất vọng” (Gđt 9,11). Vì thế, tính tự cao tự đại, hãnh diện về sức mạnh, luôn là một cái gì rất chướng “thảy đều là tội lỗi” đối với Thiên Chúa (x. Cn 21,4).

Thiên Chúa ở bên người khiêm nhường. Ngài sẽ nâng cao người phận nhỏ, người quyền thế bị lật đổ, người giàu có trở về tay không và kẻ nghèo đói sẽ no đầy ơn phúc. Từ lời tiên báo của Tiên tri Êdêkien, đến lời kinh Magnificat của Đức Maria và nay lời dạy của Chúa Giêsu đều minh nhiên nói lên chân lý: Thiên Chúa đứng về phía những người khiêm nhường, những người địa vị thấp hèn trong xã hội, những người bị áp bức bất công, những người nghèo khổ, những người tàn tật...

IV.- GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG CỦA CHÚA GIÊSU

"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế là một mẫu gương minh chứng hùng hồn giáo thuyết khiêm nhường mà Chúa đã dạy: Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường tự hạ và khi mời gọi mọi người hãy đến học cùng Ngài là Đấng hiền lành và khiêm nhường, Chúa Giêsu đã đi bước trước và thực hiện triệt để những gì Ngài giảng dạy. Ngài thực sự là con người của sự khiêm nhường tự hạ: Từ một địa vị Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình làm người bần cùng trong thế gian này; từ một người Thầy, Ngài đã tự hạ mình rửa chân cho các môn đệ; từ một Đấng phán một Lời mọi sự liền có, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự. Nơi Chúa Giêsu, sự khiêm nhường đã đi đến tột cùng, không ai có thể khiêm nhường hơn Ngài. Ngài khiêm nhường đến tự hủy như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Chính nhờ thế mà Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Ngài (x. Pl 2,6-9).

Gương khiêm nhường của Chúa Giêsu đã chinh phục và lôi cuốn biết bao người, cả chúng ta nữa: theo Ngài, học cùng Ngài, tự hạ để trở nên người hoàn thiện. Nhận thấy mình là con số không và Chúa là tất cả. Chỉ có những ai hạ mình như thế mới đáng được Chúa tôn lên.

Lịch sử Giáo Hội cũng cho thấy nhiều mẫu gương khiêm nhường: như Đức Maria, Thánh Cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả và các Thánh. Ngày nay, Hội Thánh vẫn đang có và sẽ còn tiếp tục gương khiêm nhường của Chúa Giêsu, âm thầm xả thân cho đồng loại, hạ mình làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối gặp được trên đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, loạn lạc… họ là những người không thể trả công và chính Chúa là người sẽ trả công thay cho họ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà lãnh nhận gia sản vương quốc dành cho các ngươi. Vì khi xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các người đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han” (Mt 25,34-36).

V.- KHIÊM NHƯỜNG LÀ MỘT NHÂN ĐỨC

Khiêm nhường là một trong những nhân đức căn bản và quí giá của con người. Nhờ khiêm nhường con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Giáo huấn trong sách Châm Ngôn dạy rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường” (Cn 11,2); và “Miệng kẻ dại có mầm kiêu ngạo, môi người khôn bảo vệ người khôn” (Cn 14,3).

Tuy nhiên, con người có quyền tự hào về mình: đó là những gì mình đã đạt được, hay đã dày công mà có, nhất là do nỗ lực của cả một cuộc đời…; những lúc ấy, hãy nhớ lời khuyên trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy tự hào một cách khiêm nhường, và tự trọng đúng với giá trị của con” (Hc 10,28). Và nếu có tự hào, thì hãy tự hào trong Thiên Chúa, vì tất cả là do tình yêu của Chúa mà có, còn mình vẫn luôn chỉ là người yếu đuối, bất tài vô dụng.

Vậy, khiêm nhường đích thực là nhìn nhận thực tế những gì là mình và những gì mình có. Và đồng thời nhận ra giá trị những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào: là hạnh phúc hay gian khó, lòng luôn cảm nhận được bình an, như lời tạ ơn của Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu "Tất cả là hồng ân của Chúa”.

Vì thế, khiêm nhường luôn là một nhân đức cần thiết để trở nên người trưởng thành, trở nên người khôn ngoan, và để trở nên người Kitô hữu thánh thiện.

VI.- ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG GẮN LIỀN VỚI ĐỨC BÁC ÁI

“Anh em hãy ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2). Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng khiêm nhường phải song song với tình bác ái vô vị lợi. Ngay cả trong việc thiết tiệc cũng phải giữ cho được tình bác ái. Phải quan tâm đến người nghèo khổ, đến người bất hạnh... vì họ không có gì đến đáp (x. Lc 14,13-14). Biết bao lần Chúa Giêsu đã ví Nước Trời như một tiệc cưới, trong đó Thiên Chúa mời gọi không trừ một người nào. Ngài không màng đến địa vị, chỗ đứng hay thân thế của bất kỳ ai trong xã hội. Dưới mắt của Thiên Chúa, điều làm nên giá trị nhất của con người không phải là tài năng, sự thành đạt trong xã hội, mà chính là tình yêu phục vụ của ta đối với tha nhân.

Khiêm nhường mà không bác ái, không phục vụ thì nào có ích lợi gì. Khiêm nhường là phương thế để thể hiện tình yêu sẵn sàng dấn thân đến với người khổ đau, phục vụ chăm sóc họ. Khiêm nhường chính là thái độ biết quên mình để yêu thương, hiện diện và phục vụ mọi người như Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu cũng không kết án những người có địa vị cao trong xã hội, vì nếu người có quyền cao chức trọng mà biết hạ mình hy sinh phục vụ người khác thì giá trị của đức khiêm nhường càng tăng hơn gấp bội. Và chắc chắn, Chúa cũng sẽ khen thưởng họ gấp bội. Vì giá trị đích thực của con người chính là sự phục vụ vô vị lợi: “Càng làm lớn, càng phải tự hạ, như thế sẽ càng được đẹp lòng Thiên Chúa” (Hc 3,18). Do đó, dù là người giầu sang, quyền cao, chức trọng hay người nghèo hèn, mạt rệp nhất trong xã hội đều được coi là người cao trọng trong Nước Trời, nếu người đó biết sống yêu thương và phục vụ.

Và như thế, giữa sự khiêm nhường và lòng bác ái có một sự gắn kết hỗ tương với nhau, như lời quả quyết của Thánh Âutinh: “Không gì cao trọng bằng đức bác ái, nhưng chỉ có đức khiêm nhường mới duy trì được đức bái ái mà thôi”.

VII.- LƯU TÂM ĐẾN NGƯỜI NGHÈO, TÀN TẬT, QUÈ QUẶT, ĐUI MÙ

"Hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, và người đui mù" (Lc 14,13). Thiên Chúa luôn quan tâm nâng đỡ yêu thương và đứng về phía những người nghèo khổ, mọn hèn, trẻ thơ, bà góa, người nghèo… (x. Lc 1,52; Tv 147,6; Ez 21,13). Họ là những người thường bị khinh miệt và thậm chí còn không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (x. 2Sm 5,8; Lv 21,18).

Thời xưa cũng thế và thời nay cũng vậy. Chúng ta thường có khuynh hướng xem nhẹ, thậm chí coi thường những người nghèo, những người thấp hèn hơn chúng ta và tôn trọng những người giàu có, địa vị quyền thế trong xã hội. Lời Chúa nhiều chỗ đã cho chúng ta thấy, trong Nước Chúa không có phân biệt nô lệ hay tự do, Dothái hay Hylạp, người giầu hay người nghèo... Cho nên, chúng ta phải biết trân trọng nhau, ít ra là trong tương quan con người với con người, xa hơn nữa là trong tư cách con cái Chúa, là anh chị em của nhau. Như lời Thánh Phêrô dạy: “Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm nhường” (1Pr 3,8).

Vẫn biết rằng tình yêu không loại trừ ai, như lời Chúa Giêsu dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34), nhưng có một ưu tiên phục vụ mà toàn thể truyền thống Kitô giáo minh chứng: “Tình yêu ưu tiên và những quyết định gợi hứng dành cho người nghèo đó là: ta không thể không ôm ấp đám đông những người đói khát, thiếu thốn, những người vô gia cư, những kẻ không được chăm sóc thuốc men, và trên hết là những kẻ không hy vọng có được một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không ghi nhận những thực tại hiện hữu này. Phớt lờ họ tức là trở thành giống như “người giầu có” làm như vẻ không biết đến người nghèo Ladarô đang nằm ngoài cổng nhà mình” (x. Lc 16,19-31).

Chúng ta cũng lưu ý cách riêng đến những người di dân, những người bản xứ và các dân tộc bộ lạc, những phụ nữ và trẻ em, bởi vì họ thường là nạn nhân của những hình thức bóc lột xấu xa nhất. Thêm vào đó có số người vô danh, bị kỳ thị do văn hóa, màu da, chủng tộc, đẳng cấp, tình trạng kinh tế hay là do cách họ suy nghĩ; đồng thời có cả những người là nạn nhận của sự kỳ thị tôn giáo. Họ cần được nâng đỡ và chăm sóc để bảo toàn được nhân phẩm và những tổn hại.

VIII.- NHẬN ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG

Trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, Thánh Công Đồng nhấn mạnh đến mối quan tâm đến người nghèo như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (trích Gaudium et spes, lời mở đầu, số 1).

Giáo Hội từ nguyên thủy và cho đến ngày nay, vẫn luôn bày tỏ một tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo và những kẻ không có tiếng nói, bởi vì Chúa đã đồng hóa với họ một cách đặc biệt: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Tuy Giáo Hội không có những giải pháp kỹ thuật để cống hiến cho những người nghèo, nhưng khi Giáo Hội loan báo chân lý về Đức Kitô, về chính mình và về con người, thì bằng cách áp dụng chân lý đó, Giáo Hội cống hiến sự đóng góp của mình cho việc giải quyết vấn đề cấp bách của phát triển vào một hoàn cảnh cụ thể. Vấn đề ấy là vấn đề nhân bản và luân lý.

Hiện nay, các nhà lãnh đạo Kitô giáo vẫn không ngừng phát huy bổn phận hướng dẫn và giải thoát người nghèo khỏi những hoạt động dối trá, sai lầm, và gian ác… của trần thế; nhằm phát triển con người về mọi mặt theo hướng “chân-thiện-mỹ”. Vì con người là tác nhân chính và là mục đích của sự phát triển không ngừng. Nó phải được bắt đầu và kết thúc với sự nguyên vẹn của con người, do được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá và các nhân quyền không thể bị tước bỏ.

Khi lưu tâm đến người nghèo, Giáo Hội tăng cường mục vụ giữa những người nghèo: Bằng cách chú ý tới những âu lo của họ và tới những vấn đề công bằng ảnh hưởng tới đời sống của họ; mặt khác cũng bao hàm sự cần thiết giúp đỡ họ để họ tự giúp lấy mình, ngõ hầu họ có thể hành động để cải thiện hoàn cảnh của họ. Giáo Hội còn phải trở nên một ngôi nhà đầy lòng quảng đại và cố gắng đón tiếp những kẻ khó nhọc và gánh nặng, vì biết rằng trong Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi không có ai là người xa lạ, họ sẽ được an nghỉ "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

Khi lưu tâm đến người nghèo, Giáo Hội không thể thờ ơ với đau khổ của trẻ em, nạn nhân của sự bóc lột, bạo lực và sự dữ. Những sự dữ ấy không chỉ do cá nhân gây nên, nhưng thường do những cấu trúc tập thể thối nát. Hiện nay, việc bắt trẻ em lao động, tình dục với trẻ em và hiện tượng ma túy là những sự dữ của xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ em, và những sự dữ đó còn kéo dài theo những tệ nạn khác ở những nơi nghèo đói. Giáo Hội đang nỗ lực làm tất cả những gì có thể để chiến thắng những sự dữ đó, hãy hành động nhân danh những kẻ bị bóc lột nhất, để tìm cách dẫn đưa những người bé mọn tới tình yêu của Đức Giêsu, bởi “vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như họ” (Lc 18,16).

Khi lưu tâm đến người nghèo, Giáo Hội quan tâm cách riêng đối với phụ nữ, hoàn cảnh của họ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội ngày nay, nơi mà sự kỳ thị và bạo lực đối với người phụ nữ thường xảy ra trong gia đình, tại nơi làm việc và cả trong hệ thống pháp lý nữa. Nạn mù chữ phổ biến trong giới nữ vẫn còn nhiều, và thậm chí có nhiều phụ nữ bị đối xử hèn hạ như những món hàng trong nghề mãi dâm, du lịch và công nghệ giải trí.

Trong trận chiến chống lại mọi hình thức bất công và kỳ thị ấy, người nữ phải tìm được nguồn trợ lực trong cộng đồng những người Kitô hữu. Giáo Hội phải cổ võ những hoạt động cho nhân quyền nhân danh người nữ. Mục tiêu là phải mang lại được một sự thay đổi thái độ, nhờ sự hiểu biết đúng đắn hơn về vai trò của người nam và người nữ trong gia đình, trong xã hội và trong Giáo Hội. Đề cao phẩm giá và sự tự do của phụ nữ một cách cụ thể và hữu hiệu; đồng thời, khích lệ vai trò của người nữ trong Giáo Hội bằng cách mở ra cho họ những cơ hội lớn để hiện diện và hoạt động trong sứ mạng tình yêu và phục vụ.

IX.- KẾT LUẬN

Khi Giáo Hội kêu gọi các Kitô hữu hành động và hy sinh chính mình để phục vụ và phát triển con người, đặc biệt là với người nghèo. Cũng nên nhắc lại một vài giá trị nền tảng của truyền thống Kinh Thánh xưa, như Dân Ítraen xưa kia nhấn mạnh đến mối ràng buộc không thể tách biệt giữa việc thờ phượng Chúa và chăm sóc người yếu đuối, điển hình là “người góa bụa, người ngoại kiều, và kẻ mồ côi” (x. Xh 22,21-22; Đnl 1018; 17,19), họ là những người dễ bị đối xử bất công trong các xã hội thời đó. Và nhiều lần trong các sách Ngôn sứ, chúng ta nghe tiếng kêu gào đến công lý, đến sự tổ chức đúng đắn cho xã hội con người. (x. Is 1,10-17; Am 5,21-24)

Những điều Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay, cũng là một trong những lời khuyên của Thiên Chúa đã từng được các Ngôn sứ giảng dạy và ghi chép trong các sách Giáo huấn (x. Cn 25,6-7; Hc 7,4; 13,9-10). Nhưng hôm nay, lời này lại là lời xác quyết và xác thực, do chính Đấng là Thiên Chúa tự hạ, bày tỏ mình qua đời sống khiêm nhường và phục vụ đến hiến thân mình. Cũng tưởng rằng, Ngài hiến thân mình cho ai cao trọng, nào ngờ, Ngài lại hiến thân mình cho kẻ bé mọn.

Và trong hành trình loan báo Tin Mừng, các Tông đồ Chúa cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần về phẩm chất cần phải có của người tín hữu về đức khiêm nhường: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5); “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,3); “Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn” (Rm 12,16); “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm 6,17); “Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” (1Pr 5,6).

Quả thực, Thiên Chúa ta thờ là: “Một Thiên Chúa, chỉ muốn lòng thương xót chứ không cần nghi lễ” (Hs 6,6). Chúa Giêsu cũng từng nói những lời đó: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần tế lễ” (Mt 9,13), và “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Noi gương khiêm nhường của Chúa, các Thánh và các Kitô hữu trong mọi thời và mọi nơi cũng đã từng sống khiêm nhường như vậy.

Trước khi khép lại đề tài này, người viết xin nêu lên đây lời hùng biện tâm đắc của Thánh Gioan Kim Khẩu: “Bạn có muốn tôn vinh thân thể Đức Kitô không? Vậy thì đừng phớt lờ Người khi Người trần truồng. Đừng tôn vinh Người trong đền thờ bằng vàng và nhung lụa, mà lại để Người ở bên ngoài lạnh cóng và trần truồng. Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Này là mình Ta, này là máu Ta”, cũng là Đấng đã nói “Bạn thấy Ta đói mà không cho Ta ăn, Ta khát mà không cho Ta uống, Ta mình trần mà không cho Ta mặc”. Ích gì nếu Bàn Tiệc Thánh Thể đầy chén thánh bằng vàng, mà để Đức Kitô đang chết đói? Bạn hãy làm thỏa mãn cơn đói của Người, rồi với cái gì còn lại, bạn hãy lấy đó mà trang hoàng bàn thờ cũng được”.

Từ đây, nguyên tắc sống khiêm nhường và phục vụ trở thành châm ngôn sống cho mọi người Kitô hữu. Ai sống như vậy thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến ở đời này. Và ai duy trì lòng khiêm nhường phục vụ của mình cho đến chết thì sẽ có cơ hội được tham dự tiệc Thiên Quốc đời đời trong Quê Trời Hằng Sống.

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dành cho các ngươi” (Mt 25,34).

JB Bùi Ngọc Điệp

-------------------------------

 

TN 22-C80. Cây cao dễ gãy.

 

Sau một trận bão, người ta thường thây những câu cao bị đổ gãy, trái lại những cây  nhỏ và thấp: TN 22-C80


Sau một trận bão, người ta thường thây những câu cao bị đổ gãy, trái lại những cây  nhỏ và thấp, thì vẫn đứng trơ trơ. Sau cuộc chính biến, những kẻ quyền cao chức trọng bị lật đổ, bị mất chức, bị tù tội còn những kẻ thấp cổ bé miệng thì trước sau vẫn vậy.

Tuy nhiên, trong bất kỳ xã hội, bất kỳ tổ chức nào cũng thế, người ta vẫn tranh nhau những chức vụ cao để hưởng nếu không phải là lợi lộc, thì ít ra cũng là danh vọng. Mâm cao cỗ đầy. Chức càng lớn thì bổng lộc càng nhiều, đi tới đâu cũng được trọng vọng. Ngày xưa thì võng cáng, lọng che còn ngày nay thì mô tô hộ tống, cảnh sát còi hụ dẹp đường, lính tráng dàn chào. Cái thói ham danh vọng này không tha cả những người lãnh đạo tôn giáo vì thế các chức sắc đạo Do Thái ngày xưa thích mặc áo thụng, may dài thẻ kinh tới đâu thì cũng chiếm hàng ghế đầu, còn ngồi ở bàn tiệc thì chọn chỗ nhất.

Vì thế Chúa Giêsu không ngần ngại lên tiếng chỉ trích họ, nhân dịp Ngài được mời dự tiệc trong nhà một ông biệt phái. Dĩ nhiên đa số khách mời đều là biệt phái cả. Họ không ưa gì Chúa Giêsu và hôm nay họ được dịp dò xét kỹ để bắt lỗi. Chẳng hạn họ để ý xem Người có rửa tay trước khi ăn hay không? Nhưng họ đâu ngờ rằng chính họ lại đang bị Chúa Giêsu dò xét, bởi vì Ngài thấy ông nào ông nấy cũng đều ham địa vị cao, thích ngồi vào chỗ danh dự nhất trong đam khách được mời.

Bài học của Ngài hôm nay là bài học khiêm nhường, có lẽ đã làm cho họ ăn mất ngon và hẳn nhiều ông đã mất mặt. Chúa Giêsu không chỉ nhận xét về khách dự tiệc mà còn thẳng thắn đưa ra một bài học khác cho chủ nhà, bởi vì ông này mở tiệc đãi khách, thực ra không hpải vì khách mà vì mình. Thực vậy, cái thói mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những ông to bà lớn. Cái thói này ở mọi nơi, mọi thời đều rất thịnh hành. Ông chủ nhà hôm nay cũng là một trong những kẻ thích khoe khoang. Ông ta mời Chúa Giêsu có lẽ chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình, bởi vì lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã là một nhân vật nổi tiếng.

Thế nhưng được ăn thì cũng phải được nói, nhân dịp này Chúa Giêsu nhắc nhở ông đừng tốn của cho những kẻ vốn đã giàu sang, nhưng hãy nghĩ đến những người nghèo khó, những người đang cần được ăn để sống chứ không sống để ăn như những kẻ giàu sang quyền quý.

Lòng khiêm tốn và nhân hậu chính là nền tảng của đạo đức, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thói thường, thì những kẻ làm lớn thì ăn trên ngồi trốc, thống trị mọi người. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài không đến để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống như vậy. Thế nhưng lòng khiêm tốn phải đi đôi với tình bác ái, với tinh thần phục vụ. Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học phục vụ. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ, để nâng đỡ gánh nặng của người khác, còn chúng ta thì sao?

-------------------------------

 

TN 22-C81. Khiêm nhường phục vụ


(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được: TN 22-C81


Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người "ăn trên ngồi trốc" mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.

Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi"mân cao cỗ đầy". Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu "có qua có lại", mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.

Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.

Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.

Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.

Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.

-------------------------------

 

TN 22-C82. Con đường khiêm nhường


(Trích dẫn từ ‘Logos C’)

 

Họa sỹ cũng là nhà điêu khắc thiên tài Leonardo da Vinci đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly: TN 22-C82


Họa sỹ cũng là nhà điêu khắc thiên tài Leonardo da Vinci đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 Tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị bắt và bị giết chết.

Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.

Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn có Giuđa người môn đồ phản Thầy là chưa vẽ. Họa sỹ bỏ nhiều công sức để tìm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác để vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang.

Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu!”

Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống tội lỗi đã làm biến đổi một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự đảo ngược kỳ lạ xảy ra ở bức tranh “Bữa Tiệc Ly”. Nhưng trong chính bữa tiệc ly có một sự đảo ngược còn kỳ lạ hơn nữa: Chúa Giêsu, “người chủ tiệc” đã trở thành “người phục vu” khi quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Phải chăng đó chính là định luật của Nước Trời: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”. Đó cũng là bài học khiêm tốn Chúa Giêsu dạy mọi người trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay.

Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Trước bao con mắt đang dò xét, Chúa Giêsu nhận thấy khách mời thích chọn những chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc, Ngài dạy họ bài học khiêm nhường: Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn. Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon, nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Nhưng Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

Con đường tự hạ của Chúa Giêsu

Mặc dù là một Thiên Chúa cao cả, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình xuống đến tận cùng, mang lấy kiếp phàm nhân, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu là bài ca của người Tôi Tớ khiêm hạ: “Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng không nghĩ đến việc giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống người phàm, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Phil 2, 1-9).

Chúa Giêsu đã hạ mình xuống như một người nô lệ thấp hèn để dạy cho các môn đệ một bài học của sự tự hạ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình. Từ “chỗ nhất” trên trời cao, Ngài đã chọn “chỗ cuối” dưới chân con người để phục vụ con người. Đó là bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” (Ga 13, 1-15).

Đi theo con đường tự hạ của Chúa Giêsu.

Chúng ta được mời gọi để đi theo Chúa, đi vào con đường khiêm nhường thẳm sâu, con đường hy sinh đến tận cùng, con đường phục vụ quên mình.

Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn cho mình vị trí cuối cùng trong bữa tiệc cuộc đời để chúng ta sẽ được Thiên Chúa mời lên chỗ cao trọng trong bữa tiệc Nước Trời mai sau.

Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, bài trích sách Huấn Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta thấy con đường khiêm tốn là con đường đẹp đẽ được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu. Còn sự kiêu ngạo là con đường dẫn đến tai họa và diệt vong.

Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Chúa muốn dạy chúng ta tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ mà không mong được đền đáp, phục vụ trong âm thầm và khiêm tốn.

Những “chiếc ghế” trong cuộc sống

Ai cũng mong tìm cho mình một “chiếc ghế” vững vàng trong cuộc đời. “Chiếc ghế” tượng trưng cho địa vị hay chức vụ trong cuộc sống xã hội. “Chiếc ghế” còn là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có trong cuộc sống con người. Người ta sẵn sàng hãm hại nhau để tranh giành “chiếc ghế” trong xã hội. Người ta cũng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn và mưu đồ đen tối để củng cố “chiếc ghế” của mình thêm vững chắc. Người ta cũng sẵn sàng bán rẻ lương tâm để giữ vững “chiếc ghế” của chức quyền và tham vọng.

Nhưng Chúa Giêsu đã dạy cho mọi người bài học của tinh thần khiêm nhường khi Ngài rời bỏ “chiếc ghế” của người thầy trong bữa tiệc ly để đi làm công việc của một người nô lệ. Ngài đã từ “ngai tòa” của một Thiên Chúa cao sang đến với nhân loại qua con đường nhập thể khiêm hạ để cứu chuộc con người. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đi tiếp con đường khiêm nhường ấy để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Qua con đường “tự huỷ”, Ngài đã được Thiên Chúa Cha siêu tôn trong vinh quang. Cũng vậy, qua con đường phục vụ khiêm nhường, chúng ta cũng được nâng lên trong vinh quang muôn thuở.

Trên con đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên 2 con dê quá bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực sâu và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã quỳ mọp xuống sát đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng lại có thể tiếp tục con đường của mình.

Trên những “lối mòn” của cuộc sống, nếu chúng ta biết cúi xuống để phục vụ anh em trong tinh thần khiêm tốn chính là chúng ta đang đi trên con đường đẹp nhất, con đường dẫn đến hạnh phúc muôn đời.

-------------------------------

 

TN 22-C83. Thiên Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường


(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Khi đề cập về Chúa Giêsu, người ta thường giới thiệu Người là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là: TN 22-C83


Khi đề cập về Chúa Giêsu, người ta thường giới thiệu Người là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm Phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giêsu còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Người là Đấng rất khiêm nhường!

Trong thư Philip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu như sau:

Mặc dù Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Người đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Người đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm. Thiên hạ còn gọi Người là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi”; rồi cuối cùng, Người đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.

Chúa Giêsu là Đấng rất khiêm nhường nên Người cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giêsu không kêu mời chúng ta hãy học cùng Người vì Người thông thái, vì Người có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Người khôn ngoan… nhưng trước hết, Người kêu gọi chúng ta hãy học với Người, vì Người có lòng dịu hiền và khiêm nhường.” (Mt 11, 29)

Chúa Giêsu còn thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).

Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.

Khi huấn dụ các chủng sinh về khiêm nhường, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận nói: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên.”

Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi giòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”

Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.

* * *

Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả cuộc đời khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước lúc nào cũng khiêm tốn. Nước luôn tìm chỗ rốt hèn. Nước luôn mềm mỏng dịu dàng không hề xô xát va chạm với ai.

Nước không hề kháng cự hay đối đầu nhưng rốt cục nước vẫn chiến thắng nhờ sự mềm mỏng của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nhưng búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường”!

Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, một nguồn năng lượng phi thường!

Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.

Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì "nước chảy đá cũng phải mòn".

Nhờ mềm mỏng, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.

Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.

Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ phong nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.

-------------------------------

 

TN 22-C84. Khiêm hạ


– Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Vào một buổi sáng mùa hè, tôi thả bộ chung quanh công viên Devoe, bên cạnh nhà thờ. Quan: TN 22-C84


Vào một buổi sáng mùa hè, tôi thả bộ chung quanh công viên Devoe, bên cạnh nhà thờ. Quan sát cảnh sinh hoạt xuất hiện có người già, thanh niên, thiếu nữ, người Mỹ, Tây, Ta và Tầu. Đây đó mấy người còn đang ngủ trên những chiếc ghế gỗ. Vài người đi lượm long. Có người dẫn chó đi dạo buổi sáng. Người tập thể dục, người ngồi đọc báo và đám trẻ chơi banh bóng rổ. Có những kẻ ăn mặc đẹp hơn vội vã tắt ngang qua công viên đi làm việc. Một nhóm chàng trai trẻ vô gia cư, di dân bất hợp pháp và đang ngồi tãn gẫu. Một vài người thu dọn làm sạch công viên. Xem ra cảnh vẻ thật êm đềm, họ không dứt lác và không quấy rầy. Họ là những người thấp cổ bé miệng. Những người nghèo khó ăn mặc đơn sơ chỉ chăm lo kiếm sống mỗi ngày. Họ không la hét, vênh váo, đua đòi hay ăn xài hoang phí. Đa số thuộc thành phần lao động khiêm tốn.

Tôi chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa trong mọi sự. Tôi có khác gì những người đang có mặt trong công viên. Đã có lúc cả gia tài của tôi vỏn vẹn chỉ một bộ đồ trên người. Tôi cũng thuộc thành phần di dân, ngoại kiều và được chấp nhận như một công dân. Tôi được may mắn có nơi ăn chốn ở, có công ăn việc làm và có mọi thứ cần thiết. Thầm cám tạ ơn Chúa. Chẳng phải vì công lao hay sức lực riêng mà chỉ do lòng thương xót của Chúa ban. Tác giả sách Huấn Ca giúp chúng ta nhận được thân phận yêu hèn và thấp bé của mình. Lời khuyên răn rất chân tình: Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng (Hc 3, 17). Nhìn những người chung quanh, tôi cảm thấy thật thương họ. Một người mẹ trẻ đi lượm long để kiếm thêm chút tiền cho bữa ăn gia đình. Mọi công việc họ làm đều đáng tôn trọng. Họ không ngại ngùng, không sợ dơ dáy, bẩn thỉu hay hôi hám. Họ kiếm sống bằng đôi bàn tay tinh sạch qua công khó và mồ hôi nước mắt. Họ rất đáng được tôn trọng.

Buông bỏ lớp vỏ ngoài, ai cao trọng hơn ai chứ! Danh dự hay chức vị là để phục vụ. Sách Huấn Ca dậy rằng: Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa (Hc 3, 18). Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường của Chúa đến với nhân loại. Không bao giờ chúng ta học hết được bài học về nhân đức khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng trở nên vĩ đại. Qua sự khiêm hạ, chúng ta có thể đến với mọi người và mọi nơi. Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu thì làm đất đai thêm mầu mỡ và phì nhiêu.

Sự kiêu căng là bức tường ngăn cách với tha nhân. Kiêu căng là tự đặt mình lên trên người khác. Người kiêu là người luôn tỏ vẻ trí thức, hiểu biết, quyền lực và tốt lành thánh thiện hơn người. Thùng càng rỗng, càng kêu to. Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết (Hc 3, 28). Sự kiêu ngạo đã len lỏi vào đời sống của con người ngay từ thuở ban đầu. Ông Adong và bà Evà đã bị ma quỉ gạt gẫm và muốn được hiểu biết mọi sự giống như Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ đã vụt mất tất cả hồng ân. Sự kiêu ngạo đã thấm nhập vào nhiều tâm hồn, họ đã chối từ tôn thờ chính Đấng ban nguồn sự sống. Cậy dựa vào sự hiểu biết nông cạn của mình để cả dám giơ tay thách thức quyền năng Vua vũ trụ. Nhạo cười Đấng đã được sai đến. La Fontaine kể ngụ ngôn này: Cây sồi tự đắc thân to, rễ nhiều, cao ráo và miệt thị cây lau nhỏ tí yếu ớt. Cây lau trả lời rằng: Tuy thân mình nhỏ nhưng nếu gặp phong ba thì chưa chắc ai thua ai. Một hôm, trời chuyển gió và phong ba nổi dậy… cây sồi vì cao, tàn lớn nên bị gió thổi trốc gốc đổ xuống. Còn cây lau mềm uốn mình theo chiều gió, nhờ thế mà vẫn đứng yên.

Chúa Giêsu đã nhắc nhở: Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc 12,11). Đứng trước quyền năng vô biên của Thiên Chúa, con người là chỉ loài thụ tạo xuất hiện đó rồi tan biến đó. Sự kiêu ngạo làm con người tự cất nhắc mình lên và chiếm hữu đạt quyền của kẻ khác. Chúa phán rằng ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chân lý này có thể áp dụng cho hết mọi người sống trong xã hội. Càng làm lớn, càng biết hạ mình thì càng được tôn trọng và quí mến. Người sống khiêm nhu không phải là người yếu đuối hay tiêu cực. Chúng ta thường nói lấy nhu thắng cương là thế. Không ai chê bai, phản đối hay khinh thường những người biết sống khiêm nhường. Chỉ những ai có tính kiêu ngạo đã không nhận ra được giá trị trân quí của nhân đức này.

Suy niệm bài phúc âm. Một thí dụ cụ thể chọn chỗ ngồi nơi bữa tiệc. Trong hoàn cảnh văn hóa hiện tại, có nhiều thay đổi theo phong tục văn hóa cho hợp lẽ. Chủ hôn sẽ xếp đặt chỗ ngồi cho khách hoặc để tự do cùng bạn bè chọn lựa nơi chỗ thích hợp. Ngày xưa, Chúa Giêsu chỉ dẫn: Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc (Lc 12, 10). Chúa muốn nói về sự khiêm hạ trong lòng. Thực thế, trong bất cứ đám tiệc đều có nhiều người tham dự gồm kẻ có chức quyền, có địa vị hoặc là thành viên của gia đình, chúng ta nên trông trước ngó sau để cư xử hợp tình hợp lẽ. Không nên gây khó xử cho gia chủ. Người ta thường nói rằng: Lời chào cao hơn mâm cỗ. Vì để giữ mặt mũi, nên đôi khi chúng ta lại bị mất mặt.

Thơ Do-thái nói về cứu cánh cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta không tìm đến những nơi gây khiếp sợ như lửa cháy, gió lốc, mây mù và bão táp nhưng là tiến về Nhà Chúa: Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22). Tất cả mọi sự đều được qui tụ về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Đấng làm trung gian vạn vật. Chúa Giêsu đã mở cửa ngõ dẫn dắt chúng ta bước vào con đường khiêm hạ theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến chết. Vâng lời là học sự khiêm tốn. Chúa phán: Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng (Mt 11, 29).

Tất cả mọi sự đều chung qui về một cùng đích là sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu mời gọi mọi người vào Nước Trời qua nhiều cửa ngõ khác nhau. Con đường bác ái yêu thương là lối vào gọn nhẹ nhất. Vì chính Chúa Giêsu hiện thân nơi những kẻ đơn sơ bần cùng nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa. Chúa Giêsu căn dặn: Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại (Lc 12, 13-14). Chúng ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi chúng ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và tránh những ánh mắt van nài xin bố thí của họ. Cửa xe gài kỹ và đóng kín để tránh sự phiền hà. Chúng ta không muốn tiếp cận với những kẻ cùng khốn tật nguyền. Vì sợ bị quấy rầy, chúng ta đã chối từ giúp đỡ họ. Chúng ta đang mất nhiều cơ hội chia sẻ bác ái và làm phúc.

Lạy Chúa, con đã có rất nhiều cơ hội để chia sẻ giúp đỡ tha nhân, nhưng lòng con qúa hẹp hòi và ích kỷ. Con đã từ chối giúp đỡ họ. Con không muốn nhìn thấy Chúa nơi những người đau khổ và cô thế cô thân. Xin cho con học biết sự hiền lành và khiêm nhượng trong lòng để con biết chia sẻ tình bác ái với anh chị em.

-------------------------------

 

TN 22-C85. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông

Hc 3, 17-21, 30-31

 

Bài đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó: TN 22-C85


Bài đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó là con đường dẫn đến Thiên Chúa.

Dt 12, 18-19, 22-24

Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái nêu bật sự tương phản giữa Giao Ước Cũ, ở đó Thiên Chúa tỏ mình ra trong quang cảnh kinh thiên động địa, và Giao Ước Mới, ở đó Thiên Chúa hành động trong nội tâm, tất cả đều xảy ra trong trật tự tinh thần. Con đường khiêm hạ này dẫn đến thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc.

Lc 14, 1, 7-14

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra bài học về đức khiêm tốn trong một bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu khi ngỏ lời với các vị khách mời.

BÀI ĐỌC I (Hc 3, 17-21, 30-31)

Ông Ben Xi-ra, một bậc vị vọng thành Giê-ru-sa-lem và là một hiền nhân, sống vào cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông ghi lại giáo huấn và kinh nghiệm của ông vào năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau đó, tác phẩm của ông được người cháu trai của ông dịch sang tiếng Hy-lạp.

1. Ý hướng của Tác Phẩm:

Sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-325 trước Công Nguyên), vùng Cận Đông mở cửa đón văn hóa Hy-lạp. Miền Pa-lét-tin không tránh khỏi trào lưu này (nhất là vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên). Những môi trường của giới quý tộc Giê-ru-sa-lem cũng như vài giáo sĩ cho thấy sẵn lòng đón nhận ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Ben Xi-ra không phải không nhạy bén với tư tưởng Hy-lạp, ông biết trường phái triết học Khắc Kỷ, nhưng ông tiên cảm một mối nguy hiểm đối với Do thái giáo. Ông để hết tâm trí vào việc phục hưng những giá trị truyền thống. Theo ông, sự khôn ngoan đích thực là sự khôn ngoan của dân Israel, vì Thiên Chúa là mẫu mực khôn ngoan của dân Ngài và Lề Luật là cách thức diễn tả sự khôn ngoan của Ngài.

Sách của hiền nhân Ben Xi-ra là loại cẩm nang thực hành cho người Do thái trung thành. Sách chứa đựng những lời khuyên cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi đề tài đều được đề cập đến. Trong đoạn trích hôm nay, đề tài được bàn đến là đức khiêm tốn. Đây là một đức hạnh tiêu biểu Kinh Thánh, mà người ta không gặp thấy ở nơi nền luân lý ngoại giáo.

2. Ca ngợi đức khiêm tốn:

“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm tốn”. Ông Ben Xi-ra ngỏ lời với môn đệ của mình, hiện tại hay trong tương lai, như một người cha với đứa con của mình. Đây là cách xưng hô quen thuộc của thầy đối môn đệ của mình được xem như đứa con tinh thần của mình.

Đây không là lòng quý mến dành cho đức khiêm tốn một cách trừu tượng, nhưng lời khuyên thực hành nhân đức này, việc thực hành phải thấm đẩm mọi hành vi của cuộc sống. Sách Châm Ngôn cũng được điểm xuyến bằng những lời khuyên tương tự, không kể đến các Thánh Vịnh, sách Gióp, vân vân. Xa hơn nữa, không phải là ông Mô-sê được ca ngợi như là “một con người rất đổi khiêm nhu, không ai như thế trong mọi người có trên mặt đất” (Ds 12,3) sao? Mặt khác, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tiên báo hành động của Đức Chúa theo chiều hướng này: “Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nơi nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (Xp 3,11-12).

3. “Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”:

“Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”, có nghĩa“con sẽ được sủng ái trước nhan Thiên Chúa”. Cách nói Kinh Thánh kinh điển này sẽ được củng cố trong Tin Mừng hôm nay khi gia chủ nói với người ngồi ở chỗ cuối: “Xin mời ông bạn lên chỗ trên cho”.

4. Lên án thói kiêu ngạo:

Tiếp đó tác giả cho thấy rằng kẻ kiêu ngạo dẫn đến thảm họa. Lời kết án chỉ được gói gọn trong một câu: “Thảm trạng của người kiêu căng thật vô phương cứu chữa, vì sự ác đã đâm rễ vào lòng họ”. Hình ảnh thật mãnh mẽ: thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.

5. Đức khiêm tốn: biết lắng tai nghe:

“Ước nguyện của hiền nhân là biết lắng tai nghe”. Nghệ thuật của hiền nhân là biết lắng nghe, như lời cầu nguyện của vua Salômon, vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1V 3,9). Suy cho cùng, thái độ này là thái độ khiêm tốn, thái độ lành thánh, vì nó dẫn đến việc gẫm suy và học hỏi sự khôn ngoan.

BÀI ĐỌC II (Dt 12, 18-19, 22-24a)

Bản văn này là đoạn trích dẫn cuối cùng thư gởi các tín hữu Do thái trong Phụng Vụ Chúa Nhật năm C này. Tác giả ngỏ lời với những Kitô hữu gốc Do thái, những người này luyến nhớ những buổi phụng tự hoành tráng và uy nghi của Giao Ước Cũ so với các nghi thức Kitô giáo quá giản dị. Tác giả khuyên họ bằng những lời lẽ đầy hình tượng. Trong một bức tranh rất song đối, ông sẽ đối lập những nét đặc trưng của Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới.

1. Phẩm chất của người Kitô hữu thuộc trật tự tinh thần:

Tác giả phác họa bức tranh bộ đôi tương phản giữa dân Giao Ước Cũ tiến đến núi Xi-nai hữu hình và dân Giao Ước Mới tiến đến thành đô Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem thiên quốc. Việc gia nhập vào Tân Ước qua việc hoán cải thuộc trật tự tinh thần, và phép Rửa biến đổi con người từ phàm nhân sang con cái Thiên Chúa cũng hoàn toàn thuộc nội tâm.

2. Khía cạnh trần thế của Giao Ước Cũ:

Giao Ước Cũ được ký kết trên núi Xi-nai giữa những dấu chỉ khả giác và trong quang cảnh kinh thiên động địa: lửa, sấm chớp, mây mù, bóng tối, giông tố trong tiếng kèn vang dậy và tiếng nói thét gào đến nổi con cái Israel phải kinh hoàng sợ hãi đến mức hồn xiêu phách lạc.

3. Khía cạnh thiên quốc của Giao Ước Mới:

Núi Xi-nai đối lập với núi Xi-on, núi này cũng là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng là thành đô thiên quốc với muôn vàn thiên sứ.

Dân của thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc sống trong bầu khí hân hoan chứ không trong tâm trạng run rẩy sợ hãi: “Anh em đến dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Diễn ngữ “những kẻ đã được ghi tên trên trời” là hình ảnh Kinh Thánh Cựu Ước (Xh 32, 32; Is 4, 3; Đn 12,1; Tv 69,29), được sách Khải Huyền lấy lại dưới tên gọi “Sổ Trường Sinh” (Kh 3,5; 13,8, v.v…). Thuật ngữ “con đầu lòng” ở Israel hàm chứa những người được hưởng những đặc quyền và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, con đầu lòng tuyệt vời là Đức Kitô. Chính ở nơi Ngài mà “những người công chính đã được nên hoàn thiện” được dự phần vào những đặc quyền của Ngài. Để chỉ cuộc hội tụ các thánh này, tác giả sử dụng từ Ekklesia, nghĩa là Giáo Hội, Giáo Hội thiên quốc, Giê-ru-sa-lem trên trời.

Đó là bức tranh mà tác giả phác họa nhằm gởi đến các Kitô hữu gốc Do thái này mà đức tin của họ bị chao đảo, thậm chí có vài người có ý định quay trở lại quá khứ xưa kia. Đức Giêsu Kitô là đích điểm mà họ tiến đến. Khi trở thành người Kitô hữu, họ tiến bước về Chúa Kitô, Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới và Ngài sẽ dẫn họ về Thiên Chúa, “Đấng xét xử mọi người”.

TIN MỪNG (Lc 14, 1. 7-14)

Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất kể ra ba lần những người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà mình dùng bữa (Lc 7,35; 11, 27; 14, 1-14). Vì thế, chúng ta nhận ra rằng những người Pharisêu mở rộng cửa đón tiếp Chúa Giêsu để dò xét Ngài rõ hơn. Chúng ta đã có dịp đọc một trong ba câu chuyện này rồi, đó là tại nhà một người Pharisêu ở đó đã diễn ra tình tiết về một người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (Chúa Nhật XI).

Chúa Giêsu của Tin Mừng Luca là Chúa Giêsu của mọi người, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, dù chống đối hay dò xét Ngài, để hy vọng đưa họ về đường ngay nẻo chính. Vì thế, Chúa Giêsu thường không bỏ lỡ những cơ hội như vậy để gởi đến cho những người Pharisêu những bài học nhớ đời, vừa mang tính xã hội vừa đầy ý nghĩa tôn giáo.

1. Một ngày sa-bát:

Vào ngày sa-bát, phụng vụ trong hội đường đã diễn ra vào ban sáng. Bữa ăn trưa, thường long trọng, được định vị sau phụng vụ tại hội đường. Vào dịp này, một viên trưởng hội đường long trọng đón tiếp Ngài. Những khách được mời rất đông. Chúa Giêsu quan sát thái độ của họ. Chính những khách mời này mà Ngài ngỏ lời trước tiên về đức khiêm tốn: hãy khiêm tốn chọn chỗ ngồi cho mình trong bàn tiệc để sau này được Chúa sắp chỗ trong Nước Trời. Tiếp đó, Ngài quay về gia chủ để cho ông một lời khuyên Đức Ái về việc mời người dự tiệc trong hoàn cảnh xã hội cụ thể ở đó có những người bất hạnh.

2. Bài học về đức khiêm tốn:

Chúa Giêsu lên tiếng như một hiền nhân. Ngài nhắc lại đạo xử thế của các khách mời dự tiệc. Sách Châm Ngôn đã dạy đạo xử thế này theo cùng một cách tương tự: “Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25, 6-7).

Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến thái độ của khách mời dự tiệc, nhưng gián tiếp nhắm đến thái độ của những người Pharisêu mà Ngài quở trách “ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Lc 20, 46). Từ đó, Chúa Giêsu rút ra một câu kết luận: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu cũng sẽ lập lại lời cảnh báo này khi kết thúc dụ ngôn về người Pharisêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18, 14).

Đây là câu kết luận của bài học về đức khiêm tốn về mặt xã hội nhưng cũng là chìa khóa để hiểu bài học về mặt thiêng liêng. Chủ từ của thể thụ động được dùng ở đây chính là Thiên Chúa và thì tương lai được dùng ở đây để chỉ về ngày sau hết, ngày chung thẩm. Như thế bài học về đức khiêm tốn không chỉ dạy về phép đối nhân xử thế trong cuộc sống thường ngày nhưng còn mang tính tôn giáo nữa: những người Pharisêu tự cho mình là dân Chúa chọn, được hưởng những đặc ân, thì hãy coi chừng, có thể sẽ ngồi vào chỗ rốt hết (Lc 13, 28-30).

Thật là có ý nghĩa biết bao khi mà những lời đầu tiên của Đức Giêsu là: “Khi anh được mời đi ăn cưới…”. Hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh bữa tiệc cánh chung, tự nó biểu tượng hạnh phúc của những người công chính trong Nước Thiên Chúa, đặc biệt Mt 22, 1-10 ở đó những khách được mời lại không được tham dự bàn tiệc trong khi những kẻ bé mọn lại được dự phần vào tiệc cưới.

3. Bài học phục vụ trong khiêm tốn:

Chúa Giêsu không chỉ nghĩ đến những người Pharisêu; Ngài đã ngạc nhiên và sẽ còn ngạc nhiên khi gặp thấy những thái độ như thế tại các môn đệ của Ngài. Thánh Lu-ca tường thuật chính xác vào buổi chiều Tiệc Ly các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu phải nên người phục vụ” (Lc 22, 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giêsu cũng đưa ra cho các môn đệ Ngài bài học như thế, nhưng trong một bối cảnh khác: “Trong anh em, người nào lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 11-12).

4. Bài học về Đức Ái:

Bài học Chúa Giêsu gởi đến cho gia chủ cũng mạnh mẽ không kém. Bài học này không mang giọng điệu của phép xử thế. Hoàn toàn trái với thông lệ của người Do thái vốn khinh chê những người bất hạnh này, Chúa Giêsu mời gọi gia chủ mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Lý do mà Ngài đưa ra: không tìm kiếm những phần thưởng trần thế cho những cử chỉ bác ái, nhưng chờ đợi những phần thưởng của Nước Trời: “Họ không có gì trả lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Hành động một cách vô vị lợi, cho một cách hoàn toàn nhưng không.

Tiếp đó, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn của Ngài bằng một dụ ngôn khác: dụ ngôn“khách được mời xin kiếu, thay vào đó là “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (14: 21). Cũng một bài học tương tự.

-------------------------------

 

TN 22-C86. NHẬN VÀ CHO NHƯNG-KHÔNG

 

Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức ( Lourdes ) nước Pháp, chị Bernadette: TN 22-C86


Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức ( Lourdes ) nước Pháp, chị Bernadette Soubirous ( 1844 – 1879 ) đã xin vào một Tu Viện Dòng Kín ở Nevers. Một Chúa Nhật kia, vào năm 1876, một Nữ Tu đưa cho Bernadette xem bức ảnh người ta chụp chị ở hang đá Lộ Đức trước đây để xem phản ứng chị thế nào.

Đang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên Bernadette hỏi:

- Người ta dùng chổi để làm gì hả chị ?

- Để quét nhà.

- Quét xong họ để chổi ở đâu ?

- Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ "cư trú" thường lệ của nó. 

- Đời em cũng thế chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi ! ( Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, “Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng” ).

Hôm nay trong trình thuật Tin Mừng theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đến dự tiệc do một thủ lãnh Pharisêu khoản đãi. Thấy thói đời bon chen, giành nhau ghế đầu, cũng như ưa phục vụ người cao sang, quyền quý, hay bạn bè, thân hữu, Người nhắn nhủ về thái độ nhận và cho. Chị Bernadette nhận được ơn trọng đại, đã chia sẻ cho mọi người, rồi chị âm thầm ẩn mình vào Dòng Kín, noi gương Mẹ khiêm nhường.

Nhận

Nhận là lãnh, thâu lấy cái gì người khác trao, gửi, đem đến cho mình, từ vật chất đến tinh thần. Nhận quà cáp, nhận lời mời dự tiệc, nhận lời khen, tiếng chê. Trong quan hệ gia đình, cộng đoàn hay xã hội, nhận và cho thể hiện mối quan hệ hỗ tương giữa hai người, hay giữa cá nhân với tập thể, hoặc ngược lại.

Nơi bản thân, mỗi người cũng tự nhận mình như thế này, thế nọ. Thường dễ cường điệu, chủ quan, tự trang điểm, nhuận sắc cho mình hay ho, tốt lành, đẹp đẽ. Thường tánh kiêu ngạo tiềm tàng khiến người ta luôn cảm thấy tự mãn, hợm hĩnh, cho mình giỏi giang, khôn ngoan, thông minh, tài năng hơn tha nhân. Nhất là bao giờ cũng cho mình có giá trị hơn người khác, vượt trội hơn, cao trọng hơn. Mình luôn luôn là... number one ! Dĩ nhiên, cũng không thiếu kẻ lại mặc cảm tự ti, luôn cảm thấy thua kém thiên hạ.

Chúa Giêsu khuyên nhủ hãy khiêm tốn ngồi vào chỗ cuối, để nhìn lại bản thân cho kỹ. Biết sự thật về mình, vốn là thọ tạo, đầy khiếm khuyết, đầy nết hư tật xấu. Hơn nữa, còn lấm lem tội lỗi kín đáo, chắc gì tốt lành hơn ai, mà cứ còn đòi chọn chỗ nhất mà ngồi.

“Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo ‘Xin mời ông lên trên !’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” ( Cn 25, 6 – 7 ).

Quan trọng nhất là hiểu biết mình đang nhận hồng ân của Thiên Chúa ban cho mình, từ khi  tượng thai cho đến khi quay về với cát bụi. “Tất cả đều là hồng ân !” như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thốt lên. Nhận được những ơn phúc tràn trề, chúng ta mới có điều kiện thăng tiến, phát triển thân xác cũng như tình cảm và trí tuệ, hơn người này kẻ kia. Nếu họ cũng có cơ hội như chúng ta, và khéo léo dùng vốn liếng Chúa ban cho, có khi còn kết quả, thành đạt hơn chúng ta.

Do vậy, luôn sống khiêm nhường, tự hạ, bé nhỏ, tầm thường, mới có thể nhận thức thân phận bọt bèo, mà cảm tạ tri ân, ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa, để không còn dám vênh váo, tự mãn, kiêu ngạo, trước mặt thiên hạ.

“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc 1, 52).

Hiểu thấu thân phận vốn nghèo nàn, được nhận lãnh biết bao hồng ân, mà người đời quen coi là may mắn, mới trân trọng nhân đức khiêm nhu, tự hạ. Thánh Phanxicô Borgia thấm thía tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo của Chúa Giêsu: "Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Ðức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy." Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Ðức Giêsu.”

Cho

Nếu đã nhận nhưng-không những ơn huệ Chúa ban tặng, thì cũng biết cho đi nhưng-không, biết phục vụ vô tư, không vụ lợi, không đặt điều kiện với người nhận, người được phục vụ, không màng đến chuyện trả ơn báo đáp. Vì tất cả việc tốt lành, hy sinh, bác ái chưa thể nào đền đáp, sánh nổi những gì đã nhận miễn phí từ Thiên Chúa.

Cho đi âm thầm, không khoa trương, không đánh trống, khua chiêng, thổi kèn, hầu kiếm chút danh thơm phù phiếm. Vì Đức Giêsu đã dăn dặn: “Còn anh em khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” ( Mt 6, 1 – 4 ).

Cho đi cả thương yêu, không đắn đo tiếc rẻ. ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" ( Lc 6, 38 ).

Cho đi vô tư là phục vụ tận tình. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" ( Mc 10, 45 ).

Cho đi cả cuộc đời, như, noi gương Đức Giêsu chịu khổ nạn để cứu độ nhân loại, thánh Maximiliano Kolbe chết đi thay người bạn tù. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).

“Người khiêm nhường như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp !” ( Đường Hy Vọng, số 517 ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn thương yêu những tâm hồn bé bỏng, đơn sơ, khiêm nhu, bác ái. Xin dạy chúng con biết khiêm nhường mà dấn thân phục vụ vô vị lợi, để được Chúa yêu nhiều hơn.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã thấu hiểu tình yêu Chúa dành cho những ai khiêm tốn, nhỏ bé khi Mẹ ca tụng: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc1, 52 ). Xin Mẹ luôn luốn nhắc nhở và dạy chúng con biết khiêm nhường, để được Chúa đoái thượng phận hèn tôi tớ. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

-------------------------------

 

TN 22-C87. XIN MỘT CHỖ NHẤT TRONG ĐẤT THÁNH

 

Một tờ di chúc ghi rằng: “Các con biết đó, ba đã làm ông Chánh Trương ở Giáo Xứ này liên tiếp 5 nhiệm: TN 22-C87


Một tờ di chúc ghi rằng:

“Các con biết đó, ba đã làm ông Chánh Trương ở Giáo Xứ này liên tiếp 5 nhiệm kỳ 4 năm, tức là 20 năm rồi. Ba đã hy sinh cho Nhà Thờ Nhà Thánh này quá nhiều rồi. Vì vậy ba dặn các con mấy việc cần làm lúc ba ra đi:

Một là xin một chỗ trong Đất Thánh gần bàn thờ nhất.

Hai là xin Cha Sở cho làm Lễ đồng tế.

Ba là báo tin, mời các cha N, cha Đ và cha C về làm Lễ đồng tế.

Bốn là mời Đội Kèn TX về thổi hai ngày. Đừng mời Đội Kèn XL vừa xa, vừa dở, lại tốn kém.

Năm là không nhận tiền phúng điếu, nhưng vòng hoa càng nhiều càng tốt...”

Có người ngoài gia đình đọc được tờ di chúc, nhận định:

“Khi sống, đòi làm cho được ông kia bà nọ để cưỡi đầu cưỡi cổ người ta, đòi ăn trên ngồi trốc, đòi một chỗ danh dự trong Nhà Thờ, trong hội nghị, trong đám tiệc... đã đành, đến lúc chết, lại đòi phải an táng trọng thể, Lễ đồng tế, kèn trống, vòng hoa, xe và người tiễn đưa thật đông... và nhất là phải xin cho được một chỗ trong Đất Thánh, gần bàn thờ nhất…thì đúng là “chứng nào tật ấy” !

Thật là uổng phí thời gian khi phải bận tâm, lo toan chuẩn bị cho cái chết của mình thật chu đáo theo kiểu của người ở đâu cũng đòi làm ông lớn ! Chết mà cũng đòi làm lớn ! Ngán ngẫm thật !”

Tôi không biết cách nào bào chữa cho người quá cố hơn là: “Thông cảm đi mà... Có thể là cụ nghĩ mình tội lỗi, nên xin được nhiều Thánh Lễ, nhiều lời cầu nguyện để được Chúa sớm thứ tha”.

Có người lại nhắc câu chuyện về anh Hai Dung, người trông coi nghĩa trang Giáo Xứ của chúng tôi. Đêm ấy, anh Hai ngủ rồi ra đi luôn. Mọi người thương tiếc lắm. Đám tang đông. Trước khi hạ huyệt, một thân nhân đọc lời cảm tạ, có câu: “Xin cảm ơn quí vị đã thương đưa ông, anh… chúng tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng”. Một người nhắc lại câu nói rất hay của anh Hai Dung lúc còn đang xây các kim tĩnh ở nghĩa trang: “Biết đâu là nơi an nghỉ cuối cùng ? Nó mà qui hoạch thì lo mà hốt xác, bốc mộ. Chỉ có Chúa mới là nơi an nghỉ cuối cùng mà thôi”.

Một chỗ xứng đáng trong Nhà Thờ, một chỗ trọng vọng nơi hội nghị, nơi bàn tiệc và kể cả một chỗ trong Đất Thánh gần bàn thờ nhất có bảo đảm cho chúng ta một chỗ trong Nước Thiên Chúa không ?

Một đội hay hai ba đội kèn đồng thổi bát nháo đủ loại bài của đủ loại Mùa Phụng Vụ, có bảo đảm cho linh hồn ta được Nhạc Đoàn các Thiên Thần trổi lên muôn cung dìu dặt vui mừng tiếp đón linh hồn ta vào Nước Thiên Chúa không ?

Lễ an táng của một Giáo Dân được tổ chức long trọng, đông cha đồng tế, đông người tham dự do bởi giàu có, bởi thân quen hay bởi được hưởng một đặc ân nào đó, có là tín hiệu đáng trân trọng rằng người ấy, linh hồn ấy sẽ được đoàn các Thánh trên Trời nghinh đón vào Nước Chúa không ?

Nếu việc cử hành trọng thể Lễ An Táng là bằng chứng được Ơn Cứu Rỗi của một người, thì cái chết của những người nghèo hèn bé nhỏ kia, không kèn không trống, chẳng có cái vòng hoa nào, không mấy người khóc thương đưa tiễn, may ra con chó thương chủ buồn bã lẽo đẽo theo sau chiếc quan tài… lại là cái chết hẩm hiu xấu số và phải mất phần linh hồn đời đời sao ?

Con mắt, cái nhìn, cái suy nghĩ của người trần gian lúc nào cũng dừng lại ở chỗ quí chuộng những sự sang trọng bên ngoài, mà không vượt qua và tiến tới chỗ siêu nhiên hơn được sao ?

Tôi không dám phê phán hay chê bai cách tổ chức Lễ An Táng thế nào, nhưng xin lấy Lời Chúa hôm nay mà cảm thấy tiếc cho chính tôi, cho bạn, cho tất cả những ai bận tâm về việc hậu sự của chính mình. Một mối bận tâm vô ích ! Đổi lại, nên bận tâm đến cách sống hôm nay thế nào cho đẹp lòng tha nhân, cho đẹp lòng Chúa.

Quả thực, Lời Chúa hôm nay Chúa Nhật 22 TN C cảnh tỉnh chúng ta phải biết bỏ cho dứt cái thói kiêu căng cao ngạo, tránh cho xa mọi thủ đoạn tiềm tàng trong lòng mình xúi giục mình tôn vinh chính mình quá đáng. Chúng ta có mặt ở một đám cưới. Thấy khách dự tiệc tranh nhau tìm một chỗ ngồi cho ra vẻ mình là người quan trọng, người giàu có, quyền thế uy tín, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này ngay để mở lòng cho con người biết về sự quyết liệt của Thiên Chúa: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

Phải bỏ cho dứt cái kiêu ngạo, vì kiêu ngạo chính là bản tính của ma quỷ luôn sống trong sự hận thù, bất an, bản tính của thế lực đối lập chống lại Thiên Chúa khiêm nhường, đầy tình yêu thương nhân hậu và bình an.

Vì kiêu ngạo là bản tính của ma quỷ, nên kiêu ngạo luôn có nhiều chiêu thức khôn ranh đáng sợ. Nó có phép tàng hình hoặc ẩn nấp sâu trong cõi lòng mình mà chính mình cũng chẳng nhận ra. Nó đang ru ta ngủ trong cái khiêm tốn ảo tưởng, giả dối. Kẻ giàu người nghèo, người có học hay kẻ mù chữ, đấng có Chức Thánh cao trọng hay người Giáo Dân bần cùng thấp bé… không ai tránh khỏi lưới dò của ma quỷ về sự kiêu ngạo.

Chúa Giêsu quyết liệt với sự kiêu ngạo là vì bản tính của Thiên Chúa là khiêm cung. Và chỉ có khiêm cung mới có tình yêu, lòng khoan dung, nhân hậu.

Ngài cũng mở cho chúng ta biết về Bữa Tiệc Cưới trong Nước Thiên Chúa dành cho những ai khiêm nhượng, nghèo hèn: “Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”. Người nghèo khó không có chi đáp đền. Bữa tiệc của Thiên Chúa là một tình thương cho đi một cách nhưng-không, không giống như bữa tiệc đời chỉ toàn chuyện có vay có trả.

Trong số các bài thơ của Thi Ca Cầu Nguyện số 129, có bài “Xuống” của Hương Nam, xin được trích mấy đoạn sau đây:

Đức khiêm cung mãi luôn là mực thước
Nước Thiên Đàng cho kẻ trước, người sau
Chỉ khiêm cung, người mới biết yêu nhau
Như Ngài đã vì yêu nên bước xuống.
Chỉ khiêm cung mới thứ tha vô lượng
Tội kiêu căng cao ngất ngưỡng trời mây
Chỉ khiêm cung mới chấp nhận đọa đày
Động lòng Cha mở ngày hồng cứu rỗi.
Chỉ khiêm cung mang thân đời phạm tội
Cho tội nhân biết sám hối quay về
Chỉ khiêm cung mới to nhỏ tỉ tê
Người phản bội tràn trề niềm thương xót.
Chỉ khiêm cung mới có lời yêu ngọt
Dịu lòng đời đã trót kiếp hư thân
Chỉ khiêm cung mới tỏ đức khoan nhân
Mở kho thánh cho bần dân cơ khổ.
Chỉ khiêm cung mới chịu mình sụp đổ
Để dựng xây trời đất mới vinh quang
Chỉ khiêm cung mới kéo cả Thiên Đàng
Xuống trần giới ban bình an muôn thuở.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã mạc khải cho chúng con một Thiên Chúa Khiêm Nhường và Yêu Thương, Đấng mời chúng con học bài “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”, xin cho chúng con biết liên kết với Chúa để nên khiêm nhượng và yêu thương, để xứng đáng dự Tiệc trong Nước Chúa, Nước của những kẻ hiền lành và khiêm nhượng thật sự. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 27.8.2013

-------------------------------

 

TN 22-C88. HÃY KHIÊM NHƯỜNG

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước: TN 22-C88


Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức Khiêm Nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” ( Lc 14, 11 ).

Theo truyền thống của người Do Thái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập chú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc ( x. Lc 12, 7 – 11 ). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.

Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.

Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” ( x. GLHTCG số 1866 ).

Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”

Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.

Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.

Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.

Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ. Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi… ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay !

Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định… thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa ?

Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.

Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Ađam, Evà; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.

Tũ Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

-------------------------------

 

TN 22-C89. NGỌN ĐÈN DƯỚI CHÂN BÀN THỜ

 

Ước muốn được nổi nang, được vinh dự, được nhiều người biết đến, nhiều người quan tâm là một: TN 22-C89.


Ước muốn được nổi nang, được vinh dự, được nhiều người biết đến, nhiều người quan tâm là một trong những nhu cầu thiết yếu của nhân loại. Nhu cầu đó thật ra không có gì xấu, nếu biết dung hòa và dừng đúng chỗ. Vì con người được sinh ra cho nhau và vì nhau, không ai có thể sống một mình, chẳng ai có thể tồn tại như một hòn đảo, cô quạnh, biệt lập. Người ta cần biết đến nhau để chia sẻ, để trao đổi những tâm tư tình cảm. Sự thấu hiểu, sự cảm thông, sự nâng đỡ của người này là sức mạnh cho người kia tồn tại.

Thế nhưng, theo thời gian, với vòng xoáy của những tham vọng cuộc sống, nhu cầu ấy bị thoái hóa, người ta muốn được mọi người biết đến không phải vì nhu cầu giao tiếp nữa nhưng là vì muốn được nổi nang, được hơn người.

Để giúp con người thoát khỏi cạm bẫy của tham vọng, Đức Giêsu đã dạy cho chúng ta một bài học về sự khiêm nhường: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” ( Lc 14, 8 – 9 ).

Một dẫn dụ hết sức sống động, cụ thể và thực tế. Không chỉ có trên lời giảng thuyết hay sách vở mà có thật trong cuộc sống. Người ta vẫn thích được trọng vọng, được xem là quan trọng hơn người. Thế nên, nếu có phải mất tiền bạc, tình cảm hay sự nghiệp để đổi lấy cái danh vọng hão huyền ấy, nhân loại vẫn dám !

Trên hết các đức tính nhân bản mà con người cần phải có chính là đức khiêm nhường, đó là nền tảng của mọi nhân đức. Ở đâu có khiêm nhường nơi ấy là tình yêu và bình an, hiệp nhất. Ngược lại, ai càng tự cao tự đại, tự đề cao mình người ấy càng gặt được những sỉ nhục và oán ghét.

Đức Giêsu đã căn dặn hết sức cẩn thận về việc luyện tập đức tính này: “Khi được mời thì anh hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: xin mời ông bạn lên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn, vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” ( Lc 14, 10 – 11 ).

          Lời căn dặn của Đức Giêsu hôm nay có lẽ không mấy ai là không hiểu, nhưng vấn đề hệ tại ở việc hiểu đấy nhưng thực hiện làm sao đây. Hiểu chỉ là một lẽ, lẽ còn lại quan trọng hơn, hiểu được nhưng có làm được không kìa. Trớ trêu thay, thời đại hôm nay, khi nền văn minh phát triển, con người dần dần trở thành thiên tài có thể phát minh sáng chế ra những vật dụng thông minh để phục vụ con người một cách tiện ích, vậy mà sự ý thức về các phẩm chất đạo đức và nhân bản xem chừng như ngày càng tàn lụi, sói mòn.

Ý thức trở thành con người trưởng thành cả về nhân bản và tâm linh của nhân loại ngày nay yếu kém lắm, người ta chỉ sống cho bản thân và phục vụ nhu cầu bản thân sao cho thỏa mãn các tham vọng, dục vọng mà thôi. Thế nên, ai cũng muốn trở thành top ten, ai cũng muốn chiếm hàng danh dự, chiếm ghế nhất, chiếm không được lại quay ra xâu xé, sát hại lẫn nhau. Người trong cùng một nhà chia rẽ, người trong cùng một công sở đấu đá, người trong cùng một tổ chức ganh ghét… Cứ thế, cứ thế ghế nhất thì thiếu nhưng chỗ rốt hết lại quá dư thừa. Xã hội ngày càng khiên cưỡng, khập khễnh là vậy !

Lạy Chúa, hiểu được việc khiêm nhường thì dễ nhưng sống đức khiêm nhường khó khăn biết chừng nào. Dường như việc hạ mình để người khác lớn lên khó hơn cả nỗi vất vả của cuộc sống. Cái hào nhoáng của tham vọng chiếm lĩnh toàn bộ đời sống nhân loại, giờ đây nói phải bỏ mình, phải tự hạ để cho người khác lớn lên khó quá. Làm sao con có thể thực hiện được điều ấy nếu như không hiểu rằng vinh hoa phú quí, quyền cao chức trọng có là gì ? Người đời ca tụng đó hôm nay nhưng chẳng mấy chốc lại phỉ báng, loại trừ ngày mai. Thói đời là vậy !

Xin giúp con hiểu rằng, chỉ cần sống âm thầm trước mặt Chúa, chu toàn mọi bổn phận hằng ngày trong lương tâm và trách nhiệm. Thế giới làm gì có chân lý, làm sao có công chính nếu loại trừ Thiên Chúa ? Ý thức được vậy, con sẽ luôn mãi bình an và hạnh phúc, chỉ cần làm một ngọn đèn dầu nhỏ dưới chân bàn thờ Chúa đã là đủ, cần gì đến chỗ nhất, ghế nhất nơi chốn phồn hoa đông người gian dối và giả trá ấy, phải không ?

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

-------------------------------

 

TN 22-C90. SỰ THẬT KHÔNG NHÌN THẤY


Lc 14, 1.7-14

1/ Khi anh được mời ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất...hãy ngồi vào chỗ cuối..

 

Khi giải thích đoạn nầy thường người ta nói là khiêm nhường. Khiêm nhường hiểu là nhường chỗ trên: TN 22-C90


Khi giải thích đoạn nầy thường người ta nói là khiêm nhường. Khiêm nhường hiểu là nhường chỗ trên chọn chỗ duới hoặc hạ thấp mình. Còn nói chọn chỗ rốt để được mời lên thì không là khiêm nhường, khiêm tốn gì đâu. Gọi là humilite accrochee. Phải hiểu lời nầy của Đức Giêsu thế nào?

Nghĩa đời thường: khi đi ăn tiệc thì nên thận trọng vì không biết chủ nhà mời ai với ai, ai lớn hơn mình, không biết chỗ đứng của mình là chỗ nào. Nên chờ chủ nhà xếp cho. Trong khi chờ thì tạm chỗ nào đó. Nhưng nếu ngồi cao bị mời xuống thì ê quá nên thận trọng là ngồi dưới, rốt cũng được để khi chủ nhà sắp chỗ thì được mời lên ít ra thí cũng không phải ê. Dè dặt thì tốt.

Còn những kẻ tự cao tự đại, chọn chỗ nhất, không tự lượng sức mình, bị mời xuống thì phải ê là đáng!

Đức Giêsu không nhằm dạy sự khôn ngoan đời thuờng theo kiểu thế gian mà là muốn dạy về Nước Trời nên phải coi đây là dụ ngôn.

Trước hết hãy xem gương Đức Giêsu:

Người không nghĩ phải "dành được ngang hàng với Thiên Chúa" mà Người tự khiêm, tự hạ đến tự hủy, làm nguời thấp hèn, vâng phục cho đến chết và chết thập tự. Thiên Chúa làm người và làm người nhỏ nhoi. Hạ mình không phải là yếu đuối, là kém cõi mà là "cái dủng của thánh nhân", là sự vĩ đại của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới làm nổi, mới làm đuợc. Vì thế Người được siêu tôn vì Thiên Chúa "nâng cao những người phận nhỏ, đề cao những kẻ khiêm nhường"....

Thiên Chúa làm người và làm người thấp hèn để dạy con nguời biết thân phận con người mà biết làm người đúng là người. Nhưng con người thì thích làm Chúa. Người ta thích câu: Chúa làm người để người làm Chúa.

Khiêm nhuờng nghĩa là gì? Thần học luân lý định nghĩa: Nhìn nhận đúng sự thật về chính mình. Đây là điều mà Thiên Chúa muốn và chờ đợi nơi con người.

Nếu đến tiệc cưới chủ nhà có dán tên khách mời trên lưng ghế thì mọi người cứ chỗ có tên mình mà ngồi vào thì không có vấn đề mời lên mời xuống . Đúng trật tự rồi. Nếu ai cố tình ngồi trên thì phải bị mời xuống là tất nhiên. Phải đúng trật tự mới được. Còn nếu cố tình ngồi dưới để được mời lên thì làm rối trật tự sẽ phiền chủ nhà.

Về trật tự trong Nước Trời thì rõ ràng con người phải nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình, nhìn nhận mọi sự mình có là của Chúa ban và có bổn phận sinh lợi theo ý Chúa là chủ, là Tạo Hóa, là Đấng ban cho .Phần của ta là cái công sinh lợi. Đừng dựng mình lên làm tề thiên, cốt khỉ thì phải hoàn khỉ không khác được đâu.(khi nghe nói con người là con cháu loài khỉ thì ai ai cũng nhảy dựng lên không chịu nhưng thật là thế).

Thiên Chúa không đòi ta phải hạ mình trước mặt Người như kẻ độc đoán muốn tất cả phải phục lạy dưới chân mình, muốn đi trên đầu trên cổ tất cả. Thiên Chúa chỉ muốn sự thật vì Người là chính sự thật.

Nhìn nhận đúng thực tế của mình, đúng như mình là, là thụ tạo, là được dựng nên từ không, thì là nhỏ bé trước Thiên Chúa. Không đòi tự hạ mà đòi ta phải nhìn nhận mình nhỏ bé đúng như mình là, cái gì là của Chúa cái gì là của ta.

Về mặt luân lý: Cửa trời hẹp, nhỏ mới lọt qua được, to không thể vào. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng.

2/ Khi dọn bữa trưa hay tối thì đừng mời bà con bạn bè....hãy mời những người nghèo khó tàn tật.....họ không có gì đền đáp...ông có phúc vì sẽ được (Thiên Chúa) đền đáp khi các người công cính sống lại.

Đức Giêsu nói chuyện Nước Trời. Đời nầy thì chẳng có ai!

Người ta thường giải nghĩa câu nầy là "vô vị lợi". Bất cứ con vật hay con người không lợi là không làm. Con vật chết vì miếng mồi, con người chết vì miếng ăn. Không có ăn thì không ai chịu dám chết. Phải có lợi và lợi to như Đức Giêsu nói là bội hậu, đời nầy và cả đời sau. Bỏ cái lợi đời nầy để được cái lợi lớn vô cùng và đời đời ở đời sau. Nói rõ như vậy mà còn chưa hấp dẫn được mấy nguời huống chi nói vô vị lợi thì vô phương, không lọt được tai ai ! Thánh Phanxico Xavie mỗi khi được Chúa cho một chút an ủi thì thưa với Chúa: satis, lạy Chúa, đủ rồi, xin để cho đời sau .

Cho cách nào thì được kể có công?

Trước hết chúng ta hãy kể những cái cho không kể:

- Cho vì bổn phận như đóng thuế, cho người thân...
- Cho vì tư lợi như đầu tư, tính toán...
- Cho để tỏ ra là người trên, để được khen..
- Cho để được cảm giác minh làm được việc tốt.


Chỉ có cho vì tình yêu thúc giục, vì Chúa Giêsu "ta đói cho ta ăn, ta khát cho ta uống".., như các tu sĩ của Mẹ Teresa "họ làm mọi sự cực nhọc vì làm cho Chúa Giesu". Cho Chúa thì Chúa mới kể và mới thưởng .

Thiên Chúa bỏ vốn, ta sinh lợi. Thiên Chúa định đoạt về ta nhưng không phải tùy tiện, độc đoán mà theo như "ta có, theo những gì Ta làm, như thể ta là".
Là sự thật 100% mà không ai thấy có lẽ vì không muốn thấy.

Lạy Chúa xin giúp chúng con thấy và nhìn nhận sự thật và sống đúng sự thật về chính mình.

-------------------------------

 

TN 22-C91: KHIÊM TỐN LÀ CÁCH SỐNG CỦA CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI


Lc 14, 7 - 14

 

Với cái nhìn của người đời, ai được ăn trên ngồi trước là người đó cao sang và quyền thế. Người cao: TN 22-C91


Với cái nhìn của người đời, ai được ăn trên ngồi trước là người đó cao sang và quyền thế. Người cao sang và quyền thế sẽ được kẻ hầu người hạ, cơm bưng nước rót... Do đó, người ta sẽ làm tất cả hầu đạt được điều đó. Thậm chí, vì thế người ta có thể bất chấp cả. Thế nhưng, cách suy nghĩ và cách sống ấy lại không phù hợp với cách suy nghĩ và cách sống của một công dân trong nước trời.

Ngày nọ, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc trong nhà kia. Quan sát thấy có nhiều người tranh giành nhau chỗ nhất trong tiệc cưới nên Người nhắc nhở họ: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn " (Lc 14, 8 - 10). Cuối cùng, Chúa Giêsu khẳng định: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14, 11).

"Vỏ quít dày có móng tay nhọn" hay "Núi này cao còn có núi khác cao h ơn ". Cho nên, trong cuộc sống nếu chúng ta cứ mãi theo đuổi những danh vọng và quyền thế ở trần gian này có thể sẽ đến lúc chúng ta sẽ cảm thấy thất vọng tràn trề. Một người sống khiêm tốn sẽ luôn cảm thấy bình an. Bình an vì mình không phải tranh đua để tìm kiếm những thứ mau hư nát đời này.

Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta chọn cách sống phù hợp với Nước Trời là hãy đi con đường hẹp. Tiếp theo lời mời gọi ấy hôm nay Người mời gọi chúng ta sống khiêm tốn. Vì sống khiêm tốn là cách sống rất phù hợp với Nước Trời.

Khiêm tốn là nhìn nhận thân phận thụ tạo mỏng dòn yếu đuối để biết tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tuần qua với gương sáng của Thánh Mônica và con là thánh Augustinô, chúng ta học được cách sống thật khiêm tốn trước Chúa.

Khiêm tốn là biết sống nhường nhịn và tha thứ cho anh chị em. Nhường nhịn và tha thứ có thể sẽ làm cho ta mất một số quyền lợi ở đời này. Nhưng chúng ta xác tín rằng quyền lợi đời này rồi cũng sẽ tan biến.

Khiêm tốn trước Chúa và với anh chị em thật là thái độ sống khôn ngoan của người tín hữu. Biết sống khiêm tốn như thế thì vị thế của chúng ta trong Nước Trời sẽ có phần bảo đảm hơn.

-------------------------------

 

TN 22-C92: CHÚA NÂNG CAO KẺ KHIÊM NHƯỜNG


Lc 14, 1. 7 – 14

"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

 

Chính Chuá Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: Chúa thích những ai có lòng khiêm nhường. Tại: TN 22-C92


Chính Chuá Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: Chúa thích những ai có lòng khiêm nhường. Tại sao vậy? Chúng ta hãy xem khiêm nhường là gì. Theo Tự Điển Công Giáo phổ thông, khiêm nhường là không vượt quá chính mình. Đây là nhơn đức giúp yêu thương mình đúng đắn, dựa trên việc đánh giá đúng vị thế của mình trước mặt Chúa và tha nhân. Khiêm nhường trong tôn giáo là nhận biết mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Khiêm nhường trong luân lý là nhìn nhận mình bình đẳng với người khác, không tự ti, không tự hạ quá đáng nhưng biết nhận ra những ân huệ Chúa ban mà cảm tạ Chúa.

Nhiều người Biệt phái được Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng hôm nay không có lòng khiêm tốn, không biết vị trí của mình, nghĩ rằng mình là đáng kính hơn người khác. Họ vào phòng tiệc thì lo kiếm chỗ nhất. Họ không cần biết ai là quan trọng. Họ cho mình là số 1, không ai hơn họ nữa! Họ thiếu khiêm nhường nên không biết chỗ của mình. Chúa Giêsu là Thiên Chúa đến dự tiệc họ cũng không biết. Trong thực tế, họ muốn chiếm luôn chỗ của chúa. Đó cũng là một hình thức giống tội của nguyên tổ chúng ta: Muốn giành lấy vị trí của Thiên Chúa, mặc dù không có tài cán gì bao nhiêu. Họ không nhớ rằng, nếu Chúa rút ân huệ lại thì con người chỉ là cát bụi hư vô.

Hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống. Vua Saolê xưa kia tự phụ, không biết vâng lời, cãi lại mệnh lệnh Chúa nên bị truất phế. Chúa nâng cao những người phận nhỏ: Chúa chọn Đavít là con út trong gia đình Giêsê. Đavit vóc người thấp bé, không có công trạng gì hơn các anh mình trong gia đình hay xã hội lúc đó. Khi Samuel tới thì Giessê giới thiệu các anh của Đavid cho Samuel. Nhưng chúa lại không chọn ai trong số đó. Chúa chọn Đavid, vóc người bé nhỏ, khiêm nhường... Đến thời viên mãn, Chúa để cho Con Chúa xuống thế làm người. Chúa chọn một thôn nữ ở làng Nazarét, một ngôi làng nhỏ bé không mấy ai biết đến. Chính con Thiên Chúa cũng sinh ra trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn, lớn lên trong cảnh nghèo cơ cực. Chúa đã sẵn sàng trở nên bé nhỏ nghèo hèn để cho chúng ta được lớn lên, được giàu sang, được dồi dào ơn phúc. Và đến lượt chúng ta cũng hãy cứu giúp anh chị em mình. Điều này không phải dễ làm. Người ta có xu hướng nhìn lên, ít ai nhìn xuống. Người ta bỏ ra cái gì thì mong gặt hái ngay một lợi lộc tương tự. Người ta sẵn sàng tốn vài triệu để đãi người có chức tước để nhờ vả chứ ít ai tính lỗ cho mình. Vì vậy, để thực hiện lời Chúa Giêsu, quan tâm đến người nghèo thì phải có lòng kính sợ Chúa, có lòng bác ái theo gương Chúa Giêsu, nhận biết Chúa là Cha, quãng đại khiêm tốn, tôn trọng mọi người và cũng là tự trọng nữa. Vì yêu mến Chúa nên không muốn làm Chúa phải nổi giận, vì anh em thiếu tình tương thân tương ái. Những người nghèo khổ, tàn tật không ai đoái hoài tới, Chúa muốn giúp đỡ cách gián tiếp nhờ lòng bác ái của chúng ta là môn đệ Chúa và cũng là con cái Chúa, thay mặt Chúa ở trần gian. Nếu chúng ta tin có đời sau, tin Chúa là Cha chung của mọi người thì chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người nghèo, để mai sau chính họ sẽ rước chúng ta vào thiên đàng vinh phúc.

-------------------------------

 

TN 22-C93: KHIÊM HẠ


Lc 14, 1. 7 – 14

 

Trong quan hệ xã hội, thái độ cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu. ai ai cũng yêu: TN 22-C93


Trong quan hệ xã hội, thái độ cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu. ai ai cũng yêu mến những con người khiêm nhu, từ tốn. trong đời sống tôn giáo, người tín đồ nào cũng được nhắn nhủ phải biết thân,biết phận mà giác ngộ, mà hối cải tội lỗi, vấp phạm không phải là vật cản nhưng là giúp ta tới gần Chúa. Biết mình tội lỗi, nhìn nhận những lỗi lầm của mình mà sám hối ăn năn, người tín hữu vẫn có thể trở thành thánh thiện, khiêm hạ, đơn sơ trước mặt Chúa, và trước mặt anh em là điều rất quan trọng cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta

Khi tường thuật dụ ngôn "chọn chỗ thấp nhất" Luca không chỉ nhắc lại lời khuyên xử thế của Đức Giêsu, nhưng đối tượng mà Đức Giêsu nhắm tới trước hết là bọn biệt phái Pharisêu cùng đến dự tiệc với người trong nhà ông thủ lãnh nhóm biệt phái. Họ tỏ ra là những con người ham hố chức quyền, địa vị hơn ai hết. Họ muốn tỏ ra cho người khác biết họ quan trọng, đáng kính, đáng nể như thế nào. Thái độ đó đã làm cho Đức Giêsu và những người khác khó chịu, và Ngài đã lên tiếng.

Nhưng đoạn Tin Mừng muốn dẫn chúng ta đi xa hơn như thế. Từ thái độ tham lam, ham hố địa vị, chức quyền. Qua đó muốn dạy chúng ta cũng phải có thái độ khiêm hạ, và biết sống vô vị lợi với anh em. Thật ra, trước mặt Chúa hay trong vương quốc Nước Trời chúng ta có gì mà vênh vang tự đắc, để mà lên mặt dằn đời. tất cả những gì chúng ta có được là do ơn ban của Thiên Chúa mà thôi: Từ sự sống, khả năng cho đến thời gian, của cải sở đắc... chúng ta đều được nhận từ Chúa và tha nhân. Thái độ biết ơn trân trọng là thái độ của kẻ sĩ, của bậc hiền triết Đông Phương. Đức Giêsu còn khuyên chúng ta hãy biết nhìn xa hơn một chút: trong cuộc sống thường thì "mã tầm mã, ngưu tầm ngưu", nghĩa là chúng ta thường nghĩ tới, và thường chỉ quan hệ với những người giống mình, ngang mình... Thế nhưng đức ái Kitô giáo đòi buộc và chỉ dạy chúng ta phải làm hơn như thế nữa, đi xa hơn thế. Chúng ta phải biết nghĩ đến những người cần đến mình hơn là nghĩ đến những người giống mình. Làm ơn , làm điều tốt là giúp cho kẻ thiếu thốn, nghèo hèn tật nguyền... vì chính họ không có khả năng lo cho số phận hẩm hiu của họ, họ cũng không có khả năng đền ơn đáp nghĩa cho những hành động vị tha bác ái của chúng ta. Làm ơn cho kẻ không thể đền ơn thì công lao của chúng ta lại càng được nhân lên vì tính vô vị lợi của nó, tính vị tha trong hành động ấy được nâng cao rất nhiều. Thiên Chúa là Đấng sẽ nâng những con người khiêm hạ lên, thì cũng chính Thiên Chúa sẽ làm cho phúc cũa người ban ơn tràn đầy hơn. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, người khiêm hạ là thế.

Bài học khiêm hạ và vô vị lợi luôn mang tính thời sự, nóng bỏng đối với đời sống cá nhân cũng như đối với tập thể của người có lòng tin. Ai lại dám tin chắc rằng mình luôn sống được với mọi người với thái độ từ tốn, khiêm nhu trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại. Tuy rằng cũng có những người như thế thế, những hiếm lắm. Vì thỉnh thoảng trong ngõ ngách tâm tư có thể làm sống lại và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Lúc đó tinh thần trục lợi, tính toán hơn thiệt dễ dàng luồn lách vào trong tâm trí mỗi người. Thậm chí trong đời sống các linh mục tu sĩ cũng không dễ dàng gì nhận định minh bạch đâu là cầu lợi, cầu vinh, đâu là phục vụ chân chính. Đời sống con người vô cùng tinh vi phức tạp, có rất nhiều "cớ" lành thánh, cũng có nhiều ảo tưởng khiến con người không biết đâu là thật, đâu là giả. Nhưng nếu có che dấu thì chúng ta cũng chỉ có thể che dấu được với con người , với vài người, chứ làm sao chúng ta có thể che dấu được với hết mọi người, với Thiên Chúa.

Đời sống tôn giáo càng được biểu hiện ra ngoài bằng nhiều hình thái tôn giáo dễ coi, dễ nổi.... thì trong tâm hồn chúng ta cần phải đầy tràn tinh thần, khiêm nhu và vô vị lợi. Đức Giêsu chính là mẫu gương của sự thấp hèn, Ngài là Đấng cao cả hơn ai hết nhưng lại chọn chỗ thấp hèn nhất, tăm tối nhất. Ngài cũng là Đấng vô vị lợi nhất, ban phát rộng rãi và nhưng không. Vì thề còn gì mà chúng ta lại không theo gương Ngài sống đúng tư cách là công dân Nước Trời.

Kinh Magnificat là lời kinh bất hữu, ca ngợi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng làm những kỳ công nơi những con người bé mọn, khiêm nhu. Đức Maria là người đã đi đầu cho chúng ta noi theo, vì người sống đúng vai trò nữ tì của Chúa. Bài học khiêm hạ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và của các thánh là cơm bánh giúp chúng ta sống và lớn lên hằng ngày. Chúa yêu thương người nhỏ bé và chúc phúc cho kẻ làm mà không kể công. Amen

-------------------------------

 

TN 22-C94: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN


Lc 14, 1.7-14

John Nguyễn

1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình

 

Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng: TN 22-C94


Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.

Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.

Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: «Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú», và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện «cái tôi», làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để «cái tôi» được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng... Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng «xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ», «thùng rỗng kêu to», càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.

2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình

Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn...). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.

Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam-Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay «sơ cấp» phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay «thứ cấp» có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.

3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo

Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng «muốn có vẻ là có giá trị», hay «muốn được coi là danh giá» nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.

Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.

Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng... Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.

Cầu nguyện
Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen


-------------------------------

 

TN 22-C95: GIẢNG VỀ NHÂN ĐỨC KHIÊM NHƯỢNG


Lc 14, 1.7-14

LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang

 "Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc.14,11)

Sự quan trọng của nhân đức khiêm nhượng
Kiêu ngạo là vua của các tính xấu, là đầu của mọi tội lỗi.

 

Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị Chúa đuổi ra khỏi thiên đàng, trở thành ma quỷ khốn nạn trong: TN 22-C95


Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị Chúa đuổi ra khỏi thiên đàng, trở thành ma quỷ khốn nạn trong hỏa ngục. Vì kiêu ngạo, hai tổ tông loài người là ông Adong và bà Evà bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng, không những làm cho mình bất hạnh, mà còn làm cho con cháu mình sau nầy cũng mất hạnh phúc. Vì kiêu ngạo, tháp Babel bị sụp đổ, tên khổng lồ Goliát bị giết chết. Vì kiêu ngạo, nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế Do Thái ngày xưa bị Chúa Giêsu loại ra khỏi nước Trời.

Trái lại, nhân đức khiêm nhượng là vua của các tính tốt, là vị chỉ huy của các nhân đức. Không có tính tốt nào mà không đặt nền móng trên nhân đức khiêm nhượng, không có nhân đức nào mà không đặt cơ sở trên nhân đức khiêm nhượng.

Chúa không thể nào yêu ta được nếu ta không khiêm nhượng. Kẻ nào kiêu ngạo, Chúa hạ xuống thấp; kẻ nào khiêm nhượng, Chúa nâng cao lên.

Chúa không thể nào tha tội cho ta được nếu ta không khiêm nhượng. Chúa tha mọi tội cho ông Giakêu, cho bà Mađalêna, cho người trộm lành vì họ có lòng khiêm nhượng. Còn ai kiêu ngạo, Chúa không ban ơn tha thứ cho họ.

Chúa loại ta ra khỏi nước Trời nếu ta không khiêm nhượng. Chúa phán rõ: "Nếu các con không trở nên bé nhỏ như các trẻ thơ, các con không được vào nước Trời đâu".

Chúa Giêsu rất khiêm nhượng

Chúa Giêsu nhấn mạnh về đức khiêm nhượng. Ai hạ mình xuống, mới được nâng lên. Ai là sau hết, mới trở nên trước hết. Khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ dưới. Người nào làm lớn, hãy lo phục vụ những người ở dưới họ. Khi làm xong việc gì cho Chúa, phải tự nói rằng: "Tôi chỉ làm việc tôi phải làm, tôi chỉ là đầy tớ vô dụng". Khi bố thí, khi làm việc lành, đừng để tay trái biết việc tay mặt làm. Khi cầu nguyện, đừng cầu to tiếng giữa chợ búa cho người ta thấy mà khen, nhưng cầu nơi kín đáo cho Chúa thấy mà thôi. Phải khiêm nhượng như trẻ nhỏ mới được vào thiên đàng.

Không những nhấn mạnh về sự quan trọng của đức khiêm nhượng, Chúa Giêsu còn treo cao gương khiêm nhượng trước mặt mọi người. Chúa Giêsu khiêm nhượng trong đời sống thế trần: sinh khiêm nhượng (chọn một bà mẹ nghèo, sinh ra nơi miền xa, không có nhà trú, không có chỗ trọ, nên phải chào đời trong một hang lừa hôi hám, nằm lạnh lẽo trong máng cỏ rơm của bò lừa, giữa đêm khuya đầy sương tuyết, không có chăn mền ấm áp); sống khiêm nhượng (sống tại Nazarét là nơi dân nghèo; làm nghề thợ mộc vừa đủ nuôi gia đình; ra đi giảng đạo với hai bàn tay trắng; chọn những môn đệ trong hạng người nghèo hèn, thất học, không có địa vị gì trong xã hội; sống lang thang không có chỗ trú ngụ nhất định, nhiều lúc thầy trò phải nhịn đói cho qua ngày đêm); chết khiêm nhượng (bị bắt như một tên tội phạm nặng nề; bị đánh đập sĩ vả ê chề, bị lên án xử tử công khai, bị lột hết áo quần ra và bị đóng đinh chết đứng trên hai miếng gỗ, bị treo lên giữa trời và đất cho mọi người chế nhạo; phải mượn mồ của kẻ khác để tạm chôn một cách vội vàng).

Và hiện giờ cho đến tận thế, trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu sống khiêm nhượng một cách lạ lùng trong các Nhà Tạm trên khắp hoàn cầu: sống triền miên thinh lặng, hoàn toàn giấu ẩn tính cao sang huy hoàng của Con Thiên Chúa, chịu đựng mọi sĩ nhục lăng mạ của loài người tội lỗi, chịu đựng những sự thờ ơ của ngay những người tin Ngài, luôn chờ đợi, không ép buộc ai, chỉ biết mời mọc: "Hãy đến với Ta, Ta bổ sức lại cho".

Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ, trong tâm tình và trong hành động.

Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về mình.

Trong quá khứ, tôi đã thế nào? Tôi đã là không không, tôi không đáng là gì, tôi mới có đây thôi. Nếu Chúa đã không thương cho tôi chào đời, thì tôi sẽ đời đời không bao giờ có mặt trên đời nầy đâu. Hiện tại, tôi đang thế nào?

Hiện tại, tôi chỉ là kẻ tội lỗi vì tôi phải luôn luôn đấm ngực mình mà nói: "lỗi tại tôi mọi đàng". Hiện tại, tôi phải luôn đọc lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng: "Cầu cho con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử". Hiện tại, tôi không có gì vì cái gì tôi đang có là do Chúa cho tôi mượn, do Chúa ban cho tôi. Hiện tại, tôi không đáng gì, vì chỉ cần một làn gió nhẹ thổi vào sau lưng tôi, chỉ cần một mạch máu nhỏ bị đứt trong quả tim tôi, chỉ cần một vỏ dưa làm trượt chân tôi, cũng đủ làm cho tôi chết ngay tại chỗ, bỏ vợ, bỏ con, bỏ hết của cải gia tài sự nghiệp.

Trong tương lai, tôi sẽ thế nào? Hãy nhìn một nấm mồ là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của tôi sau khi thân xác tôi chết: bụi đất, thúi tha, giòi bọ, xương cốt héo khô. Còn về số phận của linh hồn tôi sau khi chết, tôi hãy nhìn xuống hỏa ngục hơn là nhìn lên thiên đàng, vì tôi đâu chắc chắn được mình sẽ chết lành, bởi lẽ chỉ cần một nháy mắt mà tôi chết thình lình, không kịp ăn năn tội vì Chúa, thì đủ để mất linh hồn đời đời.

Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong tâm tình. Tôi phải xác tín và thành thật nhìn nhận mình là kẻ yếu đuối, kẻ tội lỗi, chứ không phải chỉ nói ra những lời bên ngoài mà thôi. Tôi phải có lòng khiêm nhượng thật như lời Chúa nhấn mạnh: "khiêm nhượng thật trong lòng", chứ không phải giả bộ khúm núm, khép nép bề ngoài. Tôi phải thật tâm muốn cho kẻ khác biết tôi là kẻ hèn hạ, đáng khinh, đáng chê, đáng bị bỏ rơi, là kẻ có lỗi, là kẻ có tội. Tôi phải thành thật khinh chê mọi sự ở đời nầy vì Chúa. Tôi thật tình thích làm những công việc khiêm hèn, những công việc không ai để ý tới. Tôi vui mừng thật trong lòng khi thấy ai được việc, được thành công, hơn tôi về mặt nầy mặt khác. Tôi luôn vui vẻ bằng an trong tâm hồn khi tôi làm được việc cũng như khi tôi làm hỏng việc, khi tôi được lợi cũng như khi tôi bị thất lợi, khi tôi được khen cũng như khi tôi bị chê, khi tôi được thông cảm khuyến khích cũng như khi tôi bị chỉ trích chê bai.

Nhân đức khiêm nhượng còn là một nhân đức trong thái độ. Tôi ăn nói dịu dàng. Cử chỉ điệu bộ của tôi nết na. Tôi không chữa lỗi, tôi không đổ lỗi, tôi không khoe khoang, tôi không khinh dễ kẻ khác, tôi không lên án ai, tôi không xa lánh ai, tôi không xử tệ với người nào. Tôi ý tứ trong khi cười, trong khi ăn, khi uống. Tôi vâng lời một cách nhanh chóng, vui vẻ và hoàn toàn. Tôi nhịn nhục, tha thứ kẻ khác. Tôi nói lời cám ơn kẻ chỉ trích tôi, kẻ lên án tôi. Tôi nói lời xin lỗi kẻ hiểu lầm tôi. Tôi không bao giờ nhắc lại những gì người ta đã làm cho tôi một cách bất công hoặc có ý xấu. Tôi luôn mĩm cười với mọi người.

Ích lợi của đời sống khiêm nhượng.

Người nào khiêm nhượng thì được Chúa luôn ở gần bên: "Ta ngự trên trời cao nhưng ta vẫn ở gần bên kẻ nào hối cải và khiêm tốn"; được Chúa ban ơn: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhượng"; được Chúa cứu giúp: "Thiên Chúa hạ kẻ kiêu căng nhưng cứu giúp người khiêm nhượng"; được Chúa nâng lên cao: "Ai tâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên"; được Chúa tha tội: "Người thu thuế đứng ở xa, không dám ngữa mặt lên trời, lại còn đấm ngực nói: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo thật các ngươi: "Người nầy khi trở về nhà, sẽ được nên công chính"; được Chúa cho thoát cơn hoạn nạn: "Khi Ta khép các cửa trời mà không có mưa, khi Ta ra lệnh cho cào cào châu chấu phá hoại xứ sở, hoặc khi Ta cho ôn dịch hành hạ dân Ta, nếu dân Ta biết hạ mình xuống lấy Danh Ta mà cầu khẩn..., thì từ trời cao, Ta sẽ nghe lời họ và Ta sẽ cho xứ sở họ thoát cơn hoạn nạn"; được Chúa dẫn dắt và dạy dỗ: "Chúa dẫn dắt người khiêm nhượng theo đường công chính. Chúa dạy dỗ người khiêm tốn biết đường lối Ngài"; được Chúa nhậm lời cầu nguyện: "Chúa thương nhậm lời kêu cầu của người khiêm nhượng. Chúa nâng đỡ tâm hồn họ, Chúa lắng tai nghe họ".

Người kiêu ngạo dễ bị trượt, dễ bị bổ, dễ bị té, dễ bị nhào vì họ trèo lên cao, vì họ đứng trên cao.

Người khiêm nhượng không bao giờ bị trượt, bị bổ, bị té, bị nhào vì họ luôn ngồi dưới đất, luôn nằm sát đất, luôn đứng chỗ thấp. Nếu người khiêm nhượng có trèo lên cao, có đứng trên cao, thì họ cũng không bị trượt, không bị bổ, không bị té, không bị nhào vì họ bám chặt vào Chúa là Đấng không bao giờ nghiêng ngã, vì họ được bàn tay vô cùng chắc chắn của Chúa nâng đỡ.

Hạnh phúc thay người sống đời khiêm nhượng. Họ nhìn Thánh Giá. Họ cầm Thánh Giá. Họ ôm Thánh Giá. Họ hôn Thánh Giá. Họ mang Thánh Giá. Thánh Giá dạy họ sống đời khiêm nhượng thật của Chúa Giêsu: vui lòng chịu mọi sự sĩ nhục; im lặng không nói lời gì lên án ai; tha thứ cho kẻ làm hại mình; cầu nguyện cho kẻ làm mất lòng mình; cầu nguyện cho mình và cho mọi người được vào nước thiên đàng như người trộm lành xưa; hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa sắp đặt mọi sự; chu toàn mọi việc bổn phận lớn nhỏ của mình cho đến hơi thở cuối cùng; vui lòng dâng lên cho Chúa mọi nỗi đau khổ phần xác phần hồn.

Lạy Mẹ Maria, mặc dầu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao sang, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn xưng mình là tôi tá của Chúa, luôn luôn sống như người nữ tỳ của Chúa, xin Mẹ luôn dạy con sống đời khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu Con Mẹ: "Hãy học cùng ta vì Ta khiêm nhượng thật trong lòng".


-------------------------------

 

TN 22-C96: NGỒI VÀO CHỖ CUỐI


Lc 14, 1.7-14

Cao Huy Hoàng

 

Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian "một ngày: TN 22-C96:


Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian "một ngày Sa-bat nọ", tại "bữa tiệc" của một thủ lãnh nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu được mời tham dự "bữa tiệc trần gian", của những "con người trần gian" nầy. Bữa tiệc ấy đã phát họa trọn vẹn cái cung cách trần gian của những con người phàm tục- hoặc chưa hiểu gì về con người mới, con người có văn hóa Thiên Chúa, hoặc không tiếp nhận ánh sáng mới của Tin Mừng để thay đổi. Họ vẫn còn cũ rích trong cách suy nghĩ, cách sống... Tất cả cho cái tôi, cái riêng tiềm ẩn trong chính họ, như là một căn bệnh di truyền do tội lỗi của nguyên tổ để lại. Cái tôi khiến người ta tranh giành tư thế độc tôn, tranh giành cho mình mọi sự nhất: được suy tôn nhất, được đề cao được chú ý nhất...

Đức Giêsu đã dùng chính những diễn biến trong bữa tiệc trần gian ấy để rao giảng bài học quí giá cho con người về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa. Những người văn hóa cũ rích và đáng bị lên án kia, cũng đang là chính mỗi chúng ta, những con người của thế kỷ 21, được mang danh là những con người của thời văn minh hiện đại. Ngài đã lên án điều gì, và Ngài đã dạy gì?

Không dành cho người kiêu ngạo
Ngài lên án thói kiêu ngạo: " Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống".

Quả thật, không phải vô duyên vô cớ mà mối tội đầu Kiêu Ngạo được đưa lên đầu danh sách bảy mối tội, vì theo các nhà tu đức, thì thần dữ kiêu ngạo luôn có những chiêu thức cực kỳ hiểm độc, và có tài điều binh khiển tướng làm cho sáu thần dữ của sáu mối tội kia có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Khi đã để cho thần dữ kiêu ngạo hoạt động trong lòng, thì việc hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng là điều quá dễ dàng. Một trong những chiêu thức tài tình nhất của thần dữ kiêu ngạo là tặng cho con người ta sự tự ngộ nhận mình là đạo đức, là thánh thiện, là khiêm nhượng, là từ thiện, là bác ái hơn người, và luôn luôn hơn người, một cách chủ quan. Nhưng thật ra, tất cả những điều ấy đều là sự giả dối, sự tự đánh lừa mình từ trong tận gốc rễ. Cách suy nghĩ ấy, cách sống ấy, của những người Pharisiêu xưa, đã bị Đức Giêsu vạch mặt thần dữ kiêu ngạo trong họ và lên án nghiêm trọng.

Cả chúng ta nữa, lời rao giảng của Đức Giêsu đã hơn hai ngàn năm vẫn chưa thẩm thấu và thay đổi được cái căn tính tồi tệ ấy trong mỗi con người hôm nay. Chiêu thức "cám dỗ làm điều tốt" vẫn luôn luôn được rao bán hoặc biếu không, khuyến mãi khắp nơi trên thế giới và trong cõi lòng thâm sâu của ta. Cái vỏ bọc đạo đức bề ngoài cho thấy, không phải chúng ta không biết thế nào là đạo đức, nhưng chúng ta lại chấp nhận theo cách đạo đức được hướng dẫn bởi thần dữ kiêu ngạo, không phải bởi Thần Khí của Thiên Chúa. Tự nhận cho mình trách nhiệm xây dựng Giáo hội theo kiểu của mình là phải chỉ trích, lên án, rêu rao, phản đối... mà chưa kịp suy niệm cho ra những ý định tuyệt vời của Thiên Chúa; tự nhận cho mình một công tác mang tầm vóc tổ chức của Giáo Hội để thành lập uỷ ban nầy, tập thể kia mà không được ủy thác; tự tôn phong cho mình một vai trò quan trọng trong giáo hội ngang tầm với ý định riêng tư của cõi lòng mình....... hoặc cụ thể hơn, tôi phải làm cái gì đó, to hơn, lớn hơn người đi trước tôi hoặc hơn những nơi khác; tôi phải làm ông kia bà nọ trong giáo xứ vì mấy người nầy làm chẳng ra chi; phải có tôi, phải có đóng góp của tôi thì việc mới thành công được.... Tất cả, tất cả những suy nghĩ ấy đều có thể bị đánh lừa bởi sự giả dối của thần-dữ-kiêu-ngạo-thật-trong-lòng đang chỉ đạo.

Không hẳn chỉ người có quyền, có tiền, có tài mà sinh ra lòng kiêu ngạo. Thực ra, đôi khi họ chưa kịp kiêu ngạo thì kẻ yếu thế, người nghèo khổ, người kém cỏi đã kiêu ngạo trước họ rồi- kiêu ngạo với lòng bất mãn, ganh tỵ, chống đối, chê bai, chỉ trích. Thần dữ kiêu ngạo không trừ ai, không miễn trừ thành phần nào và cũng không hà tiện một thủ đoạn nào, miễn là nó đạt được mục đích tối hậu là làm cho con người không được tham gia vào bữa tiệc Nước Thiên Chúa.

Chúa Giêsu hôm nay cũng đang cảnh cáo mỗi chúng ta-những con người thích ngồi chỗ nhất, mâm cỗ nhất, thích được đánh bóng, thích được ngụy tạo một chổ đứng một vị trí, thích cho danh mình được cả sáng...-và cho chúng ta cơ hội đặt mình trước mặt Ngài để nhờ ánh sáng Lời Ngài chiếu dọi vào tận cõi lòng mà tìm ra cho được sào huyệt thường trú của thần dữ kiêu ngạo tinh quái.

Nhưng dành cho những ai có lòng khiêm nhượng

"Thứ nhất khiêm nhượng chớ kiêu ngạo" -nhân đức ưu tiên được đề cập đến trong "cải tội bảy mối", là lời dạy thiết thực của Chúa Giêsu trên trang Tin Mừng hôm nay dành cho những ai muốn bảo đảm một vé mời dự tiệc Nước Thiên Chúa.

"Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối..." Chúng ta đã được "mời vào dự tiệc" Nước Thiên Chúa qua các Bí tích, từ việc tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nhận lấy Thần Khí sự sống, được sống bằng chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong tiệc Thánh Thể..., nhưng còn việc "vào ngồi chỗ cuối" thì chắc hẳn phải xem lại.

Chổ cuối Chúa dạy chúng ta vào ngồi là chỗ của Đức Giêsu, chỗ chấp nhận thân phận làm người, và chấp nhận dưới mức tận cùng của kiếp người với lòng khiêm hạ tối đa vì lòng yêu mến và tuân phục Cha, để mọi người được cứu rỗi. Chỗ cuối, chỗ của yêu thương và phục vụ tận tình. Chỗ cuối, chỗ của lòng tin tuyệt đối, lòng cậy vững vàng-tín thác hoàn toàn, và chỗ của lòng mến không vụ lợi. Chỗ cuối, chỗ nên giống Chúa Giêsu hoàn toàn trong cách suy nghĩ, cách nói, và cách cư xử: kiên quyết loại trừ thần dữ kiêu căng trong lòng trí con người,và mặc lấy tâm tình đơn sơ nhỏ bé phó thác để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho vinh danh Thiên Chúa.

Lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu là từ bỏ chính mình, chính cái rất riêng của mình, lắng nghe và thấu hiểu ý của Cha. Vì vậy, chỗ của Chúa Giêsu, là chỗ khiêm nhượng chân thành nhưng khôn ngoan nhờ việc luôn kết hợp mật Thiết với Thiên Chúa Cha và làm theo ý của Cha qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Lời dạy dành cho người mời tiệc "hãy mời những người nghèo khó..." mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa Cha về tiêu chuẩn khách được mời vào trong tiệc Nước Thiên Chúa: khiêm nhượng.

Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa không dành cho những người kiêu ngạo, nhưng dành cho những người có lòng khiêm nhượng, người chọn vào ngồi chỗ của Đức Giêsu, chỗ rốt cùng vì quảng đại đến cùng cho công cuộc cứu rỗi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chỗ của Chúa và vào ngồi chỗ của Chúa trong cuộc đời, trong Giáo Hội và trong Nước Chúa.


-------------------------------

 

TN 22-C97: KHIÊM NHƯỜNG VÀ PHỤC VỤ


Lc 14, 1.7-14

Lm. Jude Siciliano, OP

 

Bài đọc trích sách Huấn ca hôm nay có thể củng cố những quan điểm về người đạo đức - những: TN 22-C97


Bài đọc trích sách Huấn ca hôm nay có thể củng cố những quan điểm về người đạo đức - những người được cho là có lòng khiêm nhường. Khi nghĩ đến sự khiêm nhường, nhiều người nghĩ ngay đến việc đấm ngực, những tâm hồn đạo đức chấp nhận xem mình như thảm cửa cho những kẻ tham vọng bước qua. Chúng ta thường cho rằng những người khiêm nhường thì không hay chống lại luật lệ hoặc trật tự, họ chỉ cầu nguyện và khi gặp gian nan khốn khổ, họ "phó thác" cho Chúa. Nhưng Ben Sira, tác giả sách của quyển sách Khôn ngoan này, không xem khiêm nhường là thụ động và mềm yếu như vậy.

Ông là thầy dạy của người trẻ (57,23-30) và ông muốn bảo tồn niềm tin của người Dothái giữa những thế hệ thày dạy và hiền nhân tiếp theo. Bài giảng về lòng khiêm nhường của Ben Sira là về sự từ bỏ và tín thác nơi Thiên Chúa. Người khiêm nhường thì mở lòng mình ra, học hỏi đường lối của Thiên Chúa và thực thi đường lối ấy. Chẳng phải Đức Giêsu cũng từng nói về Người như là một con người khiêm hạ đó sao? Những ai có thể nhận ra Người như Đấng Chúa sai đến cũng sẽ có một trái tim khiêm hạ.

Hiền nhân viết bài đọc thứ nhất hôm nay không dạy môn đệ của mình hay chúng ta nhún nhườngg khi chúng ta đối mặt với sự dữ và cái ác. Nhưng hoàn toàn ngược lại: người khiêm hạ cúi mình trước thiên Chúa và mở lòng đón nhận thánh ý của Ngài, sẽ đứng thẳng bảo vệ chân lý - biết rằng Thiên Chúa, Đấng Công Chính, luôn đứng về phía những ai khiêm nhường và khát tìm chân lý. Kẻ khiêm nhường muốn cộng tác với Thiên Chúa; thái độ khẳng khái như thế sẽ tăng cường và khơi lên chân lý trong lòng họ và rồi họ "sẽ tìm thấy niềm vui trong Chúa".

Tin mừng Luca có nhắc đến rất nhiều bữa tiệc. Hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ở một bữa tiệc khác. Ngay phần mở đầu câu chuyện thánh Luca đã đưa ra một tình trạng căng thẳng. Đức Giêsu đến dự tiệc ở nhà một "thủ lãnh Pharisêu." Chúng ta đoán Người sẽ gặp rắc rối khi nghe thánh Luca cho biết "họ cố dò xét Người."

Tôi cũng mới dự một tiệc cưới rất tuyệt. Ngay khi bước vào phòng tiệc, tôi đã thấy có một cái bàn và trên đó có sơ đồ ghi tên và chỗ ngồi của tất cả các vị khách mời. Tôi đến và tìm xem tôi sẽ ngồi bàn nào. Tôi đã thật sự vui mừng vì thấy mình được sắp xếp ngồi cùng bàn với một số bạn cũ và vài người tôi chưa từng quen biết. Mãi đến khi chúng tôi ăn tiệc và trò chuyện, tôi mới nhận ra rằng chúng tôi có cùng một sở thích và địa vị giống nhau. Tôi biết chủ tiệc cưới đã thận trọng sắp xếp tôi ngồi cùng với những vị khách mà chúng tôi có thể cùng nhau thưởng thức tiệc cũng như chia sẻ niềm vui của bữa tiệc.

Vào thời Đức Giêsu và trong nền văn hóa của Người, việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là rất rõ ràng. Chủ tiệc phải sắp xếp khách mời vào "vị trí xứng hợp." Người quan trọng nhất sẽ ngồi vào chỗ cao nhất và nổi bất nhất. Những người khác sẽ lần lượt ngồi vào những vị trí thấp hơn tùy theo tầm quan trọng của mình. Một khi mọi người đã yên vị, tất cả những gì anh chị em cần làm là nhìn quanh để thấy rọ tầm quan trọng của mỗi thực khách trong mắt chủ tiệc.

Đức Giêsu là một vị khách trong nhà của một vị Pharisêu quan trọng. Có thể chúng ta không biết Đức Giêsu được xếp ở vị trí nào, là một thày giảng và một người nổi bật, có thể Người được mời vào một vị trí nổi bật trong bàn tiệc - chúng ta không biết rõ điều này. Điều chúng ta biết chắc là Người ngồi vào một nơi không mấy gì là thiện cảm, Người cũng không bị tác động bởi "những kẻ quan sát Người." Người bắt đầu nhìn quanh và chỉ dạy cho những kẻ đang tìm chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc. Người là một vị khách, nhưng hành xử như ông chủ tiệc, sắp xếp khách khứa vào những chỗ nên ngồi trong bữa tiệc.

Đức Giêsu đưa ra một bữa tiệc khác cho những ai có cái nhìn thiển cận và chẳng bao giờ thỏa mãn. Giống như tác giả sách Huấn ca, Đức Giêsu là một hiền nhân, chỉ cho người ta thấy đâu là sự mãn nguyện đích thực: đó không phải là những chỗ quan trọng trong bữa tiệc, nhưng là việc lắng nghe thông điệp cứu độ của Người. Một khi họ lắng nghe và sống những điều này, bằng cách nhận ra và trân trọng "người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù," thì họ sẽ nhận được chỗ ngồi danh dự trong bàn tiệc đời đời mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta. "Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại."

Những người mà Đức Giêsu nói đến thì cũng không tham vọng gì hơn con người ngày nay. Nếu họ nhận được ân huệ từ một nhân vật quan trọng, một vị trí cao trong bàn tiệc, thì họ cũng sẽ tổ chức một buổi tiệc để đáp lễ. Như chúng ta thường nói: "Có qua có lại" - cả hai đều nhận được cái gì đó từ phía người kia.

Nhưng Đức Giêsu đang chuẩn bị cho chúng ta một yến tiệc mà nơi đó những kẻ bần cùng sẽ nhận được sự trân trọng cùng với tất cả sự dư đầy. Vì thế, chúng ta cần thực hành những "hành động thuộc nước trời" ngay bây giờ: hành vi trong cuộc sống của chúng ta sẽ phản ảnh vương quốc mà chúng ta là công dân trong đó. Hành vi của chúng ta phải làm sáng tỏ niềm tin của chúng ta, những cảm nghiệm của chúng ta. Chúng ta chưa làm được gì; chẳng có địa vị xã hội hay danh xưng cao sang nào có thể giúp ta trở thành phần tử trong vương quốc của Đức Giêsu. Nhưng, nếu chúng ta áp dụng dụ ngôn vào cuộc đời chúng ta, thì chúng ta thấy Người đã để ý đến chúng ta và nhu cầu của chúng ta, đồng thời mời gọi chúng ta vào vị trí ưu tiên. Chúng ta không đạt được điều đó, nhưng chúng ta nhận được điều đó. Đó là ân sủng.

Nếu chúng ta tin mình nhận được quà tặng này, một chỗ ngồi trong bàn, không phải do tài cán của chúng ta, nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tỏ ra bằng hành vi tương tự: bằng cách mời vào cuộc đời chúng ta, một cách cụ thể, những người thấp bé và bị bỏ rơi. Hay nói cách khác, chúng ta hành xử như ông chủ tiệc mà Giêsu mô tả trong dụ ngôn, dành chỗ nhất cho những ai bé nhỏ nhất. Và sau khi làm như thế, chúng ta trở thành người phục vụ cho những người chúng ta mời - vì Người cũng dạy chúng ta làm như thế.

Tôi cũng mới thấy dụ ngôn này tái hiện trong chương trình tin tức trên truyền hình buổi tối. Chương trình kết thúc với cảnh nói về một ông chủ nhà hàng Ý ở Anaheim, California. Tên ông là Bruno Serato, và nhà hàng của ông chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng ở Quận Cam, ngay bên cạnh Disneyland. Ông đồng thời cũng quản lý Câu lạc bộ Boys & Girls trong vùng, đó là một tổ chức quốc gia để giúp đỡ những trẻ em nghèo. Trong khu vực đó, có rất nhiều trẻ em nghèo đang sống cùng gia đình trong những nhà trọ rẻ tiền. Năm 2005, bà Caterina, mẹ của ông, đến thăm vùng quê này, sau khi đưa bà đến nhà hàng đắt tiền, ông đưa bà đến thăm những đứa trẻ ở Câu lạc bộ. Khi bà thấy những đứa trẻ nghèo đói này, bà quay lại đứa con đang làm ông chủ và bảo ông "Cho chúng ăn!" Và đó chính là công việc ông làm mỗi ngày trong suốt năm năm qua.

Bruno phục vụ trẻ em mỗi ngày một bữa, không phải với thịt băm và rau xào, nhưng là một bữa tối thịnh soạn y chang thức ăn mà ông phục vụ ở nhà hàng đắt tiền. Chủ nhiệm câu lạc bộ nói: "Những đứa trẻ thích như thế! Chúng tôi giúp một số trẻ em nghèo nhất ở Anaheim thưởng thức một trong những nhà hàng ngoại hạng mỗi tối."

Với việc suy giảm kinh tế, thì số trẻ em ăn tối của Bruno tăng lên, nhưng thực khách của nhà hàng giảm đi. Vì thế ông lỗ, và phải thế chấp căn hộ của mình để nuôi những đứa trẻ. Nhưng ông vẫn khẳng định sẽ không bao giờ ngừng việc cung cấp thức ăn cho những đứa trẻ, ông nói: "Không Bao Giờ!"

Bruno đã hóa thân vào dụ ngôn mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay mà chẳng mất mát gì. Như chương trình phỏng vấn trên TV, ta thấy kết quả trong cuộc sống của Bruno là ông nhận được quà tặng của niềm vui "... khi tổ chức tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù: như thế ông thật có phúc vì họ không có gì để đáp lại, và ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại."


Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp

-------------------------------

 

TN 22-C98: HÃY NGHĨ ĐẾN KẺ KHÓ NGHÈO


Lc 14, 1.7-14

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn hòa đồng với con người,: TN 22-C98


Trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn hòa đồng với con người, Ngài không xa cách, không sống khắc khổ như những Rabbi hay một vị khổ tu nào đó. Chúa Giêsu xuất thân từ quần chúng, từ giới lao động, Ngài cảm thông với con người, đặc biệt những con người nghèo hèn, đau khổ. Ba năm đi giảng đạo, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài...Ngài giảng dạy trong các Hội Đường, Ngài đi khắp nơi lúc giảng nơi đường phố, lúc trên núi, dưới các cánh đồng, lúc bồng bềnh trên sóng nước mênh mông. Chúa thường ví Nước Trời như một tiệc cưới. Ngài cũng đi tham dự các tiệc cưới khi được mời,Ngài cũng đi dự các bữa cơm gia đình để sống trọn đời thường, tình làng nghĩa xóm vv...Chúa cũng nhận lời mời dùng cơm ở các nhà của người Biệt phái dù Ngài biết họ mời Ngài để dò xét hơn là vì họ hiếu khách vv...

Chúa Giêsu đã có những thái độ, những cử chỉ rất người của mình, như trong bữa tiệc tại nhà ông Simon, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà tội lỗi nhưng lại có lòng thống hối, ăn năn. Chúa Giêsu lại có lối cư xử tình người và rất tự nhiên đến nỗi một số môn đệ của Gioan đã gán cho Ngài thích chè chén yến tiệc vv...Chuyện thuật rằng hôm ấy là ngày sabbát, Chúa Giêsu được một thủ lãnh Biệt phái mời đến nhà ông để dự tiệc. Thực tế, khi mời Chúa Giêsu, họ tìm cách dò xét Ngài để lên án Ngài. Do đó, hôm nay họ tấp nập đến ăn tiệc và đồng thời để dò xét Ngài. Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu lại là người dò xét họ trước. Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn rất bình thường, Ngài nói rằng khi được mời dự tiệc chúng ta đừng chọn chỗ nhất. Vì biết đâu gia chủ có mời vị nào có thế giá hơn mình, nên buộc lòng chủ nhà phải mời mình nhường chỗ cho khách, thì mình xấu hổ biết bao. Cho nên, từ một bài học xã giao thường thức, Chúa Giêsu muốn nhắm về một ý tưởng cao thương hơn:" Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên ". Thực vậy, muốn chiếm một chỗ trong Nước Trời, con người phải hạ mình trước mặt Thiên Chúa và làm theo ý của Ngài. Con người cũng phải đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, nghĩa là trở nên đơn sơ, thánh thiện và ngoan ngùy trước mặt Chúa.

Và trong bữa tiệc kéo dài hôm nay, Chúa Giêsu còn dùng nhiều cơ hội để dạy dỗ con người như Ngài nói với gia chủ hãy nghĩ đến người nghèo, người cùng khổ.Qua việc nhắc nhở gia chủ, Chúa Giêsu cũng dạy dỗ tất cả chúng ta. Sống ở đời, người ta thường cân nhắc, mời ai để họ có thể mời lại mình. Đó là việc xã giao rất bình thường ở đời này. Bởi vì ở đời thường người ta mời mọc hay cho chác là mong được mời lại, cho lại vv...Chúa Giêsu khuyên mọi người chúng ta quan tâm đến những người nghèo, những người neo đơn, túng cực,những người này chẳng có gì để trả lại.Những người nghèo là những người vô tư lợi, những người tay trắng lòng ngay, do đó, họ sống rất thanh tao, cao đẹp trước mặt Thiên Chúa.

Marc Sevin đã viết:" Kết luận của Chúa Giêsu mang mầu sắc của một châm ngôn:" Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên ". "Tự hạ mình " và " tôn lên ":hai động tự này không mang nghĩa chung chung.Các Kitô hữu áp dụng hai động tự này cho Chúa Giêsu, Đấng được sinh ra để làm tôi tớ. Người đã sống lại, được tán dương và ngự bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống và đã được nâng lên. Người trở nên gần gũi với những ai khốn khổ bần cùng nhất. Vậy nên, thánh sử Luca đưa Chúa Giêsu vào trong ví dụ. Các môn đệ cũng đi theo những bước chân của Thầy mình, và chọn cuộc sống như Chúa để trở nên những người phục vụ ".

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn hiểu rằng Chúa yêu thương mọi người bằng một tình yêu vô vị lợi. Chúa luôn quan tâm đến mọi hạng người. Chúa luôn tha thứ tội lỗi cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Xin cho chúng con biết học cùng Chúa:" Hiền Lành và Khiêm Nhượng " vì Chúa đã nói:" Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên ".


-------------------------------

 

TN 22-C99: GHẾ DÀNH RIÊNG


Lc 14, 1.7-14

Lm Vũ đình Tường

 

Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang í nghĩa khác nhau. Từ khách quan: TN 22-C99


Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang í nghĩa khác nhau. Từ khách quan mang tính cách thương mại trong kinh doanh. Từ quan khách nói lên tính trang trọng của người khách. Nói đến quan khách là nói đến ghế danh dự dành riêng cho quan khách trong những cử hành lễ hội công cộng. Thực ra vấn đề xếp chỗ cho quan khách không đơn giản như chúng ta thấy nơi các buổi lễ hội công cộng. Khi có người đồng giai cấp, thứ bậc việc sắp xếp chỗ ngồi ngang hàng quả là nhiêu khê. Có nhiều vận động ngầm về chỗ ngồi giữa các viên chức làm việc trong các văn phòng hành chánh cho người lãnh đạo phe nhóm. Người ta nhân danh vị đó đòi hỏi nghi thức đón tiếp làm đau đầu, nhức óc ban tổ chức lễ hội. Tranh cãi đây không phải là ghế ngồi mà chính là danh dự, tiếng tăm, vị thế của người ngồi ghế đó trong ngày lễ hội. Mặc dù các nghi thức cử hành chỉ vỏn vẹn trong thời gian ngắn nhưng danh dự, tiếng tăm đối với những khách danh dự thật là quan trọng.

Khách danh dự trong nước Thiên Chúa hoàn toàn khác. Nước Thiên Chúa không thuộc vào hạng người nắm quyền ngang trời, thế dọc đất. Hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé không trừ ai. Những người vang bóng một thời, hét ra lửa, thở ra quyền. Nói ra kẻ tung, người hứng, lên xuống có người đóng mở cửa. Đứng lên có kẻ bợ, ngồi xuống có kẻ đỡ. Có quyền sinh sát trong tay, có quyền bẻ cong công lí. Trong nước Thiên Chúa không có chỗ riêng cho những người đó. Nước Thiên Chúa dành cho những ai? Thưa là những người có thời mất công lí nay được tuyên công, người nghèo khổ nay vui mừng, kẻ cô đơn nay có bạn thân tình. Người chết vì đức tin nay sống ngàn thu, người tù đầy trong tối tăm nay thấy ánh sáng huy hoàng. Đức Kitô Con Thiên Chúa đứng ra phát thiệp mời họ, đón họ, biến họ là khách danh dự trong nước của Ngài. Theo tinh thần bài Phúc Âm tuần trước họ là những người đi qua cửa hẹp mà vào. Kẻ béo quyền hành, tốt bè phái muốn qua cửa hẹp phải dẹp bỏ tất cả mới qua lọt, bằng không những thế lực kia kéo lại sẽ không thể qua lọt. Bỏ được những quyến rũ bất chánh cần có tinh thần sẵn sàng từ bỏ, cần có tấm lòng khiêm nhu, tự nhận mình sai trái, thiếu sót, giới hạn và khiêm nhường đón nhận Lời Chúa làm hướng đi cho cuộc sống. Thực hiện được điều đó qua hành động cụ thể mến Chúa, yêu tha nhân họ sẽ dễ dàng qua cửa hẹp.


Trong nước Thiên Chúa không có cạnh tranh, vận động ngầm để được ngồi vào ghế danh dự. Những khách vào nước Trời là những người có tấm lòng khiêm cung. Họ đến không phải để được ca tụng nhưng đến chính là vì yêu mến anh em, đến để gặp gỡ, để cùng với mọi người tay bắt, mặt mừng trong ngày hội. Họ đến trong tình thân hữu chân thành, trong tình con một Cha chung là Đức Kitô. Họ đến trong tinh thần sẵn sàng phục vụ người khác như tinh thần lời Đức Kitô phán trong Mat 20,26. Tinh thần đó là con người đến để phục vụ anh em chứ không phải để được phục vụ.

Khiêm nhường và thống hối luôn đi chung với nhau. Người tự nhận khôn ngoan, bằng cấp cao, trí hiểu nhiều rất khó sống khiêm nhường. Người khiêm nhường luôn nhận biết giới hạn, yếu đuối của con người. Họ biết trước mặt Thiên Chúa tài họ không bằng chi, giầu sang của họ là hư không. Vì sao? Vì tất cả những gì họ có đều do Chúa ban. Nhận biết điều này nên họ sống trong khiêm nhường, cưu mang tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nhận biết điều này nên họ không ghen tị với anh chị em khác khi người đó trội hơn họ về mọi mặt vì họ biết đó là ơn Chúa ban riêng cho người đó. Nhận biết điều này nên họ sống phó thác, tin yêu vì họ biết những gì trong tay là do Chúa trao. Vì là của Chúa ban nên họ có trách nhiệm coi sóc, phát triển và đồng thời chia sẻ những điều đó với anh chị em cần đến chúng. Nói cách khác họ không phải là chủ nhân tài năng mình có mà là người quản gia, gia tài Chúa trao cho họ chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và chia sẻ. Làm được những công việc đó họ xứng đáng ngồi trong ghế danh dự nước trời.


-------------------------------

 

TN 22-C100: TÔI LÀ NGƯỜI KHIÊM TỐN NHẤT TRẦN GIAN!


Lc 14, 1.7-14

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái: TN 22-C100


Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: "Con ơi... càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó"(Hc 3,18.20.28).

Bài tin mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật chuyện Chúa Giêsu nhân thấy nhiều người thích chọn chỗ nhất trong bữa tiệc nên đã lên tiếng dạy về đức khiêm nhường. Chắc hẳn Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta sống khiêm nhượng kiểu "ống điếu", tức là cố tình hạ mình xuống để được người ta nâng lên. Với kiểu nói ngoa ngữ như ngụ ngôn, Chúa Giêsu đã làm nổi rõ cái hậu quả rất khác biệt giữa người khiêm tốn và kẻ kiêu ngạo. Vậy thế nào là khiêm tốn đích thực đây? Không gì hơn hãy nhìn vào cuộc đời, thái độ sống của Giêsu Kitô, Đấng đã minh nhiên mời gọi hãy học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng (x.Mt 11,28-30). Qua cuộc đời của Đấng Cứu Độ, chúng ta có thể nói rằng khiêm tốn là nhìn nhận sự thật, sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).

Sự thật thứ nhất: Nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (x.Ga 7,29; 16,28; 17,1-26). Vì sao có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Xin thưa rằng trên hết, trước hết là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.

Sự thật thứ hai: Nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (x.Ga 6,38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"(Ga 4,34). Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. "Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).

Khi truyền bảo những người dọn tiệc đãi khách thì đừng mời những người thân quen, chức cao quyền lớn, mà hãy mời những người tàn tật, đui mù, nghèo hèn.. chắc chắn Chúa Giêsu muốn dạy người đương thời và chúng ta mọi thời rằng những gì chúng ta đang có như của cải, quyền uy đều do đã lãnh nhận và phải sử dụng chúng theo thánh ý Cha trên trời, Đấng muốn chúng ta phải yêu thương nhau một cách vô vị lợi, không chút tính toán thiệt hơn. Thể hiện tình yêu với những người nghèo hèn, bé mọn là một cách thế sống tình yêu vô vị lợi cách rõ nét.

Trong một dịp tỉnh tâm, một linh mục bạn thân dí dỏm: "Thưa các cha, con đây học hành kém cỏi, khả năng thì hạn chế. Tóm lại, tài thì mọn và đức cũng kém, cái gì cũng xin thua các cha, may ra có đức khiêm tốn thì trỗi vượt tất cả. Con thành thật thú nhận mình khiêm tốn nhất trần gian". Quả thật, dù là giám mục hay linh mục, dù là tu sĩ hay giáo dân trong bậc hôn nhân, đang độc thân hay góa bụa, dù có chút địa vị hay chỉ là hạng "phó thường dân", thảy chúng ta đều vướng phải cái tội của tổ tiên đó là sự kiêu ngạo. Sự kiêu căng ở đây chủ yếu không phải là thái độ cao ngạo, hống hách cách hịch hỡm đáng ghét, nhưng chính là tình trạng xa rời sự thật. Tên cám dỗ của vườn địa đàng thưở nào đã khiến tiên tổ và cả chúng ta mọi thời quên mất sự thật là chúng ta vốn là loài thụ tạo (x.St 3,1-7). Hữu ý hay vô tình lãng quên sự thật này thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng những gì tốt đẹp chúng ta đang là, đang có là do chính bàn tay chúng ta làm nên. Đây chính là căn nguyên của sự kiêu ngạo đáng trách và cũng đáng phạt.

Trong hỏa ngục rất có thể có những người rộng rãi bố thí cho người nghèo. Cũng rất có thể có nhiều người đã từng làm nhiều phép lạ, những người giảng dạy các chân lý cao sâu...nhưng chắc chắn sẽ không hề có bóng dáng một người sống khiêm nhu, biết nhìn nhận và sống trong sự thật. "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm...Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!"(Lc 23,41-42). Khi biết nhìn nhận sự thật, người gian chịu treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã nhận được thành quả của sự khiêm nhu: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43).

Nguồn vietcatholic.org

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây