Bênêdictô chào đời nǎm 480, tai Norcia. Sự giáo dục đạo đức trong gia đình đã sớm làm cho Ngài trưởng thành về phương diện luân lý.
Dù mới chỉ là một thiếu niên 16, 17 tuồi, mà Ngài đã có những tư cách thật khôn ngoan, không ham chi những thú vui khoái lac, coi thường của cải, danh vọng trân gian.
Sau những ngày hạnh phúc sống dưới mái nhà êm ấm, Ngài được gửi đi du học tại La Mã. Đang mải mê việc học, thì Bênêdictô tìm ra ý nhiệm mầu của ThiênChúa.
Ngài vào hoang địa Subiacô cách La Mã 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Chúa.
Danh tiếng và lòng đạo đức thánh thiên cúa Ngài được truyền tụng khắp nơi. Không một ai mà khôngbiết đến tên Ngài.
Gần nơi Ngài trú, có môt nhà dòng, vị bề trên vừa mới mất, nên toàn thề cộng đồng đã đến xin Thánh nhân kế vị và coi sóc.
Trước lòi van xin tha thiết, Ngài đã bằng lòng.
Sau một thời gian, Ngài lại trở về hang cũ, sống mật thiết với Chúa hơn.
Số người đến xin làm môn đệ Ngài càng ngày càng đông. Ngài phải lập ra nhiều nhà cho họ trú.
Với bầu nhiệt huyết sẵn có, Ngài ra sức giảng thuyết cho dân chúng xa rời các ngẫu tượng, trở về với Thiên Chúa.
Kèm theo lời giảng, Chúa đã dùng tay Ngài thực hiện những phép lạ cả thề, chữa lành mọi thứ bệnh tật, cho kẻ chết sống lại.
Chúa cũng ban cho thánh nhân ánh sáng, để thấu rõ lòng người, biết trước công việc xảy ra.
Cuộc sống của Ngài đã chứng minh lòng tin cậy nơi Chúa rất sâu xa,·và nhân đức khó nghèo trọn hảo.
Vì tuồi già sức yếu do thòi gian chay tịnh, hy sinh, hãm mình, Ngài đã mong ước về cùng Chúa sau những ngày dọn mình sốt sắng.
Nhiều phép lạ đã xuất hiên sau cái chết cua Ngài, làm cho danh thơm và sự nghiệp Ngài lan truyền, tồn tại mãi mãi.
Chính sự phát triển mau lẹ cúa nhà dòng ở khắp năm châu đã nói lên được điều ấy.
Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđictô (còn gọi là thánh Biển Đức) được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh
Thật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh Bênêđictô được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự cộng tác, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđictô.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđictô được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđictô.
Thánh Grêgoriô Cả trong cuốn Đối thoại của mình, khi kể về tiểu sử và phép lạ của Viện Phụ Biển Đức khả kính, không nhắc tới ngày qua đời của Người tại núi Cassin, vào khoảng năm 547, sau khi đến sống ở đây từ năm 529. Lễ kính được cử hành theo ngày mà bản phụng vụ cổ nhất các nước francs ghi lại, ngày 11 tháng Bảy. Ngày này trùng ngày hài cốt của Người có thể đã được chuyển từ núi Cassin về Flenry trên bờ sông Loire vào năm 703 như lời một tác giả vô danh thế kỷ VIII ghi lại. Tuy nhiên, các tu sĩ Núi Cassin, những người vẫn còn giữ di hài được coi là của Thánh Biển Đức thì vẫn không đồng ý với truyền thuyết đó.
Ngày 11 tháng Bảy đã thế chỗ cho ngày chết của Người, vì theo niên biển của núi Cassin, ngày đó chính là 21 tháng Ba.
Biển Đức (theo tiếng Latinh là Benedictus có nghĩa là được chúc phúc), sinh tại Norcia (Ombrie), vào khoảng năm 480, trong một gia đình La Mã dòng họAnicia, bảy mươi năm sau khi quân đội Wisigotho của Alaric vây hãm thành và bốn năm trước Odoacre, vua người Hérules, hạ bệ vị hoàng đế La Mã cuối cùng và chứng kiến sự xuống dốc của nền văn minh phương Tây do làn sóng tràn ngập của các dân man di, đặc biệt của người Goths do Totila lãnh đạo. Trong bối cảnh đó, Biển Đức, sau thời gian theo học tại Roma, muốn rút lui khỏi thế gian. Biển Đức thử nghiệm nhiều hình thức tu dòng khác nhau sau khi đã từng ẩn tu trong một hang núi gần Subiaco miền Latium ba năm: ban đầu Ngài sống cuộc đời bán-đơn tu tại Effide (nay là Affile), sau sống độc tu gần Aniene, nơi đây chỉ có một tu sĩ tên là Romain biết Ngài và mang thức ăn cho Ngài. Tuy nhiên những người chăn cừu cũng đã biết và họ đã thường lui tới với Người. Sau này, Biển Đức trở thành bề trên một tu viện gần đấy theo yêu cầu của các tu sĩ sống tại đây. Thế nhưng vì không đồng tình với kỷ luật cải cách của thánh nhân, một số tu sĩ tìm cách đầu độc Ngài. Biển Đức bỏ đi, đến sống ở Subiaco như một tu sĩ cộng đoàn và đã thành lập mười hai tu viện nhỏ cho các tu sĩ dưới quyền. Ngài rời Subiaco đến sống ở núi Cassin khoảng năm 529.
Thánh Grêgoriô Cả viết tiểu sử Thánh Biển Đức thành ba mươi tám chương theo văn phong khoa trương thời đại, kể lại ba mươi bảy năm của thánh nhân ở Norcia. Tác giả trình bày cho chúng ta một Biển Đức chọn câu “Ora et labora“(cầu nguyện và lao động) làm châm ngôn sống, lấy chiếc cày và thập giá làm biểu tượng. Thánh Biển Đức là người bảo vệ nền văn minh phương Tây bằng cách đối đầu với vua Totila người Ostrogoths. Khi sắp qua đời, Ngài yêu cầu được đưa tới nhà nguyện, nơi đây “đứng lên, hai tay hướng về trời, ngài cầu nguyện và trút hơi thở cuối cùng”. (Grêgoriô Cả, Tiểu sử …37, 3).
2. Thông điệp và tính thời sự
Các kinh cầu nguyện trong Thánh Lễ hôm nay rút từ bản Qui luật của Thánh Biển Đức, tất cả đều nhắc tới giáo huấn của vị thầy cao cả trên đường tu đức này, người đã từ bỏ việc học hành sách vở, bỏ gia đình và tài sản thân phụ để lại, chỉ để làm vui lòng Chúa.
Lời nguyện của ngày nhắc tới bản Qui luật (lời nói đầu 45 và 49): “Lạy Chúa, Chúa đã làm cho Thánh Biển Đức trở thành nhà hướng dẫn cho những ai đang học cách phụng sự Ngài, chúng con xin Chúa đừng để chúng con coi trọng điều gì hơn tình yêu Chúa và chúng con sẽ được tiến bước trên con đường các giới răn của Ngài với tâm hồn không gì vướng bận”. Qui luật của Thánh Biển Đức dung hòa kinh nghiệm tu đức của Thánh Basile với sự khôn ngoan của người Roma và sự kín đáo Phúc Âm “ngu dốt một các sáng suốt”, hầu biến nó trở nên bản hiến chương cho cái thành trì mới tức là tu viện này. Tại đây, viện phụ là hiện thân cho quyền cha của Thiên Chúa trong một thế giới được xây dựng trong an bình nhờ các sợi dây nối kết của tình ái Đức Kitô. Chúng ta có thể đọc thấy tinh thần Qui luật trong Phụng vụ Bài đọc: “Họ sẽ tuyệt đối không ưa chuộng gì hơn Đức Kitô”. Qui tắc này không phải chỉ dành cho các tu sĩ, nhưng liên hệ mọi tín hữu, vì mỗi người ai cũng có thể noi gương Thánh Biển Đức “nhanh nhẩu bước đi trên những nẻo đường Phúc Âm, trong sự êm ái của tình yêu và con tim không hề vướng bận” (xem Đáp ca của Phụng vụ Bài đọc). Lời nguyện sau hiệp lễ nhắc tới một khía cạnh khác của tinh thần Biển Đức (xem Qui luật, 72): “Ước gì chúng con có thể vâng theo lời giáo huấn của Thánh Biển Đức, biết trung thành phụng sự Chúa trong việc cầu nguyện và bác ái với anh em”. Các khu vực thuộc dòng Biển Đức luôn tìm cách lan tỏa tình bác ái huynh đệ ra chung quanh bằng việc giúp con người tự hoàn thiện nhờ lao động (kể cả lao động chân tay) và lòng hiếu khách. Lời nguyện trên lễ vật (lấy tư tưởng từ Tông Hiến của Đức Phaolô VI khi công bố Thánh Biển Đức làm bổn mạng Châu Âu) thì cầu xin “ơn hiệp nhất và an bình”. Roma được hưởng một giai đoạn an bình với Théodoric và Cassiodore cho đến năm 526. Chiến thắng của Kitô giáo Roma đối với làn sóng man di đứng đầu là Totila trở thành biểu tượng của sự hiệp nhất tan rã nay đã tìm lại được. Việc tìm lại các giá trị nhân bản và giá trị của Kitô giáo đã cứu vãn nền văn hóa Châu Âu, trong khi hoàng đế Justinien cùng với những cuộc chiến chinh dữ dội và bất tận của ông cũng như nghị sĩ Cassiodore đã thất bại. Cassiodore vẫn sống trong ảo tưởng rằng nền văn hóa La Mã cũng như nền triết học của nó sẽ muôn đời vĩnh tồn.
Một ca vãn của Pierre le Vénérable viện phụ Cluny viết rằng: Thánh Biển Đức đã dạy “muôn dân biết phục tùng luật lệ và các ước nguyện của Đức Kitô”. Tinh thần qui hướng vào Đức Ki-tô của Thánh Biển Đức vốn cũng là một thứ nhân bản đích thực đã dung hoà tính siêu việt của lời cầu nguyện (ora) với việc làm của con người (labora), vì như Thánh Grêgoriô viết: Thánh Biển Đức “nhờ biết cân nhắc mọi sự cách chín chắn, đã nắm được đầy đủ tinh thần tất cả những người ngay lành”. (Tiểu sử … II, 8, 9).
Ngày 11 tháng 7 THÁNH BÊNÊĐICTÔ, VIỆN PHỤ (480-547)
1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.
Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, để dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh theo khuôn mẫu tổ tiên.
Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma. Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc. Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch. Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc. Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận. Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa. Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình. Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết. Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới. Bênêđictô sống ở đó ba năm. Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài. Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.
Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá. Đứng trước những cám dỗ của ma quỉ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng. Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo. Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi. Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài. Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.
Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện. Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô. Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”.
Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài. Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình. Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động. Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.
Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thầy mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.
Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chỉ nam cho những ai muốn nên thánh thiện. Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ
2. Con đường nên thánh.
a. Chí muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Trong cuốn “đối thoại”, thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa”. Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ này là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa”. Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng. Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin. Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật. Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật. Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài” Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống”. Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin. Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự Chúa”, cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những “bình thánh”, cung hiến cho Thiên Chúa (Qui luật 31).
Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57). Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn toàn hơn?- Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa. Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng”(43). Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác. Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53). Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36). Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.
b. Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Năm 339, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói. Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa. Thấy các thầy ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thầy vì thiếu lòng tin tưởng. Ngài nói:
- Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh? Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.
Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến. Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời lâm đói kém, mất mùa cũng vậy. Lần khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách. Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp. Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:
- Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.
Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:
- Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.
c. Quy luật của đời sống cộng đoàn:
“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là :
Ân cần tôn kính lẫn nhau; Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau; Thi đua vâng lời nhau; Không ai tìm ích lợi cho mình; Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau; Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng; Kính sợ Chúa trong tình thương; Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;
Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời”.