-------------------------------- Hãy báo tin cho anh em Ta hay. 22/07 Th. Maria Madalêna, Lễ Kính. "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là”tông đồ của các tông đồ”.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Mối tương quan thân thiết giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna đã được một vài tác giả khai thác và dựng thành truyện. Từ tiếng nức nở của Maria Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu trong vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70, đến chuyện Đức Giêsu bị đóng đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con, trong truyện Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis. Gần đây nhất là cuốn Mật mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người, dù câu chuyện giữa CGS và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu. Theo các sách Tin Mừng, Maria Mađalêna không hề là gái gọi. Chị không phải là cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39), hay cô Maria xức chân Chúa ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3). Chị cũng không phải là người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36). Maria Mađalêna là người quê ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê. Chị đã được Đức Giêsu trừ bảy quỷ, và đã đi theo Thầy từ Galilê cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55). Chị đã theo Thầy đến tận Núi Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25). Chị là người đầu tiên ra viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1). Không thấy xác Thầy, chị hốt hoảng chạy về báo cho 2 môn đệ khác (c. 2). Sau đó chị lại đến mộ lần nữa để tìm xác Thầy (c. 11). Nếu không mến Thầy, chị chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy. Ngôi mộ tự nó là nơi buồn, buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó. Những giọt nước mắt của chị làm ai cũng phải mủi lòng. Thiên thần và Đấng phục sinh đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc? Maria khóc vì thấy mình mất đi một điều quý báu. Bận tâm duy nhất ám ảnh chị là tìm lại được xác Thầy. “Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” Ba lần chị đã nói lời tương tự như thế (cc. 2.13.15). Đấng Phục sinh đến với chị với dáng dấp của một ông làm vườn. Ngài chạm đến nỗi đau của chị: Sao chị khóc? Ngài chạm đến khát vọng của chị: Chị tìm ai? Ngài gọi tên của chị bằng tiếng gọi quen thuộc: Maria. Với giọng nói ấy, chị nhận ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni. Đức Giêsu đã lau khô những giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại. Chị chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống. Maria Mađalêna là người phụ nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18), và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17). Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống vắng. Chúng ta đau đớn vì mất Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay. Nhưng nếu ngôi mộ không trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh? Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria, vì biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn. Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh. Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, *** là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.(Chân phước Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Sứ điệp: Yêu mến Chúa là sức mạnh, là động lực, là lẽ sống và là niềm hy vọng của cuộc sống người Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na đã can đảm có mặt dưới chân thập giá khi Chúa chịu chết. Vì yêu mến Chúa mà bà đã vội vã viếng thăm mộ Chúa, để rồi được diễm phúc gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Cũng vì yêu mến Chúa, mà bà đã sốt sắng, mau mắn loan báo cho các môn đệ về Tin Mừng Chúa đã sống lại.
Lạy Chúa, vì con chưa yêu mến Chúa nồng nàn, nên con còn cảm thấy đời sống đạo là một gánh nặng chồng chất của lề luật. Vì con chưa yêu mến Chúa thật tình, nên con chưa thể quên mình để sống bác ái với mọi người. Vì chưa yêu mến Chúa hết lòng, nên con vẫn sống hời hợt, không lý tưởng, con vẫn chưa thay đổi cuộc sống. Con vẫn bước đi trên lối mòn của con đường cũ, con đường lấy của cải vật chất làm mục đích, lấy hưởng thụ làm hạnh phúc, lấy ích kỷ làm niềm vui.
Lạy Chúa, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na làm được tất cả. Xin cho con có được một lòng mến Chúa thiết tha như thế, để con là nhân chứng cho tình yêu Chúa trong xã hội nhân loại hôm nay, để con can đảm và say mê loan báo Tin Mừng của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, và để con đem Chúa đến cho những ai đang cần sự hiện diện của Chúa, bằng chính cuộc sống của con khi biết hy sinh, quảng đại, chia sẻ và phục vụ họ. Amen.
Thánh nữ Maria thành Magđala (Mácđala hay Mađalêna) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Người (x. Lc 8,2).
Trong Phúc Âm có nói nhiều về những người mang tên Maria, cũng được Chúa chú tâm đặc biệt, ít nhất là có ba người, đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magđala (miền Galilê) và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Phúc Am Thánh Luca (x. Lc 7).
Phụng vụ Giáo Hội La Mã, kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Chúa Giêsu (x. Lc 7,36-50) và là chị của Mátta và Lagiarô (x. Lc 10,38,50; Ga 12,1-8). Thế nhưng khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này.
Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria Magđala đã đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu (x. Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuộc táng xác Chúa (x. Mc 15,47) và vào buổi sáng phục Sinh, bà cùng mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (x. Mc 16,1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ tin mừng Phục Sinh (x. Mc 16,9; Ga 14-18).
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài tường thuật của Gioan, cũng về những chuyện sáng ngày Phục sinh, đặc biệt về Maria Mađêlêna:
1. Khi thấy ngôi mộ trống, Maria Mađêlêna”khóc” và”tìm” xác Chúa Giêsu.
2. Hai thiên thần hỏi lý do bà khóc. Hai vị chỉ hỏi chứ chưa nói Chúa Giêsu sống lại.
3. Chính Chúa Giêsu hiện ra với bà: ban đầu bà không nhận ra Ngài, khi Ngài gọi tên bà thì bà liền nhận ra. Ngài giải thích ý nghĩa việc sống lại:”Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha của các con, về cùng Thiên Chúa cũng là Thiên Chúa của các con.”
4. Maria Mađêlêna báo tin Phục sinh cho các môn đệ.
B. Suy gẫm (... nảy mầm)
1. Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người; bà Maria Mađalêna chính là đại diện; trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng đã quá cố. Người này thân hành trở bà đến sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:”Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs.” Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:”Ông nhà thật xứng đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp:”Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!”
2. Tình cảm của bà đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa, sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
3. Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại.”Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta …” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không?
Một sinh viên cao đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tôi cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. Tên người thân thật quan trọng.
4. Chúa Giêsu đã hỏi Maria:”Tại sao con khóc?” và từ đó bà đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
5. Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người. Xin cho thêm nhiều người biết Chúa, xin cho người ta biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống.
6.”Đức Giêsu gọi bà:”Maria” bà quay lại và nói:”Rapbuni” nghĩa là lạy Thầy.” Đức Giêsu bảo:”Thôi đừng giữ Thầy lại… nhưnhg hãy đi gặp anh em Thầy.”
“Này các chị có nghe điện thoại reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu, giữa trời nắng gắt, tiếng chị H, trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì sau đó phải”thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho chị H.
Nhưng hôm nay, lời chị đánh động tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã dửng dưng trước những”cú phone” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại phải thi hành những”Sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được”điện” của Chúa?
Hôm mai táng Đức Giêsu, vì ít thời gian, người ta đã xức thuốc thơm cách hối hả. Sáng ngày sau, mấy bà đã đưa thuốc thơm đến mồ để làm lại cách chu đáo hơn. Khi đến nơi, các bà thấy ngôi mộ trống vì xác Ngài không còn nữa. Và Chúa hiện ra để củng cố đức tin cho các bà và sai họ đi báo tin cho các Tông đồ. Bài tường thuật của thánh Gioan hôm nay, ghi lại việc Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với bà Maria Madalena.
Khi thấy mồ Chúa mở toang, xác Chúa không còn trong mồ, bà Maria Madalena chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Mặc dầu bán tín bán nghi, hai ông Phêrô và Gioan cũng chạy ra mộ xem thực hư thế nào. Maria Mađalêna cũng chạy ra theo, ông Phêrô và Gioan, sau khi quan sát kỹ và thấy rõ xác Chúa không còn, hai ông ra về, một mình bà Maria Mađalêna ở lại mộ, ngậm ngùi, khóc lóc, thương nhớ Chúa, và Chúa đã hiện ra với bà, lúc đầu bà không nhận ra, nhưng sau một vài câu trao đổi, bà nhận ra Chúa và Chúa bảo bà hãy mau về kể lại cho các môn đệ hiện đang ở trong nhà Tiệc ly.
Bà Maria tức tốc chạy về nhà gặp các môn đệ đang nóng lòng chờ đợi. Họ vây quanh bà và hỏi:”Maria, chị hãy nói đi, chị đã thấy gì?” Bà Maria đáp:”Tôi đã thấy Chúa, Chúa đã hiện ra với tôi, Chúa gọi tên tôi và Chúa phán: ‘Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con, về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con’”. Những lời bà Maria nói đã phá tan mọi lo lắng, nghi ngờ nơi các Tông đồ, và lòng các ông tràn ngập vui mừng.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Đấng Phục sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Điều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Đức Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Đấng Phục sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.
Để tin nhận Ngài, con người luôn làm bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng (Mỗi ngày một tin vui).
Lúc này lúc khác – qua những biến cố, những dữ kiện – Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để chúng ta biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ giúp chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa sống lại cùng đi…
Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố mẹ rất lo... Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn con... Xe đạp của bạn con bị hỏng. - Nhưng con đâu có biết sửa xe? - Đúng ạ! Nhưng con dừng lại để cùng khóc với bạn ấy.
Truyện: Cần biết tên từng người
Dù bà Maria không còn thấy gì và không nhận ra ai nữa cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại,”Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng Ta...”. Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không?
Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh tụ tập xung quanh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi, nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng.
Maria Mađalêna, là con một gia đình phú quý sang trọng.
Sau khi cha mẹ mãn phần, Ngài được hưởng một lâu đài kếch sù ở Magdala, miền Galilê, do đó người ta gọi Ngài là Maria Mađalêna. Với cái gia tài to tát nầy, Maria sống xa hoa, đài các, sa đọa, làm cớ cho cả vùng Galilê gièm pha khinh dể. Nàng sa đọa, trụy lạc đến nỗi trở nên nô lệ ma quỷ, bị ma quỷ ám hại?
2. Sau khi theo Chúa: Can đảm điều chỉnh lại cuộc đời
Nhưng Chúa Giêsu thương Maria, khiến cho nàng ước muốn gặp Người. Và đây cơ hội thuận tiện đã đến. Nàng nghe tin Chúa dự tiệc tại nhà ông Simon biệt phái, nàng chạy đến để gặp Người:
Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pharisiêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng:”Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông! Ông ấy thưa:”Dạ, xin Thầy cứ nói”. Đức Giêsu nói:”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?. Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo:”Ông xét đúng lắm.”
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm. mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ:”Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7,3 7-48)
Từ đó, Maria Mađalêna nhiệt thành đi theo giúp việc Chúa, sống đời đạo đức thánh thiện. Khi Chúa chết, Ngài đứng dưới chân thập giá. Trong lúc mai táng Chúa, Thánh nữ cũng có mặt với các môn đệ, chính Ngài đã chứng kiến ngôi mộ trống và là người đầu tiên nhận ra Chúa phục sinh và loan báo Tin mừng phục sinh cho các môn đệ.
3. Sau khi Chúa về Trời: Hết lòng loan báo Tin Mừng Phục Sinh
Thánh Giáo Hoàng Ghêgôriô Cả đã khen ngợi lòng yêu mến thiết tha của thánh nữ như thế này:
“Maria Mađalêna, sau khi ra mồ và không thấy xác Thầy mình ở đây nữa, liền tưởng là người ta đã mang Thầy mình đi rồi và chạy đi đưa tin cho các môn đệ. Các môn đệ tới, thấy như vậy và tin lời người phụ nữ đã nói. Sách Thánh đã viết về họ rằng: Vậy các môn đệ trở về nhà. Nhưng tiếp theo: Còn Maria thì đứng lại ở ngoài cứa mồ mà khóc lóc.,,
Trong câu chuyện này, ta phải thấy tình yêu đã làm cháy lòng người phụ nữ kia đến thế nào. Chúng ta thấy dù các môn đệ đã ra về, nhưng chị vẫn không rời bỏ mồ Chúa. Chị còn muốn tìm Đấng mà người ta không thấy. Chị khóc lóc mà tìm. Và bởi cháy lửa tình yêu mến đối với Chúa, chị càng nồng nàn ao ước tìm được Đấng mà chị tưởng là người ta đã mang đi: chính vì vậy mà chỉ có một mình chị đã thấy Người vì chị đã ở lại mà tìm. Ở đây chúng ta nhớ lời của Chúa đã nói xưa được ứng: Ai kiên trung đến cùng sẽ được cứu rỗi”.
B. Bài học
1. Yêu mến và tha thứ luôn có họ hàng với nhau
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là”ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến có thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình bàn tán về ý nghĩa của câu chuyện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng:
- Bấy giờ trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói:
- Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng yêu thương tha thứ cho con cái tôi.
2. Sự trung kiên đến cùng bao giờ cũng mang lại những kết quả tốt đẹp
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số anh em khác, công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn, trên đó mỗi người ngày ngày dệt phần được trao phó, việc làm xem ra độc điệu và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế. Người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:
Con ơi làm sao con thấy được công trình nghệ thuật mà chúng ta đang cộng tác để thực hiện bởi những gì con đang thấy là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là bức tranh của Ba Vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất giờ đây hiện lên như một kỳ công.
Maria Mađalêna hay còn gọi là Maria. Sau khi được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ, ngài đã theo Chúa trên hành trình đi rao giảng (x. Mc 16,9; Lc 8,1-3) Thánh nhân là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (x. Ga 20,1-18) kể lại những gì Chúa nói với ngài (x. Ga 20,18). Ngài đặt cho tước hiệu Apostolorum Apostola - Tông đồ của các Tông đồ. Vì ngài đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
Câu chuyện
Maria Mađalêna, hay”Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi bảy quỷ (x. Lc 8,1-3). Maria Mađalêna bị”nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ vì người ta cho rằng cô là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (x. Lc 7,36-50). Và người ta cũng lầm lẫn Maria Mađalêna với Maria thành Bêtania, em của Martha. Ba người tên Maria (Ngoài Đức Maria - Mẹ của Chúa Giêsu) mà Tân ước đề cập là ba nhân vật khác nhau.
Maria Mađalêna là một trong những người đã giúp đỡ Ðức Giêsu và nhóm Mười hai bằng các phương tiện của họ (x. Lc 8,2-3). Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ và Gioan tông đồ. Khi táng xác Chúa, Maria Mađalêna và Maria vợ ông Clêôphas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa Giêsu. Maria là một trong những nhân chứng”chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục sinh và loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh.
Suy niệm
Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi tâm hồn lạnh lẽo đang than thở khóc lóc… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì gặp Ðấng Phục Sinh…
Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Ðức Giêsu thúc giục bà hãy loan tin Ngài đã phục sinh:”Ðừng giữ Ta lại... hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin.”...
Theo mệnh lệnh của Đấng Phục sinh, Mađalêna hoan ca reo vui ra đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và”Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).
Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Ðức Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.
Chúa Kitô Phục sinh về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.
Maria Mađalêna hoan ca loan báo tin mừng Chúa sống lại tựa những bông hoa tươi nở của mùa xuân Phục sinh, tâm hồn của chúng ta cũng bừng tỉnh đâm chồi, nảy lộc, kết những bông hoa của niềm tin vào Đấng Phục sinh:
Con muốn sống mùa xuân tươi trong Chúa Để tình con với Thầy chẳng hề phai Như hoa tươi tô đậm mãi Thiên ngai Xuân phục sinh, Nguồn sống mãi bất tận. (Cao Trí Dũng, Mùa xuân phục sinh).
Ý lực sống:
‘‘Nếu miệng bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa và con tim bạn tin rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9).
Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.
Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Bêtania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi "7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.
Ðoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta".
Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.
Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.
Chúng ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa, tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
Thánh Maria Mađalêna (hoặc Maria Mácđala, Mai Đệ Liên) được cả Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, và Tin lành Luther tôn kính là một vị thánh, lễ nhớ ngày 22-7 hằng năm. Các Giáo hội Tin lành khác tôn kính bà là nữ anh hùng đức tin. Chính thống giáo Đông phương cũng kính nhớ bà vào Chúa nhật Myrrh-bearers (người mang dầu thơm).
Tên”cúng cơm” của Thánh Maria Mađalêna là Μαρία (Maria), và người ta thường chấp nhận ở dạng Latin được viết là Μαριὰμ (Mariam). Tên Maria rất phổ biến trong thời Chúa Giêsu vì liên quan việc cai trị thời Hasmonea và các triều đại Hêrôđê.
Tuy nhiên, bà bị tai tiếng vì bà bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” đã khóc và xức dầu thơm chân Chúa Giêsu.
Thực ra Maria Mađalêna (Hy ngữ: Μαρία ἡ Μαγδαληνή) là một phụ nữ đạo đức và can đảm. Trong Tân ước, Thánh Maria Mađalêna được coi là người phụ nữ quan trọng thứ nhì sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Bà đồng hành với Chúa Giêsu cùng với các Tông đồ. Bà hiện diện trong hai thời điểm quan trọng nhất của Chúa Giêsu: Chịu đóng đinh và phục sinh. Trong 4 Phúc Âm, tài liệu lịch sử cổ xưa nhất nhắc đến tên bà, ít nhất 12 lần, hơn cả các Tông đồ khác. Phúc Âm diễn tả bà là người đủ can đảm nên mới có thể đứng bên Chúa Giêsu trong thời gian Ngài chịu khổ nạn, chịu chết và sau đó.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ và chữa bệnh cho bà (x. Lc 8:2; Mc 16:9), đôi khi được hiểu là các chứng bệnh phức tạp. Bà nổi bật nhất trong những ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên thế gian. Khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, bà có mặt ở đó với Ngài, trong giây phút khủng khiếp nhất, và bà đã than khóc Ngài. Sau khi các Tông đồ”bỏ của chạy lấy người”, trừ Thánh Gioan Tông đồ, bà vẫn ở bên Chúa Giêsu. Khi an táng Chúa Giêsu, bà là người duy nhất được kể tên trong cả 4 Phúc Âm khi biết Chúa Giêsu phục sinh và chính bà là nhân chứng đức tin. Ga 20:11-18 và Mc 16:9 xác nhận bà là người đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục sinh. Bà có mặt vào ngay giây phút đầu tiên mà sau đó biến đổi Tây phương. Bà là”Tông đồ đối với các Tông đồ”, một cách nói kính cẩn mà thần học gia Augustine (Chính thống giáo, thế kỷ IV) đã dành cho bà, và những người thời Giáo hội sơ khai cũng nói về bà như vậy.
Mặc dù ngày xưa bà bị mang tai tiếng khi người ta mô tả trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, và cả những cuốn sách và các bộ phim mới đây, như The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci), ngày nay người ta cũng đồng ý điều này:”Không có chứng cớ Kinh Thánh nào chứng tỏ bà là gái điếm, người vợ, người mẹ, hoặc người yêu bí mật”.
Trong cả 4 Phúc Âm, Thánh Maria Mađalêna hầu như luôn được phân biệt với các phụ nữ khác tên là Maria bằng cách thêm chữ Mađalêna vào tên bà. Theo truyền thống, điều này có nghĩa bà là người vùng Mađalêna, một thành phố thuộc Tây duyên hải Galilê. Lc 8:2 nói rằng bà thực sự được gọi là Mađalêna. Theo tiếng Do thái, Mađalêna (Migdal, מגדל) nghĩa là”tháp”,”thành lũy”; theo tiếng Aram, Mađalêna nghĩa là”tháp” hoặc”được nâng lên, cao cả, nguy nga”. Các bản văn truyền thống Do Thái nói:”Miriam, hamegadela se’ar nasha” – Maria, người bện tóc phụ nữ (Hagigah 4b; x. Shabbat 104b), có thể nói Maria Mađalêna phục vụ như một người thợ làm tóc (kiểu làm đầu, uốn tóc ngày nay).
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh Maria Mađalêna cũng được nhắc tới bằng tên Maria ít nhất là 2 lần. Các văn bản không chính thức khác thì dùng tên Maria, Maria Mađalêna, hoặc Mađalêna.
Ngày nay, hầu như người ta đồng ý điểm quan trọng: Người ta cho rằng Thánh Maria Mađalêna là”gái điếm sám hối”, đó là vô căn cứ. Tuy nhiên, Thánh Maria Mađalêna vẫn bị lầm lẫn với các phụ nữ khác cũng tên Maria và vài phụ nữ nặc danh vẫn bị coi là phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người ta đồng hóa Maria Mađalêna với nữ tội nhân vô danh nào đó (thường biết đến là phụ nữ ngoại tình) trong trình thuật Lc 7:36-50. Mặc dù Thánh Maria Mađalêna được nhắc tên trong cả 4 Phúc Âm, nhưng không lần nào nói bà là gái điếm hoặc tội nhân. Tân ước không hề có”gợi ý” nào nói bà là một cô gái làng chơi hoặc một phụ nữ trắc nết. Các học giả đương đại đã phục hồi”danh tiếng” cho Thánh Maria Mađalêna là người dẫn dắt quan trọng của Kitô giáo thời sơ khai.
Nhiều thế kỷ qua, Công giáo Tây phương dạy rằng Thánh Maria Mađalêna là người được nói tới trong các Phúc Âm vừa là Maria ở Bêthania vừa là”người đàn bà tội lỗi” xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Lc 7:36-50). Khái niệm về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm sám hối đã phổ biến qua nhiều thế kỷ, ít là từ Ephraim người Syria (thế kỷ IV), Thánh GH Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), nhiều họa sĩ, văn sĩ và các nhà chú giải Kinh Thánh cũng theo xu hướng đó. Từ thế kỷ XII, Abbot Hugh ở Semur (qua đời năm 1109), Peter Abelard (qua đời năm 1142), và Geoffrey ở Vendome (qua đời năm 1132) đều nhắc tới Thánh Maria Mađalêna là người tội lỗi và được tặng danh hiệu”apostolarum apostola” (Tông đồ đối với các Tông đồ), danh hiệu này trở thành phổ biến trong các thế kỷ XII và XIII.
Do đó, hình ảnh cô-gái-điếm-sám-hối trở thành”đặc điểm” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna trong nghệ thuật và văn chương tôn giáo ở Tây phương. Vì hiểu sai về bà nên trong nghệ thuật, người ta thường vẽ bà mặc áo hở cổ, lả lơi, thậm chí có họa sĩ còn vẽ bà khỏa thân bên chiếc sọ đầu lâu với bình dầu thơm, và một tay cầm Thánh Giá, hoặc là một phụ nữ xa lánh mọi người để sám hối nơi hoang địa.
Sự đồng hóa đó là do Công giáo Tây phương, có trong bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả vào khoảng năm 591. Thánh GH Grêgôriô Cả được coi là một trong những người ảnh hưởng nhất và trở thành giáo hoàng. Trong các bài giảng nổi tiếng của ngài về Thánh Maria Mađalêna, giảng tại Rôma, ngài đã xác định Mađalêna không chỉ là phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca, mà còn là Maria ở Bêthania, chị của Matta và Ladarô; chính bảy quỷ được Chúa Giêsu trục xuất”đã tạo thành 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bắt đầu bị kết án không chỉ vì tội dâm dục mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam”. Bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả về Phúc Âm theo Thánh Luca đã tạo thành cách hiểu chính thức của Giáo hội về Thánh Maria Mađalêna, cho rằng bà là phụ nữ”alabaster jar” (gái điếm).
Trong bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả nói:”Bà [Maria Mađalêna] là người mà Thánh Luca gọi là phụ nữ tội lỗi, Thánh Gioan gọi là Maria, chúng ta tin là Maria được trừ bảy quỷ trong Phúc Âm theo Thánh Máccô. Bảy quỷ này biểu hiện điều gì, nếu không phải là các thói hư? Anh chị em thân mến, rõ ràng là phụ nữ này trước đó đã xức thơm thân xác cô bằng những hành động bị cấm. Do đó điều cô biểu hiện càng khiếm nhã hơn, nhưng nay cô dâng cho Chúa bằng động thái đáng khen. Cô đã ham muốn bằng con mắt trần tục, nhưng nay cô ăn năn bằng nước mắt. Cô đã xõa tóc che mặt, nhưng nay cô dùng tóc lau khô nước mắt. Miệng cô đã nói những điều kiêu ngạo, nhưng nay cô dùng miệng hôn chân Chúa, cô đặt miệng mình lên chân Đấng Cứu Thế. Do đó, đối với mỗi niềm vui, cô đã có trong lòng, nay cô hy sinh chính mình. Cô biến tội lỗi thành nhân đức để phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn trong sự ăn năn”.
Với điều này, tác giả Susan Haskins viết trong cuốn”Mary Magdalene: Myth and Metaphor” (Maria Mađalêna: Huyền thoại và Ẩn dụ):”Cuối cùng, hình ảnh xung đột của Thánh Maria Mađalêna cũng được sáng tỏ… sau gần 140 năm”.
Năm 1969, trong triều đại giáo hoàng của Chân phước Phaolô VI, Tòa Thánh không phê bình về nhận xét của Thánh GH Grêgôriô Cả, mà chỉ bỏ điều đó bằng cách tách biệt người phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca với bà Maria ở Bêthania và Maria Mađalêna qua Sách lễ Rôma.
Do đó, tai tiếng vẫn cứ”lờn vờn” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna. Sau thời gian quá lâu, cách tin này trở thành”thâm căn cố đế” không chỉ trong Giáo hội Tây phương mà còn trong một số Giáo hội Tin lành đã từng theo truyền thống Công giáo Rôma.
Cách hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là cô-gái-điếm-sám-hối vẫn được nhiều văn sĩ và họa sĩ hồi thập niên 1990. Thậm chí ngay cả ngày nay, cách hiểu sai đó vẫn được truyền bá. Điều đó được phản ánh trong bộ phim của Martin Scorsese – phỏng theo tiểu thuyết”Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Đức Kitô” (The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis, trong phim”Phúc Âm theo Chúa Giêsu Kitô” (The Gospel According to Jesus Christ) của José Saramago, trong”Siêu Sao Giêsu Kitô” của Andrew Lloyd Webber, trong”Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô” của Mel Gibson, trong”Màu Thập Giá” (Color of the Cross) của Jean-Claude La Marre và trong”Sách Sự Sống” (The Book of Life) của Hal Hartley.
Vì hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm nên người ta mới chọn bà làm bổn mạng của”các phụ nữ hư hỏng”, vì có một truyền thuyết lâu đời trong Giáo hội nói rằng bà là người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu được thuật lại trong Lc 7:36-50, và Viện tế bần Mađalêna đã được thành lập để”cứu vớt” các chị em từ nhà thổ. Bà còn được coi là bổn mạng của những người bị vu khống.
Thánh sử Luca cho biết:”Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:1-3).
Lúc Chúa Giêsu chịu khổ hình và phục sinh, Thánh Maria Mađalêna đã có mặt bên Chúa Giêsu. Trong số những người theo Chúa Giêsu chỉ có bà được nói rõ tên là nhân chứng 3 sự kiện quan trọng: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, Chúa Giêsu chịu mai táng, và ngôi mộ trống. Mc 15:40, Mt 27:56 và Ga 19:25 nói đến Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, cùng với các phụ nữ khác. Thánh Luca không nêu tên nhân chứng, nhưng nói:”Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Galilê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49). Thánh Máccô nói:”Còn bà Maria Mađalêna và bà Maria mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người” (Mc 15:47), và Thánh Matthêu nói:”Còn bà Maria Mađalêna và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó, quay mặt vào mồ” (Mt 27:61). Lc 23:55 cho biết:”Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào”. Ga 19:39-42 mô tả:”Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó”.
Thánh Máccô, Matthêu và Gioan đều nói Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng đầu tiên đối với việc Chúa phục sinh. Ga 20:1 cho biết Thánh Maria Mađalêna mô tả việc thấy ngôi một trống. Mc 16:9 nói:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ”. Thánh sử Mátthêu cho biết:”Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28:1).
Sau khi thuật lại cho các Tông đồ biết Chúa Giêsu đã phục sinh, Thánh Maria Mađalêna không được nhắc đến trong Tân ước nữa. Bà cũng không được nhắc tên trong sách Công vụ, và”số phận” bà vẫn không được tài liệu ghi lại và không được”minh oan”. Có phải vì vậy mà bà cứ bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” chăng?
Đa số các học giả Kinh thánh ngày nay đều chứng tỏ rằng không có nền tảng Kinh thánh nào để lẫn lộn hai phụ nữ này. Maria Magđalêna, nghĩa là Maria ở Magđalêna, là người mà Chúa Giêsu đã đuổi”bảy quỷ” (Lc 8:2). Maria Mađalêna là một trong những người”giúp Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai”. Bà là một trong những người đứng bên Thánh giá với Đức Mẹ.
LM W.J. Harrington, Dòng Đa Minh, viết trong cuốn”Chú giải Công giáo mới” (New Catholic Commentary):”Bị bảy quỷ ám không có nghĩa là Thánh Maria Mađalêna đã sống cuộc đời vô luân, một kết luận chỉ đạt được bằng cách lầm lẫn với phụ nữ vô danh trong Lc 7:36”. LM Edward Mally, Dòng Tên, viết trong cuốn”Chú giải Kinh thánh của Thánh Giêrônimô” (Jerome Biblical Commentary):”Bà (Maria Mađalêna) KHÔNG là phụ nữ tội lỗi trong Lc 7:37, mặc dù có truyền thống lãng mạn Tây phương đã nói về bà”.
Hy vọng Thánh Maria Mađalêna sẽ không còn bị”mang tiếng” và không còn bị chúng ta hiểu lầm như xưa nay nữa!
Lạy Thánh nữ Maria Mađalêna, xin thương nguyện giúp cầu thay. Amen.
------------------------------
Suy Niệm 10. Một nhận định khác về Thánh nữ Maria Mađalêna
--Đỗ Trân Duy
Trong chiều hướng duy trí (intellectualism) và duy ngã (egoism) của thời hiện đại, ồn ào nhất là nhóm muốn phục hồi tín lý của Ngộ Giáo (Gnosticsm); tín lý này cho rằng khi trí huệ của một người nào đó đạt tới mức thượng trí, người ấy có thể tự cứu độ cho mình. Định hướng đề cao trí thức và năng lực cá nhân của mô thức sống đạo này có sức hút rất mạnh nơi giới thanh niên. Một phần nó phù hợp với nếp sống phóng túng của người đương thời, phần khác nó rất gần với những niềm tin dễ dãi vào cõi huyền bí. Những vị sư phụ”đắc đạo” thần thông gặp thời xuất hiện khắp nơi. Đã có nhiều bạn Việt gọi sư phụ của mình là Thượng Đế, mặc dù họ thuộc những nhóm tu khác nhau. Trong giới lãnh tụ Tây Phương, hai nhà khoa bảng Robert Langdon và Leigh Teabing (1) là hai tay nổi bật nhất. Việc làm của hai vị này có chủ trương và hệ thống chặt chẽ. Trước hết hai ông phủ nhận vị thế Đấng Cứu Độ của Đức Giêsu. Nếu con người có thể tiếp xúc thẳng với Thương Đế thì đâu cần Đấng trung gian là Đức Giêsu. Sau đó họ phủ nhận Giáo Hội Công Giáo vì hệ thống này không còn giá trị và không cần thiết. Để hạ uy tín Đức Giêsu, hai ông vin vào kinh điển Ngộ Giáo và 2 sách Phúc Âm theo Philíp và Maria [Mađalêna] của ngụy kinh, để đưa ra luận chứng rằng Đức Giêsu đã có mối tình trần thế với bà Maria Mađalêna. Nhà văn Dan Brown phụ họa theo sáng tác ra truyện Da Vinci Code. Brown viết rằng bà Mađalêna đã có con với Đức Giêsu. Brown khéo léo viết truyện theo dạng tài liệu nghiên cứu nên cũng đã nổi danh khắp thế giới một thời. Điện ảnh Hollywood chộp cơ hội làm thương mại, họ tung ra phim cùng tên Da Vinci Code để ăn có, nhưng không tạo ra thêm một tiếng vang nào.
Sách và phim Da Vinci Code đã bị rất nhiều người lột trần sự sai lầm của chúng nên xin miễn nhắc lại. Vấn đề muốn nêu ra ở đây là ý đồ họ muốn dùng bà Maria Mađalêna làm đòn bẩy để hủy bỏ vị thế”Đấng Cứu Thế Giêsu”. Thánh Maria Mađalêna trở thành vấn nạn cho”đức tin tôn giáo” khi càng ngày càng có nhiều người lợi dụng sự mờ nhạt lịch sử, cố ý đưa ra những nhận định hàm hồ (2). Vô tình, bà là vị tông đồ duy nhất chịu rất nhiều ngộ nhận từ phía thế tục và, đáng tiếc, cả từ Giáo Hội.
Bà Maria Mađalêna Trong Ngụy Thư
Các học giả công giáo cho rằng hai sách phúc âm của Philíp và Maria [Mađalêna] được viết vào khoảng cuối thế kỷ II hay đầu thế kỷ III. Điều đáng nói là sách không do Philíp và Maria viết, vì lúc đó họ đã qua đời. Susan A. Calef (3) có công khảo sát hai quyển sách trên để tìm hiểu về mối tình giữa Đức Giêsu và bà Maria Mađalêna. Trong sách của Philíp, bà chỉ thấy có chữ”cảm thương” khi diễn tả lòng nhân từ của Đức Giêsu dành cho bà Maria Mađalêna. Một lối bộc lộ tình cảm rất bình thường. Trong sách của Maria có một đoạn nói rõ hơn. Đó là lần các tông đồ khiếu nại với Đức Giêsu rằng,”Tại sao Thầy lại yêu bà ấy hơn chúng tôi?” Câu nói này không đủ chứng cớ để đưa ra những nhận xét ác ý. Ngoài ra nếu phân tích kỹ câu nói, người ta sẽ thầy nhiều điểm vô lý của nó. Nếu thật sự Đức Giêsu và bà Maria có tình nghĩa vợ chồng, không lẽ các Tông Đồ lại ganh tị với bà.
Bà Maria Mađalêna Trong Chính Kinh
Cả bốn sách Phúc Âm chính kinh đều viết về bà Maria Mađalêna, nhưng lại không làm sáng tỏ vị thế đặc biệt của bà. Maria Mađalêna là ai? Tên thật của bà là Maria, bởi sinh trưởng ở xứ Mađala nên được gọi là Maria Mađalêna. Maria là một tên nữ rất thông dụng của dân Do Thái. Ngay mẹ của Đức Giêsu cũng có tên là Maria. Đa số các bà theo Đức Giêsu đều có tên là Maria. Thánh Kinh khi nhắc đến họ thường chỉ nói là”bà Maria.” Vì vậy người đọc hầu như không thể xác định được người được nhắc đến là bà Maria nào.
Theo các giáo phụ Hy Lạp, trong số những môn đồ nữ của Đức Giêsu, có ba vị trùng tên là Maria:
Bà Maria tội lỗi, người lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu (Luca 7:36-50). Bà Maria chị của Martha và Lazaru (Gioan 11:1-3 và Luca 10:38-42). Bà Maria xứ Mađala, tức Maria Mađalêna, người bị 7 quỉ ám (Luc 8:2).
Theo truyền thống Protestant chỉ có hai bà Maria.
Bà Maria xứ Bêthani, tức người đàn bà tội lỗi, cũng là chị em của Martha và Lazaru.
Bà Maria xứ Mađala, tức người bị 7 quỉ ám.
Theo truyền thống Latin ba nhân vật nói trên chỉ là một người, đó là bà Maria Mađalêna. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói tới một cô gái giang hồ, tức người đàn bà phạm tội ngoại tình (Gio 8:1-11). Cũng theo truyền thống Latin, Maria Mađalêna bị đồng hóa với cô gái này.
Chúng ta hãy lần theo sử liệu để thấy rõ tại sao lại có vấn đề bất nhất về sự nhận diện về bà. Trước hết theo thánh sử Luca, Đức Giêsu gặp bà Maria lần đầu tiên tại miền Galilê. Bà Maria này được nhận diện là người đàn bà tội lỗi, người rửa chân cho Đức Giêsu (Luc 7:36-50). Kế đó Đức Giêsu rời Galilê đến một tỉnh nào đó và Ngài đã làm phép đuổi 7 quỉ ám ra khỏi bà Maria Mađalêna (Luc 8:1-3). Tuy Thánh Kinh không nêu địa danh nơi Đức Giêsu làm phép đuổi quỉ, nhưng căn cứ vào địa danh Mađala, người ta có thể biết Đức Giêsu đã đi về hướng Bắc của xứ Galilê. Thánh Luca không nói gì đến sự đồng nhất giữa bà Maria bị quỉ ám và bà Maria”tội lỗi” ở Galilê. Sau đó Đức Giêsu đến một tỉnh khác, ta có thể phỏng đoán là tỉnh Bêthani. Tại đây Ngài gặp bà Maria chị em của Martha và Lazaru (Luc 10:38-42). Căn cứ vào 3 địa điểm khác biệt và cách quãng, nên đã có khuynh hướng tin rằng có 3 nhân vật Maria khác nhau. Tuy nhiên thánh sử Gioan lại khảng định 3 nhân vật trên chỉ là một người, đó chính là bà Maria Mađalêna (Gio 11:1-3; 12:1-3). Vì vậy sự lẫn lộn hàm hồ bắt đầu từ đấy.
Đã có nhiều giả thuyết giải thích về sự khác biệt của sử liệu, nhằm mục đích thống nhất những cá biệt về một mối. Chẳng hạn có thuyết cho rằng Bà Maria Mađalêna vốn là người xứ Mađala nhưng sinh sống ở Bêthani và có một thời cư ngụ ở Galilê. Thần học gia Elizabeth A. Johnson phủ nhận ý này vì nó đầy vẻ gượng ép. Elizabeth nhận xét rằng vì thánh Gioan khẳng định 3 nhân vật nói trên là một người, nên tín hữu đã có khuynh hướng uốn nắn lối nhìn theo chiều hướng ấy.
Theo Elizabeth, thánh Gioan viết Phúc Âm khoảng 50-80 năm sau khi Đức Giêsu chịu nạn. Thời gian 50-80 năm đủ để làm phai nhạt trí nhớ về độ chính xác của sự kiện. Hơn nữa thánh sử đặt trọng tâm vào sứ mạng truyền bá đạo lý hơn là việc ghi chép sử liệu. Do đó mọi tình tiết phụ thường chỉ dựa vào truyền thuyết mà viết lại chỉ cốt cho câu truyện được đầy đủ mà thôi. Vào lúc ấy bà Maria Mađalêna đã qua đời. Những gì viết về bà dù không được chính xác cũng không còn ai đính chính nữa. Một dẫn chứng về độ chính xác của thánh sử Gioan là biến cố bà Maria Mađalêna rửa chân cho Đức Giêsu. Cả hai thánh Máccô và Mátthêu đều nhất trí cho biết trước ngày lễ Vượt Qua 2 ngày, Đức Giêsu ở trong nhà ông Simon thuộc tỉnh Bêthani. Tại đây bà Maria Mađalêna đã rửa chân cho Đức Giêsu (Mac 14: 1-3; Mat 26: 1-8). Tuy nhiên thánh Gioan lại kể rằng sự kiện rửa chân xảy ra tại nhà bà Martha trước lễ Vượt Qua 6 ngày (Gio 12: 1-3). Nếu không muốn chấp nhận có hai lần rửa chân, chúng ta đành phải lựa một bỏ một. Trong trường hợp này sử liệu của hai thánh Máccô và Mátthêu chính xác hơn của thánh Gioan. Bởi vì hai vị đều tường thuật như nhau. Hơn nữa sách của họ được viết sau biến cố phục sinh khoảng 10 – 20 năm, thời gian rất gần với biến cố nêu ra và còn được hỗ trợ bởi nhiều nhân chứng còn sống.
Đi tìm Chân Dung Thánh Maria Mađalêna
Như vậy những gì chúng ta có thể biết chính xác về bà Maria Mađalêna là: bà là người xứ Mađala và là người bị 7 quỉ ám (Mac 16:9). Bà phụ giúp Đức Giêsu trong mọi hành trình rao giảng tin mừng (Luc 8:2-3). Bà là người đứng dưới chân Thập Tự giá lúc Đức Giêsu từ trần (Mac 15:40; Mat 27:56; Luc 23:49; Gio 19:25). Bà chứng kiến cảnh táng xác Đức Giêsu (Mac 15:47). Bà là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:1-18). Với những sự kiện này, xét theo cương vị môn đồ, bà phải là một vị Tông Đồ có một vị thế rất cao trọng.
Sáu trăm năm sau, đại chúng dựa vào truyền thuyết cho rằng bà Maria Mađalêna là”người đàn bà tội lỗi” và là”người đàn bà ngoại tình.” Sự kiện này được hợp thức hóa bởi Giáo Hoàng Gregory Cả (590-604). Lỗi lầm về sự ngộ nhận này có thể hiểu là do sự vô ý hơn là chủ ý. Vào thời đó giáo hội không có lợi điểm lãnh hội sự đa dạng thâm sâu của thần học như ngày nay. Nhận định của Giáo Hoàng Gregory Cả chỉ là phản ảnh niềm tin của đại chúng. Theo truyền thống, tín hữu công giáo tin rằng người bị 7 quỉ ám phải là người tội lỗi nặng nề. Giáo hoàng Gregory Cả nhận định 7 quỉ tượng trưng cho 7 tội, trong đó nặng nhất là tội dâm ô. Trong chiều hướng ấy giáo lý về 7 mối tội đã được giáo hội khai triển ra. Nghiên cứu về lịch sử, các học giả thấy rằng vào thời đó giáo hoàng Gregory Cả khởi xướng chương trình cải tổ nền luân lý Kitô giáo. Vì nhu cầu lợi ích cho giáo dân, giáo hoàng đặt bà Maria Mađalêna vào địa vị gương mẫu cho chủ thuyết của ngài. Ngài muốn đại chúng thấy một bằng chứng điển hình để chứng minh kẻ tội lỗi nhất cũng có thể cải hóa.
Trên thực tế Thánh Kinh nói rất nhiều về trường hợp đàn ông bị quỉ ám, nhưng không có trường hợp nào nam nạn nhân bị gán là kẻ tội lỗi. Các thánh sử không hề đồng hóa sự việc bị quỉ ám với tội lỗi. Thần học cũng không thấy có sự liên hệ giữa hiện tượng quỉ ám và tội lỗi. Tại sao lại có thành kiến xấu về phía nữ nạn nhân bị quỉ ám. Thánh Kinh ghi rằng Đức Giêsu chữa lành bệnh quỉ ám cho bà Maria Mađalêna chứ không nói tha tội cho bà. Về vấn đề cô gái giang hồ, không hề có phúc âm nào, kể cả Phúc Âm theo thánh Gioan, cho biết người đàn bà ngoại tình là bà Maria Mađalêna (Gio 8:1-11). Tại sao chúng ta phải gán cho bà những tội mà chứng cớ sử liệu không có. Các giáo phụ thời giáo hội sơ khai không hề nói bà Maria Mađalêna là người tội lỗi, trái lại các ngài rất tôn trọng bà. Câu tuyên bố nổi tiếng của bà với các Tông Đồ:”Tôi đã thấy Chúa” (Gio 20:18) khiến các Tông Đồ cho bà là kẻ nói sảng (Luc 24:11). Nhưng chính câu tuyên bố ấy là nền móng xây dựng giáo hội Kitô và là bản tuyên xưng khải hoàn của giáo hội phục sinh. Cảm phục thành tích của bà, thánh Hippolytus Thành Lamã (khoảng năm 200) đã đặt cho bà tước hiệu”Apostolorum Apostola” (Tông Đồ của các Tông Đồ). Hợp lòng với thánh Hippolytus, thánh Augustine (354-430) nói,”Chính Chúa Thánh Thần đã khiến bà Maria Mađalêna trở nên Tông Đồ của các Tông Đồ.”
Với một vị thế như vậy, tại sao Maria Mađalêna không được Kinh Thánh lưu ý một cách đúng mức? Thực ra Thánh Kinh đã có nêu tên bà một cách đặc biệt, nhưng vẫn còn vướng mắc trong vấn đề văn hóa trọng nam khinh nữ. Vào thời đó người phụ nữ không có chỗ đứng trong xã hội. Ngay cả mẹ Đức Giêsu cũng ít được nhắc đến. Họ không được nêu tên ra trước công chúng. Các thánh sử thường dùng cách nói trống như”có mấy người phụ nữ” để gọi họ (Luc 23:55). Nếu có nhắc đến một cá nhân đặc biệt nào, người ấy thường được xác nhận nương vào tên của người đàn ông. Chẳng hạn”bà Maria vợ của Clôbát”,”bà Maria mẹ của Giacôbê” (Gio 19:25; Mac 15:40; Luc 24:10). Tuy thế tên của bà Maria Mađalêna đã được các thánh sử nhắc đến nhiều lần. Điều đó chứng tỏ bà là người nổi bật không thể bỏ qua. Nhiều khi có nhiều bà hiện diện, nhưng thánh sử vẫn chỉ nêu danh của riêng bà:”có bà Maria Mađalêna và những bà Maria khác” (Mat 28:1).
Các học giả và thần học gia Công Giáo kêu gọi tín hữu hãy có một nhận định mới về thánh Maria Mađalêna (4). Xưa kia bà đã là nạn nhân của sự ngộ nhận gán cho bà là kẻ đầy tội lỗi. Ngày nay bà lại là nạn nhân trong sự lợi dụng của phong trào đề cao cá nhân và giải phóng phụ nữ. Chủ thuyết Ngộ Giáo đề cao năng lực cá nhân, nhưng con người không thể nào là chính mình. Ta là một cá nhân bất toàn, tội lỗi, một con người chưa trọn vẹn. Muốn vươn lên để hòa nhập với Thiên Chúa, con người cần sự cứu chuộc của Đức Giêsu để trở nên hoàn hảo. Về vấn đề nữ quyền, gần đây đã có phòng trào yêu cầu giáo hội Công Giáo phong chức linh mục cho nữ giới. Sự yêu cầu, phần nào liên hệ đến chủ đề bình quyền giới tính, nhưng phần lớn đặt căn bản trên nhu cầu thiếu hụt nhân số trong giới chức phụng vụ. Giáo hoàng Gioan Phaolô II và tiếp nối là Giáo Hoàng Bênêđic XVI cho rằng việc truyền chức linh mục cho nam giới là một cổ tục thuộc lãnh vực truyền thống, vốn do Đức Giêsu lập ra. Nghi thức này không đặt trên sự kỳ thị giới tính, nhưng vì Giáo Hội không đủ tư cách để thay đổi thể thức của Đức Giêsu.
Bà Maria Mađalêna đã được các học giả và thần học gia Công Giáo nhận diện là một trong những vị sáng lập ra giáo hội sơ khai. Bà là người duy nhất chia sẻ với Đức Giêsu trong hành trình giảng đạo từ Galilê, trung thành với Ngài cho đến phút cuối cùng của cuộc khổ nạn, và đón chào Ngài lúc phục sinh. Đó là những kho tàng ẩn dấu cần khai quật hơn là trưng bày những gán ghép lấy từ dã sử và truyền thuyết.
Theo truyền thống Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, thánh Maria Mađalêna cùng thánh Gioan và Đức Mẹ Maria di chuyển về miền Êphêsô, Tiểu Á. Thánh Maria Mađalêna sống một cuộc đời sám hối đúng với chân lý Phúc Âm rồi qua đời ở đó. Lễ kính thánh nhằm ngày 22 tháng Bảy. Từ năm 1970, Giáo hội Công Giáo đã điều chỉnh bài phúc âm trong thánh lễ kính thánh Maria Mađalêna. Bài đọc về câu truyện”người đàn bà ngoại tình” được thay thế bằng câu truyện bà gặp Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:11-20). Đáng tiếc sự sửa sai này đã không được đại chúng chú ý đúng mức. Đại chúng vẫn thấy bà vốn là một cô gái giang hồ, người bị 7 quỉ ám, hơn là một vị Tông Đồ, người đần tiên gặp Đức Giêsu phục sinh. Kitô hữu chúng ta hãy rửa chân cho sạch bụi bặm của những bước đi lạc đường, để đứng cúi đầu tôn kính một vị thánh cao cả.
______ (1) Robert Langdon là gíáo sư môn Ký Hiệu Tôn giáo (Religious Symbology) tại Harvard University. Leigh Teabing là nhà sử học của hoàng gia Anh (2) Phim”the Last Temptation of Christ” của Hollywood và sách”The Da Vinci Code” của Dan Brown có thể coi là tiêu biểu cho khuynh hướng sai lạc hiện nay. (3) Susan A. Calef, Ph.D. thành viên trong ban giám đốc khoa thần học tại Creighton University, Omaha, bang Nebraska. (4) Xin coi sách”Cracking The Da Vinci Code: Theologian Elizabeth Johnson on Mari Magdalene”
"Vì bà đã yêu mến nhiều nên bao nhiêu tội của bà được tha hết" (Lc 7,47). Phải, chúng ta không còn hồ nghi gì về lòng mến Chúa của bà Mađalêna. Chính lòng mến yêu nồng nhiệt ấy đã lôi kéo Bà từ tình trạng tội lỗi của một phụ nữ giang hồ về một đời sống thánh thiện gương mẫu.
Mađalêna sinh trưởng trong một gia đình đạo đức. Không ai biết rõ bà chào đời vào năm nào, nhưng Phúc âm đã nói nhiều tới bà, vậy bà đã sống đồng thời với Chúa Cứu Thế. Tuy thuộc về một gia đình đạo đức, nhưng chẳng may tính đa sầu đa cảm của bà đã khiến bà dấn thân vào con đường nhơ nhớp.
Trong lúc vùi mình trong con đường lạc lõng ấy thì một ánh hào quang xuất hiện. Ánh hào quang ấy soi thấu tận đáy lòng bà khiến bà tỉnh ngộ và quyết tâm quay về đường ngay nẻo chính, trở thành một chiến sĩ hảo hạng của Phúc âm. Ánh hào quang đó chính là Chúa Cứu Thế vậy. Như một chiên non lạc đàn khi nghe tiếng chủ chăn thì vội vã về đàn, Mađalêna cũng vậy, vừa nghe lời kêu gọi tha thiết của Chúa chiên lành, bà liền mau mắn trở về không chút luyến tiếc cuộc đời phóng túng xưa.
Nhưng, bao ngày tháng qua, những vết nhơ tội lỗi còn đó, biết lấy chi gột rửa cho sạch! Mađalêna quyết một lòng thống hối lấy nước mắt để lau sạch tội xưa. Thánh Luca đã kể lại cho ta cái quang cảnh vô cùng cảm động ấy: "Một người biệt phái mời Chúa đến dự tiệc. Chúa đến và ngồi vào chỗ đã dọn, chợt bước vào một phụ nữ là người tội lỗi trong thành ai cũng biết. Nghe nói Chúa dùng bữa tại nhà ông biệt phái, bà liền mang đến một bình thuốc thơm. Ngồi dưới đất đàng sau Chúa, bà khóc lóc, tưới nước mắt lên chân Ngài rồi lấy tóc mình mà lau, hôn chân Ngài và xức thuốc thơm. Thấy thế, ông biệt phái đã mời Chúa nghĩ bụng rằng: "Nếu ông này là tiên tri chắc biết người đàn bà đang chạm tới mình là ai, là hạng người nào, là một đứa tội lỗi mà". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này, ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông". Ông trả lời: "Dạ, xin Thầy cứ hỏi". "Một chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm, một người nợ năm mươi đồng. Vì họ không có gì để trả, nên chủ tha nợ cho cả hai. Ai trong hai người ấy đã yêu mến ông chủ hơn?". Simon trả lời: "Theo thiển ý tôi, người đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu đáp: "Ông luận đúng lắm". Rồi quay lại phía người đàn bà, Ngài bảo Simon:
"Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi vào nhà ông, ông đã chẳng cho tôi nước rửa chân, bà ta, trái lại, đã lấy nước mắt mình mà rửa chân tôi và lấy tóc mình mà lau. Ông không hôn tôi, còn bà, từ lúc tôi vào đã hôn chân tôi không ngừng. Ông không đổ dầu thơm trên đầu tôi, nhưng bà ta, đã đổ thuốc thơm trên chân tôi. Vì thế tôi bảo ông, tội lỗi bà ta, dù hằng hà sa số, đã được tha cả vì bà ta đã tỏ ra yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu ít". Rồi Chúa bảo người phụ nữ đó: "Tha các tội cho bà". Những khác đồng bàn nghĩ bụng: Ông này là ai mà lại tha được tội. Nhưng Ngài bảo người đàn bà: "Lòng tin của bà đã cứu bà, hãy đi bằng an" (Lc 7,36-50).
Phải, đức tin đã cứu Mađalêna. Ngay từ giây phút đầu tiên bà đã cảm mến Chúa và, một cách mặc nhiên, bà tin rằng: Đấng mà bà cảm mến là vị Cứu tinh. Nay sự tin tưởng đó lại được củng cố thêm và đã trở thành toàn vẹn vì Đấng đó đã trực tiếp tha tội cho bà. Trước kia tội lỗi làm bà đỏ như son thì nay bà được gội sạch và nên trắng như tuyết.
Cuộc đời của bà từ nay đã định hướng, bà quyết tâm tự hiến để giúp việc truyền bá tin Hạnh phúc. Lòng nhiệt thành của bà đã được các Phúc âm gia ghi lại nhiều lần. Gia đình của bà chỉ còn có một chị một anh là Matta và Lagiarô đã trở nên như trụ sở của Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Bêtania, cái tên êm ái, nơi bà sinh trưởng, đã được Phúc âm nhắc đi nhắc lại một cách rất đáng yêu. Chính tại đây, vì tình thương nên gia đình Mađalêna mà Chúa đã thổn thức rơi lệ trước khi cho Lagiarô sống lại. Chính tại đây, một lần nữa, Mađalêna đã tỏ ra hâm mộ lời Chúa. Phúc âm thuật lại rằng: "Khi đi đường, Chúa Giêsu vào một làng kia (Bêtania) và có một bà tên là Matta đón Ngài vào nhà mình. Bà này có người em gái tên là Maria, cô này ngôi dưới chân Chúa, lắng nghe Ngài nói. Còn Matta thì bận rộn với bao công việc săn sóc, hầu hạ. Bà đến thưa Chúa: "Thưa Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy cũng không coi sao ư? Xin Thầy bảo nó giúp tôi một chút". Nhưng Chúa đáp: "Matta, Matta, con lo lắng bận rộn nhiều quá. Thật ra chỉ cần ít thôi, chỉ một việc thôi. Chính Maria đã chọn phần tốt hơn cả, phần ấy không ai cất lấy được" (Lc 10,38-42). Thái độ của Mađalêna đã được Chúa công khai khen ngợi, mặc dầu bà đã không giúp đỡ chị trong việc hầu hạ Chúa. Chúa khen bà vì bà đã biết nghe lời Chúa nói. Lời Chúa là chân lý đưa tới sự cứu rỗi mà Mađalêna đã chăm chú nghe lời đó, bà quả đã chọn lấy phần tốt nhất thật. Và cũng chính tại Bêtania thân yêu này, Mađalêna một lần nữa, lấy một cân cam tùng hương nguyên chất rất đắt xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau (Ga 12,3). Với lòng mến Chúa tận tình, Mađalêna đã dùng tất cả những gì có thể biểu lộ tấm lòng yêu mến ấy.
Trên bước đường truyền giáo của Chúa Giêsu, Mađalêna cùng với một số bà đạo đức khác hầu như lúc nào cũng đi tới Chúa để giúp đỡ Ngài. Đặc biệt là những ngày cuối đời Chúa, nhất là trong giây phút thương đau nhất trên Núi Sọ, Mađalêna lúc nào cũng có mặt, trong khi các môn đệ Chúa quá sợ hãi đã bỏ Thầy chạy trốn cả. "Đứng gần khổ giá Chúa Giêsu, có Mẹ Người, chị Mẹ Người, là Maria vợ ông Clêopha và có Maria Mađalêna" (Ga 19, 25). Rồi, "sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần (Chúa nhật) Maria Mađalêna đến mồ khi trời còn tối và bà thấy tấm đá đã cất khỏi mồ. Bà bèn chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu yêu dấu, và nói với họ rằng người ta đã lấy mất xác Chúa khỏi mồ rồi và chúng tôi không biết họ để đâu" (Ga 21,1-2). Thật không còn lời nào hùng hồn hơn nói lên lòng trung thành yêu mến của Mađalêna đối với Chúa Giêsu. Bà hăng hái nhiệt thành, can đảm và trung thành hơn cả các Tông đồ. Chính vì thế mà bà đã được Chúa ân thưởng bội hậu. Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với bà trước khi tỏ mình cho các Tông đồ. Quang cảnh cảm động ấy đã được sử gia Gioan mô tả khéo léo như sau: "Còn Maria đứng gần mộ ở ngoài mà than khóc, vừa khóc bà vừa cúi đầu nhìn vào một. Bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng, ngồi một vị ở đàng đầu, một vị ở đàng chân, tại chỗ đã đặt xác Chúa Giêsu.
Các đấng ấy nói cùng bà rằng: "Bà kia, sao mà khóc?" Bà đáp: "Vì người ta đã lấy xác Chúa tôi đi mà tôi không biết họ để ở chỗ nào". Nói đoạn bà quay lại, thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa, Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia sao mà khóc? Bà tìm aỉ". Bà tưởng đó là người coi vườn nên nói rằng: "Thưa ông, nếu ông có lấy xác Người đi, thì xin ông cho tôi biết ông để ở chỗ nào để tôi đến lấy". Chúa Giêsu gọi tên bà Maria. Bà nhận ra Người nên vội nói bằng tiếng Hi bá rằng: "Rabboni nghĩa là: Lạy Thầy". Chúa Giêsu nói: "Đừng giữ Thầy lại như thế vì thầy chưa về cùng Cha Thầy và cũng là Cha các con". Maria Mađalêna đi loan báo cho các môn đệ biết bà đã thấy Chúa và Ngài đã nói với bà như thế" (Ga 20,11-18). Bà đã làm tròn sứ mệnh Chúa trao là đi báo ngay cho các tông đồ tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với bà. Chính vì thế mà bà đã được tặng danh hiệu cao quý: "Apostola Apostolorum" (Tông đồ của các tông đồ).
Sau khi Chúa về Trời, Mađalêna vốn tiếp tục sống cuộc đời thánh thiện. Cùng với các tông đồ, và cùng với hai anh chị em là Lagiarô và Matta, bà tích cực tham gia mở mang nước Chúa. Không ai được biết bà tạ thế ngày nào, nhưng theo một truyền thuyết đông phương đáng tin cậy thì ông Lagiarô đã tạ thế tại đảo Chyprô vào năm 899, di hài ngài được cải táng về Constantinôpôli. Còn xác thánh Mađalêna khi tạ thế đã được mai táng tại Êphêsô, đến thế kỷ thứ VI cũng được di chuyển về Contantinôpôlị
Để kính nhớ công đức của bà, ngay từ đầu Giáo hội đã tôn kính bà như một vị đại thánh, đồng thời lấy đời sống của bà như một tấm gương trong sáng cho mọi người soi chung.
Kính xin thánh nữ Maria Mađalêna cầu cho chúng con nhất là những ai đã chọn ngài làm thánh bổn mạng, được theo gương ngài mà ăn năn thống hối tội xưa, đồng thời quyết một lòng sắt đá bước theo Chúa Giêsu vì Ngài là chân lý, sự sống, và là đường dẫn nhân loại tới hạnh phúc vô biên.
Vào thế kỷ thứ X, ở Constantinople, tại tu viện Thánh Ladarô, người ta đã cử hành lễ này, vì người ta tin rằng hài cốt của bà đưa từ Ephèse về chôn cất tại đây vào năm 899, sau khi bà theo Thánh Tông Đồ Gioan đến đó (Mađalêna có nghĩa là người thị trấn Magdala ND). Magdala là tên một thành phố nằm trên bờ hồ Galilée về phía Tây Bắc, giữa đường từ Tibériade đến Capharnaum. Từ thế kỷ XI, lễ Thánh Nữ Maria Mađalêna được cử hành ở Roma và ở phương Tây; đến thế kỷ XII, sách lễ Latran vẫn lẫn lộn xem Maria thành Magdala và Maria làng Bêtania (mà phụng vụ Hy Lạp mừng lễ ngày 18 tháng Ba), và cả nữ tội nhân vô danh (phụng vụ Byzantin mừng lễ ngày 31 tháng Ba), người mà theo Luca 8, 2, được giải thoát khỏi bẫy quỉ trước khi theo phục vụ Đức Giêsu: cả ba phụ nữ được nêu danh trong Thánh Kinh được xem như một người. Thời Trung Cổ, việc tôn kính Thánh Nữ Maria Madalenna cũng phát triển ở Vézelay và Sainte Baume gần Marseille, vì tại đây có truyền thuyết rằng bà đã lui ẩn trong một hang núi sau khi lên bờ ở miền Provence.
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả các bản văn trong Thánh Lễ và Phụng vụ giờ kinh (gồm 8 điệp ca, một số đáp ca và hai ca vãn riêng) đều nhắc đến Maria thành Magdala, người đầu tiên được Thầy”giao việc loan báo tin sống lại” (lời nguyện của ngày). Maria đã thấy Chúa phục sinh (Ga 20, 18), nhận sứ mệnh báo tin đó. Chúa bảo bà:”Hãy đi tìm các anh em của Thầy...” (cách Đấng Phục Sinh gọi môn đệ là anh em chỉ thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan [20, 17]). Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria thành Magdala (Mc 16, 9), đã giao cho bà sứ mệnh làm chứng nhân và là tông đồ của sự phục sinh. Nên bà trở thành mẫu gương cho chúng ta, vì chúng ta cũng được kêu gọi để”loan báo Đức Kitô Phục Sinh” (lời nguyện của ngày).
Bài Phúc Âm Gioan đọc trong Thánh Lễ (20, 1-18) nhấn mạnh một khía cạnh khác trong nhân cách của Maria Madalenna: bà là một tâm hồn đi tìm Chúa giữa đêm tối đức tin. Trời còn tối khi bà tới mộ. Bà khóc vì thấy mộ trống. Buồn bã, bà hỏi kẻ mà bà tưởng là người giữ mồ...Bấy giờ, Đức Giêsu mới tự tỏ lộ khi gọi tên bà: Maria!”Bà liền thưa với Người: Rabbouni, nghĩa là Thầy ơi, bởi vì Đấng bà tìm bên ngoài là chính Đấng từ bên trong dạy bà đi tìm kiếm” (Bài giảng Thánh Grêgoriô Cả, Phụng vụ Bài đọc).
Maria thành Magdala, người được giải thoát khỏi bẫy quỉ (Mc 16, 9; Lc 8, 2) đã dâng mình phục vụ Đức Kitô. Bà đứng đầu trong danh sách các phụ nữ theo Chúa Giêsu (Lc 8, 2; Mc 15, 47; Mt 27, 56) và đứng gần Thập Giá (Mc 15, 40). Bà là biểu tượng của các dân trong giao ước mới.
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ thánh Maria Mađalêna, một Vị Thánh vừa được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nâng lễ nhớ Thánh nữ thành lễ kính. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh nữ như là”Tông đồ của các Tông đồ”.
Thông báo viết: ”Qua một bức thư thông báo việc thay đổi này – quy định trong Sắc lệnh ký ngày 03 tháng Sáu năm 2016, nhằm ngày lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu -, Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự thánh và Kỷ luật các Bí tích, viết: quyết định trên đây muốn nói rằng chúng ta”phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá của phụ nữ, về Tân Phúc âm hóa, và về sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa thương xót”.
Thánh Maria Mađalêna là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa sống lại, và là người loan báo Tin mừng ấy cho các Tông đồ.
Thánh nữ Maria Mađalêna là một người phụ nữ rất đặc biệt, bởi vì theo Tin Mừng thánh Máccô thuật lại”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình trong một phiên tòa hết sứ bất công, người ta bắt Chúa vác thập giá lên đồi Gongôtha, lúc đó các môn đệ như rắn mất đầu, các ông sợ sệt, nhát đảm, lẩn trốn, họ chỉ đứng xa xa để không ai có thể nhận ra họ. Trên núi Sọ, trên đồi Gongôtha, thánh Máccô viết: ”Nhưng cũng có mấy người phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mađalêna, bà Maria Mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem,cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Việc các người phụ nữ có mặt trên cuộc hành trình đi lên núi Sọ của Chúa Giêsu, nói lên lòng đạo đức, thánh thiện, nhiệt thành và đồng thời biểu lộ sự can đảm, anh hùng của giới phụ nữ. Các bà không sợ nguy hiểm, không nhát đảm, không thối lui dù rằng các bà biết Thầy mình sẽ phải chết…Tính anh hùng của các người phụ nữ, đặc biệt của Thánh nữ Maria Mađalêna cho chúng ta hay Mađalêna đã được Chúa yêu nhiều, bà hết lòng đáp lại tình yêu vô biên của Chúa. Tội của Thánh nữ lớn lao thật nhưng Tình Thương của Chúa còn to lớn hơn gấp bội, khiến Thánh nữ hết lòng vì Chúa. Ngài không sợ bị bắt bớ, bỏ tù, giết chết nhưng như lời Thánh Phaolô nói:”Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2 Co 5, 14), Thánh nữ đã có mặt trên mọi nẻo đường Chúa đi. Thánh nữ Maria Mađalêna là người phụ nữ đầu tiên được Chúa Giêsu phục sinh cho biết Ngài đã sống lại (Mc 16, 9). Thánh nữ theo như Thánh Mác cô nói”đã được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ”. Cụm từ được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ diễn tả bà mắc phải nhiều tội tầy trời, nhiều tội to lớn. Được yêu nhiều, bà phải đáp trả nhiều. Do đó, bà có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và Thánh Gioan. Bà đã ngồi trước mộ Chúa Giêsu cùng với bà Maria vợ ông Clêophas. Chính vì yêu nhiều, đáp trả tình thương vô biên của Chúa, Thánh nữ Maria Mađalêna đã được Chúa hiện ra đầu tiên khi Ngài từ cõi chết sống lại và chính Chúa phục sinh trao cho Thánh nữ sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ và nhiều người (Mc 16, 10; Ga 20, 17).
Đức Tổng giám mục Arthur Roche viết:”Thánh Maria Mađalêna là một gương mẫu của việc Phúc âm hóa đích thực. Thánh nữ là một nhà rao giảng đã loan báo tin vui Phục sinh”.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa ra ngay trong bối cảnh của Lòng Thương Xót để nói lên tầm quan trọng của Thánh nữ - là người đã bày tỏ tình yêu lớn lao đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến nhiều”.
Ngài cũng nhắc lại rằng Thánh Mađalêna đã được Thánh Tôma Aquinô gọi là”Tông đồ của các Tông đồ” (Apostolorum Apostola), vì Thánh nữ đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
“Vì thế, ngày lễ Thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các Thánh Tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Roma, để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của Thánh nữ - một tấm gương và hình mẫu cho mỗi người phụ nữ trong Giáo hội”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương, tha thứ cho Thánh nữ Maria Mađalêna vì bà yêu mến nhiều, xin cho chúng con khi mừng lễ Thánh nữ trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng con càng ngày càng yêu mến Chúa như Thánh nữ Mađalêna đã yêu mến Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Tình yêu bền vững, tình yêu vĩnh cửu đã nối kết Chúa Giêsu và thánh nữ Maria Mađalêna. Thánh nữ Maria Mađalêna được Chúa yêu nhiều, Ngài đã đáp trả tình yêu của Chúa với tất cả con tim, với tất cả tâm hồn.
THÁNH NỮ MARIA MAĐALÊNA, NGƯỜI ĐƯỢC YÊU NHIỀU:
Thánh Maria Mađalêna, người phụ nữ được xem là tội lỗi, đã được Chúa yêu nhiều, Ngài đã sống hết mình cho tình yêu. Tin Mừng thánh Marcô thuật lại rằng: ”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình, Ngài đã phải vác thập giá tiến lên đồi Gôngatha, các môn đệ tản mác như rắn bị mất đầu, họ không dám tới gần Chúa Giêsu mà chỉ ở đâu xa khuất bóng. Tại Gongôttha thánh Marcô viết: ”Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Gio-xết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, thánh Marcô cũng thuật lại rằng: ”… vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9). Thánh nữ Maria Mácđala vì được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ban ơn tha thứ, Người đã theo Chúa trên khắp các nẻo đường loan báo Tin Mừng.
Vì yêu nhiều, vì cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, thánh nữ đã có mặt trong nhiều biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu: ”Người đã có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và thánh Gioan khi các môn đệ đều sợ sệt chạy trốn. Khi mai táng Chúa Giêsu, thánh nữ và bà Maria vợ ông Cléophas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa. Chính vì thế, thánh nữ đã được diễm phúc là người đầu tiên được Chúa phục sinh hiện ra và trao sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ (Mc 16,10, Ga 20,17). Thánh nữ Maria Mađalêna quả có phúc vì được Chúa thương tha thứ và ban cho bà ơn huệ đặc biệt quay về với Thiên Chúa.
LỜI CẦU NGUYỆN: Đúng như lời thánh Phaolô trong 2Co 5, 14-15: ”Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ”. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhờ lời nguyện cầu và gương sáng của thánh nữ Maria Mađalêna, ban cho chúng con lòng nhiệt thành và chóng vánh đi rao giảng Tin Mừng cho Chúa sống lại, để sẽ được chiêm ngắm sự vinh quang của Chúa vĩnh cửu.
------------------------------
Suy Niệm 15. Thánh Maria Madalena một đời theo Chúa Kitô
--Phêrô Phạm Văn Trung
(http://tinvui.org/)
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ.
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ. Con số bẩy là con số chỉ sự tối đa, hoàn toàn, trọn vẹn, không còn thiếu sự gì khác, nó được coi là con số hoàn mỹ về cả số lượng lẫn tâm linh; ví dụ bẩy ngày tạo dựng của Thiên Chúa; tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan Thiên Chúa, để đền bù tội lỗi (Lêvi 04: 6); bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, họ phải đi vòng quanh thành bảy lần (Giôsuê 6:8); cụ thể một giá đèn đúng kiểu Do Thái giáo gồm bảy cây đèn, gọi là Menorah; Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." (Mt 18,21-22). Người bị nhập bởi bẩy thứ quỷ là người hoàn toàn nằm dưới quyền thống trị của Satan, của tội lỗi, không còn làm chủ được ngay cả tự do và khát khao vươn lên của mình nữa. Họ cần đến một quyền năng, không phải từ bất cứ phàm nhân nào, mà là từ trời cao để thoát ra khỏi tình cảnh bi đát đó, cả thể xác và tâm linh.
Có lẽ vì thế các vị lãnh đạo Giáo hội sơ khai thường hạ thấp ảnh hưởng của Maria Madalêna bằng cách gọi bà là một người tội lỗi công khai (một cách gọi nhẹ nhàng dành cho cái nghề buôn hương bán phấn) dù các tài liệu ban đầu khác mô tả bà là bạn đồng hành của Chúa Giêsu. Bà là một trong những người theo Chúa Giêsu sớm nhất. Theo Kinh thánh, bà đã đi theo Chúa Giêsu, chứng kiến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh và là một trong những người đầu tiên biết về sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Qua nhiều thế kỷ, không kể đến các nhà lãnh đạo giáo hội ban đầu, từ các học giả đến các tiểu thuyết gia và nhà làm phim đã sửa đổi và xây dựng nhiều câu chuyện về Maria Mađalêna. Một mặt, họ hạ thấp tầm quan trọng của bà bằng cách cho rằng bà là một người phụ nữ hư hỏng đã ăn năn và được cứu độ bởi những lời dạy của Chúa Kitô. Mặt khác, một số bản văn Kitô giáo ban đầu mô tả Maria Mađalêna không chỉ là một tín đồ đơn thuần, mà còn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của Chúa Giêsu - một số người còn giải thích bà là vợ của Ngài. Tuy nhiên, mô tả này là không bình thường vì bà không được mô tả liên quan đến một nhân vật nam giới, vì những người phụ nữ vào thời đó được nêu tên kèm theo tên một người đàn ông, thường là: cha, chồng, anh trai. Riêng bà được gọi đơn giản là Maria Mađalêna, nghĩa là người phụ nữ đến từ Magdala, một địa danh ở miền Galilê. Từ mô tả của Luca, chúng ta có thể giả định rằng bà là một phụ nữ tự lập về một số phương diện, là người có khả năng tài chánh để tài trợ, cũng như tham gia vào các biến chuyển chung quanh Chúa Giêsu.
Nhưng có sự thật nào trong hai câu chuyện này không? Chúng ta thực sự biết gì về người phụ nữ bí ẩn nhất trong Kinh thánh, có tên gọi Maria Mađalêna này không?
Kinh thánh nói gì về Maria Mađalêna?
Tất cả bốn sách Tin Mừng Quy điển của Tân Ước (Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan) đều ghi nhận sự hiện diện của Maria Mađalêna khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, nhưng chỉ có Phúc âm Luca nói về vai trò của bà trong cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu, liệt kê bà là một trong”mấy người phụ nữ đã được Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ.”(Luca 8: 1-3).
Theo Luca, sau khi Chúa Giêsu đuổi bảy con quỷ ra khỏi bà, Maria trở thành một phần của nhóm phụ nữ đi cùng Ngài và 12 môn đệ của Ngài,”rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Luca 8: 1). Mađalêna không phải là một cái tên chỉ họ, nhưng là để xác định quê hương cùa Maria: Magdala, một thành phố ở Galilê, nằm ở vùng cực bắc của Palestine cổ đại (nay là miền bắc Israel) [1]
Chúa Giêsu bị đóng đinh, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Gioan và Maria Mađalêna.
Robert Cargill, giáo sư trợ lý nghiên cứu tôn giáo và kinh điển tại Đại học Iowa, đồng thời là biên tập viên của Tạp chí Khảo cổ học Kinh thánh cho biết:”Maria Mađalêna là một trong số những người theo Chúa Giêsu ban đầu. Bà đã được nêu tên trong các sách Phúc âm, vì vậy bà rõ ràng là quan trọng. Rõ ràng có hàng trăm người, nếu không phải hàng ngàn người, theo Chúa Giêsu, nhưng chúng ta hầu như không biết tên của họ. Vì vậy, việc bà ấy được nêu tên là một vấn đề lớn”.
Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh - bà cùng với một số phụ nữ khác đã chứng kiến mọi sự dưới chân thập giá và sau khi tất cả các môn đệ nam giới của Ngài bỏ trốn, trừ Gioan Tông Đồ, môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna cũng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện về sự Phục sinh. Theo các sách Tin Mừng, bà đã đến thăm ngôi mộ của Chúa Giêsu vào Chủ nhật Phục sinh, hoặc một mình (theo Phúc âm của Gioan) hoặc với những người phụ nữ khác, và thấy ngôi mộ trống rỗng.
Cargill chỉ ra:”Những người phụ nữ là những người chạy đi và nói với các môn đồ.”Họ là những người phát hiện ra rằng Chúa Giêsu đã sống lại, và điều đó rất quan trọng.”
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu thực sự hiện ra với Maria Mađalêna một mình sau khi Ngài Phục sinh, và yêu cầu bà nói với các môn đệ của Ngài về sự sống lại của Ngài:”Bà Maria Mađalêna đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc? " Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Ngài ở đâu! " Nói xong, bà quay lại và thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai? " Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về." Chúa Giêsu gọi bà: "Maria! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy"). Chúa Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" Bà Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Ngài đã nói với bà.” (Gioan 20: 11-18).
Maria Mađalêna - tội nhân
Mặc dù - hoặc có lẽ vì - tầm quan trọng rõ ràng của Maria Mađalêna trong Kinh thánh, ảnh hưởng của bà đã bị hạ thấp bằng cách bị mô tả như một người tội lỗi; vì vào thời đó, phụ nữ và trẻ em không thể là nhân tố quan trọng, nhất là trong những vụ việc có tầm ảnh hưởng lớn lao đến cộng đồng xã hội.
Cargill giải thích:”Có nhiều học giả lập luận rằng vì Chúa Giêsu đã trao quyền cho phụ nữ ở một thời điểm sớm như vậy trong sứ vụ của Ngài, nên điều đó khiến một số người lãnh đạo nam giới sau này của Hội thánh sơ khai cảm thấy khó chịu,” Cargill giải thích.”Và do đó, có hai cách diễn giải cho điều này. Một trong hai cách đó là biến bà thành tội nhân công khai”.
Thuở ban đầu người ta coi Maria là kẻ tội lỗi sám hối, họ đã gán ghép bà với những phụ nữ khác được đề cập trong Kinh thánh, bao gồm một phụ nữ giấu tên, được Tin Mừng Luca xác định là tội nhân, là người đã rửa chân cho Chúa Giêsu bằng nước mắt, lau khô và xức dầu thơm trên chân Chúa (Luca 7: 37-38), cũng như một Maria khác, là Maria Bêtania, cũng xuất hiện trong Luca. Vào năm 591 sau Công nguyên, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã củng cố sự hiểu lầm này trong một bài giảng:”Người mà Luca gọi là người phụ nữ tội lỗi, người mà Gioan gọi là Maria [của Bêtania], chúng tôi tin rằng đó là Maria mà Chúa Giêsu đã đuổi bảy quỷ, theo Tin Mừng Máccô”. Trong bài giảng tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đã xác định Mađalêna được Chúa Giêsu trục xuất khỏi bảy quỷ, đó là 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bị kết án không chỉ vì tội dâm ô mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam. Bài giảng này từ đó đã làm nên cách hiểu chính thức của Giáo hội về Maria Mađalêna. (Bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả).
“Bằng cách biến bà thành kẻ tội lỗi, bà không còn quan trọng nữa. Tầm quan trọng của bà giảm thiểu một phần nào đó. Bà không thể là một người đứng đầu, bởi vì cứ nhìn vào cách bà đã làm để kiếm sống là rõ” Cargill nói.”Tất nhiên, có cách diễn giải khác thực sự đề cao Maria. Một số người cho rằng bà thực sự là bạn đồng hành, thậm chí là vợ của Chúa Giêsu. Bà có một thân phận đặc biệt.”
Maria Mađalêna có phải là vợ của Chúa Giêsu không?
Trong khi một số Kitô hữu ban đầu tìm cách hạ thấp ảnh hưởng của Maria, những người khác lại tìm cách làm nổi bật điều đó. Tin Mừng về Maria, một văn bản có niên đại từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên và xuất hiện ở Ai Cập mãi năm 1896, đã đặt Maria Mađalêna lên trên các môn đệ phái nam của Chúa Giêsu về kiến thức và ảnh hưởng. Bà cũng xuất hiện rất nổi bật trong cái gọi là Tin Mừng Ngộ Đạo, một số văn bản được cho là do những người theo đạo Thiên Chúa ban đầu viết từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, nhưng mãi đến năm 1945 mới được phát hiện, gần thị trấn Nag Hammadi của Ai Cập.
Một trong những văn bản này, được gọi là Phúc âm Philípphê, gọi Maria Mađalêna là bạn đồng hành của Chúa Giêsu và tuyên bố rằng Chúa Giêsu yêu thương bà hơn các môn đồ khác. Kể từ năm 2003, hàng chục triệu độc giả đã ngấu nghiến bộ phim kinh dị bán chạy nhất của Dan Brown”Mật mã Da Vinci”, cốt truyện xoay quanh giả thuyết lâu đời rằng Chúa Giêsu và Maria Mađalêna đã có con với nhau. Ý tưởng này cũng là trọng tâm của cuốn sách The Last Temptation of Christ - Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô - cuốn tiểu thuyết năm 1955 của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, và phiên bản điện ảnh sau này của cuốn sách đó, do Martin Scorsese đạo diễn.
Sau đó vào năm 2012, giáo sư Karen King của trường Harvard Divinity đã tiết lộ một mảnh giấy cói chưa từng được biết đến trước đây mà bà tin là bản sao của sách Tin Mừng thế kỷ thứ hai, trong đó Chúa Giêsu gọi Maria Mađalêna là”vợ tôi”. Sau khi bảo vệ tính xác thực của tài liệu trước hàng loạt chỉ trích, Karen King cuối cùng đã thay đổi lập trường của mình, kết luận rằng cái gọi là "Tin Mừng về người vợ của Chúa Giêsu" có lẽ là giả mạo .
Maria Mađalêna là môn đồ đáng tin cậy
Về phần mình, cả bốn sách Kinh thánh không cho biết Maria Mađalêna là vợ của Chúa Giêsu. Không có sách nào trong số bốn sách Tin Mừng quy điển ám chỉ mối liên hệ đó, mặc dù bốn sách đó liệt kê những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và ngay cả một trong số các phụ nữ đó được nêu tên kèm theo tên của chồng mình, đó là bà Maria Clêôpha.
Việc mô tả Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai được lưu truyền trong nhiều thế kỷ mặc dù cả Chính thống giáo và Tin lành đều không chấp nhận điều đó khi tách ra khỏi Giáo hội Công giáo. Cuối cùng, vào năm 1969, Giáo hội thừa nhận rằng bản văn Kinh Thánh không ủng hộ cách giải thích đó. Ngày nay, Maria Mađalêna được các Giáo Hội Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương, Anh giáo và Luther coi là một vị thánh, với ngày lễ được tổ chức vào ngày 22 tháng Bẩy.
Cargill kết luận:”Maria Mađalêna có thể là một môn đệ của Chúa Giêsu. Điều quan trọng là Chúa Giêsu có các môn đệ cả nam và nữ trong sứ vụ thánh thiêng của Ngài, điều này không hẳn là điều phổ biến vào thời đó”. Cargill nhấn mạnh:”Giả thuyết coi Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai và vợ có thể đã có từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng chỉ là những truyền thuyết được truyền miệng và chỉ lưu truyền rất lâu sau khi các sự kiện xầy ra. Cả hai đều không bắt nguồn từ chính Kinh thánh”. [2]
Câu chuyện vể lai lịch của Maria Mađalêna.
Ngày xửa ngày xưa, có một người phụ nữ có một quá khứ tồi tệ. Một quá khứ mà cô không thể tự hào. Và vì vậy, khi Chúa Kitô bước vào đời cô, rực rỡ hơn ngàn kỵ sĩ trong bộ áo giáp sáng chói, cô biết rằng tất cả những gì cô muốn làm là theo Ngài và yêu Ngài. Cô có thể cảm thấy tình yêu của Ngài dành cho cô cháy sáng đến nỗi, nó thiêu rụi tất cả tội lỗi trong quá khứ của cô, và cô đã lấy lại được cuộc đời mình.
Rồi thì, người phụ nữ đó cần chọn một trong những người bạn của Chúa Kitô làm người bảo trợ cho cô, trông chừng cô và cầu nguyện cho cô, và làm bạn của cô, vì vậy cô đã chọn một người phụ nữ mà cô nghĩ có những trải nghiệm tương tự với quá khứ đen tối của cô, là người đã vượt qua bóng tối đó nhờ Tình yêu của Chúa, đó là Thánh nữ Maria Mađalêna.
Nhưng điều buồn cười là, nhiều năm sau, khi người phụ nữ ngồi viết một đoạn về vị thánh bảo trợ yêu quý của mình, người chị tâm linh của cô, cô phát hiện ra rằng rất nhiều điều cô nghĩ rằng cô biết về Mađalêna là… sai, rõ ràng là sai. Và không có gì rõ ràng, điều đó thật khó hiểu.
Trước hết, Dan Brown sai lầm ở một mức độ nào đó khi nói rằng Maria Mađalêna là vợ bí mật của Chúa Giêsu, bị một Giáo hội Công giáo đầy ganh ghét, kỳ thị phụ nữ, che giấu khỏi lịch sử chung. Bác bỏ cái bà Maria đó là chuyện dễ dàng, nhưng bác bỏ doanh số bán sách của Dan Brown thì ngược lại. Doanh thu nhiều khi quyết định sai sự thật lịch sử. Thế thì, có một mức độ sai lầm nào đó từ thời trung cổ: rằng bà là một người tội lỗi ăn năn hối cải, một loại phụ nữ cực kỳ ngỗ ngược. Bà Maria kiểu này thường đi kèm với một thứ ngộ nhận mang giọng điệu rõ ràng là để chống lại Kitô giáo.
Cuối cùng, có một bà Maria Mađalêna khác được thế vào, nghĩa là đem người phụ nữ đã xức dầu thơm lên chân Chúa Kitô, rửa chân bằng nước mắt và mái tóc của mình, cộng với Maria Bêtania, là em Mátta và Ladarô nổi tiếng, rồi thêm vào Maria Mađalêna, là người đã đứng dưới chân thập giá, kết hợp tất cả các Maria đó lại, thế là có một”Maria tổng hợp”.
Dĩ nhiên, độ chính xác của chuyện đó là không rõ ràng. Đây là điều đã bị tranh cãi và nhiều nhà văn trào lưu Thời Đại Mới, cố kiếm lợi từ chuyện này bằng cách tuyên bố rằng cuối cùng họ đã đưa ra được sự thật gây sốc về người phụ nữ bí ẩn này. Những nhà thần học vĩ đại như Thánh Giêrônimô, Augustinô và Tôma Aquinô đều không đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này.
Tuy nhiên, điều không thể phủ nhận là bà đã được Chúa Giêsu Kitô trừ khỏi bảy quỷ:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Ngài trừ cho khỏi bảy quỷ” (Máccô 16: 9), và là một trong số ít những người đã đứng bên cạnh Ngài khi Ngài bị đóng đinh (Máccô 15:40; Mátthêu 27:56; Gioan 19:25; Luca 23:49), Bà là nhân chứng đầu tiên được ghi lại về sự Phục sinh, và chính bà là người đã mang tin tức gây xáo trộn và tuyệt vời này cho các Tông đồ, do đó bà được đặt tên là”Tông đồ của các Tông đồ - Apostolarum Apostola”.
Ở một khía cạnh nào đó, bà ấy giống như nước. Chúng ta nghĩ rằng mình nhìn thấy nước rõ ràng, và đi đến nắm lấy nó, nhưng nó vỡ ra thành trăm mảnh không thể nắm được. Ngay cả cái tên”Mađalêna”, có vẻ là một địa danh hoặc một vị trí đẹp đẽ, cũng trở nên rối mù khi người biết rằng không chỉ Magdala, thị trấn đang được đề cập, đã bị người La Mã phá hủy vì những cư dân ở đó "suy đồi đạo đức" (một lời buộc tội đáng kinh ngạc đến từ người La Mã), nhưng chính trong sách Talmud, từ "Mađalêna" có nghĩa là "người đàn bà ngoại tình". Những manh mối, khi tổng hợp lại, có thể chỉ ra một người phụ nữ có một quá khứ không mấy tốt lành mà vì nó mà bà có lẽ phải gánh chịu đau khổ. Tuy nhiên, cũng có thể không phải như vậy. Có thể Maria Mađalêna là một người phụ nữ tốt lành, chỉ có điều quê quán lại ở một thành phố có lối sống hư hỏng, có nhiều phụ nữ ngoại tình theo thói xấu xa của dân thành thị thời đó, và vì thế bà mắc phải một vụ cám dỗ và bị quỷ ám nặng nề, bị hành hạ day dứt khôn nguôi bởi một sức nặng tối đa của sự dữ - bẩy quỷ, mà ngày nay các nhà y học có thể cho đó là những căn bệnh hiểm nghèo, thực thể hoặc rối loạn thần kinh, gây ra những hậu quả nặng nề cả thể lý lẫn tâm thần.
Nhưng sự thật được các sách Tin Mừng nói đến là có một Vị Thầy quyền năng và nhân lành - chưa từng xuất hiện trong lịch sử dân Israel - đã trừ khử bè lũ bẩy quỷ đó. Thật là một sự giải thoát đẹp đẽ và cảm động khỏi ách của lũ quỷ - một sự chữa lành khỏi mọi bệnh tật, vốn là hậu quả của tội lỗi, bệnh càng trầm trọng thì hậu quả của tội lỗi càng nặng nề, theo quan niệm của Do Thái giáo bấy giờ! Chúa Giêsu đã cứu chữa Maria Mađalêna, đem lại cho bà một cuộc đời tươi mới, an lành mà bà chưa từng vui hưởng. Làm sao mà không thán phục và ngưỡng mộ một Vị Thầy quyền năng và tràn đầy lòng thương xót như thế! Tình yêu của Mađalêna dành cho Chúa Giêsu đã thay đổi cuộc đời của bà, một sự đổi đời tuyệt vời! Thế rồi, Mađalêna lặng lẽ âm thầm theo Chúa sau khi nhận phép rửa vì tình yêu này. Nhờ sự khiêm hạ của mình, bà đã dần trở nên tốt lành, gần gũi Chúa Giêsu hơn các Tông đồ.
Ai còn dám khinh khi tội nhân! Chỉ một khoảnh khắc đủ để biến họ thành những vị thánh vĩ đại. Bao nhiêu người trong số những người vĩ đại nhất đã được Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa thoát khỏi vũng lầy tội lỗi: Thánh Phaolô, Thánh Augustinô, và nhiều người khác! Mađalêna mở đường cho họ; bà đã lên đến tận Trái Tim của Chúa Kitô vì bà khởi đi từ rất thấp và biết cách hạ mình xuống. Vậy thì ai có quyền tuyệt vọng? Khi đi xưng tội, chúng ta có nên xem mình là Mađalêna và để cho cuộc sống trong sợ hãi của chúng ta, giống như của Mađalêna, được Chúa Kitô biến đổi vì tình yêu hơn là cứ sống trong sợ hãi?
Tình yêu của Mađalêna trở nên tích cực sau khi bà được chữa lành. Đó là một bài học quan trọng. Nhiều tội nhân hoán cải lại không làm gì khác sau khi được biến đổi. Họ chỉ muốn ở lại trong sự bình an của một lương tâm tốt lành bằng việc trung thành giữ các Giới Răn. Nhưng họ không dám bước theo Chúa Giêsu, và họ kết thúc bằng việc tái phạm tội lỗi. Con người không thể sống chỉ bằng nước mắt và hối tiếc. Một khi người ta đã phá hủy những đồ vật mà cõi lòng người ta đã gắn bó và đã sống cùng thì người ta cũng cần thay thế những thứ đó bằng một điều gì khác và sống cuộc sống của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn ở dưới chân Chúa Giêsu? Vậy nếu Ngài đứng dậy bước đi; chúng ta hãy theo Ngài và bước đi với Ngài. Mađalêna bắt đầu đi theo Chúa Giêsu như vậy; bà sẽ không bao giờ rời bỏ Ngài. Người ta thấy bà đứng dưới chân Thập giá, chứng kiến, lắng nghe những lời trăn trối của Ngài và suy ngẫm chúng trong lòng mình. Đó là cơ duyên của cuộc đời bà. Bà không nói lời nào, chỉ chiêm ngắm, cầu nguyện và mến yêu theo gương mẫu Mẹ Maria mà bà đang quỳ sát bên. Bà đã theo Chúa Giêsu và thực hành các nhân đức của Ngài trong những hoàn cảnh sống khác nhau. Một sự biến đổi không vượt ra ngoài cảm tính thì không lâu bền.
Maria chia sẻ những hoàn cảnh khác nhau của Chúa Giêsu. Trong suốt cuộc hành trình của Ngài, bà đã mua sắm cho Ngài những gì Ngài cần cho sự sống của chính Ngài và của các Tông đồ của Ngài. Mọi hoàn cảnh của cuộc sống đều tốt lành. Chúng ta hãy nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh, và đừng coi thường những người có hoàn cảnh khác.
Một đặc điểm đặc trưng khác của tình yêu chủ động của Mađalêna là sự đau khổ; bà đã đau khổ với Chúa Giêsu Kitô. Không nghi ngờ gì nữa, bà đã biết trước về cái chết của Thầy mình; bạn bè không giấu nhau bí mật. Và nếu Chúa Giêsu tiết lộ Cuộc Khổ Nạn của Ngài cho các Tông Đồ của Ngài là những người mộc mạc như vậy, thì tại sao Ngài lại giấu điều đó với một phụ nữ tinh tế như Mađalêna?
Mađalêna trung tín và kiên trì trong tình yêu mến bà dành cho Chúa Kitô. Bà từ bỏ gia đình thân yêu của mình, bà đi đến nơi mà các môn đệ nam giới sợ đi; bà đi theo Chúa Kitô khổ nạn đến cùng, bà dũng cảm lên đồi Canvê, chung quanh là quân lính Rôma tàn bạo, nhất là những người Do Thái đồng hương của bà đang căm phẫn Vị Thầy của bà, theo sự kích động của các lãnh đạo tôn giáo; bà có thể bị liên lụy, bị quy kết là đồng lõa với tên chống đời phá đạo…Nhưng bà không sợ! Và người ta thấy bà dưới chân Thánh giá, bên cạnh Mẹ Maria. Tin Mừng đề cập đến tên của bà, và chắc chắn bà xứng đáng với điều đó. Bà đã làm gì ở đó? Bà yêu thương và cảm thông. Một người bạn muốn chia sẻ hoàn cảnh của bạn mình. Tình yêu gắn kết hai cuộc sống, hai hiện hữu thành một. Mađalêna không dám đứng; bà luôn nhớ mình đã từng sống dưới ách tội lỗi, đầy bệnh hoạn tật nguyền nhưng đã được Thầy Giêsu cứu chữa, Vị Thầy bây giờ đang bị treo trên thập giá; bà cần phải quỳ xuống, cung kính ôm đôi bàn chân vẫn còn chẩy Máu quý giá của Thầy mình, bên cạnh Mẹ Maria đứng yên, hiến tế Người Con yêu dấu của mình, như Abraham sát tế Isaác, người con duy nhất mà ông yêu thương.
Mađalêna ở đó cho đến sau cái chết của Chúa Giêsu. Bà trở lại vào sáng ngày đầu tuần. Bà đã chứng kiến và biết rất rõ rằng Chúa Giêsu đã được mai táng; nhưng bà vẫn muốn gánh chịu đau khổ và khóc thương để tang cho Thầy của mình. Tin Mừng ca ngợi lòng nhiệt thành của những người phụ nữ khác và sự cao sang của những món quà của họ; nhưng Tin Mừng lại chỉ nói về những giọt nước mắt của Mađalêna. Mađalêna cho chúng ta thấy bà hết lòng tìm kiếm và mong mỏi đáp lại lòng thương xót bao la của Chúa Kitô.
Có lẽ đó là điểm chính. Có thể do một cố ý nào đó mà quá khứ của Maria Mađalêna vẫn còn mù mờ và không ai biết đến, nhưng tình yêu và lòng sùng kính của bà đối với Chúa Kitô thì trong sáng như pha lê. Rốt cuộc, đây chẳng phải là điều mà Chúa Kitô hứa với tất cả chúng ta khi Ngài nói,”Cho nên, phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” ? (2 Côrintô 5: 17).
Chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì, những sai lầm và thất bại đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu đều được rửa sạch, và những gì còn lại là cơ hội để chúng ta bước theo Ngài, là con người sáng chói hơn một ngàn kỵ sĩ mặc áo giáp sáng chói, đến bất cứ nơi nào Ngài đi đến. Đi đến ngay cả chân thập giá đau thương. Đi đến ngay cả phần mộ chết chóc. Chúng ta, giống như Maria Mađalêna, đi đến ngay cả trước Đấng Phục sinh vinh quang choáng ngợp, là Đấng chúng ta khao khát tìm kiếm và yêu mến. [3]
Thánh Nữ Maria Mađalêna cho chúng ta thấy niềm vui của sự phục sinh.
Các tác giả Tin Mừng cho thấy một sự thật đồng nhất rằng Maria Mađalêna là người đầu tiên trong số các môn đồ nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại và loan tin rằng Ngài đã từ cõi chết trỗi dậy. Cả bốn tác giả Tin Mừng đều đề cập rằng vào ngày đầu tuần, ngay sáng sớm, bà đi đến ngôi mộ, nơi có Đấng thương xót chữa lành đời bà.
Theo Tin Mừng Gioan, bà là người đầu tiên loan tin rằng ngôi mộ trống rỗng. Điều này khiến Phêrô và môn đệ yêu dấu phải đi đến ngôi mộ. Maria cũng đi đến đó. Phêrô và môn đệ yêu dấu nhìn vào bên trong ngôi mộ và chỉ thấy trang phục mai táng. Cả hai đều kinh ngạc về những gì đã xảy ra, bước ra khỏi ngôi mộ nhưng vẫn không dám chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại. Cuối cùng Maria ở lại ngôi mộ một mình. Tin Mừng nói rằng”Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân” (Gioan 20: 11).
Có lẽ, bà không trở về cùng với Phêrô và môn đệ yêu dấu kia vì đơn giản là bà quá rối trí không thể đi đâu được nữa. Không rối trí sao được khi người mà mình yêu thương bị hành hạ, giết chết, chôn cất, mình thấy tận mắt tất cả những chuyện đó, thế mà giờ đây thi thể đã biến mất, ngôi mộ bị bỏ trống, chỉ còn những khăn liệm, lại còn được sắp xếp gọn gàng…! Cảm xúc phụ nữ của bà bị chấn động; bà không thể thực hiện chuyến trở về. Vị Thầy của bà đã bị giết chết. Thôi thì chuyện đã rồi! Nhưng sao giờ này lại bị mất cả xác? Ngài là người đã phục hồi bà khỏi bảy quỷ, là người mà bà đã cùng đồng hành trong vài năm qua. Bây giờ tất cả những gì bà muốn làm là xức dầu thơm lên cơ thể Ngài cho đúng phép tắc, như thể nói lời từ biệt sau cùng. Ngay cả điều đó bà cũng không thể làm được, bởi vì dường như ai đó đã mang thi thể của Chúa Giêsu ra khỏi nơi an nghỉ của Ngài.
Trong tiếng khóc không thể kìm nén, bà thấy một người đàn ông xuất hiện, dường như là một trong những người làm vườn. Bà yêu cầu ông cho bà biết nơi ông đã đặt thi thể để bà đến và sửa soạn cho Chúa Giêsu những việc thích hợp mà người Do Thái vẫn thường làm sau việc an táng. Đây là bằng chứng cho thấy bà không hề nghĩ rằng Chúa Kitô sẽ sống lại, bà tin chắc rằng Ngài đã ra đi mãi mãi. Trong tâm trí của Maria, tất cả đã mất, thế là hết! Chính lúc như tuyệt vọng đó, Chúa Giêsu mới lên tiếng kêu tên bà,”Maria!” (Gioan 20:16). Một khi mối tương quan cá nhân được thiết lập giữa bà và Chúa Giêsu, một khi bà nghe thấy giọng nói của Ngài, bà sẽ biết chính xác đó là ai trước mặt mình. Đó không phải là người làm vườn. Đây là Vị Thầy của bà, là Chúa của bà.
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn có cung cách tỏ mình ra như thế cho các môn đệ của Ngài, khi họ dường như chạm đến mức tuyệt vọng, khi họ cảm nhận và hiểu ra rằng mọi thứ trên trần đời nảy đều chấm dứt trong”hữu hạn, vô thường, vô nghĩa”, và Ngài đem lại cho họ, và tất cả những ai tin theo Ngài, một niềm vui òa vỡ, chan chứa, tinh khôi; người đầu tiên là Maria Mađalêna trước ngôi mộ trống, kế đến là các tông đồ trong căn phòng đóng kín, rồi tới hai môn đệ trên đường lui về Emmau, rồi Tôma vốn chủ trương thực chứng, rốt cuộc cũng phải thốt lên trong kinh ngạc và mừng vui vô bờ, đến độ bất giác quỳ xuống sụp lạy một Thầy Giêsu thân quen vô vàn yêu quý, nay tỏ mình ra vô cùng cao cả thần thiêng:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Gioan 20: 28).
Maria Mađalêna là người chứng đầu tiên về Chúa Kitô Phục sinh, trong đoàn lũ con cái phàm nhân của Adam-Evà, vốn phải chết như một số phận tất yếu, nay được hưởng nếm trước niềm hạnh phúc chứa chan của những ai sống trong”cảnh vực thần linh” (Teilhard de Chardin) vì đã hết lòng tìm kiếm, bất kể những gian nan khổ sầu, kiên trì bước theo và yêu mến Vị Thầy Người-Chúa đã tự hiến tế trên Thánh Giá,và vẫn đang thực hiện Lời Ngài phán hứa:”Đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Maria đi tìm Chúa Giêsu, nhưng cuối cùng chính Chúa Giêsu lại là người tìm đến bà. Nhiều người đã hỏi, tại sao không phải là Đức Mẹ, tại sao Mẹ không phải là người đầu tiên gặp Chúa Kitô Phục Sinh, tại sao không phải là Phêrô hay Gioan? Có rất nhiều câu trả lời hợp lý, nhưng có một câu trả lời bắt nguồn từ cách chúng ta nhận ra Maria Mađalêna là ai. Nếu chúng ta biết rõ hơn bà là ai thì chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt hơn về lý do tại sao bà là người được chọn ban cho đặc ân này.
Bất chấp những gì mà hầu hết các kênh truyền hình Lịch Sử trình chiếu và các phim tài liệu khác đã nêu ra, Maria Mađalêna chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Tin Mừng như là một cô gái làm nghề bán thân. Tham chiếu duy nhất mà chúng ta có về danh tính của bà là Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ khỏi bà (Luca 8: 2; Máccô 16: 9). Trong niềm tin của người Do Thái giáo, số bảy là số tượng trưng cho sự hoàn hảo. Vì vậy, khi Chúa Giêsu gặp Maria Mađalêna, bà đã bị quỷ nhập, chứ không chỉ là các vụ quỷ ám thông thường mà Chúa Giêsu đã chinh phục trong cuộc hành trình rao giảng của mình. Maria đã bị héo hon bởi bảy con quỷ, một sự dữ hoàn toàn. Chúa Giêsu phải đối mặt với sự dữ mãnh liệt tối đa trong bà… và Ngài đã chiến thắng nó, nơi một cá nhân.
Cùng với sự đóng đinh và Phục sinh của Chúa Kitô, kế hoạch của Thiên Chúa đánh bại tội lỗi và sự chết, là sự dữ mãnh liệt tối đa, được hoàn thành, nơi toàn thể nhân loại, và nơi toàn thể công trình tạo dựng. Trên đồi Canvê, toàn bộ thực tại của tội lỗi gắn chặt vào Chúa Kitô và với cái chết của Ngài, Ngài đã hủy diệt quyền thống trị của sự dữ trên nhân loại như lời thánh Phêrô:”Tội lỗi của chúng ta, Ngài mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2, 21-24). Sự chết vào thế gian chỉ vì tội lỗi của Ađam và Evà. Thoạt tiên, chúng ta được tạo dựng là để sống và ở với Thiên Chúa mãi mãi trong sự hiệp thông hoàn hảo. Tuy nhiên, với quyết định tự do tự ý, Ađam và Evà đã chọn theo ý riêng phàm nhân hữu hạn của chính mình thay vì chọn tuân theo Thánh Ý thiện hảo của Thiên Chúa, do vậy cái chết từ đây sẽ là một phần của cuộc sống. Nhưng sự dữ tột đỉnh, tức là cái chết, không phải là phán quyết chung cuộc, như lời thánh Phaolô dạy:”Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài.” (II Côrintô 5, 21) và”để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống.” (II Côrintô 5, 4)
Nói một cách thực tế, cái chết là cực điểm của sự ác và tội lỗi. Tuy nhiên, với cuộc khổ nạn, đóng đinh, chịu chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, cái chết, như hậu quả cuối cùng của sự dữ và tội lỗi, không còn thống trị nữa; Chúa Giêsu chiến thắng sự dữ một cách trọn vẹn. Có thể đây là lý do tại sao Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra trước hết với Maria Mađalêna sau khi Ngài sống lại, bởi vì qua kinh nghiệm cá nhân, bà đã hiểu và cảm thấu được thế nào là bị sự dữ độc chiếm hoàn toàn, và bà biết niềm vui sẽ lớn lao như thế nào khi sự dữ đó bị phá hủy. Bà đã trải qua điều đó trong chính cuộc sống riêng tư khi bị ma quỷ thống trị và khi được giải thoát khỏi chúng. Do đó bà có đủ tâm thế để hiểu rõ nhất sự Phục sinh của Chúa Kitô có ý nghĩa như thế nào đối với bà và tất cả nhân loại. Bà có đủ lòng biết ơn chân thành và sự can đảm thực sự để chạy đi loan báo với mọi người về sự Phục sinh của Chúa Kitô, cũng là khởi đầu sự Phục sinh của toàn nhân loại, mà bà là người cảm nhận rõ ràng nhất và trước nhất.
Chúa Kitô đã sống lại cách vinh quang, Ngài đã tìm đến với Maria Mađalêna, tìm đến các Tông Đồ, và tìm đến cá nhân mỗi người chúng ta, nhiều lần nữa, trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời, và Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta một mình. Đó là thông điệp của Lòng Chúa Thương Xót. [4]
Tài liệu tham khảo:
[1] Những nghiên cứu khảo cổ đầu tiên tại Magdala được thực hiện vào những năm 1970 dưới sự điều phối của hai nhà khảo cổ dòng Phanxicô, cha Virgilio Corbo và cha Stanislao Loffreda. Năm 2006, dòng Phanxicô tại Thánh Địa, chủ sở hữu của khu đất nơi một phần còn sót lại của thành phố Magdala được tìm thấy, đã tiếp tục lại công việc khai quật. Magdala là một thị trấn nhỏ ở Galilea nằm bên bờ tây của hồ Tiberia. Một phần lớn của thành phố với các dinh thự, đường phố sỏi đá, các vật dụng, đồ gốm, đồ trang sức, tiền xu và các vật dụng khác được tìm thấy, phác họa bức tranh về đời sống hàng ngày của thành phố Magdala vào thời của Chúa Giêsu. Một phần khác của trung tâm thành phố cổ được tìm thấy ở khu vực liền kề, thuộc sở hữu của dòng Đạo binh Chúa Kitô. Một nhà thờ và một trung tâm đón tiếp khách hành hương đã được xây dựng tại đây. Cùng điều phối chương trình này có hai linh mục của giáo phận Vicenza, đó là cha Raimondo Sinibaldi, giám đốc Văn phòng truyền giáo, và cha Gianantonio Urbani, nhà khảo cổ của Học viện Kinh thánh dòng Phanxicô ở Giêrusalem (REI 12/02/2020).
Cuộc đời của bà Maria Mađalêna vẫn còn là đề tài gây tranh luận. Ý nghĩa chủ yếu của cuộc đời Maria Mađalêna là bà đã nhận biết được những gì Chúa Giêsu muốn nói, hiểu được tâm tình và suy tưởng của Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời. Năm 889, Đức Giáo Hoàng Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople. Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị ngộ nhận là người đàn bà tội lỗi. Có lẽ Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng:”Sự hiểu lầm này cũng không có gì là quá đáng, vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy đón nhận sứ mạng rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta”.
[2] [3] [4] catholicexchange.com/ st mary magdalene.
1/ Thánh Nữ Maria Madalena quê tại Macdala, gần biển hồ Galile-a. Thánh nữ bị quỷ ám cho tới khi được Đức Yesus trừ quỷ cho/ sau đó bà đi theo Đức Yesus, làm Môn Đệ và là một trong những phụ nữ thánh thiện/ đã đi theo giúp đỡ Chúa Yesus và các Tông Đồ.
2/ Thánh Nữ thuộc nhóm phụ nữ đi theo Chúa Yesus/ và lấy tài sản của mình mà giúp đỡ Ngài. Thánh nữ Maria Madalena có mặt trên đồi Canve khi Chúa Yesus chịu tử nạn, và là người thứ hai sau Đức Mẹ, bà được phúc gặp Đấng Cứu Thế vào sáng ngày Phục Sinh. Thánh Nữ đã gặp được Chúa sau khi Chúa gọi đích danh bà.
3/ Lòng sùng kính của Giáo hội đối với người nữ Môn Đệ hết mực trung thành của Chúa Kito đã được phổ biến khắp thế giới Phương Tây trong thời trung cổ. Thánh Nữ Maria Madalena, không phải là những người phụ nữ trùng tên Maria, hoặc là người đã vì lòng sám hối mà đổ dầu thơm quý giá xức chân Chúa Yesus tại nhà ông Simon tật phong.
4/ Maria Madalena có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài/ là đề tài gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các Thánh nhân và các Môn Đệ của Chúa Kito qua mọi thời đại. Tiếng tăm bà không dễ dàng gì giải thích, mà chỉ dựa vào các thông tin của bà trong Kinh Thánh. Điều mà sách Tân Ước nói về bà thật ít ỏi, dễ gây thất vọng, các tác giả Tin Mừng chỉ đơn giản gọi bà là Maria thành Magdala, nhưng có một chi tiết nhỏ có ý nghĩa , có thể gây kinh ngạc/ vì cả 4 Tin Mừng đều khẳng định bà là người Môn Đệ gương mẫu cho mọi thời đại.
5/ Có điều gì đó mang chút hấp dẫn về tên người phụ nữ này trong các bài Tin Mừng: Một người phụ nữ mà tên riêng lại không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác/ chính vì có nhiều óc tưởng tượng bình dân đã gán ghép bà với người phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một chút rối mù.
6/ Thỉnh thoảng Maria Macdala bị đồng hóa hay nhầm lẫn cách sai lầm với một người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Yesus. Sự đồng hóa này càng thêm phức tạp vì người ta nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô gái điếm. Điều này càng góp phần khiến cho vấn đề càng trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Madalena bị nhầm lẫn với một phụ nữ bị cáo buộc tội phạm ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Yoan, lại nhập nhằng với nhau.
7/ Thánh Marco và Mattheu đưa ra trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Yesus/ Có ý nói về cuộc mai táng sau này của Ngài/ Lúc ấy Chúa Yesus đang ở nhà của ông Simon tật phong, ở Betania, gần Yerusalem. Thánh Yoan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Yesus không lâu trước cái chết của Chúa/ xác định là phụ nữ thành Betania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu sống Lazaro em bà// Bởi vì Maria là cái tên rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà có tên là Maria đã lẫn lộn vào nhau trong truyền thống Kito giáo sau đó.
8/ Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Yesus khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong lúc thực hiện sứ vụ (Lc 7, 26-50)/ chứ không phải ở lúc cuối đời. Lúc ấy, Chúa Yesus đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Phariseu. Có lẽ Maria Madalena đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này, bởi vì bà Maria Madalena lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8,2), góp phần tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên nhẹ nhàng để gọi cho cái nghề làm gái điếm). Người đã đổ nước mắt thống hối và hành động như thế vì lòng hối hận/ thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Yesus là một phụ nữ vô danh trong tin mừng Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì tội lỗi của mình hơn là tình yêu dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa dụ ngôn mà Chúa Yesus vừa mới nói đến trong dịp này, lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể câu chuyện.
9/ Vấn đề càng thêm phức tạp hơn khi có vài đoạn tin mừng của Thánh Yoan (Yn 7,53/ Yn 8,11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình/ và gán ghép chị này với Maria Madalena. Một truyền thống lâu đời trong văn chương, và nghệ thuật Kito giáo đã vẽ nên một Maria Madalena là người tội lỗi ăn năn sau khi gặp được Chúa Yesus/ thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình hoặc tệ hại hơn nữa lại là một cô gái điếm.
10/ Tóm lại, Thánh Nữ Maria Madalena mà Giáo hội kính nhớ ngày 22/07: Bà là một phụ nữ Thánh thiện, bà đi theo Chúa suốt cuộc đời, bà đứng dưới chân Thánh giá/ bà được Chúa Yesus phục sinh hiện ra đầu tiên/ bà không phải là phụ nữ ngoại tình cũng không phải là người đàn bà tội lỗi/ cũng không phải là Maria chị của Lazaro. Bà là gương mẫu cho các Môn Đệ, bà là người duy nhất được Giáo hội công giáo Roma kính nhớ, bà là người được Chúa trừ bảy quỷ. Chúng ta không bao giờ được nhầm lẫn với những bà Maria khác, mà các họa sĩ công giáo đã vẽ lên những hình ảnh, những tác phẩm khiêu gợi, không đúng với nhân phẩm của một vị thánh nữ gương mẫu như bà /
11/ Hôm nay chúng ta suy về tình yêu bùng cháy trong trái tim người phụ nữ đã không hề rời mộ Chúa/ mặc dù các Tông Đồ khác đã bỏ trốn tất cả. Thánh nữ vẫn liên lỉ tìm kiếm đấng mà trước kia bà không tìm được, thánh nữ đã tìm kiếm trong nước mắt và bừng cháy ngọn lửa tình yêu. Bà khao khát tìm thấy đấng mà bà đang tưởng nhớ/ và với hy vọng gặp được Chúa/ và bà là người duy nhất đã gặp được Ngài. Đúng như lời Chúa đã cho chúng ta biết: Ai trung thành đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
12/ Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Chúa đang ở rất gần bên chúng ta trong những biến cố của cuộc sống/ mặc dù chúng ta không nhận ra Người, nhưng Người vẫn luôn ở bên chúng ta.
13/ Hôm nay chúng ta hãy xin Thánh nữ ban cho chúng ta lòng trung kiên/ và chia sẻ lòng trung kiên của Bà trong việc đi tìm Chúa/ xin Thánh nữ giúp chúng ta vững bước theo Chúa cho đến cùng như Ngài đã từng đứng dưới chân Thánh Giá và theo Chúa trên mọi bước đường của sứ vụ, Bà đưa Chúa đến nơi huyệt đá, đợi chờ để được ướp xác Chúa kỹ hơn. Nhờ thế Thánh nữ đã gặp được Chúa, đã có được niềm vui trọn vẹn cho cuộc đời mình. Xin Chúa Kito phục sinh cũng cho con được gặp Chúa như vậy. Amen.****///
14/ Các bà Maria trong Tân Ước:
Trong Tân Ước, có một số phụ nữ mang tên Maria (Hípri: Miryâm). Có 6 người mang tên Maria:
1. Maria, mẹ Đức Giêsu.
2. Maria, mẹ các ông Giacôbê (Thứ) và Giôxếp. Đôi khi bà này được đồng hóa với bà Maria vợ ông Clôpát, chị thân mẫu Đức Giêsu. Bà này thường được nêu tên cùng với bà Maria Mácđala (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1; Lc 24,10; Ga 19,25).
3. Maria, ở Bêtania, em của cô Mátta và chị ông Ladarô (Lc 10,39.42). Bà này được tác già Tin Mừng IV đồng hóa với người phụ nữ xức dầu lên chân Đức Giêsu (Ga 11,1; 12,3). Một số người đồng hóa sai lầm bà này với người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
4. Maria, Mácđala (mừng lễ ngày 22/7). Bà là người trước đây bị bảy quỷ ám, đã được Đức Giêsu chữa lành. Bà có mặt khi Đức Giêsu tắt thở và đi theo mai táng xác Chúa trong mồ, và là người đầu tiên được gặp mặt Đấng Phục Sinh (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Bà không phải là Maria Bêtania hay người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
5. Maria, mẹ của Máccô: Cv 12,12.
6. Maria, Một Kitô hữu ở Rôma: Rm 16,6. //// Lm FX VŨ PHAN LONG
Ghi chú thêm: Giáo hội Chính thống kính cả 3 bà, nhưng giáo hội Roma chỉ kính có một bà, đó là Thánh nữ Maria Madala, kính ngày 22/7. Bà thánh này không phải là người đàn bà tội lỗi như nhiều người vẫn lầm tưởng. Chúng ta hãy xác định lại cách hiểu và cách kính nhớ, kẻo vô tình chúng ta lại hiểu sai và cứ tiếp tục xúc phạm đến thanh danh và sự thanh sạch của bà. Giuse Luca
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Maria Mađalêna. Sứ điệp Lời Chúa trong ngày lễ kính nhớ thánh nữ cho chúng ta nhiều góc nhìn. Tuy nhiên, từ sách Diễm Ca trong bài đọc một như mở ra cho chúng ta một hướng nhìn để cùng cảm nhận với chị thánh, khi viết “Suốt đêm trường tôi tìm người lòng tôi yêu dấu … Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu ?” (Dc 3:1-4) Câu này trong sách Diễm Ca đã có thể diễn tả nỗi niềm khắc khoải của Maria Mađalêna. Chị đã khắc khỏai đi tìm Ngài, Đấng đã đi tìm chị và phục hồi cho chị tất cả những gì là cao quý nhất trong phẩm giá của một con người. Cuôc đời của chị sẽ chỉ trở nên trọn vẹn khi có Ngài. Đấng ấy, Đấng mà chị đang khắc khoải kiếm tìm, đã bị chôn vùi trong nấm mộ như chị đã biết. Nhưng tình yêu đã không ngăn được người phụ nữ chân yếu tay mềm kia lên đường tìm kiếm Ngài, với khát mong là được nhìn thấy Ngài, cho dẫu là một thân xác đã bị chôn vùi trong mộ. “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây…” (Mc 16:3). Vâng, dẫu biết Chúa đã được mai táng trong mồ, dẫu biết Chúa đã chết thật, và dẫu biết rằng tảng đá lấp cửa mồ quá to, nhưng Maria vẫn đến. Cái khắc khoải tìm “người lòng tôi yêu dấu” đã đưa Maria lên đường đi tìm Ngài.
Niềm khát mong đó, cộng với nỗi đau đớn sầu buồn mà Maria và các môn đệ Chúa vừa trải qua, đã làm cho chị không còn đủ tỉnh táo để nhận ra Chúa nữa. Dòng lệ sầu buồn đã làm nhòa đi tất cả. Ánh mắt Maria đã chỉ còn chăm chú nhìn vào trong mộ, nơi đã đặt xác Chúa. Có chăng những sầu muộn buồn phiền, khiến mỗi chúng ta cũng giống như Maria đã không còn đủ tỉnh táo để nhận ra tiếng Chúa, nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những khó khăn mà thế giới chúng ta đang phải đối mặt, giữa lúc dịch bệnh vẫn đang hoành hành? Như chính Chúa đã hỏi Maria: “Này bà, sao bà khóc, bà tìm ai?” (Ga 20:15). Dòng lệ nhoà giữa nỗi buồn nặng trĩu trong lòng đã khiến cho Maria thật không còn nhận ra Đấng bà đang tìm kiếm nữa.
Tuy buồn là thế, xong lại có một điều khiến cho Đấng Phục Sinh cũng như tất cả những ai, khi nghe câu nói này của Maria Mađalêna, đều phải rung động trước tình yêu bà dành cho Chúa. “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20:15). Trong cái giờ phút mà Maria đang khắc khoải tìm “Người lòng ‘mình’ yêu dấu” đó, thì tại sao bà không hỏi rõ với “người làm vườn” rằng: “thưa ông, nếu ông đã đem Chúa Giêsu của tôi đi….” mà chỉ đơn giản xưng bằng đại từ “NGƯỜI” xem ra rất chung như thế. Đó chính là vì, đối với Maria thì Đức Giêsu đã trở nên thân thương đến mức tràn ngập tâm hồn, đến mức mà bà nghĩ rằng chỉ cần hỏi về “NGƯỜI” thôi, thì ai cũng biết, ai cũng hiểu, như chính bà hiểu, cảm và biết về NGƯỜI.
Thế đó, tâm hồn Maria tràn đầy lòng mến cho Chúa Giêsu, thế giới trong bà là Chúa Giêsu. Cảm nhận của bà là cảm nhận Giêsu, nó sống động và tràn đầy đến mức như điều mà nhà thơ Tagore đã mong ước: “Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, cho tôi gọi Người: là tất cả của tôi. Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, để cảm thấy Người ở mọi chốn mọi nơi. Đến với Người trong mọi thứ mọi điều, và sẵn sàng dâng hiến, dâng trọn tình tôi.” (Thơ Tagore). Vâng đối với Maria thì niềm mong ước đó đã một lần là hiện thực, đã một lần có Thầy Giêsu trọn vẹn là lẽ sống, là tình yêu và “là tất cả”. Và dĩ nhiên, Maria cũng nghĩ “NGƯỜI”, Đấng bao trùm toàn bộ tâm hồn và cuộc đời bà, Đấng ấy, khi chỉ cần xưng “Người” thôi, ai cũng biết bà đang muốn nói về ai.
Vâng, nhờ cảm nhận tình yêu đó, bà xứng đáng được chính Đấng Phục Sinh, “Người giữ vườn” mà bà đang hỏi đó, gọi đích danh “Maria” với tất cả sự trìu mến. Thế giới trong Maria vụt sống lại, như trước đây đã một lần sống lại từ bùn đen tội lỗi và sự chết. Dòng lệ nhòa đôi mắt kia giờ đã được lau khô. Thay vào đó là một tình yêu chữa lành, một tình yêu biến đổi. Biến đổi bóng tối thành ánh sáng, gian dối nên sự thật, hận thù thành yêu thương, và sự chết thành sự sống. Tình yêu đó có tên gọi là Giêsu – “Người lòng tôi yêu dấu.”
Bạn thân mến! Nếu có lúc nào đó trong cuộc đời, chẳng hạn như lúc này đây, khi những nỗi muộn phiền nặng nề của bệnh dịch khiến chúng ta cảm thấy như thể “tảng đá” đang che khuất giữa cuộc đời chúng ta với Thầy Chí Thánh Giêsu, chúng ta hãy cùng bắt chước Thánh nữ Maria Mađalêna, hãy dõi tìm “Người yêu dấu Giêsu” qua nguyện cầu, qua trầm lắng khỏi những biến động của đời. Để khi chúng ta khắc khoải kiếm tìm NGƯỜI, khi chúng ta một lần làm mới lại cảm nhận về NGƯỜI, khát khao NGƯỜI là tất cả cho ta. Để chính NGƯỜI sẽ đến với chúng ta, như đã đến với Maria Mađalêna. Để chính NGƯỜI khơi dậy sức sống trong ta một lần nữa bằng việc NGƯỜI gọi tên từng người trong chúng ta. Trong thinh lặng đức tin, trong thinh lặng tâm hồn, Ngài đã cất tiếng gọi; tiếng gọi được cất lên giữa những biến động của cuộc đời. Trong những khắc khoải kiếm tìm NGƯỜI lòng ta yêu dấu, hãy để cho những thổn thức trong ta vang lên thành tâm tình nguyện cầu, lời kinh thấm đượm:
“Chúa ơi! Con nhớ Chúa nhiều, Nhớ câu ca nguyện, nhớ bài thánh thi. Nhớ khi con lặng bái quì, Nhớ giờ thánh Lễ, cử hành ban mai. Những lần thưa tiếng Amen, Hồn đầy hoan lạc, Chúa tràn tâm tư! Chúa ơi dịch bệnh hoành hành, Bao người sầu khổ, thế trần khóc than! Chúa ơi! cứu giúp trần gian, Chúa thương ngự đến hồn an, xác lành.”
Hôm nay chúng ta hãy hợp nhau, cùng thánh nữ Maria Mađalêna, dõi tìm Đấng lòng ta yêu dấu. Hãy thổn thức với NGƯỜI yêu dấu, trong nguyện cầu, tâm tư ước vọng của chúng ta. Để như xưa ngài đã phục sinh thánh nữ Maria Mađalêna, xin Ngài cũng ban cho chúng ta mỗi người sức sống mới. Để hồn an xác mạnh, chúng ta mỗi người cùng với thánh nữ Maria Mađalêna có đủ sức thưa lên: Rapbuni – Lạy Thầy; và một lần nữa chúng ta lại cảm nhận: “cho tôi gọi NGƯỜI là tất cả của tôi.” Amen.
Đức Giêsu đã nói: “Kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều” (Lc 8, 47b). Người được Chúa tha tội không phải để tạo cho họ một tâm hồn trống rỗng, nhưng Ngài đổ đầy tình yêu của Ngài vào lòng họ. Cụ thể ông Phaolô là người tội lỗi nhất: Đang xông tới Đamas để triệt hạ những người Công Giáo, thì Chúa Giêsu lại chọn ông đi làm Tông Đồ cho Ngài (x Cv 9), và khi ông đã tin theo Chúa Giêsu, được Ngài rót tình yêu đầy lòng, như ông nói: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi. Để từ đây, tôi không còn sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình, để làm cho loài người được trở nên một thụ tạo mới, cũ đã qua đi, mới được tạo thành nhờ được ở trong Chúa Kitô Giêsu” (2 Cr 5, 14-17: Bài đọc).
Cũng thế, bà Maria Madalena là một phụ nữ tội lỗi khét tiếng, thậm chí bà bị bảy quỷ thống trị, nhưng sau khi bà được Đức Giêsu trừ quỷ cho, Ngài cũng đổ tình yêu vào lòng, nên bà đã thể hiện tình yêu đối với Đức Giêsu và đối với đồng loại, bằng những việc cụ thể:
1/ TÀI SẢN CỦA BÀ DÂNG HẾT CHO ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC TÔNG ĐỒ, để cùng với các đấng lên đường truyền giáo (x Lc 8,1-3).
2/ BÀ ĐÃ CHIA SẺ NỖI ĐAU KHỔ CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CỦA ĐỨC MARIA NƠI ĐỒI SỌ. Đó là lý do bà cùng với Đức Maria đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu (x Ga 19,25).
3/ BÀ SẮM DẦU THƠM VÀ CHẠY RA MỘ ĐỨC GIÊSU vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lúc trời còn tối (x Ga 20,1a). Đây là hình ảnh nói lên con người tội lỗi như bà Maria Madalena, nếu không nhờ Đức Giêsu cứu chuộc, thì chắc chắn bà đi vào sự chết, được biểu lộ qua hình ảnh “trời còn tối”, khác nào ông Giuđa vì tham 30 đồng bạc, nên khi ông đang dự tiệc với Thầy Giêsu và các anh em, ông đã bỏ bàn tiệc băng mình vào đêm tối, để thông đồng với các đầu mục Do Thái và quân Roma bàn mưu nộp Thầy (x Ga 13,30).
4/ BÀ MARIA MADALENA LÀ CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN CỦA TIN MỪNG CHÚA GIÊSU PHỤC SINH (x Ga 20,18: Tin Mừng). Đây là Tin Mừng bà Maria loan báo:
a- Đức Giêsu bảo đảm sự sống Phục Sinh cho những ai tin theo Ngài.Thánh Gioan ghi nhận: “Bà thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem xác Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Ga 20,1b-2: Tin Mừng). Đó là dấu ứng nghiệm lời ngôn sứ Ezekiel tiên báo về ngày Chúa phục sinh dân Ngài: “Này, Ta sẽ mở cửa mộ các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ hỡi dân Ta” (Ed 36). “Maria hỡi, xin kể lại trên đường đi đã thấy gì cô? Thấy mồ trống Đức Kitô, phục sinh vinh hiển thiên thu khải hoàn” (Tung Hô Tin Mừng).
b- Chúa Giêsu Phục Sinh canh tân bộ mặt trái đất. Cụ thể Ngài đã tỏ mình ra cho bà Maria Madalena qua dáng vóc người làm vườn (x Ga 20,15: Tin Mừng), là dấu chỉ Ngài trổi vượt hơn Adam thứ nhất, vì ông được Chúa giao cho việc canh tác vườn (x St 2,15). Có nghĩa là Adam phải tiếp tay với Thiên Chúa để làm hoàn hảo hơn công trình Ngài đã tạo dựng. Nhưng Adam đã phạm tội, thay vì ông cộng tác làm tốt đẹp công việc của Chúa, thì gai góc đã mọc lên, chứng tỏ sự dữ bao trùm trái đất (x St 3,18) ; Nay Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ ra dáng người làm vườn, Ngài là Adam cuối cùng luôn cùng với Chúa Cha làm việc (x Ga 5,17), để canh tân bộ mặt trái đất, khởi đi từ việc Ngài cứu chuộc loài người. Như thánh Phaolô đã nói: “Phàm ai ở trong Đức Kitô, đều là thụ tạo mới, con người cũ đã qua đi, và này con người mới được tạo thành, tức là những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (1Cr 5,17.15b: Bài đọc), như thế Đức Giêsu diệt “cỏ gai” là tội lỗi đưa đến sự chết mà Adam thứ nhất đã gieo vào lòng giống nòi của ông.
Nhưng ta để ý đời sống lao động của Đức Giêsu trên dương thế, với tuổi đời 33, Ngài đã dành 30 năm làm việc tay chân,chỉ có ba năm cuối đời, Ngài lo việc Nước Thiên Chúa đạt tỷ lệ 1/10 (3/33) thời gian trong đời. Thế thì ta được sinh lại bởi Chúa Giêsu, trở nên giống Ngài, liệu ta có giống Chúa Giêsu mỗi ngày dành hai giờ đạt tỷ lệ 1/10 để lo việc linh hồn không ? Nhất là dành giờ đi dự Lễ mỗi ngày, hầu ta được cầm lấy Chúa Giêsu Thánh Thể, là nắm chắc được ơn cứu độ, như bà Maria Madalena vừa nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh, là muốn ôm chầm lấy Ngài, thì Ngài lại nói: “Đừng cầm Ta lại, vì Ta chưa về cùng Cha Ta” (Ga 20,17: Tin Mừng).
Tại sao thế ?
Thưa: để thực hiện chương trình cứu độ loài người, Đức Giêsu đi ba bước:
* Bước I: Ngài tự hủy mình ra như kẻ tôi đòi từ lúc nhập thể và đỉnh cao vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại đồi Sọ.
* Bước II: Ngài Phục Sinh, chiến thắng mọi sự dữ, diệt thần chết.
* Bước III: Ngài về Trời để nhận vương quyền từ tay Chúa Cha (x Mt 28,18). Chính là lúc Ngài thiết lập hoàn hảo Phụng Vụ mới, thay thế cho Phụng Vụ Do Thái giáo và Ngài truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa trong Thánh Lễ mỗi ngày (x 1Cr 11,23-25), để ai tham dự thì được Chúa Giêsu Phục Sinh thông ban phần chiến thắng vinh hiển, đánh gục thần chết.
Như vậy bà Maria Madalena gặp Chúa Giêsu Phục Sinh nơi gần mộ, Ngài mới đi bước thứ hai, chưa hoàn tất ơn cứu độ cho loài người. Bởi vì lúc ấy Ngài sống lại nhưng chưa về cùng Cha, thì không sinh ơn cứu độ cho ai, chỉ khi Ngài về với Cha (bước thứ ba). Đó là lý do Đức Giêsu nói: “Đừng cầm Ta lại vì Ta chưa về cùng Cha Ta”, thì phải hiểu rằng khi Ngài đã phục sinh về cùng Cha, lúc ấy Ngài mới muốn mọi người cầm lấy Ngài (rước Lễ). Khi được rước Lễ, ta cũng nói được như thánh Phaolô: “Điều quan trọng không phải tôi là người hoàn hảo, mà quan trọng vì được Đức Giêsu chộp lấy” (Pl 3,12). Ai đã được Chúa Giêsu chộp lấy, người ấy có sức mạnh trổi vượt hơn ông Samson đi diệt kẻ thù là tội lỗi. Chính vì vậy mà ngày nay Hội Thánh cho phép người tín hữu rước Lễ trên tay, để xác tín mình mạnh hơn ông Samson chỉ cầm hàm lừa. Kìa ông Samson đã bị kẻ thù khoét hai mắt, nhưng nhờ cầu nguyện, Chúa cho ông sức mạnh bứt tung xiềng xích đang cùm trói, rồi ông cầm lấy hàm lừa quại chết hàng ngàn kẻ thù, giải phóng cho dân tộc (x Tp/Qa 15,15).
Chỉ ai tin nhận Chúa Giêsu Phục Sinh, đặc biệt trong Thánh Lễ, người ấy mới bảo đảm được ơn cứu độ cũng như khi Chúa Giêsu gọi chính tên Maria, bà quay lại và thưa: “Rabbuni” (Sư Phụ), tiếng Do Thái là “lạy Thầy” (x Ga 20,15-16: Tin Mừng). sự việc Chúa Giêsu gọi tên bà Maria làm ứng nghiệm Lời Thánh Kinh: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, Ta đã gọi bằng chính tên ngươi, ngươi đã trở thành dân riêng của Ta” (Is 43,1b).
Vậy ta muốn được tình yêu Đức Kitô thúc bách để sống như thánh Phaolô và bà Maria Madalena, hầu tập họp nhiều người về cho Chúa, thì ta phải năng dự Phụng Vụ cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài là Chúa con thờ, linh hồn con khao khát Chúa” (Tv 63/62,2: Đáp ca).
WHĐ (11.06.2016) – Với quyết định nâng bậc lễ Thánh Maria Mađalêna (ngày 22 tháng Bảy) thành “lễ kính”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh nữ như là “Tông đồ của các Tông đồ”.
Trong lịch phụng vụ Giáo hội hiện nay, các Thánh được mừng theo ba bậc lễ: lễ nhớ (buộc hay tự do), lễ kính, hay lễ trọng. Từ nay lễ Thánh Maria Mađalêna sẽ có cùng bậc lễ với Lễ của các Thánh Tông đồ.
Qua một bức thư thông báo việc thay đổi này -quy định trong Sắc lệnh ký ngày 03 tháng Sáu 2016, nhằm ngày Lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu-, Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự thánh và Kỷ luật các Bí tích, viết: quyết định trên đây muốn nói rằng chúng ta “phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá của phụ nữ, về Tân Phúc âm hoá, và về sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa thương xót”.
Thánh Maria Mađalêna là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa sống lại, và là người loan báo tin mừng ấy cho các Tông đồ.
Đức Tổng giám mục Arthur Roche viết: “Thánh Maria Mađalêna là một gương mẫu của việc Phúc âm hoá đích thực; Thánh nữ là một nhà rao giảng đã loan báo tin vui Phục sinh”.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa ra ngay trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương xót để nói lên tầm quan trọng của Thánh nữ – là người đã bày tỏ tình yêu lớn lao đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến nhiều”.
Ngài cũng nhắc lại rằng Thánh Mađalêna đã được Thánh Tôma Aquinô gọi là “Tông đồ của các Tông đồ” (Apostolorum Apostola), vì Thánh nữ đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
“Vì thế ngày lễ Thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các Thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Roma, để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của Thánh nữ – một tấm gương và hình mẫu cho mỗi người phụ nữ trong Giáo hội.
Thánh nữ Maria Mađalêna quê ở Magđala, gần biển hồ Galilêa. Thánh nữ bị quỷ ám cho tới khi Đức Chúa Giêsu đến trừ quỷ cho. Sau đó, Maria Mađalêna đi theo Đức Chúa Giêsu làm môn đệ và là một trong những phụ nữ thánh thiện đã giúp đỡ Chúa Giêsu và các tông đồ.
Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, thánh nữ Maria Mađalêna đã đứng dưới chân thập giá. Ngài ở đó cùng với Đức Maria và thánh Gioan, không sợ nguy hiểm gì! Tất cả những điều thánh nữ có thể nghĩ tưởng lúc ấy là: Thiên Chúa của tôi đang phải chịu đau khổ!
Sau khi thân xác Đức Chúa Giêsu được mai táng, Maria Mađalêna đã đến mồ Chúa ngay từ sáng sớm ngày Chúa phục sinh. Thánh nữ rất đỗi bàng hoàng khi nhìn thấy tảng đá to được lăn ra và ngôi mộ trống rỗng. Maria Mađalêna đã vội chạy đi báo tin cho Phêrô và Gioan: “Họ đã lấy mất xác Thầy và tôi không biết họ đã đặt Người ở đâu!” Phêrô và Gioan liền vội vã chạy tới mồ và nhận thấy mọi sự thật đúng như lời Maria Mađalêna đã nói. Rồi Maria Mađalêna ở lại bên mộ sau khi Phêrô và Gioan về nhà. Và Maria Mađalêna bắt đầu khóc! Đột nhiên, Maria Mađalêna thấy một người đàn ông mà ngài tưởng là người làm vườn. Maria Mađalêna liền hỏi người ấy xem có biết nơi để xác Thầy yêu quý của mình không. Và người đàn ông nói bằng một giọng mà Maria Mađalêna nghe rất quen: “Maria!” Và đó chính là Đức Chúa Giêsu, đang đứng ngay trước mặt thánh nữ! Chúa đã sống lại từ cõi chết! Maria Mađalêna liền quỳ phục xuống dưới chân Chúa Giêsu và kêu lên: “Lạy Thầy!”
Các thánh ký cho chúng ta biết Maria Mađalêna đã được Chúa Giêsu sai đi loan báo Tin mừng phục sinh cho Phêrô và các tông đồ. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, lễ mừng kính thánh nữ Maria Mađalêna được cử hành cách long trọng y như lễ kính các thánh tông đồ.
Thánh nữ Maria Mađalêna là người đầu tiên được xem thấy Đức Chúa Giêsu phục sinh và là người đầu tiên đem Tin mừng phục sinh đến cho các tông đồ. Thánh nữ có thể giúp chúng ta loan báo cũng Tin mừng ấy qua việc sống cuộc đời vui tươi và đầy lòng tin tưởng.
Vẽ lại chân dung đích thực của Thánh Nữ Maria Mađalêna 2000 năm về trước quả là một chuyện khó khăn. Tuy nhiên, thiết nghĩ cách hay nhất là chúng tôi sẽ cố gắng dựa vào Thánh Kinh và các tài liệu hiện có để tìm cách giải đáp một số thắc mắc căn bản và trình bày một vài truyền thuyết khả tín liên quan đến những năm tháng cuối đời của Thánh Nữ.
Mađalêna có phải là người đàn bà ngoại tình không?
Phúc âm Thánh Gioan viết: “Lúc đó các luật sĩ và biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa rồi nói với Người: Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang ngoại tình. Theo luật Môi-sen chúng tôi phải ném đá người đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:3-5). Và chúng ta biết được kết cuộc là Chúa Giêsu đã cứu bà thoát chết, tha thứ tội lỗi cho bà và căn dặn: “Thôi, chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.” (Ga 8:11). Người đàn bà vô danh đó ra về và các Phúc âm không hề nhắc đến bà nữa. Câu chuyện nầy xảy ra ở vùng đền thờ Giêrusalem.
Riêng về Maria Mađalêna, Phúc âm ghi rõ bà là em của Martha và là chị của Lazarô, quê ở tỉnh Mađala trong miền Galilê, thuộc gia đình khá giả, rất xinh đẹp, tóc dài và quăn, là người được Chúa yêu thương đến nỗi người chị là Martha phải ganh tị và có lần đã phân trần với Chúa Giêsu khi Ngài đến thăm (Lc 10:38-42). Lúc còn thanh xuân, bà bị “quỷ ám”, có những hành động thiếu tự chủ, và vì thế về sau bà phải thống hối để chuộc lại lỗi lầm. “Mađalêna là người được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16:9). Và, “Cùng đi với Người có nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Maria gọi là Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ...” (Lc 8:1-2). Phúc âm không ghi rõ bảy quỷ đó là những quỷ nào nhưng chắc chắn không có quỷ ngoại tình. Lý do giản dị là từ Galilê thuộc miền cực bắc Do-thái đi về thủ phủ Giêrusalem ở tận miền nam, phải trải qua một đoạn đường bộ chằng chịt đồi núi và sa mạc, dài hằng trăm cây số. Với phương tiện giao thông thô sơ cách đây 2000 năm, thiết nghĩ chẳng có cô gái 16, 17 nào như Mađalêna lại có hứng thú lặn lội đường xa về thủ đô để ngoại tình và để bị bắt quả tang !
Có một điều đích xác là sau khi được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, Mađalêna đã hối cải và tỏ lòng yêu thương cảm kích vô cùng đối với Đấng đã cứu vớt mình. Bà đã dùng nước mắt rửa chân cho Ngài, lấy tóc lau khô chân Ngài và dùng bình ngọc đựng dầu thơm xức chân cho Ngài. Đáp lại, Chúa Giêsu cũng bày tỏ lòng yêu thương quý mến đối với bà và dành cho bà những đặc ân như sẽ thấy ở phần sau.
Mấy vấn đề chung quanh Maria Mađalêna
Vấn đề 1 – Sự lầm lẫn giữa các bà mang tên Maria.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội sơ khai, cũng có rất nhiều tin được tung ra để làm hại phẩm giá của người phụ nữ được Chúa yêu thương nầy. Bà là người hăng hái đóng góp của cải để nuôi các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu về trời, là người hăng say kể lại những điều mắt thấy tai nghe về Chúa Giêsu, về những lời giảng dạy của Ngài. Điều nầy cũng làm nẩy sinh nhiều đố kỵ kể cả nơi một số môn đệ nam giới. Lại nữa, theo thói quen của người Do-thái thời bấy giờ, các Phúc âm ít khi nói đến họ của các bà, chỉ gọi tên mà thôi, mà gọi tên thì chúng ta thấy có ít ra là bốn bà mang tên Maria, kể cả Đức Mẹ Maria.
Bà Maria ở Bêthania gần thủ phủ Giêrusalem được gọi là người tội lỗi, phải chăng bà là người phụ nữ ngoại tình đã nói ở trên?
Ngay cả Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, năm 591, cũng có sự lầm lẫn giữa các bà mang tên Maria nầy khi nói về Thánh Nữ Maria Mađalêna, cho rằng Thánh Nữ là người tội lỗi ở Bêthania.
Vấn đề 2 – Có cuốn Phúc Âm mà tác giả Maria Mađalêna không?
Vào những thế kỷ đầu, cũng nghe nói tới Phúc âm do Mađalêna viết. Tuy nhiên ngay từ năm 180, thánh Iraneus đã bài bác về những cuốn Phúc Âm cho là ngụy thư như Phúc Âm của thánh Tôma, Phúc Âm của Thánh Philipê, và Phúc Âm của Juđa cũng như Phúc Âm của Maria Mađalêna. Những Phúc Âm này không được Giáo Hội liệt kê vào Sổ Bộ Thánh Kihnh Tân Ước.
Tuy nhiên, lại cũng có người cho rằng Phúc âm của Thánh Gioan, tác giả chính là Maria Međalêna, vì Thánh Gioan không bao giờ nhắc đến tên mình, chỉ ghi là do người môn đệ Chúa yêu viết.
Giáo hội không hề bao giờ công nhận Maria Mađalêna là tác giả Phúc âm thứ Tư.
Vấn đề 3 – Có gì bí ẩn của bức họa Bữa Tiệc Ly không?
Họa sư Leonardo da Vinci vẽ bức họa nổi tiếng Bữa Tiệc Ly vào năm 1495, trên đó người môn đệ ngồi bên phải Chúa Giêsu lại rất trẻ, không râu, tóc dài và quăn. Nhìn vào bức họa, chúng ta ngay tình nhận ra người môn đệ đó chính là Thánh Gioan. Nhưng không, một số các nhà khảo cứu và rất đông người thuộc phái sùng bái Mađalêna đã cho rằng người môn đệ đó chính là Mađalêna. Và như thế, nhóm người đó quả quyết rằng trong số 12 Tông đồ khởi thủy, đã có một Tông đồ nữ. Điều quả quyết của họ mang lại một vấn đề nghiêm trọng khác: Nếu đã có một Tông đồ nữ, tại sao nữ giới lại không thể làm Linh mục ? Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi nhóm chủ trương Tông đồ nữ cho rằng khi vẽ bức danh họa Bữa Tiệc Ly, da Vinci đã có ẩn ý vẽ người môn đệ Chúa yêu là một môn đệ phái nữ, cho đó là một bí ẩn (code) mà họ quyết tâm khám phá cho bằng được. Nhiều cuốn sách đã được viết do các nhà khảo cứu nổi tiếng, và có tác giả hoan hỉ tri hô lên là đã giải mã được bí ẩn nầy rồi ! Sau đây là những điểm họ căn cứ vào để đoan chắc rằng người môn đệ Chúa yêu trong tranh chính là Mađalêna:
1) Mađalêna được gọi là người phụ nữ Chúa yêu thương vì thế không lý do gì lại thiếu mặt bà trong bữa ăn từ giã của Chúa. Chắc chắn bà đã xức dầu thơm lên đầu, mình và chân Chúa như bà vẫn thường làm. Và vì được Chúa yêu thương nên bà phải được ngồi ở vị trí quan trọng là phía bên phải, sát ngay bên Chúa Giêsu.
2) Tiếng mađala trong thổ ngữ vùng Galilê thời đó (talmudic) còn có nghĩa là cô gái có tóc quăn. Người môn đệ trong bức họa lại có tóc dài và quăn. Họ nói đích thị da Vinci cố tình vẽ Thành Nữ Mađalêna rồi, vừa trẻ, vừa có tóc quăn, lại ngồi ngay bên phải Chúa !
Thực ra, đây toàn là những điều suy diễn gượng ép cố tình áp đặt lên Thánh Nữ với dụng ý dùng ngài làm cớ để mong làm xáo trộn một số giáo huấn của Chúa Giêsu cũng như của Giáo hội, nhất là về thiên chức Linh mục. Phong trào đòi hỏi Giáo hội phải truyền chức Linh mục cho nữ giới trở nên rầm rộ, nhất là sau khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, năm 1995, lên tiếng khẳng định việc “Thánh Kinh ghi rõ Chúa Kitô đã chọn các Tông đồ trong nam giới”, và không chấp nhận cho nữ giới làm Linh mục. Tại Mỹ, ồn ào nhất vẫn là nhóm Ellen Turner ở San Jose, gồm khoảng 30 người đến từ khắp nơi kể cả Oakland. Họ tự nhận là phái Tân Mađalêna (Neo-Magdalenites), tụ họp với nhau vào mỗi buổi chiều ở khu vườn sau nhà, hướng về phía mặt trời lặn mà ca hát, đọc các đoạn Phúc âm nói về Mađalêna, giảng thuyết về Mađalêna, rồi truyền phép bánh rượu và phân phát cho các người tham dự, y hệt như các nghi thức trong Thánh lễ. Ellen tự nhận là người tiếp nối chức Linh mục của Thánh Nữ Mađalêna !
Chúng ta không lạ gì mỗi khi có trận hỏa mù được tung lên, thế nào cũng lôi cuốn được vài con nhạn la đà vô tình hay cố ý chạy theo để cho có người tung kẻ hứng nhịp nhàng và ồn ào dù biết rằng những đòi hỏi quái gở của họ đã và sẽ không bao giờ được Giáo hội chấp nhận.
Những đặc ân Chúa dành cho Thánh Nữ Mađalêna
Phải nói, trong số những người phụ nữ được nhắc đến trong các Phúc âm, ngoại trừ Đức Mẹ Maria, bà Maria Mađalêna là người được Chúa Giêsu dành cho những đặc ân cao quý mà chính một số các Tông đồ cũng phải trầm trồ suy bì. Không kể những gì vì tình yêu và lòng biết ơn mà bà đã làm cho Chúa Giêsu và Chúa đã đáp lại trong suốt thời gian Ngài đi đó đây giảng dạy dân Do-thái, sau đây là một số những đặc ân bà đã nhận được:
1. Bà là người, tuy Phúc âm không nói rõ tên, chắc chắn đã cùng với Mẹ Maria âm thầm lần bước theo các chặng đường tử nạn của Chúa Giêsu, bất chấp những khó khăn nguy hiểm có thể xảy ra cho bản thân bà.
2. Trên đỉnh đồi Golgotha, bà đã cùng Mẹ Maria đau đớn chứng kiến những cực hình mà Chúa Giêsu cam chịu, bị xua đuổi, bị sỉ nhục và cuối cùng chứng kiến cái chết thê lương của Ngài trên thập giá.
3. Bà đã có mặt trong khi thân xác nhuộm máu của Chúa Giêsu được tháo từ thập giá xuống, và chứng kiến việc táng xác Ngài trong ngôi mộ đá mới.
4. Hơn hết, bà là một trong số các phụ nữ nhanh chân chạy đến viếng mộ Chúa vào ngày đầu tuần, là người đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh hiện đến, chuyện trò và được Ngài căn dặn phải đi thông truyền Tin mừng Sống lại cho các môn đệ của Ngài (Mc 16:9-11 và Ga 20:11-18). Bản văn In Touch Ministries viết: “Maria là người đầu tiên được nhìn thấy Chúa phục sinh, một phần thưởng vô giá mà bà nhận được do lòng yêu mến không hề lung lay của bà.”
Năm tháng cuối đời của Thánh Nữ Maria Mađalêna
Theo truyền thuyết và chứng từ đáng tin cậy từ các tín hữu thời sơ khai thì sau khi Chúa Giêsu về trời, Thánh Nữ Mađalêna đã gom hết gia sản của mình để nuôi dưỡng các Tông đồ trong những ngày các ông sống ẩn dật để cầu nguyện và trông chờ Chúa Thánh Thần hiện đến. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi vắn tắt: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Ngài.” (Cv 1:14). Và sau đó, cùng với các ông, Thánh Nữ đã lớn tiếng loan truyền những điều bà đã được nghe, được thấy, được chứng kiến nơi Chúa Giêsu trong suốt thời gian bà quen biết và đi theo Ngài.
Các nhà nghiên cứu Thánh kinh nêu lên hai truyền thuyết có phần khả tín hơn kém về những năm cuối đời của Thánh Nữ Maria Mađalêna, như sau:
1) Giáo hội Chính Thống Hy-lạp tin rằng Thánh Nữ đã cùng với Đức Mẹ Maria dời nơi cư ngụ về thành Êphêsô rồi qua đời tại đó. Năm 886 hài cốt của Thánh Nữ được chuyển về mai táng tại thành Constantinople. Truyền thuyết nầy ít được phổ cập.
2) Truyền thuyết khác nói rằng 14 năm sau khi Chúa Giêsu về trời, một số người Do-thái vẫn còn căm tức những người đã theo Chúa Giêsu, bèn bắt Thánh Nữ cùng với chị là Martha và em là Lazarô, người đầy tớ gái là Sara và xác của Bà Thánh Anna (Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria), tất cả bỏ lên một chiếc thuyền con không có mái chèo, thả cho trôi lênh đênh trên biển cả. Thuyền may mắn tấp vào bờ biển miền nam nước Pháp. Tại đây, sau khi đã rao truyền Tin Mừng cho khắp các miền Marseilles và Provence, Thánh Nữ lui về sống biệt cư trong hang động La Sainte-Baume suốt 30 năm trời, hằng ngày có Thiên thần mang Mình Thánh đến làm lương thực duy nhất nuôi dưỡng bà. Bà qua đời năm 72 tuổi, nhưng lúc còn hấp hối, Thánh Nữ được các Thiên thần đưa về nhà nguyện Saint Maxim, ở đó Thánh Nữ được Đức Giám mục sở tại ban các phép bí tích cuối đời và tắt thở. Sau nhiều lần xác Thánh Nữ được phân tán nhỏ để dễ di chuyển vì các biến cố thời cuộc mang tính cách bạo động của nước Pháp, năm 1822 chỉ còn lại xương sọ của Thánh Nữ được trang trọng đặt trong hòm kiếng tại nhà thờ La Sainte-Baume (được xây cất chính nơi hang động Thánh Nữ đã sống biệt cư) để khách hành hương mộ mến Thánh Nữ đến kính viếng.
Nhận chân được công nghiệp cao cả của Thánh Nữ, một người đã được chính Chúa Giêsu yêu thương, một người đã góp phần không nhỏ trong việc rao truyền Lời Chúa và xây dựng các Cộng đoàn tín hữu thời sơ khai, Giáo hội đã tôn phong Maria Mađalêna lên hàng các Thánh tiên khởi và đặt ngài làm Quan thầy của rất nhiều Hội đoàn và Giáo xứ trên toàn thế giới.
Lễ kính Thánh Nữ được long trọng cử hành hàng năm vào ngày 22 tháng Bảy.
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la mà chúng ta mừng kính hôm nay, sinh ra tại Mác-đa-la, gần biển hồ Ga-li-lê. Mặc dầu từ thế kỷ thứ VI, Giáo hội Tây Phương thường đồng hóa tên của Ngài với một số phụ nữ có tên Ma-ri-a trong Kinh Thánh. Nhưng thực sự Ngài không phải là Ma-ri-a người chị em với Mát-ta và La-za-rô (x. Lc 10,39.42), cũng không phải là người phụ nữ vô danh xức dầu cho Đức Giêsu tại Bê-ta-ni-a mà các sách Tin mừng kể lại (x. Mc 14,3-9; Mt 26, 6-13; Ga 12, 1-8). Ngài không phải là người phụ nữ tội lỗi”đã được tha thứ nhiều nên yêu mến nhiều” trong Tin mừng theo Thánh Luca (x.7,36-50), và càng không phải là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,2-11).
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã được Đức Giêsu trừ cho khỏi 7 qủy (Lc 8,2). Sự việc này không có nghĩa Ngài là người phụ nữ có quá khứ tội lỗi, nhưng chúng ta chỉ có quyền hiểu vì Ngài bị qủy ám. Đây là biến cố hết sức quan trọng trong cuộc đời của Ngài. Vì sau khi được Đức Giêsu chữa lành, Thánh Nhân đã đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu. Ngài có mặt trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Ngài đã lấy của cải mình có để giúp Chúa và các môn đệ trong công việc loan báo Tin mừng. Thánh Luca kể lại:”Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (Lc 8,1-3).
Trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, hầu hết các Tông đồ bỏ trốn thì chính Ngài đã trung thành theo Đức Giêsu mãi tới đồi Can-vê, cùng với Đức Maria và Thánh Gioan đứng gần bên Thập Giá Đức Giêsu (x. Mc 15, 40-41). Không những thế, Ngài còn có mặt khi Đức Giêsu được người ta an táng trong hang đá.
Đặc biệt, theo Tin mừng thì Ngài là người đầu tiên gặp được Đức Giêsu phục sinh (x. Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Vì sao Ngài lại được vinh dự đó? Có lẽ nhờ lòng yêu mến và nhiệt thành của Ngài đối với Đức Giêsu.
Tin mừng hôm nay kể lại rằng:”Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ”(Ga 20,1). Ngài nhìn vào trong mộ không thấy xác Đức Giêsu đâu, nên Ngài khóc (x. Ga 20,11). Lúc đó, Đức Giêsu hiện ra với Ngài và gọi chính tên Ngài. Rồi, Đức Giêsu nhắn nhủ Ngài đi báo cho các Tông đồ biết là Người đã sống lại. Ngài đã đi và báo với các môn đệ rằng: Tôi đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với Ngài (x. Ga 20,15-18).
Theo truyền thống Hy Lạp, Thánh Nữ Ma-ri-a Mác-đa-la sống quảng đời cuối cùng ở Êphêsô và qua đời tại đó.
Qua một số chi tiết liên quan đến cuộc đời của thánh Ma-ri-a Mác-đa-la chúng ta có thể rút là những bài học sau đây:
Thứ nhất, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là một người phụ nữ quảng đại, đã góp công, góp của để giúp Đức Giêsu và các môn đệ trên con đường truyền giáo. Mỗi người chúng ta cần phải có lòng quảng đại giúp đỡ không chỉ trong công việc xây dựng các công trình vật chất của giáo xứ, giáo phận, mà còn đóng góp công của để giúp đỡ các hoạt động truyền giáo của Giáo hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Thứ hai, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là người phụ nữ can đảm và trung thành. Ngài không chỉ theo Chúa khi Người rao giảng, làm phép lạ, được dân chúng tung hô mà Ngài còn trung thành ở bên cạnh Chúa trên con đường khổ giá. Cụ thể khi Ngài đứng bên Thập giá lúc Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng. Khi mọi người đang an giấc thì chính Ngài đã chạy ra mộ để xức thêm dầu thơm cho Thầy mình. Mỗi người chúng ta cũng hãy noi gương Thánh Nhân biết can đảm theo Chúa nhất là những lúc gặp gian nan, đau khổ và gánh nặng cuộc đời, vì”Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” (Mt 16,24).
Thứ ba, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã trở thành người đầu tiên loan báo Tin mừng phục sinh. Thần học gia Augustine, Chính thống giáo, thế kỷ IV đã gọi Ngài là:”Tông đồ đối với các Tông đồ”. Tiếp tục sứ mạng của Thánh nhân và các Tông đồ, mỗi người chúng ta cũng hãy cố gắng loan báo Tin mừng phục sinh bằng lời nói, qua các phương tiện truyền thông, qua đời sống cầu nguyện và đặc biệt là bằng đời sống chứng nhân…
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la, xin cho mỗi người chúng con biết luôn trung thành với Chúa, can đảm trước những thử thách gian nan, nhất là nhiệt tâm trong việc loan báo Tin mừng Phục Sinh. Amen.
Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đấng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp”thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ, là người nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên”Maria” buổi sáng phục sinh.
Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Ngang qua kinh nghiệm của thánh Maria Madalena, xin Chúa ban cho mỗi chúng ta biết cảm nhận được mình tội lỗi để thật lòng sám hối. Đồng thời cũng biết cảm nghiệm sâu xa tình Chúa thương ta vô bờ để chúng ta biết tin tưởng cậy trông vào ơn tha thứ đến từ Thiên Chúa.
“Chúa ở cạnh tôi, nhưng nhiều khi tôi lãng quên người. Chúa ở cạnh tôi, nhưng mà sao nghe quá xa xôi. Chúa ở cạnh tôi, nhưng rồi tôi bưng mắt làm ngơ. Nhưng rồi tôi quay gót thờ ơ.” (Chúa ở cạnh tôi – Hoài Công)
hững lời hát trên như đang đánh động lòng ta rằng đã bao lần ta làm ngơ trước mặt Chúa, Chúa chờ ta nhưng ta lại bận rộn với những nhu cầu của bản thân, dẫu trên môi miệng đều có thể nói: “Chúa ở cùng ta mọi phút giây trong đời.”
Trở lại với bài đọc trên, ta thấy bà Thánh Maria Madalena trong nỗi đau sau khi chứng kiến Chúa chịu đóng đinh và thấy ngôi mộ của Thầy bỏ trống, bà đã không thấy được Chúa sống lại và đang đứng trước mặt mình. Nhưng lời gọi thân thương của Chúa như để phá tan nỗi sầu của bà”Maria”. Bạn ơi, có bao giờ bạn nghĩ rằng Chúa yêu ta bằng cách gọi tên ta trìu mến không?
“Này ông Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,1-19)
“Sa-un, Sa-un, sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv9, 4)
“Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước ‘Samuel! Samuel’ (1Sm 3,10)
Và bằng cách ấy ta nhận ra Ngài, ta được trở về với Ngài và trở nên khí cụ của Ngài.
‘‘Tôi đã thấy Chúa”, lời của thánh nữ với các tông đồ cũng là thông điệp cần thiết cho mọi Kitô hữu. Song, thông điệp sẽ chẳng nên toàn vẹn nếu ta không nhận biết Ngài hiện diện trong cuộc đời. Ta chỉ biết nói về Ngài nhưng sao lại không muốn gặp Ngài?
Trong xác tín rằng Thiên Chúa đã chết, chiến thắng tử thần, và sống lại (Ep 1,18), ta thấy được tình yêu của Ngài và vinh quang muôn đời Ngài muốn chia sẻ với ta; cách riêng là qua bài đọc hôm nay, cũng như qua lời khẳng định của thánh Phêrô: ”Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1Pr 1,8-9)
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho con vì con đã nhiều lần hờ hững với Ngài và lãng quên lời Ngài dạy trong Tin Mừng. Xin giúp con nhận biết Ngài qua Tin Mừng, qua mọi thụ tạo chung quanh, và qua cách Ngài gọi tên con. Amen!
Lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Mađalêna như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Lazarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục sinh.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ nhớ Thánh Maria Mađalêna. Khi nhắc đến người phụ nữ này, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến người đàn bà tội lỗi. Người phụ nữ đã được Chúa Giê-su cứu thoát khỏi tay những người muốn ném đá cô.
Tuy tội lỗi nhưng cô đã ăn năn hối cải. Sau khi hoán cải cô đã trở nên người tông đồ nhiệt thành của Chúa. Maria đã cùng đồng hành với chúa trên con đường rao giảng Tin Mừng; theo sát chân Chúa đến đồi Can-vê. Một Maria tội lỗi suốt ngày chỉ ở trong bóng tối, giờ đây đã được Chúa giải thoát mang cô ra ánh sáng. Đó chính là ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên cô.
Tin Mừng theo thánh Gioan vừa nhắc đến Thánh nữ Maria Mađalêna, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay. Bà là người nữ được diễm phúc gặp Chúa Giêsu phục sinh đầu tiên. Khi gặp được Chúa, bà vui sướng reo mừng, bà đi báo cho các môn đệ rằng : "Tôi đã thấy Chúa". Rồi bà kể lại cho các ông những điều Chúa đã nói với bà. Tuy nhiên thật tiếc thay, bà Maria Mađalêna đã không nhận ra được Chúa phục sinh, ngay từ phút giây đầu tiên khi Chúa xuất hiện trước mặt bà. Chúa đứng đó nhưng bà đã không nhận ra Chúa, mà phải trải qua một tiến trình với nhiều dấu hiệu, đến khi Chúa gọi tên bà, lúc ấy bà mới nhận ra Chúa.
Chúng ta tự hỏi, điều gì đã ngăn cản cản bà Maria Mađalêna không nhận ra Chúa ngay từ phút đầu tiên ấy. Thánh Gioan cho chúng ta thấy qua các dấu hiệu :
Bà Maria Mađalêna đến mộ từ sáng sớm, bà thấy dấu hiệu đầu tiên đó là “tảng đá lăn khỏi mộ”, bà không còn thấy Chúa. Với suy nghĩ của loài người, bà chỉ nghĩ được rằng "Người ta đem Chúa đi khỏi mộ và các bà chẳng biết họ để Người ở đâu ?” Bà không đủ sáng suốt để nghĩ về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành bà khỏi bảy quỷ, giờ đây hẳn Ngài thực hiện quyền năng của Ngài như đã báo trước. Bà tối tăm sầu buồn đến nỗi đâu còn nhớ Chúa có đủ quyền năng, làm cho đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim cũng như Lazaro chết chôn trong mồ được sống lại. Bà chỉ suy nghĩ và lý giải theo cách hiểu, cách nhìn rất trần thế của bà. Tảng đá được lăn ra, mồ trống, nghĩa là Người ta đem Chúa đi. Với lối suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách suy luận của con người, thật khó để nhận ra Chúa.
Khi bà Maria Mađalêna đến mộ lần thứ hai cùng với hai môn đệ, bà không thấy mọi sự diễn ra như bà suy tính, bà buồn rồi khóc. Bỗng bà thấy dấu hiệu nữa là : hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên Thần hỏi “sao bà khóc”. Thấy Thiên Thần, vậy mà bà chưa mở lòng để suy nghĩ thêm : Thiên Thần đâu dễ xuất hiện trong cuộc sống đời thường, phải có điều gì đó rất đặc biệt Thiên Thần mới xuất hiện chứ ? Rồi bà vẫn trả lời một câu y như lần trước, một câu nói như đã lập trình sẵn trong suy nghĩ kiểu loài người của bà. Bà nói với Thiên Thần : "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !". Với lối suy tính và chờ mong mọi sự diễn ra theo ý mình, mà không chịu mở lòng ra với các dấu hiệu Chúa gởi đến trong cuộc đời, chắc hẳn sẽ không nhận ra Chúa.
Và rồi, khi thấy dấu hiệu là chính Chúa Giêsu đứng đó. Chúa Giêsu nói với bà : "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?" Bà đang vẽ ra trong đầu suy nghĩ của mình về Thiên Chúa. Nên bà tưởng Chúa là người làm vườn, liền nói : "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về". Bà cứ mải miết bám vào các dữ liệu trần thế theo cách nhìn của bà, rằng đã có ai đó lấy xác Chúa. Giờ đây bà thấy ông này dáng vẻ người làm vườn, với suy nghĩ không đổi bà trả lời cũng vẫn bằng một câu trả lời không thay đổi, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết... Với lối tưởng tượng và suy đoán theo cách của con người, làm sao có thể nhận ra Chúa.
Sau khi Chúa về Trời, Mađalêna vốn tiếp tục sống cuộc đời thánh thiện. Cùng với các tông đồ, và cùng với hai anh chị em là Lazarô và Matta, bà tích cực tham gia mở mang nước Chúa. Không ai được biết bà tạ thế ngày nào, nhưng theo một truyền thuyết đông phương đáng tin cậy thì ông Lazarô đã tạ thế tại đảo Chyprô vào năm 899, di hài ngài được cải táng về Constantinôpôli. Còn xác thánh Mađalêna khi tạ thế đã được mai táng tại Êphêsô, đến thế kỷ thứ VI cũng được di chuyển về Contantinôpôlị
Kính xin thánh nữ Maria Mađalêna cầu cho chúng ta nhất là những ai đã chọn ngài làm thánh bổn mạng, được theo gương ngài mà ăn năn thống hối tội xưa, đồng thời quyết một lòng sắt đá bước theo Chúa Giêsu vì Ngài là chân lý, sự sống, và là đường dẫn nhân loại tới hạnh phúc vô biên.
Những ngày Chúa chịu chết là những ngày thánh nữ Maria Madalena đau khổ nhất, buồn thảm nhất. Vì thế mà có lẽ thánh nữ khóc rất nhiều, bởi vì thánh nữ quá yêu mến Chúa, và yêu mến Chúa một cách nồng nàn. Và cũng bởi vì quá yêu mến Chúa nên sáng sớm ngày đầu tuần khi trời còn tối, thánh nữ đã vội vàng ra mộ Chúa và không thấy xác Chúa. Thánh nữ chạy về báo tin cho thánh Phêrô và môn đệ khác được Chúa yêu mến biết điều này để xem thánh Phêrô và môn đệ được Chúa yêu có biết không. Nhưng hai môn đệ này cũng không biết gì cả, và rồi thánh nữ lại tiếp tục ra mộ Chúa, đứng gần mộ Chúa mà than khóc. Thánh nữ khóc vì: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?” (Ga 20, 13).
Vì nỗi đau mất Chúa quá lớn, cho nên thánh nữ đã khóc, và những dòng lệ chảy ra ở hai gò má trên gương mặt thẫn thờ, nó như tấm màn che đôi mắt để rồi thánh nữ không nhận ra Chúa5. phục sinh đang đứng bên cạnh thánh nữ. Chúa lên tiếng hỏi: “Bà kia, sao bà khóc, bà tìm ai?” (Ga 20, 15). Tiếng nói ngày nào của Chúa trước đây thân tình như vậy mà thánh nữ cũng không nhận ra Chúa mà tưởng là người giữ vườn, nên thánh nữ mới nói: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người” (Ga 20, 15b). Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm duy nhất lúc này đây của thánh nữ là biết "Xác Chúa ở đâu để đi lấy Chúa về mà thôi" chứ thánh nữ dường như chưa hiểu cái chết của Chúa đã qua rồi, cơn mưa đã qua rồi, còn bây giờ trời đã sáng, là sự phục sinh của Chúa. Hiện tại là nỗi đau, nước mắt, tìm xác Chúa hòa quyện nhau trong suy nghĩ, trong trái tim thánh nữ, chưa có câu trả lời, thì lại là chính lúc đó Chúa gọi tên thánh nữ: “Maria” (Ga 20, 16). Tiếng gọi trìu mến như ngày xưa của Chúa đối với thánh nữ đã giúp thánh nữ vượt qua nỗi đau tột cùng với những dòng lệ để rồi thánh nữ nhận ra Chúa, và quay hướng nhìn về Chúa chứ không nhìn theo hướng tự nhiên, bản năng của thánh nữ như vừa rồi nữa. Lúc này thánh nữ vui mừng vì biết Chúa đã sống lại, và thánh nữ thưa lên với Chúa: “Lạy Thầy” (Ga 20, 16). Niềm vui thấy Chúa sống lại quá lớn. Nỗi đau, nước mắt không còn nữa. Chúa đã lau khô dòng lệ, cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân (xIs 25, 6 – 10a), và giao cho thánh nữ sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các tông đồ của Chúa. Thánh nữ là người thứ nhất thực hiện sứ mạng cao quý này. Thánh nữ đã thực hiện liền ngay, không chần chừ, do dự, khoan giản. Thánh nữ đi báo tin cho các tông đồ biết: “Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy” (Ga 20, 18).
Lạy Chúa, xin Chúa đừng để những đau khổ về tinh thần, thể xác bởi những bệnh hoạn tật nguyền, thất bại, chia ly, chết chóc… này làm chúng con gục ngã, không còn nhận ra Chúa nữa, mà xuyên qua những điều đó, xin cho chúng con nhận ra Chúa đang ở với chúng con để chúng con tiếp tục sống và loan báo Tin Mừng Chúa phục sinh cho anh chị em chúng con, nhờ đó khơi lên niềm tin vào sự sống vĩnh cửu cho anh chị em chúng con. Amen.