Điều Tin Mừng làm chúng ta bất ngờ hôm nay chính là Đức Giêsu đã công bố sứ mạng cứu thế TN3-C151
Điều Tin Mừng làm chúng ta bất ngờ hôm nay chính là Đức Giêsu đã công bố sứ mạng cứu thế của Ngài trong hội đường ở Nadaret, quê hương Ngài, để cũng từ quê hương không “là chùm khế ngọt” này, Ngài bị đồng hương “lôi ra khỏi thành...kéo lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực thẳm” (Lc 4, 29).
Tin Mừng làm nổi bật ba điểm trong sứ mạng của Đức Giêsu:
1/ Ngài được quyền năng Thần Khí thúc đẩy (Lc 4, 14):
Đức Giêsu đã đến trong thế gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha. Ngài không tự mình mà đến, nhưng được sai đến bởi Thiên Chúa là Tình Yêu để yêu thương nhân loại đến cùng. Vì thế, sứ mạng cứu thế của Ngài cũng đã được hướng dẫn, thúc đẩy bởi Thánh Thần Là Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là công trình chung của cả Ba Ngôi Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
2/ Đối tượng của sứ mạng là con người toàn diện:
Khi khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21), sau khi đã công bố lời ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19), Đức Giê su đã cho cử tọa thấy rõ sứ mạng của Ngài là con người toàn diện, nghĩa là không chỉ con người siêu nhiên, nhưng còn là con người tự nhiên; không chỉ phần hồn của con người, mà còn phần xác của con người nữa.
Ngài giải phóng những người nghèo thiếu ăn thiếu mặc, bị người đời khinh khi; giải phóng người mù loà vì đôi mắt thân xác không còn; giải phóng tù nhân mà xác thân bị tra tấn, hành hạ, gông cùm; và những ai bị áp bức mà dấu tủi nhục còn hằn sâu trên thân thể được Ngài trả lại tự do.
Sứ mạng ấy nhắm con người toàn diện, vì con người gồm xác và hồn, nên không thể tách hồn khỏi xác. Thánh Giacôbê đã quảng diễn: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có Đức Tin mà không hành động theo Đức Tin, thì có ích lợi gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ : Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?” (Gc 2, 14-16). Sứ mạng loan báo Tin Mừng vì thế cũng không thể bỏ quên nhu cầu của thân xác con người.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã nói về thân xác. Thánh nhân là người nói về thân xác nhiều nhất, 91 lần. Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, ngài nhấn mạnh phẩm giá của thân xác con người, vì “thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6, 14), và “thân xác chúng ta chính là phần thân thể của Đức Kitô” (1 Cr 6, 15). Ngài còn quả quyết : “ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy ... và chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1Cr 12, 12-13).
3/ Sứ mạng của Đức Giêsu đã được các ngôn sứ loan báo:
Khi trích lời ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu đã nói lên vai trò của Cựu ước và sự gắn bó với truyền thống Itraen của Ngài, đồng thời cũng cho những người đang nghe Ngài biết : Chính Ngài là Đấng được xức dầu tấn phong và được Thiên Chúa sai đến để giải phóng nhân loại. Lời ngôn sứ lúc này là bảo chứng đáng tin cậy đối với cộng đoàn đang lắng nghe Ngài về sứ mạng cứu thế của Ngài.
Công bố sứ mạng cứu thế, Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi theo Ngài và cùng Ngài thực hiện sứ vụ yêu thương, phục vụ anh em mình.
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Suy niệm:
Chúng ta biết Thánh lễ gồm hai phần chính liên kết với nhau là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ TN3-C152
Chúng ta biết Thánh lễ gồm hai phần chính liên kết với nhau là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Với Phụng vụ Lời Chúa, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa hằng sống, tiếp nối là Phụng vụ Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Thánh của Người.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa, được biết đến với thầy tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nơkhemia kể lại việc Esdras tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích từ sang tới trưa mà dân chúng vẫn lắng nghe, tung hô, và phủ phục cầu nguyện.
Và đoạn Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, Người trở về Galilê, và tiếng tăm Người được đồn ra khắp vùng. Người bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái. Ở hội đường làng Nadaréth, Chúa mượn lời ngôn sứ Isaia tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Như vậy Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để “đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe. Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giêsu thế nào thì Ngài cũng hoạt động nơi mỗi chúng ta là thành phần trong Giáo hội để chúng ta hợp nhất với nhau nhờ một Thánh Thần. Thánh Phaolô ví Giáo hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể đóng một vai trò nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung. Chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau. Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác… Trong một giáo xứ các thành phần dân Chúa khác nhau với những đặc sủng khác nhau nhưng đều đến từ một Chúa Thánh Thần, có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo hội. Đây là những chi thể làm nên thân thể Giáo hội của Chúa Kitô. Như một vườn hoa với đủ loại hoa, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa Giáo Hội muôn sắc.
Năm nay, Giáo phận chúng ta sống chủ đề: “Hiệp thông trong đức ái” là dịp để chúng ta chú tâm hơn trong cung cách phục vụ. Chính việc hiệp thông trong đức ái, yêu thương phục vụ quên mình là chúng ta đang thực thi tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô. Như Đức Thánh cha Phanxicô khi được bầu làm Giáo hoàng, người bạn ngồi bên cạnh là Đức Hồng y Hummes đã nói với ngài một câu “Đừng quên người nghèo” khiến ngài lấy khẩu hiệu Phanxicô Assisi cho đời Giáo hoàng của mình.
Trong xã hội hôm nay còn đó những người nghèo, nghèo về vật chất đã đành, lại có người nghèo về tinh thần là những tâm hồn đau thương, kẻ bị giam cầm, người mù lòa về thể lý hay đức tin, kẻ bị áp bức... Chính Chúa Giêsu đã đồng hóa kiếp nghèo hèn, mỏng giòn của con người để cứu chuộc con người như lời một bài hát: “Chúa Giêsu là người là một người rất nghèo, sinh thì nghèo, sống cũng nghèo, chết cũng nghèo. Chúa Giêsu yêu thương người nghèo muốn cho họ được sống, được kính trọng, được quan tâm, được yêu thương”, chúng ta cũng được mời gọi học nơi Người như vậy.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con cam đảm dấn thân loan báo Tin mừng Chúa cho những người đang cần đến tình thương của Chúa. Amen.
Thánh Luca đã đề tặng sách Tin Mừng của ngài cho một người tên Thêôphilê. Ông này là ai TN3-C153
Thánh Luca đã đề tặng sách Tin Mừng của ngài cho một người tên Thêôphilê. Ông này là ai?
Không ai biết. Thánh Luca viết bằng tiếng Hy Lạp và độc giả của ông là một người mang tên Hy Lạp có nghĩa là “người yêu mến Thiên Chúa”. Theo những nhà chuyên môn về Kinh Thánh, thì có lẽ có một người nào đó thân với thánh sử và ngài đã đề tặng sách Tin Mừng này cho ông, nhưng cũng có thể là một tên tượng trưng mà thôi chỉ những người “yêu mến Thiên Chúa” tức là những tín hữu.
Thánh Luca công nhận rằng, “đã có nhiều người ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã xảy ra giữa chúng ta…” và họ đã viết theo những chứng nhân trực tiếp của những biến cố này, đó là các Tông đồ.
Thánh Luca là đồ đệ của thánh Phaolô, ngài không trực tiếp gặp các Tông đồ, nhưng đã “cẩn thận điều tra”, vì thế sách Tin Mừng của Ngài có thể được xem là đáng tin và vững chắc.
Mặc cho những nhà chú giải (thường là Tin Lành) nghi ngờ sự xác thực của các sách Tin Mừng, chúng ta vẫn tin theo sự hướng dẫn của Giáo hội, và chúng ta được bảo đảm khỏi những nghi ngờ lầm lạc.
Đạo Công giáo không phải là một lý thuyết như bao nhiêu lý thuyết khác, luôn thay đổi và sai lầm. Đạo Công giáo là đón nhận Thiên Chúa, được mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha hằng hữu,
- đón nhận trong sự vâng phục theo ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta không phải là những nhà chuyên môn, họ đã tìm kiếm suy nghĩ thay chúng ta và nhờ đó đức tin của chúng ta không bị sai lệch, không tròng trành theo chiều gió của những lý thuyết linh tinh”.
Sau khi đã xác định ý hướng của ngài khi viết sách Tin Mừng (mà chúng ta gọi là Tin Mừng thứ ba), ngài đưa chúng ta đối diện với chính Chúa Kitô nhập thể.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngắm nhìn Chúa Giêsu khi Ngài giảng ở Hội đường Nadaret, nơi chôn nhao cắt rốn của Ngài. Ngài vào hội đường ngày sabat. Ngài giữ Luật như mọi người Do Thái.
Theo tập tục của người Do Thái, trong phụng vụ của Hội đường thì có hai phần trong việc đọc Kinh Thánh ngày sabat: một bài đọc về Luật thì do một vị trong Hội đường đọc và giải thích, bài đọc thứ hai là bài đọc các tiên tri, thì do một người nào đó “có máu mặt” trong dân được mời đọc, miễn là trên ba mươi tuổi.
Chúa Giêsu đã từng rao giảng nhiều nơi và thánh Luca ghi rõ: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê và tiếng tăm Người đồn ra khắp miền lân cận” (Lc 4,14). Ngài đã nổi tiếng, vì thế khi về Nadaret, người ta mời Ngài đọc Sách Thánh và giảng dạy.
Ngài đọc đoạn tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. “Gấp sách lại đưa cho ngườigiúp và công bố: “Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. (Lc 4,18-21)
Một lời tuyên bố thật lạ lùng!
Lời tiên tri được viết cách đó hơn năm trăm năm, hôm nay được ứng nghiệm. Được ứng nghiệm như thế nào? Nơi tôi. Chính tôi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh đó. Rất tiếc rằng thánh Luca không ghi lại nội dung bài giảng hôm đó. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng Chúa Giêsu đã cho mọi người hiểu rằng hồng ân Chúa đã đến, không còn trì hoãn nữa. Những lời tiên tri đó báo trước những hồng ân của Thiên Chúa ban cho dân Người là hôm nay, trong lúc hiện tại này. Ơn tha thứ đã đến.
Từ hôm nay của Chúa Giêsu là thời gian của lòng thương xót, của ánh sáng. Dân không còn đi trong tăm tối nữa. Đó là Tin Mừng cho mọi người. Tin Mừng đó chính là Ngài.
Thiên Chúa không lệ thuộc vào thời gian. Ngài không lệ thuộc vào lịch sử, Ngài siêu vượt thời gian. Ngài vẫn luôn là hiện tại, là hôm nay. Tình thương của Ngài không bị hạn chế trong thời gian. Muôn đời đối với Ngài vẫn là hôm nay. Hôm nay, tiếng gọi của Ngài luôn thối thúc con người đứng dậy, không ngủ mê trong những giấc mơ trần thế nữa mà phải nhìn về tương lai đang đợi chờ, tương lai đó chính là chấp nhận Thiên Chúa trong cuộc sống, trong cái hôm nay của mình. Thiên Chúa đã đến trong trần gian, không phải để rong chơi mà biến đổi trần gian thành vương quốc của tình yêu, của ơn tha thứ. Ơn cứu độ là như thế.
Đó là những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta qua người Con Một của Người.
Muốn thế, phải theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thánh Thần đó đã đến trên Chúa Giêsu thì cũng được Ngài ban cho những ai tin vào Ngài.
Thánh Luca luôn nhấn mạnh đến hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu và trong suốt sách Tin Mừng của thánh sử, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hoạt động. Tin Mừng của thánh Luca và cả sách Tông đồ Công vụ, cũng do thánh nhân viết, Thánh Thần luôn hoạt động mãnh liệt nơi các Tông Đồ. Có thể nói, sách Tin Mừng thứ ba là sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thần Chúa đã đến trên Đức Maria và đem Chúa Giêsu đến trong trần gian. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta đang đọc, thánh sử đã nói rõ ràng: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu đến miền Galilê…” Và khi đọc sách tiên tri Isaia, Ngài đọc đoạn nói về Chúa Thánh Thần, chứng tỏ Ngài luôn hoạt động trong Thánh Thần, nhất là khi Ngài tuyên bố: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”
Chúng ta chỉ có thể bước vào con đường cứu độ khi chúng ta đón nhận Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Không thể có con đường nào khác. Muốn thế, chỉ cần tin vào Chúa Giêsu. Ngài cũng là con đường duy nhất dẫn đến sự sống vì Ngài cũng chính là sự sống. Trong suốt lịch sử của Giáo hội, Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh cần thiết giúp Giáo hội vượt qua tất cả mọi trở lực để mang Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Tin Mừng Cứu Độ đó đã khởi đầu nơi Chúa Giêsu Nadaret và sẽ hoàn tất trong Ngài mà thôi. Công Đồng Vatican II luôn nhắc đến hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội, trong mọi tầng lớp tín hữu từ giám mục đến người giáo dân.
Sức sống mãnh liệt của Giáo hội nằm trong sự trung thành lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Trong đời sống tín hữu cũng vậy, không thể quên Chúa Thánh Thần vì chính Người đang hoạt động và giúp chúng ta nhận ra cái HÔM NAY của Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Hôm nay, trong hiến tế này, Chúa Giêsu đến với chúng ta qua Thánh Thần. Linh mục, trước khi truyền phép, đã đặt tay lên của lễ và cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa bánh rượu để biến thành Mình và Máu Chúa Kitô, cho chúng ta luôn được đầy no của ăn trên trời và giúp chúng ta luôn sống trong cái HÔM NAY của Chúa, là sống trong tình yêu. Hãy ăn lấy tấm bánh Tình Yêu để luôn là tình yêu giữa cuộc sống đầy gian lao của chúng ta.
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 "Ngày hôm nay…" Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa:
Bản văn này thâu tập hai đoạn trích Tin mừng theo Thánh Luca, không có sự nối kết rõ ràng TN3-C154
Bản văn này thâu tập hai đoạn trích Tin mừng theo Thánh Luca, không có sự nối kết rõ ràng giữa chúng. Đoạn trước là Lời tựa, phần khởi đầu của Tin mừng; đoạn sau trình thuật về vai trò của Đức Giêsu trong Hội đường vào một ngày Sabbat. Ngay từ đầu, để gây lòng tin ở độc giả của mình, Thánh Luca đã xác định nghiêm túc về tác phẩm của mình: Trước khi viết, Ngài đã tự mình tiến hành tìm hiểu tỉ mỉ, cẩn thận mọi sự.
Sau đó, trình thuật câu chuyện sảy ra tại Hội đường ở Nagiarét. Đức Giêsu khéo léo dùng lời Kinh Thánh để mạc khải về Thiên tính của mình: Ngài là Đấng Messia mà các Tiên Tri loan báo.
"Ngày hôm nay…" Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa: Tin mừng hôm nay trình thuật việc Chúa Giêsu vào hội đường Nagiarét để đọc và giải thích Kinh Thánh cho dân chúng. Sự kiện này diễn ra khi Người danh tiếng của Người đã vang xa. Người nổi danh về các phép lạ và đặc biệt là về các lời giảng dạy, về giáo huấn của Người. Kinh Thánh là những văn tự nằm chết trong sách nhưng một khi được công bố từ môi miệng của Đức Giêsu lại có được sức sống, trở thành lời mang ân sủng cho những người nghe. Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu tất cả những lời Kinh Thánh loan báo đều ứng nghiệm. Thánh Gioan Tông đồ xác tín Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngày nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện nơi lời Tin mừng được công bố trong Hội Thánh, trong phụng vụ của Hội Thánh, nghe lời Tin mừng là nghe chính Đức Giêsu. Sống Tin mừng là sống với và sống trong chính Đức Giêsu. Nghe Đức Giêsu là nghe chính Thiên Chúa Cha. Mỗi người Kitô hữu chúng ta qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta có xác tín niềm tin của mình vào Lời Chúa; có chân nhận Lời Chúa là sức mạnh là hồng ân cho cuộc đời?
2. Đức Giêsu Kitô, Lời Giải Phóng _ Lời Cứu Độ: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Chắc chắn không phải ngẫu nhiên tình cờ mà Đức Giêsu mở ra đúng ngay đoạn sách Isaia 61 này, nhưng điều quan trọng ở đây khi Người khẳng định sự ứng nghiệm của đoạn Kinh Thánh này, Người muốn áp dụng cho mình những gì Tiên Tri Isaia đã loan báo. Khi chiu phép rửa tại sông Gioađan Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một sự xức dầu trở nên Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Tất cả những gì Người đã nói và làm trong suốt cuộc đời dương thế chứng tỏ rằng lời Kinh Thánh đã ưng nghiệm: Người đến để giải phóng kẻ tù đầy khỏi sự giam hãm của tội lỗi, ma quỉ và sự chết; cứu chữa bệnh nhân làm cho người mù được sáng, người què được đi và người câm được nói … Tắt một lời, Người đã đến để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với con người và thế giới hôm nay, sứ điệp Tin mừng của Đức Giêsu vẫn còn nguyên gía trị, Người vẫn cần thiết đối với tất cả qua mọi thời đại. Kitô hữu là Người thuộc về Đức Giêsu, mang sứ điệp Tin mừng của Người phải có trách nhiệm làm cho ơn Cứu độ của Người thực sự được trao ban cho thế giới mình. Nhưng trước hết làm sao phải nhận được Đức Giêsu là Đấng giải phóng mình, cứu độ mình trước đã.
3. Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa cho con người hôm nay: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe. Từ ngữ 'hôm nay' theo ý nghĩa Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng đây không phải là sứ điệp của hôm qua mà là của hôm nay. Mãi mãi Tin mừng luôn mang tính hiện tại, 'Trời đất có qua đi, nhưng lời Ta không bao giờ qua đi.'Vì thế, sứ điệp Tin mừng vẫn là Lời Chúa nói, vẫn là sự hiện diện sống động của Đức Giêsu Kitô giữa lòng trần thế hôm nay. Cho dù cách thế hiện diện của Đức Giêsu có khác nhưng tình yêu, sức sống, ơn cứu độ của Người vẫn là thế, bất biến không thay đổi. Do đó, nghe Lời Chúa, gặp gỡ với Đức Giêsu không phải là lật lại tìm kiếm một nhân vật lịch sử đã qua, hay tìm đọc một huyền thoại và càng không thể là môt chuyện mê tín dị đoan, nhưng là gặp gỡ và tiếp xúc với một con người, một Ngôi Vị Thiên Chúa sống động. Ngày nay, xem ra người ta thích đi tìm kiếm những kiến thức về Đức Giêsu, về Hội Thánh của Người, về Thiên Chúa mà Người mạc khải để thoả mãn trí tò mò tri thức hơn là muốn gắn bó cuộc đời với Người. Cũng có người chỉ muốn phá đổ công trình của Người, lên án và tiêu diệt Người hơn là đón nhận người. Thái độ của Kitô hữu ngày nay sẽ như thế nào khi đón nhận Lời Chúa, sống với Đức Giêsu Kitô?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô là Đấng Messia được Chúa Cha sai đến để cứu độ loài người chúng ta. Với tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện xin.
1. Chính Giáo Hội do Đức Giêsu thiết lập đã được Người uỷ thác sứ mạng cống bố sứ điệp Tin mừng cho con người và thế giới hôm nay. Chúng ta cùng cầu xin cho Giáo Hội chu toàn sứ mạng của mình với lòng tín trung, kiên nhẫn và sức mạnh của lòng mến.
2. Thế giới hôm nay đang chịu đựng biết bao thảm cảnh: đói nghèo, thiên tai, chiến tranh và nhiều sự suy đồi luân lý đạo đức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các Quốc gia, các dân tộc trên thế giới biết nỗ lực cộng tác với nhau xây dựng hòa bình; biết hợp nhất với nhau cùng phát triển.
3. Đức Giêsu đã đến để khơi lên niềm hy vọng, niềm vui sống và ban ơn cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có nơi con tim của mình tình yêu và sự công chính của Đức Giêsu. Xin cho tất cả mọi người Công Giáo Việt Nam trong năm thánh này trở nên chứng nhân của niềm tin yêu, hy vong và công bình bác ái cho mọi người trên quê hương đất Việt thân yêu này.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khẳng định: " Ngày hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh …" Ngày hôm nay chính là chúng con, là xã hội chúng con đây. Xin cho chúng con luôn ý thức sống những giá trị của Tin mừng trong cuộc sống hàng ngày, để qua đó, mọi người nhận ra được ơn cứu độ của Chúa. Chúa là Đấng hàng sống và hiển trị muôn đời.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật III, Thường Niên, Năm C
Để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu TN3-C155
Để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu đã dạt dào tình yêu Chúa Cha khi Ngài mở Sách Thánh trong hội đường và chú giải đọan nói về Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và được xức dầu tấn phong trong sách ngôn sứ Isaia
Chân lý nền tảng mà người Kitô hữu không thể không chú tâm, và ghi lòng tạc dạ, đó là Thiên Chúa của Đức Giêsu là “Thiên Chúa nói với con người”, chân lý mà thánh Phaolô đã quảng diễn trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,1-3).
Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói với con người qua công trình tạo dựng của Ngài như lời thánh vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2), mà còn nói với chúng ta bằng lời, bằng ngôn ngữ của loài người qua trung gian các ngôn sứ ở Cựu Ước, và qua chính Đức Giêsu, Ngôi Lời làm người ở giữa loài người để nói với chúng ta lời của Thiên Chúa Cha, như chính Ngài đã khẳng định với các môn đệ: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,24), “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở” (Ga 16,25), và đặc biệt trong lời cầu nguyện với Chúa Cha của Ngài cho những kẻ thuộc về Ngài trước giờ lên đường đi chịu chết: “Giờ đây họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đa tin là Cha đã sai con” (Ga 17, 7-8).
Như thế, Lời chúng ta nghe trong thánh lễ, Lời chúng ta đọc trong Kinh Thánh không là lời của phàm nhân, nhưng là Lời Thiên Chúa nói với con người, đúng hơn là chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Đó là lý do sau khi nghe công bố Lời Chúa trong thánh lễ, cộng đoàn phụng vụ cùng thưa “Tạ ơn Chúa”, hay “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”, vì chính Chúa nói với chúng ta, chứ không là sách nói, dù đó là sách thánh. Nói cách khác, khi đón nhận Lời Chúa, người Kitô hữu mở lòng đón rước Đức Giêsu, và ngợi khen Chúa Giêsu, vì chúng ta tin Lời Chúa là chính Chúa. Chính Lời Chúa duy trì sự tồn tại của vạn vật, ban ánh sáng hy vọng, ban sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đời đời, và cũng chính Lời Chúa tha tội, thanh tẩy, chữa lành, soi sáng, dẫn đưa nhân loại vì Lời Chúa là Lời cứu thế.
Tóm lại, để có thể cung kính Lời Chúa, như toàn thể cộng đoàn đã đứng lên, khi Sách Thánh được mở ra mà ngôn sứ Nơkhemia kể lại trong bài đọc 1, cũng như thái độ trịnh trọng, trang nghiêm của Đức Giêsu khi “Người vào hội đường … và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16), chúng ta cần xác tín Lời Chúa được công bố chính là Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Cũng thế, để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu đã dạt dào tình yêu Chúa Cha khi Ngài mở Sách Thánh trong hội đường và chú giải đọan nói về Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và được xức dầu tấn phong trong sách ngôn sứ Isaia (x. Lc 4,17-19), bởi có mở trí khôn khắc khoải đi tìm chân lý, có mở trái tim tín thác, hy vọng vào Chúa, như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta mới được như các ông thấy lòng mình rạo rực bùng cháy lên, khi nghe Đức Giêsu “nói chuyện và giải thích Kinh Thánh”, mới nhận ra Đức Giêsu phục sinh đồng hành trên hành trình Kitô hữu của chúng ta giữa một thế giới đầy những “lời có cánh” cám dỗ, dối trá, xu nịnh.
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa TN3-C156
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hômnay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được b iết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi…Ai đã khai hóa cho thế giới “Man di” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu trở thành chi thể của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô TN3-C157
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu trở thành chi thể của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô là Hội Thánh (mà Chúa Kitô là Đầu) nên tham dự vào 3 chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của chính Chúa Giêsu Kitô. Trong ba chức vụ cao trọng ấy thì chức vụ ngôn sứ là khó thực thi nhất. Vì làm ngôn sứ là nói Lời Thiên Chúa, nói thay Thiên Chúa, là phát ngôn viên của Thiên Chúa, là rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Tin Mừng Giải Phóng cho người nghèo đòi hỏi ở người Kitô hữu chẳng những một sự hiểu biết tương đối về Thiên Chúa và Hội Thánh, mà còn cần có một lòng dũng cảm, dám liều thân vì sứ mạng trong lúc thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi, cho những người muốn nghe cũng như cho những người không muốn nghe Lời Thiên Chúa.
Những sự việc xẩy ra trong những năm gần đây trong một số giáo phận ở Việt Nam càng chứng minh rằng: làm phát ngôn viên của Thiên Chúa là sứ mạng không dễ dàng chút nào, vì nhiều khi phát ngôn viên phải trả giá, đổ máu, tù tội, thậm chí bi giết hại.
Các Bài Thánh Kinh hôm nay mời gọi chúng ta hãy mở lòng, mở trí và mở tai mà lắng nghe Đức Giêsu Kitô là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa và xác tín hơn về sứ mạng ngôn sứ của mình là Kitô hữu.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10): "Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc" Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: "Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: "Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!"
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12, 12-30): “Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người” Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: "Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: "Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: "Ta không cần mi". Đầu cũng không thể nói với chân: "Ta không cần các ngươi". Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27: Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 1, 1-4; 4,14-21): “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này” Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". .
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Nkm 8, 2-4a) là một đoạn văn của Sách Nơkhêmia cho thấy vai trò quan trọng của việc giải thích Luật Chúa. Việc này được giao cho một số người được chọn lựa cách đặc biệt. Cụ thể là tổng đốc Nơkhêmia, tư tế kiêm kinh sư Étra và các thày Lêvi. Dĩ nhiên những người này phải nói lời Thiên Chúa chứ không được nói lời của riêng mình. Muốn nói lời của Thiên Chúa thì họ phải siêng năng học hỏi Luật Chúa và phải sống mật thiết với Thiên Chúa.
à Trong đoạn Nkm 8,2-4a trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất quan tâm đến dân riêng Israel nên đã giao cho một số người việc đọc và giải thích Luật Chúa cho dân hiểu và tuân giữ luật ấy. Những người này còn phải biết an ủi, vỗ về dân trong lúc dân buồn khổ, tuyệt vọng nữa.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 12-30) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phaolô Tông đồ, nói về mối hiệp thông cơ bản và sâu xa giữa mọi phần tử trong Hội Thánh Chúa Kitô. Thánh Phaolô dùng hình ảnh “Thân Thể con người và các chi thể của thân thể ấy” để trình bày mối liên kết chặt chẽ và bổ sung kỳ diệu của các chi thể khác nhau.
à Nhờ đoạn thư 1 Cr 12,12-30 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vừa sáng tạo vừa quan phòng cách tuyệt vời. Người muốn qui tụ nhân loại thành một gia đình mà Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa là Anh Cả và mọi người là anh em chị em của nhau. Người muốn mọi người liên hết với nhau thành một thân thể mà Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa là Đầu và mọi người là chi thể của nhau. Sự hiệp nhất thâm sâu, tình liên đới chặt chẽ và sự bổ sung hài hòa là ba nét phải được làm nổi bật trong đời sống mọi cộng đoàn Kitô hữu: gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận, dòng tu!
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 1, 1-4; 4,14-21) là hai đoạn của Phúc âm Luca được Phụng Vụ ghép chung lại với nhau. Phần sau quan trọng hơn phần trước vì phần này xác định rõ vai trò và sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Nagiarét.
à Nhờ đoạn Phúc Âm Lc 4,14-21 Chúa Giêsu đã mạc khải chân dung và sứ mạng ngôn sứ hay phát ngôn viên Lời Thiên Chúa của Người. Sứ mạng bao hàm 4 nội dung/công việc là
(a) loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, (b) công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, (c) trả lại tự do cho người bị áp bức và (d) công bố một năm hồng ân của Chúa.
Chúng ta có thể nói thêm rằng: Chúa Giêsu không chỉ loan báo hay công bố mà Người còn tích cực hành động cho Tin Mừng Ơn cứu độ được nhiều người đón nhận.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần thứ nhất: Chúa Giêsu là ngôn sứ trên hết mọi ngôn sứ vì Người là LỜI và là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa. Người đến trần gian để nói
“Lời tin vui” cho mọi người, cách riêng cho kẻ nghèo hèn. Người nói “Lời giải thoát” cho kẻ bị giam cầm (thể lý và tâm linh). Nói “Lời sự sáng” cho kẻ mù lòa (thể lý và tâm linh). Nói “Lời tự do” cho kẻ bị áp bức (thể xác và tinh thần). Nói “Lời hồng ân và chúc phúc” cho hết mọi người và cho mọi ngày trong năm.
Phần thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần đã giao sứ mạng ngôn sứ cho một số người. Tất cả các Kitô hữu chúng ta đều được kể là các phát ngôn viên của Thiên Chúa, vì được tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giêsu Kitô khi chịu phép Rửa. Chúng ta có trách nhiệm đọc và giải thích Luật Chúa; có trách nhiệm nói “Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” cho mọi người, nhất là cho những người sầu khổ, bị giam cầm, mù lòa, bị áp bức và sống thiếu thốn mọi sự. Chúng ta còn có trách nhiệm làm cho Tin Mừng Ơn cứu độ được nhiều người đón nhận.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giêsu Kitô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện hai việc này:
* Việc thứ nhất: Chạy đến với Chúa Giêsu, sống riêng với Người trong chốn riêng tư, trong tình thân mật…. để nghe và sống Lời của Người, để học với Người về tinh thần và cách thi hành chức vụ ngôn sứ của người Ki-tô hữu.
* Việc thứ hai: Dù gặp thuận lợi hay gặp chống đối, tôi quyết kiên trì và dũng cảm thực thi sứ mạng “phát ngôn viên” của Thiên Chúa mà nói “Lời chân thật, Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” trong mọi môi trường riêng của tôi là gia đình, khu xóm, hội đoàn, giáo xứ, công ty xí nghiệp, cộng đồng xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ông Étra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước trong thế giới hôm nay biết lắng nghe các ngôn sứ của thời xưa cũng như thời nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục, để các ngài chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng cho nhân loại, cách riêng cho những người nghèo trong xã hội.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Hội Thánh tại Việt Nam, cách riêng cho giáo dân của giáo xứ chúng ta, để mọi thành phần Dân Chúa tích cực thực thi sứ mạng ngôn sứ và cứu giúp đồng bào của mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người đang khao khát gặp Chúa, để họ được ơn cảm nghiệm chân lý mạc khải trong Thánh Kinh, mà thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa là Thiên Chúa Duy Nhất của nhân loại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sài-gòn ngày 19 tháng 01 năm 2022 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Hai bài đọc trong Phụng vụ hôm nay, bài trích sách Nơ-khê-mi-a và bài Tin mừng Thánh Luca, đều TN3-C158
Hai bài đọc trong Phụng vụ hôm nay, bài trích sách Nơ-khê-mi-a và bài Tin mừng Thánh Luca, đều nói về hai sự kiện giống nhau, đó là việc đọc Sách Thánh trong nơi thờ tự. Bối cảnh lịch sử của Bài đọc I là sau thời lưu đày. Nhờ sắc chỉ của Ky-rô, vua Ba Tư vào năm 538 trước Công nguyên, người Do Thái được trở về quê hương bản quán. Ông Ét-ra thuộc nhóm người đầu tiên trở về từ Babilon để khôi phục Đền thờ Giêrusalem và quê hương xứ sở. Sau những khó khăn gian khổ đến từ nhiều phía, việc xây Đền Thờ và tường thành Giêrusalem cũng hoàn thành. Đoạn sách được đọc hôm nay kể lại việc ông đọc sách Luật trước công chúng vào dịp hoàn tất công trình tái thiết Đền thờ, với mục đích nhắc cho dân chúng nhớ lại những điều Chúa đã dạy. Dân chúng ăn năn khóc lóc vì tội lỗi đã phạm, đồng thời nhận ra cuộc lưu đày khốn khổ chính là hậu quả của tội bất trung.
Tin Mừng Thánh Luca kể với chúng ta một lần Chúa Giêsu về thăm quê hương Nagiarét, Hôm đó là ngày Sabát, Người đã vào Hội đường để đọc Sách Thánh. Tác giả còn nói thêm: “như Người vẫn quen làm”, để cho thấy Chúa Giêsu thời thơ ấu tại quê hương luôn gắn bó với Hội đường, là sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn địa phương. Khi lồng ghép bài Tin Mừng Thánh Luca với bài đọc trích sách Nơ-khê-mi-a, Phụng vụ muốn giới thiệu với chúng ta, Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ đến để công bố thời của ân sủng, thời của ơn cứu độ, giống như tư tế Ét-ra công bố thời lưu đày đã mãn, dân trở về cố hương, Đền thờ Giêrusalem cùng với truyền thống tế tự đã được khôi phục.
Tư tế Ét-ra đọc Lời Chúa để nhắc dân chúng ôn lại quá khứ. Đó là một quá khứ thương đau. Dưới quan niệm của ông cũng như của nhiều người Do Thái, việc dân phải đi lưu đày xa quê hương xứ sở là hậu quả của lối sống lãng quên Thiên Chúa và vi phạm giới luật Ngài truyền. Ôn lại quá khứ cũng nhận ra tình thương của Chúa. Ngài luôn bao dung tha thứ, mặc dù dân nhiều lần phản nghịch. Lời Chúa tác động mạnh mẽ đến nỗi người dân khóc lóc. Đó vừa là những giọt nước mắt sám hối, cũng là những giọt nước mắt vui mừng, vì nhận ra tình thương của Chúa.
Ngày 30-9-2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ấn định, Chúa nhật thứ ba của mùa Thường niên là Chúa nhật Lời Chúa. Mục đích của Đức Thánh Cha là giúp các tín hữu ý thức tầm quan trọng của việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Đức Thánh Cha đã trích lời Thánh Giêrônimô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Nhiều người tín hữu dửng dưng với việc đọc Lời Chúa. Nhân vật tư tế Ét-ra và Chúa Giêsu tại Hội đường Nagiarét nhắc nhớ chúng ta về bổn phận quan trọng này. Đọc Lời Chúa sẽ giúp chúng ta gặp Người, lắng nghe lời Ngài dạy bảo để chuyên cần thực thi thánh ý của Ngài. Đọc Lời Chúa với tâm tình suy niệm sẽ giúp chúng ta nên hoàn thiện ngay trong cuộc sống hôm nay.
Tại Hội đường Nagiarét, sau khi đọc đoạn trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu tuyên bố: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Những người đồng hương đã sửng sốt ngạc nhiên trước lời tuyên bố này, vì Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng được xức dầu và được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin Mừng, băng bó những vết thương tinh thần cũng như thể xác của con người. Những việc Chúa làm đã chứng minh lời khẳng định đó. Các tác giả Phúc âm đều kể với chúng ta, Chúa Giêsu miệt mài lên đường loan báo Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối. Người chứng minh: những gì các ngôn sứ đã tiên báo về Người đã và đang được thực hiện.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tin Chúa được gọi là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người được xức dầu. Nhờ được xức dầu mà chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Lý tưởng của cuộc sống người tín hữu là nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Càng nên giống Chúa Giêsu bao nhiêu, chúng ta càng thánh thiện bấy nhiêu. Nên giống Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để lên đường loan Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn thương đau bất hạnh, tức là xoa dịu, đồng cảm và chia sẻ với anh chị em chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Xuân Nhâm Dần đang đến gần. Mỗi dịp tết, chúng ta có thói quen nhận lộc Lời Chúa. Việc rút thăm để nhận Lời Chúa không phải để thử vận may rủi như người lương dân vẫn làm vào dịp Tết. Đón nhận Lời Chúa vào ngày đầu năm để suy niệm và chuyên tâm thực hành Lời ấy trong suốt năm. Bởi lẽ “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một mùa xuân an bình, thánh thiện và chuyên tâm thực thi thánh ý Ngài.
Sau một thời gian rao giảng khắp miền Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Ngài TN3-C159
Sau một thời gian rao giảng khắp miền Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường trong ngày sabát và được mời đọc Sách Thánh. Ngài đọc sách của ngôn sứ Isaia, đoạn sách nói về ơn gọi và sứ mạng của ông (61,1-2). Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông thông báo cho dân chúng biết thời kỳ cùng khốn đã chấm dứt, và một kỷ nguyên mới đang tới. Trong đó, người nghèo được đón nhận Tin Mừng, kẻ giam cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị áp bức được tự do, và năm hồng ân của Chúa được khai mở.
Đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giêsu nhận ra đó chính là lời tiên báo về ơn gọi và sứ mạng của mình. Ngài liền long trọng tuyên bố trước toàn thể dân chúng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Với lời tuyên bố này, Đức Giêsu đã khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. Đúng là một tin mừng làm nức lòng dân chúng, đem đến cả một bầu trời an vui và hy vọng cho con người.
Đoạn sách Isaia đã thực sự ứng nghiệm nơi Đức Giêsu Kitô, là Đấng đầy tràn Thánh Thần, từ lúc sinh ra, lớn lên, bắt đầu rao giảng công khai, cũng như trong toàn bộ lời nói việc làm, và ngay trong biến cố này. Đúng như lời sấm của ngôn sứ Isaia, Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, kẻ mù lòa, kẻ bị áp bức. Điều này đã từng được minh chứng trước đây, khi Gioan Tiền Hô sai các môn đệ ông đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).
Đức Giêsu chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người, nhưng chính yếu là giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, là đầu mối của mọi đau thương bất hạnh. Hơn nữa, Ngài còn cho con người được tham dự vào thần tính của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Chúa Cha trong Thánh Thần.
Thế giới hôm nay cũng còn đầy dẫy những người nghèo, những kẻ bị giam cầm, bị tù đày, bị áp bức, phải sống trong lầm than, cơ cực và thiếu thốn mọi điều. Không chỉ thiếu thốn cơm ăn áo mặc, mà quan trọng là thiếu tình thương, thiếu sự tôn trọng, thiếu cả những nhu cầu cơ bản để sống cho ra người. Họ là những người phải chịu nhiều đau thương bất hạnh do bất công, độc tài, phân biệt, kỳ thị… do tham lam và ích kỷ của chính con người. Tuy nhiên, vẫn có những người tự làm cho mình nghèo khổ vì buồn sầu thất vọng, không còn ý chí tiến thủ; vẫn có những người tự giam hãm mình vì hờn giận oán căm; vẫn có những người mù quáng vì cuồng tín, cao ngạo và cố chấp; vẫn có những người tự áp bức mình bởi những thành kiến và lối sống tiêu cực.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội. Ngài cứu thế qua các bí tích. Ngài đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu. Mỗi người chúng ta là sự tiếp nối công việc của Chúa Giêsu, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, xua tan sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu những oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện của Chúa bằng những hoạt động bác ái.
Dưới sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người bằng sự dấn thân hy sinh và phục vụ tận tình. Và như vậy, chúng ta tiếp tục trở nên hình ảnh sống động của lòng Chúa thương xót, và trở nên Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi người. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời ngôn sứ Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố, và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Cuộc đời này quả thật là bể khổ, ai cũng trông mong hồng ân cứu độ, nhất là những kẻ túng thiếu bần cùng, những kẻ mù lòa và sống trong tù ngục họ khát khao tự do an bình và hạnh phúc.
Tôn giáo nào cũng chủ trương giải thoát, bằng giáo thuyết và những giới luật vàng, giúp con người vượt thoát kiếp lầm than, nhưng xem ra không mấy ai thành đạt, vì cần một sức mạnh của ân ban, không chỉ là những nỗ lực đơn thuần.
Cũng có những phong trào làm cách mạng, đưa ra những chủ trương thật lý tưởng, đã vùng lên để giải phóng cho đời, hứa hẹn một cuộc sống thật sáng ngời, là đem lại độc lập tự do và hạnh phúc, cho trần gian trở nên chốn thiên đàng.
Nhưng thực tế lại càng thêm khốn khổ, thêm người nghèo và bất công đủ chỗ, thêm tù đày và lắm nỗi đắng cay, càng làm cho cuộc sống thêm sa lầy.
Khi xây dựng một thiên đàng không có Chúa, chẳng khác nào là địa ngục chốn trần gian, vì sẽ gây nên bao cuộc chiến tương tàn, và lịch sử đã cho thấy sự kinh hoàng như thế.
Xin hướng nhân loại chúng con về với Chúa, là Chúa duy nhất Đấng cứu độ gian trần, để đón nhận nơi Chúa suối hồng ân, là an vui và hạnh phúc vô ngần. Amen.
Đẹp như tiên lo phiền cũng xấu. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người TN3-C160
Đẹp như tiên lo phiền cũng xấu. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Hàng ngày chúng ta phải đối diện với nhiều thách thức: tốt xấu lẫn lộn, xinh đẹp bên ngoài và phẩm chất bên trong. Tuy nhiên ta vẫn có quyền mơ ước vừa đủ bình an hạnh phúc, vừa đủ niềm vui để sống đúng chuẩn, sống như ý. Có phải nhờ đấng bậc sinh thành mà ta có được khái niệm yêu thương, có phải vì đối diện với nhiều phức tạp từ môi trường xã hội mà ta thích nghe tin vui tin mừng ? Từ kinh nghiệm bản thân, người ta hiểu: yếu thì đừng ra gió, đừng trèo cao sẽ không ngã đau. Nếu không hài lòng với những gì mình đang có, người ta sẽ gọi mình là tên bất mãn kinh niên mà thôi ! Nói hay, nghe giỏi, sống đúng, sống đẹp, bao giờ cũng để lại ấn tượng tốt, tâm lý tự nhiên ai chẳng thích được khen, thích được phần thưởng, ai chẳng muốn nghe tin vui, nghe tin mừng.
Năm Tân Sửu sắp qua đi, tự nhiên ai cũng muốn quên đi những khó khăn khổ đau và muốn phấn đấu để có những niềm vui ở phía trước. Hy vọng vào những ngày tháng tốt đẹp ở năm “Nhâm Dần” này, thấy những tín hiệu vui, thao thức được nghe tin mừng là điều mà mọi người đều thích thú. Tin vui tin mừng của chúng ta hôm nay là gì ? Là đủ ăn đủ mặc, là chức tước bổng lộc, là được no thoả vật chất tinh thần, có thể một số nhỏ ước mơ như thế chăng ? Vâng, tin vui tin mừng của mọi người hôm nay là khống chế được đại dịch covid, là tình người được chia sẻ, được sống trong bình an người người nhà nhà rộn ràng niềm vui tiếng cười. Tin vui tin mừng, được thánh sử Luca ghi chép cẩn thận qua trình thuật hôm nay, chính là sự hiện diện của tình yêu Thánh Thần ở nơi chúng ta mỗi khi hội họp cầu nguyện.
Tại hội đường năm xưa, mọi người được nghe, được nhìn, và thấu hiểu tác động của tình yêu thật quan trọng. Đúng như lời quả quyết của thánh sử Luca: “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilêa, và danh tiếng Người đồn ra khắp vùng lân cận”. Bằng tình yêu Thánh Thần, Đức Giêsu nói chuẩn, đám đông thích thú nghe, lời giảng giải của Đức Giêsu hết sức thuyết phục, mọi người say sưa như mất hồn … Vì tình yêu, Đức Giêsu không muốn ai phải tưởng tượng, hay phải hình dung về điều kỳ diệu khi mọi người được nghe, được hiểu, được xác thực, về tin vui tin mừng đang sống động nơi cuộc sống này. Trở về quê hương xứ sở, Đức Giêsu không mang theo bạc vàng châu báu, tại hội đường, Đức Giêsu không trình bày về phương pháp làm giầu, không nói đến kỹ thuật làm duyên làm dáng, nhưng ai nghe cũng vui, cũng mừng, vì Ngài là tình yêu, là Đấng cứu độ.
Niềm vui của đôi trai tài gái sắc, thường được biểu lộ bằng một tinh thần lạc quan: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng. Niềm vui của những ai tin có Thánh Thần tác động, không phải chỉ thấy và gặp may lành, mà còn được hiểu Đức Giêsu chính là quà tặng, Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Cũng vì thiếu tình yêu, vì trong ứng xử chưa đủ trưởng thành, nên người ta dễ hiểu lầm, hoặc nghi ngờ nhau, Nguyễn Du xưa kia đã ngán ngẩm nói rằng: có tài mà cậy chi tài, tài tình chi lắm cho trời đất ghen. Do chưa đủ thấm nhuần giới luật yêu thương, nên xã hội có câu: biết nhiều khổ nhiều, cũng chẳng phải vô tình mà các đấng bậc lại nói: hồng nhan bạc phận. Do chưa đủ niềm tin, nên nhiều người đến hội đường, đến nhà thờ, nhưng họ không gặp, không thấy, nên cũng chẳng hiểu thế nào là nói hay là nghe giỏi !
Kinh nghiệm ở đời cho rằng: yêu thương đến mấy, cứ im lặng rồi cũng sẽ nhạt nhoà. Thánh Phaolô đã từng nói: nếu tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng. (1Cr 13, 1). Tại hội đường hôm nay, nếu không có tác động của Thánh Thần, dù Đức Giêsu có chia sẻ hấp dẫn đến đâu, thì người nghe cũng chỉ như vịt nghe sấm mà thôi. Đâu là tin vui, đâu là tin mừng, có phải ở đâu có Đức Giêsu, ở đâu có hai hoặc ba người hội họp nhân danh Đức Kitô, ở đó có phép lạ, có tình yêu cứu độ. Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện như các luật sĩ biệt phái, Đức Giêsu tự tin nói rằng: hôm nay ứng nghiệm lời kinh thánh mà tai quý vị vừa nghe. Có Thánh Thần nơi tâm hồn, mỗi người tín hữu sẽ nghe giỏi, thực hành đúng và sống đẹp ý Chúa hơn, tâm tình đó còn tuỳ thuộc niềm tin của mỗi chúng ta.
Có tai có mắt, có tâm có tầm, chính là lợi thế mà mọi người hằng mơ tưởng, Đức Giêsu tại hội đường năm xưa, gián tiếp cho thấy vị trí của Thánh Thần mới là trọng tâm để người nghe hiểu và đạt tới hạnh phúc thật. Tại nhà thờ hôm nay hay tại hội đường hôm đó, vẫn đang được Đức Giêsu quy tụ, hướng dẫn, dưới sự tác động của tình yêu Thánh Thần, dù tin vui tin mừng tuỳ vào sự tự do mỗi người khao khát khác nhau. Đức Giêsu sẽ mãi mãi là Thầy là Thiên Chúa cứu độ, con người qua các thời đại vẫn mãi mãi là đối tượng của lòng thương xót Chúa, cho dù bạn là ai, tình yêu của Đức Kitô vẫn thu phục bạn.
Chân lý nền tảng mà người Kitô hữu không thể không chú tâm, và ghi lòng tạc dạ, đó là Thiên TN3-C161
Chân lý nền tảng mà người Kitô hữu không thể không chú tâm, và ghi lòng tạc dạ, đó là Thiên Chúa của Đức Giêsu là “Thiên Chúa nói với con người”, chân lý mà thánh Phaolô đã quảng diễn trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,1-3).
Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói với con người qua công trình tạo dựng của Ngài như lời thánh vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2), mà còn nói với chúng ta bằng lời, bằng ngôn ngữ của loài người qua trung gian các ngôn sứ ở Cựu Ước, và qua chính Đức Giêsu, Ngôi Lời làm người ở giữa loài người để nói với chúng ta lời của Thiên Chúa Cha, như chính Ngài đã khẳng định với các môn đệ: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,24), “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở” (Ga 16,25), và đặc biệt trong lời cầu nguyện với Chúa Cha của Ngài cho những kẻ thuộc về Ngài trước giờ lên đường đi chịu chết: “Giờ đây họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đa tin là Cha đã sai con” (Ga 17, 7-8).
Như thế, Lời chúng ta nghe trong thánh lễ, Lời chúng ta đọc trong Kinh Thánh không là lời của phàm nhân, nhưng là Lời Thiên Chúa nói với con người, đúng hơn là chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Đó là lý do sau khi nghe công bố Lời Chúa trong thánh lễ, cộng đoàn phụng vụ cùng thưa “Tạ ơn Chúa”, hay “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”, vì chính Chúa nói với chúng ta, chứ không là sách nói, dù đó là sách thánh. Nói cách khác, khi đón nhận Lời Chúa, người Kitô hữu mở lòng đón rước Đức Giêsu, và ngợi khen Chúa Giêsu, vì chúng ta tin Lời Chúa là chính Chúa. Chính Lời Chúa duy trì sự tồn tại của vạn vật, ban ánh sáng hy vọng, ban sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đời đời, và cũng chính Lời Chúa tha tội, thanh tẩy, chữa lành, soi sáng, dẫn đưa nhân loại vì Lời Chúa là Lời cứu thế.
Tóm lại, để có thể cung kính Lời Chúa, như toàn thể cộng đoàn đã đứng lên, khi Sách Thánh được mở ra mà ngôn sứ Nơkhemia kể lại trong bài đọc 1, cũng như thái độ trịnh trọng, trang nghiêm của Đức Giêsu khi “Người vào hội đường … và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16), chúng ta cần xác tín Lời Chúa được công bố chính là Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Cũng thế, để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu đã dạt dào tình yêu Chúa Cha khi Ngài mở Sách Thánh trong hội đường và chú giải đọan nói về Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và được xức dầu tấn phong trong sách ngôn sứ Isaia (x. Lc 4,17-19), bởi có mở trí khôn khắc khoải đi tìm chân lý, có mở trái tim tín thác, hy vọng vào Chúa, như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta mới được như các ông thấy lòng mình rạo rực bùng cháy lên, khi nghe Đức Giêsu “nói chuyện và giải thích Kinh Thánh”, mới nhận ra Đức Giêsu phục sinh đồng hành trên hành trình Kitô hữu của chúng ta giữa một thế giới đầy những “lời có cánh” cám dỗ, dối trá, xu nịnh.
Năm hết tết đến, những ai sống xa nhà đều mong ước được trở về nhà. Chữ „nhà” gói ghém tất TN3-C162
Năm hết tết đến, những ai sống xa nhà đều mong ước được trở về nhà. Chữ „nhà” gói ghém tất cả những gì là thân thương và quý giá nhất trong trái tim của một con người. Nhà hàm chứa không chỉ là gia đình và họ hàng thân thuộc, mà còn là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương xứ sở nữa. Cho dù đi bất cứ đâu, người ta luôn mang theo bên mình chữ “nhà”.[1]
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay[2], thánh sử Luca thuật lại câu chuyện Đức Giê-su trở về quê nhà ở làng Na-da-ret. „Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh” (c.16b). Ở đây thánh sử Luca tiếp tục vén mở cho người đọc thấy, Đức Giê-su thật sự bám rễ sâu vào trong truyền thống tôn giáo Do thái. Người trung thành đến hội đường, theo như luật ngày sa-bát qui định. Truyền thống tôn giáo đã tuôn chảy vào Ngài từ khi còn nhỏ. Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a luôn thực thi những gì luật truyền dạy. Như thực hiện lễ cắt bì cho Đức Giê-su khi đủ tám ngày (Lc 2,21); Trẩy hội lên đền thờ Giê-ru-sa-lem khi Người được mười hai tuổi (Lc 2,42)… Có thể nói nhờ được sống trong truyền thống tốt đẹp của tôn giáo nên Đức Giê-su đã thực sự trưởng thành và quân bình về mọi mặt. Những điều ấy tiếp tục nở hoa trong hành trình đi rao giảng của Ngài sau này.
Đúng như lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô với các bạn trẻ Việt Nam: Trở về nhà[3] là trở về với văn hóa và phong tục đã hình thành lên lối sống cho các con. Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a là mẫu gương tuyệt vời để chúng ta noi theo trong việc nuôi dạy con cái. Thật tốt đẹp khi các cha mẹ chú ý đưa con cháu đến nhà thờ từ lúc các em còn nhỏ. Dẫu biết rằng, khi đem theo các em đến nhà thờ, có thể gây phiền hà cho chính mình và cho người khác, nhưng đó là việc tốt nên làm, để các em bé được sống trong bầu không khí truyền thống tôn giáo từ thuở sơ sinh. Nếu các em nhỏ được làm quen với nhà thờ và cộng đoàn tín hữu từ khi bước vào đời, thì khi trưởng thành, đức tin nơi các em có tiềm năng mạnh mẽ hơn nhiều. Đức Giê-su đã được nuôi dưỡng và trưởng thành từ trong truyền thống tôn giáo, nơi gia đình và ở quê hương, là hành trang cho Ngài bước vào đời.
Bên cạnh đó, bài Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy đóng góp để làm cho truyền thống, di sản văn hóa, tôn giáo trở nên tốt đẹp và sống động hơn. Như thế, mỗi lần trở về nhà, chúng ta không chỉ kín múc thêm những điều tốt đẹp từ truyền thống gia đình, mà còn góp phần vào sự phát triển truyền thống „uống nước nhớ nguồn” nữa. Ở đây, chúng ta không nên thu hẹp ý nghĩa truyền thống vào trong những nguyên tắc bất động, hoặc đặt thêm nhiều luật lệ khắt khe hơn; nhưng thay vào đó chúng ta được mời gọi đi vào cội nguồn của truyền thống gia đình, dòng họ của chính mình; đó là tinh thần sống động, là nơi tinh thần Tin Mừng trở nên mạnh mẽ hơn để nuôi sống từng thành viên.
Khi trở về quê nhà, Đức Giê-su loan báo: „Ngày hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Mọi người trong hội đường, ai nghe cũng đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Trong ý hướng này, chúng ta thấysự trở về nhà của Đức Giê-su đã mở ra một kỷ nguyên mới. Người dân làng Na-da-rét nói riêng và dân Is-ra-el nói chung, họ đang chờ đợi lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (xem St 12,1-3). Hôm nay, Đức Giê-su loan báo là lời hứa ấy được thực hiện ngay lúc này và ngay bây giờ.
Chúng ta có thể hiểu „ngày hôm nay” diễn tả ở thì hiện tại. Lời hứa năm xưa được ứng nghiệm ngay hôm nay. Từ khi xuống thế làm người, chịu khổ nạn và phục sinh, Đức Giê-su đã cho thấy Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm thế nào; và sự ứng nghiệm ấy vẫn còn tiếp tục cho đến chúng ta qua Giáo hội. Ngày hôm nay, con người có thể cảm nếm „lời ấy đang được ứng nghiệm” trên khắp thế giới – Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su: mang tin vui đến cho người nghèo, đem ơn giải thoát cứu con người khỏi những giam cầm và công bố hồng ân của Chúa.
Lời hứa ấy được ứng nghiệm không phải theo cách thụ động, mà theo một năng động tích cực. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô căn dặn các bạn trẻ: Các con “Hãy về nhà.” Đây là một hành trình thúc đẩy các con trở về với cội nguồn của các con và đào sâu di sản văn hoá và truyền thống của các con. Các con được mời gọi tiếp tục những công việc của Đức Giê-su, và để cho Tin Mừng của Chúa được ứng nghiệm:
Hôm nay, Thần Khí Chúa ngự xuống trên tôi. Hôm nay, Người sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Hôm nay, những ai đang bị giam cầm sẽ được tha; người mù được sáng mắt; người bị áp bức được trả tự do. Hôm nay, một năm hồng ân của Chúa bắt đầu. Có thể nói, đây là những bài giảng ngắn nhất, nhưng nó là những lời mạnh mẽ và đem đến niềm hy vọng cho từng người chúng ta.
Đây là lời mời gọi: hãy đem hồng ân của Chúa về nhà mình trong dịp tết đến xuân về này. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện những phép lạ nhãn tiền và vĩ đại như ông Mô-sê đã thực hiện năm xưa để dẫn dân đi qua biển đỏ, nhưng thay vào đó, là trở nên những người đem Tin Mừng về đến với quê nhà một cách cụ thể.
Hãy thưa chuyện với Đức Giê-su và hỏi Ngài xem: Con sẽ công bố Tin Mừng của Chúa nơi quê nhà thế nào đây?
——–
[1] ĐTC Phanxicô gửi sứ điệp video cho giới trẻ Việt Nam – https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-11/dtc-phanxico-goi-su-diep-video-cho-gioi-tre-vietnam.html [2] Tin Mừng Chúa Nhật 3 Thường Niên Năm C. Lời tựa (Lc 1,1-4) và Đức Giê-su bắt đầu rao giảng (Lc 4,14-21). [3] https://www.youtube.com/watch?v=FuCbI5dmm24&t=3s
Khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, ta nhận cùng Thánh Thần Đức Kitô lãnh nhận sau khi Ngài nhận TN3-C163
Khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, ta nhận cùng Thánh Thần Đức Kitô lãnh nhận sau khi Ngài nhận phép rửa từ Gioan. Khi xức dầu thánh hiến linh mục công bố ba chức vụ của Kitô hữu. Đó là trách vụ tư tế, tiên tri và vương đế.
Chính Đức Kitô xức dầu cứu rỗi cho con để sau khi nhập đoàn dân Ngài, con luôn mãi là chi thể của Đức Kitô, là tư tế, tiên tri và làm vương đế cho đến cõi trường sinh.
Đức Kitô công bố lời ngôn sứ Isaiah loan báo ứng nghiệm cho chính Ngài. Trước khi về cùng Chúa Cha, Đức Kitô trao ban sứ mạng đó cho các tông đồ. Các tông đồ trao lại cho các Kitô hữu. Như thế lời ngôn sứ loan báo cho Đức Kitô cũng ứng nghiệm cho từng Kitô hữu. Đức Kitô xuống thế trở thành một người trong chúng ta với hai mục đích. Thứ nhất, Ngài thi hành í Chúa Cha. Thứ hai, Ngài dậy chúng ta cách thi hành í Chúa Cha. Điều này thể hiện trong Kinh
Lậy Cha, Đức Kitô dậy các môn đệ. ‘Xin cho í Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’.
Chính Đức Kitô thể hiện í Chúa Cha dưới đất cũng như trên trời. Ngài dậy Kitô hữu tiếp tục thể hiện í Chúa Cha trên trần gian. Là môn đệ Đức Kitô chúng ta nhận Thánh Thần Chúa và nhận luôn sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Chính Thánh Thần cùng với Đức Kitô truyền bá, rao giảng Tin Mừng. Theo bước chân Đức Kitô rao giảng Tin Mừng chính là làm cho í Chúa Cha thể hiện trong cuộc sống Kitô hữu. Khi chúng ta nghĩ rao giảng Tin Mừng là công việc của tu sĩ, không phải của giáo dân. Đây là một cám dỗ lớn. Để chiến thắng cám dỗ toàn cầu này, Kitô hữu cần thay đổi lối suy nghĩ. Hãy nhớ lại trách nhiệm khi nhận xức dầu thánh hiến. Ba chức vụ: tư tế, tiên tri và vương đế cần được thể hiện trong cuộc sống, cần thực hành ba chức vụ trên với khả năng, và trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi Kitô hữu. Nhận bí tích thanh tẩy chính là nhận thể hiện í Chúa trong cuộc sống. Kitô hữu đó thuộc về Chúa, sống trong Chúa và sống cho Chúa. Điều này có nghĩa là sống Tin Mừng và rao giảng Tin Mừng.
Tiên tri Isaiah nhắc đến người nghèo, kẻ tù đầy và năm hồng ân của Thiên Chúa, bởi lúc đó dân Chúa chọn đang sống cảnh nô lệ, lưu đầy. Mấy trăn năm lưu đầy, đền thờ Jerusalem bị phá tan tành, văn hoá, phong tực tập quán phai nhạt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thế hệ trẻ thường hội nhập phong tục, tập quán nơi họ đang sống để có thể hoà nhập với dân bản xứ. Tệ hại hơn cả là rất nhiều người trong họ không còn nuôi chút hy vọng trở về quê hương. Thời Đức Kitô dân Thiên Chúa vừa mới thoát cảnh nô lệ, lưu đầy. Niềm hy vọng lập quốc, xây lại thành thánh đang từ từ sống lại. Đức Kitô trở thành niềm hy vọng của toàn dân. Họ đặt hết hy vọng vào Ngài. Họ tin Ngài sẽ giúp họ hoàn thành niềm mơ ước một thời tưởng đã chết, nay đang hồi sinh.
Thời đại chúng ta, người nghèo có thể là nghèo miếng ăn, đói thức uống, cũng có thể dư của ăn, thừa của uống nhưng nghèo tình thương, nghèo tâm linh. Kẻ tù đầy có thể là tội phạm đang sống trong các nhà tù; cũng có thể là người sống hoàn toàn tự do trong xã hội nhưng là nạn nhân, nô lệ do nghiện ngập, tệ đoan xã hội. Một số tự trói buộc mình, không tin ơn tha thứ. Không tha cho chính họ, không tha cho tha nhân bởi nghi ngờ bí tích hoà giải. Họ nghĩ tội họ phạm lớn hơn lòng Chúa xót thương. Đây là một cám dỗ. Cám dỗ lòng Chúa xót thương, giới hạn tình yêu vô biên Chúa dành cho những ai thành tâm thống hối. Chính Gioan Tẩy Giả xác định đón nhận phép rửa của ông là dấu chỉ thống hối. Đức Kitô dậy các môn đệ cầu xin ‘Chúa tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Nợ đây là nợ lời thống hối, hối lỗi, nợ không giữ lời hứa từ bỏ, tránh tái phạm. Không tha thứ chính là sa chước cám dỗ, cứ trói buộc.
Để hưởng ‘Năm hồng ân của Chúa’ Kitô hữu cần hai điều. Thứ nhất, tha thứ và thứ hai đi con đường Đức Kitô đã đi. Thực hiện hai điều trên sẽ nhận được ‘hồng ân Thiên Chúa’. Khi công bố Đức Kitô là Thủ Lãnh, Kitô hữu trung tín vâng nghe lời Thủ Lãnh hướng dẫn. Đức Kitô là Cha nhân từ, và thiên đàng là nhà của chúng ta.
Sống Tin Mừng đích thực là sống tin và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân. Tin Mừng không phải của riêng ai. Tin Mừng là của chung, bởi là tài sản chung nên cần chia sẻ, ban phát. Thiếu chia sẻ, ban phát, ba sứ: tư tế, tiên tri và vương quyền yên ngủ. Tin Đức Kitô cần bước theo Đức Kitô. Đứng tại chỗ là không tiến. Muốn tiến phải dời chỗ. Bước tới để dời chỗ. Không đổi lối sống, lối suy nghĩ, niềm tin là thiếu cộng tác với hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô tin tưởng phó thác Tin Mừng vào tay Kitô hữu. Kitô hữu xin ơn tín trung, sống tin và rao giảng Tin Mừng Phục Sinh.
Với Chúa Nhật III thường niên năm C, phụng vụ Lời Chúa giới thiệu với chúng ta về sứ mạng TN3-C164
Với Chúa Nhật III thường niên năm C, phụng vụ Lời Chúa giới thiệu với chúng ta về sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Sứ mạng đó được Chúa giao phó cho Giáo Hội để chuyển thông ơn cứu độ của Chúa cho mọi người qua mọi thời đại. Chúng ta lần lượt tìm hiểu ý nghĩa Lời Chúa hôm nay qua từng bài đọc.
1- Sứ mạng Đấng Cứu Độ
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nghe thánh Luca tường thuật sự kiện Chúa Giêsu trở về quê hương. Trong ngày Sabát, như thường lệ, Người vào hội đường và đọc Sách Thánh. Người mở sách tiên tri Isaia và gặp đoạn này: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đọc xong, Người ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21). Những lời này có ý nghĩa gì? Chúa Giêsu muốn nói gì khi nhắc lại lời hứa của Cựu Ước?
Trước hết, chúng ta chú ý đến thành ngữ mà Chúa Giêsu dùng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Điều này muốn diễn tả Chúa Giêsu mang lại sự viên mãn của ơn cứu độ. Tất cả lời hứa về ơn cứu độ nay đã được thực hiện nhờ Chúa Giêsu bởi vì Người là Đấng Mêsia được chờ đợi từ lâu trong Cựu Ước, được Chúa Cha sai đến để hoàn tất lời hứa. Vì thế, thánh Luca rất thích dùng từ “hôm nay”: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11; x. 19,9).
Trong lời công bố này, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế: Người đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để đi loan bao Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải thoát những kẻ bị giam cầm, chữa lành người bị mù lòa, trả lại tự do cho người bị áp bức. Người tái lập trật tự xã hội trong đó, công lý, hòa bình và yêu thương phải ngự trị. Quả thật, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của mình, Đức Giêsu Nazarét thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa và sức mạnh cứu độ con người. Bởi thế, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Người có phải là Đấng Cứu Thế không, Người đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Người đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo (x. Lc 7,20-22). Nhưng tại sao ngày hôm nay vẫn còn người nghèo, vẫn còn người bị áp bức, vẫn còn nhiều nhà tù, vẫn còn đó nhiều người mù lòa? Như thế, phải chăng điều Chúa công bố ngày hôm nay vẫn còn chưa được thực hiện?
Để hiểu được ý nghĩa của những lời trên, chúng ta cần phải tiếp cận theo cái nhìn tâm linh. Theo đó, Đức Giêsu loan báo về Nước Thiên Chúa đã hiện diện trên trái đất này. Nước Thiên Chúa đã đến với sự hiện diện của Người. Những ai tin vào Người thì thuộc về Nước Trời. Những ai tin vào Người thì được ơn giải thoát khỏi sự mù lòa tâm linh. Người khai sáng và ban cho họ có khả năng nhìn thấy đường đi, sự thật và sự sống. Những ai bị cầm giữ bởi tội lỗi, nô lệ cho Satan, thì được Người giải thoát nhờ Lời và các phép lạ của Người làm, đặc biệt là nhờ các bí tích mà Người thiết lập, nhất là bí tích Rửa Tội và Giải Tội, giải phóng chúng ta khỏi mọi sự nô lệ của tội lỗi. Nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Chúa, được gia nhập Giáo Hội và được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hiểu như thế, ngày hôm nay Chúa Kitô đang thực hiện sứ mạng cứu độ này trong thế giới qua Giáo Hội.
2- Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần đã thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng cứu độ con người trên trần gian. Giáo Hội bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng hiệp nhất nên một với nhau nhờ một Thánh Thần. Bởi vì, Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô ví Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể có một vai trò khác nhau nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung: Như chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau.
Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác, để quản trị, để nói tiếng lạ… Tất cả đều đến từ một Chúa Thánh Thần. Đó là những đặc sủng khác nhau nhưng đều có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo Hội (x. 1 Cr 12,12-30). Như trong một giáo xứ, có linh mục, có thừa tác viên, có hội đồng mục vụ, có giúp lễ, có ca đoàn, có nam nữ tu sĩ, có giáo dân… Đây là những chi thể làm nên một thân thể Giáo Hội của Chúa Kitô. Mỗi người có một vai trò, một sứ mạng riêng nhưng chúng ta đều có chung mục đích là để phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Như một vườn hoa với đủ loại hoa màu khác nhau, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa, trong cộng đoàn Giáo Hội có nhiều ơn gọi và chức vụ khác nhau để làm cho Giáo Hội muôn sắc muôn màu. Hay như một dàn hợp xướng, có nhiều ca viên, người đánh đàn, người thổi sáo, người đánh trống, người kéo violon v.v… Mỗi người phải theo sự hướng dẫn của người điều khiển, và mỗi người làm tốt vai trò của mình, thì sẽ tạo ra một bản hòa tấu tuyệt diệu. Cũng thế, trong Giáo Hội, mỗi người có một vị trí khác nhau nhưng hiệp nhất với nhau và cộng tác với nhau để tạo nên một bản nhạc tuyệt vời ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường có cám dỗ không chấp nhận sự khác biệt của người khác và muốn bắt người khác phải giống mình. Vì thế, chúng ta được mời gọi biết tôn trọng sự khác biệt, đặc sủng và tài năng của người khác, đồng thời phải biết nhìn nhận rằng sự khác biệt là sự giàu có và mỗi đặc sủng Chúa ban là để phục vụ thiện ích chung.
3- Sứ mạng của mỗi Kitô hữu
Những gì Chúa Giêsu công bố và đã được ứng nghiệm nhờ sự hiện diện, lời nói và việc làm của Người. Đó cũng là những gì mà ngày hôm nay chúng ta được mời gọi để sống và thực hiện cho những người xung quanh. Chúa Kitô trao sứ mạng của Người cho mỗi người thực hiện.
Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là loan báo Tin Mừng cho mọi người. Trên thế giới, Giáo Hội đã khai sinh biết bao nhiêu bệnh viện, trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Giáo Hội đã không ngừng dấn thân trong công tác từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa để thăng tiến con người và giúp cho con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Đặc biệt, Giáo Hội thực thi sứ vụ cứu độ con người qua việc cử hành các bí tích do Chúa Kitô ủy thác.
Với sứ vụ này, hôm nay mỗi người Kitô hữu được mời gọi dành những nghĩa cử, lời nói, thăm hỏi người nghèo khổ, loan báo tự do cho những ai bị trói buộc bởi các hình thức nô lệ mới trong xã hội hiện đại, phục hồi ánh sáng cho những ai bị mù lòa trong sự lầm lạc của chính mình, phục hồi phẩm giá cho tất cả những ai bị mất nhân phẩm. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này, thì lời công bố của Chúa trở thành hiện thực và ứng nghiệm nhờ chứng tá đời sống chúng ta. Ước gì những lời của thánh Phaolô hướng dẫn chúng ta: “Ai làm những việc bác ái, thì hãy làm những điều ấy trong hân hoan” (Rm 12,8).
Lạy Chúa, Chúa đến khai mở Nước Thiên Chúa giữa trần gian và thực hiện lời hứa cứu độ cho con người. Xin cho chúng con luôn ý thức và trân quý những hồng ân Chúa ban, đồng thời biết cộng tác với Chúa và với nhau trong việc cứu rỗi các linh hồn. Amen!
Năm 2021 phải nói là một năm khắc nghiệt vì đại dịch Covid-19. Dịch bệnh đã cướp đi biết TN3-C165
Năm 2021 phải nói là một năm khắc nghiệt vì đại dịch Covid-19. Dịch bệnh đã cướp đi biết bao sinh mạng và còn phơi bày những góc khuấn của xã hội, đặc biệt là lòng tham vô nhân đạo của một số thành phần đã trục lợi trên chính đau khổ của đồng bào mình. Xem ra câu thơ của cụ Nguyễn Du ngày xưa nói vẫn đúng cho hôm nay.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Nguyễn Du đã trông thấy những gì? Thưa đó là cả một bức tranh chân thực về xã hội đầythị phi thời phong kiến với cảnh quan to quan nhỏ là cường hào ác bá áp bức dân nghèo và cảnh nghèo khổ bị ức hiệp của người dân đen.
Đây chính là cuộc bể dâu mà nhà thơ đã trải qua. Nhân vị của một con người cũng được ngã giá bằng đồng tiền. Khi gia đình Kiều mắc oan thì:
“Có ba trăm lạng việc này mới xong”.
Có tiền là có thể giải quyết được tất cả. Kiều phải bán thân mình như một món hàng, mà kẻ mua:
“Đắn đo cân sắc, cân tà !
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn tram”.
Thế có đau xót, nhục nhã không? Con người, nhân cách và phẩm giá đánh giá bằng tiền bạc. Bốn trăm lượng để đổi lấy cả đời con gái sắc tài bậc nhất! Còn gì là đạo lí xã hội?
Đúng cuộc đời là bể dâu vì cái gì cũng có thể xảy ra. Dù là biển xanh to lớn sâu thẳm kia còn biến thành ruộng dâu, thì con người chỉ là hạt bụi nhỏ tí xíu chẳng đáng kể gì. Nên cụ Nguyễn Du lại thấy buồn cho kiếp người thật tang thương.
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Ngài đến để giúp cho những con người nhỏ bé được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối “không có nơi gối đầu”. Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret.
Phúc âm đã kể rất nhiều trường hợp đau bệnh được ơn chữa lành. Có người đàn bà bị bệnh băng huyết cả 18 năm nay nhờ gặp Chúa được chữa lành. Có người bị bại liệt suốt mấy chục năm nhờ Chúa mà tự mình đứng dậy không cần ai nâng đỡ. Có người hấp hối nơi giường bệnh được phục hồi. Có người Chúa cho từ cõi chết sống lại như cậu con trai bà góa thành Naim và Lagiaro bạn Ngài.
Thế nên, hãy trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc đời. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác mỗi khi chúng ta gặp nguy nan. Chắc chắn tình thương Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng khi chạy đến cùng Ngài.
Cuộc sống có rất nhiều khổ đau. Khổ đau tâm hồn và khổ đau thể xác. Nỗi đau nào cũng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Vì khi gặp khổ đau mà chẳng còn biết bám vào đâu. Trước những nan giải của cuộc sống, họ chỉ trông chờ một phép màu từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa chẳng còn ai có thể giúp họ. Nơi Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho con người khi gặp khổ đau.
Và giờ đây, khi mùa xuân đã chạm vào cánh cửa thời gian và phủ muôn sắc màu của muôn loài hoa thì Tết cũng về dưới hiên nhà. Ta hãy gác lại những lo toan bộn bề cuộc sống, những lo lắng của dịch bệnh đang hoành hành để trở về với những truyền thống dân tộc, cùng đón một cái Tết cổ truyền ý nghĩa bên những người thân yêu, cùng chào đón một năm mới với những hy vọng mới.
Và với niềm tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa xin mời mọi người cùng sống niềm tin như thánh Phê-rô đã dạy: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Chúa vì Người chăm sóc anh em”. Amen
Trong ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta thường được chiêm ngắm Chúa Giê-su qua hình ảnh, tranh TN3-C166
Trong ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta thường được chiêm ngắm Chúa Giê-su qua hình ảnh, tranh tượng về Ngài cũng như được nghe những lời Ngài giảng dạy, xem việc Ngài làm qua các sách Tin mừng.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hình dung Thiên Chúa Cha qua hình ảnh một Người Cha giàu lòng yêu thương con cái. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là chúng ta ít được nghe nói đến Chúa Thánh Thần nên cảm thấy xa lạ với Ngài, ít cầu nguyện với Ngài và không để Ngài soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đây là một thiếu sót hết sức tai hại.
Lược qua Tin mừng Lu-ca, chúng ta thấy Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong cuộc đời tại thế của Chúa Giê-su, như sau:
Trước hết, khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai, Chúa Thánh Thần đã dùng quyền năng của Ngài cho Đức Maria thụ thai, cưu mang và sinh Chúa Giê-su ra đời cứu độ thế gian (Lc 1,35).
Đến khi Chúa Giê-su chịu phép Rửa ở sông Gio-đan, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu (Lc 3, 21-22).
Rồi Chúa Thánh Thần đưa Chúa Giê-su vào hoang địa, ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân (Lc 4, 1-2).
Sau đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giê-su trở về miền Galilê, bắt đầu sứ mạng rao giảng và cứu độ (Lc 4, 14-15).
Đặc biệt qua bài Tin mừng hôm nay, khi trở về Na-da-rét, Chúa Giê-su vào hội đường ngày sa-bát. Người ta trao cho Ngài sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra trúng đoạn chép rằng:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Sau khi đọc xong, Chúa Giê-su nói cho mọi người biết đoạn sách ngôn sứ Isaia vừa đọc đã được ứng nghiệm nơi Ngài. Thế là qua đó, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Chúa Thánh Thần có vai trò quan trọng trong sứ mạng của Ngài.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện với Chúa Giê-su, cùng hoạt động với Chúa Giê-su, gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su như hình với bóng, như xác với hồn.
Rồi khi Chúa Giê-su chết, Thiên Chúa Cha đã dùng Thánh Thần cho Ngài sống lại. Khi Chúa Giê-su đã lên trời, đang các môn đệ co cụm trong nhà tiệc ly vì sợ người Do-thái, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các ngài, hiện diện trong các ngài, biến các ngài từ những con người nhát đảm khiếp nhược trở nên những chiến sĩ can trường loan báo Tin mừng và làm chứng cho Đức Ki-tô (Ga 20, 19-20).
Như thế, Chúa Thánh Thần có một vai trò lớn lao trong cuộc đời Chúa Giê-su, trong sứ mạng của các tông đồ và trong hoạt động của Hội thánh.
Khi đề cập đến vai trò tối quan trọng của Chúa Thánh Thần, Thượng phụ A-thê-na-go-ras nhận định như sau: “Nếu Giáo hội vắng bóng Thánh Linh thì Thiên Chúa sẽ trở nên nghìn trùng xa cách; Chúa Giê-su chỉ còn là huyền thoại, Tin mừng của Ngài chỉ còn là một mớ chữ không hồn.”
Lạy Chúa Giê-su,
Nhờ đón nhận Thánh Thần do Chúa thông ban trong ngày lễ Ngũ tuần, các Tông đồ mới đủ can đảm và sức mạnh để rao giảng Tin mừng và xây dựng Hội thánh. Nhờ ánh sáng Chúa Thánh Thần soi sáng, muôn dân được nhận biết, yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin giúp chúng con mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Thần Chúa và luôn bước đi theo ánh sáng Ngài soi dẫn để được thêm lòng tin, cậy, yêu mến và sống đẹp lòng Chúa suốt đời. Amen.
Bước chân của thầy Giêsu rong ruổi khắp đó đây để đem Tin Mừng tình thương và lòng thương xót TN3-C167
Bước chân của thầy Giêsu rong ruổi khắp đó đây để đem Tin Mừng tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho muôn người, đặc biệt là những kẻ nghèo hèn, những người bị giam cầm, những người bị áp bức (x. Lc 4, 18). Đi đến đâu là Người thi ân giáng phúc đến đó. Tại hội đường Nadaret, sau khi đọc sách Thánh, Đức Giêsu công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21).
Quả thực, để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã không ngần ngại mặc lấy thân phận con người của chúng ta, chấp nhận những giới hạn về không gian và thời gian để sống giữa và sống cùng chúng ta, thi ân giáng phúc cho chúng ta. Nhiều người đã tìm đến với Người và được chữa lành bệnh tật, được tháo gỡ khỏi xiềng xích của ma quỷ, được tha tội. Tiếng lành đồn xa, mọi người khắp nơi tuôn đến với Người. Họ tôn vinh, ca tụng Người. Lời của Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia nay được chính Con Một của Ngài công bố. Bởi đó, Lời ấy trở nên sống động hơn bao giờ hết. Sự hiện diện của Đức Giêsu là sự hiện diện tròn đầy của Thiên Chúa, vì chính Ngài cũng là Thiên Chúa. “Thần Khí Chúa ngự xuống trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho…” (Lc 4, 18).
Mỗi ngày, khi tham dự thánh lễ hoặc cử hành phụng vụ lời Chúa, chúng ta được tiếp xúc với Lời. Nhất là khi rước lễ, chúng ta được đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng. Đó là một sự hiện diện đầy yêu thương mà Đức Giêsu đã thực hiện nơi cuộc đời của chúng ta. Ai trong chúng ta lại không tự hỏi, hôm nay Chúa đã đến với tôi như thế nào? Tôi đã đón rước Ngài vào cuộc đời tôi và tôi đã để cho Ngài hướng dẫn mọi ý hướng, hành vi và việc làm của tôi chưa? Hôm nay, Chúa vẫn nói với mỗi người chúng ta cùng một lời như Người đã nói với những người có mặt tại hội đường Nadaret năm nào: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 210. Chúng ta hãy chăm chú và đón nhận mọi lời ân sủng từ miệng Người phán ra và đem ra thực hành.
Để Tin Mừng của Chúa trở nên là Tin Mừng của hôm nay, chúng ta được mời gọi lắng nghe và đem ra thực hành mọi ngày trong đời ta. Lời Chúa không bao giờ là lời mời gọi cho một lần nhưng là luôn luôn. Tôi không chỉ yêu một lần, hai lần rồi thôi nhưng là yêu thương mãi mãi. Tôi không chỉ thực hiện một lần lời mời gọi của Ngài nhưng là mọi ngày trong đời của tôi. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi cưu mang và đem lời ấy đến với mọi người ta gặp gỡ qua lối sống đượm tình yêu thương, bác ái của mình. Kitô hữu là gì nếu không phải là người có Chúa Kitô. Bước chân của Người có Chúa Kitô là bước chân thấm đẫm Tin Mừng tình thương, là sự hiện diện sống động của Thiên Chúa. Đó vừa là lời mời gọi vừa là một thách đố.
Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét. “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày TN3-C168
Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét. “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabat, và Người đứng lên đọc Sách Thánh”. Về thăm quê lần này, Chúa Giêsu gặp những những người quen thân và sống với những việc quen thuộc. Trong đó có việc đến hội đường vào ngày sabat. Khi đến hội đường có ba việc quen thuộc: cầu nguyện, nghe đọc Sách Thánh và được giảng dạy hoặc đích thân giảng giải Sách Thánh.
Hôm nay, Chúa Giêsu đọc và giảng giải. Người long trọng tuyên bố đoạn Sách Thánh Isaia được ứng nghiệm: “Hôm nay đã ứng nghiệm trang Sách Thánh tai quý vị vừa nghe”. Sấm ngôn của tiên tri nay ứng nghiệm với sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đó là sứ mệnh cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ nhân loại mong chờ được tiên tri Isaia diễn đạt bằng những hình ảnh: người nghèo hèn được loan báo Tin Mừng, kẻ bị giam cầm được tha, người mù được sáng mắt, người bị áp bức được trả lại tự do, năm hồng ân của Thiên Chúa được công bố. Sứ vụ của Người là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, kỷ nguyên của Tin mừng. Đây như là bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Chúa Giêsu.Có lẽ đây là một bài diễn văn ngắn nhất của một nhà lãnh đạo kỳ lạ nhất. Lời công bố của Chúa Giêsu tuy ngắn nhưng lại đầy đủ, bao gồm cả một kế hoạch lớn lao của Người.
Lời Isaia hôm nay được ứng nghiệm làm cho mọi người nhớ lại lời sách Nêhêmia. Khi từ lưu đày Babilon trở về, Israel tái thiết thành thánh Giêrusalem và xây lại đền thờ. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Israel có công lớn trong nỗ lực hồi sinh dân tộc vừa vật chất xây dựng nhà cửa đền đài, vừa tổ chức bộ máy chính trị vừa tái thiết cuộc sống tinh thần.
Sau bao nhiêu năm lưu đày, bon chen tất bật với cuộc sống đầy nhiễu nhương nơi đất khách quê người, cùng với bao nhiêu cám dỗ của các nhu cầu sinh sống, những thói hư tật xấu của dân ngoại…dân Do thái gần như quên lãng Lời Chúa và hiếm khi được cùng nhau cử hành và lắng nghe Lời Chúa cách long trọng. Hôm nay, trên mảnh đất của quê nhà, bên những bức tường thành Thánh Giêrusalem vừa được tái thiết, cộng đoàn hồi hương Do thái được thầy tư tế Esdra công bố Lời Chúa. Họ hết sức cảm động đến bật khóc; họ trân trọng lắng nghe với thái độ cung kính thẳm sâu “cúi mình phủ phục sát đất…”. Chính sức mạnh của Lời Chúa đã quy tụ dân, phục hồi sức mạnh và niềm tin cho dân và đã làm cho dân vượt qua mọi gian nan thử thách để luôn vươn mình đứng vững trong hiện tại và mạnh mẽ tin yêu hướng tới tương lại. Bài đọc 1 hôm nay trích sách Nêhêmia nêu bật thời đại ân phúc đó như thế này: “được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta, anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc…đừng buồn sầu, vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh em”. Trong bối cảnh ấy, Chúa Giêsu áp dụng lời sấm của Isaia vào con người và sứ mạng của Người. Một Tin Mừng làm nức lòng người nghe đem đến cả một bầu trời hy vọng vì thế “mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và tình thương.
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”. Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” được nói tới 12 lần. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” thì hiện tại của Giáo Hội nữa.
Sau hàng trăm năm, lời của tiên tri Isaia đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Trải qua thời gian hơn hai ngàn năm, lời của Chúa Giêsu đã, đang được Giáo Hội hiện tại hóa trong các hoạt động của mình. Như thế, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô.
Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội của Giáo Hội góp phần xoa dịu nỗi đau khổ của những người nghèo hèn.
Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền, Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ.
Tin Mừng được rao giảng không những cho những người nghèo khó về vật chất, mà còn cho cả những người nghèo khó về tinh thần, nghèo khó về văn hóa, nghèo khó vì thiếu tình thương, nghèo khó khi phải sống trong bóng đêm lầm lạc của tội lỗi, thiếu ánh sáng thần linh soi chiếu.
Tin Mừng còn được rao giảng cho những người nghèo khó về niềm tin và hy vọng, nghèo khó về tình bạn, tình bằng hữu, tình người.
Tin Mừng cũng được rao giảng không phải chỉ cho những người đang bị giam cầm sau những song sắt nhà tù, mà còn cho những ai đang bị giam cầm trong ích kỷ, trong vòng đam mê tội lỗi, trong xiềng xích của dục vọng và lòng tham lam.
Tin Mừng cũng được rao giảng cho những kẻ đang bị áp bức một cách bất công trong xã hội, và cả những kẻ đang bị tha hoá bởi những tham vọng xấu xa của chính mình.
Tin Mừng cũng đem lại ánh sáng cho cả những người mù lòa tinh thần, sống trong bóng đêm của những mưu toan vị kỷ và sự gian dối. Tin Mừng đang chiếu tỏa ánh sáng “văn minh tình thương” cho một thế giới đang “lãnh cảm” trước những nỗi đau xót của con người.
Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). “Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương”. (Cánh cửa đức tin, số 13).
Ngày nay, Giáo Hội tiếp nối “Năm Hồng Ân” của Chúa Giêsu, Đấng Messia được Thánh Thần xức dầu và sai đi loan báo Tin Mừng, đó là toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023 bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông-tham gia-sứ vụ”. Hai điểm quan trọng của Hiệp Hành là đi con đường Giêsu và phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Lời Chúa không chỉ là Tin Mừng của ngày hôm qua, Tin Mừng cho ngày tận thế, mà còn là Tin Mừng của ngày hôm nay. Tin Mừng của Ngôi Lời Thiên Chúa ở cùng chúng ta. “Ứng nghiệm lời Kinh Thánh” là làm cho lời Kinh Thánh được trở nên hiện thực. Kinh Thánh ghi lại Lời; nhưng Lời đó không chỉ để đọc, để nghe, mà là Lời sống động, Lời ban sự sống, Lời phải được áp dụng vào đời sống, để sinh nhiều hoa trái tốt. Các Kitô hữu cũng được mời gọi tiếp nối chương trình hành động của Chúa Giêsu, để hiện thực hoá sứ điệp tin mừng cho con người trong thế giới “hôm nay”. Tất cả những việc làm để nâng đỡ người nghèo, quan tâm chăm sóc những người bệnh tật về cả thể xác lẫn tinh thần, đem lại sự ủi an cho những người cô đơn, thua thiệt trong xã hội, khoan dung với những kẻ lầm lỡ… đều là những hành động thiết thực để những “năm hồng ân” tiếp tục được lan toả cho con người “hôm nay”.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Chúa Giêsu và lịch sử Giáo hội. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời chúng con, để Lời Chúa biến đổi cuộc đời giúp chúng con sống Tin Mừng của ngày hôm nay.Amen
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai đoạn cách xa nhau: một đoạn mở đầu tác phẩm và một đoạn mở TN3-C169
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai đoạn cách xa nhau: một đoạn mở đầu tác phẩm và một đoạn mở đầu hoạt động rao giảng của Đức Giê-su.
1. Theo gương Lu-ca, nghiên cứu học hỏi
Trong đoạn mở đầu tác phẩm, Lu-ca cho hay trước khi ông viết cuốn Tin Mừng của mình, thì cũng đã có nhiều người biên soạn loại sách như thế, Mác-cô chẳng hạn. Lu-ca biết đến tác phẩm này, vì ông sử dụng nó và theo sát nó một đôi khi. Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để bàn đến cùng một chuyện. Không chỉ trích những người đi trước, Lu-ca dự định viết cách khác, theo kiểu riêng, với những điểm nhấn riêng của mình.
Trước hết, ông thú nhận rằng mình là một kẻ đã chẳng thấy Chúa, vì thuộc thế hệ Ki-tô hữu thứ hai. Nhưng vì gần với các biến cố đời Đức Giê-su, nên ông đã điều tra cẩn thận và dự tính chuyển lại cho chúng ta những gì chính ông đã nhận lãnh. Tiếp đến, Lu-ca minh nhiên thừa nhận ý hướng huấn giáo của mình: củng cố đức tin của người đọc (được ông gọi là Thê-ô-phi-lô. Đây là một tên riêng mà cũng có thể là một tên chung, tên biểu tượng, vì có nghĩa: “người yêu mến Chúa”). Tin Mừng chẳng phải là một phát minh, một huyền thoại, song là một cái gì có thực và rất nghiêm túc. Viết cho lương dân trở lại, nên theo gương thầy mình là thánh Phao-lô, Lu-ca sẽ nêu bật những khía cạnh mang tính chất phổ cập và giảm thiểu những khía cạnh thuộc riêng Do-thái. Tin Mừng của ông là một tác phẩm độc đáo và đã là bạn đường của nhiều Ki-tô hữu suốt bao thế kỷ.
Thế nhưng, theo cha André Sève, một chuyên gia phỏng vấn nổi tiếng [*], thì rất nhiều tín hữu khác nhau ngài gặp giống nhau ở một điểm là biết rất mơ hồ về Tin Mừng. Một số đã đọc trọn vẹn 4 sách Tin Mừng, nhưng chẳng mấy ai đã nghiên cứu các tác phẩm ấy từng câu, với những lời chú giải. Nhiều kẻ miệt mài với các sách tu đức, với những lớp thường huấn hay bổ túc về giáo lý; họ chực chờ ngày ra mắt của những sách tôn giáo thú vị. Dĩ nhiên, không thể trách họ về điều này. Nhưng e rằng họ sẽ chết trước khi được nuôi dưỡng bởi chính bản văn Tin Mừng! Vì Thánh Kinh là nền tảng của thần học, tu đức, giáo lý, như thánh Lu-ca nhắn gởi: “Sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì tôi thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc”. Vững chắc vì xây trên nền tảng Kinh Thánh. Nhiều người ngoại đạo đã ngạc nhiên mà bảo: “Các Ki-tô hữu có một cuốn sách nói với họ đủ mọi điều, thế mà họ biết nó quá ít!”
2. Theo gương Đức Ki-tô, đem vào cuộc sống
Trong đoạn nói về việc Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Lu-ca cho thấy Người cũng là một là một kẻ hiểu rõ (nếu không muốn nói là thành thạo) Thánh Kinh, biết đem Thánh Kinh vào mọi hoạt động của mình.
Được nguồn lực nội tâm thường xuyên là “quyền năng Thần Khí thúc đẩy” (x. Lc 1,35; 3,22; 4,1.14.18), Đức Giê-su đã đến “giảng dạy trong hội đường”. Giảng dạy trong hội đường trước hết là giải thích Cựu Ước. Đức Giê-su giảng dạy những gì? Người nối dài, tinh diễn (diễn đạt tinh vi), chú giải “Ngôn sứ và Lề luật”. Dẫu mới mẻ, Tin Mừng của Đức Giê-su vẫn dựa sâu xa trên các lời hứa của Kinh Thánh. Việc Công đồng tái đưa Cựu Ước vào bài đọc thứ nhất mỗi Chúa nhật là một sự canh tân nối tiếp một truyền thống cổ! Nhờ Vatican II, chúng ta làm lại điều Đức Giê-su đã làm.
Tuy nhiên, vì là Đấng Mê-si-a của kẻ nghèo, Đức Giê-su không tìm cách làm cho mình nổi bật. Người chẳng đến rao giảng tại Giê-ru-sa-lem, thành của vua chúa và giáo trưởng, nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị khinh bỉ, “Ga-li-lê của dân ngoại” (Mt 4,15), vùng đất của những kẻ khiêm tốn nghèo hèn. Là Đấng Mê-si-a-Tư tế, Đức Giê-su không lên Đền thờ để cử hành ở đó nhiều nghi thức, lắm hy lễ, nhưng đi vào một hội đường làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa, tập trung tất cả vào sách Thánh Kinh! Người cho thấy chức tư tế của mình trước tiên là làm ngôn sứ.
Ngày nay cũng thế, trước hết chúng ta hiệp thông với Đức Giê-su trong phần đầu của Thánh lễ mà người ta gọi là “phụng vụ Lời Chúa”. Đây không phải là một dẫn nhập phụ tùy, chẳng bó buộc, song đã là Thánh lễ. Đức Giê-su chỉ “thánh hiến” (truyền phép) một lần duy nhất trong đời, ngày thứ Năm thánh. Nhưng Người đã “cất lời” nhiều phen: đó đã là chức tư tế của Người. Khi nói mình “lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 15,16), thánh Phao-lô tỏ ra hiểu điều này rất rõ.
Cuốn sách Đức Giê-su cầm hôm đó, cuốn sách tay Người mở ra và mắt Người đã đọc thì vẫn còn mãi. Cuốn sách linh thánh này, bạn có ở nhà không? Phải chăng bạn dành thời giờ đọc nó? Phải chăng nó thuộc vào số những sách ưa thích của bạn? Và nhất là bạn có biến nó thành chỉ nam cho cuộc đời mình? thành “cuốn sách biến đổi thế giới”?
“Người mở sách ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi…”. Trong ngôn ngữ Ít-ra-en, cụm từ “Thần Khí Chúa ngự trên tôi” có nghĩa: tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa sai đi để nói nhân danh Người, để bày tỏ sứ điệp của Người. Đức Giê-su thành thử định nghĩa sứ mạng mình là làm ngôn sứ. Và Người đặt mình dưới sự bảo trợ của vị ngôn sứ lớn nhất: I-sai-a. Qua các thủ bản Qumran (gần Biển Chết), ta biết I-sai-a là một trong những sách được sử dụng nhất thời Đức Giê-su và các Tông đồ; thủ bản Thánh Kinh xưa nhất thế giới (tk I) tìm thấy thập niên 50 thế kỷ trước trong một hang động và hiện được giữ ở viện Bảo tàng Kinh thánh tại Giê-ru-sa-lem, chính là cuộn chỉ thảo trên đó viết tay toàn bộ sách I-sai-a. Ở đây Đức Giê-su đọc các câu 1-2 chương 61.
Đoạn sách nói tiếp: “… vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Trong tiếng Hy-lạp, từ “xức dầu” được viết là “chrisma”, và “kẻ được xức dầu” được viết là “christos”. Đây là nguồn gốc danh hiệu “Ki-tô”. Đức Giê-su chính là con người được xâm nhập, được xức dầu, được thấm nhuần chính Thần khí Thiên Chúa, như dầu thấm cơ thể. Kiểu nói “loan báo Tin Mừng” thoạt tiên đã được I-sai-a viết cho những kẻ bị lưu đày bên Ba-by-lon, để loan báo tin mừng là họ được giải thoát và Giê-ru-sa-lem được khôi phục! (Is 52,7). Nhưng một mối thất vọng bao la đã tiếp theo lời loan báo của vị ngôn sứ. Nhiều kẻ tiếp tục bị đồng loại áp bức, gặp bất hạnh, chỉ còn biết trông cậy Đức Chúa, và Thánh Kinh gọi họ là những “người nghèo”. Từ “nghèo” này không những gợi lên một thân phận thiệt thòi về kinh tế hay xã hội (nghèo cơm áo, nghèo văn hóa, nghèo tình thương, nghèo nhân quyền…), nhưng còn diễn tả thái độ nội tâm của người không ai nâng đỡ trước những kẻ mạnh thế trần gian, nên quay về với Thiên Chúa. Lu-ca sẽ đặc biệt thích thú nhấn mạnh chủ đề “Thiên Chúa ưu ái kẻ nghèo” này. Những ai cảm thấy bị loại khỏi hạnh phúc kiểu thế gian, hãy nhớ rằng mình là hạng được Đức Giê-su ngỏ lời trước hết. Có một hạnh phúc khả dĩ cho họ, hãy tìm từ phía Người!
Vì Người “công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Tùy theo tính khí, người ta sẽ tiếp tục giải thích sứ điệp phổ quát này theo hai hướng đối nghịch, trừ phi chọn cả hai: một sự giải thoát cụ thể trên bình diện chính trị và xã hội cho những kẻ bị giam cầm, bị mù lòa, bị áp bức… hay là một sự giải thoát mang tính tinh thần và thiêng liêng hơn.
Dĩ nhiên Đức Giê-su đã chẳng mở hết mọi nhà tù, đã chẳng chữa lành mọi kẻ bệnh tật, đã chẳng xóa khỏi hành tinh chúng ta những áp bức, than ôi! Vậy phải chăng đó là một lời hứa hão, dối gạt? Không! Chính chúng ta, môn đệ của Đức Giê-su, chi thể của Người, là có tội vì đã chẳng thực hiện sấm ngôn này, đã chưa làm đủ để giải thoát bênh vực những người bị đàn áp, để xoa dịu đỡ đần những kẻ lâm bệnh tật, thậm chí có lúc còn kết án hay mặc kệ những anh chị em đấu tranh cho nhân quyền.
Nhưng cũng chắc chắn rằng cảnh áp bức tồi tệ nhất là sự nô lệ tâm hồn mà tội lỗi gây nên trong ta. Từ được dịch là “trả lại tự do” ở đây cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77; 3, 3; 24, 47; Cv 2,38; 5,31…). Vâng, lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi ách nô lệ khủng khiếp trong tâm hồn là bị cầm giữ bởi hận thù, kiêu căng, dửng dưng, sợ hãi, xác thịt, tiền bạc, tiện nghi, lạc thú!... Công cuộc giải phóng đó đặc biệt cần cho thế giới của thế kỷ thứ 21 này, và chúng con có trách nhiệm làm cho nó được thể hiện: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Hôm nay phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh chúng ta vừa nghe! Hôm nay tôi phải cảm nhận ánh sáng soi chiếu và sức mạnh thúc đẩy của Tin Mừng như nhân vật trong câu chuyện dưới đây:
Một chuyên gia ngôn ngữ trẻ, người Trung Hoa, được mời dịch Tân Ước sang tiếng mẹ đẻ của mình. Ban đầu, anh làm việc cách thản nhiên, nhưng ít tuần sau anh đến gặp vị linh mục đã mời mình cộng tác và xúc động nói: “Thưa cha, quyển Tân Ước thật diệu kỳ!” - “Tại sao thế hả con?” - “Bởi vì sách nói rõ về chính bản thân con. Sách biết mọi điều có nơi con, từ thắc mắc suy nghĩ đến ưu tư khát vọng. Đấng sáng tạo ra sách ấy chính là Đấng đã sáng tạo ra con. Sách ấy cho con biết mình là ai và mình phải làm gì”. --------- [*] Cha Sève cũng là tác giả cuốn “L’Évangile du jour. 324 méditations” (Tin Mừng trong ngày, 324 bài suy niệm), Nhà xuất bản Bayard, Paris, 1997. 346 trang. Vắn gọn nhưng sâu sắc.
Niềm tin là sức sống, là sức mạnh, là hy vọng. Không có niềm tin con người không thể tồn tại TN3-C170
Niềm tin là sức sống, là sức mạnh, là hy vọng. Không có niềm tin con người không thể tồn tại được. Do đó, muốn sống phải có niềm tin. Niềm tin mang lại tương lai sáng lạng và niềm vui khôn nguôi. Chúa nhật hôm nay Bài Tin Mừng nói về Niềm Tin đã mất của người Do Thái trong thời kỳ bị lưu đầy. Khi Chúa cho họ trở về xum họp nơi đất tổ hẳn chẳng có niềm vui nào to lớn bằng. Vui nhưng vẫn cần sức mạnh để vươn lên. Hãy làm sống lại niềm tin để có sức mạnh tái tạo cuộc sống, Giáo Hội và đất nước.
LỜI CHÚA LÀ SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI
Bài đọc 1 hôm nay trích sách Nehemiah nói về sự tái tạo cộng đồng Do Thái sau thời kỳ bị lưu đầy và đền thờ Jerusalem bị phá hủy. Đây là câu chuyện nói về những bước khởi đầu của một cộng đồng đầy hy vọng, mặc dù có rất nhiều khó khăn trước mặt. Thầy cả Ezra và giáo dân Nehemiah [*] đã sống vào thời kỳ dân Israel trở lại đất tổ sau những năm tháng tù đày ở Babylon. Đây là thời kỳ tái tạo vì người dân đã mất hết niềm tin do bị thất lạc không còn liên lạc được với nhau.
Ezra và Nehemiah đã đưọc Thiên Chúa ủy thác để nhắc lại cho dân những điều họ đã mất để tạo dựng lại cộng đồng. Một lần nữa dân Do Thái được truyền đạt những lý tưởng cao cả về niềm tin, để họ bắt đầu lại cuộc sống mới lành mạnh về tôn giáo và cộng đồng xã hội.
Bài đọc I sống động hôm nay nhắc lại những luật lệ căn bản của đời sống cộng đồng. Dân chúng tụ họp lắng nghe tuyên cáo này trong bầu khí linh thiêng và cảm động. Có người bật khóc sung sướng vì được tự do nghe lời Chúa sau thảm cảnh Jerusalem bị phá hủy và lịch sử ơn cứu độ nay bắt đầu trở lại. Tuy nhiên Nehemiah đã cảnh cáo họ đây chỉ là ngày lễ hội. Để Chúa ban sức mạnh cần phải biết cám ơn Chúa vì những ơn Chúa ban. Và phải lắng nghe Lời Chúa và thực hành, bởi vì Lời Chúa chính là sức mạnh và niềm vui hy vọng.
Vậy trước quang cảnh vĩ đại này chúng ta phải làm gì? Bài đọc này chính là lời kêu gọi mỗi người chúng ta, đặc biệt những thừa tác viên mục vụ, phải cám ơn Chúa vì Người đã không quên chúng ta, lại ban cho chúng ta đủ thứ. Đồng thời cũng nên cám ơn tất cả những ai đã từng cộng tác với mình hàng ngày trong việc tái tạo nền móng đức tin của chúng ta và Giáo Hội.
KẾ HOẠCH MỤC VỤ CỦA THÁNH LUCA
Bài Tin Mừng hôm nay là lời mở đầu phúc âm Luca (Lc 1:1-4), điểm duy nhất trong bốn phúc âm thư có lời mở đầu. Luca đã nhận ra được là ngài mắc nợ những người đã chứng kiến từ đầu và những người phục vụ Lời Chúa. Ngài cũng quả quyết là những đóng góp của ngài thì đầy đủ và chính xác được kể theo thứ tự, và chắc chắn là có ý cung cấp cho Theophilus (bạn Chúa) và những độc giả khác những giáo huấn mà họ đã nhận được trước đây. Luca đã không nói là những điều họ học được lúc đó là sai lầm, nhưng công nhận và quả quyết là vì niềm tin và ước nguyện của họ muốn được biết thêm về Chúa Giêsu, và ngài đã xếp đặt mọi sự cho có thứ tự thời gian để niềm tin của họ được mạnh mẽ hơn. Kế hoạch mục vụ như vậy đã tạo được nhiều kết quả trong việc truyền đạt niềm tin ở thời đại ngày nay.
CẬU BÉ TRỞ VỀ TỈNH NHÀ
Luca không phải là thánh sử duy nhất đã ghi lại việc Chúa Giêsu trở về thăm Nazareth, nơi Người đã được nuôi dưỡng và lớn lên (Lc 4:16). Hai thánh Máccô và Mátthêu cũng viết về giai đoạn này nhưng không nêu tên Nazareth mà nói là “tỉnh nhà” (Mc 6:1; Mt 13:54). Tuy nhiên có nhiều khác biệt giữa câu chuyện Luca và của Mácco và Mátthêu. Mac cô nói Chúa trở về không phải lúc người khởi đầu sứ vụ, nhưng sau một thời gian dài rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh và bàn cãi về những dụ ngôn (Lc 4:1-34) và làm phép lạ cho con gái ông Jairus sống lại (Lc 8:40-55). Mátthêu thì nói Chúa Giêsu cũng đã loan báo sứ vụ của Người cho “12 Tông đồ” (Lc 10:2-42; Mt 10:1-16).
Luca đã sắp đặt những câu chuyện này lúc khởi đầu sứ vụ của Chúa. Thoạt nhìn chúng ta tưởng là thánh Luca có ý sửa lại thời biểu của Maccô và Mátthêu. Nhưng chi tiết câu chuyện của ngài cho thấy ý nghĩ đó không đúng vì khi Chúa Giêsu giảng dạy, Người nói là dân thành Nazareth sẽ nói với Người là: “Chúng tôi đã nghe biết tất cả những điều này ở Capernaum rồi, bây giờ hãy làm như vậy ở tỉnh nhà của ông xem sao” (Lc 4:23). Điều này cho thấy trước khi về Nazareth, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ ở Capernaum và đã gây rất nhiều ngạc nhiên nơi dân chúng đến độ tiếng vang đã bay về tới Nazareth.
GIÂY PHÚT BẤT NGỜ
Chúa Giêsu đã gây nhiều bất ngờ cho mọi người trong nhà hội ở Nazareth. Chúa mở sách ngôn sứ Isaiah và đọc chương 61. Bản văn này đã lấy ra từ tập thơ nói về những ngày sau cùng, báo trước dân thành Jerusalem sẽ được cứu rỗi, biểu tượng canh tân của dân Israel. Khi những lời này được nói ra từ chính miệng Chúa Giêsu thì rõ ràng Người tự nhận mình là ngôn sứ thiên sai của thời cánh chung. Những lời này cũng cho mọi người biết sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng, giải phóng tất cả mọi người nam cũng như nữ và nói cho họ biết về ân sủng của Thiên Chúa. Do đó toàn thể sứ vụ của Chúa Giêsu phải được hiểu theo viễn tượng này.
Mở sách Isaiah ra, Chúa thấy ngay chỗ viết: “Thần khí Chúa đã ở trong tôi!” (Lc 4:16-18; Is 61:2). Rất đặc biệt, giòng cuối cùng Chúa Giêsu đọc là: “công bố hồng ân một năm của Chúa” (Lc4:19;Is 61:2), và liền sau đó là một tuyên cáo rất rõ ràng về sứ điệp của Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Cách nói của Isaiah (61:2) “năm hồng ân của Chúa” rõ ràng ám chỉ một mệnh lệnh được ghi trong Sách Leviticus về năm Thánh Toàn xá (Lv 25:10-13).
Khi kể lại câu chuyện Chúa Giêsu ở trong hội trường, Luca đã không trích lại toàn thể câu văn của Isaiah. Động từ “công bố” trong câu văn của Isaiah có hai túc từ (xem Is 61:2), Luca chỉ trích có túc từ thứ nhất là “hồng ân một năm của Chúa” mà quên túc từ thứ hai là “Ngày báo thù cho Chúa chúng ta”. Lời tiên tri của Isaiah báo trước là Thiên Chúa sẽ can thiệp ở hai phương diện, một là giải phóng dân Do Thái, hai là trừng phạt kẻ thù của họ. Tin Mừng không nói tới phần chống đối của kẻ thù. Sự bỏ sót này rõ ràng cho thấy hai hậu quả: một là thông điệp không có tính tiêu cực và hai là ẩn tàng tính phổ quát. Cũng không thấy có gì ám chỉ phân biệt giữa dân Do Thái và không phải Do Thái. Sự mở rộng phổ quát là đặc tính chính của sứ vụ rao giảng của chúa Giêsu, nhất là trong Tin Mừng Luca và Tông Đồ Công Vụ.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với khán thính giả rằng Người là Đấng kiện toàn lời tiên tri Isaiah. Nói cách khác lời tiên tri Isaiah “hôm nay” đã ứng nghiệm. Do đó Chúa Giêsu đã nói cho chúng ta biết buổi khánh thành sứ vụ công khai của Người đánh dấu ngày đầu của thời cánh chung, đồng thời cũng là bước đầu công cuộc cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Sự tương đồng giữa lời Chúa Giêsu và lời tiên tri Isaiah quả rất thích hợp với sứ vụ của Chúa Giêsu; Người đã nhắc nhở chúng ta là lịch sử không che dấu những vinh quang khải hoàn và cả tai họa, sự trung thành và bất trung của Israel qua mọi thời đại mà còn làm cho họ nổi bật lên.
Giờ của Chúa Giêsu đã đến để Người nắm lấy lịch sử trong tay Người, để đối đầu với nó bằng chính thân xác Người, để Người làm một cái gì khác thường, và để nhắc nhở mọi người rằng Thiên Chúa đã không bỏ những kẻ than khóc, những kẻ hy vọng, những kẻ đau khổ và những kẻ ước mơ. Thiên Chúa sẽ hoàn thành những điều đó trong chính con một Người là Đấng đã đang đứng giữa hội trường Nazareth. Qua quyền lực của chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã hoàn chỉnh lời tiên tri Isaiah, mang lại tin vui và tuyên bố trả tự do cho những kẻ bị cầm tù. Không phải tất cả mọi người sẽ chấp nhận Tin Mừng này như phần còn lại của bài Phúc Âm cho chúng ta thấy.
NHÀ GIẢNG THUYẾT THẤT BẠI
Nếu đọc tiếp câu chuyện Phúc Âm hôm nay, chúng ta sẽ nhận ra được bầu khí náo loạn, kinh hãi và nghi hoặc, biến thái rất nhanh khi mà Chúa Giêsu Nazareth không nói những lời mà dân địa phương muốn Người nói. Sau khi Chúa Giêsu đưa ra 4 điểm chính của chương trình sứ vụ của Người trong hội trường ở Nazareth (Lc 4:16-21), đám đông trở nên ồn ào, tỏ vẻ ganh tị và muốn đuổi Chúa ra khỏi đó (Lc 4:22-30). Chúa Giêsu đã không thành công trong việc làm cho họ nghe và hiểu Người để rồi phải vội vã ra đi… để thoát thân (Lc 4:30).
Những hình ảnh đầu tiên trong sứ vụ của Chúa Giêsu là hình ảnh một người thất bại, chẳng ai thèm để ý tới và hưởng ứng. Dân thành Nazareth thì từ chối không chịu nghe sứ điệp về giải phóng, tự do và hoà giải. Họ đã nghe những điều tương tự như vậy nhưng hoàn toàn với thái độ và màu sắc riêng của họ.
LỜI KẾT: ĐÁP ỨNG LỜI CHÚA
Giống như dân Israel trong bài đọc I tụ tập quanh thầy cả Ezra và lắng nghe lời Chúa với nỗi niềm xúc động khôn tả (Ne 8:5), chúng ta, cũng đứng nghe sứ điệp sống của Chúa và cảm thấy Người hiện diện trong đó và trong mỗi một nghi thức phụng vụ. Ezra chúc tụng Thiên Chúa vĩ đại cao cả và tất cả dân đều giơ cao hai tay thưa “Amen! Amen!” (Ne 8:6). Với tiếng Amen kết thúc mỗi kinh đọc lúc viếng Mình Thánh Chúa, chúng ta nhận thức được Chúa Giesu Kito hiện diện thực sự trên bàn thờ, Chúa là Lời hằng sống và vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha.
Với dân chúng tụ tập trong hội trường Nazareth, chúng ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô và nghe Lời Chúa ứng nghiệm trong chính con người Chúa. Lời bằng xương bằng thịt thực sự. Để đáp ứng lời tuyên xưng này, chúng ta đọc lớn “Amen”, “Tôi Tin!”
Chớ gì Thần Linh Thiên Chúa xức dầu Chúa Giêsu cũng xây đắp chúng ta thành một thân xác và gửi chúng ta đi muôn nơi để tuyên xưng tự do và hồng ân Thiên Chúa cho muôn dân. Niềm Tin.
[*] EZRA là luật sĩ và tư tế / thầy cả được vua Ba Tư Artaxerxes gửi đi lãnh đạo dân Do Thái bị lưu đầy ở Babylon về Jerusalem với quyền hạn cả về tôn giáo lẫn chính trị. Ông cùng với Zerubbabel và Jeshua từ Babylon trở về Jerusalem (Neh 12:1,12; Azariah 10:2). Ông là tư tế từng tham dự lễ tái cung hiến tường thành Jerusalem (Neh 12: 33).Có người cho là Ezra và Nehemiah là những cộng sự viên, nhưng không chắc cho lắm (Neh 8:9; 12:26,36).
NEHEMIAH là con trai Hacaliah (Neh 1:1), là tổng trấn/Thống đốc Jerusalem, thủ lãnh dân Israel thời sau lưu đầy. Ông trở về Jerusalem cùng với Zerubbabel từ Babylon sau khi bị cầm tù vào năm 538 B.C.E. (Ezra 2:2; Neh 7:7).
Thỉnh thoảng, tôi có nghe ông này bà kia nói, họ có tính tự lập, cả đời không cần phải NHỜ VẢ TN3-C171
ai cả! Theo tôi, chẳng có ai sinh ra trên đời này lại có thể tự lực cánh sinh và không phải nhờ vả đến người khác. Làm sao mà người ta có thể sống và tồn tại trên đời này mà lại KHÔNG BAO GIỜ NHỜ VẢ hay KHÔNG CẦN NHỜ VẢ AI cả??? It's impossible!
Để có thể tồn tại được trên cõi dương gian này, người ta, trong đó có tôi và có bạn, đã, đang và vẫn còn phải NHỜ VẢ và TỰA NƯƠNG vào người khác ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Những người mà chúng mình trong qua khứ, trong hiện tại và cả trong tương lai phải NHỜ VẢ và liên đới chặt chẽ thì nhiều vô số, tôi xin đơn cử ra một ít thôi!
• Những người công nhân đổ rác, những người đưa thư, những người bỏ báo, những công nhân quét dọn đường phố, tu sửa đường xá, cầu cống…
• Những người công nhân trong các nhà máy, hãng xưởng để chế biến và cung cấp những mặt hàng thực phẩm như sữa, juice, bánh mì, cheese, bơ…
• Những người nông dân đang cực khổ, vất vả trồng cấy, chăm bón…để cung cấp cho chúng mình trái cây, rau tươi và gạo thơm…
Tắt một lời, không ai trong chúng mình có thể tồn tại và phát triển được nếu như chúng mình không NHỜ VẢ đến người khác. Nói một cách khác, dù muốn hay không muốn, bạn và tôi cũng vẫn phải NHỜ VẢ đến rất nhiều người. Trong đời sống tâm linh cũng thế, bạn và tôi phải NHỜ VẢ đến rất nhiều người. Tôi xin đơn cử ra đây vài ví dụ:
• Là một Kitô Hữu, trước tiên, tôi phải NHỜ VẢ đến hàng giáo sĩ. Bởi vì nếu không có hàng Giáo Sĩ, không có Phó Tế, không có Linh Mục, và không có Giám Mục thì tôi sẽ không nhận được sáu bí tích khác, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, bí tích Giải Tội, và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
• Là linh mục, tôi phải nhờ vả đến rất nhiều người: Hội Đồng Giáo Xứ, quý ân nhân, các Ban Nghành Đoàn Thể, các em giúp lễ, ca đoàn, thừa tác viên đọc sách, thừa tác viên Trao Mình Thánh Chúa Ngoại Thường, ban an ninh trật tự, ban Ẩm Thực, Hội Phụ Huynh Học Sinh, Ban Giám Thị, quý thầy cô, quý thiện nguyện viên: những người lau chùi nhà vệ sinh, hút bụi, cắt cỏ, tỉa cây, làm đẹp thánh đường…
• Là những thành viên trong Giáo Hội Lữ Hành, chúng mình phải nhờ và vào các thành viên của Giáo Hội Chiến Thắng tức các thánh đang ở trên Thiên Quốc bởi vì các ngài có khả năng chuyển cầu cùng Chúa cho chúng mình. Sách Toát Yếu GLCG # 564 khẳng định điều này: “Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta về cầu nguyện và chúng ta cũng van xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn thế giới nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chuyển cầu của các ngài là việc các ngài phục vụ một cách cao cả nhất cho kế hoạch của Thiên Chúa.”
Tắt một lời, trong đời sống tâm linh, trên cuộc hành trình về Nước Trời, sự nhờ vả và cậy dựa lẫn nhau là một chuyện cực kỳ quan trọng tôi và bạn cần phải làm mỗi ngày.
Bạn thân mến, nếu hôm nay bạn nhìn thấy tầm quan trọng của sự liên đới giữa bạn với tha nhân và sự cần thiết của việc NHỜ VẢ lẫn nhau thì tôi xin mạn phép được đề nghị với bạn ba việc:
• Thứ nhất: Ghi danh gia nhập vào một cộng đoàn, hay vào một giáo xứ mà bạn hay đến tham dự những Thánh Lễ Chúa Nhật… Đừng sống lẻ loi, lang thang nay nhà thờ này mai nhà thờ nọ nữa! Khi trở thành một thành viên trong một giáo xứ bạn sẽ nhờ vả được nhiều thứ và giáo xứ cũng được nhờ vả bạn nữa!
• Thứ hai: Tích cực tham gia, và ghi danh vào các hội đoàn, vào những ban nghành, những hiệp hội nơi giáo xứ (hay cộng đoàn) của bạn…để người khác có cơ hội để NHỜ VẢ bạn, và cũng là cơ hội tốt để bạn NHỜ VÀ người khác. Nếu trong đời sống tâm linh mà bạn cứ cu ki sống một mình không nhờ vả gì đến ai thì khi bạn lâm bệnh, khi bạn yếu đau, khi bạn hấp hối và nhất là lúc bạn hay ngưòi thân trong gia đình qua đời…bạn sẽ thấy những thiệt hại của việc không thèm NHỜ VẢ người khác đấy!
• Thứ ba: Hôm nay hãy bỏ ra vài phút để ghi xuống tên của những ân nhân, những người mà bạn đã từng và thường xuyên NHỜ VẢ họ. Sau đó bạn hãy cầu nguyện cho họ, nếu họ ở gần và nếu có thể, bạn hãy nói lên lời cảm ơn hay bày tỏ lòng biết ơn của bạn vì bạn đã NHỜ VẢ họ quá nhiều nhưng nhiều lúc bạn không nhận ra. Xin hãy ghi nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận…mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’ đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày’” (1 Cr 12:21). Đừng bao giờ nghĩ rằng, mình không cần nhờ vả đến ai cả! Nói như vậy là nói liều và là kiêu ngạo đấy!
Cầu chúc bạn và gia đình một tuần mới tràn ngập niềm vui và luôn sống trong ơn nghĩa của Chúa.
Phúc Âm là Thư Tình của Thiên Chúa gởi cho nhân loại. Tình yêu và lòng thương xót là “chất” TN3-C172
Phúc Âm là Thư Tình của Thiên Chúa gởi cho nhân loại. Tình yêu và lòng thương xót là “chất” luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, nhất là trong Phúc Âm theo Thánh Luca. Thật vậy, Chúa Giêsu đã minh định: “Con Người đến để TÌM và CỨU những gì đã mất.” (Lc 19:10)
Là thầy thuốc nên Thánh Luca rất quan tâm vấn đề y đức: Lương y như Từ Mẫu. Ông đề cao 3 điều: [1] Chúa Giêsu là Ðấng cứu độ mọi người, giao hòa nhân loại với Thiên Chúa; [2] Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thương xót; [3] Tinh thần từ bỏ mình và sống nghèo khó. Quả thật, trong Phúc Âm này có ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót: [1] Con chiên bị mất, (Lc 15:4-7) [2] Đồng bạc bị mất, (Lc 15:8-10) và nổi bật là [3] Người cha nhân hậu. (Lc 15:11-32) Phúc Âm của Thánh Luca được viết vào khoảng giữa năm 70 và 75 sau công nguyên.
Như chúng ta đã biết, Thánh Luca là người Hy Lạp, là tân tòng, là môn đệ của Thánh Phaolô, là tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Công Vụ. Ông là dân trí thức, giỏi viết văn mà cũng khéo kể chuyện. Ông đề tặng cả hai tác phẩm cho một nhân vật thế giá, cũng là tân tòng, tên là Thêôphilô. Theo Hy ngữ, Thêôphilô nghĩa là “người yêu mến Chúa.” Rất có thể ông là tân tòng đại diện cho nhóm độc giả mà thầy thuốc Luca nhắm tới, muốn họ am tường giáo huấn của đạo mới – đạo yêu thương của Thiên Chúa.
Qua trình thuật Lc 4:14-21, Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê. Hôm đó, mọi người tôn vinh Ngài vì nghe Ngài giảng dạy chí lý và chí tình trong hội đường, do đó tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương, đó là điều tất nhiên. Mọi người phải tâm phục khẩu phục, không ai có thể phủ nhận.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là “chiếc nôi” của cuộc đời, dù nó đẹp hay xấu, lớn hay nhỏ. Nadarét là quê hương của Chúa Giêsu. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát. Người ta trao cho Ngài sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp ngay đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19)
Ngôn sứ Isaia đã đề cập Năm Hồng Ân. (Is 61:1-3) Đó là năm đặc biệt mà chúng ta gọi là Năm Thánh. Đọc xong, Ngài cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Lúc đó, Ngài nói ngay: “Hôm nay đã ỨNG NGHIỆM lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Kinh Thánh là Thánh Ngôn của Thiên Chúa, cũng là Thánh Ý của Ngài muốn đối với mỗi chúng ta. Chẳng chóng thì chày, Kinh Thánh luôn ứng nghiệm đến từng chi tiết.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định rằng Ngài đến thế gian không phải là để bãi bỏ luật Cựu Ước hoặc luật Môsê, nhưng để kiện toàn lề luật. Mọi chi tiết đều nên trọn, như có lần Ngài đã xác định: “Trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi MỌI SỰ ĐƯỢC HOÀN THÀNH.” (Mt 5:18)
Có thể nói rằng chúng ta luôn sống trong Năm Hồng Ân, bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu Năm Hồng Ân. Tuy nhiên, vì điều kia hay sự nọ mà chúng ta đã và đang có những lúc quên mất. Có những lúc giật mình hồi tâm, chúng ta mới thấy mình thật tệ đối với Thiên Chúa. Vì thế, ước gì ai cũng tự nhủ như Thánh Vịnh gia: “Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung.” (Tv 119:11) Đồng thời cũng mong sao chúng ta can đảm bảo vệ sự sống, bảo vệ chân lý và công lý như Chúa Giêsu đã truyền dạy, để thế giới không còn áp bức, bóc lột, bất công, bất nghĩa, bất chính,... mọi người được sống đúng với nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được sống tự do đích thực.
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một NĂM HỒNG ÂN của Đức Chúa, một NGÀY BÁO PHỤC của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi YÊN ỦI mọi kẻ khóc than, TẶNG cho những kẻ khóc than ở Sion tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là CÂY THÁNH RỪNG THIÊNG, là vườn cây Đức Chúa trồng để làm cho Người được vinh hiển.” (Is 61:1-3) Thật tuyệt vời!
Chi tiết được đề cập trong sách Nơkhemia: “Ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Étra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc TỪ SÁNG SỚM TỚI TRƯA, và toàn dân LẮNG TAI NGHE sách Luật. Kinh sư Étra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này.” (Nkm 8:2-4a) Luật Chúa rất cần nghiên cứu và tuân thủ hàng ngày, giữ luật Chúa là yêu mến Ngài. Mà luật Chúa là yêu người. Thánh Gioan phân tích rạch ròi: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.” (1 Ga 2:4-5)
Còn nữa, sách Nơkhemia cho biết: “Ông Étra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. Bấy giờ ông Étra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: ‘Amen! Amen!’ Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa.” (Nkm 8:5-6) Lời Chúa được mọi người kính trọng, họ đã chứng tỏ bằng hành động cụ thể.
Toàn dân hiểu được Luật Chúa, nhờ ông Étra và các thầy Lêvi đọc rõ ràng và giải thích những gì các ông đọc. Tổng đốc Nơkhemia, tư tế kiêm kinh sư Étra, cùng các thầy Lêvi, giảng giải Luật Chúa cho dân chúng và nói: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em ĐỪNG SẦU THƯƠNG KHÓC LÓC.” Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Étra còn khuyên họ về ăn mừng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là NGÀY THÁNH HIẾN cho Chúa chúng ta. Anh em ĐỪNG BUỒN BÃ, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.” (Nkm 8:8-10)
Thiên Chúa ban ơn thánh chan hòa cho những người tuân giữ Thánh Luật của Ngài, và ngày thánh hiến là ngày vui mừng, hạnh phúc, không thể u sầu, khóc lóc. Luật Chúa là huấn lệnh kỳ diệu. Thánh Vịnh cho biết: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh.” (Tv 19:8-10) Biết được như vậy thì an tâm, cứ tuân giữ với niềm vui trong lòng.
Thế nhưng con người thường hứa trước, quên sau, nói nhiều mà chẳng làm được bao nhiêu. Vì thế, chúng ta phải cầu xin và khấn nguyện: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài.” (Tv 19:15)
Có ngày này, tháng nọ, năm kia là để nhắc nhở chúng ta đừng quá vui, quá buồn hoặc quá lo mà quên Chúa. Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở qua lệnh truyền của Ngài dành cho mọi người – không trừ ai, ở mọi nơi và mọi thời, ai cũng phải loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, đặc biệt là thực hiện công lý và hành động cụ thể: “Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19)
Đó là trách nhiệm của mọi người, không đặc cách hoặc loại trừ ai. Mọi người đều có mối liên hệ nào đó với nhau – dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp, đặc biệt là trong mối quan hệ tâm linh, vì tất cả chúng ta đều là các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô so sánh cụ thể: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.” (1 Cr 12:12-13)
Chỉ có một thân thể nhưng có nhiều cơ phận. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,’ thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể,’ thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày,’ đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày’.” (1 Cr 12:12-21) Phân biệt, ganh tị nhau như vậy thì chỉ có “chết” mà thôi.
Có ngụ ngôn kể rằng, răng ỷ mình cứng nên chê môi và lưỡi mềm nên cứ phải dựa vào nó. Trời lạnh, môi và lưỡi co lại, răng dù cứng nhưng chịu buốt giá và rụng dần, còn môi và lưỡi mềm nhưng vẫn an toàn. Tục ngữ nhận định chí lý: “Cười người hôm trước, người cười hôm sau.” Sông có khúc, người có lúc, nay thế này, mai thế khác, đừng ảo tưởng, chớ ỷ mình mà rồi có lúc không biết giấu mặt nơi nào. Hối không kịp. Hiểu được thì đã muộn rồi. Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc phải cậy nhờ người khác về việc này hay chuyện nhỏ. Chẳng ai tự túc mọi sự suốt đời đâu!
Thật vậy, Thánh Phaolô cho biết cụ thể: “Những bộ phận xem ra YẾU ĐUỐI NHẤT thì lại là CẦN THIẾT NHẤT; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12:22-26) Cơ thể chúng ta có nhiều bộ phận, mỗi bộ phận là một bài học phong phú mà chúng ta phải học để sống. Tất cả đều mang tính liên đới.
Thiên Chúa thật kỳ diệu khi tạo dựng con người với các cơ phận khác nhau: Mỗi người có HAI tay, HAI chân, HAI tai, HAI mắt, HAI lỗ mũi, nhưng chỉ MỘT miệng. Đúng là Thiên Chúa muốn chúng ta LÀM nhiều, ĐI nhiều, NGHE nhiều, NHÌN nhiều, NGỬI nhiều, nhưng NÓI ÍT hoặc KHÔNG NÓI. Tương tự, não bộ có HAI bán cầu não mà chỉ có MỘT trái tim: Phải SUY NGHĨ nhiều và YÊU THƯƠNG không ngừng.
Thánh Phaolô kết luận: “Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30) Chắc chắn mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm riêng, mỗi người như viên gạch, ở chỗ này hoặc chỗ kia, nhưng viên nào cũng có tầm quan trọng riêng, và cùng liên kết để làm nên bức tường và tòa nhà.
Một khi nhận thức được như vậy, không ai còn dám kiêu ngạo về bất cứ điều gì nữa. Quả thật, kiêu ngạo là ngu xuẩn, là khốn nạn, và chắc chắn bị Thiên Chúa loại trừ. (x. Lc 1:52) Ước gì chúng ta triệt tiêu được “cái tôi” để không còn tự ái vặt, và có thể triệt tiêu thói kiêu căng. Ý thức được vậy sẽ dễ dàng thương xót người khác như Chúa muốn.
Cuộc sống luôn phải canh tân và thích nghi với mọi hoàn cảnh, người ta đề nghị ba quyết định cần phải hành động: [1] theo ý Chúa muốn, [2] theo cách Chúa muốn, [3] vì ý Chúa muốn. Và có thêm bốn nỗ lực khác cũng rất thú vị là MẠNH MẼ HƠN về thể lý, về trí tuệ, về cảm xúc, và về tâm linh. Muốn có hòa bình thì phải thực hiện công lý, thể hiện công bình và bác ái, và cũng là thể hiện lòng thương xót đối với mọi người – nhất là đối với những người hèn mọn, những người đơn độc đứng bên lề xã hội,...
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin thúc giục mọi người biết tận dụng thời gian để tận hưởng ơn Ngài trao ban vì Lòng Thương Xót và sống xứng đáng là con cái Ngài suốt hành trình trần gian này, vì Ngài đã thương cứu chúng con thì chúng con cũng phải thương cứu lẫn nhau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga TN3-C173
Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải.
Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đứng lên đọc Sách Thánh. Người mở sách ngôn sứ Isaia và gặp đoạn chép rằng: " Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối... trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng" (Lc 4, 14-18). Mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng. Chúa Giêsu tuyên bố : "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4, 21).
Chúa Con được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…
"Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21).
Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.
Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: "Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người"(Lc 4,20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.
Giáo hội đươc sai đi
Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: "Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: "Hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội, đã được xức Dầu và cũng được sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ. Chúa Giêsu là Đấng được xức dầu, là Đấng Kitô. Việc xức dầu là quan hệ nhân quả với nghĩa vụ của việc giảng dạy. Việc xức dầu để trở thành Đấng Mêsia có một mối liên hệ chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Rao giảng Tin Mừng về nước Thiên Chúa là sứ vụ chính yếu của Đức Giêsu (Lc 4,43;7,22-23) và của chúng ta.
Người kitô hữu đã được xức Dầu và cũng được sai đi
Ngày 06/01/2022, Đức Thánh Cha đã công bố Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2022 với chủ đề: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy" (Cv 1,8). Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu loan báo sứ điệp cứu độ của Chúa Kitô trong mọi chiều kích của đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đức Thánh Cha nói tiếp: "Loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn là sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðây cũng chính là sứ mạng của Giáo hội và của tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa trong Giáo hội…Là một Kitô hữu cũng chính là một nhà truyền giáo. Rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, mà trước hết là bằng chính đời sống, là mục đích chính yếu mọi thành phần dân Chúa, cần phải đến gần với người nghèo, phục vụ họ, và thực hiện tất cả những điều này trong danh Ðức Kitô với Thần Khí của Ðức Kitô, vì Người chính là Tin Mừng của Thiên Chúa" (x. Sứ điệp truyền giáo 2022).
Mọi Kitô hữu được mời gọi trở thành một nhà truyền giáo và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta thực hiện sứ vụ truyền giáo trong Giáo hội, vì được Giáo hội sai đi nhân danh Chúa Kitô loan báo Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất”. Chúng ta cũng nhận được sức mạnh từ Chúa Thánh Thần và được Thánh Thần hướng dẫn để làm chứng đầy đủ và chân thực cho Chúa Kitô là Chúa đã đến trong thế gian. Vì thế, khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, không có động lực hoặc bối rối, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần.