Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-C Bài 1-50 Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
------------------------------------ Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-14: "Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, nhằm một ngày Sabbat Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên". Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Người Việt Nam chúng ta rất coi trọng cái ăn. Chữ ăn có thể được ghép với bấy kỳ chữ nào: TN 22-C1
Người Việt Nam chúng ta rất coi trọng cái ăn. Chữ ăn có thể được ghép với bấy kỳ chữ nào trong tiếng Việt: từ an chơi, ăn tiệc, ăn cưới đến ăn đòn, ăn gian, ăn năn. Chữ ăn dường như bao trùm bàng bạc trong suốt cả cuộc sống.
Ăn không phải chỉ là một nhu cầu của thân xác, mà còn là một sinh họat biểu lộ nhân cách, biểu lộ tính người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết giữ phép lịch sự trong khi ăn như tục ngữ đã bảo:
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Cũng như phải tránh đi những căng thẳng làm mất đi bầu khí thân mật của bữa ăn:
- Trời đánh còn tránh bữa ăn.
Và nhất là đừng để cho miếng ăn trở thành miếng nhục khi con người không còn thể hiện được nhân cách, không còn thể hiện được tính người của mình trong cái ăn. Đó là trường hợp của những bon chen vàdành giật, như ăn tham, ăn hối lộ…
Ăn đối với con người thiết yếu là ăn cùng, ăn với, nghĩa là phải thể hiện được đòi hỏi cao quí nhất trong tình người, đó là sự chia sẻ và tình liên đới với người khác.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy được tại sao Chúa Giêsu đã dành một chỗ đứng quan trọng cho cái ăn trong cuộc sống công khai của Ngài.
Thực vậy, Tin mừng đã ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Chúa Giêsu về cái ăn.
Ngài đã đi ăn cưới tại Cana. Ngài đã tới ăn tiệc do người biệt phái khoản đãi. Ngài đã ăn những bữa cơm thân mật tại Bêtania. Ngài đã cùng ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, chẳng hạn tại nhà ông Matthêu và tại nhà ông Giakêu.
Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với các môn đệ trong lúc ăn uống. Và quan trọng hơn cả, Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ.
Hơn thế nữa, Ngài lại còn thường dùng hình ảnh bữa ăn trong những lời rao giảng của mình. Biết bao nhiêu lần, Ngài đã sánh ví Nước trời như một tiệc cưới,trong đó Thiên Chúa mời gọi tất cả, không trừ một ai.
Dưới mắt Thiên Chúa, điều làm nên giá trị cho con người không phải là tài năng hay sự thành đạt trong xã hội, mà chính là tình yêu phục vụ.
Chúa Giêsu không kết án những người chiếm địa vị cao ngoài xã hội. Nhưng theo quan điểm của Ngài, càng có quyền thế, thì lại càng phải hy sinh và phục vụ nhiều hơn. Giá trị đích thực của con người chính là phục vụ và phục vụ một cách vô vị lợi.
Người nghèo nhất trong xã hội sẽ được coi là người cao trọng nhất trong Nước trời, nếu người đó biết thực sự sống yêu thương và phục vụ.
Chính Chúa Giêsu cũng đã sống trọn vẹn cho yêu thương và phục vụ trong suốt cuộc đời trần thế. Thực vậy, là Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ đến chỗ cuối cùng, để có thể yêu thương và phục vụ những người kém may mắn nhất. Tình yêu thương và tinh thần phục vụ đã đưa Ngài tới chỗ hèn kém nhất của xã hội, đó là chịu chết trên thập giá như một tội nhân bị bêu xấu.
Ngoài ra, Ngài còn mời gọi chúng ta cũng phải biết noi gương Ngài để yêu thương và phục vụ lẫn nhau, nhờ đó kéo dài tình thương của Thiên Chúa cũng như tung vãi hồng ân của Ngài cho anh em đồng loại.
Ngài nói với chúng ta:
- Khi dọn bữa trưa hay bữa tối, các ngươi đừng mời bạn bè, anh em bà con hay láng giềng giàu có, mà hãy mời những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù…vì họ không có gì để mời lại các ngươi.
Và trong bữa tiệc ly, Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Nếu Ta vừa là Thầy vừa là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy rửa chân cho nhau.
Thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa là thương yêu không biên giới, là thương yêu không so đo, không tính toánh.
Đức Kitô đã không giam mình trong một giai cấp nào cả, tình yêu thương của Ngài đã trải rộng trên mọi người. Mặc dù Ngài đã dành ưu tiên cho những người nghèo hèn, nhưng đồng thời cũng không bỏ rơi những kẻ giàu có. Ngài đã ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, nhưng vẫn nhận lời mời đến dự tiệc do một người biệt phái khoản đãi. Người không phân biệt đối xử và không loại trừ một ai.
Hãy yêu thương và biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những công việc phục vụ cụ thể, bởi vì yêu thương chính là cho đi.
Một dịch giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên: TN 22-C2
Một dịch giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên Trung Quốc. Cầu thang này là giai đoạn cuối cùng của con đường leo lên núi hành hương, vì đã hơn cả 1000 năm dòng người hành hương đã làm những bậc cầu thang bị mòn và thậm chí nguy hiểm.
Trên thực tế, đã có rất nhiều người hành hương bị trợt té và bị tai nạn. Những người ở trong vùng đã đề nghị các vị Tăng Ni ở đó nên sửa chữa lại những bậc cầu thang, vì e rằng họ có thể bị mất khách hành hương và đó cũng là nguồn trợ cấp cho Thiền Viện. Nhưng vị sư chủ trì đã từ chối và nói rằng, thật đáng tiếc cho những khách hành hương bị tai nạn, nhưng điều này có thể là vì họ ngẩng đầu quá cao. Tuy nhiên, họ chỉ là số ít trong số những cả triệu người nhận biết rằng, trong cuộc sống người ta phải bước đi cẩn thận. Ngẩng đầu cao nhưng không quá cao không đến nỗi không thấy cái hố cao trước mặt.
Chương 14 Tin Mừng thánh Luca đã đưa vào vài câu chuyện và lời dạy của Chúa Giêsu, đặc biệt trong đoạn văn nói về tiệc cưới. Chúa Giêsu không lạm dụng sự quảng đại của chủ nhà mà lấy lời giảng dạy để chỉ trích họ, nhưng thánh Luca đã biến bữa ăn thành cơ hội để Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ thích hợp đối với bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta là dân của Ngài.
Như thế, chúng ta phải đón tiếp nước Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta như thế nào ? Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy những người thích chọn chỗ vinh dự nơi bàn tiệc. Không nên làm như vậy, mặc dù mình là nhân vật quan trọng, kẻo phải nhường lại chỗ đã chọn cho những khách đặc biệt khác quan trọng hơn mình, lúc đó mình sẽ bị xấu hổ.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để phá đổ sự kiêu căng lố bịch và dạy một bài học về khiêm tốn. Ngài đã tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Và ngay trong bài đọc I sách Huấn Ca cũng đã khuyên nhủ: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa. Càng làm lớn con càng phải hạ mình khiêm tốn trong mọi sự thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Hình như lòng khiêm tốn không còn chỗ đứng trong một xã hội đầy cạnh tranh gay gắt, và xem ra khiêm tốn chỉ là một thứ mặt nạ để người ta chú ý đến mình nhiều hơn. Điều này rất dễ được nhận thấy khi được người ta khen ngợi và ca tụng. Nhưng trái lại, khiêm tốn Kitô hữu đích thực là chân thành nhìn nhận tình trạng thực tế trong thân phận của chính mình trước mặt người khác và trước mặt Thiên Chúa, qua một thân phận yếu kém và bất toàn, một thân phận yếu đuối và cả tội lỗi nữa. Một khi chân thành biết sự giới hạn của mình thì càng trở nên khiêm tốn hơn và đón nhận tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn.
Trong câu chuyện hai người vào đền thờ cầu nguyện, một người kể công và khoe khoang những việc mình làm, và một người đứng xa xa chỉ biết đấm ngực xin Chúa thương xót, Chúa đã chiếu cố đến người khiêm tốn này. Khiêm tốn là bài học đầu tiên cho lòng hối cải và sự tha thứ. Khiêm tốn là cửa ngõ để ta bắt đầu bước vào nhìn nhận và thông cảm với anh chị em xung quanh chúng ta. Và khiêm tốn chính là chỗ ngồi trong bàn tiệc cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người.
Trong tu đức, trái ngược với khiêm tốn là kiêu ngạo và người ta xếp kiêu ngạo vào hàng thứ nhất của bảy mối tội đầu. Thánh Augustinô cũng đã dạy rằng: “Trước tiên con phải có lòng khiêm tốn, nếu không, dù có làm việc đạo đức tốt lành đi nữa thì chính tính kiêu ngạo cũng xen vào làm cho hư mất”.
Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương để noi theo học tập, và sau bài học yêu thương đó là bài học khiêm tốn: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Hãy ngẩng đầu để thấy trời cao đẹp đẽ và đầy hy vọng, nhưng cũng hãy nhìn xuống đất để biết đôi chân của mình đang đi mà vững bước trên đường. Hãy yêu thương để sống quảng đại và hãy khiêm tốn để sống biết đón nhận, đó là thái độ của người Kitô hữu chúng ta. Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
“Phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra: TN 22-C3
Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra thật đơn giản, nhưng trong thực tế ai trong chúng ta cũng phải nhận đức khiêm nhường là một nhân đức phức tạp khó lường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật. Sau khi đã sáng chế ra điện tính, ông Samuel đã lãnh nhận được rất nhiều giải thưởng, nhưng ông luôn cho mình bất xứng với những lời khen tặng đó, ông đã nói: “Tôi được hân hạnh đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này cho nhân loại, nên khi đã đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài đã thương bày tỏ cho tôi”.
Biết nhìn nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban chứ không phải do công lao tài ba của mình, đó mới là người khiêm nhường. Chính vì vậy, khi được lãnh nhận ân phúc Chúa ban, họ luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng trong thế giới này có nhiều người dù được lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, nhưng lại lợi dụng ân phúc của Chúa để kéo những danh dự về cho mình.
Chuyện kể rằng, tại một sở thú nọ, trong khi một con công đang từ từ xòe đuôi, giương cánh ra vẻ oai phong xinh đẹp của nó cho mọi người thưởng thức, thì có một con vịt già từ đâu lệ khệ bước đến, trong phút chốc, con công trở nên hung bạo, dữ tợn đánh đuổi con vịt đi. Con vịt trở lại hồ nước và bơi lội nhẹ nhàng uyển chuyển trên nước, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người.
Người tự kiêu cũng tương tự như thế, không những không biết ơn Chúa ban mà còn dùng ơn Chúa ban để coi thường kẻ khác. Cũng có những người bề ngoài tỏ ra khiêm nhường, nhưng trong lòng lại chẳng khiêm nhường chút nào. Bác sĩ Henry thường bị các bạn chỉ trích vì tính kiêu kỳ của ông. Để giúp ông sống khiêm nhu hơn, họ đề nghị ông ra đường, trước ngực có đeo tấm bảng có ghi một câu Kinh thánh và lớn tiếng đọc Phúc âm cho những người chung quanh nghe.
Sau một buổi trên đường phố, ông trở về với vẻ mặt kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi dám cá với các ông là không ai trong thành phố này dám làm như tôi đã làm”. Cũng có người bề ngoài nói rằng mình không xứng đáng, đáng mọi người ghét bỏ, nhưng nếu bị người khác đối xử đúng như lời họ nói thì họ lại tức giận khó chịu. Có những người cố tình lẩn tránh để bắt kẻ khác tìm kiếm, mời mọc mới chịu xuất đầu lộ diện.
Khiêm nhường là sự thật, nên trong đức khiêm nhường không thể có những sự giả hình, giả tạo như vậy. Vì vậy, cho dù Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết, để khi được mời lên chỗ cao hơn thì sẽ được vinh dự trước mặt mọi người”. Nếu người đó làm như vậy với ước mong là sẽ được vinh dự trước mặt mọi người, thì đó cũng chẳng phải là khiêm nhường thật. Đức khiêm nhường thật phải xuất phát từ một tâm hồn nhìn nhận sự thật. Chúng ta có một mẫu gương trọn vẹn là Chúa Giêsu. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nhận thân phận của một người bình thường, sống giữa những người bình thường. Chúa đã tuân theo những định luật của người Rôma, những chỉ thị của những người làm đầu trong dân và Chúa đã vâng lời cho đến chết. Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ. Gương khiêm nhường của Chúa là một mẫu gương đáng chúng ta noi gương bắt chước trong cuộc sống hằng ngày.
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: mỗi người là một cá biệt, không ai: TN 22-C4
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: mỗi người là một cá biệt, không ai giống ai, không một người nào giống người nào, xét trên mọi phương diện. Đặc biệt hơn nữa, về điều kiện và hoàn cảnh sinh sống, mỗi người có một vị trí riêng của mình và không giống với bất cứ ai. Đây là nhận xét căn bản sẽ giúp chúng ta dễ ý thức về một thái độ sống là điểm chính của đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu dạy: Hãy sống khiêm nhường.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhìn lên mình chẳng bằng ai. Nhìn xuống lại chẳng thấy ai bằng mình”. Sự “Nhìn lên, nhìn xuống” đó không phải chỉ so sánh giữa mình và người khác trong phạm vi của cải, tài năng… mà còn có thể áp dụng rất bao quát và toàn diện cho con người với tất cả những thứ con người “là” và con người “có”. Thật vậy, những thứ tôi “là” và tôi “có” không bằng ai hay giống ai hết, và cũng chẳng ai bằng tôi hay giống tôi cả. Biết chân nhận cái tôi cũng như biết về người khác, tôn trọng sự khác biệt và giữ đúng tương quan, liên hệ giữa mình và mọi người, suy nghĩ và cư xử đúng chính là thái độ sống khiêm nhường đúng nghĩa nhất.
Ngược lại, không nhận thức được những điều trên, tức không nhận chân được thực tế, không nhìn ra chỗ đứng của mình, con người dễ rơi vào cách suy nghĩ và sống ở hai thái cực: hoặc băn khoăn bực bội, tự ti hoặc vênh vang tự đắc, vì tự xếp loại mình vào hai trạng thái: “Mình chẳng bằng ai” hay “Không ai bằng mình”. Vì thế, khiêm nhường tất nhiên trái ngược với tự tôn tự đắc tự cao tự đại ; nhưng cũng không phải là tự ti mặc cảm, luôn bị ám ảnh thua kém, khiến sinh ra nhu nhược, nhút nhát, luôn cắn răng chịu đựng, không dám có ý kiến, dễ bị khuất phục trước đe dọa dù là phi lý. Không dám có thái độ bênh vực sự thật thì không còn là khiêm nhường nữa mà là nhu nhược, hèn nhát. Người khiêm nhường cộng thêm sự khéo léo, tế nhị sẽ biết kiên nhẫn, nhường nhịn vừa phải, đúng lúc, biết tùy cơ ứng biến, đối chất để thuyết phục, giảng hòa.
Trái lại, người kiêu ngạo tự cho mình là “trung tâm vũ trụ”, lên mặt vênh váo và coi thường mọi người, biểu lộ qua hai thái độ “vơ vào” hoặc “tránh né”. Chẳng hạn: khi thấy những ai khác được vinh dự, may mắn thì tự hỏi: “Tại sao không phải là tôi mà lại người kia người nọ ?”. “tại sao không hỏi ý kiến tôi mà lại hỏi người ấy ?”. Ngược lại, khi gặp điều không may hoặc bị trách cứ, dù là chính mình gây lầm lỗi, thì người kiêu ngạo lại tránh né, đổ thừa: “Tại sao không trách người khác mà lại trách tôi ?”. Hai trường hợp trên đây đã diễn tả được hết cái gian manh, xảo trá, lừa lọc đi đôi với lòng kiêu ngạo, tự cho mình là tất cả, không chấp nhận tương quan nào ở trên mình. Trái lại, lòng khiêm nhường là chấp nhận sự thật, chấp nhận tương quan trên dưới mà sống cho hài hòa, tốt đẹp. Vì biết rõ vị trí, biết nhận cái hay cái dở của mình, đồng thời tôn trọng những phạm vi của người khác, người khiêm nhường sẽ tự chủ được những công việc, hoạt động của mình mà không va chạm, xúc phạm đến người khác. Tóm lại, dù chúng ta là ai, ở cương vị nào, chúng ta cũng đừng bao giờ vênh vang tự đắc cũng đừng tự ti mặc cảm. Chúng ta hãy sống khiêm nhường thật sự để tương quan cư xử, giao tiếp luôn được hài hòa, tốt đẹp với mọi người, và như thế cũng đẹp lòng Chúa, vì Chúa chỉ chúc lành và ban ơn cho người khiêm nhường.
Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt anh em ? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Chúng ta hãy luôn tự nhủ: con người từ hư vô, từ tro bụi và sẽ trở về tro bụi, mình có chút tài năng gì thì cũng do Chúa ban. So sánh với người khác, mình có hơn cũng chẳng hơn bao nhiêu, hoặc hơn về điểm này nhưng lại kém ở điểm khác. Có tập luyện được chút khả năng tài khéo gì, có học hỏi được gì cũng do ơn Chúa trợ giúp và chắc chắn còn muôn vàn điều không biết. Con người ta bị giới hạn tứ phía: tâm linh, trí tuệ, thể xác… cần cố gắng thêm mãi.
Càng biết Chúa, biết mình, biết người, biết đời rõ bao nhiêu càng bớt tự phụ kiêu căng bấy nhiêu. Do đó, chúng ta có thể nói: càng giỏi, càng có nhiều càng phải khiêm nhường, chỉ có những ai dốt nát, dại dột mới cậy mình, khoe mình và kiêu ngạo.
Cuộc sống của chúng ta có thể sánh ví như một bữa tiệc, mà nơi đó người ta đang tranh nhau để: TN 22-C5
Cuộc sống của chúng ta có thể sánh ví như một bữa tiệc, mà nơi đó người ta đang tranh nhau để chiếm cho mình một chỗ nhất. Quả thật, “Danh-Lợi” vốn luôn là một cám dỗ đầy hấp dẫn đối với con người qua mọi thời đại. Dù không nói ra, nhưng ai trong chúng ta cũng thích được người khác ca tụng, thích được kính nể, ai cũng lo tìm kiếm danh vọng, địa vị, chức quyền. Dân gian Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người chết để tiếng”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Câu tục ngữ này phản ánh rất trung thực tâm lý của những người dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay và qua đó Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo huấn về sự khiêm nhường. Vậy, theo bài Tin Mừng, thế nào là khiêm nhường, một sự khiêm nhường đích thực để chúng ta có thể thi hành trong đời sống Kitô hữu mình ?
Trước hết, nhìn qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, giáo huấn về sự khiêm nhường của Chúa Giêsu dường như chỉ là một bài học về cách đối nhân xử thế theo kiểu “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Thậm chí sự khiêm nhường ở đây còn hàm chứa một sự tính toán vị kỷ, ra vẻ khiêm nhường để tạo sự chú ý nơi người khác, để được mời lên chỗ cao hơn và như thế đó chẳng qua chỉ là một sự kiêu ngạo tinh tế.
Đàng khác, cũng có quan niệm coi khiêm nhường như một hình thức an phận thủ thường, một sự yếm thế, khinh rẻ bản thân hay tự ti mặc cảm, thiếu ý chí vươn lên và thoái thác trách nhiệm trong cuộc sống. Chắc hẳn đó không phải là sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta ? Trong cuốn “Rèn nhân cách” tác giả Hoàng Xuân Việt đã viết như sau: người khiêm nhường không phải là người tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, khinh rẻ mình một cách vô lý đến nỗi không sử dụng tài năng của mình. Người khiêm tốn là người sáng suốt nhìn nhận mình có khuyết điểm, có ưu điểm, có tài đức, có trật tự…”
Vâng, khiêm nhường là ý thức cách sâu xa về chính mình, là nhận ra sự thật về con người mình để thấy rằng, tôi là gì ? Là ai? Là con người thế nào trong tương quan với kẻ khác ? Để từ đó biết chọn cho mình một vị trí, một chỗ ngồi xứng hợp trong bữa tiệc cuộc đời này. Người ta định nghĩa cách vắn tắt như sau: “Khiêm nhường là chấp nhận sự thật, sự thật về chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh.
Cicêrô nhà hùng biện nổi tiếng của Rôma đã nói: “Khi người ta bảo một người rằng: bạn hãy tự biết mình, thì đó không phải chỉ để hạ lòng kiêu căng của kẻ ấy, mà còn để cho họ biết giá trị của họ nữa”.
Như vậy, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình trong tương quan rộng mở với người khác. Bài học khiêm nhường không chỉ dừng lại ở đây, nhưng Tin Mừng còn hướng chúng ta lên cao hơn, khiêm nhường là nhận biết chính mình trong tương quan với Thiên Chúa, là ý thức thân phận thụ tạo tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và cứu độ. Việc những người dự tiệc tranh giành và tự ý chọn cho mình một chỗ nhất là phản ánh tâm lý của các luật sĩ và biệt phái cũng như của con người thời đại hôm nay, họ muốn chối bỏ Thiên Chúa, muốn chiếm đoạt quyền hạn của Ngài, và với thái độ kiêu căng tự mãn, họ cho rằng chỉ mình họ là xứng đáng chiếm hữu Nước Trời. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy, việc sắp xếp chỗ ngồi cho thực khách là công việc của chủ tiệc, và theo lẽ thường, chỗ nhất là để cho người nhất, chỗ sang trọng là cho người sang trọng, do đó mới có vấn đề mời người này lên và mời kẻ nọ xuống. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng thì đương nhiên là người nhất, người sang trọng. Người nhất dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất và cuối cùng họ vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Người ta thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập” nghĩa là: Có xạ tự nhiên thơm, không cần phải đứng đầu gió. Cũng vậy, không phải hễ tự cho mình là đạo đức thánh thiện, là công chính xứng đáng, thì đương nhiên sẽ được vào dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa như người chủ tiệc, chỉ mình Ngài biết rõ ai xứng đáng, chỉ mình Ngài có quyền chọn gọi và sắp đặt chỗ ngồi cho thực khách trong bàn tiệc của Ngài.
Đến đây, chúng ta nhận thấy không chỉ đưa ra một giáo huấn về sự khiêm nhường, Chúa Giêsu còn mạc khải về mầu nhiệm Nước Trời được sánh ví như một bữa tiệc và khiêm nhường là điều kiện cần thiết để được tham dự vào bàn tiệc này. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã một lần nghe qua dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Chính với thái độ khiêm nhường, ý thức thân phận tội lỗi của mình, kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa mà người thu thuế được ơn công chính hóa, còn người biệt phái kiêu căng, tự mãn thì trở về tay không. Vì chưng “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng ! Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng ! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng !”. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những tranh chấp, kiêu căng và tự mãn. Giáo huấn về sự khiêm nhường thoáng nghe qua tưởng chừng như không hợp thời hay có thể nói là lỗi thời, là đối nghịch với chiều hướng thăng tiến con người và phát triển xã hội. Nhưng nếu một khi ý thức được rằng khiêm nhường đích thực là nhận biết chính mình, là không đánh bóng, không giảm trừ chính mình, thì quả thật, khiêm nhường là nhân đức không chỉ cần thiết cho sự thành công trong đời sống hiện tại, mà còn như chiếc chìa khóa để mở cho chúng ta cánh cửa Nước Trời.
Sự ban cho hoặc dâng tặng là tâm điểm của Tin Mừng, và thuộc về bản chất của đời sống Kitô: TN 22-C6
Sự ban cho hoặc dâng tặng là tâm điểm của Tin Mừng, và thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu. Nhưng không phải mọi sự cho đều chân thật.
Nicholas, một con người nổi tiếng là quảng đại, ông chết và lên thiên đàng. Thánh Phêrô đợi ông ở cửa. Ở đó, thánh Phêrô chỉ cho ông hai đống vàng, một đống nhỏ và một đống lớn gồm những cục vàng có kích thước khác nhau.
“Những cái này là gì vậy ?” Nicholas hỏi.
“Đây là những hành động ban tặng mà ông đã thực hiện ở trần gian – mỗi hành động là một cục vàng”.
Ông Nicholas cảm thấy trong lòng đầy sự tự hào. Nhưng rồi, thánh Phêrô lại nói: “Khổ nỗi, không phải mọi sự cho đều là sự cho chân thật. Nhiều lần nó bị dính bén bởi vì lòng ích kỷ. Vì thế chúng ta phải tiến hành trắc nghiệm những hành động ban tặng của ông. Vì thế, những cục vàng trong đống vàng lớn không được tính đến”.
“Sao vậy !” Nicholas hỏi.
“Chúng tượng trưng cho những lần ông ban tặng cho bạn bè, người thân, bồ bịch v.v… Chúng không tạo nên vàng thật. Kể cả bọn kẻ cướp cũng tốt với những người thân của chúng”.
Nói đến đây những cục vàng trong đống lớn biến thành cát. Thánh Phêrô cầm một cái sàng có mắt rộng đặt những cục vàng trong đống nhỏ vào sàng. Sau khi lắc sàng, Phêrô chỉ còn lại trong sàng những cục rất lớn.
“Ngài đang làm gì vậy ?” Nicholas hỏi.
“Tôi sàng sẩy những sự ban tặng mà ông chỉ làm để được đáp lại một điều gì đó. Cho như thế là một thứ đầu tư. Ông có được sự trả lại mà đôi khi có lời hậu hỉ”.
Đến đây, thánh Phêrô đổ những cục đã sàng được qua một bên và chúng trở thành cát bụi. Rồi ngài làm cho các mắt sàng nhỏ lại và hốt đống vàng còn lại vào sàng. Ngài lại sàng tiếp và đổ bỏ qua một bên các cục còn giữ lại trong sàng.
“Làm thế để làm gì ?” Nicholas hỏi.
“Để sàng sẩy những việc lành mà ông đã làm để được những người khác ngợi khen. Người ta có thể làm mình trở nên một thần tượng qua việc ban tặng”.
Thánh Phêrô làm cho các mắt sàng nhỏ hơn nữa, rồi sàng tiếp phần còn lại. Ngài nói: “Bây giờ chúng ta loại bỏ những việc lành mà ông làm chỉ vì những cảm giác ông cảm nhận khi thực hiện”.
Nicholas nhìn thánh Phêrô bỏ những cục vàng còn giữ lại trong sàng mà khi vào không khí chúng trở thành bụi bặm. Thánh Phêrô lại thu gom phần còn lại cho vào trong sàng sau khi đã làm cho mắt sàng nhỏ lại.
“Bây giờ đến cái gì vậy ?” Nicholas hỏi:
“Bây giờ chúng ta sẽ sàng bỏ những sự ban tặng mà ông chỉ làm vì ý thức bổn phận”.
Ngài lắc sàng. Những gì còn giữ lại, ngài đổ bỏ sang một bên và chúng chịu chung số phận với những cục vàng đã thành cát bụi.
“Dừng lại thôi !” Nicholas kêu lên. “Nếu ngài tiếp tục như thế thì chẳng còn lại gì cả. Như thế làm sao tôi có được thông hành vào thiên đàng ?”.
“Chúng ta phải tiếp tục thôi” Thánh Phêrô nói. “Chúng ta phải nhìn thấy cái giá của việc ông ban tặng. Giả sử chúng ta loại bỏ những vật ông ban tặng mà không tốn kém gì cho ông thì có bao nhiêu lần ban tặng sẽ biến mất ? Và ông đã ban tặng những gì chỉ vì người nhận là một người mà ông cảm thấy xứng đáng với quà tặng của ông ?”.
Nhưng ông Nicholas không còn muốn nghe gì nữa: “Thật là một cảm giác khủng khiếp như khi người ta có vàng trong tầm tay mà sau đó bị giật lấy khỏi tay bạn” ông kêu lên: “Nhưng nếu nó không trở thành vàng thật mà là vàng giả”, thánh Phêrô nói thêm “Này ông Nicholas, sự cho thật rất hiếm, cũng như vàng thật rất hiếm. Cho mà không mong được đáp trả lại gì cả trừ phần thưởng cao cả là thiên đàng mới chính là sự cho chân thật. Nhưng hãy vui mừng lên, tôi có một tin mừng cho ông”.
“Tin mừng gì ?” Nicholas hỏi. “Chúa là Đấng ban tặng cao cả nhất. Hành động ban tặng của Người là vàng ròng. Nhưng chúng ta đã nói chuyện nhiều rồi. Đây là lúc phải gặp chính Chúa. “Nhưng tôi chỉ còn có tay không” Nicholas kêu lên.
“Điều đó có nghĩa là ông nghèo khó”, thánh Phêrô đáp: “Nhưng đừng bao giờ hoảng sợ. Chúa ban cho một cách rất quảng đại những người nghèo khó mà không xấu hổ thừa nhận mình nghèo. Thôi, đi nào”.
Đức Giêsu được mời đến nhà của một người lãnh đạo nhóm Pharisêu để dùng bữa. Khi Người: TN 22-C7
Đức Giêsu được mời đến nhà của một người lãnh đạo nhóm Pharisêu để dùng bữa. Khi Người đến, Người cảm thấy những người Pharisêu dò xét Người. Vì thế Người quyết định dò xét lại họ đôi chút. Cảnh quan mà đôi mắt Người bắt gặp không có tính cách xây dựng. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự, điều đó chỉ chứng tỏ thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường. Đức Giêsu nói “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng cao”.
Khi chúng ta bước vào một ngôi nhà thờ lớn, lập tức chúng ta cảm thấy phải khiêm cung. Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Chúng ta nhận thấy mình lệ thuộc vào những điều tầm thường và giả tạo. Nhưng một cách lạ lùng, chúng ta cũng được nâng cao. Bởi lẽ khi chúng ta hạ mình xuống và buông bỏ những sự vật đã cho chúng ta một cảm thức giả tạo về tầm quan trọng và cao siêu của mình, khiến chúng ta cách biệt với những người khác, lúc đó chúng ta thấy mình được nâng cao. Chúng ta bắt đầu nhận thức sự cao cả thật của chúng ta không ở trong chính mình, mà ở trong sự kiện chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Mỗi Chúa nhật, chúng ta được mời đến dự tiệc – bữa tiệc Thánh Thể. Ở đây Chúa Giêsu là chủ, còn chúng ta là khách của Người. Ở đây không có những chỗ ngồi đặc biệt – bạn có thể ngồi vào chỗ nào mà bạn muốn. Ở đây đặc quyền, địa vị, tầng lớp không còn ý nghĩa gì. Sự khác nhau không đáng kể. Đó là vì trước mặt Thiên Chúa tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Không phải vì chúng ta đã bị hóa đồng mẫu số. Đúng hơn vì tất cả chúng ta đều được nâng lên cao. Chúng ta giống như những người đang ở trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi mà nói chỗ đầu, chỗ cuối hoặc chỗ cao hơn, chỗ thấp hơn thì thật là ngớ ngẩn. Điều đó cũng được áp dụng cho ngôi nhà của Thiên Chúa. Ở đây, mọi chỗ đều là chỗ danh dự. Bước vào đây làm cho mọi người được bình đẳng. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa này, mọi đặc quyền bay đi như làn khói, và tất cả chúng ta đều trở nên khiêm hạ nhưng cũng được nâng cao lên. Trước hết, chúng ta phải hạ mình xuống để được tôn lên. Sau đó, chúng ta phải mang theo tinh thần này vào đời sống với chúng ta.
Một lần nọ, ông thị trưởng của một thành phố mời tất cả dân chúng của thành phố đến dự tiệc. Trong số những người đến dự, có một người rất lỗi lạc có tên là Daniel. Ông Daniel là một học giả lớn và là một người khôn ngoan. Dĩ nhiên, ông rất khiêm nhường và không thích được tôn vinh khi ông đến, dĩ nhiên ông thị trưởng mời ông ngồi ở đầu bàn. Ông Daniel cám ơn ông thị trưởng và nói rằng ông thích ngồi ở giữa những người nghèo ở cái bàn gần cửa nhất. Và ông đã làm như thế.
Khi những khách mời danh giá khác đến, ông thị trưởng mời họ ngồi bất cứ nơi nào họ thích. Dĩ nhiên họ đã chọn ngồi ở bàn đầu. Phòng tiệc đã đầy ắp và tình cờ chỗ duy nhất còn lại ở bàn cuối. Thế mà vào phút chót con người danh giá ấy đến. Ông thị trưởng không có chọn lựa nào khác hơn là dẫn ông này đến chỗ trống.
“Nhưng đây là chỗ ở bàn cuối” người khách phản đối.
“Không, đây là chỗ bàn đầu”, ông thị trưởng đáp.
“Tôi không hiểu”, người khách nói.
“Nơi nào ông Daniel ngồi thì chỗ ấy là bàn đầu”. Ông thị trưởng đáp.
Bài học luân lý của câu chuyện: không phải chỗ ngồi làm vinh dự cho người khách, nhưng người khách làm vinh dự cho chỗ ngồi. Chúng ta không biết Đức Giêsu ngồi ở chỗ nào trong suốt bữa ăn, nhưng dù Người ở nơi nào thì nơi ấy là một chỗ vinh dự.
Bữa tiệc là một biểu tượng của Nước Trời. Chúng ta không nên quan tâm đến việc tìm kiếm chỗ ngồi vinh dự trong Vương Quốc. Chúng ta hãy coi việc mọi người chúng ta đều được mời là một đặc ân. Dù trong tình huống nào, mọi chỗ trong Vương Quốc đều là một chỗ danh dự.
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu: TN 22-C8
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự hủy như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nagiaret, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khi yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người”. Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trở nên giống Thiên Chúa.
Ai cũng thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm nhường: TN 22-C9
Ai cũng thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm nhường. Ai sống khiêm nhường, sẽ được yêu thương và hạnh phúc.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình
Có một số người tưởng rằng, khiêm nhường là phải nhận mình là dở nhất hoặc mình chẳng có gì hay. Vì quan niệm như vậy, nên có người thấy mình có điều hay, cũng không dám nhận và còn phủ nhận điều đó. Thật sự, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Điều rất căn bản mà những người khiêm nhường xác tín: “tất cả những gì mình có hoặc hay hơn người khác, là ơn Chúa ban, chứ tự mình thì không chừng mình còn tệ hơn cả những người tệ nhất”.
Khiêm nhường là chấp nhận mình như “mình là”. Chấp nhận điều hay mình có, để tạ ơn Chúa. Chấp nhận điều dở như mình là, để “khiêm nhường”, không buồn phiền, không dằn vặt, không oán trách hay càm ràm con người hay Thiên Chúa. Nếu mình có gì hay, và cũng có thể hay hơn người khác, hãy “khiêm tốn” nhận thực rằng, nhờ ơn Chúa mà mình có được điều đó. Nếu nhờ ơn Chúa mà mình hay hơn người khác, vậy thì tại sao mình lại hành xử như thể do tự mình mà mình có điều đó? Nếu nhờ ơn Chúa mà mình có điều đó, thì đâu có gì để vênh vang tự hào!
Hay không kiêu, dở không thất vọng! Đó là thái độ của người khiêm nhường. Nhận thấy mình hay, hoặc được người khác khen mình, hãy tạ ơn Chúa. Trong trường hợp này, Chúa được tôn vinh. Con người nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho họ.
Người khiêm nhường có thể sống với mọi người
“Càng khiêm nhường, càng trở nên tuyệt, và càng đẹp lòng Thiên Chúa”. Một người khiêm nhường, là người “đẹp”. Họ không khinh người kém hơn họ, hơn nữa, họ luôn kính trọng người khác, và coi mình cũng như tất cả mọi người, nếu họ có gì hay, đó là do được ban cho, chứ tự họ, họ cho rằng họ cũng bình thường và không chừng còn dở hơn mọi người.
Người khiêm nhường, là người đề cao Thiên Chúa trong đời sống. Những người kiêu ngạo, thường cho mình hơn người khác, đòi người khác đối xử với mình cách đặc biệt như mình muốn. Hình ảnh của người đi dự tiệc muốn ngồi chỗ nhất trong dụ ngôn Đức Yêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là một thí dụ. Người không khiêm nhường, dễ làm cho người khác khó chịu, đặc biệt những người “kiêu ngạo” như họ. Họ đòi ngồi chỗ nhất, đòi người khác phải chào hỏi, đòi người khác phải xưng hô với họ thế này thế kia.
Người khiêm nhường, không ước vọng quá sức mình. Chấp nhận mình như mình là, chấp nhận mình như Chúa muốn vậy, và an bình trong cuộc sống của họ. Nói như vậy, không có nghĩa là những người “khiêm nhường” này không phấn đấu hoặc không cố gắng. Một khi họ đã cố gắng hết sức, họ chấp nhận kết quả một cách an bình. “Không tìm điều ngoài sức mình”.
Đức Yêsu- người khiêm nhường tuyệt vời
Đức Yêsu, vốn là Thiên Chúa, nhưng đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự huỷ trở nên một người phàm (Pl.2, 6). Người yêu thương người khác, bất chấp họ cư xử như thế nào với mình, vẫn yêu thương và chấp nhận họ, đó là người khiêm nhường tuyệt vời.
“Yêu mến là chu toàn tất cả lề luật”. Yêu mến bao gồm mọi nhân đức. Yêu mến, là chấp nhận người khác như họ là, và cố gắng giúp họ trở nên tốt hơn, ngay cả phải chết. Những người này, khi làm như vậy, đang trở nên giống Đức Yêsu, đang trở nên một Yêsu khác.
Thập giá, ngày xưa, bị coi là dấu chỉ của sự đáng nguyền rủa và bị khinh bỉ. Hôm nay, với tình yêu và cái chết của Đức Yêsu, thập giá trở thành dấu chỉ của tình yêu, dấu chỉ của sự chiến thắng. Ước gì mọi ki-tô hữu đều giống Thầy Chí Thánh, khiêm tốn và yêu thương đối với mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có người cho rằng, khiêm nhường đồng nghĩa với giả hình và nhu nhược. Bạn trả lời sao? 2. Theo bạn, tại sao người ta thường không muốn nhận sự thật về chính mình? 3. Bạn có nghĩ rằng, khiêm nhường giúp người ta dễ sống hạnh phúc không? Tại sao?
Một đám đông tụ họp gần một cái ao trong một sở thú rộng lớn. Họ đang ngắm nhìn một con: TN 22-C10
Một đám đông tụ họp gần một cái ao trong một sở thú rộng lớn. Họ đang ngắm nhìn một con công đang xòe ra bộ đuôi tuyệt đẹp của nó. Con công đứng thẳng trong cung điệu lộng lẫy của nó. Bỗng dưng không biết ở đâu một con vịt màu nâu xấu xí bơi lại gần chỗ con công đang đứng. Thấy con vịt xấu xí ấy, con công liền sừng sổ đuổi con vịt đi. Bộ mặt thùy mị sang trọng của con công lúc này đã biến mất mà thay vào đó là bộ mặt hung dữ. Con vịt thấy vậy thì âm thầm bình tĩnh ung dung bơi ra chỗ khác. Thế là đám đông nãy giờ đang chiêm ngắm con công bỗng dưng đâm ra trầm trồ khen ngợi con vịt.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đang dự tiệc với những người khách tại một nhà ông Pharisiêu. Ở đây chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu trong nhân tính của Ngài. Ngài cũng làm như những người khác thường làm tại các buổi tiệc. Bởi vì ngồi cùng bàn với Ngài là những người Pharisiêu, cho nên câu chuyện bất ngờ đổi về luật lệ giữ ngày Sabát. Chúa Giêsu đã nói với những người dự tiệc rằng có lúc luật pháp phải nhường chỗ cho những giá trị cao quí hơn của con người. Chẳng hạn họ sẽ phải coi sóc người bệnh, hoặc cứu giúp người con của họ bị bệnh vào ngày Sabát. Sau đó, Chúa Giêsu còn dạy cho tất cả mọi người một bài học mới về mời khách dự tiệc. Ngài khuyên họ đừng nên mời những người mà mình quen biết hằng ngày, những người mà mình sẽ cần đến họ, hoặc là những người mà mình cần phải dựa hơi. Ngài khuyên họ nên đổi mới tư tưởng bằng cách mời những kẻ ăn mày và nghèo khổ đến dự tiệc bởi vì qua đó họ sẽ được trổi vượt trên đường nhân đức, và chính Thiên Chúa sẽ khen thưởng họ.
Trong khi trao đổi trong bàn ăn, Chúa Giêsu lại còn nêu lên một vấn đề nữa là lòng khiêm nhường. Ngài khuyên những người đi dự tiệc không nên ngồi vào chỗ nhất hay những chỗ sang trọng, nhưng nên tìm ngồi vào những chỗ rốt bét để chủ nhà đến mời lên chỗ cao hơn thì mới có danh dự. "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14:8,10-11).
Sự khiêm nhượng là căn bản để đạt tới cuộc sống mỹ mãn. Nếu chúng ta tin vào lời của Chúa Giêsu phán rằng sự khiêm nhượng có thể lớn lên, cải tiến, biến đổi, tha thứ, và yêu thương, thì chúng ta đang đi trên con đường tiến đến cuộc sống mới. Sự khiêm nhượng Kitô giáo thật là một điều phúc lành. Nó làm cho chúng ta cảm thấy sự ngọt ngào trong tâm hồn.
Ở thời đại chúng ta, thật là một điều khó khăn để thực hành sự khiêm nhường. Chúng ta bị áp lực đủ phía để chống lại điều căn bản trong đạo Kitô giáo này. Thế giới ngày nay ca tụng sự tranh chấp, cải tiến, và danh dự thế gian. Thắng bại là một điều quan trọng, chứ không phải là thi hành sự khiêm nhường của Phúc Âm.
Một cha sở nọ in ra một câu truyền thông như sau và dán lên bảng tin tức của giáo xứ, "Cuộc sống là Yêu Thương, chứ không phải là cuộc Thi Đấu." Ngày hôm đó, điện thoại nhà xứ rung như điên. Hết người này đến người nọ gọi cho cha sở để bài bác và chửi cha bởi vì họ cho rằng cuộc sống phải là một cuộc thi đấu. Thật là rõ ràng bởi vì nhiều Kitô hữu không nhận ra bài học của bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu khuyên răn chúng ta rằng người nào biết sống khiêm nhường sẽ được nâng cao.
Điều đó đối với chúng ta ra sao? Chúng ta sẽ ôm ấp lý thuyết của thế gian răng đền răng, hay chúng ta sẽ đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu, phục vụ không hưởng thụ.
Lạy Chúa, con cầu xin cho con sức mạnh để con có thể thành công, con đã được ban cho sự yếu nhược để con biết học sống khiêm nhượng.
Con cầu xin Ngài cho con sức khỏe để con có thể làm những việc lớn lao, con đã được ban cho sự đau yếu để con biết làm những việc tốt hơn.
Con cầu xin Ngài cho con của cải để con sống hạnh phúc, con đã được ban cho sự nghèo khổ để con biết khôn ngoan.
Con cầu xin Ngài cho con quyền lực để con được thiên hạ ca ngợi, con đã được ban cho sự yếu đuối để con biết cậy trông vào Ngài.
Con cầu xin Ngài cho con tất cả để con có thể hưởng dụng cuộc sống, con đã được ban cho sự sống để con có thể hưởng cuộc sống.
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng: TN 22-C11
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.
Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
"Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên."
Đức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn. Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên. Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác. Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những hình thức khiêm nhường giả tạo? Một người khiêm nhường thực sự phải là người như thế nào?
Trong môi trường bạn sống, bạn có thấy những người bất hạnh, ít được nâng đỡ quan tâm không? Bạn đã làm gì để giúp họ?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải. Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người. Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi." Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi: TN 22-C12
Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi.
Tôi chọn ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự đó...
Tiếc thay, không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ. Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia... Nơi nào có hai người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.
Giữa một thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự khiêm, tự hạ.
Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.
Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.
Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Abraham là một mẫu gương khiêm nhường. Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành Sôđôma.
Giêrêmia đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.
Nhiều người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Nhưng chấp nhận sự thật là điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.
Khiêm nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa.
Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng.
Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý... Tha nhân ấy không phải chỉ là người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.
Nơi lời chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.
Nếu tôi khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ. Những ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm phong phú.
"Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa." Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm sâu.
Thánh Phanxicô Borgia viết: "Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy."
Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, thế nào là một người kiêu ngạo? Bạn nhận ra người đó qua những cử chỉ bên ngoài và thái độ bên trong nào?
Theo ý bạn, người khiêm nhường thực sự thi có những nét nào? Làm sao để tập được đức khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Năm 1888 Đức Lêô XIII phong thánh cho một vị thừa sai tại Châu Mỹ La Tinh và tôn vị ấy làm: TN 22-C13
Năm 1888 Đức Lêô XIII phong thánh cho một vị thừa sai tại Châu Mỹ La Tinh và tôn vị ấy làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen trên toàn thế giới. Đó là thánh Phêrô Claver (1580-1654).
Quì bên cạnh để rửa mặt rửa mình cho họ
Người ta có thể nghe chính vị thánh này mô tả về tình trạng của những người da đen mà ngài hiến thân phục vụ qua một đoạn trích của lá thư gửi các bạn của ngài như sau: "… Hôm qua… Lễ Chúa Ba Ngôi, một số lớn dân da đen bị bắt dọc các bờ sông ở Phi Châu được đưa vào bờ bằng một chiếc tàu rất lớn. Chúng tôi vội vã chạy ùa ra mang theo hai thúng đầy cam, chanh, bánh ngọt và đủ mọi thứ linh tinh. Chúng tôi phải cố gắng dạt đám đông ra mới tới được với những người đau ốm. Hàng đám họ đang nằm dài trên đất ẩm, đúng hơn là trên bùn, thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân. Chúng tôi cởi áo choàng ra, đi đến một nhà kho gần đó, kiếm đủ thứ gỗ còn xài được mang về và ghép chúng lại với nhau thành một cái bục, đoạn xông qua đám lính gác, và cuối cùng chúng tôi dàn xếp mang được tất cả những người ốm đau đến đó… Phải chi các bạn có thể nhìn thấy lòng biết ơn biểu lộ trong ánh mắt họ! Bằng cách này chúng tôi đã nói với họ không phải qua lời nói mà bằng hành động. Bất cứ bằng hình thức ngỏ lời nào khác có lẽ cũng không phù hợp. Đoạn chúng tôi ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ."
Điều thánh Phêrô Claver vừa mô tả ăn khớp với lời khuyên của Đức Giêsu ngỏ cùng vị thủ lãnh nhóm Pharisêu đã mời Người đến dự tiệc, rằng: "Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế, ông mới thật có phúc." (cc.13-14). Hai thúng cam, chanh, bánh ngọt mà thánh nhân mang tới chỉ mới là đồ khai vị sơ khởi ban đầu. Những cống hiến tiếp theo còn đáng kể hơn nhiều. Những cống hiến ấy được tượng trưng bằng việc thánh nhân "ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ." Tất cả những điều đó trở nên hạnh phúc lớn biết bao cho thánh Phêrô Claver khi thánh nhân hưởng được ngày các kẻ lành sống lại (c.14).
Thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Đức Giêsu
Quả thật, sứ mạng Đức Giêsu đến để thể hiện là thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Người. Nước đó Người thường ví như một bữa ăn hoặc một bữa tiệc linh đình.
Người Do Thái cũng như người Hy Lạp thời Đức Giêsu, thường ăn hai bữa, không kể bữa lót lòng ban sáng trước khi đi làm: đó là bữa sáng hoặc về trưa và bữa chính ban chiều. Khi ăn người Do Thái có thể ngồi hoặc ngả lưng trên cỏ (Mt 14,19) hay trên ghế dài có đệm mà không có tay vịn (Ga 13,23) với thân mình dựa trên khuỷu tay trái và thức ăn chủ yếu được kẹp trong bánh dễ cầm tay. Thường người ta chỉ ăn bánh mì, uống nước lã và ăn trái cây, tuy ban chiều cũng thường có những món ăn nóng. Thịt và rượu nho cũng như những thức ăn mỹ vị thường dành cho đại tiệc (Lc 15,22-32).
Trong Kinh Thánh, bữa ăn đã từng là cơ hội để phê chuẩn giao ước được ký kết (St 26,30; 31,46-54). Bữa ăn luôn nói lên tình huynh đệ ngang qua hành vi duy trì sự sống. Cộng đoàn dự tiệc luôn giả thiết tình mến khách về phía người mời khách đến ăn. Ngược lại, khách dự tiệc cũng được giả thiết phải có một số những đức tính tương xứng. Câu Thánh Vịnh 40,10 "Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con" như tiên báo cho thấy Giuđa sẽ trở nên kẻ phản bội Thầy mình như thế nào trong bữa tiệc ly (Lc 22,21).
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu lần lượt ngỏ lời cùng khách dự tiệc (cc.7-11) rồi cùng chủ nhà là người mời khách tới (cc.12-14): Cả hai đều tìm thấy ý nghĩa đầy đủ của nó ở lời bình phẩm của một người đồng bàn lên tiếng nói với Thầy Giêsu rằng: "Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa." (c.15)
Người nhỏ nhất là kẻ lớn nhất
Khách dự tiệc được Đức Giêsu khuyến cáo làm điều xem ra với lý do không được thanh cao lắm chăng? Họ được đề nghị vào ngồi cỗ dưới không phải vì lý do tốt lành, mà chỉ để được chủ tiệc cất nhắc lên cỗ nhất: "Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn" (c.10). Nhưng Luca cho ta biết điều vừa nêu là dưới hình thức một dụ ngôn (c.7) thường được hiểu là một câu chuyện buộc người nghe phải suy nghĩ để khám phá ra ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Ở đây ý nghĩa phải được tìm là ở câu 11 khi Đức Giêsu nói "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Tức là trong ngày phán xét Thiên Chúa sẽ đảo ngược lại thang giá trị bất công của thế gian. "Người sẽ hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc 1,52). Do đó việc các môn đệ tôn mình lên đã từng bị Thầy Giêsu quở trách khi mà các ông chỉ mới "chợt suy nghĩ tự hỏi xem ai là người lớn nhất trong các ông". Thầy Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng, Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: "… Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là kẻ lớn nhất!" (Lc 9,46-48).
Đừng mời người có thể đáp lễ
Theo cùng một văn mạch xem ra cũng dưới hình thức dụ ngôn như trên (c.7), Đức Giêsu quay lại khuyến cáo chủ tiệc đừng nên mời bạn bè, anh em hay bà con là những người có thể đáp lễ (c.12) mà ngược lại, hãy mời những người đui mù, què quặt, v.v… là những người không có gì để đáp lễ. "Như thế, ông mới thật có phúc" (c.14). Nói cách khác, khi làm việc thiện cần phải tránh tinh thần vụ lợi; mọi phần thưởng chỉ được chờ đợi nơi Thiên Chúa khi Người cho kẻ lành sống lại. Kiểu nói mạnh "Đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông" là để nói lên tinh thần hoàn toàn vô vị lợi đó.
Đảo ngược thang giá trị
Quả thật tinh thần đảo ngược thang giá trị trần thế của Nước Thiên Chúa cũng như tinh thần hoàn toàn vô vị lợi nhằm phục vụ người nghèo chính là điều mà Chúa Giêsu muốn dạy ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Tinh thần ấy thánh Phêrô Claver đã bật sáng lên không chỉ bằng một cử chỉ ngôn sứ thoáng qua nhưng bằng cả một đời tận hiến cho người da đen suốt 40 năm!
Sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền Đông Bắc nước Tây Ban Nha, cậu Phêrô Claver ngay từ nhỏ đã được hấp thụ một đức tin vững mạnh và được triển nở về lòng khiêm tốn sâu thẳm. Thêm vào đó, vì là người con duy nhất trong gia đình, cậu được hưởng một tình thương âu yếm của mẹ cha. Tất cả những nét ấy sẽ tiếp tục ghi khắc sâu đậm vào cuộc đời trên dưới 70 năm của Phêrô Claver.
Sau một thời gian học tại quê nhà, nhờ một ông chú cho tiền ăn học, Phẽrô Claver được gởi đi học xa gia đình và đã xin nhập Dòng Tên ngày 7.8.1602. Sau hai năm ở tập viện và một thời gian học văn chương, ngày 11.11.1605, Phẽrô Claver đặt chân tới học viện Dòng Tên ở đảo Mallorca nơi một tu huynh gác cổng 33 năm nổi tiếng là người đạo đức và thánh thiện đến nỗi nhiều nhân vật đạo đời lui tới bàn việc thiêng liêng với thầy. Chính thầy An Phong Rodriguez này đã khuyên bảo Phêrô Claver rằng "Nếu anh thật lòng yêu mến Chúa Kitô, anh hãy xin đi phục vụ bao anh em ở Nam Mỹ!" Đó chính là điều mà Phêrô Claver đã làm, là xin hiến thân phục vụ người da đen một cách hoàn toàn vô vị lợi. Thánh nhân đã mang lại kết quả lớn lao cho họ. Người ta ước lượng trong gần 40 năm, thánh Phêrô Claver đã ban bí tích rửa tội cho khoảng 300.000 người da đen. Do đó mà năm 1888 Đức Lêô XIII đã tôn thánh nhân làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ tại sao Chúa Giêsu lại nói "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (c.11)? Lời này của Chúa Giêsu có thể đem ra thực thi trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của người Kitô hữu chăng? Bạn nghĩ tinh thần của Chúa Giêsu dành mối quan tâm ưu tiên cho những người nghèo, bị bỏ rơi hoặc bị đối xử bất công, tinh thần ấy có thể thay đổi xã hội bạn đang sống chăng?
2. Riêng bạn có lẽ không có cơ hội hiến thân phục vụ người da đen ở Châu Mỹ La Tinh như thánh Phêrô Claver, nhưng tinh thần phục vụ vô vị lợi của ngài, thực ra là của chính bài Tin Mừng này, vẫn có thể được áp dụng bằng nhiều cách chăng?
Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị: TN 22-C14
1. Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị, có tư cách không?
Bạn nghĩ gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?
2. Khi người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?
3. Hành động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn ngoan không? Tại sao?
Suy niệm
1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.
Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: «Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú», và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện «cái tôi», làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để «cái tôi» được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng «xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ», «thùng rỗng kêu to», càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.
2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình
Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.
Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay «sơ cấp» phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay «thứ cấp» có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.
3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo
Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng «muốn có vẻ là có giá trị», hay «muốn được coi là danh giá» nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.
Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.
Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen
Bạn nghĩ gì về «cái tôi» của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của: TN 22-C15
1. Bạn nghĩ gì về «cái tôi» của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của bạn? 2. Người thánh thiện có còn «cái tôi» của mình không? «Cái tôi» của người thánh thiện khác với «cái tôi» của kẻ tội lỗi ở điểm nào? 3. Bạn nghĩ gì về một người chọn chỗ kém nhất trong bàn tiệc rồi ngồi mong người ta mời lên chỗ cao hơn? Đó có phải là kẻ khiêm nhường không? 4. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa và sống hòa hợp với tha nhân, «cái tôi» giúp ta hay cản trở ta? Giúp hay cản trở thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. «Cái tôi» hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có «cái tôi». Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một «cái tôi». Vì thế, «cái tôi» là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay «cái tôi» thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có «cái tôi» như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.
2. Thái độ về «cái tôi» quyết định sự thánh thiện hay tội lỗi
Tuy nhiên, «cái tôi» vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng «cái tôi» ấy có thể làm cho con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.
– Thánh thiện là khi «cái tôi» biết tự xóa mình đi trước «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình; chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8).
– Tội lỗi là khi ta đặt «cái tôi» của ta lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ của con người nằm ở chỗ đã đặt «cái tôi» của mình lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa.
Vì thế, «cái tôi» là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của «cái tôi» của ta đối với «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.
3. Nghịch lý của «cái tôi»
Theo niềm tin Kitô hữu, Thiên Chúa đã dựng nên linh hồn con người – yếu tố chủ yếu làm nên «cái tôi» của ta – mang tính bất tử hay vĩnh cửu. Vì thế, dù «cái tôi» ấy có tự xóa mình đến thế nào thì nó cũng vẫn tồn tại. Điều rất nghịch lý nhưng cũng rất hữu lý là «cái tôi» càng tự xóa mình hay tự làm nhỏ mình đi bao nhiêu, thì nó càng trở nên vĩ đại, nổi bật và có giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, «cái tôi» càng muốn phình to và nổi bật lên để lấn át những «cái tôi» khác thì nó càng trở nên nhỏ bé, lu mờ và kém giá trị trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng: «phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên».
Hai lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ứng dụng cái nghịch lý trên. Trong bữa tiệc, hay trong rất nhiều tình huống khác của cuộc đời, ta nên chọn chỗ hèn kém hơn tha nhân. Chọn chỗ hèn kém không phải để sau đó mong chờ người ta đưa mình lên. Nếu còn ý hướng mong chờ đó thì việc chọn chỗ hèn kém ấy chỉ là giả hình, giả khiêm nhượng, không phải là xóa mình thật sự. Chọn chỗ hèn kém như một thái độ tự xóa mình thật sự – nghĩa là vì không muốn ai để ý đến mình, không làm theo khuynh hướng tự nhiên của «cái tôi» là muốn được trọng vọng, đề cao – thì mới thật sự là khiêm nhường. Khiêm nhường thật sự như thế mới có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi làm ơn cho ai, nếu còn mong người ta nhớ ơn hay trả ơn mình – khiến ta chỉ muốn làm ơn cho những ai mà ta hy vọng họ sẽ trả ơn ta – thì ta vẫn còn đặt nặng «cái tôi» của mình. Người thánh thiện hay trọn hảo, khi làm ơn cho ai, không mong được họ đáp trả, nên sẵn sàng làm ơn cho cả những người không thể trả ơn được, và họ ưu tiên làm ơn cho những đối tượng này. Làm được việc gì, dù to tát đến đâu cũng không cậy công, không tự hào rằng mình đã làm được như thế. Đức Giêsu dạy: «Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi» (Lc 17,10). Có như thế mới thật sự là xả kỷ, quên mình. Nhưng chính khi quên mình thật sự như thế, ta mới thật sự gặp lại chính mình: «Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân» (Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Khăn). Người biết xóa mình hay quên mình thì thường xuyên sống trong bình an và hạnh phúc.
4. Quan trọng hóa «cái tôi» là một trở ngại rất lớn cho việc sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân
Trong đời sống Kitô hữu, điều quan trọng nhất phải thực hiện là mến Chúa và yêu người, hay nói cách khác là sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, dụ ngôn sau đây trong Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu sắc:
«Xưa có một linh hồn tu nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi: – Ai đó? – Con, linh hồn trả lời. – Con là ai? Thượng Đế hỏi lại. – Con là con, linh hồn đáp. – Ở đây không đủ chỗ cho Ta và con cùng ở, con hãy đi nơi khác! Thượng Đế nói.
Linh hồn ấy trở lại trần gian tu luyện thêm 1000 năm nữa, sau đó lên Trời gõ cửa lại. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó? – Con, linh hồn trả lời. – Con là ai? Thượng Đế hỏi lại. – Con là Ngài, linh hồn đáp.
Khi ấy, Thượng Đế mở cửa Thiên Đàng cho linh hồn ấy vào».
Dụ ngôn trên cho thấy muốn kết hiệp với Thiên Chúa, con người phải xóa mình đi, nghĩa là phải biết coi nhẹ «cái tôi» của mình, coi nó như không là gì cả. Lúc ấy, «cái tôi» của ta như bị mất cái vỏ bên ngoài chỉ còn cái lõi bên trong là chính Thiên Chúa, nên rất dễ kết hợp với Ngài. Vì Thiên Chúa chính là nền tảng, là cốt tủy cho sự hiện hữu và tồn tại của «cái tôi» mỗi người. Đúng như thánh Âu Tinh nói: «Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính nội tâm tôi» (Deus intimior intimo meo). Chỉ khi kết hiệp với Thiên Chúa trong tình trạng tự xóa như thế, sự kết hiệp mới trọn vẹn và đem lại hạnh phúc tuyệt vời.
Đối với tha nhân, ta chỉ có thể yêu thương và hòa hợp với tha nhân khi ta tự xóa mình. Đối với ta, «cái tôi (của ta) là cái đáng yêu» nhất, nhưng đối với tha nhân, «cái tôi (của ta) là cái đáng ghét» nhất. Vì thế, tự đề cao mình, tự làm cho mình nổi bật lên, tự quan trọng hóa mình… trước tha nhân chỉ làm cho «cái tôi» của mình thêm đáng ghét, khiến ta và tha nhân tự nhiên xa cách nhau. Khi tự xóa mình trước tha nhân, coi tha nhân là quan trọng, làm cho tha nhân được nổi bật lên, thì đối với tha nhân, «cái tôi» của ta sẽ trở nên đáng yêu, khiến ta và họ trở nên gần gũi, dễ hòa hợp với nhau. Nhờ đó việc sống chung, làm việc chung trở nên vui thú và hạnh phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã dựng nên con có một ngôi vị hay một «cái tôi» giống như Cha. Chính nhờ «cái tôi» này mà con có thể trở nên thánh thiện như Cha, mà cũng có thể tội lỗi như ma quỉ. Vấn đề là con đã hành xử với «cái tôi» của con thế nào: con coi nó quan trọng hơn Cha, hơn tha nhân, là trung tâm của vũ trụ, hay coi nó chỉ một «cái tôi» nhỏ bé cần đặt dưới tất cả những «cái tôi» khác!? Tội lỗi hay thánh thiện nằm ở thái độ này. Xin cho con biết coi nhẹ «cái tôi» của mình trước Cha và tha nhân.
“Một ngày Sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:
“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại ông và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
SUY NIỆM:
KHIÊM TỐN TRONG PHỤC VỤ
1. Nhân Một Bữa Tiệc
Đức Giê-su được một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu mời dùng bữa. Thời Đức Giê-su, người Do thái: TN 22-C16
Đức Giê-su được một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu mời dùng bữa. Thời Đức Giê-su, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hê-rô-đê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Ét-sê-niêng khắc kỷ. Có nhóm Sa-đu-xê tư tế. Nhóm Pha-ri-sêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pha-ri-sêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Đức Giê-su quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông ta hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Đức Giê-su, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giê-su lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2. Đức Giê-su Đã Dạy Một Chân Lý Trong Đời Sống Xã Hội.
Nhân hoàn cảnh đó. Đức Giê-su đã lên tiếng dạy ta bài học về sự khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Trổi trang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.
Sách Trang Tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào trọ một nhà kia. Chủ nhà có 2 nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếp đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quí tôn trọng.
Vì thế Đức Giê-su đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3. Nhưng Nhắm Đến Thực Tại Nước Trời.
Lời Đức Giê-su dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời.
Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Đức Giê-su. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự hạ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bửa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất ? Thưa là Đức Giê-su. Thế mà Người đã quì gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quì trước mặt nhân loại. Thiên Chúa đã rửa chân nhân loại. Thiên Chúa đã lau những bàn chân nhơ nhớp của nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên.
Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quí, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Đức Giê-su không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm tốn như Đức Giê-su không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quí. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giê-su, xin Chúa dạy chúng con bài học sống khiêm nhường, quên mình, tự hạ tự hủy mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa !
Lạy Chúa Giê-su, xin Chúa dạy chúng con bài học sống vô vị lợi, sống bác ái, sống hiến dâng mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa !
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
CHỨNG TỪ:
ĐỪNG TỰ XEM MÌNH LÀ QUAN TRỌNG
Đức cố Giáo Hoàng Gio-an 23 kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau:
“Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gio-an, đừng tự xem mình là quan trọng !”
Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng ! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng !
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến. Khác hẳn với tính tự cao, tự đại có thể được so sánh với những ngọn núi, vạt đồi, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp, để đón nhận được những Hồng Ân của Thiên Chúa đã không dừng lại trên đỉnh núi hay triền đồi, những chảy tràn xuống và đọng lại chan chứa ở những nơi thấp nhất dưới chân đồi... Từ LỜI HẰNG SỐNG, 3.2000.
CÂU TRUYỆN: CÁCH GIỮ LÒNG KHIÊM NHƯỜNG Tại nước Ba Tư xưa, có một người chăn chiên rất trung thành với nhà vua, được vua tin dùng, cuối cùng được làm đến chức tể tướng. Các quan trong triều thấy thế thì sanh lòng đố kỵ, cử người vào trình với vua: "Tâu bệ hạ, ngài đã làm một việc bất công khi thăng cấp cho một kẻ chăn chiên lên làm tể tướng. Người ấy chỉ là một nông phu hèn hạ, không có công trạng gì, nay làm tể tướng thì chức vị cao hơn chúng thần, quyền thế cũng hơn chúng thần. Vậy, xin bệ hạ chiếu cố xét lại cho chúng thần được nhờ..."
Nhà vua liền đáp: "Đó là một người hết sức trung trực, mười phần trẫm có thể tín nhiệm được cả mười. Song nếu chư khanh có thể tìm ra bất cứ một lầm lỗi nào đáng kể của người ấy, trẫm sẽ sẵn sàng nghe lời chư khanh mà xét lại. Vậy, chư khanh cứ tự do quan sát và báo cáo lại cho trẫm."
Sau một thời gian dò xét, họ khám phá ra rằng trong dinh tể tướng có một căn phòng riêng, thường thường đóng kín. Mỗi tuần lễ tể tướng vào đó một lần, ở trong ấy khá lâu, rồi lại đi ra và đóng cửa phòng lại. Họ cho rằng tể tướng đi vào trong đó để làm những việc không nên làm, hoặc cất giấu những gì đã tham lạm của nhà vua. Vì vậy, họ đem mọi sự trình cho vua rõ. Nhà vua bảo: "Vậy trẫm cho phép chư khanh đến mở cửa phòng ấy ra và lục soát cho kỹ, xem người ấy đã vào đó để làm gì ?"
Vâng lệnh nhà vua, họ bèn đến dinh tể tưởng, tháo tung cửa căn phòng đặc biệt ấy ra và lục soát thật kỹ. Nhưng họ thấy căn phòng ấy chỉ là một căn phòng trống trải, chẳng có gì khác, ngoài một đôi giày cũ và một chiếc áo rách. Thấy thế, họ cho là kỳ quái, không hiểu sự thể là gì bèn đi thuật mọi sự cho vua nghe. Nhà vua liền triệu tể tướng đến hỏi tại sao lại để trong phòng riêng một đôi giày cũ và chiếc áo rách như vậy, và mỗi tuần lễ tể tướng vào đó một lần để làm gì.
Tể tướng nhỏ nhẹ trả lời: "Tâu bệ hạ, đôi giày cũ và chiếc áo rách ấy, là giày và áo của tôi lúc còn chăn chiên. Tôi để những vật ấy trong phòng riêng, mỗi tuần vào đó nhìn lại một lần, để đừng quên rằng tôi vốn xuất thân từ chỗ hàn vi, không có tài đức gì đáng so sánh với địa vị cao trọng ngày nay cả. Tôi làm như thế là để giữ lòng khiêm nhu trong mọi sự, hầu cố gắng cho được xứng đáng với sự tín nhiệm và ân huệ của bệ hạ về trăm họ trong nước..."
Nhạc sư Hải Linh khi còn sống ở New Orleans thường rất ít khi thắt cà vạt. Mỗi lần đi đâu phải buộc cà vạt vào cổ cho hợp chỗ "nhớn" thì ông lấy làm khổ sở lắm. Ông bảo giống như sắp bị "thắt cổ" lãnh án tử hình vậy; không thì nó cũng chẹt bóp cổ mình ăn nuốt làm sao cho ngon được!
Riêng tôi mỗi lần đi ăn tiệc mà ngồi ở chỗ cao thì cũng chẳng mấy thú vị gì. Một trong những lý do dễ hiểu là chỗ vị vọng thường ngay sát sân khấu có nhiều loa phóng thanh, mà ban nhạc bây giờ phải đánh to hết sức xem ra mới đã. Thế là mình cứ việc lo mà đền tội trong suốt hơn một tiếng đồng hồ: màng tai thì giãn bong lùng bùng, các dây thần kinh thì lỏng ra thật đáng ái ngại.
BA MƯƠI BA CÁI THÚ CỦA KIM THÁNH THÁN
Đang khi nhiều người mong mỏi đời mình sẽ khấm khá khi ngồi được chỗ cao hơn, được lên cấp, tăng lương, mua được bộ đồ mắc tiền, tậu được chiếc xe láng cho le lói với thiên hạ, thì nhà nghệ sĩ Trung Hoa là Kim Thánh Thán đã khám phá ba mươi ba lúc vui thỏa thật giản đơn. Và Lâm Ngữ Đường đã ghi lại trong Một Quan Niệm Về Sống Đẹp (The Importance of Living).
1. Tháng bảy mùa hè, mặt trời ngừng ở giữa trời, không có gió mà cũng không có mây, sân trước sân sau hực lên như lò lửa, không một con chim nào bay lại. Mồ hôi đổ khắp mình, chảy như suối. Cơm dọn sẵn trước mặt mà ăn không được. Bảo trải chiếu để nằm trên đất, nhưng chiếu ướt nhẹp, ruồi bay lại đậu ở cổ ở mũi, đuổi không đi. Đương lúc không biết làm sao thì bỗng mây đen kéo tới, sấm nổ vang như trăm vạn tiếng trống tiếng kèn của đạo quân. Mái nhà nước xối như thác. Mồ hôi ngưng chảy, đất sạch như quét, ruồi bay đi hết, ăn cơm được. Vậy chẳng khoái lắm sao?
2. Trước phòng đọc sách, chặt các cây rủ lá che để trồng một vài cây chuối. Vậy chẳng khoái lắm sao?
3. Sau bữa cơm, không biết làm gì, dạo chợ thấy một món đồ nhỏ muốn mua. Trả giá cũng gần xong, số tiền chỉ còn cách nhau một chút mà người bán không chịu nhường, cố tranh cho được. Tôi lấy ra trong tay áo ra một vật giá trị cũng xấp xỉ chỗ sai biệt đó, ném xuống quầy cho người bán hàng. Hắn đổi ngay sắc diện, cười vui. Vậy chẳng khoái lắm sao?
4. Lúc rảnh rỗi không biết làm gì, sắp đặt lại đồ vật trong một cái rương cũ bỗng thấy hằng chục hằng trăm văn khế cũ mới của những người thiếu nợ. Người còn sống kẻ đã chết, nhưng toàn là vô hy vọng đòi lại được tiền. Không cho ai hay, tôi gom lại, châm lửa đốt hết, ngẩng lên nhìn trời cao không gợn một đám mây. Vậy chẳng khoái lắm sao?
5. Một ngày hè, dậy sớm, thấy người ta cưa tre làm ống nước ở dưới một mái che. Vậy chẳng khoái lắm sao?
6. Mưa dầm suốt tháng, sáng nằm ở giường không muốn dậy, như người say rượu hoặc đau. Bỗng nghe chim ríu rít mừng nắng. Tôi vội đưa tay ra vén màn, đẩy mạnh cửa sổ ngó ra, thấy ánh mặt trời long lanh rực rỡ, và cây trong rừng như mới gội. Vậy chẳng khoái lắm sao?
7. Đêm đông uống rượu, trời chuyển lạnh dữ, đẩy cửa sổ nhìn ra thấy tuyết đã phủ mặt đất tới ba bốn tấc. Vậy chẳng khoái lắm sao?
8. Mở tủ ra, tình cờ tìm được bức thư của một người bạn cũ. Vậy chẳng khoái lắm sao?
9. Một bạn nghèo lại mượn tiền, nhưng còn ngại ngùng và nói bâng quơ những chuyện đâu đâu; đoán được nỗi khổ tâm của bạn, kéo lại chỗ vắng, hỏi cần bao nhiêu, rồi đi gấp vô nhà trong, lấy đủ số ra đưa. Và hỏi bạn có cần về gấp để thu xếp công việc không, nếu không thì ở lại uống vài chén rượu. Vậy chẳng khoái lắm sao?
10. Mở cửa sổ cho con ong bay ra. Vậy chẳng khoái lắm sao?
11. Thấy chiếc diều đứt dây. Vậy chẳng khoái lắm sao?
12. Trả hết nợ. Vậy chẳng khoái lắm sao? v.v.
TIN VUI TỪ CON CÓC NHẢY KHƠI KHƠI
Ấy, đại khái 33 lúc khoái của Kim Thánh Thán nó dễ dàng như vậy đấy. Ông ta có thể ghi ra thêm cả trăm, cả ngàn, cả triệu lúc khoái khác cũng được vậy thôi. Tội nghiệp cho thi sĩ Byron chỉ hưởng được có ba giờ sung sướng trong suốt một đời. Chắc ông ta vào loại bị bệnh bất mãn kinh niên, nếu không thì ít ra ông cũng hưởng được 33 lúc khoái như Kim Thánh Thán chứ. Thấy diều đứt dây cũng thú. Thấy trời mưa cũng thú, trồng thêm một cây cũng thú, dứt được một vài ràng buộc làm mất thong dong cũng thú. Nhiều cái thú lắm. Và Lâm Ngữ Đường góp ý: "Đọc đoạn Kim Thánh Thán trên, có phải rõ ràng thế giới là một bàn tiệc bày ra cho chúng ta hưởng đấy không? Tôi ngờ rằng sở dĩ chúng ta cứ ngoan cố nhắm mắt không chịu nhìn cái thế giới đẹp đẽ đó thôi".
Nhà thơ Luân Hoán đã bày tỏ được một lúc khoái bằng một tình cờ rất hiển nhiên trong Cỏ Hoa Gối Đầu:
đôi khi chống nạng ngắm trời
thấy con cóc nhảy khơi khơi mà thèm.
Nhìn một con cóc nhảy cũng là một cách chiêm nghiệm hay thiền đấy. Mình bỗng cảm nhận được cái thong dong, tự tại, sung sướng với những gì mọi khi vẫn coi là tầm thường thấp kém. Hạnh phúc thật giản đơn đã luôn được trao ban sẵn đó, khi nắm bắt được vẻ kinh ngạc lạ lùng của sự hiện hữu, của chính sự sống lần đầu thấy tim mình đang đập và máu đang chuyển, thấy được nhựa cây đang đẩy chất màu cho những búp mới nhú ra, thấy được tia nắng mới dậy thì nhảy múa trên làn cỏ tươi mát, thấy được mắt của con ruồi được cấu tạo bằng trên ba ngàn lăng kính...
Đây chính là phút giác ngộ phát hiện ra một dòng sức sống bao la vẫn không ngừng nhảy múa, trong cây, trong lá, trong từng li ti huyết quản, trong sức cựa động đổi mùa. Cuộc đời đã vốn giàu có quá, rộng lượng quá. Thế là tâm mình tự nhiên được rộng mở, lên ngôi được với lượng từ tâm cao cả của đất trời kia.
Con cóc biết lãnh nhận và hưởng được niềm sảng khoái được sinh ra trên mặt đất. Con chim, con cá cũng vậy. Chẳng có con nào phải đi viện thẩm mỹ, phải đi nhà thương tâm trí, phải đi khai an sinh xã hội...Mình cảm thấy thẹn khi thấy con cóc nhảy khơi khơi nhởn nhơ sung sướng mà mình thì mỗi ngày thêm nhăn nhó phờ phạc và nhỏ nhoi ti tiện hẳn ra. Cũng tại mình thích vênh mặt lên, tách lìa khỏi mạch nhựa miên viễn để tự giam nhốt mình vào cái bị thịt tù túng. Đúng như Tin Vui Chúa Giêsu đã loan báo cho thời điểm 2000:
"Ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên". (Luca 14: 11)
PHÚT CẢM NHẬN
Người thích tìm chỗ cao thì đang phải trả giá rồi, vì chận vít và đánh mất đi niềm hoan lạc tự thân, rất đơn giản, tinh ròng. Lòng người mẹ bao la vì biết chọn chỗ thấp nhất như biển cả. Thấp nên đón nhận và dung hóa được tất cả mưa trời, thác suối, sông ngòi...
Xin cho lòng tôi cũng được đục khoét trở thành ống sáo rỗng không, cho hơi thở tình yêu từ trời phả vào thành giai điệu reo vui bất tận.
Bài hát tôi đã rũ sạch điểm tô lòe loẹt, không còn kiểu cách huênh hoang.
Đồ trang sức sẽ ngăn cách Người với tôi, làm giảm đi thân tình, làm động đạc át cả tiếng thì thầm nhè nhẹ.
Trước mặt Người lòng hợm hĩnh thi nhân nơi tôi chết trong thẹn thùng.
Ôi thi bá đời tôi, tôi xin đến ngồi dưới chân Người!
Chỉ xin biến đời tôi thành bình dị, thẳng ngay, như ống sáo trúc Người phả đầy âm nhạc vào trong.
1. Đức Giêsu muốn dậy bài học gì cho các khách dự tiệc?
2. Đức Giêsu đáp lễ ông thủ lãnh nhóm Pharisêu đã mời ngài như thế nào?
3 Đức Giêsu dành cho chúng ta bài học gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu muốn dậy bài học gì cho các khách dự tiệc?
Chắc khi Đức Giêsu chứng kiến cảnh khách dự tiệc chọn chỗ cỗ nhất mà ngồi thì ngài thấy lố bịch, chướng mắt và khó chịu lắm. Nếu chúng ta ở vào trường hợp ấy chắc chúng ta cũng thấy chướng như ngài. Có thể nói không ai trong chúng ta lại dám làm như vậy, dù trong lòng có muốn “ăn trên ngồi trốc” đến đâu đi chăng nữa. Người Việt Nam khéo giấu tình cảm của mình, không giống người Do Thái muốn sao biểu lộ ra vậy. Nhưng chắc người Do Thái và người Việt Nam giống nhau ở chỗ rất coi trọng danh vọng xã hội: “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” cha ông ta đã nói như thế! Những khách dự tiệc chẳng những coi trọng danh vọng mà còn tìm danh vọng một cách lộ liễu, trắng trợn. Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn mà nói với họ điều họ nên làm và điều không nên làm, cả trong lãnh vực xử thế bình thường, cả trong lãnh vực tâm linh tôn giáo.
2. Đức Giêsu đáp lễ ông thủ lãnh nhóm Pharisêu đã mời ngài như thế nào?
Ông chủ tiệc là thủ lãnh nhóm Pharisêu nên khách mời của ông đều là những người trong hàng ngũ Pharisêu và khá gỉa. Đó là cách sống thường tình của ông từ xưa đến nay. Nhưng hôm nay Đức Giêsu đề nghị với ông một cách sống khác mà ông chưa b ao giờ nghĩ tới. Chúa mời ông hãy mở rộng tấm lòng mà đón tiếp, chiêu đãi những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người không có khả năng đáp lại lòng tốt của ông và không được ai nghĩ tới. Suy nghĩ sâu một chút chúng ta thấy Đức Giêsu đã rất tế nhị trong cách đáp lễ ông chủ nhà đã mời Người đến dùng bữa. Đức Giêsu đã mở ra cho ông một chân trời mới mà chưa bao giờ ông có thể nghĩ tới. Đức Giêsu đã muốn dẫn ông vào một thế giới mới mà ông không thể hình dung đích xác nó như thế nào. Đó là chân trời của Bữa Tiệc Cánh Chung. Đó là thế giới của Nước Thiên Chúa.
3. Đức Giêsu dành cho chúng ta bài học gì?
Bài Tin Mừng chứa đựng hai bài học: sống khiêm nhường và vô vị lợi.
* Sống khiêm nhường: Theo Đức Giêsu thì trong xử thế chúng ta cần khiêm tốn, khiêm tốn thực sự chứ không chỉ giả vờ, vì chẳng ai yêu thích kẻ kiêu căng, cao ngạo. Với Thiên Chúa thì chúng ta lại càng phải khiêm tốn hơn nữa, vì Thiên Chúa luôn “hạ kẻ kiêu ngạo xuống mà tôn kẻ khiêm nhường lên”. Nếu suy nghĩ kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng mình chẳng có gì để mà kiêu căng! Mọi sự chúng ta có, chúng ta đều nhận được từ Thiên Chúa, từ Giáo hội và xã hội cả mà! Nên thái độ thích hợp nhất là thái độ khiêm cung và biết ơn.
Theo các nhà tu đức Kitô giáo thì bài học khiêm nhường là bài học khó học nhất, khó thực hành nhất đối với phần đông những người muốn tiến tới trên đường trọn lành, vì xu hướng tự nhiên của con người là muốn đưa mình lên, chứ không thích hạ mình xuống. Mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về thực trạng này. Muốn học sống khiêm nhường, chúng ta phải chạy đến với Đức Giêsu là Đấng đã tự hạ tự hủy hoàn toàn, dù rằng Người là Ngôi Lời nhập thể làm người, là Thiên Chúa. Chính Người đã chẳng mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” đó sao?
* Sống vô vị lợi: Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống vô vị lợi. Làm ơn thì thường chúng ta mong được người ta báo đáp đền ơn. Đó cũng là điều bình thường trong đời sống con người. Nhưng nếu làm ơn mà chúng ta không mong, không chờ báo đáp đền ơn, là chúng ta có tinh thần vô vị lợi. Sống vô vị lợi là chúng ta lấy hạnh phúc của tha nhân làm mục tiêu hành động của chúng ta. Muốn sống vô vị lợi chúng ta cũng phải chạy đến với Thiên Chúa để học với Ngài vì Ngài là Đấng làm mưa làm nắng cho hết mọi người, không phân biệt người tốt lành hay kẻ gian ác.
* Trong gia đình Khôi Bình, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội và điều kiện để sống khiêm nhường và vô vị lợi. Một trong bốn đặc điểm của linh đạo Khôi Bình là đời sống cộng đoàn tựa như gia đình, là đời sống tương thân tương ái giữa các anh chị em với nhau. Thật ra thì đời sống cộng đoàn nào cũng đòi các thành viên phải biết quên mình, tự hạ, hy sinh “cái tôi” để làm có “cái chúng tôi”, “cái chúng ta” lớn lên; đời sống cộng đoàn nào cũng đòi các thành viên nghĩ tới người khác trước khi nghĩ tới mình. Ước gì mọi gia đình thực hiện được Lời này của Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau (Ga 13, 35). Các con yêu thương nhau nhu Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13, 34). “Đức Ai thì nhẫn nhục hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi…” (1 Cr 13,4).
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa dạy chúng con bài học sống khiêm nhường, quên mình, tự hạ tự hủy mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa dạy chúng con bài học sống vô vị lợi, sống bác ái, sống hiến dâng mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp mọi thành viên Gia đình Khôi Bình Việt Nam biết học cùng Chúa, biết sống theo Chúa, sống giống Chúa! Amen.
Suy Niệm: “Hễ ai nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.” (Lk 14:11)
Trong mấy năm gần đây, đặc biệt năm 1995, các nước tây phương chi dụng rất nhiều tiền, tạo cơ: TN 22-C19
Trong mấy năm gần đây, đặc biệt năm 1995, các nước tây phương chi dụng rất nhiều tiền, tạo cơ hội cho các cựu chiến binh có dịp tụ họp để tưởng niệm các chiến sĩ đã bỏ mình trong các cuộc chiến, đặc biệt thế chiến ll. Có nhiều người từ Úc châu sang tận Hoa Kỳ để viếng các đài chiến sĩ. Ngược lại, cũng có nhiều du khách từ các nước tuôn đổ vào Úc, đến tận Canberra thăm “Ngôi Mộ Không Tên” (The Unknown Soldier) mới được xây cất. Trong bầu khí tưởng nhớ linh thiêng này, kẻ còn sống thì đi thăm di tích lịch sử và cũng để thưởng thức những công trình xây cất rất tinh vi của mỗi địa phương. Các “tử sĩ” thì nằm yên dưới lòng đất mong chờ sự cứu thoát do lòng từ bi của Chúa. Có nhiều chiến sĩ được ghi tên vào bia đá, nhưng cũng có một số bị quên lãng, không ai còn biết nữa! Ngôi “Mộ Không Tên” tại Canberra tượng trưng cho những người bị lãng quên (! Các chiến sĩ nước trời thường bị quên lãng! Tên tuổi của họ chỉ ghi rất giới hạn trong các trang sử nhân loại. Nhưng không một ai bị lãng quên trước thiên nhan. Sổ Hằng Sống ghi rõ từng nét, mô tả những công đức âm thầm của họ khi còn ở trần gian. Từ trên trời, các thiên thần ca tụng công đức các thánh nhân mà trần gian đã quên, dần dần vang vọng xuống tận cõi thế, để cho các thế hệ noi theo.
Hiện nay nhiều người Việt từ hải ngoại cũng như hiện đang ở trong nước, ngàn ngàn lớp lớp, dập dìu nhau đến viếng ngôi mộ đơn sơ của cha Giuse Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy. Ngài cũng là chiến sĩ bị chết vào thế chiến thứ ll, nhưng đã bị bỏ quên. Ngài bị bắt vì Đạo với 70 giáo dân vào ngày 13/3/1946. Ngài tình nguyện chịu chết thay cho một số giáo dân vô tội. Xác của ngài bị ném xuống ao, rồi ít ngày sau được vớt lên, chôn bên cạnh bờ ao. Ngôi mộ ngài chỉ là nắm đất phủ cỏ dại, chứ không được xây cất đồ sộ, tô sơn như các đài liệt sĩ! Trước mắt người đời, ngài chỉ là một linh mục miền quê, bình thường. Tháng năm trôi qua, không còn ai nhớ đến cha nữa! Thế nhưng tên tuổi của Cha được các thiên thần khen ngợi! Vang khắp tầng trời, lại còn mưa hồng ân cho người dưới thế.
Cha đã bị hạ xuống trước mắt người đời, nhưng nay được Thiên Chúa nâng lên và trở thành gương sống Đạo cho người trần thế.
Thực Hành: “Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa.” (Đức Huấn Ca 3:20) Đức Maria cũng chỉ là một thôn nữ bình thường, thế mà dệt nên bài ca tụng muôn thuở:”Magnificat”. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường mới thấy những vẻ đẹp, thưởng thức được hào quang thiên quốc ngay khi còn tại thế.
Sống trên đời, ai lại không mong thành công, đạt được chỗ tốt, được nhiều người ngưỡng mộ, được đẹp hơn, được giàu hơn, có thế lực hơn người khác, được đứng trên hoặc đứng trước người khác. Vì thế, cuộc phấn đấu dành chỗ nhất thật ác liệt ở mọi thời và ở mọi lãnh vực cuộc sống: từ việc chọn chỗ nhất trong các bữa tiệc, như Đức Giêsu quan sát thấy, đến sinh hoạt trong gia đình, trong công ăn việc làm, trong hệ thống kinh tế, trong cuộc tranh cử và trong cuộc chiến giữa các dân tộc.
Nhân cơ hội nầy, Đức Giêsu dạy: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Người không nhằm dạy một cách thế xử sự để được người khác ngợi khen, một mánh khoé giả bộ khiêm nhượng để được người khác nâng lên, nhưng Người nói đến một nỗi lo sợ thầm kín trong con người: sợ không đạt được một chỗ tốt, sợ bị thua thiệt trong cuộc đời. Nỗi lo sợ nầy làm cho mối tương quan giữa con người với nhau trở nên khó khăn. Con người thường không nhận định được về bản thân mình, cho nên trông vào sự đánh giá của người khác về mình. Khi con người không tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong chính mình, thì cuộc phấn đấu tranh dành chỗ nhất bên ngoài trở nên khốc liệt.
Phải chăng chúng ta có giá hơn người khác, chỉ vì chúng ta được mạnh khỏe và có cuộc sống sống đầy đủ, hoặc có địa vị cao trong xã hội? Đức Kitô dạy: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống". Điều quan trọng là chúng ta như thế nào trước mặt Chúa, chứ không hệ ở sự đánh giá của người khác. Thiên Chúa có tiêu chuẩn và thước đo thật khác với loài người. Lời mời gọi của Đức Kitô giải thoát người tín hữu khỏi những áp lực từ phía ngoài, từ người khác. Trước mặt Chúa, kitô hữu không cần mải mê tìm kiếm những sự tốt đẹp bề ngoài như là y phục, địa vị, chức quyền, tài sắc, gốc gác, tên tuổi. Nhưng ai cũng có chỗ nơi bàn tiệc của Chúa. Phẩm giá sâu xa đích thực của con người hệ ở chỗ: "Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa" (Gs 12).
"Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Với lời nầy, Đức Kitô diễn tả Vương quốc của Người, trong đó con người không cần tôn mình lên, nhưng họ được nâng lên; họ không cần phấn đấu để được kính nể, được địa vị cao, nhưng sự kính nể và địa vị được tặng không cho họ. Nơi cuộc sống đó, con người không cần phải phấn đấu để được chỗ nhất, con người không còn lo sợ không có chỗ cho mình. Không ai có thể mua chỗ hoặc dành riêng chỗ cho mình, nhưng mọi chỗ đều được ban tặng nhưng không. Điều đó giải thoát chúng ta khỏi đòi hỏi phải tạo cho mình một bộ mặt tốt trước Thiên Chúa và người khác. Đức Kitô dạy chúng ta như thế, vì chính Người xác tín là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tôn trọng, cũng như chính Người được Chúa Cha yêu thương tôn trọng. Chính niềm xác tín nầy làm nẩy nở niềm tự tin của Đức Kitô.
Khi chúng ta có niềm xác tín như Đức Kitô, thì tình thương vô vị lợi của Thiên Chúa sẽ tỏ hiện qua chúng ta, và chúng ta sẽ đối xử độ lượng với nhau, sẵn sàng nhường chỗ cho người khác trong cuộc sống của chúng ta. Khi xác tín như thế, chúng ta không còn tính toán nhỏ nhen và có khả năng mời "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù", những người bất hạnh trong xã hội ngày nay; hoặc can đảm dấn thân cho người yếu thế, xây dựng công bằng, xây dựng một thế giới lành mạnh cho mọi người.
Chúng ta không dành chỗ, vì biết Đức Kitô ban tặng chỗ nhưng không cho chúng ta. Ý thức như thế, chúng ta tránh được thói xấu thích hạ người khác xuống, ghen tương nhỏ nhen và hay phô trương mình; trái lại, nội tâm chúng ta được chan chứa bình an, tâm hồn chúng ta vẫn giữ được sự bình tĩnh trước những tiếng khen chê của người đời.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXII Mùa Thường Niên theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, có thể nói, tiếp theo bài Phúc Âm tuần trước và làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước. Thật vậy, nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên theo Phúc Âm Thánh Luca tuần trước thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu giải quyết vấn nạn về con số người được cứu rỗi, trong đó, thành phần bị loại trừ biện minh rằng: “Chúng tôi đã ăn uống chung với Ngài. Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá” Chúa Nhật XXII Mùa Thường Niên theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay thuật lại việc “Chúa Giêsu đến dùng bữa ở nhà của một trong những lãnh tụ người Pharisiêu vào ngày hưu lễ” . Ở đây, Phúc Âm không cho chúng ta biết rõ lý do tại sao có bữa ăn này: chẳng hạn như đó là một bữa ăn mừng lễ hay mừng kỷ niệm của gia chủ nên Chúa Giêsu được mời đến như là một trong những thành phần khách vậy thôi, hay chỉ vì Người là Đấng đáng kính phục nên mới có bữa ăn và cũng vì Người là một thượng khách mà những người khác cũng được chủ nhà mời đến dùng bữa để cùng ông long trọng đón tiếp Người. Tuy không biết chắc lý do có bữa ăn này, chúng ta vẫn có thể suy đoán được thành phần đến dự bữa ăn, thành phần trước hết toàn là bạn bè thân thiết với chủ nhà, chứ không phải thành phần xa lạ, bất hạnh, tội nghiệp đáng thương như lời Chúa Giêsu khuyên vị chủ nhà mời Người là hãy mời cả “những kẻ ăn xin và thành phần què quặt, thành phần khập khễnh và mù lòa… không thể đáp lễ” ; sau nữa, thành phần bạn bè nghĩa thiết này không ai khác ngoài thành phần thuộc nhóm Pharisiêu, vì chủ nhà, như Phúc Âm cho biết, là “một trong những lãnh tụ người Pharisiêu” . Nếu đọc kỹ bài Phúc Âm, chúng ta cũng có thể cho rằng, sở dĩ có bữa ăn này là vì nhóm Pharisiêu muốn tìm dịp bắt lỗi Chúa Giêsu, do đó, “một trong những lãnh tụ người Pharisiêu“ mới mời Người đến “dùng bữa vào ngày hưu lễ“, chứ không phải vào một ngày thường trong tuần, mà dùng bữa, dù không phải là một bữa tiệc, song lại là một bữa ăn đông đảo khách tham dự, chứ không phải chỉ một mình Người với chủ nhà. Để làm gì, nếu không phải như Phúc Âm nhận định: “họ đã cẩn thận quan sát Người“?
Tuy chúng ta chỉ suy đoán về lý do Chúa Giêsu được “một trong những lãnh tụ người Pharisiêu“ mời đến dùng bữa, và chỉ suy đoán về thành phần dùng bữa, nhưng thái độ “ăn trên ngồi trước“ của khách dùng bữa như Chúa Giêsu nhận thấy trong bài Phúc Âm cũng cho chúng ta thêm dấu hiệu chứng tỏ thành phần dự tiệc này thuộc về nhóm Pharisiêu, thành phần đã bị Chúa Giêsu nhận định và thậm tệ trách móc là “đồ giả hình“, cũng trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 11 câu 43: “Khốn cho Pharisiêu các người! Các người thích những ghế cao trong hội đường và được trọng vọng nơi công cộng“. Thật ra, chúng ta cũng chẳng cần biết thành phần dùng bữa với Chúa Giêsu là ai, mà chỉ cần biết là, nếu ai tỏ ra thích “ăn trên ngồi trước“, “thích những ghế cao trong hội đường và được trọng vọng nơi công cộng“, thì khó có thể, nếu không muốn nói là không thể, vào dự tiệc trong nước trời, như diễm phúc của thành phần được Chúa Giêsu nói đến ở bài Phúc Âm tuần trước, thành phần “từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa“. Nếu thành phần “thích những ghế cao trong hội đường và được trọng vọng nơi công cộng“ này, sau khi nghe lời Chúa Giêsu khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, là “khi các người được mời thì hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“, mà vẫn không chịu thực hành, thì dù họ có gân cổ biện hộ “Chúng tôi đã ăn uống chung với Ngài. Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá“, Chúa Giêsu cũng đành phải trả lời với họ, như đã trả lời với thành phần trong dụ ngôn của bài Phúc Âm tuần trước là: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta“.
Thật thế, không phải cứ được ăn uống chung với Chúa Giêsu và nghe lời Người dạy dỗ, như những người dự bữa ăn với Người trong bài Phúc Âm hôm nay, là nắm chắc phần rỗi đời đời đâu, mà còn phải thực sự nhận biết Người nữa, ở chỗ, thực hành lời Người khuyên dạy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp“, tức “hãy gắng sống đức tin“, như chúng ta đã chia sẻ với nhau tuần trước. Vấn đề “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp“ hay “hãy gắng sống đức tin“ như thế nào của bài Phúc Âm tuần trước, đã được Chúa Giêsu dẫn giải rõ ràng hơn trong bài Phúc Âm tuần này, qua lời Người khuyên bảo: “khi các người được mời, hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“. Thế nhưng, “chỗ thấp nhất“ đây là gì? Làm sao biết được “chỗ thấp nhất“ ở đâu mà ngồi? Nếu chỉ có một “chỗ thấp nhất“ thì chẳng lẽ lại giành cho duy một người ngồi hay sao, còn những người khác muốn thực hành lời Chúa, vì không còn “chỗ thấp nhất“, nên được quyền ngồi chỗ cao hơn?
Đúng thế, nếu “chỗ thấp nhất“ là do chúng ta chọn thì chỉ có một chỗ, song nếu do Chúa đã sắp định thì lại có rất nhiều chỗ và đủ chỗ. Chúa Giêsu đã chẳng trấn an các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 1 và 2 hay sao: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thày. Trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ ở“. Như thế, “chỗ thấp nhất“ đây không phải là chỗ chúng ta chọn lấy cho mình mà là chỗ Chúa chọn sẵn cho chúng ta. Bởi vậy Chúa Giêsu mới nói: “hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“ “khi các người được mời“ mà thôi. Nếu không được mời mà cứ đến tất nhiên sẽ không có chỗ cho mình, chứ đừng nói đến “chỗ thấp nhất“, vì chủ nhà mời ai thì đã tính đủ chỗ cho số khách được mời đến tham dự rồi. Chính vì “chỗ thấp nhất“ là chỗ Chúa chọn cho mình chứ không phải mình tự chọn mà trong bài Phúc Âm tuần trước, Chúa Giêsu mới nói đến “chỗ của mình“ qua lời tiên báo: “người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa“. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ trong bữa tiệc ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 16: “Không phải các con chọn Thày, mà là chính Thày đã chọn các con“. Chính vì thế, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu không nói “hãy chọn chỗ thấp nhất mà ngồi“, mà chỉ bảo: “hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“, tức đến ngồi vào “chỗ của mình“, chỗ được sắp xếp sẵn cho mình thôi.
Cũng chính vì “chỗ thấp nhất“ là chỗ Chúa chọn cho chúng ta, chứ không phải chỗ chúng ta tự chọn lấy cho mình, mà chúng ta chỉ cần “theo“ Chúa là chúng ta đã thực sự chọn “chỗ thấp nhất“ rồi vậy. Đó là lý do các Phúc Âm cho chúng ta thấy không một vị tông đồ nào đã tự mình đến chọn Chúa Giêsu, bằng cách tự động đến xin theo Người, mà các vị chỉ có thể “bỏ mọi sự lại“, sau khi nghe Người kêu gọi “hãy theo Thày“ mà thôi, như trường hợp điển hình của hai cặp anh em Anrê-Phêrô và Giacôbê-Gioan, được ghi nhận trong Phúc Âm Thánh Marcô đoạn 1 câu 17-18, hay như trường hợp của Mathêu trong Phúc Âm Luca đoạn 5 câu 27-28. Trường hợp Mẹ Maria cũng thế, “chỗ thấp nhất“ của Mẹ không phải ở chỗ Mẹ chọn cho mình những gì Mẹ cho rằng xứng với Mẹ, hơn là chỗ Thiên Chúa đã chọn cho Mẹ. Giả sử Mẹ cứ khăng khăng từ chối ý định của Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Lời Nhập Thể, lấy lý rằng mình vô cùng bất xứng, mình chỉ là một “tỳ nữ“ (Lk 1:38) hết sức hèn hạ, vả lại, mình đã giữ mình đồng trinh hoàn toàn hiến mình cho Chúa, “không hề biết đến nam nhân“ (Lk 1:34), thì thử hỏi Mẹ đã “đến ngồi vào chỗ thấp nhất“, “chỗ của mình“ chưa, hay là Mẹ đã tự động chọn lấy cho mình một chỗ ngồi, chỗ Mẹ muốn, chỗ ý riêng của Mẹ, một chỗ hoàn toàn không có trong “nhà Cha“. Như thế, nếu “chỗ thấp nhất“ là chỗ Thiên Chúa chọn cho mình, cũng là “chỗ của mình“ trong ý định của Thiên Chúa hay theo ý định của Thiên Chúa, thì “chỗ cao trọng“ mà Chúa Giêsu khuyên dặn thành phần dự bữa với Người trong bài Phúc Âm hôm nay “đừng ngồi“, “khi các người được mời đến dự tiệc cưới“, chính là chỗ con người chọn lấy cho mình, hay chính là chỗ con người sống theo ý riêng của mình vậy, một chỗ không có trong “nhà Cha“, tức là chỗ hoàn toàn bị loại trừ, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm tuần trước: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta“.
Như thế, lời Chúa Giêsu khuyên dạy “khi được mời, hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXII Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay, có thể được chuyển dịch là “hãy ngồi vào chỗ của mình trong nhà Cha“, nghĩa là hãy sống đúng với ơn gọi của mình như được Thiên Chúa tuyển chọn. Có như thế, có sống trọn vẹn theo ý muốn của Thiên Chúa, tức có sống như “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời“, thành phần con cái của Cha trên trời chúng ta mới thực sự ước nguyện và làm cho “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến“ vậy, cho tới khi Chúa Kitô đến trong vinh quang.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta “khi được mời, hãy đến ngồi vào chỗ thấp nhất“, để nhờ đó chúng ta có thể được mời lên chỗ cao hơn và được vẻ vang hơn trước mặt thiên hạ. Nếu hiểu lệch lạc lời khuyên này, chúng ta có thể cắt nghĩa là, đừng trực tiếp hay đừng ra mặt tìm chỗ cao mà hãy gián tiếp và khéo léo chiếm chỗ cao bằng cách tỏ vẻ nhún nhường, khiêm tốn. Thực tế sống đạo và giao tế cũng cho chúng ta thấy, có một số người đã được khen là tốt lành thánh thiện, vì sống khiêm tốn, hết sức ẩn lánh, hầu như hiếm người biết đến họ, và khi cần lộ diện hay bị điểm mặt thì họ ăn nói rất nhu mì . Thế nhưng, nếu sống gần người đó, chúng ta mới khám phá ra những thái độ: trong lòng họ thường xét đoán và khó chịu với những gì người khác làm không được như ý nghĩ hay ý thích của họ, đến nỗi, có dịp họ cũng không ngại lên tiếng phê bình chỉ trích riêng tư với một ai đó; thế nhưng, nếu cần đến sự cộng tác của họ, họ lại không chịu ra cộng tác, dù hoàn cảnh và khả năng của họ cho phép. Chúng ta nghĩ sao về thành phần “ngồi chỗ thấp nhất“ này?
- Bài đọc 1: Những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn Ca.
- Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ danh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
Minh hoạ:
- Mille images 83C - “Xin ông hãy nhường chỗ” (Lc 14,9)
I. Dẫn vào thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy: TN 22-C22
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách. - Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách. - Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1 (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn Ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu - Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn - Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Đức Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ người (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi, Đức Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “nghèo hèn”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18).
- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4. Bài đọc 2: (Duy tâm 12,18-19.22-24a) (chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các Kitô hữu gốc Do Thái: khi họ bỏ Do Thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do Thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
- Chúa Giêsu thấy người Do Thái hay “chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng “chủ tịch” nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi” là danh dự.
- Những người Do Thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: động từ “Bị hạ xuống” ở thể thụ động, một kiểu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Esau Giuse/các anh Đavít/các anh Đức Maria vv...)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
- Người Do Thái làm theo óc tính toán: do ut dat. Cái lợi là được người ta đền đáp
- Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
2. Con là không, Chúa là tất cả
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp kia hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
****
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Đức Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Đức Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ bẩn hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khi yêu thương vô vị lợi, chính kih chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tập, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trở nên giống Thiên Chúa.
*****
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (Thiên Phúc “Như Thầy đã yêu”, năm C).
3. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu Do Thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do Thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ Kitô giáo huy hoàng hơn Do Thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống Kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại... Những tín hữu gốc Do Thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai Cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt vv...
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
4. Chuyện minh hoạ
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: “nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!”. Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có ông Daniel đang ngồi”. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câ chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
- Sao vậy? - Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thâ thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và thánh Phêrô giải thích:
- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sẽ được laị. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
Đây à những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. VÀ chún cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh. - Tin vui gì? - Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài. - Nhưng mà hai bày tay của con rỗng không, con không có gì cả. - Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. Trong thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em với nhau do cùng một Chúa là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
- Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi... Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...”
VI. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.
Mùa hè 1992, Đài Truyền hình Sài Gòn và Cần Thơ đều chiếu cuốn phim Tây Du Ký. Cuốn phim rất hấp dẫn, đến nỗi bé 5, 6 tuổi cũng nhận mình là Ngộ Không, hay Đường Tăng, Trư bát Giới, những vai trong phim.
Hấp dẫn về hình thức đầy những cảnh sắc kỳ lạ huyền ảo, với bao nhiêu lâu đài hào nhoáng rực rỡ, và những cử điệu nhảy múa, nhào lộn, bay biến, đánh nhau, biến hóa xuất quỷ nhập thần. Nhưng giá trị tuyệt diệu của cuốn phim chính là ý nghĩa sâu sắc này:
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống,
Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh: bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ Vương, Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa đều bị lột mặt lạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, bọ cạp, heo bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về sống kiếp quái vật.
Những thứ tôn mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ người kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
May cho Ngộ Không, Sa Tăng, Trư bát Giới, đã biết từ bỏ tật kiêu ngạo để hạ mình xuống kịp thời theo Đường Tăng, nên không bị hóa kiếp quái vật.
600-700 năm trước Đường Tăng, Đức Giêsu đã thực hiện hạ mình xuống: “Từ ngôi vị Thiên Chúa cao cả, Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người …cả trên trời, dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mở miệng ra tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil. 2, 6-11).
Hôm nay, Người nói cho mọi người thấy rõ chân lý ấy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Kinh cũng chứng tỏ chân lý ấy: Satan được vào hàng ngũ các Thiên thần thiêng liêng sáng láng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, thế mà dám đòi bằng Thiên Chúa nên bị giáng xuống làm tướng dưới đáy hỏa ngục. Nó đã cám dỗ Adam Evà theo nó bất phục tùng Thiên Chúa. Adam Evà lại bị đuổi khỏi vườn địa đàng vinh phúc, đi làm chủ bùn đất, cho biết thân phận bùn đất hèn hạ của mình, đau thương và khóc lóc phải trở về bùn đất. Con cháu lại rủ nhau xây tháp Babel chọc trời, trời đã phạt phải phân tán khắp mặt đất, lưu lạc, chia rẽ nhau và hóa ra những kẻ thù luôn luôn xâm chiếm chém giết nhau. Thiên Chúa vẫn yêu thương chọn một số những kẻ làm dân riêng, lập nước riêng, xây thủ đô Giêrusalem riêng. Nhưng Giêrusalem muốn mình lên tận trời, thì lại bị hạ xuống vực thẳm điêu tàn, không có hòn đá nào trên hòn đá nào. Sống với con thành Giêrusalem, Đức Giêsu đã khóc thương họ, họ đã giành giựt nhau chỗ ngồi trong cỗ bàn, nơi tiệc cưới. Họ đã nhảy lên chỗ nhất, nhưng họ không biết xấu hổ khi bị mời xuống chỗ cuối.
Trên thế gian này, còn bao nhiêu bọn tôn mình lên như Hitler, Stalin, Polpot đều bị loài người lên án là bọn sát nhân ghê tởm.
Chỉ những người như Giuse tổ phụ, sẵn sàng hy sinh chịu trói vứt xuống giếng, bị bán làm nô lệ, bị tù tội oan uổng, mới được tôn lên làm Thủ tướng của một nước Ai cập văn minh nhất thời đó, và đã cứu được bao nhiêu dân tộc khỏi chết đói.
Chỉ những vị Vua như Đavid, biết nhận mình là đứa chăn chiên yếu đuối, chỉ trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa, nên với hòn đá nhỏ bé đã ném vỡ sọ tên hổ tướng Gôliat.
Chỉ có bác thợ mộc âm thầm khiêm tốn như Giuse mới được tôn lên làm cha nuôi Đấng Cứu thế. Chỉ có những thiếu nữ nhận mình là nô tỳ như Maria, mới được Thiên Chúa tôn vinh làm mẹ Thiên Chúa.
Ngày nay trên thế giới có một bà già sống tới 87 tuổi, qua đời 05/09/1997, chẳng có chức vị gì trong xã hội, thế mà được nhiều giải thưởng cao quý nhất thế giới, như giải Nobel Hòa Bình. Bà còn được các Tổng thống, Chủ tịch lớn nhất thế giới mời bà đến viếng thăm đất nước, như Tổng bí thư Gopbachop Liên Xô, tổng thống Mỹ Regan, Trung Quốc, Ấn Độ … Đó là mẹ Têrêxa Calcutta: Một nữ tu đã hạ mình xuống hầu hạ những người cùng khổ, bệnh tật, nằm nửa sống nửa chết ở hè phố.
Gia đình chúng ta chỉ được an vui, hòa thuận, khi ông bà, bố mẹ, con cái biết hạ mình xuống, nghe nhau, bảo nhau, nhịn nhau. Hàng xóm chỉ được yên ổn, vui vẻ, tay bắt mặt mừng, khi biết khiêm tốn, tử tế, giúp đỡ nhau.
Mỗi người chúng ta chỉ được thanh thản, an vui khi biết hạ mình xuống hết lòng mến Chúa và thương yêu phục vụ mọi người, như Đức Giêsu đã nói với chủ nhà rằng: “Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả ơn, như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày kẻ lành sống lại”.
Khung cảnh của câu chuyện này là Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Đức Giêsu dạy hai bài học:
1. Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
2. Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Đức Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8 ; Lv 21,18).
- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
B. ... nẩy mầm.
1. Ba mức độ giá trị của địa vị:
- Địa vị do chính mình dành lấy: kém nhất và dễ lung lay nhất.
- Do người khác trao cho mình bởi nhận thấy khả năng và phẩm chất của mình: vững vàng hơn.
- Do chính Thiên Chúa đặt cho mình: đúng và vững chắc nhất.
2. “Lên voi xuống chó” là cảnh thường xảy ra ở đời. Bởi đó tôi chẳng nên quá quan tâm đến địa vị và danh vọng ở đời. Chỉ xin Chúa giúp tôi làm tròn nhiệm vụ Ngài giao trong hoàn cảnh và thân phận hiện nay của tôi.
3. Trong bàn tiệc Nước Chúa, điều quan trọng không phải là chỗ danh dự mà là tư cách phục vụ: càng phục vụ, càng cao trọng. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Một ngày năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
- Con có thấy gì không ?
- Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói : “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. (Góp nhặt)
5. Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Cho như thế không có giá trị bao nhiêu vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại dù người ta có cho lại mình thì chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người. Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
6. Ăn chung với nhau còn biểu lộ sự thông hiệp, liên đới. Chúa Giêsu là kẻ muốn thông hiệp liên đới với tất cả mọi người, do đó Ngài không ngại ăn chung với một thủ lãnh biệt phái mặc dù hai bên khác quan điểm với nhau (x. đoạn phía trước: 14,1-6). Ngài cũng không ngại ăn chung với những người tội lỗi (x. Mt 9,10-13). Trong đoạn Tin Mừng này, người thủ lãnh biệt phái đã khá cởi mở khi mời Chúa Giêsu đến ăn chung với mình. Chúa Giêsu khuyến khích ông tiến thêm một bước nữa là hãy hiệp thông liên đới với những người mà địa vị xã hội thấp kém hơn ông bằng cách mời họ cùng ăn uống với ông.
7. “Phần thưởng ai cũng muốn có. Nhưng phần thưởng đến từ đâu và lúc nào, đấy mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta hãy suy tính xem phần thưởng tạm bợ trong thời gian có hơn được phần thưởng vĩnh cửu không ? Phần thưởng của anh em có hơn được của Thiên Chúa không ? Phần Chúa, Chúa nhắn: “Hãy tìm của Nước Trời trước” (Mt 6,33) (Trích "TMCGK ngày trong tuần" ).
8. “ Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc“ (Lc 14, 13-14)
Có một nỗi đau quặn thắt trong tôi, khi tôi được tin một người thân sắp bị mù. Có một tình thương len lõi trong tôi mỗi khi tôi nhìn thấy những người nghèo khó, tàn tật. Nhưng dường như đó chỉ là cảm xúc pha lẫn thương hại. Chưa một lần nào tôi nghĩ đến chuyện phải là một cái gì đó cho họ.
Lời Chúa hôm nay, mở ra cho tôi một tình yêu mới: “Yêu như Chúa yêu”, nghĩa là dám dấn thân cho tình yêu và nhất là không chỉ yêu những người danh giá địa vị, mà cả những người nghèo khó, tàn tật. Tôi nguyện đến với họ để chia sẻ với họ những gì tôi có, cả niềm vui và hy vọng nữa.
Lạy Chúa ! Xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người nghèo khó, tàn tật, để con có thể đến với những người anh em đó dễ dàng hơn. (Hosanna)
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “ Khi anh đươc mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại ông và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Gợi Ý Chia Sẻ Và Sống Tin Mừng
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mững hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi. Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dướí chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội."Ai tôn mình lên dù lộ liểu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống.” Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên.” Đức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn. Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên. Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác. Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất. Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người. Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ. Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình. Họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn có giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu còn nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh. Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt. Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn. Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán, vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải. Giữa một thế giới mà sựsống bị chà đạp xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người. Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi." Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.
“Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu”
Một phụ nữ có tuổi bước vào một tiệm ăn mà khách hàng tự phục vụ lấy đồ ăn cho mình. Bà: TN 22-C26
Một phụ nữ có tuổi bước vào một tiệm ăn mà khách hàng tự phục vụ lấy đồ ăn cho mình. Bà bưng khay đồ ăn trong đó có bát cháo khai vị ngon miệng. Bà vừa ngồi xuống liền nhận ra mình đã ngớ ngẩn quên không mang theo dụng cụ là muỗng dĩa để ăn. Vậy bà đứng dậy đi lấy dụng cụ. Nhưng khi trở lại chỗ cũ, bà lấy làm lạ thấy một người gốc Phi Châu đang bình thản ngồi ăn đĩa xúp nóng kia của bà! Ban đầu bà không biết phải ứng xử ra sao, có nên tri hô và làm to chuyện hay chỉ nên nhẹ nhàng trách người đó? Nhưng đột xuất bà nghĩ ngay tới điều bất ngờ có thể xảy ra là đài truyền hình đang làm một cú ngoạn mục với máy thu hình tàng ẩn từ một xó xỉnh nào đó! Thế là bà đã bình thản ngồi ăn với với một nét mặt tươi cười cạnh người đàn ông gốc Phi Châu kia. Bà dở gói muỗng dĩa ra và cùng ngồi ăn đĩa xúp với người đó! Người đàn ông ấy nhìn bà cách thoáng qua, đoạn đẩy đĩa xúp vào giữa để hai người cùng ăn. Cả hai lặng lẽ ăn đĩa xúp đó. Bà vừa ăn vừa nghĩ bụng phen này linh hoạt viên của đài truyền hình sẽ xuất hiện để khen bà về cách hành xử bình thản của bà. Trong thực tế chẳng có màn sân khấu nào đã xảy ra. Bà nhìn người bên cạnh với một nụ cười và cũng được người bên cạnh đáp lễ cách xứng. Bà nghĩ ngay người lạ mặt này ngồi ăn bát xúp của bà chỉ vì anh ta không có tiền mua đồ ăn chăng!
Dù sao thì cuối cùng người lạ mặt ấy cũng đã tự động đứng lên chào bà cách thân thiện rồi đi khỏi. Đến lượt bà, bà cũng bỏ đi với niềm thỏa mãn đã dành cho người lạ mặt chút cháo làm ấm cõi lòng. Nhưng chính khi đứng lên để đi khỏi, bà đã nhận ra ở bàn bên cạnh, bát súp ngon miệng kia đang nguội dần. Đó lại là chính bát xúp của bà.
Câu chuyện vừa kể giúp làm sáng tỏ vấn đề giá trị tối hậu mà Đức Giêsu muốn nêu qua bài Tin Mừng hôm nay là "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (c.11) và "ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại" (c.14). So sánh với giá trị tối hậu loại đó, các giá trị khác như chẳng còn gì đáng kể, thậm chí, còn khiến ta phải nực cười!
Hãy coi người phụ nữ trong câu chuyện vừa kể. Giả như bà ta thực tình muốn chia sẻ đĩa cháo ngon miệng ấy với ông bạn Phi Châu có phải là tuyệt vời không! Đàng này bà đã tỏ ra là một con người rất dễ lầm lẫn? Một con người háo danh vô thực. Ở điểm khởi xuất của câu chuyện bà đã muốn tri hô lên và làm to chuyện chỉ vì đĩa xúp xem ra bị người ta ăn tỉnh bơ! Sở dĩ bà bình tĩnh trở lại được cũng chỉ vì háo danh. Bà muốn xuất hiện trên màn ảnh truyền hình mà thôi, chứ đâu phải bà đã thực tình hy sinh để người lạ mặt ấy có chút cháo làm ấm cõi lòng!
Nói tòm lại, toàn bộ hành vi của bà đều thiếu thực tình. Ngược lại, tất cả những gì đáng ca ngợi trong câu chuyện đều qui về người lạ mặt. Người này không hở môi nói năng gì nhưng tất cả những gì người đó để lộ ra về mình, một cách khiêm tốn và đơn giản, đều nhằm để chia sẻ. Kể từ cái nhìn thoáng qua, cử chỉ đẩy đĩa xúp vào giữa để hai người cùng ăn, cử chỉ đáp lễ khi người phụ nữ ấy nở một nụ cười, cử chỉ tự động đứng lên chào bà cách thân thiện rồi đi khỏi. Tất cả đều có thực, phát xuất từ hữu thể của người đó. Ngay bây giờ ta thấy cái thực đó là đang phục, chưa nói gì tới viễn tượng về phúc lành đến tự Thiên Chúa là Đấng sẽ cho người lành sống lại.
Thật ra, tất cả sức nặng của điều mà Đức Giêsu muốn đề cao gắn liền với hữu thể và tính cách tồn tại của nó.
Vậy hãy đặt mình trong bối cảnh theo bài Tin Mừng hôm nay. Trước hết là bối cảnh của tiệc cưới. Ta có một số khách dự tiệc ham muốn dành cho mình chỗ nhất. Đức Giêsu vạch cho thấy địa vị dành được cách đó chẳng có thực vì không gắn liền với hữu thể. Địa vị ấy đúng là bấp bênh. Chỉ lỡ ra có nhân vật nào quan trọng hơn xuất hiện là chủ nhà sẽ đến xin đương sự nhường cỗ nhất cho nhân vật đó. Và rồi kẻ chiếm cỗ nhất kia sẽ phải xấu hổ bỏ hàng nhất ngồi xuống hàng thứ. Đương sự sẽ phải xấu hổ trước mặt mọi người vì mọi người sẽ thấy đương sự trống rỗng chẳng có giá trị nơi chính mình để được năn nỉ ở lại cỗ nhất! Còn ngược lại, ai khiêm tốn ngồi cỗ dưới mà được mời lên cỗ nhất thì chẳng phải đương sự chủ quan muốn "ăn trên ngồi trốc" nhưng vì chủ nhà và mọi người đều đồng tình nhìn nhận giá trị có thực nơi đương sự.
Vậy câu nói "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên", câu nói ấy diễn tả việc đề cao giá trị đích thực có nơi những con người khiêm tốn.
Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì ân với nghĩa
Trong thực tế, sẽ chẳng bao giờ có sự đồng hóa về giá trị đích thực giữa hai trật tự tự nhiên và siêu nhiên. Bởi lẽ cơ sở của trật tự siêu nhiên phải là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, còn sơ sở của trật tự tự nhiên tự nó mau qua và thường đã bị sự ác đảo lộn ngược lại với tình thương của Thiên Chúa. Đức Giêsu đến thiết lập Nước Thiên Chúa là nhằm hồi phục lại trật tự siêu nhiên giữa loài người. Cơ sở của trật tự ấy phải là tình thương của Thiên Chúa ưu ái dành cho người nghèo, người từng bị xã hội áp bức và bóc lột.
Đức Giêsu đã lên tiếng nói rõ lòng ưu ái đó của Thiên Chúa trong bài giảng về các mối phúc thật ngược lại với các mối họa:
"Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười... Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giầu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế". (Lc 6,20-26).
Đức Giêsu đến để thiết lập Nước Thiên Chúa
Vậy Nước Thiên Chúa như Đức Giêsu phác họa trong bài giảng khai trương vừa trích chính là chân trời được nhắm tới trong phần hai của bài Tin Mừng hôm nay (cc.12-14). Ở phần một (cc.7-11). Đức Giêsu gợi ý nhằm giúp những người dự tiệc tránh tình trạng hữu danh vô thực và tránh luôn sự xấu hổ có thể xảy ra cho họ trước mặt mọi người. Còn ở phần hai, Người ưu ái ngỏ lời cùng chủ nhà đã mời Người tới dự tiệc. Có thể xảy ra là vị thủ lãnh Pharisêu, kẻ đã mời Đức Giêsu, biết rõ hoàn cảnh nghèo của Người như chính Người đã tuyên bố rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 5,7). Dù sao, Đức Giêsu đã lợi dụng cơ hội được mời để nói về Nước của Thiên Chúa là Nước mà Người được phái đến để thiết lập. Nước đó chỉ được thành tựu nơi Thiên Chúa là Đấng cho kẻ lành sống lại trong ngày sau hết (c.14). Đức Giêsu mời gọi chủ nhà đạt tới phúc thật đó. Để được như vậy, cần phải hoán cải để trở nên con cái của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu dậy về các mối phúc thật.
"Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng tối cao vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,32-35).
Điểm quy chiếu của các bài đọc trong phụng vụ ngày chúa nhật này nêu rõ về đức khiêm nhường. Đây là cách xử thế của con người trước sự giàu sang của thế giới vật chất hoặc của thế giới tinh thần. (Bài 1) Đây cũng là cách xử thế tốt nhất của con người, đặc biệt là những kitô hữu, trong mối tương giao với người khác, trong nhiều tình huống khác nhau của cuộc đời. (Tin Mừng) Đây là cung cách đúng đắn mà con người phải có đối với Thiên Chúa, một cung cách giúp ta nhận ra sự nhỏ bé của mình trước sự cao cả của Thiên Chúa (Bài 2).
Sư Điệp NiềmTin
Những tương giao tốt xuất phát từ đức khiêm nhường.
Là một chân lý hiển nhiên, con người là vật có tương quan, và nó thực hiện các tương quan với những người khác, với thế giới xung quanh và với Thiên Chúa. Lịch sử nhân loại cho thấy nhiều đường lối khác nhau của chiều kích tương quan trong cuộc sống. Có những người mà cách xử thế điều khiển bởi một tương quan khinh ghét và hủy diệt. Kẻ khác là đối thủ, và cần phải chấm dứt ngay với họ; Thiên Chúa là một đối thủ, cần phải giết chết, như Nietzsche đã tuyên bố. Thiên nhiên cần phải bị phá đỗ để xây dựng những đô thị và chung cư cho con người. Đây thật là một tương quan hết sức sai lầm! Cũng có mối tương quan dựa trên quyền sở hữu. Người ta muốn sở hữu các vật dụng để xây dựng cuộc sống thoải mái; người ta muốn sở hữu người khác để dùng họ mà xây dựng quyền thế cho mình. Người ta muốn sở hữu cả Thiên Chúa để điều phối Ngài theo ý muốn của họ. Đây cũng chẳng phải là tương giao đúng đắn! Vậy một tương quan dựa trên sợ hãi có phải là tương quan tốt không?
Sợ Thiên Chúa đấng cao cả và nghiêm minh phán xét, sợ người khác và mọi sự vì mặc cảm tự ti hoặc thiếu tinh thần thực tiễn. Không, sự sợ hãi cũng chẳng phải là mối tương giao thích hợp. Tương quan chân thực xuất phát tự lòng khiêm nhường và tự diễn tả ra như mối tương quan dựa trên tình yêu. Nếu tôi khiêm nhường, tôi sẽ nhận ra thân phận tạo vật của tôi và cái nhỏ bé vô cùng của tôi, tôi sẽ sống trong tương quan với Thiên Chúa bằng tình yêu. Tình yêu này dẫn đưa tôi nhận ra sự cao cả của Ngài và lòng nhân hậu của Ngài dành cho tôi, tin tưởng nơi Ngài dù tôi nhỏ bé, cảm tạ hồng ân của Ngài trong thành trì Sion này, là nơi chan chứa mọi phúc lành Thiên chúa ban tặng cho con người. (Bài 2) Nếu tôi khiêm nhường, tôi sẽ yêu người khác và không xem mình trọng hơn họ, cũng không cho họ điều gì để mong họ ban lại cho tôi. (Tin Mừng) Nếu tôi khiêm nhường, tôi sẽ không kiêu căng vì sang giàu mà tôi có, hoặc vì sự hiểu biết rộng rãi mà tôi thu tích được (bài 1). Trong đời ta, trong những tương quan của ta, tất cả đều là quà tặng của Chúa, vậy thì có gì đâu để mà hãnh diện? Mối tương quan đúng đắn giữa ta với Chúa , với những người xung quanh và với mọi sự đều phải dựa trên tình yêu, một tình yêu được diễn tả bằng phục vụ, kính trọng, biết ơn và liên đới.
Khiêm nhường, một nhân đức làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, vui lòng khi ta chấp nhận thân vật tạo vật của chúng ta và thiết lập một mối tương quan đúng đắn với Ngài và với mọi tạo thành, vì đó chính là cốt lõi của đức khiêm nhường. Ngược lại, thiếu sự khiêm nhường, sẽ làm hủy diệt sự hài hòa nơi chính bản thân chúng ta và vũ trụ, và sự đỗ vỡ này không làm vui lòng đấng Tạo Hóa. Chính vì vậy mà Sirach đã viết “càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”, và trong bài Tin Mừng ta đọc thấy, “phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuốung sẽ được tôn lên.” Tại sao khiêm nhường làm đẹp lòng Chúa? Chính là vì người khiêm nhường không tìm cách chiếm địa vị của Thiên Chúa, trở nên “như Thiên Chúa” hoặc tự cho mình là siêu nhân hay người khôn ngoan vượt trên mọi người khác. Sirach khuyến cáo “Đừng tìm những điều khó quá đối với con, những điều vượt sức con, con đừng xét tới”. Người khiêm nhường làm đẹp lòng Thiên Chúa bởi họ không xem Ngài là đối thủ của mình, nhưng như một người cha và một người bạn. Người khiêm nhường làm đẹp lòng Thiên Chúa không chỉ vì họ nhận biết mình là thụ tạo, nhưng còn bởi vì nhận mình là tội nhân, và như một người con cho dù chẳng xứng đáng. Chính vì thế, người khiêm nhường luôn giữ tư cách của người con đối với Thiên Chúa, người con ăn xin lòng lòng yêu thương tha thứ của Chúa. Tất cả những điều đó làm cho ta thấu hiểu điều Kinh Thánh quả quyết “càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Sự khác biệt giữa kẻ kiêu căng và người khiêm nhường có thể tóm gọn như sau: “kẻ kiêu căng tìm làm đẹp lòng mình, dù không có ích cho Thiên Chúa, trong khi người khiêm nhường tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, dù mình chẳng có lợi gì.”
Gợi ý Mục Vụ.
Khiêm nhường đồng nghĩa với sự thật.
Điều mà Đức Giêsu cố gắng đưa ra trong Tin mừng là một bài học về lịch sự và cách xử thế. Nhưng Đức Giêsu còn đi sâu hơn nữa, đến tận cùng tâm điểm, lớp thâm sâu nhất của con người. Và Ngài tìm thấy gì ở đó? Ngài tìm gặp một dấu chỉ mang ý nghĩa là: “tất cả đều là quà tặng, tất cả đều là hồng ân.” Người không chấp nhận điều đó là người gian dối, tự lừa dối chính mình, và lừa dối kẻ khác dưới nhiều hình thức. Một con người như thế sẽ vui thích với những thành đạt của mình, thích nói về những thành quả của mình, tán dương nhiều phẩm tính của mình, cố gắng để trở nên người quan trọng… Nhưng khiêm nhường là chân lý khi ta phải đối diện trước mặt Thiên Chúa. Tự bản chất, con người trước mặt Chúa chỉ là tro bụi, là gió thoảng, chẳng là gì cả. Nhờ ân sủng của Ngài, con người được giống Ngài và làm con cái của Ngài. Ta cũng có thể nói như Thánh Phaolô, “Nhờ ân sủng của Chúa mà tôi được như tôi hiện là, và ân sủng của Ngài không nên vô ích nơi tôi.” Cách sống của ta sẽ khác biết bao khi ta sống trong chân lý! Người khiêm nhường tìm chân lý trong tình yêu; chân lý về chính bản thân họ, chân lý về những người khác và chân lý về Thiên Chúa. Tôi đề nghị bạn hãy nhìn mình trong gương của sự khiêm nhường để xem bạn có nhận ra chính mình không, e rằng ảnh phản chiếu thực tế với chân lý trái ngược đến mức độ làm cho tấm gương không thể chịu đựng nỗi phải vỡ ra thành ngàn mảnh. Hội Thánh của người khiêm nhường sẽ là một Hội thánh đích thực, trung thành hơn với chương trình khởi đầu của Đấng sáng Lập. Mỗi người chúng ta, với sự khiêm nhường của mình, có thể cộng tác vào đó.
Hãy coi chừng khiêm nhường giả tạo!
Ta đã nói rằng khiêm nhường là chân lý, theo lời dạy của thánh Nữ Têrêxa Avila. Tuy nhiên, cũng có những hình thức bên ngoài của khiêm nhường. Nhưng nếu thiếu sự thật, những hình thức đó không thể diễn tả sự khiêm nhường đích thực. Ta điểm qua một vài hình thức khiêm nhừờng giả tạo. Một trường hợp rõ ràng đó là mặc cảm tự ti: “tôi là đồ vô dụng, nên tôi để cho người khác làm,” “tôi không thể làm nỗi việc này, tôi không có tài năng này khả năng nọ.” Đôi lúc những câu nói tương tự nhằm che đậy sự lười biếng. Thường thì chúng che đậy một hãnh diện xảo quyệt, muốn tránh gây cảm tưởng xoàng xỉnh hoặc khó coi trước mặt người khác bằng mọi giá. Người khiêm nhường biết những phẩm chất của mình, khả năng của mình, và những thành quả của mình, nhưng họ gán tất cả cho Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự. Một ví dụ khác về khiêm nhường giả tạo, đó là không chấp nhận lời cầu nguyện của kẻ khác, loại bỏ mọi hình thức của sự công nhận công khai, làm ra vẻ lãnh đạm trước ý kiến của kẻ khác. Thật sự, thường đây là hình thức hưởng thụ một cách riêng tư lời tán dương đã nhận được, hoặc muốn người ta làm nỗi bậc những thành quả của mình, muốn người ta tâng bốc bằng những lời khen. Ngược lại, người khiêm nhường cũng chấp nhận lời khen ngợi, nhưng họ dâng lên cho Thiên Chúa; họ đón nhận sự công khai công nhận về một hành vi tốt hoặc một ý kiến tốt của người khác, nhưng nhìn thấy trong đó kết quả của tình huynh đệ và tác động nhiệm mầu của Thiên Chúa. Trường hợp cuối cùng, đó là trường hợp của người nghĩ rằng mình không thể làm được điều gì tốt cả, rằng anh ta sinh ra nhằm một ngôi sao xấu, và chẳng có gì anh ta có thể làm được. Tính kiêu hãnh của hạng người này thật to lớn đến nỗi làm cho anh ta mù quáng và ngăn anh thấy được những việc tốt mà anh có thể làm được. Anh ta chỉ toàn nhìn thấy những điều xấu, vì những giới hạn và bất toàn của những điều tốt có nơi anh. Người khiêm nhường ngược lại, biết nhìn khía cạnh tích cực của mọi việc, dù những điều đó không xảy ra tốt như thế. Và cùng Thánh Phaolô, anh ta nói, “Đối với những người yêu mến Thiên Chúa, tất cả đều tốt đẹp.”
Câu khai mào (14,1) nói lên không gian và thời gian câu chuyện, dù rất mơ hồ. CGS là khách: TN 22-C28
1. Câu khai mào (14,1) nói lên không gian và thời gian câu chuyện, dù rất mơ hồ. CGS là khách được một người biệt phái mời. Chủ đề CGS được mời là nét tiêu biểu, đặc thù của Lc. Ta thường gặp các cảnh tả về bữa ăn, thường đi liền với các cuộc đối thoại đang khi ăn uống, trong phúc âm Lc (7,36tt; 10,38tt; 11,37tt; 14,1tt; 19,1tt; 22,7-38). Vả lại chủ đề yến tiệc là một thể văn Hy lạp, nên các độc giả Lc rất quen. CGS vào nhà “một thủ lãnh biệt phái”. Điều này giả thiết CGS đã được mời, dù không thấy đề cập đến trình thuật. Người biệt phái được gọi là “thủ lãnh” vì ông có nhiệm vụ điều khiển trong nhóm biệt phái. Thực vậy nhóm biệt phái có nhiều vị chỉ huy lãnh đạo (x.Flavius Josèshe, Ant. XV, 10,4). Theo Lc, CGS thường được mời đến nhà các người biệt phái (7,36; 11,37; 14,1). Ông cũng ghi lại việc người biệt phái lưu ý CGS đề phòng các âm mưu của Herôđê (13,31-33). Vì thế có nhiều điểm cho thấy thái độ CGS đối với nhóm biệt phái không nhất thiết là tiêu cực. CGS cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ cho họ.
2. Bữa tiệc có kèm một diễn từ dạy khôn ngoan. CGS ngỏ lời với các người được mời dự tiệc bằng một “dụ ngôn”, một bài học rút từ kinh nghiệm sống. Chữ “dụ ngôn” (parabolê, theo bản 70 cùng nghĩa với chữ Hy bá: mashal) chỉ một giáo huấn gián tiếp: so sánh diễn từ dạy khôn ngoan và châm ngôn (sách châm ngôn, mang tựa đề bằng tiếng Hy bá là “mashal de salomon” misheley Shêlômô). CGS nói như sư phụ dạy khôn ngoan.
Khách khứa đến và ngồi vào bàn. Khi ăn đại tiệc, người ta nằm dài dựa trên gối. CGS quan sát khách đến. Họ tìm cách chiếm chỗ nhất. Đó là những người ngồi gần chủ nhà nhất. Gối được xếp hàng ba. Chỗ danh dự thì ở hàng đầu hay ở gối giữa. Thì impafait của động từ (ils choisissaent: họ đang chọn) nói lên toan tính và qua đó diễn tả một ước muốn mãnh liệt và tham lam, tranh đoạt chỗ nhất. Thời CGS, thứ tự chỗ ngồi được xác định căn cứ vào thanh danh của thực khách, mà thanh danh lại tùy thuộc vào chức phận và sự giàu có. Người biệt phái ưa tìm danh lợi: các chỗ nhất trong hội đường (Lc 11,43; 20,46; Mc 12,38) và trong các yến tiệc (Lc 20,46; Mt 23,6; Mc 12,38), thích được chào ở các quảng trường (Lc 12,46 và song song). Họ xác tín là họ có quyền được danh dự: vì danh dự đòi phải phát xuất từ lề luật mà họ là những nhà đại biểu.
CGS ngỏ lời với các người được mời. Ngài trình bày cách khôn khéo không đụng chạm ai, không làm tổn thương hay mất lòng ai, theo kiểu dạy đời, giải thích nghi vấn, theo lối văn chương khôn ngoan: “Khi có ai mời ngươi...”. CGS nói lên một qui luật khôn ngoan. Đi dự tiệc mà chiếm chỗ nhất là không khôn ngoan chút nào, nhỡ có người đến sau trọng vọng hơn thì sao ! Các nhân vật quan trọng thường đến vào phút chót ! Chủ nhà và người xếp chỗ phải dành chỗ nhất cho nhân vật quan trọng đó. Còn người đã chiếm chỗ nhất cho nhân vật quan trọng đó. Còn người đã chiếm chỗ nhất đó bây giờ phải xuống chỗ rốt hết, vì các chỗ kia đã đầy người rồi. Thật là mất mặt ! Vì vậy phải khôn ngoan mà ngồi chỗ chót trước; bấy giờ ngươi mới được hân hạnh trước mắt mọi người biết mấy, nếu chủ nhà chỉ cho ngươi chỗ cao hơn.
Điều CGS nói đây là một qui luât thường tình, một châm ngôn đã có lâu trong nhân gian. Sách châm ngôn viết: “Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn; được người ta mời: “Hãy lên đây” tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan” (Cn 25,6-7; Si 7,4; 13,9-100. Các luật sĩ đã chấp nhận luật ngồi bàn đó bằng những lời: “Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: “hạy ngồi lên” hơn là “đi xuống dưới ngồi” (Lv.r.1,5). Luật Rabbi này, do thày rabbi Shimon ben azzai (khoảng năm 110 sau J.C) chấm dứt bằng một câu tương tự với câu 11: “Và Hillel (năm 20 trước J.C) nói thế này: Khi tôi hạ mình xuống là lúc tôi được nâng lên, lúc tôi tự nâng mình lên là lúc bị hạ xuống”.
Dụ ngôn về việc chọn chỗ ngồi được chú giải bằng một câu được ghi trong truyền thống các phúc âm khi thì ở chỗ này, lúc ở chỗ khác, nên được xem là một “logion lang thang” (Mt 23,12; Lc 18,14), nhưng ở đây câu này cũng rất xác đáng. Đây là một câu có hai vế phát xuất từ môi trường Do thái, ta biết điều đó là nhờ việc tên TC được thay thế bằng thể passif divin ("sẽ bị hạ xuống”, “sẽ được nâng lên"). Câu đó phát xuất từ kinh nghiệm về các hoạt động của TC đối với dân Ngài: “Cái gì thấp sẽ được nâng lên, cái gì cao sẽ bị hạ xuống” (Ez 21,13; x. Lc 1,52, Tv 147,6). Câu đó hứa đảo lộn địa vị, và lượng giá hoàn toàn khác với cách lượng giá của loài người. Trong phúc âm nhất lãm, vì câu này luôn luôn xuất hiện trong các cuộc tranh luận với người biệt phái, nên hình như CGS đã dùng câu đó như là lời đe dọa nhóm biệt phái.
Trong dụ ngôn này, câu đó đưa luật xử thế khôn ngoan mà CGS vừa dạy, lên ngang bình diện lời CGS rao giảng về nước TC. Lời tiên tri loan báo việc hạ xuống và nâng lên sẽ được thực hiện khi Nước TC đến. Cũng như câu thứ hai về bữa ăn (cc. 12-14) chấm dứt bằng một lời hứa cánh chung thì câu thứ nhất cũng muốn qui hướng chúng ta về hoạt động cánh chung của TC.
Luật chọn chỗ ngồi trong bàn ăn dùng để nói lên một điều kiện gia nhập Nước TC. CGS cũng đã quả quyết phải trở nên bé nhỏ, khi Ngài đòi buộc những ai muốn vào Nước TC phải hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,4). Việc hoán cải đích thực, có khả năng mở nước TC, chỉ có thể có được khi con người tự nhận là hèn kém, bé bỏng trước mặt TC (Lc 17,10; 18,10-14). Thái độ đối nghịch với lòng hoán cải là tự cho mình là người công chính và trổi vượt hơn kẻ khác. Do đó CGS đã dùng một ngạn ngữ có từ thời xưa, được người đồng hương biết, để rao giảng về nước TC.
3. Người mời các thực khách cũng được nhắc đến. Nhưng lời nói của ông ta không còn được gọi là “dụ ngôn” nữa. CGS đề xuất một chân lý dưới dạng thức mệnh lệnh (sous forme d'impératif), nói lên một chỉ dẫn và khuyến cáo về một hoàn cảnh cụ thể. Lời chỉ dẫn cho chủ nhà có tính cách bắt buộc. Còn lời khuyến cáo thì tế nhị hơn. CGS nói cách tổng quát, không nói đến bữa ăn trước mắt, nhưng là một bữa ăn trưa hay bữa ăn tối nào đó không rõ. Quả thực, chủ nhà không chỉ mời bạn hữu, bà con và các người giàu có mà cả CGS, và có lẽ cả các môn đệ Ngài nữa; CGS lại phán dạy như thày dạy khôn ngoan.
Bữa ăn là biểu thức của một tình yêu hào phóng. Chủ nhà không chỉ mời các thân bằng quyến thuộc như bạn bè, bà con, đồng nghiệp. Những người này sẽ có thể mời và sẵn lòng mời lại ông. Tuyệt đối không nên mời và đừng bao mời để được mời lại, cho để được cho lại. Phải cho mà không hy vọng nhận lại (Lc 6,35). Bữa ăn phải biểu hiểu một tình yêu vô vị lợi chứ không phải một tình yêu đòi đáp trả.
Vế tích cực theo liền vế tiêu cực của phép song ngẫu. Phải mời kẻ ta không hy vọng được họ mời lại. Các người được mời do đó sẽ là “người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”; có lẽ các người bệnh tật, què quặt, đui mù là hình ảnh đặc thù của giới nghèo: thực sự họ là những người nghèo khổ. Đó là ba hạng người bị các người “đạo đức” Israel khinh chê. Họ không được tham dự các nghi lễ trong đền thờ (2S 5,8 bản 70; x. Lv 21,18). Luật cấm tế tự này vẫn còn hiệu lực trong cộng đoàn Qumrân.
CGS đã lưu tâm và đặc biệt yêu thương chính những người nghèo hơn hết các người nghèo đó. Họ không thể đáp trả ân huệ đã nhận. Chính TC sẽ đích thân can thiệp họ, khi bắt đầu trât tự mới. Ở đây cũng thế, thể văn thụ động (passif) thay thế tên TC. Ai làm ơn cho những người nghèo không thể đáp trả đó, được gọi là người có phúc, vì TC sẽ trả công cho họ.
Lời khuyến cáo chấm dứt bằng câu nhắc đến các biến cố thế mạt. Trong dụ ngôn các người được mời, việc nâng lên được hứa ban cho những người công chính; ở đây họ được hứa sẽ được sống lại. Trên kia đường phải đi là sự hạ mình xuống, ở đây thì phải tỏ ra bất vụ lợi. Lời hứa chỉ nhắm đến việc “phục sinh các người công chính”. Chính Lc thấy trước mọi người sẽ sống lại: “Các người công chính cũng như các người tội lỗi sẽ sống lại (Cvsđ 24,15). Ông quả quyết “người chết sẽ sống lại” (Lc 20,35). Do đó đừng hiểu kiểu nói: “các người công chính sẽ sống lại” trong nghĩa độc hữu (sens exclusif). Có thể đây là một kiểu nói cựu truyền, liên hệ với niềm hy vọng vào sự phục sinh của các người công chính (Tv Sal.3,11; Hénoch 91,10 Test.XII Benj. 10 et passim)
Qui luật thứ hai về các bữa ăn cũng không phải chỉ là lời chỉ dẫn về việc ăn uống, mà còn nhắm đến thế mạt, đến sự xuất hiện của nước TC và một trong các ân huệ cứu rỗi mà Nước TC đem đến là việc “các người công chính sẽ phục sinh”. Tình yêu mong đáp trả sẽ không hy vọng được tưởng thưởng khi nước TC đến. Lời khuyến cáo được đưa ra ở đây có cùng giáo huấn với diễn từ trên núi (Lc 6,32-35).
KẾT LUẬN
Ngưòi biệt phái bị khiển trách vì hai thói xấu: danh vọng và tham lam (x.Lc 20,46-47); chính vì chống họ mà CGS đưa ra các qui luật về ăn uống liên hệ đến đức khiêm nhượng và bác ái vô vị lợi. Danh vọng và tham lam sẽ bị xét xử nghiêm khắc, còn ai sống khiêm nhượng và bác ái có thể mong chờ đến ngày được tham dự bàn tiệc Nước TC.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. CGS, trong bản tính và sứ mạng Ngài, đã sống tinh thần khiêm nhượng tự hạ, là tinh thần mà hôm nay Ngài công khai giảng dạy. Bỏ chỗ nhất để ngồi chỗ rốt hết, đó chính là ý nghĩa việc ngài nhập thể, như ca thi gởi tín hữu Philipphê: “Phận là phận của một vị TC, nhưng Ngài không nghĩ phải phải dành cho được chức vị đồng hàng cùng TC, trái lại Ngài đã hủy bỏ chính mình đi, lãnh lấy thân phận tôi đòi... đã tự hạ mình xuống làm một người vâng phục cho đến chết” (Ph 2,6-8). Khi sống như thế, CGS không vong thân; trái lại, đã tự biểu lộ như là “người của mọi người”. Ngài là người của mọi người, là TC ở cùng chúng ta. Khi chiếm chỗ rốt hết bằng việc nhập thể, khi ngồi cùng bàn với các người bị khinh dể, khi bị giết như một tên bất lương, CGS là: tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mọi người.
2. Nhưng sự tự hạ mà CGS giảng dạy không bao giờ đồng nghĩa với sự chìu lụy bệnh hoạn vì sợ người khác hay vì ghét mình. Sự tự hạ mình phải là một lựa chọn hoàn toàn tự do, như CGS đã chọn lựa, trong tinh thần phục vụ và yêu thương.
3. “Nhìn kẻ khác như trổi vượt hơn mình” (Ph 2,3) không phải là so sánh với họ, nhưng là xem họ đáng được người đời và TC lưu ý hơn chúng ta. Chính khi quên mình như thế, tình yêu trong chúng ta mới có giá trị và triển nở thực sự. Tình yêu tự nó đã là một phần thưởng.
4. Chướng ngại vật lớn nhất thường ngăn cản chúng ta tiếp nhận kẻ khác, là hàng rào xã hội. Chúng ta tự nhiên có khuynh hướng xem những người nghèo hơn chúng ta như thuộc về một giai cấp xã hội khác. Phúc âm đến làm nổ tung mọi hàng rào chia rẽ người với người; Đức Kitô đã triệt hạ một lần thay cho tất cả “các tường ngăn thành chắn” (Eph 2,14) để rồi “không còn phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do nữa” (Gal 3,28)
5. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh thể, dù chúng ta không có công trạng gì. Chúng ta đều được mời tất cả, không phân biệt chủng tộc, phái tính, tuổi tác hay địa vị xã hội. Đức Kitô đã hiến thân để trở nên mọi sự cho mọi người.
Chủ đề: Sống khiêm nhượng là sống giống Chúa Giêsu sống cho tha nhân chứ không phải chỉ cho riêng mình.
Cách đây ít lâu tại Florida, tờ St Petersburg Times (Thời báo St Petersburg) có đăng một: TN 22-C29
Cách đây ít lâu tại Florida, tờ St Petersburg Times (Thời báo St Petersburg) có đăng một câu chuyện thú vị về Don Shula huấn luyện viên đoàn cá heo ở Miami. Ông đang cùng gia đình nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ miền bắc tiểu bang Miami. Vào một buổi chiều nọ vì trời mưa nên Shula cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim chiếu tại rạp hát duy nhất của thị trấn. Khi họ đến thì các ngọn đèn trong rạp vẫn còn mở sáng. Chỉ có 6 khán giả khác ngoài họ thôi. Khi Shula và gia đình ông bước vào, tất cả 6 người đó liền đứng dậy vỗ tay. Shula liền vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi ngồi vào chỗ, Shula quay sang bà vợ và nói: “Chúng ta từ Miami cách xa cả ngàn dặm đến đây thế mà họ tiếp đón anh nồng nhiệt đến thế. Chắc hẳn là đám cá heo được đem trình chiếu trên truyền hình đã lan tận đến cả ngõ ngách này!”. Ngay lúc đó có một gã đàn ông tiến đến bắt tay Shula. Shula tươi cười nói: “Làm sao bạn nhận biết tôi?” Gã đàn ông trả lời: “Thưa ông, tôi chả hề biết ông là ai cả, chẳng qua là ngay trước khi ông và gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có bảo chúng tôi là nếu không có thêm 4 khán giả nữa thì ông ta không thể chiếu xuất phim này”.
***
Tôi thích câu chuyện trên vì nó làm sáng tỏ lời huấn dụ trong các bài đọc hôm nay, nghĩa là: sự dấn thân làm Kitô hữu mời gọi chúng ta sống khiêm tốn, mời gọi chúng ta bắt chước kiểu mẫu Kitô hữu nơi con người Don Shula qua câu chuyện nêu trên. Đây là một người tiếng tăm lan rộng khắp nước không chỉ là một huấn luyện viên xuất sắc, mà còn là một con người tuyệt vời nữa. Thật là tự nhiên khi Shula nghĩ rằng gã đàn ông đến bắt tay ông đã nhận biết ông là ai. Đến khi hay gã ấy chả hề biết ông là ai, thì Shula là người đầu tiên tự chế giễu mình. Thực thế, ông rất lấy làm vui thú về sự kiện ấy nên ông mới kể chuyện đó với kẻ khác. Và chỉ có người nào đủ khiêm tốn mới làm được như Shula mà thôi!
Điều đó nêu ra một câu hỏi. Vậy sự khiêm tốn là gì? Thế nào mới được gọi là khiêm tốn? Phải chăng khiêm tốn là tự hạ mình xuống? Cho rằng mình kém cỏi? Phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi? Không phải thế! Đức khiêm tốn mang chiều kích sâu xa và tốt đẹp hơn thế nhiều. Khiêm tốn không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình hết. Trong ý nghĩa sâu xa và tốt đẹp nhất, khiêm tốn tức là làm y hệt Chúa Giêsu, Đấng đã từng nói: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật lòng” (Mt 11 ; 29). Và “Con người không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mc 10 ; 45)
Như thế, khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa Giêsu - sống không cho riêng mình mà là cho kẻ khác. Khiêm tốn nghĩa là dùng tài năng của mình giống như Chúa Giêsu - để phục vụ không phải cho bản thân và vinh quang riêng mình, mà là cho tha nhân và cho nhu cầu của họ. Tôi xin làm sáng tỏ bằng ví dụ sau đây:
Charles Schulz đã làm cho nhân vật Charlie Brown trong các phim hoạt hình của ông (Peanuts) trở thành một cái tên quen thuộc. tuy nhiên ít ai biết rằng nhân vật Charlie Brown có thực này trước cùng làm việc với Schulz trong phòng nghệ thuật chạm trổ ở Minneapolis. Sau đó thì cả hai đều rời bỏ phòng nghệ thuật ấy. Shulz trở thành người cố vấn cho các thiếu niên phạm pháp. Ông thường đem chúng về sống chung dưới mái nhà riêng của ông. Charlie bị chết vì ung thư vào tháng 12 năm 1983.
Sau khi ông chết, một cộng sự viên của ông đã viết như sau: “Charlie từng là thủ trưởng của tôi suốt 3 năm trời tại trung tâm cải huấn… sau khi các chú nhóc vào giường, chúng tôi thường ngồi lại đàm luận lâu giờ với nhau trong phần còn lại của buổi tối. Charlie là một tín đồ Công giáo La mã nhiệt tình … ông đã dành đời mình để làm việc từ thiện hằng ngày noi gương Chúa Kitô và các thánh.”
Viên cộng sự tiếp tục kể rằng chuông và điện thoại ở trung tâm cải huấn thường hay reo vào giấc khuya. Thường xuyên có cậu bé nào đó tới hỏi: “Có Charlie Brown ở đó không?” Và suốt thời gian viên cộng sự này lưu lại ở trại cải huấn, không một thiếu niên nào từng sống với Charlie đã phải quay trở lại vào tù. Và đây là một trong những lý do tại sao Charlie thường xuyên được mời giảng huấn cho các đồng nghiệp trong nghề, và được mời dạy môn tội phạm và môn xã hội học tại đại học Minnesota.
Charlie Brown và Charlie Schulz là bạn chí thân đến phút chót. Thỉnh thoảng Schulz đề nghị chia xẻ cho Charlie một phần lợi nhuận từ một số sản phẩm có mang tên Charlie Brown chẳng hạn áo hở cổ chữ T, hoặc đồ chơi trẻ nít, nhưng chẳng bao giờ Charlie chịu nhận lấy một đồng. Charlie cũng không bao giờ khoe khoang với bất cứ ai rằng mình chính là nhân vật Charlie Brown thực sự ở ngoài đời.
Và như thế mãi cho đến ngày nay, nhiều trẻ em từng rung chuông lúc khuya khoắt ở trung tâm cải huấn ấy và hỏi: “Có Charlie Brown ở đó không?” Vẫn chẳng hề hay biết người mà chúng đang tìm gặp đó là nhân vật nào.
Câu chuyện trên là một ví dụ sống động điều Chúa Giêsu ám chỉ khi Ngài tuyên bố:
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật lòng”. Đây cũng là một ví dụ sống động về lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Con người không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ”. Và đồng thời câu chuyện trên cũng là ví dụ sống động về quyền năng nét đẹp của nhân đức khiêm nhường – khi nhân đức này được người Kitô hữu đích thực dám can đảm mang nó vào cuộc sống của mình. Cuối cùng, câu chuyện trên còn là một ví dụ sống động về lời Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây vào sáng hôm nay.
Chúng ta hãy kết thúc bằng cách khẩn khoản suy nghĩ về những lời đầy cảm xúc bàn về đức khiêm nhường trong bài đọc thứ nhất hôm nay:
“Hỡi các con trai và con gái của ta hãy thi hành công việc của các con một cách khiêm tốn thì các con sẽ được yêu mến hơn khi các con đem quà tặng cho kẻ khác.
Càng khiêm tốn thì các con càng cao cả, và các con sẽ được Chúa ủng hộ cho.
Rita, một cô gái 20 tuổi mà chưa được Rước lễ lần đầu. tại sao thế? Em bị chứng co rút thần kinh: TN 22-C30
Rita, một cô gái 20 tuổi mà chưa được Rước lễ lần đầu. tại sao thế? Em bị chứng co rút thần kinh. Chân, tay em không bình thường. Vài bắp thịt bị cương, cứng. Em không thể bước đi, em phải vất vả lắm mới cầm được một đồ vật trong tay. Em cũng khó cất đầu lên được. Em có thể nói một vài tiếng không rõ ràng. Gia đình em đã tốn nhiều công sức và tiền của để tập luyện cho Rita, nhưng kết quả chẳng là bao.
Nhiều Cha Sở từ chối cho Rita rước lễ, các ngài sợ em không hiểu, các ngài sợ em làm rớt Mình Thánh Chúa. Một Linh mục trẻ thấy rằng Rita ao ước Rước Chúa. Ngài dạy em và sau cùng, một sáng Chúa Nhật, cha mẹ em hãnh diện dùng xe đẩy đưa Rita lên Rước lễ. Em hân hoan, gia đình vui mừng.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng khi chúng ta dọn tiệc, chúng ta hãy mời Người nghèo, người tàn tật, đui mù. Tôi có ý nghĩ này: chúng ta phải mời, phải giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, đui mù không phải chỉ trên bình diện thể xác mà cả trên bình diện thiêng liêng.
Bàn tiệc là Thánh Lễ và Rước lễ với những gì cao quí như niềm hy vọng. Tình bạn hữu và phẩm hạnh con người được dâng hiến, ban tặng cho chúng ta trong và qua niềm tin vào Đức Kitô và Hội Thánh Người. Chúng ta phải giúp đỡ những người túng thiếu, chúng ta cũng phải phục vụ linh hồn họ. Những thiếu thốn thiêng liêng cũng khẩn thiết như thiếu thốn vật chất.
Thí dụ bạn đến thăm và cho quà một người trong khám, bạn hãy đem đến cho họ một cái gì thiêng liêng, cầu nguyện với họ hay cho họ, đem đến cho họ một tờ báo Công Giáo, nói với họ một vài biến cố thiêng liêng của họ đạo như Rước Lễ vỡ lòng, tuần thánh… Hãy đọc cho họ một câu Kinh Thánh. Đây không phải là một cố gắng lôi kéo một người khác tín ngưỡng hay không tín ngưỡng vào hội thánh. Cũng không phải là một cố gắng đem người trễ nải trở lại chịu các bí tích, mặc dầu thường có kết quả như thế. Đó chỉ là một cố gắng đơn thuần để trợ giúp tâm hồn những người này cũng như thể xác của họ.
Chúa Giêsu đã làm cả hai, Chúa giúp tâm hồn cũng như thân xác. Bạn thấy Chúa thường chữa bệnh với những lời như: “Đức tin của con đã cứu con, hoặc những lời tương tựa. Chúa tha tội cho người bại xụi và chữa lành thân xác họ. Hãy xin Chúa giúp bạn làm được điều Chúa đã làm: phục vụ Tâm hồn cũng như thân xác. Như chúng ta đã cầu nguyện mới đây trong bài đáp ca: “Thiên Chúa ban nhà ở cho những kẻ bị bỏ rơi”.
Cô gái trẻ trong câu truyện cần sự giúp đỡ thiêng liêng cũng như vật chất, mọi người túng thiếu và tàn tật đều cầu như vậy, có giây phút nào tốt đẹp hơn để xin sự sáng suốt khéo léo và can đảm để thi hành sự trợ giúp thiêng liêng hơn ít phút nữa đây, khi mà bánh, rượu của ăn nuôi thân xác được biến đổi nên Mình và Máu Chúa Kitô, của ăn và của uống nuôi Linh hồn. Tốt đẹp thay cho người đói nghèo và túng thiếu của thế giới, nếu chúng ta biết giúp đỡ họ không những của ăn nuôi thân xác, mà còn cả của ăn nuôi linh hồn nữa.
Tôi thường đi dự tiệc cưới chia vui với các gia đình trong Giáo Xứ. Là Linh Mục trẻ nên thích: TN 22-C31
Tôi thường đi dự tiệc cưới chia vui với các gia đình trong Giáo Xứ. Là Linh Mục trẻ nên thích ngồi chung với giới trẻ. Nhưng tiệc nào cũng được chủ nhà mời lên bàn trên ngồi với người lớn của hai họ. Mỗi lần như thế lại nhớ Lời Chúa Giê-su nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giê-su được thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giê-su dạy hai bài học: khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
1. KHI ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC
Thời đó, người Do Thái chia thành nhiều nhóm: Nhóm Hê-rô-đê, nhóm nhiệt thành chống đế quốc Rô-ma, nhóm Ét-xê-niên khắc kỷ, nhóm Sa-đu-xê-ô tư tế, nhóm Pha-ri-sêu gồm các tiến sĩ luật và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm Pha-ri-sêu tự cho mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thầy dạy của dân nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế, thủ lãnh của phái Pha-ri-sêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dùng bữa hôm nay, Đức Giê-su quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ?
Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Đa-ni-en. Khi Đa-ni-en đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Đa-ni-en từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Đa-ni-en còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Đa-ni-en đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Đa-ni-en. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Đa-ni-en đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pha-ri-sêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Gia-cô-bê và Gio-an thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giê-su. Phi-la-tô cho đóng đinh Đức Giê-su vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giê-su không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót.Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giê-su lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giê-su dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Trổi trang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại chà đạp người khác. Có hạng người đội trên đạp dưới, nịnh bợ cấp trên chèn ép người dưới. Có người theo chủ nghĩa cơ hội tìm mọi cách thủ lợi cho riêng mình. Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo, nên không ai ưa người kiêu ngạo, nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau.
Đức Giê-su khuyên sống khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa.
Chính Chúa Giê-su cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của Bài Giảng Trên Núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Khiêm tốn như Đức Giê-su không phải là hèn nhát, trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Đức Giê-su không phải là nô lệ, trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Nước Trời.
Lời Đức Giê-su dạy không chỉ nhằm sửa một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao, vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa là trở nên giống Thiên Chúa.
Nhìn vào gương Đức Giê-su, Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ mình mặc lấy thân phận như con người trừ tội lỗi. Nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su là người cao trọng nhất, thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Nhìn lên thập giá, Đức Giê-su gục đầu thảm thương. Nhìn vào Nhà Tạm, Đức Giê-su hiện diện âm thầm. Thực là một sự khiêm tốn thẩm sâu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa.
2. KHI ĐỨNG RA ĐÃI TIỆC
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giê-su khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giê-su mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Chúa Giê-su dạy hai bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc, đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin Mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giê-su Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
Trong những ngày vừa qua, tôi có dịp ghé thăm trại phong Di Linh. Vừa dừng xe, chúng tôi gặp: TN 22-C32
Trong những ngày vừa qua, tôi có dịp ghé thăm trại phong Di Linh. Vừa dừng xe, chúng tôi gặp ngay giữa sân, bên cạnh ngôi Nhà Nguyện bằng gỗ, là ngôi mộ của Đức Cha Jean Cassaigne ( 1895 – 1973 ), người sáng lập ra trại phong Di Linh và có thể nói, ngài cũng là người đầu tiên đến truyền giáo cho anh em người dân tộc Kơ Ho ở Đà Lạt. Đức Cha Jean Cassaigne đã không có lăng to mộ lớn như các vua chúa triều Nguyễn. Ngài đã sống thật âm thầm, nhỏ bé hết mình dấn thân phục vụ những người anh em bị bệnh phong, giữa vùng rừng núi hoang vu của miền cao nguyên tỉnh Lâm Đồng, để rồi cuối cùng chính bản thân ngài cũng đã bị lây bệnh phong và ra đi cách lặng lẽ, để lại biết bao thương tiếc cho đoàn con người dân tộc. Cuộc sống của ngài là kết quả của cả một quá trình lắng nghe và suy niệm Lời Chúa trong thinh lặng của nội tâm.
Nhìn ngôi mộ nhỏ bé, đơn sơ và nghe kể lại cuộc đời dấn thân phục vụ của ngài, tôi chợt nghĩ đến lời Chúa hôm nay: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”. Vâng, Đức Cha Jean Cassaigne đã thực sự sống trọn Lời Chúa hôm nay, đáp lời Chúa gọi, Đức Cha đã rời bỏ nơi “chôn nhau, cắt rốn”, vượt biển, băng rừng để đến phục vụ giữa các anh em dân tộc đang bị bệnh phong hành hạ. Và hôm nay, chắc hẳn Đức Cha đang được Chúa nâng lên để chung hưởng vinh phúc nơi Quê Trời.
Do đó, trong tâm tình đó, chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và chia sẻ về tinh thần khiêm hạ dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay.
1. LẮNG NGHE:
Dấu chỉ đầu tiên của một tâm hồn khiêm tốn là sự lắng nghe. Với kinh nghiệm của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng nhận thấy rằng, việc lắng nghe không phải là dễ dàng. Mặc dù mỗi người chúng ta có tới hai tai để nghe, trong khi chỉ có một cái miệng vừa dùng để ăn, vừa dùng để nói, nhưng chúng ta vẫn thường nói nhiều hơn nghe. Chúng ta cứ thử để ý quan sát chung quanh sẽ thấy rõ điều này. Trong các cuộc nói chuyện, ai cũng muốn nói lên suy nghĩ của mình, mà không hề quan tâm đến ý kiến của người khác.
Điều đó phản ánh một ý muốn khẳng định chính bản thân mình. Chúng ta muốn nói để chứng tỏ cho mọi người thấy sự hiểu biết của chúng ta. Và chúng ta cứ nghĩ rằng nói nhiều mới là người giỏi giang, thông minh. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của mình, cùng với sự soi sáng của Thiên Chúa, tác giả sách Huấn Ca lại cho chúng ta thấy chỉ những ai biết lắng nghe mới là người khôn ngoan thật, bởi vì: “Người thông minh suy ngắm trong lòng lời dụ ngôn, chăm chỉ nghe là kỳ vọng của người khôn ngoan”.
Đồng thời, khi chăm chỉ lắng nghe, là lúc chúng ta thừa nhận rằng sự hiểu biết, khả năng của chúng ta còn nhiều giới hạn, hay nên cần đến sự trợ giúp của người khác. Hay nói một cách khác, khi yên lặng lắng nghe là lúc chúng ta công nhận “Tôi sai, anh đúng; tôi dở, anh giỏi...” Điều này sẽ đụng chạm đến cái tôi sâu thẳm của mình. Do đó, chúng ta cần vượt qua tự ái cá nhân, và cả chính cái tôi tự mãn của mình chúng ta mới có thể thành tâm lắng nghe được. Như thế, việc chăm chỉ lắng nghe còn là một biểu hiện của một tâm hồn khiêm tốn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng nhận thấy rằng, cho dù khi bắt đầu lắng nghe, chúng ta hơi cảm thấy khó chịu, nhưng sau đó, nhờ việc biết khiêm tốn lắng nghe, sự hiểu biết của chúng ta sẽ gia tăng, và nhất là chúng ta sẽ lãnh nhận được nhiều kết quả khác mà chúng ta không ngờ.
Việc lắng nghe không chỉ là cần thiết trong đời sống tự nhiên, nhưng còn đặc biệt cần thiết trong đời sống siêu nhiên. Nếu như với việc khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn của con người chúng ta được khôn ngoan hơn, thì với việc lắng nghe Lời Chúa, chúng ta còn thu được kết quả nhiều hơn gấp nhiều lần, vì Lời Chúa chính là lời của sự thật, và là đường dẫn tới sự sống muôn đời ( x. Ga 14, 6a ). Chính vì thế, cho dù ngay giữa đêm khuya, giữa giấc ngủ ngon, khi nghe tiếng Chúa gọi, trẻ Samuel vẫn mau mắn, sẵn sàng thưa lên với Gia-vê Thiên Chúa: “Lạy Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”, còn Thánh Phê-rô thì tuyên bố “Chúa có lời ban sự sống đời đời”.
Tuy nhiên, chỉ lắng nghe lời Chúa mà thôi, thì chưa đủ để biểu thị một tâm hồn khiêm tốn. Một tâm hồn khiêm tốn thật còn phải để cho Lời Chúa biến đổi và thúc đẩy mình lên đường phục vụ tha nhân, như lời Đức Giê-su đã nói: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 28 ).
2. PHỤC VỤ:
Đặc điểm thứ hai của người khiêm tốn thật, đó là sự dấn thân phục vụ tha nhân. Người khiêm tốn phục vụ không chờ đáp đền, vì đích đến của họ là Thiên Chúa. Họ dấn thân phục vụ anh chị em mình, đơn giản chỉ vì họ nhìn thấy nơi người khác hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi đó, họ không chờ một sự biết ơn, trả nghĩa, nhưng sẵn sàng phục vụ cách nhưng không. Chấp nhận bị quên lãng, cũng là một dấu chỉ của người khiêm tốn thật.
Mặt khác, người khiêm tốn thật luôn ý thức rõ mọi sự mình có như tài năng, cơ hội, phương tiện... đều do bởi tình yêu Chúa ban cho họ, nên họ sẵn sàng dấn thân phục vụ như một cơ hội để đáp đền tình yêu Thiên Chúa đã dành cho họ. Bởi đó, Đức Giê-su nói với những người Biệt phái: “Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì dừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại”.
Tuy nhiên, sống tinh thần Tin Mừng đúng như đòi hỏi của Đức Giê-su quả thật là khó. Với bản tính tự nhiên của mình, chúng ta vẫn thường sống với châm ngôn: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Và chúng ta vẫn nghĩ đó là lẽ công bình tự nhiên. Vâng, “bánh ít đi, bánh quy lại” thực sự là lẽ công bình tự nhiên, nhưng Đức Ái Ki-tô giáo đòi chúng ta vượt lên trên đức công bình để có thể yêu mến tha nhân, như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Chính vì thế, tác giả thư Do Thái mời gọi chúng ta hãy hướng đến không phải là “một ngọn núi có thể sờ được hay là lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp hoặc tiếng kèn”, nhưng là “tiến đến núi Si-on và thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem trên Trời”, nghĩa là ngài mời gọi chúng ta vượt qua những kiểu tính toán của con người, vượt qua những thực tại trước mắt để hướng tới một thực tại vĩnh cửu, nơi Thiên Chúa ngự trị. Đó cũng là điều, Đức Cha Jean Cassaigne đã sống suốt cuộc đời của mình. Đức Cha đã nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi những con người bị lở loét, phong cùi, nên ngài đã hết lòng yêu thương và phục vụ họ. Nhờ đó, ngài đã dẫn đưa được nhiều người trở về với Chúa.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta thành tâm lắng nghe Lời Ngài, và không chỉ là nghe, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân như Lời Chúa dạy. Chúng ta hãy thử một lần sống theo Lời Chúa, hãy can đảm dấn thân phục vụ cách nhưng-không; cho mà không mong đáp lại... Chắc chắn lúc đó, chúng ta sẽ thực sự có một kinh nghiệm về sự ngọt ngào sâu thẳm của Lời Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng sẽ trở thành ánh sáng để dẫn đưa anh chị em đang sống chung quanh chúng ta trở về với Thiên Chúa là Cha chung của tất cả mọi người.
“Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho vị này.' Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: 'Xin mời ông bạn lên trên cho.' Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."
***
Lu-ca không tả về Chúa Giê-su như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những: TN 22-C33
Lu-ca không tả về Chúa Giê-su như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình. Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa tỷ mỷ bằng một bữa tiệc ngày sa-bát tại nhà một người biệt phái. Lu-ca thấy Chúa tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của họ, và Ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ mệnh của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để đưa ra những sứ điệp cần thiết. Giọng điệu của Ngài ở đây nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang ở giữa những kẻ mà bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài. Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.
Khi thấy khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giê-su khuyên khách dự tiệc: "Hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho" thì không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Ngài cũng lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu, kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Qua đoạn Kinh Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.
Chúa Giê-su đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem đến vinh dự.
Khiêm nhường vốn là một trong những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để để nghĩ rằng bài của mình có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức Tân Giáo Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phê-rô, toàn dân nhiệt liệt chào rằng "Viva Papa." Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt Ngài ngấn lệ: "Đừng hoan hô người đầy tớ trong nhà ông chủ." Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể dành cho Ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được sự khiêm tốn:
Chúng ta có thể giữ được mình khiêm nhường bằng sự nhận biết thực tế. Dầu chúng ta biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu hạ, cuộc đời và công việc vẫn cứ tiến hành như trước kia.
Chúng ta có thể giữ đức khiêm nhường bằng cách so sánh chính mình với những người toàn vẹn. Khi chúng ta đã đi đây đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. "Ở nhà nhất mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn mẹ con ta." Nhiều người không có ý được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn. Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.
Và nếu chúng ta đem đặt đời mình bên cạnh đời sống của Chúa Giê-su vô cùng thánh thiện, và nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.
Ngài dạy chúng ta về lòng bác ái. Đối chiếu với lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý do ẩn đằng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.
Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các ra-bi Do-thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
Từ thời thánh Cypriano (đầu thế kỷ) những lời khuyên sống đạo thực tế của cuốn sách mang tên: TN 22-C34
Từ thời thánh Cypriano (đầu thế kỷ) những lời khuyên sống đạo thực tế của cuốn sách mang tên tác giả Bensira đã được Hội Thánh trọng dụng để giáo huấn các tân tòng, từ đó Ben Sira lại mang tên mới là Đức huấn ca (tiếng pháp là Ecclesatique). Phụng vụ hôm nay đọc sách này nêu cao giá trị của đức khiêm nhường, để bất cứ người Kitô hữu nào cũng phải luyện tập nhân đức này. Người có đức khiêm nhường giá trị hơn người hào hoa phong nhã, vì họ được đặc sủng trước mặt Chúa, được Chúa mạc khải những bí mật của Ngài nên lòng hiểu được lời của thánh hiền (Bài đọc I).
Nhưng thế nào là Đức Khiêm Nhường ?
Qua Tin Mừng hôm nay, nhân Đức Giêsu được một người Biệt phái tỏ lòng bác ái mời Ngài dùng bữa (chỉ có Luca cho thấy Chúa dùng bữa với người Biệt phái, chứng tỏ mọi Biệt phái là đối thủ của Chúa Giêsu). Nhưng người Biệt phái này lại thiếu đức Khiêm nhường, do đó Chúa lên tiếng dạy ông sống khiêm nhường phải đi bốn bước qua hai ví dụ:
KHI TA LÀ KHÁCH DỰ TIỆC:
Chúa phán: “Khi ông là khách được mời dự tiệc, hãy tìm chỗ cuối mà ngồi để được chủ mời lên chỗ trên, như thế mới được danh dự trước được mọi người, vì nếu ngược lại thì nhục lắm” (Lc 14,7-11)
Ví dụ trên có ám chỉ:
Khách là Kitô hữu. Tiệc là Hội Thánh.
Chổ cuối là phục vụ như tôi tớ: Chúa Giêsu đã diễn tả cụ thể trong bữa Tiệc Ly khi Ngài rửa chân cho môn đệ.
Được chủ mời lên chỗ cao là sau đời phục vụ cho đến chết như Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa tôn vinh (xem P1.2,6-11).
Như thế qua ví dụ trên, ta rút ra hai điểm của đức khiêm nhường:
1/ KHIÊM NHƯỜNG LÀ KHÔNG TỰ TRANH ĐỊA VỊ CHO MÌNH TRONG HỘI THÁNH:
Đời sống Hội Thánh có nhiều chức năng, nhiều đặc sủng, tuỳ theo Thánh Thần phân định cho từng người. Các chức vụ trong Hội Thánh cũng như các chi thể trong một thân mình (xem I Cr.12). Người Kitô hữu nhận ra ý muốn của Thánh Thần phân định, dựa trên ba cơ sở:
a- Do ý của Bề Trên:
Nhất là khi đặc các thánh chức, các phẩm trật trong Hội Thánh. Vì lãnh vực quyền thánh chức trong Hội Thánh là do Chúa ban xuống qua các Giám mục. Người nào dùng thể lực trần gian để chiếm hữu quyền này, nó mắc tội Simônia. (xem Cv.8,18-24).
b- Do ý của cộng đoàn:
Giáo luật 127 quy định: “Bề Trên cần có sự thoả thuận hay tham khảo ý kiến của công đoàn… Để hành vị có giá trị, cần phải đạt dược sự thoả thuận của đa số tuyệt đối của những người có mặt. Nếu luật đòi hỏi sự tham khảo, thì hành vi sẽ vô hiệu khi Bề Trên không bàn hỏi họ. Tuy rằng Bề Trên không buộc phải nghe theo ý kiến của họ, nhất là khi họ đã phát biểu cách nhất trí, nếu không xét thấy cách khôn ngoan rằng có một lý do mạnh hơn để làm ngược lại”.
c- Nhận thức đúng khả năng của mình:
Vì luôn đặt nhu cầu và quyền lợi của cộng đoàn lên trên, nên cho dù mình có được Bề Trên hay cộng đoàn đề nghị giữ một chức vụ nào đó, thì còn phải thành thật nhìn nhận đúng khả năng của mình, liệu có đáp ứng được sự tin tưởng của Bề Trên và của cộng đoàn hay không? Thành thật và công khai nói về khả năng bất xứng của mình trước nhiệm vụ được giao phó. Rồi để cho Bề Trên và cộng đoàn quyết định, vì Chúa hay dùng sự yếu hèn để tỏ quyền năng và tình thương của Ngài (xem I Cr 1, 19-21).
2/ KHIÊM NHƯỜNG LÀ TỰ TRỞ NÊN NÔ LỆ CHO ĐỒNG LOẠI:
Chúa phán: “Khi dự tiệc, hãy tìm chỗ cuối, để ông chủ đến mời lên chỗ cao trọng”. Không có hình ảnh nào minh hoạ giáo huấn trên cách cụ thể và sống động cho bằng hình ảnh chính Chúa Giêsu trong bàn Tiệc Ly, Ngài đã trỡ nên kẻ nô lệ cho các môn đệ Ngài, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho họ (xem Ga 13).
Thánh Phaolô ghi nhận giá trị tự hạ trên của Chúa Giêsu: “ Ngài phận là phận của một vì Thiên Chúa, song Ngài đã huỷ mình là không, là lĩnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết trên Thập Giá ! Bởi vậy Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài danh hiệu, vượt quá mọi danh hiệu, hầu trước danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy, chốn hoàng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: GIÊSU KITÔ LÀ ĐỨC CHÚA, mà làm vinh quang cho Thiên Chúa Cha”(Pl.2,6-11).
Vậy ta muốn được làm lớn trước mặt Chúa, được làm chủ chiếm hữu được lòng mọi người, ta hãy luôn phục vụ theo con đường Chúa đã sống làm gương cho ta.
KHI TA LÀ CHỦ DỌN TIỆC:
Chúa phán: “Khi ngươi dọn tiệc, đừng cứ mời bạn bè người giàu sang, nhưng hãy mời người tàn tật, què quặt, đui mù…”
Ví dụ thứ hai này, ta lại rút ra được thêm hai điểm về lòng khiêm nhường:
3/ KHIÊM NHƯỜNG LÀ PHỤC VỤ KHÔNG TRÔNG MONG NGƯỜI ĐỜI BÁO ĐỀN:
Bởi vì mời người giàu sang, tất yếu là sẽ theo quy luật “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Mà hòn chì bao giờ cũng nặng hơn hòn đất, và như thế là ta đã thả con tép bắt con tôm”.
Ở đây Chúa dạy: “Mời người nghèo khó”, thì làm sao trông mong họ báo đền, đáp lễ ta? Do đó ta chỉ còn trông mong phần thưởng nơi Chúa khi “người lành sống lại”, tức là được Chúa thưởng bội hậu trong thế giới phục sinh.
4/ ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG PHẢI NHẮM QUY TỤ DÂN TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA:
Hình ảnh khách mời ta đến dự tiệc là “những người tàn tật, què quặt, đui mù” dưới cái nhìn của Luca, không phải chỉ nhắm đến loại người nghèo khó, mà nhắm đến diễn tả: “Muôn dân tộc mời gọi vào hội thánh”. Ý tưởng này đã được diễn tả qua ví dụ: Nước trời giống như vua kia, làm tiệc cưới cho hoàng tử, những khách đã được mời trước (dân Do Thái ) nhất loạt từ chối, cuối cùng chủ ra lệnh cho đầy tớ: “Ra đường nài ép người tàn tật, què quặt, đui mù vào đầy giường tiệc của tôi” (muôn dân dẫn vào hội thánh). (Lc 14, 21).
Như vậy đức khiêm nhường không chỉ là một thái độ sống lịch sự mang giá trị nhân bản mà thôi, nhưng nhất là đức khiêm nhường là một cung cách sống khôn ngoan của người môn đệ Chúa, để quy tụ dân cho Thiên Chúa, làm cho tha nhân được Chúa cứu độ, và như thế là tập hợp vinh quang cho Thiên Chúa.
Nhận định về bốn điểm đặc thù của đức khiêm nhường như trên, ta đọc lại lời thánh Phaolô (bài đọc II) mà phụng vụ đã mượn để kết luận về sống đức khiêm nhường:
-Chúng ta không tiến lại núi Sinai, để học hỏi nơi Chúa cách tỏ uy quyền với người khác, như Chúa đã tỏ cho dân do thái qua các biểu tượng: “Lửa bừng, mây ám, tối tăm, giông tố, loa vang dậy, lời nói gầm thét” làm cho muôn dân sợ hãi tránh né (Dt 12,18-21).
-Trái lại Chúa tiến tới núi Sion, nơi đây ta học với Thiên Chúa bài học phục vụ, trái tim biết yêu, lời nói nhân từ, cánh tay biết chia sẻ, vì nơi đây là thành của thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem Thiên Đàng , cộng đoàn trưởng tử đã đăng sổ bộ trên trời (Dt12, 22-23).
Một số chứng từ sống đức khiêm nhường rất cụ thể:
Địa phận Long Xuyên có hai Giám mục, Đức Cha Ngữ, Giám mục chánh của địa phận, Ngài đã quá tuổi hưu theo giáo luật qui định (75 tuổi), vì sức yếu, Ngài không còn đủ khả năng phục vụ các nhu cầu của địa phận, cho nên mọi việc trong địa phận Ngài trao hết cho giám mục Bùi Tuần, phó địa phận.
Người ngoài thấy vậy tưởng Giám mục phó lấn quyền, nhưng Giám mục chánh trả lời: “Tôi đã già, để cho một mình Đức Cha trẻ làm công việc được thống nhất. Phần tôi, tôi cầu nguyện để cho công việc của Đức phó đạt nhiều kết quả!”
Thật là một tấm gương cha già đầy lòng khiêm tốn, tuy chỗ và việc của Ngài chỉ là ghế quì trước mình thánh Chúa nhưng được mọi người ca tụng, công việc địa phận xuôi chảy, Chúa vinh danh.
Lần kia, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc. Trong bữa tiệc, Người phê bình thái độ của những vị: TN 22-C35
Lần kia, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc. Trong bữa tiệc, Người phê bình thái độ của những vị khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi. Hôm nay Chúa cũng mời chúng ta đến dự tiệc của Người. Người là chủ còn chúng ta là khách. Nơi đây mọi chỗ đều vinh dự như nhau. Chúng ta hãy khiêm tốn đặt mình trước mặt Chúa và nài xin sự tha thứ của Người về những tội lỗi của bản thân ta.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Hc 3,17-18.20.28-29
Đây là lời ca ngợi những con người sống khiêm tốn.
Bài đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a
Tương phản giữa núi Sinai, nơi mà giao ước cũ đã được thiết lập với núi Sion, nền tảng của thành đô Giêrusalem trên trời.
Tin Mừng: Lc 14,1.7-14
Chúa Giêsu nhấn mạnh với những người theo Chúa đừng ham muốn những chỗ vinh dự, và phải luôn luôn hành động với một động cơ vô vị lợi.
***********************
BỊ DÒ XÉT
Đức Giêsu được mời dùng bữa tại nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu. Tuy nhiên, ngay khi vừa bước vào nhà, Người đã cảm nhận một thái độ chỉ trích, lạnh lùng hướng về Người. Đối thủ của Người quan sát từng cử chỉ của Người, hy vọng có thể tìm được điều gì để tố cáo Người. Cũng vậy, chúng ta có thể nhìn người khác với cặp mắt thân thiện, giận dữ hay thờ ơ lãnh đạm.
Khi chúng ta nhìn người khác với cái nhìn thân thiện, điều đó có nghĩa là chúng ta đánh giá tốt về họ từ cái dáng vẻ bên ngoài. Nhưng đó cũng là điều hiếm thấy ! Chúng ta thấy được những điều tốt đẹp từ người đó, và sẵn sàng miễn thứ cho những điều chưa tốt. Chúng ta cởi mở và sẵn sàng để học biết về họ. Bắt gặp được cái nhìn thân thiện, chúng ta cảm thấy dễ chịu, thoải mái, cảm thấy mình được đón tiếp ân cần.
Khi ta nhìn vào người khác với cặp mắt thù địch, điều đó có nghĩa là ngay từ lúc khởi đầu ta đã nghĩ xấu về họ qua dáng vẻ bên ngoài. Chúng ta cố tìm cho ra lỗi lầm của họ và cảm thấy thất vọng nếu không tìm được một lỗi gì nơi họ. Chúng ta không cho họ có cơ hội để biện minh cho chính mình vì chúng ta có định kiến về họ. Ngay cả khi ta không thể tìm ra lầm lỗi trong những điều họ nói hoặc làm, thì ta cũng luôn nhìn với một sự nghi ngờ về động cơ hành động của họ. Chúng ta không sẵn sàng học hỏi điều gì nơi họ vì tâm trí ta luôn chống lại họ và tâm hồn ta đã khép kín. Thật kinh khủng khi chúng ta cảm nhận sự nặng nề từ một cái nhìn ác cảm dành cho chúng ta.
Khi chúng ta nhìn người khác với cặp mắt lãnh đạm, có nghĩa là chúng ta không để ý đến họ cách này hoặc cách khác. Chúng ta có thể thấy sự cố gắng của họ, nỗi buồn của họ và ngay cả những giọt nước mắt, nhưng tất cả chẳng có ý nghĩa gì đối với ta. Chúng ta chẳng quan tâm đến hoặc lo lắng cho họ. Quả thật, chúng ta khó mà thấy họ và dường như họ không hiện diện trước ta.
Ngay khi Chúa Giêsu bước vào nhà, Chúa Giêsu đã bắt gặp những ánh mắt soi mói thù địch. Họ đã có thành kiến về Người và muốn gài bẫy Người. Điều mà họ muốn là tìm ra một chứng cớ mà Người không thể chối cãi được.
Nhiều người hay dò hỏi về những lỗi lầm của người khác nhưng lại lơ đễnh trong việc sửa đổi lỗi lầm của bản thân mình. Thực tế, những mối bận tâm về lỗi lầm của người khác khiến cho ta đui mù với chính lỗi lầm của bản thân mình. Vì thế Chúa Giêsu có thể đảo ngược tình thế với những người Pharisêu. Người cũng quan sát họ mặc dầu với một động cơ khác hẳn họ, và Người nhận thấy những điều mà Người không thích.
Trước hết về phía những khách mời, Người đã phê bình về sự tranh giành tầm thường về chỗ ngồi danh dự. Điều này cho thấy họ đến dự tiệc không phải để tỏ ra sự trân trọng đối với chủ nhà, mà chỉ nhắm đến tìm vinh dự cho chính bản thân.
Thứ đến, Người nói với chủ nhà. Ông ta dường như đã làm một việc quảng đại khi dọn tiệc đãi khách. Nhưng thử hỏi ông đã mời những ai dự tiệc ? Ông mời những bạn chí thân, những người sẽ có dịp đáp lễ mời lại ông. Vậy có gì gọi là rộng lượng ở đây ? Đó chỉ là một cách đầu tư tính toán. Chủ nhà sẽ lấy lại những gì đã cho và với một số lợi hậu hĩnh.
Chúa Giêsu đề nghị rằng nếu ông thực sự muốn làm một việc rộng lượng, ông nên mời những người khách mà có thể họ sẽ không bao giờ có dịp đáp lễ lại. Thực sự cho đi là không đòi hỏi đáp trả.
Đây là những bài học dạy ta quan sát những sự việc. Chúng ta quan sát người khác với cặp mắt nào ? Những người Pharisêu nên nhìn đến chính bản thân và lỗi lầm của mình. Và tất cả chúng ta cũng vậy.
Và đâu là giá trị của những công việc tốt chúng ta làm được ? Những người có đạo có thể lại là những kẻ ích kỷ ghê gớm. Giống như cỏ có thể phá hoại cả một khu vườn, thì sự ích kỷ cũng làm huỷ hoại những chứng nhân Kitô hữu. Trao ban là cốt lõi của Tin Mừng. Giá trị của trao ban là cho đi không vụ lợi.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Thiên Chúa là Đấng luôn trao ban muôn ân sủng tốt lành. Chúng ta hãy nài xin Người thương giúp những nhu cầu thiết yếu của bản thân ta, của Giáo Hội và của thế giới.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu được mọi người nhận biết bởi thái độ khiêm tốn và quảng đại.
Xướng: Cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, không tìm kiếm vinh quang bản thân, nhưng chuyên tâm phục vụ anh chị em.
Xướng: Cầu nguyện cho những kẻ nghèo túng, những người chịu nhiều thiệt thòi, họ là những người bị đặt vào hạng thấp nhất trong xã hội.
Xướng: Cầu nguyện cho chúng ta luôn có được sự bình an trong tâm trí và sự quảng đại trong con tim.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa từ bi, xin đổ tràn trong tim chúng con tình yêu của Chúa. Xin ban cho chúng con ân sủng để nâng chúng con đứng dậy khỏi những yếu đuối của kiếp người, và gìn giữ chúng con luôn trung thành với Tin Mừng của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Thấy vậy mà không phải vậy!” Câu nói ấy có thể ứng vào rất nhiều người trong xã hội và chung quanh: TN 22-C36
“Thấy vậy mà không phải vậy!” Câu nói ấy có thể ứng vào rất nhiều người trong xã hội và chung quanh chúng ta, kể cả những người công giáo là những người được giáo dục “có nói có, không nói không”. Ý nói người ta thường sống “hai mặt” với nhau. Miệng thì anh anh em em ngọt sớt, nhưng lòng thì đầy hiềm khích, ghen tỵ và oán thù! Sống giả nhân giả nghĩa là bệnh muôn thưở, kinh niên và mãn tính của loài người ở mọi thời đại mà tiêu biểu nhất là nơi các thày Pha-ri-sêu của thời Chúa Giê-su. Muốn chữa căn bệnh đặc biệt này thì phải có thuốc đặc trị mà chính Chúa Giê-su đã ra toa, không chỉ cho các thày Pha-ri-sêu mà cho hết mọi người chúng ta: đó là sống khiêm tốn và vị tha trong quan hệ với người xung quanh !
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách Huấn Ca (Hc 3,17-18.20.28-29): 17 Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. 18 Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. 20 Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. 28 Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. 29 Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe. Bác ái đối với người nghèo.
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Do Thái (Dt 12,18-19.22-24): 18 Thưa anh em, anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, 19 có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa,
22 Nhưng anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, 23 dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. 24 Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 14,1.7-14): 1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.
7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: 8 "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
12 Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Hc 3,17-18.20.28-29) là một trích đoạn của Sách Huấn Ca. Đó là lời khuyên nhủ của các bậc cha mẹ đạo đức dành cho con cái về cách sống đẹp lòng Thiên Chúa: “Hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.”
Qua đoạn Sách Hc trên (3,17-18.20.28-29) chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng yêu quý những con người khiêm tốn và được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Vì người khiêm tốn là người sống đúng với giá trị thật của mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người đời.
(2) Bài đọc 2 (Dt 12,18-19.22-24) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô nhằm giúp các tín hữu Do Thái thấu hiểu về đại hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho họ qua Bí Tích Thanh Tẩy . Bí Tích đưa người tín hữu vào thành thánh Giê-ru-sa-lem là triều đình của Thiên Chúa trên trời .
Trong đoạn thư gửi tín hữu Do Thái trên (12,18-19.22-24) chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng cao cả khôn lường và quảng đại vô song . Thiên Chúa yêu thương loài người không sao kể hết ! Điều Thiên Chúa mong đợi ở chúng ta là lòng biết ơn và khiêm hạ !
(3) Bài Tin Mừng (Lc 14,1.7-14) kể lại một trong những lần Chúa Giê-su đi ăn cơm khách tại nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu . Nhóm Pha-ri-sêu là một giai cấp có nhiều đặc quyền, được “ăn trên ngồi trốc” trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ. Chính vì thế mà Lu-ca mới chủ ý làm nổi bật thái độ kẻ cả của những người cùng được mời dự tiệc với Chúa Giê-su . Họ chỉ quan tâm đến việc dòm ngó, phán xét và bắt bẻ Chúa Giê-su thôi. Nhưng Chúa Giê-su cũng chẳng vừa: Người tấn công những người đồng bàn bằng cách cho họ một bài học khiêm nhường và đáp lại lòng “tốt” của chủ nhà bằng một bài học khác, bài học sống vô vị lợi.
Qua Bài Phúc Âm theo Thánh Lu-ca trên (14,1.7-14) chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng rất thẳng thắn, không sợ mất lòng những người xung quanh và tấn công vào chốn thâm sâu nhất của tâm hồn con người. Thái độ và lời nói của Chúa Giê-su để nhằm cứu những người Pha-si-sêu nói chung và ông chủ nhà nói riêng, khỏi căn bệnh sống giả nhân giả nghĩa và vị kỷ để chọn một lối sống khiêm tốn và vị tha làm đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi đích thực cho cuộc sống tôn giáo của họ.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" và “Hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…”
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Mỗi người có thể chọn một trong hai hoặc cả hai sứ điệp của Lời Chúa mà đem vào đời sống trong tuần:
3.1 Sống khiêm tốn trong suy nghĩ, lời nói và hành động: Mọi cái tôi có (sức khỏe, tài năng, thời gian, địa vị hay hoàn cảnh xã hội và của cải) đều do Thiên Chúa ban cho cách trực tiếp hay gián tiếp. Tại sao tôi lại kiêu căng, tự phụ mà không sống khiêm tốn đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho tôi ?
3.2 Sống vị tha trong đời sống gia đình và xã hội: Mọi cái tôi có (sức khỏe, tài năng, thời gian, địa vị hay hoàn cảnh xã hội và của cải) đều do Thiên Chúa ban cho cách trực tiếp hay gián tiếp, không phải chỉ cho riêng tôi mà còn cho những người xung quanh nữa ! Tại sao tôi lại sống ích kỷ, vụ lợi mà không sống vị tha và quảng đại đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho tha nhân ? IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã giao cho mỗi người chúng con một công việc, một trách nhiệm trong gia đình, xã hội và Giáo hội. Xin Chúa ban ơn trợ giúp chúng con hoàn thành công việc ấy cách khiêm tốn, nhã nhặn như Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã thiết tập Giáo hội làm dấu chứng và công cụ xây dựng Nước Trời. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con, nhất là các người lãnh đạo Giáo hội, biết sống khiêm tốn và tự hạ như Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa chỉ yêu quý và đề cao những người biết hạ mình xuống. Xin Chúa giúp chúng con học thuộc bài học tự hạ, tự hủy trong Cuộc Khổ nạn Thập giá của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 “Khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù." Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa muốn chúng con sống tinh thần của Đạo Chúa là quảng đại và vị tha với hết mọi người, nhất là với những người bị thiệt thòi trong xã hội. Xin Chúa giúp chúng con biết sống theo gương Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã ưu tiên thương yêu, chăm sóc và bênh vực những người bất hạnh.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Houston (TX/USA) 20.08.2007.
Rồi Chúa Giêsu nói…”. Tiếng ‘rồi’ đưa vào một bài học thứ hai thường bị che giấu bởi vì: TN 22-C37
“Rồi Chúa Giêsu nói…”. Tiếng ‘rồi’ đưa vào một bài học thứ hai thường bị che giấu bởi vì người ta không thích theo dõi lắm.
Được mời dự một bữa tiệc xa hoa, được chuẩn bị kỹ lưỡng cho tới cả những chỗ ngồi nơi bàn tiệc, Chúa Giêsu quan sát, nói đùa và lưu ý sắc bén đến quyền ngồi trên: “Chớ ngồi chỗ cao nhất”.
Bữa tiệc tiếp tục, Chúa Giêsu buồn phiền và không có gì tốt hơn nên Ngài tiếp tục quan sát. Người ta ở vào số những người ‘lành’, Ngài hơi ngột ngạt trong cái thế giới quá được chọn lựa này. Đâu là những người không được yêu thương mà Ngài luôn luôn lo lắng đến? Ngài đưa ra một ý tưởng chấn động: “Khi muốn tổ chức một bữa ăn ngon, ngươi đừng nghĩ đến người bạn này, người bà con nọ hoặc người láng giềng kia làm bạn quan tâm. Tốt là ngươi hãy mỡi những người nghèo, những kẻ tàn tật”.
Đây là điều khó nuốt. Bạn thấy mình đang xáo trộn việc mời khác theo kiểu này phải không? Nhưng điều tiếp theo có lẽ còn khó chịu hơn nữa: “Ngươi sẽ được trả công trên trời”. Nào tốt lắm! Đây cũng vẫn là đức tính khéo léo. Lời khuyên vào đầu bữa tiệc là: “Hãy chọn chỗ thấp, người ta sẽ mời ngươi lên trên”. Bây giờ là tới tư tưởng mới: “Ngươi hãy mời những người không có khả năng đáp lễ, họ sẽ nhờ Chúa trả công cho ngươi”. Đây là những lời khuyên lạ lùng.
Họ yêu cầu được lắng nghe trong một ánh sáng nào đó: đối với Chúa Giêsu, bữa tiệc luôn luôn là một biểu tượng của cuộc sống với Thiên Chúa. Ở đây, Chúa Giêsu khởi đi từ hai thái độ rất con người. Đây là những phản xạ của người được mời: “Miễn là tôi không ngồi ở cuối bàn… Người ta có đặt tôi ngồi bên phải ông chủ tịch hay không? … “Và đây là những phản xạ của người mời: tổ chức những bữa tiệc hấp dẫn và có ích.
Nhưng trong khi rút chúng ta ra khỏi những lo lắng của chúng ta, Chúa Giêsu đột ngột khai mở cho chúng ta ý nghĩ có thể có trong đó: Khi ngươi hành động như vậy, ngươi là người nào trước mặt Thiên Chúa?
Bạn lo lắng đến việc xã hội đánh giá bạn, bạn đo lường sự đánh giá đó và hơi băn khoăn đối với việc người ta tiếp đón bạn trong các buổi tiếp tân. Không phải loại bỏ cũng như phóng đại điều đó, đó không phải là điều quan trọng. Bạn hãy đi xa hơn nữa! Cho đến giá trị của bạn trước mặt Thiên Chúa. Chính việc bạn là như thế nào trước mặt Ngài với một ngày kia tạo nên giá trị thực và quyết định của bạn. Đây là điều sẽ được tất cả mọi người ca ngợi hoặc xét như là điều tệ hại nhất trong các điều thất bại.
Và những bữa tiệc trứ danh, những lo lắng của bạn về những khách mời thì sao? Tôi đã làm bạn hơi xúc động khi nói bạn đừng mời những người bạn quan tâm. Đó là để bạn nới lỏng những lãnh vực có ích và thân thiết với bạn để nhìn vào tâm lòng của bạn là người mời dự tiệc. Đứng trước tâm lòng của Thiên Chúa! Đôi khi bạn có mời một cách trong sáng, chỉ với ý tưởng làm cho một người được hạnh phúc hay không? Người hạnh phúc đó sẽ không đáp lễ bạn gì cả.
Cái được thua là rất to lớn, phải đọc kỹ những lời cuối cùng này: “Ngươi sẽ được hạnh phúc. Và ngươi sẽ được báo đáp trong cuộc sống vĩnh cửu”. Chúa Giêsu đi ngay đến kết quả cuối cùng, nhưng “ngươi sẽ được hạnh phúc” là một hạnh phúc tức khắc: ngươi hạnh phúc vì mời những người như thế. Một ngày kia bạn sẽ được ngồi cùng bàn với Thiên Chúa bởi vì ngay từ bây giờ, bàn tiệc của ngươi là bàn tiệc của Thiên Chúa.
Do đó đây không phải là việc mời gọi người khuyết tật cô đơn này hoặc bà quả phụ kia để chiếm được một chỗ tốt trên thiên đàng. Phải, và đây là điều khó khăn khác, là người bình thường thực hiện những cử chỉ đó đến độ người ta có thể nói chúng ta: “Tại nhà người ấy, người ta cảm thấy như tại nhà của Chúa”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào? 2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi? 3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa? 4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
Trao ban là tâm điểm của Tin Mừng và là một trong những bản chất của đời sống Kitô giáo. Nhưng TN 22-C38
Trao ban là tâm điểm của Tin Mừng và là một trong những bản chất của đời sống Kitô giáo. Nhưng không hẳn mọi hành động trao ban đều chân thật.
Nicholas là một người có tiếng tốt về lòng quảng đại, ông chết và lên Thiên Đàng. Thánh Phêrô gặp ông tại cổng và cho ông xem hai đống vàng, một đống nhỏ và một đống lớn, toàn là những thỏi vàng đủ kích cỡ.
“Cái gì thế ?”, Nicholas hỏi.
“Đây là những hành động mà con đã làm trên thế gian, mỗi thỏi vàng tượng trưng cho một hành động.”
Tâm hồn Nicholas tràn ngập niềm hãnh diện, nhưng sau đó thánh Phêrô nói: “Than ôi, không phải lúc nào hành động trao ban cũng đều chân thật. Có rất nhiều lần nó đồng nghĩa với tư lợi. Vì thế chúng ta phải làm một cuộc kiểm tra về những hành động trao ban của con. Bởi thế, những thỏi vàng ở đống vàng lớn không được tính.”
“Vì sao thế ?”, Nicholas hỏi.
“Nó tượng trưng cho tất cả những món quà mà con đã trao tặng bạn bè, họ hàng, những người bạn chí thân ... Chúng không tạo thành vàng thực sự. Ngay cả những kẻ cướp cũng đối xử tốt với những người thân thiết như thế.”
Và rồi cả đống vàng lớn trở thành bụi đất. Thánh Phêrô lấy một cái sàng có mắt lưới lớn và đổ những thỏi vàng ở đống vàng nhỏ vào. Sau khi sàng, chỉ còn có những thỏi vàng lớn nhất còn lại trên sàng.
“Ngài làm gì vậy ?”, Nicholas hỏi.
“Ta đang loại bỏ những quà tặng mà con cho với mục đích được tặng trở lại. Những việc đó giống như một thứ đầu tư. Con sẽ nhận được lại và đôi khi còn có được lợi nhuận hậu hĩ.”
Và thánh Phêrô để những thỏi vàng đó qua một bên, chúng trở nên bụi đất. Sau đó ngài lấy một cái sàng với mắt lưới nhỏ hơn và để những thỏi vàng còn lại vào. Một lần nữa, ngài sàng và để qua một bên những thỏi vàng còn lại trên sàng.
“Những thỏi vàng đó là gì ?”, Nicholas hỏi.
“Ta đang lấy đi những hành động tốt mà con đã làm để nhận lại được sự khen ngợi từ người khác. Con người có thể làm cho mình trở nên thần tượng bằng cách ban phát cho người khác.”
Thánh Phêrô dùng một cái sàng với những mắt lưới khít hơn và đặt những thỏi vàng còn lại vào đó. Khi làm việc đó, ngài nói: “Bây giờ ta lấy đi những hành động tốt mà con làm đơn giản chỉ vì con muốn có được cảm giác thoải mái từ công việc đó.”
Nicholas nhìn thánh Phêrô sàng những thỏi vàng và nhận ra rằng những thỏi vàng còn lại trên sàng cũng trở nên bụi đất. Một lần nữa, thánh Phêrô gom tất cả những thỏi vàng sót lại và bỏ vào một cái sàng còn khít hơn.
“Giờ thì sao nào ?”, Nicholas hỏi.
“Bây giờ ta sẽ sàng lọc những việc mà con đã làm chỉ vì bổn phận.”
Ngài sàng và lại để một bên những thỏi vàng sót lại trên sàng. Cùng số phận với những thỏi vàng trước, chúng biến thành bụi đất.
“Xin dừng lại !”, Nicholas la lên. “Nếu ngài cứ làm như thế này thì sẽ chẳng còn thỏi vàng nào cả, và làm sao tôi có thể kiếm được hộ chiếu lên Thiên Đàng được ?”
“Chúng ta phải tiếp tục”, thánh Phêrô nói. “Chúng ta nên nhìn lại giá trị thực của việc con ban tặng. Và đâu là những gì con đã ban tặng đơn thuần chỉ vì con cảm thấy người nhận xứng đáng nhận được món quà đó ?”
Nhưng Nicholas đáng thương đã không còn lắng nghe nữa. “Thật là một cảm giác khủng khiếp khi mình đã có vàng trong tầm tay và sau đó bị lấy đi trước mắt”, ông ta kêu lên.
Thánh Phêrô tiếp lời: “À, Nicholas này, việc trao ban một cách vô vị lợi thì rất hiếm giống như vàng ròng vậy. Cho mà không mong đợi một sự đáp trả nào, ngay cả những phần thưởng Nước Trời, thái độ đó mới là trao ban đích thực. Nhưng hãy vui lên, ta có tin vui cho con đây.”
“Đó là tin vui gì ?”, Nicholas hỏi.
“Thiên Chúa là Đấng trao ban vĩ đại nhất. Hành động trao ban của Người có giá trị như vàng ròng. Nhưng chúng ta nói chuyện nhiêu đó đã đủ rồi. Bây giờ đã đến lúc đi gặp Chúa.”
“Nhưng tôi chỉ có đôi bàn tay trắng”, Nicholas kêu lên.
“Có nghĩa con là một người nghèo”, thánh Phêrô trả lời: “Nhưng đừng bao giờ sợ hãi. Chúa rộng lượng với những ai nghèo khó và với những ai không xấu hổ khi thú nhận điều đó. Nào, chúng ta đi.”
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả hai nét trong tính chất đặc trưng Kitô giáo là khiêm hạ và bất: TN 22-C39
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả hai nét trong tính chất đặc trưng Kitô giáo là khiêm hạ và bất vụ lợi. Những bộ óc rất cao siêu có thể đưa ra những lời khuyên tương tự, nhưng họ luôn luôn thiếu kinh nghiệm sống của một người từng sống như Đức Kitô. Vì thế muốn đọc bài Phúc Âm hôm nay với một tâm tình thích hợp, phải nhờ gương mẫu Đức Kitô soi sáng cho. Chúng ta suy niệm vắn tắt về đức khiêm hạ và đức bất vụ lợi của Chúa Giêsu.
1) Đức khiêm hạ của Chúa
Một trong những nét chung của mọi tham vọng con người là lòng ham muốn giàu sang, quyền thế, xác định cá tính, thành đạt. Ham muốn đó thường kéo theo những thái độ mập mờ, đi tới bất công, hà khắc, khoe khoang, người ta chấp nhận tất cả miễn là thành công. Đức Giêsu tự đặt mình ở phía đối lập cái triết lý phàm tục ấy. Chúa khiêm hạ, không phải vì quan niệm triết lý hoăc vì nhu nhược, đơn giản chỉ vì bản tính Chúa khiêm hạ. Chúa không phô trương một lý tưởng nhân loại, nhưng Người muốn ở trong sự thật đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Cái thước so sánh của Người, dưới thế này không có, vì nó là nhãn quan của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là AI? Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu biểu lộ tình yêu khi Người nhập thể để gặp nhân loại. Người ta có thể nói đến sự hạ mình, nhưng thật ra đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm cỡ con người. Khiêm hạ là một trong những bộ mặt tình yêu. Thiên Chúa ở bên trên con người, ở tầm cao vô cùng, nhưng vì Người là tình yêu cho nên Người mặc lấy kích thước con người, đối thoại với con người. Vì vậy Đức Giêsu, Người-Chúa, xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật, Chúa khinh chê sự kết thân với kẻ giàu mạnh. Trái lại Chúa quan tâm chiếu cố những kẻ nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ. Kitô hữu cũng vậy, phải quan tâm chiếu cố những bạn bè quen thuộc, nhất là không được quên rằng căn bản mọi sự khiêm hạ là tôn trọng nhân vị kẻ khác.
2) Đức bất vụ lợi của Chúa
Sự khiêm hạ đích thật khiến người ta tôn trọng bất cứ ai với một tâm tình bất vụ lợi. Lòng đại lượng của Thiên Chúa không đòi hỏi có đi phải có lại. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đền đáp. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Chúa đưa ra dụ ngôn ấy vì chính Người xử sự như vậy. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc Thiên Chúa mời tất cả mọi người không phân biệt, nhất là những kẻ nghèo, vì nghèo mới dễ dàng nhận lời mời gọi. Về mặt thiêng liêng, kẻ nghèo là kẻ không khoe khoang kiến thức, đức hạnh, hoặc bất cứ một ưu điểm nào khác trước mặt Thiên Chúa. Họ biết rõ thân phận mình, nhận ân huệ của Thiên Chúa mà chẳng có gì để dâng hiến Thiên Chúa. Con người càng nhận dễ dàng bao nhiêu, Thiên Chúa càng tỏ ra rộng rãi và bất vụ lợi bấy nhiêu. Chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng đón nhận ân huệ, chúng ta cũng có bổn phận san sẻ cho kẻ khác một cách rộng rãi, và không vị lợi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất hậu và nhưng không. Chúng ta hãy san sẻ ưu tiên cho kẻ nào không có gì tặng lại chúng ta, nghĩa là chúng ta phải rộng rãi vì tình thương không vị lợi, vì tôn trọng nhân phẩm kẻ khác.
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Hãy vào ngồi chỗ cuối”, chính Người đã làm gương, Người tự làm: TN 22-C40
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Hãy vào ngồi chỗ cuối”, chính Người đã làm gương, Người tự làm người nghèo khó với những người nghèo khó.
Không phải chỉ là những lời khuyên bảo về thuật xử thế mà Chúa Giêsu nêu ra, chính là một lời cảnh cáo về những điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.
Trước hết phải gạt bỏ tất cả tính tham vọng và lòng muốn hơn kẻ khác, để làm người nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa, là Đấng tôn lên những kẻ khiêm nhường và hạ xuống những kẻ kiêu ngạo.
Rồi, như Đức Giêsu, phải hết sức lưu ý đến những người nghèo khổ và yêu mến họ, bởi vì họ không có gì để trả lễ.
Tình yêu nhưng không và vô vị lợi này sẽ được thưởng ngày sống lại.
Sống không tham vọng và hoàn toàn vô vị lợi, đó là phương thế chắc chắn chinh phục được lòng Thiên Chúa và lòng người ta.
Ngồi vào chỗ cuối với hy vọng thầm kín được mời lên chỗ nhất, đó là sự giả dối phải không?
Muốn biết điều đó, phải chọn chỗ cuối và nhất quyết ở lại chỗ đó.
Bây giờ chúng ta sẽ nhận thấy phải có cái gì hơn là sự giả hình để ở lại đó, phải có tình thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Con của Chúa đã không ngần ngại chọn chỗ cuối, chỗ mà không ai ưa thích.
Người đã đứng về phía người nghèo và người khiêm tốn. Nhờ Người và nhờ ơn Thánh Thần, chúng con biết Chúa vô cùng quyền phép: ban ơn và tha thứ.
Tại bàn tiệc Nước Trời, những chỗ danh dự được dành cho những kẻ bé mọn.
Một học giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên: TN 22-C41
Một học giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên Trung Quốc. Cầu thang này là giai đoạn cuối cùng của con đường leo lên núi hành hương, vì đã hơn cả 1000 năm dòng người hành hương đã làm những bậc cầu thang bị mòn và thậm chí nguy hiểm.
Trên thực tế, đã có rất nhiều người hành hương bị trợt té và bị tai nạn. Những người ở trong vùng đã đề nghị các vị tăng ni ở đó nên sửa chữa lại những bậc cầu thang, vì e rằng họ có thể bị mất khách hành hương và đó cũng là nguồn trợ cấp cho thiền viện. Nhưng vị sư chủ trì đã từ chối và nói rằng, thật đáng tiếc cho những khách hành hương bị tai nạn, nhưng điều này có thể là vì họ ngẩng đầu quá cao. Tuy nhiên, họ chỉ là số ít trong số những cả triệu người nhận biết rằng, trong cuộc sống người ta phải bước đi cẩn thận. Ngẩng đầu cao nhưng không quá cao không đến nỗi không thấy cái hố cao trước mặt.
Chương 14 Tin Mừng thánh Luca đã đưa vào vài câu chuyện và lời dạy của Chúa Giêsu, đặc biệt trong đoạn văn nói về tiệc cưới. Chúa Giêsu không lạm dụng sự quảng đại của chủ nhà mà lấy lời giảng dạy để chỉ trích họ, nhưng thánh Luca đã biến bữa ăn thành cơ hội để Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ thích hợp đối với bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta là dân của Ngài.
Như thế, chúng ta phải đón tiếp nước Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta như thế nào? Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy những người thích chọn chỗ vinh dự nơi bàn tiệc. Không nên làm như vậy, mặc dù mình là nhân vật quan trọng, kẻo phải nhường lại chỗ đã chọn cho những khách đặc biệt khác quan trọng hơn mình, lúc đó mình sẽ bị xấu hổ.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để phá đổ sự kiêu căng lố bịch và dạy một bài học về khiêm tốn. Ngài đã tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Và ngay trong bài đọc I sách Huấn Ca cũng đã khuyên nhủ: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa. Càng làm lớn con càng phải hạ mình khiêm tốn trong mọi sự thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Hình như lòng khiêm tốn không còn chỗ đứng trong một xã hội đầy cạnh tranh gay gắt, và xem ra khiêm tốn chỉ là một thứ mặt nạ để người ta chú ý đến mình nhiều hơn. Điều này rất dễ được nhận thấy khi được người ta khen ngợi và ca tụng. Nhưng trái lại, khiêm tốn Kitô hữu đích thực là chân thành nhìn nhận tình trạng thực tế trong thân phận của chính mình trước mặt người khác và trước mặt Thiên Chúa, qua một thân phận yếu kém và bất toàn, một thân phận yếu đuối và cả tội lỗi nữa. Một khi chân thành biết sự giới hạn của mình thì càng trở nên khiêm tốn hơn và đón nhận tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn.
Trong câu chuyện hai người vào đền thờ cầu nguyện, một người kể công và khoe khoang những việc mình làm, và một người đứng xa xa chỉ biết đấm ngực xin Chúa thương xót, Chúa đã chiếu cố đến người khiêm tốn này. Khiêm tốn là bài học đầu tiên cho lòng hối cải và sự tha thứ. Khiêm tốn là cửa ngõ để ta bắt đầu bước vào nhìn nhận và thông cảm với anh chị em xung quanh chúng ta. Và khiêm tốn chính là chỗ ngồi trong bàn tiệc cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người.
Trong tu đức, trái ngược với khiêm tốn là kiêu ngạo và người ta xếp kiêu ngạo vào hàng thứ nhất của bảy mối tội đầu. Thánh Augustinô cũng đã dạy rằng: “Trước tiên con phải có lòng khiêm tốn, nếu không, dù có làm việc đạo đức tốt lành đi nữa thì chính tính kiêu ngạo cũng xen vào làm cho hư mất”.
Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương để noi theo học tập, và sau bài học yêu thương đó là bài học khiêm tốn: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Hãy ngẩng đầu để thấy trời cao đẹp đẽ và đầy hy vọng, nhưng cũng hãy nhìn xuống đất để biết đôi chân của mình đang đi mà vững bước trên đường. Hãy yêu thương để sống quảng đại và hãy khiêm tốn để sống biết đón nhận, đó là thái độ của người Kitô hữu chúng ta. Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
Thánh Luca không tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với: TN 22-C42
Thánh Luca không tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình. Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa tỉ mỉ bằng một bữa tiệc ngày sabat tại nhà một người biệt phái. Thánh Luca thấy Chúa tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của họ, và Ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ mệnh của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để đưa ra những sứ điệp cần thiết. Giọng điệu của Ngài ở đây nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang ở giữa những kẻ mà bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài. Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.
Khi thấy khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “Hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho”, thì không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Ngài cũng lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu, kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Qua đoạn Kinh Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.
Về khiêm nhường
Chúa Giêsu đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem đến vinh dự.
Khiêm nhường vốn là một trong những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để nghĩ rằng bài của mình có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức tân Giáo Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phêrô, toàn dân nhiệt liệt chào mừng “Viva Papa”. Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt ngài ngấn lệ: “Đừng hoan hô người đầy tớ trong nhà ông chủ”. Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể dành cho ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được sự khiêm tốn:
1) Chúng ta có thể giữ được mình khiêm nhường bằng sự nhận biết thực tế. Dầu chúng ta biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu, cuộc đời và công việc vẫn cứ tiến hành như trước kia.
2) Chúng ta có thể giữ đức khiêm nhường bằng cách so sánh chính mình với những người toàn vẹn. Khi chúng ta đã đi đây đi đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. “Ở nhà nhất mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn ta”. Nhiều người không có ý được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn. Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.
Và nếu chúng ta đem đặt đời mình bên cạnh đời sống của Chúa Giêsu vô cùng thánh thiện, và nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.
Ngài dạy chúng ta về lòng bác ái.
Đối chiếu với Lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý do ẩn đàng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.
1) Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
2) Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
3) Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban ơn đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người nhận ơn. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
4) Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
Phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ …”. Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả: TN 22-C43
“Phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra thật đơn giản, nhưng trong thực tế ai trong chúng ta cũng phải nhận đức khiêm nhường là một nhân đức phức tạp khó lường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật. Sau khi đã sáng chế ra điện tính, ông Samuel đã lãnh nhận được rất nhiều giải thưởng, nhưng ông luôn cho mình bất xứng với những lời khen tặng đó, ông đã nói: “Tôi được hân hạnh đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này cho nhân loại, nên khi đã đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài đã thương bày tỏ cho tôi”.
Biết nhìn nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban chứ không phải do công lao tài ba của mình, đó mới là người khiêm nhường. Chính vì vậy, khi được lãnh nhận ân phúc Chúa ban, họ luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng trong thế giới này có nhiều người dù được lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, nhưng lại lợi dụng ân phúc của Chúa để kéo những danh dự về cho mình.
Chuyện kể rằng, tại một sở thú nọ, trong khi một con công đang từ từ xòe đuôi, giương cánh ra vẻ oai phong xinh đẹp của nó cho mọi người thưởng thức, thì có một con vịt già từ đâu lệ khệ bước đến, trong phút chốc, con công trở nên hung bạo, dữ tợn đánh đuổi con vịt đi. Con vịt trở lại hồ nước và bơi lội nhẹ nhàng uyển chuyển trên nước, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người.
Người tự kiêu cũng tương tự như thế, không những không biết ơn Chúa ban mà còn dùng ơn Chúa ban để coi thường kẻ khác. Cũng có những người bề ngoài tỏ ra khiêm nhường, nhưng trong lòng lại chẳng khiêm nhường chút nào. Bác sĩ Henry thường bị các bạn chỉ trích vì tính kiêu kỳ của ông. Để giúp ông sống khiêm nhu hơn, họ đề nghị ông ra đường, trước ngực có đeo tấm bảng có ghi một câu Kinh thánh và lớn tiếng đọc Phúc âm cho những người chung quanh nghe.
Sau một buổi trên đường phố, ông trở về với vẻ mặt kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi dám cá với các ông là không ai trong thành phố này dám làm như tôi đã làm”. Cũng có người bề ngoài nói rằng mình không xứng đáng, đáng mọi người ghét bỏ, nhưng nếu bị người khác đối xử đúng như lời họ nói thì họ lại tức giận khó chịu. Có những người cố tình lẩn tránh để bắt kẻ khác tìm kiếm, mời mọc mới chịu xuất đầu lộ diện.
Khiêm nhường là sự thật, nên trong đức khiêm nhường không thể có những sự giả hình, giả tạo như vậy. Vì vậy, cho dù Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết, để khi được mời lên chỗ cao hơn thì sẽ được vinh dự trước mặt mọi người”. Nếu người đó làm như vậy với ước mong là sẽ được vinh dự trước mặt mọi người, thì đó cũng chẳng phải là khiêm nhường thật. Đức khiêm nhường thật phải xuất phát từ một tâm hồn nhìn nhận sự thật. Chúng ta có một mẫu gương trọn vẹn là Chúa Giêsu. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nhận thân phận của một người bình thường, sống giữa những người bình thường. Chúa đã tuân theo những định luật của người Rôma, những chỉ thị của những người làm đầu trong dân và Chúa đã vâng lời cho đến chết. Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ. Gương khiêm nhường của Chúa là một mẫu gương đáng chúng ta noi gương bắt chước trong cuộc sống hằng ngày.
Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết: TN 22-C44
Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!
Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sống như Ngài muốn con sống, suốt một đời yêu thương phục vụ, hầu cho người đời nhận biết rằng chỉ có Chúa là Thiên Chúa thật của tình yêu thương.
Khiêm nhường, giản dị là con đường nhỏ bé của các người con Chúa để tiến đến Nước trời: TN 22-C45
Khiêm nhường, giản dị là con đường nhỏ bé của các người con Chúa để tiến đến Nước trời, làm bạn hữu với Thượng đế, Đức Ki-tô, các thiên thần và các thánh (Bài đọc 1 và Tin Mừng). Vẻ lộng lẫy của Cựu ước nhường bước cho lòng cậy trông đơn thành của Tân ước, đóng ấn bằng máu Đức Ki-tô (Bài đọc 2).
Quả là điều lạ, bài Tin Mừng hôm nay lại liên quan đến Bí tích Thánh Thể, bữa tiệc cánh chung. Bởi lẽ Chúa Giêsu nói: “Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được thưởng công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Thực ra thánh Luca luôn liên kết các bữa ăn trong Tin Mừng với Phép Thánh Thể, Tiệc cánh chung. Vậy hôm nay chúng ta tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về tư tưởng này.
Trước hết, xin đưa ra vài điều nhận xét: Xưa nay người tín hữu thường tách rời Bí tích Thánh Thể ra khỏi các biến cố khác của Tin Mừng và sứ vụ của Chúa Giêsu. Điều này không đúng, cần chỉnh lại. Lời lẽ và hành động của Chúa Giêsu trong Bữa tiệc ly phản ánh toàn thể những gì Người đã dạy dỗ và thực hiện. Và trong phụng vụ cũng vậy, chúng ta cũng phạm một lỗi tương tự. Hồi còn nhỏ tôi được dạy rằng xem lễ mà đi chậm đến phần dâng lễ vật vẫn chu toàn bổn phận. Người khác lại bảo lúc rửa tay mới là ranh giới mất lễ! Người khác nữa đưa ra ý kiến xem bù đến phần ấy thôi! Chao ôi kiểu cách giữ đạo “kinh tế”! Thế thì Lời Chúa không quan trọng lắm sao? Hoặc Lời Chúa có thể tách rời khỏi Thánh Thể? Hay Thánh Thể chẳng liên quan gì với sứ điệp của Tin Mừng? Tới thời kỳ Công đồng Vatican II, các thế hệ trẻ được dạy dỗ đầy đủ hơn. Nhưng não trạng cũ vẫn còn đó đây. Người ta đi dâng lễ đúng thời gian linh mục bước lên bàn thờ, và ra về lúc chủ tế bắt đầu cho rước lễ. Các cụm từ “đạo gốc” (cây), đạo dòng (đi), đạo núp (xe) rất phổ thông trong giới trẻ ngày nay. Nguyên do cũng là tại chúng ta quan niệm Bữa cuối cùng của Chúa Giêsu cắt ra khỏi lời nói, việc làm, sự chết và sống lại của Ngài!
Giáo Hội tiên khởi nhìn Bí tích Thánh Thể là một phần trọn vẹn của Tin Mừng. Họ cử hành Thánh Thể trong bữa ăn, sau khi nghe đọc Lời Chúa. Đến thời Trung cổ có một sự thay đổi. Lý do là việc tranh cãi vấn đề sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Cuộc đấu khẩu này kéo dài nhiều năm, kết quả là Hội Thánh nhấn mạnh về điều Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly và coi nhẹ giáo huấn cũng như các việc khác của Ngài trong suốt tiến trình thi hành sứ vụ. Hội Thánh tập trung quan trọng vào lời truyền phép: “Này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Công thức trở nên trang trọng và đơn độc. Tuy nhiên, các tác giả viết về Kinh thánh, như Eugene la Verdiere dạy rằng trước khi Phúc Âm được viết thành văn, thì đã được các môn đệ của Chúa Giêsu sống và truyền tụng. Những việc làm của họ như giảng dạy, chữa lành, hoà giải đã biểu lộ nội dung Tin Mừng. Như vậy Phúc Âm đã được loan báo trong khung cảnh Thánh Thể như thánh Phaolô viết: “Chúng tôi loan truyền việc Chúa chịu chết, cho đến khi Ngài lại đến” (I Cr 11,26). Thánh Luca chú ý đặc biệt đến ý nghĩa của Thánh Thể. Tác giả La Verdière nói rằng Luca đã trình bày Tin Mừng của ông trong một kiểu cách làm cho Thánh Thể không thể rời khỏi sứ điệp Tin Mừng. Thánh sử thực hiện điều này bằng cách dàn dựng câu truyện Phúc Âm thành một cuộc hành trình lớn lên Giêrusalem. Trên đường đi, các bữa ăn, lòng hiếu khách, viễn tượng Nước trời, giữ vị trí quan trọng đối với Chúa Giêsu và các kẻ đồng hành. Các môn đệ là những người nhận lãnh sự tử tế, yêu thương và nhân hậu của Chúa. Họ nghiêng mình đồng bàn với Ngài. Cho nên họ phải giống như Ngài ban lại những tình cảm đó cho người khác nhất là những kẻ chịu thiệt thòi trong xã hội như nghèo đói, bần cùng, ngoài lề, bệnh tật, chịu áp bức bất công… Bữa ăn trong Phúc Âm Luca, hoặc là ăn thật, hoặc là chỉ đề cập đến trong lời giảng của Chúa Giêsu, đều hướng về Thánh Thể, ngược lại, Thánh Thể hướng về nội dung Phúc Âm, những biến cố trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, đau khổ, tử nạn và phục sinh. Cho nên Tin Mừng Luca kể lại câu truyện của Chúa Giêsu và những kẻ theo chân ngài, nam phụ lão ấu trên con đường tiến về Thiên Chúa với Ngài. Suốt cuộc hành trình dài ngày này, những mạc khải có ý nghĩa đều đã xảy ra ở các bữa ăn hoặc khi Ngài nói về tiệc tùng.
Tới đây chắc hẳn quý vị đoán ra hướng đi của bài suy niệm này, phải không? Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu được một ông Pharisêu mời vào nhà ăn tiệc mừng ngày Sabbath. Người Do thái có tục lệ như vậy. Đang khi ăn người ta dò xét Ngài. Ngài dạy họ một dụ ngôn về bữa ăn và chỉ dẫn chủ nhà nên mời những ai. Như trên đã nói, thánh Luca luôn liên kết các bữa ăn với bí tích tình yêu và vì vậy lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay cũng cảnh giác chúng ta về điều thánh sử luôn có ý khuyên bảo cộng đồng của ông. Xin nhớ lại Tin Mừng tuần vừa qua. Nó đi trước tuần này và sửa soạn khung cảnh cho tuần này. Người ta hỏi Chúa, kẻ được cứu thoát thì ít, phải không? Ngài trả lời: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào. Vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Nghĩa là khi Chúa trở lại, không phải những ai đã từng ăn uống với Ngài là được cứu rỗi. Họ phải thi hành nhiều hơn nữa (13,26). Ngoài ra, ngày cánh chung, bữa tiệc Nước trời sẽ bao gồm các khách kỳ lạ. Họ từ “đông sang tây, từ nam chí bắc” tới (13,29). Chúa Nhật này, chúng ta sẽ được biết thêm Thiên Chúa sẽ tặng ban cho chúng ta điều gì qua Đức Ki-tô và đòi hỏi những gì nơi những ai tụ họp quanh bàn tiệc Thánh Thể.
Trong nhà ông Pharisêu, Chúa Giêsu quan sát thấy người ta xô đẩy nhau tìm chỗ nhất, tranh nhau lấy nơi danh dự, bất kể thuộc thành phần nào, tương tự như chúng ta ngày nay trong các tiệc tùng đình đám. Chẳng thế mà các cụ đã đặt ra câu ca dao: Một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp. Có những cuộc cãi vã ghê gớm, thù hận suốt đời vì một miếng ăn nơi công cộng. Một vị linh mục bỏ ra về, vì chủ nhà không xếp đúng chỗ danh dự. Hoặc mắng mỏ người ta vì không gọi theo tên, theo chức vụ. Than ôi, kẻ vỗ ngực làm môn đệ Chúa! Bữa ăn ngày Sabbath là tục lệ trung tâm trong đời sống đạo Do thái. Ngày Sabbath có nhiều ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa chính yếu là dân chúng nhớ đến công việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Ngài truyền rằng ngày thứ bảy trong tuần là ngày nghỉ khỏi mọi lao động nô lệ và là ngày thánh. Sách Đệ nhị luật còn thêm: Ngày Sabbath cư dân phải tỏ lòng liên đới với những kẻ khốn cùng, đang chịu đau khổ vì bất cứ lý do nào. Thí dụ các nô lệ phải được tha khỏi công việc nặng nhọc và nghỉ ngơi: “Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã dang cánh tay mạnh mẽ, uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi cử hành ngày Sabbath” (5,15). Đúng, giống như các dân tộc chung quanh, Israel cũng có nô lệ, nhưng họ phải đối xử với họ bằng thương cảm và vì vậy nô lệ cũng phải được nghỉ việc ngày Sabbath. Đức Ki-tô ở bữa ăn đã tỏ ra rất trung thành với tinh thần truyền thống. Người ki-tô hữu sẽ có lỗi khi hạ cấp việc người Do thái giữ ngày Sabbath thành hoàn toàn vụ luật bề ngoài. Sự thật, mọi tôn giáo đều có tệ nạn này: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm” hoặc “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Trong xã hội tân tiến, mọi sự đều vội vã xô bồ, thiên hạ làm nô lệ cho tiền bạc, chức vị, công việc. Chúng ta đang thần thánh hoá quá mức Măm mon, thì một chút nghỉ ngơi ngày thứ bảy là đúng lý. Cho nên, phong tục hưu lễ của Do thái giáo mang lại lợi ích cho nhân loại về thể xác cũng như tinh thần rất nhiều. Bắt chước được vài lời dạy của dân tộc Israel về ngày Sabbath quả là một kho báu. Cho nên chỉ trích không phân biệt tính vụ luật của họ là thiếu suy nghĩ.
Ngày nay, Hội Thánh đang lấy lại truyền thống này. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô vừa phát hành thông điệp về ngày Chúa Nhật thánh, cũng là để cổ võ và phổ biến truyền thống tốt đẹp cho nhân loại. Việc nghỉ hư lễ của người tín hữu cho phép chúng ta tụ họp với nhau, bỏ qua những chuyện tầm phào, bon chen, tranh giành để lắng nghe Chúa Giêsu dạy bảo về bữa ăn Thánh Thể và các bổn phận tôn giáo. Chúng ta lại được nghe Ngài tuyên bố Thiên Chúa lộn nhào các giá trị mà nhân loại hằng ấp ủ. Bởi chúng chỉ am hợp với xác thịt kiêu căng mà không phải là ý muốn Thiên Chúa. Hẳn quý vị còn nhớ bài Phúc Âm tuần qua? Kẻ trước nhất sẽ xuống hàng sau chót! Những ai nghĩ mình sang trọng, đáng được ở trên những người khác, kiểu như những thực khách được mời trong bữa tiệc hưu lễ hôm nay, sẽ ngạc nhiên thấy mình chẳng đáng giá chi trước mặt Thượng Đế. Ngược lại những ai chịu thiệt thòi, bị xã hội ruồng bỏ, khinh bỉ, những kẻ ngoài lề, nghèo khổ, hèn hạ lại được đánh giá cao. Những luật sĩ, ký lục, Pharisêu đang lên mặt, rình mò, quan sát Chúa Giêsu trong bữa tiệc, sẽ là đối tượng để Chúa Giêsu khiển trách: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27). Nếu họ muốn sống công chính như Chúa Giêsu rao giảng, dạy dỗ và thực hành, thì họ phải noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, xử lý với những kẻ thấp hèn trong xã hội như những nhân vật quan trọng với đầy đủ nhân quyền và nhân phẩm, kẻ sau chót sẽ lên hàng trước tiên. Cho nên, những ai lắng nghe Chúa giảng dạy thì phải “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” vào bàn tiệc nhà mình.
Đó là điều Thiên Chúa thực hiện cho mỗi người chúng ta trong thánh lễ này. Chúng ta đui mù, què quặt về đời sống thiêng liêng. Không trừ một ai, chúng ta đều là những tội nhân, thấp hèn trước mặt Đấng Tối Cao, đáng ở vị trí sau chót trong hàng ngũ phàm nhân. Nhưng chúng ta đến đây không vì địa vị xã hội hoặc quyền lợi mà hoàn toàn qua Chúa Giêsu. Chúng ta được lòng thương xót của Ngài đưa lên hàng danh dự. Thiên Chúa đã gọi chúng ta lên vị trí của phẩm giá cao sang. Ngay trên bàn tiệc hôm nay, những ai lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đều được biến đổi làm con Thiên Chúa nhờ cuộc thương khó, tử nạn, và sự phục sinh của Ngài. Cũng tại nơi đây Hội Thánh nhắc nhở chúng ta về Bí tích Thánh tẩy, căn cước chính yếu của mỗi người vào Nước trời. Chúng ta phải sống kết hiệp với Chúa Ki-tô, cộng tác với Ngài, đồng hành với Ngài cải tạo và xây dựng thế giới mới, trong đó ơn thánh và yêu thương ngự trị. Liệu chúng ta có thật sự tin vào những chi Chúa dạy ở bữa tiệc hưu lễ của người biệt phái? Liệu chúng ta đáng là những kẻ lãnh nhận lòng thương xót của Chúa? Nếu vậy, thì sau khi rời khỏi thánh lễ, chúng ta phải hành động như Ngài đối với những số phận hẩm hiu trong xã hội, những kẻ bị chà đạp, cầm tù, loại trừ, áp bức, những kẻ không có chi để đền đáp chúng ta. “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy thi hành cho tha nhân.” Lòng yêu thương vô điều kiện là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Chúng ta được kêu gọi để trở thành dấu chỉ đó. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta ở nhà thầy biệt phái: “Điều quan trọng không phải là chỗ nhất, nhưng là bữa tiệc và danh sách những kẻ được mời.”Ước chi mọi người luôn ý thức điều này. Amen.
Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản: TN 22-C46
Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản như đôi khi chúng ta nghĩ. Nếu đọc trọn đoạn thánh kinh của Luca (Luca 14 1; 7-14), chúng ta thấy trước khi dậy dỗ về sự khiêm hạ, Chúa đã chữa lành một bệnh nhân bị phù thũng ngay tại nhà đó (Luca 14: 2-6).
Một cách đơn sơ, chúng ta đồng ý với sự can đảm của Chúa khi Người, tuy được mời đến dự bữa ăn nơi nhà của người Pharisêu, can đảm lên tiếng chỉ trích thói quen của các vị "vọng tộc" giầu có -trong đó có người Pharisêu- thường thích ngồi chỗ quan trọng nhất nơi bữa ăn hoặc bàn tiệc. Chúng ta nhấn mạnh đến lời dậy dỗ của Chúa về hai nhân đức: khiêm tốn và hiếu khách.
Tuy nhiên, nơi đây, Chúa không chỉ nhằm đến hai nhân đức trên mà còn thách đố cả lề luật và lối sống Do thái thời đó.
Như nhiều tôn giáo khác, Do thái giáo không hẳn chỉ là một chuỗi những luật lệ về Yahweh - Chúa, nhưng còn là một tổng hợp những tập quán, cách thực hành, liên quan và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống con người.
Luật điều Torah
Năm cuốn sách đầu trong cựu ước gọi là sách luật hoặc sách Torah. Tổng cộng có 613 điều luật. Sách đề cập đến những gì người Do thái phải tuân theo khi thức dậy buổi sáng, những gì được ăn và không được ăn, những gì phải làm để tuân giữ ngày Sa-bat và lễ trọng, những điều phải theo khi liên hệ với Chúa và với tha nhân..Tiếng Do thái gọi những điều luật này là Halakhah. Mục đích của Halakhah là để tăng thêm chiều kích tinh thần của đời sống, tránh đi các việc làm quá vật chất, nhờ đó, họ dễ giao tiếp với Chúa hơn. Thí dụ như sau khi ăn, hãy nhớ tạ ơn. Tạ ơn sau khi ăn (birkat ha-mazon) là một trong những lời kinh quan trọng nhất của người Do thái. Sách Đê nhị Luật đoạn 8:10 dậy rằng "Khi con đã ăn xong, nhớ tạ ơn Chúa, Chúa của con, vì Ngài đã ban cho con quốc gia đẹp tốt này". Tạ ơn Chúa sau bữa ăn gồm 4 loại:
1. Birkat Hazan: tạ ơn Chúa đã ban thức ăn cho thế giới
2. Birkat Ha-Aretz: tạ ơn Chúa đã mang dân Do thái ra khỏi Ai cập, thiết lập giao ước và ban cho dân Do thái đất làm gia nghiệp.
3. Birkat Yerushalayim: tạ ơn Chúa đã tái lập Giêrusalem và hứa ban đấng Me-si-a
4. Birkat Ha-Tov v'Ha-Maytiv: tạ ơn Chúa cho sống đẹp và làm việc thiện.
Trong số 613 luật điều Torah, có những luật điều ghi chép rõ ràng và minh bạch, như chớ giết người. Có luật điều nửa minh bạch nửa không, như giữ ngày Sa-bát, không làm việc xác ngày Sa-bát, mà không nói rõ phải giữ như thế nào.
Luật điều từ các tư tế.
Để giải thích luật, nhất là những luật không minh bạch, các thầy Rabbi đưa ra điều luật gọi là Rabbanan. Luật Rabbanan cũng mang tính cách ràng buộc như luật Torah. Thí dụ luật Rabbi giải thích điều luật chớ làm việc xác ngày Sa-bát bằng cách nói rằng trong ngày Sa-bát, không được nhấc búa, nhấc bút, nhấc tiền, vì những động tác này chứng tỏ rằng người đó đang làm việc. Điều luật Rabbanan giúp người Do thái khỏi vô tình mắc lỗi gọi là gezeirah. (Do đó, khi Chúa thách đố các người Pharisêu có nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát hay không, họ đã không thể và không dám trả lời.)
Còn loại điều luật khác nhằm giúp dân sống và nhớ luật thường xuyên, gọi là takkanah. Takkanah buộc người Do thái phải đọc sách luật các ngày thứ hai và thứ năm.
Từ các luật buộc trên phát sinh ra các hệ quả không lường trước. Để đọc sách luật và đọc lời tạ ơn Chúa sau bữa ăn, người ta cần có những người thạo luật và những chỗ dành riêng. Từ đó nhiều người thích được ở chiếu nhất, chỗ quan trọng hầu dễ nghe và dễ đọc sách luật, đồng thời cũng chứng minh cho người khác thấy mình luôn lưu tâm và kính trọng lề luật.
Chúa Giêsu, khi dậy dỗ người nghe khiêm nhường và hiếu khách đã thách đố cả lề luật Rabbanan. Có lẽ nhờ vậy chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa nói "ta đến không để phá hủy mà để làm trọn lề luật (Mt 5: 17)."
Nghe luật, đọc luật, đọc kinh tạ ơn trước và sau bữa ăn như luật dậy là điều nên làm và phải làm, nhưng từ đó biến thành những lo lắng quá độ về tôn ti, trật tự trong bữa ăn, chỗ ngồi ở hội đường, cộng đoàn hoặc nhà thờ, thì hành động đó lại trở nên sai trái. Chúa đã dùng cơ hội chỗ ngồi trong bữa ăn dậy dỗ cho mọi người biết đâu là sự khiêm hạ và đâu là sự hiếu khách thực. Khiêm hạ là người biết rõ vị thế của mình -không phải chỉ với người khác- mà nhất là với Chúa. Biết mình chẳng là gì trước mặt Chúa. Đằng khác, cũng đừng nên đi đến thái cực khác. Nhiều người ra vẻ khiêm nhường để chủ nhà phải mời đôi ba lần mới dời lên bàn trên. Tuy nhiên, nếu chủ nhà "quên" mời thì về nhà giận dữ..
Hiếu khách là người "khi con đãi khác ăn trưa hoặc ăn tối, đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại con.. Trái lại, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ. Như vậy con mới thật có phúc (Luca 14: 14)." Hiếu khách như trên đúng như lời cổ nhân ta thường nói "làm phúc tay phải, đừng cho tay trái biết."
Để xã hội có trật tự, cần có tôn ti, nhưng đừng quá quan trọng "chiếu trên, chiếu dưới." Hãy thấy Chúa trong những người hèn kém. Hãy nhìn đến tương giao của mình với Chúa. Có như vậy mới là làm trọn lề luật.
“Nếu ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày và hãy theo Ta.” (Luca 9: 23)
Chúa Giêsu đã đưa ra những lời trên như là những điều kiện tất yếu cho những ai muốn “đi sau: TN 22-C47
Chúa Giêsu đã đưa ra những lời trên như là những điều kiện tất yếu cho những ai muốn “đi sau Ngài”, nghĩa là muốn theo Thầy, để trở nên môn đồ.
Nhà bình luận Trần Khải của nhật báo Việt Báo viết: “Cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn. Có rất nhiều khi không dễ để có một lựa chọn làm chúng ta hài lòng. Thí dụ, như lựa chọn của nhà văn Dương Thu Hương. Chị đã chọn lối gập ghềnh mà đi.”
Ai chọn đi theo Chúa là chọn lối gập ghềnh mà đi! Kẻ ây phải “chối bỏ chính mình”, và phải “vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày”.
- “Chối bỏ chính mình” đâu có phải là chuyện dễ thi hành một sớm một chiều trong đời mình! Việc ấy như chính Chúa Giêsu đã làm, là “hủy mình ra không” (Hy lạp: kènosis): “Ngài đã hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm. Ngài đã hạ mình thấp hèn…” (Ph 2:7-8) “Chối bỏ chính mình” là nhìn nhận mình như Thánh Phaolô: “Tôi, người nhỏ hèn nhất giữa các thánh hết thảy.” (Ep 3:8)
Vị Giáo Hoàng của Hội Thánh chúng ta, theo truyền thống, được gọi là “tôi tớ của các tôi tớ” (servus servorum). Chúa Cứu Thế đã trở nên “người tôi tớ” để rửa chân cho các môn đồ của Ngài. Việc rửa chân là việc thấp hèn chỉ dành cho các kẻ nô lệ thời bấy giờ.
- “Vác khổ giá mỗi ngày” cũng là điều vô vàn khó khăn để thực hiện trong đời sống Kitô hữu. Là con người, ai chẳng muốn được sung sướng, nhẹ gánh? Nhưng Chúa lại đòi hỏi ta phải vác khổ giá mà đi lên núi Sọ như Ngài.
Nguyễn Sông Núi
Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng câu ca dao: “Bực mình mang lửa đốt trời, ai hay lửa cháy: TN 22-C48
Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng câu ca dao: “Bực mình mang lửa đốt trời, ai hay lửa cháy lửa rơi xuống đầu”. Nhưng ít ai hiểu ra ý nghĩa của nó, bết bát hơn nữa là học được bài học người sáng tác ra nó muốn nhắn gửi thiên hạ. Bài học đó là ăn ở khiêm nhường chứ đừng kiêu ngạo, hành xử bằng thái độ tự cao tự đại. Tuy nhiên, ngày nay khi nói chuyện cùng bất cứ người chưa quen biết nào, nhất là thanh niên, chúng ta thường cảm nghiệm có một “khối” kiêu căng trước mặt. Họ nổ lung tung về mọi vấn đề, xem chừng như họ biết hết, kinh nghiệm hết ngóc ngách của cuộc đời. Sau khi họ đi khỏi, chúng ta có ấn tượng họ là “ông biết hết”, “cô biết hết”, “bà biết hết”. Sự đời chung chung là như vậy, trái ngược với lời dạy bảo của Đức Kitô trong phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết”.
Phải chăng Đức Giêsu khuyên bảo người ta khiêm tốn giả đò? Để rồi được chủ nhà đến và mời lên chỗ cao hơn? Và nếu xét theo hoàn cảnh xã hội của Ngài, thì lời khuyên còn lạc lõng hơn nữa. Trước mắt các lãnh đạo xã hội, tôn giáo lúc ấy, Đức Giêsu chẳng được ai tôn trọng, trái lại bị họ coi là tay bợm nhậu, tội lỗi, lê la với hạng bẩn thịu, như chúng ta ngày nay coi hạng đĩ điếm, xì ke, đầu trộm đuôi cướp chẳng có tư cách nào mà dạy bảo người khác khiêm nhường thật sự.
Hãy xem lời Ngài khuyên bảo chủ nhà: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em họ hàng hay và con hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đặt tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Như vậy thì còn đâu là địa vị xã hội? Mục tiêu của đãi tiệc là chi, nếu không phải là tiếng khen, thân hữu? Lời khuyên của Chúa cho vị chủ nhà Pharisêu trọng vọng quả là lạc lõng giữa hoàn cảnh ấy. Ngài chẳng phải là nhà mô phạm xã hội,, hoặc tư vấn lỗi lạc, kiểu người ta tư vấn hàng ngày trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet.
Nhưng xin nhớ Ngài luôn huấn luyện cho các môn đệ về lòng khiêm tốn chân thật, gạt bỏ ham hố danh vọng thế gian. Ngài làm gương sáng bằng lời nói việc làm và cái chết nhục nhã trên thập tự, chúng ta ngộ ra lời Ngài hôm nay quả là chí lý. Ong chủ mời Chúa Giêsu hôm nay là một thủ lãnh nhóm Pharisêu và bữa tiệc là quan trọng. Bữa tiệc của ngày Sabát mừng dân Do Thái thoát ách nô lệ Ai Cập và bất cứ sự nô lệ nào: “Một ngày Sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”. Dĩ nhiêm trong bữa tiệc này, mỗi người được sắp xếp theo đúng nghi lễ, đồ ăn, thức uống, khách được mời, vị trí và phong cách khách mời. Mọi thứ đều theo tập tục cách hoàn hảo, không để điều chi thiếu sót. Luca thêm một câu làm cho độc giả suy nghĩ về Chúa Giêsu: “Họ cố dò xét Người”. Chẳng hoá ra Chúa đã bị mang tiếng là tay “phá cách”, “ngang ngược”!
Trong bữa tiệc Đông phương làm chi có bảng hiệu tên cho mỗi thực khách, cũng chẳng có bàn nào đề chữ “reserved” (dành riêng). Ai nấy cứ theo địa vị xã hội mà ngồi vào vị trí của mình. Dĩ nhiên là có sự lộn xộn và họ dò xét thái độ của Chúa Giêsu xem Ngài hành xử như vậy không? Tức có khiêm tốn đúng với vị trí của mình, hoặc tự thổi phồng ngồi vào chỗ danh dự? Đối với họ, Ngài chỉ là tay gàn, rao giảng lang thang như các phù thuỷ thời ấy. Biết rõ bụng họ, nên Ngài đưa ra bài học luân lý, chứ không phải dạy bảo người ta giả hình. Trước hết cho những khách dự tiệc: “Khi anh được mời đi ăn tiệc cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”. Cỗ nhất là cỗ danh dự, dành cho những người cao trọng. Ngồi chỗ đó là tự nhận mình có địa vị trong xã hội, tôn giáo. Thực tế chỉ có số rất ít có vị trí đó, đa phần thì không. Khiêm nhường là vào đúng chỗ của mình. Điều này chúng ta cũng thường hay mắc phải, tự nhận mình cao hơn giá trị thực. Hay nói cách tượng hình: phình to ra như con nhái trong câu truyện “bò và nhái con” của Esop. Thứ hai, lời khuyên cho chủ nhà: không nên đãi tiệc để được lợi lộc, tiếng khen và hệ quả sau đó. Nhiều khi chúng ta đãi tiệc để nhắm lợi lộc: thí dụ để được thăng quan tiến chức, hay kiếm chác vật chất: trúng thầu, trúng hợp đồng, viện trợ không hoàn lại, …
Chuyện kể rằng có một ông nhà giàu kia tên là Oliver. Ông là người tốt bụng, rộng rãi và thường xuyên làm việc bố thí và phân phát rất hào phóng. Ông già rồi chết đi, dân làng ai cũng khen ông nhân đức, sẽ bay lên thiên đàng thẳng băng. Đúng là ông lên thiên đàng, nhưng khi tới nơi, cửa lại đóng. Ông gõ cửa và thánh Phêrô xuất hiện. Ông xưng danh tánh và chờ đợi thánh Phêrô cho vào. Nhưng thánh nhân cản lại, chỉ vào hai đống vàng vụn, đủ mọi kích cỡ. Một đống lớn và một đống nhỏ, lấp lánh sáng ngời. Thánh nhân nói: hai đống vàng đó là công nghiệp của ông khi còn ở trần gian. Nhưng chúng phải được gạn lọc, viên nào xứng đáng tinh ròng, viên nào còn vương mùi ich kỷ, tư lợi, kiêu ngạo, tiếng tăm hão.
Rồi thánh nhân đưa ra một cái ràng, mắt ràng có thể điều chỉnh. Thánh Phêrô bắt đầu lọc vàng, từ đống nhỏ trước. Oliver ngạc nhiên hỏi: “Tại sao Ngài không bắt đầu từ đống lớn?”. Thánh nhân trả lời “không cần, vì đống to là những tặng phẩm Oliver ban cho bạn bè, thân thích bà con. Cái đó không có giá trị chi cả”. Bỗng dưng một cơn gió đến thổi tung bay tất cả, và chúng biến mất. Oliver xanh mặt thất vọng. Thánh Phêrô sàng đống nhỏ, mẻ sàng còn lại các hột vàng to, thành nhân gom lại và hắt sang một bên, chúng phút chốc thành tro bụi và biến mất. Oliver kinh ngạc hỏi tại sao vậy? Thánh nhân trả lời: “nó còn vương bụi bặm khoe khoang”. Mẻ sàng thứ hai với mắt lưới được điều chỉnh nhỏ hơn. Và thành Phêrô cũng hắt sang một nên những hạt to còn lại trên sàng, chúng cũng đều biến ra tro bụi và bay đi. Oliver thắc mắc tại sao thế? Thánh Phêrô trả lời: “còn vướng mắc lòng tự mãn, coi mình rộng rãi hơn thiên hạ”. Mẻ sàng thứ ba với mắt lưới nhỏ hơn nữa khiến những hạt vàng còn to không lọt xuống được. Thánh Phêrô lại hắt ra ngoài và chúng cũng biến đi nhanh chóng. Thánh nhân giải thích: “còn vương ẩn ý đền bù, làm êm dịu lương tâm”. Mẻ thứ tư và mẻ thứ năm thì chẳng còn gì để mà sàng. Oliver thất vọng, than khóc vì lấy chi mà vào nước Trời? Cả đời coi như toi công.
Tuy nhiên thánh Phêrô an ủi: “Hãy còn tin vui”. Oliver sáng mắt hy vọng: “Thưa Ngài tin vui gì?”. Thánh nhân trả lời: “Bây giờ anh nghèo quá, vì chẳng còn lại gì. Nhưng đó là giấy thông cho anh được vào chầu Chúa”.
Câu truyện không phải là để khuyên chúng ta ươn hèn lười biếng, nhưng cho thấy những việc bác ái không phải để lãnh công Nước Trời, mà là huấn luyện chúng ta nên tốt, nên thánh thiện. Thiên Chúa giàu có vô biên, cần gì “công lênh” của phàm nhân? Một là chúng ta thương yêu nhau vô vị lợi, không dính bén, vị kỷ, tiếng tắm, hay vì một mối liên hệ xác thịt mào đó. Thiên Đàng của mọi người thì Chúa Giêsu đả lập công rồi, bằng giá máu châu báu của Người, phần thưởng thì đã có sẵn. Chỉ cần chúng ta ăn ở tốt lành để chiếm lấy. Vì vậy Đức Giêsu có lý khi Người khuyên ông chủ nhà, đừng mời khách sang trọng, nhưng là những người đui mù, què quặt, lang thang khắp đó đây. Họ chẳng có chi để trả, lúc ấy việc đãi tiệc mới không hề vướng mùi vị kỷ. Kiêu ngạo hết khả năng len lỏi vào các công việc như thế. Các thầy Rabbi Do Thái nói: bố thí đúng nghĩa nhất, là khi người ta không biết mình cho ai, và người nhận cũng không biết tặng phẩm từ đâu đến. Au cũng là thái độ của chúnng ta ngày nay. Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn đích thực.
Nói cho đúng, Thiên Đàng không phải là hàng hoá để người ta mua bán. Ngay cả mọi công nghiệp của thế gian này góp lại cũng không thể “tậu” nổi Nước Trời. Thiên Chúa không như chúng ta. Người là Đấng ban phát nhưng không vĩ đại nhất. Tại sao chúng ta lại cậy lập công để chiếm được Thiên Đàng? Thật vô lý, mà có vì công nghiệp đi nữa, thì có bao nhiêu vượt qua được thử thách thanh lọc của Thánh Phêrô? Chẳng có chi cả, vì việc làm của chúng ta luôn nhuốm mùi vị kỷ, tiếng khen, lời cảm ơn. Chẳng bao giờ chúng ta vô vị lợi hy sinh cho người khác, ngược lại thu vén cho mình trên lưng trên cổ thiên hạ. Chuyện này quá rõ trong sinh hoạt hằng ngày. Duy một mình Đức Kitô dám hy sinh mạng sống vì kẻ khác một cách hoàn toàn bất vụ lợi. Ngài trộn lẫn công nghiệp của mình với nhân loại, và ban cho những ai tay trắng, mà chẳng đòi hỏi họ điều chi, ngoài việc họ phải tuân hành thánh ý Thiên Chúa, để cha Người được vinh quang trên trái đất này. Nếu cần tìm một con chiên bị thất lạc, Người sẵn lòng bỏ lại chín mươi chín con khác và chịu cực nhọc để tìm con chiên lạc. Người chỉ lo đến đàn chiên, không hề lo cho thân mình. Xin đọc kỹ Phúc âm để nghiệm ra chân lý này.
Nên chúng ta phải dùng hết mọi tài năng, thời giờ, tiền bạc phục vụ các linh hồn. Thi hành bác ái, bố thí tiền bạc, của cải không phải là xa xỉ hay nhiệm ý của người Kitô giáo. Nó là bổn phận không cần bàn cãi. Người tín hữu chân thật là người yêu tha nhân hết tình, coi họ như anh chị em mình, mà không mong được đền đáp. Chúng ta thi hành bổn phận chia sẻ cuộc sống với tha nhân, không phải là được nổi tiếng hay lợi lộc, nhưng chỉ vì phải đứng dậy để kẻ khác cùng trỗi dậy với chúng ta trong đời sống mới mà Đức Kitô đã mang xuống trần gian.
Tôi chắc rằng Đức Giêsu không khuyên chúng ta đừng mời mọc thân nhân đến nhà mình dùng bữa, nhất là trong những ngày lễ đặc biệt. Đó không phải là điều Ngài ám chỉ trong Phúc âm hôm nay khi khuyên ông Pharisêu. Người chỉ muôn nhấn mạnh về lòng khiêm tốn khi làm việc bác ái. Ngoài ra, nếu chúng ta làm đúng như Chúa chỉ dẫn, chúng ta được nhiều cái lợi. Thí dụ có những bạn bè mới, tương quan mới, nhất là tìm thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo khổ, vì Người thường đồng hoá mình với họ. Người nghèo cần giúp đỡ, nhất là cần nhân phẩm, điều mà xã hội giàu có không muốn cho họ.
Vậy Đức Giêsu không thay đổi quan điểm, ngược lại, nhất quán triệt để ngay cả trước mặt Pharisêu. Ngài không xúi ngầm chúng ta dùng mánh lới để leo lên bậc thang xã hội. Giả vờ ngồi chỗ rốt hết để được cất nhắc lên cao. Ngài chỉ muốn chúng ta có lòng khiêm nhường đích thực, không hậu ý để được khen hay lời cảm ơn. Đồng thời vươn tới những người nghèo khổ, chia sẻ nhân phẩm, của cải vật chất với họ. Có những tương giao mới hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Thánh lễ hôm nay cũng là một bữa tiệc. Chúng ta đối xử với nhau ra sao? Tuy rằng cùng một gia đình Thánh Thể, nhưng trong giáo xứ, hội đoàn, tu viện có rất nhiều những khác biệt, cấp bậc. Liệu chúng ta có ở đúng vị trí, hay đòi “cầm nọc” thiên hạ, cố vấn lung tung, bắt kẻ khác phục tùng ý kiến của mình, ngoi lên địa vị độc tôn rồi chia bè kéo đảng? Bài đọc một và hai cũng cho những lời khuyên thấm thía: “Con ơi hãy hoàn thành việc của con cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đep lòng Thiên Chúa”. “Anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa là Giêrusalen trên trời với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa”. Như vậy thái độ hống hách trịch thượng là không hợp lý. Chúng ta khiêm tốn phục vụ nhau và chú tâm vào Lời Chúa còn rất mới mẻ hôm nay. Mặc dầu thế giới còn rất nhiều khác biệt. Nhưng trước Thánh Thể, chúng ta chỉ là một gia đình, chúng ta có quan hệ với nhau trong Thần Khí Đức Kitô. Cho nên không có lý do để giữ thái độ kiêu căng, kẻ cả. Trái lại hãy nghe lời Chúa mà sống khiêm nhường vô vị lợi. Amen.
Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa: TN 22-C49
1/ Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa sẽ không theo tiêu chuẩn dựa trên bình diện xã hội. Vì Chúa không đánh giá con theo địa vị, giàu có, sang trong, tài năng, nhan sắc… Vậy Chúa dựa theo tiêu chuẩn nào để đón nhận một người thuộc Vương Quốc của Ngài ? Trang Tin mừng hôm nay là câu trả lời cho những ai muốn thuộc về Chúa thì phải sống khiêm nhường.
2/ Khiêm nhường là bản chất của Chúa Giêsu. Vì Chúa đã khẳng định: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x,Mt11,29). Về điều này, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê đã cảm nghiệm rất thấu đáo về thái độ khiêm nhường của Đức Giêsu, khi ngài đã thốt lên: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).
3/ Chúa là Đấng khiêm nhường, nên những ai sống kiêu căng là đi ngược với bản chất của Chúa. Vì vậy Chúa luôn dạy mọi người trong cuộc sống phải có những tâm tình như Chúa.
Lời dạy của Chúa về đức khiêm nhường đã được Chúa nói đến bằng hình ảnh bữa tiệc cưới trong trang Tin mừng hôm nay. Chúng ta nên nhớ Chúa luôn dõi mắt nhìn từng người chúng ta: Ai khiêm nhường ai kiêu căng Chúa đều biết cả. Vì trong bữa tiệc Chúa nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã dạy khi dự tiệc điều tốt nhất hãy ngồi vào chỗ cuối. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (x,Lc14,7-12).
4/ Theo tự nhiên, khi ngồi chỗ cuối trong bữa tiệc có vẻ mình cảm thấy bị rớt giá, bị hạ thấp. Từ cảm nghĩ tự nhiên này cũng cho chúng ta thấy rằng: Kiêu căng thật dễ để làm nên nó, còn khiêm nhường thật khó để cho riêng mình. Nhưng làm gì thì cuối cùng khiêm nhường vẫn là con đường để chúng ta được an vui, được nâng cao, được mọi người yêu mến cảm phục, được gia nhập vào những người thuộc về Chúa trong bữa tiệc Nước trời.
Nói như thế cũng để chúng ta thấy muốn sống khiêm nhường, đó cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nhưng mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng, nếu chúng ta thực hành những điều kiện để thực sự là người sống khiêm nhường như Chúa.
5/ Điều kiên để sống khiêm nhường, trước hết đòi hỏi chúng ta phải cảm nghiệm thật sự về cả cuộc đời của Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, và trong thân phận con người Ngài mang lấy thân nô lệ, trong thân kiếp nô lệ Ngài đã tự hạ để phục vụ, để vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Trong cuộc sống chúng ta hãy lấy Đức Kitô là lẽ sống cho riêng mình, hãy theo con đường Chúa đi và hãy sống theo lời Chúa dạy. Nhờ vậy mỗi ngày chúng ta sẽ được nên hoàn thiện, được diễm phúc mặc lấy tâm tình khiêm nhường như Chúa.
Thứ đến điều kiện để sống khiêm nhường là phải biết từ bỏ cái tôi của mình. Khi quá đề cao cái tôi thì tự nhiên nó sẽ xuất hiên muôn vàn hình thức dối trá như: Tham vọng chức quyền, triệt hạ người khác, đề cao bản thân, sống ích kỷ hẹp hòi, cạnh tranh về mọi phương diện… Từ chỗ thích sống phô trương như thế, cuối cùng sẽ dẫn đến tại hại không ngờ là mối tương quan với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Vì Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc14,11). Còn mối tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ không còn, cùng lắm chỉ còn một chút hình thức là bằng mặt chứ không bằng lòng.
6/ Chúa Giêsu rất quý trọng lòng khiêm nhường. Chúa luôn ưu tiên cho những ai chọn khiêm nhường là lẽ sống, Chúa sẵn sàng trao ban cho họ hạnh phúc viên mãn là được sống trong nhà Chúa suốt cuộc đời.
Đức Maria, trên hết Mẹ là người đã đáp lại trước tiên những điều kiện để được sống hạnh phúc bên Chúa. Cuộc sống của Mẹ đã rập theo khuôn mẫu của Đức Giêsu Con Mẹ là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hơn nữa trước ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã tự nguyện xoá mờ đi cái tôi của mình để sẵng sàng vâng phục ý Chúa cách tuyệt đối trong những lúc túng quẫn nhất, cay đắng nhất, đau khổ nhất. Vì Mẹ đã chọn sống khiêm nhường để trở nên giống Chúa, để hoàn toàn được thuộc về Chúa. Vì vậy Mẹ đã hiểu rất rõ cách Thiên Chúa sẽ đối sử với những người quyền thế, những người khiêm tốn như thế nào, khi Mẹ nói: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc1,52).
Chúng ta khiêm tốn xin Mẹ giúp chúng ta luôn can đảm sống như Mẹ. Nhờ đó mỗi ngày hình ảnh của Đức Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường sẽ sáng tỏ trong cuộc sống chúng ta. Và đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc của Chúa mai sau. Amen
Trên đường lên Giêrusalem, khi đi qua các thành thị và làng mạc, Chúa Giêsu không ngừng rao: TN 22-C50
Trên đường lên Giêrusalem, khi đi qua các thành thị và làng mạc, Chúa Giêsu không ngừng rao giảng nước Thiên Chúa. Lời rao giảng cũng như những việc làm nhất cử nhất động của Chúa Giêsu đều được giới thủ lãnh Dothái xem xét ti mỉ. Một thủ lãnh Pharisêu mời Chúa Giêsu dự tiệc không phải vì mối tình thân hữu của ông đối với Chúa mà chỉ nhằm mục đích dò xét Người. Chính trong bữa tiệc đậm mùi “chính trị” như thế, Chúa Giêsu hướng dẫn cho những vị khách quý của viên thủ lãnh Pharisêu –hay đúng hơn là những tên mật thám tôn giáo, bài học về sự khiêm nhường và tinh thần phục vụ.
Những vị khách mời dự tiệc ngày hôm đó cứ chen lấn, dành nhau chỗ nhất mà ngồi, đúng ra phải là những gối nhất mà nằm. Chỗ nhất hay gối nhất là như thế nào? Vào thời đó, trong các bữa tiệc, người dân có thói quen nằm chứ không ngồi như vẫn thường thấy. Gối nhất hay chỗ nhất ở đây là nơi gần với chủ nhà nhất. Các gối nằm được sắp xếp dựa vào thanh danh của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức phận hay sự giàu sang của người đó.
Dùng dụ ngôn, Chúa Giêsu nhắc khéo những vị khách một quy luật khôn ngoan: “Khi anh được mời dự tiệc, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”. Phải chăng Chúa Giêsu muốn dạy nghệ thuật ứng xử có hàm chứa sự tính toán, những thủ đoạn khéo léo bên trong? Hẳn là không. Vì ý nghĩa của dụ ngôn không nằm ở cách giao tế khéo léo mà là giáo huấn về sự khiêm nhường- một thái độ cần phải có để có thể dự tiệc nước Thiên Chúa. Thật thế, những ai tham dự vào bàn tiệc nước Thiên Chúa không hệ tại cách đánh giá bên ngoài hay mình có những lợi thế hơn người như tiền tài, danh vọng,… mà là hệ tại ở tình yêu thương của Thiên Chúa. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trong bữa tiệc, chủ nhà có quyền sắp xếp những thực khách vị vọng ngồi chung với mình; thì bữa tiệc trong nước Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa cũng có quyền để lựa chọn, sắp đặt những ai được vinh hạnh tham dự vào bàn tiệc nước Chúa. Và, những vị trí đó luôn là những quà tặng nhưng không của Thiên Chúa chứ không phải do sự lựa chọn của con người. Những vị trí quan trọng trong nước Thiên Chúa không có chỗ cho những kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi trước, mà là dành cho hết những ai biết sống khiêm nhường, thấp hèn.
Sau khi đã nhắc khéo thực khách về thái độ khiêm nhường cần có để có thể xứng đáng mời dự tiệc nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu quay sang chủ nhà, đề cập đến đối tượng được mời dự tiệc: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, …”. Cách nào đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu trách khéo viên thủ lãnh Pharisêu chỉ biết mời có bạn bè, bà con láng giềng giàu có mà không biết mời những vị khách khó nghèo, tàn tật, đui mù. Mời những vị khách tàn tật, đui mù, què quặt đến dự tiệc? Thế thì còn gì là tiệc tùng nữa? Điều xem ra có lẽ phi lý, nhưng lại là điều trọng yếu đối với Thiên Chúa. Theo Chúa Giêsu, chúng ta cần mở rộng bàn tiệc cho hết những ai không có khả năng đáp lễ. Những vị khách “đặc biệt” cần được mời trong danh sách của Chúa Giêsu là những hạng người bị dân Dothái đạo đức khinh thị, bị Lề luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự của Đền thờ. Thế nhưng họ lại là đối tượng đầy yêu thương của Thiên Chúa. Người yêu thương họ và sẵn sàng mời họ tham dự bàn tiệc. Từ nay những ai bước đi trong đường lối Chúa, hành xử khôn ngoan theo lối hành xử của Người đều nhận ra chân lý này: khi phục vụ, thi ân cho những người tàn tật, đui mù, nghèo khó, người mắc nợ chúng ta không phải những con người đáng thương đó mà chính là Thiên Chúa. Vâng, chính Thiên Chúa sẽ mắc nợ chúng ta, và Người sẽ trả công bội hậu cho chúng ta trong ngày sau hết như Người đã hứa. “Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới có phúc, vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Giáo huấn của Chúa Giêsu xem ra có vẻ khó chấp nhận như đó lại là lối sống được đề cao trong nước Thiên Chúa. Khi chúng ta chấp nhận lối sống khiêm nhường, đặt mình dưới hết mọi người, thực thi công bình bác ái cách vô vị lợi không phải để đánh bóng chính mình, nhưng là vì đó là nơi Chúa Giêsu yêu thích, là chỗ quen thuộc của Người. Nói như thánh F. Borgia: “Tôi thực tâm đặt mình ở dưới Giuđa, bởi tôi đã thấy Chúa Giêsu ngồi dưới chân anh ấy”. Ước gì lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta biết sống khiêm nhường và nhận ra đâu là cách thế để chúng ta trở nên người có phúc trước mặt Thiên Chúa.