Thánh Giuse là người thinh lặng. Tôi nghĩ là ngài cũng đã nói năng như mọi người bình thường. Nhưng, khi soi dẫn các thánh sử viết Phúc Âm, Chúa Thánh Thần đã chủ ý không muốn ai ghi lại lời nói nào của thánh Giuse. Sự kiện đó phải được coi là một lựa chọn tốt, đề cao sự thinh lặng của thánh Giuse như một vẻ đẹp. Hơn nữa đó cũng là một bài học đạo đức cho các thế hệ sau này. Như vậy, thánh Giuse là một trường học dạy thinh lặng. Nói đúng ra, thầy dạy ở trường này là Chúa Thánh Linh. Vì thế, mọi tài liệu bàn về sự thinh lặng của thánh Giuse, nhất là bài này, chỉ nên được coi là những gợi ý yếu ớt. Đọc thì cứ đọc, nhưng việc quan trọng cần làm để hiểu và để học, chính là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh. Riêng trong bài này, tôi chỉ xin chia sẻ vài suy nghĩ riêng tư. Có nghĩa là những suy nghĩ này đã ảnh hưởng đến đời tôi, từ đó tôi có phần nào kinh nghiệm. Điểm phát xuất những suy nghĩ sau đây của tôi là hình ảnh con trẻ Giêsu tại Nagiarét sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse thinh lặng: “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52). Theo cái nhìn đó, thánh gia là một cộng đoàn Hội Thánh cực nhỏ. Chúa Giêsu, tuy là con, nhưng là vai chính trong kế hoạch cứu độ, đổi mới con người. Đức Mẹ và thánh Giuse là những người cộng tác gần gũi nhất. Đây là những cộng tác viên đắc lực đưa lại kết quả cao. Bởi vì đã góp phần làm cho trẻ Giêsu được nổi tiếng là phát triển về khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta mến thương. Vậy, cộng tác đắc lực của thánh Giuse là gì? Thưa chính là sự cộng tác thinh lặng. Tất nhiên đây là sự thinh lặng tích cực. Thinh lặng tích cực đó được thể hiện như thế nào? Trước hết tôi nghĩ ngay tới sự thinh lặng tu thân. Thinh lặng tu thân. Phong tục Á Châu rất coi trọng việc tu thân. Những người muốn cải cách tôn giáo, chủ trương cứu độ, đổi mới con người và xã hội, thường phải xây dựng uy tín cho mình trước hết bằng việc tu thân. Thời này vẫn là thế. Thời xưa còn hơn bây giờ. Thánh gia là một cộng đoàn đề cao tu thân. Một cách tu thân bình dân, phổ thông, nhưng chất lượng cao. Trong cái nhìn ấy, thánh Giuse là một người tu tại gia. Nội dung tu thân của thánh gia nói chung và của thánh Giuse nói riêng là thực hiện trước những gì mà Chúa Giêsu sẽ rao giảng sau này. Có thể tóm gọn lại là tu thân nhắm mục đích trở nên một tạo vật mới, dần dần nên giống Chúa là tình yêu và kết hợp với Ngài là tình yêu . Muốn được thế, thì phải thực thi thánh ý Chúa, hết tình yêu mến Ngài, và chân thành yêu thương mọi người. Như vậy, tu thân là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo sẵn trong lòng mình. Tu thân là hằng ngày học hành tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Lựa chọn tốt nhất và quan trọng nhất là chu toàn bổn phận phục vụ của mình. Phục vụ tốt là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng lúc. Tất cả trong tình mến Chúa yêu người với mức độ cao nhất. Nhìn thoáng qua tu thân là như thế, chúng ta có thể tưởng tu thân là việc đơn sơ. Đúng là đơn sơ, nhưng chính là một cuộc phấn đấu thinh lặng cam go và thường xuyên với chính mình. Bởi vì có một vấn đề gai góc đứng đằng sau việc tu thân, đó là một sự thực phũ phàng mà thánh Phaolô đã thực thà thú nhận: “Vẫn biết rằng Lề luật là Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm ... Tôi biết là sự thiện không có ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi ... Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,14-23). Như thế, tu thân đòi phải học hành, tập luyện để biết phân định điều lành điều dữ. Biết rõ rồi, lại phải biết can đảm chọn lựa điều lành một cách tự do. Chọn rồi, lại phải kiên cường thực hành điều mình đã tự do chọn lựa. Để được thế, phải phấn đấu nhiều lắm, phải từ bỏ mình nhiều lắm, phải cầu nguyện nhiều lắm. Tôi dám chắc là thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã thực hiện việc tu thân một cách trọn vẹn từng ngày, từng tháng, từng năm. Suốt 30 năm tu thân trong thinh lặng, đúng là một hành trình phát triển ơn khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta thương mến. Suy nghĩ trên đây cho phép tôi rút ra một kinh nghiệm về mục vụ và truyền giáo. Đó là người có chức vụ cộng tác với Chúa vào kế hoạch cứu độ, đổi mới con người và xã hội, sẽ phải quan tâm rất nhiều đến việc tu thân nơi chính mình. Tu thân một cách thinh lặng là một yếu tố quan trọng có sức cứu độ. Rất mong kinh nghiệm này của thánh Giuse được sống lại mạnh mẽ nơi mỗi người tín hữu, nhất là nơi các tông đồ thời nay, bắt kỳ là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân. Thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Kinh nghiệm cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa được ban dồi dào cho những người thực sự tu thân. Và kinh nghiệm còn cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa còn được trao ban rất dồi dào cho những người gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Một nơi thuận lợi để Chúa gặp gỡ con người, chính là nơi thinh lặng: “Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc và sẽ nói với lòng nó” (Ose 2,14). Sa mạc là biểu tượng nơi yên tĩnh. Nơi yên tĩnh là không gian yên lặng, và nhất là tâm hồn thinh lặng. Ai cầu nguyện, suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng sẽ dễ gặp được Chúa. Và khi Chúa đã đến với lòng họ, Chúa lại làm cho lòng họ càng thinh lặng hơn. Để rồi lúc đó sự thinh lặng trở nên đầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong gặp gỡ thinh lặng này, con người không còn tìm hiểu Chúa nữa, mà là có chính Chúa. Họ cảm nghiệm được Chúa là tình yêu, là hạnh phúc của mình. Lúc đó con người sẽ thấy mọi sự đều rất đơn giản. Bất cứ việc gì tốt mình làm mặc dù bề ngoài coi là rất bé nhỏ, rất âm thầm, nhưng nếu làm với một tình mến lớn lao, chỉ vì Chúa, thì sẽ là việc rất giá trị có sức cứu độ, đổi mới bản thân, đổi mới con người và xã hội. Trong cuộc gặp gỡ ấy, con người cũng sẽ thấy rõ mình hơn. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ, nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó mà phải chết đi cho chính mình, để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong con người của mình, từ lớp ý thức cho đến lớp tiềm thức và vô thức sâu thẳm, từ trí khôn cho đến ý chí và tình cảm, ký ức, trí vẽ và mọi tiềm năng sáng tạo. Người học hành cần thinh lặng. Người nghiên cứu, suy nghĩ cần thinh lặng. Người sáng tạo cần thinh lặng. Người tìm minh triết cần thinh lặng. Người hồi tâm cần thinh lặng. Phương chi người muốn gặp gỡ, lắng nghe Chúa càng cần phải thinh lặng. Bởi vì Chúa muốn được phượng thờ trong tinh thần và trong chân lý, chứ không hài lòng với những hình thức ồn ào. Và bởi vì Chúa chỉ nói nhỏ nhẹ với những tâm hồn thinh lặng. Và bởi vì ơn đổi mới con người cũng chỉ được thực hiện nơi những người khiêm tốn, thinh lặng. Thánh Giuse, cần cù, nhiệt thành, tâm hồn khát khao tuân phục thánh ý Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ kiêu căng ích kỷ nào. Đó là một thinh lặng thuận lợi cho việc cầu nguyện, sống thân mật với Chúa, lắng nghe được ý Chúa. Thời gian thinh lặng cầu nguyện nơi thánh Giuse là suốt đời mình. Dài mấy chục năm. Đó là một cộng tác quí báu vào công trình cứu độ của Chúa. Đây là một gương sáng rất quan trọng, mà mọi người đang cộng tác với Chúa tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ và bắt chước. Bởi vì tôi thấy hiện nay sự thinh lặng cầu nguyện đang có chiều hướng giảm dần, nhường chỗ cho những hình thức thờ phượng và hoạt động tôn giáo nhiều khi quá ồn ào, trình diễn, chiếu lệ, phô trương, cạnh tranh, lố lăng. Thinh lặng cảm thương thân phận con người đau khổ. Bất cứ ở đâu và ở thời nào, lịch sử những người làm cách mạng chân chính đều làm chứng họ là những trái tim rực cháy lửa cảm thương số phận dân mình. Họ sống không những vì dân, cho dân, nhưng nhất là gần dân, giữa dân và như dân. Dân nói đây là lớp dân khổ đau. Họ đồng cảm nỗi lo nỗi khổ của lớp người đau khổ lo âu. Họ cùng trải qua những hoàn cảnh khó khăn bế tắc như lớp người nghèo khổ nhất. Trong 3 năm đi rao giảng, Chúa Giêsu tỏ ra Ngài đã có những cảm thương đặc biệt sâu sắc đối với mọi thứ người đau khổ. Riêng đối với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không ngại yêu thương, gần gũi, tìm đến, với tất cả tấm lòng cảm thương lạ lùng chưa từng thấy “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). Tôi nghĩ là trước đó thánh Giuse cũng đã âm thầm cộng tác với Chúa Giêsu trong lãnh việc cảm thương. Suốt mấy chục năm tại Nagiarét, thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã được dân nghèo coi như những người thân thương của họ. Và nhất là những người tội lỗi đã coi các Ngài như những người hiểu họ, thương họ, cảm hoá được họ, và lôi kéo được họ về đàng lành. Những cảm thương của thánh Giuse dành cho những người tội lỗi là rất sâu sắc. Bởi vì ngài được Đấng cứu độ chia sẻ cho sự thực về những nỗi kinh hoàng mà những kẻ tội lỗi sẽ phải gánh chịu. Nói cho đúng ra, thì không phải Chúa sẽ phạt họ, nhưng chính những việc xấu của họ sẽ kết án họ. Án rất nặng nề, rất đáng sợ. Vì cảm thương số phận người tội lỗi, thánh Giuse coi việc cứu con người khỏi xiềng xích tội lỗi là ưu tiên hàng đầu. Xiềng xích do tính xấu xác thịt, xiềng xích do thói xấu thế gian, xiềng xích do ác quỉ Satan, tất cả làm nên một hệ thống mãnh lực ghê gớm nô lệ hoá con người tội lỗi. Giải cứu họ là cả môt thách đố lớn. Khuyên bảo dạy dỗ chỉ là một phương cách thô sơ nhất. Trừng trị, đe doạ cũng vẫn chỉ là một cách may ra sinh kết quả tạm thời. Sau cùng Chúa Giêsu đã hết sức cầu nguyện và tự hiến mình chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Nhưng tội nhân sẽ chỉ được cứu, nếu họ biết đón nhận ơn tha thứ và cộng tác vào việc cứu độ của họ. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không biết đón nhân ơn cứu độ, đã không cộng tác vào ơn cứu độ. Đây là một thảm hoạ kinh hoàng, mà thánh Giuse đã thinh lặng cảm nhận. Do đó ngài đã âm thầm hiến dâng đời mình để cam lòng chịu mọi hy sinh cùng với Chúa Giêsu dấn thân vào con đường cứu độ. Giai đoạn sau cùng của Chúa Giêsu là sự thinh lặng chịu chết trên thánh giá. Thánh giá là khí cụ cứu độ. Tôi nghĩ là thánh Giuse cũng đã phần nào chia sẻ tất cả những chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Chia sẻ một cách thinh lặng, nhưng đã gây được kết quả tốt cho nhân loại. Sám hối, sửa mình, đổi mới cách sống, trở về đàng lành, đó là những việc rất cần có ơn thánh giá mới thực hiện được. Thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có kế hoạch riêng của Ngài. Trong kế hoạch đó, Thiên Chúa chọn một số người. Mỗi người được trao nhiệm vụ nhất định, để thi hành tại những nơi nhất định và trong thời điểm nhất định. Thánh Giuse được trao trách nhiệm bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chắc là ngài cũng biết nhiều chuyện về Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nhưng ngài thinh lặng. Ngài là người bảo mật tối đa. Ngài là người thận trọng tuyệt đối với trật tự mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã phần nào soi sáng cho ngài. Đó là phải tuân phục thánh ý Cha trên trời, như con trẻ Giêsu đã mạc khải: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao?” (Lc 2,49). Với sự thinh lặng và thận trọng đó, thánh Giuse lùi vào bóng tối. Chính nhờ vậy mà tất cả Tin Mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu. Tập trung vào Chúa Giêsu, đó là điểm căn bản của kế hoạch cứu độ. Điểm căn bản này đã được thánh Giuse thực hiện một cách triệt để, khi ngài khiêm tốn ẩn mình vào thinh lặng hoàn toàn. Phải chăng đây cũng là gương để chúng ta chỉnh đốn lại cách sống đạo. Khi mà nhiều nơi mục vụ xem ra càng ngày càng bớt tập trung vào Đức Kitô, để đến nỗi trên thực tế, nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn, Chúa Giêsu thực sự trở nên mờ nhạt, cô đơn, giữa những sùng kính phụ thuộc càng ngày càng đua nhau phát triển tưng bừng. Thiết tưởng một sự kiện như thế giữa một tình hình Hội Thánh đang có nhiều vấn đề phức tạp không là dấu chỉ của một lòng đạo phát triển sự khôn ngoan và ân sủng. Khi tĩnh tâm tại các tu viện chiêm niệm, tôi cảm thấy thấm thiá một nhu cầu khẩn cấp hiện nay của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhu cầu khẩn cấp đó là sự thinh lặng mà tích cực tôi vừa trình bày ở trên. Thinh lặng tu thân, thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, thinh lặng cảm thương số phận những người khổ đau tội lỗi, thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Chúa. Những đấng hiện nay đang gây được ảnh hưởng rộng lớn trong việc đổi mới con người, xã hội và Hội Thánh, như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, Mẹ Têrêsa Calcutta, Anh Charles de Foucauld, đều là những người đã thinh lặng nhưng tích cực trong bốn lãnh vực nói trên. Thiết tưởng các vị đó đã đi con đường thinh lặng của thánh Giuse. Thời nay, nhất là tại Việt Nam này, người ta quá nhàm chán với những thứ người ồn ào la lối về cái rác nơi mắt người khác, còn cái xà nơi mắt mình thì lại không thấy (Lc 6,41-42). Con đường thinh lặng mà tích cực đang mở rộng. Chúa tha thiết mời gọi chúng ta đi vào. Nguyện xin thánh Giuse giúp đỡ chúng ta biết mộ mến con đường đó. Hy vọng bằng con đường đó, chúng ta chứng minh được chúng ta là những người thực sự có sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, đẹp lòng Chúa và đáng được người ta mến thương, tin cậy. Lạy Thánh Cả Giuse là Quan Thầy Hội Thánh Việt Nam, xin thương cầu bầu cho chúng con.
Trong tuần thánh, nhất là ngày lễ Phục sinh, các người công giáo đến nhà thờ rất đông. Đến, để tham dự các nghi thức thánh, để nghe Lời Chúa, để hồi tâm, để hoà giải, để cầu nguyện, để đón nhận ơn phục sinh. Đây là thói quen tốt. Thói quen tốt này nên được nâng lên cao hơn. Một cách để nâng cao lên là hãy sống tuần thánh như một cuộc đi tìm gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Những gì chưa phải là gặp gỡ thực sự. Thời Chúa Giêsu còn tại thế, biết bao người đã gặp gỡ Ngài. Chính mắt họ đã nhìn thấy Ngài. Chính tai họ đã nghe tiếng Ngài. Chính tay họ đã chạm đến Ngài. Chính nhà họ đã đón Ngài vào dùng bữa. Những gặp gỡ như thế rất là quí giá. Nhưng không thiếu trường hợp vẫn gây nên những hiểu lầm vốn có từ ngàn xưa. Họ nghĩ Chúa Giêsu đến là để cứu độ, và chủ yếu cứu độ là cứu khỏi những khốn khổ về cuộc sống, trong các lĩnh vực sức khỏe, kinh tế, xã hội, chính trị. Họ đi tìm Chúa Giêsu do những động lực như thế thôi. Chúa Giêsu, khi biết sự thực đó, đã không ngại nói rõ cho họ hiểu: Ngài đến để đem lại một thứ hạnh phúc khác mà đời này không có, đó là hạnh phúc trường sinh, Ngài phán: “Thật, Thầy bảo thật anh chị em. Anh chị em đi tìm Thầy, không phải vì anh chị em đã thấy dấu lạ, nhưng vì anh chị em đã được ăn bánh no nê. Anh chị em hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư mất, nhưng để có lương thực trường tồn, đem lại hạnh phúc trường sinh, là lương thực Con Người sẽ ban cho anh chị em” (Ga 6,26-27). Hôm nay nếu thiếu cảnh giác và nhận thức đúng, nhiều người chúng ta vẫn đến nhà thờ một cách máy móc, với một mục đích mơ hồ. Chưa hẳn là để gặp gỡ Chúa Giêsu. Và cho dù để gặp gỡ Ngài, thì chưa hẳn là muốn nhận ra Ngài cho đúng sự thực. Tất nhiên, Chúa Giêsu đã, đang và sẽ làm nhiều phép lạ cứu chữa con người khỏi bệnh nạn, quỉ ám, và tai ương. Nhưng đó mới chỉ là những dấu chỉ về một sự cứu độ khác. Sự cứu độ này sâu hơn, cao hơn, quan trọng hơn. Gặp gỡ thực sự. Sự cứu độ mà Chúa Giêsu để ý một cách đặc biệt chính là nhắm vào gốc rễ mọi sự dữ. Đó là những tội lỗi, những sai lầm, những tính mê nết xấu. Cứu khỏi chúng để đưa người ta vào hạnh phúc thực. Công việc cứu độ khởi đi từ sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Một cuộc gặp gỡ thực sự phong phú, khi chúng ta đến với Ngài trong niềm tin ở Ngài, như những lời Ngài đã mặc khải. “Chính Thầy là bánh trường sinh (Ga 6,34) Thầy là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời” (Ga 6,51). “Thầy là ánh sáng thế gian, ai theo Thầy, sẽ không đi trong tăm tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). “Thầy là cửa. Ai qua Thầy sẽ được cứu” (Ga 10,9). “Thầy là mục tử nhân lành... Thầy hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,14-15). “Chính Thầy là con đường, là sự thực và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha, mà không qua Thầy” (Ga 14,6a). “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh được nhiều hoa trái. Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). “Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Gặp gỡ Chúa Giêsu là nhận ra dung mạo Ngài. Ngài đang gần gũi ta, đang thương yêu ta, đang hy sinh cho ta, đang đem lại cho ta sự sống dồi dào, đang đưa ta về với Chúa Cha trên trời. Gặp gỡ Chúa Giêsu là nhận ra tiếng Ngài. Ngài gọi tên ta. Ngài nói lại lời xưa: “Thầy đến không phải để cứu người công chính, nhưng để cứu người tội lỗi” (Mt 9,13). Gặp gỡ Chúa Giêsu là nhận ra tấm lòng của Ngài. Ngài nhắn nhủ ta: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy học cùng Thầy, vì Thầy có lòng nhân hậu và khiêm nhường” (Mt 11,28-29). Nhưng một điều hết sức quan trọng cần nhớ là: Trong gặp gỡ Đức Kitô, để được nhận ra Ngài, chúng ta phải nhờ ơn thiêng của Chúa. Ơn này chỉ dành cho những ai khiêm nhường, đơn sơ, bé mọn. Hãy gặp gỡ Đức Kitô như vậy, để biết đi theo Ngài và gắn bó với Ngài. Những cảm nghiệm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu như vậy, chúng ta thường sẽ có một số cảm nghiệm thiêng liêng. Trước hết là sự bình an. Sự bình an này rất sâu xa, lắng đọng. Như lời thánh Phaolô làm chứng: “Sự bình an của Chúa là sự bình an vượt trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh chị em được kết hợp với Chúa Giêsu” (Pl 4,7). Hơn nữa, chúng ta cũng cảm nghiệm được phần nào sự khôn ngoan của Chúa “Điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng không hề nghĩ tới, nhưng đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1Cor 2,9). Thánh Phaolô viết thêm: “Sự khôn ngoan này không phải là sự khôn ngoan của thế gian, trái lại chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, để chúng ta được vinh hiển” (1Cor 2,6-7). Ngoài ra, chúng ta còn cảm nghiệm thấy tiếng Chúa rất nhỏ nhẹ, như hơi thở của sự thinh lặng, như thì thầm của sự tỉnh thức. Theo lời sách Khải Huyền viết: “Này Ta đứng ngoài cửa và gõ, nếu ai mở cửa, Ta sẽ vào, và sẽ ăn tối với họ, Ta ở bên họ và họ ở bên Ta” (Kh 3,20). Một cảm nghiệm khác rất khó diễn tả. Đó là khi gặp được Chúa Giêsu rồi, người môn đệ đi theo Ngài không hẳn chỉ cần có đức tin mạnh, lửa mến bừng cháy, tính anh hùng dũng cảm, nhưng còn đòi một thái độ nào đó rất là khiêm tốn, rất là khó nghèo, rất là trẻ thơ. Lúc đó cái nhìn đầy thương xót Chúa sẽ tràn sâu vào toàn thể con người, biến đổi sự tự do con người, để nó biết chọn những gì là thánh ý Chúa. Nhất là từ đó, con người biết ăn năn sám hối, bỏ đường tội lỗi, dấn thân vào con đường phục vụ và cứu độ. Được như vậy chính là tiến về phục sinh để chúng ta trở nên tạo vật mới. Năm nay, sống tuần thánh đầu thế kỷ XXI, tôi nhìn về Israel nói chung, và Giêrusalem nói riêng. Ở đó, xưa Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Ở đó, Chúa Giêsu đã trối lại điều răn mới là yêu thương nhau. Ở đó, Chúa Giêsu đã đổ máu ra, hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu cứu độ. Thế mà hôm nay, tình hình ở đó lại là chia rẽ, là hận thù, là đổ vỡ. Một tình hình như thế khiến chúng ta lo buồn và suy nghĩ. Tại sao vậy? Người ta có tự do, để hợp tác với Chúa Giêsu hoặc không hợp tác với Ngài. Hiện nay xem ra nhiều người đang dùng tự do của mình, để chọn lựa sự không hợp tác với Ngài. Nhìn người, rồi lại nghĩ đến chính mình ta. Xin Chúa Giêsu thương cứu độ chúng ta, nhất là cứu độ sự tự do bệnh hoạn, của chúng ta. Long Xuyên, ngày 2 tháng 4 năm 2001, Gioan B. Bùi Tuần Giám mục Long Xuyên.
Lúc này, tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, giáo phận Long Xuyên, đang diễn ra một quang cảnh khác thường. Từng ngàn giáo dân, từng chục nhóm tu sĩ, từng trăm linh mục đang qui tụ về đây. Đông đảo, tấp nập và hứng khởi. Đền từ gần, đến từ xa. Với hai Giám Mục của giáo phận, đám đông này đang hiện lên như hình ảnh một đại gia đình đầy vẻ đẹp sống động. Đẹp về màu sắc, đẹp về niềm vui, đẹp về trật tự, nhất là đẹp về tấm lòng yêu thương hiệp nhất và niềm tin chân thành sâu sắc. Thiên Chúa là Cha đang nhìn đại gia đình thân thương này. Người nhìn tất cả. Người nhìn từng người. Chúa biết mục đích chúng ta đến đây. Mục đích không phải chỉ để tham dự thánh lễ Truyền Dầu, mà chính là để giãi bày với Chúa tâm tình của ta. Tâm tình của chúng ta là khao khát được bồi dưỡng hơn, được giải cứu hơn về đàng thiêng liêng, nhất là được gặp gỡ Chúa. Để, nhờ ơn Chúa, chúng ta tìm được ánh sáng trong những hoàn cảnh tăm tối. Chúng ta tìm được an ủi trong những hoàn cảnh mệt mỏi chán chường. Chúng ta tìm được sự sống lại trong những hoàn cảnh coi như cõi chết. Chúng ta tìm được sức mạnh tinh thần phục vụ trong những hoàn cảnh bạc bẽo. Đây là niềm tin tốt đẹp. Đây là hy vọng chính đáng. Vì thương ta, hôm nay Chúa nhắc lại cho chúng ta một cách sống. Một cách sống đầy chất Tin Mừng. Một cách sống là nguồn mạch ơn thánh. Một cách sống bảo đảm dẫn đưa ta về chính lộ cõi phúc trường sinh. Cuộc sống đó là thế nào? Tôi xin vắn tắt tạm trình bày: Cuộc sống đó là một bàn tiệc thánh. Bàn tiệc thánh này có 4 món ăn căn bản. Món ăn thứ nhất là Lời Chúa. Lời Chúa là ánh sáng, là sức mạnh, là lương thực thiêng liêng. Chúng ta được mời đón nhận Lời Chúa, để rồi chia sẻ Lời Chúa cho người khác. Món ăn thứ hai là Thánh Thể Chúa. Thánh Thể Chúa là chính Chúa Giêsu ban tặng chính mình, với tinh thần yêu thương, vâng phục và hy sinh cao cả của Người. Chúng ta được mời đón nhận Thánh Thể, sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Giêsu, để rồi chia sẻ tinh thần yêu thương, vâng phục và hy sinh của Người cho người khác. Món ăn thứ ba là Hội Thánh Chúa. Hội Thánh Chúa là cộng đoàn những người tin theo Chúa. Cộng đoàn này là dấu chỉ và là dụng cụ sự hiệp nhất yêu thương. Chúng ta được mời tham gia tích cực vào việc xây dựng cộng đoàn Hội Thánh, để rồi chia sẻ tinh thần Hội Thánh cho kẻ khác. Món ăn thứ bốn là tinh thần phục vụ kẻ túng nghèo khổ đau. Chúa Giêsu tuyên bố Người được sai đến với những kẻ đau khổ, nghèo túng. Nhiều khi Người đồng hoá mình với họ. Người dành cho họ một sự ưu ái đặc biệt. Chúng ta được mời đón nhận ơn gọi đó, tấm lòng đó, để rồi cùng với Chúa Giêsu, chúng ta phục vụ những người khổ đau, túng nghèo, bất cứ họ là ai, và bất cứ sự khổ đau túng nghèo là ở phương diện nào. Khi chúng ta nhận thức bàn tiệc thánh với bốn món ăn thiêng liêng vừa kể là một cuộc sống căn bản của Tin Mừng, chúng ta sẽ hiểu được chức vụ Linh mục một cách sáng sủa, đơn sơ và chính xác. Nói chung, các Linh mục chúng tôi là những người được chọn để phục vụ Bàn Thánh. Phục vụ Bàn Thánh là gì? Thưa là phải rất chuyên chăm Lời Chúa, là phải rất tha thiết với Thánh Thể, là phải luôn luôn thao thức với Hội Thánh, là phải thực sự yêu thương phục vụ kẻ khổ đau túng nghèo. Hình ảnh một Linh mục như thế là một hình ảnh đẹp, rất cần cho thời điểm Việt Nam hôm nay. Thời điểm Việt Nam hôm nay đang có những cơ may để vươn lên hưng thịnh, nhưng đồng thời cũng đang gặp những nguy cơ đẩy mình xuống dốc. Xuống dốc nhất là về phương diện đạo đức: Đạo đức cá nhân, đạo đức gia đình, đạo đức cộng đoàn, đạo đức xã hội. Tôi thú nhận rằng: Chúng ta rất yếu đuối. Hơn ai hết, chính tôi là người yếu đuối nhất. Thú nhận mình yếu đuối là một cách sám hối, ăn năn. Thú nhận mình yếu đuối là một cách cầu nguyện. Thú nhận mình yếu đuối là một cách đón nhận ơn cứu độ. Đến đây, tôi xin phép nhắc lại lời Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Người: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng xác thịt thì yếu đuối” (Mc 14,38). Hiện nay, tôi thấy xác thịt con người chúng ta là rất yếu đuối, đang khi các cám dỗ của thế gian và mưu mô của quỉ dữ lại rất tinh vi, rất đa dạng và rất mạnh. Nếu chúng ta không vâng lời Chúa mà tăng cường cầu nguyện và tỉnh thức, thì sẽ không tránh được cảnh lòng đạo suy yếu. Và nếu chẳng may lòng đạo suy yếu, lúc đó người ta sẽ dễ đổ lỗi cho người khác, hoặc tạo ra những kẻ thù để la lối chỉ trích. Đang khi kẻ thù nguy hại nhất lại ở trong chính lòng ta. Đó là: Kiêu căng, khô khan, dửng dưng với Bàn Thánh, ghen tương, chia rẽ, hẹp hòi. Để kết, tôi tha thiết kêu gọi toàn thể đại gia đình Chúa hãy tập trung cái nhìn của lòng mình vào Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Kinh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Thánh Kinh, thánh giá, Thánh Thể đều nói về tình yêu Chúa. Một tình yêu tha thứ, phục vụ mạnh hơn hận thù. Một tình yêu phục sinh mạnh hơn sự chết. Một tình yêu khiêm tốn bao dung mạnh hơn mọi kiêu căng và hẹp hòi. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào tình thương cứu độ của Chúa. Xin thương xót chúng con là những kẻ yếu đuối.
Thánh lễ chiều thứ Năm tuần thánh nhắc lại ba phép lạ lớn: Một là việc Chúa lập phép Thánh Thể. Đây là một sáng kiến lạ lùng của tình yêu dâng hiến. Việc dâng hiến này nên được coi là một phép lạ của tình yêu ban tặng chính mình. Hai là việc Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là một sáng kiến bất ngờ của tình yêu phục vụ. Việc phục vụ này nên được gọi là một phép lạ của tình yêu khiêm tốn quên mình. Ba là việc Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Đây là một sáng kiến hết sức can đảm của tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha và tình yêu cứu độ. Việc nộp mình này phải coi là một phép lạ của tình yêu vâng phục và cứu độ. Chúa làm ba phép lạ trên đây vì chúng ta. Ba phép lạ này là của tình yêu và do tình yêu. Chúng có liên hệ mật thiết đến chúng ta, nhất là đến phần rỗi ta. Để hiểu được phần nào, chúng ta hãy nhớ lại một số những lời Kinh Thánh. Chúa phán: “Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của cải chóng hư nát như vàng bạc mà anh em được cứu độ... Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn là Đức Kitô” (1Pr 1,18). Lời Kinh Thánh trên đây cho chúng ta thấy phần rỗi mỗi người là điều hết sức quan trọng, chúng ta chỉ được cứu độ nhờ cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Nên chúng ta hãy đến với Người, vì Người thực là Đấng cứu độ của ta. Hãy đến với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ của ta, trước hết là để lắng nghe Người. Người nói với mỗi người chúng ta lời trăn trối của Người: “Cha cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, nhưCha đã yêu thương các con” (Ga 14,34). “Người ta sẽ cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Cha, là các con yêu thương nhau” (Ga 14,35). Khi lắng nghe ý Chúa một cách trân trọng, và để cho ý Chúa thấm sâu vào lòng ta, chúng ta sẽ thấy phải tập quên mình đi, để gắn bó mật thiết với Chúa. Như lời Chúa Giêsu dạy: “Cha là cây nho, các con là ngành. Ai ở lại trong Cha và Cha ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh được nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Sự gắn bó với Chúa Giêsu phải rất thực tế, nghĩa là phải được áp dụng mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi việc. Bởi vì Chúa phán: “Không có Cha, các con không làm gì được” (Ga 15,5). Sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu là một hạnh phúc cho phép chúng ta nếm trước một chút hương vị thiên đàng, nhất là khi chúng ta cảm nghiệm được lời Chúa hứa xưa: “Cha sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 23,20). Đến với Chúa Giêsu, lắng nghe Chúa Giêsu, hiểu được tiếng lòng Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu. Đó là những việc rất cần thiết. Nhưng phải thú nhận rằng: Tất cả những việc quan trọng đó đều không được chúng ta quan tâm đủ, nhất là chưa được chúng ta thực hiện đến nơi đến chốn. Để sửa lại những lỗi lầm thiếu sót đáng tiếc đó của chúng ta, chúng ta ít ra có một cách này. Cách này rất đơn sơ, đó là hãy cầu nguyện. Cầu nguyện một cách khẩn khoản. Cầu nguyện một cách khiêm nhường. Cầu nguyện một cách kiên nhẫn. Cầu nguyện đơn sơ, chân thành tự đáy lòng. Như những lời cầu nguyện của kẻ khó nghèo nhất. Thí dụ: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Hoặc: “Lạy Chúa Cha, vì cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, xin ban cho con Thánh Thần của Cha, để con biết ý Cha và đủ sức đi về với Cha”. Hoặc: “Lạy Cha, xin giúp con thuộc về Cha”. Cách cầu nguyện như trên đây là rất dễ dàng. Có thể thực hiện được ở nhà thờ, ở gia đình, ở nơi làm việc. Khi vui khi buồn, khi thành công khi thất bại. Trong thinh lặng, trong nội tâm. Với niềm tin yêu, với khiêm tốn. Không hao giờ. Không ai thấy. Cầu nguyện rất nhiều lần như vậy trong một ngày, suốt tháng, suốt năm, suốt đời. Cầu nguyện thường xuyên như hơi thở. Cầu nguyện thường ngày như lương thực nuôi sống linh hồn. Dần dần, chúng ta sẽ thấy ơn cứu độ là chính Chúa. Người đến biến đổi chúng ta. Ơn vô giá này sẽ chỉ ban cho những ai biết đón nhận bằng tấm lòng đơn sơ khao khát, khiêm nhường và tin cậy. Cuộc sống chúng ta đang rất cần ơn Chúa cứu độ. Chúa biết điều đó. Chúa mong đợi ban cho ta ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm kiếm đón nhận ơn đó, bằng sự cầu nguyện dưới cái nhìn yêu thương của Chúa. Hãy khiêm tốn cầu nguyện nhiều. Nhất là trong những ngày này. Chúa sẽ đến cứu độ ta. Vì Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
Mùa Chay là thời gian kêu gọi sám hối. Kêu gọi này được hưởng ứng nồng nhiệt tại Giáo Hội trên Bùi-Tuần 805
Mùa Chay là thời gian kêu gọi sám hối. Kêu gọi này được hưởng ứng nồng nhiệt tại Giáo Hội trên đất nước Việt Nam hôm nay. Với kinh nghiệm của một người sám hối đã nhiều mùa chay, tôi xin phép chia sẻ vài điều xác tín trong ăn năn sám hối.
1/ Phải khiêm tốn nhìn nhận điều xấu xuất phát từ bên trong mỗi người Chúa Giêsu dạy: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra dơ bẩn” (Mc 7,20-23). Với những lời trên đây, Chúa chỉ cho chúng ta thấy cội rễ sự ác là từ bên trong lòng người. Ma quỷ, thế gian đóng vai trò người cám dỗ. Nhưng những chấp nhận, những chọn lựa là do lòng ta. Vì thế mà ta phải chịu trách nhiệm về những gì lòng ta chọn lựa. Rất nhiều khi, chúng ta chọn sự ác, là do lòng ta khao khát, chứ chẳng phải do ai xúi giục. Chưa thực hiện bằng hành động, mà chỉ khao khát và nuôi dưỡng đi tìm sự ác trong tư tưởng, cũng là sai rồi. Vì thế, tội lỗi không phải chỉ là vấn đề của một xã hội, của một hệ thống văn hoá, chính trị hay kinh tế, mà trước hết là vấn đề của lòng người. Phải đổi mới lòng mình, trước khi đòi đổi mới xã hội. Khiêm tốn nhìn nhận điều đó là yếu tố rất cần trong sám hối.
2/ Phải khiêm tốn nhìn nhận tính cách phức tạp của từng sự xấu Có những sự xấu trong ta coi như không lớn, nhưng ảnh hưởng lại rất lớn. Thí dụ: tính kiêu ngạo, tính ghen tương. Không thiếu trường hợp, sự thành công của người này lại là sự xúc phạm đến người kia. Sự ghen tương kiêu ngạo có tài cắt nghĩa xấu một cách thông minh. Cả khi Thiên Chúa nơi những người ngoài công giáo thực hiện những sự lạ lùng phục vụ tha nhân, cứu nhân độ thế, thì sự kiêu căng ghen tương có thể đóng cửa lòng một số người tin thờ Chúa. Họ tìm cách hạ giá những việc tốt đó. Như thế tính kiêu căng ghen tương dám chỉ trích đến cả lòng tốt lành của Thiên Chúa. Lòng người ta thực phức tạp. Có những tính xấu thường xuyên chi phối sự phức tạp của nó trên cuộc sống. Chẳng may, nhiều khi chúng ta lại không để ý đến những phức tạp đó trong sám hối.
3/ Phải khiêm tốn nhìn nhận tình hình xấu trong mình ta Khi nhìn chính mình bị bao phủ bởi những lớp bóng tối; tôi không nên ngạc nhiên, càng không nên kêu trách. Trái lại, tôi dám nghĩ rằng: Những bóng tối đó không những vẫn còn, mà có thể còn phát triển mạnh, như một cánh đồng mênh mông những nỗi đau bất tận. Nhưng tôi xác tín: Nước Trời là một hạt giống tốt đã được gieo vào thực tế thân tôi, và đã được mọc lên trong thực tế ấy. Thân tôi vốn là cánh đồng có lúa tốt lẫn cỏ xấu. Tôi là nạn nhân của bao sự yếu đuối, lỗi lầm. Nhưng chính trong đêm tối ấy đã đang và sẽ mọc lên ánh sáng vinh quang của Chúa. Chúa có thể rút sự lành ra từ những sự xấu.
4/ Phải khiêm tốn nhìn nhận ơn cứu độ từ Chúa Giêsu trên thánh giá Trong Phúc Âm thánh Gioan, Chúa Giêsu đã phán những lời rất an ủi về sự Người cứu đoàn chiên của Người. “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi... Và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,14-15). Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên là một việc làm tự do, phát xuất từ tình yêu cao cả “Không tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13). Thánh Gioan tông đồ sau này đã viết trong thư thứ nhất: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Ðấng Bảo trợ trước mặt Chúa Cha. “Ðó là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Công chính. Chính Ðức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta. Không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,1-2). Phần tôi, tôi hết sức cố gắng không phạm tội. Nhưng tôi vẫn yếu đuối. Tôi luôn thú nhận rằng: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Ðiều quan trọng của tôi, không phải là vật vã giày vò mình, nhưng là nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá. Chính Người là Ðấng yêu thương tôi. Chính Người là Ðấng cứu độ tôi. Chính Người là Ðấng tha tội và thánh hoá tôi. Niềm tin đó khiến tôi ca ngợi Chúa. Ca ngợi với lòng biết ơn. Ca ngợi với quyết tâm yêu mến Chúa hơn và sống thuộc về Chúa hơn. Niềm tin đó khiến tôi cầu nguyện phó thác. *** Như thế, trong sám hối phải có nhiều khiêm tốn, nhiều niềm tin, nhiều yêu mến, nhiều tạ ơn và nhiều cầu nguyện. Khi sám hối, nên thực hiện trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Hãy nhìn Người. Hãy lắng nghe Người. Hãy nói với Người. Hãy đặt vào trái tim Người gánh nặng đời ta. Sám hối như vậy sẽ đổi mới lòng ta. Ðổi mới đó sẽ làm cho ta kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu, như cành với cây. “Thầy là cây nho, các con là cành” (Ga 15,5). Long Xuyên, ngày 21 tháng 02 năm 2009
Mùa Phục sinh nhắc chúng ta nhớ đến một chân lý quan trọng. Chân lý quan trọng đó là: Có một SỰ SỐNG tiếp sau cuộc sống đời này. Cuộc sống đời này thì có tận. Cuộc sống đời sau thì vô tận. Sự sống vô tận đời sau sẽ rất khác sự sống đời này. Nó sẽ là hạnh phúc trường sinh dành cho những người lành. Trái lại nó sẽ là khổ cực muôn kiếp dành cho những kẻ dữ. Như vậy, sự sống đời sau là điều ta phải hết sức quan tâm. Làm sao khi bước vào đời sau, ta đừng bị đẩy xuống cõi trầm luân tăm tối, nhưng ta được đón nhận vào cõi vinh quang sáng lạn với Chúa Giêsu phục sinh. Muốn được như vậy, ta phải cố gắng sống tốt cuộc sống đời này. Thế nào là sống tốt cuộc sống đời này? Nói cho gọn, thì đó là mến Chúa hết lòng, và yêu thương người khác như Chúa yêu ta. Nói một cách khác, thì sống tốt đời này là từng ngày cùng với Chúa Giêsu đi về với Chúa Cha bằng những bước tình yêu phục vụ, được hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Như vậy suốt hành trình cuộc sống đời này sẽ luôn phảng phất hương vị hạnh phúc đời đời, do Thánh Thần tình yêu hoạt động trong tâm hồn ta đã được đổi mới. Đổi mới tâm hồn để biết sống tốt với Chúa. Chúa Giêsu hay nhắc tới việc đổi mới tâm hồn. Tâm hồn được đổi mới là tâm hồn được sinh lại bởi Thánh Thần. Từ đó họ biết trở về nội tâm, và luôn ngoan ngoãn với mọi hướng dẫn của Thánh Thần. Thánh Thần luôn giúp họ hiểu Chúa Giêsu là sự sống, là chân lý và là đường đi, để họ gắn bó với Ngài và cùng với Ngài đi về với Chúa Cha. “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con ... Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,4-5). Khi ở lại trong Chúa Kitô, chúng ta sẽ luôn mong muốn sống hợp với thánh ý Chúa Cha. Phân định được đâu là ý Chúa, đâu là ý riêng ta, đó là điều không dễ. Và khi biết rõ ý Chúa rồi, ta còn phải phấn đấu với mình, để chấp nhận ý Chúa và cộng tác với ý Chúa. Bởi vì rất nhiều khi, chúng ta rơi vào tình trạng ngại ngùng trước thánh ý Chúa. “Lạy Cha, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). Hãy biết cầu xin như thế với Chúa Giêsu, và luôn luôn phó thác mình trong tay Chúa Cha như Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Hằng ngày tập quen cầu xin như thế là để đổi mới tâm hồn. Và khi tâm hồn đã bắt đầu được đổi mới, thì sẽ dễ thường xuyên cầu xin như thế. Đổi mới tâm hồn để biết sống tốt với người khác. Biết sống với người khác theo tinh thần Chúa phục sinh, đó là một nhu cầu khẩn cấp của thời điểm này. Muốn được thế, ta phải đổi mới tâm hồn ta. Thánh Phaolô khuyên: “Anh chị em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh chị em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). Điều đẹp ý Chúa nhất là khiêm nhường bác ái trong thái độ sống. Trong mọi tương quan, hãy tránh những gì là xấu, hãy làm những gì là tốt. Thánh Phaolô đi vào chi tiết cuộc sống khiêm nhường bác ái như sau: “Lòng bác ái không được giả hình. Anh chị em hãy gớm ghét điều dữ, hãy tha thiết với điều lành. Thương yêu nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình. Nhiệt thành, không trễ nải. Lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa... Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh chị em. Chúc lành, chứ đừng nguyền rủa. Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau. Đừng tự cao tự đại. Nhưng hãy ham thích những gì là hèn mọn. Anh chị em đừng tự cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác. Hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh chị em có thể làm được, để sống hoà thuận với nhau” (Rm 12,9-18). Về khiêm nhường bác ái, Kinh Thánh còn nói rất nhiều. Nhưng chỉ mấy lời trên đây của thánh Phaolô cũng tạm đủ để đánh thức và an ủi khích lệ tâm hồn ta. Nhờ vậy ta có sức quyết tâm chọn con đường khiêm nhường bác ái trong một thế giới, mà xem ra rất nhiều người coi cái tôi của mình là trung tâm và tiêu chuẩn. Cái tôi ích kỷ. Cái tôi ham quyền. Cái tôi tham lợi. Cái tôi dám độc ác với người khác, để mình được sướng. Cái tôi kiêu căng vịn vào trăm ngàn lý do giả tạo để tránh bổn phận khiêm nhường bác ái, đang khi chính Đấng Cứu độ lại rất khiêm nhường, rất yêu thương. Đổi mới tâm hồn để biết chọn tiêu chuẩn đúng trong mọi cái nhìn và mọi đánh giá. Tôi nhớ đã đọc thấy một ý kiến hay trong một cuốn sách. Tác giả viết: “Một người khiêm tốn nhận biết mình yếu hèn tội lỗi, và không bao giờ dám xét đoán kết án người khác. Đối với tôi, người ấy là người thánh”. Thiết tưởng ý kiến đó là một cách chọn tiêu chuẩn tốt để sống tốt trong các quan hệ. Khi suy gẫm sự thương khó Chúa Giêsu, tôi thấy Đấng cứu độ có một cái nhìn khiến tôi bàng hoàng: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm” (Lc 22,33). Đây là cái nhìn hết sức bao dung, rất mực thương xót. Đây là cái nhìn vô cùng đẹp, sáng rực tình yêu cứu độ. Chỉ một cái nhìn cao đẹp đó thôi cũng đã là một cách chiến thắng, có sức đền tội thay cho bao người tội lỗi. Cái nhìn ấy mạnh hơn độc ác hận thù. Cái nhìn ấy phát xuất từ Thiên Chúa là Cha chung mọi người. Cái nhìn ấy chỉ xuất hiện, khi chúng ta cởi gỡ được con người cũ của chúng ta. “Anh chị em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh chị em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu” (Col 3,9). Thứ ơn thông hiểu rất quan trọng cho chúng ta lúc này là khi cần, thì hiểu biết đúng về người khác và về các biến cố lịch sử, như chính Chúa hiểu biết. Nếu không, chúng ta dễ đi vào lầm lạc. Nên nhớ rằng trong lịch sử đạo đời đã có nhiều lầm lạc dẫn tới bất công và độc ác, kéo dài nhiều thế hệ. Với mấy gợi ý trên đây, mỗi người chúng ta sẽ có thể tìm được những suy nghĩ riêng và sáng kiến riêng. Mùa Phục sinh đầu thế kỷ 21 này đang chứng kiến nhiều giao tranh ác liệt giữa sự thiện và sự ác, giữa sự sống và sự chết, giữa tình yêu và ghen ghét hận thù, giữa hy vọng và thất vọng. Trước tình hình này, bao người xung quanh ta đang đi tìm một điểm tựa thiêng liêng. Chúng ta hãy chọn Đức Kitô phục sinh là điểm tựa của ta. Để rồi, khi Người sống trong tâm hồn ta được đổi mới, chúng ta sẽ chia sẻ niềm hoan lạc về điểm tựa của ta cho những người xung quanh ta. Chính nhờ Đức Kitô phục sinh, chúng ta sẽ vững bước đi vào một sự sống mới. Sự sống mới này chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Cuộc sống đời sau, nhưng bắt đầu từ hôm nay.
Cách đây 26 năm (30-4-1975), Chúa sai tôi vào địa phương này. Người dặn bảo tôi cũng những lời xưa Người đã nói với các tông đồ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ gặt ra đồng, để họ gặt lúa đem về, và chính con, con cũng hãy ra đi” (Lc 10,2-3). Tôi đã cố gắng làm như lời Chúa dạy. Hôm nay, sau hơn một phần tư thế kỷ, Chúa lại chỉ vào địa phương này mà nói với tôi. Người cũng nói những lời tương tự, như xưa Người đã nói với các tông đồ: “Con hãy ngước mắt lên xem đồng lúa đã chín vàng, đang chờ ngày gặt hái” (Ga 4,35). “Thầy sai con đi gặt những gì con đã không phải vất vả và làm ra, những người khác đã làm lụng vất vả. Còn con, con được hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4,38). Đúng là như vậy, nhờ nhiều cộng tác viên tốt hoạt động truyền giáo, mà cánh đồng truyền giáo tại đây đang là “đồng lúa đã chín vàng”. Tôi mượn những lời Phúc Âm trên đây, để nói lên một sự thực. Đó là việc truyền giáo tại địa phương thân yêu này đã và đang có nhiều tiến triển. Nếu hỏi: Nhờ những gì mà được như vậy, thì tôi xin thưa: Nhờ Chúa. Trước hết, nhờ Chúa là nhờ thực hiện kế hoạch truyền giáo, mà Chúa Giêsu đã vạch ra trong bài giảng đầu tiên của Người tại Nagiarét (Lc 4). Đại cương kế hoạch truyền giáo. Kế hoạch truyền giáo này gồm 4 điểm chính: 1. Nguồn mạch ơn truyền giáo là Chúa Thánh Thần.“Chúa Thánh Thần ngự trên tôi” (Lc 8,18). Hội Thánh sai chúng tôi đi, qua bí tích rửa tội, thêm sức, truyền chức và chứng từ bổ nhiệm. Trong sự sai đi đó đã có ơn Chúa Thánh Thần. Ơn này là thường xuyên. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, ơn Chúa Thánh Thần đã đến với chúng tôi một cách bất ngờ. Đến như một thúc đẩy từ bên trong nội tâm. Đến như một lời mời gọi từ con người và xã hội. Chúng tôi cảm thấy cần chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh. Một cách nào đó, tế nhị, kín đáo qua thái độ sống của mình. 2. Đối tượng truyền giáo là người nghèo khổ.“Chúa sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,18). Nghèo khổ ở đây được hiểu một cách rộng rãi: Nghèo về của cải, nghèo về trí tuệ, nghèo về địa vị, nghèo về tình yêu, nghèo về học vấn, nghèo về đạo đức. Họ thuộc bất cứ giai cấp nào, có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng. Đem Tin Mừng cho người nghèo khổ là một mệnh lệnh Chúa truyền. Chúng tôi phải luôn thao thức về mệnh lệnh đó. 3. Hoạt động chính của truyền giáo là hoạt động Lời Chúa.“Chúa Giêsu mở sách ra, đọc, rồi gấp sách lại, và cắt nghĩa” (Lc 4,17-20). Người đem Lời Chúa áp dụng vào cuộc sống con người đang nghe (Lc 4,21-22). Đọc Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa, áp dụng Lời Chúa, công bố Lời Chúa. Đó là những việc đã gây được nhiều ảnh hưởng tốt trong kế hoạch truyền giáo. 4. Tin Mừng mở về phía dân ngoại. Trong bài giảng đầu tiên, Chúa Giêsu nhắc tới việc tiên tri Êlia được Chúa sai đến thành Sarepta, để giúp đỡ một bà goá ngoại đạo, trong thời kỳ hạn hán đói khát. Chúa Giêsu cũng nhắc tới việc tiên tri Êlisa đã chữa bệnh phong cùi cho một viên sĩ quan ngoại đạo, người xứ Syria, tên là Naaman (Lc 4,25-27). Tin Mừng được mở ra về phía người ngoại, đó là điều Chúa chủ ý làm. Với việc mở ra này, Chúa có vẻ quan tâm đến người ngoại hơn người có đạo. Sự quan tâm này đã gây ngạc nhiên và bất bình nơi một số người có đạo (Lc 4,28). Nhưng Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh, không chút nao núng, Người tiếp tục ra đi truyền giáo (Lc 4,30). Theo gương Chúa, chúng tôi đã làm như vậy. Sự khôn ngoan truyền giáo. Trên đây là mấy điểm căn bản của kế hoạch truyền giáo. Khi thực hiện những điều đó trên một nơi nhất định và trong một thời điểm nhất định, người truyền giáo phải rất khôn ngoan. Sự khôn ngoan nói đây là phải biết lắng nghe ý Chúa trong đời sống con người và xã hội, là phải biết chọn lựa giải đáp theo ý Chúa, là phải biết nói và làm theo cách Chúa muốn. Thí dụ: Nên truyền giáo ưu tiên ở những nơi nào, nên đầu tư sức lực vào công việc gì, nên chọn cách nào thích hợp hơn để làm chứng Chúa là Tin Mừng và đạo Chúa là người đem Tin Mừng đến cho đồng bào. Để biết đáp ứng, tất nhiên phải xem xét, suy nghĩ. Nhưng nhất là phải cầu nguyện thực nhiều. Kinh nghiệm cho thấy sự khôn ngoan truyền giáo khởi đi từ sự khiêm nhường. Bởi vì có khiêm nhường thì mới biết từ bỏ mình để cậy nhờ ơn Chúa và đón nhận ơn Chúa. Có khiêm nhường thì mới phấn đấu, học hỏi, nghiên cứu, mới chịu khó đi sâu vào thực tại lịch sử. Có khiêm nhường, thì mới biết tôn trọng những sự cộng tác khác nhau của những người gần xa. Không thiếu trường hợp, những người có khả năng và thiện chí giúp mình truyền giáo lại là những người ngoại đạo, không có đạo hoặc có vẻ bê bối và ít học. Nói về sự khiêm nhường là yếu tố cần cho người truyền giáo, tôi nhớ lại thánh Phêrô. Ngài có đức tin rất mạnh. Ngài tuyên xưng mạnh mẽ: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,6). Ngài rất can đảm kiên cường: “Tôi sẽ hy sinh mạng sống vì Thầy” (Ga 13,37). Ngài rất yêu mến Chúa Giêsu và gắn bó với Người: “Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai” (Ga 6,68). Nhưng Ngài tự đắc: “Dù tất cả đều vấp ngã, thì con nhất định là không” (Mc 14,29). Chúa Giêsu rất thương Phêrô vì lòng tin mạnh, vì lửa mến nồng nàn, vì ý chí kiên cường dũng cảm. Nhưng Người không chấp nhận sự tự đắc. Nhà truyền giáo mà tự đắc, thì sẽ khó cộng tác với ơn Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu đã dạy Phêrô một bài học khiêm nhường. Bài học đó là để cho thánh Phêrô chối Chúa ba lần. Lúc đó, Phêrô mới bừng tỉnh, trở nên hết sức khiêm nhường. Với sự khiêm nhường đó, Ngài đã ra đi truyền giáo. Kết quả thực rất lạ lùng. Bởi vì Chúa thương kẻ khiêm nhường và ban ơn dồi dào cho kẻ khiêm nhường. Bầu khí truyền giáo. Nhiều khi, tôi có cảm tưởng: Truyền giáo là một việc thường được hỗ trợ bởi một văn hoá Tin Mừng. Văn hoá Tin Mừng là con đường thuận lợi dẫn tới truyền giáo. Nó tạo ra bầu khí truyền giáo. Thế nào là một bầu khí truyền giáo được tạo nên bởi một văn hoá Tin Mừng? Đoạn văn sau đây của thánh Giustinô là một gợi ý: “Trong mọi dâng lễ, chúng ta ca tụng Đấng tạo thành vũ trụ qua Đức Kitô và Chúa Thánh Thần. Có những ngày lễ, tất cả đều qui tụ trong một nơi. Người ta đọc lại sách Tông đồ công vụ và những đoạn sách các tiên tri, tuỳ theo thời giờ cho phép. Đọc xong, người chủ toạ khuyên nhủ mọi người hãy bắt chước những gì đã nghe. Sau đó, mọi người đứng dậy, cùng nhau cầu nguyện. Cầu nguyện xong, người ta mang bánh và rượu đến, vị chủ toạ dâng thánh lễ. Lễ xong, mọi người được phân phát bánh thánh. Rồi, những ai dư giả sẽ tự do cho đi những gì mình có. Họ trao cho vị chủ toạ. Từ đó, cộng đoàn lo giúp các người mồ côi, các bà goá, các người bệnh, các người thiếu thốn, các tù nhân, các người khách trọ. Nói chung, là họ lo lắng giúp đỡ những ai thiếu thốn” (Justin, Apologie, 1,67, 1-7) Đoạn văn này cho thấy cộng đoàn tín hữu sống với nhau trong bầu khí Tin Mừng. Một bầu khí khiêm nhường, yêu thương, liên đới, vừa có chiều kích tự nhiên nhân ái, vừa có chiều kích bác ái siêu nhiên. Qui tụ, để nghe Lời Chúa, dâng lễ cầu nguyện, chia sẻ, và rồi ra đi, đến với những người thiếu thốn. Cái tâm họ được nóng lên bởi Lời Chúa và tình yêu thương của cộng đoàn là một khích lệ, hứng khởi và ủi an, để hoan hỉ ra đi. Ra đi, để vừa cho đi quà tặng vật chất, vừa cho đi tình thương kính trọng, và vừa âm thầm giới thiệu niềm tin và hy vọng nơi Thiên Chúa mà mình tôn thờ. Bầu khí Tin Mừng, văn hoá Tin Mừng thường gây được những kết quả truyền giáo hơn các lớp giáo lý khô cứng và những bài giảng thuyết đầy lý luận sâu sắc, nhưng lạnh lùng. *** Hôm nay nhìn vào cánh đồng truyền giáo đầy lúa chín vàng, tôi hết lòng cảm tạ Chúa, và hết tình cảm ơn những ai đã góp phần tích cực vào cánh đồng này. Tất cả là hồng ân. Tất cả đều nói lên quyền năng của lòng thương xót Chúa. Tâm tình tạ ơn cũng pha trộn tâm tình sám hối. Bởi vì chắc chắn chúng tôi đã có nhiều lỗi lầm trong nhiệm vụ truyền giáo. Nhìn về phía trước, chúng ta thấy truyền giáo đang trở thành một mệnh lệnh khẩn cấp hơn trước. Làn sóng toàn cầu hoá sẽ tràn vào địa phương này, mang theo nhiều cái tốt và cũng nhiều cái xấu. Tình hình truyền giáo sẽ phức tạp hơn trước nhiều. Ưu tư đó đang đợi chúng ta những nghiên cứu mới, những suy nghĩ mới, những nhiệt tình mới, những sáng kiến mới, những chọn lựa mới.
Lễ Noel vốn là một lễ vui. Niềm vui này xuất phát từ lời thiên sứ báo cho các mục đồng trong đêm Chúa giáng sinh: “Này đây, tôi báo cho anh em một tin vui trọng đại, cũng là một tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít” (Lc 2,11-12). Tại đây, lúc này, nếu chúng ta khiêm tốn và thinh lặng nội tâm, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được phần nào tin vui trọng đại đó. Tin vui trọng đại đó đang được gửi vào tâm hồn ta. Không bằng lá thư, tấm thiếp, quà chúc, lời chào, nhưng bằng sự hiện diện của chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đang đến trong lòng ta. Ngài đến, không với phong cách một quyền lực uy nghi, nhưng với hình thức một hài nhi. Rất đơn sơ, rất bé nhỏ. Ngài đến, không với những lễ nghi trang trọng ồn ào, nhưng với tư thế khó nghèo. Rất âm thầm, rất thân mật. Ngài đến như một quà tặng thân thương. Quà tặng là chính Ngài, mà Ngài là chính tình yêu cứu độ. Điều đáng lạ là những hình thức bé nhỏ, mong manh, khó nghèo, khiêm tốn tột bậc đó lại là dấu chỉ để nhận ra tin vui trọng đại: Chúa Giêsu Hài nhi chính là Đấng cứu độ. Như lời thiên sứ đã nói với các mục đồng xưa: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Ngài. Anh em sẽ gặp một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Xưa, các mục đồng đã căn cứ vào những dấu chỉ khiêm tốn đó mà nhận ra Đấng Cứu thế đã đến trong trần gian. Nay, bao người cũng nhờ những dấu chỉ khiêm nhường đó mà nhận ra Đấng Cứu thế đang đến với họ và thời đại hôm nay. Riêng tôi cũng vậy. Tôi đã gặp được Chúa Cứu thế qua những dấu chỉ nói lên tình yêu trong khiêm tốn, khó nghèo, ẩn dật. Ban đầu, đức tin đã giúp tôi khám phá. Dần dần, đức tin được tăng cường bởi những cảm nghiệm sống động của cuộc đời. Với đức tin và cảm nghiệm, tôi gặp thấy Chúa Giêsu là tin mừng cứu độ. Tin mừng cứu độ này nổi bật ở chỗ Ngài cứu con người khỏi tha hoá, giúp họ trở về sống cho ra người đích thực, với ơn nghĩa được tham gia vào địa vị người con Chúa, biết đi đúng con đường dẫn về Chúa là hạnh phúc đích thực. Ngài cứu với những phương tiện khiêm tốn, và một cách khiêm tốn. Thành thực mà nói, rất nhiều người chúng ta đã bị tha hoá. Rất nhiều người, tuy là người, nhưng chưa nên người, chưa thực sự làm người, theo ơn gọi cao quí làm người mà Chúa muốn. Bởi vì sự tự do của mình đã bị nô lệ hoá dưới quyền ma quỉ, xác thịt và thế tục. Chiều kích thiêng liêng trong con người mình đã quá yếu. Những giá trị cao quí xem ra bị huỷ dần trong cuộc sống. Đó là những sự thực đau thương và nguy hiểm. Những nhận thức này thúc giục chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu. Nếu chúng ta mong tìm một vị Cứu độ, thì Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu độ của ta. Nếu chúng ta mong tìm một tương lai bảo đảm, thì Chúa Giêsu chính là tương lai bảo đảm nhất của ta. Hãy đến với Chúa Giêsu. Đến với lòng tin chân thành, đến với tâm tình khiêm tốn, đến với lời cầu nguyện thiết tha. Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23) Đấng đã hứa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Để chúng ta nhìn ngắm Ngài, học hỏi Lời Ngài, theo gương Ngài, đón nhận Ngài và đi theo Ngài. Tất cả những việc trên đây đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu không ngừng với chính bản thân ta. Nhưng những phấn đấu đó sẽ mang lại những niềm vui thiêng liêng thanh cao có sức thanh luyện. Và như vậy, chúng ta đi vào tương lai với sự an tâm, cho dù tương lai rồi sẽ làm cho nhiều người phải điêu đứng về những cạnh tranh mới, những đua tranh mới, những chiến tranh mới. Chúng ta đi vào tương lai với sự tỉnh thức, cho dù tương lai rồi sẽ làm cho nhiều người bị mê hoặc bởi những thần tượng mới, những hưởng thụ mới, những cám dỗ mới. Chúng ta đi vào tương lai với sự tin tưởng, cho dù tương lai rồi sẽ làm cho nhiều người phải lo âu, đau đớn, suy sụp vì những thử thách mới, những mất mát mới, những thất vọng mới. Chúng ta đi vào tương lai với những sáng kiến mới về tình yêu cứu độ như những hạt giống hoà bình gieo vào đời, cho dù tương lai rồi sẽ căng thẳng bởi những hận thù mới, những tan vỡ mới. Với vài suy tư chân tình trên đây, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em một mùa Giáng Sinh đầy niềm vui trong Chúa Giêsu, để bước vào năm 2002 với niềm hy vọng thánh thiện đặt nơi Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót
Nói chung, sống qua 50 năm là đã đi qua một chặng đường lịch sử dài. Chặng đường dài đó thường có những chuyển biến bình thường và bất thường. Nói riêng tại Việt Nam hôm nay, sống qua 50 năm linh mục là đã đi qua một chặng đường lịch sử sôi động. Chặng đường lịch sử sôi động này đã có vô số những chuyển biến gây biết bao lo âu, xúc động và ngạc nhiên. Dưới con mắt đức tin, mọi chặng đường lịch sử đều ẩn tàng những ẩn số, những bí nhiệm dẫn về Thiên Chúa. Hôm nay, mừng kỷ niệm 50 năm Linh mục của Cha Cố Gioan Baotixita, tôi muốn tăng thêm một ý nghĩa cao đẹp cho cuộc lễ, bằng cách gợi lên đề tài: Những con đường lịch sử dẫn về Thiên Chúa trong đời Linh mục của Cha Cố GB. Để vắn gọn, tôi tạm phân tích lịch sử đời linh mục của Cha Cố GB. thành 4 con đường. Con đường thứ nhất là lịch sử đời linh mục của chính mình. Lịch sử đời linh mục của tất cả các linh mục chúng tôi, trong đó có Cha Cố GB. là một con đường đầy những bất ngờ. Một trong những bất ngờ đáng suy nghĩ nhất là những khoảng cách. Những khoảng cách này đôi khi gây nên lo âu và đau đớn. Thí dụ khoảng cách giữa lý tưởng linh mục mà mình mong muốn và thực tế tầm thường bản thân mình. Khoảng cách giữa khát vọng những giá trị cao đẹp về nhân đức, trí thức, nhân bản mà mình cố gắng vươn lên, và kết quả thực tế nghèo nàn của mình. Bản thân mình với biết bao nhiêu giới hạn, với biết bao nhiêu yếu đuối, thế mà đã được Chúa gọi, đã được Hội Thánh tín nhiệm, đã được các cộng đoàn chấp nhận và yêu mến. Khi nhìn kỹ con đường lịch sử đời linh mục của mình, Cha Cố GB. và chúng tôi sẽ khám phá ra có một mầu nhiệm tình thương Thiên Chúa trong đời mình, để rồi càng tin vào Chúa hơn, càng phó thác nơi Chúa nhiều hơn, và để rồi, càng dấn thân làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa hơn. Con đường thứ hai là lịch sử những cộng đoàn và những cá nhân, mà mình đã gặp gỡ, đã sống với, đã làm việc với. Con đường lịch sử này cũng đầy những bất ngờ. Trên con đường này, chúng tôi và nhất là Cha Cố GB. đã được gặp biết bao nhiêu gương sáng. Gương sáng về khiêm nhường bác ái. Gương sáng về chịu khó chịu đựng. Gương sáng về phấn đấu để xây dựng bình an hợp nhất trong gia đình, xóm ngõ và địa phương. Gương sáng để vượt qua những khó khăn thử thách. Gương sáng về phục vụ ích chung. Trong đời linh mục, Cha Cố GB. và chúng tôi đã thấy nhiều bóng tối và nước mắt nơi cuộc đời những người xung quanh. Nhưng bên cạnh đó, Cha Cố GB. và chúng tôi cũng đã thấy nơi họ nhiều ánh sáng, nhiều cái nhìn hy vọng và nhiều nụ cười hoan lạc. Tất cả đã làm cho những dây liên đới nên gần gũi và thân mật. Khi nhìn lại con đường này, người linh mục sẽ khám phá thấy dung mạo tình thương Chúa hiện diện trong cộng đoàn, và trong biết bao người mà mình tiếp xúc. Dung mạo tình thương đó đã nâng đỡ chúng tôi rất nhiều. Con đường thứ ba là chặng đường lịch sử đất nước Việt Nam và Hội Thánh Việt Nam, mà mình đã được sai vào. Chặng đường lịch sử này cũng đầy những bất ngờ. Lịch sử đất nước và Hội Thánh hiện lên như một chuyến đi. Với những chuyển biến về kinh tế, về chính trị, về tâm lý, về văn hoá, về hiểu biết, về khát vọng. Chuyến đi lịch sử của một quốc gia, một Hội Thánh địa phương bao giờ cũng là một khối to lớn những cố gắng, mà mỗi người đều có phần. Chuyến đi nhắm một mục đích nhất định, với một hướng nhất định. Nhưng đằng sau mục đích và phương hướng hữu hình mà con người đặt ra, vẫn có mục đích và phương hướng vô hình do Thiên Chúa là chủ lịch sử âm thầm dẫn tới. Những mục đích và phương hướng đó không dễ thấy được trước mắt và trong thời gian vắn. Nhưng tôi nghĩ rằng: Cha Cố GB. và những người có đức tin sâu sắc sẽ khám phá ra được dần dần. Dần dần, chúng ta sẽ thấy tất cả các con đường lịch sử sẽ như những dòng sông lớn nhỏ. Những dòng sông này sau cùng đều sẽ chảy về biển cả là Thiên Chúa Tình yêu. Con đường thứ bốn là lịch sử thế giới và vũ trụ. Con đường lịch sử này cũng đầy những bất ngờ. So sánh thế giới và vũ trụ hôm nay với thế giới và vũ trụ 50 năm trước, chúng ta thấy có những tiến triển lạ lùng. Do khoa học, do nghệ thuật, do văn minh, do liên đới quốc tế. Mặt đất thay đổi nhiều. Dù có những tiêu cực và những thất bại, lịch sử thế giới và vũ trụ trong 50 năm qua là một chuỗi dài những khám phá gây ngạc nhiên, đem lại nhiều hy vọng cho loài người. Nhìn lịch sử thế giới và vũ trụ trong 50 năm qua, Cha Cố GB. và chúng ta sẽ khám ra phần nào sự hiện diện của Thiên Chúa thương xót và quyền năng. *** Thoáng nhìn 4 con đường lịch sử tôi vừa gợi ý, Cha Cố GB. chắc chắn sẽ thấy ứng nghiệm Lời Chúa đã phán xưa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) và “Không phải con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn con, và sai con đi” (Ga 15,16). Hôm nay là ngày hồi tưởng, là ngày nhớ lại. Hôm nay cũng là ngày nhìn vào những kinh nghiệm nội tâm, kinh nghiệm mục vụ, kinh nghiệm truyền giáo. Khi làm những việc đó, Cha Cố GB. và cộng đoàn chúng ta sẽ thấy lịch sử 50 năm cũng là một thứ nhiệm mầu. Đứng trước bí nhiệm này, Chúa bảo chúng ta: Hãy nhờ Chúa đi vào những nơi chưa bao giờ đi vào. Hãy nhờ Chúa lắng nghe những lời chưa bao giờ đã nghe. Hãy nhờ Chúa nhìn xem những gì chưa bao giờ đã xem thấy. Nhờ đó, chúng ta sẽ khám phá ra phần nào thánh ý nhiệm mầu của Chúa. Nhờ đó mà tâm tình ca tụng Chúa càng sâu sắc hơn, càng tin tưởng hơn. Đồng thời cũng nhờ đó mà chúng ta biết khiêm nhường sám hối về biết bao thiếu sót trong việc cộng tác với Chúa. Tôi hy vọng chúng ta sẽ làm như vậy trong thánh lễ tạ ơn này. Được như thế, thánh lễ tạ ơn hôm nay không những sẽ là nhớ lại những hồng ân Chúa đã ban, đồng thời cũng sẽ là một khởi hành mới với những cố gắng mới, góp phần cho tương lai chính mình, cho cộng đoàn chúng ta, cho Hội Thánh và cho Đất Nước chúng ta.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày lịch sử. Riêng đối với tôi, ngày lịch sử này là khởi đầu chặng đàng thánh giá. Thực vậy, ngày ấy, Chúa đã đặt trên vai tôi một thánh giá mới. Thánh giá này rất nặng. Rồi Chúa sai tôi đi vào lịch sử mới. Tôi đi với tâm trạng đầy lo âu. Lo âu lớn nhất của tôi là: Chúa muốn tôi làm gì? “Thánh ý Người”, đó là trăn trở sâu sắc và thường xuyên. Tôi đã hỏi mình tôi. Tôi đã hỏi Chúa. Câu hỏi về “thánh ý Chúa” đã đưa tôi tới đâu? Đó là tâm sự, mà tôi muốn chia sẻ hôm nay. Thú thực là ngày đó tôi rất bàng hoàng. Ngày ấy nhìn về phía trước, tôi thấy bóng tôi mênh mông. Nhìn vào mình, tôi thấy mình quá yếu đuối bé nhỏ. Trong tâm trạng như vậy, tôi vật vã với câu hỏi: Đâu là thánh ý Chúa? Câu trả lời đầu tiên tôi nhận được là: Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện nhiều. Khi tôi nhận thức rằng: Thánh ý Chúa là muốn tôi hãy tăng cường cầu nguyện, thì tôi để ý hơn đến việc cầu nguyện. Cầu nguyện thực nhiều. Cầu nguyện khắp nơi. Cầu nguyện nhiều cách. Cách cầu nguyện tôi quen làm là cầu nguyện vắn tắt với những lời đơn sơ, như: “Lạy Chúa, xin xót thương con. Lạy Chúa xin đoái nhìn đến con”. Cầu nguyện tự đáy lòng. Cầu nguyện với tất cả tâm tình tin yêu phó thác. Dần dần, tôi cảm thấy Chúa đáp lại. Ngài đáp lại đôi khi bằng cách làm cho thánh giá nhẹ đi, hoặc bằng cách làm cho ánh sáng loé ra trong bóng tối, nhưng nhất là bằng cách làm cho tôi cảm nghiệm rất rõ: Chúa Giêsu đến với tôi. Ngài nhìn tôi. Ngài ở lại trong tôi. Chúa Giêsu đến với tôi và ở lại trong tôi, không phải với dung mạo một Đấng sáng láng, nhưng với dung mạo một Đấng đội mão gai và bị đóng đinh vào thánh giá. Với dung mạo này, Chúa Giêsu chia sẻ cho tôi tâm tình của Ngài. Tâm tình của Ngài vắn tắt là: Tình yêu thương xót. Ngài tự ý xuống trần chịu khổ đau, là để chứng tỏ Ngài yêu mến Chúa Cha, nên muốn dâng chính mình làm của lễ hiến dâng trọn vẹn cho tình yêu ấy. Ngài tự ý chịu khổ đau, cũng là để chứng tỏ Ngài yêu thương nhân loại, nên muốn cho đi chính mình, làm của lễ đền tội để cứu rỗi nhân loại. Với tâm tình như thế được chia sẻ, tôi mong muốn được biến đổi chính mình. Tôi muốn được phần nào nên giống Chúa Giêsu. Nhưng ước muốn là một chuyện, mà thực hành ước muốn lại là chuyện khác. Nên tôi lại cầu nguyện: “Xin Chúa thương xót con. Xin Chúa đoái nhìn con”. Và Chúa đáp lại. Đáp lại bằng cách là cho tôi thấy Chúa hiện diện trong những khổ đau của tôi. Lúc ấy, tôi hiểu thấm thía lời Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở với con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) cũng như một lời khác đầy an ủi: “Ai ở trong thầy, và Thầy ở trong người đó, người đó sẽ sinh được nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Từ cảm nghiệm trên đây, tôi hiểu rằng: Các khổ đau có thể sẽ còn mãi. Nhưng nếu ai có Chúa ở với mình, thì người đó sẽ biết biến đổi các khổ đau thành những giá trị cứu độ. Một giá trị cứu độ mà người ta thấy rõ ngay được, là: Lòng mình được cứu khỏi sự hẹp hòi, ích kỷ, ghen ghét, dửng dưng, để hoan hỉ mở ra đón nhận Chúa vác thánh giá và đón nhận mọi người mà Chúa yêu thương và muốn cứu chuộc. Lúc đó, chúng ta mới hiểu sâu hơn điều răn căn bản của đạo mới: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 15,12). Không những tôi thấy lòng mình mở ra, mà cũng còn thấy như thiên đàng mở ra, thoáng cảm được phần nào hạnh phúc, vinh quang mà Chúa Ba Ngôi dành cho những ai vác thánh giá mình, mà theo Chúa cứu thế. Vì thế, dần dần tôi xác tín điều này: Thánh ý Chúa là hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà đi theo Chúa Giêsu, để chứng tỏ tình yêu xót thương. Khi làm như thế dưới hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ đi về với Chúa Cha với tâm tình bình an hoan lạc. Mà muốn được như vậy, thì phải rất khiêm nhường. Tôi nhấn mạnh là: Phải rất khiêm nhường. Bởi vì Chúa chống lại kẻ kiêu căng, và chỉ ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Khiêm nhường nhất là ở chỗ cầu xin được ơn biết can đảm đón nhận tình yêu Chúa, bất cứ Chúa đến cách nào. Và biết can đảm hiến dâng tình yêu mình cho Chúa và cho nhân loại theo như gương Chúa, bất cứ cách nào mà Chúa muốn. Khiêm nhường bao giờ cũng đòi rất nhiều can đảm. *** 26 năm là một chặng đường lịch sử phấn đấu giữa hy vọng và thất vọng. Đã có những đêm dài lênh đênh trong bão gió như các tông đồ xưa (Lc 8,22-25). Đã có những đêm dài vất vả thả lưới mà chẳng bắt được con cá nào, cũng như các tông đồ xưa (Ga 21,1-5). Và cũng đã có những đêm dài hấp hối như Chúa Giêsu xưa trong vườn cây Dầu (Lc 22,41-44). Nhưng trong các đêm dài như vậy, Chúa đã đến với hy vọng, niềm tin và an ủi. Để kết, tôi xin làm chứng rằng: Ai nhận mình hèn yếu bé mọn, mà chỉ nương tựa vào Chúa, luôn khát khao đón nhận ý Chúa, luôn phấn đấu để từ bỏ mình, để sống mầu nhiệm thánh giá Chúa như biểu tượng của tình yêu thương xót, nhất là siêng năng cầu nguyện, thì sẽ gặp được Chúa là Đấng Cứu độ. Kinh nghiệm của tôi về thánh ý Chúa đơn sơ là như vậy. Tuy kinh nghiệm này cũng là rất bé mọn. Tôi hy vọng rằng: Chia sẻ thân tình trên đây của tôi sẽ giúp phần nào cho cuộc sống hiện nay của anh chị em. Bởi vì tôi biết: Cuộc sống hiện nay của nhiều người anh chị em cũng là một chuỗi ngày phấn đấu cam go giữa hy vọng và thất vọng, giữa yêu thương và ghen ghét, giữa thiên đàng và hoả ngục. Xin Chúa thương xót chúng ta.
Xin Chúa đoái nhìn đến chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta thực thi thánh ý Ngài.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đây là một lời hứa đầy an ủi. Vì chưng, còn gì quí bằng được có Chúa Cứu Thế ở bên mình. Ý thức về lời hứa ấy, Hội Thánh hay nhắc cho chúng ta ơn trọng được Chúa ở cùng. Những lời trong Phụng vụ, như “Chúa ở cùng anh chị em” là những lời cầu chúc cần chúng ta để tâm suy nghĩ. Chúa Giêsu hứa ở lại với chúng ta. Nhưng ở lại với mục đích nào? Để đào tạo ta. Chúa ở lại một cách trọn vẹn, có nghĩa là với tất cả tâm tình và cuộc đời cứu thế của Ngài. Một trong những mục đích quan trọng Ngài nhắm tới là đào tạo ta. Ngài ở lại với ta để dạy dỗ ta. Để ta học với Ngài. Để ta có thể được nên giống Ngài. “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Ngài quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Ngài, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Ngài, với hy vọng có ngày chúng ta được sống lại từ trong cõi chết” (Ph 3,10-11). Khi biết rõ: Đức Kitô ở lại với ta, để dạy dỗ ta, để cuộc đời của Ngài là trường dạy ta, thì bổn phận của ta là cố gắng đi vào sự sống của Ngài. Đi vào sự sống của Đức Kitô, không phải là nghiên cứu hồ sơ về Đức Kitô, nhưng là phải gặp gỡ chính Đức Kitô. Gặp gỡ thường xuyên Đức Kitô là một bổn phận cao đẹp và cũng là một công việc linh thiêng ngọt ngào. Càng gặp gỡ Đức Kitô, càng đi vào cuộc sống Đức Kitô, chúng ta sẽ càng thấy cuộc sống Ngài rất khác cuộc sống ta. Thí dụ cuộc sống ta thường chạy theo tiêu chuẩn thành công, uy tín, hưởng thụ. Còn cuộc sống Đức Kitô lại luôn nhắm vào tiêu chuẩn: Hiền lành, khiêm tốn, từ bỏ mình, yêu thương, phục vụ. Nhưng điều quan trọng nhất Ngài dạy ta, đó là: Để cứu độ, Ngài đã trải qua chặng đường cực kỳ đau khổ trước khi được sống lại. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, các thượng tế, các kinh sư loại bỏ. Rồi bị giết chết. Sau cùng sẽ sống lại” (Mc 8,31). Tất cả những việc đó đã được Đức Kitô thấy trước, báo trước. Và tất cả các việc đó đều đã xảy ra. Đây là một thực tế gây bàng hoàng, ghê sợ. Ấy thế mà, khi gặp gỡ Chúa Giêsu, để lắng nghe bài dạy đào tạo của Ngài, ta thấy Ngài không ngần ngại bảo ta cũng hãy đi theo con đường Ngài đã đi. “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mc 8,34). Phản ứng trước sự Chúa Giêsu ở lại với chúng ta. Phúc Âm cho thấy thời Chúa Giêsu, các phản ứng trước con người và cuộc sống Chúa Giêsu là rất nhiều và rất khác nhau. Kẻ thì đón nhận, kẻ thì tin nhưng không theo. Kẻ thì tin và đi theo. Kẻ thì chối bỏ. Kẻ thì săn đuổi và loại trừ Ngài một cách độc ác và gian ác. Những kẻ hung hăng nhất lại là một số các nhà lãnh đạo tôn giáo tức là các thượng tế, các nhà thông thái tức là các kinh sư, các người có uy tín trong xã hội tức là các kỹ lão. Bởi vì theo thói thường, ai cũng muốn theo một vị thầy, một vị cứu tinh quyền uy, đắc thắng, đè bẹp quân thù, giải thoát thành công khỏi mọi khổ đau, để đi tới vinh quang, hưởng đời sung sướng, được mọi người kính nể. Ai cũng muốn được đào tạo trên con đường trơn tru, dễ dãi. Ai cũng rất ngại con đường khiêm tốn, khó nghèo, từ bỏ ý riêng, để tuân phục thánh ý Chúa. Chúa Giêsu sống khác, dạy khác. Nên bị người ta ghét và chống đối. Xem ra thời nay hơn kém cũng vẫn thế thôi. Mấy thí dụ về hiện tình theo Chúa Giêsu. Tuy nhiên, công bình mà nói, thời nay không thiếu người đã không theo thói thường trên đây. Họ đã đón nhận Chúa Giêsu, đã tin Ngài, đã đi theo Ngài. Ngài đã đào tạo họ. Họ thực sự đang đi vào cuộc sống của Ngài. Hiện nay, bao người đang lặng lẽ xông pha như thánh Phaolô xưa: “Giờ đây, bị Thần Linh trói buộc, tôi lên Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này là: Tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi chẳng đáng giá trị gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, cho tròn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24). Họ được như vậy là vì họ có Chúa Giêsu ở lại trong họ và đào tạo họ. Hiện nay, bao người đang lặng lẽ đi theo Chúa Giêsu đến tận Núi Sọ. Họ chịu đóng đinh mình một cách thiêng liêng vào thánh giá. Trước các thách thức, họ vẫn thinh lặng, hiền từ khiêm tốn dâng chính mình làm của lễ đền tội cho nhân loại và khẩn cầu ơn tha thứ cho những kẻ làm khổ mình. Bởi vì Chúa Giêsu ở lại trong họ, sống trong họ, đào tạo họ để thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Nhờ đó, vô vàn người đã và đang được sống lại. Hiện nay, biết bao người đang hằng ngày lặng lẽ đón nhận tinh thần phục vụ, hiền lành và khiêm nhường cầu nguyện của Đức Kitô vào lòng mình như đón nhận một hạt giống. Hạt giống Tin Mừng này đang dần dần mọc lên trong họ một cách thinh lặng dưới sự chăm sóc của Thánh Linh. Để nhờ đó, họ biết có những chọn lựa rất hợp thánh ý Chúa Cha trong mọi tình huống cụ thể, theo hướng dẫn của Thần Linh Đức Kitô. *** Để kết, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm riêng tôi về lời Chúa hứa: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Khi Chúa Giêsu ở lại với môn đệ Ngài, thì Ngài cứu họ, nhất là bằng cách đào tạo họ. Nhiều lúc Chúa đào tạo bằng những khổ đau. Có đủ loại khổ đau. Có khổ đau có tên, và có những khổ đau không tên. Nhưng chính nhờ cách đào tạo qua các thử thách như vậy, mà người môn đệ Chúa sẽ biết bám chặt vào Chúa, sẽ hết sức tin cậy vào Chúa, sẽ tha thiết kết hợp với Chúa, sẽ hết sức cố gắng khiêm nhường từ bỏ mình trong mọi sự để biết tuân phục thánh ý Chúa. Như vậy, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần đặt ra cho lương tâm mình sẽ là: Tôi có khát khao và thực tâm đón nhận Chúa Giêsu không?Tôi có khiêm tốn vâng phục Chúa Giêsu trong kế hoạch Ngài đào tạo bản thân tôi và cộng đoàn tôi không? Rồi, hãy khiêm tốn tin cậy đến với Chúa Giêsu, để tạ ơn, sám hối và nài xin Ngài luôn ở lại với ta. Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ở lại với con mọi giờ, mọi phút, bởi vì Chúa mới là Đấng cứu độ con, là mô hình đào tạo con. Lạy Chúa, xin thương xót coon. Long Xuyên, ngày 7 tháng 5 năm 2001
Khi Chúa Giêsu sắp về trời, các tông đồ xem ra vẫn còn non yếu trong lãnh vực hiểu biết mầu nhiệm con đường cứu độ. Chắc là các ngài cũng có hiểu phần nào. Nhưng hiểu chưa sâu, chưa thấu triệt. Vì thế thánh sử Luca, trong phần cuối Phúc Âm, đã thuật lại sự việc cuối cùng của Chúa Giêsu như sau: “Bấy giờ Người mở lòng trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24, 45-46). Cần được mở lòng trí ra Sự việc Chúa Giêsu làm trên đây cho thấy: Để hiểu con đường cứu độ của Chúa, và để chấp nhận đi theo con đường đó, chúng ta không những cần phải đọc Lời Chúa, học hỏi suy gẫm Lời Chúa, mà còn phải được Chúa mở lòng trí chúng ta ra. Được Chúa mở lòng trí ra, đó là điều tôi cho là rất cần thiết, khi chúng ta muốn tìm hiểu Lời Chúa, đặc biệt là muốn tìm hiểu con đường cứu độ của Chúa. Điều khó hiểu nhất và khó chấp nhận nhất, đó là: Để cứu độ nhân loại, Đấng Kitô phải chịu khổ hình, và chúng ta đi theo Ngài, cũng phải chia sẻ khổ hình của Ngài, kế hoạch cứu độ của Ngài. Để cứu độ nhân loại, Đức Kitô phải chịu khổ hình, đây là một mầu nhiệm lớn lao sâu thẳm. Nhưng, trước khi được Chúa mở lòng trí để đưa ta vào mầu nhiệm đó, chúng ta thử mon men đi tới với những cái nhìn khiêm tốn. Tôi cố nhìn xem đầu mối của sự Đức Kitô phải chịu khổ hình. Tôi thấy đầu mối chính là tình yêu của Ngài. Tình yêu bị khổ hình. Ngài là tình yêu, cam chịu mọi đớn đau gây nên do những người chối từ tình yêu của Ngài. Tôi như nghe Ngài nói: “Cha vẫn thương yêu mọi người, Cha không ngừng yêu thương mọi người. Nếu có người bị hư đi, thì chính vì họ đã đóng đinh tình yêu Cha vào thập giá và cố chấp chối từ tình yêu Cha”. Ngài là tình yêu, dù chịu đóng đinh, vẫn một mực tuân phục Chúa Cha, và vẫn một mực xót thương mọi người. Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những ai xúc phạm đến tình yêu Ngài, nhất là những người, kết án, loại trừ tình yêu của Ngài. Đứng trước Chúa chịu đóng đinh, chúng ta thấy Chúa không phải như một Đấng ban bố lề luật, cũng không phải như một Đấng phán xét, nhưng như một Đấng là tình yêu ban tặng chính mình để cứu độ ta. Ngài là tình yêu cứu độ, muốn đi vào cuộc sống ta, để cuộc sống ta được đổi mới. Nên Ngài đành chấp nhận chịu mọi khổ hình thánh giá. Ngài coi thập giá như con đường hy vọng. Mong một lúc nào đó, chúng ta nhìn vào thánh giá, sẽ hiểu được một chút tình yêu của Ngài. Riêng tôi, tôi luôn nhìn Ngài là tình yêu cứu độ vô cùng tha thiết. Bởi vì Ngài muốn ở giữa những người hèn mọn. Ngài muốn đồng hành với những người yếu đuối. Ngài đến để tìm những người thất vọng. Ngài muốn chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng. Ngài tự ý để mình chịu đau khổ và bị đóng đinh. Để những người đó như tôi khi nhìn vào Ngài, sẽ tìm được tình yêu cứu độ đầy an ủi. Nhìn lên Chúa là tình yêu chịu đóng đinh trên thánh giá, tôi thấy: Nếu chúng ta mến Ngài, thì trước tiên chúng ta hãy biết bảo vệ Ngài khỏi những vô tâm, ác tâm, dã tâm của con người, của chính chúng ta. Đừng quên điều này: Khi chúng ta vô tâm, ác tâm, dã tâm đối với bất cứ ai, thì Chúa cũng kể như chúng ta đối xử như vậy đối với chính Ngài. Cái nhìn chân thành này sẽ cho chúng ta thấy: Những người đóng đinh Chúa tình yêu không ở xa đâu. Rất có thể là chính chúng ta. Đó là điều chúng ta thường lẩn trốn, không muốn nhìn nhận. Nguyên do chính là sự nguội lạnh tình yêu và tính kiêu căng. Những người được Chúa thương mở lòng trí. Đã có vô số người được Chúa thương mở lòng trí, để họ hiểu mầu nhiệm con đường cứu độ. Họ thuộc loại khiêm nhường. Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể rút sự lành ra từ sự dữ. Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể vượt qua sự dữ để tiến đến sự tốt lành. Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể dùng sự lành để thắng đuổi sự dữ. Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể biến đổi kẻ tội lỗi thành người thánh. Con đường cứu độ đầy gian khổ của Chúa Giêsu đã chứng minh những điều đó. Đặc biệt là những ngày Chúa chịu khổ hình đớn đau nhục nhã. Thành công của con đường này hệ tại ở tình yêu trung thành của Chúa Giêsu. Trung thành phó thác tuyệt đối vào Chúa Cha, mặc dù thánh ý Chúa Cha là chén đắng. Trung thành yêu thương con người. Trung thành trong các liên đới với mọi người, cho dù đầy cay đắng. Tình yêu kết bởi các dây liên đới. Liên đới với Chúa Cha. Liên đới với mọi người. Chúa duy trì mọi liên đới. Nhưng khi ai tự cắt liên đới với Ngài, chối từ và loại trừ liên đới với Ngài, thì tình yêu Ngài kể như bị đóng đinh. Lúc đó, không ai sẽ kết án họ, ngoài chính họ mà thôi. Tóm lại mến Chúa hết lòng và trên hết mọi sự, cũng như yêu người như Chúa yêu ta, tóm tắt đạo tình yêu chỉ là những liên đới đó. Khiêm tốn đón nhận đạo tình yêu đơn sơ đó là đón nhận Nước Trời. Nhưng nên nhớ rằng: Tình yêu không hy sinh là tình yêu giả, và hy sinh không tình yêu là hy sinh thừa. Để hiểu đúng và hiểu rõ, chúng ta rất cần ơn Chúa mở lòng trí chúng ta. Muốn được Chúa mở lòng trí, để hiểu con đường cứu độ, chúng ta hãy thực sự khiêm nhường. Bởi vì “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Giacôbê 4,6). Khiêm nhường như ông bạn trộm lành bị đóng đinh bên hữu Chúa. Khiêm nhường như tông đồ Phêrô khi trót chối Chúa. Cả hai người khiêm nhường này đã được Chúa mở lòng mở trí. Chỉ do một cái nhìn thương xót của Chúa. Cái nhìn đó đã mở lòng trí các ngài. Các ngài đã hiểu được con đường cứu độ. Con đường đó là con đường tình yêu. Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhìn con. Can khát khao cái nhìn xót thương của Chúa. Để cái nhìn của Chúa mở lòng trí con, cho con nhận ra con đường cứu độ nhiệm mầu của Chúa. Long Xuyên, ngày 11 tháng 5 năm 2001
Thời sự tôn giáo được chia ra thành nhiều loại. Có những thời sự được loan đi ồn ào trên các phương tiện truyền thông. Có những thời sự rất âm thầm, nhưng thực là quan trọng, gây nhiều ảnh hưởng sâu xa. Trong loại thời sự âm thầm này tôi để ý đến những sự kiện trở về. Sự trở về thường được hiểu là sự quay trở về một con đường đạo đức. Nói chung, nó là lựa chọn tốt hơn trước. Nếu đi sâu vào các tính chất của sự trở về, người ta có thể thấy được nhiều màu sắc. Ở đây, tôi xin phép đưa ra vài màu sắc đáng suy nghĩ hơn. Trở về trong lãnh vực tư tưởng. Nhiều người trước đây có thói quen hay suy nghĩ chuyện này chuyện nọ. Nay họ vẫn suy nghĩ, nhưng với cái nhìn mới của một con người được đổi mới. Dưới đây là mấy ví dụ: Trước đây, Phaolô cũng được gọi Saolô, nghĩ rằng: tố cáo bắt bớ những môn đệ Đức Kitô là việc đạo đức theo tiếng gọi lương tâm, và là sứ vụ của tinh thần bảo vệ đức tin. Nhưng trên đường đi Đamas, ông bị Chúa đẩy xuống ngựa. Trong sợ hãi, ông nghe tiếng hỏi: “Saolô, Saolô, tại sao anh bắt bớ Ta? Ông trả lời: Ngài lài ai? Tiếng lạ đáp: Ta là Giêsu, mà anh đang tìm bắt. Nhưng hãy đứng lên, hãy cứ vào thành, rồi Ta sẽ nói cho anh biết anh phải làm gì” (Cv 9,1-6). Sau đó, câu chuyện diễn tiến thêm thế nào, thì chúng ta đã biết. Saolô đã trở lại. Tư tưởng của Ngài đã trở về với sự thực. Từ đây Ngài suy nghĩ hoàn toàn khác trước. Nhiều sự trở về cũng một phần nào giống sự trở về của Phaolô. Trước đây, nhiều người cứ tưởng chính mình đã chọn Chúa, nhưng bây giờ họ nhận ra điều ngược lại. Chính Chúa đã chọn họ “Không phải con đã chọn Cha, nhưng chính Cha đã chọn con và sai con đi, để sinh ra nhiều hoa trái” (Ga 15,16). Nhiều người trước đây đã tưởng mình yêu mến Chúa trước. Nhưng bây giờ họ nghĩ khác. Bởi vì thánh Gioan viết: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước và sai con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Nhiều người trước đây đã tưởng mình đi tìm Chúa trước. Nhưng bây giờ họ thấy rõ: Chính Chúa đã đi tìm họ trước. Chúa xác định sự thực đó qua dụ ngôn con chiên bị mất: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho bằng được con chiên đã bị mất? Tìm được rồi, người ấy mững rỡ vác lên vai” (Lc 15, 4-5). Từ những cuộc trở về của tư tưởng như trên, nhiều người đã khám phá ra một sự thực mới. Đó là sự mình trở về với Chúa là một hồng ân của tình yêu thương xót Chúa. Cuộc đời của mình cũng sẽ phải trở về theo sự thực đó. “Có sự gì con có mà con đã không lãnh nhận?” (1Cor 4,7). Cũng nhờ sự trở về của tư tưởng, nhiều người đã nhìn các vấn đề một cách mới. Có một số vấn đề trước đây họ cho là hết sức lớn lao, nhưng sau khi được ơn trở lại, những vấn đề lớn lao ấy chẳng còn nghĩa lý gì. Trước đây, họ quen đối chiếu quan điểm này với quan điểm kia. Nhưng giờ đây, sau khi trở về, họ đối chiếu các quan điểm với biến cố Chúa đến với họ, với Hội Thánh, với lịch sử. Họ thấy trong mọi biến cố đều có sự Chúa đến. Chúa đến vì mục đích cứu độ. Trong nhãn quan đó, họ khiêm tốn cầu nguyện và tỉnh thức lắng nghe Chúa. Rồi họ được Chúa cho thấy: Kế hoạch cứu độ của Chúa rất khác với những suy nghĩ của họ và của bao người, dù họ thuộc hạng đạo đức và thông minh. Họ chỉ có thể được Chúa mạc khải cho, khi họ thực sự trở về với tinh thần khiêm tốn thơ ấu thiêng liêng. Với tinh thần này, họ trở về gắn bó với bổn phận yêu thương phục vụ. Trở về trong lãnh vực phục vụ yêu thương. Càng đón nhận ơn Chúa, người trở lại càng nhận ra dung mạo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, và bộ mặt mình là kẻ tội lỗi. Đúng như thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu đến trong thế gian là để cứu chuộc những người tội lỗi. Trong số đó có tôi. Tôi là người tội lỗi thứ nhất” (1Tim 1,15). Từ nhận thức ấy, người trở lại không những để ý đến việc bỏ những gì là tội lỗi, mà còn để ý nhiều hơn đến việc gắn bó với Chúa Giêsu. Trở về là đi vào một giao ước. Tôi giao ước gắn bó hơn với bổn phận yêu mến Chúa. Tôi giao ước trung thành hơn với bổn phận yêu thương mọi người. Yêu mến Chúa không những trong lòng mà còn bằng việc làm. Yêu thương mọi người không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng hành động. Hơn thế nữa, người trở lại muốn tình yêu thương trở thành bầu khí thiêng liêng, để mình hít thở thường xuyên. Ý muốn đó được thực hiện nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Thần khí tình yêu. Nhờ Thần khí tình yêu này, mà tất cả sự sống con người trở lại đều thấm nhuần tình yêu Chúa. Họ trở nên lễ tế cảm tạ, đồng thời cũng trở thành một sự dấn thân phục vụ con người trong yêu thương và khiêm tốn. Họ ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong họ. “Ai ở lại trong Cha, và Cha ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Một trong những hoa trái, mà Chúa làm cho sinh ra nơi họ, là họ luôn đi về phía trước. Không phải đó là nơi họ muốn, nhưng là nơi Chúa sai họ đi. Như thánh Phaolô xưa: “Tôi chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được kêu gọi trong Đức Giêsu KiTô” (Phil 3,13-14). Người trở lại như thánh Phaolô là người được kêu gọi luôn tìm thực thi thánh ý Chúa Cha. Ai thực thi thánh ý Chúa Cha mới được lãnh thưởng. “Không phải kẻ kêu lạy Chúa, lạy Chúa, là kẻ sẽ được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý Cha Ta trên trời mới được vào Nước Trời mà thôi” (Mt 7,21). Người trở lại như thánh Phaolô là người được kêu gọi luôn luôn đặt bác ái yêu thương lên bổn phận hàng đầu. Như lời thánh Phaolô nói: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có bác ái, thì tôi chẳng khác gì thanh la kêu to nhưng trống rỗng”. “Giả như tôi được ơn tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao sâu, hay có đức tin chuyển núi dời non, mà không có bác ái, thì tôi cũng chẳng là gì”. “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nạp mình để chịu thiêu đốt, mà không có bác ái, thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cor 13,1-3). *** Thoáng nhìn chân trời mới trên đây của sự trở về, chúng ta có thể đoán được người trở về là người luôn phải phấn đấu với chính mình. Nhất là phấn đấu bằng sự cầu nguyện thường xuyên và khiêm nhường thinh lặng tỉnh thức để có thể nghe được tiếng Chúa, và để biết đón Chúa. Bởi vì Chúa đã phán: “Cha đứng ngoài cửa và gõ. Ai nghe tiếng Cha và mở cửa ra, thì Cha sẽ vào đó để dùng bữa. Cha ở bên họ, và họ ở bên Cha” (Kh 3,20). Số người trở về như trên là một số đáng kể. Nhiều trường hợp rất cảm động. Thời sự này đang xảy ra đó đây tại Việt Nam hôm nay. Rất đa dạng. Rất phong phú. Rất lạ lùng. Thiết tưởng thời sự này, tuy âm thầm, nhưng là một yếu tố rất quan trọng cho việc phục hưng đạo đức tại quê hương Việt Nam. Long Xuyên, ngày 29 tháng 5 năm 2001
Ngày 31-5 là lễ kính Đức Mẹ Maria đi viếng thăm bà thánh Isave. Lễ này cũng là ngày kết thúc tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Nhân dịp này, chúng ta xin Đức Mẹ viếng thăm gia đình chúng ta. Còn gia đình chúng ta, nhân dịp này, sẽ dâng lên Đức Mẹ những bông hoa thơm đẹp nhất. Nhưng quan trọng hơn việc dâng hoa là việc cầu nguyện. Một cách cầu nguyện. Để cầu nguyện một cách thiết thực, tôi nhớ lại lời Đức Mẹ đã cầu xưa tại tiệc cưới Cana. Hôm đó, Đức Mẹ đến nhà người thân để dự tiệc cưới. Khi thoáng nhận ra cảnh túng nghèo lúng túng của gia đình đó, Đức Mẹ đã cầu xin với Chúa Giêsu. Lời cầu rất vắn. Chỉ một câu thôi: “Nhà này hết rượu rồi”(Ga 2,3). Đức Mẹ cầu với lòng tin vững mạnh. Và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên ngay sau đó (Ga 2,6-12). Tôi thiết nghĩ, khi đón Đức Mẹ đến thăm chúng ta, chúng ta sẽ dâng mọi sự cho Đức Mẹ, nhất là những túng nghèo của ta. Đối với Mẹ nhân lành, chúng ta đừng ngại tỏ bày mọi sự thực của ta. Sự thực lớn nhất của ta là cảnh túng nghèo. Túng nghèo trong nhiều lãnh vực, đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức. Tôi thấy đây là một tình hình thiếu thốn trầm trọng. Chúng ta đang thiếu những rượu thiêng liêng và những hoa thiêng liêng cần thiết. Vì thế, con người và cuộc đời ta không thể trở thành bữa tiệc Tin Mừng. Theo tôi, thì sự túng nghèo nguy hiểm nhất là sự thiếu biết mình. Túng nghèo về sự biết mình. Hoa đẹp nhất là sự biết mình. Rượu ngon nhất là sự tự thức. Ta có phần bên ngoài và phần nội tâm. Phần xác và phần hồn. Phần có ánh sáng và phần ngập chìm bóng tối. Phần tâm sinh lý và phần thiêng liêng. Ta có trong mình những kho tàng tiềm năng phong phú, đồng thời cũng có những hang ổ đầy tính mê nết xấu. Ta có thể trở thành đền thờ cho Chúa ngự, đồng thời cũng có chốn có thể đang trở thành pháo đài chứa đoàn lũ ác thần. Ta có thể đang được sợi dây ân thánh nối buộc ta vào sự sống Chúa, nhưng cũng có thể đang bị xiềng xích tội lỗi trói ta vào quyền lực Satan. Bản thân ta và cộng đoàn ta có rất nhiều phức tạp như thế, nhưng ta thường không thấy hết. Điều nguy hiểm nhất không phải chỉ là không để ý đến sự biết mình, mà là biết mình dưới hướng dẫn sai lầm của xác thịt, thế gian và ma quỉ. Để rồi biết mình một cách kiêu căng và hời hợt, với những ảo tưởng, với những thiên kiến tai hại, vừa lừa dối mình và vừa gây hại cho Hội Thánh. Ta cần biết sự thực về minh để có khả năng đi về với Chúa là Sự Thật tuyệt đối. Ta cần biết sự thực về mình để có khả năng phục vụ con người trong tinh thần tôn trọng sự thực. Vài nhận thức sơ đẳng trên đây cho ta thấy cảnh túng nghèo thiêng liêng của ta đã khởi đi từ sự túng nghèo nhận biết sự thực về chính bản thân mình và cộng đoàn mình. Từ nhận thức đó, của lễ ta dâng cho Mẹ trước hết là tinh thần khiêm tốn của ta. Sám hối khiêm nhường. Một trong sự diễn tả tinh thần khiêm tốn là sự sám hối. Thánh Gioan tiền hô dọn đường cho Chúa Giêsu bằng cách rao giảng việc sám hối (Mc 1-4). Chúa Giêsu, trước khi về trời, còn căn dặn các môn đệ rằng: “Hãy nhân danh Thầy mà đi rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,47-48). Đức Mẹ Maria, khi hiện ra ở Fatima, cũng đã nhắc đi nhắc lại sự cần thiết phải sám hối. Hội Thánh, từ ngàn xưa cho đến bây giờ, vẫn có thói quen bắt đầu mọi hình thức phụng vụ bằng kinh sám hối. Tất cả đều làm chứng rằng: Khiêm nhường sám hối là một thứ hoa đẹp, một thứ rượu ngon, được kể như là cần thiết đầu tiên phải có, để đón Chúa và Đức Mẹ. Sám hối về mọi tội, nhất là trong bổn phận mến Chúa yêu người. Một điều nên để ý là: Khi làm việc khiêm nhường sám hối, chúng ta nên chú tâm vào hoàn cảnh thiếu sót tội lỗi của chính mình và của gia đình mình, chứ đừng vẫn coi mình là đạo đức hơn người khác. Ở đây, chúng ta nên nhớ lại dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế. “Người biệt phái đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đang xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa than rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Thầy nói cho các ông biết: Người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi, còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 17,11-14). Dụ ngôn trên đây đáng làm cho những người tưởng mình đạo đức phải lo sợ. Kiểu đạo đức kiêu căng dễ đưa tới kiểu đạo đức ác độc. Họ sẽ bị Chúa ruồng bỏ nếu họ không sám hối. Coi mình đạo đức hơn người là thói xấu rất nguy hiểm. Thói xấu đó tự nó dễ đưa ta tới sự tự huỷ, cần phải tránh. Phương chi, khi làm việc sám hối, cầu nguyện là những việc đạo đức quan trọng, chúng ta càng phải tránh hết sức những thói xấu ghê tởm đó. Bởi vì “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Giacôbê 4,6). Cũng nên nhớ lại lời Chúa cảnh cáo ta: “Anh em đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán người ta thế nào, thì Thiên Chúa cũng xét đoán lại anh em như vậy. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. Sao anh em thấy cái rác trong mắt của người khác, còn cái xà trong mắt của mình thì lại không thấy? Sao anh em lại nói với người khác: Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh, trong khi có cả cái xà trong mắt mình. Hỡi kẻ đạo đức giả: Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác khỏi mắt người khác” (Mt 7,1-5). Các điều Chúa cảnh cáo trên đây dạy chúng ta phải biết khiêm nhường với tất cả mọi người khi chúng ta đón Đức Mẹ vào nhà mình. Đừng lợi dụng dịp Đức Mẹ đến nhà mình mà phô trương. Hãy cầu nguyện với tâm tình khiêm nhường sám hối. Một sự sám hối chân thành nhìn nhận lỗi mình. “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Đó mới là cách tuân phục thánh ý Chúa. Đó mới là cách đón Đức Mẹ vào gia đình ta. Đó mới là cách giữ Đức Mẹ ở lại với gia đình ta. Đó mới là cách cầu nguyện với Đức Mẹ, đáng được Chúa Giêsu chấp nhận và cứu độ. *** Hiện nay, chúng ta đang sống trong một tình hình đạo đức bất ổn. Sự bất ổn này là do những xuống dốc đầy nguy hiểm. Để cứu nguy, chúng ta hãy đón Đức Mẹ vào nhà ta, để nhờ Mẹ cầu xin với Chúa Giêsu cứu độ ta. Nhưng Đức Mẹ đòi chúng ta cộng tác với Người. Cộng tác bằng sự khiêm tốn biết mình và bằng sự khiêm nhường sám hối cầu nguyện. Chúng ta rất yếu đuối, nên hãy nài xin Mẹ giúp ta khiêm nhường sám hối, hãy nài xin Mẹ giúp ta khiêm tốn biết mình. Tôi tin rằng: Những ai thiện chí khiêm nhường sẽ được Đức Mẹ thăm viếng. Nhìn vào nhà ta, Mẹ nhân từ sẽ nói với Chúa Giêsu: “Nhà này hết rượu rồi”. Chắc chắn, Chúa Giêsu là Đấng cứu độ sẽ thương cứu ta. Chúa sẽ cứu độ ta cách nào, lúc nào, thì chúng ta hãy theo gương Đức Mẹ mà tuân phục thánh ý Chúa. Bởi vì Chúa là Đấng khôn ngoan quyền năng giàu tình yêu thương xót. Long Xuyên, ngày 31 tháng 5 năm 2001
TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÚA THÁNH LINH 03-06-2001 Lễ CTT-Hiện Xuống Bài giảng thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, dành cho những người cao tuổi tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 3-6-2001
Từ ít lâu nay, tôi hay nghĩ về tuổi già. Tôi tin rằng: Những người cao tuổi, tuy sức khoẻ và nhiều khả năng bị xuống cấp, nhưng vẫn có thể cộng tác với Chúa một cách đắc lực trong việc cứu độ và xây dựng ích chung. Ích chung của gia đình xóm ngõ, ích chung của địa phương đất nước, ích chung của giáo xứ và Hội Thánh. Nhưng cộng tác với Chúa bằng những cách nào? Tôi tìm câu trả lời trong Phúc Âm. Đọc Tin Mừng, tôi thấy hiện lên nhiều vị cao niên đáng kính. Tôi tạm dừng lại ở mấy vị sau đây: Vị thứ nhất là ông Simeon. Phúc Âm thánh Luca cho biết: Khi Đức Mẹ và thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật đạo, thì có một người đàn ông cao niên cũng tới đó. Ông tên là Simeon. Thánh sử khen ông là người công chính và sùng đạo. Khi vừa nhìn thấy hài nhi Giêsu, ông Simeon được ơn Chúa Thánh Thần, đã nhận ra trẻ đó là Đấng Cứu thế. Ông cũng báo trước là Đấng Cứu thế này sẽ thực hiện việc cứu chuộc nhân loại qua con đường hy sinh. Như thế, ông Simeon đã là người cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa bằng việc loan báo Chúa Cứu thế đến và việc cứu thế này sẽ không tránh được nhiều đau khổ (Lc 2,25-35). Vị thứ hai là bà Anna. Cũng Phúc Âm thánh Luca cho biết: Trong lễ nghi dâng hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa có mặt một bà già. Bà già này đã 84 tuổi, tên là Anna. Khi ngắm nhìn con trẻ Giêsu, bà Anna được ơn Chúa Thánh Thần cũng đã nhận ra đó là Đấng Cứu thế. Và bà đã hết lòng cảm tạ Thiên Chúa (Lc 2,36-38). Như vậy, cũng như ông Simeon, bà cụ Anna này cũng đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa bằng sự loan truyền biến cố Chúa đến. Bà loan báo với tất cả tâm tình cảm tạ tri ân. Vị thứ ba là bà Isave. Cũng Phúc Âm thánh Luca cho biết: Bà Isave đã cao niên nhưng được thụ thai. Dịp này, Đức Mẹ Maria đã đến thăm viếng bà. Khi vừa nghe lời Đức Mẹ chào. Bà Isave được ơn Chúa Thánh Thần, liền hân hoan mừng rỡ. Bà nhận ra Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu thế (Lc 1,39-45). Bà sung sướng chúc mừng Đức Mẹ, và gợi ý cho Đức Mẹ ca tụng Thiên Chúa. Như vậy, Bà Isave cũng đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa bằng cách chia sẻ niềm vui với Đức Mẹ do biến cố Chúa cứu độ đến. Vị thứ tư là thánh Gioan tông đồ. Theo truyền thuyết, thì thánh Gioan tông đồ là người tông đồ sống lâu hơn các tông đồ khác. Khi tuổi đã cao, sức đã yếu, vị tông đồ này được ơn Chúa Thánh Thần đã giảng đi giảng lại xung quanh đề tài tình yêu: Chúa Giêsu vì yêu thương đã đến cứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa là tình yêu. Chúa thương xót chúng ta. Chúng ta hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Phúc Âm thánh Gioan cũng như ba lá thư thánh Gioan đều đơn giản là Tin Mừng Tình yêu. Như vậy, tất cả bốn vị cao niên tôi vừa nhắc trên đây đều đã cộng tác với Chúa theo một hướng. Hướng đó là theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các ngài loan báo sự Chúa Cứu thế đến. Chúa Cứu thế đến trong những biến cố coi như tầm thường. Ngài đến qua những con người bé nhỏ, yếu đuối. Ngài đến trên những con đường có nhiều hy sinh, có nhiều vất vả, có nhiều đau khổ. Ngài đến để cứu chuộc, và cứu chuộc bằng những con đường khiêm tốn, hy sinh. Mục đích chính là để minh chứng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài muốn chúng ta cũng hay yêu thương nhau, để nên giống như Ngài. Với mấy suy nghĩ trên đây rút ra từ Phúc Âm, tôi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Tại đây, tôi đang nhận ra nhiều vị cao niên cũng đang phần nào là những Simeon, Anna, Isave và Gioan. Bao lần, tôi đã được các vị cao niên ấy an ủi tôi. Đại khái là: Sự việc này biến cố nọ thường có nhiều niềm vui và nhiều khi cũng có nhiều đau đớn. Nhưng dưới cái nhìn đức tin thì đó là những biến cố Chúa đến. Theo cái nhìn này, thì rất nhiều biến cố xảy ra đều minh chứng rõ có sựChúa đến. Chúa đến để cứu chuộc. Chúa đến để thanh luyện. Chúa đến để đánh thức lương tâm, Chúa đến để khích lệ, Chúa đến để an ủi, Chúa đến để xây dựng lại. Tóm lại Chúa đến vì tình yêu, để mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, và để thiết lập một Nước Tình Yêu trong lòng mọi người. Nhất là để mạc khải vinh quang của tình yêu thánh giá. Khi nghe các vị cao niên có những nhận xét đậm đà Tin Mừng về cuộc đời như vậy, tôi sửng sốt bỡ ngỡ. Tôi thấy rằng: Chúa Thánh Thần đang hoạt động mãnh liệt nơi nhiều người già cả, yếu liệt của chúng ta. Xã hội tưởng họ ít còn khả năng phục vụ. Nhưng họ đang phục vụ rất nhiều: Bằng cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng kinh nghiệm cuộc đời, bằng những lời nói việc làm và những xử sự đầy ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Để kết, tôi nhìn lên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một vị Giáo Hoàng già yếu, nhưng đầy sức mạnh Chúa Thánh Thần, đang cố gắng không mỏi mệt, để đổi mới Hội Thánh, với bao sáng kiến, với bao yêu thương và khiêm tốn. Tôi tin rằng: Với những người cao niên như thế này, Hội Thánh sẽ được trẻ trung hoá, trở thành dấu chỉ và khí cụ đắc lực của Tin Mừng trong thế giới hôm nay.
Người tu chân tâm có nhiều vẻ đẹp. Một trong những vẻ đẹp hấp dẫn nhất là đức khiêm nhường. Có tài đức mà vẫn khiêm nhường. Có địa vị mà vẫn khiêm nhường. Có trí thức mà vẫn khiêm nhường. Được khen hay bị chê, họ vẫn bình tĩnh khiêm nhường. Khiêm nhường trong thái độ. Khiêm nhường trong lời nói. Khiêm nhường trong việc làm. Khiêm nhường trong lựa chọn. Nhất là khiêm nhường trong nội tâm bình an tĩnh lặng. Do đâu mà họ khiêm nhường được như vậy? Nếu tôi tìm trả lời, thì không phải chủ ý để trả lời cho những người đặt câu hỏi, nhưng trước hết là để bồi dưỡng đời tu của tôi. Khi huấn luyện người tu về đức khiêm nhường, nhiều sách tu đức khuyên họ hãy năng khiểm tra mình, xem có vết nào là dấu chỉ về một thứ kiêu ngạo nào không. Kiểm tra mình là một bước quan trọng để tập luyện khiêm nhường. Kiêu ngạo về những sự tốt đẹp bề ngoài. Những sự tốt đẹp bề ngoài như là y phục, địa vị, chức quyền, tài sắc, gốc gác, tên tuổi. Nhiều khi những cái đó nên cớ cho người ta kiêu ngạo. Khi thứ kiêu ngạo này trở nên thói quen bình thường, thì người ta kiêu căng mà không còn biết ngượng. Thứ kiêu ngạo này thường bộc lộ qua thói xấu thích hạ người khác xuống, ghen tương nhỏ nhen và hay phô trương mình. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta về khả năng kiêu ngạo này qua những lời nói về kinh sư: “Anh em hãy coi chừng những kinh sư ưa dạo quanh. Họ xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39). Nếu không tự cảnh giác, biết đâu người tu chúng ta đôi khi cũng để mình theo thói kinh sư, mặc dù với những hình thức tinh vi kín đáo! Kiêu ngạo về ý muốn. Đây là thứ kiêu ngạo thường được tượng trưng bằng lời Luciper xưa “Tôi không vâng phục Thiên Chúa”. Vâng phục thánh ý Chúa, đó là nền tảng của đạo làm con Chúa. Riêng người tu, chúng ta rất cần để ý đến việc vâng phục thánh ý Chúa. Thường thì chúng ta có tinh thần cảnh giác khá cao khi làm việc và nói năng, nhất là khi lựa chọn. Nhưng chúng ta thường dễ tưởng lầm rằng: Hễ làm việc Chúa là tất nhiên hợp ý Chúa. Hãy nhớ lời Chúa cảnh báo nghiêm khắc: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Đúng là họ đã làm những việc Chúa, nhưng lại làm theo ý riêng mình. Có thể là không đúng ý Chúa về thời gian phải làm, về nơi phải làm, về cách phải làm, nhất là không đúng động lực trong sáng. Theo ý riêng khi làm việc Chúa là một thứ kiêu ngạo về ý muốn, mà người ta dễ mắc phải. Đôi khi thứ kiêu ngạo này cũng thể hiện qua việc ưa vu cáo, xét đoán xấu cho người khác với lý do giả tạo là mình làm “Vì Chúa”. Kiêu ngạo về lý trí. Đây là thứ kiêu ngạo rất thường xảy ra nơi cá nhân và tập thể. Biết ít mà tự phụ biết nhiều.
Biết sai mà tự phụ biết đúng.
Biết thiếu mà tự phụ biết đủ.
Biết nông mà tự phụ biết sâu.
Biết viễn vông mà tự phụ biết từ nguồn mạch chính xác. Thế rồi, với những cái biết như thế, nhiều người lại chia sẻ với người khác và hướng dẫn người khác. Hoặc lại sáng kiến thêm ra những thứ quyền lực và cách giả hình để xây dựng uy tín. Nhất là dùng hiểu biết thiển cận của mình để kết án người khác. Về thứ kiêu ngạo này, chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu khiển trách các kinh sư và biệt phái: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình. Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền, để rủ cho được một người theo đạo. Nhưng khi họ theo đạo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các ngươi” (Mt 23,15). Họ tưởng họ có danh dự về lý trí. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Khi được ánh sáng Chúa dọi vào trí khôn, họ mới thấy vô số sai lầm và nông cạn. Khi trí khôn được Chúa thanh luyện, họ mới nhìn thấy nhiều sự thực, mà Chúa chỉ mạc khải cho những người khiêm tốn (Lc 10,21). Kiêu ngạo về đạo đức. Thứ kiêu ngạo này cũng dễ xảy ra. Tự phụ về những việc đạo đức mình làm. Tự phụ về những ân huệ riêng Chúa ban. Tự phụ về những công trình mình xây dựng cho ích chung. Tự phụ vì mình thuộc về cộng đoàn nổi tiếng. Thứ kiêu ngạo này dễ làm mù loà lòng trí con người. Nó khép cửa tâm hồn lại, không cho tình yêu thương xót Chúa đi vào. Dần dần nó đúc ra những ngẫu thần đặt trong lòng mình và cộng đoàn mình. Ngẫu thần cái tôi. Hậu quả ra sao, chúng ta nhớ lại dụ ngôn hai người cầu nguyện: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu. Còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con’. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’. Thầy nói cho các ông biết: Người này khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 17,10-14). Kinh nghiệm đạo đức cho thấy: Những khi chúng ta tưởng mình thánh thiện lại chính là lúc chúng ta đang trong nguy cơ phạm tội. Trái lại, khi chúng ta khiêm nhường, nhận biết mình tội lỗi lại là lúc chúng ta nếm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa xót thương. Tình Chúa xót thương này sẽ dạy chúng ta biết yêu mến sự thực và tha thiết với bác ái. Chân lý và bác ái trong khiêm nhường. *** Một thoáng kiểm tra trên đây có thể giúp người tu chúng ta nhìn thấy đôi chút vết nhơ trên vẻ đẹp khiêm nhường. Muốn biết rõ hơn, chúng ta cần cầu nguyện thực nhiều. Bởi vì kiêu ngạo là một thứ kẻ thù tinh tế khôn ngoan, ưa lẩn trốn trong những vùng sâu của tâm hồn. Khi bị đánh và bị xua đuổi, đôi khi nó chỗi dậy và trở lại với dáng vẻ lịch sự và tử tế hơn trước. Lúc đó, chúng ta rất khó nhận ra. Để thấy nó, chúng ta phải vâng lời Chúa dạy: Năng cầu nguyện và hãm mình. Nhất là cần được sinh lại bởi Chúa Thánh Linh, và phấn đấu trở lại tinh thần thơ ấu thiêng liêng: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,1). Long Xuyên, ngày 6 tháng 6 năm 2001
Người tu có nhiều vẻ đẹp. Một trong những vẻ đẹp hấp dẫn nhất là đức khiêm nhường. Có tài đức mà vẫn khiêm nhường. Có địa vị mà vẫn khiêm nhường. Có trí thức mà vẫn khiêm nhường. Được khen hay bị chê, người tu vẫn bình tĩnh khiêm nhường. Khiêm nhường trong thái độ. Khiêm nhường trong lời nói. Khiêm nhường trong việc làm. Khiêm nhường trong lựa chọn. Nhất là khiêm nhường trong nội tâm chan chứa bình an. Do đâu mà người tu khiêm nhường được như vậy? Nếu tôi tìm trả lời, thì không phải chủ ý để trả lời cho những người đặt câu hỏi, nhưng trước hết là để bồi dưỡng đời tu của tôi. Khi huấn luyện người tu về đức khiêm nhường, nhiều sách tu đức khuyên họ hãy năng khiểm tra mình, xem có vết nào là dấu chỉ về một thứ kiêu ngạo nào không. Kiểm tra mình là một bước quan trọng để tập luyện khiêm nhường. Kiêu ngạo về những sự tốt đẹp bề ngoài. Những sự tốt đẹp bề ngoài như là y phục, địa vị, chức quyền, tài sắc, gốc gác, tên tuổi. Nhiều khi chúng nên cớ cho người ta kiêu ngạo. Khi thứ kiêu ngạo này trở nên thói quen bình thường, thì người ta kiêu căng mà không còn biết ngượng. Thứ kiêu ngạo này thường bộc lộ qua thói xấu thích hạ người khác xuống, ghen tương nhỏ nhen và hay phô trương mình. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta về khả năng kiêu ngạo này qua những lời nói về kinh sư: “Anh em hãy coi chừng những kinh sư ưa dạo quanh. Họ xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39). Nếu không tự cảnh giác, biết đâu người tu chúng ta đôi khi cũng để mình theo thói kinh sư, mặc dù với những hình thức tinh vi kín đáo! Kiêu ngạo về ý muốn. Đây là thứ kiêu ngạo thường được tượng trưng bằng lời Luciper xưa “Tôi không vâng phục Thiên Chúa”. Vâng phục thánh ý Chúa, đó là nền tảng của đạo làm con Chúa. Riêng người tu, chúng ta rất cần để ý đến việc vâng phục thánh ý Chúa. Thường thì chúng ta có tinh thần cảnh giác khá cao khi làm việc và nói năng, nhất là khi lựa chọn. Nhưng chúng ta thường lại tưởng lầm rằng: Hễ làm việc Chúa là tất nhiên hợp ý Chúa. Hãy nhớ lời Chúa cảnh báo nghiêm khắc: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Đúng là họ đã làm những việc Chúa, nhưng đã làm theo ý riêng mình. Có thể là không đúng ý Chúa về thời gian phải làm, nơi phải làm, cách phải làm, nhất là do đúng động lực phải có. Theo ý riêng khi làm việc Chúa là một thứ kiêu ngạo về ý muốn, mà người tu thường dễ mắc phải. Đôi khi thứ kiêu ngạo này cũng thể hiện qua việc ưa vu cáo, xét đoán xấu cho người khác với lý do giả tạo: “Vì Chúa”. Kiêu ngạo về lý trí. Đây là thứ kiêu ngạo rất thường xảy ra nơi cá nhân và tập thể. Biết ít mà tự phụ biết nhiều.
Biết sai mà tự phụ biết đúng.
Biết thiếu mà tự phụ biết đủ.
Biết nông mà tự phụ biết sâu.
Biết viễn vông mà tự phụ biết từ nguồn mạch chính xác. Thế rồi, với những cái biết như thế, nhiều người lại chia sẻ với người khác và hướng dẫn người khác. Hoặc lại sáng kiến thêm ra những thứ quyền lực và cách giả hình để xây dựng uy tín, như là bằng cách kết án người khác. Về thứ khiêm nhường này, chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu khiển trách các kinh sư và biệt phái: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình. Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền, để rủ cho được một người theo đạo. Nhưng khi họ theo đạo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các ngươi” (Mt 23,15). Họ tưởng họ có danh dự về lý trí. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Khi được ánh sáng Chúa dọi vào trí khôn, họ mới thấy vô số sai lầm và nông cạn. Khi trí khôn được Chúa thanh luyện, họ mới nhìn thấy nhiều sự thực, mà Chúa chỉ mạc khải cho những người khiêm tốn (Lc 10,21). Kiêu ngạo về đạo đức. Thứ kiêu ngạo này cũng dễ xảy ra. Tự phụ về những việc đạo đức mình làm. Tự phụ về những ân huệ riêng Chúa ban. Tự phụ về những công trình mình xây dựng cho ích chung. Tự phụ vì mình thuộc về cộng đoàn nổi tiếng. Thứ kiêu ngạo này dễ làm mù loà lòng trí con người. Nó khép cửa tâm hồn lại, không cho tình yêu thương xót Chúa đi vào. Dần dần nó đúc ra những ngẫu thần đặt trong lòng mình và cộng đoàn mình. Ngẫu thần cái tôi. Hậu quả ra sao, chúng ta nhớ lại dụ ngôn hai người cầu nguyện: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu. Còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con’. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’. Thầy nói cho các ông biết: Người này khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 17,10-14). Kinh nghiệm đạo đức cho thấy: Những khi chúng ta tưởng mình thánh thiện lại chính là lúc chúng ta đang trong nguy cơ phạm tội. Trái lại, khi chúng ta khiêm nhường, nhận biết mình tội lỗi lại là lúc chúng ta nếm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa xót thương. Một thoáng kiểm tra trên đây có thể giúp người tu chúng ta nhìn thấy đôi chút vết nhơ trên vẻ đẹp khiêm nhường. Muốn biết rõ hơn, chúng ta cần cầu nguyện thực nhiều. Bởi vì kiêu ngạo là một thứ kẻ thù tinh tế khôn ngoan, ưa lẩn trốn trong những vùng sâu của tâm hồn. Khi bị đánh và bị xua đuổi, đôi khi nó chỗi dậy và trở lại với dáng vẻ lịch sự và tử tế hơn trước. Lúc đó, chúng ta rất khó nhận ra. Để thấy nó, chúng ta phải vâng lời Chúa dạy: Năng cầu nguyện và hãm mình. Nhất là cần được sinh lại bởi Chúa Thánh Linh, và phấn đấu trở lại tinh thần thơ ấu thiêng liêng: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,1). Long Xuyên, ngày 6 tháng 6 năm 2001 Đức Cha GB Bùi Tuần
Đối với giáo phận Lạng Sơn, thánh lễ hôm nay là một biến cố khác thường. Khác thường ở chỗ có sự hiện diện của phái đoàn Toà Thánh. Phái đoàn Toà Thánh đến Việt Nam để đàm phán với Chính Phủ Việt Nam. Nhân dịp này, phái đoàn đến thăm chính quyền Lạng Sơn và Toà Giám Mục Lạng Sơn. Sự quan tâm ưu ái của Toà Thánh đối với Lạng Sơn gợi lên trong chúng ta nhiều tâm tình tốt đẹp. Chúng ta đáp lại cụ thể bằng sự qui tụ lúc này đông đảo và đầy hân hoan. Hầu hết anh chị em đến từ những giáo điểm xa xôi của vùng đất mênh mông biên giới miền Bắc đất nước. Anh chị em đến đây để biểu lộ tinh thần hiệp thông. Cũng trong tinh thần hiệp thông, tôi đến đây từ biên giới miền Nam đất nước.Và theo yêu cầu của Đức Cha Lạng Sơn, tôi xin chia sẻ với anh chị em cảm nghĩ của tôi. Cảm nghĩ của tôi là về hình ảnh giáo phận Lạng Sơn đầu thế kỷ 21. Giáo phận Lạng Sơn là một cộng đoàn bé nhỏ, nghèo khó, một cộng đoàn nhân đức, đồng thời cũng là cộng đoàn yếu kém. Tuy nhiên, tôi nhận thấy cộng đoàn này, với sự hướng dẫn của người mục tử hiền từ khiêm tốn, đang lặng lẽ bước về tương lai với bốn đặc điểm tốt đẹp sau đây: Đặc điểm thứ nhất là trở về với Chúa Giêsu, sống thân mật hơn với Ngài, và vâng lời Ngài ra đi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng Tình yêu của Thiên Chúa cho từng người và cho mọi người. Đặc điểm này sẽ thực hiện mục đích của Chúa Giêsu, khi thiết lập cộng đoàn đầu tiên như Phúc Âm nói: “Chúa lập nhóm 12 để họ sống với Người và để Người sai họ đi loan báo Tin Mừng” (Mc 3,14). Đặc điểm thứ hai là cộng đoàn loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống yêu thương nhau chân thành sâu sắc. Đặc điểm này sẽ thực hiện lời Chúa Giêsu đã dạy: “Người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy ở điều này là các con có lòng thương yêu nhau” (Ga 14,35). Mà phải thương yêu nhau như Chúa đã thương yêu chúng ta (Ga 14,34). Đặc điểm thứ ba là cùng với xã hội xây dựng những liên hệ tốt đẹp về công bình, hoà bình, tự do, hạnh phúc. Đặc điểm này sẽ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho kẻ mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do” (Lc 4,18). Chúng ta làm chứng công bình bác ái với hết sức mình, trong khả năng và hoàn cảnh cho phép. Đặc điểm thứ bốnlà hợp nhau lại trước Thiên Chúa để cầu nguyện với Chúa trong tình Cha con. Đặc điểm này sẽ thực hiện lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn...” (Lc 21,36). Theo kinh nghiệm của tôi, việc cầu nguyện và tỉnh thức là một nhu cầu khẩn cấp trong hoàn cảnh tục hoá hiện nay. Để có bốn đặc điểm trên đây, tôi thấy giáo phận Lạng Sơn đang chú trọng nhiều đến việc đào tạo. Đào tạo là việc rất khó. Nhưng nhất định phải làm. Vì nếu thiếu đào tạo, thì tinh thần sống đạo sẽ xuống dốc, chỉ còn là làm việc đạo, mà không có lòng đạo. Tôi xác tín rằng: Nếu giáo phận Lạng Sơn kiên trì tiếp tục việc đào tạo, để bốn đặc điểm nói trên được vững mạnh, thì anh chị em sẽ góp phần không nhỏ vào việc xây dựng Hội Thánh Việt Nam. Giáo phận Lạng Sơn cũng sẽ là một nhân tố đáng trân trọng trong việc góp phần đưa địa phương danh tiếng này lên một bậc cao mới về văn hoá, kinh tế, đoàn kết, an ninh trật tự xã hội và phát triển tinh hoa đạo đức. Một Hội Thánh nghèo, với những người nghèo, với những phương tiện nghèo, vẫn có thể trở nên sứ giả Tin Mừng giữa một xã hội phồn vinh, hiện đại, khi Hội Thánh đó có một chiều kích thiêng liêng trong cuộc sống thường ngày của mình. Chính chiều kích thiêng liêng này với những giá trị thiêng liêng sẽ bảo đảm cho tương lai Hội Thánh và xã hội. Với chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện sốt sắng trong dịp phái đoàn Toà Thánh đến Việt Nam, nhất là để mọi sự sẽ được tốt đẹp theo thánh ý Chúa. Tôi hy vọng, và tôi tin: Kết quả rồi sẽ tốt đẹp. Bởi vì Chúa chúng ta là Cha giàu lòng thương xót. Lạng Sơn, ngày 13 tháng 6 năm 2001
Ngày 22 tháng 6 này là lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Dịp này Toà Thánh hô hào toàn thể Hội Thánh “Cầu xin ơn thánh hoá linh mục”. Thánh hoá là một ơn. Chúng ta xin ơn ấy với Chúa. Chúa ban ơn, nhưng chúng ta phải cộng tác vào ơn ấy. Thánh hoá là một lời mời gọi. Chúa mời gọi và chúng ta phải đáp lại. Với nhận thức sơ đẳng đó, chúng ta, dù là thành phần nào của Dân Chúa, sẽ thấy mình được vinh dự góp phần vào việc thánh hoá linh mục: Linh mục của Chúa, linh mục của Hội Thánh, linh mục của cộng đoàn chúng ta. Sự góp phần của chúng ta sẽ được thực hiện bằng cách nào? Toà Thánh đề nghị một việc cụ thể. Đó là cầu nguyện cho các linh mục được ơn thánh hoá mình và thánh hoá người khác. Nếu cần đưa ra một hình ảnh khi cầu nguyện cho các linh mục, thì thiết tưởng nên chọn hình ảnh “mục tử tốt lành”. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục được ơn trở nên mục tử tốt lành theo mẫu gương Chúa Giêsu, Đấng đã tự giới thiệu mình: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,19). Để hình ảnh mục tử tốt lành đúng là một bản lãnh mang những đặc điểm thực sự tốt lành, mà Phúc Âm diễn tả, tôi xin phép nhắc qua đôi chút.
Trước hết, mục tử tốt lành là người nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao. Nuôi dưỡng đoàn chiên. Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Chúa Giêsu phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là hạt giống mang sự sống thiêng liêng (Lc 8,11). Lương thực thứ hai là Phép Thánh Thể. Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh trường sinh... là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 5,48-51). Lương thực thứ ba là thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu phán: “Lương thực của Ta là thi hành thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Trên thực tế, nhiều đoàn chiên còn đang thiếu ba lương thực trên đây. Đó là một sự thực đáng buồn. Nhất là khi thiếu mà không biết mình thiếu. Nếu tình trạng này kéo dài hoặc sẽ tệ hơn, thì có nguy cơ đoàn chiên sẽ thiếu dinh dưỡng, bị bệnh hoạn và có thể tới chỗ tan rã. Trách nhiệm thuộc về nhiều phiá. Đây là điều mà việc thánh hoá linh mục đòi các cộng đoàn Hội Thánh phải suy nghĩ. Mục tử không tự mình làm ra những lương thực thiêng liêng này, và không được phân phát ra một cách máy móc, nhưng phải cộng tác chặt chẽ với Chúa. Vì thế ngài phải biết kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, là mục tử tốt lành đứng đầu các mục tử. Mục tử tốt lành là người kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Ta là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Ta và Ta ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Ta, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa Giêsu do đã gặp gỡ Ngài và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người làm mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: Người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài: Một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Đến đây, tôi nhớ lại chuyện thánh Phêrô lớn tiếng cam kết với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, với Chúa, con sẵn sàng vào tù, và có chết cũng sẵn sàng” (Lc 22,33). Ông tưởng mình cần nói lên sự can đảm và cần làm gương cho anh em về sự can đảm. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Này Phêrô, Ta bảo thật cho con biết, đêm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là anh không biết Ta” (Lc 22,34). Chỉ vài giờ sau, điều Chúa Giêsu vừa nói trước với Phêrô đã xảy ra. Sự thực đó cho Phêrô và mọi môn đệ thấy rằng: Nhiều khi các môn đệ thích khoe khoang mình can đảm vì Chúa. Nhưng trong can đảm đó lại có động lực kiêu căng. Mà Chúa thì lại ưa chuộng sự khiêm nhường. Khiêm nhường là một hình thức can đảm đầy thánh thiện. Vì thế Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ Ngài hãy học với Ngài, đặc biệt là về hiền lành và khiêm nhường (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha. Để biết phân định sự thực và sự không thực về thánh ý Chúa Cha, người mục tử tốt lành rất cần ơn Chúa Thánh Thần. Khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu phán: “Khi nào Thần Khí chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Thần Khí chân lý là Chúa Thánh Linh. Khi Ngài đến, Ngài sẽ giúp cho mục tử làm mục vụ một cách rất mới, có hồn, đầy uy tín. Bởi vì Thánh Thần sẽ cho mục tử nếm được phần nào mùi vị ngọt ngào của sự sống Thiên Chúa trong lời Chúa. Ngài sẽ cho mực tử nhìn thấy phần nào dung mạo đẹp đẽ của Thiên Chúa trong Phép Thánh Thể. Ngài sẽ cho mục tử cảm được phần nào lửa nồng nàn của tình xót thương Chúa ẩn tàng trong thánh ý Chúa. Những lúc đó, người mục tử sẽ phục vụ đoàn chiên với tất cả tâm hồn hoà tan trong quyền lực Thánh Linh, như thánh Phaolô xưa: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn. Nhưng chỉ dựa vào chứng xác thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa” (1Cor 2,3-5). Thời nay, tại đây, hơn bao giờ hết, người mục tử rất cần các ơn Chúa Thánh Thần. Như ơn sáng suốt khôn ngoan trong phân định việc nên làm với cách nên làm, và việc không nên làm với cách không nên làm, ơn tiên liệu, ơn đối thoại, ơn đào tạo, ơn biết an ủi nâng đỡ đoàn chiên. Tôi cho là rất quan trọng ơn biết quên mình, biết cởi gỡ mình khỏi mọi nô lệ tội lỗi, biết sống tự do thực sự nội tâm, để đón nhận Nước Trời, ơn biết xây dựng hiệp nhất yêu thương trong sự trọng kính những khác biệt. Đặc biệt, tôi khát khao ơn biết cầu nguyện, ơn biết xót thương đoàn chiên và đồng bào mình, và biết giới thiệu Tin Mừng qua những diễn tả mới mẻ, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Làm sao để khi gặp linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến với lịch sử hôm nay. Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện diện và đến như một tình thương, một hy vọng, một sức mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn. Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy vui, khi thoáng nhìn các mục tử trong Hội Thánh. Bản thân các ngài có rất nhiều giới hạn, kể cả tội lỗi. Nhưng các ngài vẫn đáng được chúng ta kính trọng yêu thương, nhất là rất đáng được mọi người chúng ta chân thành giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. Nhận thức đó do đức tin, vượt qua những sự bề ngoài, sẽ đưa chúng ta đến vô vàn lợi ích, Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót sẽ ban thưởng cho chúng ta. Nhưng tôi chợt buồn, khi nghĩ về thảm kịch Chúa Giêsu, vị mục tử rất nhân lành đã bị nội bộ tôn giáo vu cáo, hành hạ, loại trừ và đòi giết chết. Lý do đưa ra là để bảo vệ tôn giáo! Tôi sợ thảm kịch như thế cũng có thể xảy ra đây đó, với nhiều hình thức khác nhau, vẫn dưới chiêu bài đạo đức: “Để bảo vệ đức tin và làm chứng cho đức tin” (!) Với vài chia sẻ trên đây, tôi mong rằng: Lời Toà Thánh kêu gọi cầu xin ơn thánh hoá linh mục sẽ được hưởng ứng một cách sốt sắng sâu sắc và rộng khắp. Đức Cha G.B. Bùi Tuần
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gì hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thì khổ cực. Cách sống thì khắc khổ. Chỗ ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó. Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này. Điều đó chứng tỏ những vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá trị con người. Thước đo giá trị con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh những chân thiện mỹ vĩnh hằng. Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài. Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ. Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vị, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước. Khi phong hoá bị suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh. Vì thế, đối với tôi, Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài. Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34). Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi. Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita. Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách. Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng. Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu. Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người. Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.
Trước khi phong chức Linh mục cho 5 thầy phó tế của chúng ta đây, tôi xin nói lên chút tâm tình của tôi. Rất mong anh chị em chú ý lắng nghe, và suy nghĩ trước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Tâm tình của tôi lúc này là muốn chia sẻ một thao thức của Chúa Giêsu. Thao thức này đã được Chúa Giêsu tỏ lộ trong câu nói sau đây: “Ta mang lửa xuống thế gian và muốn lửa đó bùng lên” (Lc 12,19). Lửa đó là lửa mến Chúa, lửa thương người, sáng rực tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Suốt đời trần thế, Chúa Giêsu đã sống với thao thức đó. Ngài luôn lo tìm cách thực hiện thao thức đó, trong mọi lời nói, trong mọi việc làm, trong mọi thái độ, trong mọi tiếp xúc, trong mọi cầu nguyện. Chúa Giêsu cũng đã truyền lại thao thức đó cho các môn đệ. Ngài coi sự có lửa mến trong lòng và chia sẻ lửa mến đó cho người khác là một nhiệm vụ căn bản của những kẻ tin theo Ngài. Hơn nữa, Ngài coi sự có lửa mến trong lòng là yếu tố quyết định, để theo đó, Ngài phân định những ai được nhận vào Nước Trời và những ai không. Ngài xác định điều ấy khi Ngài nói rằng: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng con đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 12,22-23). Lý do Chúa không chấp nhận họ, là vì, tuy họ làm được nhiều việc lớn lao, nhưng họ làm những việc đó, do một động lực không phải là thực sự mến Chúa yêu người theo thánh ý Chúa. Những lời Chúa phán trên đây là một cảnh giác nghiêm khắc, để chúng ta biết tỉnh táo, gạt bỏ ra khỏi ta những thứ động lực nguy hại dẫn ta tới lửa hoả ngục. Thánh Phaolô tông đồ cũng diễn tả sự thực đó một cách chi tiết và rõ ràng trong thư gởi giáo đoàn Côrintô. Ngài viết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được một đức tin mạnh đến nỗi chuyển núi dời non, mà không có lòng mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài sự nghiệp mà bố thí. Hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến,thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,2-3). Những lời nói quyết liệt trên đây của thánh Phaolô là một chân lý rất cần nhắc đi nhắc lại cho mọi tín hữu, nhất là cho các linh mục tu sĩ. Đặc biệt là trong đầu thế kỷ XXI này. Bởi vì ngay từ đầu thế kỷ XXI này, nhiều nơi, lửa mến Chúa yêu người, mà Chúa dạy, xem ra đang nguội dần. Thay vào đó là các thứ lửa khác, như lửa kiêu ngạo, lửa khoe khoang, lửa ghen tương, lửa hận thù, lửa danh vọng, lửa tiền bạc, lửa hưởng thụ, lửa tự phụ tự đắc. Trước một tình hình như thế, tôi tha thiết xin anh chị em nhớ lại nỗi niềm thao thức của Chúa Giêsu: Hãy đốt lên lửa mến Chúa yêu người theo thánh ý Chúa. Đó là yêu cầu cấp bách của Tin Mừng. Hãy nhớ lại, thao thức của Chúa Giêsu, để rồi thường xuyên lo đón nhận lửa mến nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, cụ thể là nơi Lời Chúa, nơi phép Thánh Thể, trong việc cầu nguyện với Thánh Linh, trong việc hồi tâm suy gẫm. Hãy nhớ lại thao thức của Chúa Giêsu, để rồi coi bác ái như hơi thở, lúc nào cũng hít vào bác ái từ Thiên Chúa tình yêu, và thở ra bác ái quảng đại chung quanh mình. Hãy nhớ lại thao thức của Chúa Giêsu, để rồi đem lửa bác ái ra đi truyền giáo, vì Giáo phận Long Xuyên chúng ta coi truyền giáo là bổn phận ưu tiên. Hãy nhớ lại thao thức của Chúa Giêsu, để rồi biến đổi mình thành bài ca bác ái, như bài ca bác ái của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô, và như bài ca bác ái của thánh Phanxicô trong kinh Hoà Bình của ngài. Với ý thức trên, xin mọi người hãy cầu nguyện sốt sắng cho các tân chức. Với 5 tân chức này, số linh mục của Giáo phận Long Xuyên sẽ là 192 vị. Chính các tân chức càng phải quyết tâm sống với thao thức trên của Chúa Giêsu. Và quyết tâm đó sẽ cần được diễn tả bằng một số tuyên hứa theo truyền thống Hội Thánh.
Khi qua nhiều nước trên thế giới, tôi thấy nước nào cũng có các nơi thờ tự, như nhà thờ, đền, chùa, thánh thất. Các công trình này được mọi người trân trọng. Họ coi đó như những chốn linh thiêng, như những hạt ngọc chiếu sáng niềm tin của hồn dân tộc. Khi đọc văn học các dân tộc, tôi thấy tiếng chuông những nơi thờ tự đã gây cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn hoá nghệ thuật. Tiếng chuông phá những cô đơn, đem vào thẳm sâu lòng người những hy vọng, những tình thương và những lý tưởng. Có lần thăm cố nhạc sĩ Văn Cao, tôi hỏi nhạc sĩ, xem đạo công giáo có gì ảnh hưởng đến việc sáng tác của nhạc sĩ không. Nhạc sĩ thưa: Có vài yếu tố. Trong đó có tiếng chuông nhà thờ. Và nhạc sĩ ngây ngất hát cho tôi nghe bài Làng tôi... Từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung. Riêng với tôi, tiếng chuông nhà thờ là những tiếng gọi. Tôi nghe tiếng chuông nhà thờ, nhưng đàng sau tiếng chuông nhà thờ, tôi gặp thấy Chúa Giêsu. Người gọi tôi cũng bằng những lời xưa Người đã gọi, còn ghi trong Phúc Âm. Thí dụ những lời sau đây: “Hãy sám hối” (Mt 3,2). “Hãy ra khỏi mồ” (Ga 11,43). “Hãy đứng dậy và bước đi” (Mt 9,5). “Hãy từ bỏ mình, vâng phục thánh ý Chúa Cha” (Lc 22,42). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36). “Hãy ra đi loan báo Tin Mừng” (Mt 28,19). Như vậy, tiếng chuông nhà thờ là tiếng gọi mang chiều kích thiêng liêng. Tức là: Hãy đến với một Đấng thiêng liêng. Hãy nhớ về một cõi thiêng liêng. Hãy gắn bó với những giá trị thiêng liêng. Hãy phục vụ sứ vụ thiêng liêng. Chính nhờ chiều kích thiêng liêng này, mà con người nên cao thượng hơn, và những gặp gỡ giữa con người với nhau trong cuộc sống có ý nghĩa cao đẹp hơn. Sở dĩ tôi nói như vậy, là vì tôi thấy hiện nay con người và những gặp gỡ xem ra đang rơi vào nguy cơ tha hoá. Yếu tố thiêng liêng nhiều nơi xem như bị bỏ quên, để chỉ đề cao yếu tố kinh tế và sản xuất. Nếu con người chỉ là sản xuất, liên hệ chỉ là kinh tế, thì sẽ dẫn đến văn hoá vật chất và nếp sống hưởng thụ. Cuối cùng là trống rỗng nội tâm, và cô đơn thác loạn giữa những ồn ào bệnh hoạn. Trong cuộc sống hiện nay, nếu không biết cảnh giác, chúng ta sẽ có thể đánh mất khá nhiều những giá trị căn bản. Và nếu thế, Hội Thánh cũng như xã hội sẽ dần dần tự phá huỷ mình. Vì vậy, khi được thấy một địa phương thêm một nhà thờ và một quả chuông cho nhà thờ, để kêu gọi các tâm hồn phát triển chiều kích thiêng liêng, tôi cảm thấy rất mừng cho địa phương. Với nhà thờ và quả chuông nhà thờ, khi biết sử dụng, chúng ta sẽ tìm ra được những hạnh phúc ngay trong đời sống thường ngày. Những hạnh phúc đó sẽ nhỏ thôi, nhưng lại rất nhiều, rất sâu. Tuy những khó khăn sẽ còn đó, nhưng với nhà thờ và quả chuông nhà thờ, chúng ta có thể nhìn những khốn khó đó một cách khác. Hy vọng sẽ nhiều hơn là thất vọng. Yêu thương sẽ mạnh hơn là ghen ghét. Đoàn kết sẽ rộng hơn là chia rẽ. Để được như vậy, tôi xin nhắc lại điều đã nói ở trên. Đó là nhà thờ cũng như quả chuông nhà thờ phải được gắn bó mật thiết với việc phục vụ Lời Chúa. Rồi từ việc phục vụ Lời Chúa, chúng ta sẽ sống Lời Chúa, và dấn thân cho Lời Chúa, dù phải phấn đấu vượt qua trăm ngàn trắc trở. Kết quả là một nền văn hoá tình yêu sẽ dần dần được thiết lập rộng rãi, một Nước Trời là Nước Tình yêu sẽ dần dần đi vào lòng mọi người. Thường tình, phải có mùa đông giá lạnh, mới tới được mùa xuân. Thường tình, lá cũ phải rụng xuống, mới nảy sinh ra mầm non. Cũng vậy, phải có những khổ đau, mới có sự sống lại. Tôi biết là: Để có được một ngôi nhà thờ mới, một tháp chuông mới, một quả chuông mới, một nếp sống đạo mới, cộng đoàn và nhất là mục tử đứng đầu cộng đoàn, đã phải dấn thân vào bao nhiêu vất vả. Nhưng các ngôi sao chỉ hiện lên lung linh lúc trời chìm vào bóng tối. Cũng vậy, qua thử thách, người ta mới thấy được những tâm hồn có bản lĩnh. Xin Thiên Chúa giàu tình thương xót ban phúc lành cho mọi người gần xa đã góp công góp của, góp cảm tình và mọi thứ giúp đỡ khác vào việc xây dựng những công trình phục vụ lợi ích chung, nhất là những công trình nhằm phát triển chiều kích thiêng liêng. Trong những gặp gỡ thân tình, để chia sẻ niềm vui trong Chúa, như dịp lễ này, tôi nghe Chúa Giêsu phán với từng người chúng ta, như xưa đã phán với người phụ nữ Samaria: “Chớ chi con nhận biết được ơn Chúa đang ban cho con” (Ga 4,10).
Mỗi khi dự lễ an táng các đức cha già quá cố, tôi thường nghĩ tới những công việc, mà các ngài đã làm, để phục vụ đoàn chiên, trong tuổi già nua đang bước dần vào cõi đời đời. Không những tôi nhìn các giám mục ở Việt Nam, mà còn nghĩ về tất cả những vị giám mục già yếu được kể trong giáo sử. Tôi thấy vị nào cũng để lại những gương sáng, về mặt này hay mặt nọ. Nếu phải nói vị nào đã lôi cuốn tôi nhiều nhất, thì tôi không ngại nói ngay : vị đó là thánh giám mục Augustinô, một người trở lại, một nhà trí thức, một vị chủ chăn. Trong tuổi già, thánh giám mục Augustino vẫn cố gắng phục vụ giáo phận của ngài nói riêng và hội thánh nói chung. Nhất là bằng những việc sau đây : CHỌN NGƯỜI THẾ VỊ Khi thấy mình đã già yếu, thánh giám mục nghĩ tới một việc ưu tiên cần phải thực hiện, đó là lo cho giáo phận không bị rơi vào cảnh mồ côi. Ngày 26 tháng 9 năm 426, ngài triệu tập toàn giáo phận về Vương Cung Thánh Đường. Trước mặt cộng đoàn, ngài tâm sự ưu tư của ngài. Đại khái ngài nói : “Chúa muốn tôi về ở thành này để phục vụ anh em. Lúc trước, tôi còn trẻ. Nay tôi đã già. Tôi lo rằng : khi tôi chết rồi, nếu giáo phận không có người thế vị, thì sẽ dễ bất ổn. Những tranh chấp và tham vọng có thể sẽ bùng lên. Vì thế, tôi muốn chọn người thế vị tôi. Theo ý Chúa và ý tôi, vị đó là linh mục Eracius”. Nghe đề nghị trên, toàn thể cộng đoàn vỗ tay hoan hô vang dậy : “Tạ ơn Chúa. Ca ngợi Đức Kitô”. Họ lặp đi lặp lại lời hoan hô hơn hai chục lần. Sau đó, cộng đoàn lại hô vang : “Xin Chúa giữ gìn đức cha Augustinô. Người là giám mục của chúng con. Người là cha của chúng con”. Họ cũng lặp đi lặp lại lời cầu xin đó nhiều lần. Vị linh mục được chọn thế vị giám mục chính tòa Hippon, dù khi chưa được phong chức giám mục, cũng đã được thánh giám mục Augustinô trao cho nhiều trọng trách. Thế là xong được một mối ưu tư lớn của vị giám mục già. KIỆN TOÀN NHỮNG CỘNG ĐOÀN CƠ BẢN Thánh giám mục Augustinô hết lòng để ý đến việc đào tạo nhân sự, từ giáo sĩ, tu sĩ, đến giáo dân. Ngài lo chung cho tất cả. Nhưng Ngài biết tương lai sẽ có nhiều khó khăn. Nên rất cần đào tạo cách riêng một số những cộng đoàn nhỏ, để họ sẽ là hạt nhân cho đại chúng. Những cộng đoàn nhỏ này sẽ được tập luyện trong một nếp sống đạo đức chặt chẽ hơn. Điểm quan trọng nhất mà thánh giám mục chọn, để rèn luyện họ, là tập trung vào Đức Kitô và tình yêu thương huynh đệ, theo giới răn mới của Đức Kitô : “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Thánh giám mục đã cảm nghiệm sâu sắc tình yêu Chúa dành cho ngài, mặc dầu Ngài bất xứng. Ngài đã trở lại do tình yêu Chúa, chứ không do bất cứ lý luận hay quyền lực nào. Nên ngài chủ trương khí cụ mạnh nhất trong mục vụ và trong truyền giáo chính là tình yêu. Nhiều câu ngài nói về tình yêu đã trở thành bất hũ. Như : “Ama et fac quod vis”. Hãy yêu thương, rồi hãy làm sự gì bạn muốn. Chính nhờ tình yêu được đào tạo kỹ càng, các cộng đoàn cơ bản nhỏ bé đó đã trở thành những dòng tu. Họ lo chiêm niệm, học hành, viết lách và phục vụ người nghèo. Nhờ họ, mà sức sống của giáo phận trở thành phong phú hơn, dấn thân hơn, Để lại cho giáo phận những cộng đoàn cơ bản được đào tạo đặc biệt về Đức Kitô và yêu thương bác ái, đó cũng là một phấn đấu khôn ngoan của vị giám mục già. XEM LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ VIẾT Thánh giám mục Augustinô đã viết rất nhiều. Các tác phẩm của ngài gồm các sách, các bài giảng, các thư. Gom tất cả lại sẽ làm thành một thư viện nhỏ. Lúc về già, thánh giám mục cố gắng rà soát lại tất cả những gì ngài đã viết. Lúc đó, chính ngài đã nhận ra những chuyển biến của tư tưởng ngài. Ngài gửi lại hậu thế những lời thú nhận đầy lương thiện. Như : “Tư tưởng của tôi những năm bắt đầu còn non yếu, mãi sau này dần dần mới chính chắn hơn. Xin mọi người chỉ nên bắt chước tôi trong những gì tôi nói đúng”. Nghĩa là ngài nhận mình đã có nhiều giới hạn trong lãnh vực trí thức. Tri thức của ngài là đi sâu vào Triết học, Thần học, Kinh Thánh và Linh đạo. Bề sâu của lý thuyết cộng với bề rộng của kinh nghiệm thực tế đã làm cho các tác phẩm của ngài trở thành một kho tàng đặc biệt quý giá, để lại cho hậu thế. SỐNG CHẾT VỚI ĐOÀN CHIÊN Vào những năm cuối đời, thánh giám mục chứng kiến làn sóng xâm lăng tràn vào Phi Châu. Quân Vandales mạnh về khí giới, đông về quân số, hung hăng về ý chí. Hạ quyết tâm chiếm đất, giành dân. Tới đâu, họ đều thẳng tay phá đạo công giáo. Nhiều người công giáo bỏ nhà chạy trốn. Nhiều vị lãnh đạo các giáo phận, giáo xứ cũng đã bỏ giáo đoàn để thoát thân. Riêng thánh giám mục Augustinô già nua vẫn cương quyết ở lại giữa giáo đoàn của mình, để cùng cầu nguyện với họ, và để cùng hy sinh với họ. Trong tình hình rất căng thẳng và đầy lo âu đó, tình yêu thương dấn thân của vị cha già đã là một khích lệ lớn cho giáo đoàn. Thánh giám mục Augustinô qua đời, khi nạn xâm lăng và tàn phá công giáo trở thành vũ bão. Các cơ sở công giáo như : nhà thờ, nhà xứ, tòa giám mục bị hủy hoại. Các người theo đạo công giáo bị bắt bớ, và bắt ép bỏ đạo. Không lâu sau, một Phi Châu công giáo phồn thịnh bị tan biến dần. Mọi công trình công giáo hoặc bị tịch thu, hoặc bị phá hủy. Hội Thánh tại Phi Châu hầu như bị mất tích trong nhiều thế kỷ. Nhưng những tác phẩm của vị giám mục Augustinô đã được tồn tại nguyên vẹn. Hơn Nữa, những công trình tri thức đó lại đã đi vào được các nước, các lục địa. Kết quả là rất bất ngờ. Tôi nghĩ rằng : “Người ta an táng một vị giám mục. Người ta cũng có thể an táng một giáo xứ, một giáo phận, một giáo hội địa phương. Nhưng người ta không thể an táng một luồng tư tưởng, khi luồng tư tưởng đó phản ánh Lời Chúa, và tình thương của Chúa”. Một khi luồng tư tưởng về Chúa được viết ra, thì bài viết đó mang sức sống thiêng liêng được chính Chúa giữ gìn. Nó sẽ âm thầm giới thiệu Tin Mừng cho các người thiện chí. Nó sẽ lặng lẽ đổi mới con người và xã hội. Nó sẽ là hạt giống Tin Mừng được gieo vào nhiều lương tâm. Số phận của những luồng tư tưởng loan báo Tin Mừng nằm trong trái tim Chúa. Chính ví thế, mà theo gương thánh giám mục Augustinô, tôi cố gắng viết ra những tư tưởng mang Tin Mừng, nhất là trong tuổi già yếu này. Biết đâu, nếu chẳng may sẽ có những bất ngờ xảy đến, gây nên nhiều mất mát cho Hội Thánh Việt Nam, thì hy vọng những công trình tư tưởng loan báo Tin Mừng vẫn có cách tồn tại. Chúng sẽ góp phần dọn đường cho Nước Cha mau đến. Thành Phồ Hồ Chí Minh ngày 04-07-2001 Lễ an táng Đức Cha Phụ tá Luy Phạm Văn Nẫm V JB. Bùi Tuần, Giám mục Long Xuyên
Địa lý giáo phận Long Xuyên chúng tôi là một vùng rộng lớn đồng bằng sông Cửu Long. Đâu cũng là đồng ruộng. Bốn mùa được nhận ra từ cây lúa. Ngày lúa chín là lúc rất cần kịp thời thu hoạch. Nếu không gặt về, lúa chín bỏ đó, thì kể như mất mùa. Kinh nghiệm nông thôn trên đây dẫn tôi vào lời Chúa Giêsu phán xưa: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về. Chính anh em hãy ra đi” (Lc 10,2-3). Lời Chúa trên đây ám chỉ việc truyền giáo. Cánh đồng lúa là cánh đồng truyền giáo. Thợ gặt là những người truyền giáo. Ra đi truyền giáo là ưu tư bức xúc của Chúa Giêsu. Vâng lời Chúa, tôi bước vào cánh đồng truyền giáo. Tôi thấy một cảnh mênh mông bát ngát. Tôi nhận ra hai vùng khác nhau. Một vùng đợi chờ giới thiệu Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa. Một vùng mong mỏi tái truyền giáo cho những người gọi là biết Chúa, nhưng biết không đúng và sống đạo không đúng. Cả hai vùng đều đặt ra những vấn đề rất phức tạp. Một trong những điều tôi cho là rất khó giải quyết, đó là tính dễ thay đổi, tính dễ biến chất của bao người theo tôn giáo. Xin phép đưa ra vài thí dụ: Hãy nhớ lại nước Do Thái thời Chúa Giêsu và các tông đồ. Hồi đó phong trào trở lại đi theo Chúa Giêsu là rất phấn khởi. Nhưng nay còn gì đâu, nơi dân Do Thái, trên đất nước Do Thái. Mà đó chính là nơi Chúa Cứu thế và các tông đồ đã truyền giáo và đã đổ máu ra. Rồi hãy nhớ lại những giáo điểm thời thánh Phaolô. Hồi đó các giáo điểm đó rất phát triển về công giáo. Nay các nơi đó đang là đất của tôn giáo khác. Rồi hãy nhìn vào mấy nước Âu châu. Trước đây, Hội Thánh tại những nước đó rất sốt sắng. Họ đã gởi bao người của mình đi các nơi xa xôi, để truyền giáo. Nay các nước đó đang rơi vào cơn khủng hoảng ghê gớm: Số người giữ đạo giảm mau. Số người đi tu bớt hẳn. Rồi hãy nhìn vào nhiều gia đình Việt Nam trong nước và ở ngoài nước. Cách hiểu đạo và cách giữ đạo giữa thế hệ lớn tuổi và thế hệ nhỏ tuổi đang làm nên khoảng cách. Còn bao nhiêu phức tạp khác nữa do chuyển biến của xã hội và con người về mặt tâm lý, văn hoá, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, môi trường. Tất cả đều tác động đến tâm thức tôn giáo. Được sai đi truyền giáo giữa một tình hình đầy diễn biến như thế, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Đến đây, tôi xin phép kể một sự kiện đã xảy ra cho tôi, hy vọng có thể gợi ý cho anh chị em trên đường truyền giáo. Năm 1975, tôi được thụ phong Giám Mục, theo sự bổ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Cho dù tình thế là rất khó khăn, tôi vẫn nghĩ rằng: Chúa chọn tôi và sai tôi đi để truyền giáo. Truyền giáo là ưu tư lớn nhất của tôi. Một đêm, trong chiêm bao, tôi một mình lặng lẽ đi giữa một cánh đồng lúa mênh mông. Bỗng, tôi nhìn thấy xuất hiện một người từ bờ ruộng đàng xa bên trái tôi. Người lạ đó dần dần bước tới gần tôi. Khi gặp, tôi nhận ra ngay người lạ đó chính là Chúa Giêsu. Ngài hiền từ, uy nghi, gần gũi. Ngài cầm tay tôi, dẫn tôi qua một con đường dài. Rồi hai người cùng vào phố. Ngài đưa tôi vào một bệnh viện lớn. Ngài dắt tôi đi thăm từng phòng, từng giường bệnh nhân. Tôi rất xúc động, cảm thương những người đau bệnh. Tôi quay sang hỏi Ngài. Nhưng Ngài đã biến mất. Tôi tỉnh lại. Và lập tức tôi hiểu bài học Chúa Giêsu muốn dạy tôi về việc truyền giáo. Bài học đó gồm hai điểm chính: Một là gặp gỡ Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu, bước theo Chúa Giêsu, đồng hành với Chúa Giêsu. Hai là yêu thương bác ái đối với mọi người, nhất là với người đau khổ. Hai điểm đó cũng đã được được ghi trong Phúc Âm bằng nhiều lời dạy: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). “Thần Linh Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Với những lời Chúa dạy trong Phúc Âm, và với những hình ảnh đầy cảm động gây ấn tượng trong tôi do chiêm bao đêm đó, tôi ra đi truyền giáo và tái truyền giáo. Gặp gỡ Chúa Giêsu, và thực thi yêu thương bác ái, đó là những khởi đầu, mà tôi cho là rất cần thiết, rất quan trọng, rất căn bản trong việc truyền giáo. Tiện đây, tôi cũng xin chia sẻ một điều riêng tư. Đó là đang khi tôi cố gắng truyền giáo và tái truyền giáo cho những người khác, thì chính bản thân tôi cũng được Chúa thường xuyên tái truyền giáo, bằng nhiều cách. Một trong những cách Chúa dùng để tái truyền giáo người môn đệ Chúa, là Chúa gởi thánh giá đến. Thánh giá đủ loại, đặc biệt là sự yếu đuối về mọi mặt. Đây là điều tôi cảm thấy cần phải nói ra, để những ai dấn thân vào việc truyền giáo hãy xác tín: Mình phải rất khó nghèo, rất khiêm tốn, rất từ bỏ. Tôi vẫn nghĩ rằng: Chúng ta, dù là ai, cũng vẫn chỉ là tiếng kêu bên ngoài, như thánh Gioan Baotixita đã tự nhận. Còn Lời nói bên trong vẫn là Chúa Giêsu. Chính Ngôi Lời nói trong lòng ta mới là yếu tố quyết định. Vì thế, chúng ta phải rất gắn bó với Chúa Giêsu. Chỉ Ngài là đường, là sự thực và là sự sống. Chỉ Ngài là Đấng cứu độ chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta hiểu thêm những gì Chúa Giêsu đã dạy về truyền giáo. Đức Cha G.B. BÙI TUẦN - CN 14 TN– C ngày 8 tháng 7 năm 2001
Hai tháng vừa qua, Giáo Hội Việt Nam được thêm 55 tân linh mục. Và ngày hôm qua, 14-7, Toà Thánh chính thức công bố 03 tân giám mục Việt Nam được Đức Thánh Cha bổ nhiệm. Đây là những tin vui. Trước những phản ứng nô nức mừng rỡ tưng bừng của đám đông, tôi thầm nghĩ lại những chặng đường, mà người được Chúa chọn và sai đi thường trải qua. Những chặng đường tôi sắp nhắc lại dưới đây là những cảm nghiệm, một phần rút từ Phúc Âm nơi các tông đồ, một phần lấy từ kinh nghiệm bản thân. BÀNG HOÀNG TRƯỚC MỘT MẦU NHIỆM. Khi thánh Phêrô được Chúa Giêsu gọi, bảo chèo thuyền ra khơi thả lưới chỗ nước sâu, Ngài đã vâng lời. Kết quả đã rất lạ lùng. Cá tuốn đầy vào lưới. Sự kiện này làm kinh ngạc Phêrô và mọi người. Được thấy một bất ngờ như vậy, Phêrô cảm nghiệm ra một điều rất mới: Mình đang được tham gia vào một mầu nhiệm quá sức tưởng tượng. Lập tức, Phêrô quì xuống dưới chân Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Ngài bàng hoàng, sợ hãi, nhìn mọi sự với một cái nhìn mới, “Ngài bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu”(Lc 5,11). Cùng với thánh Phêrô, nhiều người đã cảm được sự Chúa gọi và sai mình đi là một biến cố lạ thường. Trong biến cố đó, Chúa đã dành cho mình một sứ mạng tham dự vào mầu nhiệm cứu độ của Chúa. Tại sao Chúa lại dành cho mình? Mình không hiểu. Chỉ biết một điều là mình rất bất xứng, đầy tội lỗi, đầy khiếm khuyết. Chính nhận thức ấy làm cho người môn đệ trao trọn thân phận mình vào tay Chúa. Họ bỏ lại mọi sự. Chỉ còn Chúa là tất cả cho họ. Chúa là Đấng họ cầu nguyện, cậy tin và phó thác. Đồng thời, cộng đoàn của Chúa là gia đình họ tựa nương và tìm sự cộng tác. Càng đi theo Chúa Giêsu, người môn đệ càng khám phá thấy Chúa Giêsu đầy quyền năng, nhưng lại tự nguyện chấp nhận vô vàn khổ cực. KINH NGẠC TRƯỚC NHỮNG KHỔ CỰC. Có thể là ban đầu người theo Chúa còn nuôi ảo tưởng về một cuộc đời cao sang. Nhưng rồi dần dần, họ sẽ thấy Chúa Giêsu, Đấng gọi họ, đã đến để cứu độ. Người cứu độ bằng một tình thương được diễn tả bằng những hy sinh. Hy sinh là cuộc sống nhập thể, mặc lấy thân phận lớp dân nghèo khổ. Chính Ngài nói về Ngài: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Hy sinh là phải đau khổ, nhục nhã. Chúa Giêsu khẳng định: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9,22). Hy sinh là thích được hộ tống không phải do những người giàu sang, quyền chức, nhưng là những người vác thánh giá. Chúa Giêsu khẳng định: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23). Hy sinh là hân hạnh được có bên mình không phải những nhà phê bình uyên thâm, nhưng là những người đơn sơ bé mọn, khiêm nhường. Phúc Âm ghi lại rằng: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Kitô hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Chúa là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Hy sinh là chịu hao tốn thời giờ, sức khoẻ, uy tín, sức sống mình cho đoàn chiên. Chúa Giêsu nói đi nói lại sự hy sinh này, nhất là trong bữa tiệc ly: “Ta là mục tử nhân lành... Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 14). Còn bao nhiêu thứ hy sinh khác, không tên, không hào quang. Thế nào rồi những ai thực sự được Chúa gọi và sai đi cũng phải trải qua những thử thách. Thế nào rồi họ cũng phải nếm những khổ đau. Có thể coi đây là lương thực hằng ngày và là một vinh dự cao quí đầy giá trị cứu rỗi. Người ta không thấy, không hiểu. Chỉ Cha trên trời mới nhìn thấy và hiểu. Tập quen với những kín đáo. Trong Phúc Âm thánh Matthêu, có một đoạn rất nhấn mạnh đến các việc về đời sống nội tâm. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng phô trương khi làm việc lành: Hãy làm cách kín đáo. Cha trên trời biết và sẽ thưởng công cho. Đó chính là bằng chứng của sự tự do. Làm theo lương tâm ngay chính. Làm vì muốn đẹp lòng Chúa. Không vì áp lực dư luận khen chê. Không vì mục đích được lợi lộc thế gian. Không vì sĩ diện. “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí của con được kín đáo. Vì Cha của con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,3-4). “Khi cầu nguyện... hãy cầu nguyện cùng Cha của con, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,6). “Khi ăn chay... đừng để ai thấy là con ăn chay ngoại trừ Cha của con, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,18). Sống theo những lời trên của Chúa Giêsu, người môn đệ Chúa sẽ làm vô số việc lành một cách kín đáo, như cầu nguyện, hy sinh, tha thứ, đào tạo, phục vụ, tỉnh thức, tiên liệu. Những việc kín đáo ấy có thể chẳng ai sẽ biết. Họ cũng sẽ có nhiều lựa chọn để đón Nước Trời, mà có thể chẳng ai hiểu. Nhưng: “Cha trên trời, là Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho họ”. Càng sống theo lời trên đây của Chúa Giêsu, người môn đệ Chúa càng sẽ biết kính trọng những đường lối và những chọn lựa của các môn đệ khác. Vì chỉ một mình Chúa mới biết và hiểu được họ thôi. Mình chớ cướp quyền Chúa, mà kết án anh em, kẻo hậu quả tại hại nhất lại sẽ đổ xuống cho chính mình. Tôi vừa đi thăm một bệnh nhân. Ông tự đâm vào bụng mình bằng hai nhát dao. Vết thương khá sâu. Hỏi tại sao ông tự tử, thì ông trả lời: Vì muốn thoát khỏi cảnh túng nghèo quá khổ cực. Nhìn bệnh nhân này, tôi liên tưởng tới bao người nghèo khác: Nghèo của cải, nghèo văn hoá, nghèo ý chí, nghèo tự do, nghèo tình thương, nghèo hy vọng, nghèo niềm tin. Nhiều người trong họ cũng đang tự huỷ. Đây là một thời sự nhức nhối. Chính thời sự này khiến tôi nhớ lại lời ngôn sứ xưa: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Chúa đã xức dầu cho tôi. Người sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,28). Với lời Kinh Thánh trên đây, chúng ta cầu xin Chúa không ngừng đốt lên ngọn lửa bác ái xót thương trong trái tim chúng ta, nhất là trong những người được sai đi. Cầu xin để chính những người được sai đi trở thành những ngọn lửa bác ái rực sáng của Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót. Cầu xin, để những người được sai, sẽ làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu của mình, giữa xã hội Việt Nam hôm nay, ít ra cũng bằng những việc bác ái tương tự như người ngoại đạo Samari, mà Chúa Giêsu đã nêu gương trong Phúc Âm hôm nay Lc 10,25-37, (CN XV QN, C). Được như vậy, thì đây là một cơ may cho Giáo Hội và xã hội. Long Xuyên, ngày 15 tháng 7 năm 2001
Tôi được may mắn tham dự nhiều thánh lễ phong chức linh mục và giám mục, tại Việt Nam, tại các nước ngoài, đặc biệt là tại Vaticăng. Tất cả các cuộc lễ đó đã gây nên một số cảm tưởng tốt đẹp. Nhưng nếu phải nói về những lễ đã để lại được những ấn tượng linh thiêng lâu bền, thì tôi thiết nghĩ đó là những lễ đã được chuẩn bị chu đáo về nhiều mặt, nhất là để cho thánh lễ được diễn tiến đúng là một lễ thánh, chứ không trở thành một lễ hội. Ít ra nhờ mấy điểm sau đây: Nơi cử hành thánh lễ. Nơi cử hành thánh lễ thường là một không gian được chọn vì đáp ứng một số tiêu chuẩn. Như đủ rộng để chứa số lượng người tham dự, đủ khang trang tiện nghi để là một môi trường đẹp đẽ an toàn, đủ trang nghiêm để là nơi thờ phượng. Ngoài không gian trước mắt đó, có nơi còn thêm một không gian gọi là không gian gợi nhớ. Như khi dự lễ tại đền thờ thánh Phêrô ở Vaticăng và tại một số nhà thờ Chánh Toà, tôi thấy không gian gợi nhớ là những mảnh lịch sử xa xưa. Từ cảnh Chúa Giêsu sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng, đến mộ những vị đã chết vì nhiệm vụ. Với những kỷ vật, với những Lời Chúa sai đi, với những chúc thư người đi trước. Tất cả đều gợi nhớ lại bề dầy lịch sử của sứ mạng “ra khơi”. Sứ mạng hôm nay được đọc trong sứ mạng xưa trên suốt quãng đường lịch sử dài xa thăm thẳm. Chính không gian gợi nhớ này làm cuộc lễ hiện tại thêm linh thiêng và gây ấn tượng thánh thiêng, nhớ về cội nguồn là chính Chúa sai đi phục vụ. Sự kiện trên đây cho thấy việc chuẩn bị cho không gian cử hành thánh lễ là một yếu tố quan trọng. Hiện nay làn sóng tục hoá đang xâm nhập vào mọi không gian, kể cả không gian nhà thờ, thậm chí tới không gian cung thánh. Nếu không cảnh giác, làn sóng này sẽ làm đứt đoạn hoặc phai mờ truyền thống Phúc Âm, ngay trong thánh lễ phong chức. Để rồi thánh lễ phong chức bị lái sang ý nghĩa “thăng quan tiến chức”, để tạo thành một giai cấp cai trị và ban phát. Nếu chẳng may não trạng như thế được hình thành, thì sẽ rất tai hại cho Hội Thánh và cho chính các người được thụ phong. Thời gian cử hành thánh lễ. Thánh lễ phong chức gồm nhiều mẩu thời gian kế tiếp nhau, như thời gian phong chức với những nghi thức công bố, nghi thức huấn dụ, nghi thức tuyên thệ, nghi thức đặt tay vv... Thêm vào đó là thời gian cầu nguyện và thời gian suy gẫm. Theo kinh nghiệm, thì thời gian cầu nguyện và thời gian suy gẫm đóng một vai trò rất quan trọng trong thánh lễ. Nó giúp cải hoá con người, yêu mến Hội Thánh và xây dựng tình liên đới yêu thương với tất cả mọi đồng bào mà Chúa sai môn đệ đến. Trong thời gian này, tất nhiên có những nhắn nhủ và giảng dạy từ phía những vị chủ tế, và người dẫn lễ. Nhưng đó chỉ là những dạy dỗ và nhắc nhủ bên ngoài. Còn Đấng dạy dỗ bên trong tâm hồn từng người chính là Thánh Thần của Đức Kitô. Vì thế mà những người tổ chức lễ và những người dự lễ cần tế nhị với Chúa Thánh Thần. Phải có những thinh lặng cần thiết, để lắng nghe Thánh Thần nói trong lòng. Chính Ngài sẽ cầu nguyện trong mỗi người. Chính Ngài sẽ làm cho mỗi kẻ tin theo Đức Kitô được gắn bó hơn với Đức Kitô. Để cùng với Đức Kitô, họ biết sống thân phận người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Chính Thánh Thần sẽ giúp mỗi người hiểu Lời Chúa, nhất là biết được thánh ý Chúa trong việc ra đi loan báo Tin Mừng giữa hoàn cảnh thực tại mà mình đang sống. Đối với nhiều người ngoài công giáo, thời gian thinh lặng trong thánh lễ chính là yếu tố linh thiêng nhất, đã gây được những ấn tượng sâu sắc về một sự hiện diện sống động của một Đấng linh thiêng gần gũi. Tâm lý những người tham dự thánh lễ. Mỗi người mỗi nhóm tham dự thánh lễ phong chức có thể có những trạng thái tâm lý riêng tư. Nhưng dù thế, tất cả đều có một tâm lý chung, đó là tâm lý hướng về Chúa, để cầu nguyện. Nếu tâm lý này được triển khai tốt, thì kết quả sẽ rất phấn khởi cho mục vụ và truyền giáo. Theo tôi, thì điều cần hướng dẫn hơn hết khi cầu nguyện, là xin cho các tân chức luôn sống gắn bó chặt chẽ vớiChúa Giêsu. Gắn bó chặt chẽ như cành nho với cây nho, theo lời Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành” (Ga 15,5). Gắn bó với Ngài, để có thể sinh nhiều hoa trái: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,6). Gắn bó với Ngài, vì “Ngài là đàng, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Gắn bó với Ngài, để có thể hiểu Ngài yêu thương mình thế nào, nhờ đó mà dấn thân phục vụ yêu thương mọi người như Ngài dạy: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Gắn bó với Ngài, để luôn biết quên mình, chỉ tìm thực thi thánh ý Chúa Cha: “Xin đừng theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). Gắn bó với Ngài, để dù có phải đóng đinh cùng với Ngài bằng một cách nào đó, thì cũng vẫn sẵn sàng, vì tin rằng: Chính khi đó là lúc mình trở thành của lễ hiến dâng có giá trị tham gia vào việc cứu độ. Như lời Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề luật truyền. Rồi Ngài nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Chúa. Thế là Ngài bãi bỏ các lễ cũ mà thiết lập lễ tế mới” (Dt 10,8). Con đường mà người môn đệ đi vào sẽ không trơn tru. Nhưng khi luôn gắn bó với Chúa Giêsu, người môn đệ có thể an tâm tin tưởng. Bởi vì chính Chúa Giêsu sẽ ở lai với họ, như lời Ngài hứa: “Và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ biết tỉnh thức nhạy bén trong mục vụ và truyền giáo, nhất là trong thời buổi khó khăn này. Nếu tâm lý những người tham dự thánh lễ phong chức đúng là một tâm lý cầu nguyện theo hướng tập trung vào Chúa Giêsu, thì một trật tự mới sẽ được thiết lập trong cộng đoàn và trong từng cá nhân. Trật tự mới này sẽ là một sức mạnh lớn lao để xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Văn hoá trong cuộc lễ. Lễ phong chức thường qui tụ rất đông. Tôi thấy nhiều nơi, với những giá trị thánh thiêng, lễ này còn được coi là một điểm hội tụ văn hoá, và nơi tổ chức lễ trở thành một môi trường văn hoá. Văn hoá nói đây tạm hiểu là tổng hợp những cái đẹp, cái tốt, cái hay của cảnh quan môi trường, của phong tục tập quán, của lối sống, nhất là của giao tiếp. Trong văn hoá giao tiếp, dù với cá nhân, dù với cộng đồng, làm sao biểu hiện được những nét văn minh và đạo đức. Có những chuẩn mực văn hoá trong nói năng, trong ăn uống, trong ứng xử. Như thanh lịch, ân cần giúp đỡ, hoà nhã, tế nhị, kính trên nhường dưới, trọng người hơn của, tiết độ. Có những hình thức văn hoá cho thấy khả năng chọn lọc những giá trị có tiềm năng làm giàu cho kiến thức, tinh thần phục vụ, lòng yêu mến Quê Hương đồng bào và Hội Thánh. Có những nhân cách biểu lộ được một tinh thần văn hoá có sáng tạo, có sâu sắc, có liên đới rộng rãi trên nền tảng nhân ái. Một cuộc lễ thánh được cử hành trong một khung cảnh văn hoá phong phú, đa dạng sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho việc loan báo Tin Mừng. Để kết, tôi xin phép nhắc lại một lời khuyên vắn tắt của thánh Giám mục Augustinô: “Hãy kể về Đức Kitô và hãy dạy bác ái yêu thương”. Lời khuyên vắn tắt này, nếu được biến thành bầu khí bao trùm thánh lễ phong chức, thì hy vọng lễ này sẽ là một lễ khai mạc đầy ý nghĩa cho sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng. Long Xuyên, ngày 22 tháng 7 năm 2001
Người môn đệ chân chính của Đức Kitô có nhiều vẻ đẹp. Một trong những vẻ đẹp hấp dẫn nhất là đức khiêm nhường. Có tài đức mà vẫn khiêm nhường. Có địa vị mà vẫn khiêm nhường. Có trí thức mà vẫn khiêm nhường. Được khen hay bị chê, họ vẫn bình tĩnh khiêm nhường. Khiêm nhường trong thái độ. Khiêm nhường trong lời nói. Khiêm nhường trong việc làm. Khiêm nhường trong lựa chọn. Nhất là khiêm nhường trong nội tâm bình an tĩnh lặng. Khi huấn luyện người môn đệ Chúa về đức khiêm nhường, nhiều sách tu đức khuyên họ hãy năng kiểm tra mình, xem có vết nào là dấu chỉ về một thứ kiêu ngạo nào không. Kiểm tra mình là một bước quan trọng để tập luyện khiêm nhường. Kiêu ngạo về những sự tốt đẹp bề ngoài. Những sự tốt đẹp bề ngoài như là y phục, địa vị, chức quyền, tài sắc, gốc gác, tên tuổi. Nhiều khi những cái đó nên cớ cho người ta kiêu ngạo. Khi thứ kiêu ngạo này trở nên thói quen bình thường, thì người ta kiêu căng mà không còn biết ngượng. Thứ kiêu ngạo này thường bộc lộ qua thói thích phô trương. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta về khả năng kiêu ngạo này qua những lời nói về kinh sư: “Anh em hãy coi chừng những kinh sư ưa dạo quanh. Họ xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39). Nếu không tự cảnh giác, biết đâu chúng ta đôi khi cũng để mình theo thói kinh sư, mặc dù với những hình thức tinh vi kín đáo, ngay trong những việc phải là rất thánh. Kiêu ngạo về ý muốn. Đây là thứ kiêu ngạo thường được tượng trưng bằng lời Luciper xưa “Tôi không vâng phục Thiên Chúa”. Vâng phục thánh ý Chúa, đó là nền tảng của đạo làm con Chúa. Riêng người môn đệ Chúa rất cần để ý đến việc vâng phục thánh ý Chúa. Thường thì chúng ta có tinh thần cảnh giác khá cao khi làm việc và nói năng, nhất là khi lựa chọn. Nhưng chúng ta thường dễ tưởng lầm rằng: Hễ làm việc Chúa là tất nhiên hợp ý Chúa. Xin nhớ lời Chúa cảnh báo nghiêm khắc: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Đúng là họ đã làm những việc Chúa, nhưng lại làm theo ý riêng mình. Có thể là không đúng ý Chúa về thời gian phải làm, về nơi phải làm, về cách phải làm, nhất là không đúng động lực trong sáng mà Chúa muốn. Theo ý riêng khi làm việc Chúa là một thứ kiêu ngạo, mà người ta dễ mắc phải. Nhất là trong những hoạt động đáng gọi là náo động, ít tĩnh tâm cầu nguyện. Kiêu ngạo về lý trí. Đây là thứ kiêu ngạo rất thường xảy ra nơi cá nhân và tập thể. Biết ít mà tự phụ biết nhiều.
Biết sai mà tự phụ biết đúng.
Biết thiếu mà tự phụ biết đủ.
Biết nông mà tự phụ biết sâu.
Biết viển vông mà tự phụ biết từ nguồn mạch chính xác. Thế rồi, với những cái biết như thế, nhiều người lại chia sẻ với người khác và hướng dẫn người khác. Hoặc lại sáng kiến thêm ra những thứ quyền lực và cách giả hình để xây dựng uy tín. Nhất là dùng hiểu biết thiển cận của mình để kết án người khác. Về thứ kiêu ngạo này, chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu khiển trách các kinh sư và biệt phái: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình. Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền, để rủ cho được một người theo đạo. Nhưng khi họ theo đạo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các ngươi” (Mt 23,15). Họ tưởng họ có danh dự về lý trí. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Khi được ánh sáng Chúa dọi vào trí khôn, họ mới thấy vô số sai lầm và nông cạn. Khi trí khôn được Chúa thanh luyện, họ mới nhìn thấy nhiều sự thực, mà Chúa chỉ mạc khải cho những người khiêm tốn (Lc 10,21). Kiêu ngạo về đạo đức. Thứ kiêu ngạo này cũng dễ xảy ra. Tự phụ về những việc đạo đức mình làm. Tự phụ về những ân huệ riêng Chúa ban. Tự phụ về những công trình mình xây dựng cho ích chung. Tự phụ vì mình thuộc về cộng đoàn nổi tiếng. Thứ kiêu ngạo này dễ làm mù loà lòng trí con người. Nó khép cửa tâm hồn lại, không cho tình yêu thương xót Chúa đi vào. Dần dần nó đúc ra những ngẫu thần đặt trong lòng mình và cộng đoàn mình. Ngẫu thần cái tôi. Hậu quả ra sao, chúng ta nhớ lại dụ ngôn hai người cầu nguyện: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu. Còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con’. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’. Thầy nói cho các ông biết: Người này khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 17,10-14). Kinh nghiệm đạo đức cho thấy: Những khi chúng ta tưởng mình đạo đức lại chính là lúc chúng ta đang trong nguy cơ phạm tội. Trái lại, khi chúng ta khiêm nhường, nhận biết mình tội lỗi lại là lúc chúng ta nếm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa xót thương. Tình Chúa xót thương này sẽ dạy chúng ta biết yêu mến sự thực và tha thiết với bác ái. Chân lý và bác ái trong khiêm nhường. *** Một thoáng kiểm tra trên đây có thể giúp chúng ta nhìn thấy đôi chút vết nhơ trên vẻ đẹp khiêm nhường. Muốn biết rõ hơn, chúng ta cần cầu nguyện thực nhiều. Bởi vì kiêu ngạo là một thứ kẻ thù tinh tế khôn ngoan, ưa lẩn trốn trong những vùng sâu của tâm hồn. Khi bị đánh và bị xua đuổi, đôi khi nó chỗi dậy và trở lại với dáng vẻ lịch sự và tử tế hơn trước. Lúc đó, chúng ta rất khó nhận ra. Để thấy nó, chúng ta phải vâng lời Chúa dạy: Năng cầu nguyện và hãm mình. Nhất là cần được sinh lại bởi Chúa Thánh Linh, và phấn đấu trở lại tinh thần thơ ấu thiêng liêng: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,1).
Hôm nay, ngày 31 tháng 7, là ngày giỗ thánh tử đạo Emmanuel Lê Văn Phụng. Thánh Phụng đã sinh sống ở họ đạo Cù Lao Giêng này. Lễ giỗ hôm nay qui tụ rất đông. Không những có mặt họ hàng thân thuộc, mà còn làng xóm, nhiều họ đạo xa gần, và cả đến đồng bào lương dân. Sự qui tụ này là tự nguyện, đầy tình cảm thiêng liêng, với niềm tin tôn giáo sống động. Đúng là hình ảnh một cộng đoàn tín hữu. Đây là một qui tụ rất gợi ý. Nó gợi ý cho tôi suy nghĩ về 2 điểm này: - Một là nền tảng của cộng đoàn tín hữu. - Hai là sự cộng tác của thánh Phụng vào việc xây dựng cộng đoàn tín hữu. 1- Trước hết, đâu là nền tảng một cộng đoàn tín hữu? Thưa, nền tảng của cộng đoàn tín hữu là Chúa Giêsu. Câu trả lời này là một xác tín Phúc Âm. Bởi vì bất cứ ai, khi gia nhập cộng đoàn tín hữu đều có ý đi tìm sự cứu độ. Sự cứu độ đích thực sẽ không ở nơi mình hay ở một ai khác, mà là ở nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại. Ngài là đường, là sự thực và là sự sống. Ngài là Chúa chiên lành. Lời Ngài, Mình Ngài là lương thực nuôi dưỡng linh hồn ta, là ánh sáng dẫn đường cho đời ta. Ngài là Tin Mừng của ta. Chúng ta tìm gặp Chúa Giêsu trong Kinh Thánh, trong phép Thánh Thể. Và cũng gặp được Ngài trong các chứng nhân Hội Thánh sống gắn bó với Ngài, được Ngài yêu thương, tha thứ, chở che. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn là nền tảng của cộng đoàn, ở chỗ Ngài là sự bình an của cộng đoàn. Cộng đoàn gồm nhiều người, nhiều ý kiến, nhiều khuynh hướng, nhưng tất cả đều phải qui chiếu về Chúa Giêsu. Ngài là trung gian duy nhất giữa Chúa Cha và nhân loại. Chúng ta được Chúa thứ tha tội lỗi nhờ ơn cứu chuộc của Ngài. Sau cùng, Chúa Giêsu là nền tảng của cộng đoàn, bởi vì Ngài là dây yêu thương nối kết chúng ta lại với nhau. Ngài là cây nho. Chúng ta là cành nho. Các cành liên kết với nhau qua thân cây và nhờ thân cây. Để cùng chia sẻ một sự sống chung bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chúng ta yêu thương nhau như Ngài yêu thương chúng ta. Ý muốn Ngài là như thế. Khi chúng ta sống theo ý muốn đó của Ngài, chúng ta cảm thấy ngay Ngài chính là nguồn yêu thương nối kết chúng ta lại với nhau, trong một tình thương dạt dào tâm tình hiếu thảo và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Trên đây, tôi vừa trình bày vắn tắt nền tảng cộng đoàn tín hữu là Đức Kitô. 2- Vậy thánh Emmanuel Lê Văn Phụng của chúng ta đã góp phần thế nào trong việc xây dựng cộng đoàn tín hữu hồi đó? Thưa bằng cách ngài đem Chúa Giêsu đến cho các cộng đoàn và cho những người thiện chí. Chúa Giêsu, mà thánh Phụng đem đi các nơi, là Kinh Thánh, là Mình Thánh. Ngài được các bề trên sai đi. Ngài chu toàn bổn phận một cách ân cần, kín đáo, nhiệt thành, khiêm tốn. Ngoài Kinh Thánh và Mình Thánh, người tông đồ giáo dân này còn đem Chúa Giêsu đến các nơi bằng gương sáng đời sống tin yêu hoà nhã của ngài. Gặp người giáo dân sốt sắng này, đầy sự bình an, tinh thần hoà giải, người ta có cảm tưởng gặp được chính Chúa Giêsu đang sống trong ngài. Hơn nữa, thánh Phụng còn góp một phần rất lớn trong việc xây dựng cộng đoàn tín hữu, đó là che chở các linh mục và cộng tác chặt chẽ với các ngài. Sự nâng đỡ của thánh Phụng dành cho các linh mục gồm nhiều mặt: từ cầu nguyện, đến tình cảm kính yêu và cả đến vật chất, và sau cùng là chính mạng sống của mình. Thánh Phụng coi linh mục là một quà tặng quí giá Chúa ban cho cộng đoàn nói chung, và cho gia đình mình nói riêng. Ngài nhìn linh mục như một người Cha của gia đình thiêng liêng. Ngài tin rằng: Hằng ngày linh mục xin ơn Chúa Thánh Thần xuống cho gia đình trong việc suy gẫm Lời Chúa, trong việc nguyện cầu tạ ơn Chúa, trong việc phục vụ cộng đoàn và đồng bào đất nước, nhất là trong những khi thử thách xảy ra cho cộng đoàn và cho cá nhân. Thánh Phụng đã góp phần xây dựng cộng đoàn với thái độ rất kiên trì, rất khiêm tốn, đầy thương cảm và rất quên mình. *** Sau khi nhìn vào Chúa Giêsu là nền tảng cộng đoàn, và nhớ về thánh Phụng là người đã cộng tác vào việc xây dựng cộng đoàn, mỗi người chúng ta nên tự hỏi mình 2 điều: Một là có thực sự gắn bó với Chúa Giêsu là nền tảng cộng đoàn không? Hai là có cộng tác vào việc xây dựng cộng đoàn không? Trả lời hai câu hỏi này trước mặt Chúa với một quyết tâm sau đó, chính là việc rất có ý nghĩa, khi tham dự lễ giỗ thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. Xin thánh Phụng cầu bầu cho họ đạo Cù Lao Giêng nói riêng, và cho Hội Thánh Việt Nam nói chung, được biết làm chứng cho Chúa một cách khôn ngoan và hữu hiệu tại Việt Nam hôm nay trong thời điểm này.
Ngày bế mạc Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu được kết thúc bằng bữa ăn trưa, sau thánh lễ trọng thể. Dịp này, tôi tìm gặp Đức Hồng Y Ratzinger. Sau vài lời chào thăm, tôi nói với Ngài: “Con đã đọc cuốn Muối của đất, trong đó Đức Hồng Y đã trả lời rất nhiều câu phỏng vấn về các vấn đề thời sự Hội thánh. Những trả lời của Đức Hồng Y đã đem lại cho con nhiều ánh sáng và an ủi. Con nhớ là ở phần cuối sách, Đức Hồng Y đã phát biểu một ý kiến khá táo bạo. Đại khái thế này: Những cải cách ngày nay chắc chắn sẽ không đến từ các Thượng Hội Đồng và các hội nghị, cho dù những tổ chức đó có lý do chính đáng. Những cải cách sẽ đến từ những bản lãnh xác tín, mà chúng ta có thể gọi là những vị thánh. Vậy, con xin phép hỏi Đức Hồng Y: Những lời đó in trong sách có phản ánh đúng quan điểm của Đức Hồng Y không? Và nếu đúng, thì hôm nay Đức Hồng Y còn giữ nguyên quan điểm đó không?”. Đức Hồng Y Ratzinger mỉm cười trả lời: Sách đó đã in đúng ý kiến của tôi, và hôm nay tôi vẫn giữ nguyên ý kiến đó”. Cuộc trao đổi giữa Đức Hồng Y Ratzinger và tôi, tuy rất vắn tắt, nhưng đã gây một ấn tượng mạnh trong tôi, sau một tháng tham dự Thượng Hội Đồng. Để cải cách Hội Thánh, xã hội và cộng đồng, chúng ta cần những người thánh. Để góp phần cứu độ nhân loại, đồng bào, chúng ta càng rất cần sự thánh thiện. Bài đọc I thánh lễ Chúa nhật XVII vừa qua chứng minh điều đó. Kinh Thánh cho biết, nếu tìm được mười người thánh, Chúa sẽ tha cho toàn thể dân thành Sođôma và Gomora (St 18,20-32). Người thánh là người sống mầu nhiệm Đức Kitô một cách mà Chúa muốn. Lịch sử cho thấy nhiều vị thánh đã có những lựa chọn sống mầu nhiệm Đức Kitô bằng nhiều cách khác nhau. Còn hiện nay, nhất là tại Việt Nam, mô hình thánh đang được trọng kính nhất chính là sống mầu nhiệm Đức Kitô cứu chuộc nhân loại bằng tình yêu giàu lòng thương xótđến quên mình, hy sinh phục vụ. Chúng ta được gọi sống với lựa chọn cao trọng đó. Để khởi sự, chúng ta hãy dâng chính mình làm của lễ, theo gương Chúa Giêsu. Tác giả thư gởi Do Thái viết về Chúa Giêsu: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ, hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xoá tội. Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,5-7). Nghĩa là chính Chúa Giêsu xin trở nên của lễ. Của lễ gồm cầu nguyện, yêu thương và hy sinh phục vụ cho dù phải chịu nhiều đau đớn. Chúa Giêsu là của lễ trước khi làm các việc cứu chuộc. Đức Mẹ Maria cũng là của lễ trước khi làm các việc đồng công cứu chuộc. Ơn Chúa gọi Mẹ dính liền với câu của tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâm qua lòng Bà” (Lc 2,35). Lưỡi gươm đã đâm thâu qua lòng Đức Mẹ không phải là những khắt khe của lề luật, nhưng là những biến cố thực tế của cuộc đời, của lòng người. Để trở thành một của lễ có khả năng góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa, chúng ta cần cầu nguyện và chiêm niệm rất nhiều, để gắn chặt chúng ta vào Chúa, như cành nho với thân cây nho. Trong thinh lặng, chúng ta lắng nghe Chúa và đón nhận tình thương của Chúa. Đồng thời chúng ta cũng cần tiếp cận với thực tế cuộc sống hôm nay, nhất là của những tầng lớp cùng khổ. Qua đời tập luyện, trái tim người sống ơn gọi theo Chúa Giêsu vác thánh giá sẽ được Chúa đổi mới. Chúng ta dần dà sẽ tới một mức độ trưởng thành về tình yêu nhân đạo, thương người như thể thương ta. Chúng ta dần dà sẽ tới một mức độ trưởng thành về tình yêu từ mẫu không những biết thương, mà còn biết xót, và nhạy bén với những tín hiệu của những người khổ đau. Chúng ta dần dà sẽ tới một mức độ trưởng thành về bác ái Phúc Âm, của người con Chúa tình yêu, biết quên mình, biết phục vụ cả khi không còn phương tiện vật chất để cho đi. Chúng ta dần dà sẽ tới mức độ trưởng thành của một tình yêu người được tái sinh trong Chúa Thánh Thần: Quân bình, trong sáng, rộng lượng , sáng tạo, khôn ngoan, can đảm. Rất mong những người sống mầu nhiệm mến yêu thánh giá sẽ luôn ý thức mình được Chúa gọi là của lễ sẽ trung thành với ơn gọi đó từng giờ, từng phút, từng giây, hôm nay và mãi mãi suốt đời. Tôi thiết nghĩ: sự chúng ta là lễ vật thì tốt hơn sự chúng ta làm ra lễ vật. Trên thực tế, chúng ta để ý đến là hay để ý đếm làm?
Nhiều lần mỗi ngày, tôi nói với cộng đoàn: “Chúa ở cùng anh chị em”. Tôi gởi lời chào chúc ấy đến mọi người, không phân biệt kẻ ngoan đạo, hay kẻ khô đạo, kẻ có đạo hay kẻ ngoại đạo, kẻ ở trước mặt tôi hay kẻ ở xa tôi. Tôi đặt vào lời chào chúc ấy tất cả niềm tin và lòng thương mến. Tôi tin mến Chúa. Tôi thương yêu và kính trọng mọi người. Niềm tin mến ấy trở thành cái nhìn của tâm hồn tôi. Gặp ai, tôi cũng nhìn họ dưới góc độ “Chúa ở cùng họ”. Họ thường là từng trăm, từng ngàn người tôi gặp và tiếp xúc, trong nhà ngoài ngõ, trên đường dưới ruộng. Rất nhiều người tôi không quen biết. Và tôi cũng không để ý xem họ có đạo hay không có đạo, đạo Công Giáo hay một đạo khác. Nhưng khi tôi thấy ai có đức tính nào tốt, làm được một việc nào lành, thì tôi nghĩ rằng Chúa ở cùng họ. Có những người không làm gì, không nói gì, nhưng nét mặt của họ toả ra sự hiền lành khiêm tốn, thái độ của họ lịch sự nhân ái, tế nhị, tự nhiên tôi nghĩ là Chúa ở cùng họ. Nhất là khi thấy ai thao thức công lý và hoà bình, nỗ lực làm hết sức mình để những người xung quanh mình được nên tốt hơn, có một cuộc sống tốt đẹp hơn, thì tôi tin rằng họ có Chúa ở với họ. Tôi có cảm nghĩ là những người có Chúa ở cùng, giống như những cây nở hoa đẹp thơm, toả mùi hương thơm Đức Kitô. Không ai tả nổi mùi thơm sắc đẹp của hoa. Chỉ biết rằng mùi thơm của hoa là tự nhiên. Để đâu cũng thơm. Không cần giới thiệu, nó vẫn thơm. Cũng thế, sắc đẹp của hoa là tự nhiên. Để đâu cũng đẹp. Nó không cần chuẩn bị để đẹp như nhiều vẻ đẹp phải chuẩn bị để đẹp trước khi chụp hình. Người có Chúa ở cùng là những bông hoa đẹp từ thực chất, thơm do thực chất. Cái thơm đẹp của họ không vay mượn ở chức vị, tiền bạc, dư luận. Càng không do vận động, phô trương, quảng cáo. Cái thơm ấy của họ phản ánh cái thơm đẹp của Đức Mẹ và thánh Giuse xưa. Toả ra Tám Mối Phúc thật. Am thầm lặng lẽ. Có lúc rạng rỡ như một bầu trời rạng đông. Có lúc ẩn giấu mình sau những nếp sống bình dị, thậm chí bị khinh chê, chống báng. Cũng có nhiều loại hoa khác nhau với nhiều vẻ đẹp khác nhau, với nhiều mùi thơm khác nhau, thì những người có Chúa ở cùng cũng thuộc nhiều loại khác nhau, với những hương thơm khác nhau. Với nhận thức trên đây, tôi nhìn giáo đoàn của tôi. Tôi có cảm tưởng giáo đoàn của tôi giống như một cánh đồng hoa, muôn màu sắc, ngàn hương thơm. Tôi cảm tạ Chúa về tất cả những gì Chúa đã làm cho giáo đoàn của tôi. Đúng là Chúa ở cùng chúng tôi. Tuy nhiên, tôi không thể không nhìn thấy trong cánh đồng này còn có nhiều cỏ dại, nhiều bụi gai, với biết bao côn trùng và có cả rắn độc. Tôi cũng không thể không để ý đến những cây hoa còn quá non yếu, héo tàn, gầy guộc. Nhiều câu hỏi đặt ra cho lương tâm tôi: Có phải lỗi tại tôi không? Và chính tôi có là một bông hoa thơm đẹp do thực chất, do sự Chúa ở cùng tôi không? Cái đẹp nhất của một giáo đoàn chính là có những con người tốt, vì Chúa ở cùng họ. Đó mới là cái đáng mừng nhất. Điều vui nhất cho người phụ trách một giáo đoàn chính là sự có nhiều người trở về với chân lý và tình yêu Phúc Âm, biến giáo đoàn trở thành cánh đồng hoa thơm đẹp ngào ngạt hương thơm Đức Kitô. Nếu giáo đoàn có nhà thờ đẹp, tháp chuông đẹp, nhà xứ đẹp, đài đẹp, nhiều cơ sở đẹp, và các tổ chức đẹp, nhưng quá nhiều người trong giáo đoàn vẫn chưa toả hương thơm Đức Kitô hiền lành và khiêm nhường, bác ái quên mình, sống trọn vẹn tuân phục thánh ý Chúa, thì thiết tưởng nên cầu nguyện hy sinh, thống hối hơn là vui mừng hân hoan. Tuy nhiên, với đức tin của Hội Thánh Chúa khi nhìn về tương lai, tôi có thể nói tương tự như ông Simêon xưa một cách lạc quan: “Chính mắt con đã được thấy ơn cứu độ,
Chúa đã dành cho muôn dân,
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,30-32).
Có lẽ chưa bao giờ tôi khát khao sự cứu độ một cách mãnh liệt cho bằng hiện nay. Tôi xác tín sự cứu độ luôn rất cần cho tôi. Tôi cảm thấy sự cứu độ cũng luôn rất cần cho anh chị em, cho chính Hội Thánh và cho nhân loại.
Sự cứu độ, mà tôi nói đây, không chủ yếu là cứu thoát khỏi những nghịch cảnh, những nguy cơ, những yếu đuối, những bấp bênh đủ loại vốn đi liền với thân phận con người, nhưng là cứu thoát khỏi tội lỗi và những đường lối lầm lạc dẫn chúng ta tới sự băng hoại nhân phẩm, tàn phá gia đình, hỗn loạn xã hội và huỷ hoại khả năng xây dựng nếp sống công bình bác ái ở đời này, cũng như khả năng đi vào cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Một sự cứu độ như thế quả là quá sức chúng ta. Rất may cho chúng ta, vì chúng ta có thể tìm được sự cứu độ nơi Chúa Giêsu. Người là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người giáng trần để Cứu Độ chúng ta. Người là Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Nhìn vào hang đá, nơi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, chúng ta thấy một tình yêu bao la cao cả và một hy sinh lớn lao vô bờ. Từ đó việc cứu độ được hiểu như một việc của tình yêu và của hy sinh.
Với tình yêu và hy sinh, từ bỏ mình, tuyệt đối thực hiện thánh ý Chúa Cha, Đấng cứu thế đã trở nên một đền thờ sống động, để chúng ta có thể vào nơi đó, mà thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.
Với yêu thương và hy sinh, hiến cuộc sống mình đền tội cho nhân loại, Đấng Cứu Thế đã trở nên của lễ xứng đáng, để chúng ta hiệp thông vào đó, mà xin Thiên Chúa ban ơn tha thứ cho mình và cho kẻ khác.
Với yêu thương và hy sinh, khiêm nhường trọn vẹn vâng phục Chúa Cha cho đến chết, Đấng Cứu Thế đã trở nên nguồn sức mạnh, để chúng ta nương tựa vào đó, mà thắng vượt quyền lực ma quỉ, biết chọn Chúa và trung thành với Chúa trong mọi tình huống.
Chúa Giêsu Kitô đã và đang cứu độ chúng ta bằng yêu thương và hy sinh như thế. Chúng ta sẽ được hưởng ơn cứu độ đó, nếu chúng ta biết đón nhận và cộng tác vào. Đón nhận cách nào, cộng tác cách nào?
Thưa cách đơn giản nhất là mở tâm hồn chúng ta ra bằng yêu thương và hy sinh.
Khi đọc kinh, tham dự thánh lễ, nghe Lời Chúa, chúng ta thực hiện các việc ấy với tất cả tình yêu vô vị lợi, và chấp nhận mọi hy sinh Chúa muốn, nhất là từ bỏ cái tôi kiêu căng hẹp hòi của mình. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Khi chúng ta phục vụ người khác, chúng ta hãy thực hiện đúng lúc, đúng việc, đúng cách, với lòng yêu thương kính trọng chân thành kẻ khác và với những hy sinh cần thiết. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Khi chúng ta xây dựng bản lãnh chính mình và thăng tiến đời mình, chúng ta hãy thực hiện theo mô hình Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Đấng đã chọn con đường yêu thương và hy sinh. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Ngày nay, ma quỉ càng tìm cách đánh phá công việc cứu độ của Chúa Giêsu. Đánh phá khắp nơi, cả trong chính Hội Thánh. Đánh phá đủ cách, cả bằng những việc mang danh đạo đức, nhưng không có thực chất đạo đức. Đánh phá đủ các mặt: tôn giáo, tự do, văn hoá, xã hội, kinh tế, cả về nhân bản.
Khi ý thức rằng chúng ta đang đi tìm ơn cứu độ, và nguồn ơn cứu độ không đến từ ma quỉ, nhưng chỉ đến từ Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều. Khi tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ được Chúa ban ơn, để có thể nhận ra đâu là cạm bẫy của ma quỉ, và đâu là Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Tôi nghĩ rằng: chúng ta đang bước vào một tương lai có nhiều thử thách và có nhiều bất ngờ đáng e ngại. Vì thế, tôi xin anh chị em điều này: Hơn bao giờ hết, hãy nhìn lên Đức Giêsu Kitô. Hãy tin Người là Đấng cứu độ. Hãy gắn bó với Người, bởi vì Người là đường, là sự thực và là sự sống. Hãy cộng tác với Người bằng tình yêu và hy sinh. Hãy cầu nguyện với Người, bởi vì Người thương yêu chúng ta và gần gũi chúng ta.
Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Giáng sinh đầy Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta. Đức Giám Mục Bùi Tuần
Trong những tháng ngày này, tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam, đã đang và sẽ tổ chức nhiều thánh lễ kéo chú ý đến cá nhân này cộng đồng kia. Đặc biệt là những thánh lễ có chủ ý đề cao người mang chức vụ thánh. Như lễ phong chức thánh, lễ mừng và giới thiệu người được phong chức thánh, được trao nhiệm vụ thánh. Lễ tạ ơn và cầu nguyện cho người mang chức vụ thánh. Không có lễ tạ ơn vì chức vụ thánh chung chung. Mà chỉ có lễ tạ ơn nơi vị này vị nọ. Hầu như mọi thánh lễ như thế đều được tổ chức tốt đẹp. Tuy nhiên trong những dịp như thế này, tôi thường hay nhớ lại chuyện xưa được kể trong Phúc Âm thánh Marcô. Người thanh niên giàu có “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ trước mặt Người và hỏi:”Thưa Thầy nhân lành, Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?”. Đức Giêsu đáp:”Sao anh nói tôi là nhân lành ? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói:”Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta:”Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi, hãy đến theo tôi”. Anh ta xa xầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh rồi nói với các môn đệ: ”Những người giàu có thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao”. Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng người lại nói tiếp:”Các con ơi, vào được nước Thiên Chúa thực khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại cành sửng sôt hơn nữa và nói với nhau:”Thế thì ai có thể được cứu?”. Đức Giêsu nhìn thẳng các ông và nói:”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đói với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” . Khi suy gẫm bài Phúc Âm trên, tôi thấy người thanh niên ấy có thể là tôi, là chúng ta, khi chúng ta không có sự tự do nôi tâm đối với những gì mình có. Những khó khăn về tự do nội tâm Tự do nội tâm là không để mình bị sai khiến, bị khống chế, bị bó buộc một cách nô lệ bởi những của cải bất cứ loại nào, trái lại mình ngoan ngoãn dễ dàng nghe Chúa, đi theo Chúa, cho dù phải bỏ tất cả những gì mình đang có đang ưa thích và đang theo đuổi. Sự tự do nội tâm này là điều rất khó.Trước hết vì chúng ta ít để ý đến. Người thanh niên trong Phúc Âm quả quyết mình suốt đời đã giữ đạo đúng như luật dạy. Anh ta cho thế là đủ để an tâm. Anh không bao giờ nghĩ đến việc phải bước thêm bước nữa, đó là phải có thái độ nghèo khó nội tâm. Nhưng Chúa lại đòi điều đó. Còn chúng ta thì sao, chúng ta cũng như bao người vẫn hay bám vào lối sống đạo luật lệ, tự hào về lối sống đạo luật lệ. Chúng ta cần ý thức là sống đạo như vậy chưa là đạo đức mà Chúa muốn. Hơn nữa, không những chúng ta an tâm về lối sống đạo luật lệ, coi đó là một tài sản cao quý của mình, mà còn dễ tự hào về những hào quang của mình. Hào quang thực và hào quang ảo tưởng. Hao quang do thành tích, do chức, do quyền, do lợi lộc, do địa vị, do những khen tụng đó đây và do những tưởng tượng chủ quan. Tất cả những thứ đó cũng làm nên một gia sản riêng. Nếu chúng ta không khiêm tốn và cảnh giác, thì thay vì chọn Chúa làm gia nghiệp, chúng ta sẽ chọn những tài sản đó làm gia nghiệp. Những dính bén, ràng buộc của chúng ta với tài sản đó thường thuộc dạng vô thức. Chúng ăn rễ quá sâu vào nội tâm ta do một nếp sống thiếu kỉ luật tu đức. Nên khó khăn sẽ rất lớn , khi chúng ta nghe Chúa bảo: Hãy dứt lìa tất cả, để vác thánh giá đi theo Chúa Giêsu trong tinh thần nghèo khó và phó thác. Lại một khó khăn nữa, và khó khăn này thường lớn hơn tất cả mọi khó khăn khác. Đó là từ bỏ ý riêng mình, để vâng phục thánh ý Chúa. Thực vậy, kinh nghiệm tu đức, mục vụ, truyền giáo chứng minh rằng: Chúng ta ai cũng nuôi trong mình những chương trình nọ, dự kiến kia. Chúng ta đặt tin tưởng vào đó, coi đó như những phương tiện và đường lối nhất định phải đạt được. Chúng ta tưởng ý của riêng ta và của cộng đoàn là hợp ý Chúa. Chúng ta nuôi nhiều ý riêng loại đó, coi đó là một tài sản quý. Nhưng biết bao trường hợp đã cho thấy ý chúa rất khác. Chúa muốn chúng ta từ bỏ gia tài riêng, để đi theo Chúa. Thế là chúng ta lại như người thanh niên ấy, tỏ ra buồn sầu, chán nản, dần dần xa Chúa. Hoặc là cũng vâng phục ý Chúa, nhưng một cách miễn cưỡng, tạm thời. Đúng như Chúa phán:”Người giàu có khó vào được nước Chúa”. Phải biết đón nhận ơn Chúa Suy nghĩ tới đây, tôi cũng như bao người sẽ phản ứng y như các môn đệ xưa:”Thế thì ai có thể được cứu “. Người trả lời sẽ khơng phải là chúng ta, nhưng là chính Chúa Giêsu:”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế. Bởi vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,27). Chúa muốn chúng ta có một trái tim trong sạch, khiêm tốn, khó nghèo. Vậy thì, chính chúng ta cũng phải muốn như thế, cũng phải khat khao điều đó, cũng phải coi điều Chúa muốn đó là điều quan trọng. Khát khao điều đó chỉ làbước đầu. Tiếp theo là bước thứ hai, đó là phải chấp nhận kế hoạch của Chúa. Kế hoạch của Chúa là ưu tiên thực thi bổn phận liên đới và tình thương xót:”Hãy về bán tất cả những gì anh có, phân phát cho kẻ nghèo”. Rồi bó buộc mình trở nên giống Chúa Giêsu:” Hãy trở lại theo Ta “. Chỉ bằng ấy bước đi cũng là chuyện rất khó. Nhận ra cái khó ấy để biết khiêm nhường cầu nguyện cậy trông ơn Chúa, chính là một chặng đường đạo đức, mà chúng ta phải cố gắng đi vào. Chúa Giêsu không hài lòng với “người thanh niên giàu có”. Não trạng con người Việt nam hôm nay cũng không muốn thấy”người thanh niên giàu có” trong giới tu sĩ, giáo sĩ. Trong đạo, hình ảnh “người thanh niên giàu có” như Phúc Âm kể không đẹp đẽ gì đâu. Trong nhà tu, hình ảnh một người giai cấp giàu có lại càng chẳng đẹp đẽ gì . Xin Chúa thương ban ơn thanh tẩy chúng ta, để chúng ta thực sự từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đức Giám Mục Gioan Baotixita Bùi Tuần
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh mừng lễ Đức Mẹ Maria lên trời. Cũng hôm nay, Dòng Thánh: Hôm nay, toàn thể Hội Thánh mừng lễ Đức Mẹ Maria lên trời. Cũng hôm nay, Dòng Thánh Gia tại Cần Xây, Long Xuyên, mừng 70 năm thành lập Dòng Thánh Gia Việt Nam. Nếu so sánh hai cái mừng trên đây, thì tất nhiên cái mừng thứ nhất là rất lớn lao, còn cái mừng thứ hai là rất bé nhỏ. Vì thế, tôi muốn đặt cái mừng thứ hai vào trong cái mừng thứ nhất, để nhờ Đức Mẹ, mà mọi người chúng ta nói chung và Dòng Thánh Gia nói riêng được vui mừng thực, vì biết đi đúng con đường dẫn về Quê Trời như Đức Mẹ Maria. Tất nhiên, chúng ta có quê hương dưới đất. Nhưng chúng ta còn có một quê hương khác. Quê hương này hoàn hảo hơn. Đó là quê trời. Chúng ta biết sự thực đó nhờ đức tin. Sự thực này đem lại cho chúng ta rất nhiều an ủi. Vậy, Đức Mẹ đã về quê trời nhờ con đường nào? Thưa nhờ con đường khiêm tốn. Sự khiêm tốn của Đức Mẹ được diễn tả qua một lời. Lời đó là xin vâng ý Chúa (Lc 1,38). Khiêm tốn xin vâng ý Chúa. Đó là nền tảng cuộc đời Đức Mẹ. Đó là hướng Đức Mẹ nhắm để đi về quê trời. Đó là ánh sáng giúp Đức Mẹ sống ơn gọi cao quí của mình. Trước hết, Đức Mẹ khiêm tốn xin vâng ý Chúa trong những đón nhận. Khi Đức Mẹ vừa nói lên lời xin vâng ý Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn sâu xa, thì lập tức lòng Đức Mẹ được mở ra, để đón nhận Chúa Thánh Thần, như Tổng lãnh Gáp-ri-en đã hứa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35). Từ giây phút đó Chúa Thánh Thần ngự trị khắp con người Đức Maria. Trí khôn, ý muốn, tình cảm, trí vẽ, trí nhớ, mọi cơ năng trong Đức Mẹ đều được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn. Nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ tin cậy vững vàng vào Thiên Chúa quyền năng và thương xót, cho dù trong những hoàn cảnh coi như bế tắc, như trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ tin vào mọi lời Đức Kitô dạy, mặc dù có những lời dạy coi như nghịch lý tự nhiên, như tám mối phúc, như tha thứ cho kẻ thù. Nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ cảm thương được nỗi đau của Thiên Chúa tình yêu, khi tình yêu này bị xúc phạm, bị chối từ. Nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ cảm được sâu sắc những thiệt hại kinh khủng của những người không được về quê trời, mà phải rơi vào vực thẳm trầm luân đời đời. Còn biết bao ơn khác, Đức Mẹ đã đón nhận được nhờ Chúa Thánh Thần ngự vào lòng Mẹ, khi lòng Mẹ được mở ra do chià khoá khiêm tốn xin vâng ý Chúa. Cũng chính nhờ vậy, mà Đức Mẹ sẵn sàng góp phần vào chương trình cứu độ. Trong mọi góp phần vào chương trình cứu độ, Đức Mẹ cũng vẫn khiêm tốn xin vâng ý Chúa. Ngoan ngoãn với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ góp phần vào chương trình cứu độ bằng những việc rất khiêm tốn như ý Chúa muốn. Khiêm tốn âm thầm như việc cầu nguyện, gẫm suy, chu toàn bổn phận thường ngày. Khiêm tốn ẩn dật như việc giữ kín ơn được vô nhiễm nguyên tội, ơn là Mẹ Thiên Chúa. Khiêm tốn nhẫn nhục như việc chia sẻ những đau đớn khổ nhục của Con mình. Khiêm tốn phục vụ như một người nữ tỳ. Không hề muốn được ra mặt và làm các việc như các tông đồ. Khiêm tốn quên mình, như việc Đức Mẹ để các thánh viết Phúc Âm ghi lại rất ít về Đức Mẹ. Nhất là từ khi Chúa Giêsu sống lại, Phúc Âm không còn nói gì tới Đức Mẹ; Mẹ qua đời ở đâu, qua đời năm nào, qua đời thế nào. Có thánh sự nào đã ghi lại đâu. Mẹ quên mình, Mẹ ẩn mình, để Hội Thánh tập trung vào một Thiên Chúa mà thôi. Trên đây, tôi vừa thoáng nhìn con đường Đức Mẹ đã đi để về quê trời. Như vừa thấy, con đường đó là con đường khiêm tốn vâng phục ý Chúa trong những đón nhận và trong những góp phần vào chương trình cứu độ. Hôm nay, khi mừng Đức Mẹ lên trời, chúng ta cũng mừng con đường tu đức đó của Mẹ. Mẹ đã đi con đường đó, thì chúng ta là con cái Mẹ cũng xin theo Mẹ đi vào con đường đó. Chúng ta coi lựa chọn đó là một danh dự, một hạnh phúc của ta. Trong suy tưởng như thế, tôi nghĩ về Dòng Thánh Gia Việt Nam. Tôi mừng cho Dòng vì sau 70 năm, hôm nay Dòng đã có nhiều phát triển. Phát triển về cơ sở, phát triển về học vấn, phát triển về nhân sự. Riêng về con đường tu đức như con đường của Đức Mẹ thì vẫn còn là một hy vọng sâu lắng, một mời gọi thiết tha. Nếu nhận thức được như vậy, thì đã là một việc khiêm nhường rất đáng mừng. Càng rất đáng mừng hơn nữa, nếu mọi người trong Dòng chúng ta hiểu được ơn gọi của mình như thánh Phaolô đã hiểu trong thư gởi Timôtê: “Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở nơi Đức Giêsu Kitô” (2Tm 1,9). Đó là một hiểu biết đầy khiêm tốn nhờ Chúa Thánh Thần. Với sự hiểu biết khiêm tốn này và trên con đường khiêm tốn của Đức Mẹ Maria luôn xin vâng ý Chúa, chúng ta sốt sắng cảm tạ Chúa, khi mừng 70 năm thành lập Dòng Thánh Gia Việt Nam. Chúng ta khiêm tốn cầu xin ơn được đi đúng con đường tu đức trong bậc thầy giảng. Con đường tu đức trong việc thầy giảng, nếu biết theo gương con đường tu đức của Đức Mẹ Maria, thì thực là danh dự, và hạnh phúc cho chúng ta. + Giám mục G.B. Bùi Tuần
Hôm nay, họ đạo nhà thờ chánh toà Long Xuyên mừng trọng thể lễ Bổn Mạng. Thực là một an ủi lớn cho họ đạo chúng ta, khi được Đức Mẹ làm Đấng Bổn mạng. Đức Mẹ đã rất thương họ đạo chúng ta bằng nhiều cách: Thương chung cộng đoàn, thương riêng từng gia đình và từng cá nhân. Mẹ đã sắp xếp, hướng dẫn, an ủi, đồng hành với các con cái Mẹ, khi sống và lúc lâm chung. Trước tình thương bao la của Đức Mẹ, mọi người chúng ta đều tỏ ra rất hiếu thảo mến yêu. Tôi thấy nhiều người, khi đi qua tượng Đức Mẹ cuối nhà thờ này, đã liếc nhìn lên Mẹ, và thầm chào kính Mẹ. Tôi chắc Đức Mẹ đã thấy, đã nghe, đã đón nhận từng tâm tình, từng cử chỉ, dù rất bé nhỏ, kính dâng lên Mẹ. Tôi thấy gia đình nào trong họ đạo chúng ta cũng đều trưng bày ảnh tượng Đức Mẹ, và siêng năng cầu nguyện trước Đức Mẹ với tất cả tấm lòng tin mến. Lúc này, nếu có ai hỏi tôi xem, Đức Mẹ mong muốn điều gì hơn hết nơi chúng ta, thì tôi xin phép Đức Mẹ trả lời: Hãy cầu nguyện siêng năng. Hãy cầu nguyện theo thánh ý Chúa. Thực vậy, siêng năng cầu nguyện, cầu nguyện theo thánh ý Chúa, đó là việc Đức Mẹ thực hiện suốt đời mình. Siêng năng cầu nguyện, cầu nguyện theo thánh ý Chúa, đó là nhắn nhủ mà Đức Mẹ đã gởi cho Hội Thánh, khi hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, và ở các nơi khác. Việc cầu nguyện là việc mọi người đều phải làm, và phải tập làm. Lời cầu nguyện, mà Đức Mẹ mong muốn nhất, là kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng. Xin anh chị em trung thành với việc lần chuỗi Mân Côi. Xin các bậc phụ huynh tập cho con em mình có thói quen đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, mọi người chúng ta rất cần cầu nguyện vắn tắt trong bất cứ lúc nào. Cầu nguyện bằng những lời vắn tắt phát ra tự đáy lòng mình. Nhất là tỏ bày với Mẹ tâm tình chúng ta khát kháo Chúa. Chẳng hạn như: “Xin Mẹ thương giúp con biết đón nhận Chúa vào lòng con. Xin Mẹ thương cầu bầu với Chúa đoái nhìn đến con. Xin Mẹ thương ban ơn hoà bình cho con, cho gia đình và quê hương con”. Tôi tin rằng: Đức Mẹ rất vui mừng nếu mỗi người chúng ta trở thành con người cầu nguyện. Tôi tin rằng: Đức Mẹ rất sung sướng, khi thấy mỗi người chúng ta trở thành đền thờ có Chúa ngự. Trong đền thờ này Chúa dạy dỗ ta và ta tâm tình với Chúa. Tôi có kinh nghiệm này là, những người siêng năng cầu nguyện theo thánh ý Chúa, thường toả ra một thứ hương thơm thiêng liêng. Đó là hương thơm của Đức Kitô. Hương thơm này có đặc điểm là yêu chuộng Lời Chúa và phép Thánh Thể, bác ái phục vụ, và kính trọng hiệp thông với những người đại diện Chúa. Hương thơm lạ kỳ này tự nó tạo nên một bầu khí thiêng liêng gợi ý cho người ta nâng tâm hồn lên những giá trị thiêng liêng cao cả. Những gì tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây sẽ giúp cho những giáo lý viên và các phụ huynh để ý nhiều hơn đến việc cầu nguyện, khi giáo dục các con em chúng ta. Mục đích đời ta là đến với Chúa. Mà muốn đến với Chúa, thì thuộc giáo lý mà thôi sẽ không đủ. Còn phải cầu nguyện. Cầu nguyện chuyên cần. Cầu nguyện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Cầu nguyện với tâm tình Đức Mẹ. Cầu nguyện đi theo việc hy sinh hãm mình, và công việc bác ái. Lúc này hơn bao giờ hết, tình hình cuộc sống đang đi vào những thử thách mới, trong đó các giá trị đạo đức đang bị Satan quấy phá một cách tinh vi. Trước một tình hình như thế, Đức Mẹ nhắn nhủ chúng ta hãy tăng cường cầu nguyện. Lời cầu nguyện của các em nhỏ luôn được Chúa đón nhận với lòng thương yêu. Lời cầu nguyện của những người ngoài công giáo cũng luôn được Chúa đáp lại với lòng thương xót. Tôi tin rằng Đức Mẹ Bổn Mạng họ đạo chúng ta sẽ làm nên những sự lạ lùng trong các tâm hồn. Để Nước Chúa mau đến. Xin tạ ơn Mẹ, Xin Mẹ cầu bầu cho tất cả chúng con. Đức Cha G.B. BÙI TUẦN
Mỗi khi dâng thánh lễ hoặc tham dự thánh lễ, tôi đưa Mình Thánh vào miệng và nuốt đi. Việc làm ấy cho phép tôi nghĩ rằng sống đạo chủ yếu là đón nhận Đức Kitô. Tôi thiết nghĩ đời sống tu đức không hệ tại ở sự tôi đã làm những gì cho Chúa cho bằng hệ tại ở sự tôi biết lãnh nhận những gì Chúa muốn làm cho tôi. Vì thế, sẽ rất là lạc lõng, nếu tôi cứ thống kê những gì tôi đã làm trong đời tôi, cho dù những việc đó là các bí tích, các việc truyền giáo, các bài giảng, các việc từ thiện. Điều căn bản của đời tôi là gặp gỡ Đức Kitô, là đón nhận Ngài vào con người của tôi, là để tinh thần Đức Kitô hướng dẫn đời tôi. Tinh thần Đức Kitô đã đến với tôi từ Kinh Thánh, từ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, từ đời sống cộng đoàn, từ những thánh giá, từ các biến cố và tiếp xúc, nhất là từ những kẻ đơn sơ bé mọn. Khi tôi đón nhận tinh thần Đức Kitô, thì tôi dần dần nhận ra dung mạo Ngài, và sau cùng tôi gặp được chính Ngài. Ngài vô hình, nhưng sự hiện diện vô hình của Ngài lại sống động hơn sự hiện diện hữu hình của các người xung quanh tôi. Khi gặp Ngài, tôi tự nhiên cảm thấy vừa muốn ở mãi gần Ngài, lại vừa muốn xa Ngài. Lúc đó, tôi nhớ lại lời Ngài đã phán xưa: “Thầy là thân cây nho, các con là ngành nho” (Ga 15,5). Lời ấy là một hình ảnh của sự hiệp thông mật thiết do Ngài nói ra. Chứ nếu Ngài không truyền bảo sự hiệp thông ấy, thì tôi cũng như thánh Phêrô xưa, sẽ xin Ngài lùi xa khỏi tôi, vì tôi tội lỗi, và vì tôi sợ phải nên giống Ngài ở những nét hy sinh quên mình, mà tự nhiên tôi rất ngại. Nhưng tôi tin rằng tình yêu của Ngài có sức cứu độ. Với tình yêu ấy, Ngài sẽ làm cho những gì là mầm móng sự chết trong tôi trở thành những mầm móng sự sống. Tôi phấn đấu để sống thân mật với Ngài. Và chính Ngài tích cực nuôi dưỡng mối tình thân mật giữa Ngài và tôi. Sống thân mật với Ngài phải là việc thường xuyên. Nhưng thường xuyên không có nghĩa là lúc nào cũng như lúc nào. Bởi vì mỗi ngày có những thời điểm mạnh, đó là giờ nguyện gẫm, giờ chầu Mình Thánh, giờ dâng thánh lễ. Trong những giờ phút trọng đại ấy, tôi cần cầu nguyện thực nhiều. Đối với tôi, cầu nguyện là nghe Chúa nói với tôi nhiều hơn là tôi nói với Chúa. Tôi có cảm tưởng là Chúa nói với tôi về tâm tình của Ngài đối với những người tội lỗi, túng nghèo, khổ đau, lầm lạc, nhiều hơn là về các mầu nhiệm cao sâu của riêng Ngài. Dần dần, qua những gặp gỡ Đức Kitô, tôi hiểu rằng: Nguồn cứu độ chính là Trái Tim Ngài đầy tình yêu thương xót. Ngài rất vui mừng thấy những ai tin vào tình yêu cứu độ của Ngài, và khiêm tốn đón nhận lòng thương xót của Ngài. Ngài mong muốn tôi mở rộng trái tim tôi, quét sạch nó khỏi mọi ý riêng, mọi vương vấn, để có thể đón nhận tối đa tình yêu cứu độ của Ngài. Ngài cho thấy, kẻ góp phần vào việc cứu độ cần một trái tim nhạy bén quảng đại hơn là một trí khôn sâu sắc. Nếu nơi họ đức tin chỉ là chấp nhận toàn bộ hệ thống chân lý do Hội Thánh dạy, thì một đức tin như vậy sẽ mau trở thành một kho tàng, chứ không phải là một sự sống. Đức tin ấy là đức tin tủ lạnh. Trái lại nếu nơi họ đức tin là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động, chia sẻ tình yêu cứu độ của Ngài, thì một đức tin như vậy sẽ là đức tin lò lửa. Gặp gỡ Đức Kitô, tôi thấy sự khôn ngoan của Ngài luôn qui hướng về sự tuân phục thánh ý Chúa Cha. Trái Tim Ngài có những lựa chọn táo bạo đớn đau, chỉ vì Ngài muốn làm chứng lòng Ngài mến Chúa Cha và thương xót loài người. Từ đó tôi hằng xin Ngài đổi mới trái tim tôi, xin cho trái tim tôi trở nên giống Trái Tim Ngài. Và cũng từ những gặp gỡ với Đức Kitô, tôi thấy trong việc huấn luyện bản thân tôi và các môn đệ Chúa, cần nhấn mạnh nhiều đến việc giáo dục trái tim. Thời nay, người ta cần đối thoại với nhau bằng trái tim hơn là bằng lý lẽ. Trái tim nào có tình yêu cứu độ không biên giới sẽ là kẻ thắng. Bởi vì Chúa ở với họ. Chúa sẵn sàng chia sẻ cho chúng ta tình yêu ấy, miễn là chúng ta biết đón nhận tình yêu của Ngài.
Đã bao lần tôi giới thiệu Đức Kitô với cộng đoàn: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Khi nói lời ấy, tôi tin tưởng mọi tội trần gian sẽ được Đức Kitô xoá đi, nếu người ta sám hối. Tôi cũng xin Chúa đổ hết mọi lỗi lầm của đoàn chiên tôi vào một mình tôi, để Chúa xoá đi tất cả, cho dù việc xoá đi như vậy sẽ bắt tôi phải khổ. Bởi vì tội là một thực tại ghê gớm. Khổ đau đời môn đệ Chúa là những cơ cực câm nín. Đôi khi tôi muốn nói ra. Nhưng khi tôi muốn diễn tả những khổ đau ấy, thì chúng bỗng biến thành tình yêu. Và khi tôi muốn kể lại tình yêu ấy, thì đột nhiên nó trở thành những đau khổ. Tôi không phân tách làm gì. Cũng không tìm hiểu tại sao. Tôi chỉ biết rằng Chúa muốn người môn đệ Chúa phải là thế. Và tôi cố gắng là thế. Tôi thấy Đức Kitô, từ Bêlem đến Canvariô, đã luôn luôn gánh tội trần gian và xoá tội trần gian. Tôi bước theo Ngài. Và Ngài chia sẻ cho tôi một chút đời Ngài. Chút đời Đức Kitô mà tôi lãnh nhận vẫn mang trọn vẹn ý chí vâng phục thánh ý Chúa Cha, và vẫn mang trọn vẹn thân phận người đầy tớ Đức Giavê mà tiên tri Isaia đã báo trước. Khi mang mảnh đời của Đức Kitô trong mình, tôi cảm được tình liên đới cứu độ giữa Đức Kitô và những kẻ bị loại trừ do bất cứ nguyên nhân nào. Đau khổ nhất là cảm tưởng bị chính Chúa Cha loại trừ: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ Con” (Mt 27,46), Đức Kitô là kẻ như bị mọi phía loại trừ. Ít ngày trước biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Đức Cha Micae đã đến phòng tôi, Ngài cho biết: Đức Thánh Cha bổ nhiệm tôi làm giám mục phó Long Xuyên. Tôi bàng hoàng, lo sợ. Bị chỉ định trong một tình hình hết sức nặng nề, tôi cúi đầu xin vâng. Hôm đó là ngày thứ sáu, và lúc đó là 3 giờ chiều. Tôi nhớ tới thánh lễ Chúa Giêsu đã dâng trên thánh giá. Sự người môn đệ Chúa cộng tác vào thánh lễ Chúa Giêsu để gánh tội và xoá tội cho đoàn chiên là việc không đơn giản. Bổn phận ấy sẽ thực hiện không phải chỉ bằng các phép bí tích và lời cầu nguyện, nhưng còn bằng những phấn đấu thường xuyên suốt cuộc đời. Mọi nơi, mọi lúc, mình phải gánh tội cho đoàn chiên. Mình phải đền tội cho đoàn chiên. Mình phải xoá tội cho đoàn chiên. Mình phải tha tội cho đoàn chiên. Mình phải hy sinh cho đoàn chiên. Những tâm tình như thế cứ thấm mãi vào tôi, từ lớp nhận thức, đến lớp tiềm thức, tận sâu vào lớp vô thức, để toàn thân tôi được hy vọng trở thành thánh lễ suốt cuộc đời. Thánh lễ cuộc đời không chỉ thu gọn vào các tâm tình và các chịu đựng, nhưng còn đòi những việc cho đi, nhất là sự tha thứ và sự hoà giải. Sẽ là gương xấu, nếu tôi không ngại tha các tội người ta phạm đến Chúa, nhưng lại rất khó bỏ qua những lỗi người ta phạm đến tôi. Sẽ là phản chứng, nếu tôi rao giảng sự hoà giải Phúc Âm, nhưng tôi lại không thực hiện sự hoà giải ấy. Sẽ là nhục nhã cho tôi, nếu tôi “bị” khen là một bản lãnh cứng, bất khuất, không dễ chấp nhận những sự khác biệt. Là môn đệ Chúa, tôi phải biết thua để Chúa thắng. Có những cái thua mang ý nghĩa cứu độ. Kinh nghiệm cho tôi thấy trong việc xoá tội, tôi cần phải để ý đến việc xoá những mặc cảm do tội gây nên, và những mặc cảm dẫn tới tội lỗi. Nhiều sự nhục mạ, kết án và thái độ khinh khi đã chém chết mọi hy vọng vươn lên, đẩy người ta vào nỗi khổ tinh thần không thể mờ phai. Tôi sẽ không lấy làm lạ, nếu ứng nghiệm nơi các môn đệ Chúa lời ngôn sứ Isaia: “Ngài đã mang lấy các tật nguyền của chúng ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của chúng ta” (Mt 8,17). Tôi vẫn thích nói với mọi tội nhân lời Đức Kitô xưa đã nói với người phụ nữ ngoại tình: “Cha không kết án con. Con hãy về bình an” (Ga 8,11). Tôi cảm thấy sung sướng, mỗi lần được lặp lại lời Đức Kitô: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,32). Đang khi tôi tự nguyện theo chân Đức Kitô, chia sẻ với Ngài việc gánh tội, đền tội, xoá tội, và tha tội cho trần gian, thì tôi không quên sự Hội Thánh nó chung và cộng đoàn tôi nói riêng cũng đã tích cực gánh tội của tôi, đền tội vì tôi, xoá tội cho tôi và tha tội cho tôi. Tôi nhận thức rất rõ về sự thực ấy. Với tất cả tấm lòng con thảo, hiệp thông với tâm tình Đức Mẹ, tôi dâng lên Chúa lời kinh Tạ ơn Đấng xoá tội trần gian.
Mấy chục năm dài tôi cặm cụi học các môn đạo, như Kinh Thánh, tín lý, luân lý, giáo luật, giáo phụ, giáo sử. Những kiến thức ấy rất cần cho tôi. Tôi có cảm tưởng chúng là những viên gạch, giúp tôi xây toà nhà đức tin trong tôi. Toà nhà thực nguy nga lộng lẫy. Nhưng nếu chỉ có thế, tôi thấy vẫn thiếu một cái gì. Tôi cảm thấy vắng lạnh. Chỉ khi tôi gặp được Thiên Chúa, tôi mới thấy toà nhà sáng lên và ấm áp. Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ hiện như một Chân Lý Tình Yêu toả ra ánh sáng và sự sống. Ánh sáng không thể dồn vào một chỗ. Trong vườn có thể dành chỗ này cho cây này, chỗ kia cho cây kia, nhưng không thể dành một chỗ riêng cho ánh sáng. Ánh sáng bao phủ tất cả. Sự sống cũng thế. Trong tôi không có một chỗ nào riêng cho sự sống. Sự sống chan hoà khắp con người tôi. Tôi cảm thấy Thiên Chúa Ba Ngôi tương tự như thế trong tôi. Khi tôi tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất”, thì tôi tin có Thiên Chúa, nhưng nhất là tôi tin vào Thiên Chúa. Niềm tin của tôi là một cuộc xuất hành. Tôi ra khỏi tôi. Tôi đi vào tình yêu Thiên Chúa. Tôi mở hồn tôi ra. Tôi đón Ngài vào. Tôi hiệp thông với Ngài. Tôi sống với Ngài một cách đơn sơ như thể trẻ thơ với mẹ mình. Trẻ thơ có thể không biết tên mẹ, lý lịch của mẹ, thậm chí có những tháng nó chưa biết gọi tên mẹ. Nó chỉ nhìn mặt mẹ. Nó chỉ nghe tiếng mẹ. Nó chỉ tìm tay mẹ. Nó chỉ bú sữa mẹ. Tất cả vũ trụ của nó là mẹ của nó. Nó sung sướng trong vũ trụ ấy. Nó lớn lên được nhờ sự sống mẹ, trong sự sống mẹ. Và chỉ thế thôi, nó làm cho mẹ nó vui mừng hạnh phúc. Tôi nghĩ sự sống đức tin cũng phải như thế. Chủ yếu là hiệp thông với Thiên Chúa, là sống trong sự sống Thiên Chúa. Vì thế, tôi cho là rất cần thiết phải để ý đến tu đức, tĩnh tâm, cầu nguyện, chu toàn bổn phận. Đồng thời cũng phải quan tâm đến bác ái phục vụ con người, nhất là gần gũi những người bị xã hội và cuộc sống loại trừ. Bởi vì đó là những môi trường tôi thấy dễ đón nhận được ơn Chúa một cách dồi dào, để gắn bó mật thiết với Chúa. Đôi khi tôi tưởng rằng nếu tôi lỡ phạm tội vì yếu đuối, thì Chúa sẽ xa tránh tôi, sẽ hắt hủi tôi. Thực tế không xảy ra như thế. Khi tôi vừa lỡ lầm thì Chúa xuất hiện. Ngài nhìn tôi. Cái nhìn của Ngài lúc ấy rất khác cái nhìn của phần lớn nhân loại. Cái nhìn của họ dễ bắt bẻ, bới móc, xoáy kẻ phạm tội vào mặc cảm, đóng đinh nó vào định kiến. Còn cái nhìn của Chúa hết sức nhân từ, có sức giải thoát giúp tôi thống hối trở về. Thánh Phêrô xưa đã có kinh nghiệm về cái nhìn đầy lôi cuốn ấy trên sân thầy cả thượng tế. Tôi không thể không mãi mãi nghĩ Thiên Chúa là Cha rất nhân từ. Tôi nghĩ như thế. Tôi tin như thế. Và tôi đã cảm nghiệm đúng là như thế. Thiên Chúa có trái tim đầy tình xót thương. Ngài đi tìm con chiên lạc. Khi tìm gặp nó, Ngài quá thương nó, đến nỗi vác nó trên vai, mở tiệc ăn mừng. Bao lần, tôi có cảm tưởng mình đã là con chiên “hạnh phúc” ấy. Thế thì làm sao tôi dám nói khác về Ngài. Tin mừng lớn nhất tôi đã nhận được, đó là tôi được Thiên Chúa yêu thương . Ngài thương tôi trước khi tôi thương Ngài. Ngài đi tìm tôi, khi tôi xa Ngài. Ngài trung thành với tôi, cả khi tôi lỡ bất trung với Ngài. Tôi sẽ mãi mãi ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa. Tôi sẽ không ngừng rao giảng Tình Yêu Thiên Chúa. Tôi sẽ luôn luôn gắn bó với Tình Yêu Thiên Chúa. Tôi sẽ luôn luôn cố gắng sống theo thánh ý Thiên Chúa: Mến Chúa hết lòng và yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương tôi. Đó là đời sống đức tin của tôi, một đức tin người con bé nhỏ của Thiên Chúa là Cha tình yêu thương xót. Đức Giám Mục G.B. Bùi Tuần
Con người không là loài chim, nhưng vẫn bay đi. Trí khôn bay đi bằng các tư tưởng. Ý chí bay đi bằng những ước muốn. Trí vẽ bay đi bằng các hình ảnh. Tình cảm bay đi bằng các rung động. Mọi người đều thế. Nhưng khác nhau ở chỗ bay về đâu. Riêng môn đệ Chúa sẽ bay theo Chúa Thánh Linh. Ngài đã tỏ hiện dưới hình chim Bồ Câu. Như nói lên đặc điểm của Ngài là bay. Sức bay mà Ngài cho họ không phải chỉ là một hệ thống thần học đúng đắn, mà chủ yếu là sức sống phát ra từ chính Ngài. Sức sống ấy chắp cánh cho họ. Đôi cánh Ngài cho họ là sự khiêm tốn biết mình và lòng đơn sơ phó thác. Với đôi cánh này, họ bay theo Ngài. Bầu trời mà Ngài dẫn họ vào là vũ trụ của những kỳ công thiêng liêng mà chỉ những linh hồn đơn sơ bé mọn mới được Ngài mạc khải cho. Họ yếu đuối, nhưng bay không mệt mỏi, để loan truyền Thiên Chúa là Tình Yêu. Họ nói về Chúa không phải chỉ bằng các ngôn từ, trích từ các sách, các kinh, mà nhất là bằng sự ứng nghiệm của Lời Chúa trong đời họ, qua các kinh nghiệm sống của họ. Thiên Chúa của họ là Đấng họ đã gặp rồi, chứ không phải là Đấng mà họ đã được học qua các trường lớp. Họ kể lại cách Chúa đi vào đời họ. Họ tả lại dung mạo của Chúa. Họ là những chứng nhân. Họ làm chứng về sự cứu độ của Đức Kitô. Chỉ có Đức Kitô là Đấng cứu chuộc loài người. Ngài là trung tâm điểm lòng họ. Chính nhờ đi theo Ngài qua con đường thánh giá mà họ được tái sinh và phục sinh. Họ làm chứng về sự đổi mới đích thực, đó là sự các tâm hồn được Kitô hoá nhờ Thánh Linh. Họ cho thấy lễ Chúa Thánh Linh hiện xuống là chính hôm nay tại nơi họ đang sống. Như các tông đồ xưa sau khi được Chúa Thánh Linh đổi mới, đã ra đi, như bay qua mọi biên giới, thì nay họ cũng ra đi. Họ là các tông đồ không biên giới. Họ làm chứng về sự cầu nguyện. Họ là những người cầu nguyện, luôn luôn dựa vào Lời Chúa và qui hướng về thánh ý Chúa. Chính Thánh Linh cầu nguyện với họ và trong họ. Lời cầu của họ là lời nguyện tiên tri. Họ nói với Chúa và nghe Chúa nói về các công trình tương lai của Chúa. Các công trình ấy là sự Hội Thánh nơi này nơi no đang chuyển mình đổi mới, là sự nhân loại đó đây đang bước vào con đường trở về, là sự Nước Trời đang đến với các tâm hồn thiện chí không phân biệt ranh giới. Họ làm chứng về sự tự do tâm hồn. Tâm hồn họ tự do trong các lựa chọn. Cho dù họ bị đóng đinh chân tay vào thánh giá như Chúa Giêsu, họ vẫn giữ được tâm hồn tự do: Tự do mến Chúa, tự do yêu người, tự do hiến tế mình, tự do vâng phục và phó thác mình cho Chúa. Các môn đệ Chúa phải là những con chim đầu đàn trong một địa phương. Họ cần nhận thức điều đó. Họ phải bay đi, và phải bay đúng hướng, theo đường bay Chúa Thánh Linh.
Bay theo Chúa Thánh Linh là bay về hướng Nước Trời. Nước Trời là tình yêu Chúa Ba Ngôi vô cùng bao la và sâu thẳm. Để vào đó, người ta phải bước theo Đức Kitô, cùng với Ngài sống, nói và làm mọi sự theo ý Chúa Cha dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nước Trời là trung tâm đời sống tâm linh của họ. Họ khát khao Nước Trời. Họ tìm kiếm Nước Trời. Họ đón nhận Nước Trời vào lòng họ. Họ rao giảng về Nước Trời. Khi việc tìm kiếm Nước Trời khởi đi bằng sự bước theo Đức Kitô trên con đường vâng phục, để cùng với Ngài, tham gia vào sự sống Thiên Chúa, thì việc tìm kiếm như vậy tất nhiên đòi hỏi rất nhiều phấn đấu. “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 1,24). Khi Nước Trời cũng được hiểu như là nơi, mà Thánh Linh đào tạo, thanh luyện, hướng dẫn, chữa trị, đổi mới, thì tất nhiên nơi đó cũng đòi hỏi một tinh thần kỷ luật gắt gao, nhất là kỷ luật về thinh lặng cầu nguyện. “Khi cầu nguyện, con hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha của con. Ngài hiện diện nơi kín đáo. Cha của con, Đấng thấu suốt mọi sự những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,6). Những phấn đấu ấy, những kỷ luật ấy là những cố gắng dứt lìa những gì lôi kéo con người xa đàng tà, để đưa họ quay trở về đàng thiện. Phải nói đó là những việc rất khó. Phải có ơn Chúa Thánh Thần. Trên thực tế Chúa Thánh Thần luôn ban ơn nâng đỡ cho những ai khiêm tốn thực sự muốn đón nhận Chúa. Ngài sẽ giúp cho sự tự do của họ biết hiểu ý Chúa và những gì Chúa muốn. Mấy ngày qua, dịp Vu Lan, tôi thấy địa phương tôi như bao phủ một bầu khí Nước Trời. Khắp nơi, từ cá nhân đến gia đình, mọi người mọi nhà đều cầu nguyện, giữ chay, lo làm việc từ thiện, nhớ về những người quá cố. Những đồng bào thân mến của tôi đây là những người không phải là công giáo. Sự kiện này khiến tôi suy nghĩ nhiều về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong lịch sử đất nước và nơi bao người thiện chí ngoài Hội Thánh Công giáo. Lúc này hơn bao giờ hết, người môn đệ Chúa cần thực hiện sự tỉnh thức, mà Chúa nhắc bảo nhiều lần trong Phúc Âm “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Chính bản thân mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, hãy biết làm gương “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” một cách thực sự ưu tiên, chân thành (Mt 6,33). Nếu không, những hậu quả của sự sa sút đạo đức sẽ xảy đến, như Chúa và Đức Mẹ đã cảnh báo.
Trong đời sống đạo, người tín hữu phải chiến đấu rất nhiều để luôn giữ được lòng trung thành với Chúa. Nhưng không phải chiến đấu nào cũng tốt. Bởi vì có những chiến đấu sai và có những chiến đấu đúng. Xin phép nêu lên một ví dụ. Đó là trường hợp thánh Phêrô. Chúa Giêsu, trước giờ bước vào cuộc tử nạn, đã nói với các môn đệ: “Đêm nay tất cả các con sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: ‘Họ sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác’... Ông Phêrô liền thưa: ‘Dầu tất cả sẽ vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,31-33). Phêrô nói như thế một cách cương quyết với niềm kiêu hãnh. Ngài tự phụ sẽ chiến thắng được mọi trở ngại bất cứ từ đâu tới, để trung thành với Chúa. Với lòng tự phụ đó, khi thấy quân quốc kéo tới bắt Thầy mình, Phêrô đã tuốt gươm ra chém đứt tai người đầy tớ thầy cả thượng phẩm (Mt 26,51). Thế nhưng, chỉ sau đó vài giờ, khi thấy Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh đập, bị nhục mạ, bị kết án. Và khi thấy mình có thể bị liên can, Phêrô đã chối Thầy: “Tôi không biết người đó” (Mt 26,69-76). Ngài nói câu đó đến ba lần. Sự kiện chối thầy một cách mạnh mẽ ngon lành như thế chứng tỏ sự trung tín của ngài đã sụp đổ. Trước đây niềm tin trung thành nơi ngài được coi như toà nhà vững chắc, kiên cố, cao đẹp, hùng vĩ. Nhưng chỉ đụng vào một thử thách nhỏ, toà nhà đó đã phơi bày sự mong manh của mình. Lý do là sự chiến đấu của Phêrô đã dựa vào lòng kiêu hãnh và ý riêng của chính mình, chứ không khiêm tốn dựa vào ơn Chúa và thánh ý Chúa. Chiến đấu này là chiến đấu sai. Cũng may, đó chỉ là một bài học. Chúa Giêsu vẫn còn thương Phêrô. Khi bị điệu đi qua sân, Chúa Giêsu đã ngoảnh mặt lại nhìn Phêrô. Cái nhìn âu yếm đầy tình xót thương của Chúa đã đánh thức lương tâm Phêrô. Phêrô trở nên khiêm tốn, nhận biết mình qúa yếu đuối. Ngài đón nhận ơn Chúa để thống hối ăn năn và cầu nguyện. Ngài chiến đấu bỏ ý riêng mình vàlòng kiêu ngạo. Chiến đấu này là chiến đấu đúng. Từ đó, Phêrô không những tin mà còn cảm nghiệm được một cách sâu sắc lời Chúa phán: “Không có Thầy, chúng con không thể làm gì được” (Ga 15,5). Niềm tin này và sự cảm nghiệm này đã là một động lực thường xuyên thúc đẩy Phêrô năng cầu nguyện sám hối. Và càng cầu nguyện sám hối, Phêrô càng thấy ứng nghiệm lời Chúa hứa: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Từ những kinh nghiệm thường xuyên đó, người tông đồ xác định: Trong mọi chiến đấu cho đức tin và đức ái, thì phấn đấu bằng cầu nguyện sám hối là quan trọng nhất. “Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn sám hối. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2Pr 3,8-10). Những gì đã xảy ra cho thánh Phêrô và những gì thánh Phêrô khuyên dạy chúng ta trên đây đáng được chúng ta quan tâm suy nghĩ. Nhất là trong một tình hình phức tạp, làm cho nhiều người lạc hướng. Mong rằng mọi người chúng ta đều có thể là ông Ê-páp-ra mà thánh Phaolô khen ngợi trong thư gởi giáo đoàn Cô-lê-xê: “Ông là người không ngừng chiến đấu cho anh em bằng lời cầu nguyện, để một khi đã trưởng thành và hoàn toàn vâng theo ý Chúa trong mọi sự, anh em được đứng vững” (Cl 4,12). Đứng vững trong đức tin, nhất là đứng vững trong đức bác ái là điều không dễ chút nào. Hãy cầu nguyện rất nhiều và hãy cầu nguyện theo thánh ý Chúa. Hãy sám hối rất nhiều và hãy sám hối với tinh thần tiết độ. Tất nhiên cầu nguyện và sám hối sẽ không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết mọi khó khăn trong cuộc sống, nhưng dứt khoát, đó là những khí giới tuyệt đối cần thiết trong cuộc chiến đấu cho đức tin và đức ái: “Tôi xin anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho tôi” (Rm 15,30). Kinh nghiệm cho thấy: Tại Việt Nam hôm nay, nhiều người vẫn thường xuyên cầu nguyện xin ơn vâng phục thánh ý Chúa, và thường xuyên sống tinh thần tiết độ tỉnh thức như một cách sám hối. Họ được Chúa thu hút vào sự dấn thân làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách. Cách dễ thấy nhất và cũng hấp dẫn nhất là thực thi ba bài học Đức Kitô đã dạy trong những giờ sau hết: Một là bài học rửa chân cho các môn đệ. Nghĩa là phục vụ lẫn nhau một cách khiêm nhường (Ga 13,12-17). Hai là bài học về điều răn mới: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Nghĩa là yêu thương đến hy sinh chính mình một cách vị tha. Ba là bài học về tha thứ: “Lạy Cha, xin tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Nghĩa là sống nhân hậu một cách quảng đại. “Không lấy ác báo ác. Không dùng lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa. Nhưng trái lại hãy chúc phúc” (1Pr 3,8). Họ thực thi ba bài học trên đây không do sức riêng mình, nhưng do sức Chúa. Vì Chúa Thánh Thần ngự trị trong họ. Nhờ những người biết chiến đấu như thế, mà Nước Trời đang được biết bao đồng bào Việt Nam nhận ra, mến yêu và đón nhận.
Hôm nay, chúng ta mừng kính các Tổng lãnh thiên Thần: Micae, Raphae và Gabrie. Thực tình mà nói: Chúng ta biết rất ít về thế giới các thiên thần. Tổng số các thiên thần là bao nhiêu? Phẩm trật các thiên thần là thế nào? Những vấn đề đó xem ra chúng ta không thể nào rõ, và thiết nghĩ chúng ta cũng chẳng nên tò mò tìm hiểu làm gì. Chúng ta chỉ được thấy các hình vẽ và các tượng thiên thần, do người ta sáng tác ra mà thôi. Chúng ta cũng thường được nghe người ta nói sắc đẹp thiên thần là tuyệt vời. Tất cả các vẻ hữu hình đó đều là những gợi ý cho những thực tại vô hình. Tuy nhiên, dựa trên Kinh Thánh, chúng ta tin các thiên thần là những đấng thiêng liêng rất gần gũi chúng ta. Nhiều vị trong các đấng ấy được Chúa sai đến với loài người, để giúp đỡ loài người biết đường ăn ngay ở lành, chọn điều tốt tránh điều ác. Kinh Thánh cho thấy nhiều người đã được nhìn thấy thiên thần hiện ra, nhiều người đã được nói chuyện với các thiên thần. Tôi nghĩ là chưa ai trong chúng ta đây đã được ơn đó. Nhưng không phải vì thế, mà chúng ta tưởng rằng chúng ta là những kẻ xa lạ đối với các thiên thần. Nếu có xa lạ, thì chính là chúng ta. Chính chúng ta không nhớ mình được các thiên thần che chở. Chính chúng ta không nhớ siêng năng cầu nguyện với các thiên thần xung quanh ta. Chính chúng ta không nhớ vâng lời và cộng tác với các thiên thần. Chính chúng ta không nhớ cảm ơn các thiên thần. Tôi có cảm tưởng các thiên thần là những ân nhân rất gần gũi, nhưng thường bị bỏ quên. Tôi thí dụ. Ngay tại đây, tôi thấy hằng ngày biết bao nhiêu người làm việc. Có khi họ cùng làm những việc như nhau. Nhưng tinh thần khi làm việc thì lại khác nhau. Người thì làm vì mưu tìm lợi lộc, cạnh tranh, người thì làm vì mục đích phô trương. Nhưng có người làm với tinh thần cầu nguyện, đền tạ, bác ái, thờ phượng Thiên Chúa. Tinh thần đạo đức này là do thiên thần soi sáng thúc giục âm thầm bên trong tâm hồn. Tâm hồn họ cởi mở khiêm tốn đã biết lắng nghe và ngoan ngoãn vâng theo. Cho dù cuộc sống họ chỉ là lặp đi lặp lại những công việc bình thường, nhưng làm với tinh thần đạo đức, thì cuộc đời họ sẽ là một chuỗi những thánh lễ cao quí. Các thiên thần không ngừng từ trời xuống với họ, rồi lại đem các lễ vật của họ lên trời dâng cho Thiên Chúa. Thực các ngài là những ân nhân rất gần gũi, nhưng nhiều người đã không để ý. Đọc Phúc Âm, tôi thấy nhiều trường hợp các thiên thần đã được Chúa sai đến với người nọ người kia, chỉ với mục đích ủi an, giúp họ an tâm. Thí dụ khi thiên thần hiện ra với thầy cả thượng phẩm Giacaria, thì lời đầu tiên nói với ông là: “Xin ông đừng sợ” (Lc 1,13). Khi Đức Tổng Lãnh thiên thần Gabrie hiện ra với Đức Mẹ thì cũng đã nói với Đức Mẹ: “Xin Bà đừng sợ” (Lc 1,30). Khi thiên thần hiện ra với mấy phụ nữ đến mồ táng xác Chúa Giêsu, thì cũng nói “Xin các bà đừng sợ” (Mt 28,4). Tôi có cảm tưởng là những trường hợp tương tự như trên cũng đã xảy ra cho nhiều người chúng ta. Chúa an ủi chúng ta, Chúa khích lệ chúng ta. Hoặc trực tiếp bởi các thiên thần vô hình. Hoặc gián tiếp qua những gặp gỡ, giao tiếp với người nọ người kia. Nhất là trong trường hợp chúng ta gặp những bất ngờ, những sự coi như nghịch lý, nhưng do Chúa sắp xếp và quyết định. Hiện nay, nhân loại đang sống trong một tình hình rất đáng sợ do hiểm hoạ chiến tranh. Đó là tình hình chung. Thêm vào tình hình chung đó, mỗi cá nhân chúng ta và mỗi gia đình chúng ta cũng có nhiều điều đáng sợ riêng. Như sự túng thiếu, sự không có công ăn việc làm, sự cô đơn, tình cảnh bệnh nạn, sự thiếu hoà thuận, sự thất vọng, sự rạn nứt hoặc tan rã trong gia đình vv... Trước tình hình này, tôi xin anh chị em hãy khiêm tốn nhìn lên Chúa, và hãy cầu nguyện với Đức Mẹ và các thiên thần. Để dưới ánh sáng đức tin, khi chúng ta biết nhận ra sự mong manh của các thần tượng con người làm ra, chúng ta cương quyết đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, cương quyết đón nhận Chúa vào ngự trị hoàn toàn trong lòng ta, cương quyết sống theo thánh ý Chúa một cách trọn vẹn. Được như vậy, dù trong một tình hình có nhiều sợ hãi, chúng ta vẫn giữ được tâm hồn bình an tin tưởng và yêu thương, một sự bình an tin tưởng và yêu thương sâu thẳm, mà các thiên thần gửi tới cho chúng ta là những người tin mến Chúa.
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần. Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm. Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima. Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên. Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều: Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối. Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây. Cầu nguyện. Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến. Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế. Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì. Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu. Ăn năn sám hối. Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16). Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22). Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi. Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người. Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời. Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn. Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin. Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta. Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối. *** Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
Suốt tuần qua, tôi đi nhiều nơi trong giáo phận, để tham dự cuộc tĩnh tâm hàng tháng dành cho các linh mục tu sĩ. Ở đâu, tôi cũng được nghe tâm sự về truyền giáo. Tới đâu, tôi cũng được thấy những công trình truyền giáo. Những gặp gỡ này cho tôi cảm tưởng là tôi đang ở trong bầu khí truyền giáo, trong luồng gió truyền giáo, trong dòng nước truyền giáo. Tôi thao thức hỏi mình: Trong tình hình đang có nhiều chuyển biến này, việc truyền giáo nên cứ như cũ, hay nên thêm bớt? Ý Chúa là thế nào? Tôi suy nghĩ và tìm tòi. Trưa thứ sáu, ngày 05 tháng 10 vừa qua, tôi kết thúc chuyến đi. Vừa tới nhà, tôi lợi dụng chút thời giờ rảnh, để theo dõi tin tức thời sự và tìm thư giãn. Mở một đài truyền hình địa phương, tôi thấy đài đang chiếu một cảnh sa mạc Bắc Phi, một vùng Hồi giáo. Người thuyết minh giải thích đó là nơi Charles de Foucauld đã từng sống. Nghe vậy, tôi ngỡ ngàng, tưởng mình nghe lầm. Một lát sau, tôi thấy chiếu ảnh cha Charles de Foucauld. Y phục cha mặc là y phục kẻ nghèo. Nhà cha ở là căn nhà nghèo. Dân chúng xung quanh cha là những người nghèo. Ảnh đó không xa lạ gì đối với tôi. Bởi vì đã từ lâu, tôi có hàng trăm ảnh đó trong phòng. Đúng là đài truyền hình đã chiếu một mảnh đời cha Charles de Foucauld. Đối với tôi, đây là một cách chia sẻ Chúa dành cho tôi, đang lúc tôi băn khoăn về truyền giáo. Tôi nghĩ: Tình hình càng phức tạp, càng nên đẩy xa hơn việc truyền giáo. Để đẩy xa hơn việc truyền giáo, tôi nhìn cha Charles và tôi thấy gương sáng của cha gợi ý cho tôi hiểu: Cần phát triển thêm một yếu tố. Yếu tố đó là lửa yêu mến trong lòng mình. Khi lửa yêu mến Chúa cháy rực trong lòng ta, ta sẽ chỉ mong muốn sống theo thánh ý Chúa, như lời kinh sau đây của cha Charles: “Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha, nên con thấy cần phải hiến thân con trọn vẹn trong tay Cha... Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha... Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn là ý Cha được trọn vẹn trong con, trong tất cả mọi loài Cha tạo dựng” (trích kinh cha Charles đọc thường ngày). Nhưng làm thế nào để thắp lên được ngọn lửa mến Chúa trong lòng ta, để rồi ta dám hiến thân trọn vẹn cho Chúa và thực sự sẵn sàng làm bất cứ sự gì Chúa muốn ta làm? Thưa: Mỗi người có thể nhận được lửa mến Chúa một cách riêng biệt. Phần tôi, tôi xin phép giãi bày: Tôi nhận được lửa mến Chúa qua nhiều con đường khác nhau, nhưng nhất là con đường đơn sơ này, đó là năng cầu nguyện với Đức Mẹ bằng kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi càng cầu nguyện với ý thức mình tội lỗi, thì Đức Mẹ càng cầu bầu cho tôi được thêm ơn trở về gắn bó với Chúa. Từ đó, tôi có cảm nghiệm càng ngày càng sâu hơn về tình Chúa xót thương dành cho những kẻ yếu đuối, lầm lạc, tội lỗi. Chính qua con đường này mà lửa yêu mến được thắp lên, một đàng là kính mến Chúa, một đàng là yêu thương những người khốn khổ. Như vậy, người thắp lên lửa mến trong tôi là chính Đức Mẹ. Mẹ đốt lửa, khi lòng tôi cầu nguyện. Cầu nguyện với tâm tình nghèo khó, từ bỏ ý riêng. Từ đó, Mẹ đưa tôi trở về con đường sống theo ý Chúa Cha. Ý Chúa Cha, mà tôi thấy rất rõ hiện nay là muốn chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách bắt chước Đức Kitô, nhất là ở điểm này: Hội nhập vào thân phận những kẻ nghèo. Thực vậy, Đức Kitô đã sống nghèo, giữa dân nghèo. Ngài sống gần gũi họ, để phục vụ yêu thương họ, chia sẻ hy vọng với họ, khám phá ra nơi họ những tiềm năng cứu độ. Hôm nay, lớp dân nghèo nhiều nơi trên thế giới vẫn còn bị ba nguy cơ đe doạ: Bị khai thác, bị loại trừ, bị huỷ diệt. Đang khi đó, tội ác lại thường không ở phía họ, mà ở phía những quyền lực tăm tối. Một thí dụ: Mỗi ngày có từng trăm thai nhi bị giết. Đó là những cuộc khủng bố xảy ra ở nhiều nước văn minh giàu có. Trước tình hình này, Chúa Cha sai chúng ta đi. Nhiều người đã nhận ra được tiếng Chúa sai đi. Họ đã ra đi. Họ đã gặp được Đức Kitô đang đau khổ cùng với đám dân nghèo khổ, bất kể là công giáo hay ngoài công giáo. Với những phương tiện nghèo, họ đã cùng với Chúa dần dần đem Tin Mừng vào lòng những người nghèo. Để rồi, những người nghèo sẽ đóng một vai trò đáng kể trong việc làm mới lại bộ mặt địa cầu. Ngay bây giờ, bao người nghèo đang dạy chúng ta nhiều bài học đạo đức quí báu. Đến lượt những người nghèo này, họ lại ra đi, mang theo lửa thiêng của Chúa. Nhưng lửa đó cần được thêm nhiều hơn nữa, cả nơi họ, cả nơi chúng ta. Thêm lửa mến Chúa. Thêm lửa xót thương kẻ nghèo. Thêm lửa thiêng này không phải do thêm tư tưởng tự tôn và hoạt động ồn ào. Nhưng thêm một cách âm thầm, bằng cầu nguyện chiêm niệm từ Lời Chúa, phép Thánh Thể, Đức Mẹ dưới chân thập giá, và từ cuộc sống quên mình, trong bình an vui vẻ, phó thác. Lửa mến nồng nàn này sẽ đổi mới con người đến tận những cõi thẳm sâu của chính mình. Để rồi, truyền giáo sẽ không chỉ là đưa ra các giáo lý, nhưng sẽ còn là giới thiệu những chứng từ sống động nơi những người được Lửa thiêng đổi mới. Thiết tưởng tất cả những điều trên đây có thể gợi ý cho việc tân Phúc Âm hoá. Đây sẽ là những vẻ đẹp thiêng liêng rất thích hợp, để đáp ứng nhu cầu truyền giáo trong giai đoạn lịch sử đang hình thành với nhiều nét mới mẻ. Tuần báo CG&DT số 1328 ngày 12-10-18-10-2001.
GB. Bùi Tuần
Chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử có nhiều bất ngờ. Tai hoạ bất ngờ. Nguy cơ bất ngờ. Sụp đổ bất ngờ. Chết chóc bất ngờ. Nổi dậy bất ngờ. Chọn lựa bất ngờ. Đối với những người sống đức tin, bất ngờ là một đề tài đáng phải gẫm suy. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói nhiều đến những bất ngờ. Thường là vì mục đích cảnh báo. Xin phép nhắc lại ở đây vài thứ bất ngờ quan trọng. Bất ngờ về những tai hoạ. Về những tai hoạ do chiến tranh và thiên tai, Chúa Giêsu nói: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những biến cố đó chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn” (Mt 24,7-8). Về những tai hoạ do những ngôn sứ giả và đạo đức giả xuất hiện, Chúa Giêsu nói: “Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội đi” (Mt 24,11-12). “Thực vậy, sẽ có những Kitô giả và ngôn sứ giả xuất hiện. Chúng đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. Thầy báo trước cho anh em đấy” (Mt 24,24-25). Bất ngờ về những tai hoạ, đó là điều xảy ra đó đây, hầu như hằng ngày. Những bất ngờ có qui mô nhỏ và ảnh hưởng nhỏ như thế còn đáng chúng ta suy nghĩ. Phương chi những loại bất ngờ Chúa nói trên đây, với qui mô lớn và ảnh hưởng lớn, càng đáng chúng ta phải gẫm suy dưới ánh sáng đức tin. Một đức tin tập trung vào Chúa Giêsu, Đấng được sai đi từ Chúa Cha trong tư cách người con Chúa Cha và trong sáng kiến tình yêu cứu độ, nhờ đó, Chúa Giêsu đem chúng ta về với Chúa Cha. Với một đức tin gắn bó với Chúa Giêsu như vậy, chúng ta sẽ biết đối phó với những tai hoạ nói trên một cách sáng suốt và tin tưởng. Bất ngờ về giờ Chúa đến. Giờ Chúa đến được hiểu về giờ Chúa gọi ta vào đời sau, hoặc gọi ta vào một nhiệm vụ. Giờ đó cũng có thể bất ngờ. “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em nên biết điều này: Nếu chủ nhà biết rõ lúc nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ thức, không để nó khoét vách đục tường nhà mình. Cho nên anh em cũng vậy. Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,42-44). Chúa Giêsu còn đưa ra thí dụ người đầy tớ trung tín biết phục vụ lương thực cho gia nhân đúng giờ đúng lúc. Chủ đến bất ngờ thấy như vậy, sẽ khen thưởng anh (Mt 24,45-46). Còn người đầy tớ bất trung tưởng chủ chưa đến, nên sống hống hách hưởng thụ. Nhưng chủ đến bất ngờ. Số phận dành cho anh sẽ rất thê thảm (Mt 24,48-51). Chúa cũng đưa ra dụ ngôn 10 người trinh nữ. 5 cô khôn ngoan tỉnh thức, biết tiên liệu. 5 cô khờ dại mải chơi vô lo. Bất ngờ Chúa đến. Kết quả nào dành cho hai loại trinh nữ đó, thì ta biết rồi. Những cảnh báo về giờ Chúa đến bất ngờ đã được ghi nhiều lần trong Phúc Âm, chúng ta chỉ nhắc lại cho nhau vài đoạn trích trên đây. Ngoài ra, trên thực tế, chúng ta cũng đã từng chứng kiến những bất ngờ đó. Đã có những cái chết rất bất ngờ. Đã có những sụp đổ rất bất ngờ. Đã có những khủng hoảng rất bất ngờ. Thiết tưởng thực tế và lời Chúa luôn kêu gọi chúng ta phải sẵn sàng. Theo kinh nghiệm các đấng đạo đức, thì một cách giúp chúng ta luôn sẵn sàng, đó là xác tín Tin Mừng của ta là chính Đức Giêsu KiTô. Xác tín như vậy, để rồi đi tìm Ngài, chờ đón Ngài, đón nhận Ngài, lắng nghe Ngài, sống với Ngài, đi theo Ngài. Một khi chúng ta tin: Chúa Giêsu đến, để chúng ta được sự sống và sống dồi dào (Ga 10,10), thì chúng ta sẽ thao thức đợi chờ Ngài đến. Chứ không lơ là, chểnh mảng, hoặc mải lo những lợi ích khác. Để rồi khi Chúa đến, ta không kịp gì. Lúc đó, hối hận thì đã muộn rồi. Bất ngờ về cách Chúa đánh giá. Trong các bất ngờ nói trong Phúc Âm, tôi thấy cách Chúa đánh giá từng người là một bất ngờ đáng được tâm niệm hằng ngày. Chỉ xin nhắc lại vài trường hợp: Trong dụ ngôn hai người con. Cha của chúng bảo hai đứa đi làm vườn nho. Đứa thứ nhất chối, nhưng sau hối hận và đi. Đứa thứ hai vâng, nhưng rồi không đi. Chúa khen đứa thứ nhất. Rồi liền đó, Ngài nói: “Tôi nói thật với các ông: Những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ được vào Nước Trời trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không chịu tin theo. Còn các người thu thuế và các cô gái điếm đó lại tin. Phần các ông, khi đã thấy như vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21,31-32). Về việc bố thí, thì Chúa cho biết: Kẻ bố thí mà phô trương, thì đã được phần thưởng rồi. Còn, “con, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí được kín đáo. Và Cha của con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,3). Cũng thế, kẻ cầu nguyện và kẻ ăn chay mà phô trương, thì kể như được công rồi. Nhưng kẻ cầu nguyện và ăn chay một cách khiêm tốn, âm thầm sẽ được Chúa thưởng. Bởi vì Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho họ (Mt 6,5-6; 16-18). Ngạc nhiên và bất ngờ nhất là cách Chúa xếp loại ngày phán xét chung. Tất cả những ai đã làm ơn làm phúc cho bất cứ ai thiếu thốn, đều được kể như đã phục vụ chính Chúa. Trái lại những ai đã không phục vụ những người thiếu thốn khổ đau, đều bị coi như đã không phục vụ Chúa. Loại trên được thưởng phúc thiên đàng. Loại sau bị phạt hình phạt địa ngục (Mt 25,31-46). Tôi thấy cái bất ngờ về cách Chúa đánh giá mỗi người như trình bày ở trên là một bài học rất quan trọng. Có thể coi đây là nguồn ánh sáng để nhận ra những dấu chỉ của đức tin sống động. Xem ra nhiều tôn giáo như Hồi giáo, Phật giáo, cũng coi cầu nguyện, siêng năng khiêm tốn, ăn chay nhiệm nhặt âm thầm, từ thiện quảng đại kín đáo là những dấu chỉ sùng đạo. Còn chúng ta thì sao? Bất ngờ về những hy vọng. Chắc chắn chúng ta có nhiều thiếu sót. Chắc chắn chúng ta đã phạm nhiều tội lỗi. Nhưng đừng vì thế mà thất vọng. Bởi vì Phúc Âm đem đến cho chúng ta vô vàn bất ngờ về hy vọng. Tất cả những bất ngờ về hy vọng đều phát xuất từ mạc khải: “Thiên Chúa là tình yêu” (Ga 4,8). “Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến thế gian, để nhờ Con Một Người mà chúng ta được sống. Tình yêu Chúa ở tại điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai chính Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (Ga 4,9-10). Do tình yêu lạ lùng đó, Chúa đã cứu độ bao người cả phần hồn lẫn phần xác. Nhiều người bị loại trừ không còn chút hy vọng nào, cũng đã được Chúa xót thương cứu độ. Người ăn trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa là một ví dụ. Kinh nghiệm mục vụ và truyền giáo của mỗi người chúng ta có thể kể ra vô số chứng từ sống động về những hy vọng bất ngờ. Chính bản thân tôi cũng đã được Chúa ban cho nhiều hy vọng bất ngờ trong những trường hợp mình đã chìm sâu xuống tận đáy vực thẳm vô vọng tăm tối. “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Lời cầu đó là lời cầu của người thu thuế đứng dưới cuối nhà thờ. Lời cầu đó cũng là lời cầu thường ngày của tôi. Với lời cầu này, tôi đã nhận được rất nhiều hy vọng bất ngờ. Bởi vì Chúa là Đấng hay xót thương, và “Đối với Chúa, không có gì là không thể được” (Lc 1,37). Trong khi cuộc sống là một chuyến đi đầy những bất ngờ, thì niềm tin khiêm tốn đặt nơi Chúa với sự tỉnh thức khiêm nhường và tâm tình cầu nguyện khiêm cung sẽ làhành trang không thể thiếu của chúng ta. Với hành trang này, chúng ta sẽ vượt qua đời này để bước vào đời sau một cách bình an. Nơi đó là quê trời vinh hiển, Chúa dành cho ta, để ta được sống mãi trong hạnh phúc bên Chúa muôn kiếp muôn đời.
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất: 20-10-2001 Bùi-Tuần 844
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình. Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế. Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường. Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản. Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người. Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta. Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ. Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan. Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa. Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như: Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7). Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25). Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14). Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường. Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người. Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn. Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người. Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ. Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng. Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường. Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình. Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường. Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa. Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó. Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào? Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào? Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp. Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào. Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi. Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không? Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh. Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới. Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời. Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng. Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc. Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người. Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành. Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh. Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục. Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này: 1- Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời. Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó. Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy. 2- Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình. Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không? 3- Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới. Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan: “Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19). “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21) Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ. Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều. Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại. Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung. Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Đời sống của tôi là một chuyến đi. Tôi vẫn mong chuyến đi này sẽ gặp nhiều niềm vui, nhiều bình an, nhiều hạnh phúc. Nhất là tôi mong: Sống sao cho có ý nghĩa, phục vụ tối đa Lời Chúa, đề cao lý tưởng tình Chúa xót thương, tới được Nước Trời, được về với Cha. Nhưng chuyến đi này không dễ chút nào. Đã có nhiều điều xảy ra ngoài ý muốn. Đã có nhiều trở ngại cản trở những ước mơ chính đáng. Đã có nhiều nguy cơ cố ý đẩy tôi xuống vực thẳm thất bại. Những kinh nghiệm như thế thúc giục tôi phải hết sức coi chừng. Một trong những việc coi chừng tôi quan tâm nhất, chính là việc cầu nguyện. Cầu nguyện trong mọi nơi, trong mọi việc. Cầu nguyện liên lỉ. Càng trung thành với việc cầu nguyện, tôi càng thấy ứng nghiệm trong đời tôi những lời Chúa Giêsu đã phán xưa. Chỉ xin nêu lên vài trường hợp. Có lần các môn đệ Chúa cố gắng trừ quỉ cho một người nó ám, nhưng quỉ nhất định không chịu ra. Được tin đó, Chúa Giêsu phán: “Thứ quỉ này không chịu ra khỏi người ta, nếu anh em không đuổi nó bằng ăn chay và cầu nguyện” (Mt 17,21). Đúng như vậy, trong cuộc sống, tôi đã gặp nhiều tình hình sự ác tung hoành, như dưới quyền thống trị của quỉ dữ Satan. Nhưng nhờ việc cầu nguyện và ăn chay của những người thiện chí, tình hình đã được sáng sủa trong tình thương của Chúa. Có lần cảnh báo về những tai hoạ có thể xảy ra bất ngờ, Chúa Giêsu phán: “Anh em phải đề phòng, chớ để mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em... Vậy anh em hãy cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,34-36). Đúng như vậy, trong cuộc sống, tôi đã gặp nhiều bất ngờ ác độc khủng khiếp. Nhưng chính nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn đức tin, mà giữa những thử thách đó, cộng đoàn và tôi vẫn trung thành bước đi dưới sự che chở của Chúa. Đêm cuối cùng, ở vườn Cây Dầu, khi sắp bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã nhắc bảo ba môn đệ: “Sao anh em lại ngủ. Hãy thức dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 46). Đúng như vậy, trong cuộc sống, tôi đã phải đối đầu với biết bao cơn cám dỗ. Nhiều lúc quá mệt mỏi, muốn trao mình vào giấc ngủ. Nhưng chính nhờ lời Chúa đánh thức lương tâm, tôi chỗi dậy cầu nguyện cùng với Hội Thánh, nên cơn cám dỗ đã trở thành dịp đưa tôi và cộng đoàn tiến lại gần Chúa hơn. Các ơn tôi nhận được nhờ cầu nguyện không phải chỉ có thế. Thành thực mà nói: Đối với tôi, cuộc sống là một chuỗi dài những ơn Chúa ban. Đang khi đó, cầu nguyện được coi là một vấn đề sống còn của cuộc sống. Cuộc sống gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện đi theo mọi tình huống cuộc sống. Lúc nào cũng cầu nguyện. Sống là cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của cuộc sống. Thực vậy, nếu hiện tại của tôi là một chuỗi dài những việc bình thường, tôi sẽ cầu nguyện theo lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cor 10,31). Nghĩa là để tôn vinh Thiên Chúa, tôi cầu nguyện, để ngay trong đời thường và với các việc bình thường, tôi biết sống có chất lượng hơn, luôn biết có những lựa chọn đem lại nhiều ích lợi hơn cho Hội Thánh và đồng bào, gây được nhiều kết quả hơn cho cánh đồng truyền giáo. Nếu hiện tại của tôi là những giờ phút nặng nề, những ngày tháng đau đớn, tôi sẽ cầu nguyện như Đức Kitô xưa: “Bây giờ, tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén đắng này xa con. Tuy vậy, con xin đừng làm theo ý con, nhưng xin làm theo ý Cha” (Lc 22,42). Nghĩa là tôi sẽ rất thành thực nói với Chúa về những yếu đuối của tôi, những nguyện vọng tự nhiên của tôi. Nhưng tôi vẫn xin Chúa cho tôi được ơn vâng theo thánh ý Chúa. Nếu hiện tại của tôi là tâm trạng chứa đầy tội lỗi, tính mê nết xấu, tôi sẽ cầu nguyện theo gợi ý của lời Chúa xưa: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Nghĩa là tôi sẽ cầu nguyện với lòng tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Tôi tin Chúa yêu thương tôi, chính vì tôi là kẻ tội lỗi. Tôi tin Ngài yêu tôi, trước khi tôi trở lại với Ngài. Ơn trở lại chính là ơn biết đón nhận tình yêu của Ngài và ở lại trong tình yêu ấy. Nếu hiện tại của tôi là tiếp cận với những người nghèo khổ, tôi sẽ cầu nguyện theo tinh thần lời Chúa về ngày phán xét chung: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dọn sẵn cho chúng con từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống. Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước. Ta trần truồng, các con đã cho mặc. Ta đau yếu, các con đã viếng thăm... Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm ơn cho những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì Ta kể như các con làm ơn cho chính Ta” (Mt 25,34-40). Nghĩa là, tôi sẽ nhìn những người nghèo khổ như một thứ bí tích, một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa. Tôi sẽ cầu nguyện với Chúa, để biết mang lại cho những người nghèo khổ sự kính trọng và yêu thương cần thiết. Trên đây là một vài chi tiết của cuộc sống cầu nguyện. Thiết tưởng cũng đã đủ để cho thấy: Tình huống nào của cuộc sống cũng nên cầu nguyện và cần cầu nguyện. Kinh nghiệm đời sống cầu nguyện cho tôi thấy hai điều sau đây: 1- Nếu chúng ta cầu nguyện thực khiêm nhường, chân thành, sốt sắng, Chúa sẽ làm cho những gì người ta coi như xấu nhất trở thành những vật liệu rất tốt có khả năng góp phần vào việc xây dựng con đường đạo đức, thánh thiện dẫn về Nước Trời. 2- Nếu chúng ta đừng mất thời giờ theo đuổi những chương trình làm sáng danh Chúa kiểu phô trương chiến thắng, thống kê thành tích, áp đặt đức tin, mà chỉ hết sức quan tâm cầu nguyện để tình yêu cứu độ của Chúa toả sáng qua cuộc sống của ta, cho dù cách kín đáo, âm thầm, khiêm tốn, thì sự cộng tác của chúng ta vào kế hoạch cứu độ của Chúa sẽ dẫn được nhiều đồng bào Việt Nam hôm nay đi vào con đường đưa tới Nước Trời. Ai không tin những gì tôi chia sẻ trên đây, xin hãy hỏi những người đã chết. Hãy nghe tiếng các linh hồn người chết. Họ đang kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện. Họ đang nhắc nhủ chúng ta hãy cầu nguyện thực nhiều. Với tinh thần cầu nguyện, con người sẽ biết nghĩ đúng, chọn đúng, làm đúng, để tới được Nước Trời, gặp được Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót và được ở lại bên Cha muôn kiếp muôn đời.
Tôi mới đi thăm một ngôi chùa. Nhà chùa khá lớn. Đất chùa rất rộng. Trên một núi nhỏ. Chùa này là của một tư nhân giàu có. Trong nhà vị chủ chùa, có treo ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Tại sân chùa có núi Đức Mẹ. Đàng sau chùa là Đền Thánh Mẫu. Đền rộng và đẹp. Trên bàn thờ là tượng Đức Mẹ ban ơn. Vị chủ chùa, trước khi chết, đã trao chùa lại cho một người bạn là một linh mục. Nay chùa vẫn là chùa. Cảnh chùa thanh vắng, giữa một thiên nhiên xanh tươi thinh lặng. Dân cư hiền lành. Bầu khí Phật giáo bao trùm. Xa kia là biên giới. Bên đó làđất nước Phật giáo. Từ vua đến dân, ai cũng sùng đạo. Trong môi trường này, tôi cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói xưa với người phụ nữ Samaria: “Hãy tin Thầy: Đã đến giờ, người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến – Và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,21-24). Tôi nhìn lên Đức Mẹ. Lòng nghẹn ngào. Mắt tôi nhìn thấy một tượng bằng vật chất. Nhưng lòng tôi cảm nghiệm thấy chính Đức Mẹ hiện diện ở đây. Mẹ đã ở đây tự thuở nào. Ở đây, Mẹ đã là nguồn an ủi cho biết bao thân phận. Ở đây, Mẹ đã không nghe tiếng đọc kinh. Nhưng Mẹ đã đón nhận đủ mọi thứ tâm sự chân thành. Ở đây, những người đến với Mẹ hầu hết là dân nghèo. Tất cả đều ngoài công giáo. Họ đã nói cho Mẹ nghe mọi thứ nghèo của họ. Mẹ đã đón nhận họ. Mẹ đã thương họ. Mẹ đã đồng hành với họ trong cuộc sống. Cuộc sống nghèo. Cuộc sống quê mùa. Cuộc sống âm thầm, bình dị. Mẹ âm thầm đến đây để dọn đường cho Nước Trời. Trong thinh lặng của tâm hồn cầu nguyện, tôi chợt hình dung về cách Nước Trời trị đến. Khởi đi từ Lời Chúa. “Người Pharisêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! Hay ở kia kìa! Vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa anh em” (Lc 17, 20-21). Với Lời Chúa phán trên đây, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Nếu người ta tưởng rằng: Nước Chúa chỉ đến, khi tình hình hiện nay thay đổi, thì người ta sẽ thất vọng. Và đó là tưởng sai. Nhưng nếu người ta nghĩ rằng: Thiên Chúa đang thay đổi lòng người giữa một tình hình bên ngoài coi vẫn thế, thì đó đúng là sự Nước Chúa đang đến. Từ cái nhìn mới mẻ này, tôi thoáng nhận ra những thay đổi của lòng người tại địa phương rộng lớn và xa xôi này. Điều thay đổi rõ nhất là sự hài hoà giữa các đồng bào khác đạo. Công giáo chúng tôi là một thiểu số rất bé nhỏ. Nhưng càng ngày càng được yêu thương, kính nể và nâng đỡ. Nội trong năm đầu thế kỷ 21 này, chúng tôi đã khánh thành hai nhà thờ mới ở vùng này. Dịp này, tất cả lương giáo đều hân hoan. Đại diện các tôn giáo bạn đều có mặt trong thánh lễ làm phép nhà thờ. Một điều thay đổi khác cũng rất rõ, nên nói lên ở đây, là mấygiáo đoàn nghèo khó xa xôi chốn này đang sốt sắng trở về với những đường hướng Phúc Âm đích thực. Họ đang phác hoạ hình ảnh Hội Thánh sơ khai với bốn nét chính, mà sáchTông Đồ Công Vụ đã ghi lại: Một là họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng về Đức Kitô. Hai là họ siêng năng tham dự thánh lễ. Có những người phải đi gần hai chục cây số mới tới được nhà thờ. Đi bằng những phương tiện rất thô sơ. Ba là họ cầu nguyện không ngừng. Cầu nguyện một cách hồn nhiên, tự đáy lòng mình. Với niềm tin mến chân thành. Bốn là họ hiệp thông với nhau. Cụ thể là bằng những chia sẻ, những nâng đỡ, những thông cảm (x. Cv 2,42). Một điều thay đổi nữa cũng rất rõ, đó là bầu khí trong các cộng đoàn nghèo khó ở đây. Bầu khí này cũng đang phác hoạ lại môi trường mà Tông Đồ Công Vụ đã mô tả về vùng Giuđêa, Galilêa và Samaria: “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống động trong niềm kính sợ Chúa, và mỗi ngày thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ ủi an” (Cv 9,31). Khi tôi hiểu Nước Chúa đang đến trong lòng con người, bằng nhiều cách âm thầm mà sâu xa, tôi thấy tại đây đang ứng nghiệm lời thánh Phaolô dạy xưa: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Đúng là như vậy, Nước Thiên Chúa là những hoa trái, mà công việc của Thánh Thần làm ở trong con người. Từ những đức tính nhân bản cho đến những nhân đức xã hội ở mỗi người đều làm chứng về Nước Trời ở trong họ. Chẳng hạn như sự lịch thiệp, nhã nhặn, điều độ, dịu dàng, đứng đắn, nhân hậu, lương thiện. Những nếp sống này là vẻ đẹp rất thường gặp được ở mọi đồng bào lương giáo miền quê này. Những vẻ đẹp đó là hoa quả của Thánh Thần, và là dấu chỉ của sự Nước Trời đang đến. Nếu để ý, chúng ta sẽ gặp được vô số những dấu chỉ nhỏ. Những dấu chỉ nhỏ đó sẽ nói nhỏ với ta về sự Nước Chúa đang đến. Nước Chúa đến một cách âm thầm, một cách khiêm nhường, một cách kín đáo. Thí dụ như sự Đức Mẹ đi vào khu chùa này và ở lại khu chùa này. Đã từ lâu. Với sự đón nhận thân thương, bình dị và gắn bó.
Càng đi sâu vào cuộc sống, tôi càng hiểu sự quan trọng của một thời gian, mà người ta quen gọi là thời tuổi cao sức yếu. Thời gian này là rất quan trọng, vì nó mời gọi con người hãy mau mau chuẩn bị hoàn tất sứ mạng đời mình. Sứ mạng đời tôi là góp phần rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Nước Trời được Chúa Giêsu giới thiệu như một thực tại vô cùng cao quí. Người phán: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được, liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc quí. Khi đã tìm được một viên ngọc quí, ông ta liền ra đi, bán tất cả những gì mình có, để mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44-45). Kho báu đó, viên ngọc quí đó là những gì rất có giá trị . Đến nỗi, người ta dám bán tất cả những gì mình có, để mua sắm nó. Mặc ai muốn nói gì thì nói. Mặc cho tương lai sẽ ra sao cũng được. Bởi vì nó là cái gì quí nhất, hứa hẹn đem lại cho mình hạnh phúc cao cả. Vì thế, tìm được nó đã là một niềm vui lớn lao. Đó là hình ảnh Tin Mừng Nước Trời. Trên thực tế, niềm vui về Tin Mừng Nước Trời, mà chúng ta thường được nếm phần nào, là những niềm vui nào? Ở đây tôi chỉ xin nêu lên một số thí dụ: Như niềm vui được Chúa yêu thương, mặc dù chúng ta tội lỗi bất xứng. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,9-10). Như niềm vui cảm nghiệm được sự vinh quang của Thiên Chúa trong chính thánh giá của Chúa Giêsu, trong chính thánh giá của Hội Thánh và trong chính thánh giá của chúng ta. Vinh quang do sự thắng thế của tình xót thương, của lòng khiêm tốn vâng ý Cha Cha, của sự hy sinh quên mình, của tinh thần đền tội và đổi mới. “Dù con người bên ngoài chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi càng ngày càng đổi mới” (2Cor 4,17). Như niềm vui tin tưởng chắc chắn Thiên Chúa ở bên mình, như lời Người đã hứa: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin tưởng như vậy, để ta có thể cầu nguyện với Người mọi nơi mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh. Như niềm vui quen yêu thương, phục vụ nhau, theo lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 13,35). Như niềm vui tự nguyện cứu giúp đỡ nâng những người nghèo khổ. Vì Chúa coi sự chúng ta giúp đỡ họ chính là giúp đỡ chính Chúa. “Mỗi lần các con làm việc lành cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Thầy, là các con đã làm cho chính Thầy vậy” (Mt 25,40). Như niềm vui thích sống bé nhỏ, đơn sơ khiêm nhường. Như lời Chúa phán: “Thầy bảo thật các con: Nếu các con không quay lại, mà trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Như niềm vui nếm hưởng sự bình an trong lòng mình, giữa những đụng chạm không tránh được ở đời. Dù gặp khó khăn, vẫn vâng lời Chúa mà “Coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12,10), “Làm tất cả những gì có thể, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,18) “Không xét đoán nhau. Hoặc xét đoán sao để tránh cho anh em mình khỏi phải vấp hay phải ngã” (Rm 14,13). Còn nhiều niềm vui khác nữa. Những niềm vui trên đây ví như những tia lửa nhỏ, được nuôi dưỡng bằng những việc lành nhỏ. Chúng phát xuất từ nội tâm. Nơi đó, chúng ta cảm thấy như một chốn thinh lặng, bình an và ấm cúng. Bởi vì nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện. Người chính là Tin Mừng sống động. Chúa Giêsu ngự trị trong lòng ta, như một vua tình yêu hiền lành và khiêm nhường. Người luôn đưa ta về với Chúa Cha, trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần. Người luôn hối thúc ta ra đi loan báo Tin Mừng. Chúng ta ra đi. Và trong việc loan báo Tin Mừng, chúng ta cảm thấy rất vui sướng khi phấn đấu thực thi lời thánh Phaolô dạy: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện, và đẹp lòng Chúa. Đó là cách xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1-2). Nhận ra đâu là thánh ý Chúa, đó là điều tôi thấy rất cần cho mọi môn đệ Chúa. Nhất là trong hoàn cảnh Việt Nam hôm nay. Thánh ý Chúa rõ ràng nhất và chắc chắn nhất là: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (Lc 21,26). Tôi tin tưởng rằng: Cho dù mỗi người chúng ta vẫn mang nhiều khuyết điểm vốn đi theo tính tình của mình, nhưng nếu chúng ta kiên trì cầu nguyện, chúng ta sẽ dần dần trở thành những cành cây dính vào thân cây là Đức Kitô. Để nhờ đó, sự sống thiêng liêng của Đức Kitô sẽ chảy vào chúng ta, để chúng ta được đổi mới. Chúng ta sẽ có một cái nhìn mới về những người khác, về đời mình, về lịch sử và về Thiên Chúa. Chúng ta sẽ có những khắc khoải mới về Nước Trời. Chúng ta sẽ không còn là những người tự huỷ và tham gia vào sự huỷ hoại gia đình, xã hội nữa. Nhưng sẽ trở thành những người thợ xây dựng hoà bình. Cùng với những người tông đồ của những thời sau hết, chúng ta sẽ góp phần đánh thức các lương tâm, để cùng nhau đón nhận những niềm vui Tin Mừng Nước Trời ngay từ hôm nay, trong tình yêu bao la của Chúa Giêsu là Vua mọi lòng người. Cách đây mấy ngày, tôi được gặp một đoàn cứu trợ từ thành phố xuống. Đoàn gồm nhiều thành phần. Người lương, người giáo. Có nhiều bác sĩ, có nhiều nhà giáo. Linh mục tu sĩ chỉ vài người. Đa số là giáo dân. Đoàn đi vào vùng sâu vùng xa, tiếp cận với những xóm nghèo. Họ phục vụ người nghèo bằng tất cả những gì họ có, nhất là bằng trái tim chan chứa tình thương và kính trọng. Tôi coi đoàn người đông đảo này là hình ảnh một Hội Thánh tương lai. Một Hội Thánh hiệp thông. Một Hội Thánh lên đường. Một Hội Thánh hân hoan với Tin Mừng. Một Hội Thánh cởi mở với những liên đới mới, chân tình sát cánh bên nhau đi về Nước Trời, qua con đường phục vụ. Phục vụ có chất lượng cao và hiệu quả lớn.
Đang khi những người Thiên Chúa giáo cử hành Mùa Vọng, thì những tín đồ Hồi giáo sống trọng thể những ngày chay thánh. Những ngày này kéo dài một tháng. Năm nay, tháng này khởi sự từ ngày 17 tháng 11 và kết thúc ngày 16 tháng 12. Tháng này gọi là Ramadan. Tháng Ramadan nhắm vào việc hy sinh và thanh luyện con người. Các tín đồ không ăn gì từ lúc mặt trời mọc tới khi mặt trời lặn. Tháng Ramadan cũng là những ngày chia sẻ, yêu thương và bình an. Ai cũng buộc bỏ ra hơn 2 phần trăm thu nhập của mình để tặng cho người nghèo, bất luận họ thuộc sắc tộc nào, tôn giáo nào. Trong tháng Ramadan người tín hữu Hồi giáo tìm dịp đến với người khác và đón tiếp người khác, để xây dựng tình liên đới huynh đệ. Trong ý hướng đó, các bữa tối thường là dịp gặp gỡ thân tình. Nhiều người được mời đến cùng tham dự, cùng chia vui. Trong Mùa Vọng của người Thiên Chúa giáo, những tín đồ Do Thái giáo cũng có một tuần lễ tôn giáo được tổ chức trong các gia đình. Tuần lễ này gọi là Hanouka. Từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 12. Tuần lễ Hanouka được thiết lập nên vì hai lý do. Một là để nhớ lại chiến thắng quân sự của ông Giuđa Macabê. Hai là để nhớ lại phép lạ chút dầu còn lại trong đền thờ xưa. Chút dầu này chỉ đủ thắp đèn trong một ngày, nhưng đã cháy đủ tám ngày, cho tới khi làm được dầu mới. Đó là phép lạ về lòng cậy trông. Từ một chút việc lành rất nhỏ, Chúa sẽ làm nên những kỳ công to tát. Trong tuần lễ Hanouka, các gia đình họp nhau lại ban tối. Trên bàn thờ gia đình có đặt chân nến tám ngọn. Tối thứ nhất thắp lên một ngọn. Tối thứ hai thắp thêm ngọn thứ hai. Và cứ thêm lên như thế các tối sau. Trong ánh sáng của nến cháy, mọi người hoan hỉ hát thánh ca. Họ tạ ơn Chúa và hy vọng vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa sẽ cứu dân Người. Tháng Ramadan của Hồi giáo và tuần lễ Hanouka của Do Thái giáo không chủ ý chuẩn bị cho lễ Noel, nhưng trùng hợp với Mùa Vọng của Thiên Chúa giáo, chuẩn bị cho lễ Chúa Giáng sinh. Còn chúng ta, những người công giáo, chúng ta sống Mùa Vọng theo phụng vụ. Phụng vụ Mùa Vọng rất phong phú, dồi dào những hướng dẫn và gợi ý. Tuy vậy, chúng ta cũng được phép nhìn sang tháng Ramadan của Hồi giáo và tuần lễ Hanouka của Do Thái giáo, để có những sáng kiến. Không thiếu nơi đã làm như vậy. Ở đây, tôi chỉ xin nói tới một sáng kiến, mà có nơi đã thực hiện. Sáng kiến đó là sống Mùa Vọng bằng cách tập trung vào một câu trong kinh Tin Kính: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần” (Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria). Câu này trích từ Kinh Thánh: “Vì người con bà sinh ra là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,35). Câu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần” gợi ý cho chúng ta, trong Mùa Vọng, hãy tăng cường hơn việc thanh luyện mình khỏi những khuynh hướng xấu. Chúng thường kháng cự lại việc chúng ta tham dự vào ơn được làm con Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Galata, thánh Phaolô kể ra những khuynh hướng xấu đó. Ngài coi những khuynh hướng đó là do tính xác thịt gây ra. Ngài viết: “Những việc do tính xác thịt gây nên thì ai cũng rõ, đó là dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: Những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Ga 5,19-21). Để có sự tự do thực của người con Chúa, chúng ta phải phấn đấu với những tính xấu đó. Phấn đấu bằng cách tăng cường sự thanh luyện mình, nhờ hồi tâm, ép xác, cầu nguyện, tránh mọi việc làm, lời nói, tư tưởng do các tính xấu đó thúc đẩy. Hơn nữa, câu “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần” còn gợi ý cho chúng ta, trong Mùa Vọng, hãy tăng cường hơn việc chăm sóc những hạt giống tốt, mà Chúa Thánh Thần gieo vào lòng ta. Cũng trong thư gởi giáo đoàn Galata, thánh Phaolô đã viết về những hạt giống đó: “Còn hoa quả của Chúa Thánh Thần là bái ác, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Đức Giêsu Kitô thì đã đóng đinh xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Chúa Thánh Thần, thì chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5,22-26). Chúng ta chăm sóc những hạt giống tốt trong lòng chúng ta bằng các việc lành nhỏ hằng ngày. Nếu mỗi ngày chỉ thắp lên một ngọn đèn, dù nhỏ bé thôi, thì đời ta sẽ trở thành chuỗi dài những hy vọng. Và như thế, chúng ta sẽ góp phần vào chương trình cứu độ, mà Chúa sẽ thực hiện, khi giáng sinh làm người. Phần, mà chúng ta góp vào sẽ là chính con người của chúng ta. Một con người đầy hy vọng và đầy tình yêu, dù gặp phải gian truân khốn khó: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Phần, mà chúng ta góp vào, cũng sẽ là chính con người của chúng ta. Một con người tự do, bởi vì chúng ta sống trong Chúa Thánh Thần: “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cor 3,17). Tự do mở về hướng Thiên Chúa. Tự do mở về hướng tha nhân. Trong bác ái khiêm tốn chấp nhận quên mình. Gần tôi có một phụ nữ Phật giáo. Vì một lỗi lầm vô tình trong quá khứ. Để đền tội, chị đã đón một bà lão ăn mày về nhà để nuôi. Bà lão này nổi tiếng là khó tính khó nết. Chị phụ nữ Phật giáo này chăm sóc phụng dưỡng bà già trong nhà mình với tất cả tình thương và kính trọng. Nhiều năm trôi qua, lúc bà già gần chết, bà tỏ mình là người công giáo. Bà xin chị phụ nữ Phật giáo đi tìm cho bà một linh mục, để giúp bà về với Chúa. Chị phụ nữ Phật giáo đã làm hết sức, để bà được toại nguyện. Bà qua đời, được an táng đàng hoàng. Hằng năm, ngày giỗ, chị Phật giáo vẫn đến linh mục xin lễ cho bà. Hiện nay, chị Phật giáo này lại đón một người đàn bà khùng khùng mát mát về nhà nuôi. Bà này cũng được chăm sóc như một người thân thương. Hằng ngày chị còn làm nhiều việc từ thiện khác. Tất cả những công việc từ thiện chị làm đều rất âm thầm. Thiết nghĩ chị phụ nữ Phật giáo này đáng được coi là một chứng nhân sống động, thấy được và đáng tin về việc Chúa Thánh Thần đang thực hiện âm thầm trong các tâm hồn, bất luận họ là ai. Đây cũng là một gợi ý và là một thách đố về Mùa Vọng Chúa gởi đến cho chúng ta.
Để chuẩn bị tâm hồn con cái mình đón Chúa giáng sinh, Hội Thánh đưa ra nhiều lời Kinh Thánh. Vừa kêu gọi, vừa cảnh báo. Kêu gọi sửa mình, như: “Anh em hãy hối cải, ... hãy dọn đường cho Chúa đến” (Mt 1,1-3). Cảnh báo sẽ bị phạt, nếu không sửa mình, như: “Cái rìu đã kề sẵn gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh hoa trái tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Rất nhiều người đã nghe, đã đọc những lời kêu gọi và cảnh báo trên đây. Họ nghe và đọc như nhau. Nhưng phản ứng thường khác nhau. Có những người dửng dưng. Có những người quan tâm chút ít. Có những người thêm lòng kính sợ Chúa. Thêm lòng kính sợ Chúa, đó là một khởi đầu tốt, đó là dấu chỉ tích cực của sự chuyển biến nội tâm. Vì thế, chúng ta đừng ngại vun trồng tình cảm tốt lành ấy. Vun trồng cách nào? Xin tạm giới thiệu vài cách sau đây. Trước hết, hãy đọc và gẫm suy những lời Kinh Thánh về sự cần thiết phải kính sợ Chúa. Ông Maisen truyền cho các tư tế tập họp dân lại, rồi đọc Luật Chúa cho dân nghe. “Để họ học cho biết kính sợ Đức Chúa” (Đnl 31,12). Bởi vì “Lòng kính sợ Chúa là nguồn sự sống, giúp ta tránh được cạm bẫy tử thần” (Cn 14,27). “Tôi biết rằng: Phàm ai kính sợ Thiên Chúa thì được hạnh phúc, chính vì họ kính sợ Thiên Chúa” (Gv 8,12). “Hãy kính sợ Thiên Chúa và vâng giữ những mệnh lệnh Người truyền dạy, đó là tất cả đạo làm người” (Gv 12,13). Khi đề cập đến lòng kính sợ Thiên Chúa, sách Huấn Ca đã dành ra cả một đoạn. Đọc kỹ đoạn này, chúng ta sẽ thấy một kho tàng quí báu chứa đựng trong lòng những ai kính sợ Thiên Chúa. “Kính sợ Đức Chúa đem lại vinh quang và tự hào, hân hoan và phấn khởi. “Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỉ mừng vui và an khang trường thọ. “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp. Ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành. “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của sự khôn ngoan... “Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của sự khôn ngoan, mang lại bình an và sức khoẻ dồi dào... “Gốc rễ của khôn ngoan là kính sợ Thiên Chúa” (Hc 1,11-20). Khi cảm tạ ngợi khen Chúa, Đức Mẹ Maria đã có một cái nhìn rất tích cực về những người kính sợ Thiên Chúa: “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50). Chúa Giêsu cũng đã có lần khuyên dạy chúng ta hãy biết kính sợ Thiên Chúa. “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10,28). Thiết tưởng mấy lời Kinh Thánh trên đây cũng khá đủ, để soi sáng cho chúng ta thấy: Sự kính sợ Thiên Chúa giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. Nhất là trong một tình hình đạo đức xuống dốc, nhiều người đã đánh mất tình cảm tôn trọng đối với những giá trị thiêng thánh. Như chính tình hình hiện nay, khi những gì thiêng thánh đang bị dần dần tục hoá, kể cả lễ Noel. Trong mấy tháng nay, đồng bào cả nước có dịp thấy trên truyền thình những buổi cầu nguyện của tín đồ Hồi giáo. Họ quì trên đất. Họ phủ phục, sấp mặt sát đất. Để tỏ lòng kính sợ Đấng Tối Cao duy nhất. Thực sự, nhiều người ngoài cuộc, khi nhìn thấy họ cầu nguyện, cũng đã cảm phục phần nào tâm tình họ tập trung vào Đấng Tối Cao với lòng kính sợ và thờ phượng. Riêng đối với tôi, hình ảnh đó làm cho tôi nhớ lại hình ảnh của tổ phụ Abraham, khi ông được diện kiến với Chúa. Kinh Thánh viết: “Ông Abraham cúi rạp xuống đất” (St 17,1). Thiết tưởng thái độ và các cử chỉ bên ngoài như thế vừa diễn tả tâm tình bên trong, và cũng vừa là cách vun trồng những tâm tình đó. Vì thế, tôi thiết nghĩ: Để vun trồng lòng kính sợ Thiên Chúa, ngoài việc đọc và suy gẫm những lời Kinh Thánh ca ngợi sự kính sợ Chúa, chúng ta cũng nên tập cho có những thái độ, cử chỉ và lời nói tỏ lòng kính sợ Thiên Chúa. Các tôn giáo được mến mộ nhiều và gây được ảnh hưởng lớn tại Á châu thường là những tôn giáo đã biết chú trọng đến điểm tâm lý biết kính sợ. Có lẽ vì nó thích hợp với các nền văn hoá tại Á châu. Một cách nữa để vun trồng lòng kính sợ Chúa là hãy tin những lời Chúa dạy. Chẳng hạn khi nghe lời Kinh Thánh nói “Cái rìu đã kề sẵn gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh hoa trái tốt, sẽ bị chặt đi và ném vào lửa” (Mt 3,10), thì chúng ta phải tin lời đó là chân lý cứu độ. Tin sẽ xảy ra đúng như vậy. Tin đang xảy ra đúng như vậy. Tin không những xảy ra cho người khác, mà tin sẽ xảy ra cho chính mình ta, nếu ta không hối cải, sửa mình. Tin vững vàng. Tin để mà hồi tâm, cải thiện đời mình. Tình hình hiện nay không sáng sủa lắm. Chúng ta mong chờ Chúa Giêsu đến. Người là Đấng Cứu độ. Chắc chắn Người sẽ cứu độ ta. Nhưng Người đòi ta phải cộng tác vào công trình cứu độ của Người. Cộng tác khởi đầu bằng tâm tình biết kính sợ Chúa. Sự kính sợ lành thánh này phát xuất do tâm hồn nhận biết Chúa là Đấng Cao cả, thánh thiện, có quyền thưởng phạt, và cũng do lòng khiêm tốn nhận biết mình là kẻ tội lỗi bất xứng. Lòng kính sợ này sẽ dần dần đưa ta đến sự hối cải. Hối cải là mến yêu Chúa nhiều hơn, sống phục vụ yêu thương người khác nhiều hơn, tìm vâng phục ý Chúa nhiều hơn, chu toàn bổn phận mình tốt hơn, sửa lại kỹ càng hơn chính bản tính thâm sâu xấu xa của mình là nguồn gốc những gì không hay không tốt. Có được một lòng kính sợ Chúa như vậy là có một cách chuẩn bị tốt, để đón Chúa Giêsu vào tâm hồn ta. Nhờ vậy, lễ Chúa giáng sinh của ta sẽ là một phần đóng góp đáng kể vào việc xây dựng nền Hoà Bình, mà lễ Noel vốn mong chờ và cầu chúc.