Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 20-C Bài 51-100 Thầy đến đem lửa xuống thế gian

Thứ tư - 14/08/2019 10:48
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 20-C Bài 51-100 Thầy đến đem lửa xuống thế gian
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 20-C Bài 51-100 Thầy đến đem lửa xuống thế gian
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 20-C Bài 51-100 Thầy đến đem lửa xuống thế gian
---------------------------------------------
Phúc Âm: Lc 12, 49-53: "Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao
cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------

TN 20-C51: HÒA BÌNH NÀO ? VÀ CHIA RẼ NÀO ?. 2
TN 20-C52: Lửa Trời 8
TN 20-C53: Nước, lửa và sự chia rẽ. 9
TN 20-C54: Lửa. 11
TN 20-C55: Ngôn sứ và những hệ lụy. 13
TN 20-C56: Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta. 17
TN 20-C57: Người giữ ngọn lửa. 19
TN 20-C58: NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”. 21
TN 20-C59: Ném lửa. 23
TN 20-C60: CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN.. 24
TN 20-C61: LỬA YÊU THƯƠNG.. 26
TN 20-C62: THẦY ĐẾN ĐEM SỰ CHIA RẼ.. 27
TN 20-C63: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XX – 2001. 30
TN 20-C64: Đức Giêsu đến để đem gươm giáo và chia rẽ. 32
TN 20-C65: ÁNH SÁNG TÌNH YÊU.. 36
TN 20-C66: CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG.. 38
TN 20-C67: KHỦNG HOẢNG NIỀM TIN.. 39
TN 20-C68: Chúa Nhật 20 quanh năm.. 44
TN 20-C69: Chúa Nhật 20 Quanh Năm.. 47
TN 20-C70: HÃY CƯƠNG QUYẾT XÔNG PHA.. 50
TN 20-C71: LỬA TÌNH YÊU, LỬA CỨU ĐỘ.. 55
TN 20-C72: NÉM LỬA TRÊN MẶT ĐẤT.. 56
TN 20-C73: LẠNH QUÁ ! LỬA ƠI ! CHÁY LÊN! 59
TN 20-C74: Gây chia rẽ. 60
TN 20-C75: Lửa. 61
TN 20-C76: DỆT NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN.. 63
TN 20-C77: “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas. 65
TN 20-C78: Sứ mạng của Đức Giêsu –. 67
TN 20-C79: Lửa và Bình An. 72
TN 20-C80: Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 20 Thường niên – C (song ngữ) 76
TN 20-C81: Ngọn lửa tình yêu. 78
TN 20-C82: Bình an chỉ có khi sự thật lên ngôi 81
TN 20-C83: Làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu. 84
TN 20-C84: Sứ mạng của Đức Giêsu. 91
TN 20-C85: LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU.. 96
TN 20-C86: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN.. 100
TN 20-C87: CHÚA GIÊSU GƯƠNG SÁNG CỦA CHÚNG TA.. 104
TN 20-C88: "TA ĐẾN NÉM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN". 108
TN 20-C89: TÍNH QUYẾT LIỆT CỦA TIN MỪNG.. 111
TN 20-C90: NGỌN LỬA TÌNH YÊU.. 112
TN 20-C91: SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIỆSU.. 114
TN 20-C92: Bình An Chỉ Có Khi Sự Thật Lên Ngôi 120
TN 20-C93: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN C.. 123
TN 20-C94: Cuộc chiến đấu nội tâm.. 129
TN 20-C95: NÉM LỬA VÀO MẶT ĐẤT.. 131
TN 20-C96: CUỘC CHIẾN TRIỀN MIÊN.. 132
TN 20-C97: BÌNH AN VĨNH CỬU.. 135
TN 20-C98: BÌNH AN CHỈ CÓ KHI SỰ THẬT LÊN NGÔI 136
TN 20-C99: TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ 140
TN 20-C100: Lửa. 143

--------------------------------------

 

TN 20-C51: HÒA BÌNH NÀO ? VÀ CHIA RẼ NÀO ?


I. DẪN NHẬP

"Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” ( Lc 12, 51 ); và một trình thuật tương tự của Thánh sử Mát-thêu: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo” ( Mt 10, 34 ).

 

Bài Tin Mừng Luca 12, 49 - 53 Chúa Nhật hôm nay, được kể vào loại trình thuật khá khó hiểu: TN 20-C51


Bài Tin Mừng Luca 12, 49 - 53 Chúa Nhật hôm nay, được kể vào loại trình thuật khá khó hiểu. Bởi vì trong trình thuật này có những đoạn văn nghe qua, chúng ta thấy nó ngược với biết bao ý tưởng và đạo lý khác của Tin Mừng. Vì thế, để hiểu đúng trình thuật này, chúng ta phải được cắt nghĩa và phải hiểu xuyên suốt cả một quá trình của lịch sử cứu độ, chứ không thể hiểu một chiều theo mặt chữ. Hay nói cách khác là phải được hiểu trên tổng thể sứ điệp và đạo lý của Tin Mừng.

Trước những vấn nạn đó, một trong những câu hỏi đã được nhiều người đặt ra là: “vậy tôi phải làm gì, để lựa chọn xây dựng hòa bình hay gây sự bất hòa chia rẽ ?; Đâu là hòa bình đích thực ?; Đâu là chia rẽ cần loại trừ ? Thiên Chúa mà chúng tôi mong đợi và tin thờ phải là thiên Chúa hòa bình chứ ?; Phải chăng Chúa Giê-su dạy chúng ta ăn ở bất hiếu với cha mẹ, gây bất hòa với người thân trong gia đình ?.v.v... Đó là những câu hỏi, đôi khi làm cho người tin Chúa bỗng ra nghi ngờ, còn những ai đang tìm kiếm đức tin vào Chúa bỗng nên cớ lung lạc xa rời đức tin…

Trong giới hạn của bài này, tôi xin trình bày đôi nét, tạm thay cho lời giải đáp của một vị Dự Tòng và một số người đã đặt ra những câu hỏi trên. Với chủ đề: “Hòa bình nào ? Và chia rẽ nào ?

II. ĐÔI NÉT VỀ HOÀN CẢNH CỦA TRÌNH THUẬT

Thánh sử Luca viết đoạn Tin Mừng này trong cuộc hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất sứ mệnh cứu độ và để tiến đến “cái chết”. Vì thế giáo huấn trong đoạn Tin Mừng này vừa nhằm đưa ra những yêu sách triệt để cho những ai đi theo Người; vừa nhằm dùng để hướng dẫn, dạy dỗ các môn đệ về cách sống và hành động trong các cuộc tranh luận với đối phương ( là những người ngăn cản tiến trình cứu độ của Chúa ).

Đứng trước những nhu cầu khẩn thiết của Nước Thiên Chúa, Chúa Giê-su muốn làm nổi bật vị trí ưu tiên của những hoạt động vì Nước Trời. Người môn đệ chân chính không thể chần chừ, nuối tiếc hay lưỡng lự vị nể tình riêng vì cha mẹ, vợ con hoặc bất cứ người thân nào khác; nhưng phải quyết tâm và kiên trì tìm kiếm một sự sống mới, một hòa bình mới và đích thực. Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện của đời này, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần ( x. Rm 14, 17 ). “Và bình an của Thiên Chúa, là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí chúng ta được kết hợp làm một với Đức Ki-tô Giê-su” ( x. Pl 4, 7 ).

Trong tinh thần đó, lời mời gọi của Chúa Giê-su thôi thúc một sự lựa chọn quyết liệt. Theo Chúa đòi hỏi phải có một sự “lựa chọn” và một sự “khước từ”. Một “có” hoặc một “không”; không thể “vừa có – vừa không”. Để theo Chúa thì phải trả giá đắt, đôi khi phải đánh đổi cả mạng sống mình: “Phép rửa Thầy phải chịu” ( Lc 12, 50 ) “anh em cũng sẽ chịu” ( Mc 10, 39 ) nghĩa là phải chấp nhận cái chết… Khước từ hay công nhận, chọn yêu sách này hay yêu sách khác là cả một sự giằng co, nhất là sự lựa chọn đó lại là sự thiệt thân, vì chẳng ai muốn chết cả… Như thế, tình trạng chia rẽ đã xảy ra và là điều không thể tránh khỏi. Bởi mỗi người luôn cho mình một ý đúng, thậm chí có khi chỉ có “chín người mà có tới mười ý”, ngay cả giữa các người thân trong gia đình như “cha mẹ và con cái, mẹ chồng và con dâu…” cũng thường sung đột về tư tưởng và hành động trước một chọn lựa.

III. MỘT TÌNH TRẠNG CHIA RẼ KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI

Nói theo kiểu chơi chữ: “Phải chăng, có một sự chia rẽ cần chọn lựa, đó là sự chia rẽ lựa chọn”. Hay nói một cách dễ hiểu, đó là một sự chia rẽ không thể tránh khỏi.

Như vậy, nó đòi hỏi con người vận dụng sự tự do Chúa ban. Một sự tự do lựa chọn không theo tính xác thịt, nhưng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” ( Rm 8, 6 ). Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn ( x. Gl 5, 16 – 17 ). Ngay trong một con người, tại tâm cũng có những giằng co chia rẽ, mỗi khi muốn chọn làm điều tốt ( x. Rm 7, 15 – 19 ).

Cũng có thể gọi loại chia rẽ này là chia rẽ của một kết quả chọn lọc và mang tính tích cực. Không phải loại chia rẽ tiêu cực kiểu thường ngày của thế gian, sống theo dục vọng, vô luân, nhạo báng, không có Thần Khí ( x. Gđ 17 – 19 ), họ tự chia rẽ chính mình và gây chia rẽ với những người lương thiện khác; hoặc người lương thiện không thể hiệp nhất hay đồng lõa với họ, vì ai đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi thì anh em hãy xa lánh họ ( x. Rm 16, 17 ) mà chấp nhận sự chia rẽ ngoài ý muốn. Như có lần Thánh Phao-lô đã đề cập đến vấn đề này như sau: “Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn” ( 1 Cr 11, 19 ).

Chúng ta có thể đọc thêm một số đoạn Kinh Thánh sau đây, đã thuật lại kiểu cách chia rẽ của Chúa Giê-su: “vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ” ( x. Ga 7, 43; 9, 16; 10, 19 ). Trong trường hợp này, các Tông đồ của Chúa Giê-su cũng từng làm như thế ( x. Cv 14, 4; 23, 7 ).

IV. LẬP TRƯỜNG CỦA GIÁO HỘI VỀ VẤN ĐỀ HOÀ BÌNH

“Chúa Ki-tô, Đấng đã tuyên bố “Phúc cho ai xây dựng hòa bình” ( Mt 5, 9 ), đòi hỏi sự bình an của tâm hồn và kết án thái độ giận dữ, là muốn báo thù vì điều xấu đã phải gánh chịu, và lòng thù ghét, là ao ước điều xấu cho tha nhân. Những thái độ này, nếu cố ý và ưng theo trong những vấn đề rất quan trọng, đều là những tội trọng nghịch lại với đức ái” ( Bản Toát yếu sách Giáo lý của HTCG, số 480 ).

“Mặt khác, chúng ta phải triệt để tránh chiến tranh. Vì chiến tranh gây ra những sự dữ và bất công, nên chúng ta phải làm tất cả những gì hợp lý để ngăn chặn chia rẽ và chiến tranh bằng bất cứ giá nào. Đặc biệt là phải tránh việc tích trữ và buôn bán vũ khí không do các chính quyền hợp pháp quy định; phải tránh những bất công về mặt kinh tế xã hội; tránh việc kỳ thị chủng tộc và tôn giáo; phải tránh ganh ghét, thách thức, kiêu căng và tinh thần báo thù. Tất cả những gì được thực hiện để khắc phục các tệ hại này và những xáo trộn khác, đều giúp gây dựng hòa bình và đẩy xa chiến tranh” ( Bản Toát yếu sách Giáo lý của HTCG, số 486 ).

V. GIÁO HUẤN CỦA CÁC SÁCH TÂN ƯỚC

1. Thiên Chúa là nguồn mạch hòa bình ( bình an ):

Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, chỉ ở nơi Người mới có bình an, và chỉ có Người mới có toàn quyền ban phát bình ai cho những ai Người yêu thương và Người muốn ( x. Ga 14, 27; Rm 15, 33; 16, 20; 2 Cr 13, 11; Pl 4, 9; 1 Tx  5, 23; 2 Tx  3, 16; Dt 13, 20 ).

Một câu Kinh Thánh đã được dệt thành thơ và thành nhạc, thường hay được hát lên trong dịp Mùa Giáng Sinh: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" ( Lc 2, 14 ). Lời hát này là cả một lời cầu nguyện: với tâm tình mừng vui, tri ân, cảm mến. Vì Chúa đến, thì đồng nghĩa với bình an đến.

2. Thiên Chúa không gây chia rẽ hay hỗn loạn:

Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an ( x. 1 Cr 14, 33 ); Chính Người là bình an của chúng ta: và qua Đức Giê-su Ki-tô, Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một; Người đã tự hiến Con Mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét ( x. Ep 2, 14 ); Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của mọi người ( x. Cv 10, 36; Ep 2, 17 ). Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, mà muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Đức Giê-su Ki-tô đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời ( x. Cl 1, 20 ).

3. Bình an của Chúa Giêsu:

Trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Chúa Giê-su luôn luôn nói lời ban bình an cho những ai theo Người và đặc biệt hơn là sau biến cố Tử nạn và Phục sinh, Chúa thường hiện ra để củng cố đức tin cho các môn đệ và không bao giờ thiếu lời chúc bình an ( x. Ga 16, 33; 20, 19. 21. 26, Lc 24, 36 ).

Bình an của Chúa không ban phát như của dư thừa ( x. Lc 19, 42 ), mà chỉ ban cho những ai có lòng thiện tâm, công chính ( x. Rm 5, 1; Gc 3, 18 ) như lời Thánh Phao-lô quả quyết: “Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp” ( Rm 2, 10 ).

Bình an của Chúa cũng không theo kiểu thế gian: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ).

4. Chúa Giêsu thường dạy các môn đệ cầu chúc bình an cho nhau:

Lời bình an được coi như là lời cửa miệng trong công cuộc loan báo Tin Mừng của Chúa Giê-su và của các môn đệ của Ngài. Vì khi đi đến đâu hay vào bất cứ nhà nào, Chúa Giê-su cũng dặn các mộn đệ: “Anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em” ( Mt 10, 12 – 13 ), và đó là điều trước tiên ( x. Lc 10, 5 ).

Rồi trong các lời rao giảng, trong các bức thư, và trong các lời cầu nguyện của các Tông đồ. Các ngài luôn luôn “nguyện xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho ( chúng ta ) lòng thương xót, ân sủng và bình an, trong sự thật và tình thương” ( x. Rm 1, 7; 15, 13; 1 Cr 1, 3; 2 Cr 1, 2; Gl 1, 3; Ep 6, 23; Pl 1, 2 – 3; Cl 1, 2; 1 Tx 1, 1; 2 Tx 1, 2; 1 Tm 1, 2; 2 Tm 1, 2; Tt 1, 4; 2 Ga 1, 3; Gđ 1, 2 ).

5. Lời khuyên của các Tông đồ:

Đừng chia rẽ: “Chớ gì giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn” ( 2 Cr 12, 20 ), vì Chúa Giê-su đã dạy rằng: nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững vàng ( x. Mc 3, 25 ), nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền vững, nó sẽ điêu tàn, nhà nọ sẽ đổ xuống nhà kia ( x. Mc 3, 24; Lc 11, 17 ).

Thánh Phao-lô nhiều lần đã thành khẩn khuyên răn các cộng sự của mình rằng: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau” (1Cr 1, 10 ).

Và chắc chắn, các Tông đồ không thể nào quên, cả chúng ta nữa, lời chúc phúc của Chúa Giê-su: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” ( Mt 5, 9 ). Và “Cứ dấu này, người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau” ( Ga 13, 34 – 35 ); “Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau” ( Rm 14, 19 ).

VI. NHẬN ĐỊNH THAY LỜI KẾT

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta một khẳng định rằng: Chúa Giê-su không hề dạy chúng ta ăn ở bất hiếu với cha mẹ, hoặc gây bất hòa với người thân trong gia đình... Hoàn toàn không phải như vậy. Vì chính Chúa Giê-su đã là mẫu gương của một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong thời gian ở Na-gia-rét ( x. Lc 2, 51 ). Người lo lắng cho Đức Mẹ có nơi nương tựa khi sắp tắt thở trên cây thập giá ( x. Ga 19, 25 – 27 ). Rồi khi người Biệt Phái dạy người ta cách sai lạc về việc dâng “lễ phẩm” cho Chúa, thì Chúa Giê-su đã mạnh mẽ nhắc lại luật hiếu thảo: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ” ( Mc 7, 11 ).

Nhưng đối với Chúa Giê-su, tình yêu cha mẹ vẫn phải lệ thuộc vào Ý Chúa Cha ( x. Lc 2, 49 ). Thánh Ý Chúa Cha phải là ưu tiên hàng đầu, trên mọi thứ tình cảm dù là chính đáng như cha mẹ, vợ chồng, con cái, người thân… Chúa Giê-su đã gọi những người làm theo Ý Chúa Cha là người thận ruột thịt của mình ( x. Lc 8, 19 – 21 ). Ưu tiên đó nhiều lúc đã lật ngược các giá trị đời thường hay luật lệ của xã hội trần thế, làm nẩy sinh những chống đối, bất hòa, chia rẽ… Họ lên án Chúa và lên án những người theo Chúa, họ buộc những người theo Chúa phải đặt mình trước những cảnh lựa chọn éo le, bằng chứng cụ thể và rõ ràng nhất là trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam với 118 Thánh Tử Đạo và hàng ngàn vị chứng nhân tử đạo khác nữa.

Chúa Giê-su đến thế gian, Ngài không chỉ gây chống đối từ phía kẻ thù, mà còn là cơ hội cho người tin theo bị chống đối, có khi ngay từ phía người nhà mình. Vì Tin Mừng đòi mỗi người phải đích thân chọn lựa, ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất cũng phải được xét lại: người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Ki-tô lên trên mọi tương quan gia đình, và cả trên chính mạng sống mình nữa. Đây quả là một sự đòi hỏi quyết liệt và tuyệt đối. Như vậy, Chúa Giê-su không chủ chương đem gươm giáo hay sự chia rẽ cho loài người. Mà sự chia rẽ sở dĩ có xảy ra là do con người không chấp nhận Chúa Giê-su và Tin Mừng Cứu Độ của Người.

Và giờ đây, đoạn Tin Mừng mà chúng ta tìm hiểu, không còn là một đoạn Tin Mừng khó hiểu hay dễ gây ngộ nhận nữa. Vì con người vốn không có lập trường hay sự chọn lựa như nhau. Vấn đề còn lại là tự do của mỗi người chúng ta: bình an hay xung đột, hòa bình hay chia rẽ; mỗi người có thể tự trả lời bằng đời sống đức tin của mình, để hành động sao cho đúng cách. “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương” ( 2 Ga 1, 3 ).

JB. BÙI NGỌC ĐIỆP

--------------------------------------

 

TN 20-C52: Lửa Trời

 

Nếu phải đặt tên, Chúa Nhật 20 năm C có thể được gọi là Chúa Nhật Lửa Trời, bởi Ịức Giêsu: TN 20-C52


Nếu phải đặt tên, Chúa Nhật 20 năm C có thể được gọi là Chúa Nhật Lửa Trời, bởi Đức Giêsu nói trong bài Phúc Âm, “Ta đã đến ném lửa xuống trần gian” (Lk 12:49). Và khi Lửa Trời thiên đàng xuất hiện, đêm đen bóng tối bị xua tan, đời sống trần gian chuyển mình thay đổi.

Hồi xưa, khi thế gian chưa có lửa, người ta sống trong đêm đen bóng tối. Nhưng có lẽ vào một giây phút bất ngờ, nhân loại nhìn thấy sấm sét từ trời cao đánh thẳng vào cây khô. Cây khô bừng cháy phát ra những tia lửa bập bùng soi sáng một khoảng thời gian dài sống trong đêm đen của nhân loại. Gió trời nổi lên đốt thêm sáng ngọn lửa của trời. Lửa sắc lem lẻm lần tìm kiếm đường, bừng bừng đốt sáng rơm khô. Và thế là bắt đầu từ đó người ta học cách phùng mang trợn má thổi rơm đốt lửa. Lửa của sấm sét của trời cao thôi không còn lơ lửng cháy trên không trung, nhưng cháy bập bùng trên mặt đất, soi sáng những khuôn mặt tiền sử bán khai. Đêm đêm buông mình ru ngủ nhân loại, cả bộ tộc ngồi quanh đám lửa cháy. Lửa cháy tí tách ấm áp xua tan băng giá của trời mùa thu và mùa đông. Lửa xua tan hoang dại, chặn bước dã thú hùm beo. Bởi lửa, rắn bò xa, hổ chờn vờn không dám nhảy tới. Bởi lửa, sói hoang lìa bầy nằm ngủ ngoan hiền với con người, biến thành chó con vẫy đuôi mừng gọi. Bởi lửa, gấu không còn đe dọa nhân gian khi màn đêm buông phủ kéo màn. Bởi lửa, thịt tươi không còn đỏ máu, nhưng cháy vàng thơm ngon dưỡng nuôi, khiến bộ óc của con người ngày càng tăng trưởng và phát triển. Óc tăng, chất xám phát triển, nét hoang sơ biến mất, hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người hiện rõ, đậm nét. Lửa tách biệt con người và thú vật. Bởi có lửa, bởi biết giữ lửa cháy âm ỉ tro than, con người thôi không ăn lông ở lỗ. Họ bắt đầu biết chế tạo vũ khí cung tên lẫy nỏ. Thời kỳ đồ đá trôi vào quá khứ nhường ngôi lại cho thời kỳ đồ sắt đồ đồng.

Hồi xưa, có anh chàng thư sinh nhà nghèo, nghèo đến nỗi trong nhà không có một ngọn đèn dầu. Thế là anh chàng bắt đom đóm gom lại làm đèn trời soi sáng những trang sách thánh hiền. Nhờ những ngọn đèn của trời, nhờ những tia lửa đom đóm sáng soi một khoảng không gian của những trang giấy, chàng thanh niên đi thi, đậu Trạng Nguyên, trở về làng vinh quy bái tổ, võng anh đi trước, võng nàng theo sau.

Hồi xưa, Ngôi Trời nhập thể vào trong cung lòng cô thiếu nữ Maria. 9 tháng 10 ngày trôi qua, Ngôi Lời sinh ra biến thành Lửa Trời chiếu sáng rực rỡ trên bầu trời tối đen. Và bắt đầu từ khi Lửa Trời he hé cặp mắt nhìn ra, đêm đen không còn tăm tối nữa. Hào quang Lửa Trời chiếu sáng rực rỡ nơi nơi. Lửa Trời xua tan băng giá đêm đông của những tâm hồn nát tan và vỡ vụn vì nghi ngờ và thù hận. Lửa Trời xua tan hoang dại của tội lỗi. Lửa Trời chặn đứng bước chân của hoang thú trong tâm hồn nhân loại. Lửa Trời dẫn dắt chó sói hoang dại biến thành chiên cừu hiền lành. Lửa Trời nướng thơm nồng năm ổ bánh mì, chiên cháy vàng hai con cá cho nhân gian. Có lương thực thiên đàng no lòng, chất xám tâm hồn phát triển. Con cháu Adam dần dần lột bỏ làn da Evà, biến thành những con người mới trong Đức Kitô. Bởi có Lửa Trời, thời kỳ đồ đá tội lỗi trôi vào quá khứ, nhường lại ngai vàng cho thời kỳ mùa xuân thiên đàng.

Bởi có Lửa Trời Đom Đóm đốt đèn soi sáng những trang sách của Ngôi Lời, người Kitô hữu miệt mài kinh sách hăm hở lên đường, cố tranh giải Trạng Nguyên trên kinh đô Nước Trời.


Suy Niệm

Đức Giêsu chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên đoán trong Isa 60:1, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”.

Khi Lửa Trời Giêsu xuất hiện, tâm hồn của nhân loại không còn dầy đặc đêm đen bóng tối của tội lỗi nữa, nhưng vặn mình đổi thay.

Lời Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy tiếp tục làm Lửa Trời soi đường dẫn lối con đi trên con đường hành hương về lại với chính mình, với tha nhân, và với Chúa.

www.nguyentrungtay.com
LM Nguyễn Trung Tây, SVD


--------------------------------------

 

TN 20-C53: Nước, lửa và sự chia rẽ 


 (Lc 12, 49-53)

 

Hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính vì: TN 20-C53


Hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đề cập đến những thử thách, những nguy cơ và số phận của những ai mạo hiểm bước theo Người. Rồi đây những ai bước theo Chúa Giêsu không thể không bước qua những gian nan khốn khổ, những bách hại như Người đã đi qua…

Tâm sự với các môn đệ, Chúa Giêsu thao thức về ngọn lửa mà Người đem đến thế gian phải chi đã bùng lên để kiện toàn thế nhân. Chúa Giêsu muốn tâm sự với các môn đệ về ngọn lửa nào đây?

Rất có thể đây là ngọn lửa phán xét của Thiên Chúa công minh chính trực. Kinh thánh nói nhiều đến sự hiện diện của Đấng sẽ đến xét xử trần gian là Đức Kytô. Thật thế, trọn đời sống cùng với những giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã “ném” vào thế gian ngọn lửa vạch trần những mưu mô thâm độc của ác thần, những áp bức bất công, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những điều ấy như những tiếng chuông cảnh tỉnh lòng người, giúp họ sớm quay về nẻo chính đường ngay mà phụng sự Thiên Chúa.

Ngọn lửa đó cũng có thể là ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Và Người hằng tha thiết mong chờ con người đáp lại tình yêu đó bằng ngọn lửa nồng cháy. Ngọn lửa tình yêu đó chính là đời sống đức tin, đời sống chứng nhân Tin mừng. Thiên Chúa ước mong ngọn lửa tình yêu đó ngày một cháy lên trong tâm hồn mọi tín hữu để danh Chúa được hiển vinh.

Sau hết, đó cũng là ngọn lửa của Thần Khí Thiên Chúa đến hâm nóng Giáo hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thật thế, Hội thánh Chúa khai sinh trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống- ngày mà các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần dưới hình lưỡi lửa ngự xuống trên đầu các ông. Nhờ ngọn lửa này, Giáo hội Chúa ngày một lan rộng khắp hoàn cầu và sẽ còn lan rộng mãi cho đến ngày Chúa lại đến.

Liền sau đó, Chúa Giêsu nói đến phép rửa mà Người sắp phải chịu. Hành trình lên Giêrusalem của Chúa chính là để lãnh nhận phép rửa này. Phép rửa đó chính là giờ phút Người sẽ trải qua trong giờ tử đạo. Đồng thời, phép rửa này cũng là cuộc vượt qua không chỉ cho Chúa Giêsu mà còn cho các môn đệ cũng như cho hết những ai bước theo Người. Những ai theo Chúa trong đức tin không thể không uống chén đắng mà Chúa sẽ uống và chịu phép rửa mà Người sẽ phải chịu trong ngày khổ nạn. Như thế đã rõ, những gì Chúa Giêsu phải trải qua trong sứ vụ của Người, đến lượt những ai tiếp bước theo Người, cũng sẽ trải qua những thử thách như thế trên lộ trình họ sẽ bước qua.

Sau hết, Chúa Giêsu đề cập đến sự “chia rẽ” mà Người sẽ mang đến cho trần gian. Điều xem có vẻ nghịch lý trong câu nói của Chúa Giêsu nhưng lại là chân lý cho những ai chấp nhận giáo huấn và bước theo đời sống của Người. Thật vậy, bình an mà Chúa Giêsu nói đến không phải là thứ  bình an dễ dãi theo kiểu trần thế mà các ngôn sứ giả không ngừng loan báo. Đó là bình an của nước Thiên Chúa và con người chỉ có thể đạt đến thông qua khổ giá. Con người được kêu mời lựa chọn thái độ sống của mình đối với Chúa Kytô. Họ có thể bước theo hoặc chống lại đường lối của Chúa. Và, sự lựa chọn này chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ ngay trong chính gia đình, trong mỗi cộng đoàn. Ngay chính con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cũng trở thành “cớ” gây nên sự chia rẽ và xáo trộn. Thật thế, nếu lời giáo huấn của Chúa làm cho nhiều người tội lỗi tin theo thì bao nhiêu ông Pharisêu lại ra sức chống đối Người bấy nhiêu; lời giảng của Người về vấn đề giàu nghèo, công bình xã hội được giới bần nông ủng hộ bao nhiêu thì các phú hộ giàu có lại nổi giận, xa lánh Người bấy nhiêu. Hơn ai hết, các môn đệ cũng như Giáo hội tiên khởi đã nếm trải kinh nghiệm này khi họ từ bỏ Dothái giáo để bước theo Chúa Kytô, họ đã bị gia đình, bạn bè, láng giềng thù ghét thoá mạ. Chắc một điều, vì Chúa Kytô, Giáo hội Chúa vẫn còn và sẽ mãi còn những kiểu “chia rẽ” như vậy.

Khi cổ võ cho hoà bình và công lý, khi cố gắng để xây dựng bình an đích thực trong trái tim con người, môn đệ Chúa Kytô có thể sẽ bị thế gian thù ghét và gán cho tội danh là kẻ phản nghịch. Nhưng chúng ta hãy an tâm và tin tưởng. Vì chính sự thù ghét của thế gian lại là phần thưởng nước trời cao quý nhất mà Chúa muốn ban tặng cho chúng ta trong đời sống mai sau.

Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

--------------------------------------

 

TN 20-C54: Lửa

 

Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.  Nhìn vào một ngọn lửa: TN 20-C54


Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.

Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh sáng và sức nóng.

Ánh sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và đốt cháy những gì nhơ nhớp.

Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.

Tuy nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Thực vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem Chúa đến cho những người chung quanh.

Để kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị sáng lập hội Bác ái Vinhsơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt thành bênh vực cho Chúa.

Vào năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.

Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.

--------------------------------------

 

TN 20-C55: Ngôn sứ và những hệ lụy


(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)

 

Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong TN 20-C55


Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong năm 2012, 12 vị thừa sai đã thiệt mạng trên những bước đường truyền giáo. 10 vị là các linh mục, hai vị còn lại là một nữ tu và một giáo dân. Trong 4 năm liên tiếp, Mỹ Châu là vùng đất nơi máu các nhà truyền giáo đổ ra nhiều nhất. Trong năm qua đã có 6 linh mục bị giết tại đây. Tại Phi Châu, 3 linh mục và một nữ tu bị giết. Tại Á Châu, một linh mục và một giáo dân bị giết. Thống kê này không kể đến số các nhà truyền giáo trong đó có cả các Giám Mục bị đánh đập đến mang thương tích, bị giam cầm, khủng bố, hăm dọa, mạ lỵ công khai tại một số quốc gia.

Trong bối cảnh đau thương như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay vang lên như thể củng cố thêm đức tin cho những chiến sĩ đức tin của Chúa, rằng đó là thân phận của những ngôn sứ.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1. Bài Đọc I: Gr 38, 4-6. 8-10

Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân của mình sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Cám ơn Chúa, còn có những người thấy được tội ác đó nên đã giải cứu cho Giêrêmia.

2. Đáp ca: Tv. 39

Đây là lời kêu xin rất phù hợp với tâm tình của tiên tri Giêrêmia: “Tôi đã trông cậy ở Chúa, và Ngài đã nghiêng mình về bên tôi”. Chúa nghiêng mình về phía những người cầu khẩn Ngài chi vậy? Thưa để “Kéo tôi ra khỏi hố diệt vong”, giống hoàn cảnh của tiên tri Giêrêmia; và để “làm cho chân tôi vững bước”. Sau khi kéo ra khỏi chỗ chết, Chúa sợ tiên tri của Chúa nản lòng, nên Ngài còn củng cố thêm sức mạnh để họ tiếp tục thực hiện sứ mạng ngôn sứ của mình.

3. Bài Đọc II: Dt 12, 1-4

Tác giả thư Do Thái mời gọi họ hãy “kiên trì trong đức tin”, vì Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.

4. Tin Mừng: Lc 12, 49- 53

Đang trên đường lên Giêrusalem, nghĩa là sẽ đi đến cái chết, nên CG đã chia sẻ với các môn đệ về sứ mạng của Ngài và những hệ lụy khi phải chấp nhận sứ mạng đó.

 Ngài đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Ngài là Đấng cứu thế. Ngài thực hiện sứ mạng của mình không bằng quyền lực, sức mạnh, nhưng bằng sự yếu nhược và cái chết. Có phải là Ngài thất thế, Ngài đành bó tay trước sức mạnh của kẻ khác không? Thưa không, mà đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì con người chúng ta còn biết rõ một sự thật: “Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tiêu tan”. Thì huống hồ chi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài muốn dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng ta chứ không phải con đường của quyền lực, sức mạnh. Chính vì vậy “phép rửa” mà Ngài muốn nói đến ở đây chính là con đường thập giá mà Ngài sắp bước vào. Đó là sứ mạng ngôn sứ của Ngài.

Tiếp theo, Ngài nói đến những hệ lụy của thân phận ngôn sứ đó. Ngài nói: “Anh em tưởng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Mới nghe điều đó chúng ta giật mình, vì Thiên Chúa mà lại đem đến sự chia rẽ cho người ta sao? Hơn nữa Ngài đã từng chúc phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, chẳng lẽ Ngài lại tự chúc dữ khi là người đem đến sự chia rẽ? Chúng ta phải hiểu Ngài đích thực là Vua Hòa Bình, chính Hòa Bình Ngài đem đến sẽ khiến cho những ai không đón nhận bị chia rẽ. Những ai không đón nhận chân lý của Ngài sẽ tự mình chia rẽ. Hơn thế nữa họ còn quay lại chống đối với những người đón nhận chân lý đó. Thậm chí ngay trong một gia đình, sẽ có người đón nhận và có người từ chối, hậu quả là sự chia rẽ. Đó là hệ lụy của thân phận ngôn sứ, sẽ bị những người từ chối chân lý chống đối, và muốn giết chết.

II. THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY

1. Tấm gương của Môsê

Trong suốt những tuần qua, các bài đọc ngày thường của năm lẽ kể lại cho chúng ta thân phận ngôn sứ của ông Môsê. Thiên Chúa trao cho ông sứ mạng mà ông không muốn và không có khả năng. Nhưng vì nghe lời Thiên Chúa và thương mến dân tộc của ông mà ông đã chấp nhận thân phận ngôn sứ, chấp nhận lãnh đạo một đoàn dân cứng cổ cứng đầu. Đến nỗi có những lúc ông tuyệt vọng, ông than trách với Chúa: “Chúa coi, con không cưu mang, không sinh ra dân này, mà Chúa bảo con hãy bồng nó vào lòng mà đem đến miền đất ta đã thề hứa với cha ông chúng. Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức với con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn. Tuy nhiên, giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Chính ông là người đã đứng ra van xin Chúa tha thứ cho dân nhiều điều, đã đứng ra nhận lỗi về phần mình, đã xin Chúa có phạt thì phạt ông chứ đừng phạt dân mà tội nghiệp! Và cũng chính vì dân chúng mà Môsê đã không vào được vùng đất Chúa hứa, nhưng phải chết ở bên ngoài vùng đất đó. Đó là tấm gương của một ngôn sứ và những hệ lụy khi chấp nhận thân phận ngôn sứ. Tất cả vì sứ mạng mình đã lãnh nhận, không nghĩ gì đến bản thân mình.

2. Một lần ý thức

Chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng nhiều khi chúng ta không biết hoặc quên sứ mạng ngôn sứ của mình. Chính vì vậy hôm nay là dịp để một lần chúng ta ý thức mình đã là ngôn sứ, vì vậy phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ và những hệ lụy của thân phận ngôn sứ.

III. CHẤP NHẬN THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY

1. Thân phận ngôn sứ

Thiên Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ta đặt Lời của Ta vào miệng ngươi”. Chính vì vậy ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Thiên Chúa. Các ngôn sứ ý thức nguồn gốc thần linh những sứ điệp của mình, nên họ nói: “Đức Chúa phán”, hoặc “Đó là lời Chúa”, chứ không phải lời của họ.

Kitô hữu là người nói thay lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy họ phải thường xuyên nối kết với Thiên Chúa để có thể biết, hiểu và trình bày lại cho người khác những giáo huấn tinh tuyền của Ngài. Cần phải lưu ý là “những giáo huấn tinh tuyền”. Ngày hôm nay có quá nhiều “sứ điệp từ trời”, “sứ điệp của Đức Maria”, “sứ điệp mang danh của Đức Giáo Hoàng này, Đức Giáo Hoàng nọ”… Kitô hữu cần phải khôn ngoan để phân biệt đâu là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta. Chúng ta đừng tìm đâu xa, sứ điệp đích thực của Thiên Chúa nằm trong Thánh Kinh và Giáo lý cũng như những lời giảng dạy chính thức của Hội Thánh. Họ hãy thông truyền bằng cách sống theo Lời Chúa và Luân Lý của Giáo Hội, cũng như tiếng nói của lương tâm ngay lành.

Mấy ngày nay người ta xôn xao câu chuyện bác sĩ Nguyệt đã làm đơn tố cáo bệnh viện Đa Khoa Hoài Đức ở Hà Nội “nhân bản kết quả xét nghiệm”. Việc này làm cho những bệnh nhân bàng hoàng vì kết quả xét nghiệm của mình được lấy từ những mẫu có sẵn. Việc làm này của chị có thể nói là hành động của một ngôn sứ vì chị đã dám nói lên sự thật, dám nói lên công lý, dù biết mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.

Còn chúng ta, chúng ta đã dám sống theo lời Chúa dạy, đã dám sống theo luân lý Kitô giáo và tiếng nói lương tâm ngay lành chưa?

2. Hệ lụy của ngôn sứ

Tuy nhiên khi chấp nhận thân phận của một ngôn sứ thì chúng ta cũng phải đón nhận những hệ lụy của nó. Ông Môsê, tiên tri Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các tiên tri đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Chúng ta là những ngôn sứ, cũng phải chấp nhận những chống đối, những hiểu lầm, những ghen ghét, những loại trừ… nói chung là những bách hại để sống sứ mạng của ngôn sứ.

Những bách hại đó đôi khi trong chính gia đình chúng ta. Chồng kêu vợ đi lễ, cô ta trả lời: “Ông ráng đi đi, mai mốt thành ông cha luôn!” Nếu người chồng không chấp nhận thân phận ngôn sứ sẽ bỏ luôn vai trò ngôn sứ.

Những bách hại đó đôi khi trong chính khu xóm của chúng ta. Tháng Mân Côi, khu trưởng lại bàn về việc rước Đức Mẹ về nhà đọc kinh, thay vì được nhận lời, còn bị chửi nữa. Nếu không chấp nhận thân phận ngôn sứ chúng ta sẽ dễ chán nản.

Những bách hại đó đôi khi trong chính đoàn thể của chúng ta. Ai làm gì cho mình giận là mình không thèm tham gia nữa, làm như thể mình phục vụ những con người trong hội đoàn đó chứ không phải phục vụ Chúa và Giáo Hội vậy?

Những bách hại đó dành cho mọi ngôn sứ, nhưng thường dành cho những người đứng đầu nhiều hơn.

Khi giết được cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người ta đã thả cho giáo dân của cha về.

Các Linh mục làm việc bác ái, người được thì hớn hở, người không được thì giận hờn, thậm chí bỏ đạo luôn.

Giáo dân trong họ đạo bắt cha sở phải làm theo ý của họ với luận điệu họ đạo này là của chúng con, cha phải làm theo những gì chúng con đề ra…

Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin:“Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến”. Như thế, người tín hữu vẫn luôn phải trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng họ có Chúa nâng đỡ và phù trì. Sự gian nan ấy không làm nghẹt đức tin và lòng trông cậy nơi họ, nhưng trái lại, như lửa thử vàng, gian nan thử thách, chính sự gian nan là bằng chứng cho một tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và phó mình vì tôi”.

--------------------------------------

 

TN 20-C56: Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta

 

Ngày hôm nay “căng thẳng” là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều người. Chúng ta nhận biết rằng: TN 20-C56


Ngày hôm nay “căng thẳng” là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều người. Chúng ta nhận biết rằng, căng thẳng ở nơi công việc, căng thẳng trong hôn nhân, căng thẳng trong lần gặp gỡ nhau cuối cùng. Sự căng thẳng xảy ra khi sức mạnh chuyển đến những hướng đối nghịch. Một thí dụ đơn giản là một sợi dây cao su. Khi kéo sợi dây theo hướng đối nghịch bạn cảm thấy căng thẳng. Nếu sự căng thẳng tiếp tục tăng lên sợi dây sẽ đứt, Chúa Giêsu cảnh báo rằng giáo lý của Ngài sẽ mang đến những sự căng thẳng và sẽ tận cùng bằng chia rẽ ngay cả những người trong gia đình.

Trong gia đình Giáo Hội có sự căng thẳng, đặc biệt là trong nhiều nơi đối với phụng vụ. Chúng ta phải trở thành sống động giống như một gia đình hạnh phúc, luôn hợp nhất và bình an, nhưng những lực kéo đang kéo tới hướng đối nghịch, một số ước vọng hướng tới việc phục hồi Công đồng Vatican II, còn những người khác lại muốn trở lại thần học và những thực hành thuở ban đầu.

Đây là một cuộc nói chuyện thẳng thắn. Sự chuyển động trở lại phía sau thì không đúng hướng. Nhiều người muốn tin rằng Đức Giáo Hoàng thì bảo thủ cực đoan và hối hận vì Công đồng Vatican II đã dẫn Giáo Hội đến không phải chỉ những ước muốn vô vọng; và là một sỉ nhục cho Chúa Thánh Thần. Đực Giáo Hoàng có vẻ như đã bác bỏ những tiếng nói mạnh mẽ phàn nàn chống lại Công đồng, ngài không đồng ý với ý hướng của họ.

Tại một cuộc gặp gỡ quan trọng của các Hồng Y trên thế giới vào mùa hè năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Phụng vụ không nghi ngờ gì là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Tiến trình canh tân phụng vụ trong tinh thần của Công đồng Vatican II vẫn luôn tiếp tục dưới sự hướng dẫn và giám sát của thánh bộ phượng tự và kỷ luật của các bí tích”.

Đức Giáo Hoàng đã hành động theo lời tuyên bố trang trọng trong Hiến chế về phụng vụ của Công đồng. Một tuyên bố sẽ linh hứng cho mọi người trong Giáo Hội và phải hướng dẫn mỗi Giám mục, linh mục:

“Nhiệt thành trong việc đề xướng và canh tân phụng vụ phải được xem như một dấu chỉ sự xếp đặt quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta, như là một chuyển động của Thánh Thần trong Giáo Hội của Người. Sự kiện này còn là một đặc điểm nổi bật của đời sống Giáo Hội cũng như mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta” (số 43).

Các bạn đã chia sẻ những đau buồn khi đọc những bài viết tấn công của những người Công Giáo về Công đồng Vatican II: “Công đồng Vatican II đã mở cửa cho những sự dữ bước vào Giáo Hội, bởi vì Công đồng đã làm một cuộc cách mạng tầm cỡ thế giới chống lại trật tự của Thiên Chúa”. Nếu các bạn đã tham dự vào điều đó, cám ơn Chúa vì sự nhiệt thành này. Nếu các bạn có buông thả bởi bất cứ sự thay đổi nào, hãy loại bỏ chúng như là một sự dữ. Theo lời khuyên của thư Do Thái: “Hãy để chúng ta luôn nhìn ngắm vào Chúa Giêsu, Đấng luôn luôn linh hứng và hoàn hảo đức tin của chúng ta”.

Dĩ nhiên có những lạm dụng chống lại phụng vụ nhưng không thể thứ lỗi cho việc tấn công vào chính việc phục hồi phụng vụ. Chúng ta không thể loại bỏ hệ thống toà án của xứ sở chúng ta bởi vì những quan toà và bồi thẩm đều thất bại khi hành động theo sự công chính. Sự lạm dụng không phải là hệ thống mà là một sự đối nghịch lại với hệ thống. Đừng chấm dứt nơi mặt sai chống lại Thiên Chúa như đã làm bởi những hoàng tử làm với tiên tri Giêrêmia, vị tiên tri của Thiên Chúa là đưa ông tới sự chết. Sự thúc đẩy và phục hồi phụng vụ thánh là công việc của Thiên Chúa qua Thánh Thần. Đừng trở nên nguyên nhân gây ra sự căng thẳng trong Giáo Hội. Hãy bảo đảm là các bạn đang cố gắng trong cùng một hướng với Chúa Thánh Thần.

--------------------------------------

 

TN 20-C57: Người giữ ngọn lửa

 

Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về: TN 20-C57


Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.

Sau khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.

Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói:

“Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.

Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.

Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trợ cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa”.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.

Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.

Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi toả hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.

Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.

Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.

Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hoà nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hoà, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.

Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hoà thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng loã, hiệp nhất trong tội lỗi…

Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.

Anh chị em thân mến,

Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bóng tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.

--------------------------------------

 

TN 20-C58: NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”

 

Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người: TN 20-C58


Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị bách hại và một số bị giết chết.

Giêrêmia là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.

Các ngôn sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen, ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.

Một đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiệp nhất giả hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.

Khi nhà văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sống dân sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào của lợi ích bản thân.

Những sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.

Đức Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.

Sứ điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.

--------------------------------------

 

TN 20-C59: Ném lửa

 

Thầy đến để ném lửa trên mặt đất… Thầy đến không…. . Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa: TN 20-C59


“Thầy đến để ném lửa trên mặt đất… Thầy đến không phải để đem hoà bình, nhưng là đem sự chia rẽ”. Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa nghe đến từ Đức Giêsu! Chúng ta không muốn chờ đợi Người dùng lửa và gươm (sự chia rẽ). Người cũng không muốn. Khi Giacôbê và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh từ trời xuống trên một ngôi làng người Samari, Người nói với hai ông ấy rằng họ không biết điều họ nói. Và khi Phêrô rút thanh gươm ra trong vườn cây dầu, Đức Giêsu nói với ông hãy cất gươm đi.

Đức Giêsu không đến để gây ra xáo trộn hoặc làm cho các gia đình tan vỡ. Nhưng thỉnh thoảng điều ấy đã xảy ra. Trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, hoán cải theo Kitô giáo hầu như dẫn đến việc bị gia đình từ bỏ, do đó người trở lại đạo phải chọn lựa giữa Đức Kitô và gia đình mình.

Rõ ràng khi Đức Giêsu nói về việc ném lửa và gây chia rẽ từ ngữ của Người không được dùng theo nghĩa đen. Tuy nhiên những lời ấy có ý nghĩa thực tế đối với Người. Đức Giêsu hiền lành nhưng không có nghĩa Người yếu đuối. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, Người cũng rất quả quyết như khi Người đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ.

Những lời ấy cũng thể hiện những điều rất mạnh mẽ trong giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người gây ra chia rẽ. Người dạy rằng Vương quốc của Thiên Chúa mở ra cho mọi người, thánh nhân và người tội lỗi, người Do thái và dân ngoại. Điều này đưa đến sự xung đột của Người với cơ chế tôn giáo của thời đó. Người gọi các kinh sư và người Pharisêu là những kẻ giả hình và những người mù dẫn đường. Họ gọi Người là một kẻ làm loạn và một người bị quỉ ám.

Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những điều “dễ nghe”, hẳn Người đã trở thành một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Người đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối. Lời Người làm tổn thương một vài người và làm những người khác tức giận. Những lời Người nói với người nghèo khác với những lời Người nói với người giàu. Những lời Người nói với người tội lỗi khác với những lời Người nói với Pharisêu. Chúng ta sẽ phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những khác nhau giữa người giàu và người nghèo, giữa người có đặc quyền và người cùng khổ. Một Tin Mừng nhạt nhẽo như thế không thể trở thành men làm dậy bột thế gian.

Có một xu hướng “thuần hoá” Tin Mừng, giản lược nó vào những lời nói hay đẹp và những kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết mùi vị, ánh sáng trở nên mù mờ.

Các Kitô hữu không nên ngạc nhiên nếu Tin Mừng chia rẽ người ta. Ý thức về công lý đã đưa Người đến chỗ xung đột với những người bất lương. Lòng khoan dung của Người khiến Người phải xung đột với người có đầu óc hẹp hòi và tin tưởng mù quáng. Ánh sáng càng sáng tỏ thì bóng tối mà nó đẩy lùi càng thêm tăm tối.

“Khi tôi cho người nghèo lương thực, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi hỏi tại sao người nghèo không có lương thực, họ gọi tôi là một người cộng sản”. Cố Tổng giám mục Helder Camara, người chiến sĩ đấu tranh cho người nghèo ở Braxin đã nói như thế.

Đức Giêsu nói rằng Người đến để thắp lửa trên mặt đất. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Đó là một biểu tượng của sự phán xét và thanh luyện. Lửa đốt cháy những gì vô ích, và thanh lọc những gì còn ô uế.

Sứ điệp Tin Mừng là một ngọn lửa thanh luyện, nó là men cho xã hội và thế gian. Ngọn lửa ấy không chỉ được đốt lên mà còn được giữ gìn. Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu là những người chăm sóc giữ gìn ngọn lửa ấy.

--------------------------------------

 

TN 20-C60: CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN


Lc. 18, 49 – 53

Anh chị em thân mến.

 

Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam có một câu chuyện mà có lẽ được rất nhiều người biết đến. Đó: TN 20-C60


Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam có một câu chuyện mà có lẽ được rất nhiều người biết đến. Đó là chuyện Ăn Khế Trả Vàng. Câu chuyện kể lại một gia đình có hai anh em, cha mẹ mất sớm, chỉ còn hai anh em chung sống với nhau. Người cha có lời dạy bảo trước khi chết, bảo anh em thương yêu nhau. Người anh lớn thay thế cha lo cho em.

Nhưng khi thấy người em đã lớn khôn, người anh vì có tính tham lam, sợ em mình đòi chia gia tài nên anh mới lập mưu với vợ, chỉ chia cho em mình có mỗi cây khế sau vườn. Người em vì nhớ lời cha chỉ dạy nên bằng lòng với những gì mà anh mình chia cho. Hằng ngày chăm sóc cây khế và làm lụng thêm để sống qua ngày. Nhưng một hôm có con chim lớn đến ăn gần hết những quả khế, anh mới than thở buồn rầu. Con chim mới bảo ăn khế trả vàng, may túi ba gan. Thế là anh được chim chở đi, anh nhận được vàng. Từ đó anh giàu có ra, mua đất thêm và sống sung túc. Người anh biết được việc, mới xin em đỗi cây khế. Đến một hôm cũng thế, anh cũng được chim chở đi để nhận vàng. Nhưng anh quá tham lam, anh mang nhiều vàng quá, chim chở không nỗi, chim đánh rơi anh xuống biển cả, anh không thể trở về được nữa.

Người anh vì quá tham lam, nên những gì mà cha để lại, anh không biết dùng cho đúng. Anh không còn nhớ đến cha, cũng không còn biết đến tình yêu thương mà cha đã trối lại. Anh chỉ biết cậy dựa vào đồng tiền, vào của cải vật chất, nên những thứ đó đã giết chết anh. Còn người em luôn biết vâng nghe lời cha, nên anh đã có tất cả, ngay cả những cái mà dường như anh đã mất.

Thầy dã đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Chúa Giêsu còn nói thêm khiến mọi người bở ngở: . . . Thầy đến để đem chia rẽ. Chúa Giêsu không đem bình an theo như thế gian nghĩ tưởng. Ngài chỉ đem bình an cho những ai biết lắng nghe, biết vâng giữ những gì Ngài chỉ dạy, biết thực hiện điều Ngài mong ước.

Nếu con người chỉ tìm những lợi ích cho bản thân mình, chỉ biết tìm những gì là trần thế, chỉ biết cậy dựa vào những gì chóng qua của đời này mà quên đi lời chỉ dạy của Ngài, quên đi tình yêu thương mà Ngài đã trối lại, quên đi những người chung quanh. Những người như thế không bao giờ có được sự bình an. Họ luôn lo sợ, sợ mất đi những gì mình đang có, lo sợ người khác có thể hơn mình. Nên họ luôn chạy đôn chạy đáo, tìm đủ mọi mánh khóe, thủ đoạn để hại người. Mặc dù, dường như trong hiện tại, họ thành công. Nhưng những gì họ đang có trong tầm tay, lại là một gánh nặng đeo họ suốt cả cuộc đời, khiến họ không thể ngẩn đầu lên được, nhiều lúc còn giết chết cả cuộc đời của họ.

Mỗi người trong chúng ta để một ít phút suy tư về cuộc sống của mình. Ngọn lửa nào đang đốt cháy tâm hồn? Ngọn lửa của tình yêu thương tha thứ, ngọn lửa phát xuất tự con tim, ngọn lửa được Chúa Giêsu mang đến. Hay trong tâm hồn ta chỉ có ngọn lửa của sự căm hờn, của lòng ganh tỵ.

Ngọn lửa của sự tham lam đang đốt cháy con người chúng ta đến đâu? Coi chừng ngọn lửa của lòng ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nó sẽ nhận chìm và giết chết cuộc đời chúng ta. Vì khi đó chúng ta không còn nhìn thấy được những người chung quanh, không còn khả năng lắng nghe những lời nói ngay thẳng, cũng không còn nhìn thấy được trách nhiệm mình phải chu toàn. Khi đó con tim chúng ta không còn hoạt động nữa, nó đã chay lì khô cứng. Khi đó chúng ta chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, giống như người anh cả trong câu chuyện Ăn Khế Trả Vàng. Nếu như thế, coi chừng, chúng ta sẽ có một kết thúc không mấy tốt đẹp như người anh cả.

Nếu chúng ta biết sống bằng con tim thực sự, con tim biết yêu thương run động trước những bất công. Nếu chúng ta biết nhìn thấy được những người chung quanh và đáp ứng nhu cầu của họ theo khả năng mình có. Nếu chúng ta biết chu toàn trách nhiệm theo như lời Chúa chỉ dạy, cho dù bị một chút thiệt thòi. Khi đó chúng ta sẽ thấy được sự bình an hiện diện trong tâm hồn của mình, sự bình an thật sự của Thiên Chúa.

Xin đốt lửa yêu mến Chúa trong tâm hồn mỗi người chúng con, để luôn được an bình trong Tay Chúa.

--------------------------------------

 

TN 20-C61: LỬA YÊU THƯƠNG


Lc. 18, 49 – 53

 

Trong Kinh Chúa Thánh Thần chúng ta thường đọc có câu: “...chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần: TN 20-C61


Trong Kinh Chúa Thánh Thần chúng ta thường đọc có câu: “...chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con...”. Ý thức tự sức mình chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa được, nên chúng ta đã kêu xin cùng Chúa Thánh Thần. Chính nhờ ơn của Người mà chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn.

Một đôi vợ chồng cưới nhau trải qua một thời gian có thể sự mặn nồng thuở ban đầu không còn nữa. Có thể do mưu sinh, do hoàn cảnh cuộc sống hay do sống chung lâu ngày trở nên nhàm chán nên vợ chồng có thể lạnh nhạt nhau. Những lúc ấy cần phải “hâm nóng” lại. Người ta thường gọi là “hấp hôn” bằng những hành động và cử chỉ yêu thương. Có như thế hy vọng hạnh phúc gia đình được duy trì bền lâu.

”Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lửa mà Chúa Giêsu đến ở đây chính là lửa yêu thương: Yêu mến Chúa và yêu thương nhau.

Hai tuần trước Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy biết làm giàu trước mặt Chúa và hãy tỉnh thức cũng như sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Hôm nay Người nói lên nổi khát khao là chúng ta hãy làm những việc đó vì lòng mến Chúa yêu người. Chúa biết con người chúng ta yếu đuối dễ sa ngã. Nhất là chúng ta rất dễ bị của cải vật chất đời này lôi cuốn đến nỗi quên mất Chúa. Từ đó, chúng ta sẽ rất dễ bị nguội lạnh trong ơn thánh của Người. Những lúc ấy chúng ta rất cần có lửa yêu thương của Chúa làm nóng lại trong ta tinh thần khao khát hạnh phúc Nước Trời.

Lửa yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện nơi cuộc tử nạn và Thương khó của Chúa Giêsu. Người nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”. Phép rửa ấy chính là cuộc thương khó mà Chúa Giêsu sắp phải chịu. Và Người mong muốn hoàn tất tình yêu ấy cho con người chúng ta.

Lửa yêu thương của Thiên Chúa chính là động lực để chúng ta thi hành việc yêu mến Chúa và yêu thương nhau. Khi thi hành những điều ấy Chúa Giêsu thấy trước là sẽ có những sự “chia rẽ” trong gia đình. Những chia rẽ ấy chính là những chia rẽ tích cực. Vì lòng mến Chúa và yêu thương nhau có thể có nhiều cách thể hiện khác nhau. Hơn nữa, rất có thể chúng ta sẽ bị chống đối.

Hãy chấp nhận những sự chia rẽ ấy. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở,vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5,11-12) hay “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33)

--------------------------------------

 

TN 20-C62: THẦY ĐẾN ĐEM SỰ CHIA RẼ


Lc. 18, 49 - 53

 

Có lần, chúng tôi đem Mình Thánh Chúa đến cho ông cụ và người con gái bị bệnh của ông, hiện: TN 20-C62


1. Có lần, chúng tôi đem Mình Thánh Chúa đến cho ông cụ và người con gái bị bệnh của ông, hiện sống khá xa nhà thờ. Đang khi chúng tôi cử hành nghi thức cho bệnh nhân, thì người con trai út trong gia đình đi dạy học về, anh ta lấy làm khó chịu. Được biết gia đình nầy trước đây sống gần nhà thờ, cả gia đình cùng theo đạo; nhưng chỗ ở hiện giờ chung quanh là bà con lương dân, hơn nữa có những thành viên trong gia đình nầy sợ theo đạo bị ảnh hưởng đến công danh, cho nên chỉ còn có ông cụ, tức người chồng, và người con gái bị bệnh còn tuyên xưng niềm tin vào Chúa, còn bà vợ và những người con khác đã có thái độ lạnh nhạt với niềm tin, trong gia đình chia làm hai nhóm kẻ tin và người không tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy trước vì niềm tin, có thể xảy ra chia rẽ ngay trong gia đình. Đức Giêsu được mệnh danh là vị vua hiệp nhất, hoà bình nhưng tại sao Người đến lại gây chia rẽ? Chúng ta phải hiểu sự chia rẽ nầy như thế nào ? Và nếu có sự chia rẽ thì phải giải quyết làm sao?

2. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Đó là tiếng hát của Thiên thần hát vang cả cánh đồng Bêlem, trong ngày Chúa giáng sinh, mừng Đấng đem lại bình an cho loài người. Vậy mà đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Đức Giêsu lại nói rằng “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao ?... không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Như vậy phải chăng Thiên Chúa, Đức Giêsu lại tự mâu thuẫn? Đấng mang lại bình an nay lại tạo mất bình an, tức gây chia rẽ !? Thưa không, bởi Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng tốt lành, Ngài không tạo nên điều xấu, không gây chia rẽ. Nhưng có chia rẽ hay không là do có sự đối nghịch giữa người công chính và kẻ bất chính. Đối nghịch giữa sự thật, và gian dối, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống thật và sự sống tạm bợ… cách chung là giữa những người tin nhận và không tin nhận Đức Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống (x.Ga 14,6).

3. Sự đối nghịch về niềm tin có khi xảy ra ngay nơi những người thân, như trong gia đình mà chúng tôi đem Mình Thánh Chúa ở trên. Cũng được biết có bà mẹ rất yêu mến Đức Giêsu, muốn vào đạo nhưng người con không đồng ý, bởi vì khi bà mẹ vào đạo thì có thể ảnh hưởng đến công danh của người con ! Một sự xem ra khó tin nhưng có thật đã xảy ra nơi xã hội còn phân biệt đối xử với tôn giáo, vì thế tạo ra mâu thuẫn! Cũng có sự đối nghịch, tuy không thường gặp, giữa cha mẹ và con cái, khi cha mẹ không dạy bảo con làm điều tốt mà bảo làm điều xấu như trộm cắp để đem tiền của về cho gia đình, con không nghe thì đánh đập chưởi bởi…!

Sự đối nghịch về luân lý, không chỉ hạn hẹp trong gia đình mà còn có thể xảy ra ngoài xã hội cách phức tạp, phong phú. Chẳng hạn quan điểm về “sự thật”, bởi có những người, tập thể tôn trọng sự thật, nhưng lại có những người, tập thể cách nào đó đã coi thường bóp méo sự thật, dĩ nhiên là tạo nên sự đối kháng. Như trong bức thư của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn gởi Báo Công Giáo và Dân Tộc và các Cơ quan Truyền thông Công giáo Việt Nam ngày 10.07.2007, trong đoạn 2 có ghi: “Thực tế cho thấy cơ quan truyền thông xã hội nơi nầy nơi khác thông truyền có khi là sự thật thật, có khi là sự thật ảo, có khi là sự thật bị cắt xén, bị bóp mép, thêm râu ria, có khi là sự thật một chiều, một mặt… Và hậu quả trước mắt là dễ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, hoặc gây nhiễu và làm biến chất những mối quan hệ xã hội”.

Sự đối nghịch giữa tốt và xấu không chỉ nơi xã hội, nơi cộng đoàn, nơi những người thân với nhau, mà chính nơi bản thân mỗi chúng ta cũng vẫn có. Con người của chúng ta như muốn phân hai, Thiên thần bản mệnh hướng chúng ta làm điều lành, còn ma quỷ thì xúi dục chúng ta làm điều dữ, đến nỗi thánh Phaolô mà còn phải thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).

4. Chắc hẳn Thiên Chúa không muốn tạo sự đối nghịch trong bản thân chúng ta, hay giữa con người với nhau, nhưng một bên có được sự lành của Thiên Chúa và một bên thiếu vắng sự lành của Ngài, hẳn nhiên tạo ra sự đối nghịch. Nhưng nếu có sự mâu thuẫn thì phải giải quyết làm sao? Kinh thánh đã cho ta lời giải đáp đó là phải nghe Lời Thiên Chúa hơn nghe lời người ta (x. Cv 4,19). Nghĩa là chúng ta cố gắng thực hiện những gì đẹp lòng Thiên Chúa và khước từ những gì trái ý Ngài, cho dù điều đó làm cho ta cảm thấy đau đớn, thiệt thòi, cho dù những người thân của chúng ta cảm thấy khó chịu. Cho dù chúng ta cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Bởi chỉ duy nơi Thiên Chúa mới có hạnh phúc thật và mỗi người phải trả lẽ trước mặt Chúa về chính đời sống của mình, chứ không phải ai khác. Thánh Phanxicô Assisi (1181-1226) đã cho chúng ta bài học trong việc giải quyết vấn đề nầy. Cha của Phanxicô là một thương gia giàu có, muốn cho ngài nối nghiệp mình, nhưng thánh nhân quyết tâm dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì. Điều nầy không làm hài lòng gia đình, nhất là nơi người cha. Ông đã tìm cách bắt nhốt ngài, rồi dẫn đến Đức Giám mục địa phận như một đứa con bất tuân phục. Thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa, ngài trút bỏ lại cho gia đình để có thể trung thành với tiếng gọi của Thiên Chúa!

Tôi cũng được biết nhiều người tân tòng, đã vượt được rào cản khắt nghiệt của gia đình, để tin nhận Đức Kitô. Khi đã là môn đệ Chúa rồi họ thường nói với gia đình đạo Chúa dạy những điều tốt đẹp, vậy mà có những người vô tâm bày bác đạo? Cũng có những Kitô hữu vẫn trung kiên với niềm tin của mình cho dù những người thân bày bác, nặng nhẹ thế nào! Những người nầy là những người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.

5. Sự đối nghịch trong thiên nhiên tạo ra sự đấu tranh sinh tồn, nhờ đó tạo nên những giống loài mới. Sự đối nghịch về luân lý trong xã hội để rèn luyện đức tin của các Kitô hữu, qua đó biết ai là kẻ bất trung và người trung thành cho dù điều kiện sống đạo như thế nào. Những ai kiên trung là những người hiểu rằng trên hết hãy tìm kiếm và sống theo thánh ý của Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho (x. Mt 6,33). Họ cũng hiểu rằng được cả thế giới mà mất linh hồn nào đặng ích gì (x. Mt 16,26)!

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi giúp sức để mỗi người chúng con mãi chọn Chúa làm gia nghiệp và sống đẹp lòng Ngài luôn . Amen.

--------------------------------------

 

TN 20-C63: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XX – 2001

 

Trong xu hướng toàn cầu hóa thì định luật cạnh tranh càng trở nên khắt khe: đó là điều làm: TN 20-C63 


          Trong xu hướng toàn cầu hóa thì định luật cạnh tranh càng trở nên khắt khe: đó là điều làm cho nhiều người lo lắng, và cách đặc biệt các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ không còn khả năng tự bảo vệ nền kinh tế vốn quá yếu kém của mình. Nói được rằng ý niệm cạnh tranh giờ đây bao hàm luôn một thuộc tính đáng sợ "không khoan nhượng".

          Thực ra sự cạnh tranh trên bình diện cuộc sống thường ngày chỉ là một phản ảnh tất yếu của một cuộc cạnh tranh nằm ngay trong sâu thẳm bản thân mội một con người. Lời Chúa hôm nay muốn phơi bày thực tại ấy, một thực tại mà con người ở mọi thời dường như luôn tránh né và không muốn đối diện.

          Giêrêmia hôm nay bị các vương công ném xuống giếng bùn không phải vì Giêrêmia tranh giành địa vị hay tiền bạc với họ, nhưng chỉ vì Giêrêmia tố cáo sự bội tín của họ đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa. Các vương công đang biến Dân Chúa trở thành dân của những tham vọng chính trị trần thế, rời bỏ Giao Ước họ đã ký kết với Thiên Chúa theo đó "Họ là dân riêng của Chúa, và Chúa là Thiên Chúa của họ". Các vương công thì muốn chạy theo thế lực của Ai Cập, một Đế Quốc mới. Họ muốn dân quy phục Ai Cập, phục vụ quyền lợi của Đế Quốc này.

          Vào thời Đức Giêsu, những nhà lãnh đạo của Israel đạo cũng như đời đã biến Đền Thờ Giêrusalem thành một trung tâm quyền lực phục vụ cho những quyền lợi của phe nhóm và đảng phái chính trị: họ muốn một sự ổn định trong mối tương giao với Đế Quốc Rôma để giữ được quyền lợi của bản thân họ. Với quyền lực ấy họ phế bỏ những lề luật của Giao Ước không trực tiếp phục vụ cho tham vọng của họ: tạo nên một xã hội mà Đức Giêsu gọi là "thế hệ gian tà". Thậm chí họ biến Đền Thờ thành nơi buôn thần bán thánh, thành hang trộm cướp, "để nuốt trửng đồng trinh cuối cùng của các bà góa". Trong bối cảnh như thế, tất yếu con người như Đức Giêsu "đã đến ném lửa vào trái đất" lại còn "những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên", những con người như vậy tất yếu bị loại trừ theo định luật "cạnh tranh không khoan nhượng".

          Vào thời hoạt động của Phaolô, thời cực thịnh của Đế Quốc Roma, khi mà trong toàn đế quốc sự phồn vinh và hưởng thụ trở thành nếp văn hóa tiêu biểu, thì những lời rao giảng về "một Đức Giêsu chịu đóng đinh" đúng là sự điên rồ, và trở thành tư tưởng phá hoại sự ổn định xã hội. Vì vậy người ta nghỉ là phải cưỡng bách giập tắt. Người tín hữu bị ruồng bắt khắp nơi.

          Trong xã hội ngày nay, để có cơm ăn áo mặc, và để có một cuộc sống có thể đối diện với mọi người, con người bị ném vào một guồng máy lao động không thể cưỡng chế. Những giá trị luân lý và đạo đức không cho người ta công ăn việc làm, không cho người ta leo lên những nấc thang xã hội, đều trở thành những giá trị nghiệt ngã phải chối bỏ. Vì thế người ta rời xa Giáo Hội, rời xa cuộc sống Đức Tin để đáp ứng những nhu cầu không thể thiếu của đời sống thường ngày.

          Xem như thế, vào bất cứ thời điểm nào Lời Chúa luôn đặt trước mắt con người phải làm một cuộc lựa chọn. Sự lựa chọn nào cũng có những đòi hỏi tất yếu phải thanh tẩy những điều không tương xứng và không tương hợp. Và điều ấy tạo nên những đối kháng, những đấu tranh. Những con người như Giêrêmia, như Phaolô giống như chính Đức Giêsu đã phải dùng chính cái chết của mình để khẳng định sự bình an đích thật là sự bình an mà Giao Ước của Thiên Chúa trao ban. Sự bình an ấy đòi hỏi phải thanh tẩy tội lỗi khỏi cuộc sống. Sự thanh tẩy ở đây không phải là những cưỡng chế từ bên ngoài, không phải là những vu khống, bắt bớ, cho dù nó vẫn thường diễn ra như thế. Nhiều người đã nhân danh niềm tin để đòi cho được thứ tự do trong cơ chế, trong tổ chức, trong cơ cấu xã hội. Nhưng Tin Mừng lại chỉ mời gọi con người hãy dấn thân cho một cuộc đua tâm linh: nơi con người chỉ đối diện với chính mình.

          Thánh Phaolô thật chí lý khi nhận định về mọi nỗi khổ cực và cả sự chết của Đức Giêsu. Đây không phải là cơ chế, tổ chức, cơ cấu xã hội là nguyên nhân cái chết ô nhục của Người, nhưng "Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá...", đúng như chính Người đã minh xác "Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất". Sự đấu tranh kiên cường phải có là sự đấu tranh với chính mình, với lựa chọn phải có trong cuộc sống, để luôn luôn biết "mở miệng hát bài ca mới. Bài tán dương Thượng Đế chúng ta".

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

----------------------------------------

 

TN 20-C64: Đức Giêsu đến để đem gươm giáo và chia rẽ


Chúa Nhật thứ 20 Thường Niên

 (15-8-2004)

Đức Giêsu đến để đem gươm giáo và chia rẽ

 ĐỌC LỜI CHÚA

·        Gr 38,4-6.8-10: (4) Các thủ lãnh thưa với vua Xítkigiahu: «Xin ngài cho giết Giêrêmia đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ».

·        Dt 12,1-4: (3) Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí.
 
·        TIN MỪNG: Lc 12,49-53

Thái độ của Đức Giêsu trước cuộc Thương Khó

 (49) «Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (50) Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

 «Thầy đến để gây chia rẽ»

 (51) «Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng».
 
CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

 

Bạn có thái độ nào khi thấy người khác suy nghĩ và hành động khác với bạn? Bạn có: TN 20-C64


1.      Bạn có thái độ nào khi thấy người khác suy nghĩ và hành động khác với bạn? Bạn có thường nghĩ rằng bạn đúng hơn những người nghĩ khác bạn?
2.      Bạn có ngạc nhiên khi Đức Giêsu nói rằng Ngài đến không phải để đem lại hòa bình, nhưng là đem đến gươm giáo và chia rẽ? Bạn hiểu lời ấy của Ngài thế nào?
3.      Tại sao Kitô giáo lại có nhiều giáo phái khác nhau như thế? Có giáo phái nào cho rằng mình không đúng bằng giáo phái khác không?

Suy tư gợi ý:

1.      Con người với đủ mọi khác biệt và trình độ

Thế giới hay vũ trụ này được Thiên Chúa tạo dựng nên hết sức phong phú và đa dạng: đủ mọi loài mọi giống. Mỗi loài mỗi giống lại có đủ mọi hình thái, mọi kích cỡ khác nhau: chẳng hạn loài cá có thứ chỉ nhỏ bằng cây kim, có thứ to như cái nhà… Loài người thì đủ mọi thứ tính tình, khuynh hướng, trình độ khác nhau. Từ đó phát sinh đủ mọi thứ triết lý, thần học, tôn giáo, lập trường, chủ nghĩa, lề lối suy nghĩ khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau… Tuy nhiên, mọi người đều có khuynh hướng chung và tự nhiên là hướng về chân, thiện, mỹ. Ai cũng đều cảm thấy có nhu cầu và bổn phận thực hiện chân, thiện, mỹ trong đời sống của mình. Nhưng quan niệm, sự hiểu biết và mức độ gắn bó hay dấn thân cho chân, thiện, mỹ lại rất khác nhau. Và bình thường ai cũng cho rằng quan niệm của mình là đúng nhất, và mức độ gắn bó của mình là thích đáng hoặc hợp lý nhất. Chính vì thế, ai cũng khư khư giữ lấy quan điểm và lập trường của mình.

Nhưng nguyên nhân gây rắc rối, xung đột và chia rẽ là ai cũng muốn mọi người phải thống nhất với quan điểm của mình mà mình tự cho là đúng nhất, hợp lý nhất. Nhiều người tìm đủ mọi cách để áp lực người khác phải theo lập trường của mình: bằng áp lực tình cảm, bằng uy thế (địa vị, bằng cấp, tuổi tác, uy tín về hiểu biết hay khôn ngoan), thậm chí bằng bạo lực (cảnh sát, đe dọa). Nếu con người không chấp nhận và tôn trọng sự đa dạng và khác biệt tự nhiên này, con người sẽ không thể hiệp nhất với nhau, sẽ phát sinh chia rẽ và xung đột nhau.

Mặc dù Thiên Chúa dựng nên con người với sự khác biệt nhau rất lớn, nhưng con người vẫn không thể chấp nhận sự khác biệt tự nhiên ấy. Người ta có khuynh hướng ghét bỏ và tẩy chay những người có tư tưởng hay lối sống khác với mình. Chính Đức Giêsu và những người theo Ngài từng là nạn nhân của khuynh hướng tẩy chay dị biệt ấy.

2.      Đức Giêsu đến để đem gươm giáo và chia rẽ

Khi Đức Giêsu đến để đem chân lý cho nhân loại, Ngài đưa ra những quan niệm mới, những lập trường tư tưởng mới đúng đắn hơn quan niệm hay lập trường đang được mọi người cho là đúng nhất. Điều này khiến cho những người theo Ngài trở nên khác biệt (về tư tưởng, đời sống, về sự dấn thân) với mọi người vốn đã khác biệt nhau. Chính vì thế, Ngài và các tông đồ Ngài đã bị những người khác, đặc biệt những người đồng đạo ghét bỏ, tẩy chay, hãm hại và thậm chí giết chết. Các Kitô hữu tiên khởi cũng bị các vua chúa và những người đồng hương bách hại. Quả đúng như lời Ngài nói: «Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất. Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo» (Mt 10,34). Các Kitô hữu bao thế hệ, kể cả hiện nay – nhất là tại những quốc gia kỳ thị tôn giáo – cũng bị bách hại, và phải chiến đấu rất anh dũng mới có thể tồn tại và phát triển. Nhưng thật là lạ kỳ, mặc dù bị bách hại trăm bề, Kitô giáo vẫn phát triển mạnh mẽ và hiện nay đã lôi kéo được một phần ba thế giới. Đúng như lời Ngài nói trong bài Tin Mừng: «Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!»

Trong một gia đình Kitô hữu gồm toàn những người mang danh theo Đức Giêsu, nếu có ai theo Chúa một cách thờ ơ, nguội lạnh, hoặc đi vào con đường tội lỗi, thì mọi người còn lại đều tìm cách nâng người ấy lên. Nếu không được thì sẽ tìm biện pháp mạnh để ép người ấy sống tốt hơn. Nhưng nếu có ai theo Đức Giêsu một cách tích cực và đúng nghĩa vượt hẳn mọi người, hoặc với một cách thức khác thường thì những người còn lại trong gia đình thường phản đối và cản trở, nghĩa là tìm cách kéo người ấy xuống mức chung của gia đình mà họ cho là mức hợp lý nhất. Alêxù, Phanxicô Khó Khăn, Gioan Thiên Chúa… là những bằng chứng điển hình.

Trong các cộng đoàn Kitô hữu cũng thường xảy ra tương tự như vậy. Người theo Chúa một cách tích cực, triệt để và đúng nghĩa nhất thường bị coi là lập dị, là người bất bình thường, nếu chưa bị nói là khùng, là «mát» … Chính Đức Giêsu cũng bị người đời cho là «mất trí» (Mc 3,21). Thế là có sự chia rẽ trong nội bộ khi có người theo Chúa một cách tích cực hoặc quyết liệt. Những người này thường bị tẩy chay và sống trong cô độc, tuy nhiên họ lại lôi kéo được một số ít người theo họ. Những người tích cực gắn bó với chân lý, chân lý và tình thương – vì thế có những tư tưởng tiến bộ hoặc thấy xa hơn người bình thường – cũng bị tẩy chay và cô lập như thế, thậm chí bởi ngay những người thân trong gia đình: cha mẹ, con cái, anh chị em mình… Đức Giêsu đã từng tiên báo số phận của họ: «Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét» (Mt 10,21-22).

Như vậy, việc triệt để theo Đức Giêsu hay theo sự đòi hỏi của chân, thiện, mỹ có thể là cớ gây chia rẽ, thù oán giữa những người cùng gia đình, cùng cộng đoàn, cùng là con dân một đất nước. Như thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, dân Việt bị phân chia thành lương và giáo, và đôi bên kỳ thị hoặc nghi ngờ nhau. Khi công lý bị xâm phạm, con người bị đàn áp, xã hội tự nhiên bị phân ra thành hai khối: một số rất ít hành động theo lương tâm, sẵn sàng tranh đấu sống chết cho công lý, và đa số hành động theo quyền lợi hay «nồi cơm» của mình. Hai loại người này nhiều khi chống đối nhau, tố cáo nhau.

3.      Sự chia rẽ trong Kitô giáo

Chính vì lý tưởng bênh vực cho chân lý, vì lý tưởng thống nhất Giáo Hội, mà Kitô giáo hiện nay bị phân hóa một cách thê thảm thành hàng trăm giáo phái khác nhau. Giáo phái nào cũng tự hào mình theo Đức Giêsu một cách đúng đắn nhất, và tìm đủ mọi cách để bênh vực và truyền bá lập trường của mình. Từ đó sinh ra chia rẽ, thù hận nhau: tuy cùng nhận Đức Giêsu là thầy, cùng lấy Ngài làm gương mẫu, lý tưởng, nhưng họ lại không chấp nhận nhau là đồng đạo, là anh em với nhau. Người được giáo phái này rửa tội mà chuyển sang giáo phái khác thì phải chịu phép rửa tội lại theo nghi thức của giáo phái mới, làm như phép rửa tội được các Kitô hữu giáo phái khác làm là không thành sự! Như thể các Kitô hữu thuộc giáo phái khác không phải là người theo Đức Kitô! Nhiều khi giáo phái này đả phá, kết án, nói xấu giáo phái kia một cách không nhân nhượng. Nhiều giáo phái còn quả quyết là những ai ở ngoài giáo phái của mình thì không thể được cứu rỗi. Nhiều giáo phái muốn hạn chế ơn cứu rỗi và dành độc quyền được cứu rỗi cho giáo phái của mình! Thật đúng như trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: «Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ». Đúng là càng muốn thống nhất, càng không chấp nhận khác biệt, càng tìm cách để mọi người nên một với mình, thì càng mất hiệp nhất! Đó là điều Đức Giêsu đã cảnh báo trong bài Tin Mừng trên để chúng ta có thể đề phòng và tránh cho cộng đoàn của mình, cho Giáo Hội và cho toàn nhân loại.

 CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu luôn mong muốn những người theo Ngài được «nên một» (x. Ga 17,11.21-23). Ngài không muốn họ chia rẽ và xung đột lẫn nhau. Nhưng Ngài đã thấy trước và báo trước tình trạng chia rẽ và xung đột ấy. Mặc dù được báo trước như thế, những người theo Ngài vẫn không tránh được tình trạng không tốt đẹp ấy. Chỉ vì không mấy ai chấp nhận sự đa dạng và khác biệt theo luật tự nhiên mà Cha đã tạo dựng trong vũ trụ. Xin Cha cho tất cả những ai thờ phượng Cha biết tôn trọng luật tự nhiên ấy để họ có thể hiệp nhất với nhau, yêu thương nhau và coi nhau như anh chị em. Một sự hiệp nhất trong đa dạng như Giáo Hội sau công đồng Vatican II chủ trương. Xin cho mọi người tin Cha biết đặt nặng tinh thần yêu thương, đoàn kết và hiệp nhất với nhau hơn là đòi hỏi phải thống nhất với nhau về lý thuyết. Xin cho mọi người ý thức rằng sự chia rẽ giữa những người thờ phượng Cha luôn luôn là một gương xấu vô cùng lớn cho thế giới.

Joan Nguyễn Chính Kết

----------------------------------------

 

TN 20-C65: ÁNH SÁNG TÌNH YÊU


CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 12, 49-53

 

Sống trong một thế giới đầy niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng có đầy rẫy những tối tăm, thử thách: TN 20-C65


Sống trong một thế giới đầy niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng có đầy rẫy những tối tăm, thử thách và u buồn. Thế giới này chỉ được thắp sáng lên bằng niềm tin, bằng ánh lửa tình yêu bập bùng. Thế giới như một ngôi nhà lớn, nếu ngôi nhà này không được thắp sáng, nó sẽ tối tăm, nhưng nếu nó được thắp lên bằng những ngọn lửa tình yêu, ngôi nhà này sẽ bừng sáng lên tình anh em một nhà:” Tứ hải giai huynh đệ “. Chúa Giêsu nói:” Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên”( Lc 12, 49 ). Đây là ước nguyện của Chúa Giêsu, nhưng cũng phải là trách nhiệm của mỗi người.

NGỌN LỬA CHÚA GIÊSU LÀ NGỌN LỬA TÌNH YÊU CỨU ĐỘ:

Ngọn lửa Chúa Giêsu ném vào thế gian, chính là lửa tình yêu của trái tim Chúa Giêsu, ngọn lửa là ngọn lửa đau khổ và tiếng phép rửa, Chúa Giêsu nói trong đọan Tin Mừng này, chính là sự đau khổ, để chỉ về cuộc khổ nạn, thống khổ của Chúa Giêsu và cái chết đau thương trên thập giá để cứu độ nhân lọai của Người. Đây là ngọn lửa phục sinh, Chúa đã dùng để thanh tẩy tâm hồn các tín hữu, là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đã soi chiếu các tông đồ ngày lễ Hiện Xuống. Ngọn lửa này cũng là ngọn lửa đã khơi lên lòng nhiệt thành, lòng yêu mến của hai môn đệ trên đường Emmau. Ngọn lửa ấy cũng là ngọn lửa nhân lọai cần có để tồn tại, để sưởi ấm tâm hồn. Ngọn lửa ấy cũng là ngọn lửa đã rực sáng nơi bụi gai để Môsê thấy tình yêu cao vời của Chúa Giêsu và để Ngài sai Môsê đi chu toàn sứ mạng ngôn sứ của ông. Ngọn lửa cứu độ của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng tình yêu được thực hiện một cách hoàn hảo trên thập giá. Chính nơi thập giá:” Ơn cứu độ lan tràn “.

THEO CHÚA LÀ CHẤP NHẬN CON ĐƯỜNG HẸP, CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ:

Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy trước:’ Ai tin theo Chúa “, vì đức tin, họ có thể bị ngay chính người thân ghét bỏ như trường hợp của Chúa Giêsu, Ngài nhiệt thành rao giảng đến nỗi anh chị em Ngài cho Ngài là người mất trí, người điên, người khùng. Việc này, cũng đã xẩy ra ngay với cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi và nó còn kéo dài mãi cho tới tận cùng, cho đến ngày tận thế. Đi theo Chúa là chấp nhận con đường hẹp, con đường thập giá:” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mà theo Ta “…” Con đường hẹp dẫn đến sự sống. Con đường rộng, dễ dãi, thênh thang dẫn đến sự hư vong”. Chúa luôn nhắc nhở cho các môn đệ của Chúa hãy:” Tỉnh thức, sẵn sàng và cầu nguyện “. Theo Chúa phải đi theo những chỉ dẫn của Chúa nghĩa là lắng nghe và thực thi lời Chúa. Chúa đến trần gian bằng một con đường bình thường,con đường mọi người đều phải trải qua, tuy nhiên, Chúa không bao giờ có bất cứ một tội nào cả, và Chúa không bao giờ đồng lõa với bất cứ sự tội nào…Đường theo chúa là đường lên Núi Sọ, đường thập giá.

CHÚA MỜI GỌI CON NGƯỜI:

Sống nơi trần thế hầu hết con người đều ước mong được sung sướng, đầy đủ và có tiền có của để hưởng thụ, để sống dự trữ. Hầu như con người không hề nghĩ tới ngày mai, nghĩ đến cái chết. Con người không chỉ có hiện nay mà con phải nghĩ tới ngày mai, nghĩ tới cùng đích. Đã mang danh là Kitô hữu, con người đã chọn Chúa, đã chọn Đạo Kitô để đi theo. Dấu thánh giá là biểu hiện của đạo tình thương. Do đó, theo Chúa là sự chọn lựa cho cuộc sống của con người, cho đời người. Mọi tương quan, tiếp xúc của người Kitô hữu phải làm sao toát lên được tình thương, đức ái sâu xa của con người theo Chúa. Người Kitô hữu chọn Chúa hay chọn thế gian ? Chọn sự lành hay chọn sự dữ ?

Người Kitô hữu được Chúa mời gọi đem ngọn lửa cứu độ thắp sáng cho mọi người.

Lạy Chúa, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa đầy yêu thương, ngọn lửa cứu độ của Chúa. Xin Chúa cho chúng con luôn chọn đúng và chọn những gì chúng con đã chọn. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

----------------------------------------

 

TN 20-C66: CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG


CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN

Lc 12, 49-53

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Mạng sống của con người thật là cao quí. Chính vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để bảo tồn: TN 20-C66 


Mạng sống của con người thật là cao quí. Chính vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để bảo tồn sự sống. Người ta đổ xô đi tìm thuốc trường sinh bất tử để kéo dài cuộc sống. Bao nhà bác học, bao nhà khoa học, bao nhà y học đã dầy công nghiên cứu, thí nghiệm nhưng kết quả vẫn là không, con người vẫn phải chết. Do đó, điều gì đe doạ tới tính mạng con người, đến sự sống của con người, con người hết sức bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tuyên bố một cách hùng hồn trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 12, 49-53 mà Phụng Vụ trích đọc hôm nay:” Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ?. Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa đến trần gian để gây thù hằn, chia rẽ, Thiên Chúa đến thế giới như một kẻ gây xáo trộn ?

MUỐN HÒA BÌNH PHẢI CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH:

Con người sinh ra trên trần gian luôn mang trong người khuynh hướng tốt và khuynh hướng xấu. Tội lỗi gieo rắc cái chết vào thế giới: theo như những trang đầu sách Khởi Nguyên, tổ tiên nhân loại là Adam và Evà đã phản nghịch lại cùng Thiên Chúa. Do đó, tội lỗi bủa vây con người và tiếp đó kéo theo sự chết. Vì tội sự chết đe dọa con người và rồi, không một người nào ở trần gian này thoát khỏi sự chết, ngoại trừ một mình Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Quả thật, Thiên Chúa đã ban sự an bình cho ông bà Ađam và Evà, sự an bình ấy là sự sống hạnh phúc, không phải chết. Ông bà nguyên tổ đã làm mất sự an bình ấy. Do đó, tội và sự chết đã ập vào thế giới. Sự hận thù, ghen tương, tranh dành, giết chóc đã xẩy ra như câu chuyện Cain và Abêlê Cựu Ước đã thuật lại. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô phải chăng đã muốn thế giới, nhân loại, mỗi người, trăn trở, suy nghĩ và thực hiện điều cốt thiết của Tin mừng là xua đuổi tội lỗi ra khỏi cõi lòng của con người, ra khỏi cái thế giới âm u, tối tăm bởi hận thù, tranh dành miếng cơm manh áo để xây dựng một trật tự, một thế giới mới không có tội lỗi ngự trị ?. Thiên Chúa đòi hỏi con người sự chọn lựa dứt khóat, nghĩa là con người phải ra khỏi cái vỏ ích kỷ, hẹp hòi, tự mãn của mình để đối đầu và đấu tranh cho lẽ công bình, sự công chính và chân thật của xã hội. Sự bình an mà Chúa muốn trao ban cho con người là thách đố của Ngài đối với con người về tiếng nói dứt khoát của họ đối với người nghèo, đối với những con người lầm than, đau khổ, đối với những bất công đang lan tràn trên thế giới. Sự bình an của Chúa muốn là việc con người không thỏa hiệp để làm ngơ với những đòi hỏi của Tin Mừng. Chúa đòi hỏi con người phải sống với những đòi hỏi của Tin Mừng: sự trung thành, lòng nhân nghĩa và bác ái, chia sẻ.

CON ĐƯỜNG VINH QUANG CỦA CHÚA:

Thật sự, Chúa Giêsu luôn đặt con người trước những đòi hỏi của Tin Mừng. Ngài muốn con người phải sống hơn là nói suông. Lời nói phải đi đôi với hành động. Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại cho thế giới về Tin Mưng cùa Ngài. Võ khí và sự chiến đấu của Chúa là cái chết trên thập giá. Chính cái chết trên thập giá mới nói lên tất cả sự thật về tình thương tự hiến của Ngài. Khi bị người ta đóng đinh và treo Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã đánh bại tội lỗi, Satan: Ngài là vua, nhưng vua của kẻ chiến thắng ma quỉ, tội lỗi. Con đường của Ngài là con đường thập giá. Nhân loại, con người muốn có sự an bình không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập giá. Chúa Giêsu đã chiến thắng hận thù. Sự chiến thắng của Ngài là sự chiến thắng của tình yêu trên sự dữ, trên sự độc ác, của ân sủng trên tội lỗi, của cậy trông trên sự thất vọng. Đã có nhiều người, nhiều vị thánh đã hy sinh, đã hiên ngang sống cho sự thật và họ đã noi gương Chúa để chiến thắng sự dữ. Nhân loại và mỗi người chúng ta luôn tin tưởng rằng sau sự đau khổ có hạnh phúc, sau thập giá có vinh quang, sau sự nhục nhã có hân hoan vui sướng. Các thánh tử đạo là bằng chứng hùng hồn cho đức tin thắng vượt thất vọng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận thấp giá vì chúng con tin rằng thập giá sẽ dẫn chúng con tới vinh quang.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

Bạn hiểu sao về câu nói của Chúa:” Ta đến để gây chia rẽ “ ?
Thách đố lớn nhất của con người là gì ?
Tại sao Chúa Giêsu lại chấp nhận thập giá ?

----------------------------------------

 

TN 20-C67: KHỦNG HOẢNG NIỀM TIN


Chúa Nhật 20C Thường Niên.

 

Lửa đang bùng lên khắp nơi. Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Đông tới những cuộc đặt bom: N20-C67


Lửa đang bùng lên khắp nơi.

 Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Đông tới những cuộc đặt bom phá hoại các nhà thờ tại Nam Dương, lửa đã thiêu sống bao sinh mạng và sản nghiệp. Lửa cũng được đề cập trong Tin Mừng hôm nay như mạc khải về sứ mạng Đức Giêsu nơi trần gian. Sứ mạng đem lại hòa bình hay phân hóa nhân loại ?

BẬP BÙNG

Ngày Chúa sinh ra, thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”(Lc 2:14) Đức Giêsu chính là sự bình an Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Người từng nói: “Thầy để lại bình an cho các con.” (Ga 14:25) Người vẫn được tôn xưng là “Thái Tử hòa bình.” Vậy tại sao hôm nay Chúa quả quyết ngược lại (Lc 12: 51) ? Lời quả quyết đó làm nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ về sứ mệnh của Chúa trên trần gian. Nếu Người đến “đem sự chia rẽ” đến mối tương quan sâu xa nhất giữa các phần tử trong gia đình, làm sao tránh khỏi chiến tranh ngoài xã hội, quốc gia và quốc tế ?

Tự bản chất sứ mệnh Đức Giêsu là sứ mệnh hòa bình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Sứ mệnh đó đã được thực hiện nhờ cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và con người trên thập giá. Thực tế không thiếu người ngộ nhận hay khước từ công cuộc cứu độ của Chúa. Như thế, họ tự tách lìa khỏi đoàn người đón nhận ơn cứu độ. Không đón nhận ơn cứu độ tức là còn sống trong thế đối nghịch với Thiên Chúa. Chính vì thế mới thấy tự do như một định mệnh. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người. Lời Chúa như một tặng phẩm, chứ không như một gông cùm xiềng xích nhân loại.

Nhưng nếu chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Chúa, đương nhiên con người phải có một quyết định dứt khoát và cam kết sống chết với Đức Kitô. Chính ý chí cương quyết này sẽ làm cho môn đệ Chúa khác với mọi người. Sở dĩ có thể quyết định và cam kết như thế, vì lòng người môn đệ nung nấu ngọn lửa do Thầy đã ném vào mặt đất (Lc 12:49). “Lửa ấy đã cháy bùng lên !” (Lc 12:49) Lửa đã lan khắp mặt đất. Đó là “lửa thanh tẩy của Chúa Thánh Linh đã đến với các môn đệ trong Tông Đồ Công Vụ, chứ không phải lửa thiêu hủy trong ngày phán xét.” (NIB 1995:266) Trong sách Ngụy Phúc âm cũng nói đến lửa sứ mệnh Đức Giêsu: “Ai gần Tôi là gần lửa; ai xa Tôi là xa Nước Chúa.” (Tin Mừng Thomas 82) Khi Thánh Linh xuất hiện, một dân mới đã được tách ra khỏi thế gian.

Nhưng trước khi ngọn lửa Thánh Linh lan khắp thế gian, chính Đức Giêsu cũng đãbị ngọn lửa đó thiêu đốt, đến nỗi “lòng Thầy khắc khoải biết bao.” (Lc 12:50) Ngọn lửa đã thiêu Thầy tới chết mà Thầy gọi là “phép rửa Thầy phải chịu.” (Lc 12:50) Tâm hồn Thầy bị giằng co và chìm ngập trong buồn sầu ứa lệ. Toàn thân Thầy rúng động “cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Thầy đã trải qua một cơn xao động tột độ khi đến gần Giêrusalem. Sự dằng co đó đánh dấu một chuyển mình lớn lao đưa Đức Giêsu vào một khúc ngoặt quan trọng. Quả thực, chính Người cũng phải làm một quyết định rất lớn trước khi thực hiện sứ mệnh Chúa Cha trao cho Người. Sứ mệnh đó khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc nơi cái chết thê thảm trên thập giá. Đó là đường lối Người đã chọn. Vì quyết định và lựa chọn đó, Người đã trở thành nạn nhân đầu tiên của sự chia rẽ giữa những người tin và không tin (NIB 1995:266). Đúng như lời ông Simêon đã nói tiên tri từ thuở xa xưa (Lc 2:34-35). Người đã từng bị cả đối phương lẫn người thân chống đối (Ga 1:11; Lc 4:28-30) Kết quả Người đã bị dồn vào chân tường, bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn. Người đã chết để lộ ra những nét kinh hoàng trong cuộc đối đầu đó, đồng thời mạc khải trọn vẹn Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa đã tạo thành một lằn ranh giữa những người tin và không tin. Nghĩa là Đức Giêsu đến để “đem sự chia rẽ” (Lc 12:51) và chống đối. Ngay từ xa xưa tiên tri Giêrêmia cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Oâng đã tuyên sấm ngược với lòng mong đợi của mọi người. Bởi vậy ông đã bị kết án: “Con người ấy chẳng mưu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa.” (Gr 38:4) Biết làm sao được ?! Ngôn sứ chỉ nói sự thật. Sự thật mất lòng. Căng thẳng. Căng thẳng đến độ ngôn sứ Giêrêmia suýt chết đói “trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn.” (Gr 38:7) Còn Đức Giêsu thì chết khát thực sự trên thập giá. Đúng là “sứ điệp ‘bình an dưới thế’ bao giờ cũng phải kèm theo sự đối kháng man dại (2:14; 12:51; 19:42; 24:36). Thật là ngược đời, trong khi hòa giải là công tác của vị tiền hô thiên sai (Ml 4:5-6; Lc 1:17), thì đặc điểm của cuộc khủng hoảng cánh chung là sự chia rẽ bi thảm.” (NIB 1995:267)

Cái gì cũng có mặt trái, kể cả mạc khải của Thiên Chúa. Quả thế, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật, không bao giờ Đức Giêsu nói những lời chói tai hôm nay. Nói khác, Lời Chúa “phơi bày mặt trái của mạc khải, lời cam kết, và những giá trị Nước Trời.” (NIB 1995:267) Lời Chúa đã can thiệp sâu vào những tương quan rất thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Không phải chỉ phân rẽ những mối tương quan đó, nhưng Lời Chúa còn “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy.” (Dt 4:12) Nghĩa là một cuộc chiến xảy ra ngay trong bản thân mỗi người khi quyết định nghe theo Tin Mừng Bình an của Chúa.

Bình an nào cũng phải trả giá. “Bất cứ nơi đâu Lời Chúa được đón nghe, sự chia rẽ cũng xảy ra giữa những người lắng nghe Lời Chúa (xc Ga:43; 9:16; 10:19).” (NIB 1995:267) Không thể không có mâu thuẫn và xung đột trong chính cá nhân và cộng đoàn. Có thế mới thấy Nước Chúa không dựa trên sức mạnh con người. Chúa có thể lợi dụng cả những đối kháng đó để mưu ích cho Nước Chúa. Vấn đề còn lại là con người có dám quyết định bước theo tiếng Chúa mời gọi hay không. Thực tế, “lời mời gọi con người đi tới quyết định là lời mời gọi ‘phân rẽ.’” (E.Earle Ellis 1966:182) Đó là một bi kịch. Nhưng đó cũng là sự thật cho những ai sống theo tiếng mời gọi liên tục của Thiên Chúa.

Lời mời gọi đó nhắm tới việc tạo lập “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14) Nhưng không thể chiếm sự bình an đó một cách dễ dãi. Phải có một cuộc phấn đấu cam go mới có thể cam kết sống với Chúa và khước từ những tiêu chuẩn trần thế. Từ đó, “thái độ chúng ta đối với của cải vật chất cũng phải thay đổi và những trách nhiệm tinh thần phải được quan niệm một cách nghiêm chỉnh hơn.” (NIB 1995:267) Chính vì thế, theo Đức Giêsu có nghĩa là thay đổi não trạng và nếp sống cho phù hợp với những tiêu chuẩn Nước Trời. Nghĩa là, mọi sự phải được đánh giá theo thánh ý Chúa. Từ nay, “những ai cam kết sống theo Đức Giêsu đều thấy mối tương quan với tha nhân, kể cả với những người thân thương nhất, đều bị sự cam kết đó chi phối.” (NIB 1995:267) Đức Giêsu đã cống hiến cho các môn đệ một tiêu chuẩn sống: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Nói khác, không còn con đường hạnh phúc nào ngoài việc theo sát lời Chúa. Chính Đức Giêsu đã tìm được sức mạnh nơi thánh ý Chúa Cha để đem lại hạnh phúc cho chính mình và toàn thể nhân loại.

Nếu Đức Giêsu đã không sống theo Lời Thiên Chúa, chắc chắn Người đã không thể thành công khi ném lửa xuống trái đất. Ngày nay, muốn tiếp tay với Chúa thiêu đốt cả trần gian, chúng ta phải để lời Chúa xâm chiếm trọn con tim và cuộc đời mình. Từ đó, “chúng ta sẽ thay đổi nếp sống cũ, dựa trên những giá trị, thứ bậc ưu tiên, mục đích và hành vi thành hình từ sự cam kết sống với Chúa Kitô. Những thay đổi này sẽ nhanh chóng tạo nên những khủng hoảng trong những mối tương liên quan trọng.” (NIB 1995:267) Mọi suy nghĩ sẽ đảo ngược. Mọi vấn đề sẽ phải đặt lại. Cuộc đời thánh Phaolô là một điển hình. Sau khi trở lại, thánh nhân đã chứng kiến một thay đổi ngoạn mục trong tâm hồn và nếp sống: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô.” (Pl 3:8)

HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG.

Kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của tất cả những ai đang nung nấu ngọn lửa Thánh Linh trong tâm hồn. Ngọn lửa lan tới đâu, tất cả đều biến đổi tới đó. Tất cả đều bứt tung trong lửa. Trong ngọn lửa đó, “chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình.” (Dt 12:1) Ngọn lửa đó cũng soi sáng để “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Từ đó, chúng ta mới thấy tất cả đổi mới. Chính niềm tin là ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa Thánh Linh sẽ cho ta thấy hết mọi sự, từ những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi chúng ta đến hồng ân Thiên Chúa tuyệt vời trong vũ trụ và con người.

Chính vì thiếu vắng niềm tin đó, nhân loại hôm nay vẫn chưa tìm được lối thoát. Cơn khủng hoảng hôm nay bắt nguồn từ việc chối từ Thiên Chúa trong cuộc sống. Bởi vậy, muốn có hòa bình, phải tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Muốn đạt tới niềm tin đó, con người sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này khác hẳn cuộc khủng hoảng vô thần. Một bên báo hiệu sự trưởng thành. Một bên dẫn tới tiêu vong. Những khủng hoảng đó dẫn tới những đối kháng khác nhau về mức độ và bản chất.

Hôm nay, Kitô hữu đang trải qua những khủng hoảng và gặp những đối kháng khắp nơi trên thế giới. Từ những cuộc bắt bớ, chém giết tại những nước không tôn trọng nhân quyền đến những giới hạn về nhiều mặt đối với những tín hữu đang tranh đấu cho sự sống. Ngay trên đất nước tôn trọng tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Kitô hữu cũng có thể bị bách hại. Chẳng hạn, hiện nay “Hội Đồng Thành Phố New York đang cứu xét một đề nghị cấm phổ biến truyền đơn, lên tiếng phản đối, cố vấn, hay đến gần các phụ nữ nằm trong bệnh viện phá thai. Biểu tình phản đối phá thai có thể là một hành vi phi pháp và những người phạm pháp có thể lãnh sáu tháng tù.” (CWNews 16/8/2001) Phong trào ủng hộ phá thai phải mạnh tới mức nào mới ảnh hưởng tới cơ quan lập pháp như thế ! Nhưng ĐGM Thomas Daily đã công khai phê bình: dự luật đó “trực tiếp tấn công những quyền tự do của người dân New York và đặc biệt nó giới hạn việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tôn giáo không thể chấp nhận được.” (CWNews 16/8/2001)

Cuộc đối kháng giữa những người phò và chống sự sống con người đang tạo nên khủng hoảng khắp nơi. Những người ủng hộ phá thai hay những kẻ sát nhân đang bách hại con người một cách có hệ thống và tổ chức trên cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Chẳng hạn, Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Châu chỉ chi viện nếu các nước Châu Mỹ La tinh tham dự vào những chương trình kế hoạch hóa gia đình của Liên hiệp quốc. Bằng chứng, sau cơn động đất tàn hại vừa qua, El Salvador đã được Quĩ Tài trợ Dân số của Liên Hiệp Quốc viện trợ cả những viên thuốc và dụng cụ phá thai (CWNews 16/8/2001)

Rõ ràng niềm tin đang mất dần ảnh hưởng trên lương tâm con người. Cuộc khủng hoảng vào tận gia đình và lan tới phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng đó bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa. Đức tin cũng là ngọn lửa Đức Giêsu ném vào mặt đất. Ngọn lửa ấy đang bùng lên từ trong tâm hồn đến cộng đoàn, mặc dù đang gặp trở ngại từ nhiều phía. Nhưng cuối cùng ngọn lửa sẽ lan ra khắp vũ trụ, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã chiến thắng thế gian !” (Ga 16:33)

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

----------------------------------------

 

TN 20-C68: Chúa Nhật 20 quanh năm


(Lu-ca 12: 49-53)

 

Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian với một sứ mệnh.  Đang khi thi hành sứ mệnh: TN 20-C68


          Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian với một sứ mệnh.  Đang khi thi hành sứ mệnh ấy, Người luôn luôn để cho Thánh Thần hướng dẫn và một mực trung thành với tôn ý của Chúa Cha.  Tuy nhiên trong lòng Người cũng dâng lên niềm thao thức khi nghĩ tới những khó khăn phải trải qua và cái giá đắt phải trả để chu toàn sứ mệnh.  Có mấy khi ta được đón nhận những chia sẻ tâm tình của Chúa Giê-su như trong bài đọc Tin Mừng hôm nay.  Những chia sẻ ấy không phải chỉ liên hệ tới Chúa, mà còn là những lo lắng của Người, mong đợi ta hãy dứt khoát theo Người, gắn bó với Người và trở nên dụng cụ tiếp nối sứ mệnh của Người trên trần gian.

1)  “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất”

          Lửa mang nhiều ý nghĩa.  Có thể là lửa sứ mệnh của Chúa Giê-su cần phải được bùng lên và thanh tẩy thế giới.  Cũng có thể là lửa của cuộc Phán Xét đốt cháy “cỏ lùng” và “những kẻ xấu” (Mt 13:30.50).  Hoặc là lửa của Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần sẽ thanh luyện và đổi mới bộ mặt trái đất (Cv 2:3-4).

          Chúa Giê-su dùng hình ảnh mạnh “ném lửa vào mặt đất” để diễn tả sứ mệnh của Người và ước mong chu toàn sứ mệnh ấy thật tốt đẹp.  Người ta thường ấp ủ hoài vọng và mong thực hiện được nó cho trọn vẹn.  Cũng vậy, khi đến trần gian với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giê-su những mong cho kế hoạch ấy được tiến hành tốt đẹp và đạt kết quả.  Chính vì thế, ngay lúc vừa chập chững bước vào tuổi có thể tự mình quyết định một vài điều, Chúa Giê-su đã mặc cho cha mẹ đi tìm kiếm Người khắp nơi trong thành Giê-ru-sa-lem, Người đã ở lại Đền Thờ vì Người “có bổn phận ở nhà của Chúa Cha” (Lc 2:49).  Lúc nào Người cũng cảm nhận “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17).

          Khi lên đường rao giảng Tin Mừng, lửa nhiệt tâm đã thúc giục Chúa đi hết nơi nọ đến nơi kia thi hành những điều sách ngôn sứ I-sai-a đã viết (61:1-2).  Những điều Người giảng dạy là giáo lý mới và cách Người giảng dạy là cách của người thầy có uy quyền (Mt 7:28-29).  Người ta cảm nhận giáo lý của Người là một ngọn lửa cách mạng nhằm thay đổi lối sống của nhân loại và làm lung lay những truyền thống vị luật đi ngược với bác ái yêu thương.  Kèm theo những lời giảng, Chúa Giê-su đã đến với những người bị xã hội khinh khi và áp bức.  Tuy nhiên, những hoạt động truyền giáo của Chúa Giê-su chưa đem lại những kết quả đáng kể trông thấy, trái lại có vẻ như thất bại nhiều hơn là thành công.  Nào là dân chúng hờ hững, các tông đồ và môn đệ vẫn chưa hiểu được sứ mệnh của Chúa.  Nào là những chống đối mãnh liệt, nhất là từ phía những người lãnh đạo cả trong tôn giáo lẫn ngoài xã hội.  Trước tình trạng ấy, tâm tư của Chúa Giê-su được bộc lộ:  “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12:49).  Muốn nhìn thấy kết quả trước khi sứ mệnh chấm dứt, đó là ước mong của mọi người, kể cả Chúa Giê-su.  Nhưng dầu sao Người cũng phải chờ đợi cho tới khi chu toàn sứ mệnh.  Sứ mệnh chỉ kết thúc bằng một cuộc tử đạo mà Người gọi là “một phép rửa phải chịu” và “một chén đắng phải uống”.  Người chờ đợi “giờ” vinh quang của Người trên thập giá sẽ đến và quả thực là một chờ đợi “khắc khoải”, nhưng đầy tin tưởng và phó thác.

2)  “Thầy đến không để ban hòa bình cho trái đất, nhưng là đem sự chia rẽ”

          Các môn đệ Chúa và cả ta nữa, ai nấy đều cảm thấy đây là điều nghịch lý.  Một đàng Chúa nói Người ban cho ta bình an của Người, bình an mà thế gian không thể cho ta.  Đàng khác Chúa nói việc Người đến sẽ đem sự chia rẽ cho nhiều người trong một nhà.  Thực ra đó là hai việc hoàn toàn khác nhau và không liên hệ với nhau.  Chúa Giê-su là Đấng duy nhất có thể ban hòa bình cho ta, hòa bình theo ý nghĩa tôn giáo và nội tâm khi ta được hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân nhờ Máu hy tế của Người đổ ra trên thập giá.  Còn việc Người đến trần gian và đem theo giáo lý Tin Mừng của Người thì không nhắm mục đích thiết lập một nền hòa bình có tính cách chính trị, tuy nhiên lại có thể là nguyên nhân gây chia rẽ giữa những người cùng một nhà khi họ tiếp nhận hay không tiếp nhận Người.

          Chúa đến mời gọi ta đón nhận Người và sống theo những giá trị Tin Mừng Người đã rao giảng.  Đáp lại lời mời gọi ấy là quyền tự do của mỗi người.  Do đó, không thiếu gì cảnh cha con, vợ chồng, anh chị em không thuận nhau chỉ vì người này sống đạo, còn người kia thì không.  Thực vậy, theo Chúa và làm môn đệ Người luôn luôn đòi hỏi một giá đắt.  “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.  Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26-27).  Bất đồng trong niềm tin là nguyên nhân gây chia rẽ.  Hơn nữa, Chúa Giê-su và Tin Mừng của Người có giá trị tuyệt đối, cho nên trong việc lựa chọn, một là chọn, hai là không, chứ không có chuyện nửa vời (Kh 3:15-16).

          Đối với cá nhân từng người, ta cảm thấy sự chia rẽ ấy như một chống đối nội tâm, là hai sức lôi kéo, một đàng hướng về Chúa và một đàng hướng về tội lỗi.  Sự chống đối này tạo nên cuộc chiến bên trong mà thánh Phao-lô đã mô tả trong thư Rô-ma 7:14-25.  Nhưng thánh Tông đồ đã cảm tạ Thiên Chúa, vì hoàn toàn nhờ Đức Ki-tô mà ngài đã chiến thắng trong cuộc chiến ấy.

3)  Kết hiệp với Chúa Ki-tô và Giáo Hội Người trong sứ mệnh ném lửa vào mặt đất

          Sứ mệnh biến đổi bộ mặt nhân loại là sứ mệnh khởi đầu do Đức Ki-tô với lửa của Chúa Thánh Thần.  Từ hai ngàn năm nay, nhân loại đã biến đổi rất nhiều dưới ảnh hưởng của Tin Mừng.  Lửa Tin Mừng được thắp sáng khắp nơi trên toàn cầu và còn phải được bùng lên hơn nữa để diệt trừ tội lỗi và thanh luyện mọi tâm hồn.

          Ta được mời gọi tiếp tục sứ mệnh ấy:  “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).  Chúa Giê-su đã ném lửa vào mặt đất và Người hằng mong ước lửa ấy bùng lên.  Nhưng làm sao lửa ấy bùng lên được nếu không có người giúp nó bùng lên.  Các thánh Tông đồ và những môn đệ tiên khởi đã giúp lửa bùng lên ở những nơi các ngài đặt chân đến và rao giảng.  Qua bao thế kỷ, các vị truyền giáo cũng đã đem lửa ấy đến những vùng người ta chưa được nghe Tin Mừng và các ngài đã giúp lửa ấy bùng lên.  Đối với riêng ta, có thể ta không cần phải đi đâu xa.  Ta đã không thấy có lửa ấy hay thấy lửa ấy đang tàn lụi ngay trong tim ta, ngay trong gia đình và những người thân của ta, hoặc ngay nơi sở làm...  Vậy thì sứ mệnh của ta là đem lửa Tin Mừng của Chúa Ki-tô đến đấy và giúp lửa ấy bùng lên bằng chính lối sống theo Tin Mừng.  Đó cũng là cách ta sát cánh với Chúa Ki-tô và Giáo Hội Người, để giúp cho ước mong của Người được thể hiện và nỗi khắc khoải của Người được vơi đi.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Tôi cảm thấy gì khi nghe Chúa Giê-su tâm sự với tôi:  “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất...”?  Và tôi đáp lại lời Chúa thế nào?

          Có sự chia rẽ nào giữa những người trong gia đình tôi do vấn đề sống đạo?  Chúng tôi có bao giờ thực sự nói chuyện với nhau một cách cởi mở về vấn đề này không?

          Lửa Tin Mừng ở trong tâm hồn tôi như thế nào?  Leo lét sắp tắt?  Hay đang biến đổi tâm hồn tôi?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su thương mến,
          xin ban cho chúng con
          tỏa lan hương thơm của Chúa
          đến mọi nơi chúng con đi.
          Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
          bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
          Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
          để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
          Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
          để những người chúng con tiếp xúc
          cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
          Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
          không phải bằng lời nói suông,
          nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
          và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”
- Mẹ Têrêxa Calcutta
                   (Trích RABBOUNI, lời nguyện 68)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

----------------------------------------

 

TN 20-C69: Chúa Nhật 20 Quanh Năm


(19-8-010)

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       Do-thái 12: 1-4

 

Ở chương 11, thư Do-thái đã trưng rất nhiều tấm gương về đức tin trong lịch sử Ít-ra-en: đó là: TN 20-C69


Ở chương 11, thư Do-thái đã trưng rất nhiều tấm gương về đức tin trong lịch sử Ít-ra-en: đó là những người đã hành động dựa trên một niềm hy vọng tốt hơn, mặc dù khi còn sống họ đã không đạt được những gì họ đã hy vọng.

          Nhưng tất cả "đám mây" nhân chứng đức tin ấy là để chuẩn bị đưa chúng ta tới chiêm ngưỡng một tấm gương đức tin toàn hảo, là Đức Ki-tô. Người là "Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin."

          "Đức Ki-tô khai mở và kiện toàn lòng tin" phải là chủ đề suy niệm của chúng ta hôm nay. Nói đến khai mở là nói đến khơi nguồn. Đức Ki-tô là nguồn gốc đức tin. Chính nơi Người khởi sự một đức tin mới của nhân loại đặt trọn nơi Thiên Chúa. Nói khác đi, Đức Ki-tô đã nhân danh nhân loại để thiết lập một quan hệ đức tin với Thiên Chúa. Nếu chúng ta coi nơi Áp-ra-ham (xem bài đọc Chúa Nhật 19) được khai mở một đức tin, để "nhờ đức tin" ấy, Thiên Chúa tuyển chọn một dân riêng và lập Giao Ước với họ, thì cũng thế, chính nơi Đức Ki-tô khai mở một đức tin vẹn toàn, để "nhờ đức tin" của con người Giê-su, Thiên Chúa tuyển chọn một Dân Mới và lập một Giao Ước vĩnh cửu. Sự khai mở đức tin của Đức Ki-tô là hoàn hảo, vì không có một chút bế tắc nào cả. Giữa Đức Ki-tô và Thiên Chúa là tất cả sự tín thác trọn vẹn, không mảy may nghi nan hoặc dè dặt. Nguồn suối đức tin chảy từ Thiên Chúa, qua Đức Ki-tô, đến với nhân loại. Vì đức tin là một quan hệ tín thác hỗ tương, nên sự khai mở có hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đáp trả lại Thiên Chúa. Vậy nhờ Đức Ki-tô khai mở lòng tin, chúng ta mới cảm nhận được sức sống và sinh động của đức tin, khi chúng ta kết hiệp với Người để có thể nhận lấy tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả tình yêu ấy.

          Sau khi giới thiệu Đức Ki-tô là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin, có lẽ thư Do-thái không quên giải thích Đức Ki-tô đã khai mở lòng tin như thế nào. Ngài viết: "Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục." Viết dòng này, tác giả thư Do-thái muốn nói lên Đức Ki-tô đã sống niềm tin như thế nào. Khai mở lòng tin tức là sống lòng tin ấy. "Người đã khước từ niềm vui dành cho mình" vang vọng những lời trong thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa..." Cho nên với Chúa Ki-tô, khai mở lòng tin có nghĩa là "hoàn toàn trút bỏ vinh quang", trở nên phàm nhân trước mặt Thiên Chúa Cha và hạ mình, vâng lời cho đến chết trên thập giá, hoặc nói theo thư Do-thái, là "cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục."

          Trong sự khai mở đức tin của Đức Ki-tô, chúng ta đã nhìn thấy chính sự kiện toàn đức tin rồi. Khi đề cập tới Lề Luật Mô-sê, Đức Ki-tô đã khẳng định: "Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn" (Mt 5:17). Hình ảnh Đức Ki-tô kiện toàn Lề Luật cũng có thể giúp chúng ta suy diễn hình ảnh Đức Ki-tô kiện toàn lòng tin. Khi đức tin của Đức Ki-tô trở thành nền tảng và gương mẫu cho đức tin của chúng ta, thì đức tin ấy phải ở mức độ hoàn hảo. Thực vậy, nơi con người Đức Ki-tô, lòng tin và lòng trung thành đã biểu lộ trọn vẹn qua việc Người chấp nhận thập giá ô nhục và cái chết. Cho nên việc "nay Người đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa" chỉ còn là một chứng từ hùng hồn nói lên rằng: Đức Ki-tô đã làm cho đức tin được kiện toàn, vì Người đã đạt tới mục đích của đức tin, tức là được "ngự bên hữu ngai Thiên Chúa."

          Có lẽ ít khi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Ki-tô như một con người có lòng tin. Điều này cũng không lạ, vì nó hơi xa với cách biểu lộ đức tin của chúng ta khi chúng ta quen cầu nguyện, xưng tụng Người là Chúa, là Ngôi Hai, là Con Thiên Chúa. Do đó, khi trình bày Đức Ki-tô như một con người khai mở và kiện toàn lòng tin, thư Do-thái muốn nhấn mạnh rằng: cũng như các gương mẫu đức tin đã sống trước Người, Đức Ki-tô đã được đức tin nâng đỡ, và Người đã sống đức tin ấy khi Người tín thác rằng Thiên Chúa sẽ luôn bênh vực Ngài cho dù Ngài có phải chịu ô nhục và chết trên thập giá.

          Những lời tiếp theo của đoạn thư Do-thái quả thực là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy "hướng mắt về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin."

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Tất cả cuộc đời Chúa Giê-su là một biểu lộ lòng tin nơi Thiên Chúa. Qua sách Tin Mừng, tôi thấy biến cố nào trong đời sống Người nói lên đức tin sinh động của Người rõ ràng nhất? Suy niệm biến cố ấy sẽ ảnh hưởng tôi như thế nào?

          Thư Do-thái viết: "Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã..." Vậy tôi phải tưởng nhớ như thế nào mới giúp tôi "khỏi sờn lòng nản chí"?

          Cũng giống với tư tưởng của thánh Phao-lô, thư Do-thái gọi cuộc đời chúng ta là "một cuộc chạy đua". Đâu là đích tới, động lực và cách chạy của tôi trong "cuộc chạy đua" đời tôi?

          Có gì bế tắc trong quan hệ tín thác (=đức tin) giữa tôi với Chúa? Tôi sẽ làm gì để khai thông những bế tắc ấy và dần dần đi tới kiện toàn?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lại Kinh Tin Kính, hoặc hát bài "Con chỉ là tạo vật", CNLT 85.

Lm. Trần Đình Nhi

----------------------------------------

 

TN 20-C70: HÃY CƯƠNG QUYẾT XÔNG PHA


Chúa Nhật 20 Thường Niên Năm C

 (Giêrêmia 38,4-6.8-10; Thư Hipri 12,1-4; Tin Mừng Luca 12,49-53)

 Phúc Âm: Lc 12, 49-53

"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

 Suy Niệm:

 

Nhiều lời Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ, nếu chưa muốn bảo là chói tai. Thường: TN 20-C70


Nhiều lời Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ, nếu chưa muốn bảo là chói tai. Thường chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về Con Người Đức Giêsu Kitô và nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các Thiên Thần đã không hát khúc ca hòa bình trong ngày Người giáng sinh sao? Và trọng tâm giáo lý của Người chính là tình thương. Người đã đến để thi hành sứ vụ hòa giải, giữa Thiên Chúa với loài người, và giữa Do Thái với dân ngoại. Thế mà hôm nay, trong đoạn văn vắn tắt của Luca, chúng ta thấy Người nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm.

Chúng ta sẽ phải hiểu Lời Chúa thế nào đây? Chú giải cẩn thận một đoạn Kinh Thánh là phận vụ của một khoa học đặc biệt. Còn trong một buổi phụng vụ, chúng ta chỉ nên tựa vào Lời Chúa vừa công bố để tìm ra giáo lý của Hội Thánh cho đời sống hiện tại của chúng ta. Và giáo lý này khởi sự ngay từ bài học Cựu Ước.

 1. Vì Lời Chúa, Bị Bắt Bớ

Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm tiên tri, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).

Đoạn văn hôm nay nói đến giai đoạn thật gay cấn. Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Đức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành. Và dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên. Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.

Nhưng vì Ai Cập khiêu khích để yểm trợ cho Giuđa. Vua Babylon tạm thời nới lỏng vòng vây Giêrusalem để đánh phá Ai Cập trước. Lợi dụng lúc một phần quân Babylon rút đi, Giêrêmia muốn lẻn về thăm quê ở Anatốt, chỉ xa Giêrusalem chừng một giờ đường bộ thôi. Nhưng ông bị lính Giuđa bắt giữ, cho rằng ông muốn đi theo quân Babylon. Thế là kẻ thù của ông ra mắt vua xứ Giuđa, xin nhà vua xử lý một tên phản quốc, với những lời lẽ mà chúng ta đã nghe đọc bài sách hôm nay. Cuối cùng họ đã quăng ông xuống một giếng bùn, để ông lún xuống dần dần mà chết đi.

May có một người dân ngoại làm hoạn quan trong hoàng cung nghe biết. Ông đến xin nhà vua cho kéo Giêrêmia lên khỏi giếng. Nhà tiên tri thoát chết trong lần này. Nhưng rồi chẳng bao lâu, quân Babylon trở lại. Giêrusalem thất thủ. Nhà tiên tri bị người Do Thái kéo sang Ai Cập và dường như ông đã chết ở đây, giữa những kẻ suốt đời vẫn thù ghét ông, vì ông luôn luôn nói Lời Chúa cho dân ngỗ nghịch.

Do đó Giêrêmia đã trở thành nhà tiên tri đặc biệt của Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay. Chính tư tưởng phấn đấu này là chủ đề của tất cả Lời Chúa hôm nay và là trọng tâm của bài Tin Mừng mà bây giờ chúng ta muốn tìm hiểu.

 2. Vì Tin Mừng, Bị Chống Đối

Như lúc đầu đã nói, nhiều lời trong bài Tin Mừng hôm nay không ngọt tai tí nào. Chúng ta thích hơn nếu Đức Giêsu Kitô nói Người đem hòa bình đến. Vì chúng ta quen quan niệm Người có lòng nhân từ và công cuộc của Người là cứu thế. Tôi sẽ không làm dịu bớt tính cách "chát chúa" của những lời Người tuyên bố hôm nay để phục vụ khuynh hướng tự nhiên của chúng ta quen quan niệm đạo là bác ái và vì thế đạo nên tránh nói những lời thẳng nhặt. Tuy nhiên trước hết chúng ta cần hiểu đúng ý Chúa trong các lời tuyên bố này.

Người ta có thể nghĩ ngay đến chung thẩm, tức là phán xét chung trong ngày sau hết, khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: Người đến đem lửa xuống thế gian và Người mong biết bao cho lửa ấy cháy lên. Quả thật trong Kinh Thánh có rất nhiều đoạn nói đến lửa để ám chỉ việc phán xét. Và thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu như "Đấng sẽ đến để thanh tẩy trong Thánh Thần và trong lửa". Hơn nữa, Người còn nói: "Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây: cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa" (Mt 3,10).

Tuy nhiên mặc dầu có những ý kiến như thế, chúng ta vẫn có quyền tự hỏi: Không biết đoạn văn này có nhất thiết phải được hiểu như vậy không? Có điều chắc chắn, Đức Giêsu không khi nào khẳng định việc chung thẩm, như chúng ta hiểu, sẽ xảy đến trong lúc Người đang ở giữa xã hội loài người. Thời gian phán xét là bí mật của Chúa Cha. Ngài sẽ trao quyền xét xử ấy cho Đức Kitô sau này. Thế nên khi Đức Giêsu đến theo lời giới thiệu của Gioan, thật ra chưa có việc phán xét; nhưng mới chỉ có sự phân biệt "để ý nghĩ của nhiều tâm hồn phải bày ra", như lời Luca nói; nghĩa là để các tâm hồn phải lựa chọn thái độ: hoặc đón nhận hoặc khước từ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến trong thế gian nơi Đức Giêsu Kitô.

Thế nên "lửa" mà Người nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đúng hơn nên hiểu về "Thánh Thần". Người đến để cho những kẻ tin Người được Thần Khí của Thiên Chúa. Người mong muốn, đến nỗi nôn nóng thấy việc đó chóng xảy đến để loài người chóng nhận được Thánh Thần khiến họ có thể kêu lên "Abba ! Lạy Cha". Một cách cụ thể, có thể nói, trong suốt cuộc đời trần gian, Đức Giêsu hằng mong mỏi ngày lửa Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ, vì đó là mục đích cuộc giáng sinh cứu thế của Người, để tất cả loài người trở thành con cái Thiên Chúa.

Thế mà, như chúng ta biết, Thánh Thần không thể được ban xuống cho các môn đệ, bao lâu Đức Kitô chưa bị treo lên cây Thập giá. Do đó tiếp theo câu nói Người mong muốn biết bao cho lửa cháy lên, Chúa Giêsu đã khẳng định luôn: "Người phải chịu một phép rửa và lòng Người khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất". Câu nói này, ai cũng hiểu là để ám chỉ cuộc Tử nạn của Người.

Như vậy chúng ta có thể tóm tắt như sau: trong bài Tin Mừng hôm nay trước hết Chúa Giêsu bộc lộ ý chí cứu thế của Người. Người mong mỏi cho loài người được lãnh nhận Thánh Thần yêu mến và vì thế Người muốn đến ngày chịu tử nạn, lấy máu rửa sạch tội lỗi loài người để họ nhận được Nước sinh sống của Thánh Thần.

Nhưng mầu nhiệm Thánh giá là điên rồ đối với lương dân và là ô nhục đối với người Do Thái. Tính tự nhiên của xác thịt con người lập tức muốn phản kháng. Thái độ của Phêrô khi nghe nói lần đầu tiên, ai cũng biết. Ông kéo Đức Giêsu ra nơi kín và xin Người đừng nghĩ như thế. Nhưng chính Đức Giêsu không những lại khẳng định: Người sẽ đi vào con đường thập giá; Người còn nói thêm: ai muốn theo Người cũng phải làm như vậy. Và mầu nhiệm thánh giá là trọng tâm, nếu không phải là toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu mang đến cho loài người. Do đó phải coi là phản Tin Mừng khi trong Đạo Chúa không muốn nói đến phấn đấu và hy sinh. Lòng từ nhân, sự hòa giải và bình an của Thiên Chúa đem đến cho loài người, phải đi qua đường hẹp. Người có sức mạnh và kiên cường mới đón nhận được. Không những họ phải phấn đấu chống lại các khuynh hướng xác thịt và tội lỗi; nhưng vì sức mạnh của Satan còn nằm trong cả thế gian nữa, nên thường khi họ còn phải đương đầu với sức ép của các xã hội xấu. Dĩ chí, ngay nơi tổ ấm gia đình cũng có thể gặp những trở ngại cho đời sống đức tin và đạo đức. Hôm nay trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đã báo trước như thế và lịch sử cùng kinh nghiệm đều hùng hồn làm chứng đó là những điều rất thật.

Như vậy chẳng còn gì khác lạ, chói tai như lúc đầu chúng ta có thể nghĩ nữa. Chúa Giêsu chỉ nói những sự thật hiển nhiên đầy ơn cứu độ. Đó là những lời Tin Mừng: Chúa Giêsu muốn chúng ta được tràn đầy Thánh Thần để chúng ta được thần linh hóa. Và cho được như vậy, chính Người phải đi vào con đường thánh giá. Và hết thảy chúng ta cũng phải vác lấy thập giá hằng ngày của mình. Hiểu như vậy, tác giả thư Hípri có lời khuyên chúng ta như sau.

 3. Chúng Ta Hãy Cương Quyết Xông Pha

Thật ra, sau những lời tin mừng chúng ta vừa trình bày và thấy gương sáng của Giêrêmia, chúng ta đã có thể tự mình đem ra những quyết tâm cho cuộc sống hằng ngày. Lời thư Hípri chỉ muốn hỗ trợ ý chí của chúng ta thôi. Có ba ý tưởng đáng ghi nhớ. Trước hết tác giả cho chúng ta thấy mình đang ở giữa một đoàn thể chứng nhân đông đảo. Đó là các thánh trong Cựu Ước. Và ngày nay chúng ta phải kể thêm sự hiện diện đông đảo của các thánh thời Tân Ước. Những thế hệ anh hùng ấy đã gian truân khổ sở hơn chúng ta. Nhớ mình đang được nâng đỡ như vậy, chúng ta phải thêm tinh thần xông pha chiến trận đang chờ đợi chúng ta để đi tới vinh quang hạnh phúc mà các người đang được dự.

Hơn nữa không phải chúng ta chỉ có những chứng nhân bao quanh để khích lệ và cổ vũ; trước mắt chúng ta còn có một lãnh tụ dẫn đầu và lôi cuốn. Đó là Đức Giêsu Kitô. Chính Người không những khơi nguồn mà còn viên thành niềm tin. Người đưa dẫn chúng ta từ đầu chí cuối. Người là đường đi, là sự sống, là sự thật của chúng ta. Nhờ vậy sự kiên quyết, kiên cường phấn đấu của người tín hữu không bao giờ là một sự bướng bỉnh, cố chấp, đi ngược lại quyền lợi và hạnh phúc của người khác; nhưng là sự bền chí, kiên tâm, trong con đường cứu độ.

Hơn nữa chính hình thức của sự phấn đấu kiên quyết này còn lấy cuộc đời của Đức Kitô làm mẫu mực. Người đã khước từ vui sướng cho mình, kiên chịu thẹn thuồng xấu hổ và khổ hình thập giá vì loài người tội lỗi. Người không dạy chúng ta chịu đau khổ vì đau khổ, nhưng vì phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Người lấy phục vụ làm cứu cánh và chấp nhận phấn đấu như điều kiện. Chúng ta có đăm nhìn lên Người như vậy, cuộc đời phấn đấu của chúng ta mới có ý nghĩa cao quý, vì nói muốn góp phần xây dựng hạnh phúc chung cho nhân loại.

Đối với một lý tưởng như thế, những thử thách của chúng ta đã là gì? Đó là ý tưởng thứ ba của bài thư Hípri. Cuộc đời của chúng ta có gian khổ vẫn chưa là gì sánh với đời sống đầy thử thách của Giêrêmia và biết bao chứng nhân khác. Nó không nghĩa lý gì sánh với các đau khổ tình nguyện của Đức Giêsu Kitô. Nhất là nó chẳng đáng sánh với mục đích xây dựng hạnh phúc của toàn thể xã hội.

Chúng ta sẽ cương quyết xông pha hơn. Nhưng như lời thư Hípri nói: chúng ta hãy đắm nhìn lên Đấng khơi nguồn và viên thành đức tin. Người có lôi cuốn, hướng dẫn, chúng ta mới biết đi vào và hoàn tất cuộc hành trình trần gian. Người luôn hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ. Đến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ.

Đến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là sống phấn đấu không ngừng cho phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Đó là điều chúng ta tin tưởng và cử hành giờ đây nơi bàn thờ. Xin mọi người hãy hết mình tham gia.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

----------------------------------------

 

TN 20-C71: LỬA TÌNH YÊU, LỬA CỨU ĐỘ


CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 12, 49-53

 

Đọc Tin Mừng của Đức Giêsu nhiều khi chúng ta hết sức ngạc nhiên về cách nói và ngôn: TN 20-C71


Đọc Tin Mừng của Đức Giêsu nhiều khi chúng ta hết sức ngạc nhiên về cách nói và ngôn từ  Đức Giêsu dùng để dạy dỗ các môn đệ, nhân loại và mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nếu cầu nguyện, chìm sâu vào sự thân mật với Chúa, với sự tác động, soi sáng của Chúa Thánh Thần, chắc chắn mọi người sẽ hiểu ý Chúa và thực hiện được những gì Ngài muốn chúng ta thực hiện. Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này là ngọn lửa gì ?

Câu nói mà Đức Giêsu nói với các môn đệ:” Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên “ ( Lc 12, 49) Ngọn lửa mà Đức Giêsu đề cập ở đây là ngọn lửa tình yêu hay nói một cách khác ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa phục sinh đã bùng lên trong tâm hồn của người môn đệ Chúa, ngọn lửa cứu độ tình yêu hằng cháy rực trong con tim của Đức Giêsu và cũng là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đã soi mở tâm trí các môn đệ, các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thế giới này là một ngôi nhà rộng lớn, do đó, Đức Giêsu muốn các tông đồ và mọi môn đệ Chúa hãy ném vào ngôi nhà này ngọn lửa ấm áp, ngọn lửa đức tin, ngọn lửa tình yêu để biến ngôi nhà rộng lớn thế giới luôn đầy ắp Chúa và đầy ắp tình huynh đệ yêu thương. Vâng, Đức Giêsu đã tiên báo rằng ai theo Ngài phải vác thập giá của mình mà theo Ngài. Nên, lửa ở đây cũng có nghĩa là đau khổ, là khinh khi, là ghét bỏ khi người môn đệ tin theo Chúa. Lích sử đã chứng minh ngay từ các cộng đoàn tín hữu đầu tiên ai tin vào Chúa thì ở trong gia đình cũng có người ghen ghét. Trong một nước cũng vậy nhiều nơi, nhiều nước, biết bao vị tử đạo đã đổ máu để minh chứng cho đức tin của họ. Lửa là đau khổ. Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá để cứu chuộc nhân loại theo ý Thiên Chúa Cha đã chứng minh đau khổ sẽ đưa tới vinh quang. Chúa phải chịu một phép rửa nghĩa là Ngài chấp nhận cái chết, chấp nhận sự đau khổ và như thế các môn đệ của Ngài cũng phải đi theo chân ngài.

Đức Giêsu ước muốn con người xây dựng hòa bình. Sự an bình mà chính các thiên thần trong đêm Giáng sinh đã hát vang lên trên không trung:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời .Bình an dưới thế cho người thiện tâm “( Lc 2, 14 ). Đức Giêsu muốn nhân loại được sống trong an bình, yêu thương, hiệp nhất. Sự an bình, yêu thương, hiệp nhất chỉ có thể có được nơi những tâm hồn thành và thiện chí. Sự bình an ở đây chỉ có thể có được nơi tình yêu cứu độ. Có trải qua đau khổ, có vác thập giá mới có vinh quang.Ngọn lửa hòa bình Đức Giêsu muốn các môn đệ và mọi Kitô hữu ở thế giới muôn thời phải thắp lên. Đó là tình yêu thương phát xuất từ con tim nhân từ của Chúa. Ngọn lửa ấy cũng là ngọn lửa phục sinh bùng cháy xóa tan đêm đen mù tối. Ngọn lửa ấy cũng là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đã nối kết muôn dân trong ngày lễ Ngũ Tuần để tất cả đều hiểu tiếng các tông đồ nói. Đó là tiếng nói yêu thương, tiếng nói cứu độ. Tiếng nói ấy hoàn toàn khác với tiếng nói của các dân tộc muốn xây tháp Babel thấu trời cao, nhưng họ lại không sống yêu thương, không sống bác ái và hòa bình. Do đó, việc xây tháp Babel thất bại. Nhưng ngọn lửa tình yêu cứu đô của Đức Giêsu trên thập giá đã đánh tan tội lỗi và mang lại sự sống vĩnh cửu cho con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt trong tâm hồn chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con đem yêu thương sưởi ấm những tâm hồn chưa biết Chúa và sưởi ấm lại những tâm hồn khô khan, nguội lạnh. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi   DCCT

----------------------------------------

 

TN 20-C72: NÉM LỬA TRÊN MẶT ĐẤT


Chúa Nhật XX Thường Niên C

Lc 12:49-53: 49 "Ta đã đến ném lửa xuống đất, và nào Ta ước mong gì, nếu nó đã được nhen lên. 50 Có thanh tẩy Ta phải chịu, và Ta những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất!" 51 "Các ngươi nghĩ: Ta xuất hiện để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ: 52 Vì từ nay, trong một nhà có năm người, sẽ có chia rẽ: ba với hai, hai với ba. 53 Họ sẽ chia rẽ với nhau: cha với con, con với cha, mẹ với con gái, con gái với mẹ; mẹ chồng với nàng dâu, nàng dâu với mẹ chồng".

 

Đoạn 12:49-53 và đoạn trước liên hệ với nhau qua chủ đề “Chúa đến” (12:49.51; 12:36.37:  TN 20-C72


Đoạn 12:49-53 và đoạn trước liên hệ với nhau qua chủ đề “Chúa đến” (12:49.51; 12:36.37.38.39.40.43.45). Tuy nhiên, đoạn trước quy chiếu về ngày Chúa Giêsu đến trong quang lâm; còn ở đây, sứ mạng của Người trên trần gian. Đối với đoạn tiếp sau (12:54-59), Luca đề cập đế những người không biết nhận ra chính Người và sứ mạng của Người qua những việc Người đang thực hiện. Ý tưởng và bố cục của đoạn nầy có thể phân chia như sau: - Sứ mạng qua hình ảnh lửa và nước (12:49-50); - Những phân rẽ do chọn lựa (12:51-53).

Hai câu 49-50 nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu trên trần gian. Động từ “đến” (c. 49) một đàng xác định sứ mạng của Chúa Giêsu khi Người đến (x. 5:32; 7:34; 12:49.51; 19:10); đàng khác chỉ chính Người là “Đấng Đang Đến”, erchomenos. Thể aorist của động từ “đến” chỉ sự kiện đã xảy ra là Chúa Giêsu đã đến trên trần gian nầy. Những động từ khác “muốn”, “có” thanh tẩy, “bồn chồn” (c. 50) đều ở thì hiện tại. Chúng nói đến tình trạng hiện đang xảy ra nơi Chúa Giêsu: Người ước ao mọi sự được hoàn tất. Sứ mạng của Người được trình bày qua hai hình ảnh ẩn dụ là “lửa” (c. 49) và “nước (c. 50).

“Tôi đã đến ném lửa trên trần gian” (c. 49)

 Luca thường dùng cách nói “ném vào lửa”. Hành động “ném lửa trên mặt đất” khác với “mang lửa xuống từ trời”. Gioan và Giacôbê muốn đem lửa từ trời xuống để trừng phạt dân làng Samaria, vì họ đã không tiếp đón họ và Chúa Giêsu (9:54). Cũng thế, “ném vào lửa” (3:9; 12:28) chỉ việc thiêu hủy và tiêu diệt. Theo hướng nầy, “lửa” chỉ sự phán xét, nhất là sự phán xét cuối cùng và dứt khoát (x. 17:29.31-35). Mặt khác, Luca cũng dùng “lửa” để chỉ Thánh Thần (3:16; Cv 2:3). Cả hai ý nghĩa nầy khó áp dụng ở đây, vì ước muốn của Chúa Giêsu là lửa ấy cháy lên “từ nay trở đi” (c. 52). Chưa đến lúc của sự phán xét và án phạt dứt khoát, cũng như chưa đến lúc Thánh Thần được ban xuống, khi Chúa Giêsu đang còn thi hành sứ mạng trên trần gian nầy. Như thế, có thể hiểu là lửa chỉ sứ mạng của Người. Người không đến để chỉ phán xét và ban Thánh Thần. Người còn làm nhiều điều hơn thế. Cụm từ “trên trần gian” chỉ một nơi chốn, và hướng về chiều ngang: dài và rộng. Sứ mạng của Người được loan báo ra khắp nơi và cho mọi người. “Lửa” có tính cách quyết định: hoặc sinh trái tốt hoặc bị thiêu đốt, được soi sáng khỏi tối tăm và rạng rỡ vinh quang (x. 2:32), được đốt cháy lên (x. 24:32). Vậy, Chúa Giêsu đến, ban sự sống và đặt con người vào một sự chọn lựa dứt khoát. Ai từ chối Người, sẽ bị lửa thiêu hủy (3:9.17). Còn ai nhận biết Người, sẽ được ban Thánh Thần (x. 3:16).

“Có một thanh tẩy Tôi phải chịu” (c. 50)

 Theo ý tưởng của văn mạch, lửa Chúa Giêsu mang đến liên hệ với thanh tẩy (c. 50), đồng thời cả sự chia rẻ giữa những quan hệ thân thiết nhất trên trên gian nầy (c. 51-53). Trong đoạn song song với Luca, Marcô đặt “chén” bên cạnh thanh tẩy (Mc 10:38) để chỉ cuộc khổ nạn Chúa Giêsu sẽ chịu. Điều nầy soi sáng cho việc hiểu “thanh tẩy” ở đây. Nó cũng ám chỉ cuộc khổ nạn Người sẽ chịu. Lửa chỉ sứ mạng trải dài; trong khi “chịu thanh tẩy” là lúc sứ mạng ấy kết thúc. Chúa Giêsu không rơi vào định mệnh đã sắp sẵn. Ngược lại, Người đã tiên báo điều nầy (9:22; 18:31), và Người “bồn chồn” mong sớm thực hiện thanh tẩy ấy.

Những phân rẽ do chọn lựa (cc. 51-53)

Luca dùng cách diễn tả “Các ông nghĩ…. Không! Tôi nói với các ông…”, tìm thấy lại trong 13:2-3.4-5, để kéo chú ý vào điều được nói ở vế sau. Ở đây là sự chia rẽ, đối nghịch với bình an như người ta thường nghĩ (c. 51). Dẫn chứng là sự chia rẽ trong gia đình (cc. 52-53). Chúa đến làm cho con người phải chọn một thái độ. Không thể có thái đột trung lập. Đem đến bình an là mục đích của sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu (x. 1:79; 2:14; 10:5-6; 19:38). Ai đón nhận Người, được hưởng bình an. Bình an nơi con người là tình trạng thông hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa (x. 7:50), là trật tự tự nhiên hoàn hảo như ý Thiên Chúa muốn (x. 8:48). Đối lại bình an là chia rẽ, chống đối, chiến tranh, gươm giáo (c. 51b). Trong đoạn song song Matthêô nói đến “lưỡi gươm” (Mt 10:34). “Chia rẽ”, diamerismos, bởi động từ dia-merizô, có nghĩa là “chia làm hai” (x. 11:17; 12:51.53). “Chia rẽ” gợi lên nhiều khía cạnh khác với “gươm”. Chia rẽ là sự bất đồng ý kiến, khác biệt quan điểm, đặc biệt giữa các thành phần trong cùng một đơn vị, tổ chức. Trong sự chia rẽ, mỗi bên đều chịu trách nhiệm về sự việc nầy.

Chúa đến, không phải ai cũng đón tiếp Người. Nhiều lần Người nói đến sự từ chối, chống đối, và cả thù ghét Người nữa. Thái độ của họ tỏ ra bên ngoài là không tìm hiểu những “dấu hiệu” để nhận ra Người (cc. 54-56). Bởi đó, do việc chọn lựa đi theo Người hay từ chối Người, sự phân chia không thể tránh khỏi hình thành. Sự phân rẽ nầy Simôn đã báo trước (2:34).

          Sự phân rẽ nầy vào tận quan hệ mật thiết nhất của gia đình (c. 53). Gia đình gồm năm người và chia thành hai nhóm: nhóm 2 người là cha và mẹ, cũng là mẹ chồng;  nhóm ba người là con trai, con gái và dâu. Sự xung đột giữa họ có tính cách hỗ tương; bên nầy chống đối bên kia. Điều nầy khác với việc thế hệ trẻ nổi lên chống đối thế hệ già trong Matthêô (x. 10:35; Mica 7:6). Sự chống đối nầy bắt đầu ngay “từ nay trở đi”. Cụm từ nầy chỉ thời gian từ khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng. Mọi sự nên hiệu lực từ lúc Người nói ra (x. 5:10; 12:52; 22:18; 22:69).

Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu chuộc, ban bình an, và qui tụ mọi người nên một trong Người. Tuy nhiên Người trở nên cớ cho con người phân rẽ với nhau, tùy theo sự chọn lựa của họ.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

----------------------------------------

 

TN 20-C73: LẠNH QUÁ ! LỬA ƠI ! CHÁY LÊN!


CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN

Lc 12, 49-53

 

Trên trái đất có hơn sáu tỉ rưỡi người. Vậy mà vẫn lạnh lắm. Bởi lúc nào cũng có hơn 100 triệu người: TN 20-C73


          Trên trái đất có hơn sáu tỉ rưỡi người. Vậy mà vẫn lạnh lắm. Bởi lúc nào cũng có hơn 100 triệu người thiếu đói, cũng có hơn 200 triệu người không có nhà ở. Bởi lúc nào cũng đầy những vụ đặt bom tự sát; Cũng đầy những vụ chiến tranh hận thù. Thế giới đông đặc những người, nhưng lại lạnh lẽo vô cùng vì thiếu vắng tình yêu. Nhưng cái lạnh lẽo ấy, nó bắt nguồn từ một sự lạnh lẽo căn bản khác. Là người ta quá lạnh nhạt với Đấng tạo dựng nên mình. Bởi chăng ai biết mình vào đời từ lúc nào. Lớn lên, biết suy nghĩ, chỉ biết một điều là mình đang sống. Chẳng mấy người biết đặt vấn đề, là vì sao, và tại sao mình lại có mặt trong cuộc đời. Hơn sáu tỷ rưỡi người, hỏi xem có bao nhiêu người, biết tạ ơn với Đấng đã nhờ cha mẹ để sinh ra mình. Đấng đã cho mình cả một thân xác với sống đầy tràn. Đấng đã để trong mình rất nhiều tài năng, nhiều khéo léo lạ lùng, mà mình thì cứ ngỡ tưởng, là tự nhiên mình có. Với những sức sống ấy, những tài năng ấy. Người ta tự tin vào chính mình. Không cần đến một Đấng nào nữa cả. Vì thế, người ta nhạt nhẽo với Thiên Chúa, và gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc  đời mình.

          Ấy thế, là quên cội nguồn, bỏ mất cội nguồn, con người thành bơ vơ và mồ côi. Có gì tội nghiệp hơn là kiếp sống mồ côi. Trái tim lạnh tanh, và cõi lòng khô khốc. Vì thế hôm nay Chúa nói: Thầy mang lửa đến thế gian, và ước sao cho lửa ấy cháy sáng lên. Vì thế, để bộ mặt trái đất trở nên ấm cúng, để cuộc sống nhân loại trở nên bình an thơ thới, vừa nằm xuống tôi đã ngủ, thì điều tiên quyết phải làm, là con người phải trở về gặp gỡ và sống trọn vẹn hiếu thảo với Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên mình, là người Cha dấu ái đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho cuộc sống nhân sinh của mình. Làm thế, là ta đi vào quỹ đạo của tình yêu. Và rồi khởi đi từ đầu mối này, ta sẽ nhận ra nhiều sai lầm, mà ta đã đối xử với người khác, không ngờ họ lại chính là anh em ruột, con cùng cha của mình.

          Đốt lửa lên đi em, để ta nhận ra khuôn mặt của Chúa, và của chính mình, ẩn giấu trong khuôn mặt của người khác. Đốt lửa lên đi em, để ta đốt cháy những hận thù và ác độc ta đang có với nhau. Đốt lửa lên đi em, để ta nâng đỡ và sưởi ấm cho nhau, vì cái nghèo, cái bệnh, cái cô đơn, đang dằn vật làm ta khốn khổ. Đốt lửa lên đi em, để trái tim này rực sáng, và ai cũng phải nhận ra, trái đất này là một mái nhà ấm cúng, có người Cha toàn năng, lúc nào cũng yêu thương tất cả.

          Gợi ý suy niệm

1- Điều gì khiến bạn lạnh lẽo ?
2- Ngay từ hôm nay, bạn có quyết tâm đốt lên một ngọn lửa tình yêu trong đời mình không ?

 Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên

----------------------------------------

 

TN 20-C74: Gây chia rẽ

 

Đức Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào bộ mặt của: TN 20-C74


Đức Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào bộ mặt của thế giới ngày nay, thì khách quan mà nói: Đức Kitô đúng là đã gây chia rẽ. Ngài chia rẽ những kẻ tin và không tin. Rồi ngay giữa những kẻ tin thì cũng còn có chuyện Công giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo. Rồi giữa người công giáo với nhau, hiện nay cũng có phe nọ phe kia, và phe nào thì cũng lấy Chúa ra để biện minh cho lập trường của mình. Người ta đã chẳng chia rẽ nhau vì Chúa đó ư? Quả thật đúng như lời ông già Simêon đã nói: Trẻ nhỏ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp ngã.

Thực ra vấn đề không phải là Đức Kitô đã gây chia rẽ bằng cách xúi giục người ta ghen ghét hận thù nhau, hay là khích bên này chống lại bên kia. Chúa đến thực sự để đem lại sự bình an, để xây dựng một thế giới có công lý và tình thương, nền tảng của hoà bình. Nhưng hoà bình đó, đúng như Ngài đã nói, không phải là loại hoà bình kiểu thế gian, nghĩa là hoà bình của một sự thoả hiệp vì hèn nhát hay vì áp lực. Bình an của Ngài là bình an nhờ giá máu thập giá, nghĩa là bình an được xây dựng trên công lý, một công lý mà người ta phải đấu tranh, phải hy sinh, phải liều mạng mới có thể đạt được.

Hoà bình phải là thành quả của công lý, nhưng có được công lý, hay nói đúng hơn thực hiện được công lý, không phải là chuyện dễ. Người ta có thể dễ dàng kết bầu kết bạn với nhau để ăn nhậu, để chơi bời, nhưng tìm người hợp tác làm ăn thì không phải bao giờ cũng dễ. Ăn cho đều, kêu cho sòng, là nguyên tắc không phải bao giờ cũng thực hiện được, bởi vì khi làm thì ai cũng muốn phần ít, nhưng khi hưởng lợi thì lại muốn phần nhiều. Như thế, ngồi nhà mát, mà được ăn bát vàng, phải chăng đã là cái thói thường của người đời.

Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên án thứ công lý ăn gian ấy, Ngài đấu tranh cho người nghèo, đem công lý đến cho những kẻ tội lỗi, bởi vì họ mới chính là những người đáng thương. Công lý của Chúa là bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Là hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhu, là kẻ khó nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chính vì lý do ấy mà Ngài đã gây chia rẽ bất đồng. Nói khác đi, những ai theo đúng đường lối của Chúa, thì sẽ không thể nào đứng chung hàng ngũ với những người chà đạp và bóc lột những kẻ nghèo túng và thấp cổ bé miệng.

Vì thế, những ai đứng về phe Chúa thì cũng phải đứng về phía những người nghèo hèn khốn khổ. Chính Ngài đã đến với họ, sống với họ, chết như họ và cho họ. Tuy nhiên liệu chúng ta có can đảm đứng về phía Ngài và cùng bước đi với Ngài hay không.

----------------------------------------

 

TN 20-C75: Lửa


Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.

 

Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được: TN 20-C75


Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh sáng và sức nóng.

Ánh sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và đốt cháy những gì nhơ nhớp.

Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.

Tuy nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Thực vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem Chúa đến cho những người chung quanh.

Để kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị sáng lập hội Bác ái Vinhsơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt thành bênh vực cho Chúa.

Vào năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.

Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.

----------------------------------------

 

TN 20-C76: DỆT NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN


 CHIẾN TRANH

Suy niệm của André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

 

Chúng ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành những kẻ: TN 20-C76


Chúng ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành những kẻ yếu hèn. Nhưng nếu chúng ta mơ ước có tâm lòng thanh thản, cuộc sống hòa bình, môi trường sống an lành (gia đình, cộng đoàn, công việc, làng xóm hay khu phố, cho đến đất nước và thậm chí thế giới), bài suy niệm hôm nay sẽ nói với chúng ta rằng chúng ta không tìm thấy những điều đó nơi Chúa Giêsu: “Ta không ban hòa bình cho các con như thế gian cho” (Ga 14,27)

- Thầy đến mang lửa xuống, nhưng trước hết Thầy phải chịu phép rửa bằng lửa. Các con đừng tưởng Thầy đến để thiết lập sự bình an trên trái đất, mà là đem sự chia rẽ.

Nếu lời này đụng chạm đến chúng ta và thậm chí làm chúng ta phẫn nộ, chúng ta phải tự kiểm tra: nỗi lo sợ chia rẽ của chúng ta có lành mạnh, cao cả, hoặc chỉ là một ước muốn an thân khá tầm thường? Mác đã nói: một dân tộc khốn khổ tạo ra, cùng với tôn giáo, một loại thuốc phiện. Có bao giờ chúng ta rút ra từ Tin Mừng đôi chút thuốc an thần nào chưa? Và đây là thuốc an thần hiệu quả nhất dưới mắt chúng ta: “Các ngươi hãy thương yêu nhau”, các ngươi hãy làm dịu tất cả các xung đột của các ngươi.

Dĩ nhiên, điều đó không xuôi chảy. Vì lý do là việc muốn yêu thương như Chúa Giêsu (chúng ta thường quên xác định) dẫn chúng ta đi đến chỗ làm chia rẽ, giống như Ngài. Và dẫn đến việc chính chúng ta bị chia rẽ. Chúng ta thường kinh nghiệm điều này. Chính ngày mà chúng ta chọn thực sự để yêu thì những xung đột gay gắt nhất nổi lên. Tại văn phòng của chúng ta, để tỏ ra huynh đệ với đồng nghiệp, chúng ta phải tố cáo bất công của cấp trên. Để yêu thương người Palestin chúng ta quay lưng lại gia đình của chúng ta. Để giúp đỡ những người hàng xóm nghèo nàn, chúng ta xung đột với vợ và mẹ vợ: “Ông bố làm thế là hy sinh các con của mình!”. Để lãnh đạo một cuộc đấu tranh nghiệp đoàn, một trong những người bạn của tôi đã thất bại trong việc tiến thân và các cô con gái của ông ta đối xử với ông ta là… ông già thảm hại. Trong khi chia sẻ số phận với những người bị áp bức tại một nước nọ ở Châu Mỹ La tinh, một linh mục xung khắc với Giám mục bảo thủ của mình và linh mục đó tự hỏi ai là người có lý. Trong một cộng đoàn người ta biết rằng trở lại một vấn đề công bằng, nghèo nàn hoặc ý nghĩa của Tin Mừng là sẽ châm ngòi lại những xung đột. Người ta im lặng nhưng trong những con tim bị xem là nhát đảm, sự an bình đã bị phá vỡ.

Do lời này phải đi vào tận thâm tâm của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ luôn luôn là sự chia rẽ bởi vì tâm lòng của chúng ta xấu xa. Khi chúng ta muốn yêu thương và đấu tranh cho tình yêu, chúng ta chỉ làm điều đó do sự vụng về, sự hăng hái hoặc sự sợ hãi của chúng ta. Trước mặt chúng ta những người Kitô hữu tốt nhất, trong đó có các thánh, cũng yêu thương chúng ta theo khả năng của họ, cũng với con người tội lỗi của họ.

Những người như chúng ta, chúng ta không ngừng có nguy cơ tạo ra những hòa bình pha tạp: hòa bình của người cai trị làm im lặng cả thế giới và thiết lập sự yên tĩnh một cách gượng gạo; hòa bình của những người bị ám ảnh do tình thương yêu huynh đệ tránh sự xung đột nhỏ nhặt nhất bằng cách để các hoàn cảnh trở nên tệ hại; hòa bình của những người đấu tranh đơn thuần vì công bằng là người xếp loại người ta và bình thản tiến bước giữa những người tốt và những người xấu. Chúa Giêsu đâm lưỡi gươm chia rẽ vào trong các hòa bình sai lạc này.

Hòa bình nào đây? Một nền hòa bình hay đặt vấn đề, nóng bỏng và yêu thương xen vào giữa các xung đột và ở lại đó. Hòa bình đó không tìm kiếm những cái hồ yên tĩnh, mà là muốn làm cho có thể sống được trong các phong ba bão táp.

Đối với một người con của Tin Mừng, không có sự an bình nếu không nói là ở nghĩa trang mới có một công việc kiến tạo hòa bình kiên trì và thông minh có thể có ở khắp nơi; trong tâm lòng bị xuyên qua của chúng ta, trong nhóm của chúng ta nơi đó nổ ra một cuộc đấu tranh cần thiết, trong Giáo Hội nơi đó luôn luôn sẽ có những người duy trì trật tự và những người suy nghĩ ra cái mới.

Chính ở giữa chúng ta là những người bất toàn và tội lỗi phải làm lại những hòa bình tạm bợ của chúng ta, các hòa bình này sẽ bị phá hủy khi thì do những kiêu ngạo của chúng ta, khi thì do lưỡi gươm Tin Mừng. Sẽ phải can đảm bắt đầu lại mà không nghĩ đến những kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến đấu. Người ta chỉ có thể trở thành một người thợ xây dựng hòa bình bằng cách dệt nên hòa bình bằng những sợi len chiến tranh.

----------------------------------------

 

TN 20-C77: “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas


(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

 

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng: TN 20-C77


Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.

Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?

Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.

Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.

Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.

Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.

Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.

Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.

Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

----------------------------------------

 

TN 20-C78: Sứ mạng của Đức Giêsu


 Lm FX Vũ Phan Long

 

Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng: TN 20-C78


Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng đắn.

1.- NGỮ CẢNH

Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).

2.- BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1)      Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2)      Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).

3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

- ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).

- Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.

- lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).

- hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).

- cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.

4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)

Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?

Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…

Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).

Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.

Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.

Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.

Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.

* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)

Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.

Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.

Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.

] Kết luận

Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.

5.- GỢI Ý SUY NIỆM

1. Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.

2. Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.

3. Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.

4. Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.

----------------------------------------

 

TN 20-C79: Lửa và Bình An


– Lm. Jos Nguyễn Cao Luật

Ngọn lửa của Đức Giêsu ...

 

Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình: TN 20-C79


Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia - Hy-lạp - quê hương của Olympic. Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.

Cũng trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic. Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh thần yêu thương và thông cảm.

Xin mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: "Mọi sự đã hoàn tất."

Đức Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu độ.

Và rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi. Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.

... đến các Kitô hữu

Ngọn lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.

Nhưng ngọn lửa ấy là gì?

Mọi người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.

Mỗi người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.

Cũng phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức Kitô đã làm.

Trở lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.

Liệu chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

Bình an từ cuộc chiến đấu

Trong suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ" (Lc 12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?

Để trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá "tầm thường" về Đức Giêsu. Bình an, tình yêu ... Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua cửa hẹp.

Bình an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.

Do đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.

Cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.

Ôi Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.

Khi nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.

Thiên Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.

Thiên Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.

Họ đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác thịt với thần trí.

(theo P. Claudel.)

----------------------------------------

 

TN 20-C80: Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 20 Thường niên – C (song ngữ)

 

Từ Chúa Nhật 13 thường niên, chúng ta theo Đức Giêsu từ quê Ngài tại Galilê lên Giêrusalem TN 20-C80 (song ngữ)

 
20 Sunday in Ordinary Time
Reading I: Jeremiah 38:4-6,8-10 II: Hebrew 12:1-4
Chúa Nhật 20 Thường Niên
Bài Đọc I: Giêrêmia 38:4-6,8-10 II: Do Thái 12:1-4
Gospel
Luke 12:49-53

49 "I have come to set the earth on fire, and how I wish it were already blazing!
50 There is a baptism with which I must be baptized, and how great is my anguish until it is accomplished!
51 Do you think that I have come to establish peace on the earth? No, I tell you, but rather division.
52 From now on a household of five will be divided, three against two and two against three;
53 a father will be divided against his son and a son against his father, a mother against her daughter and a daughter against her mother, a mother-in-law against her daughter-in-law and a daughter-in-law against her mother-in-law."
Phúc Âm
Luca 12:49-53
49 "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!
50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!
51 "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.
52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.
53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại me; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng"
Interesting Details

  Context: From the 13th Sunday in ordinary time, we follow Jesus' journey from his Galilean home toward passion in Jerusalem (9:51-19:27). Right from the start of this journey, he was rejected, prompting James and John to suggest an immediate fiery judgment, "Lord, do You want us to command fire to come down from heaven and consume them?" (9:54). Jesus himself later warned of "fire and brimstone from heaven" (17:29) on judgment day.

 Another possible meaning of fire is the gift of the Holy Spirit (Acts 2:3).

 "How I wish it were already blazing!" Fire also carries a sense of urgency and intense passion.

 Fire can also purifies us from worldly attachments. In numerous passages about discipleship and judgment day, Jesus warns against stocking worldly wealth, as we read on the 18th Sunday about the rich fool building barns for a retirement that he did not have.

  The decision to follow Jesus or not will separate people.
Chi Tiết Hay

 Từ Chúa Nhật 13 thường niên, chúng ta theo Đức Giêsu từ quê Ngài tại Galilê lên Giêrusalem (9:51-19:27) chịu thương khó. Ngay từ đầu cuộc hành trình, thiên hạ đã bỏ Ngài, khiến Giacôbê và Gioan đòi trừng phạt, "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?" (9:54). Về sau chính Đức Giêsu cũng nhắc tới "mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống" (17:29) trong ngày phán xét.

 Một ý nghĩa khác của lửa là ơn Chúa Thánh Thần (CVTD 2:3).

 "Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!" - lửa cũng mang ý nghĩa của sự cần kíp và nhiệt tâm.

 Lửa có thể thanh tẩy chúng ta khỏi sự vấn vương của thế gian. Trong nhiều đoạn phúc âm về sứ mạng tông đồ và ngày phán xét, Đức Giêsu khuyên bảo chớ tích trữ của cải thế gian, như trong bài đọc Chúa Nhật 18 thường niên vừa qua về người phú hộ lo tích trữ gạo thóc mà không biết rằng mình sắp chết tới nơi rồi.

  Quyết định theo Chúa Giêsu hay không sẽ chia rẽ người thân.
One Main Point

Jesus urgently called us to follow Him completely now: Yes or no?
Một Điểm Chính

Chúa Giêsu cấp bách kêu gọi chúng ta đi theo Ngài ngay bây giờ: đi hay không?
Reflections

1. Is there an urgency and passion in my life? If so, what is it?

2. What are the costs to follow it: peace, money, time, relationships, etc.?

3. What would be the cost if I do NOT follow that passion now?
Suy Niệm

1. Tôi có lửa, có nhiệt tâm về việc gì không? Nếu có, thì là cái gì?

2. Đi theo nhiệt tâm đó, tôi phải trả những giá nào: bình an, tiền bạc, thời gian, mối liên hệ, v.v...?

3. Ngược lại, nếu KHÔNG có hay không theo nhiệt tâm đó, thì tôi mất gì không?

----------------------------------------

 

TN 20-C81: Ngọn lửa tình yêu

 

Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và: TN 20-C81


Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.

Lửa ấy là gì?

Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).

Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).

Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).

Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.

Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.

Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.

Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.

Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.

 “Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta. 

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.

Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối" (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: "Xưa Thiên Chúa đã phán: 'Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm', Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi" (2Cr 4, 6).

“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.

Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
"Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình".

"Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): "Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin" (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.

"Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu".

"Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó".

"Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác".

“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin". Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

----------------------------------------

 

TN 20-C82: Bình an chỉ có khi sự thật lên ngôi

 

Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu.: TN 20-C82


Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu.

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Nếu Tin Mừng Chúa Nhật XVIII, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật XIX, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”, “tỉnh thức”, để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm…, thì Chúa Nhật XX này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:

phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;

phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng của Mình mang lại.

1. Sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.

Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”. Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối, Người đến còn là để xét xử trần gian.

Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình yêu, Sự Thật, Công Bình.

Như vậy Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới, những tâm hồn chai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương anh chị em như anh em một nhà.

Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.

Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô. 

2. Những hệ lụy của đời chứng nhân

Sau khi đã nói về sứ mạng của mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: tôi đến để đem chia rẽ? Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình. Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì sự thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.

Như vậy, bình an của Chúa chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.

Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.

3. Bình an chỉ có được khi sự thật được tôn trọng

Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.

Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối (nổ) thì lại ghét những người nói thật… Trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ yêu hơn, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…

Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu. Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng… Đọc chuyện các thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho sự thật.

Như vậy, hòa bình thực sự chỉ có khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Hòa bình chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.

Mong sao, tâm tư của Đức Giêsu sớm được thực hiện trên trần gian này: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.

Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con hiểu rằng: muốn có được bình an đích thực là chúng con phải từ bỏ con đường tội lỗi, hận thù và ghen ghét; đồng thời phải can đảm sống và làm chứng cho sự thật, một sự thật toàn vẹn. Ước gì ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.

----------------------------------------

 

TN 20-C83: Làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu

 

Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ: TN 20-C83


Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ của Người được sớm thành hiện thực.

I.        HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 12,49-53

(49) Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo anh em biết: Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su dạy các môn đệ về sứ vụ của Người và những đòi hỏi đối với những ai muốn trở nên môn đệ của Người:

- SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giê-su còn là phải chịu một phép Rửa tức là chấp nhận trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban ơn cứu độ cho lòai người.

- NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ:

Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ

3. CHÚ THÍCH:

- C 49-50:

+ Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất: Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của Thiên Chúa, nhất là trong ngày Tận thế, để thiêu hủy những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (x. Lv 10,2 ; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa, đã làm cho lòng hai môn đệ làng Em-mau phải nóng lên, khi cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,32), Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên đầu các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3-19). Lửa còn là những đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu để thanh luyện con cái Ít-ra-en giống như vàng được thanh luyện trong lửa (x. Mc 13,1-4 ; Is 1,25).

+ Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên: Đức Giê-su mong ước ban Lửa Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người.

+ Thầy còn một phép Rửa phải chịu: Phép Rửa có nghĩa là sự nhận chìm dưới mặt nước. Thời Giáo hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự chết trong cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su: Người cũng đã chết và được an táng trong lòng đất, rồi ngày thứ ba Người đã trỗi dậy vinh quang.

+ Lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất: Đức Giê-su thao thức chu toàn sứ vụ Chúa Cha trao phó là trải qua cuộc tử nạn và phục sinh để cứu chuộc loài người.

- C 51-53:

+ Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?: Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mê-si-a (x. Is 9,5-6 ; Lc 1,79).

+ Không phải thế đâu: Thứ bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi, như Người đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả đã mơ tưởng (x. Gr 6,16 ; Ed 13,10.16).

+ Nhưng là đem sự chia rẽ: Đứng trước Đức Giê-su, người ta phải lựa chọn dứt khoát: Tin theo hay chống lại Người. Sự lựa chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ từng gia đình.

+ Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai...: Theo lời các Ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x. Mk 7,6 ; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giê-su đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa và bước theo Người (x. Lc 14,26 ; 18,29-30).

4. CÂU HỎI:

 1)Theo Thánh kinh, Lửa là biều tượng cho những gì ?

2) Phép Rửa mà Đức Giê-su sắp phải chịu ám chỉ điều gì ?

 3) Bình an Đức Giê-su ban khác với bình an của thế gian thế nào ?

 4) Tại sao Đức Giê-su lại đến đem sự chia rẽ cho các gia đình thay vì đem bình an ?

II.      SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49).

2. CÂU CHUYỆN:

Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau: “Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là: làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi để xếp vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc...

3. SUY NIỆM:

Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy: Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.

1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

Đức Giê-su đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giê-su là mong sớm hoàn tất công cuộc tử nạn và phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người được diễn ta bằng hình ảnh phép Rửa.

-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49):

Lửa do Đức Giê-su ném vào mặt đất là gì ?

Là Lửa Thánh Linh được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo
Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).


Là Lửa Tin Yêu được Đức Giê-su mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em một nhà, hầu cho mọi người biết yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau.

Đức Giê-su ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình có “Thiên Chúa là Tinh Yêu” ngự trị (1 Ga 4,8).

-Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”:

Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy la hình ảnh diễn tả mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là cứu chuộc nhân loại ba8fng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã tiên báo với các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).

Về sau, thanh Phao-lô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: « Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).

Đức Giê-su được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại băng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Em-mau để động viên họ: « Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời Đức Giê-su luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công trình cứu độ tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.

2) NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY:

- Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Đức Giê-su làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường sống?:

Ngoài việc năng cầu xin Thánh Linh đổ ơn xuống đầy lòng chúng ta khi cầu nguyện, mỗi tín hữu chúng ta còn phải năng học sông Lời Chúa trong các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giê-su khi dự lễ và rước lễ, nhất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa cho tha nhân, noi gương hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa Phục Sinh (x Lc 24,13-35). Các thánh Tông đồ và những môn đệ tiên khởi đã làm cho lửa tin yêu bùng lên tại những miền đất xa lạ mà các ngài đặt chân đến. Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tin yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh".

- Đức Giê-su đã ném lửa vào mặt đất và Người hằng mong ước lửa ấy bùng lên: Nhưng làm sao lửa tin yêu ấy bùng lên nếu không được các tín hữu chúng ta khơi lên ? Chính Đức Giê-su xưa đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và đã sai các môn đệ ra đi loan báo tin mừng khắp thế gian (Mt 28,19 ; Mc 16,15), thì nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng Tình Thương, tích cực góp phần với các người thiện chí để xua tan bóng tối văn hóa sự chết là những bất công hận thù, nghèo đói, tội ác… bằng cách gieo vãi ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

- Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ của Người được sớm thành hiện thực như mẹ Tê-rê-sa can-quýt-ta đã luôn cộng tác với Chúa và cầu xin Chúa giúp như sau: “Lạy Chúa Giê-su thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”

4. CÂU HỎI:

1) Thế giới hiện còn nhiều bóng tối của ma quỷ. Vậy tâm hồn bạn hiện đang ở trong bóng tối ganh ghét hay ánh sáng tình thương ?

2) Bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là văn hóa sự chết như: tội lỗi, bạo lực, đam mê... và các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống là gia đình, khu xóm và nơi làm việc ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Linh. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nhận biết Chúa.

X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH – HHTM

----------------------------------------

 

TN 20-C84: Sứ mạng của Đức Giêsu


Ngày 18-8-2013: Sứ mạng của Đức Giêsu (Luca 12,49-53 – CN XX TN - C)

 

Nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể: TN 20-C84


Nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu.


Lm FX Vũ Phan Long, ofm

1.- Ngữ cảnh

Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại Lc 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
 
2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
 
3.- Vài điểm chú giải

- ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer; BJ).

- Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.

- lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).

- hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).

- cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
 
4.- Ý nghĩa của bản văn

* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)

Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?

Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo; Crampon; Joušon; NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…

Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer; BJ).

Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.

Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.

Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.

Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
 
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)

Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. Lc 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.

Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.

Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.    
 
+ Kết luận

Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa. 
 
5.- Gợi ý suy niệm

1. Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.

2. Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.

3. Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.

4. Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.


----------------------------------------

 

TN 20-C85: LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU


Lc 18, 49 – 53

1. LỜI CHÚA: "Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12,49).

2. CÂU CHUYỆN:

 

Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha: TN 20-C85


Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau: "Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là: làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi để xếp vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc...

3. SUY NIỆM:

Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy: Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.

1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

Đức Giê-su đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giê-su là mong sớm hoàn tất công cuộc tử nạn và phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người được diễn ta bằng hình ảnh phép Rửa.

-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49):

Lửa do Đức Giê-su ném vào mặt đất là gì ?

Là Lửa Thánh Linh được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).

Là Lửa Tin Yêu được Đức Giê-su mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau..., để làm bùng cháy lên tình thương "tứ hải giai huynh đệ"- bốn bể đều là anh em một nhà, hầu cho mọi người biết yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau.

Đức Giê-su ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành "Trời Mới Đất Mới" như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau: "Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa... Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình có "Thiên Chúa là Tinh Yêu" ngự trị (1 Ga 4,8).

-Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !":

Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy la hình ảnh diễn tả mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là cứu chuộc nhân loại ba8fng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã tiên báo với các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).

Về sau, thanh Phao-lô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: « Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).

Đức Giê-su được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại băng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Em-mau để động viên họ: « Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời Đức Giê-su luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công trình cứu độ tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.

2) NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY:

-Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Đức Giê-su làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường sống?:

Ngoài việc năng cầu xin Thánh Linh đổ ơn xuống đầy lòng chúng ta khi cầu nguyện, mỗi tín hữu chúng ta còn phải năng học sông Lời Chúa trong các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giê-su khi dự lễ và rước lễ, nhất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa cho tha nhân, noi gương hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa Phục Sinh (x Lc 24,13-35). Các thánh Tông đồ và những môn đệ tiên khởi đã làm cho lửa tin yêu bùng lên tại những miền đất xa lạ mà các ngài đặt chân đến. Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tin yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh".

- Đức Giê-su đã ném lửa vào mặt đất và Người hằng mong ước lửa ấy bùng lên: Nhưng làm sao lửa tin yêu ấy bùng lên nếu không được các tín hữu chúng ta khơi lên ? Chính Đức Giê-su xưa đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và đã sai các môn đệ ra đi loan báo tin mừng khắp thế gian (Mt 28,19 ; Mc 16,15), thì nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng Tình Thương, tích cực góp phần với các người thiện chí để xua tan bóng tối văn hóa sự chết là những bất công hận thù, nghèo đói, tội ác... bằng cách gieo vãi ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

- Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ của Người được sớm thành hiện thực như mẹ Tê-rê-sa can-quýt-ta đã luôn cộng tác với Chúa và cầu xin Chúa giúp như sau: "Lạy Chúa Giê-su thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa."

4. CÂU HỎI:

1) Thế giới hiện còn nhiều bóng tối của ma quỷ. Vậy tâm hồn bạn hiện đang ở trong bóng tối ganh ghét hay ánh sáng tình thương ?

2) Bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là văn hóa sự chết như: tội lỗi, bạo lực, đam mê... và các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống là gia đình, khu xóm và nơi làm việc ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Linh. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nhận biết Chúa.

X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH – HHTM

----------------------------------------

 

TN 20-C86: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN


Lc 18, 49 – 53

John Nguyễn

1. Tâm lý chung của con người

 

Những ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc chắn sẽ: TN 20-C86


Những ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn bè...) chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người đã từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân, hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng, «mát»... thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.

2. Tâm lý ấy bất lợi cho các ngôn sứ

Tâm lý của con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật là tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được tiếng Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương, đồng thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ phải đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những đồng đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc, và nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những điều mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những người thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là người thân thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không thể vì sự chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể làm gì khác hơn điều họ nghĩ.

Như thế, người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:

- Những hy sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm: Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ hơn người khác;

- Những hy sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà người ngôn sứ cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;

- Những hy sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất yêu thương mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình dấn thân ở mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá mức ấy có thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi, phải lo lắng và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc phải lo sợ cho sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân cho Chúa nhiều hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải phần nào chấp nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh mục hay một tu sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các bề trên mình, tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình có nhiệm vụ chăm sóc?

3. Chúa và ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ

Người ta thường nghĩ Đức Giê-su hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức Giê-su và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.

- Đem lại bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm buộc họ phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải sống cao thượng, anh hùng... nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.

- Gây chia rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giê-su, của tiếng lương tâm, con người sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại, gây chia rẽ... Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng thời đánh giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng lương tâm mà trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội... có sự chia rẽ, xung đột, tranh đấu, chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng về những người làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.

4. Sự chia rẽ đến từ những nhận thức khác nhau

Do cách nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác nhau, mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa, phục vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại ở mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và người ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này không thể có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.

Có những người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được những giá trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ trước mắt để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn người sau nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những giá trị đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng theo đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ nhau. Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt: cái tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi...

Chẳng hạn, Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng lại đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt và đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy xung đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo cho đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37).

Vậy, nhận thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước tiếng gọi của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong cùng gia đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau. Tình trạng có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà» (Mt 10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn sàng chấp nhận điều này.

Cầu nguyện

Lạy Cha, ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức ngôn sứ của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách ngôn sứ của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám can đảm chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc lương tâm con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình thương. Xin đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát trước bạo lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Ki-tô hữu buộc con phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình. Xin ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Ki-tô hữu trong con. Amen.


----------------------------------------

 

TN 20-C87: CHÚA GIÊSU GƯƠNG SÁNG CỦA CHÚNG TA


Lc 18, 49 – 53

Lm. Jude Siciliano, OP.

 

Trước khi đi vào nội dung bài suy niệm, xin kể một câu truyện có thật xảy ra ở Ấn Độ vào những: TN 20-C87


Trước khi đi vào nội dung bài suy niệm, xin kể một câu truyện có thật xảy ra ở Ấn Độ vào những năm 60 của thế kỷ trước, hiện nay có lẽ không nơi đâu còn não trạng như vậy nữa. Và cũng xin nhấn mạnh rằng chuyện của xã hội Ấn Độ, kẻo nhiều người lầm tưởng rằng chuyện của xóm làng mình, cộng đồng mình mà tôi mượn để xiên xỏ, rồi sinh lòng thù ghét. Số là ở Ấn Độ có bốn tầng lớp xã hội, gọi là caste: thượng lưu, trung lưu, hạ lưu và cùng đinh nhơ bẩn (untouchable). Ở một ngôi làng kia thuộc miền bắc Ấn Độ, không khí rất an bình, êm ả. Những ai được trời ban cho sinh vào các caste sẽ hưởng những đặc ân tuỳ vào giai cấp của mình. Những ai vô phúc bị trời đầy đoạ vào số phận ngoài lề (outcaste) phải chịu hết mọi thiệt thòi và phải sống lầm than giống như súc vật. Nước trong làng rất hiếm, cả miền chỉ có một cái giếng chung, cách xa làng hàng cây số, nên là giếng trời cho, nước trong lành và tự nhiên. Phụ nữ, trẻ con hàng ngày phải đi một quãng đường xa để đội nước về nhà sử dụng. Tuy nhiên chỉ những người trong castes mới được múc nước trực tiếp ở giếng, còn những untouchable hay outcaste không được phép. Họ phải múc nước thừa ở giếng chảy rớt ra các rãnh và phải đào hố để múc nước, họ không thuộc hạng con cái các thần linh Vishnu hay Vishu, chỉ con cái các thần mới được uống nước "trời cho" trực tiếp. Vì thế cư dân untouchable già, trẻ, lớn, bé thường ốm yếu và chết yểu vì bệnh tật.

Một hôm có người thanh niên đi học tập tây phương về, thấy tình trạng bất công và khốn đốn như vậy, liền lập ra một kế hoạch đưa nước sạch về làng cho mọi người tự do dùng. Anh bắt các ống, mua máy bơm và cư dân hồ hởi đến lấy nước từ các vòi chảy. Tuy nhiên, người thanh niên tốt bụng không hiểu rằng làm như vật là vô tình chọc phải tổ kiến vàng hay ong bò vẽ. Mặc dầu nhiều người hưởng lợi ích từ điều anh "phát minh", nhưng lãnh đạo các caste không đồng ý chia sẻ nước với hạng outcaste, tức untouchable. Thế là dân làng sinh ra chia rẽ, kẻ ủng hộ kế hoạch, người chống đối và thù ghét. Câu truyện kết thúc bằng hạ hồi thê thảm: anh thanh niên bị đuổi khỏi làng vì "quấy phá trật tự, bình an chung".

Thế đấy, lý thuyết của Đức Giêsu cũng vậy, nên chúng ta hiểu được Lời Chúa trong bài Phúc âm hôm nay: "Anh em tưởng thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thày bảo thật anh em, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ, vì từ nay năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba, ...". Bởi lẽ tính triệt để của phúc âm. Thế gian chỉ thích nghe những chi hợp ý họ và tẩy chay những chi họ không thích. Họ chỉ ưa những lời êm tai và thù ghét những điều cứng cỏi. Nhưng Chúa Giêsu không phải là nhà rao giảng nhu nhược, không phải lúc nào cũng êm ái, nhân từ, nói toàn những điều mị dân. Nhiều lần ngài đã nổi sùng, khiển trách lòng dạ con người chai đá. Ngài mang "gươm" và "lửa" xuống thế gian. Người yêu thương an ủi những số phận nghèo hèn, nhưng không khoan nhượng não trạng pharisêu, kinh sư, tư tế. Gọi họ là xương thối, mồ mả tô vôi, giả hình, kẻ dẫn đường mù quáng, và họ đã trả đũa gọi ngài là tay bợm nhậu, lê la với phường tội lỗi, phá huỷ lề luật, người bị quỷ ám, quấy rối trị an ...

Xin suy nghĩ thêm về điều này và áp dụng vào cộng đoàn, giáo xứ chúng ta. Đúng vậy, chúng ta có thể kể ra vô số trường hợp mình phải chịu bách hại vì niềm tin, chịu bách hại vì dám nói lên điều hay lẽ phải. Biết bao vị thánh, vị anh hùng đã rơi vào hoàn cảnh. Đức giám mục Helder Camara đã than phiền: "Khi tôi mang bánh mì cho kẻ khó nghèo, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi đặt câu hỏi với họ: tại sao những người này không đủ ăn? Họ gán cho tôi nhãn hiệu "đỏ". Ôi nhân tình thế thái. Đức Giêsu khi xưa cũng phải chịu cùng hoàn cảnh. Ngày hôm trước đám đông nói: "Hoan hô con vua Đavít", thì sáng hôm sau: "Đóng đinh nói đi, đóng đinh nó vào cây gỗ". Ai trong chúng ta thoát được hoàn cảnh tương tự? Nếu có ai được nay mắn thoát khỏi, thì chỉ là ngôn sứ giả! Không thực sự phục vụ Đức Kitô và phúc âm!

Xin coi trường hợp của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một: "Hồi ấy, các thủ lãnh thưa với vua Xítkigiahu: xin ngài cho giết Giêrêmia đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ". Chúng ta biết số phận của vị tiên tri trực ngôn này ra sao!

Mục tiêu Luca viết Phúc âm là để an ủi giáo đoàn của ông đang chịu bắt bớ khắc nghiệt bởi các lãnh tụ đạo đời. Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường và hiền hậu cho họ, nhưng cũng cảnh cáo họ, vì các tai hoạ đổ xuống cho bất cứ ai trung thành với đức tin, với ơn kêu gọi làm môn đệ Chúa. Nếu họ trung thành với niềm tin của mình, thì bách hại là lẽ đương nhiên, họ chỉ được bình yên khi thoả hiệp với vua chúa quan quyền và những thói tục xấu xa của chúng. Cũng như ngày nay chỉ kẻ nào nói "xám" thì được sống. Kẻ nào dám nói đen là đen, trắng là trắng, thể nào sớm muộn cũng bị tiêu diệt. Kẻ nào nói con trâu khi thiên hạ bảo con bò sẽ bị tẩy chay, ra rìa ngồi chơi xơi nước. Nơi giáo xứ, tu viện cũng đầy rẫy những cảnh như vậy, chẳng khác thời xưa mấy. Cho nên Luca can đảm vạch ra tâm lý ấy để an ủi các tín hữu của ông. Họ chịu bách hại vì danh Chúa Giêsu không có chi gây ngạc nhiêm, vì Chúa Giêsu không mang bình an mà là chia rẽ do tính chất triệt để của Nước Trời. Chúa không hề thoả hiệp hoặc nhượng bộ thói hư tật xấu của thế gian. Điều Ngài nhắm tới là tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha. Ngay từ khởi đầu phúc âm, Chúa tuyên bố Ngài ném lửa xuống thế gian và ước ao lửa ấy cháy lên. Lửa ở đây là lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa Cha. Nhiều tác giả đạo đức cắt nghĩa là lửa yêu mến. Điều đó đúng, nhưng hơi xa ý nghĩa nếu đem so với những gì ngài tuyên bố tiếp theo. Ngài muốn nhóm lửa yêu mến Cha ngài "đốt cháy" mọi tâm hồn, các điều tốt lành khác sẽ dẫn xuất từ tình yêu ấy. Nếu thực hiện đúng như vậy, thì chiến tranh, vật lộn giữa thiện và ác là điều tự nhiên trên đấu trường thế gian, và các kẻ theo ngài phải chịu đau khổ nhiều vì danh ngài, vì sứ mệnh của ngài và vì phúc âm. Các tín hữu phải nhóm lửa lên cho thế gian được ấm áp phần linh hồn. Vậy thì chúng ta có thể ngồi yên an hưởng sung sướng, tiện nghi mà ngắm nhìn sự đời phẳng lặng trôi qua? Xin suy nghĩ lại và nhớ lời thánh Phao lô: tình yêu đức Kitô thúc bách chúng tôi (Caritas Christi urget nos).

Bài đọc thứ hai cho chúng ta nhiều gương sáng. Tác giả thơ Do thái viết: "Thưa anh em, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh". Xin nhắc lại, tác giả nói: "đám mây" nhân chứng về đức tin bao quanh chúng ta. Như vậy chúng ta thật có phúc và không thể thoái thác trách nhiệm. Xin đơn cử một ví dụ, khi còn nhỏ tuổi, chúng ta được cha mẹ, ông bà, cô dì, chú bác, anh em, họ hàng, làng xóm, láng giềng bao quanh bằng những gương lành tính tốt. Lớn lên chúng ta sẽ sống theo con đường ấy. Chẳng may nếu chịu ảnh hưởng bởi những người xấu, bạn bè trắc nết, chúng ta khó chống lại thói hư tật xấu và sớm muộn sẽ trở thành tay đầu trộm đuôi cướp. Cũng vậy, tác giả thơ Do thái viết chúng ta được "đám mây nhân chứng đức tin bao quanh", thì liệu chúng ta trốn tránh được trách nhiệm sống tốt? Cho nên tác giả tiếp: "vậy anh em hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lội đang trói buộc mình, và kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Kitô, đấng khai mở và kiện toàn lòng tin".


Đoạn văn này của chương XII. Muốn hiểu rõ, chúng ta phải trở lại chương XI, tác giả nói đến các tổ phụ đã chết trong đức tin, là bảo đảm cho những điều không trông thấy, và như vậy họ chết mà không đạt được ước vọng của mình, nhưng họ đã trông thấy từ xa và chào kính nó (11, 13). Nội dung của hy vọng đó chính là đức Giêsu Kitô. Những người công chính của Cựu Ước đã chết trong đức tin của Israel, nhưng thực ra cũng trong đức tin của Hội thánh nữa. Cho nên tác giả nhắc nhớ chúng ta rằng tín hữu cũng được ích lợi từ đức tin của các tổ phụ, chính vì thế mà tác giả dùng cụm từ "đám mây nhân chứng đức tin bao quanh" trong những thời gian gặp khó khăn thử thách. Tuy nhiên, đức tin của chúng ta luôn được khích lệ, khi hướng mắt nhìn về đức Kitô, giống như các tổ phụ cựu ước về niềm hy vọng của đức tin Israel. Lý luận này, xem ra thừa thãi đối với các tín hữu ngày nay. Nhưng vào thời buổi ấy, thật là quan trọng đối với các tín hữu tiên khởi. Những người có nhiều ký ức về quá khứ và tôn trọng nó.

Nhưng xét cho cùng cũng là bài học thấm thía cho tín hữu ngày nay trước những khó khăn hiện tại. Bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau: phá thai, nạo thai, đồng tính luyến ái, toàn cầu hoá kinh tế, nghèo đói, chiến tranh, hoà bình, ... Đâu là điểm tựa cho đức tin, luân lý của chúng ta? Câu trả lời chỉ có thể là "đám mây lớn nhân chứng đức tin vây quanh".

Tôi vẫn nhớ, hồi nhỏ, một linh mục tốt bụng thường khuyên nhủ tôi rằng: "Jude ạ, hãy hướng nhìn vào đức Kitô luôn". Ông là một trong những đám mây nhân chứng bao quanh tôi. Ông đã chia sẻ với tôi kinh nghiệm của riêng ông, nên vượt qua khó khăn của cuộc đời ra sao? Tôi hiểu rằng đôi lúc trong đời ông, ông đã gặp tối tăm và chán nản, ông mắc bệnh trầm cảm. Nhưng ông luôn có đôi mắt hướng về Chúa Giêsu và tìm ra thuốc chữa nơi cây thập tự. Ông đã kinh nghiệm với Chúa trên cây gỗ. Và cho tới sau khi ông chết, tôi mới ngộ ra rằng chẳng phải đó là lực đẩy ông đọc được trong sách vở hay màn ảnh, báo chí, nhưng trong lá thơ gửi tín hữu Do thái này. Đó là Lời Chúa, là sự thật mạc khải mà ông đã lặp đi lặp lại trong các thử thách gian nan. Ông đã qua đi và truyền lại kinh nghiệm cho tôi. Ông đã cho tôi nghị lực để chạy trong "cuộc đua" của tôi.

Phải chăng đức Kitô là mẫu mực cho chúng ta về chuyện này? Không cần trả lời câu hỏi, vì ai ai đều rõ. Nhưng bài phúc âm hôm nay thực khó khăn. Một đàng phải đốt cháy cả địa cầu, đàng khác phải chịu đựng chia rẽ và hận thù. Xem ra ngài chẳng còn là mục tử tốt lành như tuần trước chúng ta suy ngẫm: "Hỡi đàn chiên bé nhỏ, đừng sợ hãi". Ngài đã thay đổi ý kiến chăng? Thưa không, tuần trước ngài cảnh cáo về ngày giờ ông chủ trở về, thì tuần này, chúng ta phải đối phó với hoàn cảnh ra sao để có thể trung thành với sứ vụ ngài trao, với ơn gọi làm con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội. Tính triệt để của phúc âm không phải là chuyện đùa, mà là "thực tế" trong mỗi cuộc đời. Chúng ta luôn cảm thấy bị "bách hại" vì niềm tin của mình, là người lạ ngay trên quê hương, giáo xứ, cộng đồng của mình. Chúng ta cần những đám mây nhân chứng trước mặt. Cầu xin Thánh Thể giúp đỡ mỗi người trong thánh lễ hôm nay. Amen.


----------------------------------------

 

TN 20-C88: "TA ĐẾN NÉM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN"


Lc 18, 49 – 53

Lã Mộng Thường

 

Qua bài Phúc Âm chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu công bố, "Ta đã đến ném lửa xuống đất, và nào: TN 20-C88


Qua bài Phúc Âm chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu công bố, "Ta đã đến ném lửa xuống đất, và nào Ta ước mong gì, nếu nó đã được nhen lên..." (Lc. 12:49) quả là ngược lại với tất cả những gì chúng ta đã được dạy dỗ và đồng thời quan niệm xưa nay về Ngài.

Chúng ta được dạy rằng Chúa Giêsu giáng trần để chuộc tội nhân loại... dựa theo nghĩa đen nơi Phúc Âm Gioan đã được viết, "Vì Thiên Chúa quá yêu mến thế gian đến đỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi nhưng được có sự sống đời đời" (Gn. 3:16), hoặc cũng nơi Phúc Am Gioan đoạn 15, câu 13 được viết, "Không ai có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." Ngược lại và rõ ràng hơn nữa, Đức Giêsu đoan chắc, "Các ngươi nghĩ: Ta xuất hiện để ban bình an trên mặt đất ư ? Không đâu! Ta bảo các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ! Vì từ nay, trong một nhà có năm người, sẽ có chia rẽ ba với hai, hai với ba. Họ sẽ chia rẽ với nhau, cha với con, con với cha; mẹ với con gái, con gái với mẹ; mẹ chồng với nàng dâu, nàng dâu với mẹ chồng" (Lc. 12:51-53; bản dịch NT Thuấn).

Bao nhiêu sách vở của các nhà thần học kinh điển dày công sức lý luận, dùi mài khảo cứu về một Nước Thiên Chúa bao gồm bác ái, yêu thương, công bình, hy vọng được kể như bị đổ xuống sông xuống biển vì mấy câu nơi bài Phúc Âm tuần này. Dẫu chẳng cần sức học giỏi giang, uyên bác, dẫu không theo đạo nào, hoặc không bao giờ đặt vấn đề mình sống để làm gì, bất cứ ai cũng có thể hiểu một cách minh bạch lời tuyên bố của Đức Giêsu qua bài Phúc Âm. Ngài đến không phải để thoả mãn những ước vọng thế tục loài người. Thử hỏi, một người với tâm hồn như rắn rết thì mơ ước bác ái yêu thương nơi họ? làm sao lại có thể trở nên hiện thực được!

Xét như thế, chúng ta cần tự hỏi tại sao Đức Giêsu dám đương đường công bố điều không ai muốn nghe, nếu không muốn nói là cố ý lờ đi. Tại sao những nhà thuyết giảng uyên bác, cao siêu từ ngàn xưa đến nay không dám đối diện với đôi chữ mộc mạc, đơn thuần, không ẩn ý nhưng đã và đang thách đố bao thế hệ từ hai ngàn năm qua? Để ít nhất có thể giải quyết khúc mắc về lời rao giảng nghịch thường đối với quan niệm thế tục, chúng ta cần tìm lại nơi Phúc Âm về mục đích cuộc đời của Đức Giêsu.

Tôi muốn nói hãy tìm hiểu xem Đức Giêsu nói gì về thực thể giáng trần của Ngài thay vì hùa theo người khác bảo Ngài thế này, Ngài thế kia.

Chúng ta tin theo Đức Giêsu, chúng ta cần biết Ngài nói gì và nói thế nào bởi bất cứ ai nói về Ngài đều không phải Ngài nói. Nơi Phúc Âm Đức Giêsu dạy, "Đàng và sự thật, sự sống, chính là Ta! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta" (Gioan 14:6) nên Ngài quở trách những ai đã lừa dụ dân Chúa, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chì khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản" (Lc. 11:52). Thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalonia, đoạn 5 câu 19 đến câu 21 cũng khuyên chúng ta, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào." Nơi đoạn 2 câu 8 của thư gửi Côlôsê được nói rõ hơn, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô."

Đọc nơi Phúc Âm thánh Luca, đoạn 4, câu 43 được viết, "Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê." Như vậy, rõ ràng mục đích nhập thể của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì và tại sao khiến những ai tin theo lời giảng dạy của Ngài trở nên phân rẽ.

Ai cũng đều nhận thức được Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự hiện hữu vì ngoài Thiên Chúa sẽ chẳng có sự hiện hữu hữu hình cũng như vô hình. Như vậy, Thiên Chúa hiện diện nơi mọi vật, mọi loài, từ tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, tham vọng vô hình đến những sự vật hữu hình như cát đá, cây cỏ, thú vật, loài người. Thiên Chúa hiện diện nơi mọi sự; Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta. Như vậy lẽ đương nhiên, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và như thế Nước Thiên Chúa, Nước Trời là chính Ngài. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nhận thức này dẫn đến thực thể giáng trần của Chúa Giêsu, "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Mt. 1:23).

Chúng ta mệnh danh ai đó giữ nhiệm vụ cai quản, cầm đầu một quốc gia là tổng thống nơi đất nước tự do dân cử vì người đó giữ nhiệm vụ của một tổng thống. Như thế, tổng thống là danh hiệu của người lãnh nhiệm vụ đứng đầu quốc gia. Xét nơi câu, "Và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi." Emmanuel là danh hiệu của Đức Giêsu. Tên của Ngài là Giêsu; danh hiệu của Ngài là Emmanuel. Như vậy, Đức Giêsu mang nhiệm vụ rao giảng Thiên Chúa ở cùng chúng tôi; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thế ra Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu rao giảng đã hai ngàn năm qua chính là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Có điều hơi lạ từ xưa tới nay, ngay thời điểm khởi đầu của bất cứ nghi thức Công Giáo nào, các cụ sáu, linh mục, giám mục... đều tuyên dương Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng nhưng lại chẳng được mấy ai để ý... Quả là lạ lùng! Phỏng chúng ta không dám để ý bởi chính vì rao giảng như thế, Đức Giêsu đã bị quân Giurêu kết án là phạm thượng nên bị vác thánh giá và đem đi đóng đanh! Ngược lại, chúng ta tuyên xưng mình là con cái Thiên Chúa thì gốc gác bắt nguồn từ đâu ra?

Sự phân rẽ giữa những người thân thiết bắt nguồn từ sự thể dám hoặc không dám chấp nhận thực thể Tin Mừng Nước Trời do Đức Giêsu rao giảng. Nếu thực sự nghiệm chứng và dám sống trong thực thể Thiên Chúa đang hiện diện nơi mình, một người sẽ nhận thực và sống thực sự thể chính Thiên Chúa đang hoạt động qua mình; mình là phương tiện cho Thiên Chúa hoạt động từ ý nghĩ, lời nói, thái độ, nhận định... Chẳng có gì được gọi là mình nữa mà chính Chúa đang hoạt động nơi mình; mình chỉ là công cụ. Và như vậy, ứng với lời Kinh Thánh, "Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gn. 6:45). Lời Chúa qua Phúc Am Gioan công bố, "Lúc khởi nguyên đã có Lời, và Lời ở nơi thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa, Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự, không Ngài thì không gì đã thành sự..." (Gn. 1:1-3); bởi đó chúng ta thường nói chúng ta, mọi người từ Thiên Chúa mà ra. Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh; Ngài là cội nguồn mọi sự thánh thiện; Ngài chính là sự thánh thiện. Chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa... gốc của chúng ta là sự thánh thiện của Thiên Chúa... và vì không dám chấp nhận thực thể thánh thiện nơi mình, chúng ta đã sử dụng sai sự thánh thiện, biến sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mình thành sự tội lỗi. Thế nên tội lỗi là sự sử dụng sai lầm sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mình. Có thể nói, tội lỗi không có cội nguồn mà gốc gác tội lỗi chính là sự sử dụng sai lầm sự thánh thiện của Thiên Chúa từng giây từng phút đang hoạt động, chuyển vận nơi mỗi người chúng ta.

Xét như thế, sự phân rẽ, đối nghịch của những thành phần thân thiết nơi gia đình hay bất cứ đâu bắt nguồn từ sự thể nghiệm và không nhận biết Tin Mừng Nước Trời do Đức Giêsu rao giảng. Một đàng sống thực nghiệm sự thể Thiên Chúa đang hiện diện nơi mình từng giây từng phút, đàng khác sống theo quan niệm về một Thiên Chúa giống như vị thần ngu ngơ ngự trị nơi cõi tắp tít xa vời nào đó để mình tha hồ lạm dụng hoặc hối lộ chút ít hầu lừa đảo để đạt được ham muốn theo ý thích hoặc vượt qua được sự sợ hãi mơ hồ bởi không dám thực nghiệm câu Phúc Am, "Và nếu tay ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt nó đi, thà ngươi cụt tay mà vào sự sống còn hơn là có hai tay mà sa vào hỏa ngục, vào lửa không hề tắt" (Mc. 9:43).


----------------------------------------

 

TN 20-C89: TÍNH QUYẾT LIỆT CỦA TIN MỪNG

Lc 18, 49 – 53

Lm Phêrô Nguyễn Hương

 

Ở Chúa Nhật vừa rồi, chúng ta đã định nghĩa: tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học: TN 20-C89


Ở Chúa Nhật vừa rồi, chúng ta đã định nghĩa: tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ; tin không đơn thuần tuân giữ một số lề luật và một số tín điều; nhưng tin chính là là gặp gỡ, gắn bó và bước theo Đức Kitô. Và như thế tin cũng có nghĩa là chúng ta chọn cách sống của Giêsu, chọn con đường của Giêsu, chọn giá trị của Giêsu làm lý tưởng cho cuộc đời chúng ta để vươn tới.

Nhưng việc sống theo Giêsu đòi buộc chúng ta phải trả giá và hy sinh, nếu không muốn nói là phải lội ngược dòng của cuộc sống để trung thành với những giá trị mà Đức Kitô đã đề ra. Chính vì thế cuộc sống của người kitô hữu được xem một cuộc chiến liên lĩ với sự dữ và bất công của cuộc sống. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một lời minh chứng cho chúng ta về điều đó.

Ở Bài đọc I, Tiên tri Giêrêmia được lệnh của Thiên Chúa đã lên án sự giả dối của các tiên tri giả chỉ nói những lời xu nịnh làm vui lòng nhà vua và thuộc hạ của ông. Sự thật mất lòng! Tiên tri phải trả giá, bị bắt và bỏ xuống giếng cho chết đói. May thay vua đã đổi ý và còn cứu sống ông (x. Gr 38, 4-9).

Tác giả của bài đọc II mời gọi: "Chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy kiên quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi chúng ta" (Dt 12,1).

Cũng trong chiều hướng đó, bài Tin Mừng hôm nay là một trong những lời "chói tai" của Chúa Giêsu: Trước hết Chúa nói: "Thầy đến đem lửa thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên". "Lửa" ở đây theo các nhà chú giải kinh thánh đó là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Người muốn cho "lửa" đó được bùng lên có nghĩa là Người muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý đó và Tình yêu đó của Thiên Chúa.

Lời chói tai gây khó hiểu đó là: "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống cho thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia sẽ. Vì từ nay năm người chống lại ba: cha chống lại đối con trai, và con trai chống đối cha, mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ, mẹ chồng chống đối nàng dâu và nàng dâu chống đối mẹ chồng" (Lc 12,51-53).

Tại sao lại có sự phân rẽ này? Như chúng ta đã nói: theo Chúa là chúng ta quyết sống theo những giá trị mà Chúa đã đem đến trong thế gian này. Và để trung thành với những giá trị của Tin Mừng nhiều lúc đòi buộc chúng ta phải quyết liệt hy sinh những giá trị khác, phải đi ngược lại với những chọn lựa và hành động của những người xung quanh và người thân trong gia đình của chúng ta. Như thế từ đó sự đối lập và phân rẽ sẽ xuất hiện giữa cha mẹ với con cái, giữa anh với em.

Thánh Phanxicô Assisi là một ví dụ điễn hình trong sự dấn thân theo Chúa đành phải chấp nhận đối đầu với cha mình. Người cha đưa con ra tòa với hy vọng thuyết phục người con từ bỏ con đường điên rồ mà anh đang dấn thân vào. Nhưng trước mặt quan tòa và mọi người, Phanxicô đã cởi bỏ quần áo trả lại cho cha, và dõng dạc tuyên bố: "Của cha, con xin trả lại cho cha, từ nay, con chỉ có một cha, là Cha trên trời".

Các nhà chú giải kinh thánh nói với chúng ta rằng: sự phân rẽ ở đây không phải là mục đích của Chúa Giêsu nhưng là hậu quả của việc theo Người. Và cuộc chiến ở đây không phải là một cuộc chiến giữa con người chống con người, nhưng là cuộc chiến chống lại sự dữ, sự xấu trong con người; đó là sự va chạm giữa các chọn lựa và các giá trị của cuộc sống. Nhưng chính nhờ sự phân rẽ này mà con người có thể xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa đích thực và bình an đích thực trên trái đất này. Vâng, theo Chúa là chúng ta phải lội ngược dòng đời, phải chấp nhận sự đối kháng của người khác. Đấy là tính quyết liệt của Tin mừng!

Lạy Chúa, chúng con biết rằng những ai tin vào Chúa thì không bao giờ cô đơn trong cuộc chống lại sự dữ, xin cho lửa tình yêu và chân lý của Chúa luôn bừng cháy trong tim của chúng con, để chúng con luôn cam đảm chọn lựa và sống theo những giá trị Tin Mừng mà Chúa dạy. Amen!


----------------------------------------

 

TN 20-C90: NGỌN LỬA TÌNH YÊU


Lc 18, 49 – 53

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Nghe ngọn lửa bùng cháy, ai cũng cảm thấy sợ sệt bởi vì lửa cháy bừng có thể thiêu rụi nhà cửa: TN 20-C90


Nghe ngọn lửa bùng cháy, ai cũng cảm thấy sợ sệt bởi vì lửa cháy bừng có thể thiêu rụi nhà cửa, ruộng vườn vv...Nếu con người không ngăn chặn ngọn lửa kịp thời. Đọc Tin Mừng, chúng ta nhiều khi cũng cảm thấy lo âu, đặc biệt là đoạn Phúc Âm của thánh Luca hôm nay với những lời nguyền rủa của Chúa Giêsu:" Thầy đã đến để ném lửa vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ". Nghe những lời này của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ đâm ra sợ sệt, lo âu. Nhưng chúng ta phải thay đổi tư duy và hiểu rõ hơn ý của Chúa Giêsu muốn nói.

Trong đoạn Tin Mừng này, trước hết chúng ta phải hiểu chữ lửa theo ý Chúa. Lửa ở đây, giống như Việt Nam chúng ta có câu ca dao:" Lửa thử vàng, gian nan thử đức " . Lửa là đức tin, là đau khổ. Đức tin có được trui luyện, có được củng cố, thanh luyện, đức tin mới trở nên vững vàng vì " Đức tin không có việc làm là đức tin chết ". Chúa Giêsu cũng nói: " Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất". Phép rửa trong bài Tin Mừng có nghĩa là đau khổ. Điều này nói đến cuộc khổ hình của Chúa Giêsu trên Thập giá. Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu đau khổ là con đường, là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để cứu độ chúng ta, do đó, chúng ta cũng phải đi theo con đường của Chúa:" Tôi tớ không lớn hơn Thầy...". Đây là cách thức duy nhất Chúa đã chọn để làm gương cho mọi người chúng ta.

Ý nghĩa khác nữa trong bài Phúc Âm của thánh Luca:" Chúa báo trước cho những ai tin theo Ngài là vì đức tin, vì theo đạo, vì theo Ngài, họ có thể bị chính những người thân yêu của mình khinh chê, ghen ghét, ruồng bỏ vv...Đọc Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận thấy rất rõ cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã gặp khốn khó khi ở trong một gia đình có một hay hai người quyết định tin theo Chúa thì họ liền bị những người thân trong gia đình ngăn cản, ghen ghét, khó chịu, ruồng bỏ vv...Còn trên bình diện rộng lớn hơn, lịch sử của đạo đã cho hay có nhiều Vị Thánh Tử Đạo đã bị Vua Chúa Quan Quyền ruồng rẫy, bắt bớ, giam cầm và kết án tử hình.

Lịch sử Hội Thánh cho thấy, đức tin rất cần thiết cho mọi người để người môn đệ Chúa có thể bền vững tới cùng. Lửa mà Chúa nói đến ở đây cho chúng ta hiểu về thứ lửa thiêng liêng mà Chúa thắp sáng trong tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận, lửa này sẽ gây nên trong chúng ta những hiệu quả tốt nhờ đó chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì tất cả đều là hồng ân Chúa ban, rồi chúng ta luôn tìm Chúa, luôn hướng về Ngài, luôn nhìn lên cao để trái tim chúng ta đốt cháy ngọn lửa yêu mến Chúa. Sau đó, chúng ta luôn khao khát nói về Chúa bởi trái của chúng ta đầy ắp Chúa, thắp sáng cho mọi người thấy Chúa. Chính vì thế, dù đang sống nơi trần gian với những khó khăn thử thách, với những cám dỗ của ma quỷ bủa vây, giăng mắc, chúng ta vẫn luôn tin tưởng, phó thác vào Chúa.

Sống nơi gian trần, chúng ta đang bước từng bước trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta đã chọn Chúa, đã đến, xem, ở lại và đi theo Chúa trong Hội Thánh, dưới mái nhà tình thương là Đạo Công Giáo mà Chúa thiết lập. Và sự chọn lựa đi theo Chúa, sống cho Chúa, phục vụ anh em là nếp sống, tư duy và hành động của chúng ta.. Nên, mọi thứ khác như tiền tài, vật chất, của cải, danh vọng phải là thứ yếu đối với chúng ta. Mọi thử thách, chông gai, đau khổ, thử thách gian nan không làm chùn bước chúng ta và không làm lung lay hành động tốt, tư duy chân chính của chúng ta. Chúng ta chọn Chúa hay chọn tiền tài, danh vọng. Đây là những vấn nạn đòi chúng ta nghiêm túc trả lời và giải đáp.

Thánh Augustinô viết:" Tốt đẹp biết bao vì Thiên Chúa là ngọn lửa bùng cháy làm cho chúng ta biết yêu mến Người ". Ngọn lửa của Chúa là ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đến để biến đổi con người của các tông đồ. Ngọn lửa ấy phải được chiếu tỏa rộng khắp nơi mỗi người và trên khắp cùng thế giới này.

Cha Vincent Cabanac đã nói:" ...Chúng ta cũng có thể đốt cháy lên tình yêu vì Chúa và vì tha nhân, như ngọn nến cháy sáng đảm bảo sự sống đang tồn tại, và chiếu sáng vào nơi tối tăm hay một con tim rực cháy thúc đẩy chúng ta trao ban tất cả. Bằng những lời nói khiến cho người nghe ngạc nhiên, Chúa Giêsu không trở thành mối đe dọa, nhưng lời nói của Người làm cho đời sống của chúng ta nên thanh sạch bằng cách mạc khải cho chúng ta điều cần thiết này ".

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa.Xin Chúa Thánh Thần hãy đến để biến đổi tâm hồn cứng cỏi của chúng chúng con bằng chính lửa yêu mến Chúa. Amen.


Nguồn vietcatholic.org

----------------------------------------

 

TN 20-C91: SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIỆSU


(Luca 12,49-53 – CN XX TN - C)

1.- Ngữ cảnh

 

Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại Lc 12,48 trong bài tường thuật về hành trình: TN 20-C91


Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại Lc 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).

3.- Vài điểm chú giải

- ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer; BJ).

- Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.

- lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).

- hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).

- cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)

Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?

Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo; Crampon; Joušon; NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…

Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer; BJ).

Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.

Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.

Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.

Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.

* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)

Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. Lc 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.

Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.

Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.    

+ Kết luận

          Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa. 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.

2. Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.

3. Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.

4. Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

----------------------------------------

 

TN 20-C92: Bình An Chỉ Có Khi Sự Thật Lên Ngôi


(Chúa Nhật XX Thường Niên, C)

Jos.Vinc. Ngọc Biển

 

Nếu Tin Mừng Chúa Nhật XVIII, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước: TN 20-C92


Nếu Tin Mừng Chúa Nhật XVIII, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật XIX, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm…, thì Chúa Nhật XX này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:

phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;
phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng của Mình mang lại.

Sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của Mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.

Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên” Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối, Người đến còn là để xét xử trần gian.

Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình yêu, Sự Thật, Công Bình.

Như vậy Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới, những tâm hồn trai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương anh chị em như anh em một nhà.

Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.

Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô. 

Những hệ lụy của đời chứng nhân

Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: tôi đến để đem chia rẽ? Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình. Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì sự thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.

Như vậy, bình an của Chúa chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.

Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.

Bình an chỉ có được khi sự thật được tôn trọng

Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.

Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối (nổ) thì lại ghét những người nói thật…trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ yêu hơn, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…

Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu.  Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng… Đọc chuyện các thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho sự thật.

Như vậy, muốn có hòa bình thực sự là khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Hòa bình chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.

Mong sao, tâm tư của Đức Giêsu sớm được thực hiện trên trần gian này: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.

Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con hiểu rằng: muốn có được bình an đích thực là chúng con phải từ bỏ con đường tội lỗi, hận thù và ghen ghét; đồng thời phải can đảm sống và làm chứng cho sự thật, một sự thật toàn vẹn. Ước gì ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.

----------------------------------------

 

TN 20-C93: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN C


Gr 38,4-10 ; Dt 12,1-4 ; Lc 12,49-53

LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU

HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 12,49-53

(49) Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo anh em biết: Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.

 

Bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su dạy các môn đệ về sứ vụ của Người và những đòi hỏi: TN 20-C93


2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su dạy các môn đệ về sứ vụ của Người và những đòi hỏi đối với những ai muốn trở nên môn đệ của Người:

- SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giê-su còn là phải chịu một phép Rửa tức là chấp nhận trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban ơn cứu độ cho lòai người.

- NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ:

Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ

3. CHÚ THÍCH:

- C 49-50:

+ Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất: Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của Thiên Chúa, nhất là trong ngày Tận thế, để thiêu hủy những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (x. Lv 10,2 ; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa, đã làm cho lòng hai môn đệ làng Em-mau phải nóng lên, khi cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,32), Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên đầu các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3-19). Lửa còn là những đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu để thanh luyện con cái Ít-ra-en giống như vàng được thanh luyện trong lửa (x. Mc 13,1-4 ; Is 1,25).

+ Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên: Đức Giê-su mong ước ban Lửa Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người.

+ Thầy còn một phép Rửa phải chịu: Phép Rửa có nghĩa là sự nhận chìm dưới mặt nước. Thời Giáo hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự chết trong cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su: Người cũng đã chết và được an táng trong lòng đất, rồi ngày thứ ba Người đã trỗi dậy vinh quang.

+ Lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất: Đức Giê-su thao thức chu toàn sứ vụ Chúa Cha trao phó là trải qua cuộc tử nạn và phục sinh để cứu chuộc loài người.

- C 51-53:

+ Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?: Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mê-si-a (x. Is 9,5-6 ; Lc 1,79).

+ Không phải thế đâu: Thứ bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi, như Người đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả đã mơ tưởng (x. Gr 6,16 ; Ed 13,10.16).

+ Nhưng là đem sự chia rẽ: Đứng trước Đức Giê-su, người ta phải lựa chọn dứt khoát: Tin theo hay chống lại Người. Sự lựa chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ từng gia đình.

+ Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai...: Theo lời các Ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x. Mk 7,6 ; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giê-su đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa và bước theo Người (x. Lc 14,26 ; 18,29-30).

4. CÂU HỎI:

1)Theo Thánh kinh, Lửa là biều tượng cho những gì ?
2) Phép Rửa mà Đức Giê-su sắp phải chịu ám chỉ điều gì ?
3) Bình an Đức Giê-su ban khác với bình an của thế gian thế nào ?
4) Tại sao Đức Giê-su lại đến đem sự chia rẽ cho các gia đình thay vì đem bình an ?

SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49).

2. CÂU CHUYỆN:

Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau: “Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là: làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi để xếp vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc...

3. SUY NIỆM:

Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy: Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.

1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

Đức Giê-su đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giê-su là mong sớm hoàn tất công cuộc tử nạn và phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người được diễn ta bằng hình ảnh phép Rửa.

-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49):

Lửa do Đức Giê-su ném vào mặt đất là gì ?

Là Lửa Thánh Linh được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).

Là Lửa Tin Yêu được Đức Giê-su mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em một nhà, hầu cho mọi người biết yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau.

Đức Giê-su ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình có “Thiên Chúa là Tinh Yêu” ngự trị (1 Ga 4,8).

-Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”:

 Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy la hình ảnh diễn tả mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là cứu chuộc nhân loại ba8fng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã tiên báo với các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).

Về sau, thanh Phao-lô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: « Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).

Đức Giê-su được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại băng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Em-mau để động viên họ: « Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời Đức Giê-su luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công trình cứu độ tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.

2) NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY:

-Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Đức Giê-su làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường sống?:

Ngoài việc năng cầu xin Thánh Linh đổ ơn xuống đầy lòng chúng ta khi cầu nguyện, mỗi tín hữu chúng ta còn phải năng học sông Lời Chúa trong các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giê-su khi dự lễ và rước lễ, nhất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa cho tha nhân, noi gương hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa Phục Sinh (x Lc 24,13-35). Các thánh Tông đồ và những môn đệ tiên khởi đã làm cho lửa tin yêu bùng lên tại những miền đất xa lạ mà các ngài đặt chân đến. Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tin yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh".

- Đức Giê-su đã ném lửa vào mặt đất và Người hằng mong ước lửa ấy bùng lên: Nhưng làm sao lửa tin yêu ấy bùng lên nếu không được các tín hữu chúng ta khơi lên ? Chính Đức Giê-su xưa đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và đã sai các môn đệ ra đi loan báo tin mừng khắp thế gian (Mt 28,19 ; Mc 16,15), thì nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng Tình Thương, tích cực góp phần với các người thiện chí để xua tan bóng tối văn hóa sự chết là những bất công hận thù, nghèo đói, tội ác… bằng cách gieo vãi ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

 - Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ của Người được sớm thành hiện thực như mẹ Tê-rê-sa can-quýt-ta đã luôn cộng tác với Chúa và cầu xin Chúa giúp như sau: “Lạy Chúa Giê-su thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”

4. CÂU HỎI: 1) Thế giới hiện còn nhiều bóng tối của ma quỷ. Vậy tâm hồn bạn hiện đang ở trong bóng tối ganh ghét hay ánh sáng tình thương ? 2) Bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là văn hóa sự chết như: tội lỗi, bạo lực, đam mê... và các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống là gia đình, khu xóm và nơi làm việc ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Linh. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nhận biết Chúa.

X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH – HHTM

----------------------------------------

 

TN 20-C94: Cuộc chiến đấu nội tâm


CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 12:49-53)

 

Ít có ai muốn cho mình là lý do gây chia rẽ, nhưng với Chúa Giê-su, đó lại là một thực tại rõ: TN 20-C94


Ít có ai muốn cho mình là lý do gây chia rẽ, nhưng với Chúa Giê-su, đó lại là một thực tại rõ ràng.  Chính Chúa Giê-su đã vạch ra một ranh giới:  “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lu-ca 11:23).  Theo Chúa và không theo Chúa là hai chọn lựa đối nghịch chia chúng ta thành hai hạng người.  Lời khẳng định của Chúa hôm nay đòi chúng ta phải thành thực xét lại thái độ theo Chúa của chúng ta, để chúng ta dứt khoát làm môn đệ Người và can đảm chấp nhận những hậu quả của việc chọn lựa này, thậm chí hậu quả ấy có thể xảy ra ngay trong bản thân và trong gia đình chúng ta.

          Trước khi đòi chúng ta phải có thái độ dứt khoát theo Người, Chúa Giê-su đã thẳng thắn cho chúng ta biết chúng ta phải theo Người đi tới đâu.  Dĩ nhiên là theo Người đi vào cuộc Thương Khó.  Người đã diễn tả sứ mệnh của mình là chết để cứu độ nhân loại bằng một hình ảnh vô cùng sống động:  lửa bùng lên và phép rửa phải chịu.  Theo ý nghĩa Kinh Thánh, lửa và nước được coi như khí cụ phán xét.  Do đó, ở đây Chúa Giê-su muốn nói đến cuộc Phán Xét chính Người sắp phải chịu, tức là cuộc Thương Khó, để rồi kết quả của cuộc Phán Xét này là ơn cứu độ Người mang lại cho nhân loại.  Đúng vậy, Chúa Cha sẽ “phán xét” Trưởng Tử của nhân loại về lòng trung thành chu toàn sứ mệnh, và Người sung sướng lập lại lời Người đã phán:  “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mác-cô 1:11).

          Theo Chúa làm môn đệ Người, chúng ta nhận thấy sự chia rẽ ngay trong con người chúng ta.  Chúng ta cảm thấy bị giằng co giữa hai thần khí, thần khí của sự dữ và thần khí của Chúa Ki-tô.  Thánh Phao-lô Tông đồ gọi đó là cuộc chiến nội tâm.  Hơn ai hết, ngài đã cảm nghiệm điều này rõ rệt:  “Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay… Tôi thật là một người khốn nạn!  Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?”  Và ngài trả lời:  “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Xem Rô-ma 7:14-25).  

          Vì chọn lựa theo Chúa bắt chúng ta phải chấp nhận hy sinh, vác thập giá… nên có những người từ chối không muốn làm môn đệ Người.  Họ không theo lối sống của Chúa.  Chính sự khác biệt giữa lối sống theo thế gian và lối sống của người môn đệ Chúa đã gây ra những ngăn cách.  Hiện trạng chia rẽ rất thường xảy ra ngay trong phạm vi một nhà.  Thí dụ con cái khủng hoảng đức tin không muốn nghe lời khuyên bảo của cha mẹ.  Thế là có chia rẽ và cuộc chiến tranh lạnh xảy ra giữa theo Chúa và không theo Chúa, giữa con trai với cha, con gái với mẹ và mẹ chồng với nàng dâu!

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Không mấy khi chúng ta thấy Chúa Giê-su biểu lộ nhiều cảm xúc như trong đoạn Tin Mừng hôm nay.  Người “những ước mong” và “khắc khoải biết bao” được làm trọn sứ mệnh Chúa Cha đã trao, mặc dù Người vẫn phải chiến đấu tới cùng để vâng theo thánh ý Chúa Cha.  Chúa Giê-su không những mời gọi chúng ta hãy thành thực chấp nhận những “chia rẽ” để đi theo Người, mà còn ước mong chúng ta trở nên “đồng hình đồng dạng” với Người.  Người xin chúng ta hãy chia tay với lối sống cũ tội lỗi để mặc lấy đời sống mới trong Thánh Thần.  Người khích lệ chúng ta hãy chia rẽ với lòng tham lam của cải tiền bạc, để cố gắng đi tìm Nước Trời. Người chờ đợi chúng ta bỏ lại hận thù để yêu thương những người làm tổn thương chúng ta.  Người muốn chia rẽ chúng ta với tính ích kỷ để chúng ta đến giúp đỡ người nghèo khổ.  Nói cho cùng, Chúa Giê-su đem đến cho chúng ta toàn là những chia rẽ, nhưng tất cả đều nhằm làm cho mối tương quan giữa chúng ta với Người được khắng khít.

          Chúa Giê-su là gương mẫu trong cuộc chiến nội tâm.  “Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Do-thái 12:2).  Chúa Giê-su cũng là gương mẫu chiến thắng!  Sau khi nêu lên tấm gương Chúa Giê-su, tác giả thư Do-thái thách đố chúng ta:  “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu” (12:4)!

             Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

----------------------------------------

 

TN 20-C95: NÉM LỬA VÀO MẶT ĐẤT

 

Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, … Những câu nói lạ lùng của Chúa Giêsu, chúng ta không mong TN 20-C95


"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, … Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ."

Những câu nói lạ lùng của Chúa Giêsu, chúng ta không mong đợi Người đem lửa và gươm giáo (sự chia rẽ) đến. Người không làm như thế. Khi Giacôbê và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh đổ xuống trên làng người Samari, Người đã bảo với họ rằng họ đã không biết họ đang nói gì. Và khi Phêrô rút kiếm ra trong vườn Ghếtsêmani, Chúa Giêsu đã nói với ông hãy xỏ kiếm vào.

Chúa Giêsu không đến để tạo ra những rắc rối hay làm tan vỡ các gia đình, nhưng đôi lúc điều này lại xảy ra. Vào những ngày đầu của Giáo Hội, việc cải đạo sang Kitô giáo, điều đó dường như đưa đến việc loại bỏ gia đình. Do đó, những cuộc cải đạo đã phải thực hiện một sự lựa chọn hoặc là Thiên Chúa hoặc là gia đình.

Khi Chúa Giêsu nói đến việc đem lửa và chia rẽ đến mặt đất, rõ ràng là lời nói của Người không nhằm vào nghĩa đen của từ ngữ. Tuy nhiên, những lời nói đó thay cho những suy nghĩ thực nơi Ngài. Chúa Giêsu hiền lành, nhưng không có nghĩa là Người yếu đuối. Trong tình huống bắt buộc, Người cũng sẽ rất cương quyết, giống như khi Người đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ.

Những lời nói đó cũng ám chỉ sự cứng rắn của Người trong việc giảng dạy. Lời dạy của Người là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Người dạy chúng ta rằng nước Chúa rộng mở với tất cả mọi người, người thánh thiện cũng như tội nhân, người Do thái cũng như dân ngoại. Điều này đưa Người đến những xung đột với những kẻ quyền thế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Người gọi các kinh sư, ký lục và biệt phái là những người đạo đức giả và là kẻ dẫn đường mù quáng. Còn họ lại gọi Người là kẻ gây rắc rối và bị quỷ ám.

Nếu Chúa Giêsu nịnh bợ họ và chỉ nói cốt sao cho "đẹp lòng" họ, thì Người đã có thể làm cho mình trở nên nổi tiếng. Nhưng Người chọn việc làm khuấy động họ, vì họ cần phải được khuấy động. Lời của Người gây căm phẫn nơi một số người và làm tức điên lên nơi những người khác. Những lời Người nói với người nghèo thì lại khác với những lời Người nói với người giàu. Những lời Người nói với người tội lỗi thì lại khác với những lời Người nói với người biệt phái. Chúng ta phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta tự ý sửa đổi lại lời Chúa đã nói để những lời này được luôn ôn hoà dịu dàng, làm mất đi sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo, giữa người được nhận và người bị tước mất. Những bài Tin Mừng nhạt nhẽo như vậy không thể nào làm men cho thế giới này.

Đã có khuynh hướng thích ứng Tin Mừng, sửa đổi làm cho từ ngữ trở nên dễ nghe và tạo cảm giác nhẹ nhàng. Nếu điều đó xảy ra, tức là lửa đã tàn, men đã mất tác dụng, muối đã mất vị mặn và ánh sáng đã trở nên mờ nhạt.

Kitô hữu không ngạc nhiên khi Tin Mừng chia rẽ con người. Phán đoán ngay chính của Chúa Giêsu đưa Người tới những xung đột với những kẻ chuyên ức hiếp người yếu đuối và nghèo khó. Sự chính trực của Chúa Giêsu đưa Người tới những xung đột với những kẻ bất lương. Lòng khoan dung của Chúa Giêsu đưa Người tới những xung đột với những kẻ hẹp hòi và cố chấp. Ánh sáng càng rực rỡ thì càng đẩy xa bóng tối âm u.

"Khi tôi trao bánh mì cho người nghèo, họ cho tôi là một vị thánh. Nhưng khi tôi hỏi tại sao người nghèo lại không có bánh mì thì họ cho tôi là một người cộng sản." Tổng Giám Mục Helder Camara, thần tượng của dân nghèo Brazil đã nói.

Chúa Giêsu nói rằng Người đến để nhóm lên ngọn lửa cho trần gian. Đó không chỉ đơn thuần là hình ảnh, một sự ẩn dụ, nhưng đó là một biểu hiện đầy quyền lực. Là biểu tượng của óc suy xét và sự tinh lọc. Lửa sẽ thiêu đốt những gì vô dụng và tôi luyện những gì không trong sạch.

Sứ điệp Tin Mừng là lửa để tôi luyện, là men cho xã hội và thế giới. Ngọn lửa không chỉ cần được nhóm lên mà còn cần được giữ cho cháy mãi. Chúng ta, những người theo chân Chúa Giêsu, là những người sẽ giữ cho ngọn lửa đó sáng mãi.

----------------------------------------

 

TN 20-C96: CUỘC CHIẾN TRIỀN MIÊN

 

Hậu quả của tội nguyên tổ quả là khủng khiếp ! Satan thật giả dối, gian ngoa, quỷ quyệt ! Con: TN 20-C96


Hậu quả của tội nguyên tổ quả là khủng khiếp ! Satan thật giả dối, gian ngoa, quỷ quyệt ! Con người khi đã chấp nhận buông theo sự hướng dẫn của Satan thì chắc hẳn phải đi vào chỗ chết, chết ngàn thu. Đáng buồn thay, cái chết ngàn thu ấy được Satan phác họa bằng một sự sống đầy tham vọng, giàu sang phú quí, đầy dư khoái lạc ở đời này.

Nếu Chúa Giêsu không xuống thế gian này để dùng Lời Ngài và chính cái chết của Ngài mà cứu con người được sống, thì con người vẫn mãi mãi chìm trong cái chết kinh hoàng ấy, trong cái vỏ bọc của một sự sống tưởng như là tuyệt vời !

Rõ ràng là Chúa Giêsu đã đến và khởi xướng một cuộc chiến tranh triền miên trong cõi đất này, cuộc chiến giữa Sự Sống Vĩnh Cửu và Sự Chết Ngàn Thu.

Trong khi Chúa Giêsu, Sự-Sống-Vĩnh-Cửu, muốn cho tất cả con người được sống không chỉ đời này, mà còn đời sau nữa, và đời đời trong Nước Thiên Chúa, thì Satan, Sự-Chết-Ngàn-Thu, lại lôi kéo con người ta về phía chỉ muốn sống sung túc khoái lạc ở đời này, không cần có đời sau, đời đời. Càng nhiều người quên đi, hoặc không cần có đời sau, thì Satan càng mãn nguyện, vì chúng luôn luôn chống lại Thiên Chúa.

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”.

Chính Lời Ngài đã mở lòng trí con người phân biệt thiện, ác; sống, chết; thật, giả… và cũng chính Lời Người là sự Thiện, Sự Thật, Sự Sống làm cho cái ác, cái chết, cái giả dối phải hổ ngươi bẽ mặt.

Cuộc chiến ấy, trước tiên ngay trong lòng mỗi người, và từng giây phút, từng ngày. Con người phải tự chia rẽ chính mình. Cũng trong một con người mà cái thiện cái ác, cái thật cái giả vẫn cùng nhau canh cánh. Bao lâu hãy còn sống đây, trên cõi đất này, thì dù là người có học cao, học rộng, có chức, có quyền, có nhiều đời nhiều năm theo đạo, sống đạo…, có ai dám vỗ ngực xưng tên rằng mình đang hoàn toàn thuộc về Sự Thiện, Sự Thật, Sự Sống đời đời.

Thăm viếng và giúp đỡ cụ Giacôbê trong những ngày cụ lâm bịnh nặng, chúng tôi nghe rõ lời tâm sự của cụ với từng đứa con lúc riêng tư ngồi bên cha, chăm sóc cho cha, cũng chỉ một nội dung: “Hành trình Đức Tin là một cuộc chiến triền miên nghe con. Nhớ là: ma quỷ sàng con như sàng gạo. Ma quỷ rất ác độc nhưng cũng rất dễ thương, rất hung dữ nhưng cũng rất nhỏ nhẹ, rất thô lỗ cộc cằn nhưng cũng rất ngọt ngào, nịnh nọt… Không cảnh giác, con rất dễ thua cuộc đó. Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giêsu mới chiến thắng được con à”.

Thiết nghĩ cụ đang nói đến cuộc chiến triền miên trong mỗi con người. Tôi vẫn tâm đắc nhất là câu kết của cụ: “Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giêsu mới chiến thắng được con à”.

Tôi có cảm giác đây là cả một kinh nghiệm chiến trường của cụ, khi cụ dùng hai từ “tình yêu và sức mạnh” của Chúa Giêsu.

Tình yêu ấy được Chúa Giê su đề cập trong đoạn đầu Tin Mừng hôm nay: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”

Ngọn Lửa của Thiên Chúa Cha được Chúa Giêsu mang đến cho trần gian, là lửa của Thánh Thần Chân Lý, lửa của Thánh Thần Tình Yêu: “Ai yêu mến Sự Thật, thì nghe tiếng tôi”. “Ai sống trong Tình Yêu là thực sống trong Chúa”.

Như vậy, phàm ai không yêu mến Sự Thật thì không nghe tiếng Chúa Giêsu, thì chống đối Chúa Giêsu. Từ đó, trong thế giới loài người xảy ra sự phân rẽ giữa những người theo Chúa và người không chấp nhận theo Chúa, theo giáo lý của Chúa, theo con đường của Chúa. Cũng vậy, ai không sống trong Tình Yêu đích thực của Thiên Chúa thì chống lại Thiên Chúa. Không phải là một sự phân chia rõ ràng, một cuộc chiến triền miên đấy sao ? Cụ thể hơn, ngay chính trong lòng mỗi người, mỗi người luôn phải ra sức chiến đấu để được sống đời đời, thì hẳn nhiên phải sẵn sàng tuyên chiến với cái giả trá điêu ngoa, với cái ác tiềm ẩn trong lòng, do ma quỷ điều khiển. Không ai có thể ỡm ờ, lấp lửng giữa Thiện và Ác, giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Phải dứt khoát với điều Ác để đón nhận cái Thiện của Thiên Chúa.

Ghi nhận cảm nghiệm về một hành trình Đức Tin đã đi qua của một cụ già, thiết tưởng mỗi người chúng ta phải ngộ ra chúng ta đang là những người lính anh dũng trong cuộc chiến tranh triền miên và hơn thế nữa, phải chiến thắng để bảo vệ Đức Tin, làm chứng cho Sự Thật, cho Sự Sống đời đời. Và chỉ trong Giêsu, chúng ta mới chiến thắng trong cuộc chiến triền miên ở cõi đất này, để chúng ta dành lấy một nền hòa bình là chính sự bình an tâm hồn khi hãy còn sống và chiếm hữu một chỗ trong Nước Thiên Chúa, Nước Hòa Bình.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, chân lý. Xin chính Ngài trở nên sức mạnh của mỗi chúng con trong cuộc chiến triền miên gian khó này. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 16.8.2013

----------------------------------------

 

TN 20-C97: BÌNH AN VĨNH CỬU

 

Nếu chỉ đọc mà không suy niệm Lời Chúa cẩn thận, có lẽ chúng ta sẽ khó hiểu được thông suốt: TN 20-C97


Nếu chỉ đọc mà không suy niệm Lời Chúa cẩn thận, có lẽ chúng ta sẽ khó hiểu được thông suốt giáo huấn của Ngài. Nhưng đọc và suy niệm dưới tác động của ơn Chúa Thánh Thần, Lời Chúa sẽ trở thành lương thực trường tồn cho chúng ta.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài đến thế gian không phải mang hòa bình cho trái đất, nhưng chính là đem sự chia rẽ ( x. Lc 12, 51 ). Sự chia rẽ Ngài đề cập đến ở đây chính là sự tranh đấu để sống và thực hành Lời Chúa. Đường lối của Ngài tốt lành, thánh thiện đấy, nhưng không phải đều được mọi người chấp nhận. Trong cùng một gia đình, ở nơi mỗi cá vị lại đón nhận, hiểu và thực hành Lời Chúa khác nhau. Tất nhiên mọi người đều phải chịu tác động dưới giáo huấn của Hội thánh, nhưng việc thực thi Lời Chúa cụ thể trong đời sống thường nhật lại hoàn toàn khác biệt. Không phải tất cả mọi người nghe đấy, đọc đấy, suy niệm đấy đều có thể thông suốt và thi hành hết được đâu. Bởi sống và thực hành Lời Chúa chính là đi vào con đường hẹp, con đường hoàn toàn trái ngược với đường lối của nhân loại.

Thế giới yêu chuộng tự do, đề cao nhân quyền và phục vụ hết mình cho nhu cầu bản thân, trong khi đó Đức Giêsu lại kêu gọi những ai bước theo Ngài phải từ bỏ mình, phải hy sinh, phải chết đi với chính mình để sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Đạo lý Ngài hoàn toàn đúng đắn, đưa con người đến Sự Thật toàn vẹn về cùng đích cuộc đời. Thế nhưng, con người từ khước chỉ vì đường lối ấy khiến họ phải từ bỏ mình, phải mất mát, phải cho đi. Thế giới ngày nay ai cũng muốn thu tích về cho mình, ai cũng muốn dành phần hơn, chức vụ cao nhất, quyến lực lớn nhất, giàu có nhất, xinh đẹp nhất, tài giỏi nhất… và nếu ai cũng chiếm chỗ nhất, lấy ai làm người rốt hết đây ?

Cái chia rẽ mà Đức Giêsu nói đến chính là sự chia rẽ trong tâm hồn, là sự xa cách vì khác biệt giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, chân lý và tội lỗi. Những đường lối, những quan niệm, những cách sống khác nhau, không theo chuẩn mực và đạo lý của Thiên Chúa. Bao lâu nhân loại còn tách rời với Chân Lý, thì bấy lâu chiến tranh của chia rẽ hận thù không chỉ trong gia đình, ngoài xã hội mà còn trên cả thế giới vẫn tiếp tục tiếp diễn “Từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba” ( Lc 12, 52 ).

Nhưng sự chia rẽ đáng sợ hơn chính là sự chia rẽ trong tâm hồn giữa con người với Thiên Chúa. Giả như bạn không tìm được bình an trong mối thông hiệp giữa mình và Ngài, thì làm sao có được sự an bình với tha nhân. Cũng phải thôi, bạn chưa am hiểu, chưa có được sự thân tình với Thiên Chúa làm sao bạn có thể hiểu và sống được Lời Ngài với tha nhân ?

Hơn bao giờ hết, thế giới đương đại đang ngày từng ngày gióng lên những hồi chuông thảm thiết về bạo động trong gia đình. Dường như con người đang dần dần mất đi cả nhân tính, để rồi cha giết con, chồng giết vợ, con thảm sát bố mẹ. Những phương tiện truyền thông không ngừng đăng tải những tin tức động trời của khắp bốn phương trời về những bạo động trong gia đình. Nguyên nhân từ đâu ra, cũng là từ sự suy thoái đạo đức trong gia đình, khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình.

Lạy Chúa, mỗi ngày con càng nhận ra không gì khôn ngoan hơn việc bảo vệ Lời Chúa bằng chính đời sống. Hành động là bằng chứng hùng hồn về Đức Tin và nếu luôn biết thực thi Lời Chúa, thì không còn niềm bình an nào đích thực hơn.

Xin Chúa giúp con, khi đang tồn tại giữa một thế giới xô bồ, hỗn loạn, luôn có được niềm vui bình an đích thực trong tâm hồn, vì Lời Chúa đã chính là ánh sáng Chân Lý, là ngọn đèn Đức Tin giúp con vượt qua mọi cạm bẫy, bóng tối và sự dữ.

Ước gì con giữ được mãi niềm tin vững chắc và sự can đảm vào Lời Chúa để có thể đứng vững trước mọi cảm bẫy cuộc đời, cho dù có phải đánh mất tất cả, cũng không cướp được niềm vui an bình vĩnh cửu Thiên Chúa ban tặng nơi tâm lòng con, không gian dối, giả trá như nhân loại đang dành tặng cho nhau.

M. HOÀNG THị THÙY TRANG

----------------------------------------

 

TN 20-C98: BÌNH AN CHỈ CÓ KHI SỰ THẬT LÊN NGÔI

 

Nếu Tin Mừng Chúa Nhật 18, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để: TN 20-C98


Nếu Tin Mừng Chúa Nhật 18, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật 19, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm, thì Chúa Nhật 20 này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:

- Phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;
- Phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng Ngài mang lại.

Sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của Ngài: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.

Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên” Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối, Người đến còn là để xét xử trần gian.

Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình Yêu, Sự Thật, Công Bình.

Như vậy, Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới, những tâm hồn trai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương anh chị em như anh em một nhà.

Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.

Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô.

Những hệ lụy của đời chứng nhân

Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian ? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” ( Lc 12, 49.51 ).

Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại ! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: tôi đến để đem chia rẽ ?

Nhưng không ! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình. Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì Sự Thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.

Như vậy, bình an của Chúa chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.

Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.

Bình an chỉ có được khi Sự Thật được tôn trọng

 Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.

Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối ( nổ ) thì lại ghét những người nói thật… trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ yêu hơn, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…

Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu. Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng…

Đọc chuyện các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho Sự Thật.

Như vậy, muốn có hòa bình thực sự là khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Hòa bình chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.

Mong sao, tâm tư của Đức Giêsu sớm được thực hiện trên trần gian này: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.

Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con hiểu rằng: muốn có được bình an đích thực là chúng con phải từ bỏ con đường tội lỗi, hận thù và ghen ghét; đồng thời phải can đảm sống và làm chứng cho sự thật, một sự thật toàn vẹn.

Ước gì ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.

Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

----------------------------------------

 

TN 20-C99: TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ

 

Khi cha Gioan Vianney đi rao giảng và giải tội cho Giáo Dân các Xứ, giúp các Linh Mục ở các xứ: TN 20-C99


Khi cha Gioan Vianney đi rao giảng và giải tội cho Giáo Dân các Xứ, giúp các Linh Mục ở các xứ quanh đó, thì các ngài bằng lòng và khen cha Gioan là người đạo đức sốt sắng. Nhưng khi thấy con chiên trong xứ của mình đua nhau đến Họ Đạo Ars để xưng tội với cha Gioan, liền sinh lòng ghen ghét và trách cha Gioan:

“Cha Gioan dốt lắm, Latinh không biết tiếng nào, phải học đi học lại thần học hai ba lần mà không hiểu, không nhớ. Chỉ nhờ thế của cha Balley, xin bề trên cho, mới không bị đuổi khỏi Chủng Viện và được làm Linh Mục. Đúng ra cha Gioan phải biết mình kém cỏi, phải đặt mình dưới các Linh Mục khác. Ai ngờ, cha lại dám tranh quyền với các Linh Mục thông thái và thánh thiện hơn mình, và đặt mình lên làm thầy dạy dỗ, coi sóc linh hồn giáo hữu của cả miền này…”

Lại có đấng khác nói những lời nặng hơn:

“Cha Gioan tình tình lạ lùng, khác thường, không theo cách ăn ở của Linh Mục. Cha ăn chay hãm mình, mặc áo cũ rich, lấy cái vẻ bề ngoài cho người ta kính trọng và khen ngợi, làm mồi nhử người đến xưng tội với mình. Ai đến xưng tội thì bỏ bùa nó, khiến những kẻ đó xưng tội với cha Gioan về, luôn khen cha là nhân đức, là thánh sống, và chỉ nghe theo lời cha dạy bảo, không còn nghe lời cha xứ của mình dạy bảo nữa.”

Có cha còn cấm hẳn Giáo Dân của mình đến Họ Đạo Ars xưng tội với cha Gioan. Có nhiều cha khi giảng lễ Chúa Nhật, vừa khuyên vừa cấm con chiên của mình đi xưng tội với cha xứ Ars, và nói nhiều điều xấu làm hại thanh danh cha Gioan.

Giáo Dân thấy cha xứ của mình nói xấu, bôi nhọ cha Gioan, liền nghi cha xứ mình ghen tức, nên càng không tin, không nghe lời các cha ấy; lại rủ nhau đến Ars xưng tội với cha Gioan đông hơn, họ đi từng đoàn năm mươi người, một trăm người đông hơn trước. Có nhiều Linh Mục chánh xứ thấy mình không bảo được Giáo Dân, viết thư trình Đức Giám Mục, xin Đức Cha giải quyết vụ này. Nhưng Đức Giám Mục làm ngơ, không viết thư hồi âm, cũng không thông báo gì ( Cha Lương, M. Cardo, "Cuộc đời Thánh Gioan Vianney" ).

Đức Giám Mục sở tại đã âm thầm điều tra về cha Gioan, sau này còn lên tiếng công khai bênh vực và khen ngợi lòng đạo đức của Cha Gioan Vianney. Từ đó tình thân giữa các Linh Mục quanh vùng mới dần chớm nở với lòng rộng lượng thánh thiện của cha Gioan.

Phải chăng Đức Giêsu đem đến sự chia rẽ, đố kỵ, bất an giữa ngay đoàn chiên, như Tin Mừng theo Thánh Luca Chúa Nhật hôm nay ?

Chia rẽ

"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ" ( Lc 12, 51 ).

Quả thật, vì Cha Gioan Vianney nhiệt thành sống đúng theo Lời Chúa, làm đúng vai trò mục tử nhân lành, nên mới xảy ra chia rẽ với các mục tử khác. Nếu Cha Gioan e sợ các lời dị nghị, dèm pha, quy kết của các đấng, mà lơ là, sao nhãng mục vụ, thực thi Lời Chúa, thì hẳn cha Gioan đã ưu ái lãnh nhận bình an thế gian.

Đức Giêsu đến trần gian, cũng chẳng cần hưởng sự bình an thế gian. Dù Người không đến phân rẽ tôn ti trật tự xã hội, không gây bè kéo cánh, tổ chức chống đối chính quyền hay phe phái nào, nhưng vì Người mà thế gian chia rẽ, xã hội phân rẽ, cộng đoàn phân cực, gia đình lủng củng, kình chống lẫn nhau.

Thoạt tiên, Đức Giêsu mới bắt đầu giảng dạy, thì xã hội Do Thái bấy giờ liền bắt đầu rúng động. Phái Pharisiêu, các luật sĩ, tư tế đều liên minh chống lại giáo lý tân kỳ của Người. Vì quyền lợi, chức tước, thanh danh của họ bị thách thức và có nguy cơ tổn hại, hay sứt mẻ.

Khi Người kêu gọi, thâu nạp các môn đệ, thì các ông liền hăng hái đi theo Người, xa lìa vợ con, bỏ cả nghề nghiệp mưu sinh. Vào thời Roma bách hại, tín hữu theo Chúa phải trốn tránh trong những hang toại đạo. Hơn nữa, những gia đình nào theo đạo Kitô, còn bị hàng xóm, láng giềng, bạn bè thân hữu tẩy chay, tố giác. Cũng như thời Văn Thân dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đã có biết bao Kitô hữu cũng chịu sự ruồng bắt, tàn sát dã man, khốc liệt không kém.

Hôm nay, tuy không còn cấm đạo công khai, nhưng sống giữa xã hội điên đảo, gian manh và hưởng thụ, ai quyết tâm sống chân thành theo Lời Chúa, khiêm hạ, bác ái, phục vụ tận tình, thì hầu như bị coi là khùng điên, dị nhân, quái nhân. Ngay chính gia đình, vợ hay chồng, con cái, cộng đoàn, cũng khó chấp nhận, huống chi bên ngoài xã hội.

Bình thường, Đức Giêsu luôn ôn hòa, hiền lành, nhưng với sứ mạng Nước Trời, Người cứng rắn tuyên bố những điều kiện đi theo Chúa. Người không dùng những lời hoa mỹ mỵ dân, xuê xoa, gian trá, hòng mê hoặc lôi kéo tín hữu. Người không ba hoa, xảo ngôn, dùng lời có cánh để lấy lòng người nghe. Người nói thẳng nói thật, cùng muốn người nghe phải, dứt khoát chấp nhận hay không, phải quyết tâm theo Người hay không. Trung ngôn nghịch nhĩ, lời nói trung thực thì khó nghe, hay thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Lời Người bộc trực đánh động lương tâm suy xét, ăn năn hối cải, hầu được ơn cứu độ.

Người minh bạch vạch ra đường phân rẽ giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa ma quỷ và thần thánh, giữa Thiên Chúa và thế gian. Người không chấp nhận sự nhập nhằng, thỏa hiệp, hay đi nước đôi. “Nóng thì nóng hẳn, lạnh thì lạnh hẳn, chứ hâm hâm Ta mửa ra ngoài” ( Kh 3, 15 ).

Người phân biệt chiên với dê, hay chiên thật với sói đội lốt chiên. Những ai sống theo Lời Chúa thì xa lìa những quyến rũ thế gian, những cám dỗ thân xác, những tham lam thế tục. Người kêu gọi hiếu đễ với cha mẹ, yêu thương bạn đời, con cái và mọi người, nhưng luôn ưu tiên thờ phượng và yêu mến Thiên Chúa, thực hành Lời Chúa và đón nhận Thánh Ý Chúa.

Nhưng trong gia đình không phải luôn luôn có sự đồng thuận như thế, trong cộng đoàn hay xã hội cũng vậy. Những ai can đảm lội ngược dòng đời, mới theo Chúa được, mới làm chứng nhân thực sự. Vì thế Người mới mời gọi: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” ( Lc 14, 26 – 27 ). 

Nguyên nhân gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, Giáo Xứ hay xã hội, chính là có sẵn sàng đón nhận Người hay khước từ Người. Có thành khần đem thực hành và áp dụng chính xác Lời Người hay không.

Hiệp nhất

"Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy bùng cháy lên" ( Lc 12, 49 ).

“Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" ( Ga 17, 20 – 21 ).

Sau khi chia rẽ tỏ tường chánh tà, thật ảo, phù phiếm và trường cửu, Đức Giêsu đem lửa tình yêu đến thế gian đang giá lạnh, đem lửa tinh luyện những tâm hồn sám hối, đem lửa thánh hóa những kẻ hướng thiện. Người mong ước con người hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân, đề hưởng được bình an.

Không phải thứ bình an thế gian, đặt trên nền tảng vị kỷ, kêu căng, tham lam, giả dối và bất công. Nhưng bình an của Chúa đem đến dựa trên sự thật, công lý và nhân ái, thuận thiên nhân hòa, hòa hợp nhuần nhuyễn với cả Thiên Chúa lẫn con người.

Nhờ cuộc tử nạn, Máu hy tế của Chúa Giêsu đổ ra trên Thánh Giá, đã thanh tẩy con người khỏi tội lỗi, để được giao hòa cùng Thiên Chúa và tha nhân. Đó chính là sự hiệp nhất, sự bình an đích thực mà Đức Giêsu ban tặng.

Lửa của Người đem đến qua Đức Chúa Thành Thần củng cố niềm Tin, Cậy, Mến nơi các Thánh Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần, cũng vẫn còn tiếp tục qua Bí Tích Thêm Sức nhiệm mầu cho Kitô hữu hôm nay.

"Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn đều là dại trước mặt người đời, nhưng cao trọng trước mặt Chúa. Thế gian cho là xui, Chúa cho là Phúc Thật" ( Đường Hy Vọng, số 110 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng chúng con ngọn lửa nhiệt thành để sống đạo và truyển đạo đến mọi người.

Lạy Mẹ Maria, xin biến đổi chúng con trở nên nhiệt thành với Nước Chúa, nồng nhiệt cháy lửa yêu thương, nóng bỏng lửa phục vụ, để chúng con thêm sức mạnh tự cải hóa và cám hóa tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

----------------------------------------

 

TN 20-C100: Lửa


Thầy đem lửa xuống trần gian.

 

Sách có chữ: Đạo bất viễn nhân. Đạo không bao giờ xa người, vì thế ngày nào có người thì ngày ấy TN 20-C100 Lượng


Sách có chữ: Đạo bất viễn nhân. Đạo không bao giờ xa người, vì thế ngày nào có người thì ngày ấy phải có đạo, bằng không thì người chẳng còn là người nữa. Tuy nhiên theo thời gian, đạo chia làm hai giai đoạn, đó là đạo cũ và đạo mới. Đạo cũ cũng gọi là đạo lề luật có từ khởi thuỷ cho đến Chúa Giêsu sinh ra. Còn đạo mới được gọi là đạo tình thương xuất hiện kể từ Chúa Giêsu cho đến ngày tận thế. Đạo cũ dựa trên lề luật cho nên nó nặng nề. Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng: Mắt đền mắt, răng thế răng. Đồng thời nó cũng thẳng thắn và phân minh: Tội phạm ở đâu thì hình phạt ở đó. Đời ông Noe vì phạm tội cho nên loài người đã bị trừng phạt bằng trận đại hồng thuỷ. Đời ông Abraham vì tội lỗi mà hai thành Sođoma và Gômôra đã bị thiêu huỷ. Đời ông Maisen, vì tội thờ bò vàng ma dân Do Thái đã nhiều phen bị khốn đốn.

Thế nhưng, khi Chúa Giêsu giáng trần, Ngài ban hành đạo mới tức là đạo tình thương. Đạo tình thương không giẫm chân lên đạo lề luật, nhưng bổ túc và tăng cường làm cho đạo lề luật trở nên hoàn hảo hơn. Đạo lề luật đặt nền móng trên hình phạt trong khi đạo tình thương xây dựng trên sự tha thứ: Hãy yêu thương kẻ thù, hãy tha thứ cho nhau mãi mãi. Chính vì thế Chúa Giêsu có lý khi quả quyết: Gánh Ta thì nhẹ nhàng và ách Ta thì êm ái.

Sáng lập ra đạo tình thương mà thôi chưa đủ, Chúa Giêsu còn biểu lộ tình thương ấy cho mọi người nhận biết. Để đạt mục đích ấy, Chúa Giêsu đã dùng việc làm và lời nói như sách Tông đồ Công vụ đã bảo: Chúa Giêsu làm trước và nói sau. Vậy thì Ngài đã làm gì? Tôi xin thưa: Ngài đã xuống thế để ở cùng chúng ta để yêu thương chúng ta và để chết vì chúng ta như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Suốt cuộc đời đã không ngừng yêu thương từ người lành như các môn đệ đến những kẻ tội lỗi như bọn thu thuế và đĩ điếm, từ người đau yếu đến kẻ đã chết, từ người quê mùa đến kẻ thông biết, Ngài đã thực hiện đúng như thánh Phaolô đã diễn tả: Ta đã trở nên tôi tớ mọi người để sinh ích cho mọi người. Đức Kitô nhận Ngài là Thiên Chúa, đã hạ mình xuống trở thành con người để nhờ đó con người trở thành Thiên Chúa.

Ngoài việc làm, Chúa còn dùng lời nói, vậy Chúa đã nói những gì? Ngài bảo kẻ không yêu thì ở trong sự chết. Ngài còn nói gì nữa? Ngài bảo kẻ nào yêu Ta thì Cha Ta sẽ yêu lại nó và chúng ta sẽ đến cư ngụ tại nhà nó. Rồi Ngài lại còn nói gì nữa? Ngài bảo những kẻ đã được Cha Ta trao phó cho Ta thì Ta không để một ai bị hư mất. Ngài chính là người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về. Vậy chúng ta phải làm gì? Thánh Augustinô trả lời: Tình yêu kêu gọi tình yêu. Chúa đã yêu thương chúng ta cho nên chúng ta cũng phải lấy tình thương mà đáp trả. Yêu Chúa là đi một đường với Chúa: Kẻ không đi với Ta là kẻ phản bội Ta. Mà con đường của Chúa gồm trong hai điểm: mến Chúa và yêu người: Hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và mong cho lửa ấy bừng cháy. Vậy trước hết xin cho lửa ấy bừng cháy trong con tim trong cõi lòng của chúng ta, để nhờ đó sẽ bừng cháy trong xã hội chúng ta đang sống.

---------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây