- Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Bài 1: CHUYỆN MỘT LINH MỤC BỊ GIÁO DÂN GIẾT THÊ THẢM
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 289) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Nhân ngày thứ sáu Tuần thánh, tôi đọc được một chuyện kể của linh mục Phêrô Bùi Trọng Khẩn trên internet, về cái chết thật thê thảm của một linh mục, bạn ngài.
Tôi xin được phép lập lại nguyên văn như sau:
Có một người linh mục là bạn rất thân của tôi đã bị những người giáo dân là chính con chiên của mình giết chết !
Giáo dân này, là những con chiên của Ngài, đã giết Ngài một cách dã man, tàn nhẫn. Họ đánh đập Ngài không nương tay. Những vết thương bầm dập và máu me chảy ra phát sợ. Vì vết thương quá nhiều, cho nên Ngài đã qua đời rất nhanh chóng.
Tôi không ngờ, là giáo dân của Ngài, lại độc ác, lại tàn nhẫn đến như thế. Tôi rất thắc mắc, và cùng với bao người khác như thế.
Nguyên do từ những xích mích ban đầu giữa hai bên. Ban đầu tuy rất nhỏ, nhưng mỗi ngày một tăng dần lên.
Ban đầu, là vì mấy câu nói khó nghe, vì mấy việc làm gai mắt,… đã làm cho họ hiểu lầm, nghi kỵ, hằn thù, cứ thế mà tăng lên đến cao độ.
Giáo dân trong giáo xứ, cảm thấy bị mất lòng, chạm tự ái. Cuối cùng, từ các chức sắc, cho tới thường dân, tất cả đã quyết định lập thành một phe nhóm để giết chết cha xứ của mình. Làm được chuyện đó, họ tỏ ra hả hê, vui mừng, như vừa giết được một kẻ thù số một của đời mình.
Khi nghe tin này, tôi bị đứng tim, dựng tóc gáy và vô cùng hoảng hốt. Đúng là tiếng sét đánh mang tai.
Ban đầu, tôi không thể tin nổi.
Ban biên tập các trang báo, khi nhận được tin này, cũng đều sửng sốt, ngỡ ngàng và ngã ngửa ra.
Nhưng sự thật là như thế đó. Thật xót xa cho người bạn của tôi.
Đến nay, thỉnh thoảng, khi nhớ đến cái chết của bạn mình, tôi lại bật khóc và buồn thương day dứt.
Chúng tôi quen biết nhau từ nhỏ. Ngài làm linh mục trước tôi. Ngài lớn tuổi hơn tôi, đã chọn kết thân với tôi. Tôi không dám chọn chơi với Ngài. Nhưng, chính Ngài thích tôi, nên đã chọn tôi làm bạn. Thế là đương nhiên, tôi là bạn của Ngài.
Linh mục này đang phụ trách một giáo xứ rất quan trọng. Lại là cha xứ tiên khởi nữa. Đây là một giáo xứ kỳ cựu, nổi tiếng là có một không hai trong giáo phận.
Nhưng thời gian vừa qua, Ngài đã bị con chiên trong giáo xứ giết chết. Ngài chết ở tuổi rất trẻ. Ngài chết ở tuổi đời linh mục sớm hơn tôi. Ngài chết đang khi rất thành công.
Một linh mục dầy dặn kinh nghiệm, và có đủ mọi chuyên môn. Đặc biêt, Ngài rất hiền lành, thánh thiện, chịu khó làm việc, nhất là những công việc bác ái, chăm lo cho những người nghèo.
Khi Ngài còn sống, lúc xa nhau, chúng tôi vẫn trao đổi thư từ, điện thoại, nối mạng internet. Chúng tôi vẫn thường tâm sự về công việc mục vụ hằng ngày của nhau. Ngài đi trước, nên Ngài có nhiều kinh nghiệm và thường hay khuyên tôi: Bạn ơi, cố gắng lên nhé. Cứ phục vụ cho tốt. Còn việc sống chết kiểu gì, chẳng ai biết trước được đâu.
Tôi vẫn nhớ mãi lời nói này. Và cho đến nay, khi cái chết dã man xảy ra cho Ngài rồi, tôi mới ngẫm lại những lời ấy khi xưa.
Lời đó, đã xảy đến cho Ngài trước rồi, vậy có lẽ cũng đang chờ mình đó đây?!
Tôi cũng sợ, nhỡ ra mai mốt, lại đến lượt mình, cũng phải như vậy thì sao? Lúc đó, không biết mình có chịu nổi không? Tôi hơi lo nghĩ.
Nhưng tôi lại tự nhủ: Không lẽ bạn mình đã sẵn sàng can đảm như thế, mà mình lại chịu thua hay sao? Bạn mình sống tốt như thế, làm việc hay như thế, mà lại chết như thế, thì số phận của mình sẽ như thế nào đây?
Mình làm việc, không thể bằng bạn của mình được, thì chắc chắn không thể được giáo dân đối xử tốt hơn, vậy thì, những cú đòn mạnh hơn đang chờ mình là cái chắc!
Nhiều câu hỏi khác cứ miên man trong đầu tôi. Thế là, tôi lại tiếp tục kể chuyện về bạn tôi, cho nhiều người khác được nghe. Câu chuyện này, tôi kể khá nhiều lần, cho nhiều người, cho nên tôi đã quá quen, quá thuộc. Do đó, tôi kể khá dễ dàng và sống động.
Rồi, tùy vào tâm lý, tuỳ theo lứa tuổi khác nhau mà tôi diễn tả khác nhau, miễn là không sai nội dung.
Có nhiều người nghe tôi kể đi, kể lại, chuyện này nhiều lần, thì họ biết, là tôi rất yêu người bạn của tôi, người bạn đã chết nhục nhã, đau thương, thê thảm.
Dù vụ việc đã xảy ra cũng khá lâu rồi, nhưng hiện nay, người ta vẫn đang tiếp tục điều tra về nguyên nhân vụ án.
Về phía chính quyền, đáng lẽ phải nhúng tay can thiệp ngay, rồi điều tra và chịu trách nhiệm thì mới đúng; nhưng đàng này, nhất là chính quyền địa phương của địa bàn giáo xứ ấy, đã không thèm quan tâm đếm xỉa gì cả.
Có nhiều kẻ, đã tìm cách ỉm đi. Tệ thật !!!
Còn phía nhà nước, thì cho đến nay vẫn hoàn toàn im lặng.
Thôi, thì đó là chuyện của họ. Tôi cũng không dám trách họ nữa. Tôi chỉ kể ra đây mấy điều liên quan đến vụ án, cho thêm phần thảm thương, xót xa mà thôi. Vì dầu sao thì chuyện cũng đã qua rồi.
Tôi thương tiếc cho Bà Cố của Ngài.
Sinh được mỗi một cậu con trai, mà đã sẵn sàng quảng đại hy sinh dâng hiến cho Chúa, thì nay lại bị giáo dân giết chết.
Giá như Ngài bị tai nạn, hay là ốm đau bệnh tật rồi chết, thì cũng bình thường.
Nhưng đàng này, Ngài đã bị con chiên của mình phản bội, mới đau đớn làm sao.
Bà Cố như bị cắt đứt từng khúc ruột. Bà Cố chỉ muốn chết theo con của mình. Ôi thật xót xa cho thân phận làm mẹ. Nhưng biết làm sao đây?
Người Bạn ơi! Hãy nói cho tôi đi. Tôi thấy thật buồn và thật sợ hãi. Tôi cứ suy nghĩ miên man như thế, nhưng tôi vẫn tiếp tục công việc mục vụ ở giáo xứ của mình.
Tôi quyết định sẽ loan tin thêm, và viết thành câu chuyện, để cho mọi người được biết.
Bà Cố của Ngài, vốn là người kín đáo, tế nhị, khiêm nhu, nên đã can ngăn tôi: Thôi sự việc đã rồi, đừng làm rùm beng lên thêm nữa, vì cũng chẳng cứu vãn được gì.
Tôi hiểu ý Bà Cố. Nhưng sau khi nghe tôi giải thích, đây không phải cố ý làm rùm beng lên, mà chỉ muốn loan báo, kể chuyện thêm, để nêu gương sáng cho mọi người, nhất là các linh mục bây giờ, phải can đảm, và dám chấp nhận hy sinh, kể cả cái chết; và để giáo dân thêm lòng mộ mến, siêng năng đến cầu nguyện với Ngài mà thôi.
Bà Cố hiểu ý tốt lành của tôi, nên đã để cho tôi viết. Không những thế, bà cố còn cung cấp thêm tư liệu, mà chỉ có mình Bà Cố biết, vì là Mẹ của một linh mục.
Tôi hết sức cảm động, và biết ơn Bà Cố, vì nhờ có những nguồn tư liệu đó, mà dần đần tôi mới hiểu chính xác hơn về nguyên nhân cái chết của Ngài.
Tôi cố gắng dùng hết mọi lời lẽ, để yên ủi Bà Cố. Nhưng xem ra tình cảm của người mẹ dạt dào lắm, làm sao mà cầm lòng cho được. Bà thương nhớ con mình đêm ngày. Hết năm này qua năm khác, vẫn hồi tưởng lại chuyện cũ, và trong lòng cứ sôi lên, như điên, như dại.
Thế rồi, tôi xin Bà Cố hãy nhận tôi làm con, thay cho người con linh mục đã bị giết.
Bà Cố thấy được yên ủi phần nào, và sẵn sàng nhận.
Từ đó, hai mẹ con tôi, hay tâm sự và hay yên ủi nhau.
Tôi nghĩ, dù sao, mình có thêm một người mẹ nữa thì càng tốt, lại là mẹ của linh mục, bạn thân của mình, nên chắc chắn mối liên hệ thiêng liêng, sẽ rất cao quý và sẽ rất mãnh liệt.
Tôi coi Bà Cố như mẹ ruột tôi, và có khi còn hơn mẹ ruột tôi nữa.
Còn mẹ ruột tôi khi biết được chuyện này, thì cũng rất thích, và cảm thấy an tâm cho con trai mình. Bởi tôi đã có thêm một chỗ dựa tinh thần.
Từ nay, tôi có hai người mẹ trong đời linh mục. Người mẹ nào cũng hay. Người mẹ nào cũng cần. Người mẹ nào cũng tốt. Người mẹ nào cũng đứng đắn, tế nhị, dạt dào tình cảm.
Tính Bà Cố rất cẩn thận, nên khi tôi viết xong, Bà Cố đòi xem lại, coi có đúng không, kẻo sợ người ta hiểu lầm về con của bà, hoặc nghi oan cho con của Bà.
Điều đó cũng đúng thôi, bởi người mẹ nào mà lại chẳng bênh con.
Sự thật thì tôi viết đúng, như những gì đã xảy ra, và đúng như lời Bà Cố kể. Cả hai bên đều hài lòng, và chấp nhận nội dung câu chuyện này.
Một hôm, khi đứng cầu nguyện trước mộ của người bạn linh mục, tôi đã khoe với Ngài về câu chuyện này. Tôi xin Ngài, một khi đã về với Thiên Chúa, thì xin Ngài phù hộ cho mẹ con chúng tôi, những người còn đang phải chiến đấu, đang phải vác thánh giá trong đời.
Tôi xin Ngài phù hộ cho tôi, cũng được sẵn sàng, cũng được chuẩn bị trong tư thế, để đón nhận cái chết như Ngài.
Tôi xin Ngài an ủi cho hai người mẹ của tôi đang còn sống.
Dịp khác, đến thăm hiện trường, tôi chỉ còn biết đứng nhìn, và viếng mộ Ngài mà thôi. Bấy giờ, lòng tôi lại trào dâng, lại nghẹn ngào, cảm xúc và không cầm được nước mắt. Những giọt lệ, lại từ từ chảy trên gò má. Tôi cầu nguyện rất nhiều, rất lâu, trước ngôi mộ của Ngài, và cứ băn khoăn tự hỏi: Tại sao lại như thế này? Tôi lại khóc và xin bạn cầu nguyện nhiều cho tôi.
Những người dân đứng xung quanh thấy tôi khóc, họ cũng khóc theo. Họ cũng cầu nguyện, họ cũng niệm hương, họ cũng dâng hoa, tỏ lòng thành kính ngưỡng mộ Ngài.
Quả thật, một con người bị chết như thế, ai mà lại chẳng thương, chẳng tiếc: Một linh mục tận tụy, hy sinh, quảng đại, thánh thiện như thế, ai mà lại chẳng cần. Thế mà tại sao giáo dân của Ngài, lại hè nhau giết Ngài một cách tàn nhẫn đến như thế? Tôi vẫn chưa hiểu nổi.
Có những người bạn không cùng tôn giáo, trong đó có cả nhà sư, và những người vô thần, những bạn học văn hóa ngày xưa với tôi, cũng thường hay hỏi tôi về cái chết của linh mục bạn tôi, nhất là mỗi dịp lễ giỗ của Ngài. Những dịp này, tôi vẫn thường mời họ đến chơi, và thăm mộ của Ngài.
Trong câu chuyện, tôi vẫn kể cho họ nghe lại cái chết của linh mục bạn tôi. Họ cũng tỏ ra cảm phục, mến yêu, và kính trọng Ngài.
Gần đây, có một số chuyên viên, là đạo diễn, là nhà văn, là nhà thơ, là nhạc sĩ, là họa sĩ, là điêu khắc gia… Họ đã xin tôi nội dung câu chuyện và bài viết này, để về dựng lên thành phim, thành thơ ca, và tạo vẽ hình,… Tôi vô cùng sung sướng và sẵn sàng cung cấp cho họ. Tôi căn dặn họ, nếu cần tư liệu gì thêm, tôi sẽ hỏi Bà Cố, để có thêm thông tin chính xác và đầy đủ hơn. Chỉ mong sao cho cuộc đời và cái chết của người bạn linh mục của tôi, được mọi người biết đến, ở mọi phương diện.
Đó cũng là ao ước duy nhất của tôi bây giờ. Chẳng hiểu sao, từ sau cái chết của Ngài, lúc nào và bất cứ làm gì, hay nói gì, tôi cũng đều hướng về cái chết của người bạn đáng mến, đáng phục này.
Sau cùng, sau khi nghe câu chuyện tôi kể, có nhiều người hỏi tôi, với nhiều câu hỏi khác nhau: Nào là
- Tại sao hai linh mục lại quen nhau?
- Tại sao hai linh mục lại thân nhau?
- Gia đình của linh mục bị giết kia thế nào?
- Người thân của linh mục bị giết kia ở đâu? - Kẻ giết Ngài đã bị phạt như thế nào?
- Gia đình nạn nhân có được bồi thường hay không?...
Tôi cứ để cho họ hỏi, và hỏi tự nhiên, hỏi thoải mái.
Nhưng có một câu hỏi cuối cùng: Tại sao vị linh mục ấy bị nhiều vết thương khủng khiếp trên mình, và lại có một vết dao đâm ở ngực nữa?
Lúc ấy, tôi mới trả lời: Vị linh mục đó có tên gọi là Giêsu!!!... Bà cố, mẹ Ngài là Đức Maria.
Ông Ga-Rô-Đi là một nhà chính trị người Pháp khá nổi tiếng. Ông có một bà vợ rất nhan sắc, và cũng lại rất đức hạnh.
Thế nhưng, ông lại quá hăng say chạy theo con đường chính trị, nên đã hầu như quên hết tất cả: quên cả nhà cửa, quên cả vợ con. Ông coi sự nghiệp là tất cả, là trên hết.
Lúc đầu, thì có đêm ông còn trở về nhà, có đêm thì không. Rồi dần dần ông đã quên hẳn, không trở về nhà nữa, mà không một lời từ giã vợ con.
Sau nhiều năm mải mê công việc đất nước, một hôm, do một biến cố chính trị bất ngờ, ông không lường trước, nên ông đã bị gạt ra khỏi chính trường. May mà ông thoát được cảnh bắt bớ, tù tội.
Thất vọng và chán nản, ông lủi thủi trở về nhà, sau nhiều năm quên lãng và xa cách.
Khi bước vào nhà, ông ngạc nhiên: vì thấy trên bàn ăn có dư một phần chén đĩa đã dọn sẵn. Ông hỏi người vợ: Hình như em đang chờ ai đó phải không ?
Người vợ nhẹ nhàng trả lời: Không, không có ai khác hơn là anh. Vâng đã từ lâu lắm rồi, em vẫn âm thầm chờ đợi anh như vậy.
Hai vợ chồng ôm nhau hồi lâu, trong niềm cảm xúc dâng tràn.
Phải, sự âm thầm của bà Ga-Rô-Đi là một sự im lặng chờ đợi, một sự im lặng của hy vọng, bất chấp những năm tháng dài đăng đẳng. Biết bao nước mắt, biết bao đắng cay, trong âm thầm chịu đựng.
Cuối cùng, hy vọng của bà đã trở thành hiện thực: đó là hạnh phúc gia đình đã được nối lại.
*****
Bạn thân mến,
Có thể nói: cuộc đời của Đức Mẹ cũng đã bị bao phủ bởi một cái màn dày đặc của sự im lặng:
- Bắt đầu từ sự im lặng của Đức Mẹ ở Nagiarét, với biến cố Truyền Tin. Một sự thinh lặng đem lại bao hy vọng cho nhân loại.
- Rồi ba mươi năm âm thầm dưỡng dục Chúa Giêsu.
- Sau đó, lại nói tiếp ba năm lặng lẽ theo dõi những bước chân truyền giáo của con, trên khắp nẻo đường của đất nước Palestina.
- Cuối cùng, ở trên đồi Can-vê, Mẹ đã phải chịu một sự im lặng đầy đau xót ở dưới cây thập giá.
Tuy nhiên, sự im lặng của Đức Mẹ, không phải là một sự im lặng của trống rỗng, của buồn thảm, của thất vọng.
Nhưng sự im lặng của Đức Mẹ là một thứ im lặng thật phong phú, sự im lặng của Xin Vâng, sự im lặng của lòng tin sắt đá, sự im lặng của hy vọng vững vàng và của tình thương có sức cứu độ, có sức nảy sinh một cuộc sống mới.
Đức Mẹ đã tin trong sự im lặng và Ngôi Lời Con Thiên Chúa, nhờ biến cố Truyền Tin này, mà đã nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Nhờ đó, nhân loại có được một Đấng Cứu Thế.
Ước gì bài học im lặng của Đức Mẹ, trong biến cố Tuyền Tin, sẽ dạy cho mỗi người chúng ta có được một sự im lặng như Đức Mẹ, im lặng phó thác, im lặng Xin Vâng, im lặng như một dụng cụ ngoan ngoãn của Thiên Chúa, để Chúa dùng, mà mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người.
Sự im lặng của Đức Mẹ, không phải là một sự im lặng thụ động, nhưng là một sự thinh lặng của Xin Vâng, luôn làm theo thánh ý Thiên Chúa, luôn tìm thánh ý Thiên Chúa để sống, để làm theo, mà không làm theo ý riêng của mình.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp mỗi người chúng con, biết sống tinh thần thinh nặng cứu độ, như Đức Mẹ xưa. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 293) ------------------------------------- Bạn thân mến,
Trên một trang báo Tuổi Trẻ điện tử gần đây, có đăng câu chuyện đổi đời thật kỳ diệu của một con người, đã từng có một quá khứ ăn chơi sa đoạ thật khét tiếng, rất đáng cho chúng ta khâm phục và suy nghĩ:
Nếu có dịp đến huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, mà hỏi đến Giang Trung Tướng, hay Giang Giang Hồ, thì ai ai cũng đều biết:
Giang sinh ra tại thị trấn Chủ.
Ngay từ nhỏ, Giang luôn dẫn đầu các vụ ấu đả, trấn lột có tiếng ở trong vùng.
Lớn lên một chút, máu giang hồ đã không đủ để giữ chân Giang ở lại một thị trấn nhỏ bé. Người thanh niên đã cùng bọn đàn em kéo lên Hà Nội để thoả chí ăn chơi.
Chân ước chân ráo đến Hà thành, lúc đầu, người thanh niên, cùng với bọn đàn em, xin đi làm phụ hồ. Ngày đi làm, tối nhậu nhẹt trác tán.
Chả mấy chốc, mọi ngỏ ngách của Hà Nội, từ sàn nhảy, đến vũ trường, đến các động mãi dâm, anh đều thuộc nằm lòng.
Do việc làm ăn chân chính không đủ, để trang trải cho việc ăn chơi. Giang cùng đàn em lân la đến các bến xe, bến tàu, để hành nghề cướp giật.
Cảnh sát nhiều lần ra quân lùng bắt, nhưng đều thất bại.
Nhưng đi đêm mãi, rồi cũng có ngày gặp ma. Sau bao nhiêu lần tẩu thoát, cuối cùng, Giang cũng đã bị sa lưới pháp luật. Bản án 3 năm tù, đã kết thúc đời vàng son của một tướng cướp lừng danh.
Ra tù, như con ngựa bất kham, Giang về quê tiếp tục tính chuyện lâu dài. Bọn đàn em đang chờ người hùng về, để tiếp tục công việc bỏ dỡ bấy lâu nay.
Sau khi xem xét tình hình và địa bàn hoạt dộng, Giang cùng với đàn em tổ chức đường dây buôn lậu gỗ.
Nghề này, không mấy chốc đã biến Giang Đại Ca, thành Giang Lâm Tặc.
Vốn có tài thao lược, người lâm tặc này đã móc nối được với nhiều nhân viên kiểm lâm. Trung bình mỗi ngày, đội xe của Giang có thể tải từ 25 đến 30 chuyến xe gỗ về các thành phố lớn. Xe gỗ nào cũng ngang nhiên đi lại, bởi Giang đã khôn khéo lót đường. Mặc khác, tay chân của Giang lại có mặt ở khắp nơi.
Nhưng tiền bạc bất chính, và các cuộc vui chơi thác loạn, đã không thể mang lại cho con người một sự thanh thản, và một niềm hạnh phúc đích thực. Đó là lý do khiến cho người lâm tặc này, hằng đêm phải thao thức trăn trở không yên. Anh phải luôn đối đầu với ánh mắt mỉa mai của người đời và của mọi người trong gia đình. Anh phải luôn đối phó với luật pháp, khổ nhất là anh phải đối mặt với những ray rứt của lương tâm, mà không lúc nào anh được bình yên. Tuy tiếng nói của lương tâm rất vô hình, rất nhẹ nhàng, nhưng cũng rất đáng sợ.
Vợ con anh cũng không an tâm, mà hưởng thụ những đồng tiền bất chính của anh. Chính vì thế mà khoảng giữa năm 1999, trong một bữa liên hoan linh đình, Giang tuyên bố gát kiếm, để làm việc thiện.
Việc thiện, mà Giang nghĩ đến trước tiên là thành lập công ty thu dọn rác.
Giang thấy: Sau một ngày, thì đủ thứ các loại rác tràn ngập ở các đường phố, trông rất bẩn thiểu, mất vệ sinh, mất thẩm mỹ, và rất hôi hám. Nhất là vào những lúc thời tiết nóng nực, thì các đống rác bốc mùi, phải nói là rất khó chịu.
Với công ty của Giang, thì chỉ sau một đêm, là thị trấn lại trở nên sạch sẽ, thông thoáng, dễ chịu.
Việc thu dọn rác của công ty, ngày càng có uy tín. Từ chỗ, chỉ giải quyết rác ở thị trấn, nay công ty của Giang đã có mặt tại các bệnh viện, các trường học, các công viên, và các nhà nghỉ. Từ một đại ca, biến thành lâm tặc. Rồi từ một lâm tặc, nay đã trở thành một giám đốc. Sự đổi đời của người đàn ông này, đúng là một thông điệp, mang lại hy vọng cho tất cả những ai, đang từ hố sâu của lầm lạc, của tội lỗi, muốn ngoi lên để làm lại cuộc đời.
*****
Bạn thân mến,
Câu chuyện đổi đời như trên đây, chúng ta có thể đọc được rất nhiều trong Kinh Thánh, nhất là trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn:
- Từ những người đánh cá, đã trở thành tông đồ của Chúa. - Từ một người thu thuế, bị mọi người khinh khi coi thường, lại trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. - Từ một tên cướp, đang bị đóng đinh trên thập giá, đã sát kề cái chết, thế mà đã trở thành một vị thánh, được Chúa hứa cho vào thiên đàng đầu tiên. - Rồi Phaolô, từ một kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở thành người đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng đạo Chúa.
Và những câu chuyện như thế, lại được nhân lên rất nhiều, dưới nhiều hình thức rất khác nhau, phải nói là nhiều vô số kể, trong suốt dòng lịch sử 2000 năm của Giáo Hội.
Bởi, ơn Chúa thì luôn luôn có sức cải hoá con người, chẳng bao giờ là muộn, để trở thành một vị thánh. Đó là niềm hy vọng, mà Giáo Hội không ngừng mang đến cho con người, trải qua mọi thời đại, không phân biệt một ai, không loại trừ một người nào.
Đọc lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta thấy, Giáo Hội không phải lúc nào cũng được qui tụ, bởi những thành phần tốt trong xã hội.
Chúa Giêsu nói: Trong nhà Cha Ta, vốn có nhiều chỗ ở. Cho nên, tất cả mọi người đều có chỗ đứng trong nhà của Thiên Chúa.
Tất cả mọi người đều được mời gọi, để vào làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa. Dù là những người, đến rất muộn màn, vào giờ thứ 11, là những giờ phút cuối cùng của ngày, thì cũng đều được đón nhận và đối xử, như một người thợ đến sớm, đầu ngày.
Nói chung, những câu chuyện đổi đời trong Giáo Hội, đều là những cuộc gặp gỡ thật kỳ dịu của tình thương Thiên Chúa, với lòng sám hối của con người.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ thất vọng về những lầm lỡ của con. Xin cho con, luôn luôn cảm nhận được tình thương của Chúa và quyết tâm sống sao, cho xứng với tình yêu thương này. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 295) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Có một cô gái nghe nói ở bên Mỹ, cụ thể là tại New York, có một cửa hàng thật lạ đời vừa mới khai trương, đó là cửa hàng “Bán Chồng”.
Vì tò mò, và cũng vì muốn có một tấm chồng khả dĩ vừa ý, cô quyết định một phen đến đó xem sao:
Khi đứng trước cửa hàng, cô đọc thấy những dòng chữ:
- Cửa hàng này, bạn chỉ được ghé vào đây duy nhất một lần. - Cửa hàng này có 6 tầng lầu. Càng lên cao, giá trị hàng càng tăng. Người mua có thể chọn hàng, ở bất cứ tầng nào. Nhưng một khi đã lên tầng trên, thì không được phép trở lại tầng dưới thấp hơn.
Sau khi đọc xong hướng dẫn, cô bước lên tầng một. Ở đây cô đọc thấy: Tầng một, đàn ông ở đây có việc làm. Cô gái đã thấy hài lòng.
Nhưng cô cứ tiếp tục bước lên tầng 2. Ở đây cô đọc thấy: Tầng hai, đàn ông ở đây có việc làm, và có nhà cửa. Cô gái tự nhủ: Thế là quá tốt rồi, nhưng mình muốn hơn thế nữa cơ.
Tại tầng 3, cô thấy tấm bảng ghi: Đàn ông ở đây có việc làm, có nhà cửa và rất đẹp trai. Vaw!!! Thật tuyệt vời, gương mặt cô gái tỏ ra thật rạng rỡ. Nhưng cô gái muốn tiếp tục đi lên nữa.
Lên đến tầng 4, cô đọc thấy tấm bảng ghi: Tầng 4, đàn ông ở đây có việc làm, có nhà cửa, cực kỳ đẹp trai, và sẵn sàng làm việc nhà. Cô gái kêu lớn tiếng: Thật tuyệt, thật tuyệt vời, thế này thì ta còn mơ ước điều gì hơn thế nữa cơ chứ.
Nhưng không biết sao, cô vẫn cứ tiếp tục bước lên tầng trên. Ở đây, cô đọc thấy tấm bảng ghi: Tầng 5, đàn ông ở đây có việc làm, có nhà cửa, thật đẹp trai, chịu làm việc nhà, và rất galant. Cô nàng tính dừng lại ở đây, nhưng do dự đôi lúc, rồi cô lại tiếp tục bước lên tầng 6.
Ở đây, cô thấy có tấm bảng ghi: “Tầng 6, bạn là người khách thứ 32. 456.012 của tầng lầu này. Ở đây, không có một người đàn ông nào cả. Tầng cuối cùng này, là dành riêng, để chứng minh cho bạn thấy: Không thể nào thoả mãn được những đòi hỏi của phụ nữ. Xin cám ơn bạn đã ghé thăm cửa hàng”.
Thế là cô gái đành phải tiếp tục theo bảng chỉ dẫn để bước ra ngoài, mà lòng mang nhiều nỗi ấm ức nuối tiếc.
*****
Bạn thân mến,
Nghe xong câu chuyện, chắc hẳn là bạn sẽ mỉm cười, và chặc lưỡi một cái mà thốt lên: “Thật là đáng đời”.
Nhưng mà này bạn, đừng vội cười người. Hãy bình tĩnh một chút, mà nhìn lại chính mình xem. Coi chừng, chúng ta cũng giống như 32 triệu phụ nữ khách hàng của cửa hàng đó.
Bởi hằng ngày, chúng ta vẫn có khuynh hướng, đòi buộc mình và những người sống bên cạnh mình, phải là những con người hoàn hảo.
Nếu không như thế, thì tại sao chúng ta lại hay khó chịu với kẻ này người nọ, những người đang sống chung quanh ta, khi thấy họ có vẻ bề bộn đôi chút, có vẻ lôi thôi đôi chút, có vẻ luộm thuộm đôi chút, có lẫm cẩm đôi chút, hay vì có những quan điểm khác với ta, có những lối sống khác với ta, nên ta bực dọc, nên ta khó chịu với họ, có khi còn tỏ ra những phản ứng này khác.
Ta nên nhớ: Trong mỗi con người, ai ai đều có những ưu điểm, nhưng cũng hề thiếu những khuyết điểm đâu. Chúng ta không thể, và cũng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được một con người nào đó, có thể đạt được điểm chuẩn là 10, cho tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Và ta cũng thế thôi.
Hãy chịu khó quan sát và nhìn cho kỷ những người sống chung quanh ta, thì chúng ta sẽ thấy có một điểm chung này: Khi tạo thành con người, thì trời cao bao giờ cũng đặt để một vài cái vết khiếm khuyết nào đó.
Chẳng hạn:
- Người có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, lương bổng thu nhập cao, thì có thể lại mắc phải những chứng bệnh nan y.
- Người có tài, có sắc, thì tình duyên thường hay trắc trở.
- Người có của cải giàu sang, thì con cái lại ăn chơi, lêu lỏng, dẫn tới tình trạng hư hỏng.
- Còn những gia đình, có con cái học hành chăm ngoan giỏi giang, thì hoàn cảnh sống, có khi lại rất nghèo, rất khổ.
Nếu ta bị ám ảnh bởi những đòi hỏi hoàn hảo, thì coi chừng, ta sẽ bị rơi vào 2 cái hệ luỵ tất yếu này: đó là làm khổ người, và làm khổ chính bản thân ta nữa.
Nếu ta sống bên cạnh những người không hoàn hảo, theo tiêu chuẩn, theo yêu sách ta đưa ra, thì lập tức sẽ nảy sinh trong ta một cảm xúc bực bội khó chịu. Và những cảm xúc khó chịu này, sẽ tạo nên những phản ứng, có khi rất vô tình, nhưng cũng đã làm khổ cho không biết bao nhiêu người, đang sống bên cạnh ta.
Rồi chính bản thân ta nữa, khi ta thấy mình không đạt được một mức hoàn hảo nào đó như mình mong muốn, thì lập tức nơi ta, cũng sinh ra những chán chường, những tự ti mặc cảm, và làm cho ta thất vọng, buồn chán, có khi rất căng thẳng.
Và như thế, cuộc đời ta sẽ không bao giờ cảm thấy thoải mái dễ chịu.
Đã thế, có khi mọi chí hướng trong ta đều tan biến đi. Và ta sẽ không còn nghị lực, để cố gắng, để phấn đấu, để vươn lên cao hơn được nữa.
Còn đối với những người, đang phải sống bên cạnh ta, thì họ sẽ rất mệt mỏi và sẽ rất căng thẳng, vì những cố gắng của họ, sẽ không bao giờ đáp ứng được những mong đợi, những yêu cầu, và những đòi hỏi của ta.
Do đó, bài học lớn nhất trong cuộc đời, mà chúng ta phải học, và còn phải học mãi, học cho đến khi ta vẫy tay chào cuộc sống này lần cuối, thì mới hết học.
Bài học đó là phải biết đón nhận những cái bất toàn và những cái giới hạn của ta, của những người sống chung quanh ta, và của toàn bộ cuộc sống này.
Chúng ta biết: Sự khiếm khuyết sẽ không bao giờ là đẹp, sẽ chẳng bao giờ là điều ta mong muốn.
Nhưng ta cũng đừng bao giờ quá bận tâm, quá lo lắng, quá trăn trở về những khiếm khuyết đó, dù là của người, dù là của ta, dù là của ngoại cảnh.
Ta nên biết rằng: Ông trời sẽ chẳng bao giờ cho ai đầy đủ tất cả, và cũng sẽ chẳng bao giờ cất khỏi một người nào đó hết tất cả mọi thứ.
Mặc khác, khiếm khuyết trong từng con người, nhiều khi lại có một giá trị riêng của nó.
Chẳng hạn:
Nó sẽ giúp ta kềm hãm lại tính kiêu căng tự phụ của ta, khi đứng trước những lỗi lầm và thiếu sót của người khác, bởi ai cũng có những khiếm khuyết, không ai là thập toàn, không ai là hoàn chỉnh đâu. Chính bản thân ta cũng thế thôi.
Chúng ta thử quan sát những viên bi tròn trịa, được đặt lên một mặt phẳng, thì mỗi viên sẽ lăn ra một phía, chẳng viên nào chịu nằm bên cạnh viên nào. Nhưng nếu ta đặt những cục đá méo mó, lên một bề mặt, chẳng mấy bằng phẳng, thì chúng sẽ luôn khắc khít với nhau, tạo thành một khối duy nhất.
Vậy, nếu những khiếm khuyết của những hòn đá, đã giúp cho chúng gắn bó, kết hợp chặt chẽ lại với nhau, thì những khiếm khuyết và giới hạn của ta, của những người sống chung quanh ta, và cả của những hoàn cảnh bất toàn mà ta đang sinh sống, vẫn có thể giúp ta liên kết với nhau, nâng đỡ nhau, và giúp đỡ nhau thật nhiều, để nhờ đó, mỗi ngày chúng ta một thêm nhiều tiến bộ hơn, sẽ trở nên thêm hoàn hảo hơn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải hoàn thiện như Cha chúng con trên trời là Đấng hoàn thiện, nhưng Chúa cũng biết là, chúng con hãy còn quá nhiều khiếm khuyết và giới hạn.
Xin cho chúng con, luôn biết đón nhận những giới hạn của chúng con, của tha nhân, và của cuộc sống nơi trần gian này.
Xin giúp con luôn biết cùng nhau vươn lên, từ những khiếm khuyết, từ những giới hạn, của con và của mọi người, để khi càng thêm tuổi đời, thì chúng con lại càng thêm hoàn thiện hơn nữa, trong suy nghĩ, trong cách nói năng, và trong mọi cách ứng xử của chúng con, để nhờ đó, con sẽ xứng đáng hơn nữa là một người con của Chúa, được Chúa yêu thương. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 298) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Trong sách Hạt Giống Tâm hồn, có một câu chuyện kể như sau:
Một cậu bé 10 tuổi, quyết định học môn võ Judo, cho dù cậu đã thiếu mất một cánh tay trái, do một tai nạn xe hơi. Cậu theo học võ Judo với một võ sư người Nhật. Sau 3 tháng luyện tập, cậu đã cảm thấy mình có nhiều tiến bộ rồi, mà sao thầy cũng chỉ dạy cho mình có một thế võ duy nhất thôi.
Một hôm, cậu đã đánh bạo hỏi thầy: Thưa thầy, chẳng lẽ, con không thể học được các thế võ khác hay sao ?
Nhưng thầy trả lời: Đó là thế võ duy nhất mà thầy dạy cho con, và cũng chính là thế võ duy nhất, mà con cần phải tập luyện cho thật nhuần nhuyễn.
Tuy không hiểu hết lời thầy, nhưng với lòng tin tưởng nơi thầy của mình, cậu bé vẫn tiếp tục chuyên chăm luyện tập.
Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đến tham dự một cuộc thi võ Judo. Tại cuộc thi đấu, cậu đã thắng 3 trận liên tiếp một cách dễ dàng. Cuối cùng, cậu được bước vào vòng chung kết.
Lần này, cậu gặp phải một đối thủ cao hơn, lớn hơn, to hon, khoẻ hơn, và dày dạn kinh nghiệm hơn, nên khi vào trận đấu chưa được bao lâu, thì cậu bé đã bị trúng đòn liên tiếp, và bị đối phương áp đảo hoàn toàn.
Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương nặng, trọng tài đề nghị sớm kết thúc trận đấu. Nhưng người thầy không đồng ý, và yêu cầu cứ để trận đấu được tiếp tục.
Ngay sau khi trận đấu được bắt đầu lại, thì đối phương đã phạm phải một sai lầm rất nghiêm trọng, đó là anh ta coi thường đối thủ, nên mất cảnh giác.
Ngay lập tức cậu bé dùng thế võ duy nhất của mình, đã quật ngã được đối phương, và đã khoá chặt anh ta trên sàn đấu.
Trọng tài thổi còi tuyên bố: Cậu bé đã đoạt chức vô địch. Mọi người đứng lên vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy khắp võ trường.
Trên đường về, 2 thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Cậu bé thắc mắc:
“Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch, chỉ với có một thế võ duy nhất thôi?”
Thầy trả lời: “Con đã chiến thắng được vì 2 lý do:
- Lý do thứ nhất, là vì con, gần như đã làm chủ được, một trong những cú đánh hiểm nhất và hiệu quả nhất của môn võ này.
- Lý do thứ 2, là vì đối thủ của con, chỉ có thể phá được thế võ này, khi khoá chặt được cánh tay trái của con, nhưng con thì lại không có cánh tay trái”.
*****
Bạn thân mến,
Theo nhận định của thầy dạy võ: “Cậu bé chiến thắng, là vì cậu đã chuyên chăm tập luyện, và nhất là cậu đã biết biến cái điểm yếu trên thân thể, thành một điểm mạnh vững chắc trong thi đấu”.
Có ưu thế là tốt, nhưng nếu biết biến khuyết điểm thành lợi điểm cho mình, thì mới là điều kỳ diệu hơn.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi quyết định cho sự thành công của cậu bé, đó là cậu chấp nhận tình trạng khiếm khuyết của bản thân, rồi cố gắng vươn lên từ thực tế khắc nghiệt đó.
Và nhất là, cậu đã đặt hết tin tưởng vào sự rèn luyện của thầy, tin tưởng môt cách tuyệt đối.
Trước đây, khi quyết định đi học võ, với một cánh tay, có lẽ cậu bé, cũng chỉ muốn tỏ ra, mình là một con người, có đầy đủ giá trị như mọi người thôi. Nào ngờ, bây giờ, cậu đã đạt được thành tích quá lòng mong ước.
Ngày nay, người ta dùng chữ khuyết tật, để chỉ những người không có một thân thể trọn vẹn, thay cho chữ tàn tật. Bởi, họ chỉ có khuyết, chứ không có tàn. Họ vẫn có thể làm được những điều, mà bao người bình thường khác vẫn làm, và có khi còn làm được một cách xuất sắc nữa.
Ở đây, phần thưởng lớn nhất dành cho cậu bé Judo, là cậu đã biết vượt qua được nghịch cảnh, để đạt tới một giá trị thật cao.
*****
Bạn thân mến,
Trong đời sống người kitô hữu, chúng ta hãy bắt chước cậu bé học Judo, mà đặt niềm tin tưởng trọn vẹn nơi thầy Chí Thánh của chúng ta, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Đấng quyền năng.
Khi tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, chúng ta sẽ học được những chân lý thật cao siêu, và sẽ làm được những điều kỳ diệu phi thường, như Chúa Giêsu đã có lần nói:
Nếu có ai nói với núi này rằng: Hãy dời chỗ đi nơi khác và nhào xuống biển, mà trong lòng tin tưởng chẳng chút nghi nan, thì mọi sự sẽ được như ý (Mt 21,21b).
Vấn đề ở đây, là chúng ta phải kiên trì giữ vững đức tin, trong mọi hoàn cảnh gian nan thử thách của cuộc sống. Cho dù cuộc sống của chúng ta hãy còn gặp phải biết bao gian nan trắc trở, có khi rất nặng nề, có khi rất thê thảm, có khi cũng rất khó hiểu, nhưng chúng ta hãy can đảm, mà nói lên hai tiếng Xin Vâng: Xin vâng một cách tuyệt đối, thì mọi sự sẽ ổn thoả cho ta.
Chúng ta hãy nhìn xem cậu học trò Judo của chúng ta:
Trong khi các bạn đồng môn, được người thầy dạy cho nhiều thế võ khác nhau, còn cậu thì chỉ được dạy có một thế võ duy nhất mà thôi.
Vì tin tưởng nơi thầy, cậu đã không ganh tỵ, đã không bất mãn, đã không bỏ cuộc. Cậu vẫn tiếp tục chuyên cần luyện tập, vẫn tin tưởng tuyệt đối nơi sự huấn luyện của thầy, kể cả trong khi thi đấu, dù lúc thắng hay lúc bại, dù đang trong tư thế tấn công, hay đang phải hứng chịu những trận đòn rất đau đớn của đối thủ, thì cậu vẫn không nản lòng, cậu vẫn không bỏ cuộc, cậu vẫn tiếp tục vâng lời người thầy của mình một cách tuyệt đối, để tiếp tục thi đấu.
Và cuối cùng, khi đạt tới đỉnh vinh quang, thì cậu mới hiểu được đường lối và ý hướng của thầy.
Cũng vậy, cho dầu cuộc sống của chúng ta có thiếu thốn, có thiệt thòi đủ thứ, có kém may mắn hơn kẻ này người nọ, có gặp thử thách trăm chiều, hay gặp phải những hoàn cảnh éo le, ngang trái thật thê thảm, thì chúng ta cũng hãy vẫn cứ tiếp tục tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, sắp xếp an bài cho ta.
Với niềm tin vững mạnh và trưởng thành đó, Chúa sẽ làm nhiều điều kỳ diệu cho cuộc sống của ta, chỉ với những nén bạc đang có, do Chúa trao ban. Bởi Chúa quyền năng. Bởi Chúa yêu ta.
Đọc Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta thấy: Thánh Gióp đúng là một mẫu gương, để cho chúng ta noi theo bắt chước, trong việc trung thành và yêu mến Chúa.
Ông Gióp đã tin tưởng, đã cậy trông, đã phó thác vào Chúa, trong mọi tình huống rất éo le trong cuộc sống: Dù lúc ông được hạnh phúc giàu sang, hay khi ông gặp gian nan cùng khốn, ông vẫn bình tĩnh mà nói với Chúa:
“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng thôi. Chúa đã ban cho, nay Chúa lại lấy đi: Con xin chúc tụng thánh Danh Chúa!"
Và Kinh Thánh nói tiếp:
“Trong tất cả những hoàn cảnh bi thương đó, ông Gióp đã không hề phạm tội, đã không hề buông ra những lời lẽ than phiền hay trách móc, xúc phạm đến Thiên Chúa (Giop 1,21-22).
Lạy Chúa, xin ban cho con một đức tin thật vững mạnh như thánh Gióp, để trong mọi hoàn cảnh gian nan thử thách đau buồn, con vẫn một mực trung kiên, trong niềm tin yêu, cậy trông, phó thác vào Chúa, như một người con hiếu thảo.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 300) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất tuyệt, chứng minh cho cử toạ thấy, là Tôn giáo, chỉ là một thứ thuốc phiện, mê hoặc, và ru ngủ dân chúng mà thôi.
Thế nhưng, đến phần hội thảo, khi bàn bạc, trao đổi, và góp ý, thì một cụ già đứng lên phát biểu như sau:
- Thưa Cử toạ, theo tôi, thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt, chỉ là chuyện láo khoét mà thôi.
Mọi người ngỡ ngàng quay mặt về phía cụ già, và tỏ vẻ ngạc nhiên, không hiểu cụ muốn nói gì.
Riêng viên kỹ sư thuyết trình viên, thì hết sức bực bội, khó chịu, nhưng cũng tỏ ra bình tĩnh và lịch sự hỏi lại cụ già:
- Sao cụ lại nói thế ?
Cụ già thản nhiên trả lời:
- Thưa Ngài, những kiết thức về tôn giáo mà Ngài vừa trình bày, tôi thấy chẳng có ăn nhập gì về tôn giáo. Cho nên, tôi thấy Ngài chẳng có một chút hiểu biết gì về tôn giáo, lại cũng chẳng có một chút kinh nghiệm gì về tôn giáo, thế mà Ngài lại mạnh dạn lên tiếng, phát biểu, giải thích về tôn giáo, và nhất là còn chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây, tôi chả biết tí gì về khoa học, liệu tôi có quyền phê bình khoa học, như tôi vừa phát biểu hay không?
***
Bạn thân mến,
Khoa học và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối nghịch nhau. Làm thế nào, để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ những ý nghĩ trên, chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ đoạn Tin mừng theo thánh Gioan, đoạn 20 câu 25, nói về thánh Tôma, để chúng ta thấy: Thánh Tôma, nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa học, thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học rất cao, bởi vì các nhà khoa học thì chỉ tin, chỉ công nhận là thật, những gì họ có thể kiểm chứng được. Các nhà khoa học, trước khi tin, thường là nghi ngờ. Cái đó, người ta gọi là óc phê bình.
Jean Guitton, là một triết gia, sử gia và khoa học gia của người Pháp khá nổi tiếng, đã nói một câu thật chí lý như sau:
“Tôi luôn luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi, mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó, mà tôi có thể tin vững chắc”.
Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình trong niềm tin tôn giáo hay không?
Dẫu muốn hay không, thì trong quá trình của niềm tin, chúng ta cũng đã từng gặp thấy có rất nhiều nghi ngờ, như ông Bernanos, viện hàn lâm Pháp, đã nói:
“Tin, là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những giây phút tôi trông cậy”.
Làm sao chúng ta có thể dung hòa được, giữa khoa học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin.
Nếu phân tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng của khoa học và đức tin, là nhằm tới Thiên Chúa. Tuy nhiên phương pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
- Phương pháp của khoa học, là phương pháp thực nghiệm, đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần, đưa dẫn con người tới Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể ấy.
- Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa, và dựa vào những điều Thiên Chúa đã mạc khải, dựa vào những điều Thiên Chúa đã tỏ lộ, dựa vào những điều Thiên Chúa đã nói với người, qua lịch sử, qua các biến cố, qua các tiên tri, qua Giáo Hội, để con người có thể tìm biết Thiên Chúa.
Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết đức tin, và nhất là phải làm cho niềm tin có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Phần chúng ta, những người tín hữu bình thường, thì sẽ không đặt vấn đề như thế.
Chúng ta thường nói: tin yêu, nghĩa là, tin và yêu, thường đi liền với nhau. Càng yêu mến nhiều, thì càng tin nhiều, lòng tin tưởng càng vững chắc. Và những người đã có lòng mến Chúa thật sự, thì lại cũng không cần phải tin nữa, bởi họ đã thấy.
Đây là trường hợp của thánh Gioan, được ghi lại trong Kinh Thánh, khi Gioan nhìn thấy bóng người, đi trên mặt biển giữa đêm tối, thì chỉ có mình Gioan kêu lên: Thày đấy. Đang khi đó các tông đồ khác, thì lại bảo là ma.
Rồi cũng chính thánh Gioan, khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với những dây băng và khăn liệm, được xếp gọn ghẽ ở một nơi, thì Gioan đã tin là Chúa đã sống lại thật.
Sở dĩ Gioan đã thấy, và đã tin, bởi Gioan đã có lòng yêu mến Chúa nhiều.
Giữa các anh em tông đồ lúc bấy giờ, Gioan đã được anh em tặng cho cái tên, là “Người môn đệ Chúa yêu”, vì ông đã yêu Chúa nhiều.
Chúng ta có thể thấy điều đó trong Bữa Tiệc Ly, khi Gioan tựa đầu vào lòng Chúa, để hỏi nhỏ, xem ai là kẻ đã nộp thầy.
Hay ở đồi Canvê, trong cơn đau đớn nhục nhã tột cùng, chúng ta chỉ thấy có thánh Gioan đứng kề bên thánh giá Chúa. Còn các tông đồ khác, thì không thấy bóng dáng một ai.
Và trong cơn hấp hối, Chúa đã trối Gioan làm con Đức Mẹ, và đã trao Đức Mẹ cho Gioan chăm sóc: “Đây là Mẹ con”.
Lạy Chúa, xin hãy thắp lên nơi con ngọn lửa yêu mến, để nuôi dưỡng lòng tin nhỏ bé của con, để nhờ đó, con được diễm phúc thấy Chúa rõ ràng hơn, trong mọi hoàn cảnh thử thách đau thương, mà con gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 302) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Người ta kể lại rằng: Ở một cửa hàng bán hoa, đã có xảy ra một sự nhầm lẫn thật đáng tiếc.
Số là hôm đó, cửa hàng làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau:
- Một là để chúc mừng ngân hàng, vừa mới khai trương một chi nhánh mới.
- Hai là để chia buồn với một đám tang của một người thân mới qua đời.
Thế nhưng, khi chuyển các lẳng hoa đi, thì người chuyển hoa đã đưa nhầm địa chỉ:
- Lẵng hoa gửi cho đám tang thì lại nhận được lời chúc:
“Chúc Mừng Khai Trương Một Cơ Sở Mới”.
- Còn Chi Nhánh Ngân hàng, đang được khai trương, thì lại nhận được hàng chữ:
“Thành Kính Phân Ưu”.
Sự nhầm lẫn này, chỉ là một sự vô tình thôi, chẳng ai mong muốn. Nhưng sự nhầm lẫn này, quả là một điều đáng trách, thiếu trách nhiệm trong nghề nghiệp. Bởi sự nhầm lẫn này, đã gây nên không biết bao nhiêu phiền hà và nghĩ ngợi, cho không biết bao nhiêu người.
*****
Nhưng dưới một góc cạnh nào đó, nó cũng gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ hữu ích cho cuộc sống.
Chẳng hạn: Đời là bể khổ. Cho nên, chết chính là lúc chúng ta bước ra khỏi cái bể khổ này, là chúng ta được giải thoát khỏi mọi phiền lụy, khổ ải của cuộc đời, là chúng ta xoá đi mọi lo âu phiền muộn ở trần gian. Nhờ cái chết, chúng ta sẽ không còn đau khổ nữa, sẽ không còn lo âu phiền muộn nữa, sẽ không còn cảnh bon chen vất vả nữa, sẽ không còn vật lộn với cuộc sống nữa.
Như thế, chết chính là một hạnh phúc, là một chuyện đáng mừng.
Mà đáng mừng nhất, và cũng là hạnh phúc lớn nhất, là chúng ta được về với Thiên Chúa là Cha chúng ta, là Đấng đã yêu thương ta, là Đấng đang chờ đón ta. Mà hạnh phúc bên Thiên Chúa, mới là hạnh phúc thật, mới là hạnh phúc lâu bền, mới là hạnh phúc vĩnh cửu.
Đó chính là Quê Hương đích thật của chúng ta.
Ông bà chúng ta xưa nay vẫn thường nói: “Sinh ký tử qui”. Có nghĩa là, sống ở trần gian này chỉ là tạm bợ thôi. Chết mới là trở về quê thật của mình. Như vậy, chết, chính là một sự vui mừng, chứ không phải là một sự buồn bã, đớn đau, xót thương, nuối tiếc.
Ai mà lại đi thương tiếc cho một đứa con xa nhà, nay được trở về?
Ai mà lại buồn bã, khi mà được đoàn tụ với Cha của mình trên trời, sau bao nhiêu chục năm xa cách?
Còn trong Truyền Thống văn hoá Việt Nam, thì mọi người đều tin rằng: Chết là quy tiên, là một sự trở về, về chính nơi mình đã xuất phát ra.
Ngày xưa, tại các nghĩa trang ở miền quê, người ta vẫn thường chôn xác người chết dưới đất sâu. Rồi sau khi đặt quan tài xuống, người ta lấy đất mới đào, vun đắp lên trên, thành một cái nấm mộ, giống như hình một người phụ nữ mang thai.
Điều này ngụ ý diễn tả về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, mà ta đã được sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, là nơi ấm cúng nhất. Như thế, nấm mồ, không phải là dấu chỉ, về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh, mà là dấu chỉ, về một cuộc trở về với nguồn cội đích thực của mình, trở về chính nơi mà mình đã xuất phát ra.
Mà cội nguồn đích thật của chúng ta là Thiên Chúa, là Thiên Đàng, là hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Mừng Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng Chúa đã sống lại, là mừng Chúa đã ra khỏi mồ, nấm mồ của sự chết. Khi mà nấm mồ của Chúa đã bị bật tung ra, khi mà tảng đá không còn che lấp cửa mộ nữa, khi mà nấm mộ và các khăn liệm đã không còn phủ kín con người của Chúa nữa, thì đó là dấu chỉ Chúa đã sống lại.
Sự sống lại huy hoàng của Chúa, đã đẩy lùi sự vắng lặng và sự cô quạnh của đêm tối sự chết.
Qua những sự việc này, Chúa muốn chúng ta hiểu:
Con người ta sinh ra, không phải chỉa là để chờ chết, mà là để chúng ta bước vào cuộc hành trình tiến về nhà Cha trên trời.
Chúa Phục sinh, là một tin vui, loan báo cửa trời đã rộng mở.
Chúa Phục sinh, còn là một lời mời gọi mọi người, hãy cất bước, hãy tiến lên mà bước vào đó.
Bởi, trời là cõi phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, sẽ không còn đêm tối nữa, cũng sẽ không còn những cuộc chia tay ly biệt nữa, cũng sẽ không còn nước mắt đau thương nữa.
Mừng Chúa phục sinh, là chúng ta mừng Chúa đã sống lại, mừng Chúa đã về trời, mừng Chúa đã về với Cha Ngài.
Ngài không về đó một mình. Bởi, ở đồi Canvê, Chúa đã hứa Thiên Đàng cho người trộm lành: “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”.
Còn trong Phúc Âm thánh Gioan đoạn 14 câu 3, có ghi lại câu Chúa hứa Thiên Đàng, cho những ai tin và theo Ngài như sau:
“Thầy ra đi, là để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, thì các con cũng sẽ ở đó với Thầy”.
Đây chính là nền tảng của niềm tin, của người công giáo chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng Phục Sinh, là Đấng đã sống lại, là Đấng hằng sống. Và chúng ta cũng tin một cách xác tín, là chúng ta cũng sẽ được sống lại, cũng sẽ được sống hạnh phúc muôn đời bên Thiên Chúa, sau những ngày sống ở trần gian này.
Ước gì niềm vui Phục sinh, sẽ biến đổi chúng ta thành những con người mới. Những con người của ân sủng. Những con người của tự do. Những con người, không còn bị những đam mê thấp hèn thống trị nữa, không còn bị những thói đời gian dối, làm mất đi những vẻ đẹp cao quý, của phẩm giá con người, được tạo dựng nên, giống hình ảnh Chúa.
Ước gì niềm tin vào Chúa phục sinh, giúp cho mỗi người chúng ta, biết cố gắng phấn đấu liên lỉ mỗi ngày, để có thể vượt qua được những điều ác nơi ta, để có thể thắng được những tật xấu luôn sẵn có nơi ta.
Mà để được như vậy, chúng ta hãy chấp nhận sống hy sinh, chấp nhận sống gian khổ, hãy hăng say làm các việc từ thiện bác ái, hãy tập sống quên mình, để còn biết nghĩ đến người khác. Nhờ đó mà sau này, chúng ta cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Chúa, nơi quê hương vĩnh cửu đích thật trên thiên đàng.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin hướng dẫn con trên mọi nẻo đường đời con đi.
Xin nâng đỡ con trong mọi tình huống của cuộc sống, để mai sau, con cũng được về Thiên Quốc, chung hưởng hạnh phúc muôn đời bên Thiên Chúa. Amen
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 304) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Chuyện xưa kia kể lại rằng: Có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất tốt bụng, thường rất rộng rãi trong việc ban phát tiền bạc, bỗng lộc, và của cải châu báu, cho tất cả những ai làm đẹp lòng nhà vua.
Thế là triều đình, kẻ tới người lui thật tấp nập:
- Các hoàng tử, thì đua nhau xu nịnh, với hy vọng sẽ được vua cha chiếu cố, mà ban ngai vàng cho mình.
- Còn các quan trong triều đình, thì tìm mọi cách nịnh bợ, để được thêm bổng lộc, hoặc để được thăng quan tiến chức.
Nói chung, là ai ai cũng đều tỏ ra hết lòng đối với nhà vua, ai ai cũng tỏ ra trung thành đối với nhà vua, ai ai cũng tỏ ra sẵn sàng sống chết với vua.
Phần nhà vua thì quá tốt bụng, nên rất dễ tin vào những lời nịnh hót đó. Thế là nhà vua thoải mái ban phát bổng lộc cho kẻ này người nọ, mà không hề có một chút nghĩ ngợi gì.
Do đó, lên ngôi vua chưa được bao lâu, thì ngân khố quốc gia đã bị thâm thủng hao hụt quá nhiều, tài sản của triều đình hầu như đã cạn kiệt. Mọi người đều rất vô tư.
Riêng chỉ có một vị trung thần, là quan ngự y (tức là thầy thuốc riêng của nhà vua), thì rất lo lắng cho tiền đồ của Tổ Quốc, và cho cả triều đình nhà vua nữa. Ông đã nhiều lần khuyên can cảnh báo nhà vua, nhưng vua thì lại không nghe. Lúc nào Vua cũng nghe theo bọn xu nịnh.
Rồi bổng một hôm, vua chiều theo ý quan ngự y, để thử lòng dạ mọi người.
Thế là quan ngự y công khai thông báo: Nhà vua lâm bệnh nặng, thập tử nhất sinh, tình trạng thật nguy kịch, tính mạng nhà vua như treo trên sợi chỉ mành.
Quan kêu gọi mọi người, hãy chung sức mà lo chữa trị cho nhà vua.
Thế là kẻ lên rừng, người xuống biển, mọi người đều đua nhau đi tìm những vị thuốc quí, để mang về trị bệnh cho nhà vua. Bầu khí nhộn nhịp trong cả nước, diễn ra thật tốt đẹp: Từ các quan đại thần cho đến thứ dân, ai ai cũng đều quan tâm đến bệnh tình của nhà vua.
Nhưng khi nghe quan ngự y nói, là cần có một trái tim của một vị hoàng tử nào đó, cho một toa thuốc quí hiếm, đặc trị, thì các hoàng tử trong cung, đều lần lượt ba giò bốn cảng chạy trốn hết.
Rồi vì triều đình không còn thấy bóng dáng một vị hoàng tử nào nữa, cho nên quan ngự y bèn tuyên bố tiếp, nếu không có trái tim của một vị hoàng tử, thì trái tim của một vị quan nào đó, cũng có thể tạm thay thế được.
Thế là các quan trong triều đình, lại cũng lần lượt biến mất, không còn thấy bóng dáng một ai nữa.
Bí quá, quan ngự y bèn tuyên bố, trong tình trạng khẩn cấp mà như thế này, thì nếu có trái tim của một công chúa, hay của một lính hầu nào đó cũng được.
Nhưng, khi nghe tin đó, cả công chúa, lẫn lính hầu, và hàng trăm thê thiếp, đều biến dạng, không còn thấy bóng dáng một ai lai vảng trong cung điện nữa.
Thường ngày, thì cung điện, tấp nập nhộn nhịp kẻ ra người vào, để xin ân huệ, để xin bổng lộc. Thế mà bây giờ, triều đình lại vắng tanh, như một bãi tha ma!
Bấy giờ, nhà vua mới tỉnh ngộ, mới hiểu ra lòng dạ của con người.
*****
Bạn thân mến,
Đời là thế, thế đời là thế. Sẽ không có ai dám chết cho ai đâu: Dù người đó là cha mẹ, mà công ơn của các ngài thật lớn lao, có thể sánh ví được với núi, với sông, với biển rộng mênh mông bao la.
Nếu là con, mà chúng ta không dám chết cho cha mẹ, thì thử hỏi, có ai dám chết thay cho những kẻ đang thù ghét ta, những kẻ đã phản bội ta, những kẻ đang làm hại ta, những kẻ muốn phá đổ sự nghiệp của ta, những kẻ tìm cách đưa ta đi vào chỗ chết?
Ấy thế mà lại có một Đấng, đã dám làm cái chuyện đó, đã dám chết thay cho ta, khi ta hãy còn là một tội nhân, khi ta hãy còn là một kẻ phản nghịch với Ngài, khi ta hãy còn là kẻ thù của Ngài, Đấng đó là Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã bỏ trời, xuống thế làm người.
Ngài đã dám can đảm chấp nhận cái chết thay cho con người, chết để đền tội cho con người. Ngài chết để làm hoà con người lại với Thiên Chúa, để cho con người có thể nối kết lại tình nghĩa với Thiên Chúa, để cho con người, có thể được Thiên Chúa nhận làm con trở lại, và để nhờ đó, con người có thể sống hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa.
Chính thánh Phaolô, trong thư gởi cho giáo dân Rôma, đoạn 5, cau 10 đã ghi lại như sau:
“Ngay khi chúng ta hãy còn là kẻ thù nghịch với Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã sai phái Con của Người xuống trần gian, để chết thay cho chúng ta, để đền tội thay cho chúng ta, để làm hoà chúng ta lại với Thiên Chúa”.
Chính cây Thánh giá, và cái cách chết đau thương, nhục nhã của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, đã là một bằng chứng thật hùng hồn cho tình yêu thương cao quí này.
Vì yêu thương chúng ta, mà Thiên Chúa đã lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một Ngài, để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người chúng ta!
Vì yêu chúng ta, mà Thiên Chúa Cha đã chấp nhận lấy mạng đổi mạng.
Phải nói, là Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là một thứ tình yêu cao cả, tuyệt vời, một thứ tình yêu không biên giới, mà lòng trí con người không sao có thể hiểu nỗi.
Lạy Chúa, con xin hết lòng cám tạ Chúa, vì tình yêu vô cùng cao quí, mà Chúa đã dành cho con. Xin giúp con biết cảm nhận được tình yêu vô biên này, nhất là xin biến đổi cuộc sống của con, sao cho xứng đáng hơn nữa với tình yêu thương, mà Chúa dành cho con. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 306) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Trong một lần gặp gỡ một người giáo dân đến xin lễ, tôi đã được nghe một câu chuyện khá lý thú về một gia đình. Tôi xin được phép kể lại đây, để chúng ta cùng nhau suy nghĩ:
- Bởi câu chuyện này, vẫn có thể xảy ra ở bất cứ gia đình nào.
- Bởi câu chuyện này, cũng có thế hữu ích cho nhiều gia đình.
- Bởi câu chuyện này, cũng đã từng làm đau đầu nhiều cha mẹ, mà nhiều cha mẹ đã cảm thấy như bế tắc, hầu như không có lối ra.
Để cho chuyện kể được tự nhiên, tôi xin được phép tự đặt tên cho người kể chuyện là bà 9 Tâm. Bà 9 kể cho tôi nghe như sau:
Như Cha đã biết: “Con có 2 đứa con trai. Thời niên thiếu, chúng nó rất ngoan hiền, rất siêng năng học hành, đã từng tham gia các đoàn thể của giáo xứ, đã rất nhiệt tình trong các sinh hoạt, và cũng rất chuyên chăm trong các việc kinh lễ.
Nhưng rồi khi đi xa nhà, xa tầm giáo dục của gia đình, và xa các sinh hoạt của giáo xứ, nhất là khi bước vào cổng trường Đại Học, thì cũng là lúc 2 anh em nó, trở nên khô đạo, mất ơn Chúa, và dần dần xa rời đức tin. Tôn giáo, đã không còn có một ý nghĩa gì nữa đối với chúng.
Đã từ bao năm nay, con rất khổ tâm, bởi con đã không còn biết phải dùng lời lẽ thế nào, để khuyên dạy, để hướng dẫn chúng được nữa. Con chỉ biết khóc và âm thầm cầu nguyện thôi. Con đã cố gắng tìm thời gian, để có thể đến nhà thờ nhiều hơn, để thỏ thẻ tâm sự với Chúa.
Trong những lúc đau buồn, con đã đi lễ nhiều hơn, con đã rước lễ sốt sắng hơn. Con cũng đã tham gia các đoàn thể, để học hỏi thêm về cách sống đạo, và cũng để nhờ các chị em tiếp lời cầu nguyện với con.
Cùng với các chị em, con cũng đã tham gia các công tác từ thiện bác ái xã hội, để lập thêm công đức, để hổ trợ cho những lời kinh nguyện của con. Có thể nói, là không có giây phút nào, mà con quên cầu nguyện cho 2 đứa con của con. Bởi đời sống đạo của chúng, đã là nỗi lo, luôn luôn ám ảnh trong tâm hồn con, mà không có lúc nào nguôi”.
Rồi, bỗng một buổi sáng Chúa nhật, sau khi rước lễ xong, con quay trở về ghế quỳ, thì bất ngời, con trông thấy 2 cậu con trai của con đang quỳ đọc kinh sốt sắng, ở dãy ghế gần đó, phía bên nam. Con không thể tin vào mắt của con nữa.
Cha có biết không, con vui mừng biết chừng nào. Hôm đó, con đã hết lời cám ơn Chúa.
Thánh Lễ vừa xong, con không thể rán quỳ trong nhà thờ lâu hơn như mọi khi. Con vội vàng bước ra cửa nhà thờ, để đón 2 đứa chúng nó.
Gặp lại nhau, Mẹ con tay bắt mặt mừng, vui khôn kể xiết. Vui, không phải vì mẹ con mới gặp lại nhau, sau nhiều tháng xa cách.
Nhưng vui, vì sự biến đổi thật lạ lùng nơi chúng. Bởi biết bao lần con đã nhắc nhở chúng việc đi nhà thờ, thì chúng nó lại không đi. Bây giờ con đã không còn nhắc gì nữa, thì chúng lại đến nhà thờ.
Về đến nhà, con không kềm nỗi thắc mắc lâu hơn được nữa. Con bèn lên tiếng hỏi:
Lý do nào, đã khiến cho hai con trở về với Chúa.
Ngồi xuống ghế, 2 đứa lần lược kể lại câu chuyện sau đây:
Kỳ nghỉ hè vừa qua, 2 anh em chúng con lái chiếc xe du lịch 4 chỗ, đi chơi ở Vũng tàu, vào một buổi sáng Chúa nhật.
Đang khi chúng con lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã, thì bỗng trông thấy một cụ già, đang đi trong mưa, không dù che, không áo mưa, người thì ướt sủng, đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng xe lại, và mời cụ lên xe. Nhưng trước khi lên xe, cụ cho biết là cụ đang đi đến một nhà thờ, cách đó khảng 5 cây số, để tham dự thánh lễ Chúa Nhật.
Hai anh em chúng con vẫn cứ tiếp tục mời cụ cứ lên xe, và chúng con đã đưa cụ đến nhà thờ để dự lễ.
Nhưng vì trời vẫn tiếp tục mưa, mà lại mưa lớn nữa, nên hai anh em chúng con quyết định vào trong nhà thờ, để cùng dự lễ với cụ, và chúng con hứa, sau thánh lễ, chúng con sẽ đưa cụ về nhà.
Và thật lạ lùng: Tiết trời mưa bão hôm đó rất lạnh, nhưng lòng chúng con sao lại cảm thấy ấm áp vô chừng.
Sau khi lắng nghe Lời Chúa và những lời cha giảng dạy, tâm hồn chúng con lắng đọng lại, rồi hồi tâm suy nghĩ về cuộc sống đã qua.
Chúng con cảm thấy thật bùi ngùi xúc động về tình Chúa, và cảm thấy thật xấu hổ về thái độ sống của chúng con đối với Chúa.
Từ đó, tâm hồn chúng con như được ơn đổi mới hoàn toàn.
Mẹ có biết không. Chúng con có cảm tưởng, như mình được trở về nhà sau, một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
Bạn thân mến,
Sự mệt mỏi của 2 anh em con b 9 Tâm, cuối cùng, cũng đã dẫn đưa họ gặp được niềm vui, làm cho ta liên tưởng đến đoạn Phúc Âm của thánh Marcô, đoạn 16, câu 1, kể lại câu chuyện các bà đạo đức, đã đi ra mộ Chúa, ngay từ sáng sớm ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Đó là các bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê.
Đây là ba phụ nữ nhân đức, đã từng theo giúp Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Các bà cũng đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Chính tình thương yêu này, đã làm cho các bà, càng cảm thấy đau đớn xót xa hơn, khi mà giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của mình. Giờ đây đi ra mộ đá, nơi chôn cất Thầy, cũng chỉ là để chiêm ngưỡng một cái xác chết, đang nằm yên trong mộ đá. Bao kỷ niệm thân thương êm đềm xưa kia, nay còn đâu. Cho nên để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về, để ướp xác Thầy.
Nhưng, trên đường đi, các bà lại lo lắng: Tảng đá lấp cửa mộ thì quá lớn, “Ai sẽ giúp lăn tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Thế nhưng, khi đến nơi, các bà lại thấy vui mừng phấn khởi, bởi tảng đá trước mặt đã được lăn ra một bên rồi.
Tuy xác Thầy cũng không còn trong mộ nữa, nhưng đã có sứ thần Chúa chờ sẵn, để loan báo Tin Mừng:
“Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại rồi. Người hẹn gặp lại các người tại Galilê” (x. Mc 16,7).
Như vậy, từ ngôi mộ trống, từ nơi tối tăm và chết chóc, sự sống thật đã bừng lên.
Các môn đệ đã hết sức vui mừng, và đã quên đi hết mọi nỗi lo âu buồn sầu đã qua.
Và niềm vui này, đã không phải là niềm vui riêng tư của các môn đệ Chúa nữa, mà đã trở thành niềm vui cho hết thảy mọi người, cho cả nhân loại, không trừ một ai, không loại trừ một người nào.
Bởi Chúa Phục Sinh đã chiến thắng sự chết, đã làm chủ sự sống. Cho nên, những ai tin vào Chúa, cũng sẽ được sống hạnh phúc vĩnh viễn với Người.
Hai anh em con bà 9 Tâm, cũng đã một thời tin Chúa, theo Chúa. Nhưng những cơn giông tố của tuổi trẻ lôi cuốn, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức êm đềm của thời thơ ấu.
Nhưng rồi, một cụ già lại xuất hiện, đã loan báo một tin mừng thật vui cho 2 cậu, loan báo không phải bằng lời nói, mà bằng gương sáng đạo đức:
“Thầy Giêsu, đang hẹn gặp lại các bạn ở nhà thờ”.
Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tín rằng: Khi con tiếp tục cố gắng chổi dậy sau những lần lầm lỡ thất bại đắng cay, thì là lúc con đang bước ra khỏi mồ để Phục Sinh.
Khi con quyết thống hối ăn năn trở về, cũng chính là dấu chỉ chắc chắn, con đang Phục Sinh với Chúa, là dấu chỉ chắc chắn con sẽ được sống lại với Ngài, sau khi kết thúc những ngày sống ở trần gian này.
Xin Chúa giúp con luôn luôn biết thức tỉnh, và mở rộng tâm hồn, để sẵn sàng đón nhận ơn Phục Sinh của Chúa. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 309) -------------------------------------
Bạn thân mến,
“Lá sầu riêng” là một vở kịch Cải Lương của tác giả Kim Cương và Thế Châu, đã đi vào lòng người từ nhiều thập niên qua.
Vở kịch đã nói lên tình cảnh thê thảm của một người đàn bà nghèo, đã trải qua biết bao khó khăn và gian khổ, mới có thể nuôi được một đứa con khôn lớn, và đã cho ăn học thành tài.
Do tình duyên ngang trái, mà bà đã phải một mình tần tảo hôm sớm thật vất vả, để nuôi dạy con cho nên người, trong cảnh mẹ goá con côi.
Cuối cùng, ước nguyện của bà cũng đã thành đạt, và đã được như lòng hằng mong ước, đó là đứa con trai đã đổ đạt, đã trở thành một bác sĩ, và đã có một chỗ đứng trong xã hội.
Bà rất hài lòng về thành tích của mình, và cũng rất vui khi chứng kiến sự thành đạt của đứa con trai mình.
Rồi một hôm, vì quá nhớ con, bởi sau quá nhiều tháng trông ngóng, mà không nghe thấy tin tức gì của con, nên bà đã lặn lội từ đồng quê lên tỉnh thành để thăm con.
Phải nói là bà vất vả vô chừng, mới tìm thấy được chỗ ở của đứa con trai mình nơi thành phố, mặc dầu bà đã có địa chỉ thật rõ ràng ở trong tay.
Khi gặp lại nhau, mẹ con tay bắt mặt mừng, vui khôn kể xiết.
Nhưng liền sau đó, anh con trai đã thay đổi sắc mặt, và tỏ ý phiền trách mẹ, sao mẹ lên thăm, mà không hề báo trước.
Bởi đã từ lâu, anh đã quen biết một cô con gái. Họ đã yêu nhau và đã định đi tới hôn nhân, nhưng không hề có một chút thông tin gì cho mẹ hay.
Tệ hơn nữa, là anh ta chưa bao giờ tiết lộ gì về gốc gác lý lịch thật của mình. Anh chưa bao giờ dám nói cho người yêu biết về nguồn gốc nghèo khổ của mình. Cho nên, khi người mẹ xuất hiện bất ngờ trước mặt người yêu, với dáng dấp của một người đàn bà quê mùa nghèo hèn, đã làm cho anh lúng túng thật khó xử. Anh ta sợ mất người yêu, nên định tâm chối bỏ người mẹ đã sinh ra mình, và đã hi sinh cả cuộc đời cho mình.
Thấy thế, bà mẹ buồn quá, nên mới thốt lên một câu: "Con ơi, nhớ lúc còn nhỏ, mẹ cho con chỉ một cái kẹo thôi, thì con cũng đã vui mừng lắm rồi. Nhưng cho đến bây giờ, mẹ đã cho con cả một cuộc đời của mẹ, mà sao con lại không vui".
Lời nói đó, đã đánh động được người con trai, và đã giúp anh hiểu ra, là không có gì có thể sánh ví được với tình mẹ, với biết bao hy sinh thật cao cả.
Hai mẹ con đã ôm nhau hồi lâu, trong niềm vui sướng dâng tràn.
Và khi anh ta chấp nhận người mẹ quê mùa nghèo hèn, đã hy sinh cả cuộc đời cho anh, thì cũng là lúc anh đón nhận được sự nể vì kính phục của người yêu, vì anh ta là một con người hiếu thảo, là một con người sống có nhân, có nghĩa.
*****
Bạn thân mến,
Phúc âm theo thánh Matthêu, đoạn 26 câu 26, đã ghi lại nỗi niềm tâm sự của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly với các môn đệ mình như sau:
“Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Này là máu Thầy, máu sẽ đổ ra vì các con, các con hãy chia nhau mà uống”.
Qua nỗi niềm tâm sự này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không còn giữ lại gì cho mình, mà Ngài đã trao hiến cho chúng ta tất cả. Ngài đã cho đi tất cả. Ngài đã tự hiến chính thân mình, để làm của ăn, của uống nuôi sống hồn ta. Ngài yêu thương chúng ta đến mức độ như vậy. Nhưng, chúng ta đã hiểu, đã cảm nhận được tình yêu thương này, đến mức nào.
Chưa hết, khi lấy máu thịt Ngài làm lương thực nuôi ta, Chúa đã muốn hòa nhập vào chính cuộc sống của ta, để thông cảm, để chia sẻ với ta trong mọi nỗi lo âu, vui buồn, sướng khổ trong cuộc sống, để cuối cùng, Ngài có thể dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc vĩnh cửu mai sau bên Thiên Chúa, sau những ngày sống ở trần gian này.
Trải qua mọi thời đại, đã có biết bao người cảm nhận được Tình Thương bao la này, nên họ đã được ơn cải hóa, đã được ơn đổi mới, và đã được ơn trở về, để sống xứng đáng là một người con Chúa, rất đáng được Chúa yêu thương.
Nhưng cũng có không ít người cố tình, bưng tai, bịt mắt, trước tình yêu thương này. Bởi, họ rất ngại ngùng lo sợ, phải đối mặt với Thiên Chúa.
Bởi, khi đối mặt với Thiên Chúa rồi, thì họ lại sợ phải bị mất đi những cái họ đang có. Họ sợ phải bị mất đi những cái họ đang tận hưởng. Họ sợ phải bị mất đi chỗ đứng ở trần gian này. Họ sợ phải bị mất đi tiền tài, địa vị, danh vọng, mà họ đang theo đuổi một cách thiếu lương thiện.
Mà vì quá lo sợ những mất mát này, cho nên họ đã tìm bằng mọi cách, để đuổi theo nó, để bắt lấy nó. Họ cố bám vào nó, đến nỗi họ không còn thời gian, không còn công sức, không còn tâm trí, không còn đủ sáng suốt, để minh định cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là cần làm, cái gì là nên tránh, để định hướng cho phần rỗi đời đời của mình một cách chính xác nhất.
*****
Nếu hôm nay, mỗi khi nhìn lên thánh giá Chúa, hay mỗi lần lên rước Chúa, mà hồn ta không có một chút rung động nào, không có một chút cảm nghiệm nào, về tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, yêu đến hy sinh cả mạng sống mình, hay Tình Yêu của Chúa đã không lay động nỗi trái tim ta, thì phải nói là lòng ta quá khô, quá cứng, là chúng ta đã quá thua anh chàng thanh niên đối mẹ mình, trong câu chuyện “Lá Sầu riêng” vừa kể.
Lạy Chúa, xin mở lòng, mở trí con, để con biết việc con phải làm, và khi con làm, xin Chúa giúp đỡ, để con biết cảm nhận được tình yêu Chúa yêu con trong mọi tình huống của cuộc sống, để con cũng biết ứng xử làm sao xứng đáng hơn nữa là một người con Chúa, và để đáng được Chúa yêu thương hơn. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 311) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Có một câu chuyện thật thê thảm, đã xảy ra cho dân Israel trong lịch sử, được kể lại trong sách Samuel quyển thứ I, đoạn 4, từ câu 1 đến 11, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ về một cách sống đạo:
Số là dân Israel đang giao chiến với quân Phi-li-tinh, mà dân quân Israel thì cứ thua miết, hết trận này đến trận khác. Số người bỏ xác nơi trận địa đã lên tới khoản 4.000 người.
Để cứu vãn tình hình, các vị lãnh đạo mới nghĩ ra một sáng kiến, là đưa Hòm Bia Thánh ra chiến trường, để Chúa cùng giao chiến với họ. Bởi, có Chúa cùng chiến đấu, thì ắt hẳn là họ sẽ thắng lớn, và bất cứ quân thù nào, cũng sẽ bị Chúa đè bẹp.
Thế là họ cho một đạo quân trở về Đền Thánh ở Si-lô, để long trọng cung nghinh Hòm Bia Thánh ra chiến trường.
Khi Hòm Bia Chúa tới doanh trại, thì Kinh Thánh nói:
“Toàn dân Israel phấn khởi reo hò vang dội, khiến trời đất phải rung chuyển”.
Nghe tiếng reo hò long trời lở đất, thì quân Phi-li-tinh đã biết là Hòm Bia Thánh, “Một vị thần của Israel” đã đến doanh trại!”.
Thế là tình thần của dân quân Phi-li-tinh bị chấn động mạnh. Bởi theo kinh nghiệm của cha ông họ truyền lại, là hễ vị thần này đi đến đâu, thì mọi kẻ thù của dân Israel cũng đều phải bị đè bẹp, cũng đều phải bị tiêu diệt, có thể nói là bị tiêu diệt đến tận đến gốc rễ.
Bằng chứng là quân Ai Cập, lực lượng hùng mạnh đến mức nào, vũ khí nhiều đến cỡ nào, một nước hùng hậu đến như thế đó, vậy mà khi đối đầu với vị thần này, cũng đều phải thất kinh, khiếp vía, mà chạy tán loạn, quân binh chết như rạ, thiệt hại người và của, nhiều không kể xiếc.
Do đó, khi nghe tiếng reo hò bên doanh trại của Israel, thì quân Phi-li-tinh đã cảm thấy tình thế trở nên vô cùng nghiêm trọng.
Thế nhưng, thay vì buông xuôi bỏ chạy, họ đã động viên nhau, phải can đảm lên, phải anh dũng chiến đấu, để cứu lấy mình.
Cuộc chiến lại tiếp tục nổ ra. Và, thật bất ngờ, dù có Hòm Bia Chúa đang với mình, thế mà quân Israel vẫn bị thua trận thê thảm. Các tướng lãnh và dân quân, mạnh ai nấy chạy bạt mạng về hậu cứ, về lều trại của mình, để thoát thân.
Hôm đó, con số quân binh Israel tử trận lên tới ba mươi ngàn người. Thật là “Khủng khiếp” cho dân Israel!
Đã thế, Hòm Bia Chúa lại bị lọt vào tay kẻ thù. Chúa đã không cứu quân Israel đã đành, mà Chúa cũng đã không tự cứu lấy mình, nên đã để Hòm Bia Thánh bị rơi vào tay những người vô đạo, để rồi họ mặc sức mà chế nhạo, mặc sức mà làm sỉ nhục, mặc sức mà chê cười.
Sự kiện này đã làm cho mọi người cứ thắc mắc mãi:
- Tại sao lại như vậy?
- Chả nhẻ Thiên Chúa của Israel, mà lại phải chịu thua quân Phi-li-tinh sao?
Thế là lòng tin của dân Israel đã bị lung lay. Và niềm tin của dân Israel đã bị thử thách nặng nề.
***
Bạn thân mến,
Việc làm của quân Israel xét cho cùng, có phải là niềm tin thật hay không, hay đây chỉ là một hình thức mê tín dị đoan?
Cứ bề ngoài mà xét, thì xem ra họ rất tin vào Hòm Bia Thánh, họ rất tin vào quyền năng của Thiên Chúa, khi đem Hòm Bia Chúa ra giữa trận địa.
Họ muốn trong chiến đấu, có Chúa cùng chiến đấu với họ.
Nhưng kỳ thực, khi đưa Hòm Bia Chúa ra chiến trận, thì mục đích của họ đã rõ, là chỉ để phục vụ cho chiến tranh, mà họ đang theo đuổi mà thôi. Họ muốn Chúa đứng về phía họ, để họ tiêu diệt kẻ thù. Họ muốn Hòm Bia Chúa phải là một thứ “lá bùa chắn”, để giúp họ tránh tai hoạ. Họ coi Hòm Bia Chúa như là một thứ “vật cầu may”, để mang chiến thắng về cho họ.
Họ nghĩ: Nếu Chúa đứng ra bảo vệ Hòm Bia Thánh, thì họ cũng sẽ được Chúa bảo vệ.
Rõ ràng, đây chỉ là một thứ lạm dụng, là một sự lợi dụng Chúa, chứ nào có phải là vì Chúa đâu, hay là vì tình nghĩa gì với Chúa. Họ chỉ nhắm đến lợi ích của họ, chứ nào có nhắm lợi ích gì cho Chúa đâu.
Thử hỏi, sự lợi dụng Chúa như vậy, thì dân Israel có còn đáng được gọi là những người con hiếu thảo của Chúa nữa không?
Những người con lợi dụng cha mẹ của mình, để mưu cầu lợi ích cho riêng tư mình, thì tất nhiên, phải coi họ, là những người con bất hảo, là những người con bất hiếu.
Và lịch sử cũng cho biết, vào thời đó, lòng tin của dân Israel đã ra lệch lạc đến tồi tệ. Họ tin vào các thầy bói, các thầy chiêm tinh, họ tin vào đồng bóng, còn hơn là tin Chúa. Họ tin vào ngày lành, tháng tốt. Họ tin điềm này điềm nọ, chứ họ không tin vào quyền năng của Thiên Chúa nữa. Họ đã rước đủ thứ thần lạ về nhà để thờ, còn việc thờ Chúa, thì họ lại sao lãng, thì họ lại biếng nhác. Niềm tin của họ vào Chúa đã lệch lạc đến thê thảm. Nghĩa là họ đã coi Chúa, cũng chỉ ngang hàng với các thần linh, rất linh tinh, nơi các dân ngoại. Họ sống không khác gì những người ngoại giáo.
Do cuộc sống chung đụng lẫn lộn với những người ngoại giáo, cho nên, niềm tin của họ vào Chúa cũng đã bị pha trộn, cũng đã bị lẫn lộn đủ thứ. Nghĩa là, họ đã bỏ Chúa từ lâu rồi. Và cũng có thể nói, là Chúa cũng đã bỏ họ từ lâu lắm rồi.
Việc họ đưa Hòm Bia Chúa ra chiến trường, thì cũng chỉ là một việc làm cầu may, như đã từng kều cứu với các thần linh khác. Nghĩa là “Ong cũng kính, mà bà cũng vái”. Thần nào họ cũng cầu, thần nào họ cũng khấn, thần nào họ cũng xin. Xin theo cái kiểu cầu may.
Họ đã quên điều răn thứ I, là điều răn căn bản, và cũng là điều răn quan trọng nhất trong 10 Giới răn Chúa dạy:
“Thứ I, phải thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự”.
Và Phúc âm theo thánh Matthêu, đoạn 4, câu 10b, có ghi lại câu, mà Chúa Giêsu đã khẳng định với quỉ Satan, khi đến cám dỗ Ngài như sau:
“Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi, và chỉ được phép thờ phượng một mình Ngài thôi”.
Đọc lại Tân Ước, chúng ta cũng thấy, mỗi lần Chúa Giêsu làm một phép lạ nào, để cứu giúp một hoàn cảnh cùng khốn nào đó, cho một người nào đó, thì Chúa Giêsu thường giải thích:
“Chính lòng tin của con đã cứu chữa con!”.
Có nghĩa là yếu tố quyết định cho một phép lạ là lòng tin.
Niềm tin vào Chúa quan trọng đến nỗi có lần, Chúa Giêsu đã không làm được một phép lạ nào, bởi người ta không có lòng tin, Mc 9, 23-24.
Và trong mọi trường hợp, Chúa cũng không hề muốn dùng phép lạ, để ép buộc người ta phải tin vào Ngài.
- Chẳng hạn ở đồi Can-vê, nhiều người đã thách thức Chúa:
Nếu ông là con Thiên Chúa, thì ông hãy xuống khỏi thập giá này đi, để chúng tôi tin.
Kết quả cho thấy, là Chúa đã coi thường, và không hề quan tâm đến những người muốn tin Ngài theo cái kiểu này.
Niềm tin mà Chúa quan tâm, mà Chúa đòi hỏi, phải là một thứ niềm tin, tự ý, tự nguyện, phải là một thứ niềm tin trong sáng, không có ý lợi dụng, niềm tin đó phải là một thứ niềm tin tuyệt đối, tin mà không được phép đặt ra cho Chúa bất cứ một điều kiện nào, và tin, duy chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Còn thứ niềm tin chỉ biết lợi dụng, chỉ biết xin xỏ, tin theo kiểu hai chiều, hay tin theo cái kiểu, coi Chúa như là một trạm bưu điện, để họ đến đặt hàng và nhận hàng miễn phí, thì niềm tin đó quả là quá thê thảm, và rất là bi đát.
Và kết quả cuối cùng của thứ niềm tin đó, là một khi không còn lợi dụng Chúa được nữa, thì họ sẽ bỏ Chúa, sẽ bỏ đạo, và phần rỗi đời đời của họ sẽ rất là đen tối, sau những ngày sống ở trần gian này.
*****
Dầu sao, thì sự thiệt hại thê thảm của dân Israel, khi đưa Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa ra trận địa, vẫn là một sự nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về một cách sống đạo.
- Nhắc nhở thứ nhất, là ta cần phải cảnh giác, ta cần phải canh chừng, đừng để cho các hình thức đạo đức bên ngoài, hay là những dấu hiệu biểu lộ niềm tin, tự nó vốn là cần thiết, lại trở thành cái vỏ không ruột, một cái xác không hồn, chỉ có hình thức rầm rộ, hoành tráng bên ngoài, mà không diễn tả được niềm tin, và lòng mến Chúa bên trong.
Lòng tin đó chỉ mang tính chất khoe khoang, phô trương, trình diễn, biểu dương lực lượng mà thôi, thì tất cả chỉ là con số không trước mặt Chúa, và coi chừng, Chúa sẽ rất buồn, vì cái kiểu sống đạo trống rỗng vô nghĩa này.
- Điều nhắc nhở thứ hai, là ta cần phải sống đạo, hơn là lo giữ đạo. Sống đạo là sống niềm tin: Tin có Chúa hiện diện ở khắp nơi, nơi nào cũng có Chúa, việc làm nào Chúa cũng thấy, việc làm nào Chúa cũng rõ, và rõ đến tận bên trong. Không có gì che giấu được Chúa.
Rồi, tin Chúa là phải tin cả khi vui, cũng như lúc buồn, tin cả khi thành công, cũng như lúc thất bại, tin cả trong những hoàn cảnh đau thương thê thảm, khó hiểu nhất, như trường hợp Chúa Giêsu đã than thở với Chúa Cha trên thánh giá:
“Cha ơi, sao Cha bỏ con”.
Nhưng liền sau đó, Chúa Giêsuvẫn nói được:
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn niềm tin của con, để trong mọi hoàn cảnh đau thương của cuộc sống, con vẫn luôn gắn bó với Chúa, và chỉ gắn bó với một mình Chúa mà thôi. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 313) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Truyện cổ tích Trung Hoa, có kể lại sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau:
Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, nên đã sai một ông Tiên xuống trần gian để quan sát.
Ông Tiên giả dạng làm một người ăn mày, ăn xin, già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang khắp đó đây, vào một buổi chiều mùa đông, trong mưa dông giá lạnh.
Nhà đầu tiên mà ông lão ăn xin, đến gõ cửa để xin trọ, là nhà của con chó sói.
Vừa hé cửa ra, trông thấy ông lão già nua, ăn mặc rách rưới, chó sói ta bèn nhe nanh ra, trợn mắt lên, và sủa thật to, để xua đuổi ông già đi.
Sợ quá, ông lão bèn vội vàng rút lui, mau mau ra khỏi chốn nguy hiểm đó.
Nhà thứ hai, ông lão ăn xin gõ cửa, để xin trọ, là nhà của con cáo.
Vừa hé cửa ra, trông thấy ông lão già nua, ăn mặc rách rưới, con cáo ta chửi mắng liên hồi, rất thô lỗ, với những lời lẽ thậm tệ thật khó nghe, với những lý lẽ không đâu, rồi cuối cùng đã đuổi ông lão đi, mà chẳng cho tí gì.
Buồn tủi quá, ông lão lại tiếp tục lang thang trong cơn mưa dông giá lạnh, mong tìm kiếm được một nhà khác để trọ.
Nhà thứ ba, ông lão ăn xin gõ cửa, để xin trọ, là một căn nhà bé nhỏ của con thỏ trắng.
Thấy ông lão run rẩy trong cơn rét run, Thỏ trắng vội vàng mở rộng cửa ra, mời ông lão vào nhà, và dìu ông đến ngồi bên lò lửa, để sưởi cho ấm. Thỏ lấy chăn mền phủ lên mình ông, và lấy quần áo ướt của ông, đem hong bên lò sưởi cho mau khô.
Một lúc sau, ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đang đói lắm. Đã mấy ngày nay rồi, tôi đã không có một cái gì để cho vào bụng, cậu có gì cho tôi ăn được không? Nếu không, chắc là tôi chết mất”.
Thỏ trắng nhanh miệng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá lâu, cho nên rau cỏ, và mọi thứ lương thực dự trữ trong nhà, cháu đã ăn hết sạch rồi.
Nhưng mà thưa cụ, cụ cứ yên tâm đi, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn cho cụ”.
Nói xong, Thỏ trắng, đến bên đống củi, ôm từng bó củi, liên hồi thảy vào lò sưởi, làm cho ngọn lửa cháy bùng lên thật cao, khối lửa cháy thật to.
Ông lão thắc mắc mãi việc con thỏ đang làm, mà chẳng hiểu tí gì. Bởi ngọn lửa thì đã quá lớn, quá cao, đâu có cần thiết cho một căn phòng quá bé nhỏ như thế này.
Đang lúc ông lão miên mang suy nghĩ, thì bỗng, ông lão thấy con thỏ nhảy thẳng vào đống lửa đang cháy bầng bầng.
Vì quá bất ngờ, ông lão cứ loay hoay mãi mới tìm thấy một thanh củi dài, và đã đưa được con thỏ ra ngoài. Nhưng đã quá muộn. Con thỏ đã bị chết cháy. Toàn thân đen ngòm. Và da thịt của thỏ đã chín, mùi thơm xông lên khắp cả nhà.
Thì ra, con thỏ đã tự ý, tự nguyện, hy sinh chính bản thân của mình, để làm một món ăn cho ông lão ăn mày ăn xin, đang trong cơn đói lã sắp chết.
Khi về trời, ông lão mới tường trình tất cả mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu hồi con chó sói và con cáo tới, để hạch tội, để trừng phạt, và phạt một cách nặng nề. Phạt vì cái tội khinh người. Phạt vì cái tội coi thường người khác, nhất là phạt vì cái tội khinh dễ người nghèo, tội không kính trọng người già yếu.
Còn con thỏ trắng, thì cũng được Ngọc Hoàng Thượng Đế triệu hồi tới, nhưng là để khen thưởng. Khen vì đã biết sống quảng đại với người khác. Khen vì biết nghĩ đến người khác, nhất là khen vì biết hy sinh cho người khác, hy sinh đến quên cả chính bản thân mình.
Thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế bèn tưởng thưởng con thỏ, phong cho nó làm thần, cai quản Cung Trăng.
Do tích chuyện đó, mà người Trung Hoa ngày nay, vẫn gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện rất đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Con chó Sói và Con cáo, khi đến trước mặt Ngọc Hoàng Thượng đế, thì mới biết ông lão ăn mày ăn xin, già yếu, ăn mặc rách rưới đó là ông Tiên, nên chúng rất hối tiếc, rất ân hận, vì đã đối xử rất tệ bạc đối với ông lão trước đây. Chúng đã hối tiếc, vì đã đối xử thiếu ân cần, thiếu lịch sự, thiếu tình người, và nhất là thiếu đạo đức đối với ông lão.
Nhưng, giờ đây sự hối tiếc của chúng đã quá trễ, đã quá muộn. Những hối tiếc của chúng, đã không giúp ích gì được cho chúng. Thế là chúng đã không còn có cơ hội, để chuộc lại những lỗi lầm của mình, để có thể trở thành thánh, thành thần, thành tiên. Cơ hội qua đi rồi, không bao giờ trở lại được nữa.
*****
Bạn thân mến,
Chuyện con chó Sói và Con cáo trên đây, đã làm cho chúng ta liên tưởng đến câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán của mình, đã bị mọi người xua đuổi, đã bị mọi người chối từ.
Phúc âm theo thánh Marcô đoạn 6 câu 1, kể lại như sau:
Vào ngày Sa-bat. Chúa Giêsu vào Hội đường, và bắt đầu giảng dạy. Nhiều người rất đỗi ngạc nhiên, và nói lên sự thán phục của mình:
- Bởi đâu, ông ta lại được như thế.
- Sao ông ta được khôn ngoan đến như vậy.
- Bởi đâu ông ta làm được những sự lạ thể ấy?
Nhưng rồi, khi nhìn lại dáng vẻ bên ngoài của Chúa Giêsu, họ lại thấy: sao ông ta tầm thường quá như vậy.
- Ông ta chỉ là con của bác thợ mộc Giuse và bà Maria đây mà. - Trước kia ông ta cũng đã từng là thợ mộc ở địa phương này. - Anh em của ông là Giacôbê, là Giuse, là Giuđa, là Simon ... Tất cả họ, đều đang ở giữa chúng ta đây mà.
Thế là, vì những dáng vẻ bên ngoài tầm thường đó, nên họ đã không tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đã giả dạng làm một con người bình thường, đến sống giữa họ.
Bởi, họ chỉ biết, đó là ông thợ mộc, con của ông thợ mộc Giuse.
Họ chỉ biết gia đình Chúa Giêsu rất là nghèo, một gia đình chẳng có danh giá gì ở trong làng.
Họ coi thường Người. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Họ hất hủi Người. Họ đã bỏ lỡ cơ hội nghìn năm một thuở, để đón tiếp Chúa Giêsu, một Vị Cứu Thế đến với họ.
Và Kinh Thánh nói: Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào ở đó. Người đã rời bỏ Nagiarét, quê hương của mình, để đi đến những làng chung quanh. Và Chúa đã không bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Hằng ngày, chúng ta cũng đã từng bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội giống như thế.
Ta đã bỏ lỡ cơ hội không tiếp đón Chúa đến thăm, khi ta bịt mắt, để không nhìn thấy những hoàn cảnh khổ đau của những người sống chung quanh ta.
Ta đã bỏ lỡ cơ hội không tiếp đón Chúa đến thăm, khi ta bưng tai, không chịu nghe những tiếng kêu than khóc lóc của những người đau khổ, đang sống bên cạnh ta.
Ta đã bỏ lỡ cơ hội không đón tiếp Chúa đến thăm, khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã của những người đau khổ, khi ta ngoảnh mặt quay lưng, trước những nạn nhân bị thiên tai dịch bệnh, hay gặp hoạn nạn tai ương này khác.
Nhất là ta đã bỏ lỡ cơ hội không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo ta, để lo mà ăn năn sám hối, để ta tử bỏ con đường cũ thiếu lương thiện của ta, để mà sớm lo cải tà qui chánh.
Chúa đã nhắc nhở ta rất nhiều lần, và qua rất nhiều cách khác nhau: nào là qua cha mẹ, nào là qua các vị bề trên, nào là qua lời khuyên của những người thân, nào là qua những lời phê phán của những kẻ thù ghét ta, nào là qua các tai nạn này khác, Chúa gởi tới để cảnh tỉnh ta.
Hôm nay, Chúa vẫn còn tiếp tục nhắc nhở ta. Nếu ta không nghe, nếu ta không chịu làm theo, thì biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng, và sẽ là cơ hội chót cho cuộc đời ta.
Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở ta nữa. Coi chừng Chúa sẽ bỏ ta mà đi, như đã từng bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại.
Nếu như thế thì nguy hiểm biết chừng nào cho linh hồn ta, cho phần rỗi đời đời của ta.
Ta nên nhớ: Để nhận ra Chúa, chúng ta phải lo rèn luyện cho mình có được một đức tin thật vững mạnh, bằng những việc đạo đức chúng ta cố gắng làm hằng ngày, bằng việc lãnh nhận các bí tích.
Chúng ta biết: Ánh mắt đức tin, sẽ giống như ngọn đèn, soi chiếu vào đêm tối, sẽ giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, hay trong những biến cố Chúa gửi đến.
Rồi, để đón tiếp Chúa, chúng ta còn phải lo rèn luyện cho mình có được một trái tim luôn biết yêu thương, luôn biết rộng mở đối với mọi người, rộng mở một cách quảng đại.
Với một trái tim yêu thương và quảng đại như thế, chúng ta sẽ có một tâm thức bén nhạy, để nghe được tiếng Chúa nói với ta, dù tiếng nói ấy có khi chỉ là tiếng thầm trong sâu thẳm lòng mình, có khi tiếng nói đó được nói lên trong đêm tối.
Với một trái tim yêu thương và quảng đại như thế, chúng ta sẽ hiểu được những dấu chỉ của Chúa muốn nói với ta, dù những dấu chỉ ấy, có khi chỉ xuất hiện một cách mơ hồ và thoáng qua, trong một biến cố nào đó.
Và cuối cùng, với một trái tim yêu thương và quảng đại như thế, chúng ta sẽ nhận ra được khuôn mặt của Chúa thật rõ nét, dù cho khuôn mặt ấy, có khi đã bị biến dạng, do những đau thương thê thảm của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tỉnh thức, luôn ở trong tư thế sẵn sàng, để có thể nhận ra Chúa đang đến với con, trong mọi tình huống của cuộc sống. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 315) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Có một đôi vợ chồng trẻ, lấy nhau đã được mười năm, và đã có với nhau được một đứa con gái 4 tuổi.
Họ đã sống với nhau rất hòa hợp, và rất hạnh phúc.
Tình yêu giữa hai vợ chồng và đứa con thơ, cứ thế mà ngày ngày càng khắng khít với nhau hơn, như keo với sơn.
Nhưng rồi một hôm, người chồng đi làm về, bị trúng mưa, nên bị cảm nặng.
Sau một thời gian tự điều trị tại nhà không thấy thuyên giảm, nên người vợ quyết định đưa chồng đến bệnh viện.
Sau khi khám bệnh, và làm một số xét nghiệm, cuối cùng, sau thời gian theo dõi, các bác sĩ cho biết, là bệnh nhân bị ung thư màng phổi ác tính, ở thời kỳ thứ ba.
Một tuần lễ sau đó, người chồng qua đời.
Trước khi chết, người chồng đã ra hiệu cho người vợ lại gần và thều thào trăn trối:
"Em yêu quí! Có lẽ, giờ Chúa gọi anh về đã gần kề. Tuy anh đã chuẩn bị mọi sự sẵn sàng rồi, để vâng theo thánh ý Chúa, nhưng anh chỉ tiếc có một điều, là anh không còn được sống bên cạnh em và đứa con yêu quí được nữa.
Trước khi ra đi, anh không có gì để trối lại cho em. Anh chỉ có chiếc nhẫn cưới này, là chiếc nhẫn mà em đã trao tặng cho anh, trong ngày lãnh bí tích Hôn Phối, cách đây mười năm.
Bây giờ, anh xin trao tặng chiếc nhẫn này lại cho em, như là một kỷ vật, để mỗi lần em trông thấy nó, thì em biết, là anh vẫn còn luôn ở kề bên em, và vẫn luôn hằng cầu nguyện cùng Chúa cho hai mẹ con em. Chúc cho hai mẹ con em, luôn luôn yêu thương nhau, luôn luôn được hạnh phúc".
Nói xong, anh chồng tháo chiếc nhẫn đang đeo ở tay ra, rồi âu yếm xỏ chiếc nhẫn vào tay người vợ, giống như trước đây anh đã làm, trong thánh lễ hôn phối.
Nói xong, anh bị xúc động mạnh, nên đã lên cơn hấp hối và đã tắt thở ít phút sau đó.
Vợ con anh thì nghẹn ngào nức nở khóc như mưa.
Những người đang đứng chung quanh, chứng kiến cảnh tượng thật cảm động đó, cũng không cầm được nước mắt, bởi đã chứng kiến một cảnh chia tay thật là não nề.
Số người tham dự Thánh lễ An táng hôm đó thật là đông, bởi ai ai cũng đều bị xúc động khi nghe câu chuyện này.
Sau thánh lễ, hầu như tất cả mọi người đều ở lại nhà thờ, để cùng với cha sở, tiễn đưa linh cửu người quá cố, đến nơi an táng ở đất thánh của giáo xứ, là nghĩa trang chung của những người công giáo tại đây, để cầu nguyện và để cử hành nghi thức tiễn biệt anh lần cuối.
Nhiều ngày nhiều tháng kế tiếp, người ta thấy cô vợ trẻ, vẫn cứ tiếp tục ra Đất thánh, đầu đội khăn tang, tay cầm một bó nhang và một bó bông huệ, tay kia dắt theo đứa con gái, đi ra mộ chồng.
Ngày nào cũng vậy, dù trời nắng, dù trời mưa, cô cứ gục đầu vào mộ chồng mà sụt xùi khóc lóc, tiếng ngất từng cơn, trông thật thảm thiết, nhất là chốc chốc cô lại nhìn vào 2 chiếc nhẫn cưới trên bàn tay của mình, mà nỗi bức xúc lại cứ trào lên đến cao độ. Cô vật vã trong đau đớn, như muốn cùng chết đi với chồng. Dù ai khuyên can cở nào, cô vẫn không nghe. Dù ai có an ủi cỡ nào, cô vẫn không nguôi.
*****
Bạn thân mến,
Chúa Giêsu, thầy chí thánh của chúng ta, trước khi từ giã cõi trần, cũng đã làm một cử chỉ, cũng đã để lại một dấu tích, như một kỉ niệm, như một sự trăn trối thật thân thương, vào chiều thứ năm trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi chịu chết, cách đây hơn hai ngàn năm.
Trong bữa tiệc chiều hôm ấy, Chúa Giêsu đã quỳ gối xuống, rửa chân cho từng môn đệ.
Phúc âm theo thánh Gioan, đoạn 13 câu 1 đã ghi lại như sau:
“ Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết, sắp đến giờ Người phải lìa bỏ trần gian mà về với Chúa Cha. Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng, nên trong bữa ăn tối, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, và đi rửa chân cho từng môn đệ. Sau đó lấy khăn thắt lưng mà lau”.
Trước sự ngở ngàng ngơ ngác của các tông đồ, chẳng hiểu tí gì về việc Thầy đang làm, Chúa Giêsu sau đó đã giải thích:
“Nếu Ta là Thầy, và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy nhớ mà rửa chân cho nhau”.
Cử chỉ thân thương này, đã dạy cho các tông đồ một bài học yêu thương, một bài học căn bản, rất quan trọng trong đạo, như là một cử chỉ trăn trối, như là một dấu ấn không bao giờ được phép quên, để mọi người cố gắng mà lo thực hiện sao cho thật nghiêm túc, sao cho thật hoàn chỉnh.
Chưa hết, sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu đã trở lại bàn ăn, và tiếp tục làm một cử chỉ khác khác, cũng trang trọng như là một sự trăn trối, đó là Chúa lập Phép Thánh Thể.
Phúc âm theo thánh Matthêu đoạn 26, câu 26 ghi lại như sau:
“Trong bữa ăn tối, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho từng môn đệ và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén rượu nho, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu của Thầy, máu của Giao Ước mới, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”.
Và Phúc âm theo thánh Luca, đoạn 22, câu 19b có ghi thêm câu này:
“Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”.
Qua những sự kiện vừa kể, chúng ta thấy: Mình Thánh Chúa đã là món quà quí giá nhất, là một kỉ niệm thân thương nhất, là một báu vật Chúa trao tặng cho chúng ta như một kỷ vật trăn trối, trước khi từ giả cõi đời này.
Chúa đã tự hiến trọn vẹn, đã trao ban cả Thịt Máu Người, làm của ăn, làm thức uống, nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và để nhờ đó mà có thể ở lại với chúng ta mọi ngày, cho đến tận thế (x. Mt 28,20).
Những cử chỉ của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly, cùng với lời truyền:
"Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy" như là một lời trăn trối tha thiết nhất, như là một mệnh lệnh khẩn cấp nhất, để Hội Thánh truyền lại cho chúng ta, những môn đệ của Chúa, để chúng ta luôn biết sống gắn bó với nhau mật thiết hơn, luôn biết đoàn kết yêu thương nhau một cách chân tình hơn, luôn biết phục vụ lẫn nhau một cách cụ thể hơn, như Chúa đã làm gương cho ta, bằng một cái chết thật nhục nhã đau thương trên thánh giá.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con, luôn biết thực hiện bài học Chúa muốn dạy con, qua phép Thánh Thể và qua Thánh Giá của Chúa. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 318) -------------------------------------
Bạn thân mến,
Chúng ta đang tiễn năm con Rồng (năm Nhâm Thìn 2012), để bước sang một mới, Năm con Rắn (năm Quý Tỵ 2013).
Tuy Rồng và Rắn cùng thuộc loài bò sát, đều có thân dài, nhưng lại có nhiều điểm rất khác nhau:
Trước hết, con Rồng là một con vật huyền thoại, chỉ có trong ca dao tục ngữ, trong các chuyện cổ tích, chứ không có thật.
Còn con Rắn là một con vật có thật, rất phổ biến, có mặt ở khắp mọi nơi trên trái đất này.
Nếu Rồng tượng trưng cho Vương Quyền và sức mạnh, thì Rắn lại tượng trưng cho sự khéo léo, khôn ngoan và hiểm độc.
Tục ngữ dân gian Việt Nam có câu: “Khẩu Phật, tâm xà” là để ám chỉ sự hiểm độc đó.
Chúng ta biết: Năm Âm lịch, đã lấy 12 con Giáp, làm biểu tượng cho từng năm, trong một chu kỳ 12 năm. Đó là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Như vậy Tỵ là chi thứ 6 trong 12 con giáp. Đứng trước nó là Thìn. Đứng sau nó là Ngọ.
Rắn nằm trong tương khắc “tứ hành xung”: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Nhưng tuổi rắn lại hạp với tuổi Sửu và tuổi Dậu.
Ngày xưa rắn còn được xếp hạng thứ ba trong Tứ Đại: Nhất Điểu, Nhì Ngư, Tam Xà, Tứ Tượng.
Chúng ta cũng thường nghe nói: Tháng Tỵ tức là tháng Tư âm lịch. Giờ Tỵ là khoảng thời gian giữa, từ 9 giờ sáng đến 11 giờ trưa. Hướng Tỵ là hướng Đông Nam.
Theo Ngũ Hành, thì Tỵ, tương ứng với Hỏa. Còn theo thuyết Am Dương, thì Tỵ là Am.
Theo các nhà phong thủy, thì năm Tỵ tượng trưng cho sự lạc quan, sức khỏe, trẻ trung.
Năm Tỵ sẽ phát triển mạnh về Nông Nghiệp, báo chí và nhà đất. Còn ngành tài chánh và ô tô sẽ gặp nhiều khó khăn.
Người ta tin rằng, tuổi con rắn là tuổi hên. Người mang tuổi con rắn thường có tài ngoại giao, rất dễ được nổi tiếng. Tuổi này sẽ gặp được rất nhiều may mắn, nhưng toàn là những thứ bất ngờ. Tiền bạc của họ luôn có dư, nhiều hơn mức cần thiết. Do đó, người mang tuổi này thường chi tiêu rất rộng rãi, cuộc sống rất thoải mái, cho nên thường tạo được một sức quyến rũ, lãng mạng, hấp dẫn, làm cho nhiều kẻ mê mệt chay theo.
Nhưng cũng phải cẩn thận, bởi họ rất bí ẩn, rất khó chinh phục, và thường họ chỉ tin họ, chứ không tin ai khác. Do đó, họ rất đẽ phản bạn, phản thầy.
Họ lại có một sự khôn ngoan không ai ngờ, cho nên cũng có phần nguy hiểm.
Rắn, là một loài động vật, có duyên nợ với lịch sử con người từ rất rất sớm, có thể nói là sớm nhất, và được kinh thánh nhắc đến khá nhiều.
Chẳng hạn:
Cước Ước nhắc đến có tới 64 lần.
Còn trong Tân Ước đếm được 12 lần.
Riêng trong Kinh Thánh Cựu Ước, ở sách Sáng Thế, đoạn 1, câu 27, khi kể lại việc Thiên Chúa tạo dựng ông Ađam và Eva, là nguyên Tổ của loài người, thì lúc bấy giờ rắn đã xuất hiện.
Kinh Thánh kể:
Khi tạo dựng 2 ông bà xong, thì Thiên Chúa đã đặt để 2 ông bà ở trong vườn Địa Đàng, gọi là Eden, để 2 ông bà trông coi và chăm sóc. Đây là chốn hạnh phúc tuyệt diệu, là nơi có đầy đủ mọi thứ trái cây thơm ngon. Chúa đã ban cho 2 ông bà được quyền ăn mọi thứ cây trái trong vườn.
Riêng có một loại cây “biết điều thiện điều ác” ở giữa vườn, thì cần phải tránh xa. Còn những trái của chúng thì không được phép ăn. Chúa cho biết:
“Ngày nào các ngươi ăn trái cấm này, thì các ngươi sẽ phải chết”.
Chúa ra lệnh cấm, nhưng Chúa lại không nói lý do tại sao. Thế là ma quỉ, chộp cơ hội này, mượn hình con rắn, mon men đến gần, làm quen với bà Eva, đang khi bà đi bách bộ trong vườn.
Con rắn lên tiếng trước: Tôi thấy, mọi thứ trái cây trong vườn, bà đều ăn, còn loại trái cây ở giữa vườn, sao không thấy bà ăn?
Bà Eva trả lời: Chớ có nói tới, đừng có nhắc tới, đó là loại trái cây Chúa cấm, không được ăn. Chúa nói: “Ngày nào các ngươi ăn trái cấm đó, thì các ngươi sẽ phải chết” (Sách Sáng Thế 2,17).
Con rắn nhanh miệng trả lời: Chẳng có chết chóc gì đâu. Bà có biết không, Thiên Chúa sợ: ngày nào 2 ông bà ăn trái cây đó, thì mắt 2 ông bà sẽ mở ra, 2 ông bà sẽ trở nên những vị thần khôn ngoan, thông minh, biết được mọi điều thiện điều ác, biết được mọi điều lành điều dữ, không thua gì Thiên Chúa. Chỉ có thế thôi.
Nghe con rắn nói có lý, bà liền ngước mắt lên nhìn những trái cấm, thấy sao mà nó bắt mắt quá, sao mà có cảm giác thơm ngon quá. Ưng ý nhất là khi ăn vào, mình sẽ được khôn ngoan, mình sẽ được thông minh bằng Thiên Chúa.
Thế là bà đã hái một trái ăn thử. Ăn rồi, bà thấy có chết chóc gì đâu. Bà thấy con rắn nói đúng. Thế là bà đã hái tiếp, mang về nhà, đưa cho ông chồng cùng ăn nữa.
Khi ăn xong, mắt 2 ông bà đã mở ra. Hai 2 ông bà đã nhìn thấy mình trần truồng, và đã biết xấu hổ, nên đã lấy các thứ lá cây, kết thành khố để che thân, rồi tìm một nơi kín đáo nhất, để ẩn núp, để khỏi phải thấy Thánh Nhan uy nghi của Thiên Chúa.
Chính do tội nguyên tổ này, mà những đau khổ và chết chóc, đã đột nhập vào thế gian, đã gây nên bao đau thương tang tóc cho nhân loại, trải qua mọi thời đại.
Rồi, tự sức riêng, con người không thể nào tự mình cứu lấy mình cho khỏi cái tội tầy trời này, nên Thiên Chúa mới ra tay, đã sai con một của Ngài xuống trần gian, để đền tội thay cho con người, để chuộc lại cái tội này. Khi làm người, Con Một này mang tên là Giêsu.
Từ câu chuyện kinh thánh đó, con rắn đã trở thành biểu tượng cho một thế lực đen tối, độc ác, mưu mô, hiểm độc, chuyên đánh lừa con người, chuyên gặt gẫm con người, chuyên mang lại bao tai ương tang tóc cho con nười, luôn mang lại bao thảm họa cho con người.
Từ đó, con rắn, đã đồng nghĩa với quỷ dữ, với Satan, với sự lừa dối, với sự bội bạc, với sự dối trá, với kẻ bị Chúa chúc dữ.
Còn theo các nhà nghiên cứu, thì rắn là động vật bò sát, thuộc bộ có vảy, và là một nhánh của nhóm thằn lằn, có thể biến đổi sắc thái, có thể thích nghi dễ dàng với mọi môi trường sinh sống.
Rắn di chuyển bằng bụng. Và nó có thể nuốt con mồi, có kích thước lớn hơn thân của nó.
Hiện nay, người ta tính, có đến trên ba ngàn loài rắn, được phân chia thành 2 nhánh khác nhau: Rắn độc và rắn không độc.
Những loại rắn thường nghe nói nhiều nhất ở Việt Nam, là Trăn, là rắn Mống, là rắn Da cóc, rắn Nước, rắn Biển, rắn Cát, rắn Rào, rắn Ráo, rắn Lục, rắn Râu, rắn Rồng, rắn Trung, rắn Lửa, rắn Hai đầu, rắn Hổ Mang, rắn Hổ Chúa, rắn Hổ Lửa, rắn Hổ Lác, rắn Hổ Hèo, rắn Hổ Hành, rắn Hổ Ngựa, rắn Hổ Sậy, rắn Hổ Mây, rắn Hổ Bướm, rắn Mái Gầm, rắn Chàm Quạp, rắn Bông Súng, rắn Sọc Dưa, rắn Bò Cạp, rắn Cạp Nong, rắn Cạp Nia, rắn Lá Khô, rắn Ngũ Xà, rắn Mãng Xà, rắn Hổ Trấu, rắn Ri Cốc, rắn Liu Điu, rắn Ri Voi, rắn Ri Cá, vv..
Rắn sống trên đất, trên cây, có khi sống ở đưới nước nữa.
Thức ăn của rắn là các loại thú: như chim, thằn lằn... Rắn biển thì ăn cá. Rắn nước ngọt thì ăn ếch nhái.
Thịt của rắn được kể là một món đặc sản cao cấp. Nhất là từ khi Nhà Nước Ban hành luật cấm chuyên chở các thú hoang dã, những thú rừng quí hiếm, thì rắn đã trở thành những món ăn đắc tiền tại các nhà hàng.
Da của rắn có thể trở thành những món trang sức khá đắc giá dành cho phụ nữ.
Nọc của rắn có khi rất đọc, nhưng lại cũng có thể làm thuốc trị được rất nhiều thứ bệnh.
Rắn sinh sản bằng trứng. Sau khi sanh, rắn gom trứng thành một đống, rồi ấp bằng cách, cuộn tròn mình lại, phủ mình lên trên.
Riêng rắn biển thì đẻ con. Rắn biển, cũng có tên là “đẻn”, cơ thể được cấu tạo đặc biệt, để sống trong nước.
Các thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng thường nói về rắn, như:
- “Len lét như rắn mùng năm”: là ám chỉ những ai đó, đã làm một điều gì không tốt, mà cứ tưởng là ai ai cũng đều hay, đều biết, nên lúc nào cũng sợ đỏ cả mặt.
Bởi theo phong tục dân gian Việt Nam, thì ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch, là ngày giết sâu bọ. Vào ngày này, người ta thường làm cơm rượu, làm bánh trái, nấu xôi, nấu chè, bày hoa quả, để cúng tế, để tảy trừ sâu bọ. Sau đó là đi tìm rắn để giết, bởi rắn bị coi là loài sâu bọ gây ác hại cho con người. Nên rắn rất sợ ngày mồng 5 tháng 5.
- “Thẳng như rắn bò, lò dò như rắn mùng năm”: là ám chỉ đến một tính cách sống, của một con người.
- “Cõng rắn cắn gà nhà”: nhằm lên án những kẻ phản bội Tổ Quốc, vô liêm sỉ, quên mất cội nguồn, xem kẻ thù là bạn, rồi mang bạn về nhà, làm hại Tổ Quốc.
- “Vẽ rồng vẽ rắn”: là nhằm chế giễu những kẻ vô tích sự, đã chẳng làm nên chuyện gì, mà lại còn bày vẽ đủ trò cho lãng phí, vừa phí công, vừa phí sức, vừa phí thời gian, vừa phí tiền của, cuối cùng kết quả chẳng đâu ra đâu.
- “Vẽ rắn thêm chân”: là ám chỉ những kẻ hay đặt điều bịa chuyện, gian dối, hay thêm thắc, nói không bao giờ đúng sự thật.
- “Khẩu Phật tâm xà”: là ám chỉ những kẻ đạo đức giả, hay tráo trở, miệng thì nói đạo đức, nhưng lòng dạ thì hiểm độc vô chừng, luôn nhằm hãm hại người khác.
- “Hang hùm miệng rắn”: là ám chỉ nơi nguy hiểm, có thể chết người, cho nên đừng có bén mãng tới.
- “Miệng hùm, nọc rắn”: là ám chỉ những con người, mà miệng lưỡi rất ác độc, rất thâm hiểm, có thể giết người không cần gươm giáo.
Về chuyện con rắn, thì sử học Việt Nam có ghi lại một truyền thuyết, về con rắn báo oán, đã khiến cho Nguyễn Trãi phải bị tru di tam tộc, như sau:
"Cụ tổ ba đời của ông Nguyễn Trãi, có một khu vườn hoang gần nhà, trong đó có một ổ rắn, mà không ai hay biết.
Một hôm cụ bảo người nhà, ngày mai, mọi người nhớ mà lo thức dậy cho sớm, ra dọn khu vườn đó, để cụ chuẩn bị xây cất một ngôi nhà trong chính khu vườn đó.
Đêm hôm ấy, cụ nằm chiêm bao: thấy một người đàn bà, ôm đứa con nhỏ, đến khẩn khoản xin cụ hoãn lại việc dọn khu vườn ba ngày, để mẹ con bà kịp thời di chuyển đi nơi khác.
Sáng hôm sau, khi thức dậy, cụ được những người nhà cho biết, là đang khi dọn khu vườn, họ đã bắt được 2 con rắn nhỏ. Còn con rắn mẹ, họ đổi theo không kịp, nhưng cũng đã chặt được khúc đuôi của nó.
Nghe tin này, cụ liên tưởng đến giấc mơ. Cụ rất buồn và rất hối hận, bởi cụ đã không kịp thời ngăn chận một tội ác.
Thế rồi, tối hôm đó, đang khi ngồi đọc sách dưới ánh đèn dầu, thì cụ bỗng thấy có một giọt máu tươi, từ trên nóc nhà rơi xuống, ngay trên chính trang sách cụ đang đọc.
Khi mở những trang kế tiếp, thì thấy có đến 3 trang giấy bị thấm máu.
Cụ sợ quá. Bởi cụ hiểu ngay, đây là dấu không lành: Rồi đây, con rắn sẽ trở lại, báo oán nhà cụ, và sẽ báo oán cho đến ba đời.
Rồi sau này, đến thời Nguyễn Trãi, khi đi thi ở kinh thành, và đã đổ đạt trở về. Trên đường, Nguyễn Trãi có ghé qua phố Hàng Chiếu, bỗng ông trông thấy một người con gái, nhan sắc tuyệt trần, đang gánh chiếu đi bán.
Nàng không những đẹp ở dáng vóc, đẹp ở con người, mà lại còn rất giỏi văn chương, đối đáp thơ phú kinh sử rất chuẩn.
Bái phục trước tài năng phi thường và sắc đẹp tuyệt trần của người con gái, Nguyễn Trãi đã ngõ ý xin cưới cô nàng về làm vợ, để ngày đêm cận kề, mà đối họa thơ phú.
Rồi vào năm Nhâm Tuất (tức là năm 1442 theo công nguyên), khi Vua Lê Thái Tôn (con vua Lê Lợi), đi tuần du phương Đông, duyệt binh ở Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ cũng đang an dưỡng tại Côn Sơn, bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua, và cùng với nhà Vua đến viếng chùa Côn Sơn, vì ở đây, có ẩn am của Nguyễn Trãi.
Khi nhìn thấy vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ có nhan sắc, lại có biệt tài về văn chương, nên vua Lê Thái Tôn bèn phong cho nàng chức Lễ Nghi Học Sĩ, và cho nàng ngày đêm được hầu cận bên cạnh nhà vua.
Mùa đông năm đó, nhà vua xa giá về Trại Vải ở Lệ Chi Viên, thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, bỗng nhà vua mắc bịnh, lên cơn sốt dữ dội.
Thị Lộ lo hầu hạ, và lo thuốc thang suốt ngày đêm.
Sau đó, nhà vua băng hà.
Các quan hốt hoảng, vội vã một cách bí mật, phụng giá đưa thi hài nhà vua về kinh thành.
Nửa đêm mới làm lễ phát tang.
Tất cả triều thần đều buộc tội cho Thị Lộ, là đã âm mưu giết nhà vua, nên đã lôi nàng ra công đình để giết.
Nhưng khi tới nơi hành quyết, thì nàng hóa thành con rắn, rồi biến mất.
Lúc bấy giờ, trong triều đình, có một quan võ, thuộc nhóm Lê Sát, thấy vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi, người đã dấy lên cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn), thường rất trọng dụng Nguyễn Trãi, nên sinh lòng ghen ghét, ganh tỵ đã từ lâu. Nay nhân cơ hội này, ông liền phán quyết: Chính Nguyễn Trãi mới là kẻ chủ mưu giết Vua.
Thế là các quan lại đều thuận ý, nên đã kết án tử hình Nguyễn Trãi với ánh lệnh tru di dòng tộc 3 đời, vì cái tội giết vua.
Cái án oan này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét lại, vì thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một Đại Công Thần, có công khai quốc, liền hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức, và phục hồi danh dự cho Nguyễn Trãi. Đây là một vụ án lịch sử có thật, tên là Lệ Chi Viên.
Trở lại với Kinh thánh, chúng ta thấy: Tuy con rắn đã bò vào lịch sử của nhân loại, với những dấu vết không đẹp, như là loài bị Chúa Chúa dữ, bị đồng hoá với Satan, là thủ lãnh của quỉ dữ, chuyên xô đẩy con người xuống hố diệt vong, với những đức tính xấu xa, như xảo quyệt, hiểm độc, báo thù.
Nhưng cũng với Kinh Thánh, con rắn lại cũng có nhiều nét rất tốt, đã trở thành mẫu mực cho các môn đệ Chúa về một cách sống, và cũng tượng trưng cho uy quyền cứu độ.
Chẳng hạn: Phúc âm theo thánh Matthêu, đoạn 10, câu 16 có ghi lại câu nói của Chúa Giêsu, dạy các môn đệ mình như sau:
“Anh em hãy ăn ở khôn ngoan như con rắn”.
Rồi chẳng hạn trong sách Xuất Hành, từ đoạn 3 đến đoạn 7, có ghi lại câu chuyện Con rắn như sau:
Lúc bấy giờ, dân Do Thái, đang phải chịu cảnh nô lệ thật tồi tệ ở Đất Ai cập, đã hàng trăm năm rồi.
Trong cảnh cùng cực thê thảm đó, dân Do Thái đã ngước mắt lên kêu cầu đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã nhậm lời họ. Chúa đã chọn ông Môsê, và sai ông đến với đến với Pharaô (vua nước Ai Cập), để xin vua trả tự do cho Dân tộc Do Thái của ông.
Ông Môsê đến nói với nhà Vua:
“Thiên Chúa phán như thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi mở lễ mừng kính Ta trong sa mạc”.
Vua Pharaô trả lời:
“Thiên Chúa của các ông là ai, mà lại khiến Ta phải thả các ông đi? Ta không biết Thiên Chúa nào hết. Ta cũng chẳng thả cho các ông đi đâu hết. Hãy tiếp tục làm các công việc của các ông đi”.
Và để cho nhà vua tin, là ông được Thiên Chúa sai phái tới, Ông Môsê đã làm phép lạ đầu tiên trước mặt vua:
Ông ném cây gậy đang cầm ở tay xuống đất. Bỗng cây gậy trở thành con rắn to.
Nhưng Pharaô cũng lại triệu hồi các hiền sĩ, các pháp sư và các thầy phù thủy đến, họ cũng làm được y như vậy: Họ ném cây gậy của họ xuống đất. Gậy của họ cũng biến thành rắn. Chỉ có khác, là con rắn của Môsê đã đến nuốt sạch tất cả những con rắn của họ.
Tuy thấy thế, nhưng vua Pharaô cũng vẫn cứng lòng, vẫn không tin Thiên Chúa của Môsê. Nhưng dù sao, con rắn cũng đã được Thiên Chúa dùng, để biểu dương quyền năng của Thiên Chúa.
Rồi trong Kinh Thánh, ở sách Dân số đoạn 21, có đề cập đến chuyện con rắn đồng như sau:
Trong cuộc hành trình tiến về Đất Chúa Hứa, Chúa dẫn dân Do Thái không đi qua con đường tắt, mà lại dẫn họ đi qua con đường vòng, từ núi Hebron, vượt qua biển Đỏ, tránh không qua vùng Eđom, để tránh những cuộc chiến đấu không cần thiết. Bởi sợ, khi mới bắt đầu cuộc hành trình, mà gặp khó, gặp khổ, phải đối mặt với chết chóc do chiến tranh, dân chúng đâm ra nản lòng, sẽ rủn chí, rồi quay đầu trở về Đất Ai Cập.
Nhưng con đường vòng này, thì lại quá dài, quá xa, nên dân Do Thái đã mất hết kiên nhẫn. Họ bắt đầu có những lời kêu trách Thiên Chúa và nói xúc phạm đến ông Môsê.
Thế là Chúa đã qui tụ rắn lửa từ khắp các nơi, kéo về các lều trại dân Do Thái, rồi cắn chết rất nhiều người, khiến họ khiếp sợ.
Thế là dân chúng kéo nhau đến năn nỉ van xin ông Môsê:
“Chúng tôi đã có tội, đã xúc phạm đến Chúa và đến ông. Xin ông hãy cầu cùng Chúa, cứu chúng tôi, và xua đuổi rắn ra khỏi chúng tôi”.
Ông Môsê đã khẩn cầu cùng Chúa. Và Chúa đã dạy Môsê như sau:
“Hãy làm một con rắn đồng, rồi treo lên một cây cột trụ thật cao, để tất cả những ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng đó, thì họ sẽ được cứu sống”.
Thế là dân Do thái đã được thoát nạn, nhờ con rắn đồng đó.
Dấu hiệu của “con rắn chữa trị” hay “con rắn leo cây” của Kinh Thánh, vẫn được các lương y thời cổ Hy Lạp, và cả ngành Y Dược thế giới hiện nay, tiếp tục chọn, làm biểu tượng cho ngành Thầy Thuốc của mình.
Rồi khi Thiên Chúa ra tay, tìm cách cứu độ con người khỏi tội nguyên tổ, khỏi hố diệt vong, thì con rắn đã mang một bộ mặt mới, mang một ý nghĩa mới.
Chính thánh Gioan trong cuốn Tin Mừng mang tên Ngài, đoạn 3 câu 14, có ghi lại lời Chúa Giêsu nói như sau:
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong Sa mạc thế nào, thì Con Người đây, cũng sẽ được giương cao lên như vậy, để những ai tin vào Người Con này, cũng sẽ được sống muôn đời”.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy con hãy sống khôn ngoan như con rắn, nhưng Chúa cũng dạy con hãy sống hiền lành như chim bồ câu. Nghĩa là sự khôn ngoan của con trong năm mới này, phải định hướng sao cho thật rõ ràng, sao cho thật chính xác nhất, để biết đâu là điều quan trọng nhất, để biết đâu là điều cần thiết nhất, để lựa chọn điều đúng nhất, để con còn lo tập trung đầu tư thời gian, tiền bạc, của cải, công sức, tài năng vào đó, để đầu tư cho phần rỗi đời đời của con.
Xin Chúa soi sáng cho con. Xin Chúa giúp con lựa chon. Xin Chúa chúc lành cho con, và xin Chúa cũng chúc lành cho mọi công ăn việc làm của con trong năm mới này, được thuận lợi, và được tiến triển một cách tốt đẹp. Amen.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 ----------------------------------------------