Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 1-50 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định: TN 34-ABC1
Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.
Trước hết là trong Cựu Ước.
Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương :
- Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.
Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng :
- Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.
Tiếp đến là trong Tân Ước.
Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philạô :
- Phải, tôi là vua.
Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi :
- Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.
Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói : Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.
Thực vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.
Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô :
- Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.
Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán :
- Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.
Tóm lại, niên lịch phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.
Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là, chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.
Chúng ta hãy tưởng tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ: TN 34-ABC2
Chúng ta hãy tưởng tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến Kitô giáo là gì, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài ở đâu? Làm sao có thể gặp Ngài được?”. Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời thật hay, thật ý nghĩa. Nào là Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cõi chết sống lại. Nào là Ngài đang hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, vì Ngài đã tạo dựng vũ trụ này cho con người.
Đó là những câu trả lời đúng nhưng chưa đủ, vì chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được Ngài?. Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc nào và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang khao khát muốn tìm gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.
Với niềm tin đích thực của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị xã hội ruồng bỏ và quên lãng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những người nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những ngươi bệnh hoạn tật nguyền đang mất hết ý vị của đời sống mà hằng ngày phải chết dần, chết mòn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị bạc đãi và bị hiểu tầm, vì là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ vì khác ý thức hệ, đang lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng ai. Ngài hiện diện nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang tìm kiếm một cách vô vọng một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác để lớn lên và phát triển.
Thật vậy, nước Ngài sẽ bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn đau khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng vòng tay đón nhận những đứa trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công bình và bác ái ngự trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "Tình Yêu”. Tình yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu Kitô, Vị Vua Chí Tôn Chí Thánh.
Khi đọc Tin Mừng của Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một vị Vua luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau sống yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường sinh đời sau, nơi nước tình yêu không bao giờ tắt.
Là con dân của nước Thiên Chúa, nước của tình yêu, chúng ta hãy cùng nhau làm tròn bổn phận công dân của mình là góp phần xây dựng cho tình yêu được ngự trị lên mặt đất này. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong đời sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi đang cần đến tình yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được gì thêm cho Chúa cả, vì Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần dân trong nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái gì và đó chính là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về tình yêu đối với đồng loại.
Vì thế, nếu tôi chỉ biết thu mình trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi không cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đã không thiết tập lại công bình". Rồi còn bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người không biết thương xót.
Yêu ai thì giống người ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua Tình Yêu, khi tôi không giống Người là Đấng hay thương xót. Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa là chiêm niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát. Cho nên khi đã nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng đáng là công dân của nước Người, nước của tình yêu.
Giữa công trường thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá: TN 34-ABC3
Giữa công trường thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng Đế Caligula, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu sau đây:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng. Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị. Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày hôm nay, Giáo Hội cũng đọc lại ba câu khắc trên đá tạc vào lòng đó, để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, nhân ngày bế mạc năm phục vụ.
Từ trên chóp đỉnh năm Phụng Tự, Giáo Hội cho chúng ta thấy vị trí cao sang của Con Thiên Chúa là vua toàn thể vũ trụ.
Trong Cựu Ước, các vua được gọi là mục tử dân Chúa, vì các vị lãnh đạo đầu tiên như Abraham, Moisê, Đavít là những người chăn chiên. Trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Ezechiel mô tả Thiên Chúa là một vị vua chăn dắt đoàn chiên. Ngài tập họp đoàn chiên tan tác vì tội lỗi của chính mình cũng như của các nhà lãnh đạo. Ngài giải cứu chúng khỏi miệng sói dữ. Ngài tận tình phục vụ đoàn chiên cách riêng những phần đau yếu bé mọn. Ngài đối xử với đoàn chiên như bà mẹ săn sóc con cái: “Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau… Ta sẽ chăm sóc và sẽ chăn sóc nó trong sự công chính”. Thật là hình ảnh cảm động của Thiên Chúa, một nhà Vua Mục Tử.
Thánh Phaolô trong Thánh Thư gửi giáo đoàn Corintô, đề cập đến Vương quyền cao cả và vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô Phục sinh là Alphavà Omêga, nghĩa là khởi điểm và cùng tận. Nhờ Ngài, mọi sự đã phát sinh thì nhờ Ngài vạn vật sẽ trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài đã Phục sinh, đã toàn thắng sự chết thì con người cũng không phải hoảng sợ trước sự chết. Chúa Kitô chính là Thầy, là Vua. Ai tin ở Ngài sẽ không phải chết: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống”. Ngài thật là Vua, là Chúa, có quyền trên sự sống và sự chết.
Bạn đã có dịp đến Vatican kính viếng Thánh điện Sixtine và chiêm ngưỡng bức danh họa vĩ đại của Michel-ABCnge về ngày Thẩm phán theo Phúc Âm Thánh Matthêô? Thật là lớn lao vĩ đại. Họa sĩ để ra một năm, nằm trên sàn vẽ, vừa vẽ vừa suy niệm về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu, Đấng Thẩm phán, đến trong vinh quang để xét xử công tội của mỗi người. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy nói đến cuộc giáng lâm của Chúa, nhưng trước tiên là nói đến số phận của mỗi người: “Ngài sẽ đến ngự trên ngai uy linh, có hết thảy mọi Thiên Thần hầu cận và Ngài sẽ phân chia họ ra”.
Trước mặt Ngài chỉ có những người đã sống trong Tình yêu và những người đã chối bỏ Tình yêu. Con người lộ diện trần trụi, giờ sự thật đã điểm.
“Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta”.
Cuộc Thẩm phán là một cuộc xét xử về Tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, vì Thiên Chúa là Vua, Vua Tình yêu vậy.
Ngày mồng1 tháng 10 năm 1989, Giáo Hội đã long trọng phong Chân Phước cho Nicéphore Diez (1893-1936) và 25 bạn tử đạo thuộc Dòng Thương Khó, tử đạo trong cuộc nội chiến 1936 ở Tây Ban NHa. Phần đông các vị đã đồng thanh kêu lớn tiếng: “Vạn Tuế Chúa Kitô là Vua”, trước khi ngã gục trước họng súng.
Chúng ta cùng với Giáo Hội lớn tiếng hôm nay tuyên xưng: Christus vincit- Christus regnat- Christus imperat.
Hoàng tử và người hành khất” là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300: TN 34-ABC4
“Hoàng tử và người hành khất” là câu chuyện của Mark Twain kể về hai em bé sống cách đây 300 năm ở London, nước Anh.
Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém.
Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.
Bạn đừng ngạc nhiên vì Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không ? Tin Mừng hôm nay là một trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô – Tin Mừng cho những người giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ý đến những nhu cầu của người khác.
Hôm nay bạn hãy xét mình đi. Bạn có bao giờ cung cấp của ăn cho người túng đói không ? Có lẽ bạn chưa bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói. Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp đỡ gì qua các cơ quan từ thiện không ? Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không ? Không phải chỉ là những người ở sau hàng giậu sắt, nhưng còn là những người ở sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu khổ.
Bạn đã làm gì cho những người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần, bị giam hãm về tinh thần ? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm gì, thì bạn hãy nghe lệnh truyền “Khởi hành”.
Tin Mừng còn đi xa hơn, những gì bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hãy lưu ý: “Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ”. Những gì các con làm hay không làm, là các con đã làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua chúng ta bị cầm tù.
Phải, chúng ta phụng sự và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi Ngài sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. “Hãy đến” .
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai: TN 34-ABC5
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói : “Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội ác này”. Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
*****
Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hoá thân làm người để cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.
Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết : “Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta”. Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói : “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết : “Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lên lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con: TN 34-ABC6
Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói : Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ,
Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ Vua Nghiêu, Vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
Kinh Thư viết : “Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ : Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” (Thái hệ thượng 7).
Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng, hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết “chỉ vì phục vụ Thượng Đế giúp nhân dân bốn phương : Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phương” (Thái thượng 7).
Người ta đã gọi thời đó là Hoàng kim thời đại : dân được tôn trọng : “Lấy dân làm gốc : Duy dân bang bản”. “Gốc kiên cố, nước được an ninh thịnh vượng : Bản cố, bang minh”. “Khắp nơi bốn bể thông thương, hòa hợp : Tứ hải hội thông” (Ngũ Tử 4 và Vũ Công 30). Do đó về sau, các Vua Tầu, Nhật và Việt Nam đều được gọi là con Trời : Thiên Tử, Quân Tử, tuy nhiều kẻ bất xứng.
Bên Tây phương, Ba Tư, Ai Cập, Hy Lạp hay La Mã, đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi Tiên tri Samuel : “Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi” (1Sm. 8,19). Và ai được chọn làm Vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa : Thiên Chúa nói với Sứ ngôn Nathanael : Hãy đi nói với Đavít : “Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta” (2Sm. 7, 5.14 và Tv. 2,7). Nếu Vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ Vua khỏi tay quân thù (Tv. 20, 21 và 45, 4-8).
Nhưng ngay cả Đavít được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn đầy bất xứng, bất trung.
Loài người dù Nghiêu, Thuấn, Đavít hay Tổng thống, Thủ tướng không thể làm vua xứng đáng với ơn Thiên Chúa, và sự mong muốn của nhân dân. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến cứu vãn nhân loại. Chỉ có Người Con duy nhất đó mới chính là vua thật của nhân loại đến muôn đời : Đó là Đức Giêsu Kitô. Vua Giêsu khác với vua thế gian ở hai lĩnh vực trần thế và nước Trời.
Ở trần thế, Ngài là Vua như mục tử nhân lành, Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài I - Êz. 34, 11-17). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố : “Tôi là Mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga. 10, 10. 11-14) Tôi đến để cho chiên Tôi được sống và được sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.
Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ : Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền, khả ái : “Đây là tôi trung Ta đã tuyển chọn, rất yêu dấu, rất đẹp lòng Ta. Thần khí Ta ngự trên Người. Người loan báo công lý trước muôn dân, Người không cãi vã, kêu to, chẳng ai nghe thấy tiếng Người ngoài phố xá. Người không đành bẻ gẫy cây lau đã giập, chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét, cho đến khi Người đưa công lý toàn thắng và muôn dân hy vọng danh Người (Mt. 12, 18-21). Ngài làm Vua chỉ chuyên chăm lo phục vụ và hy sinh, Ngài nói : “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”, “chứ không như vua thế gian lấy quyền thống trị dân bắt dân phục vụ mình” (Mt. 20, 25. 27-28)
Từ hơn 700 năm trước, tiên tri Isaia đã loan báo về Người Tôi Trung đau khổ đã hy sinh đến cùng cực : “Ngài đã bị khinh bỉ như đồ phế thải, bị trừng phạt đầy đọa, bị đâm, bị tra tấn, bị nghiền nát làm hy lễ tạ tội, Ngài chịu đựng, không mở miệng, ngậm câm như chiên cừu bị dẫn đến lò sát sinh … Ngài bị liên lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi để giải án tuyên công nhiều người (Is. 53, 1-11) và Thiên Chúa đã đặt Ngài làm “Cố vấn kỳ diệu, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền binh Ngài bao la vô tận, cho nước được bền vững kiên cố từ nay cho đến muôn đời, nhờ công minh đức nghĩa Ngài” (Is. 9, 5-6)
Ở nước Trời, Đức Giêsu là vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung, làm mục tử, vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về tôn vinh Thiên Chúa Cha trong nước vinh phúc hằng sống, “chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hỏa ngục phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu” (Phil. 2,6). Ở trên trời, “Ngài ngự trên ngai vinh quang, có các Thiên Thần hầu cận, để đón rước chúc phúc cho những ai cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách lạ, cho kẻ trần truồng mặc, thăm nom kẻ đau yếu, tù đầy. Ai có lòng trong sạch, hiếu hòa, hy sinh vì nước Trời, Ngài thưởng công cho họ được thừa hưởng vương quốc, được Cha Ngài ban phúc hưởng sự sống muôn đời. Còn kẻ không biết thương người đói khát, rách rưới, đau yếu, đau khổ, không biết hy sinh vì nước Trời bị Ngài loại bỏ, chúng phải vào chốn cực hình muôn kiếp” (Mt. 25, 31-46)
Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin cho các vị lãnh đạo biết sống theo gương Chúa là Mục tử nhân lành và Tôi Trung đau khổ để họ sáng suốt phục vụ và hy sinh cho đồng loại. Xin cho con tận tâm chăm lo cho kẻ đói ăn, khát uống, giúp đỡ những ai rách nát nghèo hèn, an ủi những người đau khổ, bệnh tật để họ được sống lại trong tình thương muôn đời của Chúa. Amen.
Vào những ngày cuối năm, các công ty, các xí nghiệp và những thương gia buôn bán thường tính: TN 34-ABC7
Vào những ngày cuối năm, các công ty, các xí nghiệp và những thương gia buôn bán thường tính sổ xem mình đã làm ăn như thế nào, lời hay lỗ, để rồi từ đó rút ra những kinh nghiệm cho những ngày tháng sắp tới.
Cách đây không lâu, nhà nước cũng phát động chiến dịch phê và tự phê, hầu giúp anh em cán bộ cũng như các cơ quan nhận ra những ưu điểm và khuyết điểm, những điều tốt đẹp và những điều sai trái của mình, để rồi từ đó có được một khí thế mới đi vào đường lối chính sách của nhà nước.
Trong dịp cuối năm phụng vụ, Giáo hội cũng muốn chúng ta kiểm điểm lại đời sống, tính sổ cuộc đời và làm bản thống kê những gì mình đã thực hiện.
Bản thống kê này không dựa vào những con số, những báo cáo đầy màu mè lạc quan theo kiểu làm láo báo cáo thì hay. Trái lại, bản thống kê và báo cáo của chúng ta phải xoay quanh lời thánh Phaolô :
- Ngài đã dứt bỏ chúng ta khỏi uy quyền tăm tối và đem trồng chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài.
Một bản tường trình về nếp sống như thế hẳn sẽ làm cho chúng ta ngao ngán, vì nó sẽ lột trần bộ mặt thực của mỗi người chúng ta.
Trong suốt một năm, Giáo hội đã làm cho chúng ta sống lại mầu nhiệm tình thương và cứu độ của Thiên Chúa : Từ Giáng sinh đến chịu nạn, từ Phục sinh đến Hiện xuống, tất cả đều là những giọt mưa tình thương và ơn sủng của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Ngài đã dứt bỏ chúng ta khỏi uy quyền tăm tối và đem trồng chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài.
Suốt 2000 năm qua, biết bao nhiêu người đã từ chối Ngài. Họ thích ở trong tăm tối hơn là bước đi dưới ánh sáng. Họ đã bài xích, đã đả kích Ngài như bọn thượng tế, luật sĩ và lính tráng La mã dưới chân cây thập giá.
Thế nhưng, cũng chính vào lúc đó trời và đất chuyển động, Ngài đã hoàn tất chương trình cứu độ đầy yêu thương mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Ngài đã chiến thắng tối tăm tự cội nguồn của nó. Bóng tối vẫn còn đó và trải dài trên nhân loại. Nhưng nếu chúng ta biết tin tưởng chạy đến với Chúa, bấu víu vào Ngài chúng ta sẽ tìm thấy niềm hy vọng và vui mừng.
Thực vậy, nếu không có Thiên Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ trở thành trống rỗng, chúng ta cắm đầu chạy theo những ảo ảnh phù vân của tiền bạc, danh vọng và lạc thú, để rồi cuối cùng bừng con mắt dậy vẫn thấy mình tay không. Phải chăng đó chính là tác động của bóng tối.
Nếu không có Thiên Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ trở nên căng thẳng và bất ổn. Con người sẽ nhảy từ vui thú này sang vui thú khác, từ mơ ước nọ đến mơ ước kia. Phải chăng đó cũng chính là tác động của bóng tối.
Chúa Giêsu luôn chờ đợi và sẵn sàng nâng đỡ để chúng ta thoát khỏi quyền lực của tăm tối và dẫn chúng ta vào vùng ánh sáng chan hòa.
Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài luôn mở rộng vòng tay để đón nhận mọi người, hầu làm vơi nhẹ gánh nặng đè xuống trên vai và đem lại cho trái tim chúng ta niềm an ủi và bình an.
Ngài đang giơ tay hướng về phía chúng ta và nói với mỗi người chúng ta rằng :
- Cha thương xót con.
Trong từng lời kinh, trong từng tâm tình nguyện cầu chúng ta hãy biết cảm tạ Chúa, bởi vì giữa biết bao ơn lành, Ngài đã cho chúng ta cái vinh dự được làm phần tử trong vương quốc của Ngài. Và hơn thế nữa, chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc đời xem chúng ta đã sống xứng đáng là con dân của Ngài hay chưa ?
Ngày xửa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một: TN 34-ABC8
Ngày xửa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về, họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy phải nuôi cả vợ con nữa”. Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người anh.
Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật không không bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này”. Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.
Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề bị hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.
Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường, khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.
Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đường cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.
Vua Giêsu là Vua Tình Yêu. Chỉ có ai sống yêu thương mới được ở trong vương quốc của Người. Hai anh em trong câu chuyện trên đây quả xứng đáng là thần dân của Vua Giêsu Tình yêu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mô tả cho các môn đệ về ngày cánh chung. Lúc đó, Người sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu. Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển. Muôn dân sẽ qui tụ trước mặt Người, Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.
Thế là quá rõ, Đức Giêsu vừa là Vua vũ trụ, vừa là thẩm phán thế gian. Người tuyển chọn các con dân của Người bằng một phương cách thật bất ngờ, đến nỗi những con chiên ngoan đạo của Người cũng không thể ngờ tới: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?”.
Hóa ra là, từ bấy lâu nay, Chúa hiện thân trong người đói khát, khách lạ, mình trần; trong kẻ đau yếu, tù đày mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu Nước Trời thật đơn giản : Hãy làm những nghĩa cử yêu thương cho anh em, nhất là những người cùng khổ, vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ. Đức Giêsu nói: “Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta”.
Người ta sẽ phải tách biệt ra, chiên hoặc là dê, người lành hay kẻ dữ, người thánh thiện hay kẻ tội lỗi. Điều đó căn cứ vào việc “làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những ai đang cần trợ giúp.
Người ta sẽ phải “ra đi chịu cực hình muôn kiếp” hay là “ra đi để hưởng sự sống muôn đời”, cũng chỉ dựa vào tiêu chuẩn duy nhất ấy, “làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.
Nếu Vua Giêsu ở trong cung vàng điện ngọc, xa rời quần chúng, thì người ta có lý do để thoái thác không làm. Nhưng Người luôn ẩn thân trong những người nghèo hèn, khốn khổ; mà họ đông vô số kể, lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta, thì việc “không làm một cái gì đó” cho anh em khi họ cần đến, lại là một án phạt muôn đời cho những kẻ vô tâm, vô tình.
Nếu Vua Giêsu chỉ xét xử thần dân của Người dựa trên tình yêu, thì ai không biết động lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của anh em, không dám cho đi những gì mình có để cứu giúp những kẻ khốn cùng, không dám xả thân phục vụ những con người bất hạnh, thì họ không thể nào là công dân của Nước Trời.
Chúng ta không giàu có vì những gì mình đã nhận lãnh, mà vì những gì mình đã trao ban. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Nếu con tim chúng ta không đam mê tượng vàng rực rỡ, chúng ta sẽ yêu cuộc đời nhiều hơn, sẽ tha thiết sống trọn vẹn hơn cho anh em. Và cỏ cây lại xanh tươi, nắng chan hòa ấm cúng, con tim reo vui hạnh phúc.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Nói đến tước: TN 34-ABC9
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Nói đến tước hiệu Vua, người ta dễ liên tưởng tới một con người uy phong lẫm liệt, một con người đầy quyền lực trong tay, một con người thống trị bằng bạo lực và gươm giáo. Người ta có lý để nghĩ như vậy, vì lịch sử nhân loại vẫn còn ghi lại những khuôn mặt vua chúa như thế. Nếu dung mạo của một vị vua đáng sợ như vậy thì :
- Tuyên xưng Chúa Kitô là Vua có gợi lên cho con người thời đại dân chủ hôm nay một cảm giác khó chịu lắm không?
- Và lễ Chúa Kitô Vua liệu có mang lại một âm hưởng tốt đẹp nào nơi cõi lòng và nơi cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay không?
Chúa Kitô thực sự là Vua bởi Thánh kinh đã nói đến tước hiệu này nhiều lần. Nhưng Người không phải là vua như các vua chúa trần gian. Trái lại, Người là Vua Tình Yêu. Nước của Người là Nước Tình Yêu. Hiến pháp trong vương quốc của Người cũng là tình yêu. Người đã thể hiện tình yêu ấy trên thần dân của Người là mỗi người chúng ta qua việc giáng sinh làm người, sống giữa con người và sống như con người. Người thể hiện tình yêu qua việc rong ruổi khắp các nẻo đường để xoa dịu và chữa lành những đau thương của kiếp người. Người thể hiện tình yêu qua việc chấp nhận mọi nỗi thống khổ, chấp nhận cái chết tủi nhục và cô đơn trên thập giá để ta được cứu sống. Người không bẻ gẫy cây sậy đã dập nát, không dập tắt tim đèn còn khói. Nghĩa là : Người không nỡ tiêu diệt, không loại trừ con người, dù con người ngụp lặn trong tội lỗi, dù con người phản bội lại tình yêu của Người. Thật vậy, Vua Kitô đã sống tình yêu thương và đã thể hiện tình yêu thương ấy cho đến tột cùng. Và mỗi người chúng ta hôm nay đang được ngụp lặn trong biển cả tình yêu bao la đó.
Điều đó mời gọi chúng ta một lời đáp trả. Mà tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thể hiện tình yêu Chúa một cách cụ thể nơi những người anh em sống bên cạnh mình, những người chúng ta gặp trong cuộc sống, nhất là những người nghèo khổ. Nghèo cơm áo, nghèo sức khỏe, nghèo tình thương, nghèo hiểu biết, nghèo niềm tin, nghèo đạo đức… Có biết bao cảnh đời thê lương đang bày ra trước mắt chúng ta hàng ngày. Bao nhiêu người chết vì đói ăn. Bao nhiêu người quằn quại trên giường bệnh. Bao nhiêu người dù sống trên nhung lụa nhưng luôn khắc khoải, luôn cảm thấy chơi vơi và thất vọng vì thiếu một niềm tin để bám víu. Bao nhiêu người đang phải khóc thầm ngày đêm vì cô đơn, vì thiếu tình yêu, dù họ đang sống giữa một thế giới đầy người…
Những mảnh đời đau thương ấy có thể là người nhà của chúng ta, là người trong cùng xóm ngõ với chúng ta, là người trong cộng đoàn của chúng ta… Biết đâu người ngồi bên chúng ta trong nhà thờ lúc này đang phải chiến đấu kịch liệt với những nghiệt ngã ấy?
Tất cả những con người đau khổ ấy đang van xin chúng ta một ánh mắt thân thiện và cảm thông. Họ cầu cứu chúng ta một sự chia sẻ và giúp đỡ chân thành. Trái tim con người không cho phép chúng ta đóng cửa lòng và nắm chặt bàn tay mình lại. Trái tim của một người con Chúa, một công dân của Nước trời không cho phép chúng ta nhắm mắt làm ngơ, bởi lẽ những con người ấy là anh em của chúng ta, là hiện thân của Chúa chúng ta. “Mỗi lần anh em làm hay không làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Tôi đây là anh em đã làm hay không làm cho chính Tôi”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, suy gẫm về lời dạy của Người trong bài Tin Mừng hôm nay là một cơ hội để chúng ta nhìn lại tình yêu mà mình dành cho tha nhân. Tình yêu tha nhân sẽ là thước đo để xác định tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Đó cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất mà Vua Kitô sẽ căn cứ vào để xét xử chúng ta.
Chúa Giêsu là vua, Ngài có một cung cách làm vua khác các vua chúa trần gian :Ngài là vua một: TN 34-ABC 10
Chúa Giêsu là vua, Ngài có một cung cách làm vua khác các vua chúa trần gian :Ngài là vua một vương quốc không lãnh thổ, không biên giới, Ngài làm vua các tâm hồn. Và Chúa cũng thể hiện cung cách làm vua một cách đặc biệt. Theo quan niệm thông thường, làm vua tức là cai trị. Cai trị cũng hàm ý thống trị, sai khiến. Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm ấy, Ngài nói với các môn đệ: “Trong các con, ai muốn làm lớn thì hãy phục vụ người khác”. Ngài cũng đã nói về chính mình: “Con Người đến không để được phục vụ, nhưng để phục vụ”. Như vậy, theo ý nghĩa Kitô giáo, làm vua chính là phục vụ.
Một điều đặc biệt nữa, Chúa Giêsu là vua, thì mọi người Kitô hữu cũng được tham dự vào chức vụ vương đế của Ngài. Nói khác đi, Chúa Giêsu làm vua, người Kitô hữu cũng làm vua. Mới nghe câu nói này, chắc có người ngạc nhiên phải không? Nhưng đó là sự thật. Người giáo dân làm vua. Nói như thế không phải là nói chơi cho vui hay có ý bôi bác mà là có cơ sở đàng hoàng, đó là nhờ Bí tích Rửa tội, người giáo dân được chia sẻ quyền làm vua của Chúa Giêsu, xin đừng ai nghĩ một cách nông cạn và cho đây là một lối nói xu thời theo kiểu : người công dân làm chủ trong đất nước, thì người giáo dân cũng làm vua trong Giáo Hội. Không phải như thế, người giáo dân làm vua là do tự bản chất Kitô hữu của mình.
Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là làm vua, nhưng là làm vua như thế nào? Chắc chắn người giáo dân không leo lên ngai vàng để sai khiến, để sửa trị người khác, nhưng họ sống trong môi trường của mình và chu toàn sứ mạng làm trung gian. Trước hết, như một ông vua Do thái xưa, người giáo dân chuyển lại ý Chúa cho một người thời đại và làm cho tinh thần Chúa Giêsu thấm nhập vào trong mọi sinh hoạt của con người, khiến cho mọi lãnh vực : văn hóa, kinh tế, chính trị, khoa học… đều qui về Thiên Chúa. Thêm vào đó, người giáo dân phải đóng góp một cách hữu hiệu để mở rộng nước Thiên Chúa, gieo rắc tinh thần công bình, bác ái, niềm tin cũng như yêu thương nơi mọi người. Tóm lại, noi gương các vua Do thái, và nhất là noi gương Chúa Giêsu, người giáo dân hôm nay quyết tâm làm trung gian giữa Thiên Chúa và mọi người. Chúng ta phải Tin Mừng hóa môi trường, và qui hướng mọi sự về Thiên Chúa, trong tinh thần phục vụ đích thực, phục vụ bằng việc làm tốt.
Chúa Giêsu đã rất nhấn mạnh đến phục vụ bằng việc làm tốt, Ngài đã đề cao phục vụ bằng việc làm tốt. Cách phục vụ đó rất thích hợp với óc thực nghiệm của con người, nhất là con người thời nay. Cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã giải thích: “Khi các con cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống là các con đã cho chính Ta ăn, cho chính Ta uống”. Với chi tiết đó, chúng ta thấy những người được Chúa chúc phúc khi phục vụ tha nhân, họ đã không hề có ý nghĩ mình phục vụ Chúa, mà đơn giản có thể chỉ là vì tình người, hoàn toàn là nhân bản. Đơn giản thế thôi, tự nhiên thế thôi. Thật không ngờ, với việc phục vụ thiết thực, cụ thể bằng việc làm tốt như thế đã được Chúa đánh giá rất cao. Chúa gọi kẻ phục vụ như thế là phục vụ cho chính Ngài, được Chúa Cha chúc phúc, được hưởng phúc thiên đàng.
Người ta đã kể lại một câu chuyện như sau : Một hôm, một vị bá tước và một người hầu của ông là Rít-tốp (Christophe) đi xa về vào lúc rạng đông, thì gặp một người ăn xin ngồi bên vệ đường. Người này thấy khách đi qua, đã giơ tay xin làm phúc. Vị bá tước ra lệnh: “Rít-tốp, cứ việc đi”. Nhưng người hầu đã ghì sáu con ngựa lại. Vị bá tước nhổm người lên trong xe và quát lớn: “Rít-tốp, tiếp tục đi, không được ngừng”. Bình thản như không, Rít-tốp tháo đai lưng, cởi áo ngoài, móc ở túi ra một đồng bạc, đưa cho người hành khất và nói: “Thưa anh, vì lòng mến Chúa Kitô”. Rồi Rít-tốp khoác áo lại, buộc đai lưng, cầm cương quất roi cho ngựa tiếp tục lên đường. Đi được một quãng, vị bá tước hỏi Rít-tốp: “Anh nói gì với lão ăn mày vậy?” – “Thưa ngài, tôi đã nói : Thưa anh, vì lòng mến Chúa Kitô”. Nghe thế, như có sức mạnh vô hình thúc bách, vị bá tước ra lệnh quay trở lại. Hai người đã gặp lại người ăn xin vẫn còn ngồi bên vệ đường. Vị bá tước đã dốc vào cái bát gỗ của người ăn xin tất cả số tiền trong túi ông mang theo, và cũng nói như người hầu đã nói: “Thưa anh, vì lòng mến Chúa Kitô”. Rồi ông ra lệnh quay ngựa trở về.
Câu chuyện này, tác giả ca tụng gương cao đẹp của lòng bác ái xác thực. Chúng ta hãy ghi sâu vào trí nhớ, để câu chuyện thành tiếng hô hào lòng bác ái của chúng ta. Nếu tâm hồn chúng ta có thể lập lại không ngừng: “Vì lòng mến Chúa Kitô”., thì lòng yêu người trở nên dễ dàng cho chúng ta hơn. Chúng ta hãy ghi nhớ chân lý này : trong tha nhân, chúng ta gặp chính Chúa Kitô. Chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Chúa Kitô, chúng ta đối xử với tha nhân thế nào là chúng ta đối xử với chính Chúa Kitô. Mỗi khi làm một việc gì cho ai, chúng ta hãy thầm nói: “Vì lòng mến Chúa Kitô”.
Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của: TN 34-ABC11
Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng vụ, với Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới.
Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trình bày việc Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người, Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương, đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình, Ngài là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.
Bài đọc thứ hai đã cho chúng ta biết về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài chúng ta được cứu chuộc, trong sự sống lại của Ngài chúng ta được sống lại, sống lại trong hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương thiên quốc khi tất cả được gom lại để qui tụ vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên thập giá. Khi chúng ta chối từ lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí tích, qua các thánh lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của năm mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong năm mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.
Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương thiên quốc.
Rồi những ngày này, biết bao người anh em của chúng ta đang phải vật lộn với khổ đau vì thiên tai, vì bệnh hoạn, vì bị bỏ rơi…, chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh em đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh em mới có được chén cơm manh áo.
Với tất cả những suy nghĩ dựa trên lời Kinh thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh em.
Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. -------------------------
Người ta phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất cơ bản của con người, trước khi quan tâm đến: TN 34-ABC12
Người ta phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất cơ bản của con người, trước khi quan tâm đến bất cứ loại lối sống nào cao cấp hơn. Nhưng trong nhiều quốc gia, người ta chỉ quan tâm đến những nhu cầu này. Vậy điều này có ý nghĩa gì, khi phải chăng những lời mà Đức Kitô nói về việc cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc không phù hợp nữa? Quả thật là không phải là như thế.
Mẹ Têrêsa Calcutta có những lời đáng ghi nhớ “Thứ bệnh tệ hại nhất trong thế giới ngày nay, đó là cảm giác không được ai mong muốn mình, và sự dữ vĩ đại nhất, đó là thiếu tình yêu thương. Điều mà người nghèo khổ còn cần đến nhiều hơn cả lương thực, quần áo, và nhà ở, đó là được chấp nhận”. Do đó, những lời nói của Đức Kitô phù hợp với thời đại ngày nay hơn lúc nào hết. Chúng ta có thể hiểu về những lời nói đó như sau:
Nhà vua sẽ nói với những kẻ ở bên tả :
“Hãy cút đi cho khuất mắt Ta, vì khi Ta đói, không phải là đói ăn, mà là đói nụ cười, và tất cả điều mà Ta đã nhận được từ nơi các ngươi, chỉ là những cái nhìn chua chát. Ta đói một lời động viên khích lệ, nhưng tất cả điều mà các ngươi làm cho Ta chỉ là những lời phê phán Ta mà thôi. Ta đói một lời đánh giá đúng, nhưng các ngươi không cho Ta một mảy may gì cả.
“Ta khát, không phải là khát thứ nước uống, nhưng là khát một lời nhìn nhận, nhưng tất cả điều mà các người làm chỉ là những lời đay nghiến. Ta khát một dấu hiệu thân thiện, nhưng các ngươi đã phớt lờ Ta. Ta khát một chút nước của tình đồng hành nhưng các ngươi không bao giờ cho Ta lấy một giọt nào.
“Ta là một kẻ xa lạ, và các ngươi đã khước từ không làm bất cứ điều gì cho Ta. Ta là một đứa trẻ nhỏ, và các ngươi đã cấm cản không cho con mình chơi với Ta, vì quần áo của Ta bẩn thỉu. Ta là một kẻ xa lạ, và các ngươi đã không cho phép Ta đi vào sinh hoạt với các ngươi, vì Ta không thuộc về tầng lớp của các ngươi.
“Ta mình trần, không phải vì Ta thiếu thốn quần áo, nhưng vì Ta thiếu giá trị bản thân, và các ngươi đã từ chối che chở Ta. Ta bị tước đoạt sự tự tin, và các ngươi đã tạo cho Ta cảm giác ớn lạnh của cơn gió chê trách. Ta mình trần, vì bị mất mát danh tiếng tốt đẹp của Ta, qua những lời đồn thổi không đúng sự thật về Ta, và các ngươi đã từ chối mặc cho Ta quần áo của sự thật.
“Ta bị đau yếu, không phải trên cơ thể, nhưng vì bị nghi ngờ và lo lắng, và các ngươi lại còn không bao giờ nhìn nhận ra. Ta bị thương tích do bị thất bại và thất vọng, và các ngươi đã không quan tâm đến Ta. Ta bị đắm chìm trong sự trầm cảm, khao khát một cách tuyệt vọng loại thuốc của niềm hy vọng, và điều mà các ngươi làm chỉ là chỉ trích Ta mà thôi.
“Ta là một tù nhân, nhưng không phải là phía sau những song sắt nhà tù. Ta là một tù nhân của sự căng thẳng thần kinh, và các ngươi đã xa lánh Ta. Ta là một tù nhân của nỗi cô đơn, và các ngươi đã nhún vai lạnh lùng đối với Ta. Ta là một tù nhân của tội lỗi, và các ngươi có thể giải phóng Ta bằng cách tha thứ cho Ta, nhưng các ngươi cứ để cho Ta mòn mỏi đợi chờ ở đó để trừng phạt Ta.
“Ta là kẻ không nhà, không phải vì Ta muốn có một mái nhà bằng gạch, nhưng Ta mong muốn tình âu yếm và thiện ý, và các ngươi đã bỏ mặc Ta ở bên ngoài trong cảnh lạnh lẻo. Ta là kẻ không nhà, vì mong muốn được thông cảm và thấu hiểu, và các ngươi đã đối xử với Ta như thể Ta chỉ là một khúc gỗ. Ta là kẻ không nhà, vì mong muốn yêu thương và đón nhận, và các ngươi đã khóa trái cánh cửa tâm hồn đối với Ta.
Thế rồi nhà vua sẽ nói với những người ở bên hữu :
“Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc. Vì khi Ta đói một nụ cười, các ngươi đã cho Ta. Ta đói một lời khích lệ, và các ngươi đã khen ngợi Ta. Ta đói một lời đánh giá, các ngươi đã cám ơn Ta.
“Ta khát một lời nhìn nhận, và các ngươi đã chú ý đến Ta. Ta khát một dấu hiệu thân thiện, và các ngươi đã viết thư cho Ta. Ta khát một chút nước của tình đồng hành, và các ngươi đã ngừng lại để nói chuyện với Ta.
“Ta là một kẻ xa lạ, và các ngươi đã làm cho Ta cảm thấy được đón nhận. Ta là một thanh niên đến từ một khu vực nghèo khổ, và các ngươi đã cho Ta một công việc làm ăn. Ta thuộc về tầng lớp bên dưới các ngươi, nhưng bằng thái độ tiếp nhận của mình, các ngươi đã làm cho Ta mạnh dạn hơn.
“Ta mình trần, vì mong muốn có lòng tự trọng, và các ngươi đã che chở Ta bằng sự tự nhận thấy mình có giá trị. Ta bị tước đoạt sự tự tin, và các ngươi đã mặc cho Ta loại áo choàng của lòng tự tin. Ta mình trần, vì bị mất mát danh tiếng tốt đẹp của Ta, qua những lời đồn thổi không đúng sự thật về Ta, và các ngươi đã mặc cho Ta thứ quần áo của sự thật.
“Ta bị đau yếu, vì nghi ngờ và lo lắng, và với thái độ vui vẻ, các ngươi đã làm nhẹ bớt gánh nặng của Ta. Ta bị thương tích do bị thất bại và thất vọng, và bằng thái độ nâng đỡ, các ngươi đã làm cho Ta được lành mạnh. Ta đã ở trong hố sâu của sự trầm cảm, và bằng thái độ nhẫn nại, các ngươi đã đem đến cho Ta niềm hy vọng.
“Ta là một tù nhân của những căng thẳng, và qua thái độ trấn an, các ngươi đã giải thoát cho Ta. Ta là một tù nhân của nỗi cô đơn, và qua tình thân thiện, các ngươi đã giải tỏa cho Ta. Ta là một tù nhân của tội lỗi, và qua sự tha thứ, các ngươi đã bẻ gãy những dây xích của tội lỗi Ta.
“Ta là kẻ không nhà, vì mong muốn tình âu yếm và thiện ý, và các ngươi đã ôm ấp Ta. Ta là kẻ không nhà, vì mong muốn được thông cảm và thấu hiểu, và các ngươi đã lắng nghe Ta. Ta là kẻ không nhà, vì mong muốn yêu thương và đón nhận, và các ngươi đã đưa Ta vào tâm hồn của các ngươi”.
Có rất nhiều điều mà chúng ta có thể làm, nếu chúng ta có ý thức hơn, và nhạy cảm hơn. Vấn đề không phải là đem cho người ta các thứ đồ vật, mà là đem cho chính bản thân mình – thì giờ, năng lực, và tình yêu của chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ phục vụ chính Đức Kitô, và góp phần xây dựng vương quốc của Người.
Khi kết thúc cuộc sống, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái. -------------------------
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện thật đẹp, có tựa đề là “Vị hoàng tử hạnh phúc”. Trong suốt: TN 34-ABC13
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện thật đẹp, có tựa đề là “Vị hoàng tử hạnh phúc”. Trong suốt cuộc đời mình, vị hoàng tử này đã sống một cuộc sống được che chở. Khi hoàng tử qua đời, người ta đúc một bức tượng của ông, và đặt ngay tại quảng trường chính của thủ đô. Trên bức tượng, được dát đầy những chiếc lá bằng vàng. Trên đôi mắt, có hai hòn ngọc bích, và một viên hồng ngọc đính trên cán thanh gươm.
Một buổi tối tiết trời lạnh lẻo, trên đường bay về phía nam, một con chim sẻ đáp xuống chân bức tượng. Khi con chim này đang đậu ở đó, thì có vài giọt nước rớt trên mình nó. Con chim ngước mắt nhìn lên, và nhận thấy vị Hoàng tử hạnh phúc đang khóc.
Con chim sẻ hỏi “Tại sao hoàng tử lại khóc vậy?”
Vị hoàng tử nói “Khi còn sống, ta không hề biết đến đau khổ. Nhưng từ khi đến đây, ta nhận thấy có rất nhiều nỗi bất hạnh trên thế gian này. Ta rất muốn giúp đỡ họ, nhưng không thể được, vì đôi chân của ta bị chôn chặt vào cái bệ này rồi. Ta cần có một sứ giả. Ngươi sẽ trở thành sứ giả của ta chứ?”
Con chim sẻ trả lời “Nhưng tôi phải bay sang Ai cập”.
“Xin vui lòng ở lại với ta đêm nay”.
“Được thôi. Vậy tôi có thể làm được gì cho ngài?”
“Trong căn phòng kia, có một bà mẹ đang săn sóc đứa con bị đau yếu. Bà ấy không có tiền trả cho bác sĩ. Ngươi hãy lấy viên hồng ngọc trên cán thanh gươm của ta, và đem đến cho bà ấy”.
Con chim sẻ dùng mỏ gắp viên hồng ngọc ra, rồi mang tới cho người phụ nữ, và bà ấy rất vui mừng. Bà đã mời được bác sĩ đến, và con bà được chữa khỏi bệnh. Con chim sẻ bay trở lại và ngủ vùi. Hôm sau, hoàng tử lại yêu cầu con chim ở lại một đêm nữa. Rồi hoàng tử nhờ con chim lấy một trong hai hòn ngọc bích, đưa tới cho một cô gái nhỏ bán diêm sống ở quảng trường. Cô bé không hề bán được cây diêm nào trong ngày hôm đó, và đang sợ rằng sẽ bị đánh đập khi trở về nhà. Một lần nữa, con chim lại làm theo lời hoàng tử yêu cầu.
Sau khi làm xong những việc thiện rồi, đôi mắt của con chim được mở ra. Nó nhìn thấy rất nhiều cảnh nghèo nàn và khổ sở trong thành phố. Sau đó, nó vui lòng ở lại và trở thành một sứ giả của hoàng tử. Khi hoàng tử thúc giục, con chim lại nhặt từng chiếc lá vàng mỏng, rồi đem đến cho người nghèo khổ.
Cuối cùng, vào một buổi tối nọ, con chim bay trở lại. Nhưng đến lúc này, bức tượng đã hoàn toàn trống trơn, vì đã lột sạch không còn một món đồ trang trí nào. Ban đêm trời rất lạnh. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy con chim sẻ nhỏ bé chết ngay dưới chân bức tượng. Vị hoàng tử đã cho đi tất cả tài sản của mình, nhưng không thể nào thực hiện được như vậy, nếu không có sứ giả của mình, đó là con chim sẻ nhỏ bé.
Trong khi còn tại thế, Đức Kitô, Vua của chúng ta, đã tự hiến bản thân mình. Ngay cả khi đã qua đời rồi, Người vẫn còn ban chính mình Người cho những ai tiếp nhận Người. Và từ nơi thiên đàng cao vời, Người vẫn nhìn thấy nỗi khốn khổ của con cái Người trên trái đất này. Nhưng đôi chân Người đã bị cột chặt, đôi tay Người bị trói, và lưỡi của Người im lặng. Người cần đến những sứ giả. Người dẫn đến chúng ta. Người không còn đôi tay nào nữa, ngoại trừ đôi tay của chúng ta, không còn đôi chân nào nữa, ngoại trừ đôi chân của chúng ta, Người không còn lưỡi nữa, ngoại trừ lưỡi của chúng ta. Và những tài sản đó là của chính Người, chứ không phải là của chúng ta, mà chúng ta được mời gọi để phân phát – tình yêu thương, ơn tha thứ, lòng khoan dung, những tin vui…
Điều này có liên quan đến việc giúp đỡ người khác bằng những việc đơn giản, mà chúng ta luôn sẵn có để đem đến cho tất cả mọi người – cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, đón tiếp khách lạ, hoặc thăm viếng người bị đau yếu hoặc tù tội…
Để làm những công việc này, người ta không cần phải giàu có hoặc có tài gì cả. Tất cả những gì người ta cần đến, chỉ là có một tấm lòng nồng nhiệt và thái độ luôn sẵn sàng giúp đỡ. Mọi người đều có thể làm được điều gì đó – vâng, ngay cả một con chim sẻ bé nhỏ cũng làm được.
Sự kiện Đức Giêsu trở thành người, và đến sống giữa chúng ta, có nghĩa là Người chấp nhận rủi: TN 34-ABC14
Sự kiện Đức Giêsu trở thành người, và đến sống giữa chúng ta, có nghĩa là Người chấp nhận rủi ro là không ai nhận biết được con người đích thực của Người. Chúng ta không gặp vấn đề gì trong việc nhận ra Đức Kitô ở trong nhà thờ. Nhưng khi chúng ta gặp gỡ Người ở ngoài đường phố, đôi khi Người chìm đắm trong số những người nghèo nàn và đau khổ, thì chúng ta lại miễn cưỡng, ngay cả trong việc chào hỏi Người.
Khi trở thành người lãnh đạo Quốc hội Nam Phi (ANC) lúc đó còn đang bị cấm đoán, Nelson Mandela vẫn còn khá trẻ. Đến một giai đoạn nào đó của cuộc đấu tranh, ông bị bắt buộc phải trốn tránh. Trong suốt thời gian đó, ông đã sử dụng nhiều cách hóa trang khác nhau. Nói chung, ông cố giữ cho mình càng có vẻ nhếch nhác bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Ông biết rằng khi làm như vậy, người ta thường không nhận ra ông.
Một lần kia, ông tham dự một cuộc mít tinh tại một nơi xa xôi của Johannesburgh. Một vị linh mục đã sắp xếp với các bạn bè của ông, để đến cầu nguyện với ông vào ban đêm. Tuy nhiên, khi Mandela đến nhà, thì người phụ nữ lớn tuổi ra mở cửa nhìn ông và tuyên bố “Chúng tôi không muốn loại người như ông đến đây!”. Và bà ta đóng sập cửa lại ngay trước mặt ông. Sau đó, khi phát hiện ra rằng người đó chính là ông, thì bà ta đã tỏ ra e ngại và nói với ông “Nếu tôi chỉ biết được rằng đó là ông, thì tôi sẽ bố trí cho ông một căn phòng tốt nhất trong nhà”. Mandela đã không để cho những sự kiện như vậy làm nản lòng ông.
Mặc dù đã hóa trang bằng nhiều cách, nhưng có những người bạn vẫn nhận ra ông. Chẳng hạn, một lần kia, ông đóng vai một người tài xế ở Johnnesburgh. Khi đội mũ và mặc một cái áo khoác dài đầy bụi bặm, và chờ đợi đón khách ở một góc đường, ông nhìn thấy một anh cảnh sát người Châu Phi đang sải bước chân cố tình đi về phía ông. Ông nhìn chung quanh xem có chỗ nào đó để chạy không, nhưng sau đó, người cảnh sát này lại mỉm cười với ông, và len lén đưa nắm tay lên chào ông theo kiểu ANC, rồi ra đi. Những sự kiện như vậy đã xảy ra nhiều lần, và Mandela an tâm khi biết rằng ông được nhiều người Châu Phi trung thành với mình.
Chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu cũng có nhiều cách hóa trang khác nhau. Vậy các bạn bè của Người phải nhận ra Người bằng cách nào? Đây là điều tương đối dễ dàng. Người luôn luôn đặt mình trong tư thế của một người có nhu cầu – nhu cầu có thức ăn, có nước uống, có nhà ở, hoặc nhu cầu được đón tiếp, được thăm viếng…
Người phụ nữ nói với Mandela “Nếu tôi chỉ biết được rằng đó là ông”. Chúng ta cũng nghe được những lời này trong bài Tin Mừng hôm nay “Lạy Chúa, nếu chúng con biết rằng đó là Chúa, thì chúng con không bao giờ cư xử với Người như vậy. Nhưng chúng con lại nghĩ rằng đó chỉ là một người bình thường nào đó, không đáng cho chúng con giúp đỡ”. Nhưng Đức Giêsu đã nói rằng các môn đệ của Người sẽ bị phán xét theo đúng cách đáp ứng của họ đối với những người này – kẻ nghèo khổ, thấp kém, không quan trọng.
Thật dễ dàng trong việc cư xử tử tế với nhân vật quan trọng, đó là những người có hoặc sẽ có một hình thức đáp trả lại nào đó. Nhưng sẽ thành vấn đề, khi phải cư xử tử tế với những người mà chúng ta không thể trông mong được đáp trả lại, có lẽ ngay cả một lời cám ơn cũng không có. Người không quan tâm thì có đầy những lý lẽ để biện hộ. Hầu như những người thực sự quan tâm đến việc giúp đỡ người khác, thì luôn biết nhận lỗi về tấm lòng tốt của mình “Lạy Chúa, khi nào chúng con nhìn thấy Chúa đói để cho Chúa ăn”. Họ cảm thấy bối rối nếu bạn khen ngợi họ. Họ không muốn bất cứ một sự đối đãi đặc biệt nào về việc này. Không bao giờ lòng bác ái lại đáng yêu cho bằng khi người ta mất ý thức rằng họ đang thực hành đức ái.
Đến ngày phán xét, người ta bị kết án không phải vì các tội lỗi đã vi phạm, mà vì các tội lỗi do thiếu sót. Chúng ta phải tập trung làm việc lành, hơn là tránh làm điều ác. Chúng ta đừng chờ đợi những cơ hội lớn lao, mà hãy tận dụng những cơ hội nhỏ bé đến với chúng ta mỗi ngày – những cơ hội để sống thân thiện, giúp đỡ, ân cần, sẵn sàng tiếp tay với người khác.
Từ đó, chúng ta có thể làm dịu được nỗi khổ đau do cô đơn và buồn phiền, mà những người tốt thường trải qua khi tuổi đời xế bóng, vì đã không làm được những việc mà đáng lẽ họ phải thực hiện.
Dựa vào các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể mô tả một vị vua lý tưởng và một nước lý: TN 34-ABC15
- Vị vua ấy không chễm chệ ngự trị trong cung điện và trên ngai vàng, nhưng hòa mình với dân như một người mục tử sống với chiên, lo cho chiên và đồng hành với chiên.
- Vị vua ấy không bắt dân phải cung phụng và phục dịch mình, nhưng xả thân chăm sóc đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho dân.
- Luật trong nước của vua ấy không rườm rà và khắt khe, nhưng là luật yêu thương, rất đơn giản và ngọt ngào.
- Dân trong nước ấy không hoan hô bằng miệng, không báo cáo bằng giấy bút, nhưng thực hiện luật yêu thương một cách cụ thể bằng những việc giúp đỡ những người khốn khổ bé mọn.
- Mọi người trong nước ấy đối xử với nhau một cách vừa tôn trọng vừa thương mến như đối xử với chính Chúa vậy.
Hình ảnh lý tưởng ấy không phải là hoàn toàn ảo tưởng : Vị vua lý tưởng ấy chúng ta đã có rồi, đó là Chúa Giêsu; luật lý tưởng ấy chúng ta cũng đã có rồi, đó là luật yêu thương; chỉ còn thiếu một điều là chúng ta phải cố gắng làm những công dân lý tưởng như Chúa đã dạy.
Mẹ Têrêsa nói : Ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
Hẳn ai trong chúng ta cũng kinh nghiệm ít nhiều về điều ấy. Liên quan đến chủ đề này, đại: TN 34-ABC16
Hẳn ai trong chúng ta cũng kinh nghiệm ít nhiều về điều ấy. Liên quan đến chủ đề này, đại thi hào Ta-go của Ấn Độ có thuật một câu chuyện đầy thi vị như sau:
Có một người hành khất nọ ngày ngày vác bị đi xin bố thí. Một lần nọ, đang trên đường hành khất, người ấy trông thấy xa giá của Đức Vua đi kinh lý đang tiến về phía ông. Lòng người hành khất bỗng khấp khởi mừng vui hy vọng: "Phen này, với của bố thí vua ban, ta sẽ không còn phải ngày ngày lê gót hành khất nữa!" Thế nhưng khi giáp mặt với người hành khất, Đức Vua đã chẳng bố thí gì; trái lại, ngài ngửa tay xin ông chia sẻ điều ông có trong bị. Quá bất ngờ, người hành khất lúng túng thọc tay vào bị, bốc đại một hạt lúa, rồi đặt vào tay Đức Vua. Đoạn Đức Vua ngự trở lại lên xa giá tiếp tục cuộc kinh lý.
Chiều đến, khi trở về túp lều dột nát của mình, người hành khất kiểm kê những gì đã xin được. Trước sự ngạc nhiên vô cùng của ông, ông nhìn thấy lấp lánh dưới đáy túi một hạt gạo bằng vàng. Thì ra khi ông trao cho Đức Vua một hạt lúa, ngài đã kín đáo đặt trở lại vào túi của ông một hạt vàng. Lúc ấy người hành khất bật khóc và tiếc nuối: "Phải chi tôi đã dâng cho vua tất cả những gì tôi có cho rồi!"
Tương tự như câu chuyện trên, bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy những bất ngờ
Trong ngày phán xét: cả hai nhóm người lành, dữ đều được xét xử dựa trên điều họ không ngờ tới; chỉ khác một điều là nếu sự bất ngờ đó đem lại mối phúc cho nhóm này, thì nó lại mang đến sự bất hạnh cho nhóm kia. Cũng như trường hợp của người hành khất, sự bất hạnh đã rơi xuống trên nhóm người, do không ngờ, đã bỏ sót điều lẽ ra họ nên làm, khi hãy còn thời giờ và cơ hội. Nhưng bây giờ thì... đã muộn!
Đức Vua của người nghèo
Bài Tin Mừng của ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trình bày hình ảnh Chúa Kitô như vị Vua của người nghèo; tự đồng hoá mình với người nghèo và xét xử mỗi người theo thái độ của họ đối với người nghèo.
Thực ra hai hình ảnh "chiên" và "dê", biểu trưng cho hai nhóm người trong dụ ngôn, được vay mượn từ một thực tế quen thuộc với nhóm thính giả Do Thái của Đức Giêsu. Thông thường, một mục tử chăn dắt cả chiên lẫn dê trong đồng cỏ. Chiều đến, họ thường tách chiên ra khỏi dê, để đưa chúng vào trú đêm ở nơi kín gió hơn, còn dê thì có thể để bên ngoài, vì chiên chịu lạnh kém hơn dê. Để phân chia đàn vật, người mục tử thường dựa vào màu lông của mỗi giống: chiên thường màu trắng; dê thường màu đen. Còn trong ngày chung thẩm, đâu là tiêu chuẩn phân chia người sẽ được đưa vào cõi phúc và kẻ sẽ bị bỏ lại?
Đối với những kẻ đi theo Người, Đức Giêsu đã nhiều lần nói về tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: đó là những người thi hành ý muốn của Cha, Đấng ngự trên trời, chứ không phải là những kẻ chi thưa thốt ngoài môi miệng: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" (Mt 7,21-22); đó là những ai mạnh dạn tuyên xưng Đức Giêsu trước mặt người đời, vì chính Người sẽ tuyên xưng họ trước mặt Thiên Chúa (Mt 10,32-33); đó là những người chịu bách hại vì Danh Đức Giêsu và bền đỗ đến cùng (Mc 13,13). Tất cả những tiêu chuẩn trên đều liên quan đến giới luật "kính mến Chúa trên hết mọi sự" và chấp nhận mọi hệ quả của việc sống theo giới luật đó. Còn trong dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đề cập đến một tiêu chuẩn xét xử khác, chung cho mọi dân nước (c.32), tức là cho kẻ tin lẫn kẻ chưa nhận biết Chúa Kitô. Tiêu chuẩn này liên quan đến một giới luật liên hệ chặt chẽ với giới luật trước, đó là "yêu tha nhân như chính mình."
Khi bày tỏ tiêu chuẩn thứ hai này, Đức Giêsu đã minh chứng Người là Đức Vua của người nghèo, luôn quan tâm đến hoàn cảnh đáng thương, cần được giúp đỡ của những người bé mọn. Quan tâm ấy của Người không chỉ thể hiện trong ngày chung thẩm, nhưng chính Người đã sống mối bận tâm đó từng ngày, trong cuộc đời dương thế của Người. Các Tin Mừng có thể cho ta nhiều bằng chứng về điều ấy: Người đã cho đám đông đói lả được no nê cơm bánh và Lời Chúa (Mt 14,13-21); đã giải tỏa cơn khát khao chân lý của người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4); đã tiếp rước một Giakêu thu thuế bị đồng bào khinh miệt và kể như người xa lạ (Lc 19,1-10); đã mặc lại chiếc áo nhân phẩm cho người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang (Ga 8,1-11); đã làm biết bao phép lạ xoa dịu cơn đau của những người đau yếu; cuối cùng, Người cũng đã giải thoát nhiều trường hợp bị giam cầm trong xiềng xích của quỉ dữ (Mt 18,28-34) v.v... Tóm lại, khi mang đến cho những con người nói trên những ích lợi về phần xác, Đức Giêsu còn đồng thời làm thỏa mãn những nhu cầu tinh thần và tâm linh của họ.
Ngoài việc quan tâm đến những người bé mọn, Đức Giêsu còn tự đồng hoá mình với những con người ấy, đến độ nếu ai đó làm một việc lành cho họ, thì là làm cho chính Người (c. 40). Với việc tự đồng hóa trên, Người cũng đã biến hai giới luật Mến Chúa và yêu người nên một. Kể từ đó, kẻ mến Chúa cũng phải yêu thương tha nhân, vốn được dựng nên theo hình ảnh Chúa; còn kẻ làm một điều tốt cho tha nhân cũng chính là làm cho Đấng đã tự đồng hóa mình với những người bé mọn. Tiêu chuẩn phán xét giờ đây, đã rõ: "Thiên Chúa sẽ đong lại cho mỗi người bằng chính "đấu tình thương" mà người ấy đong cho tha nhân (Mt 7,2). Tiêu chuẩn này cũng am hợp với mối phúc thứ Năm: "Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương." (Mt 5,7)
Tình yêu sẽ không sợ những bất ngờ
Mẫu gương của nhóm người thứ nhất trong dụ ngôn (chiên) cống hiến cho chúng ta một bài học quí giá: đó là nếu luôn sống theo thúc đẩy của lòng mến, ta sẽ không phải sợ hãi những bất ngờ; kể cả những bất ngờ trong ngày chung thẩm. Hơn thế, một nếp sống theo thúc đẩy của Tình Yêu cũng sẽ giải phóng ta vượt qua mọi nỗi sợ, ngay cả nỗi sợ lớn nhất là phải xóa mình, như câu chuyện sau của Bích Hà minh chứng.
"Chỉ còn mấy ngày nữa là Bích Hà đi khám sức khỏe. Đã nhiều năm mòn mỏi ở trại tị nạn, cô trông mong từng giờ từng phút, ngày sẽ được đi định cư ở một nước thứ ba. Từ lâu nay, cô có thói quen mỗi chiều nấu một bát cháo nhỏ để đi thăm một người bệnh lao, phải sống cách ly trong một túp lều ở cuối trại. Nhưng chiều nay cô bỗng thấy lưỡng lự. Cái ý tưởng sẽ bị nhiễm vi trùng lao và sẽ "rớt" trong lần khám sức khoẻ tới khiến cô rùng mình: hy vọng được đi định cư của cô lúc đó ắt hẳn sẽ sụp đổ. Bỗng nhiên lời phán xét của Chúa trong bài dụ ngôn hôm nay vang lên trong tai cô: "Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm." Suy gẫm lời đó, cô lấy lại được can đảm để tiếp tục cuộc thăm viếng mỗi ngày: cô đã nhận ra được nơi người bệnh lao bị bỏ rơi đó, hình ảnh của chính Chúa Giêsu đang cần đến sự ủy lạo của cô. Kể từ sau kinh nghiệm này, Bích Hà không còn sợ hãi gì nữa; ngay cả ý nghĩ phải hy sinh mạng sống vì tình yêu tha nhân cũng không làm cô sợ sệt. Hiện nay, Bích Hà là một điều động viên năng nổ của phong trào Focolare (do chị Chi-Lan Lưu Bích sáng lập) ở miền Đông Canađa."
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn học được bài học gì từ "người hành khất" trong câu chuyện của Ta-go, cũng như từ "những người đứng bên trái" (dê) trong dụ ngôn về ngày chung thẩm? 2. Qua câu chuyện của Bích Hà, cũng như trong cuộc sống của bạn, đâu là những khó khăn khách quan và chủ quan khiến khó thực thi Lời Chúa dạy hôm nay? Theo bạn, làm sao để có được sức mạnh vượt qua những khó khăn đó?
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực: TN 34-ABC17
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả... Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.
Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa - cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia... - nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.
Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác?
Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: "Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!"
Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.
Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34).
Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)
Vị Vua này tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành" (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.
Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng.
Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.
Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông.
Vua- lòng- tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.
Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa: TN 34-ABC18
1. Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?
2. Thiên Chúa phân biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo tiêu chuẩn ấy có hợp lý không?
3. Qua bài Tin Mừng này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?
Suy tư gợi ý:
1. Viễn cảnh cánh chung: phân biệt chiên và dê
Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: «cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm» (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?
2. Tiêu chuẩn để phân loại
Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
- ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.
- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3. Đó là tiêu chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai không tin
a) Tin vào Đức Giê-su là điều kiện để được cứu độ
Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.
b) Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm
Người ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích thực: «Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính» (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại «đức tin rẻ tiền», là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ «đức tin đắt giá», không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: «Đức tin không việc làm là đức tin chết» (Gc 2,14.17).
c) Việc làm của đức tin là việc làm gì?
Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giê-su chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp . Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.
Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su bên cạnh chúng ta. Đức Giê-su xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.
Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giê-su nói: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giê-su với những người khác.
Cầu nguyện
Tôi nghe Đức Giê-su nói với tôi: «Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy».
Sự săn sóc của Chúa. Ngài nói: Đây, Ta sẽ chăm sóc chiên của và thân hành kiểm điểm/ The Lord's Care: TN 34-ABC19
Bài đọc 1: Ez. 34, 11- 12; 15- 17= Sự săn sóc của Chúa. Ngài nói: Đây, Ta sẽ chăm sóc chiên của và thân hành kiểm điểm./ The Lord's Care. Yahweh says this: I myself will will care for My sheep and watch over them. Bài đọc 2: 1 Cor. 15, 20- 26; 28= Đức Kitô hoa quả đầu mùa. Mỗi người sẽ theo thứ tự của mình, mở đường là Đức Kitô Vua thống trị, sau khi Người sống lại và sẽ đến lần thứ hai./ Christ the First Fruits . Paul teaches that one in proper order, Christ reign as King, inaugurated with His resurrection, will last until His second coming. Tin Mừng (Gospel ): Mat. 25, 31- 46= Ngày Phán xét chung. Một quang cảnh tuyệt đẹp, Đức Kitô, Vi Thẩm Phán Tối Cao đến lần thứ hai,. Tin Mừng cuối năm Phụng vụ nhắc bạn hãy xét lại chính mình./ The Last Judgment. The beautiful imaginative scene, the second coming of Jesus, the supreme law of love.Should judge ourselves.
A.Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Ngày Quang Lâm, Đức Vua phán với những người ở bên phải: "Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn,Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước." Câu Phúc âm này hấu hết ai cũng thuộc lòng, tuy rất cần thiết, nhưng ít ai lưu tâm thực hành. Tôi đã áp dụng câu này cho anh em được bao nhiêu? ỀFor I was hungry you gave me food, I was thirty you gave drink, I was a tranger you welcome. (Mat. 25, 31)
2/ Những người bên trái thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ trần truồng... mà không phục vụ Chúa đâu?" Phần lớn người Tín hữu chỉ quen thấy Chúa ở trong nhà thờ, mà ít để ý nhìn thấy Ngài trong gia đình và xã hội. Bạn cần làm gì cho tha nhân ở hải ngoại và quê hương VN? Lord, when did we see you hungry or thirsty or away from home or naked or ill or in prison... (Mat. 25, 44 )
3/ Đức Chúa phán qua Tiên tri Êzêkien như sau: "Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta. Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê." Hôm nay ai cũng nghĩ mình là con chiên ngoan đạo, chứ không thấy mình là dê. Nếu bây giờ Chúa gọi, tôi được xếp vào là chiên, cùu hay dê ? As for you, my sheep, ... I will judge between one sheep and another, between rams and goats. ( Ed. 34, 17)
4/ Trong thư gởi Giáo đoàn Corintô, thánh Phaolô viết: "Mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên kết với Đức Kitô, sẽ được Chúa cho Sống. " Nhiều người hôm nay đang đi vào cõi chết với những thù hằn, ghen ghét, gây bao thảm họa... Bạn đang làm gì để xây dựng gia đình và xã hội trần thế? Just as Adam all die, so in Christ all will come to life again. ( 1 Cor.15, 22 )
B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn để Sống tuần này; ( The Best God's Word ) TA ĐÓI CÁC NGƯƠI ĐÃ KHÔNG CHO ĂN, TA KHÁT CÁC NGƯƠI ĐÃ KHÔNG CHO UỐNG. (Mat.25,42) I was hungry and you gave Me no food, I was thirsty and you gave Me no drink
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để xứng đáng đón Chúa: ( So what am I doing / For action)
a/ Tôi có thể chọn 1 trong Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành tuần này. b/ Bạn cần thực hiện ngay những việc bác ái cho người đang cần Sức Sống trong gia đình và giáo xứ trước.
D. Tôi cầu nguyện nhiều cho tuần này và Sống lời tôi Cầu xin : ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, ngày phán xét chung, Cha sẽ nói : Vì ngày xưa Ta đói các ngươi đa cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Xin giúp con biết làm ngay những việc này cho gia đình và tha nhân.
2/ Tiên tri Ê-zê-ki-en đã nói về Đức Chúa phán như sau: Đây chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Xin dạy cho con luôn chu tòan luật của Chúa là mỗi ngày chia sẻ với anh em cùng khổ trong cuộc sống của con.
Lời hay ý đẹp: SỰ CỨU RỖI ĐẮT GIÁ VỚI THIÊN CHÚA NHƯNG LẠI MIỄN PHÍ ĐỐI VỚI CHÚNG TA Our salvation was costly to God but it is free to us.
Danh từ vua xem ra không còn hợp thời với một thế giới văn minh, một nhân loại đang bước nhảy vọt: TN 34-ABC20
Danh từ vua xem ra không còn hợp thời với một thế giới văn minh, một nhân loại đang bước nhảy vọt không ngừng. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn số nước giữ ngôi vua như một danh dự, một tưởng nhớ về một thời xa xưa khi vua có nhiều quyền hành đến nỗi thần dân ra đường không dám nhìn mặt vua. Hội Thánh đã để riêng chúa nhật cuối chu kỳ phụng vụ để tôn vinh Chúa Giêsu Kitô vua vũ trụ.
MỘT VĐ VUA NHÂN TỪ, KHIÊM TỐN KHÔNG QUYỀN LỰC
Xét về mặt tự nhiên,ai mà chả thích làm lớn, ai chẳng thích quyền hành, thích làm vua với đầy quyền uy, nhiều thần dân trong tay. Chả thế, các môn đệ đã tranh luận dài dài xem ai sẽ làm lớn trong vương quốc của Chúa Giêsu, một vương quốc mà các môn đệ cứ tưởng rằng Chúa sẽ tới để thiết lập Đế Vương, rồi các môn đệ sẽ dành nhau ghế này, ghế nọ trong vương quốc ấy. Vua khi Chúa cưỡi lừa vào thành thánh Giêrusalem trước khi chịu nạn, dân chúng lót áo trải đường, trẻ nhỏ Do Thái tay cầm lá vạn tuế tung hô vị vua cứu tinh của họ, nhưng quả thực Chúa Giêsu không hề có ý nghĩ làm vua theo kiểu trần gian, theo kiểu con người trần tục dù rằng gốc gác Người là dòng dõi vua Đavít.Philatô đã chẳng tò mò hay vì muốn kiếm cớ để kết tội Chúa Giêsu khi ông hỏi Chúa: "Ông có phải là vua dân Do Thái không ?"( Mt 27, 11 ).Chúa Giêsu vẫn đương nhiên là vua vũ trụ, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Chúa Giêsu càng cho nhân loại hiểu về vai trò vua của Ngài, về giáo lý, về gốc gác của Ngài:" Khi Ta đói...Khi Ta khát...Khi Ta mình trần..Khi Ta bị tù đầy...Khi Ta không nơi trọ..". Đạo lý của Ngài là như vậy vì Chúa tự đồng hóa mình với những con người khó nghèo, người lê thứ, người rốt hết trong xã hội. Có ở trong thân phận của những con người ấy, người ta mới hiểu được Chúa-vua-vũ trụ-vua-con người. Đây là cái nghịch lý lớn lao nhất của cuộc đời, của Con-Người-Chúa, Con-Người-Vua.
Hiểu Con-Người-Vua-Kitô của Chúa Giêsu, ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạng cao cả Chúa Cha trao phó cho Ngài. Vua là để hầu hạ, để phục vụ. Cái chết cuối cùng trên thập giá diễn tả ý cao sâu nhất:" Ta là vua ", vua để hy sinh, chịu chết:" Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta ".Vua là để mang lại hạnh phúc cho người khác.
MỘT VỊ VUA TRÊN MỌI VỊ VUA
Đối diện với vương quốc sự thật của Chúa Giêsu là vương quốc phi nhân của tà thần, của quỉ ma, của satan. Chúa Giêsu đã làm nổi bật ý nghĩa của vương quốc sự thật: hiền lành, khiêm nhượng, chân thật, bác ái, chia sẻ, quảng đạiẨChúa Giêsu luôn làm nổi bật ý nghĩa vương quốc của Ngài vì rằng vương quốc của Chúa Giêsu là vương quốc thiên giới, linh thiêng, vương quốc không thuộc thế gian này.Chúa Giêsu đã biến vương quốc của Ngài thành vương quốc tình yêu.Một thế giới trong đó, vị vua là Chúa Giêsu luôn nghĩ tới mọi người, nhất là những con người nghèo hèn, bé nhỏ và bị hất hủi. Ngài nghĩ tới thần dân của Ngài, không loại trừ ai và không bỏ rơi người nào. Ngài thật là vị vua trên mọi vị vua vì Ngài yêu thương mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,vua nhân hậu xin giúp chúng con biết sống khiêm nhượng như Chúa và biết say mê phục vụ mọi người.
Gợi ý chia sẻ:
1.Bạn nghĩ gì về vua ? 2.Nét gì nơi Chúa Giêsu làm bạn thích nhất ?
Mục tử là hình ảnh của một vị vua biết quan tâm chăn dắt dân của mình. Tiên tri Ezekiel nói: TN 34-ABC21
Mục tử là hình ảnh của một vị vua biết quan tâm chăn dắt dân của mình. Tiên tri Ezekiel nói Thiên Chúa sẽ là vị mục tử chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Ngài sẽ kiểm soát đoàn chiên của Ngài; tìm đưa những con chiên bị lạc trở về. Ngài sẽ giải thoát chiên của Ngài và quy tụ chúng lại cho chúng ăn. Ngài sẽ băng bó những con chiên bị thương tích; chữa lành những con chiên ốm đau. Ngài chăm lo cho tất cả chiên yếu cũng như chiên khỏe mạnh béo tốt. Ngài dẫn dắt chúng trong sự công chính.
Bạn thuộc loại chiên nào trong đoàn chiên của Chúa? Khỏe mạnh hay yếu đau? Đi theo với đàn hay bị lạc lõng bơ vơ? Nghe theo tiếng mục tử hay nghe theo tiếng của người lạ? Bạn có trách nhiệm lãnh đạo nào không? Nếu có thì bạn đang thi hành vai trò lãnh đạo của mình như thế nào đối với những người bạn có trách nhiệm dẫn dắt?
Bài Đọc 2: 1 Cor 15:20- 26, 28
Đức Kitô được Thiên Chúa cho quyền thống trị trên mọi loài. Ngài là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Và do đó tất cả mọi người sẽ được tái sinh trong Ngài. Đây là một chân lý đã được Giáo Hội vững vàng công bố suốt hai ngàn năm nay. Ngài sẽ tiêu diệt mọi sự dữ, mọi quân thù và kẻ thù cuối cùng là sự chết cũng sẽ bị tiêu diệt. Đến ngày sau hết, sau khi đã chiến thắng mọi quân thù, Ngài sẽ dâng chiến thắng vinh quang lên Thiên Chúa Cha. Như vậy, tin theo Chúa Kitô có nghĩa là chúng ta sẽ thuộc về phe chiến thắng.
Bạn cảm thấy làm người Kitô hữu thì được những vinh dự gì lúc này và trong tương lai? Người tái sinh trong Chúa Kitô là người như thế nào?
Bài Phúc Âm : Matthêu 25:31- 46
Chúa Kitô là Vua và Ngài sẽ xét xử dân tộc các nước trong ngày sau hết. Nguyên tắc xét xử là thái độ của mỗi người đối với người nghèo, người rách rưới, người đói khát, người bệnh tật và người bị giam cầm. Đoạn Tin Mừng này không chủ trương nói lên tinh thần công bình xã hội hay cứu trợ kinh tế, nhưng điểm chính là nói lên cho chúng ta biết nguyên tắc xử lý của Thiên Chúa để quyết định ai thuộc về Thiên Đàng và ai sẽ thuộc về địa ngục. Chúa Giêsu cũng nói cho chúng ta biết là những gì chúng ta làm cho những người bé nhỏ nhất là chúng ta làm cho chính Ngài.
Ai là những người bé mọn Chúa Giêsu nói đến? Khi nào chúng ta có lòng thương họ, và khi nào thì chúng ta không có lòng thương họ? Khi nào chính chúng ta lại là những người bé mọn? Có phải chờ tới khi nào có đủ thì chúng ta mới có thể chia sẻ với những người bé mọn hay không? Có cái gì và có bao nhiêu thì được coi là có đủ để chia sẻ?
Bài Giảng Gợi Ý
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần cũng đều vô ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:
"Chúng tôi biết ông là một trong những thương gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm gương sáng cho những người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao ông không chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người nghèo khó khắp mọi nơi trên đất nước này."
"Thưa bà, bà có biết là tôi còn một mẹ già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà có biết tôi còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn quại vì chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị công an bắn què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu vì những năm tháng tù đầy cải tạo không?"
Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội đứng dậy: "Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh ông đau khổ đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ không đúng về ông."
Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy người đó mà tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các bà."
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết Thiên Chúa là Mục Tử, là Vua, và: TN 34-ABC22
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết Thiên Chúa là Mục Tử, là Vua, và là Thẩm Phán. Trong suốt chuyến hành trình của cuộc đời, Thiên Chúa là Mục Tử chăn dắt chúng ta. Ngài là Vua lãnh đạo, chiến thắng Satan, giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích nô lệ tội lỗi và lo cho chúng ta. Sau cùng Ngài sẽ là Thẩm Phán xét xử chúng ta và mọi người thuộc mọi dân tộc. Bài Phúc Âm nói rất rõ nguyên tắc Chúa Kitô dùng để xét xử và quyết định cho ai được vào Thiên Đàng và ai phải đi xuống hỏa ngục. Người được vào Thiên Đàng là người có tấm lòng từ tâm biết để ý thăm viếng, thông cảm, chăm lo và giúp đỡ cho những ai có nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Những công việc từ thiện bác ái, những cử chỉ và hành động giúp đỡ cho những người anh chị em thiếu thốn chính là bảo chứng cho chúng ta biết mình có thuộc về Nước Thiên Chúa hay không.
Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đâu. . .? Cả những người lành đứng bên hữu cũng như những người bị loại đứng phía bên tả đều đã hỏi Đức Giêsu Kitô Vua cùng một câu hỏi như thế. Họ đã phục vụ Chúa Kitô hay không phục vụ Ngài mà không hay biết. Đức Ktiô đã cho họ biết rằng, những việc họ đã làm hay không làm cho những người gặp nỗi khốn khó là họ đã làm hay không làm cho chính Ngài. Ngài đã nhận những người nghèo, người yếu đau, người đói khát không cơm ăn không áo mặc, người bị giam cầm là chính Ngài. Chúa Kitô vẫn còn đang bước đi trên trái đất đội lốt những người nghèo, những con người thiếu thốn, đau khổ, bất hạnh, bị xã hội lên án bỏ tù, quên lãng và bỏ rơi. Chúng ta có nhận ra Ngài không?
Những Kitô Thời Đại
Chính chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận là chính Ngài vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, cảm thông của người khác. Những ân huệ chúng ta nhận được từ người khác thuộc về cả phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Nhu cầu của chúng ta có thể rất quan trọng hay không mấy quan trọng.
Sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong thành phố; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một đồng hay một vài xu mà được người khác cho vay cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm.
Chẳng kể sự giúp đỡ và nghĩa cử tử tế của người khác dành cho chúng ta nhỏ bé hay lớn lao, chúng ta luôn luôn cảm thấy vui sướng và biết ơn về lòng tốt và sự ân cần của họ dành cho chúng ta trong lúc thiếu thốn cùng quẫn. Lúc đó chính chúng ta là những Kitô nhỏ.
Cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người thi ân. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn nản, trao cho người hành khất một vài đồng hay mua cho họ một chiếc bánh, giúp đỡ người lâm nạn hay trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.
Ở mọi thời đại, trong Giáo Hội Công Giáo, và trong các xứ đạo, việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, thăm hỏi những tù nhân vẫn luôn là những công tác mục vụ được ưu tiên để ý. Nhiều anh chị em chúng ta thường xuyên giúp đỡ người nghèo bên quê nhà. Và hiện nay hàng ngàn hàng triệu dollars đang được anh chị em chúng ta đóng góp để gởi về cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung. Chúng ta làm vì lòng nhân ái yêu thương, chứ không phải vì bất cứ một lý do nào khác. Người tin biết Chúa cũng làm và người không tin biết Chúa cũng làm. Tất cả đều được Chúa Kitô nhìn nhận là làm cho chính Ngài.
Tuy nhiên cũng có những lúc chúng ta thiếu thốn nhưng không được ai giúp đỡ; đau khổ mà không được ai an ủi; cô đơn mà không ai đoái hoài hỏi han; thất nghiệp mà chẳng ai thèm mướn. . . Và ngược lại cũng có những lần chính chúng ta vì ơ hờ hay bận rộn, vì lười biếng hay ích kỷ, chúng ta cũng đã quay đi trước những nhu cầu của người cần đến chúng ta. Hay khi một người nào đó trách mắng chúng ta là tại sao lại ích kỷ không chịu giúp đỡ họ thì chúng ta sẽ nói lại rằng, "Chẳng có luật nào bắt tôi phải cho anh hay phải giúp đỡ chị cả." Đúng thế! Chẳng có công an hay cảnh sát nào có quyền bắt chúng ta vì chúng ta đã không làm việc bác ái giúp đỡ người khác. Chẳng ai có quyền bắt lỗi chúng ta nếu chúng ta không giúp đỡ hay không làm việc từ thiện bác ái. Chỉ duy có Chúa Kitô mới có quyền trách và lên án chúng ta. Luật bác ái và thương yêu tha nhân là luật của Chính Chúa Kitô. Và Ngài dùng đó làm nguyên tắc để xét xử. Chỉ có Chúa Kitô mới làm chúng ta cảm thấy có lỗi khi nghe Ngài nói, "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
Kitô giáo nhấn mạnh đến tinh thần yêu thương và xây dựng kiến tạo một xã hội yêu thương. Chúa Kitô nhắc cho chúng ta biết rằng đến cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử trên căn bản lòng bác ái và những nghĩa cử yêu thương chăm sóc ân cần chúng ta thực hiện đối với những người bé mọn có nhu cầu cần trong cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa Kitô được chứng thực khi chúng ta biết đưa tay ra để cứu giúp và ân cần chăm sóc chia sẻ với những người anh chị em thiếu thốn. Chúa Kitô quả quyết là điều gì chúng ta làm cho những người anh chị em này là chúng ta làm cho chính Ngài.
Chia Sẻ Suy Tư
Bạn tôi vừa mới về thăm Việt Nam và kể lại cho tôi một câu chuyện làm tôi nhói tim và ứa nước mắt. Một tối ở Sài Gòn, Thanh bạn tôi và vợ đi ăn tối. Trong bữa ăn, Thanh không thể nào không để ý đến một bé gái độ mười tuổi đang lẩn quẩn phía ngoài cửa tiệm ăn. Bé gái bế trên tay một em nhỏ chừng hơn hai tuổi và bên cạnh là đứa em trai khoảng năm, sáu tuổi nhưng vóc dáng lớn gần bằng chị. Em bé cứ nhìn chằm chặp vào những đĩa đồ ăn của gia đình Thanh và ngượng ngùng quay đi chỗ khác khi bắt gặp ánh mắt nhìn của Thanh.
Bé gái kéo sát các em mình lại, bối rối và sợ hãi. Ngoài trời, mưa bắt đầu rơi. Những hạt mưa làm quần áo và tóc em ướt rối bù trông bẩn thỉu. Trong những cố gắng tuyệt vọng, em bé ráng giữ cho em mình khỏi ướt. Lạnh lẩy bẩy và đói. Thanh và vợ mời các em vào và gọi thức ăn cho các em. Trong nỗi rụt rè và ánh mắt biết ơn, bé gái từng chút, từng chút đút cho các em ăn. Đến phiên em, em ăn hết phần còn thừa của các em và để dành nguyên phần ăn của mình.
Vừa khó hiểu, vừa tò mò, Thanh hỏi em sao không ăn phần ăn của mình khi rõ ràng là em vẫn còn đói lắm. Em bé mười tuổi nhìn Thanh, nước mắt chảy dài trên đôi má nhỏ. Em van xin Thanh cho em được đem phần ăn còn nguyên vẹn của mình về cho mẹ đang bị ốm ở nhà. Tôi có một cháu gái mười hai tuổi và hai cháu trai - Vân, Vinh và Minh. Đêm qua cả nhà ghé McDonalds ăn tối. Vân hình như không đói và không tha thiết chuyện ăn uống. Có lẽ nó đang nóng lòng về nhà nói chuyện điện thoại với bạn mình. Tôi nhìn con gái mình và hình ảnh bé gái mười tuổi trên đường phố Sài Gòn tràn ngập về trong trí óc tôi.
Con gái tôi nào biết tại sao cha mình lại tự nhiên im lặng. Con gái tôi đâu biết cha mình đang cầu nguyện. Cầu nguyện những tốt lành cho gia đình trong mùa lễ Tạ Ơn sắp đến. Cầu nguyện tha thiết để an lành và may mắn đến với em bé mười tuổi trên đường phố Sài Gòn và người mẹ đau ốm của em.
Bạn ơi, Mẹ Việt Nam đang ốm nặng. Cơn bão kinh hoàng nhất thế kỷ đã đổ xuống trên mảnh đất miền Trung vốn nghèo nàn tội nghiệp. Cả triệu đồng bào thân yêu ở quê nhà đang đau khổ. Bạn ơi, hãy như bé gái mười tuổi trên đường phố Sài Gòn, tất cả chúng ta phải trở thành những đứa con ăn mày để có thể cứu giúp cho Mẹ Việt Nam đang ốm đau, đói lạnh. Hãy làm và nhớ gởi một lời cầu nguyện đến cho em bé Việt Nam mười tuổi trên đường phố Sài Gòn. Và muôn triệu em bé Việt Nam khốn cùng khác.
Không bao giờ Minh quên được chuyện xảy ra vào một buổi tối mùa đông lạnh nơi đất Tây Nguyên: TN 34-ABC23
Không bao giờ Minh quên được chuyện xảy ra vào một buổi tối mùa đông lạnh nơi đất Tây Nguyên. Một người khách lạ đến gõ cửa nhà anh. Ông ta tuổi khoảng 60, đang run rẩy có lẽ vì đói và lạnh. Mọi sự thật không dễ dàng vào thập niên 80. Vả lại căn hộ của Minh mới bị trộm trong một trường hợp tương tự. Nhưng tình cảnh của người khách lạ làm Minh động lòng trắc ẩn. Anh đưa ông ta vào phòng đợi. Cả gia đình đang dùng bữa, khi anh vào thông báo chuyện xảy ra thì mọi người đều nhao nhao phản đối với đủ lý do thuyết phục.
Bối rối, Minh xin phép gia đình cho khách lạ dùng bữa rồi sẽ tính sau. Minh đem cơm ra phòng đợi, khách lạ từ chối, chỉ van xin được ngủ qua đêm! Điều này khiến Minh bắt đầu nghi ngại. Dù sao anh cũng ép được ông khách dùng bữa. Minh còn tiếp ông ta một ly rượu nhỏ cho đỡ lạnh. Sau bữa cơm ông miễn cưỡng ăn, Minh phải nói thật là không thể đón tiếp ông ta qua đêm. Nghe điều ấy, dường như người khách đã bật khóc! Tự dưng Minh cảm thấy xót xa và lúng túng. Anh vào báo lại cho gia đình thì thấy không một ai chấp nhận và cũng không ai muốn ra xem cho rõ thực hư. Minh cảm thấy có một sự băng giá. Riêng nơi thâm tâm, anh cũng thấy mình biếng nhác và sợ trách nhiệm. Anh trở ra nói cho người khách biết quyết định của gia đình và cũng là của chính anh nữa.
Người khách tuyệt vọng lủi thủi lên đường vào lúc 9 giờ tối. Đêm ấy Minh không tài nào ngủ được vì bị xao xuyến bồi hồi. Anh thầm thỉ cầu nguyện cho người khách lạ. Nơi nội tâm, anh thấy mình hoàn toàn bất ổn.
Sáng hôm sau, Minh được biết người khách lạ đã xỉu dọc đường. May mà có người thuộc một gia đình Phật giáo mà Minh quen biết, đã kịp thời nhận ra nạn nhân trên đường đi làm về. Người ấy đã đưa nạn nhân về nhà mình, sưởi ấm và cho ngủ qua đêm.
Sáu giờ sáng ngày hôm sau người đó còn chở ông ta ra bến xe để mua vé cho ông ta về Quảng Nam Đà Nẵng. Về tông tích của ông ta, không một ai biết. Nhưng với Minh, hình ảnh sống động của người khách lạ đó không thể nào xoá nhoà được. Hình ảnh ấy vẫn cứ còn đó trong tâm trí anh để phán xét anh.
Chính bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho anh thấy anh đã từng là con người như thế nào và đã có thể trở nên con người như thế nào nếu anh chết. Anh như nghe thấy lời văng vẳng của Chúa nói với anh: "Ta là khách lạ ngươi đã không tiếp rướcẨ mỗi lần ngươi không làm như thế (tức tiếp rước người khách lạ) là ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." (cc.43-45)
Đến viễn tượng "Khách lạ" trong cuộc chung thẩm
Bài Tin Mừng của Matthêu hôm nay kết thúc bài giảng cánh chung của Chúa Giêsu với cuộc phán xét vào ngày sau hết. Cuộc phán xét này được thực hiện cách trực tiếp và thẳng thắn do vị thẩm phán Con Người. Vị này xuất hiện trong vinh quang của Người. Chính Người sẽ tách biệt mọi dân nước ra làm hai (cc.31-33). Một bên là những ai đã làm việc nghĩa "cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta" (c.40), đó là những người sẽ được chúc phúc (cc.34-40). Ngược lại là những người thiếu sót không chịu thực hiện những việc nghĩa đó "cho những anh em bé nhỏ nhất của Ta," họ sẽ bị kết án (cc.41-46).
Những việc thiện bao gồm không những cung cấp nơi ở cho khách lạ nhưng còn là cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần trụi áo mặc, cho người ốm đau cũng như kẻ bị giam giữ những lần thăm viếng. Những việc nghĩa ấy đáng được thưởng công vì trong ngày chung thẩm những việc ấy sẽ được vị Thẩm phán kể như đã được thực hiện cho chính mình bởi lẽ vị ấy đồng hoá bản thân mình với những anh em bé nhỏ nhất (cc.40,45).
Vậy "muôn dân nước" (c.32) và "những anh em bé nhỏ nhất của Ta" (cc40,45) là ai? Người ta thường hiểu "muôn dân nước" chỉ về mọi nước, mọi dân tộc; còn "những anh em bé nhỏ nhất của Ta" chỉ về những người gặp cơn túng quẫn về phương diện nào đó. Vậy ngày sau hết toàn nhân loại sẽ bị xét xử về những việc thiện họ đã làm hay đã thiếu sót không làm cho người nghèo khó và khổ đau.
Nhưng trong Matthêu, "muôn dân" và "mọi dân tộc" thường chỉ về dân ngoại không phải là Ít-ra-en. Ví dụ Mt 4,15; 6,32; 10,5-18; 12,18-21; v.v...
Đồng thời "những anh em bé nhỏ nhất" trong nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu như 10,40-42; 18,6-14 xem ra chỉ về các Kitô hữu.Dù sao điều đã có thể thay đổi toàn cảnh chính là bản thân vị thẩm phán của cuộc chung thẩm. Vị đó là Đức Giêsu, Đấng đã phục sinh. Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Trước khi về trời, Người đã ra lệnh cho các môn đệ làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Người và dạy họ tuân giữ mọi điều Người đã dạy (xem Mt 28, 18-20).
Vậy cuộc phán xét chung sẽ là cuộc tổng kết lại toàn bộ công cuộc Tin Mừng hóa. "Do đối diện với Đức Kitô là Thiên Chúa chân lý, chân lý về tương quan giữa con người và Thiên Chúa sẽ hoàn toàn minh bạch. Cuộc phán xét chung sẽ cho thấy hậu quả sau cùng của những gì con người đã hành động tốt hay từ chối hành động trong suốt cuộc đời trần thế." (Giáo lý GHCG, số 1039). Nếu trong cuộc Phúc Âm hóa thế giới, Đức Giêsu dành ưu tiên cho người nghèo hèn (xem Lc 4,18) thì cuộc phán xét chung phải làm cho điều ấy được nổi bật.
Do đó thánh Âu tinh đã bình luận:Mọi điều xấu người ác đã làm đều được ghi nhận và họ không biết điều đó. Ngày đó Thiên Chúa sẽ không im lặng (Tv 50,3). Người quay về phía người xấu: Ta đã đặt trên mặt đất cho các ngươi những người bé nhỏ nghèo khổ. Ta là thủ lãnh của họ. Ta ngự trên trời bên hữu Cha Ta; nhưng trên mặt đất, những phần thân của Ta phải đói. Nếu các người đã cho phần thân của Ta: các ngươi vươn đến Ta, Đầu của thân thể. Khi Ta đặt những người nghèo khổ bé mọn trên mặt đất là trung gian cho các người để họ mang việc tốt của các người vào kho tàng của Ta: các ngươi đã chẳng bỏ vào tay họ chút gì, vì thế các người chẳng có gì bên cạnh Ta (Bài giảng 18,4,4).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay không chỉ soi sáng cho các cá nhân gỡ rối những nố lương tâm liên quan tới những việc thiện lẽ ra phải làm nhưng họ đã không làm. Một cách tích cực, bài Tin Mừng hôm nay đặt ta đối diện thẳng với tương lai vĩnh cửu của ta. Đó là nơi Đức Giêsu tỏ hiện là Đấng đã được Thiên Chúa giao toàn quyền trên trời dưới đất. Nhưng Đức Giêsu mãi mãi sẽ là hiện thân của tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngài là vua vũ trụ nhưng trước tiên Ngài là vua của mọi cõi lòng. Ngài dứt khoát tỏ lòng ưu ái đối với những anh em bé nhỏ nhất đến nỗi buộc mọi người phải chấp nhận đó là con đường cứu độ cho mình.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về chuyện "Người khách lạ" đất Tây Nguyên: thật đáng tiếc Minh đã không cho khách lạ qua đêm bằng cách bảo đảm an toàn cho gia đình Minh đêm đó? Ít nhất Minh đã cho ông lão rét run được ăn và được uống ly rượu cho ấm lòng? Minh không thể hoàn toàn vô trách nhiệm trước sự kiện khách lạ bị ngất xỉu trên đường? Đáng thán phục thay gia đình Phật giáo mà Minh quen biết, đã tận tình giúp đỡ khách lạ? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn nghĩ gì về lời bình luận của thánh Âu tinh như trích ở trên?
3. Bạn làm thế nào để tuyên xưng Đức Giêsu là Vua cõi lòng bạn theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay?
1. Một bức hoạ cho người ta xem thấy chung cuộc...
Khi nào thì điều đó sẽ xảy đến?”. Các môn đệ đã lo lắng hỏi Đức Giêsu như vậy, khi Người loan báo: TN 34-ABC24
"Khi nào thì điều đó sẽ xảy đến?”. Các môn đệ đã lo lắng hỏi Đức Giêsu như vậy, khi Người loan báo cho các ông về việc Đền Thờ Jérusalem bị tàn phá. Chúa không trả lời như các ông trông đợi, trái lại trong bài giảng nói về ngày tận thế, và xuyên qua năm dụ ngôn, Chúa đã dạy các môn đệ phải chuẩn bị mình thế nào cho Biến Cố đó, nghĩa là phải chủ động tỉnh thức, phải làm cho những nén bạc đã trao, sinh lời.
Phần kết thúc bài giảng cuối cùng này của Đức Giêsu, kết tinh tất cả mọi lời nói và việc làm của Người, thâu tóm tất cả Phúc của Chúa, một cảnh tượng vĩ đại mang tính khải huyền, riêng của Phúc Âm thánh Matthêu làm nên dư âm của phần kết thúc bài giảng đầu tiên, Bài giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 25,31-33), đối thoại với những “kẻ được chúc phúc” (câu 34-40), đối thoại với những quân “bị nguyền rủa” (câu 41-45), thi hành bản án (c.46).
- Phần nhập đề gợi ra quang cảnh một cuộc tập hợp vĩ đại của toàn thể nhân loại quanh Đấng sẽ “ngự lên ngai vinh hiển của Người":
+Đấng ấy được trình bày ở đây như “Con Người”, nhân vật huyền bí của các sách Khải Huyền Do Thái ấy (như trong Daniel 7) ngự đến thi hành việc phán xét “các dân thiên hạ”, một đặc quyền thuộc về Thiên Chúa.+ Nhưng cũng như “Mục tử” đã được Ezéchiel loan báo (bài đọc một Người đến thi hành việc phân lựa: “Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê: chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái”.)
“Ở nước Palestine người ta chăn chiên chung với dê; nhưng đến chiều, người chăn tách chiên ra để ở một nơi kín đáo hơn”, Cl. Tassin giải thích, nhưng vội thêm một cách hóm hỉnh: “Bên phải” và “bên trái” trong thời Cổ đại, không có mang chút âm hưởng chính trị nào đâu; Nhưng theo óc hơi mê tín, người ta cho là những từ đó chỉ số phận tốt, xấu của con người”("Phúc Âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 264).
+ Đức Giêsu còn được trình bày như “Đức Vua” xét xử công minh, đang nói về “Cha mình” và mọi người bị phán xét thì thưa với Người là “Lạy Chúa”, tước hiệu mà phụng vụ và giảng thuyết buổi sơ khai vốn gán cho Đức Kitô vinh hiển khi Người phải trở lại trong ngày tận thế.
2. ... Và hé cho thấy tính cách nghiêm trọng của sự việc đang diễn ra trong lúc này:
- Cuộc đối thoại với những kẻ “được chúc phúc” cho ta được nghe án quyết phù hợp với những lý lẽ đã nêu ra, đồng thời cho thấy phản ứng của những người trong cuộc.
+ Tiên vàn là án quyết: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi, từ thuở tạo thành trời đất”, và lý lẽ đưa ra dưới hình thức một bảng liệt kê dài những hành động bác ái mà coi như họ đã thực hành đối với Đức Vua: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn vv...”.
Cl. Tassin nhận xét: “Lòng đạo đức của người Do Thái cũng có những bảng liệt kê tương tự tương đối dài (cf. Tobia 1,16-20), tuy nhiên lại không đề cập tới việc thăm viếng tù nhân: hành vi bác ái này chắc hẳn đã được áp đặt khi cuộc bách hại đã tống giam nhiều người thân của họ. Ta nên ghi nhận rằng những người Do Thái đạo đức vốn coi những hành vi bác ái này như một việc noi gương bắt chước thật đáng khen: ta phải cho kẻ đói ăn, bởi vì Chúa đồng hoá mình với người đói, Chúa đứng về phía người bất hạnh; không liên đới với con người bất hạnh là đi ngược với quyền lợi của Chúa. Ý tưởng này bén rễ sâu xa trong Kinh Thánh (cf. Is 58,6-7) và đã đưa đến lời chú giải cao đẹp này: “Nếu ngươi đã nuôi nấng những người nghèo khổ, thì Ta sẽ kể như ngươi đã làm việc ấy cho chính Ta vậy” (O.C. trang 265).
+ Những người công chính ngạc nhiên: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa...?”. Thế rồi họ ngỡ ngàng khám phá ra điều gì là chủ chốt trong sinh hoạt đời thường của những con người nam cũng như nữ: Đức Vua vốn đồng hoá mình với hết mọi người trong cảnh khốn cùng, họ đã phục vụ chính Người trong những con người khốn khổ ấy: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
- Cuộc đối thoại với những quân bị nguyền rủa diễn lại cùng một khuôn khổ: án quyết với những lý lẽ nêu ra, phản ứng ngạc nhiên của những người liên hệ: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát...?”. Rồi họ cũng sẽ hay biết - nhưng muộn quá rồi! - rằng khi bỏ mặc anh em họ trong cảnh khốn cùng, là họ đã bỏ mặc chính Đức Vua vậy: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
- Thi hành án diễn ra tức thì, đã được tường thuật một cách giản dị: “Thế là bọn này sẽ phải ra đi mà vào chốn cực hình muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được lên hưởng phúc trường sinh”.
J.Potin kết luận: “Tính cách mới mẻ của giáo huấn của Đức Giêsu thật rõ như ban ngày. Giáo huấn ấy được nhấn mạnh ở vẻ ngỡ ngàng của những kẻ khám phá ra được từ đàng sau những dáng vẻ bề ngoài, sự thật về con người mà vì đó họ được hạnh phúc hay bất hạnh; ấy là: con người có tước vị làm anh em với Đức Giêsu, không phải tước vị làm anh em với Con Người trong vinh quang, mà đúng hơn là với Đấng sẽ đích thực trở nên anh em của người nghèo bằng đau khổ và nhục nhã trên thập giá. Từ nay con người không thể dựa vào những thực hành điều Luật dạy và tôn giáo để làm bình phong che chắn mình. Chỉ điều răn mới về tình yêu thương con người mới đáng kể thôi.
Như thế Đức Giêsu làm nổi bật điều mà người cho là bản chất của Lề Luật và sách Các Ngôn sứ ấy là lòng yêu thương. Kẻ nghèo được coi như đủ tư cách để được Thiên Chúa và Con của Người quý mến. Từ nay mọi điều răn khác đều phải được đánh ghía theo thước đo này. Đạo Do Thái nhờ được Đức Giêsu mang đến cho ánh sáng này mà được canh tân. Nhưng Đức Giêsu lấy uy quyền và tương lai của Người để bảo đảm cho giáo huấn này: Thiên Chúa muốn hướng d”n toàn thể nhân loại trên con đường này, chứ không phải chỉ một mình dân Do Thái mà thôi. Con người muốn tập hợp người người mọi thời, mọi nơi để quy về giới răn duy nhất này. Hết thảy đều sẽ bĐ xét xử theo tình yêu của họ đối với người nghèo” ("Jésus, l'historie vraie”, NXB Centurion, trang 403-404).
Mối tình liên đới với hết mọi người khốn khổ này mà Chúa vừa minh hoạ để kết thúc bài giảng cuối cùng của Người, có một phạm vi vô hạn và bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì giờ đây chính Người sống tình liên đới ấy đến mức độ tận cùng. Chương 26 là chương tiếp theo bài giảng cuối cùng ấy đưa ta trình thuật về cuộc Khổ nạn.
II. BÀI ỊỌC THÊM:
1. “Một cảnh nhấn mạnh phạm vi giá trị cách ta cư xử ở đời này” (Giám mục L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s'est approché”, Desclée du Brouwer, trang 343-344).
Đức Giêsu không mô tả cảnh này để ta lo sợ hướng nhìn về ngày chung thẩm mà buông lơi những phận vụ hiện tại của ta; trái lại điểm có ý nhấn mạnh ở đây chính là cách ta cư xử ở đời này có một tầm kích vĩnh cửu. Tính vĩnh cửu làm cho thời gian có giá trị, định hướng hoạt động của ta và cho hoạt động ấy có ý nghĩa. Ai tin vào trời thì càng phải định tâm làm cho trần gian này trở thành nơi chan hoà tình huynh đệ, một miền đất của Tương Lai! Không phải đến ngày tận thế người ấy mới gặp gỡ Con Người.
Đến ngày tận thế, người ấy sẽ được thấy Người tỏ tường, vì Con Người sẽ tỏ mình ra rõ ràng. Nhưng chính Người lúc này v”n đang cận kề ta trong những người anh em bé mọn nhất. Điều có lẽ làm ta ngạc nhiên nhất, chính là mọi người cùng có chung một sự vô tri, những người đã thực hành lòng thương xót cũng như những người đã trốn tránh - Ai nấy sẽ bỡ ngỡ: Những người trước thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn?”. Những kẻ đã không tiếp rước Người cũng nói như vậy: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu?”. Mọi manh tâm phục con người vì Chúa, chứ không vì chính họ đều bị Chúa phơi bày.
Thực vậy người và Chúa không tách biệt nhau: “Quả thực, Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Điều đó mời gọi ta nhận biết rõ tình huynh đệ liên kết những kẻ bé nhỏ này với Đức Giêsu, và mời gọi ta phục vụ họ tốt hơn. Điều đó cũng có nghĩa là ta sẽ gặp những bất ngờ, hay đúng hơn mối quan hệ của ta với Đức Giêsu thường diễn ra ở nơi ta vốn không trông đợi Người.
Tiên vàn ta đừng tìm cách nhận ra Đức Giêsu trong dung mạo của người ta, trước khi ta phục vụ họ: ta thường sẽ phải thất vọng thôi. Chỉ cần phục vụ họ một cách đơn sơ, yêu mến họ một cách cụ thể, bằng hành động và cho không. Rồi đây chính Người sẽ nói cho ta biết rằng Người đã ở gần ta ngay lúc ta không nghĩ đến Người: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc?”. Chúng con đâu có biết... Vậy thì ta đừng tìm kiếm để biết bây giờ, hãy hành động, hãy yêu mến bằng sự thật! Ở đâu người ta sống tình yêu chân thật với nhau, thì Thiên Chúa làm người sẽ nhìn nhận họ là người của mình: “Các ngươi đã làm cho chính Ta vậy...”.
2. “Một bức tranh chiếu vào hiện tại, ánh sáng thực của đức tin và sự minh m”n” (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa thật gần”, Desclée de Brouwer, trang 175).
Đức Giêsu đã đặt bức tranh này dưới mắt các môn đệ để chiếu vào hiện tại ánh sáng thực của đức tin và sự minh m”n. Sự chia sẻ không phải chỉ được quyết định thực hiện vào thời buổi cuối cùng, nhưng là bây giờ, ở đây và lúc này (hic et nunc). Đây không phải là một quyết định có tính cách hình thức, nhưng là một quyết định đưa đến sự thay đổi đời sống trong xã hội.
Vào thời Matthêu viết Tin Mừng của ngài, các Kitô hữu nồng nhiệt chờ đợi ngày Chúa trở lại đến nỗi họ quên cả đời sống hiện tại. Nhắc nhớ họ về đời sống hiện thực là điều quan trọng. Hơn nữa, không phải sự thực hành các mối phúc là điều quyết định phần rỗi đời đời trước cả tế lễ và cầu nguyện đó sao? Ngay cả những người ngoại giáo cũng được cứu độ nhờ thực hiện các mối phúc này. “Anh em đợi chờ Chúa, vua vinh quang, nhưng Ngài đang ở đây! Không phải nơi người nghèo như người ta nói. Nhưng trong sự chia sẻ với họ”.
Thiên Chúa hiện diện qua sự chia sẻ cơm bánh. Đó là vinh quang của vương triều Thiên Chúa. Đức Giêsu không chói ngời vinh quang trong cung điện hay trên ngai vàng, nhưng ở tất cả những nơi có tình liên đới nhân loại. Thiên Chúa tình yêu có thể có mặt ở khoảng trống vắng chia cách con người và các dân tộc chăng? Ngài hiện diện ở trong sự hiện diện của người này cho người kia. Đó là “sự hiện diện trong chia sẻ”.
Việc Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Kitô là Vua vũ trụ vào Chúa Nhật cuối của năm phụng vụ: TN 34-ABC25
Việc Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Kitô là Vua vũ trụ vào Chúa Nhật cuối của năm phụng vụ muốn dạy tất cả tín hữu rằng Ngài là tâm điểm của mọi sự vật trong lịch sử. Ngài chính là khởi điểm và cũng là cùng đích của mọi thụ tạo, là alpha và omega.
Ịể có thể tiến đến vinh quang phục sinh Ngài đã phải đi trọn con đường đau thương khổ gía, và chỉ có con đường đó mới dẫn đến sự sống mà thôi. Cả cuộc sống và cái chết của Ngài là một chia sẻ chân thành nhất những khốn khổ của thân phận con người. Ngài đã không bảo chúng ta phải vác thập giá của Ngài mới có thể làm môn đệ Ngài, nhưng là vác thập giá của chính mình. Thập giá của chúng ta tuy khác với cái của Ngài, xong xuất phát từ một tấm lòng chân thành muốn cùng được tham dự vào chính thập giá của Ngài. Thập giá của chúng ta là lời mời gọi hãy thực tình chia sẻ những nỗi thương đau của bao nhiêu anh chị em đồng loại. Nếu không thực hiện lời mời gọi này trong cuộc đời, là các tín hữu đã thoái thác hay tránh né con đường khổ giá để đi con đường tắt, bưng tai bịt mắt và giả điếc làm ngơ trước những lầm than của tha nhân. Con đường đi ngang về tắt ấy khiến chúng ta đánh mất cơ hội duy nhất được chia sẻ đau khổ với đức Kitô và anh chị em đồng loại, rồi chắc chắn dẫn ta đến một cùng đích khác hơn là vinh quang phục sinh của Vua vũ trụ.
Tin Mừng hôm nay vang vọng như lời nhắc nhở và hối thúc chúng ta đừng ẩn núp xa khỏi những hoạn nạn của tha nhân, nhưng cần xông xáo đi tìm để san sẻ, xoa dịu những nỗi cám cảnh của người đồng loại, vì họ cũng là con cái yêu dấu của Thiên Chúa: ẪTa bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.Ữ Chính lời của Ngài đã nhìn nhận và đồng hóa bản thân mình trong hình ảnh những anh em bé nhỏ nhất trong xã hội con người. Với lời xác quyết rõ ràng đó, Ngài không muốn chúng ta từ chối một linh hồn nào bằng bất cứ lý do gì.
Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng: TN 34-ABC26
Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng ( x. Ed 34, 17 – 24 ). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng ( x. Mt 13, 24 – 30 ) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau – không phân biệt được – trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: “cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm” ( 13, 30 ). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào ?
2. TIÊU CHUẨN ĐỂ PHÂN LOẠI:
Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
– Ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.
– Ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
– Ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là Giám Mục, ai là Linh Mục, ai là Giáo Dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai Hành Hương nhiều, ai cúng vào Nhà Thờ nhiều, v.v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta – chứ không phải lời nói hay cái gì khác – quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3. ĐÓ LÀ TIÊU CHUẨN THỰC TẾ ĐỂ PHÁN XÉT AI TIN VÀ AI KHÔNG TIN:
a. Tin vào Đức Giê-su là điều kiện để được cứu độ
Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được cứu độ ( x. Cv 16, 31; Rm 10, 9; 10, 13 ), và người ta được nên công chính là nhờ Đức Tin ( x. Rm 1, 17; 3, 22 . 26 . 30; 9, 30; 10, 4 ) chứ không phải nhờ việc làm ( x. Rm 3, 28; 9, 32; Gl 2, 16; 3, 11 ). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ Đức Tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ Đức Tin hay tình thương.
b. Đức Tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm
Người ta chỉ trở nên công chính nhờ Đức Tin. Nhưng Đức Tin làm cho người ta nên công chính phải là Đức Tin đích thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính” ( Rm 10, 10 ). Đức Tin đích thực không phải là loại “Đức Tin rẻ tiền”, là thứ Đức Tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức Tin đích thực phải là thứ “Đức Tin đắt giá”, không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của Đức Tin. Đức Tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ… Thánh Gia-cô-bê xác định: “Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 14.17 ).
c. Việc làm của Đức Tin là việc làm gì ?
Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giê-su chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất ( vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết... ), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.
Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su bên cạnh chúng ta. Đức Giê-su xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.
Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giê-su nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 34 – 35 ). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giê-su với những người khác.
Tôi nghe Đức Giê-su nói với tôi:
“Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy”.
Truyền thống tốt đẹp, nghi thức bề ngoài, tập tục dân gian, đó không phải là đạo Đức Ki-tô. Chớ có: TN 34-ABC27
Truyền thống tốt đẹp, nghi thức bề ngoài, tập tục dân gian, đó không phải là đạo Đức Ki-tô. Chớ có nghĩ rằng cứ thuộc về một gia đình có truyền thống Ki-tô giáo là đã thuộc về Đức Ki-tô.
“Nhập tịch” Ki-tô giáo, thưa “Vâng”, ký vào sổ bộ sau nghi lễ phép rửa, chưa đủ. Người ta có thể chính thức mang danh hiệu Ki-tô hữu như mang một quốc tịch, mà tuyệt nhiên không có não trạng của dân Thiên Chúa mà mình vừa gia nhập. Điều quan trọng trên hết là làm sao có được những thói quen suy tưởng và sinh hoạt, những phản ứng sâu xa của những Ki-tô hữu, vốn là một dân tộc đối với mình vẫn còn hoàn toàn mới mẻ và xa lạ.
Nếu không, người ta vẫn chỉ có nhãn hiệu, chỉ có bề ngoài Ki-tô hữu mà thôi. Người ta có thể chỉ nhìn thấy trong Ki-tô giáo một nghệ thuật để sống, một tập tục dân gian, những nghi lễ làm tăng vẽ đẹp cho những khoảnh khắc đáng ghi nhớ trong đời sống. Người ta đem con đến nhà thờ để lãnh phép rửa, vì xưa nay gia đình vẫn làm thế. Nhất định phải kéo chuông mừng, phải có phân phát bánh kẹo, phải có quà tặng của bố mẹ đỡ đầu. Người ta đề cao việc rước lễ bao đồng, là ngày vui gia đình nhân dịp con em lên cấp thiếu niên, người ta quý tác phong lễ phép và trọng luân lý giảng dạy trong sách giáo lý. Người ta học đạo trước khi làm phép cưới để tránh những phiền toái có thể biến thành thảm kịch trong gia đình. Chú rể và cô dâu vốn trọng gia phong, nhất thiết phải làm phép cưới ở nhà thờ...
Tuy thế, người ta cũng rất sẵn lòng gia nhập những tôn giáo khác, nếu đó là cái “mốt” của thời thượng ! Người ta ao ước, sau này khi mãn phần, con cháu sẽ xin cho mình một lễ quy lăng, có đèn nến, có những bài hát cầu hồn, để khỏi mang tiếng là gia đình mình đang sa sút, ma chay thiếu sót.
Tất cả những điều kể trên xét ra không cần thiết. Thật sự cần thiết chính là sự đột nhập của Đức Ki-tô vào cuộc sống của chúng ta, một biến cố làm đảo lộn mọi sự.
Ở khởi điểm, sự việc Chúa đến đòi hỏi một tâm hồn chuẩn bị, một trái tim sẵn sàng cải thiện nếp sống. Điều rất khó giải quyết là người ta quá dung dưỡng bản thân, cho nên nói đến tu thân cải tính thật khó lọt tai. Chúng ta hiểu tại sao một số đông cũng muốn tin, cũng muốn có đức tin, vậy mà không dám cất bước tiến vào con đường cải thiện.
Đổi hẳn nếp sống là vui lòng từ bỏ những gì mình ưa thích, ra khỏi khung cảnh tầm thường nhưng dễ chịu, thoải mái biết bao, để chấp nhận và quyết tâm từ nay làm ăn lương thiện, cắt đứt mọi giao du vụng trộm, đàng hoàng trong mọi vấn đề, nhận lấy rủi ro, mất công ăn việc làm vì dám trình bày ý kiến, có thể từ bỏ nếp sống an vui, gánh lấy trách nhiệm để giúp đỡ kẻ khác, phê phán thời cuộc theo lối nhìn đúng với Tin Mừng, can đảm xác định lập trường. Không dám làm vậy tức là không đứng đắn, là chưa thành thật. Sự việc Chúa đến với chúng ta, một đòi hỏi gắt gao, chúng ta phải sẵn sàng đổi ngược hướng tiến, như thể làm một cuộc lột xác bao giờ cũng phải chịu khổ tâm.
Để thật sự thuộc về Đức Ki-tô, từ đời sống đơn giản nhân loại, chúng ta hãy làm một cuộc Vượt Qua, tiến lên cuộc sống thân tình bằng hữu với Thiên Chúa, bước vào khung cảnh các thần thánh. Chúng ta phải có một thái độ tối cần thiết, không có không được, đó là phải nhìn nhận sự hư không của mình, tội lỗi của mình, tóm lại: là hết lòng khiên nhượng.
Vì vậy, những kẻ đơn sơ thuộc giới bình dân, thường chuẩn bị dễ dàng hơn, chu đáo hơn là những kẻ giàu có, những kẻ đương nắm quyền bính, những kẻ ở địa vị cao sang, những kẻ thành công. Lớp người nghèo hèn, đơn sơ, chân thật, ít khi tự khen mình, chẳng dám khâm phục bản thân mình.
Tin tưởng mình là hoàn hảo, hoặc nếu ít tự phụ hơn, cho mình như thế này là được lắm rồi, tìm cách tự bào chữa về những sai trái, yếu hèn, tưởng rằng mình xứng đáng được Thiên Chúa biệt đãi vì mình được thế gian trọng nể, đó là đã đứng vào vị trí bất lợi đối với tình thương của Thiên Chúa.
Cung cách đúng đắn nhất để sửa soạn đón Đức Ki-tô đến trong đời mình, đó là thành thật suy nghĩ và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào tâm hồn con. Chí có Chúa mới có thể nâng con lên làm con cái của Chúa. Con thành khẩn nhìn nhận con yếu đuối, tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa muốn con phải làm gì ? Con là tôi tớ, là nữ tỳ hèn hạ của Chúa, xin Chúa hãy làm trong con điều gì Chúa muốn”
Trích “Faites le Passage” của P. Thivollier, bản dịch của cụ An-tôn LÊ VĂN LỘC CHỨNG TÁ:
LÀM CHO CHÍNH CHÚA GIÊ-SU
Thánh Jean de Kenti, mất năm 1473, hồi còn là giáo sư tại đại học Cracovie nước Ba-lan, đã đặt ra một nguyên tắc được áp dụng tại phòng ăn tập thể của các sinh viên của mình như sau:
“Mỗi khi mọi người đang ăn uống mà có một người nghèo khổ đến xin bố thí, thì người trực nhật coi cửa phải chạy vào báo ngay cho người ngồi ở đầu bàn ăn, người này có trách nhiệm đứng lên hô to: “Các bạn ơi, hôm nay có Chúa Giê-su đến xin dùng bữa ăn chung với chúng ta...” Sau đó, mọi người sẽ cùng đứng dậy đón tiếp người hành khất vào bàn ăn như một vị thượng khách...
Thánh nhân đã muốn thường xuyên nhắc nhở mình cũng như các sinh viên trẻ nhớ đến Lời Chúa Giê-su đã truyền dạy: “Điều gì anh em làm cho những người hèn mọn nhất trong anh em, đó là anh em đã làm cho chính Thầy !” ( Mt 25, 40 ).
Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 2
CÂU TRUYỆN:
BỮA TIỆC NƯỚC TRỜI
Vào một mùa đông lạnh giá hết sức khắc nghiệt của nước Anh, một phụ nữ quý tộc nổi tiếng thường được gọi một cách trân trọng là Lady Grey, đã nghĩ ra một sáng kiến, quyết định bí mật cải trang thành một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thủ đô Luân-đôn.
Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Ở một số nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ đáng vứt vào thùng rác. Hầu như tất cả những nơi ấy lại đều là những gia đình quý tộc giàu có.
Thế rồi, bà lại tìm đến những khu nhà lụp xụp nghèo nàn nhất. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà đã được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lò, cùng chia nhau một miếng bánh mình đen...
Hôm sau, người phụ nữ quý tộc ấy đã các người hầu đến mời tận nhà những nơi mà đã đến xin ăn vào buổi tối hôm trước. Tất cả được mời vào căn phòng chiêu đãi trong dinh thự của bà, mỗi người có chỗ ngồi riêng được dọn sẵn. Họ trông thấy trước mặt mình là những món ăn y như cái họ đã đem bố thí cho bà già hành khất: người thì là một miếng bánh mốc đen không thể ăn nổi, người thì củ khoai thối, người thì một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có một số đĩa ăn trống không chẳng có gì...
Ngược lại, khá nhiều mâm lại được dọn thật trang trọng gồm những cốc sữa tươi, những mẩu bánh mì nóng giòn, những miếng bơ be bé nhưng ngon lành. Mọi người đang còn ngẩn ngơ chưa hiểu là thế nào, thì bà chủ nhà xuất hiện và giải thích:
“Ngày hôm qua, tôi đã đích thân thử đi ăn xin từng nhà ở mảnh đất Luân-đôn này, ý tôi chỉ muốn biết rõ hơn về tấm lòng nhân ái của chúng ta. Hôm nay, tôi xin được đáp lễ quý vị bằng cách mời quý vị dùng bữa ăn là chính những thứ quý vị đã bố thí cho tôi. Tôi tin rằng chúng ta cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau, trước mặt Thiên Chúa là Đấng mà bây giờ có lẽ Người đang đứng trước cửa ngôi nhà của chúng ta để trông đợi tấm lòng nhân ái của chúng ta...”
Đến lúc này, bà mới cho mời những thực khách đặc biệt của bà bước vào, đó chính là những con người nghèo hèn nhưng lại giàu sự chia sẻ chân thành. Trong số ấy có cả ông lão tàn tật đêm hôm trước. Tất cả đã được mời dùng bữa khá thịnh soạn, khi ra về lại được tặng thêm nhiều lương thực thực phẩm, một số tiền và quần áo ấm có thể giúp họ và gia đình vượt qua mùa đông năm ấy...
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Trời Đất, năm A ; Ed 34,11-12.15-17; 1 Cr 15,20-26.28; Mt 25,31-46.
Người thầy thuốc giả trang Hoàng đế nước Phổ, Joseph đệ nhị, là con của hoàng hậu Marie: TN 34-ABC28
Người thầy thuốc giả trang Hoàng đế nước Phổ, Joseph đệ nhị, là con của hoàng hậu Marie Thérèse và vua Francois đệ nhất. Ông vốn là vị hoàng đế giầu lòng bác ái, luôn gần gũi với người nghèo. Ông mất năm 1790.
Sau đây là một trong những câu truyện được truyền tụng về ông lúc sinh tiền.
Một hôm hoàng đế giả trang làm một người thường dân thả bộ ra phố ngay giữa kinh đô Vienne. Bất ngờ có em bé chạy đến vừa khóc vừa nài xin ông bố thí cho một đồng, để em có thể chạy đi mời thầy thuốc đến khám bệnh cho mẹ em hiện đang đau nặng. Em mếu máo nói: Thưa ông, cháu đã thử đi mời nhưng bác sĩ lại đòi phải có một đồng trả tiền khám bệnh mới chịu đến nhà cháu. Vậy mà vị hoàng đề liền lấy ngay một đồng bạc đưa cho em bé, ông không quên hỏi địa chỉ nhà em. Em bé cảm ơn ông khách lạ nhưng tốt bụng, rồi vội chạy đi mời bác sĩ. Còn ông thì rảo bước đi tìm ngôi nhà người bệnh đáng thương. Khi ông bước vào bà mẹ em bé cứ ngỡ đây là bác sĩ mà con mình mời đến, nên cứ thật tình kể lể bệnh trạng của mình. Ông lẳng lặng nghe, cũng xem mạch, rồi lấy một mảnh giấy trong túi ra kê một đơn thuốc, dặn cứ thế mà mua thuốc uống. Xong xuôi ông từ biệt ra về ngay. Được một lúc thì em bé mới chạy về cùng với ông thầy thuốc thật sự. Bà mẹ ngạc nhiên vì sao lại có tới hai ông thầy thuốc đến khám cho mình. Bà vốn dĩ mù chữ nên lấy tờ giấy đơn thuốc ban nãy ra đưa cho ông thầy thuốc đến sau xem. Ông ta vừa đọc lướt qua đã vội kinh hồn la lên: "Thôi chết tôi rồi, hoàng đế của chúng ta vừa mới ghé qua đây. Bà cứ bảo cháu bé cầm lấy tờ giấy này đến ngân hàng để nhận 250 đồng tiền vàng chi phí thuốc men và chăm sóc bồi bổ cho khoẻ mạnh. Số tiền này quá lớn, đủ để bà làm ăn buôn bán và cho cháu bé ăn học đến lớn! Còn phần tôi, tôi không dám nhận tiền của cháu bé đã trả cho tôi nữa đâu, tôi xin hoàn lại ngay. " Dứt lời ông bác sĩ tham tiền vội đưa lại đồng bạc, cẩn thận khám bệnh cho người mẹ, kê đơn thuốc đầy đủ kỹ lưỡng và từ giã ra về, hẹn sẽ còn đến chăm sóc cho đến khi người bệnh khỏi hẳn chứng ho lao. Từ đó, ông bác sĩ hồi tâm và hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ đòi tiền trước khi chữa bệnh, nhất là những đồng tiền khó nhọc của những người dân lao động đang gặp phải cơn hoạn nạn bất hạnh.
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn cho ta thấy có hai lớp người trên trần gian này với hai thái độ sống cũng như hai cái nhìn dưới con mắt đức tin khác nhau. Để rồi khi triều đại của Ngài đến họ cũng sẽ được phân xử khác nhau. Vì như Ngài đã nói khi vương quốc của Ngài xuất hiện thì Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển chứ không phải là một người bình thường để cho dân chúng đội mạo ngai xỉ vả, nhạo cười, cuối cùng đã chết ô nhục trên thập giá. Nơi trần gian này, Ngài sống tàng hình dưới mọi lớp người, nếu ai hiểu biết và yêu mến Ngài thì họ sẽ có đôi mắt đức tin rất bén nhậy dễ dàng nhận ra Ngài như ông bác sĩ trong câu truyện và rồi đời sống họ sẽ thay đổi mau chóng. Để khi Con người đến trong vinh quang của Người thì những người này sẽ được chọn làm dân của Ngài như lời Ngài hứa Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết nhận ra Chúa nơi tha nhân để chúng ta biết nhìn ra nhu cầu của họ và tùy theo khả năng sẵn sàng giúp đỡ những người anh em trong cùng một dân nước- Đó là Nước Trời.
Tôi đã tham dự lễ Kitô Vua nhiền lần và bài thánh ca: Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là vua, Chúa: TN 34-ABC29
Tôi đã tham dự lễ Kitô Vua nhiền lần và bài thánh ca: Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là vua, Chúa muôn thủa là Vua muôn vua… gần như trở thành bài hát truyền thống cả mấy chục năm gần đây. Hình ảnh Vua muôn vua khiến cho tôi luôn nghĩ về một ông Vua làm bá chủ muôn loài và mọi người là thần dân của Ngài hoặc là thảo dân của Ngài – dân hèn mạt như cây cỏ hoang dại trước vị Vua cao sang ngàn trùng thánh đức trên chín tầng mây xanh thẳm.
Thực vậy, khi nói tới Đức Giêsu là tôi nghĩ ngay tới ông Chúa thánh thiện, ông Vua oai phong tuyệt đối. Mở miệng ra là: Lạy Chúa Giêsu đã lạy rồi thì chỉ còn biết quỳ mọp xuống mãi, lấy tư cách gì mà đứng lên được. Hơn nữa, lại lạy ông Chúa – Vua muôn vua, Chúa các chúa - nên khoảng cách giữa Chúa và tôi còn bị đẩy lùi xa đến nỗi tôi trở thành vật mọn phàm hèn, chẳng đáng Chúa ngự vào lòng.
Vì thế, tuy ngoài miệng ông ổng hát Chúa Giêsu là Vua nhưng trong cuộc sống thường ngày, tôi chẳng khi nào coi Ngài là Vua của đời tôi. Bằng chứng rõ ràng là mạnh tôi, tôi sống, mạnh Ngài, Ngài sống, đường ai nấy đi, chẳng có liên quan gì với nhau. Tôi có con đường của tôi: ăn, ngủ, chơi, học, kiếm tiền, giải trí … Tôi tự mình cũng dư sức làm, đâu cần sự giúp đỡ của Ngài. Cuộc sống cứ chảy trôi theo nhịp điều bình thường. Chỉ khi nào khó khăn xảy ra, tôi mới vội chạy tới Mẹ Maria - chứ không chạy tới Vua Kitô. Vì tôi nghe nói xin Đức Mẹ dễ được nhận lời hơn - tấm lòng người Mẹ dễ bao dung và dễ mủi lòng hơn - còn Chúa cao sang quá, tôi lại thật thấp hèn. Việc Chúa nhận lời cũng khó như hoàng đế trần gian chuẩn tấu cho một tên thảo dân vô danh tiểu tốt như tôi.
Nhưng theo ánh mắt Tâm linh, tôi xin chia sẻ về hai hình ảnh trong Đức Kitô : Trưởng tử và vị Vua.
ĐỨC KITÔ LÀ TRƯỞNG TỬ
Tôi còn nhớ rõ ngày tôi tham dự lễ Kitô Vua do nhóm Phục vụ Hôn Nhân Gia Đình của nhà thờ Chánh Toà tổ chức tại tu hội Naza. Lần đầu tiên tôi mới để ý tới Bài đọc 2: Thư Côlôxê 1:12-20, có 2 câu khiến tôi ngạc nhiên:
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
Người là khởi nguyên,
là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại,
Không ngạc nhiên sao được, vì trước đó, chưa bao giờ tôi nghĩ tới một hình ảnh người anh cả thân thương trong thánh lễ Đức Kitô Vua oai phong lẫm liệt.
Hôm nay tôi xin chia sẻ 3 đặc điểm của Anh cả Giêsu thân yêu của chúng ta dựa trên nền tảng Kinh Thánh: Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. (Rm 8:29)
Đức Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình.
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, mà tôi cũng mang hình ảnh Thiên Chúa nên tất nhiên tôi đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đây là một trong những điều mà tôi rất tâm đắc. Tôi đã chia sẻ khám phá tuyệt vời này trong những bài trước và cũng xin được phép nhắc đi nhắc lại trong những bài sau này. Đây không phải là trường hợp biết rồi, khổ lắm nói mãi. Nhưng vì đó là một trong những nền tảng để xây dựng toà nhà tâm linh, con đường Linh Đạo. Và mỗi lần nhắc lại là một lần chính bản thân tôi xác tín hơn. Nếu không có nền tảng này, tôi sẽ trở thành một tên mù sờ voi chính hiệu. Ý Chúa muốn nói con voi mà tôi lại cứ khư khư bảo rằng đó là cái cột đình.
Trước đây, tôi chỉ nghe về Hình ảnh Thiên Chúa qua bài đọc 1 trong Thánh lễ Vọng Phục sinh nói về cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn 30 lễ phục sinh qua đi nhưng tôi vẫn ngủ yên trong tâm tưởng tôi là con người có hồn có xác với đầy đủ đặc tính phàm nhân – đó là hình ảnh con người 100%. Không thấy đâu bóng dáng của hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì thế, tôi nói năng như con người, hiểu biết như con người, suy nghĩ như con người và tất nhiên là sống một đời con người bình thường như bất cứ một người chưa từng biết Chúa, trừ một vài biểu hiện bên ngoài như đi lễ Chúa nhật, làm dấu thánh giá trong quán ăn để chứng tỏ mình là con nhà có đạo.
Đức Kitô là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo.
Trước đây, tôi luôn tin rằng: Chúa Cha chỉ sinh ra Đức Giêsu và Chúa Cha yêu thương Chúa con sinh ra Chúa Thánh Thần. Còn tất cả mọi loài khác như loài người và mọi loài, mọi vật khác đều do Chúa dựng nên. Tôi chỉ được xếp cùng với loài thọ tạo theo kiểu cá mè một lứa - vật được tạo thành - Vật chứ không phải là Người.
Mãi sau này đọc Kinh Thánh tôi mới té ngửa, thì ra có cả hàng chục câu nói về tư cách là con yêu dấu của Chúa. Tôi xin phép trích ra một số câu tượng trưng.
Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.(Ga 1:13)
Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào:
Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa
-mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.(1Ga 3:1)
Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.(1Ga 4:7)
Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.(1Ga 5:1)
Tin vào những Lời Chúa trên đây, tôi vui mừng nhận ra rằng tôi không còn là vật nữa, mà tôi chính là con yêu dấu của Cha. Chắc chắn rằng ngày tôi chịu Bí Tích Thánh Tẩy, Chúa Cha cũng phán với tôi y như đã phán với Anh cả Giêsu: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Và phải đợi hơn ba mươi năm sau tôi mới nghe được câu tiếp theo: Ta hài lòng về con." - dù rằng hiện tại tôi chưa hoàn thiện nhưng bản chất của tôi luôn luôn và mãi mãi là con yêu dấu của Cha. Ngài luôn hài lòng về tôi không phải vì công trạng của tôi nhưng chỉ vì tôi mang hình ảnh Ngài, là đền thờ của Chúa Ba Ngôi. Cho dù hiện nay, lâu lâu ngôi đền thờ cũng biến thành hang trộm cướp qua những lỗi phạm, loạng quạng, vấp ngã bởi vì suốt hơn ba mươi năm tôi đã bị nhiễm thói đời quá nặng, nhưng theo ánh mắt của Chúa, tôi mãi mãi là con yêu dấu của Cha. Người ta đã kể câu chuyện về một người mẹ khóc thương thằng con cướp của giết người, sau khi bị xử bắn. Mặc cho người đời nguyền rủa nhưng theo ánh mắt yêu thương của bà thì “Nó vẫn là đứa con do tôi đứt ruột đẻ ra”. Chúa còn bao dung hơn nhiều, với tình yêu vô biên, Ngài đâu thèm nhìn vào lỗi lầm của tôi, mà Ngài chỉ thấy tôi là một đứa con yêu dấu của Ngài do chính Ngài sinh ra - Đứa con đã được sinh ra từ trái tim thổn thức yêu thương của Ngài.
Nhờ ý thức bản chất con yêu dấu của Ngài với cả kho sức mạnh Thần Khí Thiên Chúa trong mình. Tôi trỗi dậy rất nhanh và dễ dàng. Tôi không con lần lữa, lưỡng lự, nuối tiếc những quyến rũ thế gian mời mọc, với những lý luận cù nhầy nhưng lại nghe có vẻ rất hữu lý như thời con người cũ - một con người thường xuyên bị những ham muốn lừa dối.
Thí dụ như: “Ồ, đâu phải chỉ có một mình mình, cả hàng ngàn, hàng vạn, thậm chí hàng triệu người cũng làm như vậy, có chết chóc gì đâu.” “Chỉ thử một tí thôi mà, chẳng có tội lỗi gì đâu”. “Chẳng ai thấy đâu mà sợ, cứ làm tới đi.” … Và tất nhiên là tôi cứ từ từ từng bước nghe theo những lời dụ dỗ ngọt ngào và rơi vào tình trạng tội lỗi lúc nào không hay. Cứ như thế, không chỉ một vài lần mà cái cảnh cám dỗ kiểu đó diễn đi diễn lại trong tôi cả chục, cả trăm lần. Và tôi hầu như bại trận tới 95%, giỏi lắm mới thoát được trong 5% mong manh.
Nhưng từ khi đón nhận Đức Kitô là Anh cả, tôi cảm thấy Ngài rất gần gũi. Tôi dễ dàng cá nhân hoá lối sống của Ngài và nội tâm hoá những lời Ngài giảng dạy, những cảm nghiệm sống động của Ngài về Chúa Cha. Và rồi, sau một thời gian, cảm nghiệm đồng hình đồng dạng với Con của Ngài đã trở thành hiện thực ngay trong cuộc đời thường, giữa chốn trần gian khổ ải với biết bao hiểm nguy giăng mắc và con đường lởm chởm gai chông.
Đức Kitô là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại.
Tôi còn nhớ rất rõ thời gian mò mẫm đi tìm Ngài, tôi đã suy tư trăn trở về chủ đề sự sống đời đời và trong lúc đọc Kinh Thánh tôi đã khám phá ra một số câu giúp tôi trỗi dậy từ cõi chết.
Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. (Ga 5:24)
Thật là một an ủi lớn lao. Tôi đang lắng nghe lời Ngài, đang nội tâm hoá Lời Ngài. Nhờ Lời Chúa thấm vào lòng mình, tôi rất khoái chí vì biết được mình sẽ không bị xét xử - mà đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Lúc đó tôi chưa cảm nhận được sự sống đời đời như thế nào, nhưng nguyên cái chuyện không bị xét xử đã làm tôi sướng run cả lên rồi. Trước đó, tôi đã tưởng tượng ra viễn cảnh u ám thê lương: khi mình vừa trút hơi thở cuối cùng, tôi sẽ phải lếch thếch trong tấm áo linh hổn nhầu nát đầy bùn nhơ tới trình diện Ngài thẩm phán chí công. Và tôi nắm chắc phần thua trông thấy khi biết mình sẽ phải chịu phạt trong lửa luyện ngục một thời gian rất dài… kinh khủng quá!!!
Một thời gian sau, khi tìm hiểu về Thần Khí, tôi lại bắt gặp một câu khác.
Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô Giêsu, thì không còn bị lên án nữa. Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết (Rm 8,1-2)
Lần này là sướng thật rồi nhé. Tôi đang tập sống nên một với Đức Kitô trong Thần Khí Thiên Chúa và nên 2 câu trên đối với tôi là một khám phá tuyệt vời. Tôi không còn sợ bị lên án nữa – và nhất là - tôi đã được giải thoát khỏi luật của sự tôi và sự chết (hình ảnh của hoả ngục). Và tôi thấy mình quả thực đang từ cõi chết bước vào cõi sống - nơi đầy ánh sáng huyền diệu. Nhờ đó, tôi cảm nhận quả thực Đức Kitô là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại,
Để hình ảnh người Anh cả Giêsu rõ nét hơn, tôi xin minh hoạ thêm cảm nhận của thánh Phaolô trong thư Do Thái chương 2, theo dịch giả Ansơn Vị:
Đấng thánh hóa và các người được thánh hóa hết thảy đều có cùng một Cha. Nên Đức Giêsu đã không xấu hổ kêu họ là em, mà nói: ‘Con sẽ rao danh Cha cho các em con. Con sẽ tán dương Cha ở giữa cộng đoàn’…Nên Người phải giống các em mình trong mọi sự.
Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em".(Ga 20:17)
ĐỨC KITÔ LÀ VUA
Những chia sẻ về Đức Kitô - Trưởng tử có lẽ khiến cho một số quý độc giả đọc tới đây nghĩ thầm: Tên này chắc rối đạo tới nơi rồi, dám cả gan phế bỏ tước hiệu Đức Kitô Vua mà Giáo Hội đã long trọng mừng kính vào Chúa nhật cuối năm phụng vụ. Xin thưa, xin thưa: hoàn toàn không phải vậy, hoàn toàn không phải vậy.
Tôi chỉ muốn xác tín điều này: đối với tôi hiện giờ, Đức Kitô không còn phải là vua cao sang quyền thế xa lạ theo quan niệm con người ngày xưa của tôi nữa, nhưng hiện nay Ngài là Vua của lòng tôi theo ánh mắt tâm linh.
Tôi xin phép được nhắc lại lời Đức Kitô khẳng định: Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14:10)
Với ánh mắt của Đức Giêsu thì Chúa Cha là ông chủ đích thực, Chúa Cha là người làm chủ hành động của mình. Nói các khác, Chúa Cha rõ ràng là Vua của lòng Đức Kitô,
Thánh Phaolô cũng để lại một kinh nghiệm nổi tiếng: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. (Gl 2:20)
Với ánh mắt của Phaolô thì Đức Kitô là ông chủ đích thực, Đức Kitô là người làm chủ hành động của Phaolô. Nói cách khác, Đức Kitô hiển nhiên là Vua của lòng Phaolô,
Thế thì tôi cũng vậy, theo ánh mắt tâm linh, Đức Kitô là người làm chủ hành động của tôi. Nói cách khác, Đức Kitô đích thực là Vua của lòng tôi.
Tóm lại, nhân dịp lễ Đức Kitô Vua, tôi xin chia sẻ hình ảnh về Đức Kitô mà tôi thực sự tâm đắc, đó là Đức Kitô: vừa là người Anh cả vừa là Vua đích thực trong lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Trên trần gian này, có nhiều cách làm vua. Có những vị vua hay tổng thống cai trị đất nước với quyền: TN 34-ABC30
Trên trần gian này, có nhiều cách làm vua. Có những vị vua hay tổng thống cai trị đất nước với quyền lực trong tay, ngồi trên ngai vàng và ra lệnh, buộc các thần dân phải tuân phục. Có những vị vua không ngai, không lãnh thổ, nhưng làm chủ một lãnh vực kinh tế nào đó trên thế giới. Họ cũng được gọi là vua, như vua dầu lửa (Rockfeller), vua xe hơi (Ford), v. v…
Hôm nay, Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Nhưng chúng ta cần phải xác định xem: Ngài là Vua theo nghĩa nào? Vì quả thật Ngài chưa bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng chưa bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
2. Một phần ba nhân loại tôn Ngài là Vua của tâm hồn mình.
Hiện nay trên thế giới, 34,86% nhân loại – tức khoảng 2 tỷ trên 6 tỷ người – là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Bài Tin Mừng trong lễ Đức Giêsu Vua Vũ Trụ (Lc 23,35-43) cho thấy một cảnh tượng cảm động chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chấp nhận một cái chết thật đau khổ và nhục nhã, giữa sự chế giễu của mọi người, vì yêu thương con người. Và câu cuối cùng của bài Tin Mừng là «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» cho thấy Ngài có khả năng ban hạnh phúc vĩnh cửu cho con người. Ngài có thể ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, cho dẫu chúng ta tội lỗi đến đâu, miễn là chúng ta thành tâm sám hối và liên kết chặt chẽ với Ngài.
Tin và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tự nguyện đáp lại bằng tình yêu thương của họ. Thế là cuộc đời họ trở nên hạnh phúc và mang một ý nghĩa cao đẹp vì yêu và biết mình được yêu. Tương tự như một cô gái yếu đuối hèn mọn được một chàng trai cao sang để ý yêu thương, yêu thương đến độ sẵn sàng hy sinh tất cả cho mình, kể cả mạng sống. Thế là cô thấy đời mình hạnh phúc và có ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Để đáp lại tình yêu cao cả ấy, cô tự nguyện dâng hiến đời mình cho chàng, làm tất cả những gì chàng muốn để chàng được hạnh phúc. Hạnh phúc lớn nhất của nàng là được biết chàng hạnh phúc, vì chính chàng cũng đối xử như thế với nàng. Chàng trở thành vua lòng nàng, và nàng trở thành hoàng hậu của lòng chàng.
Biết bao Kitô hữu trên đời đã có một tình yêu song phương như thế đối với Đức Giêsu. Đối với họ, Đức Giêsu chính là vị Vua duy nhất của lòng họ, chiếm trọn vẹn trái tim họ. Họ đã hiến trọn cuộc đời mình để phụng sự Ngài nơi những hiện thân cụ thể của Ngài là những người chung quanh họ, những người họ gặp trong cuộc đời, nhất là những người nghèo khổ nhất, bị bỏ rơi hoặc chịu áp bức bất công nhất trên đời.
Với họ, tình yêu đối với Đức Giêsu được biến thành tình yêu đối với tha nhân. Vì Đức Giêsu đã nhiều lần tự đồng hóa Ngài với những người nhỏ bé nhất, đau khổ nhất trên đời (xem Mt 25,40.45; 10,40; 18,5; Lc 10,16). Hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Đối với họ, sự phân biệt giữa yêu Đức Giêsu và yêu tha nhân chỉ có trong lý thuyết chứ không có trong thực tế của đời sống. Nghĩa là yêu Đức Giêsu thì tất nhiên phải yêu tha nhân, và yêu tha nhân chính là yêu Đức Giêsu. Họ đã yêu Ngài, và phụng sự Ngài trong tha nhân đến mức sẵn sàng chịu tất cả mọi đau khổ có thể xảy đến, thậm chí hy sinh mạng sống mình (điển hình: gương của 2 linh mục Ba Lan Maximilianô Kôlbê và Jerzy Pôpiêlúskô).
3. Đức Giêsu đã là Vua của bản thân ta chưa?
Nếu phải tranh luận về thần học xem Đức Giêsu có phải là Vua của nhân loại, của vũ trụ không, thì chắc chắn biết bao người trong chúng ta sẽ tỏ ra hăng say nhiệt tình như thể sẵn sàng sống chết để bảo vệ luận điểm ấy. Nhưng nếu phải tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, thì chắc chắn rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời «CHƯA!». Thực tế thật đau lòng: Ngài là Vua của cả vũ trụ, nhưng đời sống và cách hành xử của ta lại chứng tỏ Ngài chưa phải là Vua của chính bản thân ta! Chân lý kia chỉ được ta công nhận trên lý thuyết, chứ không trở thành thực tế trong đời sống. Trong thực tế, vua của tâm hồn ta, thường xuyên ảnh hưởng mạnh mẽ đến những động lực của ta không phải là Ngài, mà là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta!
Nói một cách cụ thể hơn, nhiều khi miệng chúng ta tuyên xưng rất mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là Vua của cả vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn nhân loại, đồng thời kết án và tẩy chay những ai tuyên xưng bằng miệng khác với chúng ta, dẫu chỉ là một chút… Nhưng hành động và cách cư xử của chúng ta đối với mọi người lại tuyên xưng rất rõ ràng rằng tiền hay quyền bính mới là Vua của vũ trụ, mới là đấng cứu độ duy nhất của nhân loại! Thế mà chẳng ai kết án ta cả? ! Liệu tuyên xưng kiểu ấy có phù hợp với tinh thần Kitô giáo chăng? Dẫu sao, ta có thể chắc chắn một điều là: nó không phù hợp với tinh thần của Đức Giêsu.
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng hùng hồn kia ấy có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!” Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài sẽ không thèm hỏi ta đã chấp nhận và tuyên xưng những giáo điều nào, những luận điểm nào, hay đã tuyên xưng Ngài là Vua của cả vũ trụ chưa… Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là «người khôn ngoan xây nhà trên đá». (Mt 7, 24). Nhân dịp này, ta thử xét lại xem cách sống đạo hiện tại của chúng ta là «xây nhà trên đá». hay «trên cát»?
Cách đây ít lâu,một người lính Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một: TN 34-ABC31
Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận công việc”. Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa”. Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là vua Gustav Adolf VI.
Trong bài Phúc âm hôm nay nói về “Dụ ngôn cuộc phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta nghĩ đến sức mạnh của vũ trụ, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo, thị trường… Chúa Giêsu nói đến sự cai trị bằng tình yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Vương quốc của Người gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi và tù tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ thì thuộc về vương quốc của Người.
Ngược lại, chúng ta sẽ bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiêm trọng của những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài”. “Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những kẻ ngoảnh mặt đi”. Trong cuốn sách “One Heart Fullof Love”, Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã cảnh giác :
“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta : “ Ta đói nhưng các ngươi đã không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đã bỏ mặc Ta ! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng Ta cũng giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để yêu thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ. Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra đầu đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong quên lãng”.
Một người thanh niên tên là Michael Christensen đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải chứng kiến mỗi ngày :
Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ Têrêsa đã cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của em đã bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi Michael Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn đang tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng, “Con đã làm cho chính Ta”. Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ mỗi ngày.
Dụ ngôn cuộc phán xét chung” cũng trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi: TN 34-ABC32
“Dụ ngôn cuộc phán xét chung” cũng trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê. Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên ? Ai là dê ? Đã có những người không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ mình trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đã không nhận ra rằng họ đã thực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu cầu của những người nghèo khổ.
Ngày 12 tháng 4 năm 1961, phi hành gia Yuri Gagarin của Nga Sô, người đầu tiên bay vào không gian du hành xung quanh quỹ đạo của trái đất, tuyên bố khi trở về rằng đã không nhìn thấy Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào trong cuộc hành trình vào không gian bao la của mình. Nghe được lời phát biểu của ông, một linh mục người Nga đã bình luận rằng : “Nếu bạn chưa nhìn thấy Thiên Chúa trên trái đất, bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy Ngài ở trên các tầng trời được”. Thật đáng thương cho Yuri, vào năm 1968 ông đã bị tử nạn trong một tai nạn máy bay khi làm huấn luyện viên phản lực cơ MIG.
Làm thế nào để tìm thấy Thiên Chúa trên trái đất ? Chúa Giêsu trả lời : “Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom ; Ta ngồi tù các ngươi đã đến thăm”. “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis, người đã chết vào cùng ngày với tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, đã đưa ra nhận xét này. “Khi chúng ta đi lên trời, sẽ có ba điều ngạc nhiên : Trước hết, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những người chúng ta gặp thấy ở đó, chắc chắn rằng nhiều người chúng ta không mong muốn nhìn thấy họ. Ngạc nhiên thứ hai là chúng ta sẽ kinh ngạc vì những người vắng mặt – những người chúng ta đã nghĩ rằng phải ở trên thiên đàng, nhưng lại không có mặt. Ngạc nhiên thứ ba, dĩ nhiên, sẽ là vì chúng ta có mặt ở đó.
Phúc âm nói rất rõ, người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi tiêu chuẩn căn bản dựa trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải dựa vào danh giá, chức vụ và địa vị xã hội. Và đây chính là điều làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một văn sĩ Kitô giáo khác, Frederick Buechner đã diễn tả cùng một tư tưởng này như sau : “Nhiều người vô thần là một người có lòng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành thật tin tưởng rằng không có Thiên Chúa nhưng lại sống như thể có một Đấng Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên Chúa nhưng lại sống như thể không có gì”.
Chưa bao giờ sự chênh lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ 4/o dân số thế giới, nhưng đã tiêu thụ đến 40/o số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80/o của cải của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim Batman đã lãnh được 10 triệu đôla. Nhà võ sĩ quền Anh hạng nặng Buster Douglas xuất hiện trên võ đài 7 phút để bị thua trận đổi lấy 24 triệu đôla. Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đôla hàng năm nếu di chuyển đến sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc gia đó tăng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đã thương lượng với nhà xuất bản để ra một CD với hợp đồng đòi hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đôla. Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball và football, đều là các triệu phú ! Michael Jordan ký hợp đồng 37 triệu đôla một năm…
Trong khi đó theo báo cáo của hội nghị quốc tế về tình trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, và thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền hình đã đề nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đôla một năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị rằng chỉ cần cắt giảm 10/o ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng có thể cứu sống được 14 triệu sinh mạng hàng năm.
Đối diện với tình trạng khủng hoảng của thế giới hiện nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi người hãy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới :
“Chính ngài nói với bạn “Hãy chỗi dậy ! Hãy chỗi dậy !” Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế giới và chọn Ngài là tình yêu, thứ tình yêu mang lại một ý nghĩa hoàn toàn cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính mình, trao tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người chúng ta, và sau đó trao tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng chúng ta cho Ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn minh khác, một nền văn minh mới : nền văn minh tình thương.
Thật vậy, Giáo Hội xét như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của Người, Giáo Hội luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và những kẻ bị bỏ rơi. Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng, kêu gọi và đấu tranh chống lại sự nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức, nghèo về vật chất, tinh thần, và đặc biệt nghèo tình thương yêu.
Trong cuộc cách mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng ba ngày với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả”, viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao ?” một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ”, viên trung sĩ trả lời. Đứng trước nhu cầu của thế giới hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của lòng thương xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.
Khi Albert Einstein thường đi nhiều nơi nói về thuyết Tương Đối. Ông thường có người lái xe: TN 34-ABC33
Khi Albert Einstein thường đi nhiều nơi nói về thuyết Tương Đối. Ông thường có người lái xe cho ông. Một hôm, đang trên đường, anh tài xế nói: "Thưa tiến sĩ Einstein, tôi nghe ngài giảng bài này cả chục lần, tôi thuộc lòng rồi và tôi bảo đảm tự tôi có thể giảng cũng được." Einstein trả lời: "Được lắm, tôi cho anh có cơ hội. Những người tại đại học này chưa gặp mặt tôi. Khi đến đó, tôi sẽ đội mũ tài xế và anh sẽ giới thiệu tôi là tài xế của anh rồi anh bắt đầu giảng." Mọi việc xảy ra y như họ dự tính và anh kia giảng bài một cách trơn tru. Đến khi một giáo sư đứng lên hỏi một vấn đề liên quan đến công thức toán, anh ta nhanh trí trả lời: "Câu giải đáp của vấn đề đó quá đơn giản. Tôi không ngờ giáo sư lại hỏi tôi. Để thấy vấn đề đơn giản thế nào, tôi sẽ để tài xế của tôi trả lời."
Làm thế nào để nên trọn lành? Làm thế nào để biết chính mình và mình phải làm cái gì? Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời thật đơn giản và chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đến, các con được Cha chúc phúc, hưởng phúc thiên đàng Cha đã sắm sẵn từ tạo thiên lập địa" (Mt 25,34). Họ đã học được bí quyết trở nên hoàn hảo. Chúa Giêsu nói tiếp về đức tính thương người, tế nhị của họ: "Các ngươi đã cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ yếu đau, tù đầy, an ủi người cô đơn..."
Chúng ta có tin lời Chúa Giêsu không? Chúng ta có chấp nhận quan điểm của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa không? Chúng ta có chấp nhận khi Ngài nói đến điều để thuộc về hay không thuộc về Nước Thiên Chúa, đó là "cùng với người khác" (together) không? Theo Chúa Giêsu, để thuộc về Nước Thiên Chúa, để nên hoàn hảo, chúng ta phải đối xử tử tế với mọi người, hành động tử tế xuất phát từ lòng yêu thương quan tâm đến sự cần thiết của người khác.
Đạt được tự tin, tự trọng cao, tâm trí bình an, có cảm nghĩ mình giá trị, mình có mục đích cho cuộc sống, mình ổn định, đó là điều mọi người mong muốn. Đúng vậy, chúng ta đều muốn trở nên hoàn hảo, nhưng làm thế nào để được như vậy. Thời nay người ta viết không biết bao nhiêu sách chỉ dẫn làm thế nào gỡ rối chính mình và làm thế nào ráp nối lại chính mình. Các sách tâm lý phổ thông nhiều vô kể và nó có thể giúp được một số người nhưng đối với số đông thì nó gây rối thêm. Khi hiểu được các điều mà các nhà chuyên môn đề nghị để giải quyết vấn đề thì các điều đó nhấn mạnh rằng: "Để được thành toàn trong cuộc sống, người ta cần để ý đến nhau, cần hiểu nhau hơn. Chúng ta không thể nên viên mãn lẻ loi."
Lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nói lên một cách đơn thành rằng nên hoàn hảo là tuyệt đối chấp nhận tiêu chuẩn Chúa đề ra là quan tâm đến người khác: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, thăm tù nhân và kẻ ốm đau."
Nước Thiên Chúa không nên coi là một viễn tượng không đạt được hay một ước mong không thực tế. Hiện thực hoá Nước Thiên Chúa tùy thuộc mỗi người chúng ta. Nước Thiên Chúa hiện hữu và phát triển ngay trong đời sống của mọi người chúng ta trên trần gian. Mỗi người chúng ta có trong mình một tình yêu được thừa hưởng vì là con cái Thiên Chúa: "Sẽ không còn sự chết, không còn buồn đau, không còn nước mắt, không còn than khóc hay đau đớn. Thế giới cũ đã qua đi." Những điều đem lại lộn xộn và phá hủy nhân loại là do con người. Trách nhiệm của chúng ta, những người theo Chúa Kitô, là bắt đầu thay đổi cái thế giới cũ đó, là bắt đầu sống một đời sống mới trong tình yêu, và đó là Nước Thiên Chúa ngay giữa chúng ta.
Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới.
Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời được tìm thấy trong lời Chúa Giêsu: "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống..." Hãy yêu kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.
TÊRÊSA Calcutta là người mê và sống đoạn Tin Mừng này. Bà bị cuốn hút bởi những người đau: TN 34-ABC34
TÊRÊSA Calcutta là người mê và sống đoạn Tin Mừng này. Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ. Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương, mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.
Vì yêu Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.
"Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa."
Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay, vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị Vua, có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển. Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân, tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh. Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài, mà họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc. Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá mình với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày.
Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua con người, qua những người hèn kém đáng thương nhất. Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế. Như thế chúng ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích. Ngài còn ở nơi những người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng đều là một bí tích, nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta như vị vua giả trang làm người hành khất.
Ngày phán xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.
"Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu."
Tội lớn nhất là tội thiếu sót: không làm điều phải làm.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài. Những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương, những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ, những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê, những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì đó cụ thể để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.
Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ, vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay còn nhiều bất công và đau khổ do con người gây ra cho nhau. Bạn thử nghĩ, với khả năng của mình, bạn làm được điều gì để người chung quanh hạnh phúc?
Thấy Chúa Giêsu nơi những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư nghề nghiệp, thậm chí đã có lần phạm pháp, bạn nghĩ điều đó có khó không? Làm sao tôi có thể đối xử với họ như với Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ, nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăn ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu: có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền lòng chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo chịu để Chúa chi phối đởi mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
“Chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô như thế nào nơi kẻ bé mọn nhất hiện đang sống giữa chúng ta.”
Trong cuốn sách của mình nhan đề: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John: TN 34-ABC35
Trong cuốn sách của mình nhan đề: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị Ái Nhĩ Lan.
Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị không có con nối dõi ngai báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm biển nơi mỗi thành phố và làng mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn ông ưu tú đến cho Đức vua phỏng vấn.
Đức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc biệt được ngài nhấn mạnh là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh thanh niên là vai chính trong câu chuyện truyền thuyết này nhận thấy mình có một trong các điều kiện đòi hỏi, vì thực sự anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm thấy từ thâm sâu nội tâm có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh lại quá nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng chẳng có tìên mua thực phẩm cho cuộc hành trình xa xôi đến cung điện đức vua. Vì thế anh thanh niên này đã cầu nguyện xin ơn soi sáng cho vấn đề. cuối cùng anh quyết định đi ăn xin quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng anh bắt đầu lên đường.
Sau một tháng du hành, ngày nọ anh thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn đồi phía xa. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ đường. Ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt: "Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không?" anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi bộ đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước tới cung điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về. Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.
Đến trước bệ rồng anh thanh niên liền gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể nào tin nổi mắt mình và thốt lên: "Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường!" đức vua đáp: "Đúng thế". Anh thanh niên liền hỏi: "Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?" Đức vua trả lời: "Bởi vì Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người không?"
Dù đây là một câu chuyện giả tưởng, nhưng chủ điểm của nó rất là vững chắc. Đây cũng chính là chủ điểm mà các bài đọc hôm nay, đặc biệt là bài Phúc âm nêu ra. Chủ điểm ấy là:
Vào ngày cuối đời, tất cả chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ hèn mọn nhất trong anh chị em chúng ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc âm : "Đoạn đức vua sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã chăm sóc Ta"
Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Đức vua sẽ đáp lại: "Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó".
Để cụ thể hơn chủ điểm trong các lời Chúa Giêsu nói đó, một giáo sư ở Chicago đã hỏi các sinh viên của mình: "Lần mới đây nhất mà các bạn giúp đỡ kẻ túng thiếu là lúc nào?". Sau đây là các câu trả lời của ba sinh viên:
- Vào bữa thứ sáu tôi đang ở trên chiếc xe buýt đường Roosevelt thì có một ngươiì đàn ông mang lên xe một vài chiếc hộp cồng kềnh. Tôi liền nhường cho ông ta chỗ ngồi. Ông ta từ chối nhưng lại yêu cầu tôi giữ giùm ông ta vài chiếc hộp. Tôi đồng ý và ông tỏ ra rất biết ơn".
- "Hai tuần trước đây, tôi đang ngồi trên một chiếc xe buýt cạnh một bà dở hơi. Bà ta muốn kíêm người nói chuyện vì thế tôi đã cư xử tử tế với bà và lắng nghe bà nói"
- "Tôi chẳng thể nào nhớ được tôi đã có giúp đỡ ai đó vào một lúc nào không. Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ về điều này, hẳn là đã lâu quá rồi nên tôi không thể nhớ được, có lẽ có một điều gì trục trặc nơi con người tôi, có lẽ tôi đã làm ngơ nhắm mắt trước những kẻ thiếu thốn".
Chúng ta có thể tự vấn mình về chính câu hỏi vị giáo sư đặt ra cho các sinh viên: "Lần mới đây nhất mà chúng ta giúp kẻ khốn khó là vào lúc nào?"
Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Liệu chúng ta có sẽ trả lời giống hai sinh viên trên hay là giống anh sinh viên thứ ba là kẻ không thể nhớ nổi mình đã giúp đỡ kẻ khốn khó cách đây bao lâu?
Chẳng hạn vấn đề giúp đỡ những kẻ khác trong gia đình chúng ta. Lần mới đây nhất mà chúng ta tự nguyện giúp đỡ họ một điều gì đó, vào lúc nào?
Rồi đến láng giềng, và dân chúng trong giáo xứ này, lần mới đây nhất mà chúng ta bước tới gíup đỡ cho họ khi họ cần, là vào lúc nào?
Tại sao chúng ta không mở rộng lòng mình hơn cho những kẻ đau khổ, cô đơn, túng thiếu, bất chấp họ là ai và sống ở đâu? Kể từ hôm nay, chúng ta nên làm điều gì để thay đổi ngay lập tức sự thiếu sót ấy.
Các bài đọc hôm nay nhằm kết thúc năm phụng vụ của Giáo Hội. trong số tất cả bài đọc của năm phụng vụ này ít bài nào chứa đựng một sứ điệp quan trọng hơn sứ điệp hôm nay. Sứ điệp này sở dĩ quan trọng đến thế là vì nó liên quan đến những gì chúng ta sẽ bị xét xử vào lúc cuối cuộc đời của chúng ta. Chúng ta sẽ bị xét xử về cách thức chúng ta đã phục vụ Đức Kitô nơi kẻ hèn mọn trong chúng ta như thế nào. Tôi xin kết thúc bằng vài hàng trích dẫn từ bài thơ của Brewer Matlocks như sau:
"Có cha xứ một dòng khổ tu nọ thường leo cao trên nóc giáo đường hầu gần Chúa hơn để mang lời Chúa xuống đám dân trong xứ của ngài. Ngày nọ bỗng ngài được nghe tiếng Chúa Khi ngài kêu từ nóc giáo đường: Chúa ở đâu Chúa hỡi, Chúa ở đâu? Và Chúa đã đáp lời: Xuống đi Ta ở giữa đám dân Ta đó"
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân: TN 34-ABC36
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần cũng đều vô ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:
"Chúng tôi biết ông là một trong những thương gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm gương sáng cho những người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao ông không chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người nghèo khó khắp mọi nơi trên đất nước này."
"Thưa bà, bà có biết là tôi còn một mẹ già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà có biết tôi còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn quại vì chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị công an bắn què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu vì những năm tháng tù đầy cải tạo không?"
Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội đứng dậy: "Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh ông đau khổ đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ không đúng về ông."
Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy người đó mà tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các bà." (Trích trong: Truyện Cười Nhà Đạo).
Nguyên Tắc Xét Xử
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết Thiên Chúa là Mục Tử, là Vua, và là Thẩm Phán. Trong suốt chuyến hành trình của cuộc đời, Thiên Chúa là Mục Tử chăn dắt chúng ta. Ngài là Vua lãnh đạo, chiến thắng Satan, giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích nô lệ tội lỗi và lo cho chúng ta. Sau cùng Ngài sẽ là Thẩm Phán xét xử chúng ta và mọi người thuộc mọi dân tộc. Bài Phúc Âm nói rất rõ nguyên tắc Chúa Kitô dùng để xét xử và quyết định cho ai được vào Thiên Đàng và ai phải đi xuống hỏa ngục. Người được vào Thiên Đàng là người có tấm lòng từ tâm biết để ý thăm viếng, thông cảm, chăm lo và giúp đỡ cho những ai có nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Những công việc từ thiện bác ái, những cử chỉ và hành động giúp đỡ cho những người anh chị em thiếu thốn chính là bảo chứng cho chúng ta biết mình có thuộc về Nước Thiên Chúa hay không.
Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đâu…. ? Cả những người lành đứng bên hữu cũng như những người bị loại đứng phía bên tả đều đã hỏi Đức Giêsu Kitô Vua cùng một câu hỏi như thế. Họ đã phục vụ Chúa Kitô hay không phục vụ Ngài mà không hay biết. Đức Ktiô đã cho họ biết rằng, những việc họ đã làm hay không làm cho những người gặp nỗi khốn khó là họ đã làm hay không làm cho chính Ngài. Ngài đã nhận những người nghèo, người yếu đau, người đói khát không cơm ăn không áo mặc, người bị giam cầm là chính Ngài. Chúa Kitô vẫn còn đang bước đi trên trái đất đội lốt những người nghèo, những con người thiếu thốn, đau khổ, bất hạnh, bị xã hội lên án bỏ tù, quên lãng và bỏ rơi. Chúng ta có nhận ra Ngài không?
Những Kitô Thời Đại
Chính chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận là chính Ngài vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, cảm thông của người khác. Những ân huệ chúng ta nhận được từ người khác thuộc về cả phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Nhu cầu của chúng ta có thể rất quan trọng hay không mấy quan trọng.
Sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong thành phố; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một đồng hay một vài xu mà được người khác cho vay cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm.
Chẳng kể sự giúp đỡ và nghĩa cử tử tế của người khác dành cho chúng ta nhỏ bé hay lớn lao, chúng ta luôn luôn cảm thấy vui sướng và biết ơn về lòng tốt và sự ân cần của họ dành cho chúng ta trong lúc thiếu thốn cùng quẫn. Lúc đó chính chúng ta là những Kitô nhỏ.
Cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người thi ân. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn nản, trao cho người hành khất một vài đồng hay mua cho họ một chiếc bánh, giúp đỡ người lâm nạn hay trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.
Ở mọi thời đại, trong Giáo Hội Công Giáo, và trong các xứ đạo, việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, thăm hỏi những tù nhân vẫn luôn là những công tác mục vụ được ưu tiên để ý. Nhiều anh chị em chúng ta thường xuyên giúp đỡ người nghèo bên quê nhà. Và hiện nay hàng ngàn hàng triệu đôla đang được anh chị em chúng ta đóng góp để gởi về cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung. Chúng ta làm vì lòng nhân ái yêu thương, chứ không phải vì bất cứ một lý do nào khác. Người tin biết Chúa cũng làm và người không tin biết Chúa cũng làm. Tất cả đều được Chúa Kitô nhìn nhận là làm cho chính Ngài.
Tuy nhiên cũng có những lúc chúng ta thiếu thốn nhưng không được ai giúp đỡ; đau khổ mà không được ai an ủi; cô đơn mà không ai đoái hoài hỏi han; thất nghiệp mà chẳng ai thèm mướn.. . Và ngược lại cũng có những lần chính chúng ta vì ơ hờ hay bận rộn, vì lười biếng hay ích kỷ, chúng ta cũng đã quay đi trước những nhu cầu của người cần đến chúng ta. Hay khi một người nào đó trách mắng chúng ta là tại sao lại ích kỷ không chịu giúp đỡ họ thì chúng ta sẽ nói lại rằng, "Chẳng có luật nào bắt tôi phải cho anh hay phải giúp đỡ chị cả." Đúng thế! Chẳng có công an hay cảnh sát nào có quyền bắt chúng ta vì chúng ta đã không làm việc bác ái giúp đỡ người khác. Chẳng ai có quyền bắt lỗi chúng ta nếu chúng ta không giúp đỡ hay không làm việc từ thiện bác ái. Chỉ duy có Chúa Kitô mới có quyền trách và lên án chúng ta. Luật bác ái và thương yêu tha nhân là luật của Chính Chúa Kitô. Và Ngài dùng đó làm nguyên tắc để xét xử. Chỉ có Chúa Kitô mới làm chúng ta cảm thấy có lỗi khi nghe Ngài nói, "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
Kitô giáo nhấn mạnh đến tinh thần yêu thương và xây dựng kiến tạo một xã hội yêu thương. Chúa Kitô nhắc cho chúng ta biết rằng đến cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử trên căn bản lòng bác ái và những nghĩa cử yêu thương chăm sóc ân cần chúng ta thực hiện đối với những người bé mọn có nhu cầu cần trong cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa Kitô được chứng thực khi chúng ta biết đưa tay ra để cứu giúp và ân cần chăm sóc chia sẻ với những người anh chị em thiếu thốn. Chúa Kitô quả quyết là điều gì chúng ta làm cho những người anh chị em này là chúng ta làm cho chính Ngài.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN NĂM A (20.11.2005) I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Thời gian mấy tháng qua, thiên tai (mưa bão, lũ lụt, động và lở đất), dịch bệnh (cúm gà, H5N1) và: TN 34-ABC37
Thời gian mấy tháng qua, thiên tai (mưa bão, lũ lụt, động và lở đất), dịch bệnh (cúm gà, H5N1) và chiến tranh, khủng bố xẩy ra một cách dồn dập trên khắp các lục địa, nhất là tại Mỹ, Phi, Á châu và Trung Đông. Chúng ta phải tự hỏi: Tại sao tai ương, hoạn nạn lại xẩy ra NHIỀU và DỮ DỘI như thế? Các sự kiện khủng khiếp ấy có ý nghĩa gì, muốn nói điều gì với nhân loại ngày hôm nay? Các nhà khoa học, các nhà chiến lược của các quốc gia có câu trả lời của họ. Còn chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô là Vua vũ trụ và vạn vật, chúng ta có câu trả lời riêng của mình không?
Theo thiển ý cá nhân tôi, thì chúng ta có thể tìm ra câu trả lời trong ý nghĩa phụng vụ hôm nay là Lễ Chúa Kitô Vua mà Hội Thánh cử hành để kết thúc Năm Phụng vụ. Trong tâm tình yêu mến, tôn thờ và quy phục Chúa Kitô Vua, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa về cuộc phán xét chung để kiểm điểm đời sống đức tin, xem chúng ta đã thực sự nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Kitô là Vua của chúng ta chưa? Đồng thời cũng nhìn xem chúng ta phải làm gì để Chúa Kitô trở thành Vua của mọi người, mọi nước trong thế giới hôm nay?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
31 "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34 Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." 37 Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?" 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." 41 Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?" 45 Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời."
2.2 Điều đáng lưu ý về chú giải đoạn Tin Mừng Mt 25, 31-46:
Trước khi đi vào việc khám phá chân dung và giáo huấn của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc âm Mt 25, 31-46 này, có lẽ chúng ta nên xem xét lại cách chúng ta hiểu nội dung và ý nghĩa của dụ ngôn này. Có lẽ nhiều người trong chúng ta thường hiểu rằng đối với mọi người, có đạo (hiểu là Đạo Chúa) cũng như không có đạo (lương dân hay dân ngoại), tiêu chuẩn “cuối cùng” và “có tính quyết định” để được vào Vương Quốc của Thiên Chúa là có những việc làm tốt đối với bất cứ người bé mọn nào, mà không cần thực hiện những việc khác như cầu nguyện, tham dự các bí tích, học hỏi giáo lý, thánh kinh, sống công bằng và sạch tội. Thật ra, tuy đoạn Tin Mừng này đề cập đến cuộc phán xét chung, nhưng không phải là cuộc phán xét chung của tất cả mọi người, Kitô hữu và không Kitô hữu, mà chỉ là cuộc phán xét chung của các dân ngoại mà thôi. Căn cứ hay cơ sở của khẳng định trên là chữ “các dân thiên hạ” là chữ trong các bản văn Thánh Kinh luôn được hiều là các dân ngoại tức những người ngoài Do Thái giáo (thời Cựu ước) và Kitô giáo (thời Tân ước). Đối với những người ngoại này thì tiêu chuẩn “được chúc phúc” hay “bị luận phạt” là cách họ đối xử tốt hay không tốt với “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây” tức với một trong các Kitô hữu (có thể hiểu là một Kitô hữu bình thường hay là một nhà truyền giáo) (1).
2.3 Trong đoạn Tin Mừng Mt 25, 31-46 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Hiểu rõ như thế rồi chúng ta sẽ tìm xem Chúa Giêsu là Ai và muốn truyền đạt gì cho chúng ta trong dụ ngôn trên. Trước hết chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu (với danh xưng là Con Người) là Đấng có toàn quyền trên vũ trụ vạn vật và loài người. Người ngự trên ngai tòa xét xử vì Người là Thẩm Phán Tối Cao và Chung Thẩm. Với những người không biết Chúa thì Người xét xử theo cách họ sống yêu thương bác ái với các tín hữu và sứ giả của Chúa.
Chúng ta cũng khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng đã đồng hóa mình với các môn đệ của Người, thậm chí với các Kitô hữu bình thường nhất: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40). Chính vì sự đồng hóa ấy mà những việc làm của những người không biết Chúa cho các môn đệ hay tín hữu của Chúa được coi như những việc làm cho chính Chúa vậy.
2.4 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 25, 31-46 dạy chúng ta điều gì?
Lời Chúa hôm nay dậy rằng: tất cả những người lương dân (tức dân ngoại) đều có thể trở thành những người ‘công chính’ tức được gia nhập vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Con đường giúp những người ấy trở nên công chính hay con đường giúp họ đi vào Nước Trời là cách họ đối xử tốt với các môn đệ của Chúa Kitô. Nói cách khác đó chính là tiêu chuẩn để những người ngoài Kitô giáo “được chúc phúc” hay “bị luật phạt” trong ngày Cánh Chung (2).
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
1. Cảm tạ Thiên Chúa lòng lành vô cùng vì Người đã có sẵn kế hoạch và biện pháp cần thiết để cứu độ hết mọi người, dù họ không biết Chúa, không được chịu phép Rửa Tội, không nhận biết Chúa Kitô là Chúa và là Vua.
2. Ý thức vinh dự và trách nhiệm cao quý của mình là những người đã được ơn biết Chúa, đã nhận được bao hồng ân của các Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Hôn Phối và Xức Dầu và đã nhận ra Chúa Kitô là Chúa và là Vua. Thể hiện ý thức ấy bằng tâm tình biết ơn và bằng việc làm cụ thể, thiết thực. 3. Bằng đời sống chứng tá và dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương trong xã hội ta đang sống để giúp anh chị em lương dân ở chung quanh ta, nhận ra Chúa Kitô là Vua và là Chúa vũ trụ và muôn loài muôn vật.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Kitô Vua, trong xã hội chúng con đang sống, còn có không biết bao nhiêu người không biết, không nhìn nhận Chúa là Vua, là Chúa vũ trụ vạn vật và loài người!
Lạy Chúa Kitô Vua, trong thế giới chúng con đang sống, càng ngày càng có nhiều chính phủ chẳng những không biết, không nhìn nhận Chúa là Vua, là Chúa vũ trụ vạn vật và loài người, mà còn ra sức cản trở, thậm chí bách hại những người tin nhận Chúa là Vua, là Chúa vũ trụ vạn vật và loài người!
Lạy Chúa Kitô Vua, trong xã hội và thế giới hôm nay, hằng ngày xẩy ra không biết bao nhiêu tội ác chống lại Sự Sống, Phẩm Giá và Tự Do của con người cũng là những tội ác chống lại Vương Quyền của Chúa!
Lạy Chúa Kitô Vua, trong cộng đoàn đức tin của chúng con, còn có rất nhiều Kitô hữu - trong đó có cả chúng con - miệng tuyên xưng Chúa là Vua, là Chúa vũ trụ vạn vật và loài người, nhưng trong cách sống cụ thể thì lại chối bỏ Lề Luật, Giới Răn và Lời Khuyên của Chúa!
Xin Chúa Kitô Vua dủ lòng thương xót chúng con! Xin Chúa Kitô Vua rộng lượng thứ tha cho loài người, nhất là cho các chính quyền và những thế lực gây ra tội ác chống lại con người và Vương Quyền của Chúa!
Xin Chúa Kitô Vua nhìn xem các nạn nhân của thiên tai và bạo lực. Xin Chúa Kitô Vua ban Bình An cho nhân loại ngày hôm nay.
Chúng con xin vì Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh Vinh Hiển. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 06.11.2005.
Chú thích: ---------------- (1) Đọc Daniel J. Harrington, S.J.,The Gospel of Matthew, Collegeville, MN, USA: The Liturgical Press, 1991, trang 358-359.
(2) Về tiêu chuẩn được gia nhập Vương Quốc của Thiên Chúa (tức được cứu độ) của những người tin theo Chúa thì Chúa Giêsu đã trình bày trong ba dụ ngôn về Nước Trời trước dụ ngôn về cuộc phán xét chung này. Đó là dụ ngôn người đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51), dụ ngôn mười trinh nữ (Mt 25,1-13) và dụ ngôn những yến bạc (Mt 25, 14-30).
Trong Thánh Kinh có nhắc đến cuộc phán xét dành cho người Do Thái (và Kitô hữu) và dành cho lương dân một cách riêng biệt (Rm 2,9-10; 1 Cr 5,2-3; 1 Pr 4,17). Còn đoạn Phúc âm hôm nay là nói riêng về cuộc phán xét dân ngoại.
Cái trớ trêu của các môn đệ và những người dân Do Thái khi xưa là cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ lên N34-ABC38
Cái trớ trêu của các môn đệ và những người dân Do Thái khi xưa là cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ lên ngai vua như quan niệm con người. Chúa trở thành vua để các môn đệ được chia chác quyền hành và dân nước được hưởng an bình, quyền lợi vv…Thế nhưng, ý nghĩ của con người hoàn toàn trái nghịch với ý nghĩ của Chúa Giêsu. Người đến để hầu hạ, chứ không phải được phục vụ. Chúa Giêsu trở nên vua tôi tớ. Đây là một sự nghịch lý đã làm bao người thất vọng. Vua hiền lành, khiêm nhượng ngồi trên mình lừa…Vua cúi xuống rửa chân cho các môn đệ…
MỘT BỨC HỌA TOÀN CẢNH, BỨC HỌA CHUNG CUỘC: Các môn đệ của Chúa Giêsu đã rất bồn chồn, lo lắng khi Chúa loan tin đền thờ Giêrusalem bị tàn phá. Do đó, các ông hỏi Người:” Khi nào thì những việc đó sẽ xẩy đến ?”. Chúa không trả lời trực tiếp cho các ông những điều các ông mong đợi, trái lại trong bài giảng nói về ngày cùng tận, và ngang qua năm dụ ngôn, Chúa đã dậy các môn đệ và mọi người phải tỉnh thức, sẵn sàng và cầu nguyện, phải làm cho các nén bạc được trao, sinh lời,
sinh lợi. Phần kết thúc, cho chúng ta cái nhìn chung về cuộc chung thẩm, về ngày tận thế và cho chúng ta hiểu rõ thái độ, chí hướng của Chúa Giêsu:” Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi”( Mt 25, 31-33 ). Chính vì thế, có cảnh Chúa đối thoại với những kẻ được chúc phúc, đối thoại với những người bị nguyền rủa, bị chúc dữ và sau đó là án phạt ( Mt 25, 46 ). Bức họa cho thấy cuộc tập hợp lớn lao, vĩ đại của toàn thể nhân loại chung quanh Đấng sẽ”ngự lên Ngai vinh hiển của Người “. Đấng ngự trên Ngai như một Vị có đầy uy quyền, Đấng thuộc về Thiên Chúa, ngự đến xét xử toàn dân thiên hạ. Đấng như mục tử mà ngôn sứ Edêkiên loan báo:” Người sẽ tách biệt họ như Mục Tử tách biệt chiên với dê: chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái “.
Đức Giêsu còn được diễn tả như Đức Vua xét xử thật công minh, đang nói về Cha của mình và tất cả mọi người bị xét xử, thưa với Người” Lạy Chúa “. Đây lành danh xưng
Được gán cho Đức Kitô vinh hiển, sẽ ngự đến trong ngày tận thế, xét xử nhân loại theo lẽ công minh và do lòng nhân hậu của Chúa.
CHÚA HÉ MỞ CHO THẤY : Khi đối thoại với những người được chúc phúc và những quân bị nguyền rủa, nhân loại mới té ngửa Chúa đồng hóa mình với những con người cùng cực, những kẻ khó nghèo. Mỗi lần các con cho một người đói ăn, kẻ khát uống…Mỗi lần các con cho những người rách rưới ăn mặc, những người bị đau khổ, các con an ủi…Mỗi lần các con thăm viếng kẻ tù rạc là các con làm cho chính Ta. Quả thực, Chúa đã đồng hóa với tất cả những người đó, những người thấp cổ bé họng để thấy Vua Giêsu như thế nào. Chúa là Vua nhưng lại là Vua tôi tớ, Vua hiền lành, khiêm nhượng, nhân hậu. Và rồi khi bị phán xét thì đã quá muộn khi con người không làm cho Vua Giêsu những điều mà những người được chúc phúc đã làm. Thế rồi, việc thi hành án diễn ra thật đơn giản:”Thế là bọn này sẽ phải ra đi mà vào chốn cực hình muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được hưởng phúc trường sinh”.
Chúa hé mở cho nhân loại thấy cảnh tượng cuộc phán xét: kẻ lành được hưởng hạnh phúc và kẻ dữ chịu án phạt đời đời. Rõ ràng Chúa muốn cho nhân loại thấy tấm lòng đầy yêu thương của Người. Tấm lòng của Chúa vượt qua lề luật và các ngôn sứ…Người là Vua vũ trụ và là Vua các tâm hồn.
Philatô hỏi:” Ông có phải là Vua không ? Chúa Giêsu trả lời tự ý Vua nói về Tôi hay người ta đã nói về Tôi như vậy ? Chúa Giêsu là Vua nhưng không theo quan niệm Vua của con người mà Người là Vua Vũ Trụ Trời Đất, Vua muôn Vua…
Lạy Chúa Giêsu là Vua xin ngự trị trong cung điện tâm hồn của mỗi người chúng con và của cả nhân loại này…
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái mong chờ Đấng Mêsia. Đây là một vị vua sẽ đứng lên giải: TN 34-ABC39
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái mong chờ Đấng Mêsia. Đây là một vị vua sẽ đứng lên giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của người Roma. Trong niềm háo hức cuồng nhiệt đó, có lúc người ta đã tưởng Đức Giêsu chính là vị vua mà toàn dân trông đợi. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài lại rút lui trên núi một mình (Ga 6,15). Khi ở trước toà, Philatô hỏi: "Ông có phải là vua của người Do Thái không?" Đức Giêsu chỉ đáp lại: "Chính quan nói điều đó." (Lc 23,3). Như thế Đức Giêsu không nhận mình là vua theo nghĩa chính trị. Ngài không phải là người gây rối trong nước hay ngăn cản nộp thuế cho Xê-da (Lc 23,2). Ngài chẳng bao giờ công khai xưng mình là Vua Mêsia, vì tước vị này có thể gây ra nhiều hiểu lầm trong dân chúng. Vậy mà Ngài đã bị đóng đinh trên thập giá với bản án "Đây là vua của người Do Thái" (Lc 23,38). Ngài đã chết như một tội phạm chính trị.
Hôm nay khi mừng lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu bị treo trên thập giá giữa hai kẻ gian phi. Đức Giêsu phục sinh hôm nay là Vua theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Ngài không chỉ là Vua dân Do Thái, Ngài là Vua của cả vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Đức Giêsu phục sinh vẫn không ngừng xây dựng Nước của Ngài, vẫn không ngừng thu hút cả nhân loại về với Ngài (Ga 12,3). Bất cứ ai "đứng về phía sự thật" thì nghe tiếng Ngài và trở nên thần dân của Ngài (x. Ga 18,37). Rồi đến ngày tận thế, Đức Kitô sẽ trao lại vương quyền cho Thiên Chúa Cha sau khi đã tiêu diệt mọi thế lực chống đối Thiên Chúa, và cuối cùng Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (x. 1C 15,24-28).
Một Vị Vua vâng phục
Đức Giêsu trên thập giá là vị Vua bị lăng nhục, là đấng Mêsia bị thách thức. Trong cái nhìn của Luca, dân chúng không góp phần vào việc kết án Đức Giêsu. Trên đường lên Núi Sọ, có đám đông dân chúng đi theo, trong số đó có các phụ nữ khóc than và đấm ngực (Lc 23,27). Khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh, thì thái độ của dân là "đứng nhìn" trong sự lặng lẽ kính cẩn (Lc 23,35).
Ngược lại với thái độ của dân là thái độ của ba hạng người khác: các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi nhục mạ Đức Giêsu, chúng ta cần cảm mến nỗi đau trên thân xác Đức Giêsu, nhưng cũng không được quên nỗi đau tinh thần của Ngài. Những lời chế giễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Đây là cơn cám dỗ cuối cùng trong đời Đức Giêsu, không phải là cám dỗ vui hưởng lạc thú êm đềm của bậc sống hôn nhân, nhưng là cám dỗ về sự vâng phục và tín thác đối với Cha.
Ba lời nói mỉa mai trước Đức Giêsu chịu đóng đinh khiến ta nhớ đến ba cơn cám dỗ vào buổi đầu sứ vụ "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến viên đá này thành bánh" (Lc 4,3). "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi" (Lc 4,9). Đó là cơn cám dỗ của ma quỷ. Còn bây giờ là cơn cám dỗ của con người. "Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn", "nếu ông là Vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi" (Lc 23,35.37). "Tự cứu mình", đó là cơn cám dỗ vẫn thường xảy ra. Cứu mình khỏi cơn đói cồn cào hay cứu mình khỏi nỗi đau và cái chết. Dùng quyền năng Cha ban để tự cứu mình, tự lo liệu cho đời mình, đứng ngoài sự xếp đặt của Thiên Chúa.
Đức Giêsu bị cám dỗ xuống khỏi thập giá để minh chứng cho mọi người thấy Ngài thật là Đức Kitô, là Mêsia mà bao người mong đợi. Cơn cám dỗ quá đỗi tinh vi và hấp dẫn! Chỉ cần xuống khỏi thập giá là chinh phục được bao con người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin. Chỉ cần xuống khỏi thập giá là gặt hái ngay được một chiến thắng huy hoàng, một thành công rực rỡ, nhờ đó Cha được tôn vinh nơi Con; ở lại thập giá là làm tan vỡ biết bao hy vọng đã được thắp lên trong những năm qua, là làm tắt đi niềm tin mới được nhen nhúm.
Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi thập giá, như trước kia Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ. Cả hai đều là những hành vi ngoạn mục và gây ấn tượng. Đức Giêsu không muốn chúng ta xây đức tin trên cái ngoạn mục, vì như thế vẫn còn là ở bình diện tự nhiên. Ngài muốn chúng ta tin vào Ngài, dù Ngài là kẻ đã chết trơ trụi trên thập giá. Đức Giêsu không tự cứu mình, chính vì Ngài thật là Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì Ngài là Con mà Ngài không tự lo liệu cho mình, Ngài buông đời mình trong tay Cha. Bởi thế, việc Đức Giêsu ở lại trên thập giá trong sự vâng phục đầy tình con thảo lại là một dấu chỉ hùng hồn cho thấy Ngài thuộc trọn về Cha: Ngài không tìm mình nên Ngài là người đáng tin. Đức Giêsu "đã cứu người khác" (Lc 23,35), kể cả việc cải tử hoàn sinh, vì đó là ý Cha. Nhưng Ngài không tự cứu mình, vì Cha muốn Ngài cứu độ nhân loại qua việc hiến dâng mạng sống. Đức Giêsu là vị Vua Mêsia đầy lòng vâng phục trước Thiên Chúa, vâng phục đến chết (Pl 2,8)
Một vị Vua nhân hậu
Chính vào lúc Đức Giêsu hấp hối trên thánh giá, giữa những lời lăng nhục và thách thức, thì tiếng nói của anh "trộm lành" bất ngời vang lên, làm ta ngây ngất. Anh chấp nhận hình phạt: "chúng ta chịu như thế này là đích đáng". Anh nhìn nhận tội mình đã phạm: "vì xứng với việc đã làm". Anh tuyên xưng sự vô tội của Đức Giêsu: "Còn ông này đâu có làm điều gì trái". Điều lạ lùng hơn nữa là anh đã tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu, tin Ngài là Đấng Mêsia-Vua vào lúc mà mọi sự dường như sụp đổ: "Ông Giêsu ơi! Khi ông trở lại trong tư cách là vua, xin nhớ đến tôi." Như thế trong cái nhỉn của người trộm lành, cái chết nhục nhã của Đức Giêsu trên thập giá không phải là một dấu chấm hết. Anh vẫn tin có ngày Ngài đến trong nước của Ngài, và anh mong được dự phần trong ngày đó.
Đức Giêsu đã ban ơn quá lòng anh ước ao. Ngay khi còn ở trên thánh giá, vị vua bị đóng đinh đã hé lộ vương quyền của Ngài qua một lời hứa long trọng. Bossuet đã viết: "Hôm nay: nhanh biết mấy! Ở với tôi: thân tình biết mấy! Thiên đàng: nơi an nghỉ miên trường." Như thế người trộm lành là người đầu tiên được hứa ban ơn cứu độ; Kẻ gian phi lại là người đầu tiên được hưởng hoa trái của cái chết trên thập giá của Đức Giêsu. Tất cả nói lên lòng nhân hậu của Vua Giêsu đối với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vị Vua bị đóng đinh đã bắt đầu cuộc chinh phục của Ngài trên các tâm hồn. Sau khi Ngài tắt thở, viên bách quản đã nhìn nhận Ngài là người công chính, và dân chúg cũng đấm ngực mà lui về (Lc 23,47-48).
Đức Giêsu làm vua một cách khác thường. Ngài không thống trị bằng sức mạnh nhưng Ngài phục vụ bằng yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Ngài vẫn thu hút con người đến với Ngài. Thập giá là nơi vương quyền Ngài tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm. Chúng ta cần ngắm nhìn Đức Giêsu chịu treo, để biết cách chinh phục thế giới. Thế giới hôm nay dễ rung động trước lòng tha thứ, yêu thương và sự phục vụ của chúng ta. Chẳng cần thi thố những hành vi ngoạn mục và đạt được những thành công vượt mức, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức Kitô bằng sự vang phục và kiên nhẫn trong khổ đau.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để cho Ngài chiếm trọn từng khoảnh khắc của cuộc đời, từng rung động nhỏ của con tim. Ước gì qua chúng ta mà Chúa Kitô có mặt ở mọi lãnh vực khoa học, ở mọi nền nghệ thuật, ở giữa chốn chợ đời xô bồ và bon chen. Ước gì chúng ta cộng tác với Ngài để làm cho vũ trụ này càng ngày càng trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có người nhận xét: "Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, đời sống con người càng có nhiều tiện nghi vật chất thì lòng đạo đức lại sa sút, Nước Chúa như bị thu hẹp lại…" Bạn có đồng ý với nhận xét trên không?
2. Chúng ta thường thấy mình bị quyến rũ bởi bạc tiền, quyền lực và khoái lạc: Đó là những ông vua đang được thế giới tôn thờ. Làm sao thoát khỏi sự quyến rũ ấy và đón nhận Vua Giêsu vào đời mình, một vị Vua đơn sơ khiêm hạ và hiến mình vì yêu thương?
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng: TN 34-ABC40
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Ðức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. Gợi ý sám hối
· Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
· Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
· Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 34,11-12.15-17)
Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc cho Israel là đoàn chiên của Chúa. Những người ấy là các vị vua, các tư tế và các luật sĩ. Nhưng họ chỉ biết lợi dụng chức vị để lo cho bản thân, bỏ mặc đoàn chiên bị bơ vơ, đói khát, bị trộm cướp và thú dữ bắt giết.
Vì thế, qua miệng ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa cho biết rằng Ngài sẽ lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy, và Ngài sẽ đích thân làm mục tử chăm sóc cho đoàn chiên mình.
2. Ðáp ca (Tv 22)
Thiên Chúa là một mục tử tốt: Ngài lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi.
Ðược làm con chiên do Chúa dẫn dắt, người tín hữu không sợ thiếu thốn gì cả; dù đang bước đi trong thung lũng tối tăm, con chiên cũng không sợ vì biết rằng sau đó sẽ tới chỗ an toàn; dù đang đối diện với quân thù, con chiên cũng an tâm vì biết có mục tử hùng mạnh bênh vực che chở mình.
3. Tin Mừng (Mt 25,31-46)
Dụ ngôn này mô tả ngày cánh chung. Khi đó Ðức Giêsu xuất hiện như một vị Vua-Thẩm phán. Tất cả mọi người đều tập họp trước nhan Ngài để chịu xét xử. Tiêu chuẩn mà vị Vua-Thẩm phán ấy dựa vào để xét xử là cách sống yêu thương. Ngài cho rằng ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lai, ai không yêu thương những người khốn khổ bé mọn cũng có nghĩa là không yêu thương Chúa nên bị trừng trị.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,20-26a.28)
Thánh Phaolô cũng nói tới ngày cánh chung. Khi đó Ðức Giêsu sẽ làm Vua, chiến thắng tất cả mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật. Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
IV. Gợi ý giảng
1. Một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng
Dựa vào các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể mô tả một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng:
· Vị Vua ấy không chễm chệ ngự trị trong cung điện và trên ngai vàng, nhưng hoà mình với dân như một người mục tử sống với chiên, lo cho chiên và đồng hành với chiên.
· Vị vua ấy không bắt dân phải cung phụng và phục dịch mình, nhưng xả thân chăm sóc đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho dân.
· Luật trong Nước của Vua ấy không rườm rà và khắt khe, nhưng là Luật Yêu Thương, rất đơn giản và ngọt ngào.
· Dân trong Nước ấy không hoan hô bằng miệng, không báo cáo bằng giấy, nhưng thực hiện Luật yêu thương một cách cụ thể bằng những việc giúp đỡ những người khốn khổ bé mọn.
· Mọi người trong Nước ấy đối xử với nhau một cách vừa tôn trọng vừa thương mến như đối xử với chính Chúa vậy.
Hình ảnh lý tưởng ấy không phải là hoàn toàn ảo tưởng: Vị vua lý tưởng ấy chúng ta đã có rồi, đó là Chúa Giêsu; Luật lý tưởng ấy chúng ta cũng đã có rồi, đó là Luật yêu thương; chỉ còn thiếu một điều là chúng ta phải cố gắng làm những công dân lý tưởng như Chúa đã dạy.
2. "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong"
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời: Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là "lưới trời lồng lộng không ai thoát khỏi" và "thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" (người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất).
Dù là dân đen hay là vua chúa, dù nghèo hay giàu, dù trẻ hay già... cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người. Ngài xét xử dựa trên Luật yêu thương. Người nào sống yêu thương là "thuận thiên" và sẽ được "tồn" trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ "nghịch thiên" và sẽ "vong" vĩnh viễn trong cõi trầm luân.
3. Mở mang Nước Chúa
Nước Thiên Chúa, đó là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu nói tới nhiều nhất, nhưng có lẽ đó cũng là một trong những điều chúng ta hiểu cách mù mờ nhất.
- Ngày xưa người Do Thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước Do Thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.
- Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nễ phục. Hiểu như vậy có đúng không? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.
Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu thêm về Nước Thiên Chúa.
1. Lần kia các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy bao giờ Nước Thiên Chúa đến?" Chúa Giêsu đáp: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được, Người ta không thể nói Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, vì nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em" (Lc 17,20-21). Chúng ta hãy nghe cho kỹ Lời Chúa Giêsu nói: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được", nghĩa là sao? Nghĩa là đừng coi Nước Thiên Chúa như một tổ chức, dù là tổ chức quy mô đông đảo bao nhiêu đi nữa. "Nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em" nghĩa là sao? Có thể có 2 nghĩa: 1 là ở ngay trong lòng mỗi người; 2 là ở một người nào đó đang âm thầm sống và làm việc giữa một tập thể đông người. Như thế Nước Thiên Chúa không phải là một tổ chức mà là một sức sống; sức sống ấy không thể hiện nơi những hoạt động mà thể hiện nơi sức tác động (lặp lại).
Bởi thế trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không so sánh Nước Thiên Chúa với hình ảnh những đạo quân hùng hậu hay với những đám người đông đảo. Trái lại Ngài so sánh Nước Thiên Chúa với hạt cải và với nắm men, những hình ảnh nói lên sự nhỏ bé và âm thầm. Tuy nhiên nhỏ mà lớn, âm thầm mà rất mạnh. Hạt cải sẽ trở thành cây to, nắm men sẽ khơi dậy cả thúng bột.
Những suy nghĩ trên gợi lên ba ý nhỏ về việc xây dựng Nước Thiên Chúa:
1. Bởi vì "Nước Thiên Chúa không đến như điều gì có thể quan sát được", cho nên chúng ta đừng quá chú trọng đến bề ngoài. Hãy xây dựng Nước Thiên Chúa ngay bên trong.
2. Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong lòng mình: Chúa Giêsu đã nói "Nước Thiên Chúa ở giữa anh em". "Ở giữa" theo nghĩa thứ nhất là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho dù chúng ta có làm hết việc này tới việc nọ, làm hết chỗ này tới chỗ khác, nhưng ngay trong lòng ta không có Nước Thiên Chúa thì tất cả cũng chỉ là công dã tràng thôi. Hãy tự vấn xem trong lòng mình đã có Nước Thiên Chúa chưa. Nếu chưa thì hãy xây dựng. Xây dựng bằng cách sống theo Luật Nước Chúa, tức là Luật yêu thương.
3. Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cộng đoàn của mình bằng cách góp phần làm cho cộng đoàn mình đang sống dần dần thành một cộng đoàn yêu thương.
4. Mảnh suy tư
Mẹ Têrêsa nói: ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng...
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
5. Chuyện minh họa
a/ Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
b/ "Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói đâu...?"
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một cha sở xin được trọ qua đêm. Cha sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, cha sở nọ nói: "Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi"
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Ðiều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Kitô là Vua toàn thể vũ trụ, nhưng là một vị vua của tình thương và hòa bình. Với tâm tình yêu mến vị vua nhân ái, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / đặc biệt là các vị mục tử / luôn luôn là những tấm gương yêu thương sống động.
2. Hoà bình và phát triển là hai mơ ước tha thiết của hết thảy mọi người đang sống trên hành tinh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ước mơ trên của con người / sớm trở thành hiện thực trong đời sống thường ngày.
3. Trong quan hệ giữa con người với nhau / nếu thiếu tình người thì không thể có những mối liên hệ tốt đẹp được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng đem tinh thần bác ái yêu thương vào trong đời sống xã hội / để mọi người yêu thương / tôn trọng và tin tưởng nhau.
4. Thánh Phaolô nói / "Sống yêu thương là chu toàn cả lề luật Chúa" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bái ái yêu thương đối với tất cả mọi người.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chinh phục nhân loại bằng tình thương hy sinh của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Chúa, lấy lòng bác ái mà đối xử với nhau, và cách riêng đối với những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhờ đó chúng con có thể giới thiệu Chúa cho những người thành tâm thiện chí. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
- Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
Đức Giê-su kết thúc giáo huấn về cánh chung bằng một dụ ngôn mô tả về cuộc Phán Xét Chung t: TN 34-ABC41
Đức Giê-su kết thúc giáo huấn về cánh chung bằng một dụ ngôn mô tả về cuộc Phán Xét Chung. Nội dung của dụ ngôn này là : Vào ngày tận thế, sau khi đã cho mọi kẻ đã chết được sống lại Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong trong vinh quang để phán xét chung (x Mt 12, 41). Người xét xử không dựa trên những công việc lớn lao khác thường (x Mt 7,21-23), nhưng căn cứ trên thái độ và cách cư xử đối với tha nhân.
Bài Tin Mừng có thể chia làm ba phần như sau :
Phần I (c 31) : Chúa Giê-su hiện đến trong vinh quang như một ông Vua cùng với các thiên thần hầu cận để phán xét chung toàn thể nhân lại.
Phần II (c 32-45) : Công việc xét xử của vua Giê-su được thực hiện qua hai giai đoạn :
+ Giai đoạn một : tập họp mọi người và phân ra kẻ lành người dữ. Kẻ lành là chiên thì được đứng bê phải. Còn kẻ dữ là dê thì phải ở bên trái.
+ Giai đoạn hai : Đức Giê-su chúc phúc cho các kẻ lành, dù họ không biết khi giúp đỡ cho người nghèo khổ là giúp đỡ cho chính Người. Chúa Giê-su cũng nguyền rủa những kẻ gian ác vì họ đã không chia sẻ cơm áo và giúp đỡ cho người nghèo đói là hiện thân của chính Người.
Phần III (c 46) : Thi hành án : Sau đó, kẻ lành được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc ngàn thu và kẻ dữ thì phải vào hỏa ngục để chịu cực hình muôn kiếp.
2) CHÚ THÍCH :
(c 31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người :
+ Con Người đến trong vinh quang : Khi đến lần thứ nhất trong nghèo khó, Đức Giê-su đã đến với tư cách là Con Thiên Chúa làm người. Còn khi đến lần thứ hai trong vinh quang, là Người đến với tư cách Con Thiên Chúa. Như vậy, Người chỉ tỏ vinh quang đầy đủ nhất là vào ngày tận thế. Trong khi sống ở trần gian, toàn thể các tạo vật đều mong ngóng chờ đợi ngày vinh quang đó được tỏ hiện. So với vinh quang mà người tín hữu sẽ nhận được cùng với Đức Ki-tô, thì những đau khổ đời này nào có đáng là gì ! (x Rm 8,18-19).
+ Có tất cả các thiên sứ theo hầu : Các thiên thần có nhiệm vụ phụng sự Chúa và thực hiện theo các mệnh lệnh của người (x Mt 13,41-42, 49-50). Nhưng đặc biệt khi Chúa đến phán xét, thì các thiên thần tụ họp cả lại tháp tùng theo Chúa cách long trọng hơn mọi lần khác.
+ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người : Ngai vinh hiển là ngai vinh quang, uy linh. Người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Các tông đồ cũng được “ngồi trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19,28). Khi nói Đức Giê-su ngự trên ngai vinh hiển là gián tiếp nói người chính là Thiên Chúa.
(c 32) Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, (c 33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái :
+ Các dân thiên hạ : Dù dân Ít-ra-en đã được Đức Chúa tuyển chọn làm dân riêng để chuẩn bị chương trình cứu chuộc loài người. Nhưng chương trình cứu độ lại nhắm tới hết mọi dân tộc trên thế giới (x Is 2,2-5; Mt 28,19).
+ Người sẽ tách biệt họ vời nhau : Theo quan niệm của người Do thái thì chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét xử. Nhưng Thiên Chúa lại trao quyền xét xử cho con của Người (x Ga 5,22). Như vậy việc Đức Giê-su quang lâm cho thấy Người chính là con Thiên Chúa. Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, không phải để xét xử trần gian, nhưng là để cứu độ họ (x Ga 3,17). Người được Chúa Cha trao quyền xét xử sau khi từ cõi chết sống lại. Người sẽ thi hành quyền xét xử khi tái lâm trong uy quyền vinh quang ngày tận thế.
+ Như mục tử tách chiên ra khỏi dê : Ở Pa-lét-tin, vào mỗi buổi sáng sớm, các mục tử thường lùa chiên và dê thành một đoàn vật và dẫn chúng ra đồng cỏ. Nhưng đến chiều khi trở về chuồng, các mục tử lại tách chiên ra khỏi dê, vì dê con cần được sưởi ấm suốt đêm.
+ Chiên thì ở bên phải : Chiên là con vật có giá trị kinh tế hơn dê, nên ở đây được dùng để ám chỉ người tốt lành, và được xếp đứng về bên phải là chỗ cao trọng hơn.
(c 34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng : Nào những kẻ Cha ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa :
+ Đức Vua sẽ phán : Đức Vua ở đây chính là Con Người, là Đức Giê-su ngự đến trong ngày Cánh Chung vinh hiển. Khi ấy, Vua Giê-su sẽ trở thành thẩm phán tối cao, phân định kẻ lành ra khỏi người dữ. Người sẽ thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ tùy theo việc lành họ đã làm hay đã bỏ không làm cho những người nghèo đói đau khổ.
+ Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc : Những người lành thánh sẽ được chúc phúc theo tiêu chuẩn là “Tám Mối phúc” ( x Mt 5,1-12) và sẽ được lãnh phần thưởng là hạnh phúc thiên đàng được Thiên Chúa dành sẵn cho họ.
+ Lãnh phần gia nghiệp : Đức Giê-su là người Con duy nhất của Chúa Cha. Đồng thời cũng là con thừa tự của Chúa Cha (x Mt 21,38). Giờ đây Người dành Nước Trời là gia ngiệp của Người cho những kẻ được tuyển chọn tức là những kẻ lành sống theo “Tám Mối Phúc”.
(c 35) Vì xưa ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. 9c 36) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm :
+ Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn : Đây là một chuỗi các việc thiện tiêu biểu, mà các tín hữu phài làm đối với tha nhân, như kinh Thương Người đã tóm lại như sau : “cho kẻ đói ăn,cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi và chôn xác kẻ chết”. Tất nhiên Vua Giê-su sẽ phán xét chúng ta về tất cả những công việc ta đã làm. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu chỉ kể tới những việc làm thuộc đức bái ái với kẻ khác. Vì chu toàn đức ái tức là đã chu toàn Lề Luật ( x Rm 13,8-10).
+ Những kẻ đáng thương cần sự trợ giúp này thuộc mọi thành phần xã hội : là lương hay giáo, Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, sang hay hèn Các tín hữu còn được Đức Giê-su dạy Phải yêu cả kẻ thù của mình nữa để xứng đáng là con cái Thiên Chúa Cha. Người là Đấng nhân từ và hoàn thiện (x Mt 5,44-48)
(c 37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng : “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. (c 38) Có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? (c 39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?”(c 40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng : “Ta bảo thật các người:Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh embé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” :
+ Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn : Người công chính là người đã nhiệt tình giúp đỡ cho những người nghèo khổ, dù chưa biết họ là hiện thân của Đức Kitô. Họ quảng đại làm các việc bác ái và không có hậu ý để được khen như các người Pha-ri-sêu.
+ Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy ¹ : Câu này tương tự như câu Đứa Giê-su nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”(Mt 10,40). Hay : “Ai đón tiếp một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy” (Mt 18,5). Hoặc lời Chúa Ki-tô Phục Sinh nói với Sau-lô khi ông đem quân đi bắt các tín hữu về Giê-ru-sa-lem trị tội: “Sa-un, Sa-un tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,4-5). Qua những câu trên, ta thấy Đức Giê-su đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn và các tín hữu. Nhờ đó, chúng ta có thể phục sự Chúa qua các công việc bác ái yêu thương tha nhân.
(c 41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ac quỷ và các sứ thần của nó:
+ Quân bị nguyền rủa kia : Khi nói với người lành Chúa phán : “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc”. Trái lại, khi nói với người dữ, Chúa chỉ nói trống là: “Quân bị nguyền rủa kia mà không nói thêm “bị Cha Ta nguyền rủa”. Điều này cho thấy Chúa Cha không chúc dữ cho ai bao giờ, nhưng chỉ chúc lành cho họ. Vì Người muốn cho mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.
+ Đi đi cho khuất mắt Ta: Điều này cho thấy hình phạt chính của những người thiếu bác ái và bị phạt trong hỏa ngục là không được nhìn xem thánh nhan Thiên Chúa. Còn những ai có tâm hồn trong sạch, thì họ sẽ được phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x Mt 5,8). Thiếu sự hiện diện của Thiên Chúa là nguyên nhân phát sinh sự dữ và mọi tội lỗi khác.
+ Vào lửa đời đời : Gio-ABCn Tẩy Giả đã nhắc đến thứ lủa không hề tắt (x Mt 3,12). Dụ ngôn cỏ lùng cũng nói cỏ lùng sẽ bị quăng vào lò lửa, nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x Mt 13,42).
(c 42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. (c 43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu hay ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”:
+ Câu này cho thấy đức bác ái là then chốt và là tiêu chuẩn để được Chúa khoan dung. Vì những người bị nguyền rủa này đã không thi hành những hành vi bác ái cụ thể giúp đỡ tha nhân như không cho kẻ đói ăn, không cho kẻ khát uống.
(c 44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu? (c 45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy :
+ Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, là khách lạ : Bất cứ công việc gì tốt đẹp mà ta không làm cho tha nhân, dù khi ấy ta không ý thức mình tha nhân hiện thân của Chúa đi nữa, thì cũng kể như ta đã không làm cho chính Người. Thánh Gio-ABCn đã viết như sau: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).
+ Các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây : Người bé nhỏ ở đây tức là tất cả những ai cần được ta giúp đỡ về mặt thể xác cũng như tinh thần. Họ chính là đối tượng tình thương của Chúa Giê-su.
+ Là các ngươi đã không làm cho chính Ta : Do đó khi ta từ chối giúp đỡ những kẻ đáng thương, tức là chúng ta đã từ chối giúp đỡ chính Chúa Giê-su.
(c 46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn ngững người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời :
Sau khi phán xét xong là tới lúc thi hành án lệnh : Người lành thì được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời. Còn kẻ không làm việc bác ái cụ thể đối với những người nghèo khó đáng thương, thì sẽ phải vào nơi tối tăm để chịu cực hình muôn kiếp.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA :
"Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy"
(Mt 25,45).-
2. CÂU CHUYỆN :
NHỮNG SỨ GIẢ CỦA NHÀ VUA :
ỐT-CA OAI-ĐƠ (Osca Wilde) đã viết một câu chuyện tựa đề là : "Vị hoàng tử hạnh phúc". Câu chuyện kể về một hoàng tử con vua. Từ nhỏ đến lớn, hoàng tử luôn sống trong tình yêu thương và sự che chở của cha. hoàng tử muốn làm nhiều việc bác ái chia sẻ giúp những người nghèo khó tàn tật bất hạnh, nhưng không thể được, vì hoàng tử không có tiền riêng. Thế rồi không may, hoàng tử lâm cơn trọng bệnh và qua đời trong sự thương tiếc của triều đình và dân chúng. Người ta đã làm một bức tượng của hoàng tử này được phủ bằng vàng, với hai viên ngọc bích ở trong mắt và một viên hồng ngọc to lớn được gắn vào đầu cán gươm.
Một hôm thời tiết lạnh lẽo, một chú chim én bé nhỏ trên đường về phương nam nắng ấm, đã dừng chân đậu lại trên bệ đặt tượng của hoàng tử. Bấy giờ có vài giọt nước rớt xuống trên mình chim. Nhìn lên thì chim én thấy đó là những giọt nước từ khóe mắt của bức tượng hoàng tử rơi xuống. Chim én liền hỏi: "Tại sao ngài lại khóc?". Hoàng tử trả lời: "Khi sống, tôi luôn ở trong hoàng cung kín cổng cao tường, nên không nhìn thấy được những nỗi đau khổ khốn cùng của nhiều người nghèo khó. Nhưng từ khi tôi được đặt trên chiếc đài kỷ niệm này, thì hằng ngày tôi đã chứng kiến không biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh. Tôi rất muốn làm những việc chia sẽ giúp đỡ cho những người nghèo đói cùng cực kia. Nhưng tôi lại không còn đi lại được như trước. Vậy tôi có thể nhờ chim làm giao liên được không?" Chim én trả lời: "Nhưng cháu còn phải đi sang Ai Cập tránh thời tiết lạnh giá của mùa đông khắc nghiệt. Nhưng trước sự khẩn khoản mời gọi của hoàng tử, cuối cùng chim én đã nhận lời làm giao liên giúp hoàng tử một đêm. Hoàng tử cám ơn chim và công việc đầu tiên anh giao cho chim làm là "hãy mang viên hồng ngọc to gắn ở đầu cán gươm bên mình hoàng tử, đến trao tặng cho một bà mẹ có đứa con mang bệnh rất nặng. Nhưng bà ta không có tiền để tìm thầy chạy thuốc chữa bệnh cho con gái cưng". Chim én liền dùng mỏ lấy ra viên hồng ngọc và mang đến địa chỉ hoàng tử đã nói, và đặt nhẹ vào tay của bà mẹ khốn khổ kia. Bà rất vui mừng khi nhận được món quà quý giá và nhờ chim cám ơn hoàng tử. Sau khi có tiền, nhờ được mang đến bác sĩ chữa bệnh kịp thời, nên cô gái đã hồi phục rất nhanh. Chim én liền bay về báo cáo kết quả công việc với hoàng tử. Hôm sau, hoàng tử lại yêu cầu chim én ở lại thêm một ngày nữa, và đêm hôm đó, đã nhờ chim lấy ra một viên ngọc bích từ trong mắt của mình, đem đến trao cho một người nghèo đang bị đói khát nằm trên hè phố chờ chết. Một lần nữa, chim lại làm đúng theo yêu cầu của hoàng tử. Trong lúc đi làm việc thiện, chim én đã có dịp nhìn thấy biết bao hoàn cảnh đáng thương trong các nhà ổ chuột, dưới hầm cầu hay tại các nơi tập trung người vô gia cư vô nghề nghiệp. Nên sau đó, chim én đã bằng lòng ở lại làm giao liên cho hoàng tử. Ngày qua ngày, theo sự chỉ đạo của hoàng tử, chim én đã gỡ dần những lớp vàng lát bên ngoài quần áo của hoàng tử và đem đi tặng cho những người bần cùng.
Rồi vào một đêm trời rất lạnh, chim én bay về sau một chuyến công tác từ thiện. Lúc này bức tượng của hoàng tử đã trở thành trơ trụi. Bao nhiêu vàng ngọc trang điểm trên bức tượng đã không còn nữa. Sáng hôm sau, người ta thấy chim én nằm chết dưới chân bức tượng. Chim đã chết sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cao cả do hoàng tử trao cho. Còn hoàng tử thì quảng đại cho đi tất cả những gì mình có. Công việc hoàng tử làm mang lại hiệu quả thiết thực là cứu giúp nhiều người vượt qua khó khăn. Nhưng thử hỏi, nếu không nhờ chim én cộng tác, thì liệu hoàng tử có làm được như vậy hay không?
Ngày nay Đức Giê-su đang ở trên cây thập giá cũng nhờ mỗi người chúng ta trở thành giao liên cho Người. Tay chân Người bị đóng đinh vào thập giá. Người cần chúng ta đại diện Người mà chia sẻ và phục vụ tha nhân. Người muốn chúng ta cho Người mượn đôi chân để có thể đến với người nghèo, cho mượn đôi tay để có thể rửa chân phục vụ cho họ, cho mượn miệng lưỡi để có thể nói lời khuyên bảo, an ủi và động viên họ. Nói tóm lại, mỗi tín hữu chúng ta được Đức Giê-su mời gọi để chia sẻ tình yêu của Người cho tha nhân. Để làm được như vậy, chúng ta cần phải có một trái tim biết chạnh lòng xót thương như Đức Giê-su, phải sẵn sàng mở rộng đôi tay để trao tặng cơm áo, cảm thông với những người đau khổ. Vậy chúng ta sẽ làm gì để trở thành người giao liên của Chúa Giê-su như con chim én trong câu chuyện trên?
NẾU CHÚNG CON BIẾT ĐÓ LÀ CHÚA :
NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela), vị tổng thống da đen đầu tiên tại một nước có tệ phân biệt chủng tộc là Nam Phi, khi còn là một thanh niên, đã trở nên lãnh tụ của quốc hội Châu Phi bị cấm đoánn (ANC). Vì đang trong giai đoạn đấu tranh với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để dễ dàng hoạt động chính trị. Nói chung, ông cố tình ăn mặc lôi thôi và hóa trang thành nhiều người khác nhau. Ong biết rằng với cách hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, và điều này thực sự đã nhiều lần xảy ra.
/Một lần kia, khi đến tham dự một buổi họp mật ở một vùng quê miền GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg). Một vị linh mục đã đứng ra thu xếp một cuộc họp mặt để NEN-SÂN có dịp nói chuyện với một số thanh niên. Tuy nhiên khi ông đến nơi, người phụ nữ ra mở cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi của ông, đã nói : "Ở đây chúng tôi không đón tiếp những người lôi thôi như ông". Nói rồi bà ta đóng sầm cửa lại ngay trước mặt ông. Sau đó, khi biết người gọi cửa khi nãy là ai, bà đã quay trở lại trong sự xấu hổ và nói với ông : "Nếu tôi biết là ngài, thì tôi đã dành một cănphòng tốt nhất trong nhà cho ngài, và phục vụ ngài thật chu đáo".
Tuy nhiên, dù ông giả dạng thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người là bạn thân đã nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một tài xế ở Gio-han-nét-bớc, đang đứng đợi đón khách ở một góc phố, trong áo khoác ngoài bụi bặm và trên đầu đội chiếc mũ nhàu nát, thì ông nhìn thấy một người cảnh sát đang sải bước tiến về phía mình. Ông nhìn quanh để tìm lối thoát thân. Nhưng viên cảng sát kia đã mỉm cười chào ông, anh ta lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC. Rồi anh ta bước đi hướng khác. Những sự cố như vậy xảy ra khá nhiều lần, và NEN-SÂN yên tâm vì biết rằng có nhiều người châu Phi thực tâm ủng hộ ông và con đường đấu tranh với tệ phân biệt chủng tộc của chính quyền người da trắng. Cuối cùng NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử và lên làm tổng thống của Nam Phi.
Đức Giê-su ngày nay cũng đang ẩn mình dưới nhiều hình dạng khác nhau. Vậy làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Người. Chúng ta hãy nghe những.
ĐỨC VUA ĂN XIN
Ngày xưa, có một ông vua lớn tuổi mà không có một đứa con nối dõi ngôi báu của mình. Nhà vua liền tìm cách tuyển chọn con nuôi để phong lên làm hoàng tử kế vị sau này. Nghe được thông cáo tuyển nhân tài làm hoàng tử, rất đông thanh niên tình nguyện khăn gói lên đường trực chỉ kinh thành ứng thí. Điều kiện nhà vua ra là thí sinh ngoài văn tài võ giỏi, còn phải có lòng mến Chúa yêu người.
Có một thanh niên kia rất khôi ngô tuấn tú, vừa giỏi nghề cung kiếm, lại vừa văn hay chữ giỏi. Nhất là anh lại có lòng mến Chúa yêu người trổi vượt các chúng bạn đồng trang lứa với anh. Anh được thầy dạy và cha mẹ khích lệ ứng thí. Có điều nhà anh lại nghèo, nên không đủ tiền may sắm quần áo, và không cả lương thực đi con đường tới kinh thành dài cả ngàn cây số. Sau khi cầu nguyện xin ơn soi sáng, anh quyết định ra đi, vừa đi vừa nhờ sự giúp đỡ của những mạnh thường quân ở dọc đàng. Sau một tháng ngày đi đêm nghỉ, anh đã tới được kinh thành, và từ đàng xa anh đã trông thấy cung điện nhà vua thật nguy nga tráng lệ. Trên đường đến cung điện nhà vua, anh gặp thấy một người ăn xin nghèo khổ, quần áo rách nát đang ngồi bên vệ đường. Ông lão chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Lão ăn mày nói : "Đã hai hôm nay già này không có một hột cơm trong bụng, và rét run vào ban đêm vì trời bắt đầu vào mùa đông. Cậu có thể cho tôi chiếc áo khoác cậu đang mặc, và số lương thực cậu đem theo hay không ?" Nhìn thấy hoàn cảnh ông lão đáng thương, anh thanh niên liền nói mấy lời an ủi động viên ông, và cởi chiếc áo khoác anh đang mặc phủ lên người ông cho đỡ lạnh. Anh cũng cho luôn cả túi lương thực cho cuộc hành trình quay trở về nhà, mà anh đã được một số người hảo tâm hết lòng giúp đỡ. Rồi trong bộ đồ cũ rách, anh bước vào cung điện nhà vua. Anh được người phụ trách ứng thí dẫn đến ở trọ tại một phòng lớn trong cung điện. Hôm sau, anh được dẫn đến các quan giám khảo chấm điểm các môn thi văn võ, và ở chỗ nào anh cũng đều đạt được điểm cao. Cuối cùng là phần trình diện ra mắt đức vua tại một đại sảnh trong hoàng cung. Khi đến trước ngai rồng, anh khấu đầu thật sâu để chào và rồi quỳ gục đầu xuống sát đất để tỏ lòng kính trọng đức vua. Rồi khi được đức vua cho phép, anh nhìn lên thì thấy đức vua đang ngồi trên ngai kia không ai khác hơn là chính ông lão già ăn xin bên vệ đường mà anh mới giúp đỡ hôm trước. Anh thưa rằng : "Có phải tiện dân mới được vinh dự gặp đức vua tại con đường gần hoàng cung vào chiều hôm qua chăng ?" Đức vua liền đáp : "Đúng như vậy !" Anh thanh niên tiếp tục hỏi : "Tại sao đức vua lại giả làm một người ăn xin như thế ?" Đức vua liền trả lời : "Bởi vì Ta muốn thử lòng của ngươi để biết xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người theo tiêu chuẩn chọn lựa của ta hay không". Cuối cùng chàng thanh niên vừa tài giỏi, lại vừa hiền lành đạo đức kia đã được chấm đậu và được nhận làm hoàng tử con vua. Và sau khi lên ngôi, ông vua này nổi tiếng là một vị vua vừa có lòng đạo đức là mến Chúa, lại vừa có lòng thương yêu và khoan dung xót thương thần dân của mình.
Câu chuyên này rất phù hợp với tư tưởng trọng tâm trong Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Giê-su Làm Vua hôm nay. Đó là : Vào lúc cuối đời, sau khi chết, mỗi chúng ta đều phải ra trước tòa Chúa phán xét, và sẽ được Chúa xét xử công minh. Số phận đời đời của chúng ta sẽ được định đoạt tùy theo ta đã làm hay bỏ không làm các việc tốt hữu ích cho tha nhân.
3) SUY NIỆM :
Nữ tu Tê-rê-sa Can-cút-ta (Tê-rê-sa Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng này. Bà đã bị cuốn hút bởi những người đau khổ. Dưới mắt của bà, họ không những là người đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Tình yêu Chúa và tình yêu thương người đồng loại hòa quyện vào nhau. Vì yêu Chúa nhiều, nên bà lại càng phải yêu người. Bà thường nhắc nhở chị em nữ tu Thừa Sai Bác Ai như sau : “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su trong mỗi con người chị em gặp mặt, dù họ có đang kinh tởm đến đâu đi nữa”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay sở dĩ được chọn để đọc trong ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, vì Đức Giê-su được diễn tả như một Ông Vua Thẩm Phán. Người sẽ tái lâm vào ngày tận thế cùng với các thiên sứ hầu cận chung quanh. Người ngồi trên ngai vinh hiển, mà xét xử muôn dân. Người tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như mục tử tách chiên ra khỏi dê vào mỗi buổi tối trước khi cho chúng vào chuồng. Người ban thưởng kẻ lành và ra phạt kẻ dữ cách công minh. Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên những việc họ đã làm hay không làm những việc bác ái cho những kẻ nghèo hèn, mà họ không hề hay biết là đã làm hay không làm cho chính Chúa. Vua Giê-su không ở trong cung vàng điện ngọc, nhưng ở trong những kẻ nghèo đói khốn cùng. Người tự đồng hóa với những kẻ đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng ta vẫn có thể gặp được hàng ngày.Dù đã được Chúa Cha tôn lên làm Chúa tể muôn loài, nhưng Người không ngần ngại nhìn nhận những kẻ nghèo hèn yếu đuối làm anh em của mình. Từ đây, chúng ta không cần phải đi tìm Chúa ở nơi đâu khác : không những Người hiện diện trong nhà thờ, trong các bí tích. Nhưng Người còn hiện diện trong những người đang cần được trợ giúp. Có những lần Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng ta mà chúng ta không nhận ra Người, giống như ông vua kia đã cải trang làm người nghèo khóngồi ăn xin bên vệ đường. Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên hành động thế nào đối với những kẻ nghèo đói đau khổ. Tội lớn nhất ở đây có lẽ là tội đã thiếu sót bổn phận yêu thương cụ thể, khi chúng ta không làm điều lẽ ra phải làm cho một người anh em bất hạnh.
Hôm nay Đức Giê-su vẫn đang ngửa tay xin chúng ta giúp đỡ trong những kẻ bé mọn : Những người mù lòa cần được chúng ta mang đến bệnh viện chữa trị để được sáng mắt; những kẻ mù chữ u mê cần được chúng ta giúp đưa đến học trong các lớp học tình thương, các lớp bổ túc văn hóa. Các trẻ em mồ côi cần được nuôi dạy trong những nhà mở chan hòa tình người. Những cụ già neo đơn cần được một chỗ ổn định và được nuôi dưỡng tử tế. Những người đang tự nhốt mình trong ngục tù đam mê, và những cô gái nghèo đang kiếm sống nhờ việc bán đi thân xác và đức hạnh của mình. Chúng ta phải làm một việc gì cụ thể giúp đỡ tha nhân, để Nước Chúa ngày một lớn lên nơi môi trường chúng ta đang sống. Tóm lại, cần làm gì cụ thể để thế giới mà chúng ta đang sống ngày một an bình trật tự hơn, công bình nhân ái hơn, và nhờ đó, Đức Giê-su sẽ thực sự trở nên Vua của vũ trụ bên ngoài, và nhất là làm vua vũ trụ là chính cõi lòng của chúng ta.
4) THẢO LUẬN :
Để cụ thể hóa chủ điểm của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, một giáo sư đại học thành phố Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên của ông câu hỏi như sau : “Bạn hãy cho biết : Gần đây nhất, bạn đã quan tâm giúp đỡ cho một người đang cần đến bạn vào lúc nào ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi tối chúng ta cần đặt ra cho mình, để hồi tâm sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để được hạnh phúc đời sau.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU.
A) LẠY CHÚA GIÊ-SU, Vua vũ trụ.
Nếu Chúa thật sự là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, hơn tám trăm ngàn nữ tu. Nếu Chúa thực sự là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đây đã biến đổi nên thiên đàng trần gian từ lâu rồi. Chúng con không làm dậy lên khối bột xã hội không phải vì lượng men còn ít, nhưng là vì men đã bị mất phẩm chất. Chúng con phải gánh chịu một phần trách nhiệm về sự dữ đang tràn lan trên địa cầu, và có nhiều sự dữ lại do chính chúng con đã gây ra. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau trị đến, nhưng lại không chịu tích cực xây dựng nước ấy trong khả năng của mình.
LẠY CHÚA. Chúng con thường cố tình thu nhỏ lại vũ trụ của Chúa. Cố tình giam hãm Chúa trong phạm vi nhà thờ, nên nhiều nơi trên thế giới và trên tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng con hiện đang vắng bóng Chúa. Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn. Ước gì một tỉ người tín hữu công giáo chúng con chịu mời Chúa đến làm vua trong tâm hồn và nơi nhà của mình, và đưa Chúa đến những nơi người ta chưa hề biết Chúa, để làm cho vũ trụ này thực sự là vũ trụ thuộc về Chúa trọn vẹn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-ABC. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
B) LẠY MẸ MA-RI-ABC.,
Nhiều lần con đã tự biện hộ cho những thiếu sót bổn phận bác ái của mình khi nói rằng : “Lực bất tòng tâm :Làm sao tôi có thể vào trong nhà tù để thăm nuôi các tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ dường không mang giấy tờ tùy thân vào trọ trong nhà mình được ? Tôi lấy đâu ra tiền bạc để làm những việc lớn lao như chăm sóc những người bệnh phong cùi, nuôi dưỡng các em mồ côi bụi đời, phục vụ những người già yếu neo đơn không ai nuôi dưỡng?”.
LẠY MẸ.
Nếu con cứ lý luận như thế thì con sẽ chỉ còn biết khoanh tay đứng nhìn và không làm gì nữa. Nhưng có biết bao công việc trong tầm tay mà con có thể làm được để đỡ gánh nặng cho một người anh em, giúp đỡ phần nào cho những người nghèo đói qua được hoàn cảnh ngặt nghèo, giúp đỡ gánh nặng cho một người trong gia đình ruột thịt, nhặt một cái đinh nhọn gặp phải trên đường đi, thăm viếng chia sẻ Chúa cho một người bạn thân như Mẹ đã làm với bà chị họ Ê-li-sa-bét...Và còn biết bao công việc khác tương tự. Xin cho con biết quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu con xứng đáng là người môn đệ thực sự của Chúa Giê-su và đáng được Người ban thưởng Nước Trời đời đời như Mẹ đang được hưởng.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-ABC. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Bài đọc 1: Ez. 34, 11- 12; 15- 17= Sự săn sóc của Chúa.
Ngài nói: Đây, Ta sẽ chăm sóc chiên của và thân hành kiểm điểm./ The Lord's Care. Yahweh says this: I myself will will care for My sheep and watch over them.
Bài đọc 2: 1 Cor. 15, 20- 26; 28= Đức Kitô hoa quả đầu mùa.
Mỗi người sẽ theo thứ tự của mình, mở đường là Đức Kitô Vua thống trị, sau khi Người sống lại và sẽ đến lần thứ hai./ Christ the First Fruits. Paul teaches that one in proper order, Christ reign as King, inaugurated with His resurrection, will last until His second coming.
Tin Mừng (Gospel ): Mat. 25, 31- 46= Ngày Phán xét chung.
Một quang cảnh tuyệt đẹp, Đức Kitô, Vi Thẩm Phán Tối Cao đến lần thứ hai,. Tin Mừng cuối năm Phụng vụ nhắc bạn hãy xét lại chính mình./ The Last Judgment. The beautiful imaginative scene, the second coming of Jesus, the supreme law of love.Should judge ourselves.
A.Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Ngày Quang Lâm, Đức Vua phán với những người ở bên phải: "Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn,Ta: TN 34-ABC42
1/ Ngày Quang Lâm, Đức Vua phán với những người ở bên phải: "Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn,Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước." Câu Phúc âm này hấu hết ai cũng thuộc lòng, tuy rất cần thiết, nhưng ít ai lưu tâm thực hành. Tôi đã áp dụng câu này cho anh em được bao nhiêu?
For I was hungry you gave me food, I was thirty you gave drink, I was a tranger you welcome. (Mat. 25, 31)
2/ Những người bên trái thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ trần truồng... mà không phục vụ Chúa đâu?" Phần lớn người Tín hữu chỉ quen thấy Chúa ở trong nhà thờ, mà ít để ý nhìn thấy Ngài trong gia đình và xã hội. Bạn cần làm gì cho tha nhân ở hải ngoại và quê hương VN?
Lord, when did we see you hungry or thirsty or away from home or naked or ill or in prison... (Mat. 25, 44 )
3/ Đức Chúa phán qua Tiên tri Êzêkien như sau: "Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta. Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê." Hôm nay ai cũng nghĩ mình là con chiên ngoan đạo, chứ không thấy mình là dê. Nếu bây giờ Chúa gọi, tôi được xếp vào là chiên, cùu hay dê ?
As for you, my sheep,. .. I will judge between one sheep and another, between rams and goats. ( Ed. 34, 17)
4/ Trong thư gởi Giáo đoàn Corintô, thánh Phaolô viết: "Mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên kết với Đức Kitô, sẽ được Chúa cho Sống. " Nhiều người hôm nay đang đi vào cõi chết với những thù hằn, ghen ghét, gây bao thảm họa... Bạn đang làm gì để xây dựng gia đình và xã hội trần thế?
Just as Adam all die, so in Christ all will come to life again. ( 1 Cor.15, 22 )
B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn để Sống tuần này; ( The Best God's Word )
TA ĐÓI CÁC NGƯƠI ĐÃ KHÔNG CHO ĂN, TA KHÁT CÁC NGƯƠI ĐÃ KHÔNG CHO UỐNG. (Mat.25,42)
I was hungry and you gave Me no food, I was thirsty and you gave Me no drink
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để xứng đáng đón Chúa: ( So what am I doing / For action)
a/ Tôi có thể chọn 1 trong Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành tuần này.
b/ Bạn cần thực hiện ngay những việc bác ái cho người đang cần Sức Sống trong gia đình và giáo xứ trước.
D. Tôi cầu nguyện nhiều cho tuần này và Sống lời tôi Cầu xin : ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, ngày phán xét chung, Cha sẽ nói : Vì ngày xưa Ta đói các ngươi đa cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Xin giúp con biết làm ngay những việc này cho gia đình và tha nhân.
2/ Tiên tri Ê-zê-ki-en đã nói về Đức Chúa phán như sau: Đây chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Xin dạy cho con luôn chu tòan luật của Chúa là mỗi ngày chia sẻ với anh em cùng khổ trong cuộc sống của con.
Lời hay ý đẹp: SỰ CỨU RỖI ĐẮT GIÁ VỚI THIÊN CHÚA NHƯNG LẠI MIỄN PHÍ ĐỐI VỚI CHÚNG TA
Our salvation was costly to God but it is free to us.
Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và là Thiên Chúa (Ga 1:1). Người từ một nơi trí khôn con người: TN 34-ABC43
Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và là Thiên Chúa (Ga 1:1). Người từ một nơi trí khôn con người không thể hiểu, đã xuống thế làm người và sống với loài người (Mt 1:23). Nhưng Ngôi Lời không phải chỉ có một mình, bản thể của Người còn là Ngôi Cha và Thần Khí. Như vậy Ba Ngôi cùng tác động trong kế hoạch nhập thế. Ý niệm này không phải để giải thích Thiên Chúa là gì, nhưng để nhấn mạnh vào điểm: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cho Thiên Chúa nhưng là Thiên Chúa cho loài người. Chính kế hoạch nhập thế của Ngôi Lời cũng có sự góp sức của con người. Một nữ nhân, tự xưng là tôi tá hèn mọn, Đức Maria, đã trở thành nhà tạm của Thần Khí (Lc 1:48). Sau đó qua quyền năng của Thần Khí, Đức Maria sinh ra xác phàm cho ngôi Lời.
Đấng Mêsia (Kitô)
Từ thời Cựu Ước, Thần Khí đã ngầm chỉ sự xuất hiện của Ngôi Lời qua hình bóng Đấng Mêsia. Mêsia hay Kitô (Messiah hay Christos, tiếng Hylạp) nghĩa là “Đấng được Thiên Chúa sức dầu” phong vua, vì vậy Đấng Mêsia ám chỉ vị vua. Các ngôn sứ và thánh vịnh đều dùng danh xưng Mêsia để chỉ vị vua tương lai của Israel. Các ngôn sứ cho biết Đấng Mêsia thuộc dòng dõi Giacóp qua Đavít (St 49:10; IIVua 8:19; Tv 53:7). Triều đại Người tồn tại đến muôn đời (II Sam 7:5-13; Isa 9:5-6). Biên giới của Vương Quốc Người mở rộng đến vô tận. Mọi dân tộc đều quy phục Người (Tv 50:1-4; 72:8-11). Người là ánh sáng của muôn dân ngoại (Is 52:10). Ngôn ngữ Người sắc như tên và bén như gươm (Is 49:1)[1]. Mọi dân tộc trông mong lời giảng dậy của Người (Tv 42:1-6; 49:1-3). Người lập quốc không qua quyền bính thế tục nhưng bằng đức khiêm nhường và chịu đựng đau khổ. Bởi vâng lời Thiên Chúa Người hi sinh mạng sống để cứu độ muôn dân (Is 53:10). Ơn cứu độ của Người không dành riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc (Is 52:13; 53). Tiên tri Đaniel miêu tả Đấng Mêsia qua linh ảnh một nhân vật gọi là Con Người (Son of Man). Đaniel thị kiến một vị thần đến từ Thượng Đế. Vị này được ban cho quyền thế trên muôn dân. Đaniel không biết trình thuật vị này thế nào nên gọi là Con Người, nghĩa là một vị thần trông giống như người (Đn 7:13-14). Cuối cùng chính Đức Giavê tiết lộ về Đấng Mêsia. Khi vua Akhaz trong hoàn cảnh đối đầu với quân thù, Giavê sai Isaiah báo cho vua biết Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dòng Đavít. Isaiah nói, “Thiên Chúa sẽ cho vua một dấu chỉ. Hãy nghe, một trinh nữ sẽ sinh ra một con trai, và sẽ được gọi là Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta)” (Is 7:14). Tiên tri Mikêa chỉ điểm nơi Đấng Mêsia sẽ sinh ra, “Hỡi Bêlêhem, Êphrata, mảnh đất nhỏ nhất trong vùng Giuđa. Nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel. Nguồn gốc của Người có từ thời khởi thủy” (Mik 5:1-2).
Tuy nhiên từ đời vua Akhaz dọc theo lịch sử Do Thái không ai dám hỏi dấu chỉ đó là ai. Nay thánh Mátthêu tiết lộ dấu chỉ ấy chính là trinh nữ Maria. Ngôi Lời được sinh ra trong dòng dõi Đavít bởi vì thánh Giuse là hậu duệ của vua Đavít (Mt 1:18-25). Thánh Giuse không phải là cha thể xác của Ngôi Lời, nhưng khi ngài đặt tên cho hài nhi, theo tục lệ thời ấy, là chấp nhận hài nhi làm con của mình. Hài nhi có tên là Giêsu, trong tương lai sẽ nối ngôi vua của tổ phụ Đavít. Tuy nhiên sự huyền nhiệm của dấu chỉ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn. Vì con trẻ Giêsu cũng là Đấng Emmanuel, nên triều đại Đavít lập tức mở rộng qua Vương Quốc Thiên Chúa. Triều đại Đavít không còn giới hạn trong mảnh đất Do Thái nhưng trải rộng khắp thế gian (Mt 28:19). Vương quốc mới bao gồm tất cả mọi vương quốc, nên vua Giêsu sẽ là vua trên các vua. Giáo Hoàng Bênêđích XVI nhận định rằng khi thánh Mátthêu thuật lại lời tiên tri Isaiah, ông không nói “trinh nữ sẽ gọi con trẻ là Emmanuel” nhưng nói “người ta sẽ gọi con trẻ là Emmanuel” (Mt 1:23). Thuật ngữ “Người ta” ám chỉ loài người chúng ta. Muôn dân sẽ nhận ra con trẻ là Emmanuel[2]. Vua Giêsu là Thiên Chúa ở cùng với loài người. Ngôn sứ cuối cùng, Gioan Tẩy Giả, xác nhận Đức Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi (Ga 1:29-36).
Đấng Emmanuel
Oái oăm thay, dân được tuyển chọn không nhận ra Đấng Emmanuel (1Ga 3:1). Chức vị vua Giêsu không nằm trong sự mong đợi của giai cấp lãnh đạo Do Thái. Ngay trong đêm giáng sinh, tin “vua dân Do Thái ra đời” lan truyền khắp nơi (Mt 2:2; Lc 2:10-12). Vua đang trị vì là Hêrốt hoảng sợ bị mất ngôi, nên săn đuổi hài nhi để giết đi. Thánh Giuse nửa đêm phải lén đưa gia đình qua Ai Cập lánh nạn. Cho đến khi vua Hêrốt lìa trần, bấy giờ thánh gia mới dám hồi hương. Thánh gia định cư ở vùng Galilê. Đức Giêsu lớn lên và đi khắp miền Galilê giảng đạo. Người nhận mình là Đấng Mêsia nhưng bảo các môn đệ giữ kín điều ấy (Mt 16:16-20). Tuy nhiên Người không phủ nhận khi có ai biết Người là Đấng Mêsia (Ga 4:25-26). Người thường tự xưng là Con Người (Mt 12:8; Mc 2:28; Lc 17:22; Ga 6:53). Người cũng xác định Đấng Con Người chính là Vua (Mt 25:31). Rồi Người tuyên bố hiến chương bát phúc cho quốc gia của Người (Mt 5:3-10). Qua lối sống, Người biểu lộ phong cách của Đấng Emmanuel như đã được hình dung trong Cựu Ước. Lời phán của Người mang quyền lực đuổi quỉ, chữa bệnh nan y, và truyền cho kẻ chết sống lại (Mt 11:5). Người nhân danh chính Người để tha tội cho kẻ có tội (Mc 2:10). Người sửa đổi luật Môisen để kiện toàn luật lệ. Người truyền đạo cho dân ngoại, làm nhiều phép lạ, và nói tiên tri. Khi Người vào thành Giêrusalem dân chúng nghe tin túa đến cầm lá vạn tuế đón chào và hát rằng: “Hôsanna con vua Đavít! Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến! vua Israel!” (Ga 12:12-15; Mt 21:9).
Lời giảng đạo của Người mâu thuẫn với lối sống của các vị chức sắc trong giáo hội Do Thái. Vì vậy họ sinh lòng thù hận và muốn diệt trừ Người. Các vị trưởng tế vin vào danh xưng vua để gán cho Người tội phản nghịch Xêda, vua của đế quốc La Mã đang thống trị Do Thái. Họ điệu Người đến dinh tổng trấn Philatô để mượn tay người La Mã giết Người. Trong sảnh đường các vị trưởng tế tố cáo Người nhiều điều. Trước sau Người chỉ đứng im lặng.
Cuộc thẩm vấn Đức Giêsu của Philatô (Ga 18:33-37) là một diễn trình rất quan trọng cho nền tảng Kitô học. Cuộc thẩm vấn này cần nên chiêm niệm theo tâm tình của chúng ta. Philatô hỏi Đức Giêsu: “Phải ông là vua dân Do Thái không?” Đức Giêsu nghe rất rõ câu hỏi. Người đã im lặng chờ đợi nó và chỉ có nó mới khiến Người lên tiếng: “Tự ông nói ra điều đó, hay có kẻ cho ông biết như thế?” Câu trả lời của Người không phải là bản dữ kiện thông tin, nhưng là một câu hỏi. Ngay lúc ấy Ngài đổi ngược vị trí từ một bị can thành Đấng Emmanuel. Câu hỏi của Người chính là dành cho chúng ta, “Tự chính ngươi, ngươi cho Ta là ai?” Chúng ta phải tự mình trả lời câu hỏi này. Chúng ta không thể dựa vào những gì người khác nói. Nhìn ra Đức Giêsu là ai là một tâm chứng, nó không phải là mớ kiến thức vay mượn từ bên ngoài. Philatô trả lời: “Tôi có là dân Do Thái đâu?” Rất dễ cho Philatô đáp “tôi nghe người ta nói”, nhưng ông không dám nói thế vì lòng ông đang hoang mang. Chính vợ ông đã tiết lộ cho ông biết một dấu chỉ siêu nhiên về người bị can này (Mt 27:19). Ông trả lời theo ý tránh né đối diện với vấn đề. Tôi có phải là dân Do Thái đâu mà cần biết ông là ai? Đức Giêsu mở ra một cánh cửa chưa từng bao giờ có, “Nước Ta chẳng thuộc về thế gian này.” Vương quốc của Người không thuộc về Do Thái nhưng là cho tất cả. Tất cả mọi người đều thuộc về Đức Giêsu, mặc dù họ có biết hay không. Philatô hỏi: “Thế trong nước ấy ông là vua hay sao?” Đức Giêsu nói chính xác từng chữ: “Đúng như ông nói, Ta là vua. Vì lý do ấy mà ta sinh ra, cũng vì cớ ấy mà ta đến thế gian để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về sự thật đều nghe tiếng ta.” Đây là tất cả những gì Đức Giêsu muốn cho chúng ta biết và hiểu. Bất cứ ai, hễ tin vào Đấng Emmanuel đều là dân của Người, tức dân Chúa. Cuối cùng Philatô ngạc nhiên thốt lên: “Vậy ông đã làm gì?” Họ tố cáo là ông muốn làm vua Do Thái. Nếu ông phủ nhận, vậy ông đã làm gì khiến họ muốn giết ông? Ông là người vô tội. Kitô hữu chúng ta đều biết Đức Giêsu bị giết bởi một nguyên nhân khác. Cho nên câu hỏi “Vậy ông đã làm gì?” vang dội trong tâm hồn chúng ta một cảm xúc rất sâu xa.
Trong thông điệp Redemptor Hominia (Đấng Cứu Chuộc loài người) Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tái tuyên xưng “Chúa Cha cùng Thần Khí xức dầu và tấn phong Đức Giêsu Kitô làm Tư Tế, Ngôn Sứ và Vua” (Cat 783). Cả ba chức vụ này đều có tính cách duy nhất. Trong tân Ước danh xưng Tư Tế chỉ dành riêng cho Đức Giêsu. Nền tảng của chức vụ này là cuộc hiến tế trên thập giá và cuộc phục sinh của Người. Chức Ngôn Sứ cũng chỉ áp dụng cho Đức Giêsu, vì Người là Con duy nhất của Thượng Đế và là mặc khải cuối cùng. Đức Giêsu là vua vì thế giới được tạo ra qua Người và cho Người. Ba danh xưng trên là ba sứ mạng của chương trình cứu độ. Đức Giêsu đã thực hiện sứ mạng này bằng cách thành lập một triều đại mầu nhiệm gọi là Vương Quốc Thiên Chúa (Nước Trời). Vương Quốc ấy ở đâu. Người không nói “Nước Ta chẳng ở thế gian này” nhưng nói “không thuộc thế gian này.” Như vậy Nước Trời ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Lý do Đức Giêsu nhập thế là để thành lập Nước Trời trong thế gian. Đức Giêsu lên tiếng kêu gọi: “Hỡi muôn dân, ai thuộc về sự thật, nghe tiếng Ta.”
Đấng Chăn Lành
Ngay cả Kitô hữu cũng có một thời khó khăn trong sự nhận diện Đấng Emmanuel. Mặc dù Kitô hữu chúng ta hiểu Vương Quốc mầu nhiệm là gì, nhưng danh xưng vua vẫn dẫn trí óc nhiều người đi vào quan hệ vua-tôi của mô thức chủng tộc. Kitô hữu đã quan niệm đời sống đạo như sau. Chúng ta là công dân của Vương Quốc Thiên Chúa. Thiên Chúa là Vua, nhân loại là thần dân. Thần dân không có liên hệ thân mật với Vua, ngoại trừ lòng trung thành, tôn kính và tuân giữ luật của Người. Bản tính con người thường hướng về dục vọng xấu, nên con người không bao giờ tuân giữ được luật Chúa cho trọn vẹn. Những vi phạm luật bị coi là tội lỗi. Ai phạm luật sẽ trở thành kẻ có tội. Kẻ có tội không có cách nào thoát khỏi án phạt vì Thượng Đế không thể hủy bỏ luật công chính của mình. Tuy nhiên khác với những vị vua trần thế, Thượng Đế là Đấng yêu thương dân mình. Thay vì dùng luật để xử án, Người đã dùng một giải pháp khác không chống lại luật công chính của Người. Thượng Đế đã gửi con yêu quí duy nhất của Người, là Đức Giêsu, đi nhận cái chết để đền tội thay cho con người. Đức Giêsu đã hòa giải giữa Thượng Đế—Đấng tạo luật và xử luật—và con người là kẻ tội phạm. Nhờ đó con người được ơn cứu chuộc.
Đáng lý ra truyền thống giữ đạo theo khuôn mẫu trên chỉ hợp với suy luận của người thời trung cổ, trên thực tế nó vẫn còn hợp với số đông người ngày nay. Đức Giêsu cố tránh liên hệ vua-tôi theo não trạng chính trị trên. Trong thời gian giảng đạo, dân chúng nhiều lần muốn tôn Người lên làm vua. Người biết ý họ nên luôn luôn bỏ đi trước khi việc ấy có thể xảy ra.
Trọng tâm của mô thức vua-tôi là vấn đề tội lỗi (được hiểu là phạm luật Chúa). Tội lỗi đã ngăn cản Thượng Đế và con người gần nhau. Con người đối diện với nỗi sợ hãi khi đến với Thượng Đế. Sự nhấn mạnh vào ý thức tội lỗi đã dẫn đến nhận thức: con người là kẻ có tội, sống trong tội, và không thoát khỏi tội. Mục đích tử nạn của Đức Giêsu là để chuộc tội cho thiên hạ, nhưng tội lỗi có thể được tha, bản chất tội lỗi của người vẫn tồn tại. Vì vậy giữ đạo là cuộc phấn đấu tuân theo luật buộc để hoàn tất những điều kiện mà Thượng Đế đòi hỏi. Người là Đấng siêu ngã kiểm soát mọi hành vi và tư tưởng của con người để luận án thưởng phạt. Mức độ chu toàn luật định và đền tội sẽ minh định sự cứu rỗi của linh hồn trước tòa phán xét cuối cùng.
Truyền thống liên hệ vua-tôi của nhân chủng quá đơn giản về mặt tâm linh. Mô thức sống đạo vua-tôi không có chỗ cho ơn sủng của Thiên Chúa xen vào. Khi Đức Giêsu giảng đạo, Người mô tả Thượng Đế là nguồn tình thương, nguồn tha thứ, và nguồn ân sủng. Người dậy dân gọi Thượng Đế bằng danh xưng thân mật Abba (Bố) (Mc 14:36; Rm 8:15). Một Abba, chậm nổi giận, hằng ngày nhìn ra đường để mong đứa con hoang đàng trở về. Khi mới thấy nó từ đàng xa, Abba vội chạy ra không phải để phán xét hay kết án, nhưng để vui mừng đón tiếp và tha thứ (Lc 15:11-24). Trong luật “thưởng phạt công bằng” chúng ta được cứu rỗi vì chúng ta sống đúng luật Chúa. Đức Giêsu kiện toàn lại rằng, chúng ta được cứu rỗi nhờ đức tin của chúng ta và nhờ lòng thương của Thiên Chúa.
Tuy Đức Giêsu tự nhận là Đấng Mêsia, nhưng Người ví dân của Người là đàn chiên và Người là Đấng Chăn Lành (Cat 763-764). Chủ chăn biết từng con chiên của mình bằng tên. Chủ chăn đi trước đàn chiên để dẫn lối, tìm nguồn nước, tìm nơi có cỏ ngon, và tìm nơi trú ẩn cho chiên. Chủ chăn hy sinh cả mạng sống của mình cho sự an toàn của chiên (Ga 10:1-16). Như vậy vua Giêsu không chú tâm đến luật lệ, nhưng đến tình yêu thương. Để cho dân Người gần gũi hơn, Người ví mình là chú rể và dân của Người là cô dâu (Lc 5:34). Chúng ta là người yêu của Đức Giêsu, những cô dâu, đón chờ chàng rể (Mt 25:1-13). Đó là sự liên hệ của những người thuộc về nhau và hòa vào nhau để tồn tại.
Sống đạo trong mô thức tâm linh không nhấn mạnh vào ý thức tội lỗi, nhưng vào mức độ gắn bó vào Thiên Chúa. Thiên Chúa không xuất hiện như Đấng xa cách và đầy quyền uy. Người là “cột lửa trong đêm” và đám mây ban ngày” dẫn lối cho dân đi trong sa mạc nhân sinh về vùng đất hứa. Như vậy chúng ta hãy chuyển từ khuôn mẫu truyền thống vua-tôi qua khuôn mẫu tâm linh. Trong khuôn mẫu thứ hai con người thuộc về Đấng chăn lành Giêsu Kitô, bất kể chúng ta có hiểu hay không (Ga 10:16). Đấng Kitô không tách rời chúng ta nhưng đi với chúng ta trong cuộc đời cho đến tận thế. Sống đạo là khả năng nhận diện sự hiện hữu của Đấng Kitô.
Tuy con người bản chất vẫn là kẻ tội lỗi, nhưng không ở vị trí thụ động là kẻ bị phán xét, mà được nhận diện là kẻ lạnh nhạt với tình yêu của Chúa. Một vị thế chủ động trong nỗ lực hàn gắn tình yêu. Trong chiều hướng ấy tội lỗi không thuần túy là phạm luật Chúa, nhưng là sự bội ước tình yêu và không có tình yêu. Đức Giêsu gọi kẻ tội lỗi là kẻ mắc nợ (Lc 7:36-44). Có một tình yêu bao la ẩn trong từ ngữ ẩn dụ “mắc nợ”. Kẻ mắc nợ chưa hẳn là kẻ có tội, vì vẫn còn có dịp để trả nợ. Nhưng nếu gọi hắn là “kẻ tội lỗi”, trong tiếng gọi ấy đã có sự kết án rồi. Nói cho cùng, con người chúng ta, ai mà không mắc nợ ít hay nhiều. Đức Giêsu đã dậy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những kẻ có nợ với chúng con.”
Hãm mình đền tội không phải là thi hành án phạt, nhưng để hoàn chỉnh cho xứng đáng trở lại với tình yêu, để có lại đời sống tâm linh. Chúng ta đến với Chúa không phải với thành tích thi hành luật, nhưng với lòng cảm mến, vì ai cảm mến nhiều thì được tha nhiều, ai cảm mến ít thì được tha ít (Lc 7:47). Tất cả những biểu tượng trong lối sống đạo cổ truyền vẫn tồn tại nguyên vẹn trong nếp sống mới. Tuy nhiên ý nghĩa của những biểu tượng này được chuyển qua giá trị tâm linh.
Nếu vạn vật hiện hữu theo luật nhân quả thì yêu thương chính là nguyên nhân nội tại của Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguyên nhân và cũng là cứu cánh của con người. Vì vậy cuộc sống của chúng ta là tiến trình nỗ lực của ý chí tự do đi tìm gặp Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể qua Đức Giêsu, Thiên Chúa hữu hình. Thánh Kinh dẫn dắt chúng ta hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Emmanuel. Những danh xưng này là những ý niệm để chiêm niệm. Thiên Chúa không thể ngưng đọng trong 1 danh xưng nào theo mô thức văn hóa trần thế. Người là Emmanuel nhưng lại chịu chết để cứu đàn chiên. Người là Vua nhưng lại đóng vai đầy tớ rửa chân cho thuộc hạ. Người là Mêsia nhưng lại nồng nhiệt như vị hôn phu. Đó là sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa. Con người được sinh ra qua hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng chỉ có thể tồn tại nếu có tình yêu. Chúng ta nên như những cây đèn đón tân lang trong đêm tối của cơn mê tham dục. Đèn không nên trống rỗng khiến phải tắt ngấm chìm vào đêm đen. Tâm hồn chúng ta nên đầy tràn dầu Thần Khí để đón Đấng kính yêu●
Giáo Hội dành đặc biệt tuần cuối cùng của năm phụng vụ để long trọng mừng lễ kính trọng: TN 34-ABC44
Giáo Hội dành đặc biệt tuần cuối cùng của năm phụng vụ để long trọng mừng lễ kính trọng thể Đức Giê-su Ki-tô – Vua vũ trụ vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.(1Cr 15:27).
Lại những cuộc rước sách tưng bừng tung hô Đức Giê-su Kitô Vạn tuế, Vạn tuế! Chúa Giê-su là vua. Chúa muôn thủa là Chúa, là vua muôn vua!!
Đứng về mặt nhân loại mà nói, Đức Giê-su mới được khoảng một tỷ người công nhận Ngài làm vua, còn khoảng năm tỷ người khác chẳng biết Đức Giê-su là ai.
Riêng đối với người Công giáo, mỗi năm một lần, người ta lôi vị vua ra khỏi hộp tái chế tung hô, ca hát, ngợi khen. Rồi sau đó lại tỉnh bơ dời Ngài vào trong hộp tái chế (move Him to the Recycle Bin).
Ôi, Đức Giê-su Kitô – Vị Vua trong Recycle Bin!!
Lý do rất chính đáng. Tuần tiếp theo đi vào Mùa Vọng, người ta phải mặc lấy tâm tình sám hối, mong đợi đấng cứu tinh chứ! Vì thế xin mời đức Vua vui lòng trở lại hộp tái chế. Hẹn năm sau, các thần dân sẽ lại hân hoan tung hô Ngài vào đúng ngày lễ trọng đại và huy hoàng như Đức Giê-su Kitô Vua thủa xưa khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Sự thật rành rành như thế, chúng ta thử làm một cuộc phỏng vấn đơn giản:
Bạn có tin Đức Giê-su là vua không?
Tin quá đi chứ! Không những Ngài làm vua dưới đất mà còn làm vua cả trên trời nữa đấy!!
Thật là chí lý. Thế Ngài có làm vua tâm hồn bạn không?
À..À...cái vụ này coi bộ lạ quá! Chưa ai hỏi tôi câu này, làm sao tôi biết đường trả lời đây!!
Bạn thử lục lọi Hộp Tái Chế trong cái Vi-tính-Tâm-Hồn của bạn xem có bóng dáng Vị- Vua- Trời- Đất đó không?
Có lẽ tìm cả năm cũng chưa chắc có, vì tôi có bao giờ nghĩ rằng Ngài là Vua của tôi lòng tôi đâu! Tôi chỉ thấy hình ảnh một vị vua oai phong với Vương Miện cao sang, với Vương Trượng uy quyền trong các nhà thờ hay trên các đài cao trên đỉnh núi, lưng đèo.
Đúng rồi, tôi còn cho rằng vị vua oai phong trên các đài cao để người công giáo mình tha hồ mà vênh vang với thiên hạ, với muôn dân vì đạo của ta là đạo thật, có Đức Giê-su Kitô là vua cai trị mọi loài... Khi nghe tên thánh Chúa Giê-su các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run.....
Quả thật, tôi thỉnh thoảng cũng tự hào như thế.
Như vậy hóa ra Đức Giê-su Ki-tô – Vua vũ trụ, Vua tâm hồn chẳng đóng một vai trò nào trong cuộc sống đạo của bạn, chẳng dính dáng gì với cuộc sống thường ngày của bạn phải không?
Tôi phải thú nhận rằng hóa ra đúng là như vậy thật. Từ sáng đến tối, mạnh Chúa, Chúa sống; mạnh tôi, tôi sống. Tôi còn thấy mình sống chẳng khác gì những người bạn trong cùng cơ quan. Cũng cố làm việc đàng hoàng suốt “8 giờ hành chánh vàng ngọc” kẻo cấp trên trách mắng đâm ra mất mặt với đồng nghiệp nhất là với phái nữ.
Bạn xoay tôi như chong chóng. Bây giờ tôi hỏi lại bạn vài điều. Trước hết, Đức Giê-su Ki-tô – Vua vũ trụ, Vua tâm hồn đóng một vai trò nào trong cuộc sống đạo của anh?
Tất nhiên là Ngài đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc đời của tôi.
Ai chẳng nói được như thế! Nhưng làm sao anh nhận thức và quả quyết như vậy?
Trước kia tôi cũng mù mù mờ mờ, nhưng từ khi mần mò đi tìm Ngài qua Kinh Thánh và qua chia sẻ với bạn bè tôi dần dần nhận ra khuôn mặt của Ngài – một khuôn mặt vô hình tướng. Và tôi cũng dần dần nhận ra sư hiện diện và hoạt động của Ngài ngay trong tâm hồn mình. Tất nhiên là cái tôi cũng dần dần nhỏ đi nhường cho sự hiện diện của Ngài lớn lên trong tôi. Chính vì thế, có thể nói rằng Ngài chính là Vua tâm hồn tôi.
Một câu hỏi cuối cùng: Tại sao Giáo Hội đặt ra đủ thứ linh tinh nào là mùa Vọng, mùa Giáng Sinh, mùa Chay mùa Phục Sinh rồi đủ các thứ lễ: Chúa Ba Ngôi, Thánh Tâm Chúa Giê-su, Chúa Thánh Thần, hàng chục lễ kính Đức Mẹ, hàng trăm lễ kính các thánh. Tôi có cảm tưởng mình đang cưỡi ngựa xem hoa. Một vườn hoa với rực rỡ sắc màu và ngào ngạt hương thơm nhưng chẳng thưởng thức trọn vẹn được cánh hoa nào. Tệ hơn nữa tôi có cảm tưởng mình biến thành tên lính tốt trong đèn kéo quân quay tít mù theo chu kỳ phụng vụ. Quay cả mấy chục năm rồi, mà chẳng đi đến đâu. Hiện tại thì sống tình tang, ai sao tôi vậy, tương lai đời sau thì mờ mịt chẳng biết ra sao.
Đây là một câu hỏi nghiêm túc và đầy ý nghĩa. Tôi xin mạn phép trình bày theo thiển kiến riêng của mình. Giáo hội là một người mẹ có hàng tỷ con, nên người mẹ phải giới thiệu thật nhiều con đường. Người con nào cảm thấy thích hợp con đường nào thì cứ con đường ấy mà đi. Điều quan trọng là đã chọn con đường nào thì cứ theo đường đó mà tiến bước. Tất nhiên là hoàn toàn có thể rút tỉa những điều hay điều tốt của con đường khác để hoàn thiện con đường của mình hơn. Cuối cùng là con đường nào cũng có những mẫu số chung: khắc khoải, đi tìm, khám phá, gặp gỡ và thực tập sống với Chúa ngay trong lòng mình. Và những thực tập phát sinh ra cảm nghiệm, từ cảm nghiệm củng cố xác tín. Chính vì thế tôi mới có thể xác tín với anh một cách dễ dàng như vậy. Anh hiểu chứ?
Cảm ơn anh. Tôi hiểu điều anh nói, nhưng để sống chắc là đòi hỏi thời gian.
Chắc chắn là cần thời gian vì thực sự tôi cũng đã dành gần 20 năm để sống điều mình khám phá đấy bạn ạ.
Hèn chi...
Mến chúc bạn mau tìm ra con đường nào thích hợp nhất cho mình rồi từ đó lên đường bằng những suy tư, khám phá, gặp gỡ, cảm nghiệm và xác tín...khiến cho cuộc sống đời Kitô hữu của bạn ngày càng dồi dào, bình an và hạnh phúc đích thực●
Vua Kitô và Vương quốc của Ngài đang vươn dậy- LM. Giuse Trương Đình Hiền
Dẫn nhập đầu lễ : Kính thưa cộng đoàn,
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan cử hành lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ. Thánh lễ nầy được: TN 34-ABC45
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan cử hành lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ. Thánh lễ nầy được ĐGH Piô XI thiết lập qua thông điệp QUAS PRIMAS ngày 11.12.1925, với chủ đích qui hướng toàn nhân loại trong Vương quốc tình yêu của Đức Kitô, một nhân loại đang rạn nứt, phân rẽ, hận thù sau thế chiến thứ nhất. Thánh lễ nầy lại được cử hành vào Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ với chủ ý : Chúa Giê-su Ki-tô làm Vua chính là đĩnh cao, là điểm đến của một chặng đường sống đức tin vào Chúa Kitô của Dân Chúa. Trong Thánh lễ nầy, chúng ta tôn thờ Chúa Giê-su là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, Đấng là Alpha và Ômêga, là nguyên khởi và là cùng đích. Đấng sẽ qui tụ toàn nhân loại trong Vương quốc duy nhất, Vương quốc của tình yêu và ân sủng, của chân lý và tự do. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta điều chỉnh lại tư cách thần dân của mình trong vương quốc của Đức Kitô, một Vương quốc chỉ dành riêng cho những ai biết nhìn thấy và phục vụ Chúa nơi những người bé nhỏ khiêm hèn.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành Mầu nhiệm Thánh, chúng ta cùng thú nhận tội lỗi.
Giảng Lời Chúa :
80 năm trước, vào những năm sau đệ nhất thế chiến, thế giới đang ngầm chứa những mâu thuẩn và hận thù giữa nhiều quốc gia chiến bại, lại được tăng cường thêm những mối bất đồng và không khoan nhượng của những quốc gia chiến thắng; trong khi đó, những giấc mơ tiến bộ khoa học kỷ thuật đã đẩy nhiều quốc gia tới não trạng “cần phải thay đổi bản đồ thế giới” hầu thỏa mãn ý đồ “trả thù dân tộc” hay bành trướng bá quyền. Chính trong bối cảnh xã hội phức tạp và đen tối ấy, Giáo Hội thấy cần phải một lần nữa giới thiệu cho nhân loại một giải pháp tối hậu, một con đường duy nhất để đem nhân loại về một mối, để thế giới có thể liên đới với nhau trong nghĩa tình huynh đệ và cùng hiệp nhất hòa thuận xây dựng cộng đồng nhân loại dựa trên công bình và chân lý, bác ái và yêu thương. Giải pháp duy nhất, con đường độc đạo ấy chính là Đức Kitô, một Đức Kitô không chỉ là Vua của toàn thể nhân loại mà là Vua của cả vũ hoàn, một Đức Kitô không chỉ thiết lập một Vương Quốc Nước Trời ở tận cuối chân trời thời gian, nhưng là một Vương Quốc của tình yêu và chân lý đang dần hiện thực ở đây và lúc nầy trong đời thường cuộc sống, một Đức Kitô không chỉ giúp nhân loại phương cách vượt qua bệnh tật, đói nghèo, lầm than, thất vọng, mà còn dẫn nhân loại đi vào cuộc chiến thắng dứt khoát trên tội lỗi và sự chết. Trong ngôn ngữ của sứ điệp Lời Chúa hôm nay, con đường đó, giải pháp đó chính là mở lòng tin nhận một “Thiên Chúa mục tử đang chăn dắt bầy chiên và đang đi tìm con chiên lạc” (BĐ 1), là suy phục một Vị Thẩm phán Tối Cao lại sẵn sàng đồng hóa mình với những người khố rách áo ôm, những kẻ nhỏ nhất trong đáy cùng xã hội (TM), và nhất là, đón nhận một Đức Kitô chiến thẳng tử thần để khai đường mở lối dẫn dắt nhân loại tiến vào vương quốc phục sinh (BĐ 2).
Và hôm nay, sau 80 năm ngày thiết lập Đại Lễ Chúa Kitô làm Vua, xem ra thế giới vẫn ngầm chứa “những thùng nuốc nỗ”. Quả thật thế giới hôm nay là thế giới với bao năng động của sáng tạo và tiến bộ khoa học kỷ thuật, nhưng cũng là một thế giới chất chứa bao nguy cơ và hiểm họa của bệnh tật (siđa, sax, ung thư, tai biến… và nhất là cơn đại dịch đang đe dọa khắp thế giới : cúm gia cầm với siêu virus H5N1…); đó là thế giới mà cứ mỗi buổi sáng bừng mắt dậy đã nghe và thấy những cuộc đánh bom khủng bố tự sát, những cuộc buôn bán xác thịt và lạm dụng tính dục, những cuộc bạo hành và hận thù sắc tộc, tôn giáo như biến cố 3 cô nữ sinh chân yếu tay mềm của một trường trung học Công Giáo Inđônêsia mới vừa bị cắt đầu trên đường đi học…Vâng, đó là “một thế giới, nói theo ngôn từ của Hiến chế “Vui mừng và hy vọng”, pha lẫn giữa ánh sáng và bóng tối”. Ở giữa cái thế giới đông vui, náo nhiệt và cũng nhầy nhụa phức tạp nầy, liệu cái Vương Quốc và vương Quyền mà Phụng vụ hôm nay cao rao có thật sự đang hiện hữu và tác dụng hay chỉ là một đánh lừa trơ trẻn ?
1. Đang có một “Vương quốc không thuộc thế gian nầy” :
Dưới ánh áng của đức tin và được dẫn lối đưa đường của mạc khải, chúng ta tái tuyên xưng rằng : Có một Vương Quốc Thần Linh đang hiện hữu và cũng đang từng ngày phát triển. Đó chính là Vương Quốc của Thiên Chúa, của Vua Kitô, một Vương Quốc mà kinh Tiền Tụng hôm nay đã phần nào minh định :
“Vương quốc của sự thật và sự sống, của thánh thiện và ân sủng, Vương quốc công chính, yêu thương và công bình”.
Và dĩ nhiên, đó là một Vương quốc “không thuộc thế gian nầy”, như lời khẳng định của chính Đức Kitô khi trả lời cuộc thẩm vấn của tổng trấn Phi-la-tô :
“Nước tôi không thuộc về thế gian nầy…Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi sinh ra và đã đến thế gian nầy vì điều nầy : đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía của sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 19,36-37).
Nhưng tâm thức của nhân loại muôn nơi muôn thuở vẫn là muốn cái “tà tà mặt đất”, vẫn là chỉ chấp nhận một thực tại “trong tầm tay”. Chính vì thế, cách đây 2000 năm, khi thấy Đức Kitô đã từng dùng mấy chiếc bánh và vài con cá nhỏ nuôi cả đám dân mấy ngàn người, khi thấy Ngài cho kẻ điếc nghe, kẻ què đi, kẻ phung cùi được sạch, khi thấy Ngài làm cho cuồng phong bảo táp lặng yên, người chết sống lại, đi vèo trên mặt nước…có nhiều kẻ đã muốn tôn Ngài làm Vua, theo Ngài để may ra kiếm chác một chức tước chốn cung đình (như kiểu hai tông đồ Gioan và Giacôbê con của Giêbêđê), hoặc để ít ra được no cơm ấm áo, khỏi thuế má ngục tù, khỏi bị bóc lột đọa đầy của thân phận một dân mất nước…
Thế nhưng oái ăm thay, càng tiến gần về Giêrusalem, Vị Tiên tri đến từ Nadarét càng tung ra những lời rao giảng sao mà khó nghe, sao mà lạ đời : Nào “ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ được sống đời đời”, nào “Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ dữ, bị kết án chết và ngày thứ ba sẽ sống lại…”, nào “Ta là mục tử tốt lành sẽ chết cho đoàn chiên…”, nào “hạt lúa mì có chết thối đi mới sinh hoa kết trái…”. Và trong khi bàn dân thiên hạ đang nô nức đợi chờ ngày chấp chánh đăng quang của Ngài với vương trượng và ngai vàng, với quyền uy choáng ngợp thì Ngài lại trình bày một Vị Vua thẩm phán ẩn mình trong những kẻ bé nhỏ khiêm hèn :
“Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (TM)
Và nhất là sau đó : BIẾN CỐ “Chiều Thứ Sáu Tử nạn đã lật nhào tất cả ! Cho dù “bản án trên thập giá có được viêt bằng 3 thứ tiếng Hy lạp, Do Thái, La Tinh với hàng chữ lớn “GIÊ-SU NA-DA-RÉT, VUA DÂN DO THÁI”, thì cũng chẳng thuyết phục được đám đông dám đặt hy vọng và tin tưởng vào một ông Vua Giêsu đang bị đóng đinh vào thập giá. Quả thật, không ai có đủ tầm nhìn xa hơn nữa để thấy và hiểu chính lời của Đức Kitô vừa nói trước tòa Philatô : “Nước Tôi không thuộc thế gian nầy”. Nhưng đó lại là Tin Mừng, là sự thật, một sự thật tuyệt đối của niềm tin kitô giáo mà nếu loại trừ hay không đón nhận thì chẳng còn gì là niềm tin như lời xác quyết của thánh phaolô :
“Trong khi Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” (1 Cr 2, 22-23)
Vâng, chính “Đức Kitô bị đóng đinh” đó với cuộc phục sinh của Ngài đã khai mở một vương quốc của sự thật và sự sống vĩnh hằng như trong thư gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô mà chúng ta vừa nghe trong BĐ2 hôm nay : “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu…”
2/. Con đường tiến vào vương quốc của Đức Kitô
Tin Đức Kitô-Tử nạn-phục sinh là Vua và chấp nhận “tiến vào vương quốc của Ngài” trên những nẻo đường của Tin Mừng muôn đời và muôn nơi vẫn là chuyện của tình yêu và ân sủng. Và chuyện đó lại khởi đi ngay từ buổi chiều thứ Sáu trên đồi Canvê. Vâng, giữa một buổi chiều lênh láng máu, ồn ào bụi bặm của xúc phạm và sĩ nhục, người kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa đã nhận ra một “hình hài tan nát, một “Ecce Homo” dở sống dở chết kia lại là một Vị Vua với một vương Quốc đang mở ra tràn trề hy vọng : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Và anh đã không thất vọng khi Đức Kitô đã hồi đáp : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Động lực nào, nhân tố nào đã mở mắt tâm hồn của người kẻ trộm để có được niềm tin như thế ? Chúng ta chỉ có thể trả lời được rằng : ngoài lý do ân sủng là yếu tố quyết định, phải nói rằng, sự sám hối, trở về trong khiêm hạ đã làm cho đôi mắt tâm hồn của tên trộm mở ra. Bởi vì đó cũng chính là cách thế mà Thiên Chúa, Đức Kitô đã dùng để trao gởi đức tin, để ban niềm hy vọng cho bao con người như Maria Mađalêna, Giakê, Matthêô, như Augustinô, như Charles de Foucauld…để trao thân gởi phận cho Vị Mục Tử Nhân Lành sẵn sàng đi tìm con chiên lạc, sẵn sàng cúi xuống để rửa chân, sẵn sàng chết để yêu thương và tha thứ, sẵn sàng chấp nhận đồng hình đồng dạng với những kẻ bé mọn khiêm hèn, khổ đau bệnh tật.
Nếu Đức Kitô đã lựa chọn những khoảnh khắc đặc biệt không ai ngờ để “đăng quang”, để tự xác nhận Vương quyền : khoảnh khắc của một “hang Bê lem” với hình hài một bé thơ nhỏ hèn mỏng manh yếu đuối để nhận lãnh thái độ tôn thờ phủ phục của Ba Vua phương đông với vàng nhủ hương và mộc dược, hay khoảnh khắc của một tội nhân chen chúc giữa đô hội anh em bước xuống dòng sông Giođan để được Gioan làm phép rửa mà sau đó là lời tuyên bố chính thức của Chúa Cha để ấn chứng vương quyền : “Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy nghe lời Người”; hay đặc biệt nhất, khoảnh khắc của môt tên tử tội bị kết án trươc tòa án nhân loại đã long trọng tuyên cáo “Ông nói đúng. Tôi là Vua”, và khoảnh khắc bị đóng đinh trên cây khổ giá mà chính con người phong tặng vương quyền với những dòng chữ “khinh mạn dể duôi” : “Giêsu Na-da-rét, Vua dân Do Thái”…thì phải chăng Ngài muốn xác định cái vóc dáng, cái hình hài, cái biên giới, cái nội dung của “Vua Kitô và Vương Quốc Nước trời” hoàn toàn khác biệt với cái “vương quốc trần tục”, vương quốc của chính trị và kinh tế, vương quốc của chiến tranh và bạo lực, vương quốc của tiền bạc và hưởng thụ.
Và vì thế, để dấn thân vào Vương quốc đó, để thuộc về thần dân của Vua Kitô, chúng ta lại phải mang một “căn cước khác”, một hộ chiếu khác, không dựa trên tiền tài hay sắc đẹp, quyền lực hay ma mánh, dối trá hay thủ đoạn…Phải có con mắt mới tinh trong sáng, phải có cõi lòng thanh thản bao dung, phải có con tim hiền lành và khiêm hạ, phải có cả hy sinh và sám hối…mới có thể nhìn ra Đức Kitô, Vị Vua quyền năng đang hiện diện ở đó trong những người nghèo, trong những người anh em chung quanh, trong một xã hội nhầy nhụa và phức tạp, trong mọi cơ chế tưởng chừng như đã vắng bóng Thiên Chúa tự thuở nào. Vì đã không có “con mắt như thế, cái nhìn như thế, niềm tin như thế” nên những kẻ dữ trong dụ ngôn “Ngày Phán xử” đã ngạc nhiên : “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?”. Vâng Vua Kitô đang ở đó, trong những con người nhỏ bé, bất hạnh đó. Cho dù có một đôi lúc, chúng ta tưởng rằng Thiên Chúa đã vắng bóng, Thiên chúa đã chết, như khi hai tòa tháp đôi ở New York bị sụp đỗ trong biến cố dữ dằn hôm 11.09.2001, như khi cơn động đất sóng thần tàn khốc hôm 26.12 năm rồi tàn phá khủng khiếp vùng Nam Á, rồi cơn bảo Katrina, cơn động đất ở Pakistan mới đây…Không đâu. Như một câu ngạn ngữ Trung Hoa : “Một cây đỗ thì ồn ào hơn cả cánh rừng đang mọc”. Vâng cũng chính trong những thời khắc điêu linh khủng khiếp ập xuống đó, ở ngoài kia nơi thảo nguyên xanh ngát, có hàng vạn bông hoa đang rực rỡ khoe sắc, ngoài khung trời xanh bao la kia, có từng vạn cánh chim đang nhảy múa hát ca, và trên bao nhiêu dãy trường sơn bát ngát, hàng triệu triệu mầm cây đang âm thầm vở đất đâm chồi vươn lên sức sống, và trong hàng vạn mái nhà ấm cúng thân thương đã vang lên bao tiếng khóc oa oa chào đời của bao nhiêu em bé… Vâng, vương quốc của tình yêu và sự sống, của ân sủng và bình an vẫn đang từng ngày lớn lên như “hạt cải”, như mầm non giữa lòng đất để chờ ngày kết trái đâm bông…
Tóm lại, lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, vừa mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ, là Đấng qui tụ chúng ta và đang dẫn chúng ta vào Vương quốc tình yêu và sự sống của Ngài. Đồng thời cũng gọi mời chúng ta kiểm tra cuộc sống theo Chúa Ki-tô mỗi ngày, nhất là biết nhìn thấy Chúa Kitô nơi những người khổ đau bất hạnh để yêu thương và phục vụ hầu khi kết thúc thời gian, chúng ta được tiến vào quê hương hằng sống, nơi Đức Ki-tô Vua chiến thắng đang đợi chờ chúng ta trong Vương quốc của Ngài.
Giáo hội thiêt lập lễ Chúa Kitô, vua vũ trụ vào cuối năm phụng vụ có ý chỉ cho người Kitô giáo thấy: TN 34-ABC46
Giáo hội thiêt lập lễ Chúa Kitô, vua vũ trụ vào cuối năm phụng vụ có ý chỉ cho người Kitô giáo thấy, không những Chúa là khởi nguyên của mọi loài, mọi vật, mà còn là cùng đích của mọi sự. Ðó chính là lời Chúa mạc khải cho thánh Gioan trong sách Khải huyền: Ta là Alpha và là Omêga (Kh 21:6 & Kh 22:13) có nghĩa là Chúa là nguyên thuỷ và là cùng đích của mọi loài, mọi sự, mọi vật. Cũng theo sách Khải huyền thì Chúa Kitô là Chúa trên các chúa, là Vua trên các vua (Kh 17:14) vì Người đã toàn thắng sự chết. Tất cả các vua chúa đều phải khuất phục thần chết, chứ không ai có thể tự mình sống lại. Còn Ðức Kitô, Vua đã tự chấp nhận cái chết và sau ba ngày đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh khải hoàn.
Chính vì thế mà thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay đã rao giảng vương quyền của Ðức Kitô: Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc (1Cr 15:20). Cũng vì chấp nhận vương quyền của Chúa là Vua các vua, là Chúa các chúa, mà các vị anh hùng tử đạo đã sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho đức tin.
Trong kinh Tin kính, người tín hữu tuyên xưng cùng với Giáo Hội: Người sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong ngày phán xét, Chúa Kitô hiện ra như là Vua và là thẩm phán tối cao. Với tư cách là Vua, Chúa phải cai trị cho tới khi Thiên Chúa đặt mọi kẻ thù dưới chân như thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay (1Cr 15:25). Với tư cách là Thẩm phán tối cao, Ðức Kitô sẽ tách biệt chiên ra khỏi dê (Mt 25:32). Chiên và dê được nuôi cho ăn trong cùng một đồng cỏ. Ðêm đến người ta cho chiên và dê vào chuồng tách biệt và người ta cũng tách biệt khi đem chiên và dê ra chợ bán.
Vương quốc của Chúa Kitô được thể hiện rõ rệt nhất qua hình ảnh người chăn chiên. Theo bài trích sách ngôn sứ Êdêkien hôm nay thì vị ngôn sứ đã than trách những hành động bê trễ của các tư tế và vua xứ Giuđa trong việc săn sóc đàn chiên là dân Chúa chọn. Và rồi ngôn sứ Êdêkien tiên báo là Chúa sẽ đích thân đến đưa dẫn đàn chiên lạc trở về: Ta sẽ đích thân săn sóc chiên Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như người mục tử kiểm soát đàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm soát đàn chiên của Ta như vậy (Ed 34:11-12).
Khi mặc lấy thân xác loài người, sống giữa nhân loại, Ðức Kitô đã nêu gương phục vụ loài người bằng cách rửa chân cho các môn đệ và căn dặn họ cũng phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vu lẫn nhau. Ðức tin của người công giáo vào ngày thế mạt hay ngày phán xét là dựa vào Thánh kinh. Thánh kinh Cựu ước cũng như Thánh kinh Tân ước đều nói về ngày phán xét. Và tiêu chuẩn cho ngày phán xét là việc bác ái phục vụ. Ðể cho phù hợp với lời Người giảng dạy, Ðức Kitô trong Phúc âm hôm nay đồng hoá với loài người khi Người phán: Bất cứ việc gì các con làm cho một trong những người hèn mọn nhất là các con làm cho chính Ta (Mt 25:40).
Như vậy phúc âm cho ta thấy thành phần trong nước Trời mang theo trách nhiệm săn sóc, phục vụ giúp đỡ tha nhân như chính Chúa đã phục vụ. Ðức Kitô cho ta thấy ngoài mối liên hệ hàng dọc giữa thần linh và nhân loại, nghĩa là giữa Thiên Chúa và loài người, thì còn một liên hệ hàng ngang giữa người với người. Loài người là tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa vì loài người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27; 9:6) và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc (Dt 9:12). Vậy một trong những điều kiện để gia nhập vương quốc của Ðức Kitô Vua là dựa trên việc bác ái phục vụ như: Con Người đã đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20:28). Về Trời rồi, thì Chúa cần dùng trái tim của ta để thoa dịu những nỗi thống khổ của loài người. Chúa cần dùng tay ta để nuôi dưỡng người đói khát, băng bó những vết thương người bệnh tật. Và Chúa cần dùng chân ta để đi thăm viếng người tù đầy và đau yếu...
Theo lời Chúa dạy thì trong ngày cánh chung, người ta sẽ phải chịu phán xét về trách nhiệm của mình đối với người lầm than xấu số. Cực hình sẽ được dành cho người không chịu phục vụ những người kém may mắn. Ðó là hình phạt mà người phú hộ đã phải gánh chịu vì khi còn sống không chịu giúp đỡ người nghèo đói là Ladarô (Lc 16:19-31). Giáo lý Công giáo cũng dạy: Sự phán xét sau cùng này sẽ phơi bầy tất cả những hậu quả tối hậu của những gì mà mỗi người đã làm tốt, hoặc đã bỏ qua không làm trong cuộc đời trần gian của mình (GLCG # 1039). Có lẽ từ trước đến nay khi đi xưng tội, ta chỉ có thói quen xưng thú những tội lỗi ta đã phạm. Ðể nhắc nhở cho mình về giáo lí Chúa dạy, khi đi xưng tội, ta cũng cần xưng những tội mà mình bỏ qua, không làm cho người thiếu thốn, lầm than nữa.
Lời cầu nguyện xin cho được phán xét khoan dung:
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng loài người giống hình ảnh Chúa
và cứu chuộc loài người bằng máu Ðức Kitô.
Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa
nơi người đói khát, vô gia cư, rách rưới, đau yếu, tù đầy.
Xin tha thứ những lần con bịt tai nhắm mắt
trước những nỗi thống khổ và rên xiết của người lầm than,
Giáo Hội suy tôn Chúa là vua vũ trụ và như trong bài kinh tiền tụng của Thánh lễ hôm nay: TN 34-ABC47
Giáo Hội suy tôn Chúa là vua vũ trụ và như trong bài kinh tiền tụng của Thánh lễ hôm nay: nước Chúa Kitô vẫn khác hẳn với các vương quốc trần gian, là vì Ngài đã tự hiến thân làm lễ vật tinh tuyền, và lễ vật giao hòa trên bàn thờ Thập giá, để hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại, qui phục mọi loài dưới quyền bính, và đặt dưới uy quyền vô hạn của Ngài một vương quốc boa la vĩnh cửu, vương quốc sự thật và sự sống vương quốc thánh thiện và ân sủng, vương quốc đầy công chính và đầy yêu thương và đầy bình an.
Quả thực vương quốc Chúa Kitô phải là vương quốc đầy công chính, và đầy yêu thương. Nói kiều khác thần dân trong nước Chúa Kitô phải luôn luôn nghĩ tới cuộc sống công chính và yêu thương. Chỉ mên Chúa mà không có TN h thần yêu thương, công bình và bác ái thì không phải mến Chúa, và chưa phải là con dân của nước Chúa. Cũng vì thế bài Tin Mừng ta vừa nghe, trong ngày phán xét, Chúa đặc biệt lưu ý cuộc sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta được công hay mắc tội là do ta có thi hành bác ái hay không.
Thánh Anrê Dũng Lạc (tử đạo ngày 21-12-1839, 44tuổi) chẳng những đã nêu gương cho chúng ta về chí khí anh hùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức Tin, mà suốt cuộc đời ngài, ngài còn là tấm gương sáng về cuộc sống khắc khổ, cuộc sống đầy bác ái, lo lắng giúp đỡ những người cơ cực, nghèo túng. Như người ta thuật lại: thì khi được ai cho của gì, ngài đưa chia sẻ cho hết những người nghèo khó.
Khi Cha Dũng Lạc bị bắt lần thứ ba, giáo hữu cùng Đức Cha Retord Liêu tìm cch chuộc Cha về, nhưng lần này Cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình. Người nhắn về với Đức Cha câu truyện Thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã dậy ở lại Rôma và Cha xin các tín hữu đừng lo tiền bạc làm chi nữa.
Trần An Dũng lạc sinh năm 1795 trong một gia đình ngoại giáo tại thị trấn Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay). Dưới triều Gia Long, Dũng theo cha mẹ đi lập nghiệp ở Bắc Thành (Hà Nội). Vì nhà nghèo, Dũng được ủy thac cho một thầy giảng nuôi cho ăn học và Rửa tội, mang tên Thánh Anrê. Ít lâu sau cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh TRị, nhận Cha Chính Langlois Lan làm nghĩa phụ. Ngay từ đó chủng sinh Dũng đã tỏ ra tư chất thông minh vớit trí hớ đặc biệt, lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và lịch thiệp hòa nhã với mọi người. Người ta kể rằng: Thầy chỉ đóc một đoạn sách hai lần đã thuộc lòng đoạn đó.
Sau 10 năm làm thầy giảng và ba năm học thần học, ngày 15-3-1823, thầy Dũng thụ phong Linh mục, được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối (Hà Nam) giúp Cha Khiết. Sau đó về giúp Cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp Cha Thuyết ở Sơn Nguyên (Hà Đông). Cuối cùng khi Cha làm chánh xứ Kẻ Đầm (Hà Nam) thì bị bắt. Suốt cua Linh mục, Cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày chay tịnh theo luật Giáo Hội, Cha còn giữ chay suốt mùa Chay, và nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thứ bảy quanh năm, bữa ăn của Cha như một dân quê nghèo. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ mục tử, không khi nào thấy Cha nề hà việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Được của cải gì, Cha chia sẽ cho họ hết. Khi lệnh bắt hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt, Cha phải ẩn náu trong nhà bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi (Hà Nam) lập Giáo xứ ở đó.
Một hôm Cha dâng Thánh lễ vừa xong, thì quân lính ập tới, Cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn giữa các tín hữu. Lính bắt 30 giáo hữu hôm đó và cũng bắt Cha, coi Cha như một giáo hữu, vì quan quân không biết Cha là Linh mục. Ông tổng Thìn bỏ ra 6 nèn bạc, nhận Cha là thân nhân đi dự lễ, để chuộc về. Sau vụ đó Cha đổi tên Lạc.
Lần thứ hai Cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với Cha Thi theo thói quen hàng tháng, Lý trưởng bắt được hai Linh mục nhưng vì giáo dân chỉ góp tiền đủ để tha cho một, viên Lý trưởng thả Cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền Cha phải ghé vào bờ. Canh nhà Cha định vào trú gặp ngay lúc một toán lính đến kiểm tra. Thế là Cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với Cha Thi.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra rất vị nể hai Linh mục và đối xử tử tế. Riêng với Cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên ông cư xử nhẹ nhàng hơn. Ông nói: “Tôi làm quan phần đời, còn các ụ làm quan bên đạo. Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chớ không phải t. Tôi không có lỗi gì trong việc này.”
Ba ngày sau, quan huyện đưa hai Cha xuống thuyền chuyển lên Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, người bằng thuyền, kẻ đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?” Một phụ nữ đứng gần đó đáp: “Bẩm quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận hòa với chồng theo như Giáo lý trong đạo.” Hai vị Linh mục khi thấy nhiều người khóc loác tiễn đưa mình, đã đứng lại an ủi và khuyên họ sống sao cho tốt đạo đẹo đời.
Ngày 16 tháng 10, thuyền áp giải hai Cha cập bến. Hôm sau quan án cho điễu hai Cha ra công đường và bảo đạp lên Thánh giá. Cha thi quỳ xuống nghiêm trang hôn kính. Sau nhiều lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào thuyềt phục được hai vị Linh mục, liền làm án tâu lên vua xin trảm quyết.
Thời gian chờ đợi ở trong nhà tù, hai Cha đã chiếm được tình cảm của lính gác, họ trọnh kính hai Cha và đối xử tử tế, hai Cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những món tối cần. Sáng tối hai Cha quỳ bên nhau, cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai Cha vẫn tìm cách hãm mình, bảo họ đừng mang thịt hay cá. Các ngài vẫn giữ chay các ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ bảy, thừa sai Jeantet Khiêm ciết thư vào đề nghị Cha già Thi giảm bớt hãm mình đi, nhưng Cha vẫn không thay đổi.
Lễ các Thánh năm 1839, Linh mục Trân đưa Mình Thánh Chúa vào ngục. Vừa thấy người, Cha Dũng Lạc ra chào đón: “Kính chào bác, tôi đợc bác đã lâu vì hết lương htực rồi.” Sau đó, Cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh Chúa cho Cha già Thi. Ngày 21 tháng 12, lần thứ hai Cha Trân đem Mình Thánh Chúa đến, lần này Cha Thi đã nằm liệt. Chính hôm đó là ngày cuối cùng cuộc đời dương thê của hai Cha, bản án vua châu phê đã về rồi.
Quan quân dẫn hai Cha ra pháp trường Ô Cầu Giấy. Trên đường hai Cha trầm tĩnh cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, Cha lại chấp tay lại, hát lớn tiếng câu Thánh Vịnh: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa- Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng người…” (Tv 116). Cha Thi không còn sức được được nữa, một người lính phải cõng Cha. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với hai Cha: “Chúng cháu không biết các cụ có tội gì, chúng cháu chỉ làm theo lệnh trên, xin các cụ miễn chấp”. Cha Dũng lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền, anh cứ thi hành.” Sau đó hai Cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém. Giáo hữu thấm máu tử đạo, thâu lượm các di vật, rồi đưa thi hài hai đấng tử đạo về Kẻ Sở, dâng Thánh lễ an táng rất trọng thể.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả Chúa Giêsu là một vị vua đang xét xử toàn thể loài người vào ngày: TN 34-ABC48
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả Chúa Giêsu là một vị vua đang xét xử toàn thể loài người vào ngày cánh chung : Ngài phân chia loài người thành hai hạng tốt và xấu ; và tiêu chuẩn để biết tốt xấu là có thực thi bác ái cách cụ thể đối với những người anh em bé mọn của mình hay không. Vua Giêsu tự đồng hóa Ngài với những người bé mọn đang đói khát, trần truồng, tù đày, bệnh tật, đau khổ.
B.... nẩy mầm.
1. Có người nói chơi rằng thế giới này là thế “gian” chứ đâu phải thế “ngay” cho nên đầy dẫy sự gian dối, lọc lừa. Ai gian dối thì thuộc về nước thế gian, kẻ yêu chuộng chân lý mới thuộc về Nước của Chúa. Yêu chuộng chân lý là sống thật với Chúa, với lương tâm mình và với mọi người.
2. “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về Chân lý” : noi gương Chúa Giêsu, tôi cũng phải cố gắng làm chứng cho chân lý giữa thế giới đầy gian trá này.
3. Một giáo viên tâm lý trắc nghiệm về sự thông minh của nhóm học sinh 8 tuổi. Thầy lấy ra một bản đồ về địa lý thế giới, cắt làm nhiều mảnh nhỏ và đưa cho một cậu bé.
Cậu bé xem xét những mảnh giấy cách kỹ lưỡng, rồi nhanh chóng ráp lại bản đồ mà không một chút sai sót.
- Tuyệt vời ! Làm thế nào em ráp nhanh và chính xác như vậy ?
- Ồ, có một hình người rất lớn ở mặt sau. Chỉ cần ráp các mảnh lại theo đúng hình người đó thì thế giới sẽ xuất hiện.
Đức Kitô chính là khuôn mẫu mà cả thế giới phải theo. (Góp nhặt)
4. Hai người trẻ đang dùng ca nô đi du lịch ở một miền hoang vắng. Họ bỗng khám phá một túp lều nhỏ. Bước vào trong họ thấy một quyển Thánh Kinh đang mở và một tờ giấy ghi những dòng chữ như sau :
“Chủ lều thân mến. Túp lều của bạn đã cứu mạng tôi. Tôi đang bị bệnh rất nặng và cần chỗ trú ẩn thì may mắn gặp được túp lều này. Ơn này rất trọng, tôi không thể trả bằng tiền được mà chỉ xin Chúa chúc lành cho bạn. Xin bạn hãy đọc Mt 25,31tt.” (Mt 25,31tt chính là bài dụ ngôn của Lễ hôm nay).
Một trong hai người trẻ ấy nói : “Trước đây tôi cũng thường đọc đoạn Tin Mừng này. Nhưng hôm nay tôi thấy nó có một ý nghĩa hết sức đặc biệt” (Mark Link, Vision 2000).
Trong bài giải thích về những bài đọc Lễ Chúa Kitô Vua, Cha Dòng Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo Hoàng, suy tư về ngày phán xét.
* * *
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, trong chúa nhật này chúng ta cử hành lễ TN 34-ABC49
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, trong chúa nhật này chúng ta cử hành lễ Chúa Kitô Vua. Tin Mừng trình bày chúng ta hành vi sau cùng của lịch sử: sự phán xét chung.
Có một sự khác biệt là dường nào giữa phong cảnh này và phong cảnh của Chúa Kitô truớc các quan xét Người trong cuộc thương khó của Người! Lúc đó, tất cả mọi người đều ngồi và Người thì đứng mang xiềng. Bây giờ tất cả đều đứng, và Người ngồi trên ngai. Những con người và lịch sử xét xử Chúa Kitô trong ngày này, Chúa Giêsu sẽ xét xử những con người và lịch sử. Trước mặt Người đã quyết định ai còn đứng và ai ngã. Đó là đức tin không hề thay đổi của Giáo Hội công bố trong kinh tin kinh của mình: " Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết," và "nước Người sẽ không bao giờ cùng."
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói cho chúng ta biết sự phán xét sẽ xảy ra ra sao: "Ta đói và các ngươi cho ta ăn, ta khát và các ngươi cho ta uống." Do đó, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm họ nên khách lạ.
Điều này không hẵn ảnh hưởng một số người phạm tội ác. Có thể đã đặt ra một bầu khí chung ô tội vạ, trong đó người ta thi nhau lỗi phạm lề luật, làm thối nát hay là để cho mình bị thối nát, lấy lẽ rằng mọi người đều làm vậy. Tuy nhiên, luật không bao giờ bị bãi bỏ. Thình lình tới ngày khi một cuộc điều tra tiến hành và một tai họa xảy ra, như một tai họa đã xảy ra tại Italy với "Những Bàn tay Sạch" [chiến dịch chống Tham nhũng]
Nhưng có thể nói đó không phải là tình huống chúng ta đang sống, những kẻ bị kiểm tra và những người kiểm tra, trước luật của Thiên Chúa, hay sao? Cái này sau cái khác, những giới răn âm thầm bị bẻ gãy, kể cả gới răn khẳng định "Người chớ giết người" ( không nói gì về giới răn dạy "Người chớ phạm tội ngoại tình") với lý do là mọi người đều làm sự đó, là văn hóa, sự phát triển và cả luật nhân bản bây giờ cho phép làm điều đó. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ nghĩ tới việc bãi bỏ những giới răn, hay là Tin Mừng, và cảm giác an ninh chung nay không hơn là một ảo tưởng chí tử.
Cách đây vài năm, bức tranh của Michelangelo về sự phán xét chung đã được sửa lại. Nhưng có một sư phán xét chung khác cần phải sửa chữa. Bức tranh đó không vẽ trên những bức tường gạch, nhưng trong những con tim người Kitô hữu. Bức tranh đó đã hoàn toàn phai màu và đang xuống cấp.
Soren Kierkegaard nói "Thế giới bên kia và sự phán xét đã trở nên một trò đùa, một cái gì không còn chắc chắn đến nỗi người ta muốn nghĩ rằng đã có một thời gian ý nghĩ này đã biến đổi toàn diện sự sống nhân bản". Có những người có thể muốn an ủi mình, nói rằng cuối cùng ngày phán xét còn rất xa, có lẽ tới hàng triệu năm. Nhưng, từ Tin Mừng, Chúa Giêsu trả lời: "Đồ ngốc! Đêm nay người ta đòi linh hồn ngươi" (Lc 12:20).
Chủ đề sự phán xét được đan chéo trong phụng vụ hôm nay với chủ đề Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Thánh vịnh đáp ca nói: "Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ." (Tv.22:1-2). Ý nghĩa đã rõ: Bây giờ Chúa Kitô tự mạc khải mình cho chúng ta như là mục tử tốt lành; một ngày kia Người bị bắt buộc làm quan xét chúng ta. Bây giờ là thời gian thương xót, lúc đó sẽ là thời gian xét xử công minh. Chúng ta phải chọn, đang khi chúng ta còn thời gian.
Hội Thánh kết thúc năm Phụng Vụ bằng việc suy tôn Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của muôn: TN 34-ABC50
Hội Thánh kết thúc năm Phụng Vụ bằng việc suy tôn Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của muôn loài muôn vật, là Chúa Tể của toàn thể vũ trụ, vì Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời và là Đấng đã cứu chuộc con người và vũ trụ.
Nhìn vào gia đình nhân loại, số người nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ còn là thiểu số. Hơn nữa, trong số những người đã nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ thì cũng còn rất nhiều người chưa thật sự “đầu phục” Người, chưa sống đúng tư cách là “con dân”, là “kẻ được cứu” của Chúa. Vì thế mà việc mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa vũ trụ bao giờ cũng mang chiều kích Phúc Âm hóa và Truyền Giáo.
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1: Trích Sách Ê-dê-ki-en (34,11-12.15-17): Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên.
11 Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. 12 Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.
15 Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. 16 Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.
17 Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.”
2.2 Bài đọc 2: Trích Thư 1 Cô-rin-tô (15,20-26.28): Đức Ki-tô trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. 21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. 26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 28 Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
2.3 Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (25,31-46): Con Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau.
31 "Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34 Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." 37 Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?" 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." 41 Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" 45 Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời."
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Mục Tử nhân lành, hết mực chăm lo cho con cái Người như người chăn chiên tốt lành chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình (bài đọc 1).
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho sứ mạng tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần và đưa toàn thể đưa nhân loại về với Cha. Người nắm mọi vương quyền trên trời dưới đất …. cho đến ngày Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (bài đọc 2). Trong ngày ấy Chúa Giê-su Ki-tô tức Con Người sẽ đứng phán xét người lành kẻ dữ để ban thưởng và luận phạt. Tiêu chuẩn cuộc phán xét cuối cùng là lối sống vị tha: "Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế (cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp rước, thăm viếng, hỏi han…) cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy" (bài Phúc âm).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Con để giúp con người nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua vũ trụ vạn vật.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
Mỗi lần chúng ta cho/không cho kẻ đói ăn, cho/không cho kẻ khát uống, cho/không cho kẻ rách rước quần áo, tiếp rước/không tiếp trước khách trọ, thăm viếng/không thăm viếng người đau bệnh, hỏi han/không hỏi han người bị giam cầm là chúng ta đã làm/không làm những việc ấy cho chính Chúa Giê-su Ki-tô vậy.
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, mỗi người hãy làm 2 việc này:
Việc thứ nhất là khám phá và cảm nghiệm sự chăm sóc mà Thiên Chúa dành cho mình trong đời sống cá nhân và gia đình, trong lãnh vực vật chất, tinh thần và tâm linh.
Việc thứ hai là kiểm điểm xem mình đã cư xử như thế nào với những người xung quanh, nhất là với những người cần đến sự giúp đỡ (về vật chất, tinh thần, thời gian) của mình.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ:
5.1.1 «Thiên Chúa là Mục Tử Nhân Lành vì Người chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình.» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Giám mục, các linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, là những người được giao phó sứ mạng chăm lo cho những người khác trong cộng đoàn Dân Chúa, để các ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề và cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.1.2 «Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian này để sớm hay muộn họ được ơn nhận ra và đầu phục vương quyền của Chúa Giê-su Ki-tô!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.1.3 «Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu nhất là cho những người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để họ nhận ra Chúa trong tha nhân, nhất là trong những người cần giúp đỡ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.1.4 "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta và cho những người chỉ biết sống đóng kín, tham lam và ích kỷ, để chúng ta và những người ấy nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của lối sống của mình mà sám hối và hoán cải trong thời gian Thiên Chúa còn nhẫn nại đợi chờ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 Có thể dùng Bài Hát này để Câu Nguyện:
LẠY ĐẤNG TÌNH QUÂN (x. GIỜ BÊN CHÚA, trang 95).
ĐK. Lạy Đấng Tình Quân, con tôn thờ. Con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con, mũi tên nào say đắm, bắn trúng con tim hồng, để từ nay con sống là sống cho, cho tình yêu, và dầu cho con chết, là chết cho, cho tình yêu.
Con xin làm nô lệ của tình yêu. Con xin làm khí cụ của tình yêu. Cho mọi người nhận biết Chúa yêu thương, cho mọi người thức giấc sau đêm trường.
Chúa muốn gì trên bản thể đời con. Chúa muốn gì trên cuộc sống của con. Con chỉ là tay trắng với hư không. Con chỉ là tỳ nữ bao khốn cùng.
Con ước vọng theo Ngài suốt đời con. Xin dâng làm lễ vật cuộc đời con. Trong nguyện cầu thanh vắng với hy sinh, để nên lời ca hát khúc ân tình.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
---------------------------
[1] Thánh Phaolô lập lại hình ảnh này “Đức Giêsu sẽ tiêu hủy hắn tan ra hư không bằng một làn khí từ miệng Ngài (IIThes 2:8). Thánh Gioan cũng lập lại, “Cả mãnh thú lẫn tiên tri giả bị ném vào hồ lửa lưu huỳnh. Toàn thể đạo binh của chúng bị tiêu diệt bởi lưỡi gươm sắc vọt ra từ miệng của Người cưỡi ngựa trắng (KH 19:21).
[2] Joseph Ratzinger, “God Is Near Us”. Ignatius Press, San Francisco. 2003. p.16.