Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 751-800

Thứ ba - 19/02/2019 05:56
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 751-800
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 751-800
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 751-800
Bùi-Tuần 751: HIỂU BIẾT TÌNH HÌNH 20-04-2000. 2
Bùi-Tuần 752: CHỨNG TÍCH PHỤC SINH 21-04-2000. 4
Bùi-Tuần 753: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA 22-04-2000. 7
Bùi-Tuần 754: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN 28-04-2000. 8
Bùi-Tuần 755: PHỎNG VẤN ĐỨC CHA BÙI TUẦN 30 -04-2000. 11
Bùi-Tuần 756: KHỞI ĐẦU MỚI 01-05-2000. 14
Bùi-Tuần 757: 06-05-2000BT22: BIẾN  CỐ  TỪ  TRẦN.. 15
Bùi-Tuần 758: TỔ PHỤ ABRAHAM NƠI  ĐỨC THÁNH CHA.. 17
Bùi-Tuần 759: NĂM THÁNH VÀ THÁNH  TÂM 02-06-2000. 19
Bùi-Tuần 760: HÌNH ẢNH MỘT NGƯỜI TÔNG ĐỒ 06-06-2000. 21
Bùi-Tuần 761: NGƯỜI THANH NIÊN GIÀU CÓ 09-06-2000. 25
Bùi-Tuần 762: SỐNG TRONG SỰ THỰC 11-06-2000. 27
Bùi-Tuần 763: XÉT MÌNH VỀ MỘT CHẶNG ĐƯỜNG  NĂM THÁNH.. 29
Bùi-Tuần 764: SỨC THU HÚT NƠI THÁNH GIOAN  BAOTIXITA.. 33
Bùi-Tuần 765: TÍN HIỆU 27-06-2000. 35
Bùi-Tuần 766: SỐNG ĐẠO VỚI NHỮNG CHỌN LỰA TỐT 29-06-2000. 37
Bùi-Tuần 767: FATIMA VÀ CẢNH  BÁO 21-07-2000. 40
Bùi-Tuần 768: TRỞ NÊN NGƯỜI CÓ ÍCH 26-07-2000. 43
Bùi-Tuần 769: TIẾP CẬN VỚI CÁC TÔNGIÁO TẠI ĐỊA  PHƯƠNG.. 45
Bùi-Tuần 770: NHỮNG CHÂN LÝ NHỎ 12-08-2000. 47
Bùi-Tuần 771: VỀ VỚI CHA 15-08-2000. 50
Bùi-Tuần 772: MỘT GÓC NHÌN GIẢI PHÓNG 19-08-2000. 52
Bùi-Tuần 773: MỘT CON ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO 22-08-2000. 55
Bùi-Tuần 774: CÙNG VỚI ĐỨC MẸ  ĐI THĂM NẠN  NHÂN LŨ LỤT.. 57
Bùi-Tuần 775: BIẾT GỢI Ý VỀ TIN MỪNG 22-09-2000. 59
Bùi-Tuần 776: CẢM NGHIỆM HÀNH HƯƠNG 20-10-2000. 61
Bùi-Tuần 777: HÀNH HƯƠNG VÀ NHỮNG CHỨNG NHÂN 04-11-2000. 65
Bùi-Tuần 778: CỨU TRỢ VÀ ĐƯỢC CỨU TRỢ 12-11-2000. 67
Bùi-Tuần 779: NƯỚC CHÚA TỚI GẦN 17-11-2000. 70
Bùi-Tuần 780: SỐNG MÙA VỌNG VỚI ĐỨC MẸ MARIA 01-12-2000. 72
Bùi-Tuần 781: NHỮNG NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI CHÚA TẠI HANG ĐÁ.. 75
Bùi-Tuần 782: NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HOÁ 10-12-2000. 78
Bùi-Tuần 783: LỜI HỐI THÚC CỦA NĂM THÁNH 15-12-2000. 80
Bùi-Tuần 784: CỘNG TÁC BẰNG TĂNG CƯỜNG CẦU  NGUYỆN.. 84
Bùi-Tuần 785: NHỮNG VẺ ĐẸP CỨU ĐỘ 21-12-2000. 86
Bùi-Tuần 786: BẢN THÂN HÃY LÀ THÁNH LỄ 26-12-2000. 89
Bùi-Tuần 787: LỜI ĐẦU TIÊN Ở ĐẦU THẾ KỶ 30-12-2000. 91
Bùi-Tuần 788: CUỐI NĂM TÍNH SỔ LỜI NÓI 04-01-2001. 94
Bùi-Tuần 789: XUÂN VÀ BIỂN 08-01-2001. 97
Bùi-Tuần 790: LỜI SAI ĐI 11-01-2001. 99
Bùi-Tuần 791: ĐẦU XUÂN, TÌM MỘT CÁI NHÌN 24-01-2001. 101
Bùi-Tuần 792: CẦU NGUYỆN TẠI LỘ ĐỨC 03-02-2001. 103
Bùi-Tuần 793: ĐỨC HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN, NGƯỜI BẠN TÔI 105
Bùi-Tuần 794: CẢM ĐỘNG 11-02-2001. 110
Bùi-Tuần 795: CỨU ĐỘ BẰNG THINH LẶNG CỦA THÁNH GIÁ.. 112
Bùi-Tuần 796: ĐỒNG CẢM 23-02-2001. 115
Bùi-Tuần 797: VIẾNG ĐÀNG THÁNH GIÁ 06-03-2001. 117
Bùi-Tuần 798: ÔNG BẠN TRỘM LÀNH 13-03-2001. 121
Bùi-Tuần 799: XIN ƠN CỨU ĐỘ 14-03-2001. 123
Bùi-Tuần 800: CHIA SẺ VÀI KINH NGHIỆM VỀ TRUYỀN GIÁO.. 127

Phân cách bài ĐC Bùi Tuần

Bùi-Tuần 751: HIỂU BIẾT TÌNH HÌNH 20-04-2000

Hiểu biết tình hình là điều tốt. Hiểu biết tình hình của riêng mình là điều rất cần. Chúa Giêsu đã: 20-04-2000 Bùi-Tuần 751

Hiểu biết tình hình là điều tốt. Hiểu biết tình hình của riêng mình là điều rất cần.
Chúa Giêsu đã hiểu biết tình hình của riêng mình một cách rõ ràng. Kinh Thánh kể lại: “Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn thương yêu những kẻ thuộc về Người còn ở thế gian. Và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Lời Kinh Thánh trên đây cho thấy Chúa Giêsu biết rõ tình hình của mình đang chuyển biến. Một biến cố quan trọng đang tới gần. Biến cố quan trọng đó là Người sẽ bỏ thế gian, để về với Cha trên trời.
Trong chút thời gian vắn vỏi còn lại, Chúa Giêsu đã thực hiện hai việc khác thường. Hai việc đó là lập Phép Thánh Thể, và quì xuống rửa chân cho các môn đệ.
Tất cả hai việc đó đều là những việc yêu thương. Yêu thương khác thường, yêu thương nhưng không, yêu thương một cách khiêm nhường.
Với hai việc yêu thương trên đây, tình hình đã đổi thay hoàn toàn. Chúa Giêsu ra đi, nhưng Người thực sự vẫn âm thầm ở lại. Chúa Giêsu rửa chân cho môn đệ chỉ có một lần, nhưng Người vẫn lặng lẽ rửa tâm hồn họ mỗi giờ mỗi phút.
Mấy suy nghĩ như trên gợi lên trong lòng chúng ta bao tâm tình cảm thương, cảm mến, cảm tạ đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta tin chắc rằng: Khi Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và rửa chân cho các môn đệ, Người đã nghĩ tới chúng ta. Với phép Thánh Thể, Người để lại cho chúng ta một lương thực tốt nhất. Với việc rửa chân cho các môn đệ, Người vẫn tiếp tục thường xuyên rửa tâm hồn chúng ta.
Chúa Giêsu biết tình hình mỗi người chúng ta hơn chính chúng ta. Con người chúng ta rất yếu đuối. Cuộc đời chúng ta rất mong manh. Tầm nhìn của chúng ta rất hẹp, rất gần. Thế mà cuộc sống chúng ta lại là một chuyến đi dài, sang tới cõi đời sau và đi sâu vào đó đời đời. Thấy một tình hình như vậy, Chúa Giêsu đã tặng cho chúng ta hai món quà quí giá để chúng ta dùng như hành trang đi đường. Hai món quà đó là niềm tin vào Chúa và tình thương của Chúa.
Nhờ hai món quà quí giá này, tình hình của chúng ta có nhiều an ủi. Chúng ta biết mỗi giờ chúng ta sống là mỗi bước chúng ta đi về với Cha trên trời. Chúng ta bước đi, mà không bao gờ cô đơn, cho dù chúng ta tội lỗi, và bị mọi người xa tránh.
Trong tâm tình cảm tạ phó thác, chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ban cho ta và những người thuộc về ta được ơn hiểu biết tình hình. Tình hình của riêng ta và của gia đình ta, của Hội Thánh ta, của quê hương ta. Tình hình có những tình huống bình thường. Nhưng cũng có những tình huống bất thường. Có những điều dự đoán trước được. Nhưng cũng có những điều sẽ xảy ra bất ngờ, khác hẳn mọi dự đoán.
Hiểu biết tình hình ở đây chủ yếu là hiểu biết được ý Chúa trong mỗi tình huống, và biết thực thi ý Chúa với ánh sáng và sức mạnh của Người.
Muốn được như vậy, chúng ta phải cầu nguyện rất nhiều với Chúa Giêsu. Càng cầu nguyện nhiều, chúng ta càng gần lại với Chúa, càng được Chúa biến đổi, càng biết khiêm nhường trong các tình huống. Càng cầu nguyện nhiều chúng ta càng được Chúa dẫn đưa vào trái tim Chúa đầy xót thương. Càng cầu nguyện nhiều, chúng ta càng biết sống, như một cuộc trở về với Cha trên trời. Bước đi bằng niềm tin, bằng tình mến, bằng các việc phục vụ bé nhỏ khiêm nhường.
Hãy nhìn vào Chúa Giêsu. Hãy bước  theo Chúa Giêsu. Hãy tin tưởng phó thác nơi Chúa Giêsu. Nhất là hãy tin vào lời Kinh Thánh của bữa tiệc ly nói về Chúa Giêsu: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về Người đang còn ở thế gian. Và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Lạy Chúa, con tin Chúa đang yêu thương con. Con tin Chúa mãi mãi yêu thương con. Con tin Chúa sẽ yêu thương con đến cùng.
Bài giảng thứ Năm Tuần Thánh, ngày 20-4-2000

 

Bùi-Tuần 752: CHỨNG TÍCH PHỤC SINH 21-04-2000

Mỗi năm, đến lễ Phục sinh, tôi lại rảo tìm những chứng tích của Chúa  Phục sinh. Tôi muốn: 21-04-2000 Bùi-Tuần 752

Mỗi năm, đến lễ Phục sinh, tôi lại rảo tìm những chứng tích của Chúa  Phục sinh. Tôi muốn những chứng tích trong thời nay và tại nơi này. Bởi vì tôi tin Chúa Phục sinh đang hiện diện trong lịch sử. Người rất gần gũi. Người vẫn hoạt động. Âm thầm mà hữu hiệu.
Tôi tìm và tôi đã thấy. Những chứng tích này là những dấu chỉ sống động. Chúng kiểm chứng được. Chúng là những hiện tượng đạo đức hé mở ra một bầu trời mới của Chúa phục sinh.
Hiện tượng sám hối và thái độ khó nghèo.
Từ nhiều tháng nay, hiện tượng sám hối đã xuất hiện và lan rộng. Hiện tượng này mang nhiều hình thức: Tự kiểm điểm, tự chỉnh đốn, tự phê bình, tự nhận lỗi, tự xin lỗi.
Không thiếu những trường hợp, sám hối đang biến thành hình thức và phong trào. Nhưng không thiếu những trường hợp, sám hối đang đi vào nội tâm. Nó làm cho con người nhận biết sự thực về chính mình. Con người nên chân thành hơn, đơn sơ hơn mà cũng sâu sắc hơn. Nhất là khi họ nhận biết mình là người yếu đuối và nhận biết không ai yếu đuối bằng mình, thì thái độ như thế quả là một ơn Chúa Phục sinh.
Thái độ đó là tinh thần nghèo khó. Cái nghèo nhất mà người sám hối chân thành khám phá ra nơi mình đó là cái nghèo về khả năng yêu mến.
Tôi nghĩ về Chúa, nói về Chúa, nhưng những lúc đó, tôi không cảm thấy thực sự Thiên Chúa chính là tình yêu  sống động gần gũi ngọt ngào. Tôi không cảm thấy gì và không đáp lại gì. Chứng tỏ khả năng yêu mến của tôi quá yếu, quá nghèo.
Tôi nghe nói về những khổ đau, mất mát của bao người, của Hội Thánh, của Đất nước, và tôi cũng đã thấy tận mắt những thảm cảnh đó, nhưng tôi dửng dưng, lạnh lùng, thậm chí còn vui cười. Bởi vì tôi không cảm thấy gì và cũng cho rằng mình không cần phải cảm thương gì. Chứng tỏ khả năng yêu mến của tôi đã tê liệt, bệnh hoạn.
Tôi rất biết, yêu mến là giá trị cao nhất trong bậc thang giá trị, yêu mến là nét làm cho con người nên giống Chúa, yêu mến là cốt lõi của đạo, yêu mến là đặc điểm chính xác của người môn đệ Chúa. Lãnh vực yêu mến là bao la. Thế những, trên thực tế, tôi vẫn thu hẹp yêu mến vào những giới hạn nhỏ bé riêng tư, mặc dù đôi khi giới hạn đó vẫn mang nhãn hiệu đạo, như luật đạo, lễ đạo, xứ đạo, lẽ đạo, người có đạo. Chứng tỏ khả năng yêu mến của tôi là quá giới hạn.
Nhận thức những sự thực như trên là một thái độ nghèo  lành mạnh. Nó rất cần trong sám hối. Từ đó chúng ta mới thực sự khiêm nhường chạy đến cầu nguyện với Chúa Giêsu, khiêm nhường đặt mình vào lòng thương xót cứu độ của Người, khiêm nhường chấp nhận thay đổi nếp sống, khiêm nhường cộng tác với Chúa trong việc đào tạo mình nên tạo vật mới, khiêm nhường phó thác mình nơi Chúa, Đấng đã phán: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
Hiện tượng hành hương với thái độ âm thầm.
Cũng từ ít tháng nay, hành hương được nói đến như một hiện tượng biểu lộ ý nghĩa đạo đức.
Đã có những hành hương trọng thể thuần tuý đạo đức. Đã có những hành hương phối hợp với mục dích đi du lịch, đi đổi khí, đi giao lưu. Và cũng có những hành hương âm thầm, bé nhỏ đang từng bước đi về với Cha trên trời. Đó là những hành hương thường ngày với cuộc sống thường ngày, những hành hương ấy là  của người nghèo, người bệnh, người tội lỗi, trong tay chỉ có những phương tiện nghèo, thậm chí chỉ có tội lỗi.
Họ thao thức tìm Chúa, như bà Mađalena xưa đến khóc bên mồ Chúa. Lời cầu nguyện của họ cũng giống như của Mađalena. Đó  là tiếng khóc mến thương, là niềm khát khao gặp Chúa,  là nhận thức mình tội lỗi đã được Chúa trừ cho khỏi bảy quỉ (Mc 16,9).
Họ nóng lòng tìm Chúa, như thánh Phêrô xưa vội vã chạy đến vườn chôn xác Chúa, rồi lại vội vã chạy về với anh em, rồi lại vội vã đi Galilêa, để chờ đón Chúa. Lời cầu của họ cũng giống như của thánh Phêrô xưa. Đó là tấm lòng thống hối ăn năn, là yêu mến Chúa thiết tha, là nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm đối với anh em trong cộng đoàn.
Xem ra hành hương của họ chủ yếu là chuyến đi của trái tim, với những chuyển biến của tấm lòng, trong dòng thác yêu mến của nội tâm. Tất cả đều âm thầm. Cầu nguyện trong âm thầm như Chúa dạy (Mt 6,5-6). Chay tịnh trong âm thầm như Chúa dạy (Mt 6,16-18). Bố thí trong âm thầm như Chúa dạy (Mt 6,1-4). Phấn đấu trong âm thầm để thực thi ý Chúa hơn là kêu to lạy Chúa, như Chúa đã cảnh cáo (Mt 7,21-23).
Xem ra hành hương của họ là đi vào con đường hẹp, chứ không chọn con đường thênh thang, như Chúa đã dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường nhỏ thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm lối ấy” (Mt 7,13-14).
Xem ra hành hương của họ là tìm gặp gỡ chính Chúa Giêsu. Họ tuyên xưng niềm tin. Niềm tin của họ là chấp nhận một hệ thống giáo lý buộc phải tin, nhưng đặc biệt là tin Đức Kitô là Đấng cứu độ đang yêu thương họ. Người đã chịu nạn chịu chết và đã phục sinh. Người đang sống gần gũi bên họ. Người không là thầy dạy đạo lý, mà là Đấng dạy yêu thương. Người không phải là Đấng theo dõi họ, mà là tình yêu đồng hành với họ, cảm thương họ. Họ thế nào, thì Người yêu họ như thế. Họ tuy yếu đuối và tội lỗi, nhưng đã được nhận làm con cái Cha trên trời trong Chúa Kitô, nên họ sẽ trở thành vinh quang của Cha, khi họ nhờ Chúa Thánh Thần xây dựng bản thân mình để nên tạo vật mới, theo mô hình Chúa Giêsu.
Xây dựng bản thân bằng tình yêu.
Xây dựng người khác cũng bằng tình yêu.
Xây dựng Hội Thánh và Đất Nước cũng bằng tình yêu.
Với tình yêu, họ đi gieo rắc hoà bình, chuẩn bị cho Nước Trời.
Với tình yêu, họ lắng nghe tiếng Chúa: “Mỗi sáng, Người đánh thức tai tôi, để tôi nghe Người, như những môn đệ” (Is 50,4). Tiếng Chúa là tiếng yêu thương. Được nghe tiếng yêu thương rồi, họ biết trả lời yêu thương cho những ai không còn nói được yêu thương “Chúa đã cho tôi lưỡi người môn đệ, để tôi biết trả lời cho ai không còn nói được” (Is 50,4).
Khi nhìn sâu vào những hành hương và những sám hối trên đây, tôi đã tìm thấy nhiều phép lạ của Chúa Phục sinh.
Lạy Chúa, cho đến muôn đời con sẽ ca tụng và cảm tạ Chúa. Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng đang phục sinh con.
Long Xuyên, tháng 4-2000

 

Bùi-Tuần 753: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA 22-04-2000

Bài giảng thánh lễ Phục Sinh của Đức Cha Gioan B. BÙI TUẦN tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên, đêm 22-04-2000
 

Chúa Giêsu chịu chết nhưng đã sống lại. Sau sống lại, Ngài đã hiện ra. Ngài đã hiện ra với: 22-04-2000 Bùi-Tuần 753

Chúa Giêsu chịu chết nhưng đã sống lại. Sau sống lại, Ngài đã hiện ra. Ngài đã hiện ra với những ai, đó là điều chúng ta nên suy nghĩ, với hy vọng chính chúng ta cũng sẽ được Chúa phục sinh đến thăm một cách nào đó.
Để rộng dòng suy nghĩ, chúng ta nên nhớ lại toàn cảnh ngày Chúa sống lại. Chính ngày đó, tại đền thờ Giêrusalem, lễ Vượt Qua được tổ chức long trọng. Đứng đầu là Thầy Cả thượng phẩm, xung quanh ngài là các vị tư tế. Họ là hàng giáo phẩm cao cấp, lãnh đạo toàn dân Israel về mặt đạo. Họ là những người chuyên môn cắt nghĩa luật đạo và bảo vệ luật đạo. Tham dự lễ Vượt qua là từng ngàn người từ khắp nước tuốn về. Họ đọc kinh, thắp hương, bái lạy bàn thờ và dâng lễ vật. Họ tự hào về truyền thống của mình. Họ coi nếp sống tôn giáo của mình là dấu chỉ của sự công chính. Cuộc lễ được coi là rất đông đảo, rầm rộ, náo nhiệt, tưng bừng.
Cứ theo tính toán tự nhiên của chúng ta, thì một cuộc lễ qui mô lớn như vậy là một dịp hiếm có, là một dịp rất thuận lợi. Chúa Phục sinh nên lợi dụng dịp này để hiện đến. Chúa mà hiện đến giữa một cuộc lễ có đủ đại diện các giới, các cấp bậc và các địa phương như thế, thì chắc chắn tình hình sẽ thay đổi theo hướng có lợi cho Chúa.
Theo tínht oán tự nhiên, thì chúng ta suy nghĩ như vậy, và coi suy nghĩ đó là khôn ngoan.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không làm như thế. Người đã hiện ra với một số rất nhỏ. Đầu tiên là nhóm hai phụ nữ, bà Madalena và bà Maria, sau đó là nhóm 11 môn đệ.
Cả hai nhóm nhỏ này đều có một số đặc điểm chung. Đó là họ nhận biết mình yếu hèn, tội lỗi. Họ nhớ thương Chúa Giêsu. Họ khát khao được gặp lại Người. Họ cùng nhau cầu nguyện. Họ cảm thấy mình bơ vơ, khi mất Chúa. Trong cơn đau buồn trống vắng, họ chỉ còn biết đặt niềm tin và Lời Chúa hứa xưa mà thôi.
Họ chỉ có thế thôi. Và chính vì họ chỉ có thế, nên Chúa Giêsu Phục sinh đã đến thăm họ. Sự Chúa Phục sinh đến thăm hai nhóm nhỏ này đã cho phép tôi nghĩ rằng; Chúa Giêsu rất trung thành với những gì Người đã dạy.
Thực thế, Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà là để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Vậy hai nhóm nhỏ này nhận biết mình là người tội lỗi. Nên họ đã được Chúa viếng thăm.
Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Thánh Thần sai Ta đi rao giảng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Vậy hai nhóm nhỏ này luôn coi mình là những người nghèo hèn. Nên họ đã được Chúa đến loan báo Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Phúc cho ai có lòng khát khao sự công chính” (Mt 5,6). Vậy hai nhóm nhỏ này luôn khao khát sự công chính. Nên họ đã được Chúa đến chia sẻ cho sự công chính.
Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Nếu ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Ta, thì Ta ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Vậy nhóm nhỏ này đã họp nhau lại chỉ vì danh Chúa Giêsu. Nên họ được Người đến ở giữa họ.
Tới đây, mỗi người chúng ta đã có thể tự mình tìm ra một kết luận riêng cho mình. Chẳng hạn: Từ nay khiêm tốn nhận mình tội lỗi, từ nay khiêm tốn nhận mình nghèo hèn, từ nay khiêm tốn tìm tòi sự công chính, từ nay khiêm tốn cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung.
Đó là một kết luận đúng, một kết luận tốt. Khi thực tình sống với những kết luận ấy, chúng ta sẽ được Chúa phục sinh đến viếng thăm. Không cách này thì cách khác. Đó không phải chỉ là hy vọng, mà là một sự thực chắc chắn.
Trong niềm tin ấy, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ phục sinh tốt đẹp nhất.

 

Bùi-Tuần 754: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN 28-04-2000

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Nhóm nhỏ này đã thuật lại biến cố ấy: 28-04-2000 Bùi-Tuần 754

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Nhóm nhỏ này đã thuật lại biến cố ấy bằng những lời đơn sơ: “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20, 25).
Những lời như vậy cũng có thể được mỗi người chúng ta nói lên. Bởi vì đối với chúng ta, tin vào Chúa chính là gặp gỡ Chúa. Đây là một cuộc gặp gỡ sống động và bản thân, gặp gỡ này giúp ta thấy Chúa.
Riêng tôi, vì được sai đi để làm chứng cho đức tin, nên hôm nay tôi xin phép nói về hành trình đức tin của tôi như một cuộc gặp gỡ  Đức Kitô.
Tôi đã gặp Đức Kitô, Đấng đã chịu nạn và đã phục sinh. Nói đúng hơn, chính Đức Kitô vì thương xót đã chủ động đến gặp tôi. Người đến trong tâm hồn tôi. Người gặp tôi trong đời tôi, nhất là trong các biến cố.
Tôi nhận ra Đức Kitô nhờ nét xót thương của Người. Nét xót thương của Người đã được Người diễn tả trong nhiều dụ ngôn. Như dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Như dụ ngôn người cha ra đón và ôm hôn người con phung phá trở về. Nét xót thương của Đức Kitô cũng đã được Người diễn tả trong nhiều hành động. Như việc Người thân thương kêu gọi hai người phụ nữ tội lỗi Maria Mađalêna và người phụ nữ Samaria. Như việc Người hứa Nước Thiên Đàng cho kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Người. Tất cả những người tội lỗi đó đều hiện diện trong tôi. Tôi chính là họ. Thế mà Đức Kitô đã đến với tôi.
Trong mọi gặp gỡ, Đức Kitô  đã tỏ ra thái độ khiêm nhường, chấp nhận bé nhỏ, để trở nên tất cả cho tôi, và cho từng người. Đức Kitô thuộc về từng người. Đức Kitô yêu thương từng người. Đức Kitô có thời giờ cho mỗi người, trọn vẹn cho mỗi người.
Đức Kitô đến gặp gỡ, để cứu chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ. Người gặp gỡ, để đào tạo chúng ta  nên tạo vật mới . Người gặp gỡ để giúp chúng ta tiến bước trên con đường dẫn về với Cha trên trời. Con đường đó là thực thi thánh ý Chúa Cha.
Để thực thi thánh ý Chúa Cha, tôi tìm ánh sáng và sức mạnh nơi Lời Chúa, nơi gương Chúa, nơi Hội Thánh,  nơi các dấu chỉ của thời đại.
Khi đồng hành với Đức Kitô đi vào thời đại hôm nay, tôi nghe được nhiều thao thức đáng trân trọng. Bao người đang khao khát chiều kích thiêng liêng với những giá trị đạo đức. Bao người đang phấn đấu xây dựng  lương tâm ngay chính lành mạnh. Bao người đang cố gắng cứu lấy chân lý. Bao người đang nỗ lực thăng tiến đồng bào, Đất nước.
Đồng hành với Đức Kitô đi vào lịch sử hôm nay, tôi cũng nghe được nhiều thách đố đáng lo âu. Bao người đang dửng dưng với bậc thang giá trị. Bao người đang cứng lòng tin, mất ý thức về tội. Bao người đang bán rẻ nhân phẩm, phá hoại truyền thống đạo đức gia đình và dân tộc. Bao người đang kéo lê thân phận mình một cách vô vọng. Tất cả họ đều rất đáng thương.
Trước những thách đố và thao thức như vậy, đức tin của tôi bồi hồi, trăn trở. Chính lúc đó Đức Kitô lại đến gặp tôi. Người nói với tôi cũng những lời xưa Người đã nói với các môn đệ: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).
Thánh Thần của Đức Kitô mở lòng tôi ra, cho tôi thấy bầu trời của đức tin. Bầu trời này nhắc nhở tôi nhớ lại những lời thánhPhaolô dạy trong thư gởi Do Thái (x. Dt 12,1-2).
Thực vậy, tôi thấy trong bầu trời đức tin  có vô số nhân chứng đức tin. Họ cầu nguyện cho tôi. Họ  nâng đỡ tôi. Cùng với họ, tôi tin. Mà tin là phải tiến về phía trước để đón nhận Nước Trời. Không phải bước chậm, mà là bước mau. Đúng ra là phải chạy. Mắt phải ngắm nhìn Đức Giêsu, không phải Đức Giêsu đơn độc, mà là Đức Giêsu với thánh giá của Người. Bởi vì thánh giá là biểu tượng hy sinh và tình yêu.
Càng làm như vậy, tôi càng thấy đức tin thúc giục gặp gỡ. Gặp gỡ Chúa, gặp gỡ Hội Thánh, gặp gỡ đồng bào quê hương. Khi đức tin hướng về gặp gỡ, thì đức tin sẽ tìm đến từng thời điểm một cách cụ thể, để lắng nghe,  để thương cảm, để phân định, để dự đoán trước, để phục vụ, để sáng tạo cho đồng hành và phát triển. Nhất là đức tin giục giã tôi gặp lại chính mình, xem mình có là môn đệ thực của Đức Kitô không.
Với một đức tin như thế, tôi phục vụ giáo phận của tôi, Hội Thánh của tôi, Tổ quốc của tôi. Trong mọi phục vụ, tôi tha thiết mong muốn một điều là: Mọi người gặp được Chúa Giêsu, Đấng cứu độ giàu tình yêu thương xót, để cùng bước theo Người, xây dựng một nền văn minh của tình yêu đích thực. Tuy nhiên chắc chắn phục vụ của tôi đã có rất nhiều thiếu sót.
Hôm nay, nhìn lại quá khứ hành trình đức tin của mình, tôi thực sự ngỡ ngàng. Tôi thấy mình rất tội lỗi, thế mà đã được Chúa xót thương một cách lạ lùng. Tôi không hiểu được tấm lòng xót thương của Chúa. Tôi không cách nào hiểu được, nhưng tôi tin, và tôi đã cảm nghiệm được Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Người là Thiên Chúa tình yêu cho tôi, cho mọi người, cho Hội Thánh, cho quê hương tôi và cho toàn thể nhân loại.
Mãi mãi trong tâm tình sám hối và phó thác, tôi ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa từ nhân. Tôi cảm tạ các nhân chứng đức tin đã nâng đỡ tôi, đặc biệt là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Tôi cảm ơn tất cả mọi người đã cộng tác với tôi trong hành trình đức tin. Đây là một hành trình không dễ dàng gì, nhưng không thiếu hy vọng. “Bởi vì tôi biết tôi đặt niềm tin vào ai” (2Tm  1,12).
Long Xuyên, ngày 28-4-2000

 

Bùi-Tuần 755: PHỎNG VẤN ĐỨC CHA BÙI TUẦN 30 -04-2000

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha là vị Giám Mục Việt Nam duy nhất được phong chức đúng vào ngày: 30 -04-2000 Bùi-Tuần 755

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha là vị Giám Mục Việt Nam duy nhất được phong chức đúng vào ngày quan trọng của lịch sử đất nước (30-4-1975). Có nhiều cách nhìn về sự trùng hợp này, nhưng đâu là cái nhìn riêng của Đức Cha?
Thưa: Tôi nhớ lại biến cố trùng hợp ấy. Qua giữa tháng 4 năm 1975, vào một ngày thứ sáu, khoảng 03 giờ trưa, Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đến phòng tôi, cho tôi biết Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm tôi làm Giám Mục phó Long Xuyên. Tôi bàng hoàng. Thế rồi, sau đó hơn mười ngày, trưa ngày 30-4-1975, lễ thụ phong được cử hành rất đơn sơ tại nhà thờ cũ nhỏ bé của họ đạo Long Xuyên. Khoảng 50 người tham dự. Tôi lo sợ.
Trước chức vụ mới, tôi thấy mình quá mong manh. Lúc đó, cảm nghĩ  của tôi là: Xưa, thánh Gioan Baotixita, bổn mạng tôi, đã là chiếc cầu giữa Cựu Ước và Tân Ước. Nay, Chúa sai tôi vào thời mới này, biết đâu Chúa cũng muốn tôi là một chiếc cầu nào đó. Thế thì mình sẽ cố gắng là một chiếc cầu nhỏ. Người ta qua cầu, chứ chẳng ai dừng lại trên cầu.
Hỏi: Thưa Đức Cha, cái nhìn đó được cụ thể hóa như thế nào?
Thưa: Làm chiếc cầu mà tôi nói đây, chủ yếu là giúp người ta vượt qua những vết thương của quá khứ, để bước sang thời kỳ tập trung vào Chúa Giêsu. Bởi vì, đối với tôi, Đấng cứu độ không phải là chủ thuyết này, chủ thuyết nọ, nhưng là chính Đức Kitô. Cần hiểu biết Người, bước theo Người, gắn bó với Người. Tư tưởng đó xâm nhập hồn tôi và được hình ảnh hoá. Sự việc xảy ra thế này: Vài ngày sau thụ phong,  một đêm,  tôi chiêm bao gặp Chúa Giêsu. Tôi đang đi giữa cánh đồng lúa, thì thấy từ xa một người đi tới. Tôi nhận ra ngay người ấy là Chúa Giêsu. Người dẫn tôi đến phố, vào một bệnh viện lớn. Người dắt tôi qua các phòng bệnh nhân. Tôi thấy bệnh nhân nằm la liệt. Chúa Giêsu tỏ nét mặt đăm chiêu, thương xót, buồn sầu. Tôi xiết chặt tay Người. Và tôi tỉnh lại. Chiêm bao đó đã gây ấn tượng mạnh trong tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ dung mạo Chúa Giêsu.
Từ đó, các suy nghĩ và hoạt động mục vụ của tôi được diễn tiến  qua ba mấu chốt này:
Một là lý trí phải luôn mở rộng ra về bầu trời sự thực bao la sâu thẳm. Sự thực về Chúa Giêsu, sự thực về Hội Thánh của Chúa Giêsu, sự thực về con người và đời người.
Hai là đức tin phải là gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu, gắn bó mật thiết với Người, bước đi theo Người.
Ba là mối dây nối kết lý trí và đức tin phải hướng mọi hoạt động về yêu thương và phục vụ đồng bào một cách thiết thực, nhất là những người đau khổ, để họ có được sự sống dồi dào.
Hỏi: Có lẽ không cần nhắc lại ở đây những thành quả tốt đẹp, mà Đức Cha đã xây dựng được ở giáo phận Long Xuyên. Vậy đâu là những bí quyết cho những thành quả ấy?
Thưa: Một trong những thành quả tôi thích nhất là thành quả về đào tạo nhân sự như hai Tân Giám Mục từ Long Xuyên, rồi chẳng hạn các người trong giáo phận tôi đã đạt được điều, mà Đức Hồng Y Etchegaray đã cầu chúc, trong bài giảng của Ngài tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Ngài nói:
Hãy tự hào mình là người công giáo,
Hãy tự hào mình là người Việt Nam.
Phải, chúng tôi tự hào mình là người công giáo, luôn trung thành với Hội Thánh Công giáo. Chúng tôi tự hào mình là người Việt Nam, luôn trung thành với
Tổ Quốc Việt Nam.

Bí quyết của các thành quả là tỉnh thức giữ gìn lương tâm tông đồ, luôn sống tùy thuộc vào Đấng đã sai mình.
Hỏi: Kỷ niệm 25 năm Giám Mục của Đức Cha, Đức Thánh Cha có một “thông điệp” nào cho cá nhân Đức Cha?
Thưa: Có. Đức Thánh Cha đã gởi một bức thư riêng. Đây là một bất ngờ lớn đối với tôi. Bức thư mở đầu thế này:
“Vào chính ngày Chúa nhất thứ II Phục sinh trong năm Đại toàn xá này, Đức Cha hân hoan mừng kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám Mục của Đức Cha. Quả thật kỷ niệm đẹp đẽ này nhắc lại muôn vàn công ơn của Thiên Chúa từ nhân, mà trong ngày này Ta cũng muốn ca ngợi và truyền rao. Phần Đức Cha, Ta chắc chắn rằng, Đức Cha sẽ mừng trọng thể lễ Ngân Khánh của Đức Cha cùng với các anh em trong chức vụ Giám Mục và cùng với toàn thể cộng đồng  giáo phận Long Xuyên.
Ta muốn gởi đến Đức Cha lá thư này như hiện diện bằng tinh thần và như dấu chỉ chân thật của tâm tình của Ta trong ngày lễ vui mừng của Đức Cha. Xin Đức Cha tin chắc rằng, trong chính ngày đó, ở Rôma trước đền thờ Thánh Phêrô, Ta cùng với các tín hữu sẽ cử hành các nghi thức phụng vụ và liên kết với Đức Cha trong tình bác ái huynh đệ”.
Sau khi kể lại những  chặng  đường ơn gọi, mà Đức Thánh Cha cho rằng “đã không dễ dàng gì”, Đức Thánh Cha kết luận bức thư bằng những lời nhắn nhủ thân thương: “Xin Đức Cha hãy canh tân sức mạnh của Đức Cha và trong cuộc chiến đức tin, Đức Cha hãy “đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Giêsu Kitô” (2 Tim 2,3).
Sau cùng, xin hãy nhận lá thư này với tất cả tâm tình của Ta, đồng thời Ta rộng ban phép lành Toà Thánh với bao ơn phúc bởi trời, trước tiên cho Đức Cha, rồi cho các Giám Mục, các Linh mục, Tu sĩ cùng toàn thể giáo dân liên kết với Đức Cha trong mối dây  tình yêu”.
Tôi hết lòng cảm tạ Đức Thánh Cha về tấm lòng ưu ái đặc biệt Ngài dành cho tôi và giáo phận tôi.
Tiếp nhận bức này của Đức Thánh Cha, và nhớ lại những liên kết tích cực đa dạng của tôi với Toà Thánh, tôi nhìn thấy mờ mờ hình dáng một chiếc cầu giữa đây và đó.
Hỏi: Đức Cha cũng là vị Giám Mục viết nhiều nhất trên tờ Công giáo và Dân tộc. Đức Cha nghĩ gì, khi chọn diễn đàn này làm nơi chia sẻ những suy tư về đức tin của mình?
Thưa: Khi chia sẻ suy tư và cảm nghiệm của tôi về đức tin trên tờ Công giáo và Dân tộc, tôi thường nghĩ tới lời thánh Phaolô “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cor 4,7). Tờ báo cũng như tôi, chỉ là những chiếc bình sành, nhưng nếu từ đó vang lên được một chút tâm tình tuyên xưng Chúa từ nhân, qua việc loan đi Lời Chúa và những hoạt động yêu thương phục vụ của Hội Thánh đó đây, thì dù vang lên trong sa mạc, như thánh Gioan Baotixita nói, tôi vẫn thấy vui.
Thiết tưởng, đây cũng là chuyện của một chiếc cầu nhỏ. Có thể là một số người đã qua cầu.
Rất may là chẳng ai đứng lại trên cầu. Nhưng tất cả họ cũng như tôi, đều là những người vượt qua thời cuộc, đều được Đức Mẹ Maria dẫn về phía trước đến với Chúa Giêsu, là Đấng cứu độ của chúng ta.
30 -04-2000

 

Bùi-Tuần 756: KHỞI ĐẦU MỚI 01-05-2000

Thánh lễ sáng nay là một qui tụ nhỏ, chủ ý được giới hạn. Đây là một gặp gỡ thân mật: 01-05-2000 Bùi-Tuần 756

Thánh lễ sáng nay là một qui tụ nhỏ, chủ ý được giới hạn.
Đây là một gặp gỡ thân mật những người cộng tác gần gũi với tôi trong sứ mạng mục vụ và truyền giáo.
Trong bầu khí cầu nguyện và hồi tâm này, tôi cảm tạ Chúa vì đã ban cho tôi những người cộng tác chân thành và nhiệt thành. Nhất là những người đã nhiệt tâm chia sẻ với tôi trách nhiệm làm chứng cho Đức Kitô  trong một giai đoạn lịch sử đầy thử thách và thách đố.
Thực vậy, trong Hành Trình Đức Tin chúng ta đã làm chứng cho Đức Kitô qua:
Con đường tập trung vào Đức Kitô và gắn bó với Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất.
Con đường dấn thân thực thi Điều Răn Yêu Thương  phục vụ  được Đức Kitô trối lại.
Con đường truyền giáo bằng việc thăng tiến đào tạo chính bản thân mình, và những người thuộc về mình, để có những giá trị nội tâm sâu, những giá trị văn hóa cao, và những giá trị xã hội rộng mở,  là những giá trị mà Hội Thánh Đức Kitô hôm nay đang thao thức.
Tôi coi thánh lễ hôm nay là một bài ca mới, một giao ước mới, và là một khởi đầu mới.
Với tâm tình đó, chúng ta khiêm tốn đón nhận phép lành của Chúa Ba Ngôi.
Đôi lời kết thúc thánh lễ tạ ơn Mừng Ngân Khánh Giám mục, tại nhà nguyện Thánh Tôma, ngày 01-5-2000
 

Bùi-Tuần 757: 06-05-2000BT22: BIẾN  CỐ  TỪ  TRẦN

Từ trần là một biến cố lớn. Người từ trần thì giã từ trần thế. Người còn ở lại trần thế thì nói về: 06-05-2000 Bùi-Tuần 757

Từ trần là một biến cố lớn. Người từ trần thì giã từ trần thế. Người còn ở lại trần thế thì nói về người từ trần.
Dịp này thường là cơ hội thuận tiện, để trần thế được gợi lên như hiện trường của những giá trị, và để người từ trần được đánh giá qua những cái nhìn về các giá trị khác nhau. Chính vì thế mà biến cố từ trần là một trường học cho những ai muốn tìm hiểu về những hệ thống giá trị đương thời, để phong phú hóa triết học về giá trị.
Phân tích các phát biểu về những người từ trần mới đây, tôi thấy đang hiện lên mấy hệ thống giá trị sau đây:
1. Các giá trị đặt nền tảng trên chân, thiện, mỹ.
Ba giá trị này đều gắn liền với ba hoạt động của tinh thần. Hoạt động trí khôn phải hướng về chân lý. Hoạt động lương tâm phải thực hiện sự lành. Hoạt động nghệ thuật phải sáng tạo những vẻ đẹp.
Ba loại giá trị này là cả một bầu trời bao la, cao xa thăm thẳm, hướng về tuyệt đối. Con người gọi là có ba giá trị trên đây thường chỉ làcon người thiện chí đi tìm những giá trị ấy trên một con đường vô tận.
2. Các giá trị căn cứ vào liên hệ giữa con người và trần thế.
Con người đi vào trần thế phải có những giá trị thực dụng cần thiết, để biết lao động, sử dụng, sản xuất, làm chủ, biến đổi vật chất, và biết thiết lập các quan hệ xã hội.
Con người đứng trước trần thế cần có những giá trị tinh thần sâu sắc, để biết quan sát, học hỏi, tìm tòi, đánh giá, sáng tạo.
Con người vượt trên trần thế cần có tầm nhìn xa và những giá trị đạo đức vững chắc, cao đẹp, để đổi mới con người, lịch sử, xã hội.
Một con người như thế hẳn phải phấn đấu rất nhiều. Kết quả thường vẫn bị giới hạn bởi nhiều cản trở.
3. Các giá trị nhấn mạnh đến việc yêu thương phục vụ con người và đất nước.
Việc yêu thương phục vụ này chỉ có giá trị, khi biết chọn lựa những ưu tiên, đáp ứng nhu cầu thiết thực của con người và đất nước trong những thời điểm cụ thể. Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, vào đúng lúc, với đúng cách.
Một con người biết yêu thương phục vụ như vậy phải vượt qua biết bao khó khăn vất vả.
4. Các giá trị được xây dựng trên cách sử dụng thời giờ.
Với một thời gian vắn vỏi và đầy khó khăn, có những người đã đem được  lý tưởng cao đẹp vào trong thực tế phức tạp. Thời giờ đó không bị xài phí, không bị tan vỡ ra từng mảnh, nhưng được tận dụng tối đa với một cách khôn khéo thông minh, để thay đổi lịch sử, con người, cộng đoàn và xã hội.
Một con người làm được như thế, tất nhiên phải biết nắm bắt giá trị đời đời trong mỗi mảnh thời giờ đang trôi. Họ biết đời-đời-hóa giây phút hiện tại.
5. Các giá trị gắn liền với việc đi sâu vào đời sống nội tâm.
Không những tâm hồn bỏ cái bên ngoài để nhìn vào bên trong chính mình, mà còn đẩy mạnh suy tư và thanh luyện để tìm về tuyệt đối. Một tuyệt đối không phải là tư tưởng, mà là một hiện diện sống động của tình yêu tuyệt hảo. Từ đó, con người được thúc đẩy sống cho hạnh phúc của đồng bào, nhân loại, dù phải chấp nhận hy sinh chính mình. Và cũng từ đó, mọi sự, cho dù dữ dằn nhất, sẽ được nhìn trong ánh sáng bình an, khiêm tốn, bao dung và hy vọng.
Con người đi vào nội tâm là con người phải chiến đấu không ngừng với chính bản thân mình.
Trình bày trên đây về năm hệ thống giá trị chỉ là một mạo muội hết sức giản đơn. Nhưng thiết tưởng cũng đủ gợi lên vài tia sáng về các giá trị.
Ngoài năm hệ thống giá trị này, chắc chắn còn nhiều loại giá trị khác. Trong mỗi hệ thống giá trị, điều đáng để ý là: con người giá trị được tôn vinh không phải vì họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều tiền, nhưng vì họ có nhiều cố gắng và việc làm để đổi mới chính mình và dấn thân vào lịch sử. Tất nhiên họ phải phấn đấu, phải hy sinh, để không ngừng tiến bộ.
Cái đã đạt được chỉ là điểm tựa, để thực hiện một khởi hành mới. Phải luôn luôn vượt qua cái đã thành đạt, và cả chính mình, để vươn tới một đích điểm mới tốt đẹp hơn trước.
Động lực thúc đẩy vươn lên không phải là hoài niệm của quá khứ, càng không phải là tập quán làm việc, mà là một nội tâm trăn trở. Họ cảm thấy mình còn thấp kém đối với lý tưởng cao vời luôn mời gọi, nên phải lên đường.
Khi con người biết di chuyển trong các hệ thống giá trị, thì đời người sẽ mặn mà ý nghĩa. Lúc đó, với những giá trị hữu hình và vô hình, con người giá trị sẽ là một vì sao lấp lánh trong bầu trời các giá trị bao la.
Và nếu mọi giá trị đều phát sinh do một nguồn mạch là Tạo Hóa, thì những con người có giá trị đâu có xa tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta.
Long Xuyên, ngày 6-5-2000, Ngày an táng Cụ Phạm Văn Đồng

 

Bùi-Tuần 758: TỔ PHỤ ABRAHAM NƠI  ĐỨC THÁNH CHA

GIOAN PHAOLÔ II 18-05-2000
 

Ngày 18  tháng 5 năm 2000 này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bước vào tuổi 80. Với tuổi 80:18-05-2000 Bùi-Tuần 758

Ngày 18  tháng 5 năm 2000 này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bước vào tuổi 80.
Với tuổi 80, ai cũng được coi là già. Riêng đối với tôi, tuổi tác của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một đỉnh cao rạng rỡ. Càng cao tuổi, Đức Gioan Phalô II càng nhắc tôi nhớ về tổ phụ Abraham, một tổ phụ cội nguồn, nổi tiếng là sống lâu và vững tin vào Lời Chúa.
Trong Cựu Ước, tổ phụ Abraham được nhắc tới 230 lần. Còn trong Tân Ước, ngài được nói đến 72 lần. Chính Đức Mẹ Maria cũng trân trọng nêu tên tổ phụ Abraham trong kinh Tạ ơn của Người.
Nếu không lầm, thì Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một trong những vị Giáo Hoàng nhắc tới tổ phụ Abraham nhiều nhất.
Trước hết, Ngài nhắc đến Abraham bằng lời nói. Chẳng hạn lời cầu nguyện sau đây của Ngài tại Assisi ngày 10-3-1993: “Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những ai nhìn nhận tổ phụ Abraham là cha của mình trong đức tin. Đó là những người Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo. Xin Chúa giúp chúng ta bỏ đi những hiểu lầm nhau và những cản trở, để chúng ta cùng nhau xây dựng hòa bình”.
Cùng với những lời cầu nguyện như trên, Đức Thánh Cha mong muốn thực hiện cuộc hành hương đức tin theo con đường tổ phụ Abraham đã đi xưa. Đây là một mong muốn độc đáo của riêng đời Ngài. Chuyến đi hành hương đó đã chỉ thực hiện được một phần. Nhưng âm vang của nó còn đang thấm sâu trong lòng những ai vẫn còn gắn bó với tổ phụ Abraham như một mô hình đức tin.
Thêm vào lời nói về Abraham và hành hương theo bước Abraham, Đức Thánh Cha đã nhắc Abraham bằng đời sống của mình.
Thực vậy, trong suốt đời Abraham, nét nổi bật nhất là trung thành với Lời Chúa. Tổ phụ Abraham là con người của Lời Chúa.
Lời Chúa được lắng nghe,
Lời Chúa được suy gẫm,
Lời Chúa được vang vọng trong cầu nguyện và trao đổi,
Lời Chúa thúc đẩy hiến dâng,
Lời Chúa soi sáng chọn lựa,
Lời Chúa giục giã lên đường,
Lời Chúa ban sức để phấn đấu, và vượt qua thử thách.
Tổ phụ Abraham sống Lời Chúa, tin vào Lời Chúa. Đức Gioan Phaolô II cũng như vậy.
Tôi được hạnh phúc có dịp ở gần Đức Thánh Cha, nhiều lần tại bàn thờ riêng của Ngài, nhiều lần tại bàn giấy riêng của Ngài, nhiều lần tại bàn ăn riêng của Ngài.
Tại nhà nguyện của Ngài, khi được đồng tế với Ngài, tôi đã rất xúc động trước hình ảnh Ngài lắng nghe Lời Chúa, gẫm suy Lời Chúa, cầu nguyện Lời Chúa. Chính hình ảnh đó đã là một yếu tố quan trọng bồi dưỡng đời sống thiêng liêng của tôi.
Tại bàn giấy của Ngài, khi được Ngài tiếp kiến, tôi nghe Lời Chúa vang vọng trong các suy nghĩ, trong cách nhìn và trong những thao thức của Ngài.
Tại bàn ăn, khi được ngồi đối diện với Ngài, tôi cảm thấy Lời Chúa toát ra qua thái độ khiêm nhường, yêu thương, tế nhị và phục vụ của Ngài.
Một hôm tôi trình bày với Đức Thánh Cha những trăn trở của tôi về Hội Thánh toàn cầu nói chung và về Hội Thánh Việt Nam nói riêng. Ngài chăm chú nghe, rồi trả lời tôi: “Khi mới nhận nhiệm vụ Giáo Hoàng, tôi cũng rất mong ước làm nhiều điều, như Đức Cha vừa gợi ý. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được”. Lời tâm sự chân tình khiêm tốn trên đây cho tôi hiểu Đức Thánh Cha gặp rất nhiều thử thách. Cũng phần nào giống Abraham.
Một lần khác, khi đề cập đến những thánh giá đủ loại mà Ngài phải vác, tôi hỏi Ngài có vì thế mà đau khổ không, thì Ngài thưa: “Tôi quen rồi”. Lời vắn tắt đó đã nhiều lần gợi ý cho tôi nhớ lại cả một chiều dài lịch sử cứu độ, từ Abraham đến Chúa Giêsu, các tông đồ và cho tới hôm nay. Người sống Lời Chúa sẽ phải tập quen chịu đau khổ. Người  dẫn đưa dân Chúa đi theo Lời Chúa càng phải quen với khổ đau. Lúc đó, thánh giá  là một khí cụ giải phóng đầy vinh quang. Đức Thánh Cha đã và đang trải qua kinh nghiệm ấy. Là một mô hình sống Lời Chúa một cách quyết liệt và sáng tạo, Ngài đáng được trân trọng, mộ mến và bắt chước.
Tổ phụ Abraham từ trần, khi tuổi đã tới 175. Ngài được chôn cất trong cánh đồng của Ephrôn, tại Mecpela. Ngài chết như một người hành hương, được an táng ở một đất nước không phải là quê hương, nơi mình đã sinh ra.
Tôi có cảm tưởng là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ còn gợi nhớ tổ phụ Abraham về nhiều chi tiết, kể cả về tuổi tác và cũng có thể về chốn an nghỉ cuối cùng xa quê hương, nơi Ngài sinh trưởng.
Với tâm tình con thảo, chúng ta hãy cầu nguyện rất nhiều cho Đức Thánh Cha yêu quí của chúng ta và cũng hãy hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một vị Giáo Hoàng xuất sắc đầy uy tín, luôn là một mục tử nhân lành.
Long Xuyên, 18-05-2000

 

Bùi-Tuần 759: NĂM THÁNH VÀ THÁNH  TÂM 02-06-2000

Nếu người mừng Năm Thánh nhắm đổi mới con người, thì đừng quên sự đổi mới con người nên: 02-06-2000 Bùi-Tuần 759

Nếu người mừng Năm Thánh nhắm đổi mới con người, thì đừng quên sự đổi mới con người nên bắt đầu từ đổi mới trái tim.
Nếu người sống Năm Thánh khát khao đón nhận sự cứu độ, thì nên nhớ sự cứu độ rất cần thiết hiện nay là sự cứu độ tình yêu.
Bởi vì, trong các khủng hoảng đang xảy ra lúc này, khủng hoảng về tình yêu trong trái tim con người được coi là trầm trọng.
Thực vậy, nơi nhiều cá nhân và cộng đoàn, đang có những hiện tượng không lành mạnh về tình yêu.
Đang lạnh dần tình yêu dành cho Thiên Chúa, thay vào đó là hiện tượng nóng dần lên tình yêu dành cho các thần tượng như quyền chức, tiền tài, danh vọng, hiệu quả.
Đang yếu dần tình yêu vị tha đối với tha nhân, thay vào đó là tình yêu vị kỷ chiếm đoạt.
Đang tha hoá dần tình yêu dấn thân theo ánh sáng phân định của minh trí, thay vào đó là tình yêu tự hóa theo nhu cầu hưởng thụ của xác thịt, thế gian.
Đang cạn dần những lời ca ngợi dành cho chiến thắng của tình yêu thăng tiến, thay vào đó là những lời ca khen chiến thắng của hận thù huỷ diệt.
Đang vắng dần những rao giảng và làm chứng cho tình yêu thương xót, thay vào đó là những khoe khoang quyền lực và hô hoán về luật lệ xiết chặt cuộc sống.
Trước một tình hình như thế, Chúa Giêsu hôm nay cũng đang kêu gọi như Chúa Giêsu thuở nào.
Phúc Âm thánh Gioan viết “Vào một ngày cuối cuộc lễ, Chúa Giêsu đứng trong đền thờ nói lớn tiếng rằng: “Ai khát hãy đến cùng Ta. Ai tin vào Ta, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy nước hằng sống” (Ga 7,37-38).
Lời kêu mời thân thương trên đây đã được nhắc lại trong những dòng Khải Huyền cuối Tân Ước “Ai khát hãy đến. Ai muốn hãy đến lãnh nước trường sinh một cách miễn phí” (Kh 22,17).
Chúa Giêsu kêu mời mọi người hãy đến uống tình yêu nơi trái tim của Người. Đó là tình yêu cứu độ.
Đáng lẽ lời mời gọi tha thiết này phải được vang rộng và phải được đáp lại một cách phấn khởi khắp nơi. Thế nhưng thực tế hôm nay không như vậy.
Nhìn chung trên thế giới, chúng ta phải nhận rằng: Một bầu khí dửng dưng, lạnh lùng, cứng lòng và vô ơn đang hình thành và lan rộng.
Tất cả như thể đang ứng  nghiệm lời Chúa Giêsu xưa tiên báo: “Gần ngày cánh chung, thì tội ác gia tăng, lửa mến nơi nhiều người sẽ nguội đi” (Mt 24,12).
Tất cả cũng như thể đang là dấu chỉ sự khống chế của thần dữ hoành hành trên thế gian, như thánh Phaolô tông đồ đã nói trước trong thư gởi giáo đoàn Rôma (Rm 1,24-32).
Tình hình như thế không xa lạ gì đối với chúng ta. Nó đang ở giữa chúng ta. Nó đang ở trong chúng ta.
Chúng ta đừng vội đổ tội cho ai, đừng vội kết án ai. Bởi vì rất có thể chính chúng ta cũng có trách nhiệm về tình hình đó. Thực sự tình hình đó đang ở trong chính mình ta, trong chính cộng đoàn của ta, trong chính Hội Thánh của ta.
Chúng ta chỉ thấy được những sự thực thê thảm đó, nếu chúng ta chân thành khiêm tốn trong lòng, trong trí, chấp nhận hồi tâm, trở vào thinh lặng. Chúng ta sẽ càng khám phá ra những vùng tối tăm dữ dằn trong ta, khi chúng ta khiêm nhường đặt mình dưới ánh sáng của Thánh Tâm, một trái tim là “trường dạy hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), một trái tim “không cần hy lễ, nhưng muốn tình thương xót” (Mt 9,13), một trái tim “không đến để tìm người công chính, nhưng đến để tìm người tội lỗi” (Mt 9,13).
Trong ánh sáng dịu hiền của Thánh Tâm, chúng ta sẽ thấy mình cần phải đổi mới, và sự đổi mới ấy là từ nội tâm. Đổi mới nội tâm đòi phải bắt đầu lại, và bắt đầu lại mỗi ngày, để trái tim ta không lúc nào trở thành một nơi bình an ngưng đọng, nhưng luôn có sinh khí mới mẻ của Chúa Thánh Thần. Sinh khí này sẽ thúc đẩy sáng tạo những cách thích hợp làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa và sẽ không ngừng hát lên những bài ca mới ngợi khen trái tim dạt dào tình yêu thương xót của Thiên Chúa chúng ta.
   Long Xuyên, ngày 02-6-2000

 

Bùi-Tuần 760: HÌNH ẢNH MỘT NGƯỜI TÔNG ĐỒ 06-06-2000

Chỉ trong mười ngày nay, Hội Thánh Việt Nam đã được nghe một số tin quan trọng về hàng: 06-06-2000 Bùi-Tuần 760

Chỉ trong mười ngày nay, Hội Thánh Việt Nam đã được nghe một số tin quan trọng về hàng giám mục của mình. Hai tân giám mục sắp được tấn phong, một giám mục được nghỉ hưu, một giám mục từ trần.
Khi nghe tin mấy vị tông đồ của mình, chúng ta thường nghĩ đến hình ảnh của các vị đó. Có nghĩa là không có hình ảnh giám mục chung chung. Nhưng là hình ảnh Đức Cha này, Đức Cha nọ. Hình ảnh trên giấy, và hình ảnh  tinh thần trong nhận thức.
Mỗi vị đều có ba loại hình ảnh :
Hình ảnh  do dư luận nghĩ về Ngài.
Hình ảnh  do chính Ngài nhìn vào Ngài.
Hình ảnh  do Chúa thấy về Ngài.
Không mấy khi ba loại hình ảnh  đó giống nhau. Tất nhiên hình ảnh do Chúa thấy là tuyệt đối đúng chân dung. Còn hai loại hình ảnh  kia thường rất tương đối. Có nét đúng nét sai. Đúng hay sai thường do cách nhìn của mỗi người. Cách nhìn đúng phải dựa trên những hiểu biết đúng. Hiểu biết về chức vụ giám mục  nói chung và trường hợp từng cá nhân của vị giám mục  nói riêng.
Ở đây tôi chỉ xin nêu ra vắn tắt một vài điểm quan trọng. Nhờ đó mới thấy được sự giống nhau và khác nhau giữa các tông đồ hiện nay của chúng ta.
1. Chức vụ giám mục .
Chức vụ giám mục  gồm ba nhiệm vụ chính: Phúc Âm hoá, cử hành các bí tích, xây dựng đời sống yêu thương hiệp nhất cho cộng đoàn.
Với nhận thức về nhiệm vụ của mình, tông đồ nào cũng ý thức mình được Chúa sai đi, để phục vụ. Nhiệm vụ nào cũng phải qui chiếu vào Phúc Âm, để xây dựng Hội Thánh địa phương được Chúa trao phó. Một Hội Thánh là của Chúa Giêsu , rao giảng về Chúa Giêsu, làm chứng cho Chúa Giêsu. Bởì vì Chúa Giêsu là Tin Mừng, là Nước Trời, là đường, là sự thật và sự sống, dẫn về Chúa Cha, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, trong phục vụ, mỗi vị có thể quan tâm đến việc này hơn việc kia. Mọi quan tâm, hoặc thường xuyên, hoặc tạm thời, đều có lý do của nó. Nếu hình ảnh  vị này là người suốt tuần bận bịu với những cử hành, hình ảnh vị kia là người chuyên lo việc rao giảng Lời Chúa, hình ảnh vị nọ là người hay đi vào những mảnh đời nghèo hèn cơ cực, thì chúng ta không nên thấy làm lạ. Thường thì hướng đi  mục vụ của các vị ấy không đọc thấy một cách dễ dàng ở các việc xem thấy được. Nó vượt trên các việc đó. Nó nhắm tới rất xa.
2. Sức sống thiêng liêng.
Sức sống thiêng liêng của mỗi giám mục với nền tu đức riêng của các Ngài có ảnh hưởng rất nhiều đến đường hướng phục vụ và thái độ phục vụ.
Cùng đọc một Phúc Âm, nhưng mỗi người được lôi cuốn vào một lời mời gọi và một hình ảnh của Chúa Giêsu. Người thì được kêu gọi tái diễn lại hình ảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Người thì được kêu gọi làm sống lại hình ảnh  Chúa Giêsu ra đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người thì được kêu mời thời-sự-hóa hình ảnh  Chúa Giêsu cầu nguyện cho sự hiệp nhất vv...
Nền tu đức riêng và sức sống thiêng liêng nơi mỗi tông đồ làm nên một chiều kích thiêng liêng luôn tiềm  ẩn trong mọi việc mục vụ của các Ngài. Trong nhiều trường hợp, nó làm cho mỗi tông đồ thành một biểu tượng. Nó diễn tả một tiếng nói Phúc Âm, hoặc một tiếng nói của cộng đoàn đang trên đường đi về nhà Cha. Đôi khi nó làm cho chính tông đồ trở nên như một thứ bí tích: Bí tích- con người.
3. Tính tình.
Tính tình của mỗi tông đồ cũng là một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến những chọn lựa và phong cách phục vụ. Có những tính tình tự nhiên giàu khả năng và động lực giúp  người tông đồ tỉnh thức nắm bắt thời cuộc, thấy trước được những chuyển biến quan trọng, biết tiên liệu cho một tương lai không thiếu bất ngờ. Trái lại, có tính tình ưa tĩnh, gắn bó hết mình với hiện tại.
Có tính tình mở về phía trước , có tính tình  hoài niệm phía sau.
Có tính tình  ưa tìm Chúa trong cầu nguyện, chiêm niệm.  Có tính tình lại thích tìm Chúa trong tiếp cận với những người nghèo hèn, bệnh tật,cô đơn, bị loại trừ, và những người ngoài Công giáo.
Có tính tình  rất dễ nhạy bén với các thực tế xã hội, văn hóa, kinh tế, có liên quan đến Tin Mừng. Nhưng có tính tình  dửng dưng với những gì không thuộc về quy tụ và cử hành Công giáo.
Nhất là có những tính tình  ưa thích mô hình đạo đức này, có những tính tình  gắn bó với mô hình thánh thiện kia.
Tính tình nói đây là kết tinh do cấu trúc tâm sinh lý, cộng với nền giáo dục, và những thói quen cá nhân, tập thể. Tông đồ công vụ cho thấy Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Barnaba là những bản lãnh khác nhau, đôi khi đã đụng nhau, đau đớn.
4. Hoàn cảnh.
Trước hết là hoàn cảnh cá nhân của mỗi người, như tình hình sức khỏe, tuổi tác, thiếu phương tiện, thiếu nhân sự cộng tác vv...
Tiếp đến là hoàn cảnh nội bộ cộng đoàn địa phương. Không thiếu những não trạng khép kín và tự mãn tự hào. Như giáo đoàn Giêrusalem xưa.
Không phải là không có những người ưa phản ứng chống đối, khi thấy tông đồ lui tới những người ngoài Công giáo để lo cho Hội Thánh. Như giáo đoàn Cesarea xưa.
Thiếu gì những thái độ ái ngại chỉ muốn tông đồ của mình ở lại với mình để giữ đạo chứ không chịu cho ngài ra đi, mở đạo, trở thành nhà truyền giáo. Như giáo đoàn Antiokia xưa.
Và còn bao phức tạp khác trong nội bộ cộng đoàn.
Thêm vào đó là hoàn cảnh xã hội, với bao tình tiết, bao chuyển biến, và bao bùng nổ. Có thứ thấy trước, và có thứ bất ngờ. Nông thôn khác thị thành. Nam không giống Bắc. Vùng đông các tôn giáo truyền thống khác vùng đông Công giáo. Nói chung, hoàn cảnh không thể đơn giản hóa được. Người tông đồ  sống với hoàn cảnh và trong hoàn cảnh mới hiểu được sứ mạng được sai vào đó, không phải luôn luôn dễ dàng thực hiện. Luôn luôn phải cố gắng làm hết sức mình, nhưng đồng thời luôn luôn phải trông nhờ Chúa Thánh Linh.
Trên đây chỉ là một chia sẻ đơn sơ. Ai có đức tin, thiện chí và thực tình yêu mến Hội Thánh sẽ thấy rằng: Mọi giám mục  được Tòa Thánh chọn và bổ nhiệm đều là các người kế vị các Tông đồ. Các Ngài là người của Chúa. Sự khác nhau giữa các Ngài là một nguồn lực phong phú cho Hội Thánh địa phương.
Mang bao gánh nặng trên vai, các ngài bước theo Đức Kitô, phục vụ Hội Thánh  và quê hương. Các ngài hy vọng, nếu chẳng làm được gì thì ít ra đời mình cũng là một của  lễ hiến dâng và là chứng từ của sự sống mới nhận được từ Thánh Linh.
Về mỗi tông đồ, những gì người ta biết được sẽ rất bé nhỏ, thiếu sót so với những gì người ta không biết được. Bởi vì ơn gọi tông đồ bao giờ cũng là một mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa, trước khi là một chọn lựa của dân Chúa.
Long Xuyên  ngày 6-6-2000

 

Bùi-Tuần 761: NGƯỜI THANH NIÊN GIÀU CÓ 09-06-2000

Trong những tháng này, tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam, đã đang và sẽ tổ chức nhiều: 09-06-2000 Bùi-Tuần 761

Trong những tháng này, tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam, đã đang và sẽ tổ chức nhiều thánh lễ kéo chú ý đến cá nhân này cộng đoàn kia. Đặc biệt là những thánh lễ có chủ ý đề cao người mang chức vụ thánh. Như lễ phong chức thánh, lễ mừng và giới thiệu người được phong chức thánh, được trao nhiệm vụ thánh. Lễ tạ ơn và cầu nguyện cho người mang chức vụ thánh. Không có lễ tạ ơn vì chức vụ thánh chung chung. Mà chỉ có lễ tạ ơn vì chức vụ thánh nơi vị này vị nọ.
Hầu như mọi thánh lễ như thế đều đã được tổ chức tốt đẹp.
Tuy nhiên, trong những dịp như thế này, tôi thường hay nhớ lại một chuyện xưa được kể trong Phúc Âm thánh Marcô.
Người thanh niên giàu có.
“Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã   tuân
giữ từ thuở nhỏ”. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi, hãy đến theo tôi”. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của  cải.
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thực khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”. Đức Giêsu nhìn thẳng các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,17-27).
Khi suy gẫm bài Phúc Âm trên, tôi thấy người thanh niên đó có thể là tôi, là chúng ta, khi chúng ta không có sự tự do nội tâm đối với những gì mình có.
Những khó khăn về tự do nội tâm.
Tự do nội tâm là không để mình bị sai khiến, bị khống chế, bị bó buộc một cách nô lệ bởi những của cải bất cứ loại nào, trái lại mình ngoan ngoãn dễ dàng nghe Chúa, đi theo Chúa, cho dù phải bỏ tất cả những gì mình đang có đang ưa thích và đang theo đuổi.
Sự tự  do nội tâm này là điều rất khó. Trước hết vì chúng ta ít để ý đến. Người thanh niên trong Phúc Âm quả quyết mình suốt đời đã giữ đạo đúng như luật dạy. Anh cho thế là đủ để an tâm. Anh không bao giờ nghĩ đến việc phải bước thêm bước nữa, đó là phải có thái độ nghèo khó nội tâm. Nhưng Chúa lại đòi điều đó. Còn chúng ta thì sao, chúng ta cũng như bao người vẫn hay bám vào lối sống đạo luật lệ, an tâm vì lối sống đạo luật lệ, tự hào về lối sống đạo luật lệ và dừng lại ở lối sống đạo luật lệ. Chúng ta cần ý thức là sống đạo như vậy chưa là đạo đức mà Chúa muốn.
Hơn nữa, không những chúng ta an tâm vì lối sống đạo luật lệ, coi đó là một tài sản cao quí của mình, mà còn dễ tự hào về những hào quang của mình. Hào quang thực và hào quang ảo tưởng. Hào quang do thành tích, do chức, do quyền, do lợi lộc, do địa vị, do những khen tụng đó đây và do những tưởng tượng chủ quan. Tất cả những thứ đó cũng làm nên một gia sản riêng. Nếu chúng ta không khiêm tốn và cảnh giác, thì thay vì chọn Chúa làm gia nghiệp, chúng ta sẽ chọn những gia sản đó làm gia nghiệp. Những dính bén, ràng buộc của chúng ta với gia sản đó thường thuộc dạng vô thức. Chúng ăn rễ quá sâu vào nội tâm ta do một nếp sống thiếu kỷ luật tu đức. Nên khó khăn sẽ rất lớn, khi chúng ta nghe Chúa bảo: Hãy dứt lìa tất cả, để vác thánh giá đi theo Chúa Giêsu trong tinh thần nghèo khó và phó thác.
Lại một khó khăn khác nữa, và khó khăn này thường lớn hơn tất cả mọi khó khăn khác. Đó là từ bỏ ý riêng mình, để vâng phục thánh ý Chúa. Thực vậy, kinh nghiệm tu đức, mục vụ, truyền giáo chứng minh rằng: Chúng ta ai cũng nuôi trong mình những chương trình nọ, những dự kiến kia. Chúng ta đặt tin tưởng vào đó, coi đó như những phương tiện và đường lối nhất định phải thực hiện cho bằng được. Chúng ta tưởng ý của riêng ta và của cộng đoàn là hợp ý Chúa. Chúng ta nuôi nhiều ý riêng loại đó, coi đó là một tài sản quí. Nhưng biết bao trường hợp đã cho thấy ý Chúa rất khác. Chúa muốn chúng ta từ bỏ gia tài ý riêng, để đi theo Chúa. Thế là chúng ta lại như người thanh niên ấy, tỏ ra buồn sầu, chán nản, dần dần xa Chúa. Hoặc cũng vâng phục ý Chúa, nhưng một cách miễn cưỡng, tạm thời. Đúng như Chúa phán: “Người giàu có khó vào được Nước Thiên Chúa”.
Phải biết đón nhận ơn Chúa.
Suy nghĩ tới đây, tôi cũng như bao người sẽ phản ứng y hệt như các môn đệ xưa: “Thế thì ai có thể được cứu”. Người trả lời sẽ không là chúng ta, nhưng là chính Chúa Giêsu: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế. Bởi vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,27).
Chúa muốn chúng ta có một trái tim trong sạch, khiêm tốn, khó nghèo. Vậy thì, chính chúng ta cũng phải muốn như thế, cũng phải khát khao điều đó, cũng phải coi điều Chúa muốn đó là điều quan trọng. Khát khao điều đó chỉ là bước đầu. Tiếp theo là bước thứ hai, đó là phải chấp nhận kế hoạch của Chúa. Kế hoạch của Chúa là ưu tiên thực thi bổn phận liên đới và tình thương xót: “Hãy về bán tất cả những gì anh có, phân phát cho kẻ nghèo”. Rồi bó buộc mình trở nên giống Chúa Giêsu: “Hãy trở lại theo Ta”.
Chỉ bằng ấy bước đi cũng là chuyện rất khó. Nhận ra cái khó ấy để biết khiêm nhường cầu nguyện cậy trông ơn Chúa, chính là một chặng đường đạo đức, mà chúng ta phải cố gắng đi vào.
***
Chúa Giêsu không hài lòng với “người thanh niên giàu có”. Não trạng con người Việt Nam hôm nay cũng không muốn thấy “người thanh niên giàu có” trong giới tu sĩ giáo sĩ. Trong đạo, hình ảnh “người thanh niên giàu có” như Phúc Âm kể không đẹp đẽ gì đâu. Trong nhà tu, hình ảnh một giai cấp giàu có lại càng chẳng đẹp đẽ gì. Xin Chúa thương ban ơn thanh tẩy chúng ta, để chúng ta biết thực sự từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Long Xuyên, ngày 09.6.2000

 

Bùi-Tuần 762: SỐNG TRONG SỰ THỰC 11-06-2000

Đến làm phép Thêm sức cho giáo xứ Bò-Ót, dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay: 11-06-2000 Bùi-Tuần 762

Đến làm phép Thêm sức cho giáo xứ Bò-Ót, dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, tôi rất vui mừng. Tôi cảm thấy mình như được thêm ơn Chúa Thánh Thần do cuộc gặp gỡ này.
Thực vậy, theo dõi sinh hoạt giáo xứ này và nhìn chung tình hình sống đạo của giáo xứ này, tôi thấy cộng đoàn anh chị em thường sống trong một số những sự thực, mà Chúa Thánh Thần hay soi sáng hướng dẫn cho những cá nhân và cộng đoàn được Chúa yêu thương.
Sự thực thứ nhất là biết mình tội lỗi, bất toàn, yếu đuối. Nhận biết mình còn có nhiều bóng tối, còn có nhiều thiếu sót, còn có nhiều bệnh hoạn thiêng liêng, đó là một nhận biết bao giờ cũng đúng sự thực. Nhận thức đúng sự thực này là một thái độ khiêm nhường, chân thành, đợi chờ và khát khao Đấng cứu độ đến. Bởi vì Chúa Giêsu đến, không phải cho những người công chính, nhưng cho những người tội lỗi. Anh chị em đừng ngại nhận mình tội lỗi. Chúng ta thực sự là như thế. Chúng ta thực sự có nhiều liên đới với những người yếu đuối, tội lỗi, Nhận thức chân thành này là bước đầu để giải cứu chúng ta.
Sự thực thứ hai là biết mình, mặc dù tội lỗi, nhưng vẫn được Chúa yêu thương. Chúa yêu thương ta một cách nhưng không, do lòng thương xót Chúa. Chúa yêu thương ta, vì Chúa là tình yêu vô cùng nhân ái, vô cùng xót thương, chư không phải Chúa yêu thương ta, vì ta thánh thiện, có nhiều công phúc, xứng đáng được yêu thương. Chúa yêu thương ta trước khi ta yêu mến Chúa. Chúa yêu thương ta, ngay khi ta còn trong tội lỗi. Nhận thức sự thực đó để tạ ơn Chúa, để luôn cậy tin Chúa, đó là điều anh chị em vốn thường thực hiện. Sự thực hiện này là một trong những khởi đầu tốt. Xin anh chị em hãy nắm vững điều đó, mặc dù nhiều khi chúng ta bị cám dỗ là Chúa không còn yêu thương ta.
Sự thực thứ ba là biết mình tội lỗi được Chúa thương, nên cầu nguyện Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn. Cầu nguyện  như người thu thuế được tả trong Phúc Âm. Ông đứng cuối nhà thờ. Ông chỉ xin Chúa thương xót, chứ chẳng có gì lành thánh để dâng cho Chúa cả. Thế mà Chúa đã khen ông và đã giải thoát ông khỏi tội lỗi. Ông đã nghe được tiếng Chúa nói trong lòng. Ông đã đón nhận được ơn Chúa đổ vào lòng. Ông đã gặp được chính Chúa đến trong lòng và ở lại cõi lòng. Nhờ đó, ông được đổi mới. Đổi mới từ nội tâm, đổi mới do có sự sống mới nhận được từ Thiên Chúa vô hình thiêng liêng.
Sự thực thứ bốn là nhận biết mình được Chúa yêu thương, nên tìm hiểu ý Chúa, để biết phấn đấu sống đạo và giới thiệu đạo một cách hợp thời giữa thời điểm cụ thể hiện nay của địa phương này. Mới sáng hôm qua, qua điện thoại, tôi nhận được một ý kiến từ Sàigòn. Một người, sau khi đọc xong bài viết của tôi trên báo Công Giáo và Dân Tộc, số mới nhất, về hình ảnh người tông đồ, đã góp ý rằng: Theo họ, người tông đồ nào cứ đạo đức được như thánh Gioan Vianney là đủ rồi. Tôi đã trả lời bằng một câu của một vị thánh: “Người đạo đức thì xin hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Người thông thái thì xin hãy dạy dỗ chúng tôi. Người khôn ngoan thì xin hãy cai trị chúng tôi”.
Cũng trong cái nhìn đó, giờ đây, tôi muốn nói với anh chị em rằng: Sống đạo hiện nay, nhất là giới thiệu đạo hiện nay trên đất nước Việt Nam này, cụ thể tại địa phương chúng ta đây, đòi chúng ta vừa phải có một trình độ đạo đức nào đó, vừa phải có một mức độ trí thức nào đó, vừa phải có một liều lượng khôn ngoan nào đó. Nếu thiếu một trong ba yếu tố nói trên, chúng ta sẽ không làm theo thánh Chúa. Nhưng để có đủ ba yếu tố nói trên, chúng ta phải phấn đấu rất nhiều.
Tôi vừa chia sẻ với anh chị em cái nhìn của tôi về giáo xứ thân yêu Bò-Ot của chúng ta. Giáo xứ chúng ta ở một vị trí quan trọng, có một bề dày lịch sử quan trọng. Tôi mong giáo xứ này sẽ có một cách sống đạo và giới thiệu đạo luôn trong chân lý Phúc Âm, luôn hợp với dấu chỉ của thời đại. Muốn được như vậy, chúng ta hãy đến với Chúa Thánh Thần. Người là Thánh Thần ban tình yêu, ban sự thực, ban sự sống mới. Hãy cầu nguyện với Người. Hãy đón nhận Người. Hãy cộng tác với Người.
Lễ Thêm sức tại nhà thờ Bò Ót, ngày 11-6-2000

 

Bùi-Tuần 763: XÉT MÌNH VỀ MỘT CHẶNG ĐƯỜNG  NĂM THÁNH

16-06-2000
 

Mới hôm nào, Năm Thánh được khai mạc trọng thể, mở đầu một lịch trình Năm Thánh đầy: 16-06-2000 Bùi-Tuần 763

Mới hôm nào, Năm Thánh được khai mạc trọng thể, mở đầu một lịch trình Năm Thánh đầy những cử hành và qui tụ khác thường.
Hôm nay nhìn lại, ta thấy gần một nửa năm đã trôi qua. Thời gian ấy đã được chúng ta sử dụng thế nào?
Không thiếu người xem ra hài lòng, khi thấy mình đã lãnh được nhiều ơn toàn xá, đã thực hiện được nhiều cuộc hành hương, đã làm được nhiều việc từ thiện xã hội, và đã đọc được nhiều lần kinh Năm Thánh. Nếu chỉ có thế mà đã an lòng, thì tôi e rằng quá sớm. Bởi vì cho dù những việc trên đây có đạt được mức trong sáng thực sự mà Chúa muốn, thì vẫn chưa đủ để được gọi là sống ơn gọi Năm Thánh.
Ơn gọi Năm Thánh là đổi mới chính mình.
Cái nhìn tổng quát về đổi mới chính mình.
Thế nào là đổi mới chính mình? Thưa để bước vào sự hiểu biết một điều hết sức quan trọng như sự đổi mới chính mình, thiết tưởng chúng ta nên bám chặt vào nền tảng Kinh Thánh. Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra mấy lời Tân Ước sau đây:
“Anh em đừng rập theo lối sống đời này, nhưng hãy cải đổi con người anh em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp ý Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2).
“Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Chúa Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
“Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô. Đức Kitô vốn đã là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ... Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,5-8).
Qua mấy lời Kinh Thánh trên đây, chúng ta có thể tạm đưa ra một cái nhìn căn bản tổng quát về việc đổi mới chính mình. Đó là luôn sống theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, phấn đấu gỡ bỏ lối sống chiều theo dục vọng xác thịt thế gian, để không ngừng tìm thực thi ý Chúa Cha, theo gương Chúa Giêsu Kitô từ tâm tình, cuộc sống cho đến cái chết vì vâng phục, hầu làm chứng cho Thiên Chúa là tình yêu thương xót.
Từ cái nhìn căn bản đó, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét.
Đổi mới không phải là tìm hợp lý hóa đời sống.
Trước hết, sự đổi mới chính mình, mà Chúa muốn, không phải là sự điều chỉnh lại nếp sống của mình sao cho hợp lý, hợp luật, hợp pháp.
Đã có một thời, sự lựa chọn trong việc đổi mới chính mình được nhấn mạnh đến sự hợp-lý-hóa và hợp-luật hóa đời sống. Khuynh hướng đó có một phần tốt, nhưng cũng có một phần không tốt, vì mở đường cho nhiều người đi tới đạo hình thức, thậm chí đi tới chỗ tìm hợp thức hóa những  thái độ độc quyền, độc tôn, độc ác nhân danh luật Chúa.
Phúc Âm thánh Gioan kể lại chuyện nhóm biệt phái và luật sĩ dẫn một phụ nữ đến trước mặt Chúa Giêsu. Họ thưa với Người rằng: Cô này bị bắt vì tội ngoại tình. Cứ theo luật Maisen, thì cô này phải bị ném đá cho tới chết. Còn Thầy nghĩ sao? Nhóm tố cáo này thuộc loại người chủ trương phải điều chỉnh mình và cộng đoàn mình theo hướng hợp lý hóa và hợp luật hóa đời sống. Nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ thế. Người đi xa hơn và hướng cao hơn, như chúng ta đã biết (x. Gioan 8,3-11). Ngài làm chứng cho tình yêu thương xót.
Ơn thánh không thay thế tự nhiên.
Ngoài ra, sự đổi mới chính mình mà Chúa muốn, đòi hỏi phải có một nhận thức đúng về sự phức tạp của liên hệ giữa ơn thánh và cơ cấu tâm sinh lý, trình độ trưởng thành nhân bản và tình hình xã hội.
Ơn thánh không huỷ diệt và thay thế những gì thuộc lãnh vực tự nhiên. Một cấu trúc tâm sinh lý bị lệch lạc, một nhân bản bị bệnh hoạn hoặc quá non yếu, một lối suy nghĩ của cơ chế cộng đoàn vốn từ lâu sai trái và đã trở thành xơ cứng chai lì, tất cả những thứ đó trong con người sẽ không thay đổi được chỉ nhờ duy ơn Chúa, mà không cần đến sự cố gắng tái đào tạo. Sự kiện Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mới rồi xin lỗi về sáu thứ lỗi lầm tập thể lớn lao kéo dài trong quá khứ Giáo Hội chứng tỏ rằng: ơn thánh không thiếu trong Giáo Hội, nhưng đã chỉ  đổi mới được con cái Giáo Hội, khi nào họ bừng tỉnh, nhận mình sai trái, khiêm nhường đón nhận ơn chữa trị của Chúa và muốn thực tình phấn đấu nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi với những cái nhìn mới của Kinh Thánh học, Thần học, Giáo Hội học và Truyền giáo học.
Điều chỉnh lại lối sống đạo đức không là Tin Mừng.
Một nhận xét nữa cũng rất cần để ý, đó là sự đổi mới chính mình, mà Chúa muốn, không chỉ là bỏ đi những lối sống theo thói xác thịt và thế gian, mà cũng phải điều chỉnh lại những lối sống đạo không thực sự mang Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Kinh nghiệm cho thấy, trong thâm tâm nhiều người, thường vẫn có một hoài vọng thầm kín về sự tôn sùng cái tôi. Nhiều khi, tham vọng thầm kín đó được nuôi dưỡng cũng bằng cả những thành công đạo đức, và được bọc trong những lớp sơn đạo đức. Thế rồi, nó trở thành khôn ranh và hung hăng, không ngần ngại lợi dụng thần thánh vào mục đích tìm tư lợi. Ba thứ lợi dụng mà Satan xưa đã đưa ra để cám dỗ Đức Kitô trong sa mạc, nay vẫn còn là vấn đề thời sự trong Hội Thánh, nơi cá nhân này, cộng đoàn kia. Thắng vượt được những cám dỗ đó, để đổi mới chính mình, là chuyện không dễ.
Thiện chí đổi mới nhờ Thánh Linh.
Mặc dầu việc đổi mới chính mình là việc rất khó thực hiện được theo như Chúa muốn. Nhưng Chúa vẫn đòi chúng ta phải có thiện chí. Thiện chí muốn đổi mới, thiện chí cố gắng đổi mới, thiện chí phấn đấu với chính mình để đổi mới, nhất là thiện chí chấp nhận kế hoạch đổi mới do Chúa đề ra, đó là: Nhờ Chúa Thánh Linh, bước theo Đức Giêsu Kitô, trên con đường thực thi thánh ý Chúa Cha, để trở nên tạo vật mới.
Ở đây, tôi chỉ xin dừng lại chút ít ở một điểm quan yếu, đó là: Nhờ Chúa Thánh Linh. Dứt khoát tôi phải nhờ Chúa Thánh Linh trong mọi canh tân.
Khi cầu nguyện, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để biết cầu xin sự gì, cầu nguyện làm sao, cho hợp với ý Chúa về bản thân tôi, trong từng hoàn cảnh thời gian và không gian. Khi cầu nguyện cho người khác, cho quê hương, cho Hội Thánh, tôi cũng phải nhờ Chúa Thánh Linh như vậy.
Khi nghe một Lời Chúa, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để đón nhận được ý Chúa gởi đến cho riêng tôi qua Lời đó.
Khi làm việc, tôi phải nhờ Chúa Thánh Linh, để biết nhạy cảm trước các thực tại cụ thể, biết ngoan ngoãn với động lực thúc đẩy bên trong của Chúa Thánh Linh, và biết giữ ý hướng luôn được trong trắng.
Khi học hỏi, quan sát, tìm tòi nghiên cứu, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để biết đọc được ý nghĩa các tín hiệu Chúa gởi qua các dấu chỉ.
Khi xét mình hằng ngày, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để biết nhận ra những gì Thánh Linh đang đợi chờ.
Khi phân định và chọn lựa, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để luôn tìm thánh ý Chúa Cha trên nền tảng và nguyên tắc là gương Đức Kitô và lời Đức Kitô.
Khi gặp thử thách, tôi nhờ Chúa Thánh Linh, để biết tìm được sự lành trong sự dữ, và biết biến đổi sự xấu thành sự tốt đẹp.
***
Để kết, tôi xin nhấn mạnh điều này: Đổi mới chính mình không chủ yếu là đổi quan điểm hay phong-phú-hóa kho tàng kiến thức về giáo lý, nhưng là đổi mới chính sự sống nội tâm. Khi đức tin không chỉ là sự chấp nhận một hệ thống chân lý, mà đã trở thành sự sống tình yêu do Thánh Thần hướng dẫn, để gặp gỡ và bước theo Đức Kitô, trên đường đi về Chúa Cha, thì sự sống ấy lan ra một cách tự nhiên, nhẹ nhàng.
Nó làm chứng và rao giảng nhờ sức mạnh Thiên Chúa ở cùng. Tới đây, chúng ta đã rõ: Mấu chốt vấn đề đổi mới bản thân mình chính là sự sống nội tâm.
Thời gian còn lại của Năm Thánh đang rút vắn lại. Chúng ta hãy quan tâm nhiều hơn đến lời kêu gọi khẩn cấp của Năm Thánh: Đổi mới chính mình.
Ngay bây giờ, trước mắt, chúng ta hãy đáp lại lời gọi của Trái Tim Chúa Giêsu trên thánh giá “Ta khát” (Ga 19,28).
Người khát tình yêu khiêm nhường của ta.
Người khát thiện chí đổi mới nội tâm của ta.
Người khát sự dấn thân của ta làm chứng cho tình yêu thương xót vô biên của Người.
Long Xuyên, ngày 16-6-2000

 

Bùi-Tuần 764: SỨC THU HÚT NƠI THÁNH GIOAN  BAOTIXITA

24-06-2000
 

Khi Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dùng một số người cộng tác. Trong số: 24-06-2000 Bùi-Tuần 764

Khi Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dùng một số người cộng tác. Trong số những người cộng tác được coi là rất quan trọng, Hội Thánh nhắc tới thánh Gioan Baotixita. Sở dĩ thánh Gioan Baotixita nổi lên như một nhân vật phi thường, bởi vì ngài xuất hiện như một hiện tượng khác thường.
 Khác thường ở những chi tiết lạ thường xung quanh việc ngài sinh ra. Khác thường ở đời sống khắc khổ. Sống trong sa mạc, khoác trên mình một tấm da cừu, ăn uống đạm bạc. Khác thường ở sự ngài đi đây đi đó, để rao giảng việc sám hối và làm phép rửa. Khác thường ở sự ngài giới thiệu chính Đức Kitô là Đấng cứu thế, Đấng gánh tội và xóa tội trần gian. Cuộc sống ngài đơn sơ, đời sống ngài vắn vỏi, nhưng ngài là người hấp dẫn.
Chính Chúa Giêsu đã nói về ngài: “Nghe Gioan giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng công chính. Họ chịu phép rửa của ông. Chỉ những người Pharisiêu và những người thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông” (Lc 7,29).
Phải nói là đám đông đã ngưỡng mộ ngài về mặt đạo đức. Nếu tìm hiểu yếu tố nào nơi ngài đã có sức thu hút như vậy, chúng ta sẽ thấy câu trả lời khá rõ.
Rõ ràng không phải là chức quyền, địa vị. Bởi vì ngài không được thụ phong để mang chức vị nào. Cũng không phải là tiền bạc, bởi vì ngài rất nghèo. Cũng không phải là vì thông thái, bởi vì ngài không có bằng cấp nào. Cũng không phải là phép lạ, bởi vì ngài không hề làm một việc phi thường nào.
Theo tôi, yếu tố nơi ngài đã đánh động đám đông, chính là sự sống thiêng liêng  do ơn thánh Chúa ban.
Sự sống thiêng liêng này thấm nhập sâu vào trí khôn, tình cảm, ý chí, trí nhớ, trí vẽ của ngài.
Sự sống thiêng liêng này bao phủ khắp mọi lãnh vực hoạt động, như thái độ, tư tưởng, lời nói đến việc làm của ngài.
Sự sống thiêng liêng này thống trị các sự sống tự nhiên trong ngài.
Chúng ta nên biết điều này:
Trong mỗi con người, bản tính tự nhiên bao giờ cũng mang những mầm mống của sự mất trật tự: Mất trật tự trong những hiểu biết, mất trật tự trong những tình cảm và ước muốn.
Để thiết lập trật tự nội tâm, ai cũng phải tích cực phấn đấu với chính mình, trong nội tâm của mình. Thánh Gioan Baotixita đã chứng tỏ sự chiến đấu can trường qua cuộc sống khắc kỷ, tu thân. Đó là bước đầu thấp nhất thuộc lãnh vực tự nhiên. Bước tiếp theo và lên cao hơn, đó là đón nhận ơn thánh hóa. Ơn thánh hóa này là ơn được chia sẻ dành riêng cho những ai được là con Chúa. Chúa ban ơn thánh hóa này cho những kẻ khiêm nhường được chọn như thánh Gioan Baotixita.
Ngoài ơn thánh hóa chung cho mọi con cái Chúa, Chúa lại ban ơn riêng cho những ai được trao phó một sứ mạng riêng. Thánh Gioan Baotixita được trao sứ mạng tiên tri,dọn đường cho Chúa Giêsu. Nên ngài lại được ơn thánh đặc biệt. Ngài đã biết đón nhận ơn đó, đã biết phát triển ơn đó, đã biết dùng ơn đó một cách trung thành và khôn ngoan.
Tất cả những gì làm nên sự sống thiêng liêng nơi thánh Gioan Baotixita đã là sức mạnh thu hút các người thiện chí.
Hôm nay, nhân dịp lễ thánh Gioan Baotixita, chúng ta nên xem lại chính mình, để biết chúng ta có để ý phấn đấu cho một nền trật tự nội tâm không, chúng ta có khiêm nhường đón nhận ơn thánh hóa không, chúng ta có biết dùng ơn riêng Chúa ban cho không.
 Chúng ta cầu nguyện cho nhau, để biết noi gương thánh Gioan Baotixita ở đời này và được cùng ngài hưởng hạnh phúc vô cùng đời sau.
Lễ Thánh Gioan Baotixita, ngày 24-6-2000

 

Bùi-Tuần 765: TÍN HIỆU 27-06-2000

Từ nhiều năm qua, họ đạo Cần Xây khát mong thay thế nhà thờ cũ bằng nhà thờ mới. Khát: 27-06-2000 Bùi-Tuần 765

Từ nhiều năm qua, họ đạo Cần Xây khát mong thay thế nhà thờ cũ bằng nhà thờ mới. Khát mong đó là chính đáng, bởi vì nhà thờ cũ tiếp tục xuống cấp trầm trọng.
Hôm nay, ngôi nhà thờ mới đã hoàn thành. Đây là một công trình đẹp, đẹp ở mặt kiến trúc, đẹp ở mặt thi công, nhưng nhất là đẹp ở mặt tinh thần.
Ở mặt tinh thần, tôi nhận thấy những nét đẹp rất đáng khen ngợi. Thí dụ: Tinh thần đoàn kết trong nội bộ họ đạo được nâng cao hơn. Tinh thần liên đới của họ đạo với các nơi ngoài họ đạo được mở rộng hơn. Tinh thần hòa hợp với các tôn giáo bạn được đằm thắm hơn. Tinh thần hợp tác giữa đạo với đời được tích cực hơn. Tinh thần họ đạo hòa mình vào đà tiến chung của giáo phận được ghi nhận nhiều hơn.
Những nét tinh thần trên đây đang làm nên một sức sống mới cho họ đạo. Sức sống mới này góp một phần không nhỏ vào sự phát triển họ đạo nói riêng, và địa phương nói chung. Có nghĩa là tất cả những vẻ đẹp trên đây đều hướng về phục vụ.
Vì thế, tôi coi đây là một tín hiệu. Tôi thấy tín hiệu này có nhiều gợi ý. Nên tôi xin dừng lại ở tín hiệu này. Tín hiệu, mà tôi cảm nhận được từ tiến trình xây dựng nhà thờ Cần Xây là: Hội Thánh thế kỷ 21 đang chuyển dịch từ cơ chế quyền lực sang cơ chế phục vụ, và trong cơ chế phục vụ, Hội Thánh đang tìm chọn một hình thức phục vụ tốt nhất.
Cơ chế quyền lực là cơ chế tỏ rõ quyền lực, khẳng định quyền lực, bảo vệ quyền lực, mở rộng quyền lực. Trong thời điểm này, Hội Thánh với cơ chế quyền lực dù bất cứ hình thức nào đều lỗi thời, và gây hại cho đạo. Do đó, mọi cộng đoàn tín hữu đều muốn đi sang cơ chế phục vụ. Nhưng phục vu dưới hình thức nào, đó mới là vấn đề phải suy nghĩ, tìm tòi nghiên cứu.
Nói chung, cơ chế phục vụ có thể chia thành ba hình thức.
Một là guồng máy tổ chức phục vụ.  Cộng đoàn có guồng máy phục vụ là cộng đoàn để ý đến việc thiết lập nên những ban bệ phục vụ, với những nhân sự phục vụ, với những chương trình phục vụ vv...
Hai là tư thế chuẩn bị và sẵn sàng phục vụ. Cộng đoàn có tư thế chuẩn bị và sẵn sàng phục vụ là cộng đoàn để ý đến việc đào tạo, huấn luyện những người phục vụ.
Ba là dấn thân phục vụ. Cộng đoàn dấn thân phục vụ là cộng đoàn đang phục vụ thực sự, đang dấn thân thực sự.
Nhưng thực tế mới là quan trọng. Nếu trên thực tế cộng đoàn có nhiều tổ chức phục vụ lại có thể không thực sự phục vụ, cũng như nếu trên thực tế cộng đoàn chuẩn bị sẵn sàng phục vụ lại có thể chưa thực sự phục vụ, thì cộng đoàn đang dấn thân phục vụ là chứng nhân có sức thuyết phục nhất.
Trước khi nghĩ tới những việc làm phục vụ, thì phục vụ khởi sự từ nội tâm. Một nội tâm sôi sục những tâm tình liên đời thiết thực theo gương Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Giuse và các thánh Tông Đồ.
Nội tâm phục vụ theo gương Chúa Giêsu là cảm thấy chính mình ở trong thân phận những người khổ đau, một sự đồng cảm sống động như với sự đồng dạng chân thành. Phục vụ đó rất nhạy cảm với những vết thương của đồng bào, của lịch sử dân tộc, để cùng chia sẻ lo âu khắc khoải trên con đường đồng hành.
Nội tâm phục vụ theo gương Đức Mẹ Maria và thánh Giuse là nhạy bén cảm nhận sâu sắc những nhu cầu chính đáng của dân, để rồi tìm cách đáp ứng bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng thời điểm, thuận theo đúng ý Chúa muốn.
Nội tâm phục vụ theo tinh thần các thánh tông đồ là cảm thương trăn trở muốn tái diễn lại việc phục vụ khiêm nhường  của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ, và chịu chết đền tội thay cho nhân loại.
Nội tâm phục vụ như trên là thứ phục vụ hợp khả năng của mọi người bình thường, với những phương tiện bình thường, trong cuộc sống bình thường.
Tất cả mọi phục vụ ấy đều do động lực Lời Chúa, gương Chúa và tình yêu Chúa. Phục vụ ấy là một thứ lửa thiêng có thể cháy lên trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn.
Xưa, ông Môisen thấy một bụi gai bốc cháy. Khi ông tiến gần, ông thấy trong bụi gai bốc cháy đó có Chúa hiện ra (Xh 3,1-10). Bụi gai là một thứ không đẹp đẽ gì, không cao quí gì, thế mà Chúa lại chọn nơi đó để hiện ra.
Họ đạo Cần Xây cũng chẳng có gì đẹp đẽ cao quí, nhưng Chúa chọn nơi đây để tỏ tín hiệu của Người. Tôi coi đây là một hồng ân đáng ghi nhớ, đáng học hỏi và rất đáng tạ ơn.
Xin hết lòng chia sẻ niềm vui với Cha Sở và họ đạo.
Xin hết lòng cảm ơn tất cả những ai đã góp phần làm nên tín hiệu của Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy nhìn về phía trước với tâm tình biết ơn. Và hãy lại lên đường tiến về phía trước với niềm hân hoan tin cậy. Hãy tin vào Chúa Giêsu Kitô. Người đang nói với chúng ta: “Cha sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Cần Xây, ngày 27-6-2000

 

Bùi-Tuần 766: SỐNG ĐẠO VỚI NHỮNG CHỌN LỰA TỐT 29-06-2000

Lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là một dịp thuận tiện , để chúng ta tiến bước theo: 29-06-2000 Bùi-Tuần 766

Lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là một dịp thuận tiện , để chúng ta tiến bước theo tiếng gọi của Năm Thánh.
Nếu Năm Thánh kêu gọi chấn chỉnh và làm đẹp đời sống đạo, thì hai thánh tông đồ cột trụ của Hội Thánh nhắc nhở chúng ta phải chấn chỉnh và làm đẹp thế nào.
Ở đây, tôi xin phép chỉ nêu lên vắn tắt một điểm mà thôi. Đó là: Hãy đưa cách sống đạo theo thói quen đi sâu vào cách sống đạo của những chọn lựa tốt.
Giữ đạo theo thói quen, cho dù tốt, vẫn thường thiếu ý thức, thiếu sự sống, nhất là thiếu lửa nội tâm và sáng tạo.
Hai thánh tông đồ đã có có một thời sống đạo của những thói quen tốt. Nhưng khi gặp được Chúa Giêsu, các ngài đã có những chọn lựa mới rất quyết liệt. Chọn lựa một cách tự do. Chọn lựa có tính cách bản thân. Chọn lựa với tinh thần trách nhiệm cao.
Chọn lựa nói đây của các ngài là chọn lựa đạo đức. Đạo đức đó thế nào?

Đạo đức Tin Mừng Chúa Giêsu-Kitô.
Đạo đức của các ngài là tập trung vào Đức Kitô, là chọn Đức Kitô làm nền tảng. Bởi vì Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, để măc khải Thiên Chúa tình yêu. Người là mô hình sống đạo, là đường đi, là sự thực và là sự sống. Đặc biệt Người là Đấng cứu độ duy nhất.
Trong Đức Kitô, con người được nâng lên địa vị người con của Chúa. Cùng với Đức Kitô, con người đi về  Chúa Cha, dưới sự thục đẩy của Chúa Thánh Thần. Khi sống như vậy, hai thánh tông đồ cảm thấy cuộc sống mình có ý nghĩa cao đẹp, và đời mình có hướng đi rõ ràng, chắc chắn dẫn tới sự sống bất diệt. Trong niềm tin với cảm nghiệm, các ngài tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc một cách khiêm nhường vì ơn cao quí Chúa đã ban cho nhưng không.
Đó là nét lớn của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng này được giới thiệu không phải trong lý thuyết, nhưng trong chính những người đã gặp gỡ Đức Kitô, đã chọn Đức Kitô, luôn có Đức Kitô trong nội tâm mình.
Hai thánh tông đồ đã sống Tin Mừng ấy như một chọn lựa ưu tiên tuyệt đối, dứt khoát và trung thành, Thánh Phêrô đã nói lên chọn lựa đó: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đạo đức” (Ga 6,68).
Còn cách sống đạo của chúng ta thế nào?
Nhiều nơi, nhiều người có một chọn lựa khá rõ, nói lên mình thuộc về Đức Kitô. Căn tính Kitô hữu của họ được thể hiện qua cách họ thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, qua việc họ năng học hỏi Lời Đức Kitô, luôn sống theo gương Đức Kitô, và bước theo Đức Kitô, nhất là qua việc thực thi giới răn mới của Người, là giới yêu thương và dấn thân thăng tiến bản thân mình. Nhưng đang khi đó, nhiều nơi, nhiều người gọi là theo đạo công giáo, vẫn trôi nổi với một số thói quen đạo đức. Họ không giới thiệu được căn tính Kitô hữu của mình. Xem ra họ chưa bao giờ đã thực sự chọn Đức Kitô làm Tin Mừng cho đời mình, làm sự sống và hướng đi cho chính mình.
Từ đạo đức Tin Mừng, hai thánh tông đồ đã chọn đạo đức tu thân.
Đạo đức tu thân.
Tu thân là chấp nhận chiến đấu nội tâm, từ bỏ tội lỗi, tính mê nét xấu, nhất là khiêm tốn bỏ ý riêng mình để trở nên tạo vật mới.
Biết bao trường hợp, các ngài cũng đã như Chúa Giêsu xưa. “Sấp mặt xuống đất cầu nguyện với Chúa Cha rằng: Cha ơi,nếu được, xin cho chén đắng rời xa con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Tu thân đến mức như vậy đó. Đạo đức nơi  hai thánh tông đồ đầy những từ bỏ mình, đầy những phấn đấu với chính mình, để thuộc về Chúa và để phục vụ con người theo ý Chúa. 
Còn chúng ta thế nào?
Tại Việt Nam, nét tu thân vốn rất được đề cao trong đạo đức. Đạo đức nơi người thường cũng phải có nét tu thân. Đạo đức nơi người đi tu càng phải đậm nét tu thân. Các việc khác nhau của tu thân cày bừa cõi lòng, để hạt giống Nước Thiên Chúa có sẵn trong đó được mọc lên tươi tốt. Tu thân có sức mở lòng ra, để con người bước vào những tình trạng thiêng liêng trước đây chưa được khám phá. Với tình yêu, con người tu thân tìm thấy sự tự do nội tâm, để phân định căn bẳn và phụ thuộc, vững bền và phù du. Người tu thân sống trong kỷ luật sẽ dễ nếm được hương vị đời đời ngay trong thời gian vắn vỏi. Đặc biệt là tu thân giúp đưa con người đến bác ái yêu thương phục vụ khiêm nhường.
Đạo đức yêu thương.
Hai thánh tông đồ đã luôn sống yêu thương và dạy yêu thương. Nơi các ngài, yêu thương làm nên bộ mặt mới của nếp sống đạo đức. Nơi các ngài, yêu thương không phải là việc để tự do, làm cũng được mà không làm cũng được, nhưng nó là việc bắt buộc phải làm.
Bắt đầu từ việc có thể làm, đó là cảm thương. Cảm thương không chung chung,nhưng là cảm thương những con người cụ thể. Họ là những người nghèo khó, cô đơn, bệnh nạn. Họ là những người tội lỗi, yếu đuối. Họ là những người bị loại trừ.
Cảm thương là chính mình bị thương bởi những vết thương của người khác. Là khiêm nhường  liên đới trong cùng nỗi khổ của người khác.
Trước khi nghĩ ra việc có thể làm gì cho người khổ đau, các thánh tỏ ra là người có trái tim biết rung động, đồng cảm, đồng hành, đồng khổ với những người khác.
Xưa Chúa Giêsu, cũng vì chia sẻ gánh nặng của thân phận những  người bị loại trừ,nên trong vườn Cây Dầu, Người đã bồi hồi,  xao xuyến, đến nỗi mồ hôi máu chảy ra, nhỏ trên đất (xem  Lc 22,44).
Hai thánh tông đồ cũng đã bao lần trải qua những cảnh khổ đau như thế. Cũng chỉ vì đồng cảm thân phận những người đau khổ. Hình như trong trái tim các ngài có trái tim Chúa Giêsu đầy lửa tình yêu thương xót.
Do kinh nghiệm, thánh tông đồ  Phaolô đã viết bài ca yêu thương. Bài trường ca hùng tráng này được kết như sau “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cor 13,13). Chính bản thân hai thánh tông đồ là hai bài ca bái ái tuyệt vời.
Còn chúng ta thì sao?
Sống đạo trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam hôm nay, là một chọn lựa phải để ý đến chất lượng đạo đức. Nó phải rất sáng suốt và khôn ngoan. Tiên vàn, hãy biết chọn lựa Chúa Giêsu Kitô và giáo lý các tông đồ. Nếu năng gặp gỡ Chúa Giêsu và trung thành gắn bó với giáo lý các tông đồ, chúng ta sẽ thấy luôn luôn có những mới mẻ hấp dẫn, để ra đi làm chứng cho Thiên Chúa chúng ta.
Lễ kính hai thánh Phêrô và Phaolô, ngày 29-6-2000

 

Bùi-Tuần 767: FATIMA VÀ CẢNH  BÁO 21-07-2000

Mới rồi, ngày 26-6-2000, Toà Thánh theo lệnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chính thức: 21-07-2000 Bùi-Tuần 767

Mới rồi, ngày 26-6-2000, Toà Thánh theo lệnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chính thức công bố bí mật thứ ba của sự kiện Fatima.
Liền sau đó, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Đức Tin, đã đưa ra bản hướng dẫn thần học về sự kiện Fatima.
Tiếp đó, Cha Georges Cottier, thần học gia của Đức Thánh Cha, đã trả lời một số thắc mắc về sự kiện Fatima.
Những sự việc trên đây đã kéo chú ý của dư luận, nhất là trên các phương tiện thông tin.
Tất cả chứng tỏ rằng sự kiện Fatima vẫn còn là vấn đề thời sự của hôm nay.
Những tai hoạ.
Thời sự  là ở điểm này: Năm 1917, từ Fatima, Đức Mẹ cảnh báo con cái Mẹ thế nào, thì năm 2000, từ Vatican, Đức Mẹ cũng cảnh báo con cái Mẹ như thế. Đây là cảnh báo then chốt: “Nếu các con tiếp tục sa phạm tội, thì các con phải gánh những tai ương. Nhưng nếu các con thành tâm hối cải, các con sẽ tránh được các tai ương đó”.
Những tai ương nói đây là những thiệt hại ở đời này, nhất là thiệt hại ở đời sau. Thiệt hại ở đời này là sự tha hoá con người và những tàn khốc trong xã hội. Thiệt hại ở đời sau là bị sa xuống hỏa ngục.
Ở Fatima, những tai ương đã được diễn tả qua những thị kiến có tính cách biểu tượng. Bí mật thứ nhất là cảnh khủng khiếp của hỏa ngục. Bí mật thứ hai là cảnh hoang tàn ghê gớm của chiến tranh. Bí mật thứ ba là cảnh chết chóc kinh hoàng xảy ra cho Hội Thánh.
Những cảnh báo này là mạc khải tư, nên không buộc phải tin. Tuy nhiên chúng hỗ trợ cho đức tin.
Những giải pháp.
Để tránh những tai ương đó, con người phải sám hối, tức là bỏ tội, tránh tội, ăn năn tội, đền tội.
Hỗ trợ cho việc sám hối để đi vào lối sống Tin Mừng đích thực, Đức Mẹ ở Fatima kêu gọi con cái Mẹ hãy tham gia vào mầu nhiệm thánh giá, và tôn sùng trái tim vô nhiễm Mẹ.
Tôn sùng trái tim vô nhiễm Đức Mẹ chủ yếu là chọn trái tim vô nhiễm Đức Mẹ làm mẫu gương sống đạo. Một trái tim có Chúa ở cùng “Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Một trái tim luôn tìm thực thi thánh ý Chúa “Xin vâng” (Lc 1,38). Một trái tim luôn tạ ơn ca ngợi Chúa “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lc 1,46). Một trái tim khiêm nhường “Này tôi là tôi tớ Chúa” (Lc 1,38). Một trái tim đồng lao đồng khổ với Chúa Giêsu “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35). Một trái tim cộng tác vào việc phát triển con người theo mô hình Chúa Giêsu “Đức Giêsu càng ngày càng khôn lớn” (Lc 2,52). Một trái tim suy niệm “Đức Mẹ ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Một trái tim phục vụ con người một cách tế nhị “Trong tiệc cưới Cana, có thân mẫu Đức Giêsu ...” (Ga 2,1-12). Một trái tim mong muốn đổi mới mọi sự dưới hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (Cv 2,1-12).
Mấy sứ điệp trên đây ở Fatima đều có căn bản trong Phúc Âm. Ai tuân giữ là đi vào con đường sự sống. Ai không đi vào đó và chọn con đường mê hoặc sẽ kể như đi vào con đường sự chết. Chọn “sinh lộ” hay “tử lộ” là tùy tự do mỗi người. Xem ra trên thực tế rất nhiều người đang đi vào “tử lộ”. Thấy nguy cơ đó, Đức Mẹ đã cảnh báo. Cảnh báo ấy vẫn còn giá trị và nay càng trở nên khẩn thiết.
Cảnh báo Hội Thánh địa phương.
Khi suy nghĩ cảnh báo của Mẹ Maria ở Fatima đã nhắm vào một giai đoạn lịch sử cụ thể, tôi thấy thời điểm này của mỗi Hội Thánh địa phương cũng có những vấn đề riêng cần được cảnh báo.
Riêng tại địa phương này, tôi thấy cần cảnh báo về một số tình hình sống đạo chưa tốt nơi này nơi nọ.
Cách sống đạo thiếu căn bản Phúc Âm đang đi vào nguy cơ đức tin bị tha hóa và sa sút. Thiếu căn bản Phúc Âm là không bám vào gốc rễ đó là lời Chúa, gương Chúa, ý Chúa và ơn Chúa, mà chỉ dựa trên một vài tiêu chuẩn truyền thống lỗi thời nặng về hình thức,  luật lệ và dư luận tùy tiện.
Cách sống đạo thiếu dấn thân đang đi vào nguy cơ đức ái bị què quặt đui mù. Giống như người phú hộ Chúa nói trong Phúc Âm đã không thực hiện bổn phận liên đới với người hành khất Lagiarô ngồi ở cổng nhà mình.
Cách sống đạo thiếu tiên liệu đang đi vào nguy cơ đưa Hội Thánh đến chỗ cằn cỗi, tự huỷ. Giống như năm người trinh nữ khờ dại nói trong Phúc Âm. Cứ nhởn nhơ tự mãn với vẻ đẹp trinh trong bề ngoài của mình. Còn sự khôn ngoan bên trong thì lại không có. Ở đây, sự khôn ngoan là biết tiên liệu cho tương lai Hội Thánh địa phương của mình. Tiên liệu ít ra là ở chỗ đào tạo những nhân sự giàu khả năng phục vụ và phát triển bất cứ trong tình huống nào, nhất là đưa ra một con đường đổi mới có thực chất dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.
Cách sống đạo thiếu tỉnh thức đang đi vào nguy cơ dẫn Hội Thánh ra ngoài lề xã hội. Lịch sử chuyển biến từng ngày. Chuyển biến về xã hội, về văn hoá, về kinh tế, về tâm lý và về cảm tình tôn giáo. Nếu không bám sát, không theo dõi, không nắm bắt, không phân định, không kịp thời, thì Hội Thánh địa phương sẽ đi vào một cái chết được báo trước.
***
Tôi mong rằng những gì Toà Thánh mới nhắc lại về Fatima sẽ được chúng ta tiếp thu. Đừng tiếp thu kiểu tiếp thu một tin tức, nhưng hãy tiếp thu kiểu tiếp thu một Tin Mừng. Nghĩa là tiếp thu với tâm hồn khiêm tốn, gẫm suy và tìm hiểu ý Chúa, để mà thực thi. Nên nhớ rằng: không làm những việc phải làm cũng là tội. Tội sẽ dẫn tới tai hoạ. Đó là điều Đức Mẹ cảnh báo.
Long Xuyên, ngày 21-7-2000

 

Bùi-Tuần 768: TRỞ NÊN NGƯỜI CÓ ÍCH 26-07-2000

Giờ đây Chúa Giêsu đang ngự giữa chúng ta. Người nhìn chung tất cả và nhìn riêng từng người: 26-07-2000 Bùi-Tuần 768

Giờ đây Chúa Giêsu đang ngự giữa chúng ta. Người nhìn chung tất cả và nhìn riêng từng người. Người nói trong lòng chúng ta. Lời Người nói tương tự lời Phúc Âm vừa công bố:
“Mắt các con thực có phúc vì được thấy. Tai các con thực có phúc vì được nghe. Cha nói thiệt với các con. Nhiều người đã mong được thấy điều chúng con đang thấy, nhưng họ đã không được thấy. Nhiều người đã mong được nghe điều các con đang nghe, nhưng họ đã không được nghe”.
Riêng đối với tôi, lời Chúa phán trên đây là một nhắc nhở quí giá. Chúa nhắc nhở tôi và anh chị em sự thực này là: Chúng ta được diễm phúc hơn rất nhiều người. Chẳng hạn những thế hệ trước đây đâu có được thấy và được nghe bao điều tốt đẹp của cuộc lễ hôm nay như chúng ta lúc này. Và ngay lúc này, từng trăm ngàn người trong giáo phận cũng đâu được thấy và được nghe như chúng ta đây.
Chứng tỏ rằng chúng ta là những người có phúc, chúng ta đang hưởng hồng ân.
Được hưởng hồng ân, chúng ta có bổn phận cảm tạ Chúa. Ngoài bổn phận cảm tạ, chúng ta còn có bổn phận dùng hồng ân Chúa ban để trở nên người có ích.
Trở nên người có ích, đó là một mong ước xâm chiếm lòng tôi.
Tôi ước mong mỗi người chúng ta hãy là một bông hoa thơm đẹp, được coi là có ích cho những người xung quanh.
Tôi ước mong mỗi gia đình chúng ta hãy là một ngọn đèn sáng, được coi là có ích cho lối xóm và địa phương.
Tôi ước mong giáo phận Long Xuyên nói riêng và Hội Thánh Việt Nam nói chung hãy là những dòng sông chuyên chở nước phì nhiêu, được coi là có ích cho đất nước  Việt Nam.
Tôi ước mong con cháu chúng ta sẽ là những người có đức có tài, sinh ích cho gia đình và xã hội mai sau.
Ước mong trở nên người hữu ích là ước mong chính đáng. Nhưng làm sao đạt được ước mong đó. Đây là một vấn đề rộng lớn. Không thể nào bàn ở đây. Ở đây tôi chỉ xin nói một điều mà tôi coi là hết sức quan trọng.
Đó là chúng ta phải biết đón nhận các hồng ân và biết dùng các hồng ân.
Anh chị em sẽ thắc mắc: Đâu là các hồng ân. Tôi xin xác định ngay. Chắc chắn mọi người chúng ta đều đang được Chúa ban những hồng ân rất quí giá sau đây. Tôi xin rất vắn tắt.
Trước hết là đức tin. Đối với tôi, đức tin là vô cùng quí giá, vô cùng cần thiết, vô cùng hữu ích. Tôi tin Chúa là Cha của tôi, Người là Đấng cứu độ tôi, Người là hạnh phúc của tôi. Niềm tin ấy là chiếc phao tôi luôn bám vào, để mà bơi lội giữa dòng đời. Niềm tin ấy là tiếng trả lời vắn gọn tôi luôn phải kiên định trước bao nhiêu thử thách. Khi chúng ta cầu nguyện với đức tin, chúng ta sẽ nếm được một nguồn lực thiêng liêng có sức thay đổi con người  chúng ta. Với sự thay đổi sâu xa và thường xuyên do đức tin, chúng ta sẽ dần dần trở nên con người mới. Đức tin quả là một hồng ân cao quí.
Cùng với đức tin, Chúa đã ban cho chúng ta một hồng ân cao quí khác, đó là Lời Chúa. Lời Chúa là sự sống, là ánh sáng và là lửa mến. Ai siêng năng đọc Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện theo Lời Chúa, sẽ cảm thấy như gặp được chính Chúa. Khi gặp được Chúa rồi, chúng ta sẽ tràn đầy hy vọng. Hy vọng trong những thành công và cũng cả trong những thất bại. Hy vọng trong những nhân đức và cũng cả trong những sa ngã yếu đuối. Hy vọng trong những vui mừng và cả trong những đau buồn khốn cực. Những hy vọng ấy làm mới lại con người và đời người một cách lạ lùng. Lời Chúa đúng là một hồng ân cao quí.
Bên cạnh hồng ân Lời Chúa là Phép Thánh Thể. Khi tôi rước Thánh Thể vào lòng, khi tôi tôn thờ Thánh Thể trong thinh lặng, tôi cảm thấy Chúa Giêsu chính là Đấng đào tạo, là Đấng huấn luyện của tôi. Người thanh luyện tôi. Người làm cho tôi trở nên người con rất bé nhỏ, để biết gọi Thiên Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót. Người đốt đi những ý kiến của tôi, để thay vào đó là thánh ý của Người. Và cùng với Chúa Giêsu, tôi nhận thấy mình được sai đi rao giảng về Thiên Chúa tình yêu.
Hồng ân sau cùng tôi muốn nhắc tới, đó là Đức Mẹ Maria. Giữa một thế giới ưa phô trương, Đức Mẹ luôn dạytôi: Vinh quang của Mẹ là phục vụ âm thầm, là hy sinh kín đáo, là thờ phượng với tâm hồn đơn sơ phó thác.
Anh chị em thân mến,
Chúa đã ban cho chúng ta đức tin, Lời Chúa, Phép Thánh Thể và Đức Mẹ Maria. Đó là bốn hồng ân vô cùng quí giá. Biết bao người đã không được như chúng ta. Chúng ta hãy sống bốn hồng ân đó, nhất là hãy dạy dỗ và tập luyện con cái chúng ta thường xuyên sống bốn hồng ân cao cả đó. Nếu chúng ta và con cái chúng ta làm đúng như vậy, chúng ta và con cái chúng ta sẽ được thấy, sẽ được nghe và sẽ được chứng kiến những sự lạ lùng của Chúa trong tương lai, và ngay trong hiện tại. Đặc biệt là tất cả chúng ta sẽ trở nên con người có ích cho Hội Thánh Việt Nam và xã hội Việt Nam.
Xin hai thánh Gioakim và Anna thương cầu bầu cho chúng ta.
Bài giảng lễ thánh Gioankim và Anna, ngày 26-7-2000

 

Bùi-Tuần 769: TIẾP CẬN VỚI CÁC TÔNGIÁO TẠI ĐỊA  PHƯƠNG

28-07-2000
 

Mỗi tôn giáo có một nhân sinh quan riêng. Nhân sinh quan này tạo nên một mảng văn hóa riêng: 28-07-2000 Bùi-Tuần 769

Mỗi tôn giáo có một nhân sinh quan riêng. Nhân sinh quan này tạo nên một mảng văn hóa riêng. Nhân sinh quan tôn giáo và văn hóa tôn giáo là hai thực tại xã hội. Chúng làm nên một sức mạnh cộng đồng. Sức mạnh cộng đồng này là một sự sống linh thiêng chi phối đời sống xã hội.
Sẽ rất ngây thơ, nếu nhận định sức mạnh cộng đồng này qua các lễ nghi tôn giáo và các qui tụ tôn giáo. Bởi vì thực chất sức mạnh tôn giáo nằm sâu ở tâm linh; mà tâm linh là cái gì sâu kín.
Đọc sách báo, nghe dư luận, người ta không thể thấy được dung mạo tâm linh tôn giáo. Nhưng nhờ tiếp cận, giao lưu, cùng sống với, người ta mới cảm được phần nào.
Xưa dân Do Thái, trong thời kỳ sống đóng khung, đã tưởng rằng: Chỉ đạo mình là duy nhất tốt, ngoài đạo mình ra sẽ chẳng tìm đâu được những giá trị đạo đức và kỹ thuật đáng kể. Họ rất tự mãn với tôn giáo của mình. Chúa không bằng lòng với sự tự mãn và khép kín đó. Người để họ phải mất nước. Bờ cõi bị xóa, họ bị bắt đi làm tôi những dân tộc, mà trước đây họ gọi là “dân ngoại”.
Hoàn cảnh bắt buộc họ phải sống chung với các dân tộc theo tôn giáo và văn hóa khác. Nhờ vậy, họ khám phá thấy nhiều điều chân thiện mỹ mới. Những người ngoại đạo tốt được họ gọi là những người “kính sợ Thiên Chúa” (G 1,1). Họ gặp được vô số người ngoại có lương tâm ngay chính (Gr 38,7-9). Họ cũng thấy nhiều người ngoại kính trọng lòng trung thành của dân Do Thái đối vói giao ước thánh (Ds 1,7-14). Tiêu biểu là Cyrus, vua Ba Tư, người chiến thắng đế quốc Babylon, đã ra lệnh giải phóng cho những người Do Thái bi tù đày, như thể Thiên Chúa   đã sai vua đi với Thánh Thần của Người. (I 48, 16).
Cuộc đi đầy đã giúp dân Do Thái nhận ra rằng: Dân ngoại cũng được Thánh Thần Chúa tác động. Rồi, với sự giúp đỡ của các tiên tri, dân Do Thái nhìn lại chính mình. Họ thấy mình trước đây khinh khi những dân tộc theo tôn giáo và văn hóa khác. Nhưng nay, nhờ Thánh Thần soi sáng, qua so sánh tiếp cận với các dân ngoại, họ thấy đạo đức của mình đâu có nổi nang gì. Gọi là dân riêng của Chúa, nhưng họ đã phạm biết bao nhiêu tội ác. Mười anh em con ông Gia-cóp đã bán em út mình là Giuse. Các chi tộc đã ghen ghét nhau, chém giết nhau, loại trừ nhau. Có lúc dân tộc phải chia thành hai vương quốc. Bao lần họ đã đi theo các tiên tri giả, độc ác với kẻ nghèo.
Qua giao lưu, tiếp cận, chung sống, dân Do Thái thấy mình cũng có nhiều cái xấu và người ta cũng có nhiều cái tốt. Kinh nghiệm đó dạy họ phải biết sống khiêm nhường, liên đới, cởi mở.
Xưa là thế, nay cũng vậy. Sau nhiều năm sống chung tại địa phương này, ngoài những kinh nghiệm trên đây tôi còn có những nhận xét như sau:
1. Vốn từ xưa, đồng bào các tôn giáo hầu như không quan tâm gì đến nhân sinh quan của nhau. Điều họ chú ý nơi các tôn giáo khác là đời sống đạo đức.
2. Từ nhiều năm nay, tâm thức về đạo đức trong các tín đồ các tôn giáo có nhiều chuyển biến. Rõ nhất là bổn phận liên đời càng ngày càng được coi là một giá trị thiêng liêng thuộc loại ưu tiên. Trong các liên đới, phải coi liên đới với kẻ nghèo là một dấu chỉ đạo đức có ý nghĩa nhất.
3. Từ ít năm nay, trình độ trí thức và đạo đức lành mạnh quân bình rất được để ý trong các giới tôn giáo, nhất là nơi những người đứng đầu các cộng đoàn tôn giáo.
4. Càng ngày càng rõ điều này: Yếu tố hấp dẫn nhất nơi người có đạo chính là tình yêu thương và lòng khiêm tốn. Yêu thương khiêm tốn trong nhân sinh quan. Yêu thương khiêm tốn trong văn hóa đời thường.
Mấy kinh nghiệm trên đây cho phép tôi nghỉ rằng: Việc giới thiệu Tin Mừng tại Á Châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng là việc phải suy nghĩ chín chắn và thấu đáo về nhiều góc độ.
Điều quan trọng nhất là chính chúng ta phải có Tin Mừng, phải thực sự sống Tin Mừng, phải thực sự tha thiết với ơn gọi rao giảng Tin Mừng. Nhất là phải có kinh nghiệm bản thân về rao giảng Tin Mừng.
Ngày 28-7-2000

 

Bùi-Tuần 770: NHỮNG CHÂN LÝ NHỎ 12-08-2000

Đài Phát thanh Chân Lý Á Châu mới tổ chức một tuần lễ hội thảo ở Manila, Phi Luật Tân: 12-08-2000 Bùi-Tuần 770

Đài Phát thanh Chân Lý Á Châu mới tổ chức một tuần lễ hội thảo ở Manila, Phi Luật Tân.
Đài phát thanh này thuộc Liên hiệp các Hội Đồng các Giám Mục Á Châu. Khách mời mang tính cách tiêu biểu. Số tham dự đủ để đại diện cho 17 tiếng nói, mà đài Chân Lý Á Châu phát ra hằng ngày, để phục vụ Tin Mừng cho các dân tộc lớn nhỏ tại Á Châu.
Hội thảo bàn về một số vấn đề liên quan đến truyền thông. Như các thách đố của thực tại Á Châu, khảo sát tình hình các thính giả, các kỹ thuật của truyền thông, cách thiết lập chương trình phát thanh.
Khi tham dự tuần lễ hội thảo này, tôi đã suy nghĩ một số vấn đề trong lãnh vực loan báo Tin Mừng. Có vấn đề nằm trong chương trình hội thảo. Có vấn đề hoàn toàn đứng ngoài, nhưng dính líu. Tôi xin chia sẻ vắn tắt.
Truyền thông.
Truyền thông tại Á Châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang phát triển mạnh. Đa dạng, phong phú. Chỉ trong ngành sách báo cũng đang có nhiều chuyển biến. Càng ngày càng nhiều người viết. Mỗi ngày mỗi tăng số người đọc. Tình hình này đặt ra một số câu hỏi:
Hội Thánh Việt Nam, qua các thành phần của mình, có cố gắng hiện diện trong các phương tiện truyền thông, đặc biệt là báo chí, để loan báo Tin Mừng không?
Người công giáo Việt Nam có biết đón nhận, đánh giá, phân định các nguồn thông tin khác nhau và có biết dùng các thông tin được lựa chọn vào việc huấn luyện đào tạo cá nhân và cộng đoàn mình, để biết sống đạo, truyền đạo, và làm chứng cho đạo một cách thích hợp trong xã hội đầy chuyển biến như hiện nay không?
Giới trí thức công giáo Việt Nam, không phân biệt giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, có khả năng và thiện chí góp phần đổi mới con người và xã hội Việt Nam bằng các phương tiện trí thức, khoa học, nghệ thuật của truyền thông không?
Trong cuộc hội thảo, giáo sư Graham Mytton, chuyên viên khảo sát tình hình các thính giả của đài BBC tại Á Châu và chuyên viên thiết lập chương trình phát thanh của đài BBC tại Á Châu đã cho thấy việc phục vụ con người qua phương tiện truyền thông đòi một trình độ cao về trí thức, về khoa học, về kỹ thuật và về tâm lý. Người ta phải đầu tư vào đó rất nhiều công sức, nếu muốn việc phục vụ sinh được kết quả.
Những gì ông nói gợi ý cho tôi về bổn phận của mình trong việc đi vào truyền thông để loan báo Tin Mừng.
Hiệp thông.
Theo tôi, loan báo Tin Mừng là giới thiệu Đức Kitô. Giới thiệu bằng lý thuyết và bằng thực tế. Để nói lên rằng: Đức Kitô là Chúa và là Đấng Cứu độ.
Cùng với việc loan báo đó, người giới thiệu Tin Mừng sẽ tìm cách nâng tâm hồn người nghe lên với Chúa, và giúp cho mọi người gần gũi lại với nhau.
Những ai viết sách, báo công giáo, và làm các đài phát thanh công giáo, nếu thực sự nhắm mục đích phục vụ Tin Mừng, sẽ ý thức rõ: Mình phải nói gì và nên nói cách nào.
Nền tảng lý thuyết soi sáng cho các công việc như thế là Kinh Thánh và các giáo phụ. Động lực sống động để cụ thể hóa các công việc đó trong thực tế là sự sống tu đức được thần linh Đức Kitô hướng dẫn.
Vì thế mà sự hiệp thông với Chúa Giêsu là hết sức cần thiết. Chúa Giêsu dạy như vậy: “Thầy là cây nho, các con là ngành” (Ga 15,5). “Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). “Hãy ở lại trong tình thương Thầy” (Ga 15,9). “Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6).
Khi viết sách, viết báo và nói trên đài phát thanh, để phục vụ Tin Mừng, chúng ta không thể làm ngơ những chân lý Phúc Âm đó được.
Trong cuộc hội thảo, một nữ giáo sư tiến sĩ Phi Luật Tân đã thuyết trình về truyền thông và phát triển. Bà nói rất thông thạo về các hệ thống truyền thông từ Liên Hiệp Quốc đến các khu vực, tới các nước và các miền. Theo giáo sư, các hệ thống đó sẽ giúp rất nhiều cho phát triển. Trong giờ giải lao, một thính giả người Đức đã hỏi tôi: Bạn nghĩ gì về ý kiến của thuyết trình viên? Tôi thưa: Nội dung có thể có ích cho những nước văn minh và những thính giả trí thức. Còn đối với những người nghèo, ít học như phần lớn bên tôi, suốt ngày chỉ lo cho cuộc sống, thì nội dung đó là rất xa lạ. Người bạn Đức của tôi mở mắt thực to, và nói rất nhỏ: Theo tôi, nội dung đó hay thì có hay, nhưng chỉ trên lý thuyết. Không phải đối với đồng bào của bạn ở Việt Nam, mà cũng đối với đồng bào của tôi ở Đức.
Sau cùng, người bạn Đức và tôi phân biệt hai lãnh vực: truyền thông và hiệp thông. Truyền thông chú trọng đến phổ biến tư tưởng. Hiệp thông để ý đến chia sẻ sự sống. Truyền thông cần chiều kích kỹ thuật. Hiệp thông cần chiều kích thiêng liêng. Truyền thông hỗ trợ cho hiệp thông, nhưng không thay thế được hiệp thông. Trái lại, ở một nơi ít có phương tiện truyền thông, thì sức sống hiệp thông vẫn gây được nhiều hiệu quả tốt cho loan báo Tin Mừng.
Cảm thông.
Trong những ngày hội thảo, tôi thấy truyền thông thường là lạnh lùng trong những phạm trù kỹ thuật nhắm mở rộng hướng đi ngang, còn hiệp thông xây dựng hướng đi lên với Chúa trong sự chia sẻ sức sống thiêng liêng. Thêm vào đó còn có sự cảm thông giữa những người sống bên nhau với sự lây lan ấm áp tình người. 
Cảm thông là gần gũi. Một sự gần gũi đi vào tâm hơn đi vào lý. Nhưng đốt lên được ngọn lửa thiêng liêng. Với lửa này, chúng tôi dấn thân vào những chặng đường lịch sử khó khăn, để loan báo Tin Mừng.
Trước mắt tôi là những người phát sóng cho các tiếng nói ở các đài phát thanh, và những người phát sóng cho các hình ảnh ở các đài phát hình.
Nhưng  cũng còn có những người phát sóng cho tình thương. Chính con người họ, cuộc đời họ là đài phát sóng tình thương. Có thể họ phát sóng tình thương qua chỉ một cái nhìn, qua chỉ một nụ cười, qua chỉ một thái độ thân thương, khiêm tốn. Họ phát sóng tình thương một cách kín đáo, tế nhị, nhưng kết quả là gây được sự cảm thông sâu sắc lâu dài. Tình thương im lặng, nhưng trùng trùng như biển.
Nghĩ về mục vụ loan báo Tin Mừng ở Việt Nam, tôi coi hiệp thông và cảm thông là rất cần, mặc dầu truyền thông vẫn có chỗ đứng của nó.
Tuần lễ hội thảo về truyền thông qua đi, nhưng cảm thông và hiệp thông còn đọng lại sâu xa trong hồn tôi. Đó cũng là những chân lý nhỏ giúp tôi loan báo Tin Mừng một cách sống động trên quê hương tôi, giữa đồng bào tôi.
Manila, ngày 12-8-2000

 

Bùi-Tuần 771: VỀ VỚI CHA 15-08-2000

Ngày 15 tháng 8, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời. Lên trời là về với Cha: 15-08-2000 Bùi-Tuần 771

Ngày 15 tháng 8, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời. Lên trời là về với Cha.
Sự kiện này của Mẹ Maria là một gợi nhớ quan trọng. Chúng ta nhớ tới giây phút sau cùng của chúng ta.
Về với Cha, đó là đích điểm đời ta hướng tới. Về với Cha, đó là hạnh phúc lòng ta luôn khát vọng.
Nhưng làm thế nào để chúng ta được về với Cha? Thưa hãy đi theo Đức Mẹ Maria.
Suốt đời, Mẹ Maria đã luôn hướng về Cha. Cuộc sống của Người là một chuyến đi về với Cha. Đường Người đi là đường về với Cha. Người bước đi bằng tâm tình và việc làm của người con ngoan hiếu thảo đối với Cha trên trời.
Sơ đồ đường Người đi được phác họa ngay trong nội tâm của Người. Rõ nhất là từ biến cố Truyền tin. Nội tâm Người có những cảm nghiệm mới mẻ hết sức mãnh liệt.
Mẹ cảm thấy tình yêu Chúa tràn vào lòng mình. Một tình yêu xuất phát từ một Đấng Tối Cao. Nhận được tình yêu ấy, Mẹ nhận ra Đấng ấy thực là Chúa của mình, thực là Đấng cứu độ của mình, thực là hạnh phúc của mình.
Mẹ cảm thấy tình yêu đó giải phóng tâm hồn Mẹ khỏi mọi xiềng xích ảo tưởng về cứu độ và về hạnh phúc. Mẹ xác tín: Ngoài Thiên Chúa mà Mẹ tôn thờ, không còn đâu là nguồn cứu độ và nguồn hạnh phúc.
Mẹ cảm thấy tình yêu ấy đến với Mẹ như một quà tặng. Thánh Linh cho Mẹ nhận ra Đấng ban nhưng không quà tặng vô giá đó phải được gọi là Cha. Một người Cha thân thương trên mọi người Cha. Một người Cha mạc khải tình yêu của mình cho người con bé mọn.
Mẹ cảm thấy yêu thương như thế chính là phục vụ một cách khiêm nhường. Phục vụ như thế là một sự tái sinh. Tình yêu Cha đã cho Mẹ một trái tim mới, một sự sống mới, một cái nhìn mới.
Mẹ cảm thấy hạnh phúc được đón nhận tình yêu cứu độ và đổi mới đó là hết sức lớn lao. Và từ hạnh phúc ấy bật ra lời tạ ơn hồn nhiên tha thiết tự do. Kinh “Linh hồn tôi tung hô Chúa” là một diễn tả.
Mẹ cảm thấy hạnh phúc được đón nhận tình yêu của Cha sẽ cần được chia sẻ ra cho người khác. Được nhưng không thì sẽ cho đi nhưng không. Cho đi như thế sẽ là phục vụ. Phục vụ con người như Chúa đã phục vụ Mẹ. Nội dung phục vụ là chia sẻ sự sống cứu độ dồi dào, tình yêu cứu độ dồi dào, sự thực cứu độ dồi dào. Cách phục vụ là khiêm nhường tế nhị yêu thương. Trong lãnh vực bổn phận của mình, phục vụ một cách tốt nhất là điều bắt buộc.
Mẹ cảm thấy đón nhận tình yêu cứu độ của Cha và chia sẻ tình yêu cứu độ nhận được từ Cha đòi phải dấn thân vào nhiều chiến đấu. Chiến đấu với chính mình, chiến đấu với các quyền lực chống phá, chiến đấu với chính quỷ Satan.
Mẹ cảm thấy cuộc chiến đấu cho tình yêu cứu độ ấy đòi Mẹ phải cầu nguyện rất nhiều và phải tham gia rất sâu vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Mẹ cảm thấy kế hoạch của Cha thường rất khác với kế hoạch  cứu độ do con người suy nghĩ. Nên Mẹ luôn tỉnh thức cầu nguyện, và sẵn lòng tuân phục ý Cha.
Mẹ cảm thấy như  hạt lúa bị chôn dưới đất sẽ nẩy sinh ra cây, thì khi mình được hiến tế với Chúa Giêsu trên thánh giá, cũng sẽ góp phần nẩy sinh ra mùa phục sinh cho nhân loại.
Trên đây là một chuổi cảm nghiệm nội tâm của Mẹ. Phải nói là do Chúa Thánh Linh. Những cảm nghiệm này trở thành xác tín. Những niềm tin sống động đó chính là động lực đưa Mẹ lên đường sống đạo. Đường sống đạo của Mẹ đã được hoạch định từ chính nội tâm.
Động lực nội tâm, đường đi nội tâm nơi Mẹ mỗi ngày mỗi phát triển nhờ Chúa Thánh linh.
Cứ thế, Mẹ đi về với Cha.
Để được về với Cha, chúng ta hãy đi theo Mẹ.
Tất nhiên chúng ta không có những đặc ân như Đức Mẹ. Nhưng, nếu chúng ta cầu xin Đức Mẹ với tất cả thiện chí và lòng khiêm tốn cậy tin, chắc Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta đi về với Cha, hoặc cách này hoặc cách khác.
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, ngày 15-8-2000

 

Bùi-Tuần 772: MỘT GÓC NHÌN GIẢI PHÓNG 19-08-2000

Nhân dịp kỷ niệm 55 năm giải phóng Đất Nước, dành lại tự do, độc lập, tôi nghĩ về một chặng: 19-08-2000 Bùi-Tuần 772

Nhân dịp kỷ niệm 55 năm giải phóng Đất Nước, dành lại tự do, độc lập, tôi nghĩ về một chặng đường lịch sử của Đất Nước, của Hội Thánh Việt Nam, của giáo phận tôi, của đồng bào xung quanh, của chính bản thân tôi.
Tôi mừng về các thành quả đẹp ở nhiều lãnh vực. Tôi tiếc là còn nhiều tiềm năng tốt chưa được khai thác.
Vấn đề tôi dừng lại lâu hơn cả là sự giải phóng nội tâm con người.
Tự thức.
Nếu biết hồi tâm, nhiều người chúng ta  sẽ thấy nội tâm mình chưa được giải phóng. Có thể là mình đã ngủ say và ngủ lâu trong đêm tối những sai lầm, những tính hư và những tội lỗi.
Có những sai lầm do thành kiến, do dư luận, do cơ chế, do trí thức bị giới hạn.
Có những tính hư do cấu trúc bẩm sinh tâm sinh lý, do thói quen từ nếp sống gia đình, xã hội, nghề nhiệp.
Có những tội lỗi do yếu đuối, do cơ hội, do áp lực, do chủ tâm xấu.
Tất cả các thứ như thế xiềng xích nội tâm ta. Suy nghĩ của ta bị qui định, đánh giá của ta bị sai khiến, hướng đi của ta bị áp đặt.
Chúng ta tưởng mình tự do, nhưng thực sự chúng ta bị khống chế bởi những lực lượng ngấm ngầm.
Chúng ta cho rằng chúng ta suy nghĩ, chọn lựa và hoạt động với ý thức hoàn toàn tự do. Nhưng ý thức của ta chỉ là một hòn đảo nhỏ nổi lên giữa một đại dương vô thức luôn có những sóng ngầm mãnh liệt.
Nhiều khi, lúc thức tỉnh, chúng ta mới thấy chúng ta đã quá chủ quan trước các biến cố, con người và sự vật.
Thiếu khách quan và lại quá tin vào ảo tưởng, chúng ta sống như những người mộng du. Nhiều khi chúng ta hoạt động như các con rối mà không hay.
Cần phải thức tỉnh. Nhưng thức tỉnh là chuyện không dễ. Có những người đã tự mình đánh thức mình, nhưng số đó không nhiều. Nhưng người khác đánh thức ta thì ta lại không chịu. Đức Mẹ ở Fatima đánh thức ta, ta vẫn coi thường. Lời Chúa đánh thức ta, ta vẫn làm ngơ.
Sợ rằng, chúng ta thích an ổn trong giấc ngủ dài. Bất ngờ Chúa đến, thì đã quá trễ. Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không.
Tự cứu.
Hôm nay còn thời giờ, chúng ta cần thức tỉnh, và lo đến việc cứu mình và cứu người khác. Nếu chúng ta không cố gắng tự cứu mình, thì chẳng ai sẽ cứu được chúng ta. Chính Chúa cũng chẳng cứu chúng ta, nếu chúng ta không tham gia vào việc cứu độ chúng ta.
Phải cố gắng tự cứu lấy mình. Phải tự mình tập luyện. Phải tự mình học hành. Phải tự mình chịu trách nhiệm về mình. Phải tự mình mở cửa hy vọng và tự mình bước đi.
Bệnh bại liệt về suy nghĩ đang lan rộng. Phải tỉnh thức tự cứu lấy mình khỏi nguy cơ ấy bằng những phấn đấu nâng cao trí thức.
Bệnh suy thoái về khả năng yêu thương và khiêm tốn đang lây lan. Đừng coi đó là điều bình thường, để khỏi phải thức giấc. Nhưng phải tập luyện đạo đức theo gương Chúa Giêsu.
Bệnh hưởng thụ, đua đòi trí trá đang phá vỡ nề nếp luân thường đạo lý. Nếu phản ứng bằng than trách như là cách tự cứu, thì chỉ là tự lừa dối mình. Nhưng phải tự cứu chính mình bằng những từ bỏ ý riêng và sẵng sàng hy sinh phục vụ, bất cứ ở đâu và bất cứ việc nào mà Chúa muốn.
Nhất là bệnh coi mình là hiểu biết cao, hiểu biết rộng, hiểu biết tất cả, để lên mặt chỉ trích dạy đời, sẽ là một tai hoạ, nếu không tự thức và tự cứu bằng việc trở về tôn thờ Thiên Chúa và sám hối ăn năn như ông Giob xưa:
“Con biết là Người toàn năng, điều Người nghĩ Người có thể thực hiện. Vâng, con đã nói năng mà không hiểu về những kỳ công vượt sức của con mà con chẳng biết. Con biết Người qua nghe nói. Nhưng bây giờ mắt con đã thấy Người. Do đó con ứa lệ ăn năn trên tro và bụi đất” (G 42,1-6). Bằng cách đó ông Giob đã tự cứu mình, đã tìm được sự tự do và bình an cho nội tâm mình.
Tự chọn.
Còn một điều nữa cần nói về giải phóng nội tâm. Đó là biết tự chọn.
Kinh nghiệm cho thấy những chọn lựa khó khăn nhất không phải là những chọn lựa về quan hệ với Chúa và với bản thân, nhưng về quan hệ với người khác.
Người khác là một nhân tố cần thiết trong đời con người. Con người nhìn vào mình và nhìn sang người khác. Nhìn sang người khác để tìm một khích lệ, một giúp đỡ, một đồng hành. Nhưng bên cạnh cái nhìn nhẹ nhàng đó, đôi khi cũng có một cái nhìn nặng nề. Đó là cái nhìn cạnh tranh, cái nhìn ghen tương, cái nhìn cảnh giác. Người khác vừa có thể là bông hoa của tôi, vừa có thể là cái gai cho tôi. Đối với một số người, ai đó có thể là thiên đàng êm đềm và cũng có thể là địa ngục hãi hùng kinh khủng.
Công bằng mà nói, thì các động lực gây ra những cái nhìn như thế là từ hai phía. Mỗi phía đều có những lý do riêng. Lý do thuộc tâm lý, lý do thuộc cá tính, lý do thuộc lý tưởng, lý do thuộc tư lợi, lý do thuộc tôn giáo, vv... Nhưng thực tế cho thấy, dù với lý do nào, cái nhìn về người khác luôn bắt buộc chúng ta phải có những lựa chọn đạo đức và khôn ngoan. Mỗi người phải tự chọn lấy cho mình.
Ở đây, tôi xin phép đưa ra một ví dụ. Để biết sống với các người khác, dù trong nội bộ Hội Thánh, dù với người khác đạo, dù với người không tin, nhiều người đã coi mình như kẻ loan báo Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng một cách như hát lên bài ca Tin Mừng.
Khi hát Tin Mừng, người ca Tin Mừng hết sức hít vào phổi mình thần khí Đức Kitô. Họ cũng rất chú ý lắng nghe các tiếng hòa âm để luôn nhịp nhàng: Tiếng Chúa, tiếng Đức Mẹ, tiếng các tông đồ, tiếng các giáo phụ... Họ kính trọng người nghe, biết ơn người nghe. Tắt là, họ chọn phục vụ trong yêu thương khiêm nhường.
***
Một nội tâm trên đường giải phóng chính mình sẽ phải phấn đấu cực kỳ gian khổ. Họ không nhắm vào vinh quang chiến thắng. Nhưng chỉ tìm nên giống Chúa Giêsu. Cho dù bị rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát, họ sẽ như Chúa Giêsu, luôn tỏ ra tế nhị với những kẻ bắt bớ mình, luôn yêu thương kẻ chối bỏ mình, luôn xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình.
Nội tâm Chúa Giêsu hoàn toàn tự do. Nội tâm họ cũng chỉ muốn được như vậy.
Long Xuyên, ngày 19-8-2000

 

Bùi-Tuần 773: MỘT CON ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO 22-08-2000

Hôm nay họ đạo Nhà Thờ Chánh Toà Long Xuyên phối hợp lễ Đức Maria, Nữ Vương, bổn mạng: 22-08-2000 Bùi-Tuần 773

Hôm nay họ đạo Nhà Thờ Chánh Toà Long Xuyên phối hợp lễ Đức Maria, Nữ Vương, bổn mạng nhà thờ, với lễ Thêm sức. Tôi coi đây là một dịp tốt đẹp khác thường. Bởi vì lễ hôm nay có sự tham dự của ba giám mục, nhiều linh mục và đông đảo giáo dân. Nhất là lễ hôm nay diễn ra trong bầu không khí Đại Năm thánh 2000.
Lợi dụng dịp tốt đẹp này, tôi xin được phép nhắc nhở anh chị em về con đường Đức Mẹ đã đi để sống đạo. Mục đích là, khi đã biết rõ con đường đó, chúng ta cũng sẽ đi vào. Không phải đi một mình, nhưng đi cùng Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ.
Con đường Đức Mẹ đã đi là con đường nào? Thưa là con đường Thiên Chúa đã mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô.
Nếu muốn trình bày thực vắn gọn con đường Chúa Giêsu đã mạc khải, thì có thể nói: Khởi đầu con đường đó là tin vào Thiên Chúa là tình yêu. Tin vào Thiên Chúa là tình yêu, có nghĩa như gặp gỡ Thiên Chúa gần gũi ta. Người thương ta. Người muốn đi vào lòng ta. Người gọi ta.
Tiếp theo niềm tin đó là hiểu dung mạo tình yêu Chúa. Tình yêu Chúa được mạc khải như một tình yêu phục vụ. Người đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Phục vụ với thái độ luôn sẵn sàng, để cứu độ, để đem lại sự sống dồi dào, cho dù phải hy sinh trên thánh giá.
Đức Mẹ Maria đã tin như vậy và đã hiểu như vậy, đúng như Đức Giêsu mạc khải. Với niềm tin ấy và với sự hiểu biết ấy, Đức Mẹ đã nhìn Chúa Giêsu là sự thật, là đường đi, là sự sống. Nên Mẹ đã đi theo Chúa Giêsu.
Mẹ đã ở bên Chúa Giêsu trong những giây phút bi đát nhất, như trên đường Chúa Giêsu vác thánh giá, như khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, như giây phút Chúa Giêsu hấp hối, như lúc Chúa Giêsu tắt thở.
Chúa Giêsu dùng thánh giá, để làm chứng cho tình yêu. Đức Mẹ đã tích cực tham dự vào thánh giá của Chúa Giêsu cũng là để làm chứng cho tình yêu.
Trong cái nhìn ấy, có thể nói: Chúa Giêsu sống đạo là sống làm chứng cho tình yêu. Đức Mẹ Maria, theo gương Chúa Giêsu, cũng đã sống đạo là sống làm chứng cho tình yêu. Một tình yêu là dâng hiến, một tình yêu là phục vụ với sự hy sinh chính mình.
Con đường sống đạo như vậy là con đường làm sáng danh Chúa. Con đường sống đạo như vậy là con đường dẫn vào Nước Trời.
Tôi thấy con đường sống đạo này đã được thường xuyên nhắc nhở tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên đây. Bên hông nhà thờ, tượng Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu giới thiệu một lời Kinh Thánh rất vắn nhưng rất căn bản: Thiên Chúa là tình yêu. Phía cuối nhà thờ, tượng Đức Mẹ Maria ôm một biểu tượng của tình yêu dâng hiến, đó là thánh giá. Hai tượng này cho thấy con đường sống đạo là sống phục vụ bằng chấp nhận thánh giá để làm chứng cho tình yêu thực là đơn sơ, và dễ hiểu.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho hay việc thực hiện là không dễ. Vì thế, một điều thiết thực tôi muốn nhắn nhủ anh chị em là: Chúng ta đừng một mình đi trên con đường đó. Nhưng hãy đi cùng với Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ.
Thí dụ: Hằng ngày, bổn phận mỗi người chúng ta là phục vụ. Mà phục vụ cho hết mình, thì thế nào cũng phải cố gắng, phải phấn đấu, phải hy sinh, phải vác thánh giá lớn nhỏ. Lúc đó xin đừng phục vụ một mình, nhưng hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn và giúp đỡ ta. Có Đức Mẹ ở bên, chúng ta sẽ sống đạo bằng phục vụ và làm chứng cho tình yêu một cách can đảm và khôn ngoan.
Rồi thí dụ: Hằng ngày, khi chúng ta được kêu gọi chia sẻ những lo âu khổ đau của Hội thánh, của Đất nước, của nhân loại xa gần. Mà chia sẻ không phải chỉ bằng lời nói và tình cảm, nhưng bằng hành động và đưa vai vác đỡ thánh giá cho người khác. Lúc đó xin đừng phục vụ một mình, nhưng hãy cầu xin Đức Mẹ ban ơn thêm sức cho ta. Có Đức Mẹ ở bên, chúng ta sẽ chia sẻ thân phận người khác với tình yêu và ánh sáng nhận được từ trên cao, có sức tham dự vào mầu nhiệm cứu độ.
***
Tôi mong mấy điều nhắc nhở trên đây sẽ được anh chị em đón nhận, ghi nhận và đem vào cuộc sống. Cuộc sống luôn có nhiều khó khăn. Chúng ta hãy bám vào Đức Mẹ mà sống. Chúng ta hãy dạy con em chúng ta bám vào Đức mẹ mà bước đi hằng ngày. Tôi tin rằng: Có Đức Mẹ ở bên, chúng ta sẽ thấy cuộc sống đạo của chúng ta là rất đẹp, rất có ý nghĩa. Bởi vì đó là cuộc sống làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu và làm chứng cho tình yêu phục vụ của ta đối với đồng bào, đối với gia đình, đối với mọi người xung quanh.
Lễ Thêm sức và Bổn Mạng tại Nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên,
ngày 22-8-2000

 

Bùi-Tuần 774: CÙNG VỚI ĐỨC MẸ  ĐI THĂM NẠN  NHÂN LŨ LỤT

16-09-2000
 

Rất nhiều nơi trong giáo phận Long Xuyên đang bị ngập lụt. Ngày lễ suy tôn Thánh giá: 16-09-2000 Bùi-Tuần 774

Rất nhiều nơi trong giáo phận Long Xuyên đang bị ngập lụt.
Ngày lễ suy tôn Thánh giá (14-9) và ngày lễ kính Đức Mẹ sầu bi (15-9), tôi đi thăm một số nơi, để chia sẻ. Nhất là để tự đào tạo chính mình.
Tôi xin Đức Mẹ cùng đi với tôi.
Nhiều nơi nước ngập cao. Mênh mông như biển. Các ranh giới đều bị xoá. Cảnh tiêu điều xảy ra đều khắp. Một số hy vọng còn bám đó. Nhưng rất mệt mỏi. Nhiều cuộc sống mong manh, trôi nổi.
Đi sâu vào vùng nước lụt pha trộn nước mắt, thỉnh thoảng tôi lại nhớ tới Đức Mẹ trong Phúc Âm xưa.
Có lúc tôi nhớ tới cảnh Đức Mẹ một mình ra đi, vượt bao gian nguy, lên miền núi, để thăm bà Isave. Kinh Thánh nói: “Đức Mẹ lên đường vội vã” (Lc 1,39).
Vội vã chia vui, đó là điều đôi khi nên thực hiện. Vội vã chia sẻ nỗi khổ đau, đó là điều càng rất nên thực hiện. Bởi vì trong gian khổ, con người dễ cảm thấy cô đơn.
Nhìn mái nhà tranh xiêu vẹo ngập gần nửa, một đám trẻ nhỏ nheo nhóc ngồi co ro bên bà mẹ, trên mấy tấm ván, nét mặt đợi chờ, vu vơ, chúng tôi không khỏi đau lòng.
Trong tình cảnh như thế này, khi họ gặp được một cái nhìn cảm thương dừng lại họ, họ cảm thấy vơi đi được nỗi thất vọng cô đơn.
Trước khi nhận được một món quà cứu trợ, họ cần một cái nhìn cảm thương. Họ cần, và họ có quyền nhận những cái nhìn đem lửa thiêng đến cho họ. Cái nhìn cảm thương quí trọng hơn lời chia buồn.
Tôi có đức tin trong tôi. Đức tin đó mạnh như một dòng chảy. Nhưng đối với những người khổ đau này, đức tin của tôi vẫn là cõi đêm. Tuy nhiên, khi một cái nhìn thân thương hé mở, thì sẽ bật ra được một tia sáng, cho dù mỏng manh.
Khả năng biết cảm xúc trước khổ đau người khác là điều quí hơn khả năng biết giảng về đau khổ. Một giọt nước mắt thinh lặng thường có sức thắt chặt mối liên hệ hơn một bài diễn văn chia buồn dài dòng, hoa mỹ.
Biết cảm xúc trước khổ đau người khác, biết nhạy bén trước gian nan người khác, biết nhanh nhạy trong việc cứu đỡ người khác, đó là những điều rất cần cho nhà truyền giáo. Đi với Đức Mẹ vào các thực tế khổ đau, chúng ta có hy vọng đào tạo mình về phương diện ấy.
Lụt lội đẩy những tâm hồn nông thôn dung dị vào cảnh u ẩn, lo âu. Với những bộ mặt não nề và với những bộ áo quần nhàu nát, họ im lặng, không van xin, không than trách. Bên họ, có lúc, tôi nhớ tới Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá xưa. Chúa Giêsu nói với Mẹ: Này là con Mẹ và nói với Gioan: Này là mẹ con (x. Ga 19,25-27). Tôi có cảm tưởng là: Với những lời như thế, hôm nay Chúa Giêsu trao phó những đồng bào đau khổ này cho Hội Thánh tôi nói chung và cho tôi nói riêng. Tôi tính sao đây?
Tôi nghĩ việc đầu tiên là phải mở trái tim mình ra. Nhưng mở trái tim là cả một bí quyết. Có thứ chìa khóa không dùng để mở được cái gì cả, nhưng chỉ để mở trái tim.
Tôi được biết một tôn giáo bạn tại địa phương này đăng ký góp 100 chiếc xuồng, để giúp các nạn nhân lũ lụt. Giá mỗi chiếc hiện nay là 630.000đ. Tổng số xuồng cần thiết để cứu trợ là 10.000 chiếc. Tôi cũng được biết một gia đình góp 100 giạ gạo, để cứu lụt. Tôi cũng được nghe có gia đình đón một số người già cả đau yếu về nhà mình để họ tạm trú.
Thực ra, các nạn nhân không đợi chờ nhiều. Nhưng nỗi ray rứt là ở phía chúng ta. Mình cũng chỉ là chiếc xuồng chòng chành chông chênh, không thể đón được ai. Và cũng không khôn ngoan gì, nếu đón để cùng được chết với nhau. Nhưng tình thương có những sáng tạo. Ta cứu ai thì vốn mong họ cũng phải tự cứu lấy mình.
Điều cơ bản cần ưu tiên giải quyết là sau khi mở lòng ra đón nhận mọi người vào tình thương của mình, chúng ta phải làm lại nghị lực sáng tạo. Đang có sự mệt mỏi trong cơ chế, trong nhiều lãnh vực, kể cả trong lãnh vực thiêng liêng. Sự mệt mỏi thiêng liêng là một nguy cơ có thực. Chính vì thế, mà phải tin vào Chúa Giêsu và đến với Chúa Giêsu: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ  được nghỉ ngơi  bồi dưỡng . Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Đi theo Đức Mẹ vào trường Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường chịu đau khổ trên thánh giá, tôi học được kinh nghiệm này là: Nhiều người trong Hội Thánh như tôi, có thể có những tư tưởng hay ho về nghèo khổ, bệnh tật, túng quẫn, cô đơn. Nhưng chính mình trải qua thực sự  và  cảm được thực sự những gánh nặng đó, thì không nhiều lắm. Nhất là chẳng ai dám đoan chắc, khi mình rơi vào những cảnh bi thảm, mình sẽ thanh thản can đảm và quảng đại. Vì thế, một điều nên tránh, khi đưa ra những giải pháp cứu nhân độ thế, là đừng quá vội chê trách bên này bên nọ, và cũng đừng quá sốt sắng phô trương các luật lệ đạo đức để bù trừ, kẻo rồi có lúc sẽ phải xấu hổ, như trường hợp thầy tư tế và thầy Lêvi đã bỏ đi khi giúp nạn nhân nằm bên đường từ Giêrusalem đến Giêricô, đang khi đó người vô đạo lại dấn thân một cách thiết thực (Lc 10,29-37).
Bên cạnh Đức Mẹ trong trường Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường đang chịu đau khổ trong những người đau khổ, tôi nhận ra rằng: Nếu biết lợi dụng, thì cảnh khổ đau sẽ là trường đào tạo rất tốt cho nhà truyền giáo, môi trường khổ đau cũng là nơi hành hương rất tốt cho những ai thực sự muốn suy tôn thánh giá Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc loài người.
Long Xuyên, ngày 16-9-2000.

 

Bùi-Tuần 775: BIẾT GỢI Ý VỀ TIN MỪNG 22-09-2000

Hôm nay, chúng ta hiện diện nơi đây để cùng nhau tham dự lễ giỗ Cha Ba Luy Nguyễn Hiếu: 22-09-2000 Bùi-Tuần 775

Hôm nay, chúng ta hiện diện nơi đây để cùng nhau tham dự lễ giỗ Cha Ba Luy Nguyễn Hiếu Lễ.
Rất nhiều lời nói đã nhớ về Cha Ba. Rất nhiều ý nghĩ đã tìm về Cha Ba. Rất nhiều tâm tình đã gởi về Cha Ba. Chứng tỏ rằng Cha Ba là con người được mộ mến.
Xem ra mỗi người đều mang trong lòng trí mình một hình ảnh về Cha Ba. Tôi cũng có một hình ảnh của Ngài. Hình ảnh này là thiêng liêng. Nó sống động. Nó làm hiện lên một nét đẹp của Ngài. Một nét đẹp đã từng dạy tôi nhiều trong mục vụ và truyền giáo.
Nét đẹp đó là khả năng gợi ý.
Như chúng ta đã biết, Cha Ba đã từng sống trong nhiều chặng đường khác nhau của lịch sử Đất Nước và Hội Thánh. Cha đã từng tập kết ngoài Bắc. Cha đã từng phục vụ trong Nam. Cha đã từng tham gia kháng chiến. Cha đã từng tham gia mục vụ nhiều nơi.
Nhưng, dù trong hoàn cảnh nào, Cha Ba vẫn luôn trung thành với sứ mạng rao giảng Phúc Âm.
Có nhiều cách rao giảng Phúc Âm. Mỗi môn đệ Đức Kitô phải chọn cách nào thích hợp nhất và sinh hiệu quả nhất. Phải chọn lựa trên cơ sở dấu chỉ của thời đại, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Theo thiển ý riêng tôi, Cha Ba đã có một chọn lựa rõ ràng. Chọn lựa của Cha là gợi ý về Tin Mừng một cách khiêm nhường.
Thực vậy, Cha đã gợi ý về Tin Mừng cứu độ qua ba thái độ sống của Cha.
Một là thái độ thường xuyên đón Chúa vào tâm hồn mình. Nhiều người xung quanh có thể không hiểu biết rõ Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Cha Ba trung thành và sốt sắng với việc cầu nguyện, dâng thánh lễ và suy niệm, người ta đã được gợi ý để nghĩ về một Đấng thiêng liêng, tối cao hằng sống. Cha gắn bó với Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu cũng đã thực hiện lời đã hứa: “Thầy là cây nho, các con là ngành, ngành nào kết hợp với cây, sẽ trổ sinh hoa trái” (Ga 15,1-2).
Hai là thái độ thường xuyên phục vụ giáo đoàn nói riêng và đồng bào nói chung. Những ai biết Cha Ba đều rất cảm phục Cha về tinh thần phục vụ của Cha. Phục vụ thường xuyên. Phục vụ khiêm nhường. Phục vụ không quản vất vả khó khăn. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cha Ba đã thực hiện một cách tốt đẹp lời Chúa Giêsu dạy: “Thầy cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính sự thực thi bổn phận phục vụ yêu thương của Cha đã gợi ý về Tin Mừng. Nhờ đó những người xung quanh đã nghĩ tốt về Hội Thánh, như lời Chúa Giêsu đã hứa xưa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 14,35).
Ba là thái độ thường xuyên sống tiết độ. Sống tiết độ, sống chế ngự, đó là vẻ đẹp tu thân rất nổi nơi Cha Ba. Chế ngự, tiết độ trong ăn uống, trong lời nói, trong sắm sửa, trong các tiếp xúc, trong việc dùng thời giờ. Tất cả những tiết độ và chế ngự đó nói lên sự từ bỏ mình, một đặc điểm của người đi theo Đức Kitô: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà đi theo Thầy” (Mt 16,24).
Chỉ với ba thái độ sống trên đây, Cha Ba cũng đã gợi ý rất nhiều về những giá trị cao đẹp của Tin Mừng cứu độ. Để rồi từ đó chuẩn bị cho việc rao giảng trực tiếp về Đức Kitô.
Đây là vấn đề chúng ta nên để tâm suy nghĩ. Riêng tôi, tôi thiết nghĩ rằng: Trong bổn phận rao giảng Tin Mừng, việc gợi ý là điều quan trọng. Nhiều khi biết gợi ý lại thành công hơn nói thẳng. Nhất là khi nói thẳng mà thiếu chính xác và thiếu khiêm tốn. Biết gợi ý thường đòi nhiều điều kiện, như: Có tâm hồn khiêm tốn, óc sáng tạo, kinh nghiệm tâm lý, sống sát thực tế, thái độ tế nhị và biết đón nhận ơn sáng suốt khôn ngoan của Thánh Linh.
Lễ giỗ hôm nay đang diễn ra trong Đại Năm Thánh và trong cảnh lũ lụt lớn nhất từ gần nửa thế kỷ nay. Thiết tưởng Đại Năm Thánh và biến cố lũ lụt này cũng là những gợi ý Chúa dùng. Chúa gợi ý qua cuộc đời Cha Ba. Chúa gợi ý qua Năm Thánh và lũ lụt hôm nay. Chúa gợi ý qua buổi gặp gỡ thân tình lúc này. Gợi ý rằng: Tin Mừng cuộc đời không phải là ở đời sau, mà đang bắt đầu ngay ở đời này, ngay ở hiện tại. Nếu chúng ta biết lợi dụng tối đa từng giây phút hiện tại để sống những giá trị cao đẹp nhất của cuộc đời, dưới ánh sáng Phúc Âm, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ biết gợi ý cho những người xung quanh tìm về hạnh phúc Tin Mừng.
Trong thánh lễ này, chúng ta cùng với Cha Ba cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và đón nhận những gì Chúa gợi ý cho chúng ta phải thực hiện trong việc rao giảng Tin Mừng ở giai đoạn lịch sử này. Một giai đoạn khởi đầu cho thiên niên kỷ mới đầy thách đố, đầy băn khoăn, nhưng cũng đầy hy vọng.
Lễ giỗ Linh mục Luy Nguyễn Hiếu Lễ, ngày 22-9-2000

 

Bùi-Tuần 776: CẢM NGHIỆM HÀNH HƯƠNG 20-10-2000

Lần này tôi đi Rôma là để hành hương. Đối với tôi, hành hương là một hành trình quyết liệt đi: 20-10-2000 Bùi-Tuần 776

Lần này tôi đi Rôma là để hành hương. Đối với tôi, hành hương là một hành trình quyết liệt đi về quê hương. Quê hương sau cùng của tôi là chính Thiên Chúa của tôi.
Một cuộc hành hương được hiểu như thế sẽ mở ra trong nội tâm tôi một bầu trời mới đầy bí nhiệm. Tôi trở về với Thiên Chúa một cách mạnh mẽ hơn. Càng trở về, tôi càng nhận biết: Tôi là ai và Chúa là ai.
Hành trình nội tâm này gồm mấy việc chính sau đây:
Đọc Kinh Thánh.
Khi đọc kỹ Kinh Thánh, tôi nhận ra mình trong nhiều người được kể trong đó .
Thí dụ: Người con trai bà goá thành Naim đã chết được Chúa Giêsu cho sống lại  (Lc , 11-17).
Người thanh niên bị quỉ ám đưọc Chúa Giêsu chữa cho khỏi (Mc 9, 14-29).
Vua Đavid tội lỗi được Chúa ban ơn sám hối và tha thứ (2 Sam. 12).
Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa  Giêsu được ơn trở lại (Lc 28, 39-43).
Khi nhận ra mình trong những người nói trên, tôi cảm thấy mình là ai trước mặt Chúa . Có thể nói: “Tôi là người được Chúa yêu thương”. Người yêu thương tôi, mặc dầu tôi tội lỗi. Người yêu thương tôi bằng một tình yêu đặc biệt.
Những nét đặt biệt của tình yêu Chúa dành cho tôi sẽ còn hiện lên dần dần trong việc gẫm suy những cử chỉ Chúa làm và những lời Chúa phán đối với những người tội lỗi:
Thí dụ lời Chúa: “Hãy chỗi dậy” (Lc 17, 19). Và thí dụ cử chỉ của Chúa: “Người cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy và giúp nó đứng lên” (Mc 9,27).
Khi suy gẫm những lời yêu thương và những cử chỉ thương xót như trên, tôi nhận ra Chúa là ai. Thiên Chúa là Đấng cứu độ quyền năng giàu tình yêu thương xót.
Hình ảnh Chúa trên đây càng trở nên sống động gần gũi, khi tôi đọc các Thánh Vịnh. Thí dụ Thánh Vịnh 138: “…Chúa bao bọc con cả sau lẫn trước. Bàn tay của Người, Người đặt lên con. Kỳ diệu thay trí thức siêu phàm. Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới. ...Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách rất lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu”.
Hành hương với việc đọc Kinh Thánh để nhận ra mình là ai và Chúa là ai đã đem lại bình an sâu thẳm. Nhờ đó, khi tham dự các lễ nghi và khi gặp những con người, tôi khám phá được thêm những bất ngờ thú vị Chúa dành cho riêng tôi và cho Hội Thánh của tôi.
Tôi sẽ không còn ngạc nhiên, khi nhìn thấy nhiều người trong Hội Thánh  của tôi còn nặng nề với bao nhiêu bất toàn. Tôi tin rằng tất cả đang được Chúa cứu độ. Tôi không hiểu Chúa cứu cách nào, nhưng tôi tin vào Đấng cứu độ. Đời tôi là một bằng chứng. Tôi cảm tạ Chúa với đức tin bao la của Hội Thánh Chúa.
Việc thứ hai tôi làm trong hành hương là cầu nguyện.
Cầu nguyện.
Cầu nguyện của tôi là một câu hỏi:  “Chúa muốn con làm gì?”.
Trong bầu khí cầu nguyện, tôi luôn nghe được câu trả lời là: Người môn đệ Đức Kitô hãy nói và hãy làm những gì Chúa truyền dạy  với tư cách của kẻ được sai đi.
Trước hết là đánh thức chính mình và dân Chúa: Đừng đi xa Chúa. Nguy cơ tội lỗi ở trong chính mình. Trong mục đích đó, hãy đọc lại những lời cảnh báo của Giêrêmia, Osêa, Isaia. Hãy đọc lại những lời răn đe trong Phúc Âm. Hãy nhớ lại những lời tiên báo của Đức Mẹ tại Fatima. Hãy thức tỉnh vời những dấu chỉ của thời điểm hiện nay.
Hành hương là một hành trình trở về. Một sự trở về gồm ba lãnh vực:
Trở về trong lãnh vực luân lý là từ bỏ tội lỗi và các tính hư nết xấu để thực hành các nhân đức.
Trở về trong lãnh vực kiến thức là từ bỏ những quan niệm sai lầm, lỗi thời, để vươn lên một tầm cao mới về trí tuệ.
Trở về trong lãnh vực huyền nhiệm là gặp gỡ Chúa trong lời Chúa và trong các biến cố hằng ngày.
Nói một cách đơn giản dễ hiểu, hành hương là một cố gắng trở về trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta.
Trở về với trái tim của Người, là trái tim hiền lành và khiêm nhường.
Trở về với ý chí của Người là ý chí  luôn tìm thực thi thánh ý Chúa Cha.
Trở về với lời của Người, là lời ban sự sống, và sự thực.
Trở về với giới răn mới của Người, là giới răn yêu thương.
Trở về với sự khôn ngoan của người là sự khôn ngoan của thánh giá.
Trở về với Thần Linh của Người là Thần Linh hiệp nhất, sáng tạo và thánh hóa.
Trở về với Cha của Người là Chúa Cha giàu tình yêu thương xót.
Ngoài ra, Chúa truyền dạy kẻ được sai đi phải luôn tỉnh thức với những cách Chúa đang dùng, để biết cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa. Thí dụ một trong những cách Chúa đang dùng để cứu độ là những vẻ đẹp mới. Như vẻ đẹp của sự kết hợp những đau đớn cá nhân mình với những khổ đau của Chúa Giêsu chịu khổ hình. Vẻ đẹp của sự kết hiệp tình yêu vị tha của mình với tình yêu hiến dâng của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Giáng Sinh. Vẻ đẹp của sự bao dung tha thứ của mình với tình xót thương rộng lượng của Chúa Giêsu trên thánh giá. Vẻ đẹp của người bắt chước Chúa Giêsu, chịu treo trên thánh giá, gục đầu xuống phó linh hồn mình trong tay Chúa Cha, để đền tội thay cho nhân loại. Vẻ đẹp của sự tự do sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, đi theo Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria, đến với con người, nhất là những con người nghèo khổ. Vẻ đẹp của ý chí biết từ bỏ mình, để dấn thân vào chương trình cứu độ của Chúa Giêsu.
Sự hồi tâm.
Nếu hành hương là một cuộc đi tìm gặp gỡ Chúa một cách đặc biệt, thì không thể không thực thi việc hồi tâm. “Hãy đóng cửa phòng lại, hãy ở lại trong đó và cầu nguyện Chúa  Cha trong bí nhiệm, và Cha của con là Đấng nhìn trong bí nhiệm, sẽ tỏ mình ra cho con” (Mt 6, 1-6).
Đây là một việc rất khó thực hiện trong hành hương. Ở đây hồi tâm là tập trung vào một điểm chính, đó là gặp Chúa. Nhưng trong thực tế, hành hương là một chuyến đi thường bị chia trí ra muôn ngả. Đôi khi người hành hương muốn đi tìm mọi thứ, trừ sự thân mật với Chúa, hoặc không cố gắng đi tìm Chúa, hoặc thiếu điều kiện thực hiện sự gặp gỡ Chúa. Nên biết rằng hồi tâm và những thử thách là những bí nhiệm giúp chúng ta biết mình và biết Chúa. Nhờ vào đó, chúng ta dễ trở thành những chứng nhân trưởng thành hợp thời của Tin Mừng theo ý Chúa. Vì thế, người hành hương phải phấn đấu rất nhiều để không lạm dụng sự tự do của mình, nhưng biết dùng nó để sám hối và trở về đàng lành.
Trong hồi tâm, người môn đệ Đức Kitô dễ đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, để biết hăng hái khôn ngoan đem lại cho đồng bào mình sự sống dồi dào cao đẹp, và biết can đảm chiến đấu chống lại mọi sự dữ đe doạ phá huỷ sự sống ấy.
Khi được thấy rõ mình là ai và Chúa là ai, tôi hân hoan với giá trị thiêng liêng về con người của mình và thiên chức đời sống của mình do Chúa trao ban. Mặc dù nhỏ bé bất toàn, cuộc sống của mỗi người luôn có thể là một cuộc trao đổi tâm tình giữa mình với Đấng cứu độ, là Chúa Giêsu. Với Người, họ thờ phượng, họ phục vụ, họ làm chứng cho Tin Mừng, họ xây dựng một nền văn minh tình yêu. Đời họ là một bài ca tình yêu của Thánh Linh, không ngừng trở về với Thiên Chúa Cha ở trên trời, là Đấng giàu tình yêu thương xót.
Rôma, ngày 20-10-2000.

 

Bùi-Tuần 777: HÀNH HƯƠNG VÀ NHỮNG CHỨNG NHÂN 04-11-2000

Trong chuyến đi hành hương Rôma vừa qua, tôi may mắn gặp được nhiều nhân chứng của: 04-11-2000 Bùi-Tuần 777

Trong chuyến đi hành hương Rôma vừa qua, tôi may mắn gặp được nhiều nhân chứng của Tin Mừng. Đối với tôi, Tin Mừng chính là Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết và đã sống lại.
Điều đặc biệt nơi những nhân chứng này là họ rất gắn bó với Chúa Giêsu. Không phải do ảnh hưởng truyền thống công giáo có sẵn nơi gia đình và họ đạo, nhưng do những biến cố họ gặp. Đã có những biến cố biến đổi đời họ một cách sâu sắc: Não trạng họ, cách suy nghĩ của họ, cách đánh giá của họ, cách chọn lựa của họ, cách đối xử của họ, cách đi tới những trọng tâm đời họ, tất cả đều được đổi mới.
Vậy những biến cố đó là thế nào? Tôi xin đưa ra những nhận xét sau đây:
Những gặp gỡ đánh động.
Họ đã gặp được những yếu tố mang Tin Mừng. Những yếu tố đó rất đa dạng. Thí dụ:
Một con người tốt. Đối với họ, người tốt trước hết là người kính trọng họ, yêu thương họ, nâng đỡ họ, cảm thương họ. Họ là con đường mang dấu chỉ Tin Mừng.
Một cuốn sách tốt. Sách có nội dung gần gũi thân phận con người, kèm theo Tin Mừng là Chúa Giêsu, Đấng cứu độ quyền năng và thương xót.
Một dấn thân tốt. Một dấn thân được gọi là tốt đối với họ, khi dấn thân này nhắm phục vụ người nghèo khổ, người cô đơn, người bị loại trừ, để nhìn nhận phẩm giá những người bé nhỏ yếu kém trong cái nhìn của Thiên Chúa là Cha.
Một trao đổi tốt. Một trao đổi được coi là tốt, khi nó mang chất lượng sự thực và tình thương, với thái độ kính trọng và lắng nghe. Một trao đổi như thế có sức mở cửa lòng, để đón nhận chính Chúa Giêsu là chân lý và tình yêu.
Một sự cởi mở tốt. Cởi mở nơi cơ chế tôn giáo và những người lãnh đạo tôn giáo. Cởi mở trong thái độ bao dung tha thứ. Cởi mở trong cái nhìn xa và rộng. Cởi mở trong sự biết nhìn nhận những điều hay lẽ phải nơi những người ngoài công giáo.
Một cuộc lễ tôn giáo tốt. Tốt ở bầu khí cầu nguyện, hồi tâm và bác ái. Trong đó có sự góp phần của các kinh, nghi thức, thánh ca, bài giảng.
Một tình thế bất ngờ gây nên những tác động tốt. Đã có những trường hợp bất ngờ xảy ra, khiến con người thức tỉnh, và kiếm tìm ơn cứu độ. Họ trở nên khiêm tốn, khó nghèo, dễ đón nhận ơn thiêng.
Những gặp gỡ như trên là những biến cố ban đầu. Chúng mở đường. Với nhịp độ ơn thánh, những ai đi trên con đường đó sẽ được mời bước vào những biến cố mới khác, đó là Lời Chúa và cầu nguyện.
Lời Chúa và cầu nguyện.
Lời Chúa và cầu nguyện chính là những biến cố gây nên những thayđổi quan trọng nơi con người. Nhờ Lời Chúa và cầu nguyện, họ sẽ nhận ra dung mạo thực của Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót.
Họ sẽ nhìn rõ sự thực về mình là tạo vật hèn mọn yếu đuối, nhưng được Chúa xót thương.
Họ sẽ thấy nhân loại là một thực thể bị thương trầm trọng, những vẫn mang hy vọng được cứu độ nhờ Đức Kitô.
Nhờ Chúa, họ sẽ khám phá ra những ánh sáng trong bóng tối, những kho tàng trong những đổ nát, những hy vọng trong những thất vọng.
Đời sống họ có thể đầy những sợ hãi, cô đơn như cuộc đi trốn của tiên tri Elia. Nhưng, chính trong lúc Elia thất vọng, mệt mỏi, thì Chúa đã sai thiên thần đến với ông. Thiên thần lo cho ông từng chi tiết nhỏ, như miếng bánh để ăn, chén nước để uống. Cũng chính lúc ông tưởng Chúa sẽ đến trong cơn động đất, trong con gió lốc, trong luồng lửa đỏ, thì Chúa lại đến đến trong làn gió nhẹ. Chúa đến để nhẹ nhàng an ủi ông và dẫn đường chỉ lối cho ông. Ông cảm thấy Chúa gần gũi ông (1V 19,1-13). Nhiều cuộc đời của chứng nhân cũng có một số nét tương tự như thế.
Khi đã gặp được một Thiên Chúa giàu lòng thương xót như vậy, người chứng nhân sẽ không ngại bỏ lại tất cả, để đi theo Chúa.
Bỏ lại tất cả, không phải chỉ bỏ lại những gì phải bỏ và nên bỏ, mà còn bỏ lại những gì coi như không nên bỏ. Thí dụ trường hợp các môn đệ được Chúa Giêsu làm phép lạ cho bắt được mẻ cá lớn (Lc 5,11). Theo lẽ thường, ai cũng nghĩ rằng: Cần giữ lại chiếc ghe, và chiếc lưới đã là những dụng cụ Chúa Giêsu dùng để làm phép lạ bắt được mẻ cá lớn đó. Thế nhưng, Phúc Âm nói: các môn đệ đã bỏ lại tất cả, để đi theo Chúa Giêsu. Chứng tỏ rằng: các môn đệ vượt qua tất cả, bỏ lại tất cả, để chỉ nhắm vào một mục đích duy nhất, đó là đi theo Chúa Giêsu, gắn bó tuyệt đối với Chúa Giêsu.
Đi sâu vào Lời Chúa và đến với đồng bào.
Những người được Chúa biến đổi sẽ không tự mãn cho rằng mình đã tới đích. Nhưng họ luôn cảm nhận mình cần sống những gì Chúa đã ban, đồng thời cũng cần phải đi thêm mãi.
Đi sâu thêm vào Lời Chúa, để học hỏi thêm. Càng đi sâu, họ càng khám phá thấy những mới mẻ của Tin Mừng xuất hiện ngay trong cuộc sống cụ thể của mình, giữa những tình hình văn hoá và chính trị đang chuyển biến.
Càng đi sâu, họ càng cảm thấy cần phải ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình, để đến với đồng bào gần xa. Đến với họ, để chia sẻ Tin Mừng cho họ. Để mọi người thấy rõ: Thiên Chúa chính là người cha được kể trong Phúc Âm, luôn chờ đợi con phung phá trở về. Và khi nó trở về, người cha đó đã tỏ ra mừng rỡ sung sướng với tất cả tâm tình người cha hiền từ nhân hậu (Lc 15,11-31). Và mọi người thấy rõ: Thiên Chúa chính là người chăn chiên, dám để lại 99 con chiên tốt để đi tìm chỉ một con chiên lạc. Và khi tìm được nó, thì âu yếm vác nó trên vai (Mt 18,12-14).
Người chứng nhân của Tin Mừng ra đi, không phải để chinh phục ai, để ép buộc ai, để áp đặt gì, nhưng chỉ để được dịp sống tình liên đới huynh đệ trong cuộc sống chung, làm việc chung, vui buồn chung, với hy vọng sự thay đổi nên tốt hơn sẽ có thể đến với bất cứ ai, với bất cứ cơ chế nào. Bởi vì họ mang trong mình những kinh nghiệm sống động về sự gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng Cứu độ quyền năng và thương xót.
***
Khi được gặp nhiều chứng nhân của Tin Mừng như vừa kể, tôi tự nhiên nghĩ tới việc chọn nhân sự và đào tạo nhân sự cho Hội Thánh Việt Nam của tôi. Cần đào tạo nên những chứng nhân. Cần chọn những người đã là chứng nhân. Bởi vì thời nay là thời của những chứng nhân.
Long Xuyên, ngày 4 tháng 11 năm 2000

 

Bùi-Tuần 778: CỨU TRỢ VÀ ĐƯỢC CỨU TRỢ 12-11-2000

Từ mấy tháng nay, cứu trợ là một thời sự nóng. Tại đồng bằng sông Cửu Long này, thời sự: 12-11-2000 Bùi-Tuần 778

Từ mấy tháng nay, cứu trợ là một thời sự nóng. Tại đồng bằng sông Cửu Long này, thời sự cứu trợ chiếm một địa vị quan trọng trong sinh hoạt đời thường. Tôi nghe, tôi thấy và tôi tham dự. Cứu trợ gây nên thao thức, dẫn tới hành động, đòi hỏi tỉnh thức dấn thân. Nó trở thành đề tài để gẫm suy.
Nhìn vào tổng hợp cứu trợ tại địa phương này, tôi nhận ra vài nét đẹp. Những nét đẹp đó có khả năng trở thành những chỉ hướng, để Hội Thánh địa phương tìm ra cho mình một phong cách riêng đáng trân trọng. Tôi xin phép nêu lên những nét đẹp đó.
Thương cảm.
Trước đây, nhiều nơi nhiều người có thói quen coi Hội Thánh Công giáo như một tổ chức đặt nặng vấn đề thực thi các nghi lễ và sinh hoạt nội bộ. Nhưng từ ít lâu nay, khi người công giáo khắp nơi dấn thân vào việc xã hội, như cứu trợ các nạn nhân lũ lụt, không phân biệt lương giáo, nhiều người đã nhận ra một nét đặc sắc của Công giáo. Đó là lòng thương cảm.
Thương cảm là một vẻ đẹp của tâm hồn rất dễ nhận thấy do trực giác, chứ không cần đến lý luận trí thức. Trực giác là rất Á đông.
Thương cảm là một giá trị thiêng liêng hướng về con người. Hướng về con người cũng là một đặc điểm rất Á đông.
Thương cảm là dấu chỉ sự nhạy bén của trái tim trước những khổ đau của cuộc đời. Cái tâm nhạy bén là một vẻ đẹp rất Á đông.
Thương cảm là một đặc tính làm nên quân bình nhân bản. Quân bình cũng là một đòi hỏi của nền đạo đức và văn hoá Á châu.
Chính vì thế mà, khi Công giáo muốn bàn đến việc hội nhập văn hoá và việc đối thoái với nền đạo đức truyền thống địa phương, Hội Thánh tại đây không thể không để ý đến việc phát huy lòng thương cảm.
Trong các nhóm đi cứu trợ, tôi thường nhận thấy thương cảm được thực hiện ở ba cấp. Cấp cá nhân, khi mỗi cá nhân toả sáng lòng thương cảm ra qua cách sống. Cấp nội bộ, khi các người trong nhóm sống thương yêu nhau trong nội bộ mình. Cấp xã hội, khi các người trong nhóm thực thi bác ái đối với các người ngoài nội bộ mình và ngoài Hội Thánh của mình.
Để được như thế, chắc chắn người ta đã đi vào con đường bé mọn thiêng liêng của Phúc Âm. Chấp nhận trở thành bé nhỏ, để được là anh chị em của nhau, cho dù mình là ai, và cho dù người khác là ai.
Đi cứu trợ, tôi thấy mình được cứu trợ về vẻ đẹp đó.
Tế nhị.
Trong cứu trợ có thể nhiều người đã tưởng mình là người ban phát. Đôi khi còn tự cho mình có quyền phê phán, kết án người nọ người kia. Nhưng nếu biết tế nhị, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều kho tàng thiêng liêng nơi những người được cứu trợ.
Tôi thấy nhiều khi sự đau xót của người nghèo không do cái thiếu của họ, mà là do cái giàu của người khác. Tức là người khác đã không tế nhị trong cách cứu trợ người nghèo khổ, nhất là trong cách đến với người nghèo khổ. Sự đau xót gây nên do những thái độ không tế nhị thường làm nên những thương tích nội tâm âm ỷ lâu dài.
Giản dị, chất phác ở thái độ bên ngoài và ở bên trong tâm hồn cũng là những cách diễn tả sự tế nhị.
Mới rời, tại Rôma, trong một cuộc hội đàm với các tổ chức từ thiện thuộc nhiều nước Au châu, có lúc tôi đã phát biểu rằng: Cứu trợ là hãy giúp cho người ta tìm được hy vọng. Nhưng sống trong hy vọng thường phải biết sống với thánh giá. Khi nghe câu đó, một bà ngồi trước mặt tôi, đại diện một nước lớn với chức vụ phụ trách cứu trợ Á châu, khe khẽ quay mặt sang phía khác. Bà có vẻ muốn che giấu một nỗi buồn thầm kín trào lệ. Trong giờ giải lao, bà đến gặp tôi, tâm sự: Tôi sống trong hy vọng và thánh giá suốt 14 năm nay. Tôi đau khổ lắm. Cha có thể đoán được. Cha có lời khuyên nào cho tôi không? Tôi thấy bà thực tế nhị, giản dị và chất phác. Bà muốn được cứu trợ về tinh thần, trước khi đi cứu trợ về vật chất. Tôi cũng vậy.
Hợp tác.
Các đoàn cứu trợ thường có sự hợp tác. Hợp tác dưới nhiều hình thức. Thí dụ ngày 11-11 vừa qua, tôi theo đoàn của giáo xứ thị xã Rạch Giá đi cứu trợ miền xa. Đoàn gồm giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục và một số bác sĩ của tỉnh. Tất nhiên, những phần quà cứu trợ cũng có sự hợp tác của các ân nhân xa gần, lương cũng như giáo, trong nước và ngoài nước. Đây là một sự hợp tác rộng rãi. Chúng tôi tới cứu trợ tại một ngôi chùa người Khơmer ở xã Bình Giang, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Ở đây, chúng tôi cứu trợ cho đồng bào nghèo xung quanh chùa. Diễn tiến cứu trợ được sự hợp tác hữu hiệu của các vị sư của chùa và của chính quyền địa phương.
Sự hợp tác mà tôi cho là rất quan trọng chính là sự góp phần của các nạn nhân lũ lụt. Họ góp phần bằng ý chí phấn đấu, sự khôn ngoan, sự khéo sử dụng những gì nhận được.
Phần riêng tôi, tôi vẫn coi sự hợp tác với Chúa là đòi hỏi hàng đầu. Khi hợp tác với Chúa, tôi nhận ra được nhiều công trình kỳ diệu Chúa đang làm trong các tâm hồn, và trong các nền văn hoá khác nhau. Chúa vẫn không ngừng sáng tạo trong lịch sử nhân loại và trong Hội Thánh.  Cần hợp tác với Chúa bằng lắng nghe ý Chúa, bằng đón nhận ơn Chúa, bằng trả lời những tiếng gọi bất ngờ của Chúa, bằng sẵn sàng từ bỏ ý riêng để bước theo Chúa.
Hợp tác đó sẽ được hữu hiệu trong nội tâm cầu nguyện và thiện ý thanh luyện chính mình.
Hợp tác như thế sẽ làm cho việc cứu trợ trở thành của lễ hiến dâng đẹp lòng Chúa. Lúc đó, cứu trợ sẽ là máng chuyển tải ơn cứu độ đến cho mọi người, trong đó có người cứu trợ và người được cứu trợ.
Long Xuyên, ngày 12-11-2000.

 

Bùi-Tuần 779: NƯỚC CHÚA TỚI GẦN 17-11-2000

Chúng ta sắp sửa mừng lễ Chúa Giêsu-Vua. Đây là dịp thuận tiện, để chúng ta tự hỏi mình: 17-11-2000 Bùi-Tuần 779

Chúng ta sắp sửa mừng lễ Chúa Giêsu-Vua. Đây là dịp thuận tiện, để chúng ta tự hỏi mình: Nước Chúa đã thực sự tới gần chưa? Tới gần là tới trong lòng ta, trong cộng đoàn ta, trong Hội Thánh ta, trong xã hội ta.
Để giúp tìm được câu trả lời, chúng ta nên dựa vào các Phúc Âm.
Đọc các Phúc Âm, chúng ta thấy thế nào là Nước Chúa. Nước Chúa không phải là tuân giữ trọn vẹn Lề Luật, như quan điểm các người Pharisêu. Nước Chúa cũng không phải là sự trong sạch của đất nước, như chủ trương các người Essênê. Nhưng Nước Chúa là Tin Mừng đang hiện diện ẩn dật giữa dân chúng, khi được nhận ra và được tiếp đón.
Nói một cách cụ thể, Tin Mừng đó là Chúa Giêsu. Nước Chúa gắn liền với Tin Mừng Chúa Giêsu.
Vài nét nội dung Tin Mừng.
Nội dung Tin Mừng trước hết là những điều Chúa Giêsu giảng dạy. Tạm tóm tắt như sau: Điều căn bản là mạc khải về Chúa Cha. Chúa Cha được mạc khải là Cha giàu tình yêu thương xót. Muốn thuộc về Chúa Cha thì hãy luôn sống theo thánh ý Chúa Cha (Mc 3,31-34).
Tiếp đến là các lời nói Chúa Giêsu. Các lời nói của Người là những lời diễn tả tình thương xót cứu độ: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và cho sự nghỉ ngơi” (Mt 11,28), “Ta thương xót dân này” (Mc 8,2).
Sau là các cử chỉ thân thương của Chúa Giêsu đối với những người nghèo khó, tội lỗi, bị loại trừ. Như các người phong cùi, quỉ ám, người Samaria, người ngoại giáo , người thu thuế và đĩ điếm. Người nói rõ: “Ta đến để kêu gọi không phải những người công chính, nhưng những người tội lỗi” (Mc 2,17).
Tất cả nội dung Tin Mừng trên đây đều phản ánh thánh ý Chúa Cha muốn cho tất cả mọi người đều được cứu độ, nhờ tin vào tình yêu thương xót của Chúa và biết đón nhận tình yêu thương xót ấy.
Thời Chúa Giêsu, Tin Mừng như thế là một điều quá mới. Nước Chúa gắn liền với Tin Mừng đó cũng là điều chưa từng thấy. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu đã gây nên nhiều đụng độ.
Đụng độ với chế độ đền thờ đã bị tục hoá (Mc 11,15-19).
Đụng độ với các thầy cả câu nệ vào hình thức đạo đức (Mc 11,27-12,12).
Đụng độ với các người Pharisêu phô trương việc giữ luật bề ngoài (Mc 12,13-17).
Đụng độ với các nhà thông luật chủ trương lối sống loại trừ (Mc 12,38-40).
Bước theo Tin Mừng.
Những đụng độ trên cho thấy: Tin Mừng Chúa Giêsu không phải được mọi người chấp nhận. Phía chống đối mạnh lại là các thầy cả, các nhà thông luật đạo, các nhà mệnh danh là đạo đức.
Nhưng Tin Mừng ấy đã gây được ảnh hưởng lớn trong dân thường. Bởi vì Tin Mừng ấy không phải là một hệ thống lý thuyết, nhưng chính là một chứng nhân sống động. Đó là Đức Kitô. Gặp gỡ Đức Kitô với một tâm hồn đơn sơ khiêm tốn, người ta cảm thấy trong bản thân Người có một quyền năng thiêng liêng, một quyền năng từ bên trong nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu.
Những  người nhận ra điều mới lạ đó là ai? Câu trả lời được tìm thấy trong lời Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, Con ca tụng Cha vì đã giấu điều đó cho những người  khôn ngoan, thông thái, nhưng đã tỏ ra cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).
Kinh nghiệm cho phép hiểu thêm về những kẻ bé mọn nói trên.
Bé mọn là nhận biết mình kém cỏi, nên không ngừng học hỏi thêm về Chúa Kitô và luôn luôn khiêm tốn trước những gì trí khôn hiểu biết về Người.
Bé mọn là nhận biết giới hạn những kiến thức trí khôn của mình về Chúa Kitô. Chúng sẽ không cho mình những nhận biết khả quan về Người, nếu không có đức tin soi sáng. Trong đức tin cũng phải hết sức bé mọn, khiêm nhường. Nhất là khi đức tin được hiểu là sự gặp gỡ bản thân với chính Chúa Kitô.
Bé mọn còn là nhận biết mình, ngoài sự hiểu biết của trí khôn và sự hiểu biết của đức tin, thì còn cần đến ơn Chúa Thánh Thần. Để nhờ đó mà dễ nhận ra Tin Mừng, dễ đón nhận Tin Mừng, dễ cộng tác với Tin Mừng, dễ làm chứng cho Tin Mừng. Lúc ấy chúng ta được đổi mới sâu xa, trở thành tạo vật mới.
Khi trở nên tạo vật mới, chúng ta đón nhận quyền năng của Tin Mừng Đức Kitô thấm nhập vào mọi cơ năng của ta, điều khiển các tầng lớp tâm lý trong ta, từ ý thức, đến tiềm thức, vô thức của ta. Chúng ta thuộc trọn về Người.
Chỉ trong tình trạng như thế, chúng ta mới có thể nói: Nước Trời đã hoàn toàn ngự trị trong chúng ta. Trong tình trạng như thế, dù có khi phải đớn đau hồn xác, chúng ta sẽ cảm thấy bình an và yêu thương tràn ngập, như dấu chỉ Nước Trời.
Nếu những gì tôi nói trên đây là đúng, thì có thể Nước Trời vẫn còn xa chúng ta. Vì chúng ta chưa được hoàn toàn đổi mới. Tuy nhiên, sự chúng ta tin nhận Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta dưới nhiều hình thức, đồng thời sự chúng ta biết thao thức lắng nghe Người, đợi chờ Người và muốn đón nhận Người, thì đó là những tin vui mang nhiều hy vọng. Bởi vì đó là dấu Nước Chúa đang tới gần.
Long Xuyên, ngày 17-11-2000

 

Bùi-Tuần 780: SỐNG MÙA VỌNG VỚI ĐỨC MẸ MARIA 01-12-2000

Mùa Vọng của Năm Thánh này phải được coi là thời gian rất quan trọng. Đây là mùa tạ ơn. Đây: 01-12-2000 Bùi-Tuần 780

Mùa Vọng của Năm Thánh này phải được coi là thời gian rất quan trọng. Đây là mùa tạ ơn. Đây là lúc chuẩn bị đón Chúa. Chúa đến cứu độ. Chúa đem lại cho chúng ta sự sống dồi dào tốt đẹp, mà thâm tâm ta hằng khao khát mong chờ.
Để sống tạ ơn và đón chờ Chúa Cứu Thế, thiết tưởng chúng ta nên đến bên Đức Mẹ. Xin Đức Mẹ dắt ta đi. Bởi vì không lúc nào bằng trong Mùa Vọng, Đức Mẹ chính là người đã sống trọn vẹn và mật thiết mầu nhiệm nhập thể. Đức Mẹ đã sống với những thái độ nào?
Thái độ khiêm nhường.
Như Thiên Chúa từ trời xuống thế, Đức Mẹ cũng đã bước xuống. Mẹ bước xuống vực thẳm của sự khó nghèo thiêng liêng.
Ở đây, nhìn nhận mình bé nhỏ không phải là kết quả của những lý luận tự nhiên, nhưng chính là một hồng ân Chúa ban. Hồng ân khiêm nhường chiếu giãi ánh sáng vào linh hồn, giúp linh hồn khám phá thấy sự thực về mình. Mình rất bé nhỏ, rất thấp hèn, rất yếu đuối. Nhưng chính sự bé nhỏ thấp hèn và yếu đuối đó lại được Chúa đoái nhìn đến (Lc 1,48). Như thể sự bé nhỏ thấp hèn yếu đuối lại là một vẻ đẹp thiêng liêng có sức lôi cuốn tình yêu thương xót Chúa.
Thiên Chúa đã thương chọn Đức Mẹ là kẻ bé mọn, để cộng tác với Đấng Cứu thế. Đấng Cứu thế được sai đi cũng mặc lấy thân phận kẻ khó nghèo. Người sẽ sống giữa những kẻ bị loại trừ, để chia sẻ kiếp người như họ, và để họ tìm được hy vọng nơi tình yêu thương xót Chúa.
Như Chúa Giêsu ẩn mình dưới thân phận kẻ bé mọn, Đức Mẹ cũng đã rất kín đáo với những đặc ân Chúa ban. Ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn đồng trinh, ơn làm mẹ Đấng Cứu thế, tất cả là những đặc ân vô cùng quí giá. Nhưng Đức Mẹ đã che giấu, dưới nếp sống nghèo khó bé mọn đơn sơ.
Hơn nữa, Đức Mẹ còn xưng mình là “người tôi tớ của Chúa” (Lc 1,38). Tôi tớ là người tùng phục. Đức Mẹ tùng phục Chúa một cách trọn vẹn. Sự tùng phục đó được diễn tả trong lời “Xin vâng” (Lc 1,38). Xin vâng  một cách đơn sơ, đầy phó thác.
Từ thẳm sâu khiêm nhường, Đức Mẹ đã ca ngợi tạ ơn Thiên Chúa.
Thái độ tạ ơn.
“Linh hồn tôi tung hô Chúa... Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1,46). Đức Mẹ khởi đầu kinh tạ ơn từ kinh nghiệm riêng của mình. “Linh hồn tôi, Đấng cứu chuộc tôi”. Đó là những cảm nghiệm riêng tư của bản thân mình. Cảm nghiệm riêng tư  chính là những chứng từ sống động. Rồi từ đó, Đức Mẹ đã  nhìn sang dân tộc mình và các thế hệ nhân loại mai sau.
Chứng từ trong tâm tình tạ ơn của Mẹ nhấn mạnh và đề cao tính cách nhưng không của ơn gọi. Chúa chọn Mẹ không phải vì cá nhân riêng của Mẹ, nhưng vì dân tộc của Mẹ và vì tất cả cộng đồng nhân loại.
Khi hiệp thông với Đức Mẹ để ca ngợi và tạ ơn Chúa, tôi có cảm tưởng là điều mà Đức Mẹ đã ca tụng và tạ ơn hơn cả, chính là ơn biết đón nhận Chúa với tất cả tấm lòng khiêm nhường bé mọn.
Bởi vì trong đời sống thiêng liêng, mấu chốt nền tảng chính là thái độ sẵn sàng đón nhận Chúa. Sẵn sàng đón nhận như một kẻ khó nghèo, bé mọn. Đây là một chân lý đã được chính Chúa Giêsu sau này nêu rõ:
“Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Đời Đức Mẹ đã có một số biến cố khác thường. Những biến cố đó đã xảy đến bất ngờ ngoài thể chế đạo đời. Rất nhiều người đã không sẵn sàng đón nhận các biến cố ấy. Bởi vì chúng không nằm trong các phạm trù của thể chế. Nhưng Chúa lại đến trong các biến cố bất ngờ đó. Vì thế, sự biết đón nhận Chúa trong các biến cố bất ngờ, như Đức Mẹ đã đón nhận, chính là một điều rất lạ lùng phải được coi là một hồng ân cao cả.
Thiết tưởng đó cũng chính là đón nhận Nước Thiên Chúa. Không phải Nước Thiên Chúa chỉ là sự tỏ lộ tình yêu Thiên Chúa, mà là Nước Thiên Chúa với những bí nhiệm của nó. Những bí nhiệm có vẻ đầy mâu thuẫn, như “kẻ giàu có bị đuổi về tay không, kẻ nghèo khó,  Chúa ban của dư đầy” (Lc 1,53). Hiểu được bí nhiệm này, nhất là đón nhận được những bí nhiệm này sẽ  không phải là kết quả của những công trình tra cứu, nhưng là một hồng ân, mà Chúa ban, và chính ta cũng phải cầu xin một cách khiêm nhường.
***
Sống bên Đức Mẹ đầy tâm tình khiêm tốn và tạ ơn, chúng ta sẽ thấy Đức Mẹ là người mẹ rất dịu dàng, hiền hậu. Mẹ không có những hiện tượng ngất trí, cũng không dạy những gì cao sâu, khó hiểu. Nhưng Mẹ là mẹ của những người con bé nhỏ sống âm thầm đơn sơ.
Với thái độ khiêm nhường và tâm tình tạ ơn, Đức Mẹ dạy chúng ta đón nhận ơn Chúa và chính Chúa. Chúa là mặt trời tình yêu thương xót. Những tia sáng của mặt trời tình yêu thương xót này sẽ hướng dẫn chúng ta trên suốt hành trình đức tin, một hành trình không thiếu thử thách, gian nan đau khổ.
Được Đức Mẹ dắt đi, và được cầu nguyện với Đức Mẹ, chúng ta sẽ thấy an tâm, an ủi và an vui trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Long Xuyên, ngày 01-12-2000

 

Bùi-Tuần 781: NHỮNG NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI CHÚA TẠI HANG ĐÁ

BÊLEM 06-12-2000
 

Cứu độ nhân loại là việc của Chúa. Nhưng Chúa không thực hiện công việc đó một mình: 06-12-2000 Bùi-Tuần 781

Cứu độ nhân loại là việc của Chúa. Nhưng Chúa không thực hiện công việc đó một mình. Người dùng những cộng tác viên. Cộng tác vào kế hoạch cứu độ là đòi hỏi cần thiết. Mỗi người đều được mời gọi tham gia. Đó là một ơn gọi cao quí.
Lãnh vực tham gia là rất bao la. Tôi thoáng nhận ra điều đó, khi suy nghĩ của tôi dừng lại trước những người cộng tác với Chúa tại hang đá Bêlem.
Những người được gọi cộng tác.
Số người cộng tác với Chúa tại hang đá Bêlem không đông lắm. Tuy nhiên, chúng ta có thể tạm chia họ thành ba nhóm.
Nhóm gia đình thánh gồm Đức Mẹ và thánh Giuse.
Nhóm dân nghèo gồm các mục đồng.
Nhóm dân ngoại gồm ba vua.
Ba nhóm này được Chúa gọi từ nhiều nơi khác nhau, với những cách khác nhau. Họ có mặt ở hang đá, như những chứng nhân về Chúa, như những cộng tác viên của Chúa, như những người nhận sứ điệp từ Chúa. Giã từ hang đá Bêlem, họ không về theo con đường cũ, mà họ đã đi qua để đến đó, nhưng họ đã theo những con đường mới. Đức Mẹ và thánh Giuse đi vòng qua ngả Ai Cập. Nhóm mục đồng trẽ vào các làng mạc xung quanh. Ba vua không theo con đường lớn dẫn qua thủ đô Giêrusalem, nhưng chọn những con đường nhỏ để trở về quê cũ.
Sự hiện diện của nhóm gia đình thánh tại hang đá Bêlem là điều tất nhiên. Nhưng điều gây ngạc nhiên là sự có mặt của nhóm dân nghèo và nhóm dân ngoại. Sự hiện diện của họ trong biến cố trọng đại Chúa Giáng sinh làm cho cơ chế và nghi thức trở thành mỏng manh và mở rộng chân trời cho Nước Thiên Chúa.
Ba nhóm cộng tác viên tại hang đá Bêlem là những luồng gió mới Chúa thổi vào lịch sử cứu độ. Thử đi sâu một chút vào hành trình cộng tác của họ, chúng ta nhận thấy nhóm gia đình thánh là hạt nhân đặc sắc, kiên định, còn hai nhóm kia coi như trôi nổi, nhưng vẫn là những nhóm khai phá nhiều hướng mở ra: Mở ra về phía Chúa, một Thiên Chúa từ nay không còn bị giam cầm trong những cái nhìn hẹp hòi của những người ấu trĩ. Mở ra về phía nhân loại, một nhân loại từ nay không còn bị phân hoá giữa sang nghèo, lương giáo. Mở ra về phía lịch sử, một lịch sử từ nay tuy vốn còn cơ chế, nhưng biết quan tâm tới ý nghĩa của các biến cố bất ngờ.
Một nét đẹp chung của các nhóm cộng tác này là gắn bó với Lời Chúa. Tất nhiên mỗi nhóm mỗi người có những mức độ khác nhau riêng tư của mình.
Những người gắn bó với Lời Chúa.
Họ tỉnh thức lắng nghe Lời Chúa. Họ tỉnh thức đón nhận ý Chúa. Ý Chúa được gởi đến họ qua Kinh Thánh, lời các thiên thần nói trực tiếp, các dấu chỉ xung quanh và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần bên trong nội tâm.
Họ thực thi ý Chúa một cách thông minh. Thông minh ở chỗ biết tiên liệu với những dự báo dự kiến và dự án. Thông minh ở chỗ biết ứng phó với các tình huống khác nhau một cách linh động và sáng tạo. Thông minh là biết tra cứu, tìm tòi, tận dụng mọi tiềm năng của hiện tại, chọn lựa cách tốt hơn để phục vụ Tin Mừng.
Họ sống Lời Chúa một cách vị tha. Có nghĩa là, khi Lời Chúa được hiểu là chính Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa nhập thể, thì sống Lời Chúa đối với họ là sống chính sự sống của Chúa Giêsu. Họ gắn bó với Chúa Giêsu, không phải vì những ân huệ Chúa ban cho họ, nhưng chỉ vì Người là Chúa của họ, Đấng họ yêu mến tôn thờ. Nếu tách biệt các ân huệ được trao ban với chính Đấng trao ban, thì phải nói: Họ gắn bó với chính Đấng trao ban, cho dù có lúc Người chậm trao ban, hay không trao ban những gì họ muốn.
Vì thế, họ sống Lời Chúa với tâm tình tạ ơn, ngợi khen, ca tụng hơn là với những lời xin ơn này ơn nọ, mặc dù những lời xin như thế là chính đáng.
Hơn nữa, họ sống Lời Chúa, với sự nhận lấy trách nhiệm. Trách nhiệm về một sự tín trung và một sự hiến dâng chính mình. Bởi vì họ biết: Chúa là Đấng đã ban tặng chính mình cho họ, thì tín trung với Người là một trách nhiệm lớn lao và hiến dâng mình để minh chứng tình yêu là một danh dự cao cả.
Từ những kinh nghiệm gắn bó với Lời Chúa, họ trở thành những người biết đối thoại về một số vấn đề quan trọng.
Những người biết đối thoại với đồng bào nhân loại.
Mỗi nhóm, mỗi người sẽ có những đối thoại khác nhau, với trình độ hiểu biết khác nhau. Nhưng nói chung, đối thoại của họ có những nét giống nhau.
Sẽ có nhiều vấn đề được đặt ra để đối thoại. Như vấn đề Thiên Chúa, vấn đề ý nghĩa cuộc đời, vấn đề cứu độ. Đối với những nhóm cộng tác của Chúa tại hang đá Bêlem, đối thoại về các vấn đề như thế sẽ là kể lại. Kể lại những gì mắt mình đã thấy, tai mình đã nghe, bản thân mình đã gặp, lòng mình đã cảm nghiệm. Kể ra những kinh nghiệm ấy sẽ không đơn thuần chỉ là thuật lại những diễn biến tự nhiên, nhưng là những kinh nghiệm có một bề dày của Kinh Thánh, và có sự can thiệp của Thiên Chúa.
Thí dụ khi đối thoại về Thiên Chúa, thì họ sẽ kể lại về một Thiên Chúa gần gũi, nhân lành, khiêm tốn, yêu thương, mà họ đã gặp.
Khi đối thoại về ý nghĩa cuộc đời, thì họ sẽ kể lại về một ý nghĩa đẹp nhất của đời họ, đó là đón nhận được Thiên Chúa vào đời họ, để họ sống làm người phục vụ theo mẫu gương Đức Kitô làm người, mà họ đã gặp.
Khi đối thoại về sự cứu độ, thì họ sẽ kể lại sự cứu độ như một sự đổi mới  chính mình, để trở nên người con ngoan của Thiên Chúa, nhờ một Đấng cứu thế, mà họ đã gặp.
Như vậy, đối thoại nào của họ cũng qui chiếu vào Tin Mừng là chính Đức Kitô, mà họ đã nhận ra và đã đón nhận.
Những đối thoại như thế chính là những trao đổi mang tính cách thanh luyện lòng đạo, để lòng người trở về với chính Đức Kitô là nền tảng.
Đó cũng là những chia sẻ mang tính cách truyền giáo đích thực, để truyền giáo trở về với Đức Kitô là chính Tin Mừng.
Đôi khi đối thoại của họ chỉ là một sự hiện diện có trách nhiệm, vì sự hiện diện của họ toả sáng ra sự sống của Đức Kitô.
***
Hôm nay nhìn vào các người cộng tác với Chúa tại hang đá Bêlem, tôi tự hỏi mình. Tôi đã cộng tác thế nào trong chương trình cứu độ của Đấng cứu thế. Mong rằng câu hỏi của tôi cũng là câu hỏi của mỗi người. Mình tự hỏi mình. Chính Chúa cũng hỏi mỗi người chúng ta. Nên coi đó như là một lá thư nhỏ Chúa gởi tới chúng ta, dịp Noel này.
Tại đây, một địa điểm nghèo như Bêlem giữa vùng lũ lụt, tôi đang nhận được nhiều trả lời của các nhóm cộng tác viên. Nhiều nhóm gia đình thánh. Nhiều nhóm dân nghèo. Nhiều nhóm người lương. Tất cả đều khát khao một Đấng cứu độ. Tất cả đều luôn sẵn sàng đón nhận một Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót.
Nhưng thái độ khát khao và sẵn sàng đón nhận như thế của nhiều nhóm khác nhau đang làm nên một bài hoà âm dạt dào và tha thiết. Phải chăng đó là một dấu chỉ tốt mang hy vọng Noel của Năm Thánh này.
Long Xuyên, ngày 6-12-2000

 

Bùi-Tuần 782: NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HOÁ 10-12-2000

Một trong những điều tôi khao khát trong Năm Thánh này là phấn đấu nâng cao trình độ văn: 10-12-2000 Bùi-Tuần 782

Một trong những điều tôi khao khát trong Năm Thánh này là phấn đấu nâng cao trình độ văn hoá cho mình và cho những người thuộc về mình.
Động lực khiến tôi khao khát điều đó là vì thấy bầu khí văn hoá đang giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc đổi mới con người, xã hội và tôn giáo. Năm Thánh nhắm đổi mới, nên chúng ta tất nhiên phải chú trọng đến sự kiện văn hoá có sức đổi mới.
Vài nhận xét.
Thực vậy, nhiều lương tâm tín hữu đã thay đổi, xấu ra tốt, tốt thành xấu, không do những gì họ tin, mà do ảnh hưởng bầu khí văn hoá nơi họ sống. Cụ thể là bầu khí văn hoá trong gia đình, trong xóm, trong cộng đoàn, trong địa phương, trong nhà thờ và khu vực nhà thờ.
Địa phương tôi có nhiều tôn giáo mạnh, các tín đồ giữ đạo sốt sắng. Nhiều người đã gây được ảnh hưởng tốt, uy tín cao, cảm tình lớn. Nguyên do không phải vì những cử hành tuyên xưng đức tin của họ, mà do những gì thuộc đời thường của họ. Đời thường của họ làm nên một nếp sống văn hoá mang chiều kích thiêng liêng, toả hương thơm thiêng liêng, có sức mạnh thiêng liêng giúp các lương tâm phát triển theo hướng tốt.
Những nhận xét trên đây gợi ý cho tôi suy nghĩ về điều cần  làm trong việc nâng cao trình độ văn hoá.
Nâng cao trình độ văn hoá ở đây không phải là lưu trữ những kết quả của văn hoá truyền thống trong nhà truyền thống, thư viện và bảo tàng. Cũng không phải là diễn tả các giá trị truyền thống qua lễ nghi và nghệ thuật. Nhưng là tìm tòi, sáng tạo nên tâm thức mới, khả năng mới, lương tâm mới cho văn hoá mới.
Xin phép đưa ra vài ví dụ.
Những cái mới.
Hiện nay, phần đông đồng bào Việt Nam ta rất nhạy bén với những giá trị nội tâm. Họ trân trọng những nét tu thân. Họ quí mến những dấn thân cho lợi ích chung địa phương và dân tộc. Họ tự hào với nền độc lập của đất nước. Ai thấy như vậy, để rồi đem những giá trị nội tâm, tu thân và dấn thân tự hào dân tộc vào nếp sống văn hoá đời thường của mình, người ấy sẽ là người có tâm thức mới. Với tâm thức mới này, nếp sống văn hoá của họ sẽ là một thông tin sống động có lợi cho họ nói riêng và cho cộng đoàn của họ nói chung.
Hiện nay, xem ra ai cũng ý thức rằng: Để cá nhân mình, gia đình mình, cộng đoàn tôn giáo mình có thể phát triển được, thì phải ý thức mình là một thành phần của toàn thể đất nước, nên dứt khoát phải biết sống có trách nhiệm với xã hội. Phải coi việc xây dựng các liên hệ tốt với địa phương, với đất nước, với các tôn giáo bạn là một bổn phận thiêng liêng. Phải coi thái độ sống liên đới với các vấn đề chung xã hội là một đòi hỏi đạo đức. Ai nhận ra như vậy và thực hiện như vậy trong nếp sống văn hoá đời thường của mình, sẽ là người có lương tâm mới. Với lương tâm mới này, nếp sống văn hoá của họ sẽ tạo cho họ một chỗ đứng được vị nể trong quần chúng.
Hiện nay, khắp nơi đều coi việc đào tạo trí thức là hết sức quan trọng. Ai nhận ra hiện tượng đó, để rồi phấn đấu tự đào tạo mình nên người trí thức, với những hiểu biết rộng, hiểu biết sâu, hiểu biết đúng, hiểu biết mới, hiểu biết đẹp, hy vọng người đó sẽ có nhiều khả năng mới trong phục vụ. Nhất là, khả năng biết yêu thương mọi người như Chúa yêu thương chúng ta, và khả năng biết nhận ra sự thật của thánh ý Chúa giữa những hoàn cảnh đầy phức tạp. Với những khả năng mới này, họ góp phần sáng tạo nên những phong cách mới, bản  lĩnh mới cho nền văn hoá mới.
Vài thoáng nhìn trên đây chỉ là bước khởi đầu cho những suy nghĩ cần được tiếp tục, để nâng cao trình độ văn hoá.
Những tìm tòi sẽ được tiếp tục theo hướng nâng cấp nếp sống văn hoá đời thường, sao cho nếp sống văn hoá đời thường ấy truyền tải được nhiều giá trị luân lý, nhiều giá trị đạo đức thánh thiện, nhiều giá trị thiêng liêng.
Văn hóa đời thường.
Thông thường trình độ văn hoá được nhận ra qua những chi tiết đời thường. Mỗi người đều có một đời thường được dệt bằng nhiều chi tiết nhỏ. Như cách dùng thời giờ, tiền của và địa vị, cách phục vụ và tiếp xúc, cách suy nghĩ và lý luận, cách đánh giá và nhận định, cách lựa chọn, cách lắng nghe, cách đón nhận, cách trình bày, cách đi đứng, cách ăn uống, cách nói, cách cười...
Những  chi tiết nhỏ như trên của từng người tự nó nói lên trình độ trí thức và trình độ phát triển hoặc xuống dốc của chính họ về đạo đức nhân bản, đạo đức tôn giáo và đạo đức Phúc Âm. Những chi tiết nhỏ đó cũng tự nó góp phần tạo nên bầu khí văn hóa cộng đoàn. Để rồi bầu khí văn hóa cộng đoàn dần dà trở thành một cơ chế tâm lý, xã hội. Cơ chế  này rất ảnh hưởng đến sự tồn vong, suy thịnh của đất nước và Hội thánh.
***
Với những học hỏi trên đây, tôi nhìn vào Đức Giêsu tại Nagiarét. Suốt 30 năm đời thường , Người “ lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Chúa” (Lc 2,40). Tôi khao khát một sự phát triển như thế về văn hóa đời thường của mỗi người chúng ta.
Long Xuyên, tháng 12-2000

 

Bùi-Tuần 783: LỜI HỐI THÚC CỦA NĂM THÁNH 15-12-2000

Năm Thánh 2000 nhắm vào biến cố Ngôi Lời giáng sinh. Ngoài mục đích tạ ơn Thiên Chúa: 15-12-2000 Bùi-Tuần 783

Năm Thánh 2000 nhắm vào biến cố Ngôi Lời giáng sinh. Ngoài mục đích tạ ơn Thiên Chúa, tôi còn nhắm mục đích đưa biến cố giáng sinh vào thời sự cứu độ của hôm nay, và cũng để tìm kiếm những luồng gió mới của Thiên Chúa cho tương lai Hội Thánh chúng ta.
Với những thao thức như thế, tôi cầu xin Chúa ơn được nhận ra thánh ý Chúa và biết đón nhận thánh ý Chúa. Tôi lắng nghe và thấy  ba hối thúc sau đây.
I. Hãy nhìn Thiên Chúa đúng với chân lý mạc khải.
Chúa Giêsu đã mạc khải về Thiên Chúa Cha (Ga 1,18). Người đã mạc khải qua chính bản thân Người và cuộc đời Người. Nhất là trong biến cố giáng sinh.
Tất cả những gì thuộc về Chúa Giêsu đều mạc khải một Thiên Chúa tình yêu (1Ga 4,8). Một tình yêu cho đi chính mình. Một tình yêu dâng hiến. Một tình yêu chấp nhận khó nghèo, từ bỏ mình, khiêm tốn, âm thầm, để đến với loài người và ở lại giữa loài người. Sự sống Thiên Chúa là tình yêu.
1. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu cứu độ. Đến nỗi, Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình, làm giá cứu chuộc cho nhân loại, một nhân loại có nhiều người tội lỗi, lầm lạc, nghèo khổ và bế tắc (Ga 10,1-18; 1Ga 4,10).
2. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu khiêm tốn. Đến nỗi, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không tranh đấu để được ngang hàng với Chúa Cha, nhưng đã tự nguyện hạ mình xuống, trở nên con người, trong thân phận yếu đuối, chỉ trừ tội lỗi, để được hoà mình với nhân loại trôi nổi giữa dòng đời phức tạp (2Cor 8,9).
3. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu dành ưu tiên cho những kẻ bé mọn. Đến nỗi Chúa Giêsu đã đồng hóa chính mình với kẻ nghèo khó bé mọn. Người khẳng định là: Khi phục vụ những kẻ bé mọn, thiếu thốn, thì được kể như phục vụ chính Người. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng đã dành ơn gọi đặc biệt cho những kẻ bé mọn. Người khen ngợi những kẻ bé mọn chính là những người được Thiên Chúa chọn để mạc khải cho những điều bí nhiệm về Nước Trời (Mt 25; Mt 11).
4. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu bao dung tha thứ. Đến nỗi,  dù bị đối xử tàn tệ, Chúa Giêsu vẫn nhìn những kẻ hành hạ Người với cái nhìn yêu thương. Ngài còn bầu cử với Đức Chúa Cha, xin ơn tha thứ cho họ (Lc 23,34).
5. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu thăng tiến. Đến nỗi, Chúa Giêsu đã không ngại hy sinh chính bản thân mình, để đem lại cho con người sự sống thực sự dồi dào. Người nâng họ lên địa vị con cái Thiên Chúa, để sau cùng họ được về chung hưởng hạnh phúc với chính Thiên Chúa (Rm 8,29; 1Ga 3,1).
6. Sự sống của Thiên Chúa là tình yêu khổ đau gắn liền với thánh giá. Đến nỗi, Chúa Giêsu chấp nhận mọi khổ đau để đi tìm những người bị xã hội ruồng bỏ loại trừ, để nâng họ lên, để kính trọng họ, để giúp họ tìm lại được nhân phẩm, và được hội nhập vào cộng đoàn những người con tự do của Chúa (1Cor 2,1-15).
Hồi đó, hình ảnh một Thiên Chúa do Chúa Giêsu mạc khải như thế đã bị nhiều người chê chối. Theo thánh Phaolô kể lại, thì dân Do Thái cho đường hướng của tình yêu Thiên Chúa chấp nhận thánh giá là một lựa chọn gây gương xấu. Còn dân Hy Lạp thì cho đó là một chọn lựa dại khờ (1Cor 1,23-24).
Thiết tưởng thời nay cũng thế thôi. Người ta vẫn quen tạo ra những hình ảnh về Thiên Chúa hợp với khuynh hướng ưa quyền lực vinh quang kiểu trần thế. Rồi từ những hình ảnh sai lạc đó, người ta nhìn Thiên Chúa với một chân dung bị tục hoá hoặc bị chính trị hoá.
Vì thế, mà cần phải tìm lại chân dung Thiên Chúa theo đúng chân lý mạc khải. Xin nói ngay là việc làm đó sẽ không dễ. Một phần là công việc đó đòi phải học Phúc Âm đến nơi đến chốn. Một phần công việc đó đòi phải có một đức tin sống động. Nghĩa là đức tin cộng với ơn Chúa Thánh Thần và các kinh nghiệm bản thân. Dù trong hoàn cảnh nào, nền tảng làm nơi xuất phát mọi khởi đầu và khởi đầu lại việc đi tìm chân dung Thiên Chúa vẫn là lòng khiêm tốn.
II. Hãy tìm cách làm chứng cho Chúa đúng với chân lý mạc khải.
Làm chứng cho Chúa, đó là một cách thờ phượng Chúa và cũng là một cách truyền giáo, mà hiện nay đang thấy rộ lên dưới nhiều hình thức. Thực ra, trên thực tế có làm chứng và cũng có phản chứng. Để được an tâm tối đa trên đường làm chứng cho Chúa, thiết tưởng chúng ta hãy tìm cách nào đúng nhất với chân lý mạc khải.
Những cách làm chứng đúng nhất với chân lý mạc khải là những cách sau đây:
1. Hãy bắt chước gương mẫu Chúa Giêsu. “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15).
2. Hãy bước theo Chúa Giêsu. “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37). “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
3. Hãy sẵng sàng tham dự vào số phận của Chúa Giêsu. “Hãy nhớ lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,20).
4. Nhất là hãy sống chính sự sống của Chúa Giêsu: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Giêsu sống trong tôi” (Ga 2,20).
Sự sống của Chúa Giêsu là tình yêu như đã được mạc khải. Kinh nghiệm cho thấy: Nếu trong đời sống thường ngày, chúng ta sống đúng sự sống tình yêu của Chúa Giêsu, thì đó là chúng ta làm chứng cho Chúa một cách hữu hiệu nhất.
Thánh Phaolô rất xác tín điều đó, nên ngài đã khẳng định sự quan trọng tuyệt đối của tình yêu trong các hoạt động đạo đức. Nếu làm được đủ mọi thứ đạo đức lạ lùng, anh dũng, nhưng thiếu tình yêu, thì cũng kể như không. “Giả như tôi nói được các thứ tiếng... kể cả các thứ tiếng thiên thần.... Giả như tôi được ơn tiên tri... Giả như tôi đem hết tài sản cơ nghiệp ra mà bố thí, hay nộp thân xác tôi, để chịu thiêu đốt, mà nếu tôi không có tình yêu đức ái, thì cũng chẳng ích gì” (1Cor 13).
Lời thánh Phaolô trên đây là một xác định mạnh mẽ, rất cần được nhắc đi nhắc lại cho hết thảy chúng ta.
Đang khi nhiều người ngoài công giáo biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, đang dấn thân rao giảng và làm chứng cho tình yêu hoà giải, tình yêu cứu độ, tình yêu thăng tiến, thì không thiếu người công giáo lại gieo rắc hận thù, ghen ghét, chia rẽ nhân danh đạo Chúa. Đó là một phản chứng đang làm suy yếu Hội Thánh.
 
  1.   Hãy cộng tác vào việc đào tạo những cộng đoàn đúng với chân lý mạc khải.
Đào tạo những cộng đoàn, đó là việc Chúa Giêsu đã rất quan tâm. Cộng đoàn nơi đây được hiểu là những người qui tụ xung quanh Chúa Giêsu. Có cộng đoàn đông người, có cộng đoàn ít người. Nhưng tất cả đều ý thức mình được sai đi.
Sự sai đi của họ là một tham dự vào sự sai đi của Chúa Giêsu. Ai sai đi, sai đến với ai, để làm gì, thì lời Kinh Thánh sau đây nói rõ: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho kẻ mù loà biết họ được sáng, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Chúa Giêsu đào tạo các nhóm truyền giáo của Người một cách sát thực tế như:
- Giúp họ quan sát thực tại (Mc 8,27-29; Ga 4,35; Mt 16,1-3).
- Giúp họ phân định (Mc 9,28-29)
- Giúp họ đối diện với những nhu cầu của dân chúng (Ga 6,5).
- Giúp họ biết suy nghĩ các vấn đề thời cuộc đặt ra  (Lc 13,1-5).
- Giúp họ sửa sai (Lc 9,46-48).
- Giúp họ biết tỉnh thức và cầu nguyện (Mt 6,5-15).
- Giúp họ tập sống tình huynh đệ (Mt 23,8-10).
- Giúp họ biết chia sẻ của cải (Mc 10,28).
- Giúp họ coi quyền bính là phục vụ (Lc 22,25-26).
- Giúp họ biết tha thứ và hoà giải (Ga 20,23; Mt 18,18).
Trên đây chỉ là một ít việc của chương trình đào tạo cộng đoàn, trích ra từ mạc khải Phúc Âm.
***
Năm Thánh 2000 sắp đến ngày bế mạc. Đang khi đó Đất Thánh nơi Chúa Giêsu sinh ra, và được tưới bằng máu Chúa cứu thế, lại đang là nơi diễn ra hận thù. Và đang khi đó, nhiều cộng đoàn lớn Kitô giáo, như nhiều nước công giáo, nhiều vùng công giáo, lại đang rất dửng dưng với những huấn giáo về luân lý và bí tích. Và đang khi đó, tình hình phát triển đạo tại Việt Nam chúng ta cũng đang bị tinh thần cục bộ và phong trào tục hoá chi phối một cách đáng kể.
Ánh sáng và bóng tối đang tranh giành bầu trời Năm Thánh. Trước tình hình đó, chúng ta hãy làm bổn phận của chúng ta. Bổn phận của chúng ta là xem xét lại chính mình. Vấn đề lớn của chúng ta là chính bản thân ta.
Mong rằng mấy gợi ý trong bài chia sẻ này sẽ giúp phần nào mỗi người chúng ta trong việc suy nghĩ vấn đề lớn của chính mình.
Long Xuyên, tháng 12-2000

 

Bùi-Tuần 784: CỘNG TÁC BẰNG TĂNG CƯỜNG CẦU  NGUYỆN

VÀ QUẢNG ĐẠI HY SINH 17-12-2000
 

Đã từ nhiều năm nay, giáo xứ Thạnh An đã được chọn, để thực hiện nhiều gặp gỡ quan trọng: 17-12-2000 Bùi-Tuần 784

Đã từ nhiều năm nay, giáo xứ Thạnh An đã được chọn, để thực hiện nhiều gặp gỡ quan trọng khác nhau. Gặp gỡ giữa các linh mục tu sĩ. Gặp gỡ giữa các hội đồng giáo xứ. Gặp gỡ giữa các vị có trách nhiệm đời đạo thuộc nhiều cấp bậc. Gặp gỡ giữa các đoàn khách với địa phương. Gặp gỡ giữa các Giám Mục và các thành phần Hội Thánh.
Những gặp gỡ này đã đem lại nhiều lợi ích về mục vụ, truyền giáo và xã hội. Vì thế, tôi coi giáo xứ Thạnh An nói chung và khu nhà thờ Thạnh An này nói riêng là một điểm hẹn quan trọng đáng tin cậy.
Với cái nhìn đó, hôm nay tôi tiếp tục đặt sự tín nhiệm của tôi vào giáo xứ Thạnh An, đặc biệt là nơi Cha Sở của giáo xứ. Sự tín nhiệm của tôi được gói ghém trong mấy nhắn nhủ sau đây về sự cộng tác với giáo phận.    
1. Xin hãy phát triển cộng tác bằng sự tăng cường cầu nguyện.
Tôi coi việc cầu nguyện là việc căn bản của người con Chúa. Thực vậy, chúng ta vào Hội Thánh, không phải chỉ để trở nên thành phần của Hội Thánh, nhưng nhất là để trở nên người con tốt lành của Chúa. Muốn càng ngày càng trở nên người con xứng đáng của Chúa, chúng ta phải cố gắng đổi mới chính mình, tham dự vào sự sống của Chúa, kết hợp với Chúa.
Những việc như vậy sẽ được thực hiện nhất là nhờ cầu nguyện. Cầu nguyện nói đây phải có chất lượng. Cầu nguyện có chất lượng là cầu nguyện Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Cầu nguyện như thế sẽ đi kèm với sự suy ngắm và chiêm niệm, để rồi sẽ như nhìn Chúa bằng đức tin và bằng tình yêu đơn sơ , trọn vẹn. Chính qua con đường cầu nguyện như thế, chúng ta sẽ đón nhận được kho tàng chân lý và tình yêu dành cho người con ngoan của Chúa.
Tôi thấy hiện nay nhiều người công giáo rất hăng say với các hoạt động tôn giáo và xã hội. Điều đó tốt. Nhưng vì thiếu cầu nguyện, các hoạt động đó không sinh được những kết quả thiêng liêng mong đợi, chính bản thân những người đó cũng dần dần bị kiệt quệ cằn cỗi về đời sống nội tâm. Thực rất đáng tiếc. Cần phải sửa lại sự đáng tiếc đó. Hãy trở về cầu nguyện, hiệp nhất với Chúa Giêsu đang khẩn khoản cầu xin cho chúng ta ở trên trời. (Dt 7,25).
2. Cùng với sự tăng cường cầu nguyện, xin hãy phát triển cộng tác bằng việc chấp nhận những thánh giá một cách quảng đại hơn.
Thời nay hơn bao giờ hết, quyền lực của sự dữ đang tràn lan rất rộng, rất mạnh và rất sâu. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu nói xưa: “Đây là giờ của quyền lực những bóng tối” (Lc 22,53). Người con của Chúa có nhiệm vụ phải phấn đấu đẩy lùi bóng tối. Bằng khí giới nào? Thưa bằng thánh giá. Chúa Giêsu đã vác thánh giá và chịu đóng đinh trên thánh giá. Từ đó, Người đã chiến thắng ma quỉ và tội lỗi. Chúng ta sẽ được tham dự vào chiến thắng đó, nếu chúng ta cũng góp phần vào việc vác thánh giá và chịu đóng đinh một cách nào đó trên thánh giá.
Thánh giá của chúng ta là những từ bỏ mình, những vất vả nhọc nhằn, những phấn đấu nội tâm, những thiếu thốn, những bệnh tật, những mâu thuẫn trong cuộc đời. Thánh giá của chúng ta là những cố gắng học hành, tìm tòi, tập luyện, để phát triển toàn diện chính mình và phát triển gia đình, phát triển đất nước và Hội Thánh. Thánh giá của chúng ta là những hy sinh phải có để chu toàn bổn phận.
Bổn phận nào cũng đòi phải làm mọi sự theo thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là Chúa Giêsu trở thành sự sống trong chính chúng ta. Thánh ý Chúa là Chúa Giêsu toàn thắng trong chính chúng ta. Những điều thánh ý Chúa muốn như thế sẽ không bao giờ thực hiện được, nếu chúng ta không chấp nhận thanh luyện mình bằng các hy sinh lớn nhỏ.
***
Tăng cường cầu nguyện và quảng đại hy sinh, đó là hai nhắn nhủ vắn tắt tôi gởi tới anh chị em hôm nay. Đó chỉ là sứ điệp của Phúc Âm.
Để hiểu sứ điệp Phúc Âm này, nhất là để thi hành sứ điệp Phúc Âm này, chúng ta rất cần ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu hứa: Thầy sẽ sai Thánh Thần đến. Thánh Thần là Đấng an ủi và là sức mạnh. Đấng sẽ soi sáng dạy dỗ (x. Ga 14,16).
Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ cùng nhau tăng cường cầu nguyện và quảng đại hy sinh. Cùng nhau có nghĩa là trong tinh thần hiệp nhất và yêu thương . Cùng nhau có nghĩa là với ý chí phục vụ lẫn nhau và xây dựng lẫn nhau. Cùng nhau có nghĩa là nhờ sự nâng đỡ của nhau vì cùng được sai đi như nhau, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Tôi thiết nghĩ: Với những ơn Chúa ban hôm nay, chúng ta có quyền vui. Vui, bởi vì tin rằng: Chúa đến viếng thăm chúng ta. Và vui, bởi vì hy vọng rằng tên chúng ta được ghi trên trời, như những người con của Chúa, được Chúa thương, được Chúa chọn, được Chúa tín nhiệm, được Chúa sai đi.
Lễ Thêm sức tại nhà thờ Thạnh An, ngày 17-12-2000

 

Bùi-Tuần 785: NHỮNG VẺ ĐẸP CỨU ĐỘ 21-12-2000

Lễ Giáng Sinh
GB. Bùi Tuần
 

Đã từ lâu, trên hầu khắp thế giới, truyền thống tôn giáo và văn hoá đã làm cho lễ Noel trở: 21-12-2000 Bùi-Tuần 785

Đã từ lâu, trên hầu khắp thế giới, truyền thống tôn giáo và văn hoá đã làm cho lễ Noel trở thành một dịp đặc biệt, để hội tụ các vẻ đẹp và giao lưu các vẻ đẹp.
Thực vậy, chúng ta đang thấy: Có thêm nhiều vẻ đẹp trong nhà thờ và khuôn viên nhà thờ. Có thêm nhiều vẻ đẹp trong các gia đình. Có thêm nhiều vẻ đẹp trong các phố phường, làng mạc. Có thêm nhiều vẻ đẹp trong các thư từ. Có thêm nhiều vẻ đẹp trong các gặp gỡ. Nhất là có thêm nhiều vẻ đẹp trên các con người.
Khi mừng Sinh nhật Đấng Cứu thế, mà thấy nở rộ những vẻ đẹp khác nhau như thế, người ta có cảm tưởng: Những vẻ đẹp đóng góp một phần không nhỏ trong việc cứu độ. Tôi cũng cảm nghĩ  như vậy. Hơn nữa tôi dám nghĩ rằng: Nhân loại sẽ được cứu độ nhờ một số những vẻ đẹp có chất lượng cao. Cảm nghĩ trên đây của tôi đang mạnh lên trong dịp Noel này, khi tôi đón mừng Noel tại một địa phương vẫn còn mang nhiều vết thương do lũ lụt gây ra.
Hôm nay tại địa phương bị lũ lụt tàn phá này, những vẻ đẹp mà tôi cho là có sức cứu độ sẽ là những vẻ đẹp nào? Thưa là:
Sự gần gũi vốn có giữa người lương và người giáo nay đậm đà hơn,
Tình liên đới vốn có giữa nông thôn và thành thị nay sâu đậm hơn,
Trách nhiệm chia sẻ vốn có giữa người giàu người nghèo nay thiết thực hơn,
Các sợi dây tình nghĩa an bình vốn có giữa các gia đình, khu xóm nay sống động hơn.
Phải nhìn nhận rằng: Các vẻ đẹp trên đây là những  giá trị đạo đức, mang chiều kích thiêng liêng.
Cho dù yếu ớt, chúng vẫn là những tia sáng đến từ mặt trời tình yêu cao xa.
Cho dù mong manh, chúng vẫn là những dòng nước tìm về một biển cả tình yêu bao la.
Cho dù nhẹ nhàng, chúng vẫn là những mời gọi đi tìm một nguồn mạch tình yêu bất tận.
Đâu là mặt trời tình yêu, đâu là biển cả tình yêu, đâu là nguồn mạch tình yêu? Với đức tin và kinh nghiệm tôi xin trả lời: Đó là Thiên Chúa.
Bản tính của Thiên Chúa là tình yêu. Biến cố Noel là một chứng từ. Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người, mang tên là Giêsu. Người đến để cứu độ bằng cách làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Người đến với chúng ta. Người chia sẻ thân phận của chúng ta. Chính bản thân Người là một quà tặng gởi đến chúng ta.
Đón nhận Người là đón nhận mặt trời tình yêu, đón nhận biển cả tình yêu, đón nhận suối nguồn tình yêu.
Khi đón nhận Người và ở lại trong tình yêu của Người, chúng ta sẽ được biến đổi từ cái tâm thẳm sâu của chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ có nhiều đổi mới trong cái nhìn, trong lựa chọn, trong hướng sống, trong lời nói, trong hoạt động và trong các tương quan.
Bấy giờ, vẻ đẹp trong chúng ta sẽ giống vẻ đẹp của Chúa Giêsu trong hang đá Bêlem. Đó là: Vì yêu thương mà dám chấp nhận đau thương để được gần những người nghèo hèn. Vì yêu thương mà dám chia sẻ những vết thương của thân phận các người khốn khổ. Vì yêu thương mà dám gánh những cảnh tang thương thay cho những kẻ khốn cùng.
Đó là những vẻ đẹp có sức cứu độ. Giờ đây, chúng ta sẽ làm gì, để đón nhận Chúa Giêsu và để được những vẻ đẹp cứu độ với chất lượng cao giống như Người? Thưa hãy khiêm tốn cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Khiêm tốn cầu nguyện là tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu mà chúng ta không đáng được.
Khiêm tốn cầu nguyện là ca ngợi Chúa vì Người đã ban cho bao người và chính chúng ta  được một số vẻ đẹp cứu độ, mặc dù những vẻ đẹp đó còn non yếu.
Khiêm tốn cầu nguyện là hiệp thông với sự vâng phục ý Chúa Cha nơi Chúa Giêsu đầy Thần Linh yêu thương. Nhờ vậy chúng ta sẵn sàng dấn thân xây dựng hoà bình, gieo rắc tình thương, mặc dù chúng ta là những dụng cụ hèn yếu.
Khiêm tốn cầu nguyện là cùng với Đức Mẹ và thánh Giuse trong hang đá Bêlem, gắn bó với Chúa Giêsu, hiến dâng mình với Chúa Giêsu, hăng say phục vụ con người  bằng các việc nhỏ bé nhưng chan chứa tình thương, bằng các hy sinh lặng lẽ nhưng đầy ắp ơn sủng cứu độ.
Thiết tưởng đó là những vẻ đẹp có sức cứu độ.
Xin thân ái cầu chúc mọi người và từng người tăng triển nhiều vẻ đẹp cứu độ, hợp với mẫu gương của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ của chúng ta.
Long Xuyên, ngày 21 tháng 12 năm 2000

 

Bùi-Tuần 786: BẢN THÂN HÃY LÀ THÁNH LỄ 26-12-2000

Anh chị em thân mến,
 

Sứ mạng của mỗi người chúng ta tại đây, lúc này, có một ý nghĩa cao đẹp. Ý nghĩa đó là để cầu: 26-12-2000 Bùi-Tuần 786

Sứ mạng của mỗi người chúng ta tại đây, lúc này, có một ý nghĩa cao đẹp. Ý nghĩa đó là để cầu nguyện cho bà cố Anna và để tiễn biệt bà cố Anna. Chúng ta thực hiện những điều đó trong tình yêu đối với bà cố, đối với gia đình bà cố, nhất là đối với cha Tùng con của bà cố. Bà cố Anna đã qua đời trong dịp lễ Chúa giáng sinh, đây là biến cố thầm lặng,  mà tôi cho là một lời nhắn nhủ Chúa muốn gởi tới chúng ta.
 Chúa nhắn nhủ  rằng: Khi Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế được sinh vào đời này,  thì Người đã dâng lên Chúa Cha rất nhiều tình yêu thương mến và rất nhiều hy sinh. Bà cố Anna khi được sinh vào sự sống đời sau, cũng đã dâng lên Thiên Chúa nhiều yêu thương và nhiều hy sinh. Yêu thương là yêu mến Chúa Cha, là yêu thương những kẻ thuộc về mình. Hy sinh là hy sinh vì Chúa, hy sinh cho các linh hồn. Vì vậy tôi coi  yêu thương và hy sinh là hai vẻ đẹp cân bằng, để Đức Kitô giới thiệu chân dung cứu thế  của mình, làm cho cuộc đời cứu thế  của mình có ý nghĩa.
Cũng vậy, chính hai nét  yêu thương và hy sinh là những nét làm cho bà cố, cũng như những ai được nhận làm con Chúa trong Đức Kitô, làm cho mình thành người giống Đức Kitô,  làm cho đời mình có ý nghĩa. Với nhận định đó,  tôi nhìn vào bà cố Anna, tôi nhận thấy những vẻ đẹp vừa nói trên. Tuy sự yêu thương của bà cố  rất lặng lẽ âm thầm, nhưng nó có một đặc sắc này,  là tham dự vào những yêu thương của Đức Kitô, nhờ đức tin của mình, nhờ lòng mến của mình. Rồi những hy sinh của bà cố trong sự âm thầm lặng lẽ, nhưng có một nét đặc sắc đó la, nhờ đức tin, nhờ đức mến mà  tham dự vào hy sinh của Đức Kitô. Chính vì thế, những yêu thương thầm lặng, những hy sinh lặng lẽ, của người con Chúa trong Đức Kitô, đã có gía trị giá trị cứu độ. Đây là những giá trị đóng góp vào  sự cứu độ của Đức Kitô. Không những nó rất qúi giá mà còn là rất cần thiết. Chúa cứu độ chúng ta, nhưng Chúa muốn cho chúng ta cộng tác vào, đóng góp vào, tham gia vào công trình cứu độ của Chúa.
Hiện nay, chúng ta thường tham gia vào sự cứu độ của Chúa bằng những thánh lễ. Thánh lễ trên bàn thờ và thánh lễ trên chính bản thân mình. Thánh lễ trên bàn thờ như chúng ta đang dự đây, là công bố Lời Chúa, đọc lên Lời Chúa, tạ ơn Chúa và những lễ nghi cần thiết trong cầu nguyện. Nhưng những lễ nghi, thánh lễ trên bàn thờ là chính thân mình  cũng đóng góp rất nhiều, thánh lễ bản thân mình  là rất cần thiết mà hiện nay  Chúa mời gọi. Thánh lễ bản thân chúng ta đây không phải chỉ việc thực hiện cho hoàn tất như thánh lễ bàn thờ, bằng sự  công bố Lời Chúa, mà phải thực hiện bằng sự sống Lời Chúa,  bằng sự gẫm suy Lời Chúa, bằng sự thực hiện Lời Chúa từng giờ, từng ngày, suốt đời mình. Đó là thánh lễ kéo dài  trong một thời gian mà chúng ta không biết được. Thánh lễ bản thân  mình, đó là một điều mà giờ đây, tôi nghĩ  là cách mời gọi tha thiết, khẩn thiết, Chúa chờ đợi chúng ta.  Nếu chúng ta chỉ tham dự  công cuộc của  Đức Giêsu cứu độ bằng thánh lễ bàn thờ, như bây giờ, thì cũng tốt. Nhưng điều Chúa rất muốn là chúng ta phải tham dự như bà cố đây, bằng thánh lễ bản thân mình, trải dài qua từng nhiều năm từng nhiều tháng, được thực hiện bằng những việc yêu thương bé nhỏ, âm thầm, nhưng có chất lượng  do đức tin, do lòng mến.
Tôi nghĩ  rằng, để cứu Hội Thánh Việt Nam,  để cứu dân tộc Việt Nam, để cứu giáo xứ chúng ta, giáo phận chúng ta, gia đình chúng ta, thì  Chúa đang kêu gọi chúng ta hãy đóng góp nhiều hơn những thánh lễ bản thân  mình. Bởi vì thực sự những thánh lễ bản thân như đời sống bà cố đây, đã gây được  rất nhiều ảnh hưởng. Nó là tấm gương về việc tham gia vào ơn cứu độ.  Là sự sống cứu độ được chia sẻ ra. Là sức mạnh cứu độ có thể biến đổi gia đình, biến đổi thôn xóm, biến đổi những người xung quanh và  biến đổi những xóm làng xa gần. Chúa muốn chúng ta bất cứ người nào, trong tuổi nào,  trong tình trạng nào, hãy cố đáp ứng lại  lời kêu gọi của. Hãy biến bản thân mình, hãy biến đời mình thành một thánh lễ. Thánh lễ có nhiều  hy sinh, thánh lễ có nhiều yêu thương và được tham dự vào  Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Giờ đây trong thánh lễ này, chúng ta kết hợp thánh lễ bàn thờ với thánh lễ bản thân ta,  để tạ ơn Chúa đã ban cho bà cố Anna được tham dự một cách mãnh liệt và phong phú vào  sự sống cứu độ của Đức Kitô. Chúng ta cầu xin Đức Kitô, giúp chúng ta ý thức được lời kêu gọi của Chúa từ cuộc lễ hôm nay.  Từ nay, bản thân ta hãy là thánh lễ, bản thân ta hãy có nhiều yêu thương, có nhiều hy sinh  mang chất lượng cao, hợp với Đức Kitô,  để chúng ta nhờ đó mà tham dự vào ơn cứu độ của Đức Kitô. Chúng ta cầu nguyện cho nhau và xin bà cố cầu nguyện cho chúng ta, để suốt hành trình đời sống của mình sẽ là một thánh lễ tạ ơn, dâng hiến rất nhiều hy sinh, rất nhiều yêu thương cùng với Đức Kitô cứu độ. Amen.
Thánh lễ an táng bà cố Anna, thân mẫu Cha Nguyễn Văn Tùng tại Cần Xây, ngày 26-12-2000

 

Bùi-Tuần 787: LỜI ĐẦU TIÊN Ở ĐẦU THẾ KỶ 30-12-2000

GB. Bùi-Tuần
 

Cuối năm 2000, đầu năm 2001 là một ranh giới thời gian. Ranh giới này được coi là rất đặc: 30-12-2000 Bùi-Tuần 787

Cuối năm 2000, đầu năm 2001 là một ranh giới thời gian. Ranh giới này được coi là rất đặc biệt.
Tôi nhìn thời gian trôi qua ranh giới lịch sử. Từ thế kỷ này sang thế kỷ kia. Thời gian trôi lặng lẽ, uy hùng.
Dòng chảy thời gian mang theo từng tỷ tâm hồn, trong đó có tôi.
Tất cả đều được đưa đi. Hẳn sẽ có bến bờ cho mọi người. Chắc là bến bờ sẽ rất khác nhau.
Bến bờ khác nhau sẽ là số phận khác nhau. Cái đó tuỳ theo lịch sử.
Thời gian thì khách quan. Nhưng khi con người dùng thời gian để làm nên lịch sử, thì lịch sử sẽ làm nên số phận con người.
Mọi người đều thuộc về lịch sử chung. Nhưng mỗi người lại có lịch sử riêng của mình. Lịch sử riêng được hình thành với nhiều khác biệt. Giàu hay nghèo. Có địa vị cao hay địa vị thấp. Tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Những điều đó có vẻ ít quan trọng. Quan trọng là những thiện tâm, biết phân biệt sự thiện, chọn lựa sự thiện, sống theo sự thiện.
Lịch sử mỗi người với những thành tích thiện ác là một hồ sơ để đánh giá. Những đánh giá của các cơ quan chính thức và của dự luận không có tính cách tuyệt đối. Điều đó không có gì phải nói.
Nhưng thiết tưởng điều nên nói ở đây, đó là: Đánh giá của Thiên Chúa mới là chính xác tuyệt đối và những chính xác tuyệt đối này lại rất bất ngờ. Phúc Am cho thấy như vậy.
Có những người giàu sang như ông phú hộ của người hành khất Lagiarô, do vô tâm, đã bị Chúa ném vào hoả ngục. Đang khi những người nghèo khổ như ông ăn mày Lagiarô, nhờ lương thiện, lại được Chúa đưa lên thiên đàng (Lc 16).
Có những người mang tiếng là tội lỗi như người thu thuế, nhờ sám hối khiêm nhường, đã được Chúa chấp nhận vào số những người Chúa xót thương. Đang khi những người được tiếng là đạo đức như người Pharisêu, do kiêu căng, lại bị Chúa khước từ (Lc 17).
Có những người gọi là xa đạo, nhưng nhờ thiện chí, lại được đón vào Nước Trời. Đang khi những con cái trong nhà, do dửng dưng, lại bị đuổi ra khỏi Nước Trời (Lc 13,27).
Có những người đứng chót, nhưng đầy phấn đấu, lại được mời lên chỗ nhất. Đang khi những người chỗ nhất, nhưng nhởn nhơ hưởng thụ, lại bị đưa xuống chỗ rốt cùng (Mt 20,16).
Tôi coi những việc Chúa làm trên đây là những điều kỳ diệu nói lên quyền năng thương xót của Người. Tôi ca tụng Thiên Chúa vẫn đang làm những điều kỳ diệu như thế trong lịch sử nhân loại hôm nay. Một chút riêng tư, tôi mượn lời Thánh Vịnh để nói:
“Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa,
Con đã được Ngài thương dạy dỗ,
Tới giờ này, con vẫn truyền rao
những điều kỳ diệu của Ngài.
Cả lúc con đã già, da mồi tóc bạc,
Lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con”
(Tv. 17,17-18).
Trong tâm tình cảm tạ Chúa, tôi đặt lịch sử đời tôi dưới chân Người. Nó cần phải có. Nhưng nó chẳng đáng gì. Xin Chúa đừng nhìn vào  đó. Chính tôi cũng không nhìn đến nó. Tôi chỉ hy vọng vào Chúa mà thôi.
“Tôi hết lòng hy vọng ở Chúa.
Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu”
(Tv. 40,2).
Niềm hy vọng đặt ở nơi Chúa đem lại cho tôi sự bình an và hứng khởi. Tôi cảm thấy ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói xưa:
“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Chúa.
Và có Chúa làm chỗ nương thân.
Người ấy như cây trồng bên dòng nước,
đâm rễ sâu vào mạch suối trong.
Mùa nóng đến, cây không phải sợ gì
Lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,
Gặp năm hạn hán, cũng chẳng ngại
Nó sẽ không ngừng trổ sinh hoa trái (Gr 17,7-8).
Hoa trái thiêng liêng cao quí nhất, đẹp lòng Chúa nhất là bác ái yêu thương (Gal 5,22). Bác ái yêu thương là tóm tắt mọi lề luật (Gal 5,14).
Với nhận thức trên đây, tôi đi vào thế kỷ kỷ mới, với nhân loại của tôi, với đồng bào thân thiết của tôi. Thời gian vẫn cứ trôi. Nhưng thời gian sẽ là dòng chảy mang theo những lịch sử tình yêu. Sẽ không thiếu những lịch sử tình yêu đẹp. Những lịch sử tình yêu có chất lượng cao sẽ luôn luôn mới. Tôi có cảm tưởng nhân loại sẽ được cứu độ nhờ các lịch sử tình yêu được Chúa chúc lành.
Suốt dọc lịch sử dài, Chúa đã kêu gọi “Hãy yêu thương nhau”. Yêu thương, đó là ơn gọi căn bản nhất. Đức Mẹ Maria đã xin vâng và đã sống quảng đại ơn gọi đó. Khi sang đầu thế kỷ mới này, tôi lắng nghe Chúa là chủ thời gian. Người cũng chỉ nhắn nhủ: Chúng con hãy yêu thương nhau. Đức Mẹ Maria cũng thúc giục chúng ta: Chúng con hãy xin vâng với lòng hoan lạc đơn sơ phó thác.
Cùng với Đức Mẹ: Xin vâng, trung thành đi theo ơn gọi yêu thương. Đó là lời đầu tiên của tôi đầu thế kỷ XXI.
Nhưng sẽ rất ngây thơ, nếu xin vâng yêu thương, vì tưởng yêu thương là việc dễ  dàng. Không đâu. Yêu thương cho đúng yêu thương, nhất là yêu thương cho đúng mẫu gương Chúa Giêsu là việc đòi rất nhiều tỉnh thức, rất nhiều quảng đại, rất nhiều nhẫn nhục, rất nhiều từ tốn, rất nhiều từ bỏ mình, rất nhiều cái chết hằng ngày. Vì thế lời xin vâng đáp lại tiếng Chúa gọi yêu thương cũng sẽ là: Xin vâng vác mọi thứ thánh giá vì yêu thương. Nhưng tôi tin đàng sau thánh giá sẽ là phục sinh.
Lạy Chúa, cậy nhờ ơn Chúa con xin vâng.
Long Xuyên, ngày 30 tháng 12 năm 2000
+ GB. Bùi Tuần


 

Bùi-Tuần 788: CUỐI NĂM TÍNH SỔ LỜI NÓI 04-01-2001

Kinh “Sám hối” có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những: 04-01-2001 Bùi-Tuần 788

Kinh “Sám hối” có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.
Câu vắn tắt trên đây là một sơ đồ giúp chúng ta nhìn vào để tự kiểm tra chính mình. Sơ đồ gồm bốn lãnh vực: Tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Lãnh vực nào cũng kêu gọi chúng ta dừng lại để xét mình.
Nhưng thời nay, lời nói là một lãnh vực có nhiều bùng nổ nhất, nên lãnh vực này cần phải xem xét ưu tiên.
Lời nói ra.
Lời nói ra cũng được hiểu là lời viết ra. Nó diễn tả con người. Nên ít nhất nó phải mang tính người. Tính người có nhiều yếu tố: Như tự thức, tự chọn, tự lập, tự tin, tự giác, tự do. Mỗi yếu tố đều mang nhiều trình độ. Từ thấp tới cao. Từ ấu trĩ tới trưởng thành. Từ yếu kém đến mạnh mẽ, kiên định. Trong yếu tố nào và với trình độ nào, lời nói ra cũng phải được kiểm nhận bởi tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng.
Vì tự trọng và có trách nhiệm, người nói sẽ cố gắng nói những lời có nội dung tốt, với hình thức tốt và do động lực tốt.
Nội dung tốt là chân thiện mỹ. Ba thứ này là biển cả mênh mông. Phải nói sao cho đúng. Ít ra cũng phải có những dự phóng dè dặt và những đợi chờ. Cho dù thực sự nói đúng, thì cũng vẫn phải khiêm tốn nhận rằng: Phần đúng đó vẫn chỉ là phần cực kỳ nhỏ bé đối với toàn bộ chân thiện mỹ. Phương chi lại nói sai. Khi chân thiện mỹ ở trong một con người cụ thể, dù họ là ai, họ cũng vẫn là một bí nhiệm có quyền được kính trọng. Không ai khám phá hết được bí nhiệm đó. Chỉ Thiên Chúa rõ. Chớ nói sai, hại người.  Kẻo người chưa bị hại, thì mình đã bị hại, vì mắc tội với Chúa và với người.
Hình thức tốt là hợp với hoàn cảnh: Hợp với người, hợp với thời, hợp với việc, hợp với nơi. Diễn tả được nội dung tốt qua những hình thức tốt là kết quả của nghệ thuật, kinh nghiệm, trí thức, trực giác, nhất là nội tâm giàu tinh thần trung chính, khiêm từ.
Động lực tốt là ý hướng ngay lành, hồn nhiên. Nói không do sức đẩy của những áp lực mờ ám. Dư luận, đồng tiền, danh vọng, thiên kiến là những dụng cụ mà Satan quen dùng để sai khiến lời nói. Thậm chí Satan còn xúi người ta nhân danh lề luật và nhân danh Thiên Chúa, để lạm dụng lời nói, gây nên tội ác.
Tại Việt Nam, thời gian này đang sôi nổi các lời nói. Xem kỹ, thì thấy làn sóng sôi nổi này có những nội dung mới, những hình thức mới, những động lực mới. Tôi có cảm tưởng là không phải tất cả các thứ mới đó đều tốt. Nhưng sẽ rất công bằng nếu nhìn nhận rằng: Trong những thứ mới đó, nhiều thứ phải được kể là rất tốt. Và như vậy, tôi cũng như mọi người nên xét mình: Thời gian một năm qua, trong lãnh vực lời nói, chúng ta thực sự có đóng góp được cái gì mới thực sự tốt đẹp cho cộng đoàn, cho Hội Thánh và Tổ Quốc Việt Nam không?
Lời không nói ra
Bên cạnh những lời nói ra còn có những lời không nói ra. Loại lời này giữ một vai trò không nhỏ trong lãnh vực lời nói. Trong nhiều trường hợp, những lời không nói ra lại đi sâu vào lòng người hơn là những lời nói ra.
Thí dụ bầu khí văn hoá, tôn giáo. Bước vào một tịnh thất, tịnh xá, tôi cảm được một bầu khí tịnh tu. Bầu khí tịnh tu là một lời không nói ra. Nhưng nó lại nói rất sâu về đời sống nội tâm.
Thí dụ một phụng vụ của những người giàu chiêm niệm. Phụng vụ rất đơn sơ, nhiều thinh lặng. Nhưng những bóng người chiêm niệm trong không gian phụng vụ sốt sắng làm nên những làn gió nhẹ, đưa người ta vào cõi thiêng liêng để lắng nghe và cầu nguyện. Những bóng người ấy là những lời không nói ra, nhưng đã gợi ý rất nhiều về các giá trị căn bản.
Thí dụ những ánh mắt, những nụ cười, những duyên dáng đâu phải là lời nói ra. Tuy không nói ra lời, nhưng nhiều khi chúng lại gởi gắm nhiều ý nghĩa. Không bao giờ quên được.
Thí dụ sự âm thầm chịu đựng, sự lặng lẽ hy sinh, sự cần cù và chu đáo trong phục vụ cũng là những lời không nói ra, nhưng thực sự đã nói rất hùng hồn.
Thí dụ những tiếng cười. Có những tiếng cười không kèm lời nói nào, nhưng gây nên rùng rợn. Có những tiếng cười, cũng không kèm lời nói nào, nhưng gieo nhiều tình cảm.
Vài thí dụ trên đây gợi ý cho mỗi người chúng ta xét mình về những lời không nói ra của mình.
Những khám phá.
Khi xét mình trong lãnh vực lời nói như vừa trình bày, tôi khám phá thấy nhiều sự thực mới.
Sự thực là tính cách đối thoại trong lời nói. Nói là vì đã lắng nghe. Có những lời nói của bao người đã lọt vào tai tôi và đã chìm xuống lòng tôi. Sau khi được nội tâm hoá, chúng trở nên mới, để rồi trở thành lời mới. Cái mới này kêu gọi cái mới khác, làm cho vai trò lời nói thêm chất lượng trong đối thoại, để đối thoại là cùng nhau tìm đi lên.
Sự thực mới là tính cách thông tin của lời nói. Nói là vì muốn chia sẻ. Chia sẻ những cái mới, để gắng tái đào tạo chính mình và để cấu trúc lại hệ thống giá trị. Khi chia sẻ, lời nói ra cũng như lời không nói ra rất muốn hội tụ tâm tình biết ơn, lòng kính trọng và niềm cậy trông.
Nhưng trên thực tế, tôi khám phá thấy những giới hạn của mình. Nhiều giới hạn khiến mình phải bàng hoàng, lo sợ.
Khám phá quan trọng nhất là thấy được phần nào khả năng quí giá của lời nói. Mong manh như tia sáng, nhưng lời nói có thể chuyên chở những giá trị vô giá. Nhẹ nhàng như sợi gió, nhưng lời nói có thể làm nên chiếc cầu nối lại những vực thẳm tâm hồn. Thoang thoảng như hương hoa, nhưng lời nói có thể gợi tìm về cõi hạnh phúc vô tận đời sau.
Cuối năm tính sổ lời nói, tôi nhớ lời thánh Phaolô dạy: “Cái mà con gieo, sẽ phải chết đi mới được sống” (1Cor 15,36). Tôi hiểu là những gì tôi gieo bằng lời nói sẽ phải trút bỏ đi những gì là của tôi, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng sẽ nhận được sự sống mới với hình dạng mới, hợp thánh ý Chúa hơn.
Trong tâm tình sám hối và tạ ơn, tôi nhìn lên Chúa và âm thầm nói với Người: Thánh ý Người là gia nghiệp đời con.
Long Xuyên, ngày 4 tháng 01 năm 2001


 

Bùi-Tuần 789: XUÂN VÀ BIỂN 08-01-2001

Mọi năm, dịp Xuân về, tôi hay đi thăm. Tôi thấy các nhà đều trang trí, các con đường đều dọn: 08-01-2001 Bùi-Tuần 789

Mọi năm, dịp Xuân về, tôi hay đi thăm. Tôi thấy các nhà đều trang trí, các con đường đều dọn dẹp. Đâu cũng hoa. Hoa thiệt và hoa giả.
Năm nay, dịp Xuân về, tôi thích lặng lẽ. Tôi ngắm nhìn những gì không trang trí được. Biển là một cảnh như thế. Biển thô sơ, không thể trang trí, nhưng nó rất đẹp. Bao la bát ngát, hùng vĩ nhiệm mầu. Nhìn biển, để thấy rằng: Nhiều cảnh không trang trí được, mà vẫn đẹp. Hơn nữa, nếu được trang trí, nó vẫn thờ ơ, và đồ trang trí sẽ bị coi là dư thừa, lạc lõng.
Năm nay, dịp Xuân về, biển còn là một gợi nhớ quan trọng. Tôi nhớ về những cơn giông bão năm xưa. Trước bão là phòng chống. Sau bão là khắc phục. Nhưng thách đố vẫn còn đó. Giông bão hữu hình là những biến cố bất ngờ đáng ngại. Giông bão vô hình là những biến cố bất ngờ còn đáng sợ hơn.
Năm nay, dịp Xuân về, biển còn gợi thêm cho tôi nghe tiếng Chúa gọi ra khơi, trong năm Tân Tỵ này.
Biển khơi mà Chúa chỉ cho tôi thấy là xã hội và những con người Việt Nam, năm Tân Tỵ này.
Biển khơi này là biển khơi mênh mông, luôn chuyển biến. Nhiều người sẽ ngại ra khơi này để đánh cá, vì họ sợ sẽ về tay không. Hơn nữa, họ sợ có thể sẽ bị chết chìm.
Thế mà, Chúa truyền cho tôi hãy cứ ra khơi, thả lưới.
Tôi đọc lại Phúc Âm thánh Luca: “... Chúa Giêsu bảo ông Simon: Hãy chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simon đáp: Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới. Họ đã làm như vậy, và đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới” (Lc 4,4-6).
Tôi cũng đọc thêm một đoạn Phúc Âm thánh Gioan: “Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđimô, ông Nathanaen, người Cana miền Galilê, các người con ông Giêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon Phêrô nói với các bạn: Tôi đi đánh cá đây. Các bạn đáp: Chúng tôi cùng đi với anh. Rồi mọi người ra đi. Nhưng đêm ấy họ không bắt được con cá nào.
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông thưa: Thưa không. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá.” Các ông lại ra khơi, thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”. (Ga 21,2-6).
Đọc xong hai đoạn Phúc Âm trên, tôi nhận ra điều này: Bí quyết của sự truyền giáo là sự vâng lời  dấn thân. Mình không chọn việc, chọn chỗ cho mình. Nhưng sẽ hết mình với việc với nơi mà Chúa trao cho mình, kết quả sẽ do Chúa mà thôi.
Khi đi vào năm Tân Tỵ này, tôi cũng rất biết biển khơi hiện nay là một biển khơi có những giông bão bất ngờ. Vì thế các môn đệ Chúa tự nhiên rất ngại ra khơi. Tự nhủ mình là cuộc đời bảo vệ cơ chế, duy trì truyền thống, giữ gìn  luật lệ, phát triển cơ sở, cũng đã tốt rồi.
Tôi đọc lại Phúc âm để tìm ánh sáng.
Phúc ân thánh Matthêu kể lại: “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ cũng xuống theo. Và kià biển động mạnh, khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ, các ông lại gần đánh thức Người và nói: Thưa Thầy, xin Thầy cứu chúng con, chúng con chết mất. Đức Giêsu nói: Sao mà nhát thế, hỡi những người kém lòng tin. Rồi Người chổi dậy, đe gió và biển, biển liền lặng. Người ta ngạc nhiên và nói với nhau: “Người này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”(Mt 8,23-27).
Đọc xong đoạn Phúc Âm trên đây, tôi thấy phải theo gương các tông đồ mà dấn thân ra khơi. Khi ra khơi, hãy mang phao hộ mệnh. Đó là lòng tin tuyệt đối và vững vàng. Tin Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Giêsu, Người là Đấng cứu độ. Không có Người, chúng ta không làm gì được.
Vì thế, biết là sẽ gặp bão gió, nhưng tôi vẫn cứ ra khơi. Tôi tin Chúa Giêsu ở trên thuyền của tôi. Gió bão là những thử thách. Người truyền giáo phải chấp nhận thực tế đó với lòng khiêm nhường và niềm cậy tin phó thác.
Xuân về, tôi nhìn biển khơi năm Tân Tỵ này, tôi thương  nó vô vàn. Chúa bảo tôi hãy ra khơi. Chúa gọi các môn đệ Chúa hãy ra khơi. Đó là lời sai đi. Đó là địa chỉ được sai đến.
Theo gương thánh Phêrô và các tông đồ, chúng ta hãy bỏ lại các vấn đề không cần thiết, để vâng lời Chúa, cùng nhau ra khơi, thả lưới. Lưới của tôi là tình yêu. Tình yêu nhất là trong Lời Chúa, trong lời cầu nguyện, trong các hy sinh phấn đấu, trong tinh thần luôn tìm thực thi thánh ý Chúa, đặc biệt là trong các quan hệ thường ngày.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đã hứa: Sẽ ở với chúng con mọi người cho đến tận thế.
Long Xuyên, ngày 8 tháng 01 năm 20001

 

Bùi-Tuần 790: LỜI SAI ĐI 11-01-2001

Hôm nay, tại nhà thờ Chính Toà Long Xuyên đang hiện lên một hình ảnh đẹp. Đây là hình ảnh: 11-01-2001 Bùi-Tuần 790

Hôm nay, tại nhà thờ Chính Toà Long Xuyên đang hiện lên một hình ảnh đẹp. Đây là hình ảnh giáo phận Long Xuyên thu hẹp. Có đông đảo giáo dân, tu sĩ, chủng sinh, 170 linh mục và ba giám mục.
Qui tụ thân mật này nhắm vào mục đích nội bộ tôn giáo. Đó là để chính thức bế mạc Năm Thánh và bế mạc tuần tĩnh tâm linh mục.
Nhân dịp này, tôi xin phép chia sẻ  một vài suy nghĩ của tôi. Những suy nghĩ này chủ ý nhìn vào giáo phận Long Xuyên. Tôi nhìn về quá khứ và nhìn tới tương lai.
Hồi tưởng lại chặng đường đã qua, tôi thấy Chúa đã thương giáo phận Long Xuyên rất nhiều. Nhất là ở những điểm sau đây:
Càng ngày giáo phận càng trở về gặp gỡ Đức Kitô. Với niềm tin: Người là con đường, là sự thực, là sự sống, là Đấng cứu độ. Khi thăm các nhà thờ, tôi thấy rõ điều đó: Ở kiến trúc, trang trí, phụng vụ, bài giảng, thánh ca và các sinh hoạt.
Càng ngày giáo phận càng trở về gắn bó với Lời Chúa. Khắp nơi, Lời Chúa được đọc, được suy gẫm, được chia sẻ, được truyền bá.
Càng ngày giáo phận càng trở về tôn vinh Thiên Chúa là tình yêu. Với nhận thức yêu thương là giới răn căn bản nhất. Yêu thương là  giá trị cao quí nhất. Yêu thương là con đường hạnh phúc nhất.
Càng ngày giáo phận càng góp phần hữu hiệu xây dựng bầu khí liên đới, thân tình, an hoà giữa lương và giáo, giữa giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị.
Càng ngày giáo phận càng dấn thân vào hoạt động bác ái . Những dự án nhỏ, những việc làm nhỏ, nhưng với tình yêu lớn.
Hôm nay, nhìn lại những năm qua, tôi thấy lịch sử biến chuyển rất mau lẹ. Trong dòng lịch sử hôm nay  đang xuất hiện không thiếu những khác biệt và những xung đột. Để xử lý những phức tạp đó, tất nhiên cần  nhiều yếu tố. Nhưng tình thương vẫn là yếu tố nòng cốt.
Tôi có cảm tưởng là tình thương đang trở thành một văn từ linh thiêng, một ngôn ngữ linh thiêng, một ký hiệu linh thiêng, một giải pháp linh thiêng có khả năng giải đáp các ẩn số của lịch sử Việt Nam hôm nay.
Tôi cũng có cảm tưởng là: Với các tâm hồn thiện tâm thiện chí, Đất Nước Việt Nam và Hội Thánh Việt Nam đang đi tới một cuộc cách mạng tình thương rộng lớn.
Có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể góp phần hữu hiệu giải quyết các vấn đề Hội Thánh và đất nước. Còn nếu không có tình thương thực sự, mà chỉ có kiêu căng và ích kỷ, người ta chỉ làm cho các vấn đề thêm rắc rối mà thôi.
Tình thương nói đây được hiểu là một tình thương trong sáng, đầysức sống. Với đức tin và kinh nghiệm, tôi mong tình thương của ta sẽ được hiệp thông mật thiết với trái tim Chúa Giêsu. Trái tim Chúa Giêsu đầy lửa yêu thương có sức cứu độ. Với lửa đó, Chúa Giêsu đến với con người. Đường Chúa dùng để đến với con người thường là con đường hẹp, con đường nhỏ, con đường thấp, con đường vòng, con đường vắng. Vì thế, để đón nhận được Đức Kitô và để hiệp thông được với trái tim Đức Kitô, chúng ta phải có một thái độ nội tâm đặc biệt. Rất khiêm nhường. Rất tỉnh thức. Rất sẵn sàng. Rất từ bỏ mình. Những điều đó không thể có được một cách dễ dàng. Nghĩa là phải học, phải tập. Không chỉ  một lần, một thời, nhưng  là thường xuyên, suốt đời. Nhất là phải có trợ giúp của Chúa Thánh Linh
Cái nhìn trên đây của tôi về quá khứ giúp tôi nhìn về phía trước. Phía trước có thể gọi là Đất hứa. Chúng ta được Chúa sai đi, để cùng với Đức Kitô và những người thiện chí, đưa Hội Thánh và dân tộc tới Đất Hứa. Đường ta đi là Đức Giêsu Kitô, Ngài là con đường tình yêu. Mục tiêu ta nhắm là, trở nên người con ngoan của Thiên Chúa tình yêu và thiết lập một nền văn minh tình yêu. Anh sáng và sức mạnh của ta là Chúa  Thánh Linh, thầy dạy tình yêu. Dụng cụ ta dùng là tình yêu của ta kết hợp mật thiết  với trái tim Chúa Giêsu.
Với những chia sẻ thân tình trên đây, tôi xin mọi người hãy nhận lấy lời sai đi của Chúa. Hãy nhận lời sai đi với tinh thần trách nhiệm và tin tưởng. Hãy ra đi, lấy tình thương mà viết nên lịch sử. Hãy ra đi, lấy đời sống mình làm chứng cho Lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thiên Chúa đã yêu thương các con” (Ga 15,12).
Bài giảng thánh lễ Bế mạc Năm Thánh và đánh dấu Tuần Tĩnh tâm Linh mục tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 11 tháng 01 năm 2001

 

Bùi-Tuần 791: ĐẦU XUÂN, TÌM MỘT CÁI NHÌN 24-01-2001

Những ngày đầu năm mới, ai cũng mong gặp được điều may mắn. Tôi cũng vậy. Đối với tôi: 24-01-2001 Bùi-Tuần 791

Những ngày đầu năm mới, ai cũng mong gặp được điều may mắn. Tôi cũng vậy. Đối với tôi, điều may mắn nhất là gặp được cái nhìn yêu thương của Chúa.
Dựa trên Kinh Thánh, tôi tin rằng: Ai được Chúa đoái nhìn, sẽ là người có phúc.
Như trường hợp Đức Mẹ Maria. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi Đức Mẹ, từ một người hèn mọn nên người mẹ Đấng Cứu thế (Lc 1,47-48).
Như trường hợp thánh Phêrô. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi Phêrô, từ một người chài nên người đứng đầu Hội Thánh (Ga 1,42).
Và cũng còn là trường hợp thánh Phêrô. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi Phêrô, từ một người chối Chúa nên người sám hối trở về (Lc 22,61).
Cũng như trường hợp bà goá thành Nain. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi con bà, từ một người đã chết nên một người sống lại (Lc 7,13).
Mấy trường hợp trên đây nói lên cái nhìn của Chúa là cái nhìn có sức mang lại sự sống mới, sự sống tươi đẹp của một Mùa Xuân thiêng liêng.
Chúng ta tin như vậy, vì thế chúng ta muốn tìm gặp Chúa và cái nhìn của Chúa.
Tìm ở đâu?
Chúng ta nên biết điều này: Chúa vẫn ở gần chúng ta. Người vẫn nhìn chúng ta. Nhưng rất nhiều khi, chúng ta đã không khám phá ra Người. Rất nhiều khi, chúng ta đã không nhận ra cái nhìn của Người.
Khám phá thấy Chúa ở bên mình là một hành trình. Nhận ra cái nhìn của Chúa là một đặc ơn Chúa ban.
Xưa hai môn đệ thánh Gioan Baotixita đã rất khát khao chờ mong Đấng Cứu thế. Sau khi gặp được Chúa Giêsu và ở lại với Người, họ đã trở về báo tin cho bạn hữu: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Cứu thế” (Ga 1,41).
Ông Philiphê, sau khi đã gặp Chúa Giêsu, ông cũng đã nói: “Đấng mà Maisen và các tiên tri đã loan báo, chúng tôi đã tìm thấy rồi” (Ga 1,45).
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Cứu thế”, đó là một lời xuất phát từ cõi lòng. Nó nói lên niềm vui khám phá. Khám phá này là một kết thúc và cũng là một khởi sự.
Kết thúc là kết thúc một hành trình: Hành trình đi tìm Chúa, đi đến với Chúa, ở lại bên Chúa. Tất cả hành trình này đều được thúc đẩy bởi một niềm khát vọng mãnh liệt, và một lòng đợi chờ thiết tha.
Khởi sự là khởi sự một hành trình mới. Bởi vì cái nhìn của Chúa, khi gặp được rồi, bao giờ cũng gởi tới một lời kêu gọi. Kêu gọi dấn thân phục vụ Chúa và con người, nhất là những người nghèo khổ. Kêu gọi ra đi loan báo Tin Mừng. Kêu gọi từ bỏ mình để đi theo Chúa.
Chính khi chúng ta dấn thân ra đi như vậy là lúc chúng ta cộng tác với Chúa để trở thành những người sinh được nhiều hoa trái thiêng liêng tươi đẹp. Và dưới cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ hân hoan đi trên con đường Tin Mừng dẫn tới thiên đàng, nơi có Mùa Xuân vĩnh cửu.
Như vậy, những ngày đầu Xuân, nơi mà chúng ta cần phải để ý dọn dẹp hơn cả, chính là tâm hồn chúng ta.
Dọn dẹp tâm hồn là phải thực sự khát khao Chúa, vì tin rằng: Chỉ có Chúa mới đem lại ơn cứu độ và hạnh phúc thực cho ta.
Dọn dẹp tâm hồn là phải thực sự đi tìm Chúa  bằng tâm tình khiêm tốn khó nghèo và lời cầu nguyện thiết tha, với niềm tin vững vàng ở lời Chúa đã hứa. Ai tìm thì sẽ được.
Dọn dẹp tâm hồn là hãy lắng nghe lời Chúa, vì tin rằng: Lời Chúa là lời ban sự sống.
Dọn dẹp tâm hồn là hãy quyết tâm luôn tìm thực thi thánh ý Chúa, vì  tin rằng: Thực thi thánh ý Chúa chính là lương thực nuôi dưỡng linh hồn ta.
Năm mới này sẽ không thiếu những thử thách. Có những thử thách đoán trước được và có những thử thách bất ngờ. Tôi xin báo trước điều đó. Nên, với tinh thần tỉnh thức Phúc Âm, tôi tha thiết xin anh chị em hãy để ý đi tìm cái nhìn của Chúa. Dưới cái nhìn của Chúa, mỗi người chúng ta, sang năm mới này, sẽ phấn đấu làm tốt bổn phận của mình, góp phần tốt nhất vào việc xây dựng quê hương Việt Nam và Hội Thánh Việt Nam.
Với chia sẻ thân tình trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một năm mới đầy ơn Chúa, vững đi trên con đường thánh ý Chúa, luôn dưới cái nhìn của Chúa, là Cha giàu tình yêu thương xót.

 

Bùi-Tuần 792: CẦU NGUYỆN TẠI LỘ ĐỨC 03-02-2001

 Kỷ Niệm Đức Mẹ Hiện Ra tại Lộ Đức
(11.02.2001)
 

Lộ Đức là nơi Đức Mẹ Maria đã hiện ra. Tôi đã tới đó nhiều lần. Vẻ đẹp đã lôi cuốn tôi tới: 03-02-2001 Bùi-Tuần 792

Lộ Đức là nơi Đức Mẹ Maria đã hiện ra. Tôi đã tới đó nhiều lần. Vẻ đẹp đã lôi cuốn tôi tới đó chính là bầu khí cầu nguyện.
Đám đông cầu nguyện thuộc mọi tiếng nói, đủ mọi màu da. Người ta cầu nguyện khắp nơi trong linh địa bao la. Người ta cầu nguyện mọi lúc suốt 24 tiếng đồng hồ. Cầu nguyện chung toàn thể. Cầu nguyện riêng từng nhóm. Cầu nguyện âm thầm cá nhân. Kẻ quì, người đứng, cũng có người sấp mặt xuống đất. Kẻ chắp tay, người giơ tay, người khoanh tay.
Rất đa dạng. Rất hồn nhiên. Nhưng tất cả đều trong trật tự. Ở đây, có một bầu khí thanh thản, tự do, linh thiêng, huyền diệu. Trong bầu khí này, mọi người đều nhìn nhau một cách kính trọng, yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Khi cầu nguyện tại Lộ Đức, tôi chỉ xin một ơn duy nhất, đó là ơn trở về với Chúa. Lần nào đến Lộ Đức, tôi cũng chỉ cầu xin một ơn đó mà thôi.
Tôi xin ơn trở về cho mọi người, nhất là cho những ai thuộc về tôi, đặc biệt là cho chính bản thân tôi.
Thiết tưởng ơn trở về là một ơn cần thiết nhất cho mọi người. Bởi vì trở về là nhu cầu căn bản của đời người, trở về là đòi hỏi cấp bách của Phúc Âm. Nhưng, nếu không có ơn Chúa giúp, thì sự trở về sẽ chỉ là một khẩu hiệu, chứ không trở thành sự sống được biến đổi.
Ơn trở về là một hành trình dài. Trong suốt hành trình này, người trở về cảm thấy mình càng ngày càng phải đào sâu lòng khiêm tốn.
Khiêm tốn khi đối thoại với Chúa.
Khiêm tốn khi đối thoại với người khác.
Khiêm tốn khi đối thoại với chính mình.
Khi cầu nguyện tại Lộ Đức, nhìn lên Đức Mẹ, tôi nhận thấy điều đó một cách rõ rệt và thấm thiá.
Thái độ của Đức Mẹ, khi cầu nguyện với Chúa, là rất khiêm nhường.
Thái độ của Đức Mẹ, khi nói với cô bé Bernadetta, là rất khiêm nhường.
Thái độ của Đức Mẹ, khi nhắn gởi giáo quyền địa phương, là rất khiêm nhường.
Thái độ của Đức Mẹ, khi tỏ mình được ơn Vô nhiễm nguyên tội, là rất khiêm nhường.
Nếu có ai hỏi tôi, vẻ đẹp nào nơi Đức Mẹ ở Lộ Đức đã làm tôi ngây ngất, tôi không ngần ngại thưa: Vẻ đẹp đó chính là sự khiêm tốn của Đức Mẹ. Một sự khiêm tốn được diễn tả bằng thái độ e lệ, kín đáo đối với đặc ân của Mẹ. Một sự khiêm tốn được diễn tả bằng sự yêu thương, kính trọng dành cho mọi người.
Đức Mẹ tỏ ra rất buồn khổ vì tội lỗi nhân loại. Đức Mẹ mong muốn nhân loại sám hối, ăn năn. Đức Mẹ kêu gọi nhân loại trở về. Nhưng Đức Mẹ không chỉ trích ai, không kết án ai, không bêu xấu ai. Đức Mẹ chỉ xin các con cái Mẹ hãy cầu nguyện, hãy hãm mình, đền tội, hãy cải thiện chính mình.
Cái thiện bản thân, đó là điều Đức Mẹ nhắn nhủ con cái mình.
Cái thiện chính bản thân mình, đó là bước đầu cần thiết của sự cải thiện xã hội và Hội Thánh.
Và trong việc cải thiện chính bản thân mình, thì việc đầu tiên luôn cần thiết chính là việc biết mình và biết tuân phục thánh ý Chúa.
Phải hết sức khiêm nhường mới biết mình được. Phải hết sức khiêm nhường mới biết tuân phục thánh ý Chúa.
Chúa chỉ mạc khải những điều đó cho những ai bé mọn, khó nghèo thiêng liêng.
Tôi dần dần nhận ra những sự thực đó qua lời Chúa, qua kinh nghiệm, và qua những lần ở bên Đức Mẹ.
Chẳng hạn, khi theo dõi thời sự của thế giới, của Hội Thánh, của địa phương, tôi tự hỏi mình phải có lựa chọn nào trong mục vụ và truyền giáo, để đáp ứng được nhu cầu khẩn cấp của Phúc Âm trong từng tình hình cụ thể đó.
Tự hỏi mình, để rồi khiêm tốn hỏi Chúa trong cầu nguyện và suy niệm bên Đức Mẹ Maria. Xưa Thánh Linh đã hướng dẫn Đức Mẹ để biết nói lời “xin vâng” thế nào, thì nay cũng Thánh Linh sẽ hướng dẫn con cái Đức Mẹ nói lời xin vâng như vậy. Xin vâng thánh ý Chúa, chứ không phải ý riêng mình, hay ý riêng ai. Trong kế hoạch cứu độ, thánh ý Chúa thường rất khác ý riêng chúng ta, mặc dù ý riêng chúng ta mang nhãn hiệu đạo đức.
Phúc Âm cho thấy: Rất nhiều người khi ra trước mặt Chúa, đã nói với Chúa rằng: Chúng con thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng con đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23).
Làm điều có vẻ tốt, nhưng với cung cách kiêu căng  và do động lực tự đắc coi mình đạo đức hơn người khác, sẽ bị Chúa kể như làm điều gian ác. Đó là điều những ai thực tâm muốn trở về với Chúa cần phải khiêm nhường xa tránh.
Cải thiện bản thân mình, để thực sự thuộc về Chúa, và để thực sự trở nên một cành nho bé nhỏ kết hợp với thân cây nho là Chúa Giêsu, đó chính là một khởi sự hết sức quan trọng, hết sức khẩn cấp, luôn luôn phải thực hiện từng ngày, từng giờ, từng phút.
Trên đây là sự thức tỉnh của lương tâm, mà tôi cảm nhận được, những khi âm thầm cầu nguyện bên Đức Mẹ, nhất là tại Lộ Đức.
Long Xuyên, ngày 3 tháng 2 năm 2001

 

Bùi-Tuần 793: ĐỨC HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN, NGƯỜI BẠN TÔI

10-02-2001
 

Một ngày trước khi Đức Thánh Cha công bố danh sách các Hồng Y mới, tôi được Đức Tổng Giám: 10-02-2001 Bùi-Tuần 793

Một ngày trước khi Đức Thánh Cha công bố danh sách các Hồng Y mới, tôi được Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ Rôma gọi điện thoại về. Qua chia sẻ dài, tôi hiểu được sự gì đang xảy ra cho ngài.
Trong tình bạn, tôi mừng chúc ngài. Và cũng trong tình bạn, tôi tỏ bày nỗi lo của tôi. Tôi lo chức càng cao, thì trách nhiệm càng nặng. Nhất là quyền chức có thể dễ làm giảm đi lòng người thương mến, bởi vì thời nay tại Việt Nam này, người ta dễ dành tình cảm cho những ai chịu khổ đau, nhưng lại dễ dị ứng với những ai tôn vinh quyền chức.
Tuy nhiên, tôi coi việc ngài lên chức Hồng Y là việc Chúa làm. Trong cái nhìn đó, tôi có lý do để hy vọng. Nhất là tôi hiểu biết ngài đã từ nhiều năm.
Con người nhận thức.
Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, bạn tôi luôn nhận thức mình yếu đuối, luôn phải tựa nương vào Chúa. Thánh vịnh 77 của vua Đavid diễn tả nhận thức của vua. Thánh vịnh đó cũng rất hợp để chúng tôi diễn tả tâm hồn mình:
“Tôi cất lời, kêu lên cùng Chúa,
Lời tôi kêu Chúa, xin Ngài lắng nghe,
Ngày khốn quẫn, tôi tìm kiếm Chúa,
Tay giơ lên không mỏi suốt đêm trường.
Hồn tôi nào có thiết lời an ủi,
Tưởng nhớ Chúa, tôi thở vắn thở dài,
Suy gẫm hoài, nên khí lực tiêu hao,
Lạy Chúa, Ngài không để con khép mi chợp mắt.
Lòng con xao xuyến, chẳng nói lên lời,
Hồi tưởng lại bao ngày xa cũ.
Tâm hồn ấp ủ những năm xưa.
Suốt canh khuya, trong dạ nhủ thầm:
Phải chăng Chúa ruồng bỏ con đến muôn đời,
Chẳng bao giờ còn dủ lòng thương đoái.
Tình yêu Chúa phải chăng nay đã cạn
Và thánh ngôn đã chấm dứt đời đời...
Lạy Thiên Chúa, đường của Người là con đường thánh
Không thần nào lớn bằng Thiên Chúa của tôi”.
Lời kinh trên đây diễn tả người con Chúa nhiều khi phải đi qua những chặng đường cô đơn tăm tối, nhưng đó là những thử thách. Càng bị thử thách, người con Chúa càng tìm về Chúa.
Càng tìm về Chúa, càng thấy mình bé nhỏ. Và chính khi nhận thức mình bé nhỏ, người con Chúa gặp được Chúa nhân lành. Ứng nghiệm đoạn Phúc Âm: “Giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Kitô cảm động và hân hoan nói: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan hiền triết biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Chức tước địa vị cũng là một thứ thử thách. Sống bé nhỏ trong thứ thử thách cao sang quyền lực là điều không dễ. Nhưng tôi tin rằng một người như bạn tôi đã từng trải qua biết bao thăng trầm đã quá biết: Chỉ có Chúa là điểm tựa của mình. Nhận thức đó là niềm tin đã được tôi luyện.
Con người tỉnh thức.
Tôi rất biết bạn tôi thường đứng trước nhiều áp lực. Bên này kéo, bên kia đẩy. Bên nào cũng tự xưng mình có chính nghĩa, mình hoạt động vì ích chung. Bên nào cũng khẳng định con đường mình là đúng. Bên nào cũng tuyên bố các lựa chọn của mình chỉ nhằm làm sáng danh Chúa.
Nhưng, tôi biết bạn tôi có những lựa chọn riêng của mình. Những lựa chọn đó dựa trên Phúc Âm.
Đường của chúng tôi được xác định rất rõ. Đó là Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Gắn bó với Chúa Giêsu một cách tha thiết. Nhập tâm lời Chúa Giêsu  một cách sâu xa. Nhìn vào gương mẫu của Chúa Giêsu như mô hình tuyệt đối. Dứa khoát là như vậy. Để phân biệt đúng sai.
Còn về sự làm sáng danh Chúa, thì Phúc Âm cũng rất rõ ràng. Chúa Giêsu phán: “Điều làm sáng danh Chúa Cha là chúng con sinh được nhiều hoa trái, và trở nên môn đệ của Thầy” (Ga 15,8).
Trước hết, sinh được nhiều hoa trái là làm sáng danh Chúa Cha. Hoa trái ở đây được hiểu là hoa trái do Chúa Thánh Thần. Những loại hoa trái này được thánh Phaolô kể ra như sau: “Yêu thương, vui mừng, hiền hậu, bình an, nhẫn nhục, ân cần, từ tâm, trung tín, dịu dàng, tự chế” (Gl 5,22-24).
Ngoài ra, làm sáng danh Chúa còn là trở nên môn đệ Chúa Giêsu. Mà muốn trở nên môn đệ Chúa Giêsu, thì phải “từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà đi theo Chúa Giêsu” (Mc 8,33b).
Khi cụ thể hoá các lựa chọn để làm sáng danh Chúa, dựa trên hai tiêu chuẩn trên đây, người môn đệ Chúa luôn phải có ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Khôn ngoan là điều bạn tôi rất để ý.
“Đức khôn ngoan, tôi luôn quí trọng,
Còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.
Tôi coi của cải không là gì, so với đức khôn ngoan” (Kn 7,8).
Con người thận trọng.
Được sống thân mật với ngài nhiều năm, và được ngài tâm sự chia sẻ trong những hoàn cảnh thăng trầm khác nhau, tôi biết bạn tôi là người thận trọng. Riêng từ khi được bổ nhiệm làm Hồng Y đến giờ, ngài đã tâm sự với tôi nhiều lần qua điện thoại. Trong những lần chia sẻ đó, ngài đã cho tôi biết là nhiều người đã muốn lợi dụng ngài cho mục đích riêng của họ. Họ dùng nhiều cách để áp lực và lôi kéo ngài. Nhưng ngài luôn thận trọng.
Ngài khẳng định với tôi là: Toà Thánh có đường lối riêng của Toà Thánh. Toà Thánh cũng như ngài luôn kính trọng các Giám Mục và từng Giám Mục. Toà Thánh cũng như ngài không bao giờ nghe bất cứ ai tỏ ý khen Giám Mục này, chê Giám Mục kia, với dụng ý xấu.
Ngài luôn gắn bó với Tổ Quốc Việt Nam. Ngài luôn tha thiết hướng về quê hương Việt Nam. Ngài vẫn coi mình là thành phần của Hội Thánh Việt Nam.
Khi phải phản ứng trước sự kiện nào, bao giờ ngài cũng sàng lọc suy nghĩ, lời nói và chọn lựa của ngài qua 3 tiêu chuẩn này: Có hoàn toàn đúng sự thực không? Có hoàn toàn hợp bác ái không? Có hoàn toàn cần thiết cho thời điểm không? Đúng là con người thận trọng theo tinh thần Phúc Âm.
Con người vui tính.
Một đặc tính dễ nhận thấy nơi bạn tôi, đó là vui vẻ, dễ tính. Kinh Thánh nói: “Hoa quả của Thánh Thần là bác ái, bình an và vui vẻ” (Gl 5,22). Nơi khác, Phúc Âm viết về các tông đồ: “Phần các môn đệ, họ đầy vui mừng và Chúa Thánh Thần” (Cv 13,52). Chỗ khác, Kinh Thánh quả quyết: “Cho đi thì vui mừng hơn là nhận lãnh” (Cv 20,35).
Tôi nhớ lại mấy lời Kinh Thánh trên đây để biết sự vui vẻ, dễ tính của bạn tôi bắt nguồn từ đâu. Sự vui vẻ dễ tính này không thuộc loại thế tục, nhưng do nguồn mạch linh thiêng cao quí. Chính vì thế, mà sự vui vẻ dễ tính này luôn là một dụng cụ tốt cho việc đối thoại phục vụ công lý hoà bình và hoà giải.
Một trong các đức tính tốt, mà tôi quí trọng nhất nơi bạn tôi, đó là lòng bao dung. Dù trong những hoàn cảnh oan khổ nhất, bạn tôi vẫn tỏ ra thanh thản bác ái. Luôn tha thứ. Luôn mong điều tốt cho mọi người. Luôn tin tưởng: Ơn Chúa có thể biến đổi sự dữ nên sự lành. Luôn trung thành với Chúa, với Hội Thánh, với quê hương.
Thế rồi, mọi sự đã qua đi. Và người ta đã nhận ra thánh ý Chúa là rất kỳ diệu.
***
Lịch sử mỗi người chỉ là một sợi chỉ nhỏ của tấm thảm lịch sử dài rộng mênh mông. Lịch sử mỗi người cũng chỉ là một nốt nhạc trong bài hoà âm hùng tráng của lịch sử chung.
Hôm nay, bạn tôi đang trở thành con người không biên giới. Đó là một vinh dự lớn, một cơ may lớn để phục vụ nhân loại, Hội Thánh và quê hương Việt Nam.
Nhưng tất cả rồi sẽ qua đi. Trước mặt Chúa, những người âm thầm, nghèo khó như thánh Giuse là rất đông. Họ có thể nên thánh, vì họ chu toàn bổn phận Chúa trao, dù họ chẳng được ai biết đến.
Hầu hết chúng ta  chỉ mong được có mặt trong đám đông vô danh đó. Đám đông vô danh này xin hiệp thông với Đức Hồng Y kính mến của mình, để cảm tạ Chúa giàu tình yêu thương xót.
Long Xuyên, ngày 10 tháng 02 năm 2001,                                                                                                                                + G.B.BÙI TUẦN, Giám Mục Giáo Phận Long Xuyên.

 

Bùi-Tuần 794: CẢM ĐỘNG 11-02-2001

Ở Pháp, tôi đã đến cầu nguyện tại La Salette. Nơi đây Đức Mẹ đã hiện ra. Đặc điểm của sự hiện : 11-02-2001 Bùi-Tuần 794

Ở Pháp, tôi đã đến cầu nguyện tại La Salette. Nơi đây Đức Mẹ đã hiện ra. Đặc điểm của sự hiện ra tại đây là Đức Mẹ ngồi ôm mặt khóc, khi nói về tương lai thế giới.
Ở Đất Thánh, tôi đã đến cầu nguyện tại một nhà nguyện nhỏ, nơi truyền thống ghi lại: Đây là nơi Chúa Giêsu xưa đã đứng khóc, khi nhìn xuống thành Giêrusalem và nói tiên tri về tương lai thành đô.
Cầu nguyện tại những nơi này, tôi rất xúc động. Một sự xúc động nghiêm trọng, do những lý do nghiêm trọng, dẫn tới những quyết định nghiêm trọng.
Kinh nghiệm này cho phép tôi hiểu rằng: Sự nhạy bén biết cảm động trước những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của đồng bào mình sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đạo đức, mục vụ và truyền giáo.
Trước hết, thái độ cảm động là một cách diễn tả đức ái và đức tin một cách sống động. Nhiều lần tiếp xúc với những nhóm nhỏ nhiều thành phần. Tôi kể ra những tin tức đạo đời đang xảy ra: Có người đói khổ, có người bỏ đạo, có người thất vọng, có người bệnh tật, vv... Tình hình thực rất tang thương. Tôi kể ra với tất cả tâm tình thương cảm.
Phản ứng của những người nghe nhiều khi rất khác nhau. Người thì xúc động. Người thì dửng dưng lạnh lùng. Người thì cười giỡn. Người thì nói sang chuyện khác một cách cứng cỏi.
Qua từng phản ứng đa dạng đó, một người bình thường giàu lương tri cũng có thể đoán được cái tâm của mỗi người. Riêng những người tỏ ra xúc động trước những khổ đau của kẻ khác, của đất nước và của Hội Thánh, sẽ tiếp tục đi thêm vào con đường cứu độ của Chúa Giêsu. Những trăn trở thao thức về Nước Trời vốn có sẵn nơi lòng họ được dịp sống động hơn, năng động hơn và sẵn sàng lên đường hơn. Lên đường nói đây là lên đường trở về với Chúa, cố gắng cải thiện chính bản thân mình.
Tôi rất buồn, khi thấy nhiều người tín hữu đôi khi tỏ ra lạnh lùng dửng dưng trước những khổ đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh và của dân tộc. Họ chỉ lo hưởng thụ và tố cáo người khác mà không để ý cầu nguyện, đền tạ, cải thiện chính mình. Tôi sợ biết đâu lòng họ đã ra chai đá. Như lời Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù, và lòng chúng ra chai đá” (Ga 12,39). Bị Chúa ruồng bỏ ngay ở đời này, đó là một điều rất đáng sợ.
Ngoài ra, sự xúc động thường mang một sứ điệp quan trọng, nhưng dễ hiểu trong lãnh vực đạo đức và tình cảm.
Có một lần, khi Đức Thánh Cha bắt tay tôi, Ngài chỉ nói đi nói lại hai tiếng: Việt Nam, Việt Nam. Ngài nói với giọng xúc động, nghẹn ngào. Rồi Ngài ôm hôn trên má tôi.
Tôi rất xúc động. Sự xúc động của Đức Thánh Cha là một sứ điệp không lời. Tôi hiểu thấm thiá. Tôi ghi nhớ mãi trong lòng. Tôi thấy người mục tử nhiều khi không cần nói nhiều. Ít lời, nhưng làm sao người ta cảm được tình thương yêu và lòng trọng kính của mình. Hơn là những lời nói dài dòng mà lạnh lùng, cứng cỏi.
Ngoài ra xúc động thường là một qui chiếu, gợi ý đi tìm hiểu thêm.
Một hôm, tại Assisi, tôi đến cầu nguyện bên mồ thánh Phanxicô, thì gặp một người đàn ông cũng đang cầu nguyện. Đột nhiên, tôi nghe ông khóc. Ông khóc nức nở, khiến tôi không cầm lòng được. Một lát sau, ông quay sang tôi và hỏi bằng tiếng Ý, tiếng Pháp và tiếng Đức, ông muốn biết tôi có phải linh mục không và có thể nghe ông tâm sự được không . Tôi trả lời ông: Tôi nói tiếng Pháp dễ hơn. Thế là ông tâm sự và sau cùng ông xin xưng tội.
Từ những kinh nghiệm như trên, tôi thấy sự xúc động thường là một qui chiếu. Người ta khóc và xúc động vì yêu, vì nhớ thương một người khác. Người ta khóc và xúc động vì muốn tìm về một Đấng mà lòng mình tôn thờ. Người ta khóc vì lòng mình qui hướng thiết tha về một đối tượng nào đó.
Do nhận xét như thế, nên khi nhìn thấy các xúc động, tôi có thể đoán được phần nào lòng người ta qui chiếu về đâu. Người dễ xúc động về tiền bạc, quyền chức, nhan sắc thì tỏ ra lòng họ thường ham thích quyền chức, tiền bạc, nhan sắc. Người dễ xúc động về tình hình  suy giảm đạo đức của dân, thì tỏ ra lòng họ thường lo lắng về chiều kích thiêng liêng của các linh hồn. Người dễ xúc động về gánh nặng của các vị bề trên trong đạo, thì tỏ ra lòng họ thường mến thương,  thông cảm, hiệp nhất với các chủ chiên của mình. Người hay xúc động về cảnh nghèo túng của dân, thì tỏ ra lòng họ thường nặng tình liên đới với thân phận người dân.
Để biết phân định xúc động của mình là do Chúa hay do tự ái kiêu căng hoặc đam mê xấu, chúng ta rất cần khiêm tốn bàn hỏi với Chúa Thánh Thần.
Qua nhận xét tình hình các xúc động hiện nay, tôi có cảm tưởng là tại Việt Nam hôm nay đang có một cơn khủng hoảng về các giá trị.
***
Chỉ nhìn sơ qua vai trò trên đây của xúc động, chúng ta cũng hiểu sự xúc động của ta cần được vun trồng tốt, phát triển tốt, tập luyện tốt và sử dụng tốt.
Đến đây, tôi nhớ lại tâm hồn xúc động của  Đức Mẹ, khi cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Linh hồn con tung hô Chúa”.
Tôi cầu chúc mọi người cũng được một tâm hồn biết xúc động như Đức Mẹ. Bởi vì tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương. Nên hãy biết yêu thương kẻ khác. Một người có đạo chỉ lo giữ đúng luật lệ, kinh kệ một cách nghiêm nhặt hình thức, nhưng lòng thì cứng cỏi, không hề biết xúc động trước cảnh khổ của Hội Thánh và của người khác, họ sẽ ra sao? Số phận họ sẽ thế nào?
Xin hãy cầu nguyện nhiều hơn, đền tạ nhiều hơn, phục vụ đúng bổn phận hơn, đào tạo mình và những người của mình nên tài đức và nên giống Chúa Giêsu hơn. Đó là cách tốt nhất để chứng minh trăn trở với xúc động của mình là lành thánh.
Nếu không thì tôi sợ: Nơi chúng ta, cơn khủng hoảng về các giá trị sẽ rất trầm trọng.
Lạy Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con một trái tim bén nhạy biết xúc động, xót thương theo gương Đức Mẹ.
Ngày 11 tháng 02 năm 2001, G.B. Bùi Tuần, Giám Mục Giáo Phận Long Xuyên.

 

Bùi-Tuần 795: CỨU ĐỘ BẰNG THINH LẶNG CỦA THÁNH GIÁ

21-02-2001
Đức Cha GB. Bùi Tuần
 

Sáng thứ bảy vừa qua (17.02) tôi đi thành phố, để chuẩn bị ngày hôm sau bay sang Rôma, dự: 21-02-2001 Bùi-Tuần 795

Sáng thứ bảy vừa qua (17.02) tôi đi thành phố, để chuẩn bị ngày hôm sau bay sang Rôma, dự lễ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.
Khi xe vừa qua Long An, thì được  tin báo: Cha Vinhsơn Đoàn Xuân Hãn đã qua đời. Tin đó quá bất ngờ. Tôi nghĩ là tôi đã nghe lầm. Và suốt mấy giờ sau, tôi vẫn hy vọng: Đó là một thông tin sai.
Nhưng khi biết tin Cha Vinhsơn chết là hoàn toàn đúng, tôi đã quyết định dứt khoát không đi Rôma nữa, để quay trở về tiễn đưa Cha Vinhsơn.
Hình ảnh đầu tiên của Cha Vinhsơn hiện lên trong lòng trí tôi là hình ảnh một linh mục yêu thương, khiêm tốn, chân thành.
Khi có những chuyện rắc rối phức tạp xảy ra, ngài và tôi thường chia sẻ với nhau Lời Chúa dạy: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,36).
Tôi thấy suốt đời linh mục, Cha Vinhsơn đã cố gắng sống Lời Chúa dạy trên đây. Đó là một giáo lý rất đơn sơ, nhưng hậu quả lại hết sức quan trọng. Vì thế, khi nghĩ rằng: Giờ chết là giờ của Sự Thực, nên tôi tin tưởng Cha Vinhsơn giờ đây đang được hưởng sự thực của Lời Chúa hứa. Cha đã không xét đoán, Cha đã không kết án, thì Chúa cũng không xét đoán và kết án Cha.
Đó là an ủi đầu tiên Chúa gởi vào lòng tôi. Thêm vào đó là những  an ủi vì những công việc tốt lành khác Cha đã làm cho giáo phận, nhất là cho họ đạo Thánh Linh này.
Cách đây hơn 30 năm, tôi đã đến đây dâng thánh lễ. Lúc này, tôi còn nhớ rất rõ khu nhà thờ nhà xứ thuở đó. Thực là tiêu điều, thực là thê thảm. Thế mà hôm nay mọi sự đã đổi mới một cách lạ lùng, rất khác xưa. Phải nhận kết quả này một phần lớn là nhờ Cha Vinhsơn.
Cùng với việc  xây dựng cơ sở vật chất, Cha Vinhsơn đã lo gởi con em họ đạo đi học, để thăng tiến con người của họ đạo. Cha còn một số dự án xã hội, để góp phần nâng cao trình độ kinh tế và văn hoá của đồng bào lên.
Nhưng điều đáng nói hơn, chính là sự Cha Vinhsơn lo xây dựng Nước Trời trong lòng con người. Xây dựng không những bằng hoạt động Lời Chúa, sinh hoạt bí tích, mà còn bằng cách sống của Cha. Cuộc sống của Cha là yêu thương. Yêu thương được thể hiện bằng sự phục vụ hy sinh cho đoàn chiên, bằng tình nghĩa với anh em linh mục, bằng tế nhị với xã hội, bằng gắn bó hiệp nhất với các bề trên trong giáo phận, nhất là bằng sự năng cầu nguyện với Chúa.
Cha Vinhsơn rất hợp với chúng tôi trong quan điểm cứu độ. Là môn đệ Đức Kitô, chúng tôi chủ trương phải bắt chước gương mẫu cứu độ của Đức Kitô.
Đức Kitô đã chọn cách cứu độ nhân loại bằng tình yêu hy sinh và cầu nguyện, và thường là trong thinh lặng âm thầm.
Chúng ta thấy điều đó nơi Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu, tại dinh Philatô, suốt dọc đường vác thánh giá, và trên đồi Calvariô. Ý Chúa Cha đã muốn thế. Và Đức Kitô đã vâng phục như thế.
Hôm nay, tôi nhìn cái chết của Cha Vinhsơn trong sự thinh lặng của thánh giá Chúa Giêsu. Và tôi hiểu: Sự thinh lặng can đảm yêu thương của thánh giá Chúa Giêsu và sự thinh lặng yêu thương can đảm của thánh giá những môn đệ Chúa Giêsu chính là những  giá trị  thương yêu có sức cứu độ, mà Chúa Cha đang đợi chờ cho thời điểm hiện nay.
Với chia sẻ trên đây, tôi muốn gởi tới gia đình Cha Vinhsơn tâm tình quí mến và biết ơn của tôi, và tôi muốn gởi tới họ đạo Thánh Linh những nhắc nhở  tâm huyết  của tôi.
Ngày đầu năm nay, tôi đã báo: Năm nay sẽ xảy ra nhiều bất ngờ. Sự ra đi của Cha Vinhsơn là một bất ngờ đau đớn. Tôi nghĩ đây chưa phải là đã hết bất ngờ. Vì thế, chúng ta phải vâng lời Chúa dạy mà luôn tỉnh thức và cầu nguyện.
Giờ đây Cha Vinhsơn đang thấy rõ sự thực. Xin Cha cầu nguyện cho chúng tôi nhận thức rõ sự thực về phần rỗi và sự cứu độ nhân loại.
Ơn phần rỗi, ơn cứu độ là những ơn vô cùng quí giá Chúa ban. Chúa ban, nhưng mỗi người phải biết đón nhận và cộng tác vào bằng những lựa chọn tự do của mình. Sự lựa chọn tự do sau cùng rất can đảm và rất tốt đẹp, mà Chúa Giêsu đã nêu gương, đó là sự thinh lặng của thánh giá.
Theo gương Chúa Giêsu, Cha Vinhsơn đã yêu thương trong thinh lặng. Cha đã đau đớn trong thinh lặng. Cha đã  hy sinh trong thinh lặng. Cha đã cầu nguyện trong thinh lặng. Cha đã vâng phục trong thinh lặng. Cha đã ra đi trong thinh lặng.
Xin cảm ơn Cha đã để lại một gương sáng tốt đẹp. Tôi tin rằng chúng ta vẫn thường xuyên gặp nhau trong thinh lặng của tình yêu vâng phục và hy sinh nơi Chúa Giêsu là Đấng cứu độ đem lại sự phục sinh cho chúng ta. Amen.
Bài giảng thánh lễ an táng Linh mục Vinhsơn Đoàn Xuân Hãn, tại nhà thờ họ đạo Thánh Linh, ngày 21.02.2001

 

Bùi-Tuần 796: ĐỒNG CẢM 23-02-2001

Khi vừa được Cha Hồ Văn Xuân ngỏ ý muốn tôi giảng lễ an táng cu thân sinh Tađêô, tôi liền: 23-02-2001 Bùi-Tuần 796

Khi vừa được Cha Hồ Văn Xuân ngỏ ý muốn tôi giảng lễ an táng cụ thân sinh Tađêô, tôi liền mở Phúc Âm ra, theo thói quen cầu nguyện dựa trên Lời Chúa.
Lúc đó, lòng tôi đang bộn bề nhiều đau buồn lo lắng. Riêng của tôi thì ít, mà chung của Hội Thánh và Đất Nước thì nhiều.
Tự nhiên, tôi gặp bài Phúc Âm thánh Gioan đoạn 17, mà chúng ta vừa nghe. Thoáng liếc qua, tôi cảm thấy một nguồn sáng đem lại mát mẻ bình an. Thế là tôi dừng lại, đọc đi rồi đọc lại. Sau đó suy gẫm và chiêm niệm.
Từ cõi thinh lặng gặp gỡ Chúa trong một thời gian cầu nguyện, tôi cảm nhận được thánh ý Chúa gởi cho tôi. Thánh ý Chúa là: Hãy đơn giản hoá các vấn đề phức tạp, nhất là trong lãnh vực sống đạo, mục vụ và truyền giáo.
Trong cảm nghiệm thánh ý Chúa một cách rõ ràng như vậy, tôi nhìn cuộc sống đạo của Ông Bảy. Ông Bảy là một tông đồ giáo dân.
Theo tôi biết, thì Cụ Cố Tađêô, người tông đồ giáo dân này sống đạo một cách đơn sơ. Đơn sơ nhưng căn bản.
Tất cả cuộc sống đạo của Ông Bảy xuất phát từ sự đồng cảm với tâm tình của Chúa Giêsu và của đồng bào. Theo bài Phúc Âm vừa nghe, thì tâm tình của Chúa Giêsu:
Một là cảm nhận tha thiết và mãnh liệt Chúa Cha yêu thương mình: “Lạy Cha, Con biết là Cha đã yêu thương Con từ thuở trước khi tạo thành thế gian”.
Hai là khát khao tha thiết và mãnh  liệt tình Chúa Cha được chia sẻ sang những người khác, nhất là những người thuộc về mình: “Lạy Cha, Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha... Để tình Cha yêu Con cũng ở trong chúng và Con cũng ở trong chúng nữa”.
Theo tôi, về mặt tâm lý thì nguồn mạch ơn gọi là sự đồng cảm. Người tông đồ là người đồng cảm một cách mãnh liệt tâm tình của Chúa Giêsu, đồng thời cũng đồng cảm mãnh liệt với thân phận khó nghèo của đồng bào mình.
Ông Bảy diễn tả những đồng cảm đó bằng sự phục vụ giáo xứ, giáo phận, xã hội, đặc biệt là bằng cách dâng con mình phục vụ Chúa trong đời tu, và qua sinh hoạt thánh nhạc.
Những đề tài thánh nhạc mà tôi cho là hợp với dấu chỉ của thời đại hiện nay tại Việt Nam lúc này mà Cụ Cố đã tham gia đó là ca tụng lòng thương xót Chúa, qua những việc Chúa đang làm cho Hội Thánh Việt Nam.
Thí dụ như:
Ít ca tụng chức cao quyền trọng cai trị, nhưng ca tụng nhiều hơn tinh thần phục vụ, khiêm tốn, cần cù, như lời Chúa Giêsu phán: “Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27). “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27).
Ít ca tụng những công trình nguy nga lộng lẫy mà trống rỗng, nhưng ca tụng nhiều hơn những chiếc bình sành nhưng mang kho tàng châu báu, như lời thánh Phaolô dạy: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cor 4,7).
Ít ca tụng những ý riêng lớn tiếng, nhưng ca tụng nhiều hơn người tôi trung nhỏ nhẹ được Thiên Chúa sai đi, như lời Chúa phán: “Ngài sẽ loan báo công lý trước mặt muôn dân, Ngài sẽ không cãi vã, không kêu to. Chẳng ai nghe thấy tiếng Ngài lớn tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy. Ngọn đèn còn leo lắt, Ngài chẳng nỡ tắt đi. Cho tới khi Ngài đem công lý đến toàn thắng. Và muôn dân đặt hy vọng nơi Ngài” (Mt 12,18-21).
Không  ca tụng những phô trương hình thức, nhưng ca tụng những thực chất mà khiêm tốn hiền hoà, như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy học với Thầy, vì Thầy khiêm nhường và hiền từ trong lòng” (Mt 11,29).
Không ca tụng những khôn ngoan hẹp hòi, nhưng ca tụng điều răn thương yêu, như lời Chúa Giêsu dạy: “Đây là điều răn mới của Thầy, là anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu anh em” (Ga 15,22).
Không ca tụng hình ảnh Thiên Chúa nghiêm khắc xa vời, nhưng ca tụng một Thiên Chúa là tình yêu gần gũi, giàu lòng thương xót như lời thánh Gioan dạy: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Bản nhạc hay nhất chính là cuộc sống đạo tuân phục thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha được mạc khải nơi Chúa Giêsu. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi về Nhà Cha, trên những ngả đường đời cụ thể, trong từng giai đoạn cụ thể của lịch sử, của Đất Nước và Hội Thánh. Chính vì thế, mà phải luôn luôn nhờ Chúa Thánh Thần. Để bản nhạc đời ta được đồng cảm với Hội Thánh, đồng cảm với Đất Nước, đồng cảm với dân, nhất là đồng cảm với Đức Kitô.
Tôi có nhiều lý do để hy vọng cuộc đời Ông Bảy là một bản nhạc dạt dào những đồng cảm như thế. Và Ông Bảy cũng đã để lại cho con cháu và những người thân, nhất là Cha Xuân, những đồng cảm quí báu.
Giờ đây, Ông Bảy đang thấy rõ những đồng cảm nào là quan trọng nhất của đời người. Chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn Ông Bảy được mau về với Chúa. Và xin Ông Bảy cũng cầu nguyện cho chúng tôi, để biết đồng cảm, để biết thương cảm, để biết nhạy cảm, để biết truyền cảm, xứng đáng là những môn đệ thích hợp của Chúa trên Quê Hương Việt Nam hôm nay.
Chúng ta hẹn sẽ lại gặp nhau, bên nhau, và cùng nhau hát bài ca mới như thánh vương David để ca tụng Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa chúng ta muôn đời. Amen.
Bài giảng thánh lễ an táng Ông Cố Tađêô Hồ Trung Trinh, thân phụ Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân. Tại Nhà Thờ Gia Định, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 23 tháng 02 năm 2001

 

Bùi-Tuần 797: VIẾNG ĐÀNG THÁNH GIÁ 06-03-2001

 GB.Bùi Tuần - Mùa Chay
 

Trong mùa chay, nhiều người có thói quen viếng đàng thánh giá. Hoặc làm chung, hoặc làm: 06-03-2001 Bùi-Tuần 797

Trong mùa chay, nhiều người có thói quen viếng đàng thánh giá. Hoặc làm chung, hoặc làm riêng. Hoặc làm trong nhà thờ, hoặc làm nơi thích hợp. Hoặc làm cách này, hoặc làm cách khác.
Đó là việc đạo đức. Bởi vì việc đó có thể sinh được nhiều kết quả tốt lành. Một trong những kết quả tốt lành đáng nói nhất là giúp chúng ta biết cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa. Trước là cứu độ chính bản thân mình và cộng đoàn mình. Sau là cứu độ xã hội của mình, nhân loại của mình.
Để việc viếng đàng thánh giá sinh được kết quả cứu độ như vậy, chúng ta cần thực hiện việc đó với tinh thần cầu nguyện và suy niệm.
Một cách cầu nguyện và suy niệm đơn sơ, khi viếng đàng thánh giá, là hiệp thông với tâm tình của Đức Mẹ.
Trong suốt cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không ai đã đụng tới Đức Mẹ. Thân thể Đức Mẹ vẫn được toàn vẹn. Nhưng Đức Mẹ đã đau khổ tột độ. Trung tâm đau khổ nơi Đức Mẹ là trái tim. Từ nơi đó, cơn đau khổ đã tràn ngập tất cả con người Đức Mẹ.
Giao tranh giữa sự thiện và sự ác.
Tấm lòng Đức Mẹ đã rất đau đớn, khi phải chứng kiến cuộc giao tranh ác nghiệt giữa sự thiện và sự ác. Sự thiện là chân lý và tình yêu khiêm nhường hy sinh nơi Chúa Giêsu. Sự ác là những sai lầm và ghen ghét ác độc nơi những người kết án Chúa Giêsu.
Trong cuộc giao tranh giữa sự thiện và sự ác, Đức Mẹ cảm nghiệm được những thực tế quá phũ phàng.
Đúng lý ra, việc lành thánh phải luôn sinh ra kết quả lành thánh. Thế nhưng, thực tế cho thấy việc lành thánh nhiều khi lại là cớ sinh ra ghen ghét chống đối hận thù. Chúa Giêsu luôn nói lời lành thánh, luôn làm các việc lành thánh. Chính bản thân Ngài là Đấng thánh, là đường, là sự thực và là sự sống. Ay thế mà, người ta đã chống đối, đã ghen ghét, đã kết án Ngài. Như lời tiên tri Isaia đã nói xưa: “Người là một thánh điện, và một tảng đá... Nhiều người vì đó mà sẩy chân, té ngã, nát tan” (Isaia 8,14-15).
Đúng lý ra, lòng con người phải luôn nuôi dưỡng những tư tưởng lành mạnh, nhưng thực tế cho thấy lòng người cũng nuôi dưỡng những tư tưởng hắc ám, từ đó sẽ hình thành những lời nói và việc làm tội lỗi phạm đến Chúa và gây đau khổ, thiệt hại cho người khác. Như lời Chúa Giêsu đã nói: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những tư tưởng xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người trở nên dơ bẩn” (Mc 7,21-23).
Đúng lý ra, những người có đạo, được sống gần Chúa Giêsu, phải hiểu Ngài hơn, phải thương Ngài hơn, phải bênh vực Ngài hơn. Nhưng thực tế cho thấy ngược lại, như Phúc Âm kể:
Nhiều người đồng hương với Chúa Giêsu ở Nagiarét đã được Chúa Giêsu kính trọng, thương mến, nhưng khi nghe thấy Ngài muốn đổi mới cách sống đạo của họ, họ liền đổi thái độ. Họ tức giận Ngài, muốn loại trừ Ngài (Lc 4,28-29).
Nhiều người trong số bà con dòng tộc Chúa Giêsu, tuy thương Ngài, nhưng trước dư luận chống đối, họ cũng đã hiểu lầm Ngài, đến nỗi đã tưởng Ngài là người tâm thần, mất trí (Mc 3,20-21).
Các tông đồ là những người được Chúa Giêsu đào tạo rất kỹ, nhưng khi bị thử thách, kẻ thì nộp Ngài, kẻ thì bỏ trốn, thậm chí vị đứng đầu các tông đồ còn chối bỏ Ngài (Mc 14,50.70).
Dân chúng đã nghe Ngài giảng bác ái, đã thấy Ngài làm việc bác ái, thế mà khi bị khích động, họ đã dám chọn tên trộm cướp Baraba chứ không chọn Ngài (Mt 27,20-26).
Những thực tế phũ phàng đó là những lưỡi gươm đâm vào trái tim Đức Mẹ. Nhưng chính những thực tế đó đã cho Đức Mẹ thấy quyền lực sự ác mạnh đến độ nào, sự yếu đuối con người sâu đến mức nào, con người dùng tự do để chọn lựa sự dữ một cách dễ dàng thế nào. Do vậy cuộc chiến của sự thiện chống lại sự ác đòi phải dựa vào sức thiêng của Chúa.
Nhất là có những sai lầm đã biến thành ác độc. Như trường hợp những thượng tế, luật sĩ, kỳ lão đối với Chúa Giêsu. Như thể họ bị ác quỉ Satan sai khiến. Họ nhân danh đức tin để kết án loại trừ Đức Kitô. Mà Ngài chính là Thiên Chúa làm người, đến trần gian để cứu độ trần gian.
Thực tế đó càng cho Đức Mẹ cảm nghiệm việc cứu độ con người không đơn giản chút nào. Muốn thắng được tinh thần ác quỉ Satan đang thống trị nhiều người, người cứu độ phải khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa.
Những việc phục vụ cứu độ.
Vì thế, để đổi mới lòng người, đổi mới tôn giáo, đổi mới xã hội, Chúa Giêsu đã dùng lời giảng, đã dùng phép lạ, đã dùng cầu nguyện. Nhưng sau cùng Ngài đã thinh lặng dâng mình chịu khổ nạn và chết trên cây thánh giá làm giá cứu độ. Đức Mẹ cũng đã hiệp thông những đau đớn đó một cách thinh lặng.
Khi thinh lặng chịu đau khổ, làm của lễ cứu chuộc, Đức Mẹ cũng như Chúa Giêsu đã làm chứng 3 điều này:
Một là làm chứng cho tình yêu cứu độ. Tình yêu có sức cứu độ phải là tình yêu rất khiêm nhường và chấp nhận mọi hy sinh. Đau khổ tự nó không có sức cứu độ, nếu không đi kèm sự thức tỉnh lương tâm và trở về tình yêu phục vụ khiêm tốn hy sinh.
Hai là làm chứng cho đức tin. Phải tin vững vàng vào lời Chúa hứa. Đó là phải qua con đường khổ nạn mới tới được phục sinh. “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sự loại bỏ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9,22).
Ba là làm chứng cho sự khiêm nhường tuân phục thánh ý Chúa Cha. “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa như Kinh Thánh đã chép về con” (Dt 10,4-7).
Tất cả những sáng kiến đạo đức trên đây của Chúa Giêsu và Đức Mẹ đều là những phục vụ rất lành thánh, rất anh hùng, đầy ơn cứu độ, nhưng lại rất thinh lặng.
Trong thinh lặng.
Suốt cuộc đời cứu độ, các Ngài nói rất ít, nhưng thinh lặng rất nhiều. Một sự thinh lặng như mặt trời lặng lẽ chiếu toả ánh sáng nuôi dưỡng muôn loài.
Chúa Giêsu là Đấng cực thánh, chịu khổ nạn trên thánh giá, nhưng thinh lặng như một tình yêu phục vụ khiêm nhường, hy sinh, bao dung, tuân phục thánh ý Chúa Cha. Chính vì thế mà Ngài trở nên Đấng cứu độ nhân loại, có quyền năng cứu độ vô cùng mạnh.
Đức Mẹ là Đấng rất thánh, chịu đau khổ dưới chân thánh giá, nhưng thinh lặng như một của lễ hiến dâng phục vụ hết mình và khiêm tốn. Chính vì thế mà Người trở nên Đấng đồng công cứu độ, có quyền năng cầu bầu rất mạnh ơn cứu độ cho chúng ta.
Với những chất lượng của thinh lặng đạo đức như trên, thinh lặng của thánh giá có thể được coi là quê hương của những người mạnh.
Khi viếng đàng thánh giá, chúng ta nên suy gẫm những gương sáng trên đây của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Và cũng hãy cầu nguyện để biết phục vụ ân cần khiêm tốn, góp phần vào công trình cứu độ của Chúa. Nhất là hãy cầu xin cho chính mình được ơn sám hối trở về với Chúa là tình yêu.
Chắc chắn là chúng ta sẽ còn vô vàn sai lỗi. Nhưng với thiện chí cầu nguyện, suy niệm và tập luyện trên chặng đường thánh giá, chúng ta có quyền hy vọng: Ít ra tình yêu phục vụ khiêm nhường và hy sinh cũng sẽ dần dần trở thành tâm thức đạo đức trong con người chúng ta, làm nền tảng cho việc đào tạo bản thân mình và những người thuộc về chúng ta.
Long Xuyên, ngày 06 tháng 03 năm 2001

Đức Giám Mục J.B. Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 798: ÔNG BẠN TRỘM LÀNH 13-03-2001

GB. Bùi Tuần - Long Xuyên  - 5 Tuần thánh.
 

Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai người trộm cướp. Hai người này cũng bị đóng đinh. Người: 13-03-2001 Bùi-Tuần 798

Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai người trộm cướp. Hai người này cũng bị đóng đinh. Người bên hữu Chúa Giêsu thường được gọi là kẻ trộm lành. Bởi vì ông đã trở lại, và Chúa Giêsu đã hứa ban phúc thiên đàng cho ông ngày hôm đó.
Tất nhiên, hiện nay ông đang hưởng hạnh phúc trường sinh trong Nước Chúa. Tôi nghĩ là ông có nhiều kinh nghiệm về sự ông gặp được Chúa Cứu thế. Nên tôi hay cầu nguyện và tâm sự với ông. Trong tình nghĩa, tôi gọi ông là ông bạn trộm lành.
Tâm sự giữa tôi và ông bạn trộm lành bao giờ cũng diễn ra một cách âm thầm thanh thản, bên cạnh Chúa Giêsu.
Ông bạn cho biết: Những gì đã xảy ra cho ông trên thánh giá và đã đưa ông về với Chúa đều làm chứng cho Tin Mừng. Sau này ông mới biết những điều đó đã được Chúa Giêsu giảng dạy trước đây cho công chúng.
Tin Mừng theo ông trộm lành được tóm tắt ở những điểm sau đây:
Cảm nghiệm kết quả lạ lùng của ba việc đạo đức.
Ông bạn trộm lành cho tôi biết là: Trên thánh giá, ông đã thực hiện ba việc đạo đức đơn sơ: Chay tịnh, bố thí và cầu nguyện.
Việc chay tịnh của ông là việc ông phấn đấu dẹp tính kiêu căng, hận thù lúc đó đang bừng bừng nổi dậy trong ông. Để rồi ông đã chọn thái độ khiêm nhường, nhận mình là kẻ phạm pháp, phải chịu phạt là đáng tội.
Việc bố thí của ông là việc ông đã cảm thương lên tiếng bênh vực người bị đóng đinh bên cạnh ông, mà sau này ông đã được biết, Ngài là Đấng Thánh và là Đấng cứu thế.
Việc cầu nguyện của ông là việc ông xin Chúa Giêsu nhớ đến ông, khi Chúa đã về trời.
Tất cả ba việc trên đây đã được ông thực hiện một cách chân thành, kín đáo, khiêm nhường.
Kết quả thực lạ lùng, Cha trên trời đã thấy, đã đón nhận và đã trọng thưởng. Sau này, ông bạn mới biết là tất cả những sự đó đều đã được Chúa Giêsu nói trước trong các bài giảng của Người. “Khi làm việc lành phúc đức, anh em hãy coi chừng, chớ có phô trương. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1).
Vì thế, khi chay tịnh thì đừng phô trương, nhưng hãy làm kín đáo “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,16-16),
Khi bố thí, thì đừng phô trương, nhưng hãy làm kín đáo “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,4).
Khi cầu nguyện, thì cũng đừng phô trương, nhưng hãy làm kín đáo “Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,6).
Thực sự, Cha trên trời đã thưởng cho ông. Phần thưởng đó là cho ông gặp được Đấng cứu thế.
Cảm nghiệm sự gặp gỡ Đức Kitô là một hồng ân quí giá.
Ông bạn trộm lành tâm sự với tôi là: Khi được ơn nhận ra người bị đóng đinh bên cạnh mình là một Đấng rất thánh, thì dần dần tất cả gánh nặng đang đè nặng trên ông đều nhẹ dần.
Gánh nặng là biết bao tội lỗi. Gánh năng là những mặc cảm, nhục nhã. Gánh nặng là những thất vọng, những bế tắc. Gánh nặng là những khổ đau thân xác, những buồn bực trong lòng. Tất cả đều hết sức nặng nề. Nhưng tất cả bỗng nhẹ dần, khi gặp được Đức Kitô. Thay vào những gánh nặng là những hạnh phúc. Tâm hồn được bình an, được tràn đầy hy vọng, được chan chứa tình thương. Ông như được bước vào cuộc sống mới, dẫn tới phục sinh.
Sau này, ông bạn mới thấy là những gì ông cảm nghiệm lúc đó đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã hứa trước với dân chúng “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy và hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng nhân hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái, và gánh của Thầy thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Cảm nghiệm được Đức Kitô là Mục tử rất tốt lành.
Ông bạn trộm lành cũng cho tôi thấy là ông đã được Chúa đưa về đàng lành một cách nhẹ nhàng. Từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Ông tưởng là ông bị Chúa từ bỏ, kết án. Nhưng Chúa lại đã rất thương ông. Thương nhất là ở chỗ chính Chúa chọn đi con đường khổ đau nhất, để cùng chịu đóng đinh như ông, nhờ vậy mà ông đã gặp được Chúa.
Ông tưởng là có thể Chúa sẽ tha tội cho ông, với điều kiện là ông sẽ bị trách mắng, hạch hỏi. Thế nhưng, ông đã không hề bị như thế. Chúa không có một lời nào nhắc tới những tội lỗi xưa ông đã phạm.
Ông tưởng là may ra Chúa sẽ cho ông được lên thiên đàng, nhưng phải đợi sau một thời gian đền tội. Thế nhưng, ông được Chúa hứa là sẽ hưởng phúc thiên đàng với Chúa ngay hôm đó.
Cảm nghiệm những hạnh phúc bất ngờ này đã làm chứng rằng: Đức Kitô là mục tử rất nhân lành. Sau này, ông mới biết những gì Đức Kitô đã nói về mình Ngài là Mục tử nhân lành đều đã được ứng nghiệm. “Thầy chính là Mục tử nhân lành. ... Thầy hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Thầy còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Thầy cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,14-16)
Tâm sự giữa ông bạn trộm lành và tôi thường xoay quanh mấy chia sẻ trên đây. Nhờ những tâm sự đơn sơ này, tôi cảm thấy mình được an ủi. Bởi vì tôi coi mình cũng là một thứ tội nhân. Có thể còn tệ hơn ông bạn trộm lành.
Nhưng qua chia sẻ của ông bạn, tôi nhận ra tình thương xót Chúa là vô cùng lớn lao. Tôi tin là Chúa thương tôi, và đi tìm tôi, vì tôi yếu đuối, hèn mọn.
Tin Mừng mà ông bạn trộm lành chia sẻ cho tôi, cũng là Tin Mừng gởi tới tất cả những người tội lỗi, yếu đuối như tôi.
Xin hết lòng tạ ơn Chúa đã gởi đến cho tôi một chứng nhân của Tin Mừng đang rất cần cho tôi. Xin ông bạn trộm lành thân thiết của tôi đừng quên cầu nguyện cho tôi mỗi ngày và mọi ngày.

 

Bùi-Tuần 799: XIN ƠN CỨU ĐỘ 14-03-2001

Đức Cha G.B. Bùi Tuần
 

Khi cầu xin Chúa ban ơn cứu độ, chúng ta thường hiểu ơn cứu độ là ơn cứu chúng ta khỏi hoả: 14-03-2001 Bùi-Tuần 799

Khi cầu xin Chúa ban ơn cứu độ, chúng ta thường hiểu ơn cứu độ là ơn cứu chúng ta khỏi hoả ngục để được lên thiên đàng. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, chúng ta cũng hiểu ơn cứu độ là ơn cứu chúng ta khỏi đàng tội lỗi để đi vào đàng nhân đức. Hiểu được như thế cũng đã là tốt rồi.
Giải cứu khỏi những sai lầm.
Nhưng thiết tưởng cần đi xa hơn. Kinh nghiệm cho thấy: Ơn cứu độ mà chúng ta luôn rất cần cầu xin, chính là ơn giải cứu chúng ta khỏi những sai lầm thường ngày xem ra đang ngự trị trong ta. Sai lầm nói đây là những hiểu biết lệch lạc về đạo đức, có khả năng gây tai hại lớn cho chính mình ta, cho Hội Thánh ta, cho việc loan báo Tin Mừng.
Những sai lầm như thế gồm nhiều loại như: Sai lầm trong cái nhìn về chính mình, sai lầm trong cách đánh giá người khác, đặc biệt là những người ngoài công giáo, sai lầm về cách sống đạo và làm chứng cho Chúa, sai lầm về cách huấn luyện đào tạo chính mình và nhân sự tôn giáo của mình, sai lầm về căn bản Tin Mừng, sai lầm trong việc thẩm định kế hoạch cứu độ của Chúa.
Các sai lầm đó thường do nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là sự tự đắc, tự phong những tư tưởng  của mình thành chân lý.
Hơn nữa, bộ mặt chân lý và sai lầm không dễ nhận ra. Cả hai cùng bên nhau, cùng đồng hành với nhau trên cùng một con đường, cùng sống chung trong chính con người của ta.
Đôi khi sai lầm lại đem lại một số hiệu quả thực dụng trước mắt. Nhất là khi sai lầm lại hợp với tính tình, thành kiến của ta, và còn được dư luận xung quanh hỗ trợ.
Vì thế, nhiều khi người ta cứ mãi đi sâu vào thế giới sai lầm một cách hãnh diện. Đang khi chúng âm thầm gây tai hại cho phần rỗi ta, cho Hội Thánh ta, cho lòng đạo của thế hệ con cháu chúng ta sau này.
Để giải cứu chúng ta khỏi những sai lầm về đạo đức, tất nhiên phải học hỏi thường xuyên, phải lắng nghe Chúa nói với ta qua cầu nguyện, qua gẫm suy Kinh Thánh, qua các dấu chỉ thời đại, qua những người khác. Tôi xác tín là phải nhờ ơn cứu độ của Chúa. Nhưng muốn đón nhận ơn cứu độ của Chúa, chúng ta rất cần có thái độ khiêm tốn, khó nghèo nội tâm.
Để góp phần vào việc dọn tâm hồn cho khiêm tốn khó nghèo, hầu đón nhận được ơn cứu độ, tôi xin nêu lên một ít lời Chúa cảnh giác chúng ta về những sai lầm rất thường xảy ra.
Sai lầm trong cái nhìn về mình.
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ rằng: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23).
Theo lời Chúa Giêsu trên đây, thì có những người tưởng mình là đạo đức, chắc chắn được Chúa nhận vào Nước Trời, bởi vì họ nại vào những việc họ làm, mà họ cho là tốt. Nhưng họ đã sai lầm. Sai lầm của họ là ở chỗ họ làm các việc đó, hoặc không do động lực tuân phục thánh ý Chúa, mà do động lực ý riêng, hoặc làm với một cách nào đó cũng không hợp ý Chúa. Thực tế hôm nay càng cho thấy điều đó. Biết bao người tưởng mình làm việc tốt, nhưng lại không được Chúa chấp nhận, hoặc vì động lực là tự ái, hoặc cách làm là phô trương.
Sai lầm về cách sống đạo.
Trong đời sống đạo, không thiếu người coi trọng việc mến Chúa, nhưng coi nhẹ việc thương người. Đó là một sai lầm lớn. Thánh Gioan viết: “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đón nhận được từ Người: Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 5,19-21).
Yêu thương người khác là thế nào?
Thưa yêu thương là trọng kính nhân hậu đối với mọi người, cả trong tư tưởng và phán đoán. Chúa Giêsu dạy: “Các con  hãy có lòng nhân từ, như Cha các con là  Đấng nhân từ. Các con đừng xét đoán, thì các con sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Các con đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Các con hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,36-37). “Các con muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). 
Yêu thương là chia sẻ. Thánh Gioan viết: “Ai có của cải thế gian, và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1Ga 3,17). “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).
Yêu thương là đối xử tốt với những người làm hại mình. Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa các con và hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống cho các con” (Lc 6,27-28).
Yêu thương là  xây dựng những liên hệ tốt bằng tinh thần khiêm tốn, bao dung. Thánh Phaolô viết: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau. Đừng tự cao tự đại. Nhưng hãy thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan. Đừng lấy ác báo ác. Hãy chú tâm vào những điều mọi người  cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì có thể, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,14-20). “Anh em đừng mắc nợ gì với ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người, thì đã chu toàn lề luật” (Rm 14,8).
Yêu thương là phục vụ và hy sinh góp phần vào hy tế của Chúa. Chúa Giêsu phán: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Phúc Âm nói rất rõ và rất nhiều về bác ái yêu thương. Nhưng vẫn còn nhiều sai lầm trên thực tế sống đạo. Có những sai lầm vô tình và có những sai lầm mang trách nhiệm.
Trên đây chỉ là vài loại sai lầm tượng trưng. Chỉ riêng mấy loại sai lầm này cũng đã đủ gây tai hại lớn cho đạo Chúa. Ấy thế mà, nhiều khi, trong hồi tâm, sám hối, đổi mới, trở về, chúng ta lại không quan tâm đến việc giải cứu mình khỏi những sai lầm, nhất là những sai lầm có liên quan đến việc sống đạo và truyền giáo.
Hiện tình Việt Nam tại nhiều nơi được coi là rất thuận lợi cho việc truyền giáo. Nếu biết sớm loại trừ những sai lầm về đào tạo, và biết nhạy bén, nắm bắt cơ hội, linh động sáng tạo những phương cách thích hợp, trong lãnh vực phục vụ Lời Chúa và con người, nhất là tăng cường cầu nguyện và tu thân, thì cánh đồng truyền giáo sẽ thu hoạch được nhiều kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con ơn cứu độ, trong đó có ơn giải cứu chúng con khỏi những sai lầm có hại cho việc sống đạo và truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Long Xuyên, ngày 14 tháng 3 năm 2001

 

Bùi-Tuần 800: CHIA SẺ VÀI KINH NGHIỆM VỀ TRUYỀN GIÁO

19-03-2001
 

Truyền giáo là trăn trở lớn nhất trong đời giám mục của tôi. Dưới chế độ Cộng sản, truyền giáo: 19-03-2001 Bùi-Tuần 800

Truyền giáo là trăn trở lớn nhất trong đời giám mục của tôi. Dưới chế độ Cộng sản, truyền giáo thường được coi như một vấn đề không thể giải quyết được, thậm chí cũng không nên nhắc tới một cách công khai.
Tuy nhiên, sau 27 năm sống dưới chế độ Cộng sản và trong một địa phương có nhiều tôn giáo khác, tôi thấy việc truyền giáo tuy rất khó thực hiện, nhưng vẫn có thể thực hiện được phần nào đáng kể.
Truyền giáo đã thực hiện được, nhờ những việc sau đây. Xin hết sức vắn gọn.
1. Bản thân tôi và cộng đoàn của tôi luôn thao thức trở về với
Đức Kitô.

Người là Đấng cứu độ duy nhất, là đường, là sự thực và là sự sống. Người hiền lành và khiêm nhường, Người được sai đi để cứu độ. Tôi xác tín và cảm nghiệm điều này: Khi tôi ý thức mình được sai đi trong sự sai đi của Chúa Giêsu, để đưa nhiều người về với Chúa Cha, thì Chúa sẽ giúp tôi làm việc truyền giáo, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Với nhận thức mình phải trở về với Đức Kitô, tôi để ý rất nhiều đến việc đổi mới những cử hành thánh lễ, tôn sùng Thánh Thể và sống
Lời Chúa.

Đổi mới việc cử hành thánh lễ là đừng để việc cử hành thánh lễ trở thành máy móc, hình thức, lễ hội, phô trương, nhưng là một sự tiếp tục hy lễ của Chúa Giêsu cộng với hy lễ của chính bản thân mỗi người dự lễ.
Tôn sùng Thánh Thể được coi là trung tâm điểm đời sống giáo xứ.
Lời Chúa được đi sâu vào từng gia đình.
2. Luôn nhấn mạnh đến việc huấn luyện, đào tạo nhân sự.
Về Linh mục và tu sĩ, ngoài việc tĩnh tâm năm, còn có tĩnh tâm hàng tháng. Ngoài ra, cũng có từng nhóm linh mục đi tĩnh tâm thêm trong các tu viện chiêm niệm.
Nhiều linh mục trẻ được theo học trong các đại học trong nước và các nước ngoài.
Về các ứng viên vào đại chủng viện, chúng tôi có những chương trình huấn luyện tại các giáo xứ, giáo hạt và giáo phận.
Trong mỗi giáo xứ, có những lớp giáo lý, cho rước lễ lần đầu, rước lễ bao đồng, thêm sức, hôn nhân, tân tòng. Có những chương trình đào tạo giáo lý viên, huấn luyện các hội đồng giáo xứ, các gia trưởng, các bà mẹ, các nhóm cầu nguyện, các ca đoàn, các nhóm làm việc xã hội.
Trong mỗi giáo hạt, luôn có những liên đới giúp đào tạo giới trẻ.
Hiện nay số sinh viên công giáo theo học các Đại học và Cao đẳng là khá đông. Khoảng gần 2000 các em được giúp đỡ nhiều mặt, kể cả học bổng và nhà trọ.
3. Tăng cường việc dấn thân phục vụ người nghèo.
Phục vụ người nghèo là sinh hoạt thường xuyên của giáo xứ. Cụ thể là thăm viếng, chia sẻ. Trong một tình hình mà đời sống còn nhiều thiếu thốn, chúng tôi luôn phải để ý đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp, như lúa gạo, áo quần, nhà ở, nước sạch, thuốc men, công ăn việc làm, phương tiện sinh sống, học hành.
Công việc xã hội là rất mênh mông, chúng tôi làm hết sức mình, và làm cho mọi người, không phân biệt công giáo hay ngoài công giáo. Phục vụ một cách khiêm nhường và chấp nhận hy sinh.
4. Tìm cách để người công giáo được có mặt trong các lãnh vực
xã hội.

Khi người công giáo tài đức làm việc trong các trường học, các nhà thương, các báo chí, các tổ chức kinh tế, khoa học, nghệ thuật, văn hoá và chính trị, thì sự hiện diện tích cực của họ để phục vụ đồng bào là một cách làm chứng cho Tin Mừng.
Tình hình đất nước đang mở dần ra, để đón những người tài đức có khả năng phục vụ cao. Nếu công giáo không có sẵn nhân sự, thì đây là một sự bỏ lỡ cơ hội rất đáng tiếc.
5. Xây dựng các liên hệ tốt với các tôn giáo bạn và các tầng lớp
hội.

Trong việc xây dựng các liên hệ tốt, tôi cố gắng sống những gì Phúc Âm dạy về bác ái yêu thương. Không để ai lợi dụng, và không lợi dụng ai, chỉ gieo rắc yêu thương, công bình, chỉ giới thiệu Tin Mừng, và đồng thời cũng biết đón nhận những cái hay của người khác bất luận họ là ai. Phải nói thực là rất nhiều người ngoài công giáo đã sống các  giá trị  Phúc Âm một cách chân thành sâu xa, nhiều khi hơn những người công giáo bình thường.
6. Luôn giữ thái độ tỉnh thức Phúc Âm.
Kinh nghiệm mục vụ và truyền giáo cho tôi thấy: Người truyền giáo tại Việt Nam hôm nay rất cần giữ tâm hồn mình tỉnh thức, để biết sống khôn ngoan. Khôn ngoan của họ là đáp ứng sự khôn ngoan của Chúa, biết chọn đúng mục đích mà Chúa chọn, biết chọn đúng các phương tiện mà Chúa muốn, sao cho thích hợp với nơi và thời điểm mà Chúa sai họ vào, sao cho thích hợp với những nguồn lực mà họ có, sao cho đúng mức độ trong lời nói, việc làm và các ứng xử. Thái độ tỉnh thức Phúc Âm này  đòi hỏi một nền tu đức sẵn sàng vâng phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Tỉnh thức như thế là một cái nhìn phối hợp vừa trong lãnh vực siêu nhiên của Nước Trời, vừa trong lãnh vực tự nhiên thực tế của lịch sử.
***
Tất cả những gì tôi chia sẻ trên đây tuy có thể thực hiện được. Nhưng thú thực là trên thực tế đã không dễ dàng gì. Thường là những chặng đàng thánh giá. Thành công có, mà thất bại cũng có.
Mỗi ngày tôi nhìn về phiá trước và nói với mình: Hôm nay tôi bắt đầu lại. Tôi nghĩ truyền giáo là luôn luôn phải bắt đầu lại, với khiêm nhường và vững tâm phó thác. Thiết tưởng Chúa  chỉ đòi thế thôi. Rồi Chúa sẽ làm những sự lạ lùng, mà chỉ mình Chúa mới làm được.
Lễ thánh Giuse, ngày 19-3-2001

 

Tác giả: + GB. Bùi-Tuần

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây