Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 19-C Bài 51-100 Anh em hãy tỉnh thức và sẵn sàng --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 12, 32-48: "Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó. "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, giúp chúng ta dễ dàng nhận ra lời dạy củaChúa đó là:”Hãy: TN 19-C51
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, giúp chúng ta dễ dàng nhận ra lời dạy củaChúa đó là:”Hãy Tỉnh Thức”.
1/Tại sao phải tỉnh thức:
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.
Khi con người bị say đắmvào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú … Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân – Thiện – Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người.
Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không “đụng hàng” dành cho những đại gia “đỏ”, một địa vị tại trần thế …, đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa ? Đối với những người sống đức tin thì không ! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:
2/ Tỉnh Thức để đón Chúa:
Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến.
Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu
Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó,
chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha.
Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt
đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta.
Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn
Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày ? Khó lắm !
Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian,
quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.
Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả …, thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.
Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.
Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:
“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa “. Amen.
(suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 19 thường niên. Luca 12, 32-48)
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị: TN 19-C52
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay mai.
Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường mới quét.
Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi.
Vào mỗi bữa ăn, chị lại đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh.
Chị làm tất cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.
Trong khi đó, người láng giềng của Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang chạ với nhiều người đàn ông khác.
Đôi khi lương tâm Phượng cũng lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về… vội gì… cứ hưởng đời đi, hưởng tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích… bao giờ chồng gần về sẽ tính.
***
Chị Hồng giống như “người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.” (câu 36). Đó là trường hợp được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc.
Trong khi đó, chị Phượng được ví như người đầy tớ xấu, cứ nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa…”
Và số phận của người đó sẽ là: “chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín”. (câu 46)
***
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình!
Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang họa lại nếp sống của Hồng hay của Phượng? Trong tương quan với Chúa, chúng ta mang tâm trạng, thái độ của ai trong hai phụ nữ trên đây?
Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ thích chọn nếp sống của Phượng. Họ nghĩ rằng còn lâu mình mới chết; còn lâu Chúa mới tới gõ cửa nhà mình. Thế thì hãy lợi dụng quảng thời gian ‘vắng Chúa’ để chơi bời cho thoả thích. Chờ khi tuổi đã về chiều, sức tàn lực kiệt… rồi mới tu tỉnh lại đón Chúa sau. Chứ hôm nay thì… cứ sống như không có Chúa!
Nếu thế thì hãy tự hỏi lòng mình: Phượng có xứng đáng với tình yêu của chồng không? Có xứng đáng chung sống với chồng trong ngày đoàn tụ không?
Và tôi, người học theo sách của Phượng, tôi có xứng đáng ‘vác mặt’ ra chào đón Chúa trong ngày Ngài đến gõ cửa nhà mình không? Tôi có xứng đáng được Ngài đón rước vào Ngôi Nhà hoan lạc mà Ngài đã dành sẵn cho tôi trên quê trời không?
Hôm nay, Chúa Giê-su lại kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, nhưng tỉnh thức không chỉ có nghĩa là coi chừng giờ chết đến, không chỉ có nghĩa là dọn mình cho sẵn sàng để khi chết khỏi sa hoả ngục, hay đợi chờ ngày Chúa quang lâm mà ai cũng nghĩ là còn xa tít mù khơi… nhưng đúng hơn, đó là sẵn sàng mở cửa lòng ngay hôm nay để đón Chúa, đón mọi anh chị em là hiện thân của Chúa đang đến với mình hằng ngày, trong tư thế sẵn sàng và tâm trạng đầy ắp yêu thương như Hồng.
Tỉnh thức như thế là một biểu hiện của tấm lòng dạt dào yêu thương. Có tỉnh thức như thế mai sau mới đáng được đón nhận vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.
Tỉnh thức rất cần cho cuộc sống về cả hai phương diện tri thức và tâm thức. Tỉnh thức khác với: TN 19-C53
Tỉnh thức rất cần cho cuộc sống về cả hai phương diện tri thức và tâm thức.
Tỉnh thức khác với canh thức. Trong lúc canh thức có trường hợp ngủ gà, ngủ vịt, mơ màng. Tỉnh thức đòi hỏi một mức độ cao hơn lúc nào cũng phải tỉnh táo đề phòng trong tư thế sẵn sàng.
Ngoài ra tỉnh thức đòi hỏi tinh thần sáng suốt giúp mau chóng nhận định sự việc và giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp hầu tránh được những đáng tiếc xảy ra. Tỉnh thức như thế có nghĩa là sẵn sàng đối phó mau lẹ đáp ứng với tình thế mới khi biến cố ập đến. Tỉnh thức giúp tránh hầu hết sai lầm trong việc nhận định sự việc. Nếu có sai lầm cũng không trầm trọng và sai lầm có thể kịp thời sửa chữa, bổ sung vì tỉnh thức giúp sớm nhận ra sai lầm.
Biến cố trong cuộc sống liên kết với nhau như sợi giây xích, như chiếc đồng hồ hoạt động. Một bộ phận dù nhỏ cũng đủ gây cho đồng hồ chạy sai hay ngưng chạy và người ta sớm nhận ra để sửa chữa kịp thời. Tương tự như trên người tỉnh thức có khả năng sớm nhận điều sai lầm, kịp thời sửa sai mà không cần mất thời gian hoặc có người mách bảo.
Tỉnh thức về phương diện tâm linh đòi hỏi cố gắng cao hơn. Tỉnh thức để nhận biết mình đang phục vụ Chúa qua anh em, nhận biết mình đang trung thành với Chúa và nhận biết Chúa qua mọi biến cố của cuộc sống. Tỉnh thức về tâm linh giúp nhận ra sai lầm, nhận ra tội ngay trước khi phạm tội để tránh. Tránh được hay không lại là vấn đề khác nhưng người tỉnh thức có khả năng nhận biết đúng sai, phải trái, tội phúc trước khi người đó bắt tay vào việc. Tiếng nói lương tâm ngăn cản đóng một phần trong việc giúp người tỉnh thức nhận biết việc nên làm và điều nên tránh.
SẴN SÀNG
Tỉnh thức và sẵn sàng đi chung với nhau, có thể nói người sẵn sàng là người tỉnh thức và ngược lại. Tỉnh thức và sẵn sàng có chung mục đích.
Tỉnh thức trong Phúc Âm một là sẵn sàng ra đón khi chủ về, khi chủ mời gọi như bài đọc hôm nay xác định. Không để cho chủ đợi ta nhưng chính ta sẵn sàng đợi chủ về.
Tỉnh thức còn một mục đích nữa là tránh được cơn cám dỗ. Điều này có thể thực hiện được khi tỉnh thức và cầu nguyện đi chung với nhau. Trên vườn Cây Dầu Chúa kêu gọi các tông đồ. Hãy tỉnh thức cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ vì hồn thì sẵn sàng nhưng xác thì yếu đuối.
Thiếu tỉnh thức con người có thể bị mê hoặc bởi các thú vui trần thế mà quên đi nhiệm vụ hoặc ngay cả giữ đạo một cách cứng nhắc đưa đến việc bất đồng với anh chị em khác, phê bình người khác kẻ cấp tiến, người lạc đạo. Chống lại cả việc Chúa Thánh Thần âm thầm làm việc đổi mới tâm hồn. Ma quỷ thường dùng bùa mê ru ngủ con người và dẫn đưa họ vào con đường phạm tội. Một khi đã mê ngủ thì không còn tỉnh táo để nhận định, quyết định, ngay cả việc sai trái kẻ mê ngủ cũng không nhận ra. Chính vì thế mà lọt tròng kẻ lập mưu tính kế. Họ dụ dỗ bằng lời nói ngon, nói ngọt đưa người đó đến chỗ thích thú và nhập cuộc rồi bị sai khiến, hướng dẫn làm điều sai trái.
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã: TN 19-C54
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.
Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói:
- Xin bà thương cho cháu một đôi giày vì chân cháu lạnh cóng.
Bà ấy hứa cho cô bé một đôi vào chiều ngày lễ Chúa giáng sinh. Thế rồi bà ấy quên khuấy đi mất. Đúng hẹn, cô bé tìm hỏi và bà ấy chỉ biết mỉm cười xin lỗi rồi bước vào trong nhà thờ. Ngồi tham dự thánh lễ mà bà cảm thấy chẳng được an tâm chút nào. Thế là bà ấy đứng lên ra ngoài để gặp cô bé và rồi bà ấy đã nói với cô bé:
- Này nhé! chúng ta hãy trao đổi giày cho nhau. Em sẽ đi giày của tôi, còn tôi thì sẽ đi giày của em. Cô bé ngập ngừng trong giây lát rồi mới chấp nhận. Trên đường về nhà, đôi giày của cô bé làm cho đôi bàn chân của bà ấy vừa lạnh cóng vừa trầy xát vì đôi giày quá nhỏ. Thế nhưng, vừa về tới nhà thì một người đàn ông đang chờ bà. Ông này là thân nhân của một người bệnh mà bà từng chăm sóc; ông ta nói mấy lời cám ơn và trao cho bà một quà tặng và bảo:
- Đây là món quà tượng trưng nhân dịp lễ Giáng sinh để tỏ lòng biết ơn chị, đã vất vả chăm sóc cho mẹ tôi.
Món quà ấy là một đôi giày mới, rất hợp với đôi bàn chân của bà ấy. Xỏ thử đôi giàu mới này, bà ấy nhớ tới lời Chúa:
- Hãy cho thì sẽ được cho lại.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay và chúng ta nhận thấy lý luận của Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại với lý luận của loài người, như lời Kinh Thánh đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng vào đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường ích kỷ, càng chiếm hữu, càng thâu lượm được bao nhiêu, hay bấy nhiêu. Nền kinh tế loài người được đặt trên căn bản của sự tích luỹ. Càng tích luỹ càng trở nên giàu có. Trong khi đó, nền kinh tế của Thiên Chúa lại đặt cơ sở trên sự cho đi, với một nguyên tắc hoàn toàn khác hẳn: Càng cho đi thì càng trở nên giàu có, càng chia sẻ thì càng dư dật, bởi vì điều chúng ta cho đi, điều chúng ta chia sẻ chính là cái chúng ta giữ được cho mình ở nơi Thiên Chúa.
Nói chung, chúng ta thường có khuynh hướng sống theo cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo đáp ứng những nhu cầu của riêng mình. Chẳng hạn, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn này ơn nọ cho bản thân. Thế nhưng cách nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác hẳn: Hãy chia sẻ, hãy bố thí tất cả những gì chúng ta có cho người khác.
Dĩ nhiên để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta phải có một tình yêu thương dạt dào. Tình yêu thương dạt dào ấy chúng ta phải tập luyện hằng ngày. Và đó chính là bổn phận, là ơn gọicủa mỗi người Kitô hữu chúng ta. Bởi vì chúng ta được mời gọi để sống mối dây liên hệ yêu thương với Thiên Chúa và với những người chung quanh.
Qua suốt cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã theo hình thức thăm hỏi của người Do Thái mà: TN 19-C55
Qua suốt cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã theo hình thức thăm hỏi của người Do Thái mà thói quen thời đó vẫn dùng: “Bình an cho các con”, đó là một cách để nói: “Chào anh, anh có khỏe không?”. Sau cái chết và sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã chuyển đạt lời chào này thành một đặc ân an toàn giữa những bấp bênh của đời sống này. Khi Chúa Giêsu chào đón các môn đệ của Ngài sau cái chết và sự Phục Sinh, Ngài nói: “Bình an cho các con”, những lời của Ngài đã trở thành sự bảo đảm cho mọi sự nên tốt. Chúa Giêsu đã hiến tặng sự bình an bởi vì Ngài đã chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta đó là tội lỗi và sự chết.
Chúa Giêsu đã hiến tặng cho chúng ta cùng một sự bảo đảm như cho các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm ngày hôm nay: “Hỡi đàn chiên nhỏ, đừng sống trong sợ hãi”. Sợ hãi là một phần của đời sống. Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong bài diễn văn của mình vào ngày 4-3-1933 đã nói với dân chúng Mỹ rằng: “… điều duy nhất chúng ta phải sợ hãi chính là cơn sợ. Nước Mỹ thời gian đó đang chìm trong khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà chúng ta chưa hề thấy trước đó bao giờ, những doanh nhân giàu có đã đi bán những đồng xu bên đường phố, những người đàn bà đã phải đi tìm chỗ ở bởi vì không có chỗ để sống. Một hệ thống kinh tế điên rồ trong quá khứ đã đem lại một hiện tại khủng khiếp và hứa hẹn một tương lai bấp bênh. Mặc dù có sự bảo đảm của tổng thống, nhiều người Mỹ vẫn sợ hãi.
Còn đối với chúng ta thì sao? Đức tin của chúng ta vào lời của Chúa Giêsu có làm cho những cơn sợ hãi của chúng ta nên bình an, không phải về kinh tế nhưng là nguồn mạch lớn lao về sự sống và sự chết không? Thư Do Thái trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hôm nay đã nói với chúng ta rằng;”Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng là bằng chứng cho những gì chúng ta không thấy”. Đức tin của chúng ta trong tương lai đặt nền tảng trên những điều gì? Và nguồn mạch bằng chứng của chúng ta là gì? Đó là quá khứ.
Vào năm 1933, quá khứ đã phát sinh sợ hãi trong lòng người dân Mỹ. Đối với chúng ta quá khứ sẽ làm mạnh cho đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Hãy suy nghĩ về những tổ phụ lớn lao của đức tin như: Abraham và Sara, Isaac và Giacop và tất cả những người sốt sắng trong Cựu Ước. Họ đã đi tìm quê hương của mình. Họ đã tìm thấy nó không phải trên mặt đất này nhưng là trên thiên đàng. Cuối cùng họ khám phá ra rằng không có gì phải sợ hãi. Số phận của họ sẽ làm cho tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng.
Khi chúng ta nhìn về kỷ nguyên mà Chúa Giêsu đang còn trên mặt đất này, chúng ta sẽ thấy gì? Bằng cái chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại của Ngài, Ngài đã phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy bởi thánh giá và sự Phục Sinh Ngài đã giải thoát chúng ta, Ngài là Đấng cứu độ thế giới.
Sau”kinh Lạy Cha”, chúng ta cầu xin ơn bình an: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban bình an cho ngày sống của chúng con”. Và trước khi hiệp lễ, vì linh mục cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, xin đừng nhìn tội lỗi chúng con nhưng hãy nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an và hiệp nhất của Nước Chúa”. Khi chúng ta đã chúc bình an cho nhau, chúng ta thông dự vào việc hiến tặng bình an mà Đức Kitô đã ban cho các môn đệ của Ngài.
Đức tin của chúng ta được đặt nền tảng trên thực tại của tất cả những gì Thiên Chúa đã làm, đầu tiên là những biến cố trong Cựu Ước và đặc biệt là trong sự chết và sự Phục Sinh của Con Người. Điều độc nhất mà chúng ta phải sợ hãi, không phải là chính cái sợ nhưng là sự thiếu đức tin.
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho: TN 19-C56
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền.
Nhà vua gọi anh hề lại và nói:
- “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó”. Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:
- “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”. - “Nhà vua đi tận đâu lận?”, anh hề hỏi. - “Ta chẳng biết nữa”. - “Nhà vua đi có lâu không?”. - “Đi hoài và không trở về đây nữa”. - “Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?” - “Chưa hề”.
Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:
- “Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi”.
Anh chị em thân mến.
“Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.
Chết là đi về sự sống vĩnh cửu, là về với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Thế mà sao chúng ta vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói rắng chúng ta sợ có thể không gặp được Chúa? Chúa luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta. Phải chăng lo âu sợ hãi là dấu hiệu nói rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng khi Chúa đến, là tâm hồn chúng ta còn ngổn ngang, còn tội lỗi và những đam mê, quyến luyến…
Triết gia Platon nói rất đúng: “Ai không bao giờ nghĩ đến sự chết thì không thể biết cách sống”. Điều nầy càng đúng với đời sống của người Kitô hữu. Làm sao một Kitô hữu có thể sống trong thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nếu những chân lý về đời sống vĩnh cửu, về ngày Chúa trở lại… chỉ là những điều xa xôi, mờ ảo, phi thực trước những cơn sốt của cuộc sống thực tiễn mỗi ngày. Đức tin chỉ cho người tín hữu thấy mình phải đi tới đâu và không cho phép người tín hữu hy sinh vận mạng vĩnh cửu vì những lợi ích ngắn hạn. Người Kitô hữu phải thấy được tất cả chiều dài con đường mình phải đi.
Vì vậy, người Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, “kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp”.
Trông chờ Chúa đến là điều kiện để sống một cuộc đời Kitô hữu đích thực. “Lạy Chúa, xin Chúa mau đến!” đó là lời cầu nguyện khẩn thiết và niềm tin mạnh mẽ của các tín hữu buổi đầu. Chính vì thế mà Giáo Hội sơ khai đã là một Giáo Hội sốt mến, luôn cầu nguyện và bẻ bánh, sống trong tình huynh đệ, để của chung, chia sẻ của cải với anh em nghèo túng.
Còn chúng ta ngày nay thì sao? Thưa anh chị em,
Ưu tư hàng đầu của đông đảo tín hữu hôm nay là gì? Có còn là lòng khao khát Chúa đến nữa không? Chính tâm tình khao khát đợi chờ nầy sẽ chi phối tất cả cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi, thắt lưng, cầm đèn sáng trong tay. Đó là thái độ của người khao khát đợi chờ Chúa đến. Những lời khuyến cáo nầy chẳng những ám chỉ những việc cụ thể người Kitô hữu phải làm để chuẩn bị đón Chúa, mà còn chỉ cho thấy ý nghĩa bao quát, đích thực của đời Kitô hữu. Tất cả đời Kitô hữu là một cuộc chuẩn bị và một sự chờ đợi kiên trì. Nó hướng tới sự hoàn tất cánh chung, tới sự thực hiện chung cuộc các Lời Hứa. Vì thế, tất cả đời Kitô hữu cũng như toàn thể lịch sử loài người là một Mùa Vọng kéo dài, một Mùa Vọng trường kỳ, trong đó tâm tình tiêu biểunhât1 là lòng khao khát Thiên Chúa và niềm hy vọng vui tươi sẽ gặp được Ngài.
Tuy nhiên, niềm hy vọng cánh chung – đợi chờ ngày Chúa đến – không làm giảm giá trị cuộc đời trần thế hiện tại. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn có một cuộc dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, giữa niềm hy vọng cánh chung và việc dấn thân vào đời. Có căng thẳng, dằn co, chứ không có mâu thuẫn. Căng thẳng vì mỗi chiều kích có những đòi hỏi riêng của nó, và người Kitô hữu phải đáp ứng cả hai. Không được chọn bên nầy mà bỏ bên kia: không được dấn thân vào đời mà quên đích điểm là ngày Chúa đến; cũng không vì đợi chờ ngày Chúa đến mà xao lãng bổn phận dấn thân vào đời để xây dựng trần thế nầy. Có dằn có, căng thẳng giữa hai chiều kích, nhưng không mâu thuẫn, vì cả hai đều nhằm thực hiện ơn gọi cuối cùng và toàn diện của con người.
Anh chị em thân mến,
Hy vọng cánh chung chẳng những không miễn trừ các trách nhiệm trần thế mà còn là một động lực thúc đẩy chúng ta chu toàn các trách nhiệm đó một cách tận tụy và chu đáo như người quản gia khôn ngoan và trung tín, biết quản lý và phân phát của cải cho các gia nhân, tôi tớ. “Ai được giao cho nhiều thì phải phân phát nhiều”. “Phúc cho người quản gia nào khi chủ trở về mà gặp thấy đang làm như vậy”. Chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng là một cách tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Vì mọi công trình tốt đẹp thực hiện trong cuộc đời hiện tại sẽ được giữ lại làm chất liệu kiến tạo Nước Trời mai sau.
Mỗi lần cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu – Ngài đã chết và đã sống lại – đồng thời trông đợi Ngài lại đến. Xin cho niềm khát khao Chúa đến sẽ làm chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, nhờ đó ta sẽ đón nhận Chúa cách trọn vẹn trong mọi thời điểm bất ngờ nhất của cuộc đời.
Trong một bài viết cho tạp chí The Tablet (tháng 4-2000) Mục sư Ignotos nói rằng có hai cách: TN 19-C57
Trong một bài viết cho tạp chí The Tablet (tháng 4-2000) Mục sư Ignotos nói rằng có hai cách tiếp cận đời sống: cách tiếp cận của một người đặt kế hoạch và của một người hành hương. Người đặt kế hoạch thích làm chủ toàn bộ đời sống mình và có thể đặt kế hoạch cho mỗi giai đoạn tuỳ theo những mục tiêu đã định trước. Người đặt kế hoạch theo sự gợi ý của xã hội về những điều mà xã hội cho là thành công, và dành phần lớn thời gian để sống phù hợp với phong cách sống và các giá trị của những người khác. Họ thất vọng đắng cay nếu thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu ấy.
Trái lại, người hành hương là người chấp nhận đời sống như một gói quà mà người ấy mở ra khi sống đời sống đó, vì dù có cố gắng đến đâu, chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn làm chủ sự viẹc xảy ra. Người ấy không để cho thất bại và chán nản làm nhụt chí, nhưng xem chúng như cơ hội cho sự trưởng thành tâm linh. Không giống như người đặt kế hoạch, người hành hương không bao giờ cảm tháy hoàn toàn thoải mái, dễ chịu vớinhưng4 giá trị của xã hội.
Người đặt kế hoạch từ chối sống với đức tin. Trái lại, người hành hương sống bằng đức tin. Dù biết rằng đời sống đầy nguy hiểm, người hành hương vẫn khẳng định nó. Dù ý thức sự bấp bênh hoàn toàn của thân phận con người, người ấy vẫn hoan hỉ. Đó là cốt lõi của đức tin. Người ấy đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, và do đó mở rộng tâm hồn mình cho Ơn Chúa chở che. Người ấy cử hành giây phút hiện tại và do đó có thể sống cuộc đời đến mức cao nhất.
Ápraham là một gương mẫu cao cả của đức tin trong Cựu Ước (Bài đọc 2). Ông là một người hành hương tinh tuyền. Theo lời của Thiên Chúa ông tự làm mình mất gốc, rời bỏ gia đình và dân tộc của ông, và bắt đầu lên đường đến một vùng đất mà Thiên Chúa đã hứa sẽ chỉ cho ông; ở đó ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc to lớn. Đó là một cuộc hành trình đi vào một xứ sở chưa biết. La bàn duy nhất mà ông có chính là đức tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta là những con cháu tinh thần của Ápraham. Chúng ta chứng tỏ mình là những con cháu chân chính của Ápraham bằng việc bắt chước đức tin của ông. Đời sống thì đầy dẫy những điều bấp bênh. Giống như Ápraham, chúng ta hành trình vài nơi không biết. Nói cho cùng chúng ta không biết điều gì nằm sau khúc quanh kế tiếp trên đường đời. Tuy nhiên, bất chấp nhưng đế chế và thất bại, chúng ta vẫn tiếp tục hành trình như là những người hành hương nhớ nhung quê nhà nơi mà những hy vọng của chúng ta được thực hiện và đời sống thật của chúng ta sẽ bắt đầu.
Với trọn vẹn đức tin, Ápraham đã chết mà không nhìn thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Là những Kitô hữu chúng ta dành cả cuộc đời của mình để hành trình về vùng đất hứa trên trời. Nhưng khi chúng ta chết vẫn chưa đạt được. Cũng giống như Ápraham, chúng ta lữ hành trong đức tin và chết trong hy vọng.
Đặc biệt trong lúc chết, chúng ta được mời gọi noi gương đức tin của Ápraham. Lúc chết chúng ta phải để mọi sự lại đằng sau, và bắt đầu ra đi đến một vùng đất xa lạ. Nhưng nếu chúng ta đã sống bởi đức tin thì bước cuối cùng trong cuộc hành trình ấy sẽ không khó khăn hơn bất cứ những bước nào trước đó.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng ta còn non yếu.
Đồng thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêxa: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công nhưng chỉ để sống trung thành.”
Tiếp tục trò chuyện riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu bàn về một đề tài mới, sự tỉnh thức va: TN 19-C58
Tiếp tục trò chuyện riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu bàn về một đề tài mới, sự tỉnh thức và lòng trung thành. Trên đường hướng về Giêrusalem nơi mà Ngài sắp thực hiện cuộc xuất hành của mình, Ngài phải chuẩn bị cho các người thân thuộc sống trong tình trạng mà sau ngày Phục Sinh họ phải sống: trông đợi Chúa của họ Đấng sẽ vắng mặt. Trình thuật về cuộc thăng thiên (Cv 1,9-11) ý nghĩa đặc biệt rằng thời kỳ của Giáo Hội là giai đoạn vắng bóng Chúa Kitô, Đấng mà người ta kêu cầu:”Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!”. Trong thời kỳ này, mọi tín hữu phải sẵn sàng (cc.35-40); nhưng các môn đệ, được gọi để thi hành nhiệm vụ đặc biệt của những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn được mời gọi cách đặc biệt phải sống trung thành (cc.41-48). Để được vậy, Chúa Giêsu sắp kể những dụ ngôn để tức thời trao ban cho một thái độ mà họ phải bắt chước.
1. Những đầy tớ tỉnh thức.
Người chủ nhà tỉnh thức (12,35-40)
Chúa Giêsu bắt đầu mời gọi các môn đệ trong tư thế đang làm việc; sau ngày thăng thiên, chính trong lúc không ngừng lo lắng thi hành nhiệm vụ mà họ phải đợi chờ giây phút mở cửa cho Chúa của họ (c.35). Họ được so sánh (cc. 36-38) với các đầy tớ mà ông chủ đi ăn cưới có thể trở về bất cứ lúc nào trong đêm; như thế việc áp dụng dụ ngôn thứ nhất lại được nói trước dụ ngôn (đây không phải là điều thường xảy ra). Hai lần Chúa Giêsu tuyên bố phúc cho những đầy tớ mà chủ thấy tỉnh thức: họ sẽ được ngồi ăn với ông. Việc ám chỉ bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa đã dự kiến cho dân Ngài (x.Is 25,6-8) sẽ được sáng tỏ với 13, 29 và, rõ hơn nữa, với 22,30 nơi đó Chúa Kitô loan báo rằng những kẻ thuộc về Ngài sẽ ăn uống với Ngài trong Vương Quốc của Ngài. Hơn nữa, phần thưởng được diễn tả trong việc đảo ngược các vai trò: chính ông chủ sẽ phục vụ để tiếp đãi họ. Ở đây nữa, một lời của Chúa Giêsu mang đến ánh sáng cần thiết: Ngài ở giữa họ như một người phục vụ (22,27).
Để minh hoạ cũng đề tài tỉnh thức này, dụ ngôn thứ hai nhắc lại rằng một ông chủ nhà không bao giờ biết được khi nào kẻ trộm đến. Không thể tỉnh dậy đúng lúc! Bài học được rút ra từ đó –phải không ngừng canh gác- lần này rõ ràng được áp dụng cho những thành viên của Giáo Hội trong việc họ chờ đợi ngày Quang lâm, ngày Con Người đến lần cuối cùng. Nếu ở đây Chúa Giêsu tự xưng mình bằng tước hiệu này chứ không dùng tước hiệu Chúa chẳng hạn, chính là để nhấn mạnh đến vai trò thẩm phán hoàn vũ của Ngài (x.21-36) và nhấn mạnh đến tính chất hoàn toàn bất ngờ của việc Ngài đến (x.17,23-26).
2. Người quản gia trung thành (12,41-48)
Một câu hỏi của Phêrô làm cho việc áp dụng dụ ngôn được tinh tế hơn: dụ ngôn này được nói cho ai? Cho mọi người –kể cả đám đông dân chúng- hảy chỉ nói cho các môn đệ (c.41)? Bằng một cách thức có ý nghĩa, Luca ghi chú rằng chính Chúa, người chủ của Giáo Hội, sẽ trả lời bằng dụ ngôn thứ ba. Tình trạng mà dụ ngôn nêu ra rõ rằng là ở vào sau ngày Phục Sinh: các động từ ở thì tương lai, đặc biệt động từ kể lại việc đặt định của người quản qua. Những câu 42-44 nhắc lại một phần các câu 36-38: Chúa Giêsu đưa vào hoạt cảnh một người đầy tớ mà khi trở về ông chủ gặp thấy đang làm việc và Ngài tuyên bố phúc cho anh ta. Nhưng có điều mới ở đây: đó là một đầy tớ-quản gia có nhiệm vụ cung cấp lương thực cho kẻ ăn người ở. Thi hành đúng mức nhiệm vụ này đó là trung thành đáng tin cậy và khôn ngoan – biết rằng đời sống vĩnh cửu có liên quan tới công việc hằng ngày. Để thưởng công, người đầy tớ này được giao phó một nhiệm vụ đáng kể hơn, coi sóc tất cả tài sản của chủ mình.
Khi phác hoạ một trường hợp ngược lại, các câu 45-46 nêu lên một chi tiết khá rõ. Nghĩ bụng rằng chủ về muộn, người đầy tớ quản gia lợi dụng cơ hội để hống hách. Đó là một ám chỉ khá rõ về thời hạn, trong Giáo Hội, kéo dài từ ngày Chúa thăng thiên đến khi Chúa quang lâm, khi Chúa đến vào thời cuối cùng (x.Cv 1,6-8; 2Pr 3,8tt). Không những không thi hành nhiệm vụ –anh ta chè chén say sưa- anh ta lại còn hành hạ tôi trai tớ gái những kẻ mà anh ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng. Sau khi nhắc lại việc trở về bất ngờ, là đến hình phạt: ông chủ cách chức anh ta và bắt phải chung số phận với những kẻ bất trung, trường hợp của một sự chểnh mảng cố ý; một sự bất tuân phục như thế sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Còn kẻ nào chểnh mảng, vô tình, vô ý, vì thiếu khả năng, sẽ bị phạt ít hơn (c.48a).
Như thế câu hỏi của Phêrô đã khiến Chúa Giêsu bàn đến một điểm riêng biệt. Sau lời cảnh cáo các câu 36-40 nói cho tất cả mọi tín hữu, ở đây Ngài đòi hỏi một thái độ trung thành nơi một số môn đệ, những người có trách nhiệm mục vụ đối với những anh em khác trong cộng đoàn. Tuy nhiên ta đừng quên rằng ở đây Chúa Kitô nói bằng dụ ngôn: tất cả mọi chi tiết đều được coi là phóng dụ, chẳng hạn việc đánh đòn (cc.47-48a). tuy nhiên giáo huấn không vì thế mà kém phần trong sáng: Chúa Kitô trông đợi rất nhiều ở các vị lãnh đạo cộng đoàn, điều đó được biểu lộ qua câu châm ngôn bình dân mà Người đưa ra (c.48b). vì được Thiên Chúa trao phó những chức vụ ở giữa dân Ngài, họ phải luôn luôn, hơn tất cả các tín hữu khác, sẵn sàng trả lẽ, bằng cách hành xử của họ, với vị Tôn Sư khi Ngài đến bất ngờ.
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui: TN 19-C59
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em".
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà chúng ta cùng đi theo: từ mấy Chúa nhật qua. Đức Giêsu tiến lên cái chết của Người, sự "xuất phát" của Người (Lc 9,51). Không cần phải là một thầy bói để đoán trước tương lai. Trong một số trường hợp, người ta biết rất rõ điều gì sẽ xảy ra. Đối với Đức Giêsu và các bạn hữu Người, trong những tuần lễ cuối cùng trước lễ Vượt qua, điều đó rõ ràng và đáng ngại: Người sắp đối đầu với sự thù nghịch cứng rắn và không nao núng của những vị đứng đầu tôn giáo... giữa sự ác cảm của quần chúng không còn chút quan tâm đến con người đã từ khước trở thành Đấng Mêsia "của họ", Đấng Mêsia công thành danh toại và chiến thắng tất cả. Cứ bề ngoài mà xét, thất bại chung cuộc đang đến gần: Một dự án thất bại, một cuộc đời thất bại.
Vả lại chính trong bối cảnh đó mà Đức Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!". Thật vậy, nhóm các môn đệ ít ỏi ấy nhỏ bé và mong manh làm sao! Đức Giêsu cố động viên họ khi gọi họ bằng từ thân ái ấy: "Đoàn chiên bé nhỏ".
Nhưng từ ngữ ấy cũng là một cách diễn tả của Thánh Kinh mang một ý nghĩa thần học. "Đoàn chiên" có "chủ chiên" dẫn dắt, hình ảnh này muốn nói rằng Thiên Chúa yêu mến và bảo vệ dân được chọn của Người (St 48,15; Gr 31,10; Ed 34). “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ" (Tv 22).
Thế là một lần nữa, chính miệng con người Giêsu Nadarét đưa ra một khẳng định đầy táo bạo: Nhóm nhỏ này, yếu ớt và nghèo khổ, không quyền thế, không văn hóa, không chỗ dựa, không có lòng can đảm là "Israel mới", dân mới của Thiên Chúa. Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!
Ngày nay, Đức Giêsu nói với tôi cũng lời đó, trong những lúc tôi gặp thử thách. Ngày nay, Đức Giêsu nói lại điều đó với Giáo Hội hiện nay, trong những lúc Giáo Hội gặp khủng hoảng.
Tôi lắng nghe. Tôi lắng nghe.
Theo Đức Giêsu vì sao chúng ta phải xua tan sự sợ hãi? "Bởi vì Cha anh em coi việc ban cho anh em Nước của Người là điều tốt lành". Đời sống anh em có một ý nghĩa trong Thiên Chúa, cho dù vì lý do này hay lý do khác, đời sống ấy có một bề ngoài thất bại, cho dù bạn bè bỏ rơi anh em, kẻ thù đè bẹp anh em, mọi người không hiểu anh em, cho dù anh em đến phải nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Chúa con, tại sao Chúa lại bỏ con? Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu công bố rằng Thiên Chúa ban Nước của Người cho những "người nghèo khó", cho những người khốn khổ, sa cơ thất thế. Cả người làm kinh doanh đã phá sản, cả người chồng bị ly dị hoặc bị tổn thương trong tình yêu, cả gái giang hồ đã tàn phai hương sắc, cả phạm nhân bị kết án tử hình, cả người tội lỗi đã chối bỏ thầy mình, cả nhưng Người đã bỏ rơi Thầy vì một lý do nào đó. Tất cả đều có thể vượt qua nỗi tuyệt vọng trong Đức Giêsu. Nước của Thiên Chúa không phải là một cuộc chinh phục đang thắng lợi nhưng là một ơn của Chúa Cha. Khi đổ đầy ơn ấy cho anh em Chúa Cha thấy điều đó là tốt lành.
“Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thế hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó".
Đây là kết luận đơn giản của tất cả những gì chúng ta vừa nghe. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ông, phú hộ mà chúng ta đã nghe Chúa nhật vừa qua. Đối với người đã đặt mọi sự an toàn trong Thiên Chúa, các "của cải trần gian" không quan trọng gì mấy! Vậy thì, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho và hãy yêu thương không đòi đáp lại, dù chịu thiệt. Bạn hãy bố thí bằng tấm lòng thời gian và tài sản của bạn. Tất cả đều là hư vô, không có gì thật trừ tình yêu?
Trái tim của bạn ở đâu? Bạn có yêu không?.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay".
Tách rời khỏi những giá trị và những thành công ảo tưởng, lòng chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của nó, xua đuổi mọi sợ hãi, trở thành sung sướng Vậy bí quyết của sự triển nở đích thực ấy là gì dù trong những hoàn cảnh bất lợi nhất? Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một Người đang đến. Thiên Chúa "đến". Người tới gần. Người ở đây rồi.
Đức Giêsu đã loan báo Người sẽ trở lại vào thời sau rốt, trong ngày Quang Lâm. "Maranatha" "Xin Chúa hãy đến" Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được xem như cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Đấng Chí ái: "Chính vì thế mà thánh nữ Têrêxa Avila nghĩ đến giây phút cuối cùng của đời bà như lúc mà "dải lụa của cuộc gặp gỡ êm dịu ấy được tháo tung". Nhưng Thiên Chúa, dưới dải lụa: "trong bóng đêm" ẩn giấu, không ngừng đi đến. Vậy, trang Tin Mừng này nói về vô số lần Thiên Chúa đến mà chúng ta thường lỡ hẹn, bởi vì chúng ta ở chỗ khác và chúng ta không "tỉnh thức".
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy thì thật là phúc cho họ!"
Thêm một mối phúc thật nữa: “Phúc cho những ai tỉnh thức" "Thật là phúc cho họ!"
Trái tim của chúng ta được tạo ra là vì Chúa. Làm sao chúng ta lại ngạc nhiên nếu chỉ mình Chúa, sau cùng mới có thể làm cho tim ta no thỏa? Trái tim này rất lớn! Bạn không thể chỉ làm đầy nó bằng các tình yêu trần thế. Chỗ trũng ước vọng của bạn lớn như Thiên Chúa. Hãy yêu thương! Hãy yêu thương? Bạn chớ bao giờ ngừng yêu thương? Bạn sẽ không bao giờ hết yêu thương bởi vì thanh Thiên Chúa muốn đổ đầy cho bạn. Dĩ nhiên, bạn phải sống những yêu thương nơi gian trần với sự mạnh mẽ như một biểu tượng và sự thực hiện ban đầu của tình yêu cao cả.
"Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, và người làm vợ, hãy yêu thương chồng mình… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh" (Ep 5,32). Hôn nhân là một "bí tích", một "dấu chỉ": Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Nếu bạn có may mắn yêu thương và được yêu thương, bạn hãy sung sướng và không ngừng sống tình yêu thương của bạn "trong Chúa". Nhưng cả khi bạn có cảm tưởng làm hỏng tình yêu thương ấy; Bạn hãy đặt tình yêu thương ấy "trong Chúa". Bạn được "mời gọi đến bàn ăn của Thiên Chúa". Chính Người muốn phục vụ bạn? làm cho bạn no thỏa. "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và: mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Có người gõ cửa! Chúng ta hãy ra mở nhanh lên, chính là Người.
Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Hình ảnh mới lạ này, hình ảnh kẻ trộm rất táo bạo và đúng kiểu của Đức Giêsu. Giờ đây khi nói về: giờ kẻ trộm đến, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh hoàn toàn bất ngờ, làm hoang mang, thoạt đầu không thể hiểu được nhiều lần Người đến. Đức Giêsu cũng gợi ý rằng chúng ta thật sự "lâm nguy", nếu chúng ta không tỉnh thức: Phải lay động sự đờ đẫn, sự ngủ thiếp của chúng ta. Lúc đang chờ đợi lâu dài, trong đêm tối, ngọn gió gay gắt của buồn chán như muốn dập tắt ngọn lửa trong lòng chúng ta. Tôi đang "ngủ quên" hoặc đang "tỉnh thức".
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?". Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ, đúng lúc? Khi chủ, về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình".
Vậy là ở đây trên cùng một chủ đề về sự tỉnh thức là một dụ ngôn mới, lần này gởi cho những người có trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu; họ là những người "quản lý" họ không phải là những "ông chủ”. Họ phải có hai đức tính: Sự trung tín và lương tri! Họ chỉ có một vai trò duy nhất: nuôi sống mỗi người! Tôi muốn cầu nguyện cho họ, xuất phát từ đoạn Tin Mừng này. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở đấy một định nghĩa tốt về mọi người "có trách nhiệm" trong tất cả các lãnh vực.
Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đây tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên thất tín”.
Như trong ba dụ ngôn khác nói về sự mong đợi, Đức Giêsu nêu lên sự chậm trễ và sự bất ngờ. Ong chủ lâu về quá ông trễ nải. Có lẽ ông ấy sẽ không bao giờ về? Có lẽ việc Thiên Chúa đến là một ảo tưởng? Thế thì, chúng ta cứ ăn, cứ uống, cứ vui chơi; cho dù điều đó có dẫn chúng ta đến chỗ đàn áp, thống trị và đánh đập ngược đãi những người khác.
Cơn cám dỗ ấy của "người có trách nhiệm", chúng ta hãy ghi nhận điều này, có thể: là của Phêrô và các Tông đồ. Chúng ta đã được cảnh báo rõ ràng. Các nghệ sĩ thời Trung cổ không ngần ngại chạm hình các giám mục và các Giáo hoàng xếp hàng cùng với đoàn người bị kết án trong ngày phán xét trên mặt dựng của các nhà thờ. Và sau này, các họa sĩ cũng làm như thế trong các bục họa. Điệu nhảy tư thần. Lời lảnh báo đáng sợ cho tất cả mọi người: Không ai có đặc quyền trước mặt Thiên Chúa.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Luôn luôn là chủ đề về trách nhiệm. Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và hiểu biết mà người ta có. Trách nhiệm của chúng ta có thể chỉ là một phần. Đức Giêsu đã nói như thế với biết bao tinh tế! Khi áp dụng nguyên tắc này chúng ta thường phải phán xét người khác với lòng khoan dung và phán xét chính mình với sự thật.
Tránh xa nguy hiểm mà thôi chưa đủ, còn phải sẵn sàng tỉnh thức. Mọi người đều phải có đức: TN 19-C60
Tránh xa nguy hiểm mà thôi chưa đủ, còn phải sẵn sàng tỉnh thức.
Mọi người đều phải có đức tính này, nhưng nhất là những môn đệ mang sứ mạng của Chúa
1. Tất cả phải tỉnh thức.
Chúng ta dễ dàng thấy được ý nghĩa của dụ ngôn. Người chủ đi dự tiệc cưới. Các gia nhân ở nhà không biết lúc nào ông về: đêm hay ngày. Tuy vậy, họ vẫn thức, chong đèn và mặc quần áo làm việc, hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng. Dụ ngôn cho thấy người chủ ngạc nhiên, khi trở về. Gia nhân càng cất công chờ đợi lâu, niềm vui của người chủ càng mãnh liệt đến ông làm một việc khác thường: đảo ngược công việc chủ tớ, mời gia nhân ngồi ăn tiệc, và đích thân hầu hạ họ.
Dụ ngôn thứ hai một lần nữa đề cao ý tưởng tỉnh thức. Một gia chủ biết thế nào cũng có lúc trộm đạo đến viếng nhà mình. Nhưng ông không biết đến khi nào nên phải canh chừng luôn, để khỏi bị mất trộm lúc chẳng ngờ.
Người ta không biết rõ ngày giờ chết của mình. Nhân loại không biết được khi nào xẩy ra cuộc Tái lâm, tức là ngày Chúa trở lại. Cho nên phải mở rộng tâm hồn và tỉnh thức trong tinh thần. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa có thể bất ngờ xuất hiện vào lúc người ta chưa chuẩn bị và dùng ân sủng kêu mời, khuyến dụ, thúc bách và bổ sung con người. Nói theo kiểu cách đạo đức, kẻ nào còn sống trong mơ màng, mải mê sự đời, thì không chú tâm vào việc Chúa đến, và như vậy đã đánh mất đi kho tàng ân sủng.
Tâm hồn sẵn sàng và tinh thần tỉnh thức hoàn toàn hữu ích cho quyết định dấn thân nghiêm chỉnh trong công việc bổn phận, vì tương phản với tính biếng nhác, chúng chứng tỏ có sự liên kết với Thiên Chúa.
2. Môn đệ được sai đi phải tỉnh thức.
Phêrô thưa với Chúa xem dụ ngôn này có ám chỉ về các môn đệ không, Đức Giêsu trả lời không do dự. Vì trong dụ ngôn sau, Ngài nói đến mấy gia nhân được chủ trao cho một sứ mạng đặc biệt và được nhiều quyền hành. Có người lợi dụng lúc chủ vắng nhà đánh đập các gia nhân khác, ăn uống say sưa, và chỉ nghĩ đến tư lợi.
Trái lại, có người nhân lúc đó, làm hết những công việc còn lại với cả tâm tình. Khi người chủ trở về, họ sẽ thấy hậu quả đến với họ. Những kẻ bất trung sẽ bị gia phạt theo thói luật thời đó. Trái lại, các gia nhân khác được khen thưởng, được củng cố quyền hành và khen thưởng với lòng tín nhiệm.
Trong Nước Thiên Chúa, ở bậc linh mục cũng như các bậc khác, hẳn phải có sứ mệnh đặc biệt: trách nhiệm lo cho tha nhân, cho nên các Ngài càng phải sẵn sàng hơn. Lời đòi hỏi của Chúa nhắm vào các vị nhiều hơn. Càng cao danh phận thì càng nhiều trách nhiệm, có chức vụ tất nhiên sẽ có bổn phận. Ai được cất nhắc lên một chức vụ nào để phục vụ Giáo Hội, người đó sẽ có nhiều khó nhọc hơn trong cuộc sống, và phải luôn hướng về Thiên Chúa.
Ai cũng phải có đức tính đó, nhất là những ai vì phục vụ Chúa Kitô mà phải chia sẻ gánh nặng với anh em. Kitô hữu là người hướng về tương lai và việc Chúa Tái lâm. Họ biết mình phải ‘phục vụ’, dấn thân, phải trả lẽ. Ý hướng đó đã làm cho công việc của họ có một giá trị đặc biệt: Vì ‘người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều: vì đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn’.
Mỗi chức vụ trong Giáo Hội đều mang một trách vụ đối với các linh hồn.
1. Một con tim gắn liền với một giá trị duy nhất...
Đang trên đường lên Giêrusalem, có người cầu khẩn Đức Giêsu phân xử một cuộc tranh chấp: TN 19-C61
Đang trên đường lên Giêrusalem, có người cầu khẩn Đức Giêsu phân xử một cuộc tranh chấp về gia tài. Nhân dịp này, Người cảnh báo đám đông thính giả, khuyên họ giữ mình khỏi: "mọi thứ tham lam", và lập tức Người minh họa bằng dụ ngôn người giàu có khờ dại (12, 16-21) để đi đến kết luận: "Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Rồi quay sang các môn đệ mà Người thường gọi là "đoàn chiên nhỏ bé", Đức Giêsu kêu gọi hãy biết từ bỏ. Chúa Cha đã cho họ tất cả, đến lượt họ, tại sao họ lại không thể cho đi tất cả? Người nói với họ: "Hãy bán của cải mình đi mà bố thí".
H. Cousin bình luận: "Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giàu trước mặt Chúa (12,21), là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời dời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biên cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất. (Tin Mừng theo thánh Lc. Centurion, trg 184)
2. Tích cực đón chờ Đức Giêsu trở lại.
Tiếp tục câu chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đề cập đến một đề tài mới: tỉnh thức và trung tín. Người đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ được "đưa lên cao"; bởi vậy Người cần chuẩn bị cho các bạn hữu của mình sống trong một hoàn cảnh mới mà họ sẽ biết sau cuộc Phục Sinh của Người: Chúa của họ sẽ vắng mặt về thể lý, họ sẽ phải đón chờ Người trở lại trong vinh quang.
Ba dụ ngôn sẽ minh họa cho giáo huấn của Đức Giêsu: Trước hết là dụ ngôn những người đầy tớ sẵn sàng trong bộ đồ phục vụ, nghĩa là thắt lưng gọn gàng, vạt áo được săn lên và xiết chặt bằng dây thắt lưng như mọi người thường làm trong bữa tiệc vượt qua mà bài đọc thứ nhất đã thuật lại. Họ còn thắp đèn sẵn đợi chủ về. Họ tỉnh thức.
Cũng như những người đầy tớ trong dụ ngôn, các môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng đón chờ ngày trở lại của Thầy mình, và họ sẽ kinh ngạc khi thấy Đấng họ trông đợi ‘thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ’.
Liền sau đó là dụ ngôn ông chủ nhà tỉnh thức, biết đề phòng kẻ trộm đến bất ngờ.
Cũng vậy, các môn đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng vì Chúa trở lại thật bất ngờ.
- Dụ ngôn viên quản lý trung tín và viên quản lý bất trung kết thúc toàn bộ đoạn Tin Mừng này. Qua câu hỏi của Phêrô, dụ ngôn này giúp nhận rõ Chúa muốn nói với ai: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?"
Trong khi hai dụ ngôn trước nhắm đến tất cả các môn đệ, thì dụ ngôn thứ ba nhắm đến những ai có trách nhiệm riêng trong cộng đoàn và vì trách nhiệm này, họ phải xử sự như những đầy tớ của Đức Kitô và như những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
H. Cousin kết luận: "Câu hỏi của Phêrô khiến Đức Giêsu phải đề cập đến một điểm đặc biệt. Sau khi cảnh báo tất cả mọi Kitô hữu qua các câu 36-40, thì ở đây, Người đòi hỏi thái độ trung tín nơi một số các môn đệ là những người thi hành trách nhiệm mục vụ trên các anh em khác trong cộng đoàn. Vì những phận vụ được trao phó trước mặt mọi người, họ phải luôn sẵn sàng hơn những Kitô hữu khác để trả lời trước mặt Thầy mình, về những thái độ xử sự của họ khi Người bất ngờ đến (sđd, tr. 187).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước tiến”.
Nói đến hiện hữu của người Kitô hữu là nói đến đức tin. Đức tin hướng về quá khứ, dựa vào một lời nói, chỉ một lời, một lời hứa.
Đức tin cũng hoàn toàn hướng về tương lai, vì chờ đợi lời hứa được thực hiện dù lời hứa ấy chỉ được bảo đảm bằng một lời nói. Người tín hữu tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện điều Ngài đã nói nhưng đức tin là tiến bước từ lời hứa này đến lời hứa khác mà không nắm giữ hoặc chiếm hữu điều gì.
Trong giây phút hiện tại, đức tin là một cuộc lữ hành, một bước đi, giống như Abraham và các tổ phụ là những di dân, khách lữ hành và những người rày đây mai đó.
Như vậy, phải chăng chúng ta bị kết án là chẳng có gì, chúng nắm giữ được gì? Đây chính là điều nghịch lý của đức tin: đức tin là "phương tiện giúp chiếm hữu được điều chúng ta mong đợi."
Sự chờ đợi đã có đầy tràn tương lai rồi. Đức Kitô, Đấng sẽ đến, Đấng chúng ta đón chờ, đã hiện diện rồi. Người ở giữa chúng ta qua những ai phục vụ. Như vậy, công việc của đức tin là loại trừ khỏi chúng ta những gì chúng ta tin là đã nắm vững và đặt trong tay chúng ta giá trị duy nhất của tương lai. Chúng ta tiến về giá trị đó và trông đợi nó: giá trị đó là phục vụ và chia sẻ. Đó là cách thế tốt để đón chờ, để tỉnh thức trong đức tin.
2. "Hãy thắt lưng sẵn sàng phục vụ”
Thiên Chúa gõ cửa nhà tôi. Người tỏ lộ qua các biến cố và lời khẩn nài của mọi người. Người còn tỏ lộ cho tôi qua lời kêu gọi của những người chung quanh và bè bạn. Người ước mong được ở với tôi. Và tôi có nguy cơ không quan tâm đến những ước muốn của Người. Người gọi tôi nhưng tôi không có mặt để trả lời. Tôi thuộc loại những kẻ thuê bao vắng mặt.
Đúng, từ lâu lắm, có thể nói là suốt cả cuộc đời, tôi đã là loại người như thế? Thiên Chúa không ngừng đi qua nhà tôi để chỉ thấy nơi tôi sự trống vắng và bóng tối.
Phải chăng chúng ta đã đánh mất sở thích chờ đợi và ước ao? Chúng ta muốn tất cả mọi sự và muốn chúng phải có ngay lập tức. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được hoạch định.
Điều bất ngờ khó có chỗ đứng.
Chính Thiên Chúa ước ao đến nhà chúng ta. Vào bất cứ giờ nào. Ngay cả buổi tối khi chúng ta đã chuẩn bị lên giường. Hoặc thậm chí ban đêm khi chúng ta muốn được yên ắng nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc.
Thiên Chúa không để ý đến giờ giấc. Người luôn hiện diện. Người can thiệp thường xuyên, bất cứ lúc nào. Khi thấy chúng ta tỉnh thức và chờ đợi, Người sẽ sung sướng và vui mừng chia sẻ của ăn và những phương diện tết đẹp nhất trong đời sống của chúng ta.
Nếu thấy chúng ta vì ao ước mà săn sàng. Người sẽ "đốt lên” trong ta ngọn lửa sự sống. Người sẽ trao cho chúng ta Lời của Người. Người sẽ liên kết chúng ta với sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa của Người.
Chúng ta phải thắt lưng sẵn sàng, đó là thái độ của người sẵn sàng tham dự. Không phải một giờ mỗi tuần. Cũng không phải vài phút mỗi ngày, nhưng luôn luôn, thường xuyên. Đến nỗi Chúa đến bất cứ giờ phút nào cũng không bao giờ có thể làm chúng ta bất ngờ. Người sẽ thấy chúng ta luôn thắt lưng sẵn sàng. Và ngọn đèn của chúng ta luôn thắp sáng để nhận ra Đấng đang đến mà đón tiếp Người, mọi lúc. Một thái độ như vậy không có nghĩa là chúng ta không bao giờ kịp thở. Không có nghĩa là chúng ta không ngừng lại, không nghỉ ngơi. Nhưng có nghĩa là đôi mắt chúng ta luôn dò xét đôi tai luôn lắng nghe. Con tim luôn sẵn sàng. Tinh thần luôn tỉnh thức.
Chúng tôi vừa tiển đưa một cha già về nơi an nghỉ đời đời. Việc cha ra đi từ giã cõi đời nầy: TN 19-C62
Chúng tôi vừa tiển đưa một cha già về nơi an nghỉ đời đời. Việc cha ra đi từ giã cõi đời nầy là một việc bình thường không ai tránh khỏi được.
Nhưng trước mắt những người chung quanh thì có người cho đây là một việc hết sức bất ngờ, vì mới tiếp xúc với cha trước đó chừng vài giờ, cha còn rất tỉnh, còn ngồi được, còn đi được, không có vẽ gì là yếu đuối. Đối với một số người hiểu biết hơn về căn bệnh của cha, thì dường như cũng không ngờ là nhanh đến thế. Còn đối với cha, dường như không có gì là bất ngờ, cha đã chuẩn bị xong tất cả những gì cần thiết, ngay cả những lời xin tha thứ. Đó là những gì thuộc khía cạnh con người với nhau mà cha còn chuẩn bị chu đáo đến thế. Tôi thiết nghĩ, cha chuẩn bị hết sức chu đáo cho đời sống vĩnh cửu, cho việc bước vào đời sống mới, đời sống của một công dân nước trời. Đối với cha, tất cả mọi việc đã sẵn sàng.
Các con hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ thì Con Người sẽ đến.
Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, nhắc mọi người luôn sẵn sàng chuẫn bị cho ngày trọng đại của cuộc đời. Các môn đệ ngở rằng, Chúa Giêsu chỉ nói những điều đó cho người đời, còn các ông thì ngoại lệ. Không, Ngài không bảo thế. Mỗi người có một trách nhiệm và Thiên Chúa đòi hỏi mọi người chu toàn trách nhiệm đã được trao phó một cách tốt đẹp. Trách nhiệm càng cao thì đòi hỏi càng nặng. Đã trao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn. Tất cả mọi người đều chuẩn bị, luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, nếu lơ đểnh thì hối tiếc không kiệp, vì không biết giờ nào, chủ sẽ đòi để trình bày về trách nhiệm đã được trao cho.
Nhìn vào trào lưu xã hội, mọi người đang tìm cái vĩnh cửu nơi cái bất toàn của cuộc sống trần gian nầy. Mọi người đang cố bám lấy những gì mà nó có thể rời khỏi tầm tay con người bất cứ giờ phút nào. Mọi người cũng dường như không bao giờ nghĩ đến cái chết , hay đúng hơn là không dám nghĩ đến nó.
Chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu, những môn đệ của thời đại mới, những người đã từng nghe từng biết rất nhiều về những lời giảng dạy, những việc làm của Ngài. Những người đã từng được chỉ dạy về nước trời. Chúng ta cũng từng tự hào, mình biết rất nhiều về đời sống đạo và cũng chỉ dạy rất nhiều người. Thế thì nghe lời Chúa ngày hôm nay, chúng ta có dám hỏi như Phêrô: Thầy nói những điều đó về chúng con hay về người khác. Nếu dám hỏi như thế, thì chúng ta cũng sẽ có câu trả lời để suy nghĩ.
Mỗi người nhìn vào đời sống của chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua và trong hiện tại:
Là một người công giáo, nhưng trách nhiệm đối Chúa, nhiều khi còn rất là lếu láo, chúng ta chỉ cho Chúa những thời gian dư thừa. Vậy mà trong thời gian dư thừa đó, chúng ta còn xén bớt, còn ăn gian Chúa nữa. Cứ nhìn xem, những lần đến nhà thờ, những lần đọc kinh, những lần làm việc đạo đức, chúng ta cảm thấy khó khăn và tìm mọi cách cho thoải mái hết sức có thể. Chúng ta tính toán với Chúa từng giây từng phút. Dường như nhà thờ là nơi để chúng ta tìm sự yên tịnh, để dể dàng tính toán cho công việc làm ăn tiếp sau đó. Như vậy trong một giờ ngồi trong nhà thờ, chúng ta để trọn vẹn cho Chúa được bao nhiêu?
Còn về cách sống của một người công giáo trong trách nhiệm ở đời, giữa người với người. Thiên Chúa đã đặt để mỗi người một hoàn cảnh. Trách nhiệm đó Ngài sẽ đòi mỗi người trả lời. Nếu giờ nầy Ngài đến, Ngài nhìn thấy gì nơi mỗi người? Ngài nhìn thấy những người quản lý trung thành của Ngài đang chu toàn trách nhiệm hết sức tốt đẹp, hay Ngài nhìn thấy họ đang tìm cách hưởng thụ cho sung sướng bản thân, mà làm khổ những người tôi tớ khác của Ngài. Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang kêu than vì bị chúng ta hành hạ cách này hay cách khác không? Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang phàn nàn vì chúng ta lôi thôi trong trách nhiệm của mình không? Thế thì chúng ta đã chuẩn bị ra đi như cha già đã ra đi trong tuần qua như thế nào?
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết luôn sẵn sàng chờ đón Chúa cách Tốt đẹp như Lòng Chúa mong ước.
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dạy chúng ta đừng quá dính bén với của cải vật chất đời này: TN 19-C63
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dạy chúng ta đừng quá dính bén với của cải vật chất đời này. Người kêu gọi chúng ta hãy biết làm giàu trước mặt Chúa. Đó là một trong những điều quan trọng trong đời sống của người kitô hữu. Nếu không tin vào Chúa, không tin vào sự sống đời sau chắc hẳn chúng ta sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này của Chúa Giêsu. Cũng trong cái nhìn ấy, Chúa nhật hôm nay Người kêu gọi chúng ta hãy biết thức tỉnh và sẵn sàng. Thức tỉnh và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến.
Sẵn sàng luôn luôn là một thái độ chủ động tích cực. Người có thái độ sẵn sàng là người luôn sống trong tâm trạng bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được của mình cái gì. Đây là một thái độ khôn ngoan nhất. Với cái nhìn đức tin, đây là người biết sống đẹp lòng Chúa. Vì họ đã nhận ra được tình thương của Chúa dành cho mình. Cho nên, bất cứ lúc nào Chúa gọi họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng như 10 trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị sẵn dầu để đón chàng rễ. (Mt 25, 1 - 13)
Có lẽ, khi nhắc đến Thánh Đaminh Saviô thì không ai trong chúng ta có thể quên một sự kiện đặc biệt về ngài. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với những bạn ngoài sân. Cha Gioan Boscô mới gọi thánh nhân ra và hỏi:
”… Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
”… Con vẫn tiếp tục chơi!”
”… Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
”… Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh.
Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!...”
Câu trả lời của Saviô đã làm cho nhiều bạn và cho cả Cha Gioan Boscô hết sức ngạc nhiên . Quả thật, đấy mới là một thái độ sẵn sàng đúng nghĩa. Thánh nhân đã tin vào Chúa một cách vững mạnh.
Ngược lại, đó là thái độ của một người luôn bê trễ, ù lì. Thái độ của người đầy tớ xấu nghĩ rằng: “ Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa” . Cũng giống như 10 cô trinh nữ dại khờ không biết chuẩn bị dầu đèn để đón chàng rễ. (Mt 25, 1 - 13)
Do đó, khi chúng ta biết chu toàn bổn phận của mình trong từng giây phút của cuộc đời là chúng ta đang sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người chồng, người cha trong gia đình.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người vợ, người mẹ trong gia đình. Hãy chu toàn tốt bổn phận của một con trong gia đình...
Và trên hết hãy chu toàn tốt bổn phận của một người tín hữu, một người con Chúa trong niềm tin yêu phó thác.
Cách đây ít lâu, tôi nhận được tin một linh mục ngủ vào ban tối và sau đó ngài không còn thức dậy: TN 19-C64
1. Cách đây ít lâu, tôi nhận được tin một linh mục ngủ vào ban tối và sau đó ngài không còn thức dậy nữa, khi người ta phát hiện thì ngài đã qua đời từ lúc nào không ai hay biết! Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, biết bao tin tức về cái chết của người nầy người kia được loan đi, cá nhân có, tập thể có, với nhiều lý do khác nhau ; nhưng có khi nào chúng ta nghĩ về sự ra đi về thế giới bên kia của mình hay không ? Có ai ngờ rằng cứ một phút trôi qua, bình quân gần 200 người trên trần gian nầy phải lìa thế? Mang thân phận con người, có sinh ắt có tử, thế nhưng có những người sống như không bao giờ phải chết. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng, bởi vì không biết lúc nào chúng ta sẽ phải trình diện trước mặt Chúa.
2. Với dụ ngôn thứ nhất, về “Người Đầy Tớ Tỉnh Thức”(x. Lc 12,35-38), Đức Giêsu dạy ta bài học tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh chờ, như người đầy tớ canh chờ ông chủ đi ăn cưới trở về. Với dụ ngôn thứ hai, về “Chủ Nhà Tỉnh Thức”(x. Lc 12,39-40), Ngài dạy chúng ta tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh phòng. Dụ ngôn nầy không nhằm so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến cũng bất ngờ như kẻ trộm. Như ông chủ từ tiệc cưới trở về cách bất ngờ hay như kẻ trộm lúc nào đột nhập vào nhà để trộm cướp không thể biết trước được, cũng vậy không ai trong chúng ta biết ngày giờ nào ta phải ra trước toà Chúa phán xét hay là khi nào Chúa sẽ trở lại trong vinh quang, vì thế cách tốt nhất mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta là hãy luôn có thái độ canh chờ và canh phòng.
3. Nếu thái độ tỉnh thức sẵn sàng bằng cách ngồi nhưng không thì rất phí thời gian. Thậm chí không làm gì thì dễ sinh ngủ gục, chừng đó không đón được chủ trở về đúng lúc, cũng như không thể canh phòng được kẻ trộm! Vì thế Đức Giêsu muốn dạy ta cách tích cực hơn trong việc canh chờ và canh phòng đó là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó. Điều nầy được minh hoạ qua dụ ngôn thứ ba, về “Người Quản Gia Trung Thành”(x. Lc 12,41-48). Cái quý của người quản gia nầy là không dùng chức vụ được giao để tư lợi cho bản thân, mà để phục vụ theo ý chủ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy tỉnh thức bằng cách chu toàn tốt nhất nhiệm vụ được giao phó. Nhờ ơn Chúa giúp, người Kitô hữu cố gắng dùng những khả năng mà Thiên Chúa ban cho để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Đó chính là thái độ tỉnh thức sẵn sàng, có như thế thì dù chúng ta trở về cùng Ngài lúc nào, ta cũng vẫn có thể bình an thanh thản ra đi.
4. Trong cuộc sống, có nhiều điều làm cho chúng ta mãi mê chìm đắm mà thiếu tỉnh thức sẵn sàng, nhất là trong thời đại con người có khuynh hướng hưởng thụ, những lợi ích trước mắt được coi trọng mà xem nhẹ những giá trị tinh thần. Vì thế có những người đắm chìm trong sắc dục, rượu chè, cờ bạc mà không lo nghĩ đến sự sống đời sau. Có những người lo học hành, công danh mà không nghĩ gì đến việc thiêng liêng, hay chỉ xem đó là thứ yếu. Có những người lo làm giàu trước mắt mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa… Cũng có những người chỉ lo cho bản thân mà thiếu quan tâm chăm sóc cho những người mình có trách nhiệm về vật chất và tâm linh. Có những người rất mật thiết với Chúa nhưng lại xa cách anh em, hay ngược lại có những người tích cực trong công việc xã hội nhưng dửng dưng với niềm tin vào Thiên Chúa… Tuy những cách sống khác nhau như thế, nhưng tựu chung lại đều là thiếu tỉnh thức sẵn sàng, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với Chúa, tha nhân và ngay cả bản thân, điều nầy không thể chấp nhận nơi người Kitô hữu.
5. Những người không biết Thiên Chúa và lời dạy của Ngài, nếu có làm điều sai trái, họ có thể được khoan hồng hơn khi ra trước toà Chúa phán xét. Bởi họ không được giao phó, hoặc giao phó ít thì họ sẽ được đòi hỏi ít. Còn những ai được danh dự làm con Chúa, được giao phó nhiều mà không cố gắng sống tốt thì sẽ đáng trách hơn (x. Lc 12,47-48).
Đừng chần chừ gì nữa mà ngay từ bây giờ, hãy tỉnh thức sẵn sàng như lời Đức Giêsu mời gọi. Chúng ta thường muốn làm vui lòng những ông chủ trần gian, tại sao chúng ta không cố gắng để làm vui lòng ông chủ thật là Thiên Chúa ? Chúng ta thường canh giữ cẩn mật không để thất thoát những đồ vật xem ra quý giá hay tiền bạc dù những thứ đó chỉ là tạm bợ, mà lại dửng dưng với mạng sống thật, đó là linh hồn (x. Mc 8,36)? Chúng ta thường cố gắng chu toàn bổn phận nhiệm vụ trần thế, tại sao chúng ta không cố gắng chu toàn bổn phận công dân Nước Trời ?
Hãy tỉnh thức sẵn sàng bằng cách sống hết mình cho Thiên Chúa và tha nhân (x. Lc 10,27), chính là phương cách dẫn đưa ta đến sự sống đời đời vậy.
Trong những ngày này Giáo Hội Việt Nam vui mừng với hồng ân có 3 Tân Giám Mục, và hướng: TN 19-C65
Trong những ngày này Giáo Hội Việt Nam vui mừng với hồng ân có 3 Tân Giám Mục, và hướng về Đại Hội Thánh Mẫu Lavang kỷ niệm 100 năm Đại Hội thứ nhất. Những lễ Tấn Phong Giám Mục và Đại Hội đang lôi cuốn hằng trăm ngàn người lên đường tiến về những miền đất hứa. Những hành trình Đức Tin hôm nay là để tiếp nối hành trình Đức Tin của Cha Ông ngày trước, hành trình đã được những bài Thánh Kinh hôm nay phác họa và soi sáng, nên phải mang những sắc thái phù hợp với Lời Chúa chúng ta cử hành.
Là Chủ Chăn hay chỉ là khách hành hương chúng ta cũng được mời gọi "Hãy bán của cải mình đi" "Hãy thắt lưng cho gọn", hãy "Vượt Qua" "ra đi đến một nơi ... mà chưa biết mình đi đâu". Nhưng có một điều rực sáng trong lòng Cha Ông mình chính là NIỀM TIN, NIỀM HY VỌNG, NIỀM TRÔNG ĐỢI "một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng". Các thế hệ Giám Mục, cũng như những tín hữu tại La-Vang thời cấm cách ấy đều có chung một xác tín như thế. Và các Ngài đều đã chấp nhận từ bỏ mọi sự để neo tất cả đời mình vào Tình Yêu đã kêu gọi họ lên đường. Sự nghèo khó là cái khởi điểm tất yếu của mọi hành trình Đức Tin. Sắc thái này hơn bao giờ hết sẽ là lời chứng mạnh mẽ cho một thế giới đắm chìm trong chủ nghĩa hưởng thụ ngày nay.
Tình Yêu là động lực của con người trên hành trình Đức Tin ở đây là Tình Yêu đến từ Thiên Chúa, thuộc về Người và mang sự sống của Người. Thánh Phaolô khi nhắc lại câu chuyện Abraham-Sara, đã muốn nói lên điều ấy. Nếu như nơi phàm nhân chúng ta, tình yêu bị giam hãm trong xác thịt, và hoa quả nơi lòng dạ người nữ, thì Tình Yêu và Hoa Quả của nó nơi những kẻ tin chính là Quyền Năng của Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Chính là Tình Yêu Thiên Chúa đã sinh ra cho Abraham-Sara, những con người kể như đã chết, một dòng dõi đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển. Kẻ lữ hành Đức Tin bị đòi hỏi phải nói lên NIỀM TIN trong Tình Yêu của họ phải là Niềm Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, đó là cái thử thách cuối cùng mà Abraham đã phải trải qua khi Thiên Chúa đòi ông sát tế chính người con một. Niềm Tin trong Tình Yêu này được thể hiện qua sự "hiểu biết ý chủ... và làm theo ý chủ". Sự hiểu biết và thực thi ấy mang tính thường trực trong cuộc sống. Hình ảnh người đầy tớ chong đèn, thắt đai lưng, chờ đợi chủ về cho thấy sự gắn bó tuyệt đối phải có. Ở đây Lời Chúa còn mở ra một cái nhìn toàn diện về Tình Yêu: Tình Yêu mở ra về phía tha nhân, là dân thánh của Chúa, là kẻ ăn người ở trong Nhà Người, mà sự trung tín của kẻ tin được đánh giá trên sự "chia sẻ đồng đều với nhau, những phúc lộc cũng như những hiểm họa", trên sự "cấp phát phần ăn cho họ đúng giờ đúng lúc". Và về vấn đề này Lời Chúa khẳng định mạnh mẽ hơn "Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn".
Có thể nói về những lữ khách trên hành trình Đức Tin hôm nay, như thánh Phaolô đã nói về Abraham "sự việc này là một hình bóng", hình bóng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cần phải cầu nguyện cho các vị Chủ Chăn của chúng ta, cũng như cầu nguyện trên mọi nẻo đường hành hương về các thánh địa cho chính chúng ta nữa, luôn biết lên đường như Đức Kitô trong cuộc Vượt Qua của Người, cuộc Vượt Qua bằng NIỀM TIN VÀ TÌNH YÊU tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
· Kn 18,6-9: (9) Con lành cháu thánh của những người lương thiện (…) đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia.
· Dt 11,1-2.8-19: (13) Tất cả các tổ phụ (…) đều xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. (14) Như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. (15) Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. (16) Thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời.
Bán của cải đi mà bố thí
(32) «Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. (33) Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. (34) Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó».
Phải sẵn sàng chờ chủ trở về
(35) «Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. (36) Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. (37) Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. (38) Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. (39) Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. (40) Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến».
(41) Bấy giờ ông Phêrô hỏi: «Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?» (42) Chúa đáp: «Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? (43) Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. (44) Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. (45) Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: «Chủ ta còn lâu mới về», và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, (46) chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
(47) «Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. (48) Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao có nhiều người mải mê tìm kiếm của cải chóng qua ở đời này, mà không màng đến: TN 19-C66
1. Tại sao có nhiều người mải mê tìm kiếm của cải chóng qua ở đời này, mà không màng đến những của cải quí giá và lâu bền hơn cho đời sau? Có phải là trong thực tế họ không tin có cuộc sống vĩnh cử đời sau?
2. Muốn chuẩn bị của cải của cuộc sống đời sau thì bây giờ phải làm gì? Của cải dùng cho đời sau là gì?
3. Nếu ta không chuẩn bị những gì cần thiết cho cuộc sống đời sau, thì đến bao giờ ta mới chuẩn bị? Bạn nghĩ gì về câu «now or never»? Suy tư gợi ý:
1. Đừng mải mê thu gom những của cải trần gian
Một bé gái 5 tuổi quí con búp-bê của em vô cùng, đến nỗi khi ngủ, em đòi phải cho búp-bê ngủ với mình. Có lần bị mất búp-bê, em buồn bã khóc lóc cả ngày khiến cha mẹ em phải mua ngay con khác thay thế. Nhưng em vẫn thương tiếc con búp-bê cũ. Nhiều người thử phản ứng của em, đề nghị em đổi búp-bê lấy đồng hồ, tivi, xe gắn máy, xe hơi – toàn là những thứ giá trị gấp 100, gấp 1000, thậm chí gấp 100.000 lần búp-bê – nhưng em nhất quyết không đổi. Đối với em, búp-bê là tài sản quý giá nhất, không gì đổi được. Nhưng đến năm 10 tuổi, em coi búp-bê không ra gì nữa, em bắt đầu thích những đồ chơi điện tử… Đến năm 20 tuổi, em đã trưởng thành, tất cả những thứ mà từ trước đến giờ em cho là vô giá, đều trở nên vô giá trị. Bây giờ em mới bắt đầu thích tiền, vàng bạc, là những thứ trước kia em không thèm, vì hiện nay em đã biết tiêu tiền: em nhận ra nhờ tiền, vàng bạc, em có thể mua tất cả mọi thứ em thích.
Khi còn là em bé, em chưa hiểu và cũng chưa quan niệm được giá trị của đồng tiền, của vàng bạc, chưa có nhu cầu sử dụng tiền bạc. Đối với em, chỉ có con búp-bê là có giá trị, vì nó có khả năng thỏa mãn những nhu cầu rất ít ỏi của em: làm bạn với em, an ủi em, thỏa mãn tình cảm đơn sơ của em. Nhưng khi lớn lên, hiểu được giá trị của tiền bạc, em thấy việc em không chịu đổi búp-bê lấy những của quí giá hơn quả là một sự khờ dại. Cũng vậy, hiện nay, nhiều người suốt đời say mê tìm kiếm những của cải chóng qua, nay còn mai mất, mà không hề biết hay màng đến những thứ của cải lâu bền không bao giờ mất đi được, giá trị gấp triệu lần những của cải họ đang mải mê tìm kiếm. Tại sao? Chỉ vì họ chưa có một quan niệm, chưa hiểu gì về giá trị của thứ của cải lâu bền ấy. Nhìn bằng con mắt tâm linh, cho dẫu đã 4,5 chục tuổi, họ vẫn chỉ là những «em bé lớn tuổi», trí óc họ chẳng khác gì một em bé. Họ đâu biết rằng sau khi chết, khi bước vào đời sống vĩnh cửu, tất cả những của cải họ thu gom suốt cả đời mà họ tưởng rằng rất có giá trị, bỗng trở nên hoàn toàn vô giá trị trong cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đó, họ mới thấy họ hoàn toàn trắng tay và nghèo hơn ai hết, vì họ đã không hề tích trữ những của cải cần thiết cho cuộc sống vĩnh cửu.
2. Hãy chuẩn bị của cải cho cuộc sống mai sau
Sống ở trần gian này ta không thể không cần đến những của cải thích hợp cho cuộc sống tại đây. Nhưng cuộc sống ở trần gian này chỉ kéo dài nhiều lắm là 100 năm. Người Kitô hữu tin rằng sau cuộc sống ngắn ngủi được kết thúc bằng cái chết này, con người bước vào một cuộc sống khác lâu dài hơn rất nhiều, với cách hiện hữu hoàn toàn khác. Lúc đó, con người cần một loại của cải hoàn toàn khác với thứ của cải trần gian. Của cải trần gian dù đã gom góp được nhiều đến đâu, khi ấy, đều trở nên vô dụng. Vì thế, thật là dại dột khi ở trần gian này con người dành hết thì giờ mình có để gom góp thứ của cải vốn chỉ sử dụng được ở trần gian này, mà không biết tìm kiếm những của cải cần thiết cho cuộc sống vĩnh cửu.
Hãy xem những người đang dự tính trong tương lai sẽ định cư lâu dài ở một nước khác: họ coi cuộc sống hiện nay ở trong nước họ đang sống chỉ là tạm bợ. Vì thế, họ không màng tìm danh vọng, địa vị hay mua sắm nhà cửa gì trong nước hiện tại, mà họ chuẩn bị cho cuộc sống tương lai ở nước ngoài. Để chuẩn bị cho tương lai lâu dài ở nước ngoài, nhiều khi họ phải từ chối những việc làm béo bở, những địa vị hái ra tiền, những căn nhà khang trang… trong hiện tại, chỉ vì chúng có thể gây cản trở cho việc ra đi của họ. Nhiều người lo kiếm tiền để gửi ngân hàng ở quốc gia nơi họ sắp đến định cư, để khi đến quốc gia ấy, họ đã có sẵn tài sản cần thiết để xây dựng cuộc sống của họ. – Đó là sự khôn ngoan thường tình mà ai cũng biết. Thế nhưng rất nhiều người lại không hề biết áp dụng sự khôn ngoan ấy để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của mình trên trời. Bài Tin Mừng cảnh báo chúng ta về sự dại dột ấy và khuyên chúng ta hãy khôn ngoan dùng thì giờ ở trần gian để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Đó mới là cuộc sống đích thực của chúng ta.
3. Chuẩn bị thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau?
Cuộc sống vĩnh cửu mai sau là cuộc sống trong vương quốc của tình yêu. Chỉ những người có tình yêu đích thực – nghĩa là những người giống như Thiên Chúa (mà bản chất là tình yêu) – mới có thể nhập vào vương quốc ấy. Vì thế, tình yêu vừa là «vé» vào cửa, là «visa» để nhập cảnh, vừa là tài sản để sử dụng trong vương quốc ấy. Do đó, muốn chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, điều quan trọng và tối cần thiết phải làm ở đời này là phải có được tình yêu đích thực. Tình yêu đích thực khác với tình yêu giả tạo, mặc dù tình yêu giả tạo cũng có vẻ là tình yêu. Tình yêu đích thực chỉ có được khi con người biết ra khỏi chính mình, biết từ bỏ mình, biết quan tâm đến vinh quang của Thiên Chúa và hy sinh cho nhu cầu của tha nhân.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đề nghị một việc làm cụ thể để có được tình yêu đích thực: «Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời». Khi «bố thí» – ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và hy sinh cho họ – thì ta sắm được «những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời». Có lần Đức Giêsu nói rất rõ: «Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời» (Mt 19,21). Kho tàng ở trên trời ấy chính là tình yêu đích thực ta «sắm» được ở đời này. Nếu ta không chuẩn bị cho mình những gì cần thiết để vào Nước của Thiên Chúa, làm sao ta có thể vào đó được?
4. Khi nào ta mới chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu?
Phần cuối của bài Tin Mừng nhắc nhở rằng Thiên Chúa có thể gọi ta về bên kia thế giới bất kỳ lúc nào. Có thể hàng mấy chục năm nữa, nhưng cũng có thể là năm sau, tháng sau, mà cũng rất có thể là ngày mai hay chỉ một tiếng đồng hồ nữa. Không ai biết được ngày giờ nào mình phải ra đi! Nếu chúng ta không chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay từ bây giờ, thì chúng ta sẽ có khuynh hướng dời sự chuẩn bị ấy cho đến lúc chết, để cuối cùng chúng ta ra đi mà chẳng chuẩn bị gì. Điều gì phải làm ngay kẻo trễ thì người ta làm được vì người ta ấn định ngày giờ làm. Điều gì người ta nghĩ còn có nhiều thì giờ để làm, hay lúc nào làm cũng được, thì cuối cùng người ta chẳng bao giờ làm cả. Đúng như câu châm ngôn: «Now or never» (= không bây giờ thì sẽ chẳng bao giờ). Vì thế, kẻ biết chuẩn bị cho đời sau thì sẽ chuẩn bị ngay từ bây giờ. Còn kẻ không chuẩn bị bây giờ thì dù họ có sống hết cả trăm năm, cuối cùng đến lúc chết họ cũng chưa hề chuẩn bị. Và như thế thì thật là… bất hạnh!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, ra đi và nhất là đi xa, đi lâu, mà không hề chuẩn bị gì thì thật là dại dột! Xin giúp con biết chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng để bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Một cuộc ra đi vô cùng quan trọng! Xin giúp con biết chuẩn bị ngay từ bây giờ hành trang cần thiết cho cuộc ra đi vĩnh viễn ấy. Hành trang ấy chính là tình yêu đích thực mà con phải thường xuyên thể hiện ngay bây giờ với những người đang sống chung quanh con. Xin đừng để con chuẩn bị quá muộn màng… Joan Nguyễn Chính Kết
Khuynh hướng của con người thường thích tích trữ cho nhiều của cải, bôn ba để kiếm sống và: TN 19-C67
Khuynh hướng của con người thường thích tích trữ cho nhiều của cải, bôn ba để kiếm sống và lo thụ hưởng càng nhiều càng tốt, họ làm như không bao giờ họ phải chết. Song song với đa số lớp người ham sống, thích hưởng thụ, thích dễ dãi, rất ít người luôn ngẫm nghĩ về cái chết của chính mình và coi của cải trần gian chỉ là tạm bợ, chóng qua, mau tàn. Tin Mừng Lc 12, 32 – 48 nhắc nhở mọi người:” Tỉnh thức và sẵn sàng “.
HÃY TỈNH THỨC: Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người tỉnh thức:” Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” ( Lc 12, 35 ). Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mang đèn mà lại mang cả dầu; như người đầy tớ trung tín đợi chủ về; như người khôn ngoan canh chừng tên ăn trộm; như người quản lý khôn ngoan làm theo ý chủ. Tỉnh thức không có nghĩa la ngủ no say, ngủ li bì nhưng mà là tỉnh thức trong khi ngủ. Tỉnh thức cũng có nghĩa là luôn khôn ngoan, chóng vánh làm theo ý của chủ mình. Thường người Kitô hữu rất tỉnh thức trong các kinh nguyện, trong những nghĩa vụ đạo đức như giữ các ngày thứ sáu đầu tháng, như đi lễ,sáng chiều, nhưng lại rất mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Đạo Kitô giáo không phải là đạo ru ngủ con người. Đạo là tình thương, là con đường, đạo luôn luôn thức tỉnh mọi người. Đã là con đường đi, người Kitô hữu phải tỉnh thức, không được ngủ, không ngủ gà ngủ gật, bởi vì có tỉnh thức, có mở to mắt, họ mới thấy hướng đi, thấy bến bờ, mục đích để đến đích bình an. Tỉnh thức để nhận ra Nước Trời đang hiện diện. Tỉnh thức để không gây ngộ nhận cho người khác, không bóp méo Tin Mừng và Giáo Hội. Tỉnh thức chính là phục vụ. Và phục vụ càng nhiều, người Kitô hữu sẽ nhận ra Nước Trời đang đến, càng phục người Kitô hữu càng trở nên giống Chúa trong cung cách phục vụ yêu thương của Ngài. Ai làm lớn phải phục vụ anh em. Đây là cung cách phục vụ khiêm tốn của Chúa. Phục vụ như người tôi tớ. Phục vụ bằng cách rửa chân cho các môn đệ. Ân huệ người Kitô hữu nhận được nơi phép rửa là để san sẻ. Tình yêu nhưng không người Kitô hữu nhận được trong đức tin là để trao ban vì “Sống là để yêu thương và phục vụ “.
CHÚA ĐẾN CÁCH BẤT NGỜ: Con người sống trên thế gian đâu có biết trước được lúc nào, giờ nào, phút nào họ sẽ chết ? Có những con người vẫn tưởng rằng chẳng bao giờ họ phải chết. Do đó, họ vẫn bám víu thế gian, sống để hưởng thụ, sống để vui chơi vv…Tuy nhiên, đa số con người rất đỗi hoang mang, lo âu, xao xuyến vì Chúa sẽ đến thật bất ngờ:” Vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến “ ( Lc 12, 40 ). Chúa sẽ đến không ai ngờ được. Kẻ trộm bao giờ cũng đột nhập cách thật bất ngờ và vũ khí sắc bén nhất của anh ta là bất ngờ. Chúa cũng đến cách rất bất ngờ và Ngài chỉ nhắc nhở mọi người phải tỉnh thức. Đừng quá bám víu, miệt mài trong những của cải chóng tàn, chóng phai của đời tạm này mà quên đi đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời mai sau. Chúa đến bất ngờ nhưng lại rất thú vị và hạnh phúc cho những người biết tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, như người quản lý luôn biết khôn ngoan làm theo ý chủ của mình. Chẳng ai biết mình sẽ chết lúc nào, chết khi nào, nhưng cái chết sẽ trở nên hạnh phúc cho những ai luôn biết thức tỉnh. Chỉ sợ, con người cứ tưởng mình còn ngày mai, còn giờ để chuẩn bị, nhưng kỳ thực giờ chết sẽ đến một cách rất đột ngột phũ phàng. Do đó, Chúa luôn nhắc nhở con người hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chiêm ngắm, trân trọng và khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa và những ơn lành Người ban, làm cho đời con người sáng hơn, tươi hơn, có ý nghĩa hơn.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống thế nào để đạo lý của Chúa và Hội Thánh không bị hoen ố, không gây ngộ nhận cho những người ngọai giáo, nhưng được trình bầy bằng những hình ảnh cao đẹp của Tin Mừng: “ Công bằng, bác ái và yêu thương “.
Làm sao con người có thể tránh hấp lực vật chất ? Của cải đã chi phối sâu xa cuộc sống con người.: TN 19-C68
Làm sao con người có thể tránh hấp lực vật chất ? Của cải đã chi phối sâu xa cuộc sống con người. Không tiền bạc không thể làm được việc gì có giá trị. Vật chất đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá mọi thực tại và tương quan. Bởi thế, làm sao người ta có thể tưởng tượng có một thứ tiêu chuẩn nào khác ngoài vật chất ? Thế nhưng, Đức Giêsu muốn đưa ra một thực tại siêu việt, ngược với vật chất. Thực tại đó là Nước Trời, một thách đố lớn lao đối với những ai chỉ tin vào vật chất.
TIN ĐỨC KITÔ: MỘT LỰA CHỌN.
Trước thực tại siêu nhiên, của cải vật chất vẫn có một chỗ đứng. Đức Giêsu không hề phủ nhận những giá trị vật chất. Nhưng Người đã vạch ra một chiều hướng lớn lao cho những thực tại trần thế. Quả thực, Đức Giêsu gọi người phú hộ là “đồ ngốc” vì chỉ “biết thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa.” (Lc 12:21) Khác với người phú hộ chỉ lo “tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình,” (Lc 12:18) người môn đệ Chúa Kitô phải “bán tài sản của mình đi mà bố thí” và “sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời.” (Lc 12:33) Bỏ qua những thực tại trần thế để đuổi theo những thực tại “trên trời”, phải chăng đó là thái độ khôn ngoan ?
Chúa Giêsu quả quyết đó là thái độ khôn ngoan. Tại sao ? Cái nhìn của Chúa về của cải rất chính xác. Người không bi quan về của cải. Nhưng Người đề nghị cách dùng của cải sao cho ích lợi nhất. Muốn thế, phải tìm được một hướng đi và ý thức rõ ràng về vị trí của mình trên những thực tại trần gian. Con người có thể tạo ra của cải. Của cải tạo ra cảm tưởng an toàn cho con người. Nhưng thực tế, của cải bị đủ thứ đe dọa: cũ rách, hao hụt trộm cướp, mối mọt, bão lụt, chiến tranh v.v. Con người cứ tưởng mình có thể làm chủ tất cả những gì mình có và làm tất cả những gì mình muốn. Nhưng của cải trần thế không đủ sức giúp con người làm chủ thời gian. Chính thời gian sẽ là câu trả lời cho con người biết vị trị của mình trước những thực tại trần thế đó. Khi người phú hộ tưởng có thể ăn chơi “nhiều năm”, thì Thiên Chúa lại cảnh cáo: “Nội đêm nay …” (Lc 12:19.20) Chính thời gian sẽ bắt buộc con người phải buông tất cả. Hơn nữa, có ai biết được giờ phút từ giã cuộc đời. Bởi vậy, Đức Giêsu cảnh giác: “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12: 40) Cuộc đời rất vắn vỏi và kết thúc bất ngờ. Vì không thể làm chủ thời gian, vai trò làm chủ của cải của con người trở thành tương đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ tuyệt đối trên mọi tài sản. Sống trên trần gian, con người giống như người đầy tớ “đợi chủ đi ăn cưới về.” (Lc 12:35) Hay như người quản gia, con người phải khéo léo vận dụng tất cả tài năng quản trị và phải báo cáo với chủ về tất cả những tài sản và công việc mình làm.
Nếu thế, vấn đề không phải là có bao nhiêu tài sản, nhưng là làm cách nào quản trị những tài sản đó. Người quản gia phải hai thái độ: chuẩn bị sẵn sàng và làm theo ý chủ. Thái độ sẵn sàng đòi hỏi người đầy tớ hay quản gia phải “tỉnh thức” (Lc 12:37) Nếu không, họ sẽ đánh mất phần thưởng dễ dàng. Phần thưởng chắc chắn sẽ có, nhưng chẳng biết bao nhiêu. Oâng chủ chắc chắn sẽ trở về, nhưng không biết lúc nào. Bổn phận người quản gia là “cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc” (Lc 12:42) đúng người và đúng nơi. Nếu phung phí tiền của vào những nơi đàng điếm, “chè chén say sưa” (Lc 12:45) người quản gia sẽ “phải chung số phận với những tên thất tín.” (Lc 12:46) Đó là thái độ của một quản gia vô ý thức, cứ tưởng “còn lâu chủ ta mới về.” (Lc 12:45) Chính sự lầm tưởng ấy đã dẫn anh đến thái độ hống hách, “đánh đập tôi trai tớ gái” (Lc 12:45) y như một ông chủ hách dịch.
Nếu lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi chủ về, các người đầy tớ sẽ chứng kiến một cảnh ngược đời. “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12:37) Chưa thấy một ôâng chủ nào lạ lùng như vậy ! Oâng đã quên hẳn địa vị để phục vụ người đầy tớ. Đó phải chăng là cách diễn tả “vai trò phục vụ của Đức Giêsu, xuyên suốt trong toàn thể sứ vụ và giáo huấn của Người, giờ đây được trình bày trong một khung cảnh cánh chung.” (Fahey 1994:535) Chính Đức Giêsu đã hé mở thái độ như thế khi sống giữa các môn đệ: “Thày sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22:27) Thật là một vinh dự và phần thưởng lớn lao ! Chẳng cần đợi tới ngày cánh chung, nhưng ngay khi sống giữa các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ngài nếm trước tình yêu êm dịu nơi thái độ phục vụ đó. Bởi vậy, các môn đệ là những người có phúc và được khen tặng là những “người quản gia trung tín, khôn ngoan,” (Lc 12:42) bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin và hi vọng nơi Đức Giêsu. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều hệ tại thái độ chờ “đợi chủ đi ăn cưới về.” (Lc 12:36)
Niềm hi vọng đó cũng là nét đặc trưng của toàn thể dân Chúa thời xa xưa. “Dân Chúa đã trông đợi đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù,” (Kn 18:7) sau bao nhiêu thế hệ mong Chúa thực hiện lời hứa. Vì “Chúa là niềm hi vọng của con.” (Tv 71:5) Nhưng làm sao hi vọng được, nếu không tin ? Quả thực “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11:1) Chính “những điều không thấy” có giá trị gấp ngàn lần “những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” (Truyện Kiều) “ Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12:15) Càng nhiều của cải vật chất càng đâm lo. Bao nhiêu đe dọa và hiểm nguy vây bọc chung quanh. Có thể tiêu tan và mất mát bất cứ lúc nào. Giữa những hoang mang lo lắng đó, Đức Giêsu khích lệ các môn đệ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.” (Lc 12:32) Nước Người tràn ngập bình an.
Chỉ có Nước Chúa mới là nơi an toàn tuyệt đối. Vào được Nước Trời sẽ thấy Chúa khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn và chăm sóc tận tình. Con người sẽ hoàn toàn hạnh phúc, vì “Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu.” (Pl 4:19) Đó là lý do tại sao nhiều người “bán tài sản của mình đi mà bố thí.” (Lc 12:33) Không những bán tài sản, nhưng họ còn liều mạng vì Nước Chúa nữa. Chính tổ phụ Abraham đã đi tiên phong trong niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa. “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng,” (Dt 11:8.9.10) tức là Nước Chúa, nơi tràn ngập “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần,” (Rm 14:17) vì Đức Giêsu Phục sinh sẽ là “Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh,” (Kh 7:27) chan hòa niềm vui.
Niềm vui ấy chính ông Abraham đã nếm trước. Quả thực, “dù đã nhận lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một” (Dt 11:17) là Isaac. Vì “ông Abraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11:19) cho Đức Giêsu Phục Sinh. Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trở thành “Chúa các chúa, Vua các vua.” (Kh 17:14) Người đích thực là ông chủ sẽ trở về vào lúc bất ngờ để đem lại niềm vui bùng vỡ cho các đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Niềm vui lớn nhất là họ sẽ được Chúa “đặt lên coi sóc tất cả tài sản của mình.” (Lc 12:44) Làm sao những tài sản trần gian có thể so sánh với tài sản muôn đời đó ? Cuộc trao đổi thật lạ lùng ! Cho đi cái tương đối để lấy cái tuyệt đối. Hi sinh cái hữu hạn để đổi lấy cái vô hạn. Làm sao hi sinh nếu không tin ? Nhưng nếu Đức Giêsu không phục sinh, làm sao củng cố niềm tin đó ? Đức tin sẽ cho ta thấy phải làm gì “để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12:36) Chính đức tin sẽ giúp ta tỉnh thức. Nhưng “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.”(Gc 2:17)
Chỉ có “bố thí” mới đánh thức nổi đức tin. Vì chính khi giúp đỡ những anh em nghèo khó, chúng ta sống hết lòng với Chúa, như Chúa đã nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40) Thực tế, càng bố thí càng thanh thoát, vì “kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó,” (Lc 12:34) vì chính Đức Giêsu đã giải thoát nhân loại khỏi mọi nô lệ và tội lỗi. Đức Giêsu chính là kho tàng Thiên Chúa đặt giữa trần gian. Người đã tự đồng hóa với người nghèo. Bởi vậy, người nghèo chính là kho tàng cho mọi người ký thác tài sản.
TỈNH THỨC TRONG ĐỜI SỐNG HÔM NAY.
Nhờ đức tin, nhiều người khôn ngoan đã ký thác tiền của vào những kho tàng đó. Họ có thể là tỷ phú hay triệu phú một mình xây dựng học đường, bệnh viện, viện dưỡng lão, cô nhi, phong cùi v.v. Họ cũng có thể là nhiều công nhân hay nông dân nghèo phải gom tiền mới tài trợ nổi những người di cư và các nạn nhân chiến tranh, bão lụt v.v. Họ hành động như một thái độ tỉnh thức mong chờ Chúa đến. Họ không giống người phú hộ ngốc nghếch, chỉ biết thu tích của cải cho mình. Họ là những “quản gia trung tín, khôn ngoan” biết chia sẻ với những người nghèo và bất hạnh.
Trong khi đó, biết bao người đầy quyền lực, tiền của và tri thức đang lâm vào tình trạng u mê của tên phú hộ ngốc nghếch. Làm cách nào chống lại những người đang nhân danh quyền làm người để giết chết con người ? Họ đang đổ tiền của vào việc nghiên cứu tế bào gốc để tìm cách chữa trị những bệnh như Parkinson. Dưới cái nhìn của họ, tế bào gốc không phải là bào thai, nên có quyền thí nghiệm hay hủy diệt tự do. Thực tế, “theo tiến sĩ Dianne Irving, hiện là một nhà luân lý sinh học lừng danh thế giới, cái gọi là ‘tế bào gốc của bào thai’ thực sự là chính bào thai.” (CWNews 10/8/2001) Như thế, hủy diệt tế bào gốc là giết người. Không luân lý nào cho phép giết người để cứu người cả. Nhiều người còn dùng quyền lực và tiền bạc áp đặt những biện pháp phá thai, tạo sinh vô tính. Chẳng hạn “chính phủ Trung Cộng đã ra lệnh cho một tỉnh nghèo nàn và hẻo lánh phải thực hiện 20,000 vụ phá thai vào cuối năm sau khi biết chính sách mỗi gia đình một con bị dân chúng coi thường.” (CWNews 10/8/2001) Làm sao chống cưỡng được một lệnh giết trẻ em vô tội tàn bạo như thế ? Nhiều nhà khoa học đang gầm thét đòi quyền tự do theo đuổi những chủ trương tạo sinh vô tính. Tiến sĩ Severino Antinori chủ trương “quyền làm người cho phép ông nghiên cứu việc tạo sinh vô tính.” (CWNews 10/8/2001) “Oâng gọi ĐGH Gioan Phaolô II và Tổng thống Mỹ George W. Bush là ‘tội phạm’ vì chống lại việc tạo sinh vô tính.” (CWNews 10/8/2001)
Tất cả những thái độ chống lại con người như thế phải chăng phát xuất từ những con người đầy ý thức ? Ngày nay con người không phải chỉ muốn làm chủ của cải, nhưng cả vận mệnh mình nữa ? Thực ra, con người chỉ là đầy tớ hay quản gia trên mặt đất thôi. Muốn đạt tới hạnh phúc đích thực và sâu xa, con người cần phải tìm hiểu cho “biết ý chủ” và “làm theo ý chủ” (Lc 12:47) Người Chủ duy nhất đó chính là Thiên Chúa, Đấng Tạo thành vũ trụ và là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Những năm tháng sống trên trần gian này là thời gian để người môn đệ Chúa sử dụng những tài: TN 19-C69
Những năm tháng sống trên trần gian này là thời gian để người môn đệ Chúa sử dụng những tài năng và của cải tiền bạc Chúa ban mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12:21) cho đến khi Chúa Ki-tô trở lại. Tuy nhiên đây cũng là thời gian thử thách cho họ bởi chính những tài năng và của cải tiền bạc ấy lại có thể làm họ sao lãng bổn phận và rơi vào tình trạng của nhà phú hộ muốn nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã. Do đó, song song với lời khuyên về cách sử dụng tiền bạc của cải, Chúa Giê-su thêm một lời khuyên, dạy các môn đệ cần phải “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn, làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về”, nói khác đi là phải sẵn sàng luôn.
1) “Như những người đợi chủ đi ăn cưới về”
Ta đều biết Chúa Ki-tô sẽ trở lại với ta để phán xét trong cái chết của mỗi người và trong ngày tận thế. Vì thế, cuộc đời ta từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời là một chờ đợi, chờ đợi Chúa đến. Để diễn tả tư thế phải chờ đợi như thế nào, Chúa Giê-su dùng một hình ảnh tỉ dụ cụ thể: Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về.
Đám cưới ở đông phương là dịp vui mừng, ăn uống và gặp gỡ, bất kể ngày giờ. Ông chủ đi ăn cưới không thể hẹn với gia nhân là vào giờ nào ông sẽ về nhà. Có thể ban chiều, ban tối hoặc khuya khoắt hơn nữa. Cho nên gia nhân phải luôn sẵn sàng chờ đợi, hễ chủ vừa gõ cửa là mở ngay. Một chi tiết khác là cách ăn mặc thắt lưng cho gọn và thắp đèn cho sẵn chứng tỏ họ là những người đang làm việc, chứ không phải đang ăn uống vui chơi. Hình ảnh này đem áp dụng cho mọi Ki-tô hữu, môn đệ Chúa, những người chờ đợi Chúa đến, nói lên một lối sống phục vụ Chúa và anh chị em. Bình thường chờ đợi mang chiều hướng thụ động, không làm gì cả, nhất là trong đời sống văn minh, đúng giờ giấc và máy móc. Mọi sinh hoạt đều theo giờ giấc và như vậy ta không cần phải chờ đợi gì cả. Nếu chuyến bay là 10g sáng thì trước đó vài ba tiếng, ta cứ việc làm những việc khác, đến giờ đi là lên xe ra phi trường. Nhưng giờ Chúa đến với mỗi người thì chẳng bao giờ được báo trước. Nhiều cái chết của người thân hay bạn bè làm ta sửng sốt, không thể tin được. Mới hôm qua, người ấy còn đi cùng chuyến xe buýt với tôi, vậy mà hôm nay không còn nữa. Hoặc tôi không ngờ lần gặp mặt và nói chuyện với người bạn này mấy hôm trước lại là lần cuối...
Vậy trong thời gian chờ đợi Chúa đến gõ cửa đời ta và ta sẽ mở cửa ngay, ta phải làm gì? Hình ảnh người đầy tớ thắt lưng gọn gàng và đèn sáng trong tay dạy ta phải làm việc, vì tư thế đó là tư thế của người làm việc. Làm việc bổn phận của ta đối với gia đình, với sở làm, với cộng đoàn, với Giáo Hội và quốc gia. Và làm việc bổn phận của ta một cách chu toàn, sử dụng tất cả những gì Chúa ban, từ tài năng cho đến tiền bạc để làm công việc phục vụ Chúa và anh chị em.
2) “Như những đầy tớ đang tỉnh thức”
Trong tỉ dụ người đầy tớ luôn sẵn sàng khi đợi chủ về, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến thái độ tỉnh thức. Có nhiều cách nhìn về sự tỉnh thức. Nhưng trong bất cứ cách nhìn nào ta cũng không thể loại bỏ mục đích khiến ta không được lơ là và chú ý đến điều nào khác. Lần nào đó ta quan sát một con chim mẹ tha mồi về mớm cho đám chim non ở tổ. Mấy con chim con đang nằm im, trông như ngủ, thế mà chim mẹ vừa bay tới gần tổ là lũ chim con đã ngóc ngay đầu dậy, há mồm chờ mớm. Mục đích là chờ được ăn, nên lũ chim non rất... tỉnh thức. Tuy nhiên đối với Ki-tô hữu, thức tỉnh còn mang ý nghĩa sâu xa hơn thế nữa, vì mục đích của họ hết sức lớn lao là được tiếp đón Con Người sẽ đến. Khi tới Rô-ma dự cuộc triều yết của Đức Giáo Hoàng, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần thế, ta coi là một vinh dự khi được bắt tay ngài. Giờ đây, được tiếp đón chính Chúa Ki-tô thì hẳn đó phải là mục đích cao cả nhất. Chúa Ki-tô là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối cuộc đời ta, nói khác đi, là tất cả đời ta. Vì thế, chờ đợi và hướng đến Mục Đích đòi ta phải tuyệt đối chú ý đến Mục Đích ấy, chứ không thể để tâm tới những mục đích khác.
Mà nói đến Chúa Ki-tô là nói đến Nước Trời. Chúa Ki-tô là Nước Trời đã được thể hiện. Do đó, để chiếm đoạt được Nước Trời tựa như chiếm được kho báu và ngọc quý, ta phải “bán đi tất cả những gì mình có” (Mt 13:44-45). Hay nói theo thánh Phao-lô, “tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người... Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 3:8-9.13-14).
Nếu tỉnh thức là chú ý đến mục đích duy nhất thì quả thực có nhiều Ki-tô hữu còn đang ngủ mê trên tiền bạc, danh vọng, những thú vui... và Đức Ki-tô không phải là Mục Đích của họ. Để kêu gọi họ, thánh Phao-lô gửi gấm lời ngài viết cho giáo đoàn Ê-phê-xô: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” (5:14).
3) “Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ”
Ta có thể tin được điều này không? Làm sao lại có chuyện ông chủ phục vụ đầy tớ! Đó là chuyện không thể có đối với người đời, còn với Chúa Giê-su thì ngược lại, và quả thực Người đã nhận lấy thân phận nô lệ để phục vụ nhân loại (Pl 2:7). Có gì lạ đâu. Nếu ta hướng về Chúa Ki-tô như Mục Đích đời ta, sống quan hệ mật thiết với Người thì Người đâu còn gọi ta là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu (Ga 15:15). Người đã rửa chân cho các môn đệ, thì Người cũng sẵn sàng “thắt lưng” và phục vụ ta nơi bàn tiệc Nước Trời của Người.
Một người tôi tớ “canh hai hoặc canh ba mà vẫn còn tỉnh thức” để chờ đợi chủ về và canh phòng nhà cửa cho chủ, thì đó là người tôi tớ đã hết lòng vì chủ, sống mối quan hệ chân thành nhất đối với chủ. Đáp lại mối chân tình ấy, ông chủ lại muốn làm hơn cả những gì đầy tớ mong đợi, không phải là cho chút tiền thưởng, nhưng là đưa đầy tớ vào bàn tiệc và đích thân phục vụ đầy tớ. Có thế mới là tình yêu đích thực.
Ở đời chỉ có ta hướng đến và di chuyển tới mục đích để đạt được mục đích, chứ mục đích không mọc chân mọc cánh để đến với ta. Nhưng đối với Mục Đích Ki-tô (Omega) và Nước Trời lại khác. Mục Đích đến với ta và mời gọi ta tiếp nhận. Vấn đề là ta có nhận biết giá trị tuyệt đối của Mục Đích để dám đánh đổi mọi sự mà tiếp nhận Mục Đích hay không.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
“Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó”. Kho tàng đích thực của tôi là gì? Tiền bạc của cải hay là Chúa?
Tôi đợi Chúa đến phán xét riêng trong tư thế nào? Sợ hãi? Sẵn sàng và vẫn tiếp tục làm việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân?
Chúa Giê-su là Tất Cả cho đời tôi. Mất Người là mất tất cả. Vậy tôi phải làm gì để gắn bó với Người? Người có thực sự là Lẽ Sống của tôi không?
Cầu nguyện
“Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên. Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng. Tạ ơn Cha vỉ những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn. Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 100)
Theo các học giả Kinh Thánh, thư gửi tín hữu Do-thái không phải do thánh Phao-lô viết. Nhưng: TN 19-C70
Theo các học giả Kinh Thánh, thư gửi tín hữu Do-thái không phải do thánh Phao-lô viết. Nhưng các chủ đề trong thư Do-thái lại giống với những gì ngài trình bày trong các thư của ngài. Vì thế chúng ta cũng có thể coi mình đang tiếp tục suy niệm cùng một dòng tư tưởng ấy của thánh Phao-lô. Có bảy đoạn thư Do-thái được sử dụng trong Phụng vụ Lời Chúa năm B, đề cao chức tư tế tối cao của Đức Ki-tô; và bốn đoạn khác cho năm C, khích lệ Ki-tô hữu hãy trung kiên vì họ có vị Thượng Tế như vậy.
Để học hỏi bài đọc hôm nay, chúng ta thử nhìn lại mạch văn của nó. Bốn bài đọc cho năm C trích ra từ hai đoạn thư dài nói về các huấn dụ liên quan đến đời sống đức tin (10:26 - 12:13; 12:14 - 13:19), sau phần trình bày giáo lý về chức tư tế của Chúa Ki-tô trong những chương trước và nhất là các chương ở giữa (5:11 - 10:25). Phần huấn dụ thứ nhất nói đến sức mạnh của đức tin, được biểu lộ qua những tấm gương trong lịch sử dân Chúa. Cụm từ "Nhờ đức tin" được lập lại mười tám lần trong 11:3-31, cho thấy tác giả muốn trưng lên những gương mẫu để chứng minh cho khẳng định vô cùng quan trọng "đức tin là gì" (11:1). Lịch sử Cựu Ước đã để lại rất nhiều nhân chứng đức tin "như đám mây bao quanh" (12:1). Nhưng Phụng vụ Lời Chúa chỉ trích dẫn một tấm gương sáng chói và ý nghĩa nhất: Áp-ra-ham, cha của đức tin (11:8-19). Vậy bài đọc hôm nay nói với chúng ta hai điểm về đức tin: a) Đức tin là gì? b) Ông Áp-ra-ham là một gương mẫu đức tin.
Trước hết định nghĩa đức tin nêu lên hai yếu tố căn bản: "Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy" (11:1). Xin trích dẫn ở đây lời giải thích trong sách Tân Ước, bản dịch của nhóm Phiên dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ, mà chúng tôi nghĩ là ngắn gọn, rõ ràng. "Câu này đã trở thành một câu định nghĩa thần học về đức tin, nghĩa là chiếm lãnh được trước một cách chắn chắn những sự ở trên trời (Rm 5:2; Ep 1:13) là những điều ta không xem thấy. Đức tin xem ra nghịch lý ở chỗ này, là có mà không nắm giữ trong tay, biết mà không nhìn thấy. Các gương tích trưng dẫn ở đây cho thấy sức sống mãnh liệt chất chứa trong đức tin."
Định nghĩa đức tin (11:1) nhấn mạnh đến sức mạnh của nó tác động như thế nào trên chúng ta là những người hy vọng và không nhìn thấy. Để dễ hiểu, chúng ta dùng thí dụ. Ông Áp-ra-ham đã vâng theo lời gọi của Chúa và đi tới xứ lạ quê người là vì đức tin giúp ông luôn xác tín (=bảo đảm) ông sẽ tới "một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng" (11:10). Hoặc ông Nô-ê khi đóng tàu, mặc dù lũ lụt chưa thấy đâu, nhưng nhờ con mắt đức tin ông đã nhìn thấy (=bằng chứng) những gì người khác không thấy được. Các ông đã hành động không do lý trí, nhưng do con tim hay lòng tín thác.
Trong câu truyện đức tin của Áp-ra-ham, bốn lần cụm từ "nhờ đức tin" đều mở đầu cho bốn hành động "ngược đời" của ông: (1) ông vâng lời khi được gọi; (2) ông ra đi tìm đất hứa nơi xứ lạ; (3) ông lãnh nhận khả năng sinh sản mặc dù tuổi già; và (4) ông sa#n sàng sát tế I-xa-ác con một của mình. Trong mỗi trường hợp, Áp-ra-ham đều hành xử vì đức tin bảo đảm cho ông một điều gì tốt đẹp hơn. Ông vâng lời Chúa vì ông tin sẽ được một gia nghiệp tốt hơn. Ông ra đi vì ông muốn đi tìm một thành vĩnh cửu. Ông đã được khả năng sinh sản vì ông tin vào quyền năng của Chúa. Ông muốn dâng con một mình vì ông biết Chúa có thể cho nó sống lại.
Mọi người ai cũng tin vào một cái gì đó, ngay cả khi họ coi mọi sự là hư vô và cuộc sống trống rỗng. Tuy nhiên khi chúng ta ta tin vào điều gì hoặc vào người nào thì sẽ khác biệt lắm. Điều hoặc người chúng ta tin sẽ ảnh hưởng sâu đậm đến lối sống của chúng ta. Chính vì thế, Đức Ki-tô thường hay đặt câu hỏi: anh em có tin không? Không phải chỉ để được Chúa làm phép lạ, nhưng là để theo Người và làm môn đệ Người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Chia sẻ khó khăn của tôi khi hiểu về đức tin.
Một tác giả tu đức nói: Đức tin được biểu lộ bằng đầu gối, chứ không phải bằng bộ óc. Khẳng định này giúp tôi hiểu về đức tin như thế nào?
Những mốc điểm trong hành trình đức tin của Áp-ra-ham phản ảnh hành trình đức tin của tôi như thế nào? Có gì giống với hành trình của ông không?
Tôi chiêm ngưỡng Chúa Giê-su, một gương mẫu đức tin, qua những biến cố nào cụ thể nhất trong cuộc đời của Người?
Tôi có thể chia sẻ với anh chị em trong nhóm biến cố này trong đời tôi: "Nhờ đức tin, tôi đã... "
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng nhau tuyên xưng đức tin, đọc chậm và với tất cả xác tín cùng lòng yêu mến kinh Tin Kính của các Tông Đồ, hoặc hát bài "Tin cậy mến", CNLT trang 39.
Sau khi nhắc nhở ta đừng thu tích và cậy dựa vào của cải trần gian, Chúa Giê-su chỉ cho ta một kho: TN 19-C71
Sau khi nhắc nhở ta đừng thu tích và cậy dựa vào của cải trần gian, Chúa Giê-su chỉ cho ta một kho tàng đích thực trên trời. Người bảo ta với tất cả tâm tình yêu thương: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32). Lời nhắn nhủ này mở đầu cho bài giảng về thái độ ta phải có để làm sao chiếm hữu được kho tàng đích thực Cha trên trời muốn ban cho ta. Đức tin và tỉnh thức là những điều Chúa Giê-su sẽ giải thích bằng những thí dụ cụ thể cho ta nhận thức được trách nhiệm tiếp nhận Nước Trời.
a) “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”
Làm sao ta biết được ân huệ trọng đại này nếu Chúa Giê-su không mặc khải cho ta? Qua những lời lẽ của Chúa Giê-su, ta có thể cảm nhận được ngay cả tâm tình hân hoan vui sướng của chính Người. Người gọi ta là “đoàn chiên nhỏ bé” tựa như bà mẹ âu yếm nói với con thơ của mình. Người thấu rõ những nỗi lo lắng của ta hơn cả bà mẹ biết con mình. Cho nên Người bảo ta “đừng sợ.” Người muốn chia sẻ cho ta chính niềm vui của Chúa Cha khi Người quả quyết Chúa Cha “vui lòng” ban cho ta Nước Trời. Chúa Cha không ban cho ta một cách miễn cưỡng hoặc tựa như bố thí cho ta Nước Trời, nhưng Người ban cho ta mà lòng Người tràn ngập vui sướng.
Có lẽ ta sẽ thắc mắc “Nước của Chúa Cha” là gì? Phải chăng là một vương quốc mà ta được làm con dân của Người. Hiểu như thế cũng được. Nhưng có lẽ thánh Gio-an cho ta thấy rõ hơn quà tặng yêu quý Chúa Cha ban cho nhân loại. Đó là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai TIN vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Sau này, trong lời nguyện dâng lên Chúa Cha, Chúa Giê-su còn nói rõ hơn về quà tặng ấy: “Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ LỜI mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con” (Ga 17:7-8). Vậy “Nước của Chúa Cha” là tất cả những gì Chúa Cha muốn tỏ ra cho ta qua Con Một Người, hoặc nói khác đi, là chính Chúa Giê-su, để khi đón nhận Người và lối sống của Người thì ta có thể sống như con cái đích thực của Chúa Cha. Vậy ta phải có thái độ nào khi đón nhận Quà Tặng của Chúa Cha?
b) “Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó”
Chúa Giê-su là tất cả kho tàng của Chúa Cha. Người đã ký thác nơi Chúa Giê-su những gì là quý giá nhất của Người. Không phải kim cương hạt xoàn hoặc đô-la, nhưng là chính Tình Yêu của Người. Người đã đặt trọn kho tàng đó ở trong Chúa Giê-su, đến độ “Cha ở trong con và con ở trong Cha” (Ga 17:21). Người muốn chia sẻ kho tàng Tình Yêu của Người cho ta qua Chúa Giê-su, cho nên thấy Chúa Giê-su là thấy kho tàng của Chúa Cha (Ga 14:9), ở lại trong Chúa Giê-su là ở lại trong Chúa Cha (14:23), và chiếm được Chúa Giê-su là chiếm hữu được “Nước của Chúa Cha.”
Khi đưa ra nguyên lý “đồng tiền liền khúc ruột”, Chúa Giê-su nêu lên một thái độ căn bản để có thể chiếm được Nước Trời, đó là phải có lòng quyến luyến, gắn bó với Nước Trời. Tại sao ta lại quyến luyến gắn bó với một vật gì đó? Là vì ta xác tín được giá trị của nó. Càng quý giá, ta càng tìm cách giữ gìn bảo vệ. Nhiều khi đã cất trong hộc ngân hàng rồi mua bảo hiểm mà ta vẫn lo ngay ngáy. Vậy đối với Nước Trời, với giá trị tuyệt đối, ta sẽ sẵn sàng “bán của cải” để có được kho tàng “không thể hao hụt, mối mọt cũng không đục phá.”
c) “Phải sẵn sàng luôn”
Giữ gìn kho tàng, nhưng không phải là thụ động. Đạo là kho tàng của ta, mà ta lại giữ khư khư chứ không sống đạo, thì kho tàng chẳng sinh ích lợi gì cho ta. Chúa Giê-su dùng một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do-thái để diễn tả thái độ sẵn sàng và chăm chỉ làm việc: “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.” Khi làm việc, người Do-thái ăn vận như vậy. Khi chuẩn bị cuộc lữ hành trở về Đất hứa từ Ai-cập, dân Chúa cũng làm như thế. Do đó, hình ảnh này nói lên thái độ sẵn sàng của Ki-tô hữu để đón tiếp Con Người, ở ngay cuộc sống trần thế này cũng như trong giây phút cuối cùng cuộc đời. Lúc nào cũng phải là thời gian của “Triều Đại Cha mau đến” đang được thực hiện nơi tâm hồn Ki-tô hữu.
Hoạt động để giúp cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến phải phù hợp với những khả năng và hoàn cảnh sống của ta. Ông Phê-rô đã đặt vấn đề với Chúa, hỏi xem có phải Chúa dùng hình ảnh ấy để nói về các tông đồ hay là về mọi người. Câu trả lời của Chúa đã làm sáng tỏ vai trò “quản gia” của các tông đồ, nhưng không có nghĩa là không ám chỉ mọi người. Tất cả đều là “quản gia”, phải sử dụng mọi tài năng của Chúa ban để làm ích lợi cho bản thân, gia đình, Giáo Hội và thế giới. Thêm một đặc nét nữa, đó là mọi người, từ Đức Giáo Hoàng cho tới người giáo dân, đều phải là những quản gia “trung tín và khôn ngoan.”
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có “sợ” vì không biết mai sau mình có được rỗi linh hồn không? Cái sợ của tôi là thứ sợ nào?
Tôi có tiếp nhận Chúa Giê-su như tất cả Nước Trời mà Chúa Cha đã “vui lòng” ban cho tôi không? Cách thức tiếp nhận của tôi như thế nào? Sự tiếp nhận ấy có biến đổi con người tôi thành con cái xứng đáng của Cha trên trời không?
Tôi đang làm gì cho vương quốc của Chúa Ki-tô với khả năng của mình?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ. Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em. Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con được tự do như Chúa. Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày sa-bát. Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật. Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng. Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 96)
* Kn 18,6-9: Con lành cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia.
* Dt 11,1-2.8-19: Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách (.) vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng (.) Tất cả các tổ phụ đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa ; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời.
* TIN MỪNG: Lc 12,32-48 Bán của cải đi mà bố thí (Mt 6:19-21)
(32) Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. (33) Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. (34) Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
Phải sa#n sàng chờ Chủ trở về (Mt 24:43-51)
(35) Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sa#n. (36) Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. (37) Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. (38) Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. (39) Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. (40) Anh em cũng vậy, hãy sa#n sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
(41) Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người? (42) Chúa đáp: Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? (43) Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. (44) Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. (45) Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, (46) chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
(47) Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sa#n sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. (48) Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
NGẪM
Câu hỏi gợi ý:
Qua các bài đọc hôm nay Giáo Hội muốn dạy ta điều gì? 2. Chúng ta phải sống đức tin như: TN 19-C72
1. Qua các bài đọc hôm nay Giáo Hội muốn dạy ta điều gì? 2. Chúng ta phải sống đức tin như thế nào? 3. Đức tin mang lại lợi ích gì cho ta?
Suy tư gợi ý:
Chủ đề các bài đọc hôm nay nói về việc sống đức tin
1. Sách Khôn ngoan (18,6-9)
Để củng cố đức tin cho dân Chúa đang sống tản mát giữa các dân ngoại, tác giả sách Khôn ngoan đã thuật lại việc Chúa giải thoát dân Do-Thái khỏi ách nô lệ Ai-Cập. Ngài là Thiên Chúa uy hùng (Xh 15,1-18), là sức mạnh của những kẻ yếu hèn , những kẻ tin vào Ngài. Sau nhiều tai ương gửi đến , nhưng Pharaô, vua Ai-Cập vẫn cứng lòng, Ngài đã giáng tai họa thứ mười làm cho các con trai đầu lòng của Ai-Cập phải chết và dân Do-Thái đã được giải cứu. Ngài đã cho dân vượt qua biển đỏ chân khô ráo, trong khi các binh hùng tướng mạnh của Pharaô đuổi theo dân Do-Thái bị vùi dập trong lòng biển.
2. Thư gởi Do-Thái (11, 1-2.. 8-19)
Cho chúng ta một gương mẫu tuyệt vời về đức tin của tổ phụ Apraham.Vì tin vào Chúa, ông đã sa#n sàng từ bỏ cha mẹ, quê hương để đi đến xứ mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho. Ôâng đã ra đi mà không biết mình đi đâu.Thiên Chúa hứa cho ông làm tổ phụ một dân tộc đông như sao trên trời , như cát bãi biển (St 23,17), thế mà đến lúc tuổi già ông và bà Xara vợ ông vẫn chưa có con nối dõi tông đường.Nhưng ông vẫn tin lời Chúa hứa sẽ được thực hiện. Niềm tin mãnh liệt đã giúp ông vượt lên trên những suy luận bình thường của một con người. Kết quả Thiên Chúa đã ban cho ông bà sinh hạ quý tử Isaac, người con của lời hứa.Niềm vui chưa tròn, Chúa lại bảo ông:".hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi Ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tình huống xem ra hoàn toàn bế tắc, nhưng Apraham vẫn một mực tin vào lời Chúa sa#n sàng dâng hiến con một yêu quý. Chúa đã hiểu lòng ông và trả lại Isaac cho ông. Chúa hứa cho ông một lãnh thổ rộng lớn từ sông Ai-Cập đến sông Cả, thế mà cho đến khi Xara, vợ ông qua đời, gia đình ông vẫn là khách ngụ cư, không có một mảnh đất cắm dùi. Ôâng đã phải mua đất để chôn cất bà. Apraham vẫn tin vào Thiên Chúa, Đấng Trung Tín (Dt 11,11) và vì thế # ông được kể là công chính (Rm 4,11), trở thành tổ phụ của hằng hà sa số dân tộc (St 17,4-5), là Cha của các kẻ tin. Lãnh thổ của dòng tộc ông không còn hạn hẹp trong vùng đất Canaan, mà đã mở rộng ra khắp năm châu. Nơi ông, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa:
"Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấùp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp" (Mt 19,29).
3. Tin mừng Luca (12, 32-48):
Đức Giêsu dạy ta sống đức tin qua việc:
"Bán của cải đi mà bố thí": Tiền bạc,tài sản là một sức mạnh cuốn hút con người mọi thời, mọi nơi. Người ta đề cao tiền bạc , coi nó như một vị thần:"Thần tài", và có tiền thì" mua tiên cũng được". Thực ra tiền bạc là con dao hai lưỡi. Nó có thể trở# thành cạm bẫy cho những ai tôn sùng nó. Tiền bạc làm sai lệch lương tâm,làm thay đổi lòng người:"Còn tiền còn bạc còn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết ông tôi" (NCT).Tệ nạn tham nhũng ngày nay đã trở thành quốc nạn, và trong chiều hướng đó, người ta khó mà quy hướng về Chúa: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa" (Mt 19,24).
Nhưng tiền bạc cũng là nguồn trợ lực xây dựng xã hội, thăng tiến con người: Người ta đã dùng tiền để làm biết bao công việc ích quốc lợi dân. Sử dụng tiền bạc đúng mức, không tham lam, gian dối chính là sống đức tin và như vậy tiền bạc trở thành lợi thế đưa ta đến với Thiên Chúa:
"Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời." (Luca 12,33).
Chúa cũng dạy ta phải tỉnh thức như người đầy tớ chờ chủ trở về: Tỉnh thức, sa#n sàng đó là phong thái của những người ngay lành, luôn làm tròn bổn phận, là những người trung tín, có lòng yêu mến chủ mình. Dù có chủ ở nhà hay không, họ vẫn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Đây cũng là một cách thể hiện lòng tin: Đức tin cho ta biết Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vì thế ở đâu và làm gì, người có lòng tin luôn sống ngay thẳng, làm việc cẩn thận và uy tín. Họ luôn được bình an và chắc chắn sẽ được Chúa khen thưởng. Tóm lại đức tin làm cho chúng ta được sống vui, sống hữu ích vì chúng ta đang bám vào Đá Tảng vững chắc là Thiên Chúa, Ngài chính là Chân Lý.
NGUYỆN
Lạy Chúa! Con cám ơn Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã ban cho con từ lúc sinh ra cho đến ngày hôm nay. Chúa đã gieo vào lòng con hạt giống đức tin. Con muốn tin yêu và bám chắc vào Ngài, nhưng nhiều lúc con còn chao đảo khi gặp những khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Xin Chúa tăng thêm đức tin cho con .
Hãy chuẩn bị, chuẩn bị và chuẩn bị! Chúng ta thường vận dụng mọi năng lực trong cuộc sống để: TN 19-C73
Hãy chuẩn bị, chuẩn bị và chuẩn bị! Chúng ta thường vận dụng mọi năng lực trong cuộc sống để chuẩn bị cho điều này hoặc điều nọ. Hai người nam và nữ chuẩn bị tiến tới hôn nhân qua việc hứa hôn với nhau. Một sinh viên hi sinh mọi cơ hội rong chơi để chú tâm học hành chuẩn bị cho bài vở trong mùa thi cử. Người lực sĩ ra công tập luyện khi ngày thi đấu cận kề. Một người trọng tuổi chuẩn bị cho cái chết đang đến. Nhưng cũng có những điều chúng ta hầu như quên mất việc chuẩn bị mà với bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta qua hình ảnh người đầy tớ trung thành và tỉnh thức.
Xuyên suốt hành trình đức tin trong cuộc sống, chúng ta là những người đầy tớ mà Chúa Giêsu nói tới trong dụ ngôn hôm nay. Ngài khuyến dạy chúng ta hãy "tỉnh thức và chong đèn" và hãy sa#n sàng khi chủ đi dự tiệc cưới trở về. "Hãy sa#n sàng mở cửa ngay khi ông ta gõ cửa". Nhưng chúng ta chuẩn bị thế nào và tỉnh thức như thế nào?
Đức tin chính là điều quan trọng nhất trong việc chuẩn bị này. Chúng ta tin rằng Ngài sẽ trở lại! Thư gửi tín hữu Do Thái đoạn 11 câu 1 nhắc nhở chúng ta rằng: "Đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng những điều bí ẩn". Với đức tin, chúng ta được trang bị để bắt đầu việc chuẩn bị. Với đức tin, chúng ta nên kiên cường trong lúc đón chờ lời hứa và lòng tín thành của Thiên Chúa.
Với đức tin, chúng ta cũng được dẫn tới việc kết hiệp với Thiên Chúa là Đấng chúng ta đang mong đợi. Việc khiêm tốn cầu nguyện hằng ngày cũng giúp chúng ta hướng về Thiên Chúa và đến gần Ngài. Chính lòng khao khát này sẽ đưa ta tới với Ngài và mỗi ngày mỗi nên giống hình ảnh Ngài hơn. Hơn nữa, lòng khao khát nên giống Ngài hơn sẽ trở thành hiện thực qua việc đón nhận Mình và Máu Ngài nơi bí tích Thánh Thể.
Dĩ nhiên sự chuẩn bị mà chúng ta đang thực hiện, đòi hỏi nhiều hi sinh. Nếu một người lực sĩ trong khi luyện tập phải hi sinh nhiều thời giờ và phải đổ nhiều mồ hôi cho ý nguyện của mình thế nào, chúng ta cũng phải hi sinh trọn vẹn trong cuộc sống cho việc chuẩn bị như vậy. Tất cả những điều chúng ta làm đều qui hướng về Thiên Chúa và dĩ nhiên trong nguồn ân sủng phong phú của Ngài. Nguồn ân sủng ấy sẽ giữ cây đèn của chúng ta được thắp sáng luôn mãi.
Nếu chúng ta nhìn lại mình một cách thành thật và khiêm tốn, chúng ta biết rằng chúng ta không thể làm được gì với sức riêng của chúng ta trong việc chuẩn bị này. Hãy dựa vào ân sủng và tình yêu của Chúa. Hãy cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ giúp chúng ta biết luôn sa#n sàng và tin tưởng. Ngài sẽ thắp sắng, hướng dẫn, ban sức mạnh và thánh hoá cõi lòng chúng ta trong lúc chúng ta vui vẻ đón chờ vị chủ nhân là chính Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại lần thứ hai.
Quảng cáo: Trên màn ảnh nhỏ ,người ta thấy một chú khỉ đột ngồi trong lớp học, lơ đãng và: TN 19-C74
Quảng cáo: Trên màn ảnh nhỏ ,người ta thấy một chú khỉ đột ngồi trong lớp học, lơ đãng và mơ màng ngủ. Được ném cho một viên kẹo “cao su” Cool Air, chú khỉ đột nhai ngay.Viên kẹo không chỉ giúp chú khỉ tỉnh táo, mà còn biến nó thành…một chàng trai trẻ! Không hề vô tình hay ngẫu nhiên!
Một số phương tiện thông tin đại chúng đã giới thiệu về “người đàn ông 35 năm không ngủ”. Đó là ông Thái Ngọc, năm nay 65 tuổi, ở xã Quế Trung, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Thời gian gần đây có nhiều đài truyền hình nước ngoài đến tận làng quê hẻo lánh ở Nông Sơn để làm phim về ông. Ông Ngọc cùng gia đình cho biết, mỗi đoàn đến làm phim từ 3-5 ngày, với gần chục camera đặt khắp trong nhà, ngoài sân và cả trang trại của ông. Họ ghi hình tất cả hoạt động của ông, không bỏ một chi tiết nào. Họ chia phiên để thức cùng và theo dõi công việc của ông Ngọc qua từng đêm không ngủ. Đoàn nào đến làm phim, khi chia tay ông ra về, cũng bơ phờ như “lính thất trận”, vì họ không quen “nghề” thức đêm như ông. Số tiền thù lao đoàn làm phim trả cho ông cũng không nhiều. Một người kỳ lạ: đã 35 năm chưa một lần chợp mắt! Trong phân tâm học, con người cũng có thể được coi là “không ngủ”: con người không chỉ hoạt động theo ý thức, mà còn bị chi phối và điều khiển bởi tiềm thức – (subconscient,- ví dụ tư tưởng trọng nam khinh nữ) và vô thức (inconscient, là những gì xuất phát từ bản năng; ví dụ mặc cảm Oedipe), tích tụ theo thời gian trong cuộc đời con người, mà ta không tự kiểm soát và làm chủ được. Chúng hoạt động suốt ngày đêm,khi con người làm việc, khi con người nghỉ ngơi và cả trong giấc ngủ.
Ngày nay, với tiến bộ khoa học, không phải con người giám sát máy móc,mà là ngược lại, những camera đủ kích cở, đủ tính năng, được gắn công khai hoặc giấu kín ở một nơi bí mật, theo dõi mọi hành động của con người. Gần như chẳng có gì thoát khỏi những “mắt thần” vốn luôn thức tỉnh bất kể ngày đêm nầy. Nhưng rồi không chỉ trong phim ảnh, mà thực tế xảy ra từ những vụ cướp ngân hàng, - những nơi được bố trí camera và đủ loại thiết bị an toàn, chống trộm tối tân nhất – cho thấy những lỗ hổng kỹ thuật chết người. Đơn giản là con người chế tạo chúng,thì cũng có thể khắc phục,chế ngự chúng. Vụ rò rỉ hàng chục ngàn trang tài liệu mật cuối tháng bảy vừa qua,do WeakiLeaks tung ra, khiến Lầu Năm Góc phải điên đầu, là một bằng chứng.
Những ngày qua, các phương tiện truyền thông trong nước dồn dập lên tiếng báo động: bên cạnh vô số sách báo, truyện tranh dành cho thiếu nhi mang nội dung bạo lực và đồi trụy được bày bán vô tội vạ, vì phần lớn do các cơ quan nhà nước cấp phép in ấn, người ta thấy những học sinh,sinh viên “tỉnh thức” đến kiệt sức,bỏ bê công ăn việc làm,bỏ bê học hành, vì nghiện “games online”. Những lỗ hổng giáo dục nầy đã dẫn tới những tệ nạn khiến người ta khó tin vào tai mắt mình: trộm cắp,hãm hiếp,giết người, ca`ch sống buông thả, tự tử và bệnh hoạn. Bất cứ ai còn tâm huyết với đất nước nầy, cũng thấy bất an và bất lực. Giới hữu trách, theo thói quen vô trách nhiệm, đã vội vàng phản ứng bằng việc đưa ra vài ba biện pháp chẳng giống ai,chỉ để khỏi mang tiếng ăn không ngồi rồi.Thật khó mà tin chuyện cặp vợ chồng Hàn Quốc vì mải mê chơi ‘games’, mà bỏ đứa con ba tháng tuổi chết đói, trong khi lại mê say “nuôi” một nhân vật ảo tên là “Anima” trong trò chơi có tên “Prius online”. Và đã không có ít những cái chết do thức đêm suốt nhiều ngày.
Hai câu thơ trong sách giáo khoa lớp 2: “Bố tan ca đêm,mẹ vào ca sáng”, phản ánh sinh hoạt thời đại công nghiệp, cũng làm cho tâm trạng chúng ta bất an và lo sợ: ngày nay, cụm từ ‘thành phố không ngủ” không còn dành riêng cho Paris,New York, Hong Kong hay Las Vegas nữa, mà hàng ngàn thành phố trên thế giới “không ngủ”, trong những “cuộc vui suốt sáng,trận cười thâu đêm” như một dòng thác truy hoan,dâm ô,trác táng và xa hoa nhận chìm con người không ngừng nghỉ. Hai câu thơ dành cho trẻ em nầy còn nhắc cho chúng ta rằng: một nửa nhân loại không ngủ, - vì lệch múi giờ,- cũng có nghĩa là cả thế giới luôn có ít nhất một nửa vẫn thức và vẫn diễn ra mọi hoạt động chính trị,kinh tế,xã hội,tôn giáo, bạo lực, chiến tranh và những gì đen tối, xấu xa, tàn bạo . Nhưng điều đáng lo ngại nhất mà hai câu thơ ngắn dành cho trẻ thơ nhắc nhở chúng ta, ấy là những nguy hiểm mà hôn nhân và gia đình phải đương đầu, nhất là với công nhân,thợ thuyền: do làm ca, kíp, vợ chồng hầu như không mấy khi gặp nhau, để gia đình có được những giờ phút sum họp. Mệt mỏi, cô đơn cùng với sự gần gũi người khác giới trong công việc trong thời gian dài, đã khiến người ta dễ mất cảnh giác và sa vào cám dỗ ngoại tình, phá tan hạnh phúc hôn nhân và gia đình.
“Đêm tối và ánh sáng” (nguyên bản tiếng Anh: One Child, tác giả: nhà văn nữ Torey Hayden) là câu chuyện có thật về một bé gái bị chính mẹ ruột bỏ rơi trên đường cao tốc khi vừa mới bốn tuổi. Sống sót sau những biến động kinh hoàng, cô bé đã không bao giờ nói, cũng chẳng bao giờ cười. Sau khi thiêu sống một đứa bé hàng xóm bất thành, cô bé được đưa vào một lớp học dành cho những trẻ em bị thiểu năng nghiêm trọng. Bằng sự kiên nhẫn, kỹ năng của một nhà giáo và trên hết là một tình thương yêu kiên định, Torey Hayden đã chiến đấu bền bỉ để giúp đứa bé thoát khỏi những nỗi ám ảnh ác nghiệt, bên cạnh bảy đứa bẻ gần đồng trang lứa mang những chứng bệnh khác nhau: Peter bị chứng cho giật và có hành vi bạo lực; Tyler mới tám tuổi nhưng đã hai lần toan tự tử; Max sáu tuổi và Freddie bảy tuổi bị chứng tự kỷ bẩm sinh; Sarah bảy tuổi nhưng bị chính cha ruột lạm dụng thể xác; Susannah bị tâm thần phân liệt từ bé;William sợ đủ thứ,kể cả bụi dưới gầm giường; Guillermo thì khiếm thị và hung hăng. Những đứa trẻ như thế thường chẳng còn chút hy vọng nào để hòa nhập với cuộc sống bình thường. Nhưng điều đó không ngăn cản Torey làm nên điều kỳ diệu. “Đêm tối và ánh sáng” là câu chuyện cảm động về hành trình của hy vọng, lòng can đảm, sự cống hiến vô điều kiện và tình yêu thương bao la. Những nỗ lực và hy sinh không mệt mỏi của cô giáo Torey Hayden đã giúp cho đám trẻ vượt qua “đêm tối” cuộc đời và tìm lại được “ánh sáng” phẩm giá con người.
“Chúng ta đang trong thời chiến” (We are at war). Đó là lời nhắc nhở của Đức giám mục Robert W.Finn đưa ra trong Hội Nghị Phúc Âm Sự Sống (Gospel of Life Convention) ngày 19.04.2009. Cuộc chiến giữa sự lành và sự dữ, giữa thiên đàng và hoả ngục, giữa đêm tối và ánh sáng. Không ai lâm trận đơn thương độc mã. Chúng ta chiến đấu với sức mạnh của Ơn Chúa, với sự trợ lực của các thiên thần và các thánh,nhưng là “hiệp đồng chiến đấu”, với mọi thành phần Dân Chúa. Bổn phận chúng ta không chỉ có tự giải cứ mình, vươn khỏi đêm tối để luôn đi trong ánh sáng, mà còn phải “cầm đèn cháy sáng”, trở thành ánh sáng soi đường cho anh em, phá tan đêm tối. Satan không ngủ và luôn tấn công điên cuồng Giáo Hội và mỗi con cái Giáo Hội bằng mọi cách thế, mọi phương tiện, mưu mô xảo quyệt. Satan luôn biết làm con người mất cảnh giác bằng sự tự cao tự mãn, bằng kiêu căng khinh địch và bất tuân. Chỉ cần một phút lơ là, con cái chúng ta, hôn nhân và gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, sẽ trở thành những nạn nhân cuộc chiến không khoan nhượng nầy. Thiên Chúa, Đấng phù trợ và canh giữ chúng ta,cũng không ngủ,như lời Thánh Vịnh 120:” Đấng canh giữ Israel không khép mắt chợp mi. Chính Chúa là Đấnh canh giữ bạn.Chính Chúa là Đấng vẫn chở che. Người luôn ở gần kề”. Lỗi ở chúng ta, điều làm cho chúng ta để hở cạnh sườn,lộ “gót chân Achille” cho ma qủy tấn công (và không ít lần hạ thủ chúng ta), là sự thiếu tin cậy mến nơi Thiên Chúa, không cố gắng để chiến đấu chống lại ba thù, cho dù có trong tay những vũ khí mạnh mẽ, như Thánh Thể, các Bí Tích, Chuỗi Mân Côi. Aide-toi, le ciel t’aidera: hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn. Không ngồi chờ sung rụng. “Ai chiến thắng không hề chiến bại? Ai nên khôn, không khốn một lần?” ( Dậy mà đi, Nguyễn Xuân Tân ). Lời tướng De Gaulle có giá trị với chúng ta mỗi lần qụy ngã:”perdre une bataille, non pas perdre la guerre” ( thua một trận đánh,chứ không phải thua cả cuộc chiến). Quan trọng là biết đứng dậy và tiếp tục chiến đấu,nhưng ý thức hơn sự mỏng dòn yếu đuối của mình, để cậy trông vào ơn Chúa. Xin lập lại:”chúng ta đang ở thời chiến”!
Có hai loại vô dụng trong mọi xã hội hoặc cộng đồng, nhưng không ít Kitô hữu có cuộc sống và hành xử chẳng hề khác với chúng:
1. Tiến sĩ giấy!
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai […]
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi! (Nguyễn Khuyến)
2. Thằng bù nhìn!
Lơ láo kìa ai đứng cạnh bờ
Trần ai tri kỷ đã ai chưa? […]
Lâu nay thiên hạ văn minh cả
Bác mấy ngàn năm vẫn thế ư? (Tản Đà)
ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 61 HÃY HÁT LỜI YÊU – THÁNH VỊNH 61 UY QUYỀN VÀ NHÂN HẬU: CHÍNH LÀ THIÊN CHÚA…
Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng để người ta đặt hết cậy tin nơi Người.
Người ta có thể cậy tin nơi Người chống lại bất cứ thế lực nào ở thế gian, dưới bất cứ áp bức nào.
Chính nơi Người – và đó là bí quyết đức tin và đó là lời cuối cùng của Thánh Vịnh nầy - nơi Người hợp nhất và trộn lẫn vào nhau bất khả phân ly Sự Toàn Năng và Lòng Nhân Hậu Vô Biên.Chúng ta có thể phó thác nơi Thiên Chúa, ngay cả khi mọi sự lung lay trong chúng ta và có vẻ như chúng ta sắp bất ngờ sụp đổ hoàn toàn, như một bức tường bị xô đẩy mạnh.Bấy giờ phải im lặng để nhắc nhủ lòng sự tin tưởng và bình an. Con người là gì? Sức mạnh của con người là gì? Nó không nặng hơn một hơi gió thoảng trong cái cân của Thiên Chúa. Hãy chú tâm không để chúng ta đi tìm cứu giúp trong sức mạnh con người nầy.
Tháng ngày không đủ để đong đầy nỗi nhớ. Cuối cùng chỉ còn niềm hy vọng, chứ chưa chắc đa: TN 19-C75
Tháng ngày không đủ để đong đầy nỗi nhớ. Cuối cùng chỉ còn niềm hy vọng, chứ chưa chắc đã là sự thật.
Mùa thu xưa ngập lối
Lá vàng bởi yêu anh
Mùa này lá còn xanh
Hy vọng còn em đợi.[1]
Nhưng có một cuộc hẹn chắc chắn sẽ thành sự thật. Cuộc hẹn với Con Người ! Sau bao ngày xa vắng, cuộc hẹn có xoi mòn niềm tin nơi người đầy tớ trong dụ ngôn hôm nay không ? Hình ảnh trái ngược nơi người đầy tớ thất tín càng làm nổi bật hình ảnh tươi đẹp nơi người đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Niềm hy vọng chắc chắn sẽ biến thành sự thật nơi những người giữ vững niềm tin qua một hành trình lâu dài.
ĐIỂM HẸN
Tin Mừng Chúa Nhật trước trình bày một thần tượng trần gian bị sụp đổ. Đó là ông phú hộ ngu ngốc. Tin Mừng tuần này trình bày một người đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Có lẽ ngất ngưởng trên cao, con người bị lóa mắt đến nỗi không thể thấy điểm hẹn lớn của cuộc đời ? Thực tế, không phải địa vị sẽ quy định thái độ.
Điểm hẹn ở đây không phải là một điểm nào ngoài không gian hay thời gian. Điểm hẹn là chính nơi mình đang sinh sống. Chỉ cần ý thức “Con Người sẽ đến,” (Lc 12:40) tình hình sẽ biến đổi. Chính thái độ tỉnh thức sẽ phân biệt và quyết định số phận hai hạng người đầy tớ. Nhưng trước tiên, ai dám nhận mình là người đầy tớ ? Làm chủ vẫn là khuynh hướng chung của mọi người. Làm chủ có nhiều quyền hành, thanh thế và phương tiện hơn. Chỉ có người đầy tớ mới là vô sản và bất lực.
Người đầy tớ đích thực bao giờ cũng nhớ tới ông chủ và sẵn sàng đón chờ ông chủ trở về. Không những thế, anh ta còn mau mắn phục vụ. Chủ về bất cứ giờ nào cũng đều thấy anh túc trực mở cửa. Chủ không đi về theo một chương trình cố định. Muốn phục vụ đúng tư cách một người đầy tớ tốt, cần phải cảnh giác về thời gian. Thời gian sẽ quyết định mọi sự. Chính thời gian đưa con người đến và đi ra khỏi cuộc đời.
Trong thời gian đợi chủ về, nhưng người đầy tớ phải làm gì ? Dù lên tới chức quản gia, anh vẫn phải chu toàn mọi việc chủ giao phó. Anh phải lo ổn định mọi việc trong nhà để mọi người yên tâm làm việc. Có thế, anh mới là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Được tín nhiệm, anh được ông chủ giao tất cả tài sản. Không còn phần thưởng nào lớn hơn !
Bên cạnh người đầy tớ trung tín, dụ ngôn còn cho thấy vẻ kệch cỡm của tên đầy tớ bất tín và bất công. Thái độ hống hách đối với những người dưới quyền tiết lộ bản chất thấp hèn của người đầy tớ. Rõ ràng sự thất tín biểu lộ trong thái độ bất công và ích kỷ của người đầy tớ xấu xa. Sở dĩ có thái độ đáng trách đó, vì anh cố tình quên bổn phận đối với ông chủ. Trước cùng một biến cố ông chủ trở về, đầy tớ trung tín thấy là một tin vui, đầy tớ bất tín lại coi đó như một hung tín, vì anh sẽ bị loại trừ và bị xếp vào loại phản bội. Số phận anh đã bị định đoạt.
Sở dĩ anh có thái độ bất công đối với thuộc quyền, vì tương quan với chủ quá lỏng lẻo. Anh cố tình lãng quên thời gian đang đẩy bàn chân ông chủ đến gần. Yếu tố thời gian xuất hiện trong dụ ngôn này rất nhiều lần (12:36, 38, 39, 40, 42, 45, 46). Đó là một điểm mốc vô cùng quan trọng, nhưng lại bị lãng quên nhiều nhất. Không biết đến giới hạn thực tế đó, người đầy tớ trở thành bất tín và bất công. Thời gian đã làm hư hỏng con người. Càng sống lâu càng xa dần với lý tưởng ban đầu.
Lý tưởng ban đầu bắt nguồn từ chính ý chủ. Không phải vô tình ông chủ đã chọn một số người làm đầy tớ giúp việc nhà. Khi tuyển chọn họ, không những ông muốn mọi công việc phải tốt đẹp, nhưng còn muốn tạo một cộng đoàn được xây dựng trên tinh thần trách nhiệm, tình yêu và công lý. Mặc dù biết rõ ý chủ như thế, người đầy tớ bất tín vẫn làm mọi sự để thỏa mãn bản năng và tham vọng của mình. Sự hiểu biết và hành động không đi đôi.
TỪ DỤ NGÔN SANG THỰC TẾ
Phải chăng hình ảnh người đầy tớ không xứng đáng với vai trò làm con cái hay môn đệ Chúa Giêsu ? Thực ra, chính Chúa Giêsu cũng được tiên báo là người đầy tớ đau khổ (Mt 12:18-21; Cv 3:13). Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa đã làm công việc của một người đầy tớ (Ga 13:12-17). Người đến để phục vụ (Mt 20:25-28; Pl 2:5-8). Người sống giữa các môn đệ như một người đầy tớ (Lc 22:27). Bởi thế, các tông đồ rất vui sướng và hãnh diện là người tôi tớ của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô.
Chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta làm tôi tớ phục vụ Người (Gc 1:1). Đó là một vinh dự lớn lao. Thánh Phaolô cũng hãnh diện vì được kể vào trong số “những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.” (1 Cr 4:1) Như vậy, cần phải được tuyển chọn, nghĩa là được nâng cao và xếp loại đặc biệt, chứ không phải bị xỉ nhục và loại bỏ khi thấy mình được gọi là tôi tớ Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô. Không có gì mâu thuẫn giữa danh hiệu tôi tớ và bạn hữu hay con cái Thiên Chúa. Đúng hơn, một người bạn hữu hay con cái của Thiên Chúa phải nên giống Đức Kitô trong cung cách phục vụ của người tôi tớ.
Không chỉ là tôi tớ Thiên Chúa hay Đức Giêsu Kitô, chúng ta còn phải là tôi tớ phục vụ lẫn nhau nữa (Gl 5:13; 1 Cr 9:19-23). Làm như thế, chúng ta có bị mất nhân phẩm không ? Khi phục vụ con người đến nỗi chết trên thập giá, phẩm vị Đức Giêsu không giảm bớt chút nào, trái lại còn được Thiên Chúa vinh thăng lên chín tầng trời (Pl 2:8-9). Càng phục vụ càng được chia sẻ sứ mệnh tôi tớ và vinh quang của Chúa.
Được kêu gọi làm tôi tớ không phải để phục vụ thị hiếu mọi người. Trái lại, chúng ta được sai đi để phục vụ sự công chính (x. Rm 6:18). Đó là con đường nên thánh của chúng ta. Con người ấu trĩ thường sống rất ích kỷ, không bao giờ nghĩ tới, chứ đừng nói đến việc hy sinh hay phục vụ người khác. Bởi thế, càng phục vụ tha nhân, càng chứng tỏ mình quan tâm tới những nhu cầu của người khác. Càng quan tâm tới tha nhân, càng trưởng thành trong nhân cách và lớn lên trên con đường thiêng liêng. Người tôi tớ bất tín lộ rõ thái độ ấu trĩ, khi hống hách đập đánh các tôi trai tớ gái của chủ. Làm như thế, rõ ràng anh không quan tâm chút nào tới nhu cầu của người khác. Trái lại, “một người tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô” (Gl 1:1) không thể không lo lắng phục vụ tha nhân. Đó là những điều kiện và dấu chỉ sự trưởng thành thiêng liêng.
Trong Cựu ước, các nhà lãnh đạo Israel nổi tiếng là những tôi tớ Chúa. Họ thúc đẩy dân chúng tuân theo truyền thống và phong tục để giữ nếp sống thánh thiện. Đức Giêsu nói về họ và các môn đệ như những người được Thiên Chúa âu yếm ban “Nước Trời.” (Lc 12:32) Trong thời gian chờ đợi Thày trở lại, họ phải tránh tham lam và giàu có, như Đức Giêsu đã dạy. Ngày trở lại, Thày sẽ trở thành Tôi tớ của những người tôi tớ.
Đức Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều và kỳ vọng các ông sống như các người tôi tớ thi hành các giáo huấn đó. Như các nhà lãnh đạo Do thái, các môn đệ Chúa Giêsu cũng phải trung thành với các giáo huấn. Muốn trở thành môn đệ đích thực, bắt buộc phải lắng nghe và thực hành giáo huấn đó. Đó là một đòi hỏi khắt khe nhất. Nhưng Chúa dạy gì, nếu không phải là bán tất cả của cải mà mua lấy Nước Trời (x. Lc 12:32-33) ? Nước Trời chính là “một kho tàng không thể hao hụt.” (Lc 12:33) Kho tàng ấy nằm trong người nghèo. Bởi vậy, Chúa mới nói: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí.” (Lc 12:32)
ÔNG CHỦ HAY ĐẦY TỚ
Nét khác biệt giữa ông chủ và đầy tớ rất rõ. Nhưng có lẽ giữa đầy tớ và đầy tớ rất khó phân biệt biên giới ngăn cách. Nhìn vào hai hạng đầy tớ đó, chúng ta thấy mình nghiêng theo bên nào ? Nếu tin tưởng vào điểm hẹn cuối cùng là Nước Trời và kiên nhẫn chờ đợi giờ Chúa đến, chắc chắn chúng ta sẽ thấy ý Chúa đang mở ra một cơ hội phục vụ mới. Cơ hội đó dành cho những ai ý thức mình là đầy tớ Thiên Chúa như Đức Giêsu. Người đầy tớ không còn gì để mất, nhưng có quá nhiều việc làm để thi hành ý chủ và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Thật khó kiếm những đầy tớ lý tưởng trong xã hội và Giáo hội hôm nay.
Đọc những trang báo hay mạng lưới Công giáo ít tháng qua, người ta không khỏi liên tưởng tới cảnh “gà mù ăn quẩn cối xay.” Vì ăn quẩn, nên gà mù không tìm được lối thoát và luôn tìm cách đấu đá nhau. Có nhiều người chuyên đả kích và thách đố những cây viết Hải Ngoại. Cùng một tâm huyết và cùng một đối tượng phục vụ, nhưng hình như một số người trong nước không muốn cho Hải Ngoại “xía vô” những chuyện xảy ra tại quê nhà. Theo họ, Hải Ngoại không nắm bắt thực tế tại chỗ và không dám dấn thân, nếu không nói là trốn chạy hèn nhát. Tranh đấu cho công lý và nhân quyền, chúng ta lại bị kết án làm chính trị đảng phái. Thử hỏi khi lên tiếng phản đối Hêrôđê và chế độ bất công và vô luân của ông, Gioan Tẩy Giả có làm chính trị đảng phái không ?
Gioan Tẩy giả quả thực là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Ông là mẫu điển hình cho những ai muốn tranh đấu cho con người, mà không làm chính trị. Ông là ngọn lửa soi cho xã hội bị bóng những ông phú hộ che khuất mặt trời.
Trên đất nước thân yêu biết bao phú hộ thời đại đang thi nhau che bóng mặt trời. Ai cũng muốn làm chủ. Chẳng ai chịu làm người đầy tớ phục vụ nhân dân ! Sau bao nhiêu năm cách mạng, Việt nam đã tiến tới đâu ? Nhìn vào thống kê trong nền giáo dục Việt nam năm nay, ai cũng thấy một cuộc tuột dốc thê thảm. “Tin tức từ Việt Nam hôm nay cho biết, có đến nửa triệu thí sinh Việt Nam trượt kỳ thi đại học và phải tìm kiếm cơ hội ở các bậc học vấn khác. Mặt khác, theo báo cáo vào năm 2006 của ngân hàng thế giới thì Việt Nam đang bị tụt hậu sau các quốc gia khác trong khu vực, chỉ có 2% dân số được học tập trong thời gian 13 năm hoặc nhiều hơn. Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực Châu Á nếu xét theo tỷ lệ trong độ tuổi từ 20 đến 24, với 10% học lên tới đại học. Tỷ lệ này ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan 41% và Hàn Quốc là 89%.”[2]
Ôi “đỉnh cao trí tuệ loài người” ! Bao giờ mới thấy được giới hạn của mình ?!
Trước tình trạng bi đát ấy, ngày 08.08.2007 vừa qua, ông Michael Marine, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam hôm nay tuyên bố tại trường quản trị kinh doanh tại thành phố Sàigòn rằng: “Nền giáo dục không phải là đổ cho đầy một cái xô mà là thắp lên một ngọn lửa.”[3]
Liệu GHVN có dám thắp lên một ngọn lửa không ? Chỉ khi nào trở thành người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, GHVN mới có thể thắp lên ngọn lửa sáng là Đức Kitô ! “Thiên Chúa đòi hỏi mọi người thực thi công lý và đòi hỏi Giáo hội thực thi đức thanh bần. Bao lâu Giáo hội không đón nhận toàn bộ giáo huấn của Tin Mừng thì chẳng ai chịu nghe lời kêu gọi thực thi công lý của chúng ta đâu.”[4]
Chúa nói “đừng sợ !” Bao giờ GHVN mới thoát khỏi nỗi sợ dù chỉ là “đoàn chiên nhỏ bé” giữa nanh vuốt sói rừng?
Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm phục vụ mọi người để quê hương yêu dấu chúng con sớm nhìn thấy ngọn lửa rực sáng là Đức Kitô . Amen.
Có người bi quan bảo rằng: “Sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần: TN 19-C76
Có người bi quan bảo rằng: “Sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh – bệnh – lão – tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tùy tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22.000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
***
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích . . . Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tùy theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Đừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Đừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen!
Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước: TN 19-C77 FB
Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2. Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre, Con cá ở trọ trong khe nước nguồn… Môi xinh ở trọ người xinh, Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều… Tôi nay ở trọ trần gian Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
Là người quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
Là quản lý không ngoan, ta phải biết nhìn xa. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.
Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ. Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực sự không phải là của bạn không?
2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa chưa?
3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn ngoan?
4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?
Nối tiếp với Tin Mừng Chúa Nhật tuần 18 vừa qua, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn cụ thể hơn: TN 19-C78
Nối tiếp với Tin Mừng Chúa Nhật tuần 18 vừa qua, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn cụ thể hơn, vì phần rỗi của chúng ta. Ngài dạy chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng:
Hướng lòng về Nước Thiên Chúa
Trước tiên là phải ngộ ra những thực tại trần thế là phù vân, chóng qua, hư nát để không bám víu, nặng lòng với của cải thế gian, không bị những thứ bả phù vân khống chế, làm chủ chúng ta, nhưng chúng ta hãy làm chủ đời mình. Bước bứt phá tiếp theo là hướng lòng đến thực tại vĩnh hằng là Nước Thiên Chúa, là Sự Sống Đời Đời qua Đức Giêsu Kitô. Gọi là bước bứt phá vì phải chiến đấu gian khó với những cuốn hút thế gian vẫn luôn đầy hấp dẫn, ngoạn mục.
Một trong những cách chiến đấu để chiến thắng cụ thể là sử dụng của hay hư nát mà mua lấy Nước Thiên Chúa quý giá vô cùng, bằng cách sẵn sàng thực hành Đức Bác Ái:
"Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên Trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó” ( Lc 12, 32 – 34 ).
Sống trong tình trạng ân sủng
“Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” ( Lc 12, 35 ): Hãy sống trong ơn nghĩa Chúa, sống trong tình trạng ân sủng.
Tôi vẫn nhớ mãi lời dặn dò của cha mẹ, tuy cũ kỹ, cổ xưa, nhưng thiết nghĩ vẫn luôn hợp thời: “Làm gì thì làm, nhưng trước tiên phải sạch tội trọng, nghe con”. Lời vàng ấy có thể đã múc từ ánh sáng Lời Chúa hôm nay “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” mà có thể thế hệ con cháu sau này không thực hiện được: vì không được học Giáo Lý cho đến nơi đến chốn, không phân biệt được điều làm đẹp lòng Chúa và điều làm mất lòng Chúa kinh khủng là dường nào, hoặc vì quá ỷ lại vào lòng thương xót Chúa mà tự tha tội cho mình.
Thêm vào đó, một số người thời nay đang theo một hướng suy nghĩ thật nguy hiểm: làm việc tông đồ, làm công tác từ thiện và thực hành đức bác ái song song với tình trạng mất ân sủng trong chính tâm hồn mình. Một cách ngụy biện rằng việc tông đồ và đức bác ái có thể khỏa lấp những tội lỗi. Một sai lầm nguy hiểm. Một tình trạng “không thắt lưng, không sẵn sàng”.
Thiên Chúa vẫn biết rằng “mẹ con đã thai con trong tội” và chúng ta làm kiếp người với ảnh hưởng của tội nguyên tổ, luôn hướng chiều về điều tội lỗi hèn hạ thấp kém không xứng với nhân phẩm con cái của Thiên Chúa, làm ô uế đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nên Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước mới của lòng tha thứ qua Đức Kitô nơi Bí Tích Hòa Giải, để chúng ta có thể tìm lại tình trạng ân sủng, bình an.
Thế nhưng, ma quỷ vẫn không muốn chúng ta thắt lưng để sẵn sàng, nên đã níu kéo chúng ta chần chừ đến với Bí Tích Hòa Giải, chần chừ nối lại tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa. Đợi đến bao giờ ? Xin đừng xem thường Bí Tích Hòa Giải nữa, vì trở về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải vẫn luôn là điều kiện ắt có và đủ để bảo đảm cho chúng ta một sự sẵn sàng đón Chúa đến. Đây không phải là một Giáo Lý đã lỗi thời, nhưng luôn luôn là một đòi hỏi cấp bách, một ngõ vào với Nước Thiên Chúa, một cửa hồng ân, cũng là một ngõ vào của Thiên Chúa để Ngài đến với mỗi con người bất cứ lúc nào Ngài muốn: “Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến" ( Lc 12, 40 ).
Chu toàn bổn phận
Tỉnh thức và sẵn sàng còn là chu toàn bổn phận Chúa giao phó trong bậc sống của mình với tư cách là quản lý cho Thiên Chúa. Mỗi người có một số tài sản được Chúa giao quản lý: tài sản ấy là đoàn chiên đối với các chủ chiên, là con cái đối với những người làm cha mẹ, là học trò đối với những người làm thầy cô giáo, là bệnh nhân đối với các bác sĩ...
Khi Chúa đến, hẳn là mỗi người sẽ phải trả lời về tài sản mà Chúa giao đã sinh lợi như thế nào, hẳn là Chúa sẽ không hỏi về những tài sản mà Chúa không giao phó. Các Giám Mục, Linh mục nhận một tài sản lớn lao là linh hồn các con chiên và bổn phận chăn dắt đoàn chiên thật cao cả, nhưng cũng là một trọng trách. Những người sống bậc hôn nhân, thì gia đình vợ chồng con cái là tài sản quý giá Chúa ban để sinh lợi cho Chúa.
Có những người ngày đêm nhiệt tình với công việc của Giáo Xứ, của Giáo Hội, mà lại bỏ bê công việc nhà cửa, tình cảm vợ chồng, bổn phận với con cái, sinh ra những bất hòa trong gia đình gây nên gương mù gương xấu thì quả thật là vô lý. Lương tâm bác sĩ cũng không cho phép cứ nhận đều đều đầy đủ lương tháng là chính, còn việc cứu người thì tùy ở thủ tục đầu tiên của thân nhân.
Tài sản ấy còn là thân xác, sức khỏe, khả năng, tiền bạc, sự nghiệp của mỗi người mà Chúa đã trao cho để chúng ta quản lý và làm cho sinh lợi hoa trái. Ngày nay có rất nhiều người lo lắng cho sức khỏe bằng việc dùng các loại thực phẩm dinh dưỡng, tập thể dục, kiêng khem… thế nhưng cũng không thiếu những người lao mình vào những cuộc ăn chơi trác táng như sì ke, ma túy, mãi dâm dẫn đến tình trạng tàn tạ, bịnh hoạn.
Nhớ ngày mẹ sinh con đỏ hồng, rồi nuôi con bằng dòng sữa ngọt, bằng chính sự sống của mình để vui mừng thấy con đẹp trai, xinh gái khỏe mạnh, thông minh, khôn ngoan… bây giờ, nhìn con xanh xao tàn tạ, điên khùng, say máu… lòng mẹ nào chịu nổi.
Thiên Chúa cũng không muốn con người phung phí thân xác mình, thân xác mà Thiên Chúa đã tạo sinh xinh đẹp. Trước mặt Chúa, họ đã phung phí tài sản Chúa ban để phục vụ cộng đồng nhân loại, lại trở thành gánh nặng cho người khác. Dẫu biết rằng họ vẫn là điểm nhắm của tình thương Thiên Chúa, Thiên Chúa không bỏ rơi họ, nhưng ít là họ cũng đã một lần phá sản.
Chu toàn bổn phận Chúa giao phó vừa là tỉnh thức vừa là một lẽ công bằng đối với hồng ân Chúa ban. “Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn” ( Lc 12, 48 ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khát khao sự sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng con biết gìn giữ sự kết hiệp toàn vẹn với Chúa trong ân sủng, và chu toàn bổn phận chúng con trong khi mong chờ Chúa đến. Amen.
Chúa Nhật hôm nay nói đến tinh thần sống đức tin của chúng ta trong cuộc đời trần gian chóng qua: TN 19-C79
Chúa Nhật hôm nay nói đến tinh thần sống đức tin của chúng ta trong cuộc đời trần gian chóng qua này. Bài Đọc I (Sách Khôn Ngoan 18:6-9): Các Tổ phụ xưa đã sống vất vả, nhưng luôn trung thành giữ các giới răn Chúa và luôn sống như những người công chính và đáng được ca tụng qua muôn thế hệ. Bài Đọc II (Thơ Do Thái 11:1-2,8-19): Thánh Phaolô nêu ra một gương mẫu sống Đức Tin của các tổ phụ xưa, đó là ông Abraham: Ông đã đáp lại tiếng Chúa gọi để đi đến “miền đất Chúa đã chỉ cho ông” và suốt đời ông đã tin tưởng và vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự; ông xứng đáng được kể như Tổ Phụ của những người hoàn toàn đặt niềm tin nơi Chúa và suốt đời phụng sự Chúa. Bài Phúc Âm (Luca 12:32-48): Chúa Giêsu nêu lên một thực tại là chúng ta đều phải trải qua cái chết và cái chết đến “vào lúc mà chúng ta không ngờ,” nên chúng ta hãy luôn sống sẵn sàng bằng cách hết lòng thờ phượng Chúa, giữ các giới răn Chúa và hãy luôn quảng đại làm việc từ thiện giúp đỡ những người nghèo khó trên thế giới này.
Trong thánh vịnh 102 có câu “Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa sớm nở tối tàn…”(câu 15). Trong Bài Phúc Âm Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy cuộc đời này chỉ là cuộc đời tạm thời, cuộc đời sau mới là vĩnh cửu. Cha ông chúng ta đã biết rõ điều đó nên cũng nói cuộc đời thoáng qua như “ngựa qua cửa sổ!” vừa thấy đó mà đã qua rồi; vì thế mới có câu nói “Sinh Ký Tử quy!” “sống gửi thác về!” Về đâu? Về với Chúa là Cha, là Đấng đã dựng nên chúng ta, về quê hương thật nước Chúa.
Như vậy, chúng ta là những tín hữu của Chúa, chúng ta phải sống Đức Tin như thế nào khi còn sống ở cuộc đời chóng qua này.
Thái độ sống đức tin đầu tiên là hãy luôn sống “Tỉnh Thức” “Sẵn Sàng” đón nhận Chúa đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Nói thế không phải để chúng ta sống bi quan, sống thụ động, sống sợ hãi, chỉ lo chờ chết. Chắc chắn không phải như vậy. “Sống Sẵn Sàng” là luôn sống ý thức giây phút hiện tại để lo chu toàn bổn phận của mình, như bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ đối với con cái, bổn phận với quốc gia, với nhân quần xã hội. Tích cực hơn nữa là biết sống bác ái, vị tha, làm việc từ thiện giúp đỡ những người nghèo khó; đừng quá ham mê tích trữ của cải, đừng quá bám víu vào những thực tại trần gian. Chúng ta hãy đọc chính Lời Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay: “Hỡi các con yêu quý, các con đừng sợ! Cha các con luôn vui lòng ban Nước Trời cho chúng con. Hãy ‘bán đi’ những của cải mình có mà làm việc từ thiện. Hãy sắm sẵn những ‘túi tiền’ không bao giờ hư nát, một ‘kho tàng’ không bao giờ hao mòn ở trên trời….Vì kho tàng của chúng con ở đâu, thì lòng chúng con cũng ở đó!” (Luca 12:32-34).
Đó là thái độ sống Đức Tin khôn ngoan của các bậc Tổ Phụ xưa trong Cựu Ước, của các vị Thánh, và của những người thành tâm thiện chí.
Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, chúc lành cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết “Sống Sẵn Sàng” trong khi “chu toàn bổn phận là những tín hữu của Chúa, để chúng ta xứng đáng thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta ở trên trời!” (Lời Nguyện Đầu Lễ).
Hình ảnh người đầy tớ tỉnh thức sẵn sàng đón chủ về giữa đêm khuya thường vẫn gợi lên một: TN 19-C80
Hình ảnh người đầy tớ tỉnh thức sẵn sàng đón chủ về giữa đêm khuya thường vẫn gợi lên một nội dung luân lý. Cái chết bao giờ cũng là một lời cảnh tỉnh rất hiệu nghiệm để chặn đứng bất cứ sự sa đọa, buông thả nào. Nếu nội dung là như thế thì Lời Chúa hôm nay đúng là một bài học luân lý rất hay, nhưng cũng khá tầm thường. Hơn nữa nội dung này không giải thích được hành động của ông chủ ‘sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ’. Thói thường thì cùng lắm chủ chỉ khen thưởng hoặc cất nhắc các đầy tớ có công là cùng.
Sau kinh nghiệm chết lâm sàng quá đột ngột gần 03 năm trước đây tại Mông Cổ, tôi hiểu ra rằng “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” phải là thái độ của niềm tin hơn là luân lý. Vì nếu là luân lý, cảm nghiệm giây phút cuối cùng của tôi đã phải căng thẳng lắm, lo lắng lắm. Vì cho dầu đã là một linh mục, tu sĩ, nhà truyền giáo…, chắc gì tôi đã sẵn sàng ra trước tòa phán xét. Xét cho cùng thì lỗi phạm khuyết điểm là điều không thể tránh khỏi đối với bất cứ ai. Rất may là vào cái giây phút cuối cùng, trước khi xuôi tay (hay mở cửa đón chủ về), tôi đã phó thác mình cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa; tôi đã mở cửa đón Ông Chủ đầy yêu thương. Và lạ lùng thay, cảm giác cuối cùng tôi ghi nhận (sau khi tỉnh lại) là không chút sợ hãi, bồn chồn, mà là an bình thanh thản như đã được đón nhận. Đúng là Thiên Chúa Từ Nhân đã “thắt lưng, đưa tôi vào bàn ăn, và đến bên tôi mà phục vụ’.
Tuy nhiên niềm tin vào lòng yêu thương vô biên và cứu độ của Thiên Chúa (được tỏ hiện nơi đức Giê-su Ki-tô), có nguy cơ bị quên lãng vì nhiều nguyên nhân. Quên lẵng do chạy theo những ảo ảnh phù phiếm cũng có (nội dung luân lý), mà quên lãng do quay lưng lại với một Thiên Chúa từ ái để tái lập lại hình ảnh quen thuộc của một Thiên Chúa Cựu ước đầy quyền phép và công thẳng cũng có (nội dung đức tin). Viết cho công đoàn tin hữu Ga-lát đang có khuynh hướng trở lại với luật Mô-sê, với niềm tin Cựu Ước, Phao-lô đã cảnh cáo nặng lời (đặc biệt xem Gl 4,8-11). Tin vào một Ông Chủ từ nhân và cứu độ, đã ‘cắt đặt mình lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc’, hay tin vào Ông Chủ đầy uy quyền, đề cho phép nghĩ bụng rằng mình có quyền trên kẻ khác ‘bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái…’ là hai niềm tin rất khác nhau. Ki-tô hữu tự bản chất là người tin (trong tác động của Thần Khí) vào Ông Chủ từ nhân và cứu độ. Tuy nhiên ngay từ thời đầu ta đã thấy, họ luôn có nguy cơ bị ru ngủ trong các tập tục an toàn của niềm tin Cựu ước, ngất ngây với luật lệ cố định đã bầy sẵn, thay vì thức tỉnh với tác động của Thánh Thần tình yêu. Nguy cơ này thời buổi nào cũng có, vì nó hoành hành trong tập thể (Giáo hội) và cá nhân tín hữu (không trừ một ai, kể cả linh mục, tu sĩ hay giáo dân) từ buổi đầu cho tới nay.
Hình ảnh Ông Chủ nghiêm nghị trở về giữa đêm khuya để xét xử, về mặt tâm lý, có phần nào ngăn ngừa được biếng nhác và giúp thức tỉnh, nhưng đồng thời cũng gây không ít lo âu sợ hãi. Đó là lẽ đương nhiên! Thế nhưng khi nói “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”, đức Giê-su không hề muốn ai rơi vào mối lo âu sợ hãi, vì tự bản chất sợ hãi là đối nghịch hoàn toàn với Tin Mừng Ngài rao giảng. Ngài yêu cầu “hãy sẵn sàng”, thì đồng thời cũng nhắn nhủ “ “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Vậy thì đã rõ ràng, sứ điệp ‘cảnh tỉnh’ của đức Giê-su không nhắm nhiều tới diện luân lý, nhưng là một lời mời đón nhận niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, để không bao giờ, trong bất kỳ tình huống nào, đánh mất niềm tin đó. Và “thật là hạnh phúc cho ai” khi giờ chết đến, cho dầu có đột ngột “vào ngày không ngờ, vào giờ không biết”, vẫn còn trong tư thế mong mỏi gặp gỡ (mở toang cửa) đón Ông Chủ từ ái yêu thương. Nội dung tối hậu của niềm tin tôi đặt vào đức Giê-su Ki-tô chính là điểm này: đón nhận triệt để tình yêu nhân ái của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, đã một lần con được Chúa cho thực tập mở cửa đón Chủ về đột xuất, và con đã hiểu sứ điệp thức tỉnh sẵn sàng là gì. Xin tiếp tục duy trì sự hiện diện của Thánh Thần trong con, để cùng với Ngài và chỉ trong tác động tình yêu của Ngài, con mới có thể luôn giữ được tư thế luôn ‘chuẩn bị sẵn sàng’ mở cửa đón Chúa tình yêu cứu độ tới với con, trong cả cuộc đời, và nhất là cách vĩnh viễn và quyết định trong giờ chết. Con khẩn khoản xin ơn này nhân danh cái chết cứu độ của đức Ki-tô. Amen
Trong đời song thường ngày, đôi khi người ta phàn nàn hay nghe phàn nàn: Nếu biết trước được: TN 19-C81
Trong đời sống thường ngày, đôi khi người ta phàn nàn hay nghe phàn nàn: Nếu biết trước được sự thể sẽ xẩy ra như vậy, người ta đã đề phòng, để khỏi xẩy ra nông nỗi này. Nếu biết trước được tai nạn xẩy ra, người ta đã thắt đai an toàn, đã thế nọ thế kia khi lái xe. Nếu biết trước được máy bay rớt, người ta đã không đi chuyến bay đó. Sự thật thì người ta không nắm chắc được tương lai và số phận, người ta không lường được chữ ngờ.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi loài người phải tỉnh thức và sẵn sàng, chờ ngày Chúa đến. Rồi Chúa kể dụ ngôn khi người chủ nhà đi vắng, thì người đầy tớ khôn ngoan sửa soạn đợi chủ về (Lc 12:36-38). Còn người đầy tớ không tỉnh thức chờ đợi, nên khi chủ về bị bắt quả tang làm chuyện bất lương, thì thật là vô phúc cho anh ta (c. 45-46). Chúa bảo ta cũng hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút ta không ngờ, thì Con Người sẽ đến (c. 40). Trong thời Cựu ước, việc thiên thần Chúa đến giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ bên Ai cập cũng đã xẩy ra bất ngờ (Kn 18:7). Ai đã là hướng đạo sinh thì hiểu được ý nghĩa của khẩu hiệu: Sắp sẵn hay sẵn sàng của Hướng đạo.
Khi căn dặn các môn đệ phải tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa Giêsu muốn ta phải tỉnh thức cầu nguyện, chống trả cám dỗ và dịp tội. Việc tập luyện để tỉnh thức sẽ làm tăng sức mạnh thiêng liêng hầu giúp ta có thể sẵn sàng chống trả cám dỗ. Việc tỉnh thức còn bao gồm viêc trung thành tuân giữ giới răn Chúa và sống theo đường lối Chúa. Ðó là gương tổ phụ Áp-ra-ham đã để lại cho ta về lòng trung thành, tin vào lời hứa của Chúa mặc dầu với những thử thách ngược lại với lời Chúa hứa (Dt 11: 8, 11, 17).
Ðể làm tăng thêm tầm quan trọng của việc tỉnh thức, Chúa còn cho ví dụ là người ta không biết khi nào kẻ trộm sẽ đào ngạch, khoét vách nhà mình (c. 39). Dụ ngôn trong Phúc âm ám chỉ về cái chết và việc phán xét của mỗi cá nhân, cũng có thể được hiểu theo nghĩa là ngày tận thế. Người ta không biết được khi nào mình sẽ lìa đời và lìa đời bằng cách nào. Không ai biết được khi nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà linh hồn.
Nếu tin rằng chết là hết thì đâu có cần tỉnh thức và sửa soạn chờ ngày Con Người đến. Ngụ ý của bài Phúc âm là người ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về đời sống của mình. Và nếu người ta khôn ngoan, người ta phải làm hoà với Chúa trong khi còn thời giờ để làm việc đó. Vì thế người ta không thể thờ ơ lãnh đạm. Ai tưởng rằng mình có đủ thời giờ để sửa soạn thanh toán nợ nần với Chúa hoặc với tha nhân là tự lừa dối mình. Sở dĩ có việc sửa soạn là vì Chúa dạy ta rằng chết không phải là hết, nhưng còn có ngày phán xét và ta cũng tin như vậy.
Thường người ta quan niệm Chúa Giêsu là Ðấng chăn chiên lành. Khi nhìn Chúa dưới lăng kính người mục tử chăn chiên lành, người ta nghĩ đến việc Chúa săn sóc, nghĩ đến lòng nhân từ, thương yêu và hay tha thứ của Chúa. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn đến tình yêu, lòng thương xót và lòng tha thứ của Chúa thì đó là cái nhìn khiếm diện có tính cách một chiều. Chúa Giêsu còn đến để phán xét. Và Chúa phán xét theo việc người ta có nghe và thực thi lời Chúa giảng dạy không? Mỗi người chúng ta không sớm thì muộn sẽ phải đối diện với cái chết, thời giờ mà ta phải đến toà phán xét.
Có những nền văn hoá khiến người ta ít có dịp nghĩ về cái chết. Văn hoá xã hội muốn bảo vệ người ta khỏi cảnh phiền lụy và buồn khổ do cái chết gây ra. Khi có người chết, thì nhà quàn hầu như đảm nhận hầu hết mọi dịch vụ: tẩm liệm, nhập quan, di quan và chôn cất. Ngoài nấm mộ ra, người ta thường không có gì, ngay cả hình chụp người chết cũng không có - để nhắc nhở cho mình và cho con cháu về cái chết của người thân yêu. Có lẽ không mấy ai muốn nghĩ về cái chết. Người ta thường quan niệm chết chỉ xẩy ra cho người khác, chứ không xẩy đến cho chính mình. Tuy nhiên chết là một điều bí mật. Chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai, bất thình lình, ở bất cứ nơi nào, ngay cả những nơi mà người ta coi là an toàn nhất. Mỗi phút trên thế giới có khoảng hai trăm người chết. Cứ vậy mà nhân lên cho mỗi giờ, rồi mỗi ngày.
Trong đời sống, ta thường nghe người ta nói: Ngày đó, tôi sẽ đi xưng tội để làm hoà với Chúa, và bắt đầu cuộc sống mới và trung thành giữ đạo. Ngày đó tôi sẽ thế nọ thế kia. Tuy nhiên ngày đó có thể không bao giờ đến cho người đã đi vào kiếp sau. Như vậy Chúa muốn ta sống trong giờ phút hiện tại, trong đức tin và trong ơn nghĩa với Chúa.
Thiết tưởng hôm nay, mỗi người cần tự hỏi:
- Tại sao sinh ra ở đời này? - Cuộc sống ở trần gian có mục đích và ý nghĩa gì?
- Con người khác con vật ở điểm nào, hay cũng chỉ trải qua cái chu kỳ như loài vật và cỏ cây: sinh, bệnh, lão, tử.
- Ai có thể lấp đầy được sự trống rỗng trong tâm hồn của mỗi người? - Ai có thể mang lại ý nghĩa, lẽ sống và cùng đích cho đời mình?
Lời cầu nguyện xin cho được biết tỉnh thức sẵn sàng:
Lạy Thiên Chúa là Ðấng con thờ!
Bao giờ Chúa đến viếng thăm con lần cuối đời này?
Xin dạy con biết tỉnh thức đợi chờ ngày Chúa đến, viếng thăm linh hồn con lần cuối, để con sẵn sàng đón rước Chúa, vào nhà linh hồn con. Amen.
Tỉnh thức là để làm gì? Đối với người Ki-tô hữu, tỉnh thức kiểu nào là hữu hiệu nhất, đẹp ý Chúa: TN 19-C82
Tỉnh thức là để làm gì? Đối với người Ki-tô hữu, tỉnh thức kiểu nào là hữu hiệu nhất, đẹp ý Chúa nhất?
Trong đời sống giáo dân, có thể cầu nguyện khi làm bất cứ việc gì không? Có cách nào biến tất cả mọi việc ta làm thành lời cầu nguyện không?
Suy tư gợi ý:
1. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…
Đức Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Từ nhỏ tôi đã nghe cha linh hướng của tôi kể câu chuyện về ông thánh còn rất trẻ tuổi Đaminh Saviô. Đó là câu chuyện tôi rất thích và ảnh hưởng đến đời sống của tôi rất nhiều. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi:
– «Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?»
– «Con vẫn tiếp tục chơi!»
– «Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?»
– «Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!» …
Khi kể câu chuyện ấy xong, cha linh hướng bảo rằng: «Nếu vào giờ chơi luật tu viện buộc phải chơi, mà các con vào nhà thờ cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Chúa đâu! Vả lại, chính khi các con chơi để đẹp lòng Chúa, vì Chúa muốn giờ đó các con chơi, thì lúc ấy chơi chính là cầu nguyện, mặc dù các con chẳng có vẻ gì là cầu nguyện, hay chẳng có ý hướng cầu nguyện gì lúc ấy cả». Từ khi nghe cha linh hướng nói như thế, tôi bắt đầu có ý nghĩ đến hình thức cầu nguyện bằng hành động hay bằng việc làm, và làm việc trong cầu nguyện.
2. Tỉnh thức theo kiểu … cầu nguyện bằng hành động
Tỉnh thức kiểu của Saviô trên có vẻ như không tỉnh thức, nhưng đích thực là luôn luôn tỉnh thức, có vẻ như không cầu nguyện, nhưng đích thực là luôn luôn cầu nguyện.
Tôi cũng thích câu chuyện 2 người ghiền hút thuốc hỏi cha linh hướng. Một người hỏi: «Thưa cha, vừa cầu nguyện vừa hút thuốc có được không?» Cha nói: «Không được!». Còn người kia hỏi: «Vừa hút thuốc vừa cầu nguyện có nên chăng?» Cha đáp: «Tốt lắm! Nên lắm!» Hai câu trả lời ấy rất đúng nhưng lại làm cho hai người có hai thái độ cầu nguyện khác nhau: một người bỏ hút thuốc để cầu nguyện, và một người vẫn cứ hút, nhưng có thói quen hễ bắt đầu hút thuốc là bắt đầu cầu nguyện.
Thì ra không nên làm gì khác trong khi cầu nguyện, nhưng lại có thể cầu nguyện khi làm bất cứ điều gì. Thế là từ đấy về sau, nhất là trong đời sống giáo dân của tôi vốn không thể dành nhiều giờ để cầu nguyện, tôi thường tập cầu nguyện và kết hiệp với Chúa khi làm bất cứ điều gì. Vì thế, công việc tôi làm thường được chìm trong ý hướng tỉnh thức và cầu nguyện. Nhờ đó, tôi dễ làm tốt đẹp công việc của mình, với ý hướng siêu nhiên. Và khẩu hiệu của tôi là «biến mọi hành động, mọi công việc thành cầu nguyện». Đời sống nội tâm của tôi nhờ thế phát triển hơn, mà có vẻ như rất ít khi cầu nguyện.
Tuy nhiên, tôi vẫn dành ra mỗi ngày vài lần, mỗi lần ít phút để cầu nguyện «nghiêm túc», nghĩa là trong những phút cầu nguyện ấy tôi không làm gì khác. Chính nhờ những giây phút «cầu nguyện kiểu thuần túy» ấy, tôi mới trung thành được với thói quen vừa làm mọi việc vừa cầu nguyện.
3. Cầu nguyện bằng hành động cũng là cách cầu nguyện tuyệt vời
Cầu nguyện là nói với Chúa. Nhưng quả thật, trong đời sống con người, lời nói không phải luôn luôn đi đôi với hành động. Biết bao người khi cầu nguyện, họ nói với Chúa một đằng, còn trong đời sống thực tế họ lại hành động một đằng khác. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn «hai người con» trong Tin Mừng (Mt 21,28-32): nói rất hay mà làm rất dở. Đây cũng là một căn bệnh của thời đại, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên, có những người không nói, hoặc nói ít, nhưng hành động thật sự. Họ không nói hay tuyên bố là họ yêu ai cả, nhưng hành động và cách xử sự của họ chứng tỏ họ yêu thương mọi người thật sự.
Xét điều ấy, ta thấy hành động cũng là một cách nói rất có giá trị. Nói tôi yêu bạn, hoặc biểu lộ tình yêu bằng hy sinh thật sự cho bạn, thì cách nào nói lên tình yêu nhiều hơn và chân thật hơn? Nếu hy sinh thật sự có giá trị hơn lời nói, thì cầu nguyện bằng hành động là một cách cầu nguyện tuyệt vời, chắc chắn có giá trị hơn hẳn trước mặt Thiên Chúa. Đó cũng là kết hợp với Chúa qua ý chí và hành động. Nếu chỉ cầu nguyện bằng lời nói xuông, không có hành động kèm theo bảo chứng cho những lời nói ấy, thì hóa ra lời cầu nguyện của ta chỉ toàn là nói «sạo», hoặc hứa hão với Chúa! Đức Giêsu cũng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi» (Mt 7,21). Như vậy, những Ki-tô hữu nào không thể dành nhiều thì giờ để «cầu nguyện kiểu thuần túy», vẫn có thể cầu nguyện khi làm tất cả mọi việc, hoặc biến tất cả mọi việc ấy thành cầu nguyện. Thiết tưởng đó là một cách tỉnh thức rất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lúc nào con cũng có thể hành động trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha, và làm theo cách Cha mong muốn con làm. Nghĩa là con phải làm cách nào hoàn chỉnh nhất, hợp lý nhất, đem lại ích lợi và hạnh phúc cho nhiều người nhất. Con muốn hiệp nhất ý của con với ý của Cha trong từng hành động một. Và con nghĩ đó là cách cầu nguyện bằng hành động, hay biến hành động thành cầu nguyện. Xin cho con đủ tình yêu để thực hiện được điều ấy. Amen.
Thực tình mà nói con người được sinh ra nơi trần gian luôn phải đấu tranh để sinh tồn. Con người: TN 19-C83
Thực tình mà nói con người được sinh ra nơi trần gian luôn phải đấu tranh để sinh tồn. Con người lúc nào cũng vậy, con người phải lao động cần cù, cật lực để kiếm miếng cơm manh áo. Người ta phải có những sáng kiến, những kế hoạch để làm việc để tồn tại. Nhưng nhiều khi vì quá chú tâm tới của cải vật chất, quá chú ý tới lương thực hằng ngày, con người quên đi cái đích mình phải nhắm tới. Cái đích đó là sự sống vĩnh cửu, là sự sống đời đời, lương thực không hư không nát. Chúa nhắc nhở, Chúa cảnh tỉnh con người trong nhiều trường hợp, trong nhiều hoàn cảnh “ Hãy tỉnh thức và sẵn sàng “.
Tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan đợi tân lang tới, tỉnh thức và sẵn sàng như người khôn ngoan canh chừng tên trộm cắp, như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi làm về, như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ mình. Tỉnh thức ở đây có nghĩa là biết ngủ trong tỉnh thức, biết cầm đèn cháy sáng trong tay, biết lắng nghe tiếng gõ cửa. Tỉnh thức không phải cứ nằm đó mắt mở chầm chầm, không phải không ngủ nhưng là biết mau mắn chỗi dậy trong lúc mình đang ngủ mê. Điều này, giống như một tên trộm rình mò một nhà nào đó để đào ngạch, khoét vách. Chúa nói với con người rằng Chúa đến thật bất ngờ:” Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến “ ( Lc 12, 40 ). Con người với thân phận của mình, con người với thân xác của mình: lúc khỏe, lúc bệnh. Con người giống như kiếp hoa phù du, sớm nở tối tàn. Con người giống như bóng câu cửa sổ.
Con người rất mong manh dễ bể, dễ vỡ.Chính vì thế, Chúa đến với từng người, với con người thật bất ngờ. Do đó, chúng ta thường đọc thấy lời này Maranatha xin hãy đến. Maranatha một gợi ý về ngày cuối cùng, về ngày tận thế, ngày cánh chung.Ngày mà Chúa sẽ khởi đầu cuộc sống mới của con người trong ngày vinh quang tràn đầy thần lực của Thiên Chúa. Bởi vì chính Chúa trong ngày chung cuộc sẽ cho con người vui hưởng hạnh phúc của Ngài:” Ngài sẽ cho các ngươi ngồi vào bàn ăn và lần lượt hầu hạ các ngươi “. Tuy nhiên, sự lo âu của con người trước cái chết sẽ không hủy diệt niềm tin của họ, nên Giêsu muốn con người và mỗi người chúng ta:” Hãy sống như những người đang chờ đợi chủ về “. Sự chết, ngày tận thế xưa đã tác động các tín hữu Thessalonica đến nỗi họ không làm gì cả. Chính vì thế, thánh Phaolô phải chấn chỉnh họ:” Không, ngày của Chúa chưa đến ! Phải sống, phải làm việc “ ( 2 Thess ). Chúa Giêsu buộc con người và mỗi người phải có đời sống, thái độ tỉnh thức:” Hãy là những người đang chờ đợi “. Đợi chờ như người quản lý trung thành và khôn ngoan.
Việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng. Biến cố này sẽ trở nên vô nghĩa và bất hạnh đối với những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành, gắn bó và chu toàn bổn phận. Những ai tỉnh thức, khôn ngoan và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố thật thú vị…
Maranatha, lạy Chúa xin mau đến.Tỉnh thức và sẵn sàng để đón Chúa đến.Tỉnh thức và sẵn sàng để nhắm đích tới là Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống khôn ngoan, trung thành và tỉnh thức để đón Chúa đến. Amen.
Lc 12:32-48: 32 "Ðừng sợ! hỡi đàn chiên nhỏ bé! Vì Cha các ngươi đã khấng ban Nước cho các ngươi!"
33 "Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí! Hãy sắm cho mình những ví tiền sẽ không hề cũ nát, kho tàng không hao vơi trên trời, nơi trộm không lai vãng, và một không nhấm nát. 34 Vì kho tàng các ngươi ở đâu, thì lòng các ngươi cũng ở đó".
35 "Các ngươi hãy lo sao: áo xắn đai lưng và đèn chong sáng, 36 Các ngươi hãy nên giống như những người đợi chủ về, lúc mãn tiệc cưới, để thoạt chủ về gõ cửa, thì lập tức mở được cho chủ. Phúc cho những tôi tớ nào chủ đến mà sẽ gặp được đang canh thức! 37 Quả thật, Ta bảo các ngươi, chủ sẽ thắt lưng, đặt họ nằm xuống giường tiệc; và qua kại, chủ sẽ hầu bàn cho họ. 38 Và giả như ông đến, dù lối canh hai, hay canh ba, mà còn gặp được như thế, thì họ có phúc thật!"
39 "Hãy biết điều này: Nếu gia chủ đã giết giờ nào trộm đến, tất ông đã không để nhà mình bị đào ngạch. 40 Các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con người sẽ đến".
41 Phêrô mới nói: "Thưa Ngài, Ngài nói ví dụ đó cho chúng tôi, hay tất cả mọi người?" 42 Và Chúa nói: "Vậy ai là người quản lý trung thực, khôn ngoan, chủ sẽ đặt trên nô bộc của ông, để phân phát phần thực phẩm cho phải thời? 43 Phúc cho tôi tớ đó, chủ đến mà gặp nó đang làm như thế! 44 Ta bảo thật các ngươi: chủ sẽ đặt người ấy cai quản tất cả của cải nhà mình. 45 Nhưng nếu tên đầy tớ ấy nghĩ trong lòng: Chủ ta trễ lâu mới về; và ta tra tay đánh đập tớ trai, tớ gái, và ăn uống say sưa, 46 chủ tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ khai trừ nó, cho nó đồng phận cùng những kẻ bội tín."
47 "Ðầy tớ nào đã biết ý chủ mình, mà lại không dự bị sẵn sàng hay không làm theo ý chủ, thì sẽ ăn đòn nhiều hơn. 48 Còn kẻ không biết, nhưng đã làm điều đáng phải đòn, thì sẽ ăn đòn ít hơn."
"Kẻ được cho nhiều, thì cũng bị hỏi nhiều; và kẻ được gởi nhiều thì cũng bị đòi hỏi nhiều hơn".
Đoạn tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba câu kết (cc.32-34) của đoạn 12:22-34 và đoạn 12:25-48. Đoạn: TN 19-C84
Đoạn tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba câu kết (cc.32-34) của đoạn 12:22-34 và đoạn 12:25-48. Đoạn 12:22-34 là lời Chúa Giêsu căn dặn đừng lo lắng gì về của cải, và ngay cả những thức cần thiết cho cuộc sống đời nầy. Người nói hãy bán đi tất cả và cho người nghèo, Nước Trời sẽ đuợc ban cho (c. 32). Đó mới là kho tàng đích thật phải giữ gìn. Từ loan báo quà tặng Nước Trời, Luca chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến (12:35-48). Chúa chính là Nước Trời.
Đoạn nầy gồm hai phần lớn: 12:35-40 và 12:41-48. Cấu trúc của phần một (12:35-40) là đối đảo giữa các câu 35-37 và 38-40: Các câu 12:35-40: A. Mời gọi tỉnh thức (c. 35); B. Giải thích (c.36); C. Phúc cho người tỉnh thức (c.37a); D. Phần thưởng (c.37b); C’ Phúc cho người tỉnh thức (c. 38); B’ Giải thích (c. 39); A’ Mời gọi tỉnh thức (c. 40). Các câu 35-37 nhấn mạnh tỉnh thức khi không có mặt chủ; trong khi các câu 38-40 nói đến sự trở về bất ngờ của chủ. Các câu 12:41-48: Diễn từ bị cắt ngang bởi câu hỏi của Phêrô (c.41), và đề tài chuyển sang hướng khác, nói đến việc phục vụ trong khi đợi chủ về. Dụ ngôn trong đoạn nầy (cc. 42-46) có thể phân thành hai phần song song và đối nhau: 1- Người quản lý khôn ngoan chu toàn trách nhiệm và được ân thưởng khi chủ trở về (cc.42-44); 2- Người quản lý không chu toàn trách nhiệm và chịu hình phạt (c.45-46). Hai câu 47-48 là phần hai của đoạn. Điểm chung nối kết hai đoạn chính nầy là chủ đề việc đến không biết trước của “chủ” (12:36.37.41.42.43.45.46.47), và những thái độ tỉnh thức của người tôi tớ (12:37.43.45.46.47).
Tỉnh thức khi chủ chưa về (cc.35-37)
Chúa Giêsu nói với các môn đệ diễn từ nầy trong quan là Chúa (kyrios) - anh em (hymeis) (cc.36.40), cũng là chủ (kyrios) - tớ (doulos). Mệnh lệnh đầu tiên cho các môn đệ ngay ở câu đầu tiên là “Thắt đai lưng” (c.35), nhắc đến câu chuyện đêm ăn chiên vượt qua của người do thái (Xh 12:11), chỉ thái độ sẵn sàng ra đi đón chủ; và “đèn đốt sáng” cũng chỉ sự sẵn sàng: thắp sáng đường đón chủ về (x. 8:16;11:33). Việc Chúa đến thường được mô tả giữa đêm khuya để chỉ sự thình lình (x. 12:38); Mt 25:6.13). Người do thái ra đi gặp Chúa giữa đêm khuya, trong khi người Ai cập còn mê ngủ. Người tôi tớ phải thắt đai lưng và đốt đèn đợi cho đến khi chủ về (c. 36). Động từ “chờ đợi” ở đây, prosdechomai, đồng nghĩa với “tỉnh thức”, grçgorço, (c. 37). Cả hai động từ đều ở thể phân từ, chỉ sự kéo dài, thời hạn. Tương tự như Matthêô (25:1-13), Luca dùng những yếu tố tiêu biểu: đốt đèn, chờ đợi, tiệc cưới để nói về sự sẵn sàng đón Chúa. Mối phúc của người tôi tớ tỉnh thức chờ đợi là được thấy chủ về (x. 10:23), nghe tiếng và mở cửa cho chủ. Việc làm theo ý chủ đưa người tôi tớ vào trong thông hiệp với chủ. Câu 37 gây kinh ngạc (x. 17:7-10), vì người chủ đã đổi vai. Ông đứng vào vị trí của người tôi tớ để phục vụ người tôi tớ. Có thể là Luca nghĩ đến các môn đệ đang ăn uống bàn tiệc của Chúa Giêsu trong Nước của Người (22:30), và Người ở giữa họ như người phục vụ (22:27). Vậy người môn đệ tỉnh thức để đón Chúa và được vào dự phần phúc trong bàn tiệc của Người.
Chủ sẽ về bất ngờ (cc.38-40)
Đoạn nầy dùng nhiều từ ngữ về thời gian: “canh hai, canh ba” (c.38), “giờ” của kẻ trộm (c.39), “giờ” của chủ (c.40), để nhấn mạnh điều nầy là không ai biết trước cách chắn chắn khi nào Chúa đến. “Kẻ trộm” (c.39) được dùng thay cho người chủ đi dự tiệc cưới về. Câu cuối cùng của đoạn (c.40) giải thích cách rõ ràng là việc người chủ hay kẻ trộm đến, chính là việc Người Con của Nhân Loại đến. Các môn đệ phải biết điều nầy là họ không biết gì lúc nào Chúa đến. Sự vô tri nầy giúp họ phải tỉnh thức.
Luca dẫn vào đoạn thứ hai bằng câu hỏi của Phêrô, muốn biết giáo huấn tiếp theo đây sẽ ngỏ đến ai: các môn đệ hay mọi người (c.41). Câu trả lời cho thấy đó là những người được cắt đặt để coi sóc cộng đoàn (c.42).
Người quản lý khôn ngoan (cc.42-44)
Người chủ cắt đặt người quản lý, có thể ân thưởng (c. 44) hoặc trách phạt (c. 46) tùy theo thái độ và hành động của người quản lý. Đoạn nầy nói đến người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau nầy (16:1-10). Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản. Therapeuô nghĩa trước tiên là “chữa lành” (x. 9:11); tuy nhiên ở đây có nghĩa là “gia nhân”. “Trung tín” đối nghĩa với bất trung (x. 16:10). Luca đề cập đến sự trung tín rất cụ thể: trung tín việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tải sản khi chủ thấy ông nầy đã trung tín với việc trước (c. 43). “Khôn ngoan”, tính từ chỉ được dùng một lần trong Luca. Từ nầy được dùng nhiều trong Matthêô, đặc biệt trong dụ ngôn năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan (25:2.4.8.9). Phronimos chỉ người biết hành xử đúng với qui luật tự nhiên và cả ý của Thiên Chúa (Mt 7:24). Công việc người quản lý làm là công việc của Thiên Chúa, nên ông phải làm theo thời điểm Người qui định. Kairos có nghĩa vừa là “thời điểm”, vừa là “thời hạn”. Kairos là thời của Thiên Chúa (1:20; 12:56; 19:44; 20:10…). Thời nào Luca không đề cập đến, ông chỉ nói đến đang lúc người quản lý làm như thế mà chủ đến, thì có phúc cho người quản lý đó. Động từ “làm” chỉ hành động đang diễn ra (c. 43). Và người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc”, makarios, và được cặt đặt coi sóc gia sản của chủ (c. 44), nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.
Người quản lý bất trung (cc.45-46)
Tình cảnh của người tôi tớ trong đoạn nầy ngược hẳn với người quản lý trên. So sánh với Matthêô, Luca bỏ “tính từ “xấu” gán cho người tôi tớ (Mt 18:48), thêm động từ “trở về”. Ý nghĩ “Chúa đến muộn” (c. 45) có thể rất phổ biến giữa cộng đoàn của Luca. Hai khía cạnh tiêu biểu của người tôi tớ nầy: đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống và say sưa hay vì phân phát phần thực phẫm cho gia nhân. Trường hợp nầy Luca đặt vào giả thiết “Nếu…” (c. 45), như là một nguy cơ có thể xảy ra. Hành động của người tôi tớ nầy nhắc nhớ đến người giàu có (12:19). Cả hai đều không nghĩ là Chúa có thể đến bất cứ lúc nào. Động từ “đến” (c. 46) đặt ở đầu câu, và ở thì tương lai, muốn nói là chắn chắn Chúa sẽ đến. Chắc chắn là người tôi tớ không biết lúc nào chủ sẽ về, nhưng lỗi của người nầy là không chờ đợi (động từ ở thì hiện tại), nghĩa là không tỉnh thức cho đến lúc chủ về (x. 12:36.37).
Về hình phạt, ông chủ sẽ hai việc cho người nầy “cắt người làn đôi”, và “đặt người nầy vào chung với những người bất tín” (c. 46). Việc “cắt thành hai”, dichotomeô, là phân mảnh thân xác ra và sự sống không còn nữa; nghĩa là “giết chết”. Việc xếp chung người nầy với những người bất trung gợi lên hai điều: người đầy tớ nầy cũng bị kể là người “bất trung”, apisteô; đối nghịch với người quản lý trung tín trên, apisteos; và người nầy không được hưởng sự hiệp thông với chủ, đối nghịch với người quản lý trung tín (c. 44). Hai hành động nầy tương đương với việc Thiên Chúa có thể “giết chết” thân xác, và ném cả con người vào hoả ngục (12:4-5). Thưởng hay phạt sẽ được thực hiện cách dứt khoát vào thời Người Con của Nhân Loại đến (12:40).
Lời mời gọi tỉnh thức dành cho mọi người: sẵn sàng nội tâm và chu toàn trách nhiệm.
Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được những gì xảy ra trong dụ ngôn Chúa Giê-su kể về: TN 19-C85
Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được những gì xảy ra trong dụ ngôn Chúa Giê-su kể về người chủ thắt lưng, đưa đầy tớ vào bàn ăn rồi đích thân hầu hạ từng người một. Hóa ra thói đời đã đổi ngược hết rồi hay sao? Chủ thành tớ và tôi tớ thành ông chủ! Điều làm chúng ta ngạc nhiên là tất cả những ưu đãi ông chủ dành cho đầy tớ một cách vô lý lại chỉ vì một lý do còn vô lý hơn nữa: vì ông chủ đi ăn cưới về đến nhà thấy các đầy tớ đang tỉnh thức và mở cửa ngay cho ông lúc ông gõ cửa! Điều làm chúng ta vô cùng kinh ngạc là ông chủ đã đánh giá quá cao việc tỉnh thức của đầy tớ. Đầy tớ là người có bổn phận phải làm tất cả những gì ông chủ muốn. Ông chủ đi ăn cưới thì công tác của đầy tớ ở nhà là phải tỉnh thức, lo canh gác nhà cửa đàng hoàng, không để trộm cướp đào tường khoét vách và xâm phạm tài sản của ông. Giờ đây ông trở về nhà và thấy mọi sự yên ổn thì cùng lắm nói hai tiếng cám ơn với đầy tớ là đủ rồi. Vậy mà ông không những nói hai tiếng cám ơn, nhưng còn thực hiện những việc làm cụ thể để cám ơn họ, bằng cách đóng vai đầy tớ để hầu hạ họ tại bàn ăn.
Có lẽ chúng ta vẫn chưa rõ tại sao ông chủ đề cao tầm quan trọng thái độ tỉnh thức của các đầy tớ như vậy. Là “vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó”. Chúng ta thử nghĩ xem: bước chân ra khỏi nhà, ông chủ không thể yên tâm được, vì kho tàng của ông để ở trong nhà và ông chỉ lo lắng lỡ ra trộm đạo lẻn vào lấy mất. Xác của ông ở tiệc cưới, nhưng lòng của ông đang ở nhà! Vì thế việc tỉnh thức của đầy tớ là mối an tâm của ông và bảo đảm cho kho tàng của ông.
Nghe dụ ngôn này, ông Phê-rô thắc mắc Chúa nói dụ ngôn để ám chỉ về ai? Về các tông đồ là những người gìn giữ Giáo Hội, kho tàng của Chúa, hay về tất cả mọi người? Về ai thì cũng đúng thôi. Điều chắc chắn, kho tàng của Chúa là ơn cứu độ của mỗi người. Chúa muốn tất cả chúng ta là đầy tớ biết tỉnh thức giữ gìn ơn cứu độ, Chúa muốn chúng ta là những người quản lý trung tín coi sóc tài sản của Chúa. Mà tài sản của Chúa là chính phần rỗi chúng ta và sự sống đời đời của chúng ta bên Chúa. Chúa không muốn ma quỷ đào ngạch khoét vách lấy đi gia sản Người ký thác nơi mỗi người chúng ta. Người chỉ muốn chúng ta “hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có khi nào chúng ta ý thức kho tàng của Chúa là chính chúng ta không? Đúng vậy, mỗi người chúng ta là một kho báu mà Chúa không bao giờ muốn bị mất đi. Chúa làm đủ mọi cách để kho báu đó mỗi ngày một tăng thêm giá trị. Chúa đã lấy cái chết của Con Một Người để chuộc lại nó đã một lần lọt vào tay tội lỗi và ma quỷ. Chúa không mất kiên nhẫn để nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức gìn giữ kho tàng là mối tương quan thân thiết giữa chúng ta với Chúa. Người đã làm cho chúng ta được luôn đổi mới bằng sức mạnh của Thánh Thần. Bí tích hòa giải là phương thức Chúa sử dụng để thanh tẩy kho tàng của Người khỏi những vết nhơ tội lỗi. Khi kho tàng bị lạc mất, Chúa đã cất bước đi tìm như mục tử tìm chiên lạc, như người phụ nữ moi móc từng góc nhà để tìm lại đồng bạc bị đánh mất, và nhất là như người cha nhân hậu hằng mở rộng vòng tay đón đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta có giá trị trước mặt Người, không phải vì tự chúng ta tốt đẹp hoàn hảo, mà chỉ vì giá trị tình cảm của Chúa, nói khác đi, chúng ta có giá trị vì Chúa yêu thương chúng ta. Chúa yêu thương và lo lắng cho chúng ta thế đấy, chúng ta nỡ nào bán rẻ kho tàng của Người cho ma quỷ tội lỗi?
Trong cuộc chạy đua càng ngày càng gay gắt – không phải chỉ chạy để kiếm lương thực qua: TN 19-C86
Trong cuộc chạy đua càng ngày càng gay gắt – không phải chỉ chạy để kiếm lương thực qua ngày mà còn để kiếm nhiều điều cao sang hơn nữa, không phải chỉ đua với một nhúm người đếm trên đầu ngón tay mà một người phải chọi với cả trăm cả ngàn người để giành chiến lợi phẩm, nhất là khi cơ hội ngày càng ít và thời gian ngày càng ngắn lại – chúng ta làm gì còn giờ để suy nghĩ lại làm như thế có đúng không, điều mình đang ra sức tìm kiếm có đáng không…! Tất cả các bài đọc của thánh lễ hôm nay có thể được ví như một chiếc “phanh” Giáo Hội tặng cho chúng ta, mời chúng ta dừng lại suy nghĩ và trả lời các câu hỏi căn bản ấy. Và thật là bất ngờ khi chúng ta khám phá ra những điều sau đây.
1) Một sự thật phũ phàng
Không phải chờ tới những ngày Tân Ước với Đức Giêsu và Giáo Hội sơ khai, nghĩa là cách đây trên dưới 2000 năm, người ta mới giật mình khám phá ra một sự thật phũ phàng đằng sau tất cả mọi nỗ lực làm việc vấ vả của mình và của bao nhiêu người: “Phù vân quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. Mà khám phá ấy đã được rêu rao từ trước đó rất lâu, thậm chí trong nhiều nền minh triết xa xưa khác, ngay cả trong kho tàng ca dao tục ngữ ngàn năm của văn hóa nước ta, như “Tò vò mà nuôi con nhện / Đến khi nó lớn biết đi đường nào”, hay “Dã tràng xe cát biển Đông / Nhọc nhằn mà chẳng nên công trạng gì”.
Thật vậy, còn gì phũ phàng hơn khi “đem hết khôn ngoan và hiểu biết ra để làm lụng vất vả và được đôi chút thành công, thì chẳng bao lâu sau đó lại bị một người chẳng khó nhọc gì cướp lấy” ? Còn gì phũ phàng hơn khi ban ngày căng người ra làm việc, “đến đêm lại thao thức mãi và không yên lòng yên trí” để rồi chưa hưởng được thành quả ấy bao nhiêu thì đã phải giã từ vĩnh viễn mà đi vào cõi chết ?
2)Vẫn không được nhiều người “ngộ” ra
Ấy thế nhưng, ngay cả khi Đức Giê su xuất hiện, bằng phép lạ lẫn lời nói và cách sống đã tìm cách giới thiệu về một viễn tượng đẹp đẽ của Nước Trời mai sau hay kêu gọi xây dựng viễn tượng Nước Trời ấy ngay từ bây giờ, vẫn còn khối người chứng nào tật nấy: nào là tranh cãi mãi không xong về phần gia tài cha mẹ để lại, dù đã có luật pháp, nên phải cầu cứu Đức Giêsu đứng làm trọng tài ; nào là phá hết kho lẫm này đến kho lẫm kia để xây cái mới – rộng hơn, to hơn – hầu chứa cho hết hoa màu thu được, chắc mẫm rằng một khi tích trữ được nhiều của cải như thế, người ta có thể an tâm về ngày mai và tha hồ chơi bời…
Họ đã được Đức Giêsu thẳng thắn chỉ ra một triết lý sống khác: “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm”, “thật là ngốc: nếu đêm nay người ta đòi lại mạng ngươi thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?”. Hay nói một cách tích cực hơn, cuộc sống hiện tại và những gì con người thường dựa vào để xây dựng cuộc sống ấy đều vô thường chóng qua và vì thế, chẳng đáng cho chúng ta đầu tư nhiều tới mức ấy. Có một cuộc sống khác – một cuộc sống sẽ dựa trên những nền tảng khác những nền tảng chúng ta thường dựa vào để xây dựng cuộc sống trên đời này – thường hằng vĩnh viễn và vì thế, rất đáng cho chúng ta dốc sức tìm kiếm. Đức Giêsu ví von điều ấy bằng kiểu nói “hãy làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Hay ở nhiều chỗ khác trong tin mừng Luca, Ngài nói “hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, còn các thứ khác Người sẽ thêm cho” (12,31). “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (12,33). “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?” (16,9-12).
3) Cho tới khi Đức Kitô chết và sống lại
Đúng, chỉ khi Đức Kitô chết, tức là giã từ tất cả những gì thiên hạ cho là quý giá – từ của cải đến hiểu biết, từ danh dự đến mạng sống – và chỉ khi Đức Kitô sống lại, tức là không chỉ lấy lại những gì quý báu đã bỏ đi trước đó mà còn được “gấp trăm gấp ngàn lần “ những điều ấy, cả về số lượng lẫn chất lượng, lúc ấy người ta mới bắt đầu “ngộ” ra sự thật cuối cùng về tất cả mọi sự trên trần gian.
Các kitô hữu cũng bắt đầu mon men nếm cảm điều ấy, và ngày càng nếm cảm nhiều hơn, khi cũng từ bỏ cuộc sống này với tất cả những giá trị kèm theo để tham gia cuộc sống khác của Đức Kitô. Họ làm điều này, không chỉ một cách bí tích, nghĩa là một cách tượng trưng như dìm mình vào nước để được gột rửa tất cả và rồi sau đó, mặc áo trắng vào như để bắt đầu một kiếp sống khác. Họ còn sống những điều ấy một cách thật sự và cụ thể, có khi làm rơi cả nước mắt và đổ cả máu. Họ thôi không còn gian dâm, sống đam mê, ước muốn xấu và tham lam. Ngược lại, họ hướng lòng trí về những điều trên cao thuộc thế giới của Thiên Chúa. Có thể nói như thánh Phaolô trong thư gởi giáo hữu Côlôxê, họ “đã cởi bỏ con người cũ và đã mặc lấy con người mới – con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được hiểu biết ngày càng sâu xa hơn”.
Một kết quả bất ngờ và đầy an ủi khi sống như thế, là họ bỗng khám phá ra vòng bạn bè của mình hay Giáo Hội của mình mở rộng tối đa: “không còn phân biệt Hy-lạp với Do-thái, cắt bì với không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ hay tự do, mà chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người”. Chính vòng bạn bè và Giáo Hội mở rộng ấy sẽ quay lại giúp đỡ họ trong mọi cố gắng của họ - cố gắng ”cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới”, cố gắng “không quá chú tâm vào những gì thuộc hạ giới nữa, mà hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”.
Với tất cả những thông tin trên đây, chúng ta hy vọng và cầu chúc cho nhau: từ nay đừng để mình và người thân của mình bị “mê lầm” về giá trị của các sự vật và sự việc trên trần gian nữa, mà một khi đã “giác ngộ” ra sự thật căn bản của chúng rồi, chúng ta cùng giúp nhau sống cho đúng là những người đã sáng mắt, đã hiểu biết và đã “chỗi dậy cùng với Đức Kitô”.
Chúa nhật trước, bài đọc 1, tác giả sách Giảng Viên nói rằng:"Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi: TN 19-C87
Chúa nhật trước, bài đọc 1, tác giả sách Giảng Viên nói rằng:"Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" (Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:”Lênh đênh duyên nổi phận bèo. Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi (Ca dao); ”Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến ?
C ba quan nim sng c th to ra mt thi độ tiu cực trước cuc đời.
1-Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì !
2-Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
3-Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Trang Tin mừng hôm nay tiếp tục giáo huấn tuần trước của Chúa Giêsu “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”. Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao.Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Tỉnh thức và sẵn sàng là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Trong nước, đang xôn xao cả lên, về vấn đề chủ quyền đất: Bằng khoán đỏ. Ai cũng sốt ruột, để: TN 19-C88
Trong nước, đang xôn xao cả lên, về vấn đề chủ quyền đất: Bằng khoán đỏ. Ai cũng sốt ruột, để được đứng tên về miếng đất, hay căn nhà của mình. Mình phải trở thành ông chủ, hay bà chủ, chủ thực sự về ngôi nhà mình đang ở. Thế mới an tâm. Nhưng có lẽ, ngôi nhà hay mảnh đất ấy, đã được đổi chủ không biết bao nhiêu lần rồi, và sau này, còn được đổi tên nhiều lần nữa. Nói thế có nghĩa, mình chỉ là chủ tạm thời, một thời gian nào đó thôi. Là chủ tạm thời, hiểu cho đúng nghĩa: chỉ là người quản lý.
Vũ trụ được tạo thành: trái đất được dựng nên, để cho con người sinh sống. Con ngươi không tạo nên trái đất. Sống được trên trái đất, phải có rất nhiều điều kiện, và yếu tố: nào ánh sáng, nào không khí, nào nước, nào lương thực. Tất cả các thứ ấy, Thiên Chúa cho con người, theo kiểu tình cho không biếu không. Như thế, từ mạng sống con người, đến trách nhiệm con người lãnh nhận, con người phải biết quản lý thế nào, cho đúng ý Thiên Chúa, và theo kiểu nói thần học, là phải làm cho sáng lên vinh quang Thiên Chúa. Như vậy, thân phận con người, chỉ là một người quản lý. Vậy đâu là trách nhiệm của một người quản lý.
1- Người quản lý là người biết giữ gìn tài sản cho chủ.
Được trao cho nhiệm vụ quản lý, đó là một niềm vinh dự. Do đó, không được coi đó là của chính mình. Phải giữ những tài sải ấy, theo ý ông chủ, chứ không phải theo ý riêng mình. Phải trân trọng tài sản Chúa trao phó. Phải quí trọng sự sống của mình, đừng phung phí nó, bằng rượu chè, hút xách, ăn chơi ngông cuồng. Phải dùng những tài năng của mình có, của cải Chúa trao, mà làm ích lợi cho người khác. Không được dùng những của cải Chúa trao mà làm hại người khác cũng như để gây nên những tội lỗi, và tội ác.
2- Người quản lý là người lúc nào cũng sẵn sàng.
Sẵn sàng, để được thanh tra sổ sách. Không được thâm lạm cho bản thân, mà luôn rõ ràng, minh bạch không vướng mắc. Bởi vì là người quản lý, cho nên, có thể bị mất chức bất cứ lúc nào. Người quản giỏi, khéo léo, là người luôn biết làm phát sinh lợi ích những của cải được trao. Điều quan trọng mà người quản lý không được phép quên, là phải biết biến những của cải vật chất đời này, trở thành những tài sản vô giá ở đời sau. Có một nguyên lý rất lạ lùng, để làm được điều này: là phải biết hi sinh, biết cho đi. Biết hi sinh và cho đi những sức khỏe, tài năng của mình, những của cải cho những người nghèo khó. Đó là con đường duy nhất, để làm phong phú thêm tài sản vĩnh cửu không hư nát cho mình sau này.
Gợi ý suy niệm:
1- Có bao giờ, bạn nghĩ mình là người quản lý không? 2- Nếu hôm nay chủ đến, bạn đã sẵn sàng sổ sách chưa?
Hồi đầu thế kỷ 20, thì két sắt là nơi cất giữ tiền bạc một cách chắc chắn nhất, nhờ một hệ thống: TN 19-C89
Hồi đầu thế kỷ 20, thì két sắt là nơi cất giữ tiền bạc một cách chắc chắn nhất, nhờ một hệ thống khoá bằng số mà chỉ một mình người đặt các số ấy hay là người biết những số ấy mới mở được mà thôi.
Quân đội của một nước kia đã sử dụng một chiếc két sắt như thế để cất giấu số tiền lớn. Chiếc két sắt này được đem đến một địa điểm để phát lương cho lính, thế nhưng trên đường di chuyển, khi đi ngang qua một khu rừng đã bị một bọn cướp lấy mất. Bọn cướp hì hục nhưng không sao mở được. Chúng lấy búa đập vào két hy vọng rằng két sẽ bung ra nhưng chiếc két sắt vẫn cứ trơ trơ. Chúng cho vào lửa và đốt nhưng chiếc két sắt vẫn cứ y nguyên. Chúng khiêng chiếc két lên núi rồi đẩy xuống, nhưng cánh cửa vẫn không chịu bung ra. Sau cùng, bọn cướp gài chất nổ với hy vọng sẽ phá được chiếc két nhưng nó vẫn không hề suy suyển sau tiếng nổ kinh hoàng. Quá bực tức, bọn cướp đã quăng chiếc két xuống biển. Được tin này, quân đội cho người đến nơi trục chiếc két sắt lên và khi mở ra, sồ tiền trong két vẫn còn y nguyên.
Tâm hồn chúng ta cũng là như một chiếc két sắt, chỉ một mình chúng ta mới biết những con số để mở cửa cõi lòng chúng ta ma thôi. Nếu chúng ta không chịu mở thì ma quỷ dù tài ba đến đâu cũng không thể làm gì được. Bình thường thì những thất bại của chúng ta đối với ma quỷ, không phải vì những cám dỗ bên ngoài, mà vì những điều nằm trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
Chỉ khi nào chúng ta bỏ ngỏ, chỉ khi nào chúng ta mở cửa thì ma quỷ mới có thể hoạt động và làm hại chúng ta được mà thôi. Ma quỷ có thể tấn công chúng ta mọi mặt, nhưng nếu chúng ta không tiếp tay với chúng, thì những cố gắng của chúng cũng chỉ là luống công vô ích mà thôi.
Cuộc đời chúng ta thì vắn vỏi, hơn thế nữa cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào, chết ở đâu và chết trong tình trạng ra sao. Cái chết có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa đã phán dạy chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách từng giây từng phút trong cuộc sống, hãy ra sức bảo vệ tâm hồn trước những đợt tấn công, những cám dỗ của ma quỷ, để rồi bất kỳ lúc nào Chúa đến viếng thăm, Ngài cũng sẽ thấy được nơi chúng ta một tâm hồn trong sạch và đôi tay đầy công nghiệp. Đúng thế, tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp sẽ là như tấm hộ chiếu để chúng ta được bước vào nơi quê hương Nước Trời.
Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói: TN 19-C90
Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói:
- Xin bà thương cho cháu một đôi giày vì chân cháu lạnh cóng.
Bà ấy hứa cho cô bé một đôi vào chiều ngày lễ Chúa giáng sinh. Thế rồi bà ấy quên khuấy đi mất. Đúng hẹn, cô bé tìm hỏi và bà ấy chỉ biết mỉm cười xin lỗi rồi bước vào trong nhà thờ. Ngồi tham dự thánh lễ mà bà cảm thấy chẳng được an tâm chút nào. Thế là bà ấy đứng lên ra ngoài để gặp cô bé và rồi bà ấy đã nói với cô bé:
- Này nhé! chúng ta hãy trao đổi giày cho nhau. Em sẽ đi giày của tôi, còn tôi thì sẽ đi giày của em. Cô bé ngập ngừng trong giây lát rồi mới chấp nhận. Trên đường về nhà, đôi giày của cô bé làm cho đôi bàn chân của bà ấy vừa lạnh cóng vừa trầy xát vì đôi giày quá nhỏ. Thế nhưng, vừa về tới nhà thì một người đàn ông đang chờ bà. Ông này là thân nhân của một người bệnh mà bà từng chăm sóc; ông ta nói mấy lời cám ơn và trao cho bà một quà tặng và bảo:
- Đây là món quà tượng trưng nhân dịp lễ Giáng sinh để tỏ lòng biết ơn chị, đã vất vả chăm sóc cho mẹ tôi.
Món quà ấy là một đôi giày mới, rất hợp với đôi bàn chân của bà ấy. Xỏ thử đôi giàu mới này, bà ấy nhớ tới lời Chúa:
- Hãy cho thì sẽ được cho lại.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay và chúng ta nhận thấy lý luận của Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại với lý luận của loài người, như lời Kinh Thánh đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng vào đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường ích kỷ, càng chiếm hữu, càng thâu lượm được bao nhiêu, hay bấy nhiêu. Nền kinh tế loài người được đặt trên căn bản của sự tích luỹ. Càng tích luỹ càng trở nên giàu có. Trong khi đó, nền kinh tế của Thiên Chúa lại đặt cơ sở trên sự cho đi, với một nguyên tắc hoàn toàn khác hẳn: Càng cho đi thì càng trở nên giàu có, càng chia sẻ thì càng dư dật, bởi vì điều chúng ta cho đi, điều chúng ta chia sẻ chính là cái chúng ta giữ được cho mình ở nơi Thiên Chúa.
Nói chung, chúng ta thường có khuynh hướng sống theo cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo đáp ứng những nhu cầu của riêng mình. Chẳng hạn, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn này ơn nọ cho bản thân. Thế nhưng cách nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác hẳn: Hãy chia sẻ, hãy bố thí tất cả những gì chúng ta có cho người khác.
Dĩ nhiên để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta phải có một tình yêu thương dạt dào. Tình yêu thương dạt dào ấy chúng ta phải tập luyện hằng ngày. Và đó chính là bổn phận, là ơn gọicủa mỗi người Kitô hữu chúng ta. Bởi vì chúng ta được mời gọi để sống mối dây liên hệ yêu thương với Thiên Chúa và với những người chung quanh.
Cuộc hành trình lên Giêrusalem đang tiếp diễn. Đến Lc 12,22, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các môn: TN 19-C91
Cuộc hành trình lên Giêrusalem đang tiếp diễn. Đến Lc 12,22, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các môn đệ trong đám đông. Đề tài của những lời Người nói nhắm đến các của cải trần thế (12,22-32). Có thể nói phân đoạn 12,22-32 là bài bình luận Dụ ngôn Ông phú hộ. Bản văn Phụng vụ đọc hôm nay giữ lại c. 32: ta thấy Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé” và trấn an họ. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống hiệp nhất với nhau.
Lời khuyến khích ngỏ với các môn đệ lại được tiếp nối bằng một lời khuyên triệt để về cách sử dụng của cải trần thế hầu có được một kho báu trên trời (12,33-34).
Sau đó, trong bản văn Lc, Đức Giêsu thay đổi đề tài. Từ mối quan tâm đến các của cải trần thế, Người chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và trung thành (12,35-46). Sự tỉnh thức và trung thành liên hệ với kho báu trên trời và ý nghĩa của cuộc sống ở chỗ chính những thái độ này giúp đạt tới kho báu ấy. Để nêu bật đề tài sự tín nhiệm và trung thành, Đức Giêsu lại nói đến biện pháp được đề ra để xử những tôi tớ không chu toàn nhiệm vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34);
2) Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (12,35-48):
a) Dụ ngôn 1 (cc. 35-38), c) Dụ ngôn 2 (cc. 39-40), d) Dụ ngôn 3 (cc. 41-48).
3.- Vài điểm chú giải
- đoàn chiên nhỏ bé (32): Hình ảnh này có thể là mộtgợi ý tới Is 41,14 LXX. Ở c. 32, có mộtsự đối lập giữa cộng đoàn nhỏ bé gồm các môn đệ Đức Giêsu và ân huệ lớn nhất Thiên Chúa hứa ban cho họ (“Nước của Người”).
- Hãy bán tài sản của mình đi (33): Xem Lc 18,22; Mt 19,21. Lý do của hành vi này được diễn tả ở 12,21, hầu trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa”.
- bố thí (33): Xem Lc 11,41; Tb 4,7-11; Hc 35,2.
- một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời (33): Xem Lc 16,9c; 18,22e.
- Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó (34): Câu này có nghĩa là: Nếu anh em đặt kho tàng của anh em trên trời, thì lòng (trái tim) của anh em cũng sẽ hướng về những sự trên trời.
- Anh em hãy thắt lưng cho gọn (35): Lời huấn thị này có thể gợi tới lệnh được ban cho con cái Israel khi cử hành lễ Vượt Qua đầu tiên (Xh 12,11.22-23). Nhưng sau này, ở trong Cựu Ước, công thức trở thành mộtlời huấn dụ quen thuộc về sự sẵn sàng hoặc về việc phục vụ (x. 1 V 18,46; 2 V 4,29; 9,1; G 38,3; 40,7).
- thắp đèn cho sẵn (35): Xem Lc 8,16; 11,33. Hình ảnh các đèn cháy sáng nói lên sự tỉnh thức.
- canh hai hoặc canh ba (38): Đây là cách chia thời gian của đêm (từ 6g chiều đến 6g sáng) theo người Rôma: thành bốn khoảng (“canh”, phylakai) đều nhau (6-9, 9-12, 12-3, 3-6); mà cũng có thể là cách chia của người Hy-lạp và Do-thái: thành ba canh (6-10, 10-2, 2-6). Theo Cv, tác giả Lc dường như xác định bốn canh (Cv 12,4).
- khoét vách nhà mình (39): Các vách nhà Paléttina được trét đất, nên trộm có thể khoét thủng.
- ông sẽ loại hắn ra (46): dịch sát là “ông sẽ xẻ đôi hắn ra” (dichotomeô, “xẻ đôi, cắt đôi; trừng phạt dữ tợn”). Có lẽ sự trừng phạt này liên hệ đến hai đòi hỏi nơi người quản lý, “trung tín và khôn ngoan”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34)
Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé”. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống liên kết và hiệp nhất. Đức Giêsu trấn an họ: “Đừng sợ!”, cho dù họ chỉ là mộTN hóm bé nhỏ. Điều này khiến độc giả nhớ lại những đoạn tóm rất lý tưởng về đời sống của cộng đoàn tiên khởi trong sách Cv (2,42-47; 4,32-35).
Sau đó, Đức Giêsu nêu ra mộtcách sử dụng triệt để các của cải vật chất. Các môn đệ phải “bán” chúng đi và cho đi như “của bố thí”. Chỉ bằng cách đó, họ mới sắm được cho mình “những túi tiền” không hề cũ rách và tích lũy được “một kho tàng” không thể hao hụt ở trên trời. Đức Giêsu sẽ trở lại với đề tài này ở 16,13.
Trong bài Lc 12,13-21, chúng ta đọc truyện Nhà phú hộ. Ông này phạm hai sai lầm: ông đã không làm giàu cho mình “trước mắt Thiên Chúa” và ông để cho cái chết bắt chợt ông. Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ cách trở nên giàu có trước mắt Thiên Chúa: chia sẻ những gì mình có với những người kém may mắn hơn. Còn để tránh bị cái chết bắt chợt, Người kể ba câu truyện (cc. 35-38; cc. 39-40; cc. 41-48).
* Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (35-48)
Sự ẩn mình và vẻ bề ngoài vắng mặt hoàn toàn của Thiên Chúa luôn luôn là mộtgánh nặng và mộtthử thách cho các tín hữu. Thiên Chúa có vẻ xa vời và yếu đuối. Từ đó, chúng ta sống buông thả, vô trách nhiệm. Với các dụ ngôn sau đây, Đức Giêsu gây ý thức cho các môn đệ về những mối nguy đang rình rập họ, và cho thấy là Người vẫn đang có đó, Người biết và Người sẽ ban thưởng.
Yếu tố chung của các dụ ngôn là sự vắng mặt của ông chủ. Các bản văn này dạy các tôi tớ biết phải làm gì khi ông chủ đi vắng. Bổn phận dầu tiên của họ là tỉnh thức và sẵn sàng. Theo phong tục thời ấy, ai đã tháo dây lưng và cởi áo khoác, là ngưng làm việc để đi nghỉ. Còn ai thắt áo khoác bằng dây lưng thì sẵn sàng làm việc hoặc sẵn sàng lên đường. Với ngọn đèn cháy sáng, người ta có thể làm mộtcông việc đột xuất ngay ban đêm. Như thế, người ta được yêu cầu là phải sẵn sàng mọi giờ. Đoạn văn kế tiếp so sánh chuyện Chúa đến cũng đột xuất và bất ngờ như là việc trọm đến; nghĩa là không có lúc nào mà ta không phải sẵn sàng tính sổ với Người.
Các dụ ngôn đặc biệt cho thấy rằng giữa người đi vắng và những người có mặt có mộttương quan bậc trên – lệ thuộc. Những người hiện diện không phải là những chủ nhân tự do của chính mình. Họ phải điều chỉnh cách sống và cư xử theo ý của ông chủ. Để cho quan hệ giữa ông chủ và các tôi tớ không bị buông lỏng, các dụ ngôn yêu cầu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là luôn ra sức quy hướng về Chúa. Cho dù Người có xa cách theo tầm nhìn, Người vẫn phải luôn ở trong tim các tôi tớ.
Bản văn lại cho thấy phản ứng lạ lùng của ông chủ khi trở về mà thấy các tôi tớ sống như vậy. Ông sẽ thế chỗ họ. Ông đảm nhận nhiệm vụ tôi tớ và xử với họ như với các ông chủ: cho họ ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ. Cách xử sự của ông chủ khiến các môn đệ Đức Giêsu hiểu rằng ông chủ đánh giá cao cách sống của họ, ông thât sự vui mừng và ông diễn tả ra lòng biết ơn đối với họ. Dĩ nhiên ông vẫn là ông chủ – nhưng chính vì thế, việc phục dịch của ông mới đáng kể – và họ vẫn là các tôi tớ – nhưng chính vì thế, vinh dự ông chủ ban cho họ thật là to lớn. Nhưng ta thấy rằng tương quan chủ–nô này không có gì là bất nhân và phi ngã cả. Ông chủ ước mong các tôi tớ của ông liên kết bền vững với ông theo cách riêng tư và thân tình và ông biết đánh giá cách sống này theo cách rất riêng tư. Các tôi tớ phải luôn mang ông chủ vắng mặt trong tim và phải để cho ý muốn của ông luôn hướng dẫn mình. Nhưng họ cũng có thể tin chắc rằng ông chủ cũng dành trái tim cho họ.
Tất cả các tôi tớ đều phải tỉnh thức khi ông chủ trở về. Nhưng sau câu hỏi của Phêrô, ta thấy có những tôi tớ có mộttrách nhiệm đặc biệt. Ông chủ đã giao cho những người này mộTN hiệm vụ điều hành và lãnh đạo các tôi tớ khác. Điều này hàm chứa mộTN guy cơ đặc biệt và do đó, họ có trách nhiệm đặc biệt. Họ chỉ là những người quản lý, chứ không phải là những lãnh đạo theo đúng lý. Họ phải trung thành làm theo những bố trí của ông chủ và phải tỏ ra bén nhạy. Họ phải coi sóc và phục vụ các tôi tớ khác. Họ không được tìm cách thoát ra khỏi dây liên kết với ông chủ vắng mặt, nhưng phải sống dây liên kết này mộtcách đặc biệt mạnh mẽ. Nếu họ lạm dụng địa vị và cư xử với các bạn cách độc tài, họ sẽ bị trừng phạt đặc biệt (“xẻ đôi”); còn nếu họ tỏ ra trung tín, ông chủ sẽ bày tỏ lòng biết ơn và sự tín nhiệm của ông đối với họ.
+ Kết luận
Chính vì Chúa Cha đã sẵn sàng ban sự sống đời đời (Nước Ngài) cho chúng ta, chúng ta phải biết cách sống theo chiều hướng đó. Vì thế Đức Giêsu dạy chúng ta vừa phải biết sử dụng của cải vừa phải biết điều hành cuộc sống của chúng ta theo chiều hướng đó. Đức Giêsu chính là Đấng đến bày tỏ cho chúng ta biết ý muốn đó của Thiên Chúa và giúp chúng ta thi hành. Rồi ngày nào đó, Người sẽ thay mặt Thiên Chúa đến kiểm chứng về cách sống của chúng ta. Đến đây chúng ta phải ghi khắc rằng không thể nào phủ nhận dây liên kết với Đức Giêsu và sự trung thành phải có đối với nhiệm vụ Người đã giao phó. Các đòi hỏi trong các dụ ngôn thật ra không phải là những mệnh lệnh độc đoán. Chúng cho thấy những điều dứt khoát phải làm, phải sống, để chuẩn bị đón Chúa đến và sống với Người, để đi vào hiệp thông trọn vẹn với Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mãi mãi Giáo Hội của Đức Kitô là một“đoàn chiên bé nhỏ”. Do đó, Giáo Hội phải luôn tin tưởng vào Vị Mục Tử của mình là Đức Kitô cũng như vào Chúa Cha. Sự tin tưởng đó phải được diễn tả ra bằng việc kiên trì sử dụng của cải vật chất mà tậu cho mình kho tàng đích thực trên trời.
2. Những con người, những tương quan, những sức mạnh thiên nhiên, các bệnh tật, các biến cố trong lịch sử… can thiệp dứt khoát vào cuộc sống của chúng ta và tìm cách chế ngự chúng ta. Đứng trước những sức mạnh và thế lực mà chúng ta cảm nhận rất rõ ấy, Thiên Chúa dường như ở xa và lại yếu đuối nữa. Chúng ta dám có thể cảm thấy mệt mỏi; dây liên kết chúng ta với Ngài ngày càng nên mong manh hơn, ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống chúng ta hơn. Chúng ta rất có thể để sang mộtbên nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ta và xử sự vô trách nhiệm theo tính ngẫu hứng. Hôm nay, Đức Giêsu lưu ý về những mối nguy ấy và cho biết Người sẽ ban gì cho những ai tỉnh thức và trung thành.
3. Tục ngữ có câu: “Xa mặt, cách lòng”. Chúng ta luôn cần có sự hiện diện của người khác, cần liên tục gặp gỡ người khác, để có mộttương quan bền chặt và sống động với người ấy. Để sống trong tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta phải luôn hướng về Người bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Cuộc sống của chúng ta phải luôn là mộTN ỗ lực quy hướng về Người. Người có “xa mặt”, nhưng Người vẫn ở với “lòng” chúng ta; trái tim chúng ta phải “đầy” Người.
4. Hôm nay, bằng nhiều cách, Chúa Giêsu vẫn hiện diện: trong bánh và rượu là Mình và Máu Người; trong Lời Người; trong những người túng quẫn (x. Mt 25,31-46); trong mọi con người mà Người đã nắn đúc nên theo hình ảnh Người, mà càng ngày họ càng nên như thế do gặp gỡ sống động với Người. Chúng ta có thể và phải sống gắn bó mật thiết với Người. Khi đó, chúng ta đang tỉnh thức và sẵn sàng.
5. Chúa Giêsu không bắt chúng ta gắn bó với Người như những tên nô lệ, dù tư cách chúng ta đúng là như thế. Sự gắn bó với Người sẽ đưa tới niềm vui và hạnh phúc Người ban cho sau này. Người muốn chúng ta sống theo ý Người chỉ là để ban cho chúng ta tất cả.
6. Các thủ lãnh của cộng đoàn cũng được mời gọi suy nghĩ về cách mình đang chu toàn trách nhiệm. Các ngài phải “trung tín và khôn ngoan” trong khi thi hành bổn phận: Chúa Giêsu đã đặt các ngài lên coi sóc những người ở dưới quyền của Chúa để phục vụ họ. Đây là một trách nhiệm nặng nề vì đòi hỏi luôn luôn đúng giờ và trung tín; nếu họ lạm quyền, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Chúng ta cầu nguyện nhiều cho các ngài.
- Tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ trung tín, thức canh chờ mở cửa đón chủ về vào lúc ban đêm (c 35-38).
- Tỉnh thức sẵn sàng như người chủ nhà biết giờ kẻ trộm đến, sẽ canh phòng không cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình (c 39-40).
- Tỉnh thức sẵn sàng như người quản lý trung tín và khôn ngoan, luôn chu toàn bổn phận phát lương thực cho gia nhân theo lệnh của ông chủ (c 42-48).
3. CHÚ THÍCH:
- C 32-34:
+ Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ: Các môn đệ được gọi là đoàn chiên bé nhỏ vì số lượng ít, không địa vị quyền hành và sống khó nghèo, đang khi kẻ thù của các ông thì vừa đông vừa mạnh lại vừa giàu có. Nhưng Đức Giê-su đã trấn an các ông: đừng vì thế mà tỏ ra khiếp nhược sợ hãi, vì “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), vì có Thầy luôn ở bên và vì Thiên Chúa sẽ ban phần thưởng thiêng liêng là Nước Trời đời đời cho các ông sau này.
+ Hãy bán của cải mình đi mà bố thí: Đức Giê-su khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát và từ bỏ, thể hiện qua hành động sẵn sàng bán đi những của cải mình có mà phục vụ tha nhân.
+ Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó: Nếu xác định kho tàng của mình là các của cải thiêng liêng, thì các môn đệ sẽ liệu sao để có được nhiều thứ của cải ấy.
- C 35-37:
+ Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn: Đây là thái độ Mô-sê yêu cầu dân Do thái phải có khi ăn bữa tiệc chiên Vượt qua trước giờ xuất hành ra khỏi Ai-cập (x. Xh 12,11). Đây cũng là thái độ của các tín hữu hôm nay chờ đợi giờ Đức Giê-su lại đến vào ngày thế mạt (x. Lc 12,37; 17,8).
+ Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về: Ông chủ đi ăn cưới là hình ảnh tiên báo Đức Giê-su sắp lên trời trước khi Người sẽ trở lại lần thứ hai vào ngày tận thế.
+ Để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay: Chúa sẽ đến bất ngờ trong giờ chết của mỗi người, cũng như trong ngày tận thế chung của nhân loại. Mọi người đều phải sẵn sàng mở cửa đón rước Người.
+ Thật là phúc cho họ!: Ở đây Đức Giê-su đã thêm một mối phúc nữa là: “Phúc cho những ai tỉnh thức sẵn sàng”.
+ Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn...: Việc này khó xảy ra trong thực tế, nhưng được dùng để diễn tả một thực tại thiêng liêng: Chúa sẽ ưu ái phục vụ lại các đầy tớ trung tín. Họ sẽ được no thỏa ân tình của Chúa như lời sách Khải huyền: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3,20).
- C 38-40:
+ Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về: Người Do thái thường chia thời gian ban đêm làm bốn canh là: Chập tối, nửa đêm, gà gáy và tảng sáng (x. Mc 13,35). Canh hai hay canh ba tức là khoảng từ 9 giờ tối đến 3 giờ sáng là lúc người ta buồn ngủ nhất. Ở đây nhấn mạnh đến thái độ phải có của các môn đệ là luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ giờ nào.
+ Ai là người quản gia trung tín khôn ngoan mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở: Hai đức tính mà người lãnh đạo cộng đoàn phải có là khôn ngoan và trung tín. Nếu người quản lý cấp phát phần thóc gạo cho gia nhân đúng giờ, thì mới chứng tỏ mình là một con người trung tín. Anh ta sẽ được ông chủ tín nhiệm trao nhiệm vụ coi sóc tất cả gia sản của ông.
- C 45-48:
+ Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về...”: Đức Giê-su nêu lên sự trở về chậm trễ và bất ngờ của ông chủ, như là một cách thế để thử thách lòng trung thành của các Tông đồ và những người lãnh đạo cộng đoàn.
+ Đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa: Đây là tội thiếu tinh thần trách nhiệm, sa đà vào thói ăn chơi mà bỏ bê nhiệm vụ quản lý của người đầy tớ. + Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra: Đức Giê-su sẽ đến bất ngờ và sẽ cô lập, ra vạ tuyệt thông cho những kẻ bất trung ấy.
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (Lc 12,36).
2. CÂU CHUYỆN:
1)Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ quí, có một cái nắp có thể mở ra đóng vào được. Khách đến chơi trông thấy chiếc quan tài thường hỏi nhà sư rằng: “Ngài chế tạo ra cái này để làm gì vậy?” Nhà sư trả lời: “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi là sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu. Sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.
2)Một nhóm bạn đang chơi đá bóng ngoài sân trường. Trong lúc nghỉ ngơi sau hiệp thi đấu, thầy quản giáo hỏi các em rằng: “Giả như Chúa cho các em biết các em chỉ còn sống được 15 phút nữa là sẽ phải chết. Vậy các em sẽ làm gì trong thời gian còn lại này? Em thì trả lời sẽ về từ giã cha mẹ và những người thân. Em khác cho biết sẽ đi gặp cha linh hướng và xin xưng tội. Em khác nữa thì nói mình sẽ vào nhà nguyện chầu Thánh Thể thật sốt sắng. Còn một cậu bé vốn có lòng đạo đức nhất la Lu-y Gông-gia-ga thì lại thưa: “Thưa Thầy, còn em cứ tiếp tục chơi ạ!” Khi được hỏi lý do tại sao lại cứ chơi khi biết mình sắp chết, thì cậu bé đã trả lời: “Vì mỗi sáng thức dậy em đều dâng ngày mới cho Chúa. Và trong ngày em năng nói với Chúa những lời nguyện tắt. Em nghĩ Chúa cũng chỉ cần em làm như vậy”.
3. SUY NIỆM:
1) Phải tỉnh thức và sẵn sàng luôn: Tin mừng hôm nay nhắc nhở mọi người muốn được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su thì cần có thái độ “Tỉnh thức và sẵn sàng”:
- Như người đầy tớ trung tín (c 35-38): Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng là ngủ trong tình trạng tỉnh thức, giống như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi ăn cưới về vào bất cứ giờ nào trong đêm để khi chủ về gõ cửa là mở ngay.
- Như người chủ nhà có trách nhiệm (c 39-40): Một người chủ nhà có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn canh thức để tránh cho trộm khỏi đến đào ngạch khoét vách nhà mình. Một người làm việc có tinh thân trach nhiệm cao sẽ được hưởng hoa trái là hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn như người ta thường nói: “Cẩn tắc vô ưu”. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng khuyên các tu sĩ dưới quyền rằng: “Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện. Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là đức ái. Hoa trái của đức ái là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an “.
- Như người quản gia trung tín và khôn ngoan (c 42-48): Sự trung tín khôn ngoan được biểu lộ qua việc anh quản gia luôn chu toàn công việc bổn phận là cứ đúng giờ cấp phát lương thực cho gia nhân. Nhưng nếu anh ta “nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa”, thì số phận của anh ta sẽ “phải chung số phận với những tên thất tín”. Vào thời Hội Thánh sơ khai, các tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca vì nghĩ lầm rằng ngày tận thế đã gần kề, nên có lối sống buông thả không chịu làm việc gì cả. Do đó, thánh Phao-lô đã phải viết thư để chấn chỉnh lối sống lười biếng ấy như sau: “Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói: Trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy: hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Ts 3,10-12).
2) Cụ thể chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến thế nào?:
- “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”:
Mỗi tín hữu chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chu toàn các bổn phận đạo đức hằng ngày như dâng lễ cầu nguyện sớm tối để đón nhận ơn Chúa. Tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách tay luôn cầm cây đèn là đưc Tin, chứa đầy dầu ân sủng là đức Cậy, để luôn cháy sáng là đức Mến giữa cuộc sống đời thường.
- Phải làm gì để đón Chúa đến ngay từ bây giờ?: Hãy luôn ý thức sống tốt giây phút hiện tại bằng việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Tránh chỉ lo tích trữ của cải cho mình, đừng quá bám víu vào những của cải trần gian như Lời Chúa dạy: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,32-34).
- Chu toàn công việc bổn phận: Đối với những ai được Chúa trao quyền quản lý một gia đình, một hội đoàn, một cộng đoàn dòng tu hay giáo xứ... Hãy nhớ rằng: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Quyền bính là phương tiện để phục vụ tha nhân. Người ta có thể lạm dụng quyền bính để phục vụ bản thân và làm khổ kẻ khác như tên quản lý trong bài Tin mừng đã “Đánh đập tôi trai tớ gái”, “chè chén say sưa” vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về. Người quản lý sẽ bị phạt nặng hơn vì đã biết ý Chúa mà còn cố tình bỏ việc bổn phận của mình.
- “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”:
Sẵn sàng để biết sử dụng của cải đúng theo ý Chúa: Cụ thể là chia cơm sẻ áo cho những người nghèo đói, góp phần nuôi dưỡng các trẻ mồ côi, người già neo đơn và động viên an ủi nhưng người đau khổ bất hạnh... Hiện nay nhiều người tuy rất tỉnh thức đọc kinh cầu nguyện, nhưng lại đang mê ngủ trước những đòi hỏi phải chia sẻ bác ái của Tin Mừng. Nếu các tín hữu luôn tỉnh thức bằng việc quan tâm giúp đỡ người bên cạnh thì hai phần ba nhân loại sẽ không còn nghèo đói nữa. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta hãy tập quảng đại cho đi những gì mình có. Hãy “làm những công việc bình thường bằng một cách thức phi thường” noi gương thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, để chiếu ánh sáng tin yêu giúp cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa như lời Chúa dạy: “Cũng vậy ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh emlàm mà tôn vinh Cha của anh em” (Mt 5,16).
- Phải sẵn sàngphục vụ để loan báo Tin Mừng: Những ai không có tiền vẫn có thể làm việc tông đồ băng việc phục vụ. Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta và các nữ tu Thừa Sai Bác Ái đã không cho người nghèo đói bệnh tật tiền bạc vật chất, nhưng cho sự ân cần phục vụ trong yêu thương. Đây cũng là một phương cách loan báo Tin Mưng hữu hiệu. Hiện nay có nhiều tín hữu vẫn đang mê ngủ khi chỉ lo hưởng thụ tiện nghi vật chất va các đam mê thấp hèn... mà không ưu tiên tìm kiếm Nước Trời bằng việc chia sẻ phục vụ tha nhân. Thánh Phao-lô đã khuyên tín hữu chúng ta như sau: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5,14).
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết tỉnh thức để đừng bao giờ ngủ quên trong những đam mê lạc thú giả tạo. Xin cho lòng trí con hiểu rằng: đồng tiền chỉ là phương tiện giúp con nên hoàn thiện hơn, giúp con có điều kiện thực thi bác ái là chia sẻ cơm áo cho người nghèo. Xin cho con xác tín rằng: Khi giờ chết đến, con sẽ không thể mang theo được tiền của mà con đã ky cóp bấy lâu. Chính những đồng tiền cho đi, đồng tiền quảng đại chia sẻ cho kẻ khác, sẽ trở nên kho tàng quý giá không bao giờ bị hư nát cho con ở đời sau. Xin giúp con luôn biết hướng lòng trí về những sự trên trời.
CN 19 TN C - Muốn được cứu độ: “hãy tỉnh thức” Jos.Vinc. Ngọc Biển
Ngày 21/07/2013 vừa qua, giới ca sĩ và những người hâm mộ ca nhạc đã cảm thấy bàng hoàng sau: TN 19-C93
Ngày 21/07/2013 vừa qua, giới ca sĩ và những người hâm mộ ca nhạc đã cảm thấy bàng hoàng sau cái chết của chàng trai ca sĩ Wanbi Tuấn Anh. Nhiều người đã bày tỏ cảm xúc tiếc thương cho số phận xấu số của anh. Anh ra đi vĩnh viễn ở tuổi ươm mơ dệt mộng khi mới 26 tuổi đời.
Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự, sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.
Như vậy, sự sống sự chết của mình không ai biết trước được. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, khi nhà thơ Nguyễn Khuyến nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng”; hay nói cách khác, muốn được sống: hãy học cách chết.
1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc” vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình; đồng thời ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời, thì Chúa Nhật này, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.
Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.
Còn hình ảnh “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khua là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.
Thật thế, ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi “hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta
“Hãy thắt lưng”; “hãy cầm đèn trong tay” là thái độ sẵn sàng để đón Chúa đến của mỗi người chúng ta. Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một Quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức như sau: gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã! Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… họ viện vào lý do là mình còn trẻ, vẫn khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân…Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng của mỗi người… Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.
Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật... Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương, là sám hối, canh tân, là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành. Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. “Maranatha: Xin Chúa hãy đến” phải là niềm mong đợi cho những ai có sự sẵn sàng. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với ta bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui thanh thoát vì đã chuẩn bị.
Được như thế, là chúng ta đang trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến với ta bất cứ lúc nào. Và, cái chết đến với ta như một “cõi đi về” trong hãnh diện: “Còn tôi, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi người” (2 Tm 4,6-8).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng.
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một: TN 19-C94
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào phóng và nhân ái.
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Phùng Huyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn, được ơn nghĩa với dân chúng.
1. Trung tín
Trong bài Phúc Âm hôm nay nói đến dụ ngôn người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau này (16,1-10).
Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản.
Trung tín từ việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tải sản khi chủ thấy người này đã trung tín với việc trước.
Khôn ngoan, người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc” và được cắt đặt coi sóc gia sản của chủ nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.
Người quản lý bất trung với hai khía cạnh tiêu biểu là đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống say sưa hay vì phân phát phần thực phẩm cho gia nhân. Người quản lý này bị chủ cho nghỉ việc vì đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.
Khi khen người quản lý khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Chúng ta chỉ là những người quản lý của Thiên Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng thôi. Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ rồi công lao dưỡng dục mỗi ngày “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Lớn lên, tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta.Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng.
2. Tỉnh thức Chúa Giêsu lưu ý về của cải đích thực các môn đệ cần thu tích. Đó là của cải “chẳng bao giờ cũ rách” và “chẳng thể hao hụt”. Của cải trên trời, kho tàng trên trời hoàn toàn khác với của cải nơi trần gian. Của cải trần thế càng nhiều, lòng người càng nặng trĩu. Nặng trĩu lo âu. Kho tàng trên trời càng nhiều, lòng người càng thanh thoát. Bởi kho tàng trên trời là chính Chúa. Càng đến gần Chúa, được Chúa ở cùng, con người càng thoát khỏi những trói buộc của trần gian,trở nên nhẹ bổng, tự do.Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian. Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Càng nuôi lòng khao khát, lòng dạ hướng về kho tàng của Chúa nên tâm hồn phong phú bởi chính của cải tràn trề chất đầy kho tàng. Đó là của cải tình yêu như Chúa đã nói: “Kho tàng anh em em ở đâu, lòng anh em cũng ở đó”.
Để luôn hướng lòng về Chúa là kho tàng đích thực, con người phải tỉnh thức luôn. Chúa Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về. Người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về không thể biết đích xác giờ phút của chủ. Thời giờ hoàn toàn tùy thuộc chủ. Tôi tớ không can dự việc riêng của chủ. Phận tôi tớ là làm theo ý chủ. Người chủ muốn tôi tớ trung thành. Lòng trung thành thể hiện qua sự trung tín trong mọi việc được chủ trao phó. Trung thành chờ đợi giờ phút chủ trở về nên luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen
Những tôi trung sẽ được dự phần vào Bàn Tiệc cánh chung, ở đó Thiên Chúa sẽ đích thân phục vụ họ.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Ba bài đọc Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đều có chung hai chủ đề: Trước hết, đức trung tín: trung tín với: TN 19-C95
Ba bài đọc Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đều có chung hai chủ đề: Trước hết, đức trung tín: trung tín với niềm tin, trung tín với niềm hy vọng, trung tín với sự phục vụ; tiếp đó, viễn cảnh về Nước Trời, được diễn tả bằng ba hình ảnh: Đất Hứa (bài đọc I), Thiên Quốc (bài đọc II) và Bàn Tiệc cánh chung (Tin Mừng).
Kn 18: 6-9
Tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên đêm giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đó là đêm dân Do thái, trung tín với tôn giáo tổ tiên mình, cử hành lễ Vượt Qua. Nhờ lòng tin, họ được vào Đất Hứa.
Dt 11: 1-2, 8-19
Thư gởi cho các tín hữu Do thái nhắc lại những mẫu gương đức tin của các thánh Cựu Ước: họ đã xác tín rằng những lời hứa mà Thiên Chúa ban có liên quan đến những thực tại tinh thần và đã cảm thấy mình là những lữ khách trên đường về Thiên Quốc tốt đẹp hơn.
Lc 12: 32-48
Tin Mừng Lu-ca cho bí quyết gia nhập Nước Trời: trung tín phụng sự Thiên Chúa cho đến cùng. Những tôi trung sẽ được dự phần vào Bàn Tiệc cánh chung, ở đó Thiên Chúa sẽ đích thân phục vụ họ.
BÀI ĐỌC I (Kn 18: 6-9)
Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất trong số những sách Cựu Ước. Sách được soạn thảo ở thành phố A-lê-xan-ri-a, Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
1. Bối cảnh:
Vào lúc đó, thành phố A-lê-xan-ri-a là chiếc nôi rực rỡ nhất của nền văn minh Hy-lạp. Thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của kiều bào Do thái Hải Ngoại vì số lượng người Do thái đông đúc cư ngụ ở đây. Tác giả sách Khôn Ngoan ngỏ lời với đồng bào của ông. Ông bận lòng đến sức quyến rũ mà nền văn hóa Hy-lạp ảnh hưởng trên đồng bào của ông. Ông muốn cho họ thấy rằng Đức Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa trổi vượt tất cả mọi sự khôn ngoan phàm nhân.
Vào thời tác giả, tội bội giáo còn có chiều hướng gia tăng vì chính sách tôn giáo của chính quyền. Đây là sự kiện hiếm hoi trong lịch sử Ai-cập vào thời nhà Pơ-tô-lê-mai cai trị. Pơ-tô-lê-mai VII (146-117 trước Công Nguyên) và nhất là Pơ-tô-lê-mai VIII (117-81 trước Công Nguyên) đã từ bỏ chính sách tự do tôn giáo trước đây mà quay ra quấy nhiễu và bách hại người Do thái. Vì thế, tác giả sách Khôn Ngoan kêu gọi người Do thái hãy trung tín với tôn giáo tổ tiên của mình. Đó là ý nghĩa bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này.
2. Đêm Vượt Qua, đêm giải phóng:
Tác giả đã công kích đa thần giáo và thờ ngẫu tượng của dân Ai-cập, vào thời kỳ dân Do thái ở giữa họ. Cuối cùng đêm giải phóng vĩ đại đã đến. Sau khi đã vội vả cử hành lễ Vượt Qua tại tư gia, dân Do thái đã có thể trốn thoát khỏi miền đất nô lệ này, khi mà Thiên Chúa giáng phạt những kẻ áp bức họ. Cuộc xuất hành khỏi Ai-cập, dưới dấu chỉ của lễ Vượt Qua, đã luôn luôn được xem như biến cố tạo dựng dân Ít-ra-en, biến cố sinh thành dân Chúa chọn. Vào giờ phút đó, họ ý thức về căn tính tôn giáo đặc thù của mình.
Tác giả bật sáng niềm tin của của các bậc tiền nhân, họ đã tin vào những lời hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và đã thấy chúng được ứng nghiệm ở nơi việc họ được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Niềm vui cứu độ và tác động ân sủng đều quy hướng về Thiên Chúa, Đấng tôn vinh dân Ngài và giáng phạt kẻ thù của họ; nhưng nhất là, tác giả nhấn mạnh đức trung tín của những người công chính này đối với tôn giáo tổ tiên: “Con lành cháu thánh của những người lương thiện, âm thầm dâng lễ tế trong nhà”. Câu này ám chỉ đến sự kiện theo đó lễ Vượt Qua là một ngày lễ được âm thầm cử hành tại tư gia, nhưng cũng ám chỉ đến việc Pha-ra-ô cứ lần lữa từ chối để dân Ít-ra-en ra đi cử hành “lễ của họ” trong sa mạc. Vì thế, những người Ít-ra-en trung tín này đã âm thầm cử hành lễ Vượt Qua trong nhà để Pha-ra-ô không hay biết.
Thật kỳ lạ, ngay từ bấy giờ, tác giả đặt quyết định phân chia đất Ca-na-an giữa các bộ tộc vào thời chinh phục: “Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là dân thánh phải chia sẻ đồng đều với nhau, những phúc lộc cũng như những hiểm họa”. Đồng thời, ngay từ bấy giờ, tác giả cũng mô tả diễn tiến việc cử hành lễ Vượt Qua vào thời sau này: “Ngay tự bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca của cha ông truyền lại”. Quả thật, chỉ sau này mà việc cử hành lễ Vượt Qua sẽ được kết thúc trên việc hát “Hallel”, nghĩa là xướng lên các bài thánh vịnh.
3. Sứ điệp:
Tác giả sách khôn ngoan mời gọi đồng bào của ông “ôn cố tri tân”. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập ngoại giáo, ở đó việc thờ ngẫu tượng diễn ra hằng ngày. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập, ở đó chính quyền cũng quấy nhiễu và áp bức họ. Thật ra, không cốt rời bỏ đất nước này nhưng noi gương các bậc tiền nhân của mình về lòng mộ đạo và đức trung tín của các ngài đối với tôn giáo tổ tiên. Họ cũng phải là “con lành cháu thánh của những người lương thiện”. Họ đừng quên đêm giải phóng vĩ đại đem lại ý nghĩa như thế nào trong Lịch Sử Thánh của họ, đêm đã làm cho Ít-ra-en thành một dân biệt phân, dân được Thiên Chúa cam kết rằng Ngài ân cần chăm sóc họ một cách đặc biệt.
BÀI ĐỌC II (Dt 11: 1-2, 8-9)
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, phụng vụ đề nghị cho chúng ta những đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái. Trong suốt năm phụng vụ trước, năm B, chúng ta đã đọc những đoạn trích dài của thư này. Trong năm phụng vụ này, năm C, chúng ta đọc cho xong thư này, vì thế vào Chúa Nhật XIX này chúng ta khởi sự đề cập đến phần cuối, phần liên quan đến đức tin.
1. Bối cảnh:
Xin nhắc lại rằng thư gởi cho các tín hữu Do thái đã được một tác giả vô danh, chắc chắn là một môn đệ của thánh Phao-lô, soạn thảo vào năm 65. Có nhiều tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của thánh Phao-lô, nhưng chủ đề trọng tâm: hy tế của Đức Ki-tô, không là tư tưởng của thánh Phao-lô. Người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ phải hứng chịu những cuộc quấy nhiễu và bách hại. Đoạn văn trước đoạn văn của chúng ta ám chỉ đến điều này: “Xin anh em nhớ lại, những ngày đầu: lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn vừa bền vững” (10: 32-34). Bị trục xuất, bị tước đoạt của cải, họ nao núng; thậm chí vài người, vì nỗi luyến nhớ những phụng tự xưa, toan tính bỏ cuộc, vì thế tác giả đã khuyên bảo: “Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như vài người quen làm” (10: 25) và “Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (10: 39).
2. Bản chất của đức tin:
Đối với các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo này, quen thuộc với Kinh Thánh, tác giả gởi đến họ những lời khuyên nhũ của mình bằng ngôn ngữ Kinh Thánh. Ông phác họa bức tranh về những chứng nhân đức tin mà Cựu Ước xem như những vị anh hùng. Trước hết, ông định nghĩa bản chất của đức tin một cách ngắn gọn nhưng súc tích: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không trông thấy”.
Đoạn văn này, được các nhà thần học lấy lại nhiều lần, đã trở thành một trong những định nghĩa kinh điển về đức tin. Đức tin hoàn toàn hướng về tương lai, nghĩa là, về những thực tại không trông thấy được. Cấu trúc của câu định nghĩa này hình thành nên thể thức “song đối đồng nghĩa”, nghĩa là hai vế đối xứng với nhau và diễn tả hai khía cạnh của cùng một thực tại. Như vậy, “những điều ta hy vọng” được xác định ở về thứ hai: “những điều ta không trông thấy”. Cũng một cách như vậy, sự “bảo đảm” được xác định bởi “bằng chứng” mà niềm tin vào những điều không trông thấy ban cho.
3. Gương của các tiền nhân:
Quả thật, tác giả không nhằm định nghĩa đức tin cho bằng giải thích thái độ của các tiền nhân. Nguyên lý hướng dẫn cuộc sống của họ là niềm tin vào những lời hứa mà trong đó họ đã biết nhận ra những thực tại tinh thần. Ông Áp-ra-ham, người mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông đất làm gia nghiệp vẫn là một kiều cư, vì ông biết rằng lời hứa này là niềm hy vọng về một quê hương không trông thấy được. Thiên Chúa hứa với vị tổ phụ hiếm muộn này ban cho ông một hậu duệ đông đúc không kể xiết là để cho ông hiểu rằng bên kia đứa con của mình, lời hứa nhắm đến một hậu duệ thuộc trật tự tinh thần, vân vân.
Tác giả dẫn chứng nhiều mẫu gương. Như vậy, tác giả muốn làm cho những ai mà đức tin của họ đang chao đảo hiểu rằng trong đêm thử thách của họ, đức tin là ánh sáng nuôi dưỡng niềm hy vọng và rằng với tư cách những người lữ khách trên cõi trần này, sự kiên trì của họ sẽ dẫn đưa họ đến Thiên Quốc.
TIN MỪNG (Lc 12: 32-48)
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, thái độ này thúc đẩy thánh nhân sau này viết sách Công Vụ. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ông tập hợp những lời nói khác nhau của Đức Giê-su với bốn dụ ngôn: “các đầy tớ tỉnh thức” (12: 35-38), “tên trộm ban đêm” (12: 39-40), “viên quản gia trung tín hay bất trung” (12: 41-46) và “đầy tớ bị phạt nhẹ hay nặng tùy mức độ hiểu biết ý chủ” (12: 47-48). Giáo huấn này được Đức Giê-su ngỏ lời đặc biệt đến các môn đệ, “đoàn chiên bé nhỏ” này, họ được hứa ban Nước Trời và sẽ là nhân tố của Giáo Hội Ngài (12: 32-34). Giữa những lời này, chúng ta đọc thấy một trong những lời khác thường nhất của Chúa Giê-su mà các tác giả Tin Mừng khác đã không bao giờ trích dẫn: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến tận bên mà phục vụ”. Hạt trân châu này ở trung tâm bản văn và chiếu sáng bản văn một cách rực rỡ.
Thánh Lu-ca luân phiên nhắm đến Giáo Hội tại thế và Giáo Hội của những người được tuyển chọn.
1. Lời hứa về Nước Trời:
“Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Đây là những lời thân thương trìu mến, vì quả thật các môn đệ còn quá nhỏ bé về tầm cở, về số lượng, về quyền thế, về học thức…Đây cũng là những lời đậm nét Kinh Thánh, vì lẽ hình ảnh mục tử trong Kinh Thánh thường có cung giọng Mê-si-a, như Mk 2: 12-13: “Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ tập hợp số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ góp chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa. Người mở đường đưa chúng tiến lên, chúng chọc một lỗ hỗng, đi qua cổng vf ra ngoài. Đức Chúa, Vua của chúng đi qua trước, chính Người sẽ dẫn đầu”, hay Ed 34: 31: “Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi”.
Đàn chiên nhỏ bé này đón nhận lời hứa ban sự sống đời đời: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Những điều kiện gia nhập Nước Trời được xác định liền ngay: đức nghèo khó và tư thế tỉnh thức.
2. Đức khó nghèo:
Đàn chiên nhỏ bé phải nêu gương về đức nghèo khó: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Bản văn này giống với bản văn Mát-thêu (6: 19-21), tuy nhiên, thánh Mát-thêu lại đưa bản văn này vào “Diễn Từ trên núi”. Tại thánh Lu-ca, lời nhắc nhở về đức nghèo khó này đến như lời kết của dụ ngôn người phú hộ dại khờ và những lời khuyên tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng (Lc 12: 16-32).
3. Tư thế tỉnh thức:
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn….”. Để tiện làm việc, người Do thái thường thắc lưng áo choàng lên cho đỡ vướng víu. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt những lời khuyên này vào trong cái khung diễn từ của Đức Giê-su về thời cánh chung (Mt 24: 42), trong khi thánh Lu-ca đặt chúng vào trước diễn từ này, nhưng cùng theo cùng một hướng nhắm: lịch sử và cuộc sống của Giáo Hội diễn ra giữa thời gian ông chủ ra đi và trở lại.
4. Phúc cho những đầy tớ trung tín:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Với đàn chiên nhỏ bé, họ sẽ lan truyền sứ điệp của Ngài cho đến chấp nhận hy sinh mạng sống mình, Đức Giê-su đề cập đến đức trung tín: đức trung tín của họ sẽ được thưởng thật bất ngờ nhất, ngoài sức tưởng tượng của mọi người: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Còn hình ảnh nào bạo dạn hơn khi trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ chư thánh. Dụ ngôn này thuộc riêng của thánh Lu-ca.
Chắc chắn, Chúa Giê-su đã tự nhận mình là người phục vụ. Những cử chỉ và lời nói này của Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài, là một cuộc đời phục vụ một cách khiêm tốn và tình bạn mà Ngài muốn đưa ra làm gương: “Con Người đến không để người ta phục phục vụ, nhưng phục vụ”. Buổi chiều Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ của Ngài. Ngài đã nói với họ: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 27). Nhưng việc trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ bàn tiệc thiên quốc thật khó mà quan niệm được, tuy nhiên phù hợp với mặc khải Tin Mừng về việc Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ môn đệ Ngài với trọn tấm lòng yêu thương của Ngài.
5. Giáo Hội phục vụ:
Thánh Phê-rô nghi ngờ ý nghĩa của dụ ngôn; ông đoán rằng dụ ngôn này nhắm đến các môn đệ. Vì thế, ông nêu vấn đề: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”. Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng là một cách thức tấn phong dành cho chính thánh nhân: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?...Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Chính Giáo Hội, qua thánh Phê-rô, được ủy quyền quản lý gia sản của Thầy, được ủy nhiệm nuôi dưỡng tất cả các gia nhân và cung cấp lương cho họ. Đây là một ân ban nhưng cũng mối nguy hiểm, vì dựa vào công việc này mà Thiên Chúa sẽ xét xử. Trách nhiệm thì đa dạng, nhưng có chung một mẫu số: mỗi người sẽ chịu hình phạt hay nhận phần thưởng tùy theo cách hành xử của mình và tùy theo mức độ hiểu biết ý Chủ: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Ai trong chúng ta cũng công nhận cuộc sống của con người trên trần gian này chỉ là tạm bợ và: TN 19-C96:
Ai trong chúng ta cũng công nhận cuộc sống của con người trên trần gian này chỉ là tạm bợ và chóng qua. Dù muốn dù không một ngày nào đó tất cả con người chúng ta cũng phải lìa bỏ cuộc sống trần gian này. Cho dù người ta có giàu sang hay nghèo khó, sinh sống nơi thành thị hay vùng thôn quê hẻo lành, có quyền cao chức trọng hay chẳng có địa vị nào trong xã hội thì tất cả đều phải chấp nhận sự thật này. Sự thật là sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ còn có một cuộc sống thật bền vững và chắc chắn nếu chúng ta biết sống thức tỉnh.
Tuần trước Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15). Vì con người chúng ta thường dễ bị cám dỗ để gắn bó quá nhiều với những gì thuộc thế giới này - vào của cải vật chất. Thế nhưng, những của cải vật chất đó không thể bảo đảm cho chúng ta cuộc sống thật mai sau.
Cũng trong những lời nhắc nhở đó, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy sống thức tỉnh như thái độ của người đầy tớ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón chủ đi ăn cưới về. "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. (Lc 12, 35 - 37)
Mỗi người chúng ta từ Thiên Chúa mà đến. Vì "lá rụng về cội" nên chúng ta đ ược kêu mời sống làm sao để được trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Trở về với Thiên Chúa để được hưởng lại cuộc sống thật do tội nguyên tổ đã đánh mất. Ðiều đáng nói là không biết ngày giờ nào hay lúc nào Chúa mời gọi chúng ta trở về.
Nếu thật sự tin vào cuộc sống thật sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ sống rất tích cực và lạc quan. Ngược lại, chắc hẳn chúng ta sẽ sống rất uể oải và không chút hy vọng gì vào tương lai. Nếu như vậy thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên hết sức vô nghĩa, chẳng có giá trị gì.
Như vậy, sống thức tỉnh trong hy vọng vào cuộc sống thật mời gọi chúng ta phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa. Phó thác trọn vẹn cho Chúa bằng cách gắn bó với Người qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích. Ðồng thời, hằng ngày chúng ta biết chu toàn tốt bổn phận của mình - bổn phận trong gia đình, trong Giáo hội hay ngoài xã hội.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về một nơi mà trước đây chúng ta chưa bao: TN 19-C97
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về một nơi mà trước đây chúng ta chưa bao giờ đến: "các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12, 32).
Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa rằng Thiên Chúa Cha, Đấng luôn yêu thương, sẽ ban tặng cho chúng ta với điều kiện chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài bằng cách: "Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó" (Lc 12, 33-34). Vậy Nước Trời ở đâu?
Sách Giáo Lý Công Giáo đã dạy ( số 2816- 2820) và Thánh Phaolô để diễn tả: "Nước Thiên Chúa là công chính, an bình và vui vẻ trong Chúa Thánh Thần" (Rm 14, 17)
Trong bài đọc thứ hai (Dt 11, 1-2; 8- 19) chúng ta nghe lại câu chuyện của tổ phụ Abraham, cha của những người có lòng tin. Qua đức tin, Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để ra đi đến "một nơi chưa bao giờ đến" để được lãnh nhận làm gia nghiệp. Ông đã lên đường theo tiếng Chúa phán. Abraham có đức tin vào Đấng đã ban lời hứa. Ông tin vào lời Thiên Chúa hứa và biết rằng Thiên Chúa đồng hành với mình trên đường về đất hứa. Cuộc hành trình của Abraham là một cuộc hành trình đức tin (Dt 11,12-16). Giống như Abraham, cuộc đời của chúng ta cũng là một cuộc hành trình của niềm tin đi về Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa hôm nay: "Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12, 32). Ngài đòi hỏi chúng ta phải tin, phải lên đường ngay. Phải có đối tượng và mục đích rõ ràng. Phải dự trù hành trang cần thiết cho cuộc hành trình dài. Hành trang phải thật nhẹ nhàng. Từ bỏ của cải vật chất là điều kiện cần thiết (1 Pr 1,17), "Hãy bán những của các con có mà bố thí. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó" (Lc 12, 33-34). Tuy nhiên, con người thời đại đã làm ngược lại với Lời Chúa dạy hôm nay (Pl 3, 19). Họ tin vào của cải, trương mục ngân hàng, vốn đầu tư, công ăn việc làm, chế độ bảo hiểm, hưu dưỡng, đất đai, nhà cửa. Khi đặt trọn vẹn tin tưởng vào của cải vật chất thì hãy coi chừng kẻo sẽ bị mất tất cả, mất hết của cải đời này lẫn hạnh phúc đời sau (Gc 4, 4).
Tiền của vật chất đã không làm con người dễ dàng hướng về Nước Trời được (Mt 19, 23). Và nó cũng không làm con người biết sẵn sàng chờ đợi giờ phút "Con Người" đến nữa.
Hành trình đức tin về Nước Trời phải từ bỏ của cải vật chất và thế gian để giúp ta sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn (2 Ga 4, 6-8). Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của người ăn mặc sẵn sàng lúc làm việc: "Các con hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Lc 12, 35-40)
Thánh Augustino là một con người tội lỗi, sau này lại trở thành một Giám Mục, là thánh tiến sĩ của Giáo Hội. Mẹ của ngài, bà thánh Monica đã cầu nguyện kiên trì để ngài bỏ đường tội lỗi để phục vụ Chúa Giêsu Kitô, nhưng Augustino vẫn chứng nào tật nấy. Cho đến một hôm, đang khi kể chuyện cuộc đời mình cho một anh bạn nghe, Augustinô đã bật khóc nức nở khi nghe có tiếng thôi thúc: "Hãy cầm lên mà đọc; hãy cầm lên mà đọc". Sau này, Augusttinô đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau:
"Ngay lúc đó tôi liền ngưng khóc, tôi bước đi lấy cuốn Thánh Kinh, mở ra và đọc đoạn đầu tiên đã được biểu tỏ cho tôi, vì tôi nghĩ rằng đây là lệnh từ trời. Rồi nhanh chóng, tôi trở lại chiếc ghế dài nơi bạn tôi, Alypius đang ngồi, và đặt cuốn Thánh Kinh xuống ghế. Thình lình tôi lại chộp lấy nó, mở ra, và trong thinh lặng tôi đọc đoạn Thánh Kinh in ngay vào mắt tôi: "Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng" (Rm 13,13-14). Tôi không muốn đọc thêm nữa, cũng chẳng cần phải đọc thêm. Ngay lập tức, khi câu cuối cùng vừa kết thúc, giống như luồng ánh sáng của sự thật rót vào trong tim tôi. Và tất cả bóng tối của nghi ngờ đã biến mất."
Nếu "Con Người" đã đến trước cái ngày định mệnh này thì Augustinô đã bị bắt quả tang chưa sẵn sàng chuẩn bị gì cả. Có lẽ ngài đã còn đang ngủ. Tuy nhiên từ lúc đó trở đi, Augustino đã sửa soạn sẵn sàng Ngài đã cảnh giác và thức tỉnh khỏi tội lỗi.
Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau:
Để nhận ra giá trị của một năm: Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng: Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần: Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày: Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ: Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút: Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe buýt.
Để nhận ra giá trị của một giây: Hãy hỏi người vừa thoát khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao: Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng, để nhận ra gía trị của một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn.
Vì thế, chúng ta cần thay đổi thái độ sống chưa xứng hợp với vai trò là người Công Giáo. Chúng ta hãy đặt Chúa lên trên hết, để mọi việc việc làm của chúng ta đều hướng về Chúa, nghe theo tiếng Chúa gọi mời là "tìm kiếm Nước Thiên Chúa".
Áp dụng Lời Chúa hôm nay, tôi xin đề nghị đối với các bậc làm cha mẹ: Bởi vì Thiên Chúa đã trao trách nhiệm cho các cha mẹ nên chúng ta hãy biết cách giáo dục, nuôi nấng, hướng dẫn, sửa dạy và chịu trách nhiệm về con cái.
Trên hết, cha mẹ hãy làm gương lành cho chúng và phải chỉ dạy cho chúng. Hãy tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các bí tích. Đừng say sưa, cờ bạc; tránh cãi vã, và những việc không tốt thường con em sẽ theo vết chân bạn.
Gia đình cùng quây quần đọc kinh hôm, kinh mai với nhau ngay từ khi con cái còn nhỏ. Đọc Lời Chúa và lần chuỗi. Bên cạnh đó, Cha mẹ nên đọc gương thánh nhân cho con cái nghe để khuyến khích chúng bắt chước những đức tính tốt ấy
Mặt khác, để giáo dục con cái thì Cha mẹ nên làm gương cho chúng nó: Biết lắng nghe con cái, hãy cho con cái có dịp trình bày hoàn cảnh của chúng. Thông cảm, sẵn sàng dành thời gian chia sẻ, dạy dỗ và tỏ ra quan tâm đối với những khó khăn mà chúng gặp phải khi tiếp xúc với xã hội, tập cho chúng nó biết quan sát, nhận định và phán đoán theo lề luật của Chúa và Giáo hội. Cha mẹ dạy cho chúng nó biết quý trọng những giá trị Nước Trời, không ham mê của cải, không ăn trộm cắp, biết giữ giới răn của Chúa. Cha mẹ nên tránh nói những câu: "Đồ khùng, đồ ngu, im đi...".
Ngoài ra, hãy hy sinh chú ý tới những cái con cái thích. Khen thưởng để khích lệ, tha thứ để khích lệ và sửa sai cho chúng nó.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết qúy trọng những giá trị Nước Trời, để chúng con luôn biết sống theo Lời Chúa chỉ dạy ngay từ hôm nay, biết sống tỉnh thức và chu toàn bổn phận của công dân Nước Trời bởi vì quê hương của chúng con là Nước Trời.
Cha đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em , Hãy bán tài sản của mình mà bố thí. Như người: TN 19-C98
Cha đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em
Hãy bán tài sản của mình mà bố thí
Như người đợi chủ đi ăn cưới về . Phúc cho...chủ sẽ thắt lưng đưa họ vào bàn ăn và phục vụ từng người.
Nếu chủ nhà biết giờ nào trộm đến....Anh em hãy sẳn sàng vì lúc không ngờ thì Con Người đến. Người quản gia trung tín, khôn ngoan...thật là phúc. Chủ sẽ đặt lên coi sóc tất cả tài sản mình. Trái lại, chủ sẽ bắt phải chịu số phận của kẻ bất trung.
Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều.
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều.
Là dụ ngôn, phải hiểu theo nghiã ẩn dụ. Nói về giờ của mỗi người, giờ quyết định cho số phận vĩnh viển của mỗi người. Một lần cho mãi mãi. Vì không hiểu đúng nên bị coi thường, bị bỏ qua. Nghe rồi bỏ. Lười học Lời Chúa sẽ thiệt thòi đấy. Không học, không biết- khỏi làm. Làm bậy không có tội (vì không biết không có tội). Người ta thích vậy.
Thiên Chúa yêu thương, nhân hậu vô cùng - là ban cho mỗi người - đủ thời gian và phương tiện dồi dào - để đủ khả năng bảo đảm lo được cho phần rỗi đời đời của mình. Mọi người đều bảo đảm có đủ như vậy. Đó là lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa. Vậy đó! Chứ không phai là cho làm xấu thả ga mà không bắt tội, tội bao nhiêu cứ tha hết, cho Nước Chúa hết. Mới là thương vô cùng.!
Thiên Chúa cho thời gian ba năm "đã ba năm ta tìm trái nơi cây vả nầy". Xin cho nó thêm một năm nữa. Tôi sẽ bón phân thêm...sang năm ông hãy đốn. Vậy là chờ thêm một năm . Nhưng một năm thôi nhé ! Sang năm đốn đấy! Không có thêm nữa đâu! Đừng đợi . Đừng nói Chúa khoan nhân vô cùng thì phải cho thêm và thêm vô cùng. Đừng lợi dụng quá đáng. Đừng coi Chúa như trẻ con muốn lợi dụng cỡ nào cũng được, theo ý xấu của ta. Thiên Chúa cho tự do là nhân hậu đó. Tôn trọng tự do của ta là Thiên Chúa nhân hậu đó. Quá nhân hậu rồi đó.
Thiên Chúa không bắt bí ta, không bắt ta bất ngờ nhưng vì ta không chịu ngờ rồi cho là bất ngờ. Không hề có bất ngờ, ngay cả trong thiên nhiên. Tại vì ta không biết thôi. Một sợi tóc trên đầu ta cũng không rụng xuống mà không có sự sắp đặt của Thiên Chúa, Thiên Chúa chờ đợi và chờ đợi đủ rồi thì mới đến. Bất ngờ là phía con ngừời. Là con người quá đáng.
Lời của Đức Giêsu: Làm việc và phần thuởng/phạt. Con người có cả cuộc đời trước mặt Chúa chứ không chỉ là trong giây phút Chúa dến. Không chỉ chờ giây phút Chúa đến giờ chết. Tới đó hẳn lo! Phải có cả một cuộc đời sẳn sàng.
Nguời đầy tớ - bổn phận là thức đợi chủ đi ăn cưới về - bất cứ lúc nào - ban ngày thì thức rồ - ban đêm cũng phải thức - dù canh hai canh ba. Chủ sẽ thưởng: chủ thắc lưng- đặt người đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ. Lạ đời! Là dụ ngôn Nước Trời. Thiên Chúa sẽ thết tiệc khao thưởng các dầy tớ trung thành. Người thết tiệc là phuc vụ. Người đến để phục vụ. Người thắt lưng cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người ăn tiệc là người ngồi bàn. Phần thưởng thật là lớn! Kinh ngạc! Nhưng thức chờ đợi không phải là không ngủ. Không phải là ngồi yên mở mắt. Mà là làm người quản gia trung thành và khôn ngoan. Làm tốt bổn phận mình từng giây từng phút. Chủ về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho đầy tớ ấy. Chủ sẽ tin tưởng mà dặt nó cai quản mọi tài sản mình. Trái lại, nếu nó nghĩ là chủ về muộn nên sai sưa rồi đánh đập tớ trai tớ gái trong nhà như mình là chủ. Chủ sẽ về lúc nó không ngờ vào giờ nó không biết, sẽ loại trừ nó và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Chưa mà. Hôm qua chưa mà, Hôm nay cũng chưa. Ngày mai, ngày kia cũng chưa. Sang năm......cũng chưa. Hầu hết đều nghĩ như vậy. Bỏ Phục sinh, khuyên lo đi. Cha để con từ từ mà. Cứ thế từ từ năm nầy rồi năm nữa rồi chết vẫn chưa. Ôi!
Chúa muốn gặp ta đang làm việc thế nào chứ không phải tính sổ hay phán xét gi cả: Làm việc đẹp lòng Chúa, theo ý Chúa, đúng ý Chúa. Dominico Savio đang chơi ngoài sân với các bạn. Cha linh hướng hỏi: nếu 15 phút nữa con chết thì con làm gì? Con tiếp tuc chơi vì chơi là bổn phận lúc nầy. Làm bổn phận cho tốt là ý Chúa , đẹp lòng Chúa. Là sẳn sàng.
Làm tốt bổn phận. Khi chủ về - bất cứ lúc nào - cũng không bị bất ngờ. Phải trung thành mọi phút giây. Không xao lãng giây phút nào. Đó Là tình thức - sẳn sàng cụ thể. Là điều cốt yếu nhất nói lên sự trung thành xứng đáng hưởng phần thưởng lớn lao Nước Trời. Phần thưởng lón lao thì đòi hỏi một mức độ xứng đáng nào đó là hợp lý thôi. Càng lớn lao đòi hỏi càng cao. Sự liên tục trung thành bù đắp cho sự bất cân xứng giữa việc làm của ta và phần thưởng của Chúa. Người ta thường muốn làm ít mà được thưởng nhiều. Thậm chí muốn làm "toàn bậy" mà được thưởng Nước Trời lớn lao vô cùng. Hợp lý không? Chúng ta muốn làm cho Thiên Chúa là một Thiên Chúa không hợp lý sao! Mà không hợp lý là loạn cả.
Xin Chúa tha thứ? Rước cha. Cha tha cho. Chỉ cần cha nói "cha tha tội cho con" thì sạch hết. Dể ịu! Không gặp cha thì xin chuông tử, xin lễ an táng, xin đưa đón, làm phép huyệt, xin cầu lễ...... Cũng như tham nhũng có chết thằng tây con tàu nào đâu thì có ngu mới không à. Dại gì mà tỉnh mà thức mà chờ mà đợi. Dại gì mà không chè chén say sưa, không đánh đập tớ trai tớ gái cho oai ra phết! Có khoản nào Chúa Giêsu đã ám chỉ như vậy không? Đừng có mơ!
Rất rõ ràng. Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều hơn. Có đạo, đạo dòng, là tu sĩ, linh mục........sẽ bị phán xét nghiêm ngặt hơn (không phải dễ dàng hơn).
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. Phần thưởng sẽ lớn nhưng phạt cũng nặng. Giao cho nhiều phải sinh lợi nhiều, được hưởng nhiều và trái lại.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp chúng con hiểu thấu Lời Chúa và biết áp dụng cho có lợi để được phần thưởng Nước Cha mà Cha đã vui lòng ban cho.
Bài phúc âm hôm nay là một phần bài diễn văn rất dài của Chúa Giêsu, có ý để cho các môn đệ đừng để: TN 19-C99
Bài phúc âm hôm nay là một phần bài diễn văn rất dài của Chúa Giêsu, có ý để cho các môn đệ đừng để mình bị lo lắng bởi những công việc trần thế, nhưng trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều dụ ngôn. Chúa đã dùng những lúc, những nơi khác nhau được đặt gần lại nhau nhằm cùng hướng về một đề tài như đã nói trên. Đầu tiên Chúa ban Nước Trời nhưng nước Ngài là kho tàng qúy giá hơn mọi thứ của cải vật chất ở đời này, vì thế đòi người ta phải mộ mến hơn và phải bỏ của cải để dễ dàng xứng đáng lãnh nhận. Nước Chúa sẽ được ban cho ta một cách hoàn toàn và như một phần thưởng khi Đức Kitô quang lâm, vì thế trong khi chờ đợi ta phải sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Thiếu sự tỉnh thức này thì thật là tai hại.
Đức Giêsu đã sánh ví các môn đệ của Ngài với đoàn chiên nhỏ bé bị đe dọa bởi sói rừng. Ngài biết trước và Ngài cũng đã loan báo rồi đây họ sẽ gặp nhiều nỗi khốn khổ vì Ngài. Ngài thông cảm nỗi lo lắng sợ hãi của họ. Để an ủi khích lệ họ Ngài đã tuyên bố: "Đừng sợ hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các người hứa ban nước của Người cho các ngươi". Như thế Ngài muốn bảo các ông rằng không được sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù. Một số ít người không phải là dấu hiệu của sự bại trận, Cha đã dành cho vương quốc mà kẻ thù không đủ sức cản trở đâu. Đó là ơn cứu độ, là sự giải thoát , là vinh dự và là hạnh phúc. Những của cải trần gian là thứ sẽ hư hỏng, hao mòn và bị hủy diệt nữa, mối mọt có thể gặm... chỉ có Nước Chúa là kho tàng vĩnh cữu. Vì thế tinh thần siêu thoát là điều cần phải có. Hơn nữa sự từ bỏ của cải là cách tốt nhất để đạt được Nước Trời, vì chính Chúa Giêsu đã trả lời cho người hỏi Ngài: phải làm thế nào đễ được vào Nước Trời. Ngài đã trả lời cách khẳng định: "hãy bán đi và bố thí cho kẻ khó rồi đến mà theo Ta". Để đạt được Nước Trời không phải chỉ từ bỏ là đủ, nhưng đòi hỏi người môn đệ phải biết trung tín như người đầy tớ đợi chủ về. mà biết tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi chủ. Đó chính là nỗ lực mà mọi người đều có thể đạt được, nếu chúng ta đủ lòng mộ mến. Chính Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi những áp bức của kẻ thù, Ngài chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta đừng quên cùng đích của cuộc đời, và phải dùng hết cách để đạt tới Nước Trời như Ngài đã sẵn sàng ban cho
Thường thì vào những giờ phút gay go nhất của cuộc đời, chúng ta thường hay rơi vào ngõ bí, hoặc rơi vào giếng sâu như Giêrêmia, thì Chúa gần chúng ta nhất và chờ đợi lòng tin cậy nơi chúng ta để ra tay hành động. Chúng ta đừng để mất lòng tin cây nơi Chúa, Đấng có thể cứu chúng ta, giải thoát chúng ta, chữa lành chúng ta. Hạy nhìn thẳng tới đích mà chúng ta phải đến là Nước Trời. Nói khác đi là Nước Chúa,hay đúng hơn là chính Cháu vì ngài là hạnh phúc đời đời của ta. Tất cả những gì cản trở cho cuộc hành trình này chúng ta phải dẹp bỏ, kể cả những gì thân thiết nhất của ta cũng vậy. Tinh thần siêu thoát rất cần thiết cho cuộc hành trình được dễ dàng thêm.
Hãy mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chúa một cách tin tưởng phó thác. Có nhiều điều Chúa muốn lại là cái ta không thấy, không hiểu lúc bây giờ. Tất cả những ơn gọi đều có những khó khăn và bấp bênh, những cái không dự đoán trước được. Cũng có khi cũng giống như Apraham, chúng ta đi nhưng không biết Chúa muốn dẫn mình đi đâu. Chính những yếu tố đó sẽ đánh giá niềm Tin - Cây - của chúng ta và cho ta dịp theo Chúa thật sự.
Những thất bại tạm thời của ta không được làm chúng ta nãn lòng. Chúng ta còn nhớ mẻ cá lớn tiếp theo một đêm vất vả mà chăng được gì. Cho nên chúng ta đừng ngại hãy thả một lần nữa với một lòng trông cậy vào sự can thiệp của Chúa. Đức tin đoì hỏi ở người tín hữu nhiều hy sinh lắm.
Sự chết của Đức Kitô mà chúng ta tưởng niệm bắng cách cử hành bí tích thánh thề nhắc cho chúng ta sự can thiệp cứu độ đặc biệt của Thiên Chúa, tình yêu của Ngài, khiến chúng ta phải tạ ơn và thêm tin tưởng cậy trông. Dự tiệc bàn thánh ở đời này chúng ta nỗ lực làm những gì Chúa muốn để được dự tiệc vĩnh viễn với Ngài trên trời. Amen
Thời đại ngày nay đang sống trong nỗi ám ảnh về những tên ăn trộm. Sự bất an làm gia tăng nỗi sợ hãi. TN 19-C100
Thời đại ngày nay đang sống trong nỗi ám ảnh về những tên ăn trộm. Sự bất an làm gia tăng nỗi sợ hãi. Lúc nào người ta cũng phải đề phòng, phải cảnh giác trước những bất ngờ có thể xảy đến, những bất ngờ gây ra những mất mát, những thiệt hại. Báo chí vẫn nhan nhản những tin như thế. Đề phòng rất cẩn thận, mà vẫn có những bất ngờ. Chỉ sơ hở một chút, đã phải gánh lấy những hậu quả đau lòng.
Vậy mà Đức Giêsu tự đồng hoá với tên trộm. Người muốn lấy của chúng ta cái gì? hay Người muốn bắt chộp lấy chúng ta?
Có thể nói, Chúa của chúng ta cũng giống như người ăn trộm. Chúng ta không thể đóng khung Đức Ki-tô trong một hình ảnh nhất định với đầy đủ tiện nghi. Đức Ki-tô không phải là người mà chúng ta có thể nhận ra ngay tức khắc, không chút lầm lẫn. Người không đến trên chiếc xe lộng lẫy với trống kèn thổi vang. Người là ông chủ của vương quốc đã trao phó của cải cho các đầy tớ, nhưng cũng là ông chủ yêu mến những ai trông đợi Người; Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để hiến mình, để phục vụ và làm cho người khác được vui mừng.
Chúa của ánh sáng không chỉ là Đấng chiếu soi, Đấng rạng ngời vào buổi sáng Phục Sinh, Người cũng là Chúa của những cuộc gặp gỡ âm thầm, những bước đi êm dịu, bất ngờ, những cuộc trượt dài trong đêm tối đầy nghi ngờ và sợ hãi. Người không phải là vị Thiên Chúa muốn áp đặt, nhưng là Đấng đến gõ cửa căn nhà ít chờ đợi, vào lúc bất ngờ nhất.
Tỉnh thức suốt cả đời
Trước một vị Thiên Chúa như thế, trước những điều không ngờ, người ta sẽ làm gì? Đức Giêsu nhắn nhủ là phải tỉnh thức, phải sẵn sàng. Nhưng tỉnh thức theo tinh thần của bài Tin Mừng là gì? Chắc chắn không phải là "không được ngủ". Vẫn có những đêm không ngủ, nhưng là để làm một điều gì khác, có thể là để vui chơi, có thể là làm việc... Những đêm đó đâu phải là tỉnh thức. Điều Chúa muốn nói chính là một thái độ, một tình trạng tỉnh thức, nghĩa là luôn biết cảnh giác trước mọi biến chuyển, biết nhận ra các dấu chỉ, và nhất là, biết đọc, biết lý giải ý nghĩa, thông điệp do các dấu chỉ ấy đem lại.
Trong xã hội, người ta hơn nhau ở chỗ có nhiều kinh nghiệm trường đời. Một nhà kinh doanh biết phải ứng phó ra sao trước một tình thế có lợi hay bất lợi cho công cuộc làm ăn. Một nhà chính trị cũng cần quyết định sao cho phù hợp với các chuyển biến của thế giới. Tỉnh táo, sáng suốt, chuẩn xác, nhẫn nại, đó là bí quyết thành công; ngược lại, là những hậu quả thê thảm, thân bại danh liệt.
Còn hơn cả người làm kinh tế, làm chính trị. Ki-tô hữu có trách nhiệm đối với sự sống còn, với hạnh phúc mai sau của mình. Giá trị đó không gì sánh được hay thay thế được. Bởi vậy họ phải luôn cảnh giác, tỉnh thức.
Trước hết, họ phải tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện đầy sinh động của Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống. Người Ki-tô hữu tỉnh thức không phải chỉ để đợi chờ Thiên Chúa vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng là nhận ra Người vẫn đang đến, vẫn hoạt động, vẫn cứu độ trong từng giây phút, từng biến cố. Người Ki-tô hữu tỉnh thức là người đọc được ý nghĩa của biến cố, của sự việc; họ coi đó là những dấu chỉ về sự hiện diện sâu xa của Thiên Chúa; họ coi đó là bề mặt của một bề sâu rất dầy, rất thâm trầm, và họ hiểu được chiều sâu ấy (ít ra là một phần nào). Như thế, trước mắt người Ki-tô hữu, bất cứ điều gì cũng cho thấy những ý nghĩa lớn lao, những chiều kích sâu xa, bởi vì họ nhìn những điều đó bằng con mắt đức tin, bằng ánh mắt đợi chờ, bằng tấm lòng sẵn sàng.
Đàng khác, người Ki-tô hữu tỉnh thức để khỏi tìm cách an phận thủ thường trong cuộc đời này, trong những cảnh giàu sang, thừa mứa vật chất, bởi vì khi tìm những thứ đó, họ đã vô tình đặt lòng mình trên một thứ nền tảng không vững chắc. Những thứ ấy chỉ là cát bụi, sẽ bị trôi giạt khi có mưa giông, nước lũ. Phải cảnh giác để không dễ dàng bị mê hoặc, bị ru ngủ vì những hứa hẹn của các giá trị phàm tục; sức mạnh của khoa học kỹ thuật và ngay cả những thành công, những kết quả trong công tác mục vụ tông đổ. Đó là những cơn cám dỗ khủng khiếp có nguy cơ làm cho con người đặt hết tin tưởng, hy vọng và yêu mến vào đó, thay vì vào một Đấng Cao Cả đã sáng tạo và bảo vệ những thành quả ấy.
Người Ki-tô hữu phải tỉnh thức, không phải chỉ vì mạng sống của mình, nhưng còn vì sự sống của cả nhân loại. Họ phải bén nhạy để phát hiện ra những mưu mô, hầu tránh cho mình và cho xã hội loài người thảm hoạ "thờ bò vàng kiểu mới". Họ phải nhìn thấy trước và loan báo cho nhân loại những hiểm hoạ đang đe doạ, đang rình rập, và nhất là họ phải bày tỏ cho nhân loại sự có mặt cách vô hình của ông chủ đầy quyền năng và yêu thương. Họ phải dũng cảm nêu gương sáng của người tôi trung, lúc nào cũng tỉnh thức chờ đợi chủ về, để bất cứ giây phút nào, vừa nghe tiếng chủ gọi, họ mau mắn mở rộng cửa đón Người.
Nói cách khác, Ki-tô hữu phải là con chiên có mắt sáng, có tai thính, không vì hám ăn hám sống mà mất cảnh giác với thú dữ, với các hiểm hoạ chung quanh có thể bất ngờ xảy ra, và nhất là không bao giờ rời mắt theo dõi bóng dáng của Mục Tử kính yêu, luôn bước đi trên đường của Người, và không bao giờ làm ngơ trước tiếng Người kêu gọi, để nhanh chân chạy đến với Người, bất chấp mọi thử thách, mọi cản trở.
Tỉnh thức và chờ đợi
Tỉnh thức đi liền với chờ đợi. Ý tưởng chờ đợi gợi lên hình ảnh một người không làm gì cả, hết đứng lại ngồi, đi qua đi lại, mong sao người hẹn mình, hoặc giờ hẹn mau đến. Tâm trạng bổn chổn làm cho người ta không thực hiện được một công việc nào.
Thực ra, trong Ki-tô giáo, chờ đợi không có nghĩa là ngổi yên, là trông mong, nhưng hoàn toàn có ý nghĩa tích cực. Đang khi chờ đợi ông chủ của mình, người Ki-tô hữu vẫn hăng say làm việc, họ "thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Họ làm tất cả những gì có thể làm được để cho cuộc trở về được tốt đẹp, và hơn nữa, còn làm cho ngày ấy mau đến. Chính trong khi làm việc, họ nhận ra những dấu hiệu của ông chủ, họ thấy Người đang trở về. Thiên Chúa không xuất hiện với những con người không biết kiếm tìm, không biết chuẩn bị, bởi vì cuộc xuất hiện của Người không theo cách thế của loài người, và có khi, Người xuất hiện mà người ta không biết, vì thiếu chuẩn bị, thiếu để ý.
Người Ki-tô hữu là tôi tớ: họ không chờ đón Thiên Chúa theo cách thế, theo suy nghĩ của mình, nhưng là theo cách thế của ông chủ, chuẩn bị những gì chủ mong muốn. Điều đó thực là khó khăn với con người, vì họ phải vượt ra khỏi chính mình để đón tiếp Thiên Chúa theo cách thế Người mong muốn. Người ta không thể bắt Thiên Chúa theo những chương trình của mình, nhưng là sẵn sàng để bước đi theo Thiên Chúa, là mở rộng tâm hổn đón luổng gió tình yêu. Đó mới thực là tỉnh thức và chờ đợi.
Tỉnh thức và kho tàng
Theo những dụ ngôn của Tin Mừng, ông chủ ra đi và trao lại cho đầy tớ những nén bạc để sinh lợi. Đến khi chủ trở về, ai sinh lợi thêm sẽ được thưởng, còn người đem cất những nén bạc rổi trao lại y nguyên, sẽ bị phạt. Người tỉnh thức và chờ đợi đúng cách nhất là sử dụng những gì mình đang nắm giữ để sinh lợi nhiều hơn. Đành rằng "kho tàng ở đâu thì lòng ở đấy", nhưng nếu chỉ ngổi đó mà canh chừng thì nào có ích gì. Kho tàng là kết quả của một thời gian làm việc; có thể là tiền bạc, có thể là kiến thức... Bảo vệ ư? Đóng kín để khỏi mất mát ư? Những điều ấy chẳng giúp ích gì cả. Đó là một kho tàng, một vốn chết vì không được luân chuyển, không nuôi dưỡng sự sống. Phải bỏ nhiều công sức để tạo được một kho tàng, nhưng còn phải bỏ nhiều công sức hơn nữa để làm cho kho tàng ấy được phát triển thêm.
Một khi kho tàng được luân chuyển, nó sẽ làm tăng thêm của cải, cho mình và cho mọi người; nó sẽ tạo nên sự hiệp thông, sẽ lưu truyền sự sống. Hình ảnh dễ thấy nhất là trái tim: Máu được chuyển về tim để rồi lại từ tim đi ra, làm cho cơ thể sống động. Nếu máu chỉ ở tim mà không đi ra, các chi thể không còn hoạt động, con người sẽ chết.
Như thế, khi sự sống được lan truyền, chẳng có gì đáng sợ. Những người nào thực sự hiệp thông và trao đỗi, chẳng những đã tạo cho mình một kho tàng vững chắc, nhưng hơn thế, họ chẳng lo sợ gì khi Chúa đến bất ngờ. Họ sẽ sẵn sàng để Chúa nhập cuộc: Người không đến để tính sổ, nhưng là để chia sẻ với người có tinh thần hiệp thông và phục vụ. Ngược lại, ai không có tinh thần này, thì sự xuất hiện của Chúa rõ ràng là một tai hoạ, một cuộc đánh cắp, một cuộc phá vỡ.
Thiên Chúa đã đến, sẽ đến và đang đến. Đối với người không tỉnh thức, thì sự xuất hiện của Người thật là bất ngờ, và cũng thật đáng sợ. Còn đối với chúng ta, những người "cầm đèn sáng trong tay", thì sự xuất hiện của Người là một niềm vui mừng lớn lao, vì chúng ta vẫn chờ đợi, và Người chính là kho tàng của chúng ta, chúng ta sẵn sàng đánh đỗi tất cả để có được sự hiện diện của Người.
* * *
Hãy kêu lên Chúa vào ban đêm, để đến bình minh, Người đánh thức bạn dậy. hãy kêu lên Thiên Chúa như kẻ đang giao chiến trong đêm tối, để Đấng-không-bao-giờ-biết-sợ sẽ đặt tay của Người trên bạn, xoá tan mọi âu lo. Như một người điên dại, hãy kêu lên Thiên Chúa, bởi vì những "điều điên cuồng" của Người, sẽ đưa tới Khôn Ngoan. Hãy kêu lên Thiên Chúa, hãy xé toang bộ mặt của bạn, để sự Trong Sáng Vĩnh Cửu được lộ ra. Nhưng bạn đừng ngỡ ngàng, khi giấc ngủ chỉ đưa bạn đến Sự Thật.