-------------------------------- Ðền thờ tâm hồn. 26/07 – Thứ Sáu tuần 16 thường niên – Thánh Gioakim và thánh Anna. Lễ nhớ. "Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".
* Theo một truyền thống cổ xưa, có thể vào thế kỷ 2 Thánh Gioakim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Lòng sùng kính thánh Anna được phổ biến ở phương Đông vào thế kỷ 6, và ở phương Tây vào thế kỷ 10. Còn thánh Gioakim cũng được tôn kính như thế, nhưng muộn hơn, lối thế kỷ 17.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Trong Tin Mừng không thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng đại quần chúng.
Lòng sùng kính thánh Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.
Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.
Đôi cha mẹ.
Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.
Thật là mầu nhiệm đức tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa! các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.
“Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.
Sứ điệp: Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngài khai mở và đổ tràn sự sống của Người cho tâm hồn khiêm cung và biết lắng nghe. Ai khát khao chân thành, người ấy sẽ nhận được mầu nhiệm Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bao nhiêu vị tiên tri và người công chính trong Cựu ước khao khát được thấy Chúa và nghe Lời Chúa mà không được. Phần con, con được diễm phúc nghe Lời Chúa và đón nhận mầu nhiệm Nước Trời là chính Chúa. Con cảm tạ Chúa.
Nhưng lạy Chúa, Chúa cho con thấy rằng chỉ những tâm hồn khiêm cung, ngay chính và khao khát Chúa, mới thực sự có những điều thiện hảo đó. Vâng, con chỉ có thể được đón nhận Nước Trời nếu lòng con luôn chân thành và thiết tha quy hướng về Chúa. Và nếu con như người lính canh chờ mong bình minh đến từng giờ, từng giây phút trong đời, thì sự sống và tình yêu Chúa chắc chắn sẽ tràn ngập cuộc đời con. Ôi lạy Chúa, con thầm nhủ và mong ước được như thế.
Lạy Chúa, con càng xác tín hơn nữa khi nghe Chúa nói: “Ai đã có, thì sẽ cho họ được dư dật, còn kẻ không có thì cái họ có cũng bị lấy đi”. Khi con loại trừ ra khỏi lòng mình những trăn trở, các thói hư tật xấu và tội lỗi, khi con có thiện chí sẵn sàng đón nhận Chúa, thì ơn Chúa càng dồi dào, dư tràn bao phủ đời con. Ngược lại, con sẽ tự đánh mất tất cả nếu lời mạc khải của Chúa chỉ là tiếng vang động bên ngoài. Đó là khi con cứng lòng khép kín nội tâm, tách rời với anh em, với cộng đoàn và với Giáo Hội. Đó cũng là khi con từ chối của ăn linh hồn là nguồn sống Thánh Thể, các bí tích và chính Lời Hằng Sống. Xin đừng để con sa lầy vào tình cảnh đó.
Xin cho con sống khiêm nhường, bác ái và hiệp nhất với Chúa luôn luôn như lối mở cho con vào Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy”.
Thứ Ba, 26/7/2022, Bài giảng Thánh lễ tại Sân vận động Commonwealth ở Edmonton Canada
Hôm nay chúng ta mừng lễ ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng ta gặp gỡ nhau đông đảo vào dịp rất quý báu đối với anh chị em cũng như đối với tôi. Chính tại nhà của hai thánh Gioakim và Anna, trẻ Giêsu đã biết những người họ hàng lớn tuổi của mình và cảm nhận được sự gần gũi, tình yêu dịu dàng và khôn ngoan của ông bà. Chúng ta cũng hãy nghĩ về ông bà của chúng ta và suy tư về hai khía cạnh quan trọng.
Thứ nhất: chúng ta là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn. Chúng ta không phải là những cá nhân biệt lập, những hòn đảo. Không có ai bước vào thế giới này mà không có sự liên kết với người khác. Nguồn gốc của chúng ta, tình yêu đã chờ đợi chúng ta và chào đón chúng ta bước vào thế giới, môi trường gia đình mà chúng ta lớn lên, là một phần của lịch sử duy nhất đã đi trước và trao ban cuộc sống cho chúng ta. Chúng ta không chọn lịch sử đó nhưng đón nhận nó như một ân ban; và lịch sử là một món quà mà chúng ta được kêu gọi để trân trọng. Bởi vì, như Sách Huấn ca đã nhắc nhở, chúng ta là “dòng dõi” của những người đi trước, là “gia tài quý báu” của họ (Hc 44,11). Một gia tài quý báu, ngoài kỳ tích hoặc quyền hạn của một số người, trí thông minh hoặc sự sáng tạo của những người khác trong bài hát hoặc thơ ca, đều tập trung vào sự công bình, trung thành với Chúa và ý muốn của Người. Đây là điều họ đã truyền lại cho chúng ta. Để thực sự đón nhận chúng ta là ai và chúng ta quý giá như thế nào, chúng ta cần phải tiếp nhận những người mà nhờ họ chúng ta hiện hữu. Họ là những người không chỉ nghĩ về bản thân nhưng còn truyền lại cho chúng ta kho báu cuộc sống. Chúng ta có mặt ở đây là nhờ cha mẹ chúng ta, nhưng chúng ta cũng cám ơn ông bà, những người đã cho chúng ta trải nghiệm rằng chúng ta được chào đón trên thế giới. Thường ông bà yêu thương chúng ta vô điều kiện và không mong nhận lại bất cứ điều gì. Ông bà nắm tay chúng ta khi chúng ta sợ hãi, trấn an trong đêm tối, khuyến khích chúng ta trong ánh sáng ban ngày khi chúng ta phải đối diện với các quyết định quan trọng của cuộc sống. Nhờ ông bà, chúng ta đã nhận được sự âu yếm từ lịch sử đi trước chúng ta: chúng ta đã học được rằng lòng tốt, sự dịu dàng và trí tuệ là những cội rễ vững chắc của con người. Trong nhà của ông bà, nhiều người trong chúng ta được hít thở hương thơm của Tin Mừng, sức mạnh của một đức tin làm chúng ta cảm thấy như ở nhà. Nhờ ông bà, chúng ta đã khám phá ra một loại đức tin “quen thuộc”. Bởi vì đức tin về cơ bản được thông truyền qua tình cảm và sự khuyến khích, chăm sóc và gần gũi.
Đây là lịch sử của chúng ta, lịch sử mà chúng ta là người thừa kế vì thế chúng ta được mời gọi gìn giữ. Ông bà đã để lại trong chúng ta dấu ấn duy nhất về cách sống của họ, cho chúng ta phẩm giá, lòng tin tưởng vào bản thân và người khác. Họ đã ban tặng cho chúng ta một điều gì đó không bao giờ có thể lấy đi được, đồng thời đã cho phép chúng ta trở thành những con người độc nhất, nguyên bản và tự do. Từ ông bà, chúng ta học được rằng tình yêu không bao giờ là một sự ép buộc, không bao giờ tước đoạt tự do nội tâm của người khác. Đây là cách Thánh Gioakim và Thánh Anna yêu thương Đức Maria; và đó cũng là cách Mẹ Maria đã yêu Chúa Giêsu, bằng một tình yêu không bao giờ làm nghẹt thở hay giữ lại cho riêng mình, nhưng đồng hành trong việc thực hiện sứ vụ đã đến trong thế giới. Chúng ta hãy cố gắng học điều này với tư cách là cá nhân và với tư cách là Giáo hội. Mong sao chúng ta học cách không bao giờ tạo sức ép lên lương tâm người khác, đừng bao giờ hạn chế tự do của những người xung quanh chúng ta, và trên hết không bao giờ thiếu tình yêu và sự tôn trọng đối với những người đã đi trước và đang được giao phó cho chúng ta chăm sóc. Vì họ là những kho tàng quý giá lưu giữ một lịch sử vĩ đại hơn chính họ.
Sách Huấn ca cũng cho chúng ta biết rằng việc gìn giữ lịch sử đã cho chúng ta cuộc sống không có nghĩa là che khuất “vinh quang” của tổ tiên chúng ta. Chúng ta không được đánh mất ký ức ủa họ, cũng như không quên lịch sử đã sinh ra cuộc sống chúng ta. Chúng ta phải luôn nhớ đến đôi bàn tay âu yếm đã ôm chúng ta trong vòng tay của họ, bởi vì chính trong lịch sử này, chúng ta tìm thấy niềm an ủi trong những lúc nản lòng, một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta và khuyến khích chúng ta can đảm đối diện với những thách đố cuộc sống. Tuy nhiên trân trọng ký ức của họ cũng có nghĩa là luôn quay trở lại ngôi trường đó, nơi lần đầu tiên chúng ta học bài học tình thương. Điều đó có nghĩa là, khi đối diện với những lựa chọn hàng ngày, chúng ta hãy tự hỏi mình rằng những người già khôn ngoan mà chúng ta từng biết và ông bà chúng ta sẽ khuyên chúng ta điều gì?
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tự hỏi: liệu con cháu chúng ta có khả năng bảo vệ kho tàng mà chúng ta đã được thừa hưởng này không? Chúng ta có nhớ những lời dạy tốt đẹp mà chúng ta đã lãnh nhận không? Chúng ta có nói chuyện với những người lớn tuổi và dành thời gian lắng nghe họ không? Và trong những ngôi nhà ngày càng được trang bị hiện đại, đầy đủ và tiện dụng, chúng ta có biết dành một không gian xứng đáng để lưu giữ những ký ức của họ, một vị trí đặc biệt, qua những bức ảnh, vật dụng quý giá cho phép chúng ta nghi nhớ trong cầu nguyện những người đi trước chúng ta không? Chúng ta có biết giữ gìn Kinh Thánh và chuỗi hạt Mân Côi của tổ tiên không? Trong lớp sương mù của sự lãng quên che mờ thời kỳ hỗn loạn của chúng ta, điều cần thiết là phải vun trồng cội nguồn của chúng ta, cầu nguyện cho và với các bậc tiền nhân, dành thời gian để ghi nhớ và bảo vệ di sản của họ. Đây là cách một cây gia đình phát triển, đây là cách tương lai được xây dựng.
Bâu giờ chúng ta nghĩ đến điều quan trọng thứ hai. Ngoài việc là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn, chúng ta còn là những người thợ của một lịch sử cần được xây dựng. Mỗi người chúng ta có thể nhận ra mình là ai, được đánh dấu bằng cả ánh sáng và bóng tối, và bằng tình yêu mà chúng ta đã nhận được hay không. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống con người: tất cả chúng ta đều là con của ai đó, được ai đó sinh ra và thành hình, nhưng khi chúng ta trở thành người lớn, chúng ta cũng được kêu gọi trao ban sự sống, trở thành cha, mẹ và ông bà của người khác. Vì vậy, nhìn về con người của chúng ta ngày hôm nay, chúng ta muốn làm gì cho bản thân? Ông bà đi trước, những người cao tuổi mơ ước, hy vọng và hy sinh vì chúng ta, hỏi chúng ta một câu hỏi cơ bản: các con muốn xây dựng một xã hội như thế nào? Chúng ta đã nhận được rất nhiều từ bàn tay của những người đi trước. Đến lượt chúng ta, chúng ta muốn để lại điều gì cho những người đến sau? Một đức tin sống động hay "Nước hoa hồng"? Một xã hội được thành lập dựa trên lợi nhuận của các cá nhân hay dựa trên tình huynh đệ? Một thế giới hòa bình hay chiến tranh? Một thụ tạo bị tàn phá hay một ngôi nhà tiếp tục được chào đón?
Chúng ta không được quên rằng nhựa mang lại sự sống đi từ rễ đến cành, đến lá, đến hoa, rồi đến quả của cây. Truyền thống đích thực được thể hiện theo chiều dọc này: từ dưới lên. Chúng ta cẩn thận để không rơi vào bức tranh biếm họa của truyền thống, nó không di chuyển theo chiều dọc - từ rễ đến quả - mà theo hàng ngang - tiến và lùi. Truyền thống hình thành theo cách này chỉ dẫn chúng ta đến loại “văn hóa lạc hậu” nơi ẩn náu ích kỷ, đơn giản là nuôi dưỡng hiện tại, nhốt nó trong não trạng với lý luận “Chúng tôi luôn làm theo cách này".
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng các ông có phúc vì được thấy và được nghe điều mà nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính mong mỏi mà không được (Mt 13, 16-17). Trên thực tế, nhiều người đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, đã dọn đường cho Người và đã loan báo sự xuất hiện của Người. Tuy nhiên, giờ đây, Đấng Cứu Thế đã đến, những ai có thể nhìn thấy và nghe thấy Người được kêu gọi để chào đón và loan báo về Người.
Anh chị em thân mến, điều này cũng áp dụng cho chúng ta. Những người đi trước đã truyền cho chúng ta một niềm đam mê, một sức mạnh và một khao khát, một ngọn lửa mà chúng ta muốn nhóm lại. Vấn đề không phải là bảo quản tro, nhưng là thắp lại ngọn lửa mà họ đã nhóm lên. Ông bà và những người lớn tuổi của chúng ta mong muốn thấy một thế giới công bằng, huynh đệ và liên đới hơn và họ đã chiến đấu để mang lại cho chúng ta một tương lai. Giờ đây, chúng ta không để họ thất vọng. Được những người là cội nguồn hỗ trợ, bây giờ đến lượt chúng ta sinh hoa kết trái. Chúng ta là những cành phải nở hoa và gieo rắc những hạt giống mới vào lịch sử. Vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình một số câu hỏi cụ thể. Là một phần của lịch sử cứu độ, dưới ánh sáng của những người đi trước và yêu thương tôi, bây giờ tôi phải làm gì? Tôi có một vai trò duy nhất và không thể thay thế trong lịch sử, nhưng tôi sẽ để lại dấn ấn gì? Tôi đang truyền lại điều gì cho những người sẽ đến sau tôi? Tôi đang cống hiến gì cho bản thân? Thường chúng ta đo lường cuộc sống dựa trên thu nhập, loại nghề nghiệp, mức độ thành công và cách người khác nhận xét về chúng ta. Nhưng đây không phải là tiêu chí mang lại sự sống. Câu hỏi thực sự là: tôi có đang tạo ra sự sống không? Tôi có đang mở ra cho lịch sử một tình yêu mới mà trước đây chưa có không? Tôi có đang loan báo Tin Mừng trong khu phố của tôi không? Tôi có đang tự do phục vụ người khác như cách mà những người đi trước đã làm cho tôi không? Tôi đang làm gì cho Giáo hội, thành phố và xã hội? Thật dễ dàng để chỉ trích, nhưng Chúa không muốn chúng ta chỉ là những người chỉ trích hệ thống, hoặc khép kín và "lạc hậu". Đúng hơn Chúa muốn chúng ta trở thành những người thợ của một lịch sử mới, những người dệt nên hy vọng, những người xây dựng tương lai, kiến tạo hòa bình.
Xin Thánh Gioakim và Anna cầu bầu cho chúng ta. Xin hai Đấng giúp chúng ta biết trân trọng lịch sử đã cho chúng ta sự sống, và về phần mình, chúng ta xây dựng một lịch sử sự sống. Xin Thánh Gioakim và Anna nhắc nhở chúng ta về bổn phận tinh thần của chúng ta trong việc kính trọng ông bà và những người lớn tuổi, quý trọng sự hiện diện của họ để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Một tương lai nơi người già không bị gạt sang một bên vì “từ quan điểm thực tế họ không còn cần thiết nữa”. Một tương lai không đo giá trị của con người chỉ bằng những gì họ tạo ra. Một tương lai không thờ ơ với nhu cầu cần được lắng nghe và quan tâm của người già. Một tương lai mà lịch sử bạo lực và gạt ra bên lề mà các anh chị em bản địa của chúng ta phải chịu đựng sẽ không bao giờ lặp lại. Tương lai đó là có thể, nếu với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta không cắt đứt mối dây liên kết giữa chúng ta với những người đi trước và nuôi dưỡng cuộc đối thoại với những người sẽ đến sau chúng ta. Già trẻ, ông bà và con cháu cùng nhau chúng ta tiến về phía trước, và cùng nhau chúng ta hãy ước mơ.
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và là ai người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được nghe.”
Sấm ngôn của tiên tri Isaia làm chúng ta khó hiểu. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu? Nếu tách lời sấm riêng ra thì chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng lời sấm này đặt trong mạch văn và trong toàn bộ Thánh kinh thì không thể cắt nghĩa như vậy.
Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi.
Lưu ý quan trọng:
Đoạn Tin mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc, vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.
Thực ra, ở đây Chúa Giêsu trích một câu của tiên tri Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.
Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai), nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn (Giải thích của Carôlô).
Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao? Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16) (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Lời tỏ tình của Thiên Chúa
Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Ông bạn làm gì vậy?
Người Ả rập trả lời:
- Tôi cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học lại hỏi:
- Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?
Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm:
- Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét:
- Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.
Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học:
- Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?
Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận:
- Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.
Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính:
- Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.
Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói:
- Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài.
Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:
Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?
Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. "Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Vâng, Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu chuyện này do Văn sĩ Marie Noel viết:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: "Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi".
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.
Kinh Thánh gợi cho ta nhìn vào mọi dân mọi nước trên thế giới trải qua các thế hệ, thì ai cũng phải đồng ý với tác giả sách Đức Huấn ca: “Có những người sinh ra cai trị đất nước nổi danh về quyền lực; có những người nhờ trí thông minh mà giữ vai trò cố vấn cho các bậc vị vọng; có những người dùng lời giáo huấn khôn ngoan dạy dỗ người khác; có những người sáng tác thi ca du dương; có những người giàu sang lắm quyền nhiều thế, sống bình an và hòa thuận trong gia đình, được nhiều người khen ngợi, được vẻ vang lúc sinh thời; có những người lưu danh hậu thế cho người đời tán dương, nhưng rồi có lúc không ai muốn nhớ đến họ nữa, vì khám phá ra họ là kẻ thù của loài người ! Như thế họ sinh ra đời mà như chẳng chào đời, con cháu họ cũng thế thôi.
Chỉ có những người đạo hạnh, công đức họ không bao giờ bị quên lãng, dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu, đó là lũ cháu đàn con, vì dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước Chúa lập, nhờ các ngài mà con cháu một mực trung thành, dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang của các ngài chẳng bao giờ phai mờ, các ngài đã được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44, 1-15: Bài đọc).
Trong số những người đức nghĩa đạo hạnh đó, có vợ chồng thánh Gioakim và thánh Anna, sinh được cô con gái Maria, đây là một gia đình gương mẫu giữ Luật Môsê như những người Do Thái đạo đức khác. Nhưng riêng ông Gioakim và bà Anna trổi vượt hơn mọi người đương thời, vì được phúc liên hệ gián tiếp với Con Một Thiên Chúa vào đời, qua trung gian người con Maria đã thưa với sứ thần: “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói” (x Lc 1,38) trong ngày Truyền Tin, và Chúa đã làm cho Maria sinh Con Đấng Tối Cao. Đó là lý do ông Gioakim và bà Anna được Hội Thánh tôn vinh lên bậc Hiển Thánh nhờ “ăn theo” phúc lộc Chúa ở cùng Maria. Dầu “ăn theo”, nhưng ông Gioakim và bà Anna vẫn là “số một”, thuộc loại “VIP” của nhân loại xét trong thời Cựu Ước. Vì đối với người Do Thái, tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob, Đavid, và các ngôn sứ đều có công lớn đối với dân tộc, bởi Chúa đã dùng các ngài làm nhiều điều kỳ diệu cho dân. Nhưng Hội Thánh không phong Thánh cho vị nào, trừ vợ chồng Gioakim và Anna ! Tuy vậy các ngài chưa được hạnh phúc trọn vẹn như người Công Giáo mà Đức Giêsu đã so sánh: “Họ mong điều anh em thấy mà không được thấy, ước được nghe điều anh em nghe mà không được nghe, còn anh em, phúc cho mắt anh em đã được thấy, phúc cho tai anh em đã được nghe” (Mt 13,16-17: Tin Mừng).
Thực vậy, khi tham dự Thánh Lễ, ta được phúc rước Mình Thánh Chúa, thì ta không còn gián tiếp liên hệ với Con Thiên Chúa như ông Gioakim và bà Anna, mà được trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x Dt 1,1-2), và được rước Lễ, thì trở nên cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, đến như được đồng hóa với Chúa Giêsu, nhờ đó ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Dt 2,11.14; Ga 6,44-58; Gl 2,20; Ga 1,14-17), cho ta được đồng hiển trị với Chúa Giêsu, Vua vũ trụ qua Lời Chúa đã hứa cho dòng dõi vua Đavid tổ tiên Ngài, đúng như lời sứ thần nói với Đức Maria trong ngày truyền tin: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavid tổ tiên Ngài” (Lc 1,32b: Đáp ca). Do đó “các ngài những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên các ngài” (x Lc 2,25c: Tung Hô Tin Mừng).
Vậy vinh dự của vợ chồng Gioakim và Anna, của Đức Maria, của người Công Giáo trổi vượt hơn vinh quang của hết thảy mọi người không thuộc Hội Thánh Chúa Kitô. Nhất là dân Chúa trong thời Tân Ước, vừa có Luật Môsê, vừa được Chúa Giêsu dạy bảo, lại được rước Lễ mỗi ngày, nên được Chúa ban dồi dào ân sủng hơn lòng mong ước (x Ep 3,20). Đúng như Đức Giêsu đã nói: “Ai có sẽ được cho thêm và nên dư dật.Còn kẻ không có thì điều nó có cũng sẽ bị giựt mất!” (Mt 13,12). Ta nhớ rằng câu này là lời kết luận của dụ ngôn gieo giống. Như thế ta phải hiểu rằng kẻ nào được gieo Lời Chúa vào lòng, có Chúa Giêsu ở cùng, người ấy được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa ban ơn dư dật; còn kẻ ở ngoài Hội Thánh, không có Lời Chúa, không được Chúa Giêsu chiếm đoạt, thì mọi sự thuộc về kẻ ấy, kể cả hồn xác cũng bị Satan giựt mất! Thánh Phaolô nói: “Chính bởi Thiên Chúa mà anh em được có trong Đức Giêsu, Đấng do bởi Thiên Chúa đã nên sự khôn ngoan cho chúng ta, sự công chính, sự thánh thiện và cứu chuộc” (1Cr 1,30).
Đừng quên ông Gamaliel đã xác nhận: “Việc gì do tự sức loài người làm, trước sau sẽ ra tro bụi,nhưng công việc nào bởi Thiên Chúa, thì tồn tại muôn đời không ai phá hủy được, kẻ nào phá hủy mang tội chống Thiên Chúa” (x Cv 5,38-39), cũng trong niềm xác tín ấy, thánh Tông Đồ nói: “Dù bạn đem hết gia tài chia sẻ, hiến cả mạng sống vì người khác, mà không có Đức Mến, thì cũng chẳng ích gì cho bạn” (1Cr 13,3). Đức Mến là Thiên Chúa (1Ga 4,8).
Ý hướng Mục Vụ của Hội Thánh trong Lễ Nhớ hai thánh Gioakim và Anna, nhằm nhắc nhở cho mọi người Công Giáo phải ý thức sống Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công:
* Để đền đáp những người ta thụ ơn, không có cách nào hơn là ta phải nên Thánh. Thực vậy, Đức Maria không thể nào đền đáp công ơn cha mẹ đã sinh dưỡng mình, nếu Maria không thuộc trọn về Chúa, không trở nên Mẹ Thiên Chúa.
* Những người có trách nhiệm giáo dục người khác, không thể nào nên Thánh, nếu không làm cho người được trao phó nên Thánh, nhất là cha mẹ không thể nào thoát án trước mặt Thiên Chúa, trừ khi biết quý trọng Thánh Lễ, hằng ngày được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, để làm mọi việc lành cho con cháu noi gương bắt chước, và dạy con cháu Lời Chúa, noi gương Mẹ Maria suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng, để con cháu lớn lên trong khôn ngoan và đầy ân sủng (x Lc 2,19.51). Có thế mới thấy đàn con cháu là hồng ân Chúa ban (x Tv 127/126,3). Trái lại cha mẹ làm gương mù cho lũ cháu đàn con, thì thà khoanh cối lừa kéo vào cổ nó mà nhận chìm đáy biển còn hơn (x Mt 18,6).
THUỘC LÒNG
Có những người không còn ai nhớ nữa, họ qua đi như chẳng bao giờ có, họ sinh ra mà như chẳng chào đời, con cháu của họ cũng thế thôi! Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh,công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. (Hc 44, 9-11)
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” Trong bối cảnh phụng vụ, lời này của Đức Giê-su được ứng nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của hai thánh Gioakim và Anna.
Tuy nhiên, lời này của Đức Giê-su cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta.
Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giê-su còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Đức Giê-su nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh.
1. Phúc vì được thấy
Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Đức Giê-su Nazareth là Đức Ki-tô, Con Thiên Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô; và đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình.
2. Phúc vì được nghe
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì ‘‘Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành’’ (Ga 1, 3 và St 1):
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 4-5)
3. Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa
Thánh Phao-lô trong thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19, nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối với thánh nhân “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” (Tv 19, 5) không là gì khác hơn là việc rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín hữu Roma:
Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!
“Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu,
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 17-18)
Theo thánh Phao-lô, sứ điệp của công trình tạo dựng và sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế, điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng trong miệng của thánh nhân, cũng như trong miệng của mọi tác viên loan báo Tin Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.
* * *
Như thế, nếu chúng ta nghe ra sứ điệp được truyền đạt “ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm kia” kể từ khởi nguyên của thế giới sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp của ngày và đêm. Bởi lẽ, cả hai, công trình sáng tạo và Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô,có cùng một nội dung, đó là Ngôi Lời Thiên Chúa; và
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. (Ga 1, 3)
Cây thấy xanh tươi chưa chắc là đã tốt, nhưng phải là cây cho sinh nhiều hoa trái xinh tươi. Mẹ Maria là hoa trái quí hóa, tuyệt vời của ông bà thánh Gio-a-kim và Anna…
Dù rằng Tin Mừng không ghi lại điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng thánh truyền đã đề cập đến vai trò của hai ông bà Gio-a-kim và Anna. Ta đi ngược dòng lịch sử cứu độ để hiểu hơn vai trò của thánh Gio-a-kim và thánh Anna. Thánh Gio-a-kim và thánh Anna có thể là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân ước, giữa Israen cũ và Israen mới. Hai vị thánh này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, chúc phúc và ban nhiều ân huệ quí giá, qua đó, các Ngài sinh ra Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đức Giêsu…
Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay đề cập đến người gieo giống. Gieo giống là dấu hiệu của hy vọng. Nước Trời như mầm non đang chồi lên từ mặt đất khắp đó đây mà hạt giống ở dưới đất ta đâu có thấy được chúng, ta đâu có nghe được tiếng khi chúng đang tí tách vươn mình lên khỏi đất. Đức Hồng y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý: “Người ta dễ nghe tiếng cây đổ, nhưng có hàng triệu triệu hạt mầm đang tí tách vươn mình khỏi đất, nào ta có nghe được tiếng kêu. Thánh Gio-akim và thánh Anna là những cây tươi tốt, đã từng là những hạt giống tốt xinh, đã hiện diện ở cuộc đời này và sinh ra hoa trái rất tốt tươi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Con Thiên Chúa. Quả thực, chính hạt giống là hai thánh Gio-a-kim và Anna đã chịu thối đi trong lòng đất, nên đã sinh ra hoa trái xinh tươi là Đức Giêsu Kitô.
Thánh Gio-a-kim tượng trưng cho người gia trưởng mẫu mực đạo đức, thánh thiện và luôn sẵn sàng bảo vệ, nâng đỡ bà thánh Anna, còn bà thánh Anna được tôn sùng như mẫu gương của các bà mẹ, đồng thời Hội Thánh tặng cho bà danh hiệu Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Sách ngụy thư của thánh Giacôbê có ghi: “Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà, nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Đức Mẹ trong đền thờ cho Thiên Chúa’’.
Hội Thánh đã chọn ngày 26/7 hằng năm kính nhớ hai thánh Gio-a-kim và Anna. Lòng sùng hai vị thánh này đã có từ cổ xưa và ngày nay đã lan tràn khắp thế giới.
‘‘Lạy thánh Gioakim và thánh Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các Ngài, vì nhờ các Ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Đấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa’’ (lời cầu của thánh Đamascênô).
Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chứoc hai thánh Gioakim và thánh Anna luôn hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Amen.
Gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được toả sáng khắp nơi. Chính vì hiểu rõ vai trò của đời sống gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng chọn một gia đình để sinh ra. Khi có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình... Ngài chỉ ra rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria và Cha của Ngài là thánh Giuse. Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gio-a-kim và Mẹ của Người là bà thánh An-na. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa.
THÁNH GIO-A-KIM VÀ THÁNH AN-NA LUÔN TRUNG TÍN VỚI CHÚA:
Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch, và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết: “ Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người.
NHÂN LOẠI ĐƯỢC HẠNH PHÚC:
Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen thánh Gioakim và thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân“. Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe (Mt 13, 16-17). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioakim và Anna song thân Đức Maria).
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài. Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:
Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?
Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề, nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách, và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó, để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con” Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Vâng Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu này do Văn sĩ Marie Noel viết:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”.
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.
Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Mẹ, tức là Ông Bà Ngoại của Chúa Cứu Thế Giêsu. (Xin được mở ngoặc: Thấy có một số người thường viết lộn hoặc đọc sai là Gioan-kim).
Tên Gioakim được tạo bởi chữ YHWH (tiếng Do thái: יְהוֹיָקִים Yəhôyāqîm, tiếng Hy Lạp: Ἰωακείμ Iōākeím), nghĩa là “sự chuẩn bị của Gia-vê”.
Thánh Gioakim là Phu quân của Thánh Anna và là Thân phụ của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, theo truyền thống Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Anh giáo. Câu chuyện về Thánh Gioakim and Anne first appears in the apocryphal Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Thánh Gioakim và Thánh Anna không được nhắc tới trong Kinh Thánh.
Hai Ông Bà được Giáo hội kính nhớ vào ngày 26 tháng Bảy hằng năm. Đây là ngày lễ của những người đã làm ông bà (nội hay ngoại). Lễ này nhắc nhớ quý ông bà nội ngoại về trách nhiệm xây dựng các thế hệ tương lai, phải tạo truyền thống gia phong lễ giáo như phần di sản đạo đức làm của hồi môn cho cháu chắt. Tuy nhiên, lễ này cũng là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ trẻ: Phải tôn kính người lớn hơn mình, nhất là những người già, phải biết trải nghiệm, đánh giá cao cuộc sống chứ không được coi nhẹ hoặc làm ngơ.
Gia phả của Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Luca không nói rõ tên cha mẹ của Đức Maria, nhưng có liệt kê tên các người cha của Đức Thánh Giuse, nhiều học giả trong nhóm của John ở Damascus (thế kỷ 8), và đặc biệt là các học giả Tin lành, tranh luận rằng gia phả trong Phúc Âm theo Thánh Luca mới đúng là phả hệ của Đức Mẹ, và Heli là cha. Để giải quyết vấn đề Đức Thánh Giuse có hai người cha – một thuộc dòng dõi Vua Salomom, hậu duệ của Nathan, con Vua Đa-vít, truyền thống từ thế kỷ 7 xác định rằng Heli là anh em họ đầu tiên của Thánh Gioakim.
Theo truyền thống, Bà Anna sinh tại Belem, kết hôn với Ông Gioakim người Nadaret, cả hai đều là dòng dõi Thánh vương Đa-vít. Trong Protoevanggelium of James, Thánh Gioakim được mô tả là người giàu có và đạo đức, thường giúp đỡ người nghèo và tới Đền thờ tại Sepporis. Truyền thống nói rằng cha mẹ của Đức Maria mới đầu sống ở Galilê, sau đó định cư ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Bà Anna là phụ nữ son sẻ, Ông Gioakim bị các thầy thượng tế sa thải và từ chối lễ vật hy sinh của ông, vì việc Bà Anna không có con được hiểu là việc không đẹp lòng Chúa. Ông Gioakim rút vào hoang địa để ăn chay và đền tội 40 ngày. Lúc đó các thiên thần hiện ra hứa với Ông Bà Gioakim và Anna là sẽ có con nối dõi. Sau đó, Ông Gioakim trở lại Giêrusalem và đón Bà Anna tại cổng thành. Có niềm tin cổ cho rằng đứa con sinh bởi người mẹ già là đã được tiền định về điều gì đó kỳ lạ. Trong Cựu ước có trường hợp của Bà Hannah, Thân mẫu của Ngôn sứ Samuel.
Truyền thuyết liên quan Ông Bà Gioakim và Anna có trong “Cổ Tích Vàng” (Golden Legend) và vẫn phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo cho tới khi Công đồng Trentô xác nhận đó là các sự kiện ngụy tạo.
Phụng vụ theo lịch Tridentine không có lễ Thánh Gioakim. Lễ này được thêm vào Công Lịch Rôma từ năm 1584, mừng vào ngày 20-3, ngay sau lễ Đức Thánh Giuse Phu quân Đức Mẹ. Năm 1738, lễ này được chuyển sang Chúa nhật sau tuần bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Với nỗ lực để Phụng vụ các Chúa nhật được ử hành, ĐGH Piô X đã chuyển lễ này sang ngày 16 tháng Tám, sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, để Thánh Gioakim được kính nhớ trong khi cử hành cuộc khải hoàn của Đức Mẹ. Trong lịch các thánh của Giáo hội Công giáo Rôma (năm 1969), lễ Thánh Gioakim được mừng chung với Thánh Anna vào ngày 26 tháng Bảy.
Giáo hội Chính thống Đông phương và Công giáo Hy Lạp kính nhớ Thánh Gioakim và Thánh Anna vào ngày 9 tháng Chín. Thánh Gioakim và Thánh Anna là thánh bổn mạng của các cha mẹ, các ông bà nội ngoại, những người kết hôn, những người đóng tủ và những người buôn vải. Có một số biểu tượng gắn liền với Thánh Gioakim: Cuốn sách hoặc cuộn giấy tượng trưng người dệt vải, chiếc gậy chăn chiên tượng trưng chữ nghĩa của Kitô giáo, và cái rổ đựng đôi chim bồ câu tượng trưng sự hòa bình. Thánh Gioakim thường có trang phục màu xanh lá cây, màu của niềm hy vọng.
Trong Kinh thánh, hai Thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của Giao ước (những lời hứa). Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả Ông Bà Ngoại Gioakim và Anna cũng chỉ được nhắc tới sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.
Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ bầu khí gia đình liên quan Đức Maria trong Kinh thánh. Dựa vào truyền thuyết thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ của những con người cầu nguyện, chính Đức Mẹ đã say đắm cầu nguyện theo truyền thống tôn giáo.
Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria thể hiện khi quyết định “xin vâng” (Lc 1:38), liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân (Lc 1:39-45) – cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.
Ông Bà Gioakim và Anna biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, sống đức tin và thiết lập môi trường tốt lành cho Đấng Thiên Sai tới.
Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.
Thánh Ðamascênô ca tụng thánh GioaKim và thánh Anna như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa”.
A. CÁC THÁNH CA NGỢI
Trong tâm tình ngày lễ của thánh Gioakim và thánh Anna, Bác Tài xin mượn mấy lời ca tụng của thánh Đamascênô để chia sẻ với các chị về thánh Gioakim và thánh Anna.
1. Thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc...
Dù là Thiên Chúa thì Ngài cũng vẫn phải có kế hoạch lâu dài để cứu nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi mà tên đầu sỏ là satan, kế hoạch của Thiên Chúa chỉ được rõ ràng nơi hai con người trổi vượt trên tất cả con cái Adong và Eva, đó là Đức Trinh Nữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Trong ý định của Thiên Chúa, thánh Gioakim và thánh Anna là hai con người được chọn cách đặc biết để từ nơi các ngài mà chương trình của Thiên Chúa từ từ ló dạng như ánh mặt trời ló dạng ở phương đông. Là con người của Cựu Ước được gọi là người công chính, thánh Gioakim và thánh Anna đã trở nên đôi bạn đời gương mẫu thánh thiện, là nơi ươm mầm sự hoàn thiện của con gái các ngài: Đức Trinh Nữ Maria.
Sự thánh thiện này được gói trọn trong hai chữ hạnh phúc mà các thánh trong Giáo Hội đã ca tụng các ngài, hạnh phúc vì các ngài đã trở nên mẫu gương cho những bậc làm cha mẹ, hạnh phúc vì các ngài đã sống và dạy con cái sống theo ý của Thiên Chúa trở nên những con người biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Sống đôi bạn, cái mà những người vợ người chồng tìm kiếm là sự hạnh phúc thật, hạnh phúc này không xây dựng trên tiền tài danh vọng, không đặt trên nền tảng học thức hay bất cứ công cụ nào của loài người, nhưng được đặt trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu này đã làm cho gia đình trở thành vườn ươm mầm hạnh phúc nơi con cái, và từ nơi hạnh phúc này mà xã hội được bình an vì có những con người thánh thiện phục vụ.
Thánh Gioakim là người cha gương mẫu biết dạy dỗ con cái, là người chồng biết kính sợ Thiên Chúa; thánh Anna là người mẹ hiền lành đầy lòng nhân ái, là người vợ biết phục tùng chồng và cùng với chồng xây dựng hạnh phúc.
Nhờ những đức tình này của cha mẹ mà Đức Trinh Nữ Maria đã trở thành một thiếu nữ đoan trang thánh thiện, và nhờ sự giáo dục theo tinh thần kính mến Thiên Chúa và yêu thương này, mà Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.
Hạnh phúc thay cho đôi bạn Gioakim và Anna, bởi vì Thiên Chúa đã chọn các ngài để thực hiện mầu nhiệm yêu thương của Ngài là cứu chuộc nhân loại.
2. Tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài...
Giáo Hội thay mặt cho toàn thể nhân loại từ nguyên tổ Adong Eva cho đến hết mọi thời đại tri ân thánh Gioakim và Anna, bởi vì chính nơi gia đình bé nhỏ nhưng rất hạnh phúc vì ngập tràn ân sủng của Thiên Chúa này, đã trổ một cành hoa đẹp tuyệt vời để trở thành Mẹ của Giáo Hội là Đức Trinh Nữ Maria, bởi vì Giáo Hội là gia sản quý báu của Chúa Giêsu tại trần gian, bởi vì Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Giêsu, và hơn tất cả mọi loài thụ tạo, Giáo Hội dâng niềm tri ân kính mến lên Thiên Chúa vì tình thương của Ngài đã ban cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể loài người.
Tất cả mọi tạo vật đều phải cám ơn các ngài, bởi vì tổ ấm gia đình của ngày hôm nay có nguy cơ tan vỡ, có nguy cơ biến thành hỏa ngục khi cha mẹ và con cái “mạnh ai nấy sống”, thì tấm gương sáng cho bậc làm cha mẹ đã có chính là thánh Gioakim và thánh Anna.
Thánh Anna, một bà mẹ “tiền Công Giáo” đã sống đúng với những gì mà Chúa Giêsu đã dạy, bởi vì chính thánh nữ đã sinh đã dưỡng dục Đức Trinh Nữ Maria trở thành một mẫu gương cho mọi người nữ trong nhân loại, ảnh hưởng của người mẹ trên con cái như thế nào, thì hôm nay các nhà khoa học và các nhà đạo đức học cũng như các nhà giáo dục đã chứng minh cho nhân loại thấy rất rõ ràng rằng: người mẹ là thầy dạy và có ảnh hưởng rất lớn trên con cái, từ nhân cách cho đến đời sống nội tâm của đứa trẻ, đa phần là chịu ảnh hưởng của người mẹ...
Nhưng cái quan trọng hơn để cám ơn thánh Gioakim và thánh Anna chính là đã cống hiến cho nhân loại một con người tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria, và nơi cung lòng của người trinh nữ này mà Con Thiên Chúa đã giáng trần cứu chuộc nhân loại. Thật hạnh phúc và cũng thật vinh quang cho toàn thể nhân loại khi được Thiên Chúa đoái mắt nhìn đến mà chọn Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1, 46-56) làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.
Thánh Anna là một người phụ nữ như tất cả những người phụ nữ Do Thái khác thời ấy, ngài cũng lao động, cũng chân chất trong lời nói và việc làm, cũng lo săn sóc chồng con, cũng vui vẻ giao tiếp với mọi người, cũng tuân giữ lể luật cha ông và cũng trông đợi Đấng cứu thế đến như bao người Do Thái khác, nhưng lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương người của bà chắc chắn là trổi vượt trên tất cả những người phụ nữ khác, và chỉ nhờ có thế mà Thiên Chúa đã chọn gia đình của ngài để thực hiện chương trình cứu chuộc nhân loại của Ngài.
Mọi tạo vật đều cám ơn các ngài vì thánh Gioakim và thánh Anna không làm những gì vĩ đại để Thiên Chúa chọn, các ngài chỉ lo chu toàn bổn phận hàng ngày của mình -một linh đạo đơn sơ mà hiệu quả- cách can đảm và là một mẫu gương cho loài người noi theo. Cám ơn vì những việc làm nhỏ mà con người phải làm đã đánh động đến tình yêu Thiên Chúa, cám ơn là vì Thiên Chúa cũng không “kén chọn” cái vĩ đại của con người để thực hiện ý định của mình, nhưng đã chọn cái thấp hèn để làm nên việc vĩ đại của mình như lời Đức Trinh Nữ Maria đã tán dương qua bài Magnificat (Lc 1, 46-49).
3. Vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất không phải là vàng, nhủ hương, mộc dược, nhưng chính là tâm hồn thành tâm thiện chí của chúng ta.
Thánh Gioakim và thánh Anna là những con người bình dân giản dị, thế nhưng đã dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, cao trọng vì trước hết các ngài không đòi hỏi cô con gái cưng của mình phải lập gia đình để sinh con cái và để được Thiên Chúa chúc phúc, cao trọng là vì các ngài đã biết nhìn ra ý Thiên Chúa trong đời sống của cô con gái nhỏ của mình: cuộc sống thánh hiến cách đặc biệt giữa một dân tộc mà truyền thống “ở một mình” thì coi như bị Thiên Chúa chúc dữ bỏ rơi, các ngài đã can đảm và (có lẽ) cũng đã nghe những tiếng bàn tán xì xào về cách sống đồng trinh thánh thiện của con gái mình nơi người hàng xóm, những lời bàn tán ấy sẽ là những lời ca ngợi trước mặt Thiên Chúa của các tổ tông và các thánh tiên tri.
Cao trọng là vì các ngài đã đem “con gái ruột” cục cưng của mình dâng hiến cho Thiên Chúa mà không đòi một điều kiện nào, con gái cưng là núm ruột của hai ông bà, là niểm vui và an ủi của tuổi già cô đơn, chính cái dâng hiến này đã trở thành lễ vật cao trọng làm cho Thiên Chúa không những thưởng công cho hai ngài mà thôi, mà còn thưởng công cho cả vũ trụ được tham dự vào phần phúc vĩnh cữu trên trời với Ngài, đó chính là Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Đấng Đồng Công cứu chuộc nhân loại với Chúa Giêsu: chịu đau khổ trong tâm hồn khi con mình bị đóng đinh và chết trên thập giá.
Thánh Gioakim và thánh Anna là loại thụ tạo, cho nên có thể nói, các ngài thay mặt cho loài thụ tạo dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng -như lời thánh Đamascenô đã ca ngợi- là Đức Trinh Nữ Maria, và chính nhờ lễ vật nầy mà nhân loại được cừu rỗi, được tham dự vào sự sống đời đời với Thiên Chúa trong Đức Kitô, con của Đức Trinh Nữ Maria.
Tình yêu được đáp trả bằng tình yêu, lễ vật được đáp trả bằng lễ vật, bởi loài thụ tạo -thánh Gioakim và thánh Anna- đã không ngần ngại dâng lên Đấng tạo dựng món quà quý nhất của mình là cô con gái nhỏ bé Maria, đáp lại Thiên Chúa -Đấng tạo dựng- cũng đã không ngần ngại trao ban Con Một của mình là Đức Giêsu cho nhân loại để trở nên của lễ cứu chuộc đẹp lòng Cha mọi đàng. Đây là tinh thần “tiền tu đức” phó thác vào Thiên Chúa mà chính thánh Gioakim và thánh Anna đã sống và thực hiện trong cuộc sống của các ngài, và chắc chắn rằng, sau này sự khiêm tốn và phó thác vào Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria cũng được phát xuất từ nơi song thân của mình...
Đức Trinh Nữ Mẹ Maria là hoa quả tình yêu của thánh Gioakim và thánh Anna, là đóa hoa tuyệt mỹ của trời cao được Thiên Chúa tuyển chọn
B. GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
Thánh Gioakim và thánh Anna đã trở thành mẫu gương thánh thiện cho các gia đình công giáo, mà cụ thể là đời sống tốt lành của các ngài.
Gia đình hôm nay chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu văn minh và hưởng thụ, nền tảng gia đình có nguy cơ sup đổ vì trong gia đình vắng bóng tình yêu của Thiên Chúa, mặc dù cha mẹ có những lúc biết điều ấy mà không thể nào làm cho hoàn cảnh tốt hơn, vì chính bản thân của họ cũng không thể tốt hơn khi vì công việc làm ăn hoặc vì thích sống cho mình hơn là quan tâm đến con cái và những người trong gia đình, đó chính là nguyên nhân đưa đến sự thờ ơ với đời sống tín ngưỡng cũng nhứ với đức tin mà mình đã lãnh nhận trong Chúa Kitô nơi Hội Thánh của Ngài.
Thánh Gioakim và thánh Anna là người cha và người mẹ của con cái, là người chồng người vợ trong gia đình như tất cả những đôi vợ chồng khác trên thế gian, nhưng các ngài đã trở nên những người có phúc, có phúc vì đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, có phúc vì các ngài đã nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo như ý muốn của Thiên Chúa, hạnh phúc vì các ngài đã không tiếc công lao nuôi dưỡng để rồi đem con yêu quý của mình dâng cho Thiên Chúa để Ngài làm theo như thánh ý của Ngài.
Với ba cái hạnh phúc trên, các gia đình Công Giáo có thể noi gương sáng của các ngài để trở nên người hạnh phúc:
1. Sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Sống đẹp lòng Thiên Chúa, ngoài việc tuân giữ lề luật của Ngài, thì thánh Gioakim và thánh Anna còn sống đẹp lòng mọi người bên cạnh. Trong gia đình cha mẹ là người thay mặt Thiên Chúa để dạy dỗ con cái, thay mặt Thiên Chúa tức là người của Thiên Chúa và làm theo lời dạy của Thiên Chú, do đó mà cha mẹ có trách nhiệm lớn lao trước mặt Thiên Chúa trong việc quản lý gia đình.
Trong gia đình cha mẹ sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna đã sống, tức là tự bản thân mình phải chu toàn lề luật Thiên Chúa cách trọn hảo như là một mẫu mực cho con cái noi theo. Cha mẹ biết yêu mến lời Thiên Chúa thì chắc chắn con cái sẽ yêu mến nghe lời cha mẹ dạy; cha mẹ sống yêu thương và biết giúp đỡ mọi người thì con cái chắc chắn sẽ biết thương yêu nhau và biết phục vụ người khác; cha mẹ biết răn dạy con cái theo tinh thần Phúc Âm thì con cái sẽ trở nên người có ích cho Giáo Hội cũng như cho xã hội...
Sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna không phải là cái gì quá cao vời không thể bắt chước, nhưng với ơn Thiên Chúa giúp, với việc năng đón nhận các ơn lành của Thiên Chúa qua việc tham dự các bí tích thì sẽ làm được, và xét cho cùng, chúng ta hơn hẳn hai thánh Gioakim và Anna về mọi phương diện để được sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là các bí tích, nhất là bí tích Giải Tội và bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta là để chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa vậy.
Phải chăng thánh Gioakim và thánh Anna đã thấm nhuần giáo huấn của Sách Huấn ca, nên các ngài đã sống cuộc đời rất đẹp lòng Thiên Chúa:
“Kính sợ Thiên Chúa đem lại vinh quang và tự hào hân hoan và phấn khởi. Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui Và an khang trường thọ. Ai kính sợ Thiên Chúa sẽ thấy uộc đời kết thúc tốt đẹp, ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành" (Hc 1, 1-13).
Và chỉ những người có lòng kính sợ Thiên Chúa mới biết sống đẹp lòng Ngài, đó chính là gốc rễ của sự ngôn ngoan vậy (Hc 1, 20).
2. Nuôi và dạy dỗ con cái.
Theo truyền thống kể lại thì thánh Gioakim và thánh Anna chỉ có một người con gái, đó là cô Maria, sau này đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.
Dạy dỗ con cái theo tinh thần của lề luật như hai thánh Gioakim và Anna là điều rất dễ hiểu, bởi vì chính bản thân của hai ngài cũng đã làm gương tuân giữ lề luật của Thiên Chúa cách trọn vẹn nên cô bé Maria đã trở thành một thiếu nữ phẩm hạnh vượt trên tất cả người phụ nữ (Lc 1, 42) của mọi thời đại, đó là một hạnh phúc lớn cho cha mẹ và cho gia đình.
Thời nay, có nhiều bậc làm cha mẹ không mấy chú trọng vào việc dạy dỗ con cái theo tinh thần Phúc Âm nên gia đình thường có nhiều phiền não, cuộc sống xô bồ đã làm cho cha mẹ chỉ chú trọng đến việc ăn mặc của các con mà không chú trọng đến việc con cái mình sống ra sao, cho nên con cái thường đi ra ngoài tầm kiểm soát của cha mẹ mà -đôi lúc- cha mẹ biết con cái đã đi vào con đường xấu mà không dạy dỗ, hoặc có chăng thì cũng chỉ là hỏi qua loa vài chuyện, cùng lắm thì nạt nộ to tiếng rồi thôi, đó chính là bảo ban không đúng lúc như sách Huấn Ca đã nói:
“Bảo ban không đúng lúc tựa như hòa nhạc giữa đám tang,
nhưng roi vọt và lời răn đe là khôn ngoan mọi lúc.
Thánh Gioakim và thánh Anna đã làm tròn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con cái mình, hai ngài đã giáo dục Đức Maria trở nên một thiếu nữ đạo hạnh và biết kính sợ Thiên Chúa.
Hạnh phúc nhất của cha mẹ là khi con cái trưởng thành nên người có ích cho mọi người, hạnh phúc này là một bảo đảm cho tuổi già an vui khi các ngài nhìn thấy con cái cháu chắt sống đùm bọc yêu thương nhau trước ngày mình nhắm mắt về với Thiên Chúa. Đây là một phần thưởng “nhãn tiền” mà Thiên Chúa dành cho những người biết kính sợ Ngài, biết tuân giữ giới răn của Ngài trong cuộc sống của họ.
3. Dâng con cho Thiên Chúa.
Như Abel dâng lên Giavê Đức Chúa những hoa quả đầu mùa tốt tươi với tấm lòng chúc tụng và biết ơn, thánh Gioakim và thánh Anna đã dâng con gái yêu quý của mình cho Thiên Chúa trong niềm tin yêu và phó thác.
Thói quen tốt lành của những cha mẹ Công Giáo là sau khi con mình được lãnh bí tích Rửa Tội thì ẳm con đi thẳng qua bàn thờ Đức Mẹ mà dâng con cho Mẹ, nếu thói quen tốt lành này cha mẹ mỗi ngày đều lập lại dâng con mình cho Thiên Chúa và cho Mẹ Maria thì con cái sẽ không lệ thuộc về thế gian, nghĩa là không trở thành những đứa con hư hỏng nguy hiểm cho xã hội.
Không phải dâng con một lần trong ngày Rửa Tội, nhưng phải dâng con liên lĩ trong suốt cuộc đời của chúng nó. Thánh Gioakim và thánh Anna chắc chắn là đã làm điều này, khi mà đứa con gái mình mới tám tuổi đầu đã quyết tâm hiến dâng cuộc đời phục vụ Thiên Chúa nơi đền thánh, cô Maria sẽ không làm được như thế nếu cha mẹ của cô không có đời sống đạo đức, không có sự thành tâm dâng hiến con mình cho Thiên Chúa...
Dâng con thì cũng giống như dâng cả cuộc đời của mình cho con, có nhiều cha mẹ thời nay đã than thở rằng: “Chúng tôi đã dâng nó cho Thiên Chúa và Mẹ Maria, nhưng sao nó vẫn khong nghe lời chúng tôi nói, cứ theo bạn bè xấu...”- Vẫn có những người con không biết nghe lời cha mẹ, vẫn có những người con thờ ơ dửng dưng với tín ngưỡng mà mình đã đón nhận, thậm chí còn có những người con chối bỏ đức tin của mình, tất cả những điều tệ hại đang xảy ra ấy không phải hoàn toàn vì lỗi chúng nó, nhưng trước hết cha mẹ phải kiểm thảo lại mình đã làm tròn bổn phận của cha mẹ chưa, bổn phận của cha mẹ không phải chỉ nuôi nấng cho con cái ăn học rồi thôi, nhưng còn là phải làm cho chúng nó biết ngoài cái ăn cái mặc cái học còn có một cái cao quý hơn nhiều, đó chính là linh hồn vô cùng cao quý của chúng nó, phải nói cho con cái biết rằng linh hồn chúng nó đã được chuộc lại từ trong tay của ma quỷ bằng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá...
C. DÂNG HIẾN CỦA ĐỜI TU
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi nên thánh, nghĩa là được mời gọi tham dự vào đời sống của Thiên Chúa ngay tại trần gian này trong bổn phận của mình như hai thánh Gioakim và thánh Anna đã sống.
Mỗi người trong chúng ta, dù ở trong cương vị nào cũng nên học gương lành của các ngài.
Chúng ta cũng đem tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna vào trong đời sống tu trì của mình: dâng hiến “đứa con” duy nhất của mình là “”cái tôi” cho Thiên Chúa: “đứa con” này chúng ta yêu quý hơn tất cả mọi thứ trên trần gian, và vì nó mà con người phải bất chấp tất cả, kể cả phạm pháp, để làm thỏa mãn nó, do vậy, khi chúng ta chọn đời sống tu trì là chúng ta đem “cái tôi’ yêu dấu của mình dâng cho Thiên Chúa mà không một chút buồn phiền. “Cái tôi” này chính Thiên Chúa đã để sẵn trong mỗi một con người từ khi tạo dựng để con người được luôn hướng thiện về Thiên Chúa, nhưng sau khi nguyên tổ phạm tội thì “cái tôi” này đã trở thành kẻ phản kháng Thiên Chúa và tất cả những gì tốt đẹp của Ngài đã làm cho loài người.
Đi tu là dâng hiến “cái tôi” đứa con ruột của mình: đứa con này cũng đã nhiều lần nổi loạn trong mỗi người tu sĩ khi mà họ không nhìn thấy lý tưởng trong đời sống tu trì. Đem “cái tôi” dâng cho Thiên Chúa để tùy ý Ngài hoàn thành cho nó theo thánh ý vô biên của Ngài là một hy sinh vô cùng lớn lao, mà hai thánh Gioakim và Anna đã làm khi dâng đứa con ruột của mình là Maria cho Thiên Chúa.
Người đời nhìn vào các tu sĩ nam nữ (nhất là các nữ tu) thì họ nhận ra ngay cái “không” lớn nhất của họ, đó là không gia tài sự nghiệp, nhưng họ thấy ngay cái phong phú trong cái không ấy của các tu sĩ đó là sự dâng hiến toàn vẹn cho Thiên Chúa, người ta bội phục và yêu mến các tu sĩ nam nữ vì họ đã anh dũng can đảm dâng “cái tôi” của mình cho Thiên Chúa (cái tôi mà chính họ cũng có nhưng họ không bao giờ dám dâng hiến) để sống như ý muốn của Ngài tại trần gian này.
Tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna đã ảnh hưởng trên Mẹ Maria như thế nào, thì hôm nay cũng ảnh hưởng trên các nữ tu -con cái của Mẹ- như vậy. Bởi vì khi chọn Mẹ Maria là Mẹ của mình và là Bà Hoàng của mình thì các nữ tu cũng sẽ học đòi các nhân đức như Mẹ vậy, bởi vì khi muốn mình trở nên nữ tỳ của Mẹ thì các nữ tu cũng sẽ sống đời tận hiến trong tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria vậy.
Của lễ dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna là Đức Maria con gái độc nhất của mình.
Của lễ dâng hiến của Mẹ Maria là Đức Giêsu con trai độc nhất của mình.
Của lễ dâng hiến của các tu sĩ nam nữ là “đứa con” của mình: cái tôi.
Tuy nhiên tất cả các của lễ dâng hiến trên đây sẽ không được toàn vẹn nếu không có “sự hiến dâng trọn vẹn” của Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu chuộc toàn thể nhân loại qua mọi thời đại...
D. KẾT
Mỗi năm một lần, cứ đến ngày 26.7 là Giáo Hội mừng lễ kính hai thánh Gioakim và thánh Anna, để ca ngợi tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và quyền năng, đã chọn hai ngài làm nơi âm thầm ươm mầm sự cứu độ cho nhân loại là Đức Trinh Nữ Maria, để qua Mẹ mà nhân loại được đón nhận Ánh Sáng Tin Mừng và ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu.
Mừng lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna chúng ta cần phải học hỏi gương lành của các ngài:
- Các bậc cha mẹ học gương các ngài để chăm sóc và dạy dỗ con cái theo ý của Thiên Chúa.
- Sống bậc vợ chồng noi gương các ngài sống tôn trọng và yêu thương nhau.
- Các tu sĩ nam nữ học nơi các ngài sự dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa, để trở nên của lễ đẹp lòng Ngài.
“Kính lạy hai thánh Gioakim và Anna, xin cầu bàu cho chúng con là những người làm cha làm mẹ trong gia đình, biết nuôi nấng dạy dỗ con cái sống làm người Kitô hữu tốt lành; xin dạy chúng con là những người dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa để phục phục Ngài trong tha nhân, biết quãng đại hy sinh tất cả để trở thành công cụ loan truyền tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người...Amen.
--Nhóm Châu Kiên Long (Chấu Đốc, Kiên Giang, Long Xuyên – GHHV, nhóm dịch thuật và sưu tầm Gp. Long Xuyên)
Mặc dầu Phúc Âm không nói gì đến đời sống của hai đấng, nhưng căn cứ vào thánh truyền, chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu những dấu tích.
Các ngài đã tạo thành một móc xích, nối kết Israel cũ và Israel mới, nối kết Cựu Ước và Tân Ước. "Các ngài đã nhận lãnh phúc lành của Thiên Chúa" và "nhờ các ngài, phúc lành được hứa cho mọi dân tộc đã đến với chúng ta".
Các ngài đã sinh ra Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Vì thế, thánh Ðamascênô ca tụng hai đấng như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Cha mẹ của Đức Trinh nữ Maria, tức ông bà ngoại của Chúa Giêsu, đã không được nêu lên trong Tân Ước, cũng không có trong bản gia phả của Phúc Âm thánh Mátthêu, cũng như của Thánh Luca.
Danh tánh Gioakim và Anna được gặp thấy lần đầu tiên trong một tác phẩm ngụy thư được viết để tôn kính Đức Trinh nữ Maria vào khoảng năm 200. Danh tánh bà Anna (Hanna) gợi cho chúng ta nhớ đến người mẹ của tiên tri Samuen (x. 1Sm 1); bà được chồng yêu mến và được Thiên Chúa chúc phúc.
Thánh Anna được Giáo Hội Đông Phương tôn kính từ thế kỷ thứ V; và hiện tại, người Hy Lạp hằng năm vẫn kính nhớ trong 3 ngày lễ. Lễ kính thánh Anna được phổ biến ở Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ X. Thánh Gioakim thì mãi đến thế kỷ XVI mới thấy xuất hiện.
Dù vậy, có một sự lên xuống trong thánh lễ mừng kính hai vị thánh này:
- Đức Thánh Cha Piô V (+ 1572) loại bỏ thánh lễ kính thánh Anna;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XIII (+1585) cho tái lập lại;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XV (+ 1623) lại loại bỏ;
- Đức Thánh Cha Lêô XIII (+ 1903) cho tái lập và nâng lên bậc II;
Từ đó phụng vụ có:
- Ngày 26 tháng 7 mừng lễ thánh Anna.
- Ngày 16 tháng 8 mừng lễ thánh Gioakim.
Đức Thánh Cha Phaolô VI (+ 1978) canh tân phụng vụ, từ đó hai vị thánh được mừng chung vào ngày hôm nay: Ngày 26/07 hàng năm.
Ngày lễ song thân Đức Trinh Nữ Maria trùng với ngày cung hiến Đại Thánh Đường Thánh Anna ở Constantinople vào khoảng năm 550. Từ thế kỷ XIII, lễ này đã phổ biến sang phương Tây qua các đoàn thập tự chinh, nhưng mãi đến 1584 mới thấy xuất hiện trong sách lễ Roma. Còn lễ Thánh Gioakim thì mãi 1522 mới thấy nhập vào phương Tây. Việc kết hợp hai lễ riêng lẻ này thành một lễ kính “ông bà” của Đức Giêsu, tức là hai vị “công chính” Gioakim và Anna, đã thấy xuất hiện trong phụng vụ dòng Phan Sinh vào ngày 20 tháng Ba, rồi vào nhiều ngày khác. Tại phương Đông, lịch Byzance mừng kính các Thánh Gioakim và Anna vào ngày 9 tháng Chín, ngày tiếp sau lễ sinh nhật Đức Maria, theo tập quán muốn mừng cha mẹ vì đã sinh con. Từ năm 1968, song thân của Đức Maria được mừng chung. Tất cả những gì chúng ta biết về các ngài là nhờ cuốn Ngụy Phúc Âm của Giacôbê, một bản ngụy kinh thuộc thế kỷ II, trong đó kể rằng, Đức Maria đã được sinh ra cách kỳ diệu do hai cha mẹ son sẻ: sứ thần báo tin cho ông Gioakim sau khi ăn chay bốn mươi ngày, rằng lời nguyện của ông được chấp nhận, trong khi Bà Anna đứng đợi ông nơi Cửa Vàng ở Jérusalem.
Thánh Anna được đặc biệt tôn kính ở làng Sainte Anne d’Auray (Bretagne) và làng Sainte Anne de Beaupré (Canada).
2. Thông điệp và tính thời sự
Cac lời nguyện trong Thánh Lễ lấy từ sách lễ Paris 1738, nhấn mạnh hai điểm cùng có trong những bản văn phụng vụ khác.
Lời nguyện trong ngày và lời nguyện trên lễ vật mừng song thân Đức Maria, Đấng mang ơn cứu rỗi đến cho chúng ta cũng như mang “lời chúc phúc đã hứa cho Abraham và miêu duệ Người”. Đây chính là sự tiếp nối nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, ý định này đã được thực hiện từ Abraham, qua các tổ phụ trong niềm tin, đến với hai thánh Gioakim và Anna, đến Đức Maria con của các ngài và Đức Giêsu Con Mẹ. Thiên Chúa vẫn trung thành suốt chuỗi dài các thế hệ đó, nhờ thế chúng ta cũng được hưởng những ân huệ trong sự cứu rỗi muôn đời và trong lời chúc phúc đã hứa với Abraham và miêu duệ Ông.
Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh mầu nhiệm này: Thiên Chúa đã muốn Con Một mình “sinh bởi một gia đình nhân loại”. Quả thế, qua việc chọn dân riêng, Chúa đã tặng cho toàn nhân loại ơn cứu rỗi, nhân loại mà Người là thành viên không thể chia lìa. Vì thế đích thân Thiên Chúa trở thành liên đới với loài người.
Trong Phụng vụ Bài đọc, bài giảng của Thánh Gioan Đamascênô lấy lại tư tưởng đó: “Thánh Gioakim và Thánh Anna là cặp vợ chồng thanh khiết! Khi các ngài tuân giữ sự khiết tịnh trong luật lệ tự nhiên, các ngài đã được thưởng điều vượt quá những gì thiên nhiên ban tặng, đó là đã sinh ra cho thế gian Đấng không ăn ở với chồng nhưng sẽ là Mẹ Thiên Chúa”.
Hôm nay phụng vụ mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.
Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.
Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.
Các ngài còn là người cha, người mẹ mẫu mực về đời sống đạo đức và trung thành với Thiên Chúa. Tại sao lại nói được như vậy? Thưa, bởi vì chúng ta cứ xem quả thì biết cây. Cây nào sinh trái đó. Cây xấu không sinh được trái tốt và cây tốt không thể sinh ra trái xấu. Quả thật, Đức Maria là người đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương và tiền định cho làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì vậy, Đức Giêsu không thể sinh ra bởi một người mẹ bất toàn được.
Mừng lễ Gioakim và Anna hôm nay, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi hai đấng trong mầu nhiệm cứu chuộc, đồng thời cũng biết noi gương các ngài để lại, nhất là gương sáng về đời sống đạo đức và gương mẫu trong đời sống gia đình.
Mong sao, các bậc làm cha mẹ hôm nay, biết giáo dục con cái bằng chính đời sống đạo đức và gương sáng của mình. Luôn biết chọn lọc những điều hay, điều tốt để đưa vào truyền thống gia đình, nhằm giúp cho gia đình được thăng tiến và quân bình trong một xã hội luôn có chiều hướng suy thoái đạo đức.
Tuy nhiên, chúng ta phải cậy dựa đến ơn Chúa rất nhiều, xin Ngài giúp cho chúng ta sáng suốt và khôn ngoan để chọn sao cho trọn, nếu không, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng nhập nhằng giữa đạo đức thật và đạo đức giả trong một xã hội đang mê mẩn chạy theo và thích thú những "viên thuốc đắng bọc đường". Thật vậy, trong cuộc sống của chúng ta hôm nay luôn phải đối diện với những thứ được coi là đạo đức nhưng thực chất không hề đạo đức chút nào.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con Chúa và luôn trung thành với bổn phận của mình. Amen.
Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Maria và là ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Đây là một cặp vợ chồng hoàn hảo. Bởi vì, cả hai đã nên thánh. Đây cũng là một gia đình hoàn hảo. Bởi vì, không chỉ cha mẹ nên thánh mà người con các ngài sinh ra cũng nên thánh và được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó là Đức Maria.
Sách vở không nói nhiều về Thánh Gioakim và Thánh Anna, nhưng chúng ta có thể dựa vào nguyên tắc sau đây để suy đoán về đời sống và nhân đức của các Ngài. Thánh Tôma nói: “Một vật càng tiến gần gốc của nó, thì càng tham gia và chịu ảnh hưởng bởi gốc đó.” Vậy mà ai được gần Chúa bằng Đức Maria là Mẹ Chúa, và ai được gần Mẹ Chúa bằng Thánh Gioakim và Thánh Anna?
Người Việt Nam chúng ta cũng có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Cũng dựa vào nguyện tắc trên, Thánh Gioan Đamát đã ca ngợi hai Đấng bằng những lời vô cùng đẹp đẽ như sau: “Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna là đôi bạn diễm phúc và rất trong sạch, thiên hạ hiểu biết các Ngài nhờ chính hoa quả của lòng các Ngài, như có nơi Chúa nói: cứ xem quả thì biết cây. Các Ngài đã có nếp sống đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng với Đấng sẽ sinh ra bởi lòng các Ngài. Nhờ cách ăn ở thánh thiện trong sạch, các Ngài đã sinh ra được hạt ngọc quý về đức trinh khiết; Ngài là Đấng đồng trinh trước khi sinh và sau khi sinh con, là Đấng duy nhất luôn luôn trinh khiết trong tâm hồn, trong tâm trí và ngay cả trong thân thể.”
Ở đời, có được cha mẹ mẫu mực là niềm vinh dự và tự hào cho con cái. Chắc chắn, Đức Maria rất tự hào vì có một người cha người mẹ như thế. Có thể nói, nhờ hai Đấng, mà Đức Maria mới được diễm phúc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Cha ông ta thường nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Bài đọc thứ nhất cũng nói lên điều đó rằng: “Những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44, 10-15).
Có lẽ con cái của chúng ta cũng đang trông mong có được những người cha người mẹ mẫu mực như Thánh Gioakim và bà Thánh Anna. Vậy, để trở thành một người cha người mẹ Công Giáo mẫu mực cần phải làm gì?
Trước hết, cần phải chu toàn bổn phận vợ chồng: đó là yêu thương chung thuỷ với nhau, sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa ban và cùng giúp nhau nên thánh. Bổn phận này đã được hai người thề hứa trước mặt linh mục và cộng đoàn trong ngày lãnh nhận bí tích hôn phối: “Anh (em) là...nhận em (anh) làm vợ (chồng) của anh (em) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).”
Thứ đến, cần phải chu toàn bổn phận làm cha làm mẹ, đặc biệt là bổn phận giáo dục con cái. Cha mẹ có trách nhiệm giáo dục con cái nên người và nên thánh. Công đồng Vatican II mời gọi: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48). Vì vậy, cha mẹ phải giáo dục con cái theo từng giai đoạn và về mọi phương diện: đức dục, trí dục và thể dục. Nhờ đó, khi lớn lên, con cái mới có thể trở thành những con người hoàn thiện, có ích cho Giáo Hội và xã hội. Nhưng để việc giáo dục con cái có hiệu quả, cha mẹ luôn phải làm gương sáng cho con cái: để dạy con cái sống đức tin, cha mẹ phải siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích; để dạy con cái sống yêu thương, cha mẹ không được ghen ghét ai; để dạy con cái sống hiếu thảo, cha mẹ không được đối xử tệ với ông bà; để dạy con cái sống thật thà, cha mẹ không được lừa dối ai; để dạy con cái làm việc bác ái, cha mẹ phải biết chia sẻ giúp đỡ những nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật...Nghĩa là, cha mẹ luôn phải làm gương trước khi nói.
Nhìn vào Đức Maria chúng ta đoán được rằng, Thánh Gioakim và Thánh Anna không chỉ dạy bảo Mẹ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì nhờ gương sáng của các Ngài nên nơi Đức Maria mới có được các nhân đức và một đời sống đức tin mạnh mẽ như vậy. Mẹ đã gắn bó với Chúa một cách mật thiết qua đời sống cầu nguyện: Ba tuổi Mẹ đã dâng mình cho Chúa trong đền thờ; khi sứ thần Truyền tin, chính là lúc Mẹ đang quỳ cầu nguyện; khi bà Êlizabet cất lời ca tụng Mẹ, Mẹ đã hát bài Magnificat. Tất cả những điều đó chứng minh cho chúng ta biết, tâm hồn Mẹ luôn gắn bó với Lời Chúa và với Chúa qua đời sống cầu nguyện.
Nhìn vào các gia đình hôm nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình biết chu toàn bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, nhất là bổn phận giáo dục con cái. Nhờ vậy, không những họ nên thánh mà con cái của họ cũng nên người và nên thánh. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha đã phong thánh cho ông Louis và bà Zélie, là song thân của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chắc chắn sẽ còn nhiều gia đình giống như thế, ước mong mỗi gia đình chúng ta cũng được như vậy.
Nhưng vẫn không thiếu những người chồng người vợ sống vô trách nhiệm, không quan tâm đến nhau, không quan tâm đến bổn phận giáo dục con cái, không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động của họ lại làm cớ cho con cái vấp phạm. Vì thế, một số giới trẻ vẫn sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, xì ke, ma tuý, và các trào lưu xấu lùng bắt và giết chết. Đó cũng là hậu quả của một thói quen xấu, một nền giáo dục căn bản thiếu định hướng.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhìn lên mẫu gương của Thánh Gioakim và Thánh Anna để biết sửa đổi những sai sót của mình. Đồng thời, xin các Ngài bầu cử để các bậc làm cha mẹ luôn biết chu toàn bổn phận làm cha làm chồng, làm vợ làm mẹ. Nhờ đó, mọi thành viên trong các gia đình chúng ta đều nên người và nên thánh. Amen.
Trong cuộc đời của người trưởng thành, hầu như ai cũng đã yêu thương một người nào đấy. Khi đã có tình cảm với nhau, họ luôn mong muốn được nhìn thấy và nói chuyện với nhau. Điều ấy mang đến cho họ niềm vui, hạnh phúc và có thêm động lực để sống tốt hơn.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính thánh Gioakim và thánh Anna, song thân của Đức Maria. Các ngài có một đời sống đạo đức thánh thiện, hết lòng yêu mến Thiên Chúa và thực thi theo ý Ngài. Các ngài luôn mong ước được gặp Chúa và được nghe tiếng Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều ấy. Người nói với các Tông đồ: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.
Các Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến và tuyển chọn để trở thành những người tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Các ông được gặp Chúa, được nghe tiếng kêu gọi của Người nên các ông đã yêu mến và đáp lại tiếng gọi của Người. Hàng ngày, nhóm Mười Hai được đi theo Chúa Giêsu, nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Người làm. Nhờ đó, họ càng yêu mến, tin tưởng, phó thác nơi Thầy của mình và dấn thân phục vụ Chúa và Hội Thánh.
Năm xưa, các Tông đồ được trực tiếp nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng nói của Người. Ngày nay, Kitô hữu gián tiếp thấy Chúa và nghe tiếng Người qua các bí tích và Lời Chúa. Họ không nhìn thấy Chúa theo thể lý nhưng thấy Chúa bằng đức tin. Chính qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện trong tâm hồn các tín hữu. Họ được củng cố đức tin nhờ biết chuyên cần đọc và lắng nghe Lời Chúa. Có được những điều ấy, Kitô hữu đón nhận được hạnh phúc thực sự mà họ không ngừng tìm kiếm. Từ đó, họ ngày càng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người và trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Mặc dù không nhìn thấy và không được gặp Chúa, nhưng thánh Gioakim và thánh Anna luôn tin tưởng, yêu mến và sống theo lề luật cùa Ngài. Vì thế, Chúa đã ban cho các ngài hạnh phúc lớn lao là được làm song thân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi Kitô hữu biết noi gương thánh Gioakim và thánh Anna hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Chúa. Nhờ đó, họ có thể sớm đạt được hạnh phúc thật sự trong Nước Trời. Amen!
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Matthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Ðức Giêsu. Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Ðức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại. Nhưng bên ngoại của Ðức Giêsu thì bị lang qun, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Ðức Maria. Ngay cả thánh Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết được viết lại sau khi Ðức Gisu về trời khoảng hơn một thế kỷ.
Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Ðức Maria. Chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Ðức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Ðức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong cc truyền thống đạo đức của người Do Thái.
Các đức tính nổi bật của Ðức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con - tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ.
Thánh Gioankim vá Thánh Anna, dù những tên tuổi này có thật hay không; đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thin Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.
Lời Bàn
Ðây là "ngày lễ của các ông bà". Nó nhắc nhở cho các ông bà về trách nhiệm của họ là phải thiết lập gia phong cho các thế hệ tương lai: Họ phải làm sống lại các truyền thống và trao truyền cho con cháu. Nhưng ngày lễ này cũng có ý nghĩa cho cc thế hệ trẻ. Nó nhắc nhở người trẻ rằng cái nhìn chín chắn, giàu kinh nghiệm của người già là sự khôn ngoan không nên coi thường hoặc bỏ qua.
Lời Trích: "...Gia đình là nền tảng của x hội. Trong đó, nhiều thế hệ đến với nhau để giúp đỡ nhau lớn lên trong sự khôn ngoan và để hịa hợp quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội." (Giáo Hội Trong Thế Giới ngày nay, 52).
Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II kể rằng song thân của Đức Trinh Nữ Maria là thánh Gioakim và thánh nữ Anna. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.
Mái nhà song thân Đức Trinh Nữ.
Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia.
Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quí danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử, các ngài đã là tảng đá nền quí báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài.
Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng. Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ… Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy.
Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quí của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại.
Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Chúng ta cầu nguyện trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.
Đời sống Kitô hữu.
Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện. Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…
Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân. Và rồi Chúa Giêsu cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền. Chúng ta được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quí giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác.
Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản. Bổn phận chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo, chẳng hạn đọc kinh trước và sau khi dùng bữa, đọc kinh tối trong gia đình…, đọc Lời Chúa với người cao niên, đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời, nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha, cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, cùng lần chuỗi Mân Côi, kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch… Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó. Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể… Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng.
Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.
Giáo dục con cái. Việc cầu nguyện trong gia đình.
Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.
Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành. Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu.
Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quí báu của Thiên Chúa. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện.
Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.
Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.
Thánh Gioakim và bà thánh Anna đã sống những giây phút tuyệt vời trong lịch sử làm người. Các Ðấng đã biến giây phút hiện tại trở thành niềm vui, ân sủng và hạnh phúc. Giây phút hiện tại, hai Ðấng đã góp tay với Thiên Chúa trong việc đản sinh Mẹ Ðấng Cứu Thế. Chính cái hồng phúc hiện tại của đời hai Ðấng, đã biến đổi tất cả, thay đổi mọi sự, để lịch sử cứu độ của Chúa được rạng sáng. Lịch sử nhân loại mà trong Luca 1, 32a đã viết: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người”.
Thánh Gioakim và thánh Anna là người cha và người mẹ của con cái, là người chồng người vợ trong gia đình như tất cả những đôi vợ chồng khác trên thế gian, nhưng các ngài đã trở nên những người có phúc, có phúc vì đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, có phúc vì các ngài đã nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo như ý muốn của Thiên Chúa, hạnh phúc vì các ngài đã không tiếc công lao nuôi dưỡng để rồi đem con yêu quý của mình dâng cho Thiên Chúa để Ngài làm theo như thánh ý của Ngài.
Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.
Nhân loại như được hoàn toàn đổi mới vì chính Mẹ Maria, con một duy nhất của hai Ðấng thánh đã được Thiên Chúa tuyển chọn với muôn vàn hồng ân và muôn vàn tước hiệu. Những đặc ân Mẹ Maria, con của Hai Ðấng đã được Thiên Chúa trao ban, không một con người nào ở trần thế này đã được những ân huệ cao quí ấy, đã chỉ cho nhân loại hay lời Chúa luôn có sức mạnh, luôn biến đổi con người, nhân loại, thế giới vì cái phúc mà Chúa đã ban cho hai Ðấng, cũng như đã trao tặng cho các môn đệ là những người con ưu tuyển của Ngài, phúc ấy Chúa chỉ trao cho những tâm hồn hiền lành, khiêm nhượng, những tâm hồn luôn biết đặt cả sinh mạng và cuộc sống của mình nơi bàn tay uy quyền của Chúa. “Phúc cho mắt các con, vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều Ðấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Thánh Gioakim và thánh Anna là những con người bình dân giản dị, thế nhưng đã dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, cao trọng vì trước hết các ngài không đòi hỏi cô con gái cưng của mình phải lập gia đình để sinh con cái và để được Thiên Chúa chúc phúc, cao trọng là vì các ngài đã biết nhìn ra ý Thiên Chúa trong đời sống của cô con gái nhỏ của mình : cuộc sống thánh hiến cách đặc biệt giữa một dân tộc mà truyền thống “ở một mình” thì coi như bị Thiên Chúa chúc dữ bỏ rơi, các ngài đã can đảm và (có lẽ) cũng đã nghe những tiếng bàn tán xì xào về cách sống đồng trinh thánh thiện của con gái mình nơi người hàng xóm, những lời bàn tán ấy sẽ là những lời ca ngợi trước mặt Thiên Chúa của các tổ tông và các thánh tiên tri.
Hai thánh Gioakim và thánh Anna có một đời sống đạo đức thánh thiện, hết lòng yêu mến Thiên Chúa và thực thi theo ý Ngài. Các ngài luôn mong ước được gặp Chúa và được nghe tiếng Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều ấy. Người nói với các Tông đồ: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.
Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe( Mt 13, 16-17 ). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Ta thấy các Tông đồ được trực tiếp nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng nói của Người. Ngày nay, Kitô hữu gián tiếp thấy Chúa và nghe tiếng Người qua các bí tích và Lời Chúa. Họ không nhìn thấy Chúa theo thể lý nhưng thấy Chúa bằng đức tin. Chính qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện trong tâm hồn các tín hữu. Họ được củng cố đức tin nhờ biết chuyên cần đọc và lắng nghe Lời Chúa. Có được những điều ấy, Kitô hữu đón nhận được hạnh phúc thực sự mà họ không ngừng tìm kiếm. Từ đó, họ ngày càng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người và trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Mọi thụ tạo đều cám ơn các ngài vì thánh Gioakim và thánh Anna không làm những gì vĩ đại để Thiên Chúa chọn, các ngài chỉ lo chu toàn bổn phận hàng ngày của mình -một linh đạo đơn sơ mà hiệu quả- cách can đảm và là một mẫu gương cho loài người noi theo. Cám ơn vì những việc làm nhỏ mà con người phải làm đã đánh động đến tình yêu Thiên Chúa, cám ơn là vì Thiên Chúa cũng không “kén chọn” cái vĩ đại của con người để thực hiện ý định của mình, nhưng đã chọn cái thấp hèn để làm nên việc vĩ đại của mình như lời Đức Trinh Nữ Maria đã tán dương qua bài Magnificat (Lc 1, 46-49).
Mặc dù không nhìn thấy và không được gặp Chúa, nhưng thánh Gioakim và thánh Anna luôn tin tưởng, yêu mến và sống theo lề luật cùa Ngài. Vì thế, Chúa đã ban cho các ngài hạnh phúc lớn lao là được làm song thân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Và, chuyện quan trọng là ta hãy noi gương các Ngài để lại đời sống mẫu mực cho con cái noi theo.