Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-200 Vâng lời Thầy con xin thả lưới

Thứ hai - 06/05/2019 07:59
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-200 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-200 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C: Bài 151-200 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
---------------------------------
Mục Lục:

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}. 2
PS 3-C151: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.. 3
PS 3-C152: Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã hứa. 6
PS 3-C153: ĐAU KHỔ VÌ CHÚA.. 9
PS 3-C154: TIẾNG GỌI THỨ HAI 11
PS 3-C155: Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 13
PS 3-C156: Khởi hành sứ mạng với Chúa Kitô Phục Sinh. 15
PS 3-C157: Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 18
PS 3-C158: Do đâu Gioan nhận ra ngay: "Chính Chúa đó!". 20
PS 3-C159: Chúa luôn ở bên bạn khi khó khăn. 24
PS 3-C160: Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông. 25
PS 3-C161: Anh em hãy đến mà ăn. 29
PS 3-C162: Chú giải của Noel Quesson. 30
PS 3-C163: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH.. 35
PS 3-C164: MƠ ƯỚC ĐẸP. 38
PS 3-C165: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH.. 40
PS 3-C166: TÌNH YÊU MẾN.. 42
PS 3-C167: XIN CHO CON NHẬN RA CHÚA.. 44
PS 3-C168: BIỂN HỒ TIBÊRIA VÀ BA CUỘC GẶP GỠ.. 46
PS 3-C169: TÌNH THẦY TRÒ PHÊRÔ – GIÊSU VÀ GIOAN.. 49
PS 3-C170: BÀI HỌC TỪ MẺ CÁ KỲ DIỆU.. 52
PS 3-C171: YÊU NGHỀ.. 54
PS 3-C172: YÊU THẦY HƠN.. 58
PS 3-C173: GỞI GẮM YÊU THƯƠNG.. 60
PS 3-C174: NHẬN RA NGƯỜI LÚC BẺ BÁNH.. 61
PS 3-C175: TÌNH THƯƠNG CHÚA.. 63
PS 3-C176: MỂ CÁ.. 64
PS 3-C177: YÊU CHÚA.. 66
PS 3-C178: THỦ LÃNH PHÊRÔ.. 67
PS 3-C179: HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY.. 70
PS 3-C180: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH.. 77
PS 3-C181: LỜI THỀ.. 87
PS 3-C182: NIỀM VUI GẶP CHÚA.. 91
PS 3-C183: PHẢI VÂNG LỜI THIÊN CHÚA HƠN LÀ VÂNG LỜI NGƯỜI PHÀM... 93
PS 3-C184: GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.. 95
PS 3-C185: TÂM PHỤC KHẨU PHỤC.. 98
PS 3-C186: GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH.. 101
PS 3-C187: GIÁO HỘI LÀ QUÀ TẶNG VÀ LÀ TRUNG GIAN LÒNG THƯƠNG XÓT.. 102
PS 3-C188: CON CÁ VÀ CON NGƯỜI 105
PS 3-C189: TRƯỚC KHI TRUYỀN GIÁO, PHẢI BIẾT “YÊU”. 110
PS 3-C190: CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ.. 113
PS 3-C191: CÓ CHÚA ĐỒNG HÀNH.. 115
PS 3-C192: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_C.. 117
PS 3-C193: GIÁO HỘI CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT.. 119
PS 3-C194: SỰ PHỤC SINH CỦA PHÊ-RÔ.. 122
PS 3-C195: Hãy chăn dắt chiên của Thầy. 124
PS 3-C196: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 126
PS 3-C197: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 128
PS 3-C198: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 130
PS 3-C199: Luật Của Nước Trời, Luật Tình Yêu. 132
PS 3-C200: Bảo đảm cho sự chân truyền. 134

---------------------------------
 

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô,
Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".] - Ðó là lời Chúa.

--------------------------------

------------------------------

 

PS 3-C151: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT


(Cv 5, 27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-14)

M. Hiếu Liêm
 
 

Xã hội Việt Nam trong thời gian qua xảy ra rất nhiều biến động. Những biến động này được mạng PS 3-C151


Xã hội Việt Nam trong thời gian qua xảy ra rất nhiều biến động. Những biến động này được mạng truyền thông lề trái và lề phải truyền tải trái chiều và mâu thuẫn nhau. Đôi khi độc giả bị rối loạn và không biết phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả; cái gì là đúng, cái gì là sai. Ví dụ:  về sự kiện cưỡng chế vườn rau Lộc Hưng, “báo lề đảng” đều đồng loạt đưa tin, đó là đất công, còn “báo lề dân” thì trưng dẫn đầy đủ bằng chứng giấy tờ, đây là đất có nguồn gốc hợp pháp, có chủ quyền chứ không phải là đất công. Còn nói về tình trạng sức khỏe của ông tổng bí thư, kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. “Báo lề đảng” thì bưng bít, hoặc im lặng. Hoặc nếu lên tiếng thì cũng mập mờ, hoặc là nói vô thưởng vô phạt để đánh lừa dư luận. Ngược lại, “báo lề dân”, dù bị cấm đoán nhưng lại đưa tin rất nhanh, chính xác và rõ ràng. Từ đó người ta rút ra một kinh nghiệm thực tế là: sự giả dối càng phô trương thì càng phơi bày ra sự gian trá. Càng đưa tin giả dối để ép buộc, thì càng bị dư luận từ chối và chống đối. Ngược lại, sự thật càng bưng bít, càng được loan truyền. Thông tin thật càng bị cấm đoán, càng được công chúng tôn trọng và đón nhận. Những kẻ nói láo để lường gạt thì giống như con vẹt, chỉ biết hót cho hay chứ không dám chịu trách nhiệm về những điều dối trá họ đã tung ra. Còn những ai nói thật thì chẳng những dám chịu trách nhiệm về điều mình đã nói, mà con thí cả mạng sống để bảo vệ và làm chứng cho sự thật. Như vậy, họ mới xứng đáng được tôn vinh là những chứng nhân cho sự thật, tự do, công lý và công bình.

Suy niệm lời Chúa qua ba bài đọc hôm nay, chúng ta rút ra một sợi chỉ đỏ, một chủ đề nổi bật đó là: Làm chứng cho sự thật, mà sự thật ở đây là Chúa Kitô đã phục sinh. Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. Đó là một sự thật, một chân lý, một sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận hay vùi lấp đi. Vì thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu chúng ta hãy làm chứng cho sự thật này.

Trước hết, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Chúa Kitô phục sinh hiện ra với 7 môn đệ đang đánh cá tại biển hồ Galilê. Tại sao Gioan chỉ kể tên có 7 chứ không phải 11 tông đồ? Tại vì con số 7 đối với người Do thái là con số thánh, con số hoàn hảo, con số tròn đầy viên mãn. Do đó, chỉ cần 7 tông đồ làm chứng cho thầy Giêsu Phục sinh là quá trọn hảo rồi. Chúa Giêsu đã phục sinh đó là một sự thật. Ngài đã hiện ra bằng xương bằng thịt cho 7 môn đệ được biết. Ngài đã nói chuyện với các ông, cùng ăn bánh và ăn cá nướng với các ông trên bờ biển. Chúng ta ghi nhận thêm một chi tiết nữa chứng minh cho sự phục sinh của Chúa Kitô. Không phải đây là lần thứ nhất, mà là lần thứ 3 Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ. Nếu số 7 là con số hoàn hảo, thì con số 3 diễn tả sự chắc chắn: “Quá tam ba bận”. Bảy môn đệ làm chứng rằng đã có ít nhất 3 lần thầy Giêsu hiện ra, sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết. Như vậy, đây là một sự kiện lịch sử có thật, chứ không phải do các môn đệ bịa đặt hay tưởng tượng ra. Vì là một sự thật, một chân lý nên bảy môn đệ đã làm chứng với tất cả xác tín của mình. Chúa Kitô phục sinh là một Tin mừng vĩ đại, một niềm hy vọng sáng ngời, một chiến thắng vinh quang và là cánh cửa mở tung tất cả…

Tiếp theo, bài đọc 1, sách Công Vụ Tông Đồ cũng thuật lại sự kiện Phêrô và các tông đồ đã công khai làm chứng về sự sống lại của Chúa Kitô. Mặc dù bị giới chức Do thái nghiêm cấm không cho lên tiếng rao giảng về Chúa Giêsu Kitô phục sinh, và về sự thật của Người, nhưng “ông Phêrô và các tông đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,30). Vì vâng lời Thiên Chúa, nên dù bì đánh đập và ngồi tù, các môn đệ vẫn mạnh dạn làm chứng về “Danh Đức Giêsu Kitô”, Đấng đã bị trao nộp vào tay người Do thái, bị kết án tử hình thập giá, bị đóng đinh và chết ô nhục trên thập tự. Nhưng ngày thứ ba, Ngài đã phục sinh vinh hiển, và trở thành thủ lãnh, thành Đấng Cứu Độ trần gian (x. Cv 5,29-31). Vì đây là một sự thật mang tính lịch sử, nên: “Chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5,32). Như vậy, để trở thành chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các tông đồ dám liều mất mạng sống mình. Nhờ đó mà Tin mừng Phục Sinh được loan đi khắp cùng bờ cõi trái đất.

Sau cùng, qua bài đọc 2, thánh Gioan còn mở ra cho chúng ta biết, tất cả vũ trụ vạn vật, hữu hình và vô hình đều là chứng nhân của Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta hãy nghe những lời chứng mạnh mẽ hào hùng này của người môn đệ Chúa yêu: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô:

        "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
        phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
        danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc" (Kh 5,11-12).

Không những thế, thánh Gioan còn xác quyết lại một lần nữa rõ ràng hơn: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:

       "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên
       lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng
       đến muôn thuở muôn đời!"

       Bốn Con Vật thưa: "A-men." Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy” (Kh 4,13-14).

Như vậy, không phải chỉ có các môn đệ, mà cả cơ binh các thiên thần cũng làm chứng về Chúa Kitô phục sinh. Không phải chỉ có các thụ tạo ở dưới đất mà cả triều thần thiên quốc cũng thờ lạy Con Chiên và vinh quang của Người. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã chịu đau khổ và chết trên thập giá, nhưng Ngài đã phục sinh vinh hiển để trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Vì thế, toàn thể địa cầu đều thần phục suy tôn Người. Do đó, loan báo Tin mừng Phục Sinh, cũng là đem Tin Vui cứu độ cho con người.

Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa qua ba bài đọc hôm nay mời gọi người Kitô hữu hãy trở nên chứng nhân của Chúa Kitô phục sinh. Nhận ra Chúa và làm chứng về Chúa Kitô phục sinh đó là một sứ mệnh cao trọng và cũng là niềm vui hạnh phúc của người môn đệ. Các tông đồ khi xưa đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và thánh Gioan đã vui mừng thốt lên: “Chúa đó!”. Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra Chúa Kitô luôn hiện diện trong cuộc đời và trong môi trường mình sống, để chúng ta cũng sung sướng thốt lên lời mời gọi: “Chúa đó” cho mọi người! Amen.

------------------------------
 
 

PS 3-C152: Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã hứa


Chúa nhật 3 Phục sinh Năm C

Ông bà anh chị em thân mến.
 
 

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để minh chứng Ngài đã sống PS 3-C152


Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để minh chứng, để củng cố đức tin cho các ông ở hiện tại và trong tương lai, khi phải thi hành sứ mệnh làm chứng và rao giảng Tin mừng cho Chúa.  Đây là một sứ mệnh quan trọng, và Chúa biết trước rằng các ông sẽ phải đối diện với những khó khăn, thử thách và đau khổ.

Bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với 7 tông đồ ở bờ biển Ti-bê-ri-a, là Phêrô, Tôma, Natanaen, Giacôbê, Gioan và 2 người khác không rõ tên.  Chúng ta biết đa số các tông đồ của Chúa Giêsu là những người làm nghề chài lưới đánh cá. Khi được Chúa Giêsu kêu gọi, các ông đã bỏ tất cả nghề nghiệp để đi theo và sống với Người.  Các ông đã ước mong có một tương lai huy hoàng, trở thành những người quan trọng và danh vọng. Nhưng sau khi Chúa bị bắt, bị vác thập giá, sau đó bị đóng đinh và chết trên thập giá như là một tội nhân, thì mọi ước vọng tiêu tan thành mây khói.

Sau khi đến nơi như lời Chúa bảo, các ông đã rủ nhau đi đánh cá, nhưng thất bại, không bắt được gì.  Khi thuyền về gần đến bờ, thì Chúa Giêsu hiện ra nhưng các ông đã không nhận ra Chúa, có lẽ vì mệt mỏi, chán chường và thất vọng.  Sau vài câu chào hỏi, Chúa bảo các ông trở ra biển thả lưới lại.  Họ đã thả lưới suốt cả đêm mà không bắt được gì, bây giờ đang mệt mỏi, buồn ngủ và chán nản lại bảo thả lưới ở gần bờ chỗ chẳng bao giờ có cá thì hy vọng gì!  Nhưng các ông đã vâng lời làm theo lời chỉ bảo đó, và đã được một mẻ cá lớn.  Ông bà anh chị em thân mến. Đây chính là ý nghĩa, bài học quan trọng Chúa muốn dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.

Có một cha xứ thường dùng những sự kiện hay nhân vật trong bài Tin mừng để chia bài giảng thành nhiều phần. Thí dụ như trong câu truyện Đa-vít và Gô-li-át, vị linh mục đã dùng 5 hòn đá mà Đa-vít dùng để hạ Gô-li-át, để chia bài giảng thành 5 phần.  Khi giảng về dụ ngôn 3 người đầy tớ quản lý tài chánh của ông chủ đi vắng, thì vị linh mục cũng dùng 3 người đầy tớ để chia bài giảng thành 3 phần.  Vào một Chúa nhật, vị linh mục đã làm cho mọi người trong nhà thờ kinh hoàng khi tuyên bố với mọi người là sẽ chia bài giảng thành 153 phần theo số lượng cá Phê-rô và các bạn đã bắt được như bài Tin mừng hôm nay kể lại!

Thông thường, mỗi câu chuyện hay dụ ngôn trong Tin mừng có 4 ý nghĩa chính. Thứ nhất: ý nghĩa nguyên văn hay nghĩa đen; thứ hai: ý nghĩa biểu tượng hay nghĩa bóng; thứ ba: ý nghĩa chủ đích hay có ý muốn nói; và thứ tư: ý nghĩa cá nhân.

Thứ nhất, nghĩa đen của một bài Tin mừng, đơn giản là nguyên văn câu chuyện chứa đựng, diễn tả trong bài Tin mừng. Nhưng ý nghĩa của nhiều bài Tin mừng không luôn luôn rõ ràng.  Tuy nhiên ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay thật rõ ràng!  Thật sự, câu chuyện Chúa hiện ra với các tông đồ và theo lời bảo của Người, các ông đã bắt được một mẻ cá lớn, là một trong những đoạn văn rất quen thuộc nhất trong Tân Ước.

Ý nghĩa thứ hai là biểu tượng.  Biểu tượng chính trong bài Tin mừng hôm nay chú trọng đến câu hỏi Chúa Giê-su nói với Phê-rô được lập lại 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”  Vậy biểu tượng hay nghĩa bóng chứa đựng trong 3 câu hỏi của Chúa Giê-su với Phê-rô mà ông cảm thấy buồn phiền là gì?  Nhiều người hiểu rằng ba câu này liên quan đến 3 câu chối Chúa của Phê-rô trong ngày Chúa bị bắt.  Họ nhận thấy ba câu trả lời của Phê-rô với Chúa là ba câu xác quyết lòng yêu mến, xóa bỏ và đền bù lại ba câu chối Chúa.   Hay nói một cách khác, ba câu hỏi và trả lời,  cho Phê-rô một cơ hội để cải chính và chuộc lỗi của mình.

Ý nghĩa thứ ba là chủ đích của bài Tin mừng. Lý do tại sao thánh Gioan viết, ghi chép lại câu chuyện này?  Hay chủ đích của bài Tin mừng là gì?  Hay thánh Gioan muốn nói gì với chúng ta qua câu chuyện trong bài Tin mừng?  Công Đồng Va-ti-can  đã trích dẫn ba câu nhắn nhủ của Chúa với Phê-rô “Hãy chăn dắt chiên Ta” là một bằng chứng hiển nhiên về việc Chúa ban cho Phê-rô quyền năng và trách nhiệm thay mặt Chúa như là người chủ chăn, chăn dắt đoàn chiên của Người.  Hay nói một cách khác, Chúa tái xác nhận quyết định, ý định mà Chúa đã tuyên bố trước đây, khi Chúa nói “Phê-rô, con là Đá, và trên đá này Ta sẽ xây giáo hội… Ta sẽ trao ban cho con chìa khóa Nước Trời.”

Chúng ta thấy, trong dịp này Chúa đã có thể đổi ý định rút lại quyết định này và có thể nói với Simon Phê-rô rằng “Vì con đã chối Ta ba lần, nên Ta quyết định rút lại ý định, và trao ban cho người khác.”   Nhưng Chúa Giê-su Ki-tô đã không làm như vậy.  Người còn tái xác nhận ý định của chính mình chọn Phê-rô làm chủ chiên.

Sau cùng là ý nghĩa thứ tư: ý nghĩa cá nhân và đây cũng chính là ý nghĩa mà qua câu chuyện trong bài Tin mừng, Chúa muốn ban cho cho mỗi người chúng ta, những người nghe lời Chúa hôm nay.  Hay nói một cách khác, Chúa dùng Kinh thánh, Tin mừng để nói với chúng ta một cách riêng tư.  Thí dụ như trong một sự kiện khi Phê-rô nói với Chúa rằng  ông, một người đầy kinh nghiệm, đã thả lưới bắt cá cả đêm nhưng không được con cá nào.  Nhưng khi nghe Chúa  bảo ông hãy ra biển và thả lưới lại.  Phê-rô đã nghe lời và kết quả thật lạ lùng. Phê-rô và các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ đã bắt được một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng được diễn ta qua con số 153.  Vậy thì ý nghĩa cá nhân là gì?  Thưa là trước đó Phê-rô và các tông đồ đã cố gắng hết sức làm việc bắt cá một mình, nhưng sau đó có Chúa, nghe lời và thực hành lời Chúa chỉ bảo thì thành công một cách lạ lùng.  Và đây là bài học Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ dựa vào tài, vào sức, vào khả năng của chính mình, mà phải có Chúa và dựa vào Chúa chúng ta sẽ vượt được những khó khăn, để có kết qua tốt, thành công.

Ông bà anh chị em thân mến.  Như Phê-rô và các tông đồ xưa trước đó đã thất bại khi đánh cá một mình, có lẽ đã từ lâu, chúng ta đã cố gắng cầu nguyện, hy sinh phục vụ hay làm việc tốt lành một cách hăng say, nhiệt tình và khó nhọc một mình, theo ý riêng mình, cho nên những lời cầu nguyện, sự hy sinh và việc tốt lành không đem lại kết quả gì hay chỉ có kết quả ít. Có lẽ lý do mà chúng ta thất bại hay không được như ý nguyện là vì chúng ta quên lời Chúa nói với các môn đệ theo Chúa “Thầy là cây nho, chúng con là nhành.  Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”  (John 15:5)

Chúng ta nhận thấy, Phê-rô đã xác quyết lòng yêu mến của mình với Chúa Giê-su ba lần “Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.’’  Sau đó, khi Chúa về trời, Phê-rô, qua sự hiện diện và lòng yêu mến Chúa chân thành, đã không quản ngại khó khăn và đau khổ, quyết tâm hy sinh và trung thành với Chúa để trở thành chứng nhân và rao giảng lời Chúa cho mọi người.  Đối với chúng ta ngày nay cũng thế, nếu chúng ta không có Chúa trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, phục vụ, hy sinh là khó khăn, vác thánh giá là một cực hình, quảng đại và giúp đỡ là sự so đo tính toán của chính chúng ta.  Còn nếu chúng ta có Chúa, có lòng yêu Chúa chân thành thì cầu nguyện là một việc thích thú; hạnh phúc khi đến nhà thờ; vui mừng khi hy sinh phục vụ, và giúp đỡ và quảng đại vì tha nhân, vì Chúa.  Cho nên, muốn sự cầu nguyện, sự hy sinh phục vụ, lòng quảng đại, bác ái có kết quả và có một đức tin sâu sắc và trưởng thành hơn thì phải có sự hiện diện của Chúa trong đời sống hàng ngày.

Muốn có một đời sống đạo sốt sắng và nhiệt thành thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa chân thành. Yêu mến Chúa thì hăng say sống đạo tích cực.  Một khi chúng ta đã có lòng yêu mến Chúa thật sự, thì sẽ không còn những cản trở để dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, lòng quảng đại, bác ái của chúng ta được mở rộng.  Có Chúa hiện diện và vâng lời Chúa, Phê-rô đã bắt được một mẻ cá lạ lùng, và ơn sủng cứu độ còn tiếp tục cho đến ngày nay.  Tin mừng cũng cho chúng ta biết, Chúa đã hỏi Phêrô ba lần: “Con có yêu mến Thầy không?”  Đó cũng là câu hỏi Chúa hỏi chúng ta hôm nay.  Chúng ta hãy thành tâm nhìn vào đời sống, và trả lời Chúa như thế nào?  Chúng ta thật sự có Chúa trong đời sống hay không?  Phê-rô đã từ bỏ ý riêng, sự cứng lòng và tự hào về những kinh nghiệm, lão luyện của mình trong nghề đánh cá, để nghe lòi và thực hành sự chỉ bào của Chúa.  Cho nên muốn có Chúa và có lòng yêu mến Chúa chân thành, chúng ta cũng phải noi gương Phê-rô.

 Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa

------------------------------
 
 

PS 3-C153: ĐAU KHỔ VÌ CHÚA

 
 

Trong bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ kể về sự phản đối các tông đồ đã gặp phải từ phía PS 3-C153


Trong bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ kể về sự phản đối các tông đồ đã gặp phải từ phía các nhà lãnh đạo Do Thái. Các ngài đã vượt qua được với một niềm tin lớn, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây chính là người mới đây đã chối Thầy Giêsu ba lần, mà giờ đây ngài kiên vững lập trường, can đảm làm chứng cho Chúa. Chịu đau khổ để giữ vững niềm tin: ngài và các tông đồ bị đánh đòn. Nhưng các ngài vui vẻ chịu đựng vì Chúa Giêsu. Từ nơi đâu mà thánh Phêrô có được sự can đảm này ? Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Thánh Thần và sự nâng đỡ từ các tông đồ đồng môn của ngài.

May thay, suốt thời các tông đồ, đã từng có nhũng Kitô hữu, nhờ ân sủng Chúa, đã vượt qua sự sợ hãi và làm chứng cho Tin Mừng, mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Tháng 3 năm 1983, nhà thơ Nga - Irina Ratushinskaya, bị kết án 7 năm lao động khổ sai và 5 năm lưu đày. Tội của bà là - sáng tác những bài thơ mà không được chính quyền chấp nhận. Trong tù, bà chịu đựng sự đánh đập, buộc phải ăn và bị biệt giam trong diều kiện khí hậu lạnh khắc nghiệt.

Bà đã bị vấn đề về tim, gan, cật, cũng như viêm phế quản kinh niên. Dù trong điều kiện như vậy bà vẫn tiếp tục viết, chuyển những bài thơ được viết trên những mảnh giấy vụn ra bên ngoài qua những người gác ngục, những người lính và những khách đến thăm. Bà đã được phóng thích vào tháng 10 năm 1986.

Niềm tin Kitô giáo đã quyết định sự sống còn của bà. Bà nói: khi bạn đang phiền muộn, hay trong con quẫn bách, dường như Chúa luôn luôn gần bên bạn hơn. Chúa bên tôi trong những ngày tôi ở trong tù, như cánh tay liền sát vai."

Một điều quan trọng khác nữa giúp cho sự tồn tại của Irina trong những ngày lao tù là mối tương quan bền vững  thật khó tin mà bà đã có với lương tâm của những nữ tù nhân. Gian nguy đã nối kết mọi người với nhau và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm với nhau. Với nhịp sống và áp lực của cuộc sống hiện đại, chúng ta quá quan tâm đến bản thân mình ; để rồi khi một tai họa hay một căn bệnh dến với ta, sẽ dạy cho chúng ta biết chúng ta lệ thuộc vào nhau như thế nào.

Irina và những bạn bè của bà thường biểu tình tuyệt thực nếu một trong số họ bị ngược đãi. Bà nói: "Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Trong thời gian tôi ở tù, một phần ba nam tù nhân trong trại đã chết. Tất cả phụ nữ đã từng ở trong trại giờ đây đều là các Kitô hữu. Trong số đó có người nay là nữ tu công giáo.

Niềm tin cũng dạy cho đời sống tâm lý của tôi tránh khỏi bị huỷ hoại bởi lòng căm thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vô song của tinh thần con người để có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào."

Những người như Irina và các bạn của bà là niềm cảm hứng cho chúng ta. Họ đã mở rộng khả năng của con người về lòng can đảm và tình yêu. Thật dễ dàng tin vào Chúa, khi chúng ta quỳ xuống và khép mắt lại, cũng như thật dễ dàng là người Kitô hữu khi xa lánh sự ồn ào và thử thách của thế giới con người. Nhưng thật là một tôn giáo nghèo nàn khi tin rằng chỉ tìm thấy Chúa ở những nơi xa cách với thế giới. Chúa không thể bị giới hạn như cách suy nghĩ này.

Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Người trông mong chúng ta làm chứng cho Người trong thế giới hôm nay. Một số người trong chúng ta đã được kêu gọi đón nhận những đau khổ như nhùng đau khổ mà các tông đồ hay những người như Irina và bạn bè của bà đã trải qua. Nhưng chúng ta có thể phải đối diện với những việc hầu như tồi tệ - thái độ hết sức dửng dưng của người đương thời.

Chúng ta không thể nói trước rằng ơn gọi Kitô hữu sẽ đưa chúng ta đến đâu, hoặc đòi hỏi gì nơi chúng ta. Giả như chúng ta có thể thấy được những nơi ấy, sẽ làm cho trái tim ta nhen nhúm sự nản chí và sự can đảm sẽ đánh gục ta. Trong lãnh vực này, chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên ông đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, ông không nghĩ rằng ơn gọi này sẽ dẫn ông đến cái chết vì đạo. Nhưng bất cứ điều gì mà ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi nơi chúng ta, chúng ta sẽ được dền bù gấp trăm.

-------------------------------
 
 

PS 3-C154: TIẾNG GỌI THỨ HAI

 
 

Ngày xưa có một người làm ra lửa. Khi anh ta đang trên đường về nhà thì tuyết đổ xuống. Khi thấy PS 3-C154


Ngày xưa có một người làm ra lửa. Khi anh ta đang trên đường về nhà thì tuyết đổ xuống. Khi thấy ánh lửa, anh vội băng ngang một miếng đất trống. Hầu như chẳng phải là ngọn lửa - đó chỉ là một đống củi cháy âm ỉ. Quanh đống củi, một đám người hỗn độn kéo những tấm giẻ rách cũ lại gần chung quanh họ với hy vọng là sẽ tránh được cái lạnh tê buốt, nhưng vô hiệu. Anh đã dừng lại, nhưng anh ở lại không lâu.

Anh cảm thấy thật khó mà ở cùng với những người này. Sau khi nói vài lời về giá trị của lửa, anh lẩn đi mất. Song chẳng bao lâu sau khi anh rời khỏi họ, anh cảm thấy khó chịu. Anh nghĩ, anh chỉ có thể nhóm ngọn lửa dó lên được nếu như anh tình nguyện chấp nhận mất thời gian và rắc rối. Nhưng rồi, sẽ ra sao nếu như anh ta bị viêm phổi trong khi làm ? Và hầu như họ không đánh giá đúng những nỗ lực của anh.

Xa hơn chút nữa, anh đến gần một nhóm người khác đang ngồi chung quanh ngọn lửa cháy rực, dưới mái nhà. Chú ý diện mạo đang đói của anh, họ kêu lên: "Vào đây! Vào đây! Anh không đợi kêu lần thứ hai. Anh ta đã ở đó lâu hơn dự định. Cuối cùng khi anh ra đi, họ đã đồng thanh thốt lên: "Cám ơn vì đã ghé vào."

Lần kia ở nhà, đang khi ngủ, anh mơ thấy Chúa hiện ra và nói: "Ta chỉ định ngươi là người làm ra lửa, nhưng người đã làm Ta thất vọng." Đó là tất cả những gì Chúa đã nói. Người làm ra lửa hiểu ngay sứ diệp đó. Anh thức dậy và không thể nào ngủ lại được nữa. Tâm trí anh nhớ lại những ngày đầu trong công việc tạo ra lửa của anh. Thật là hăng hái làm sao. Thật là đẹp biết bao nghề của anh - đem đến cho những người lạnh lẽo sự ấm áp trong cuộc sống.

Nhưng ngay sau đó, anh không hình dung được về những hy sinh triệt để mà lời mời gọi của Chúa đòi hỏi ở anh. Anh cũng chẳng nghĩ đến sự rắc rối của công việc này, cũng như thái độ không đáp trả và không biết đánh giá của con người. Nhưng qua nhiều năm, tất cả những điều này dã trở nên rõ ràng với anh. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh đã lu mờ. Anh dần dần hờ hững trong ơn gọi của anh.

Nhưng vào cái đêm đáng thương này, anh đã dò được độ sâu của sự yếu đuối nơi bản thân, đêm nay tính ích kỷ trong anh đã bộc phát dữ tợn, đêm nay sự thiếu lòng nhiệt tình đã được bộc lộ cách đau đớn với anh, tia lửa của ơn gọi một lần nữa được nhóm lại trong tâm hồn anh. Anh quyết định ngày mai, một lần nữa, anh sẽ trở thành người làm ra lửa. Và anh đã làm.

Có hai tiếng gọi Phêrô được thuật lại trong Tin Mừng. Tiếng gọi thứ nhất xảy ra lúc bắt đầu sứ mạng của Chúa Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai xảy đến sau Phục Sinh, và được thuật lại trong Tin Mừng ngày hôm nay. Hai lần kêu gọi cách nhau ba năm. Trong ba năm đó có rất nhiều chuyện xảy đến cho Phêrô. Ông đã nhận ra rất nhiều điều về Đấng đã kêu gọi ông, về công việc mà Người đã gọi ông, và trên tất. cả, là chính bản thân ông. Khi tiếng gọi thứ hai đến, Phêrô đã là người sáng suốt và khiêm tốn hơn. Vì thế tiếng "vâng" thứ hai chín chắn và sáng tỏ hơn tiếng "vâng" thứ nhất rất nhiều.

Câu chuyện của Phêrô là một tiếng gọi, vấp ngã và lại kêu gọi. Nó cho thấy rằng tiếng gọi của Chúa không loại trừ sự vấp ngã. Ơn gọi không phải là điều mà người ta nghe và đáp lại chỉ một lần. Tiếng gọi phải được nghe và được đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày một phần của con đường đã chọn mở ra trước mắt chúng ta, phần mà chúng ta đã không bước qua trước đây. Khi một người tiếp tục thì tiếng gọi sẽ trở nên sâu sắc hơn, và sự đáp lại sẽ nội tâm hơn và riêng tư hơn.

Mọi ơn gọi đều là ơn gọi tình yêu - tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu các con chiên trong đàn chiên của Người (anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).

LỞI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh Người Con của Người, làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong tình yêu và hy vọng.

Xướng: Để các vị lãnh đạo Giáo Hội tận tâm chăm lo cho các anh chị em trong cộng đoàn.

Xướng: Để Chúa hướng dẫn và thúc lành cho công việc của các môn đệ ngày nay, dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa sẽ bắt được những mẻ cá lớn.

Xướng: Để chúng ta tìm gặp niềm vui trong khi phục vụ anh chị em, và nhớ rằng chính Chúa Giêsu đã dọn bữa cho các tông đồ.

Xướng: Để chúng ta ân cần và tha thứ cho tất cả những ai đã làm chúng ta thất vọng hay vấp ngã, như Chúa đã ân cần với ta.

Chủ tế: Lạy Cha, Cha là nguồn sự sống của chúng con, Cha biết chúng con yếu đuối. Xin cho chúng con vươn tới niềm vui mà Cha đã ban cho chúng con trong Đức Kitô, dế chúng con dễ dàng bước đi trên đường lối của Cha.

Chúng con cầu xin .... '

-----------------------------
 
 

PS 3-C155: Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn


CHÚA PHỤC SINH ĐẤY!
HÃY TIN VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
 
 

Các Tông đồ thật sự buồn rầu chán nản, thất vọng vì các ông đã bỏ tất cả để theo Thầy nhưng nay PS 3-C155


đã chết. Cho nên, các ông trở về quê với nghề cũ, đánh cá. Phêrô và anh em lên thuyền ra khơi và vất vả suốt đêm không được gì. Nhưng, khi bình minh ló rạng, Chúa Giêsu phục sinh vĩnh hằng hiện ra giúp đỡ các ông, bảo các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sẽ bắt được cá. Dù không biết ông này là ai, các môn đệ vẫn vâng lời thả lưới, chắc lòng thầm nghĩ rằng “méo mó có hơn không” và “thà đốt lên một bó đuốc còn hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm”. Ai ngờ họ được cả chì lẫn chày: vừa trúng được một mẻ cá lạ lùng vừa gặp lại Thầy mình, Đức Kitô phục sinh. Khi các ông kéo cá vào bờ, Chúa Giêsu nướng cá và bánh trao cho các ông, và thế là Thầy trò có một bữa ăn đượm tình thân hữu yêu thương như xưa.

Đêm tối đi đánh cá trên biển chuyện thường, nhưng biển cả và đêm tối trong Tin Mừng hôm nay gợi về nơi chốn của ma quỷ, là thế giới của tội lỗi thống trị kèm theo bao khó khăn thử thách của các Tông đồ xưa, và cả chúng ta hôm nay. Giuđa, đệ tử ruột của Chúa Giêsu, vất vả theo Thầy để mong được dự phần vinh phúc với Thầy nhưng vào bữa ăn tối cuối cùng, Giuđa đã sa chước cám dỗ, bán đứng Thầy mình vì ham tiền. Cho nên, thay vì lãnh phần thưởng vinh phúc, tự ông chốc lấy phần tủi nhục ê chề. Rồi Phêrô, người đã từng tuyên bố bỏ Thầy con biết theo ai vì Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống nên ai bỏ thì bỏ chứ con đây dù có chết cũng không bỏ. Ấy thế mà trong đêm Chúa Giêsu bị bắt và đánh đòn, ông đã chối Thầy 3 lần.

Trong cuộc sống, tội lỗi và sự cám dỗ của ma quỷ gây ra cho chúng ta biết bao nhiêu khó khăn đau khổ và thách thức. Nhiều khi mình cố gắng để vượt qua, để vững tin vào Chúa nhưng không được gì. Chẳng hạn, chúng ta vừa mới đi xưng tội tuần trước đó tuần này lại tái phạm, Mùa chay vừa rồi tôi quyết tâm bỏ thói xấu này, nhưng hôm nay mới tuần 3 Phục Sinh tôi lại quen đường cũ, bỏ không được, vì sao? Vì đức tin của mình còn yếu quá. Vì vậy, nhiều khi chúng ta cảm thấy mình sống theo Phúc Âm thật sự đấy nhưng chẳng được gì mà còn thiệt thòi, thua lỗ, mất mát và chán nãn đâm ra ngã lòng. Thử hỏi giờ đây động lực nào tăng thêm sức mạnh giúp chúng ta đứng lên, tiếp tục đi tới, vượt qua những thách đố này. Đó chính niềm tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu phục sinh, Ngài luôn đồng hành trợ lực và chỉ lối đưa đường cho chúng ta bước theo đường ngay nẽo chính đem lại bình an và hạnh phúc cho mình, gia đình, giáo xứ… ngay trong cuộc sống này và mai sau nữa. Vậy điều quan trọng là chúng ta có tin không, khi cuộc đời của chúng ta bị thử thách nhưng Chúa vẫn có đấy? Nhất là niềm tin không phải trừu tượng mà bằng hành động giống như Phêrô nghe lời Thầy thả lưới xuống biển. Và khi nghe biết Chúa đó, ông mặt áo vào phóng xuống biển bơi về phía Thầy, phía ánh sáng, phía sự sống. Chúng ta thì sao bơi về phía sự sống là Chúa và Giáo hội hay bơi về phía bóng tối, phía tội lỗi gây biết bao nhiêu đau khổ đắng cay cho mình, gia đình vợ chồng, con cái…

Ngày nay chúng ta phải đối diện với nhiều cám dỗ, thử thách và khó khăn, thêm vào đó, chúng ta quá căng thẳng vì mãi lo bươn trải, bon chen tìm kiếm cơm áo gạo tiền, học hành, nghề nghiệp. Những thứ đó dễ làm cho chúng ta mệt mõi, rã rời, kiệt sức nãn chí và thất vọng. Đừng sợ! Chúa phục sinh đang hiện diện trong Lời Người, trong Thánh Thể, và trong Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Người, và trong mọi hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Giờ đây và lúc này, Ngài đang hiện diện với chúng ta trong thánh lễ. Ngài dọn cho chúng ta bữa ăn đó là Lời Chúa, Mình và Máu Ngài để nuôi sống, tăng thêm sức mạnh và đỡ nâng tinh thần cho chúng ta trong cuộc sống dương thế để chúng ta vững tin bước theo Chúa vì không có Chúa chúng ta không thể làm gì được. Cho nên, thật có lý, khi bậc tiền bối của giáo xứ nọ cho khắc 2 câu đối trước cổng ra vào nhà thờ như lời xác tín với ai khi đến nhà thờ ấy rằng: “Thuyền ngược nước xuôi đời khó xử, trời nhào đất lộn Đạo không lây”.

Vì thế, trong Sứ Điệp Phục sinh năm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Chúa Giêsu Kitô, sự nhập thể của lòng thương xót của Thiên Chúa, vì yêu thương chúng ta, đã chết trên thập giá, và vì yêu thương mà Ngài đã sống lại từ cõi chết. Đó là lý do mà chúng ta hôm nay loan báo: Chúa Giêsu là Chúa đó! Sự phục sinh của Ngài làm viên mãn lời tiên tri của Thánh Vịnh: lòng thương xót của Thiên Chúa tồn tại đến muôn đời; lòng thương xót không bao giờ chết. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, và chúng ta tạ ơn Ngài vì chúng ta mà Ngài đã xuống tận những tầng sâu của ngục tổ tông. Giờ đây chúng ta trở thành những người thông phần vào sự sống vĩnh cửu của Ngài và giúp chúng ta thấy được bằng đôi mắt của tình yêu và lòng thương cảm những người đang đói và khát, những khách lạ và tù nhân, những người ở bên lề và bị loại trừ, những nạn nhân của tình trạng áp bức và bạo lực. Thế giới của chúng ta đang đầy rẫy những con người đang đau khổ về thể xác và tinh thần, ngay cả những tin tức hằng ngày cũng đầy rẫy những câu chuyện về những tội ác dã man vốn thường chiếm lĩnh trong các gia đình, và những mâu thuẫn có vũ lực ở qui mô lớn vốn tạo nên sự đau khổ không thể nào mô tả được cho toàn thể các dân tộc".

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết khám phá ra sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh trong môi trường sống của chúng ta hầu cậy tin vững vàng dù có gặp trăm chiều thử thách đồng thời luôn kết hiệp với Ngài qua việc tham dự bàn tiệc Thánh Thể và thi hành Lời Chúa vì Chúa là chính là nguồn sức sống, nguồn an ủi và Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường con đi đến bến bờ bình an, hạnh phúc đồng thời thực thi lòng thương xót Chúa cho muôn người hầu làm cho xã hội loài người được hòa thuận yêu thương nhau. Amen.

----------------------------------
 
 

PS 3-C156: Khởi hành sứ mạng với Chúa Kitô Phục Sinh


(Suy niệm của Dã Quỳ)
 
 

Sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh và trao quyền cho Phêrô chăn dắt đoàn chiên của PS 3-C156


Sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh và trao quyền cho Phêrô chăn dắt đoàn chiên của Chúa nơi trần thế. Người cũng trao cho các môn đệ sứ mệnh ra đi làm chứng cho Chúa. Qua những sự kiện đời thường trong lần hiện ra này, Chúa muốn dạy các ông cần khởi hành thực hiện sứ mạng mới với Chúa, trong quyền năng và ý muốn của Người.

+ Thả lưới theo hướng dẫn của Chúa. Lúc bình minh, khi môn đệ đang buồn rầu vì suốt đêm vất vả, đã đem hết khả năng kinh nghiệm để đánh cá mà vẫn thất bại. Chúa đến, Người yêu cầu các ông thả lưới bên phải thuyền. Một mẻ cá lạ lùng đạt được hôm nay nhắc nhớ đến một lần thuở ban đầu theo Thầy, Phêrô và các bạn cũng đã nhọc nhằn cả đêm không bắt được gì, nhưng khi Chúa bảo họ thả lưới bên phải thuyền, họ làm theo và bắt được rất nhiều cá. (x. Lc 5, 1-11)

Sau mẻ cá không ngờ này, "Tông đồ được Chúa thương mến" nhận ra đó chính là Chúa của mình và nói cho Phêrô. Quyền năng của Đấng Phục Sinh làm cho mắt ông mở ra và tình yêu giúp ông nhận ra Chúa. Có lẽ lúc này các ông nhớ lại lời Chúa đã nói "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15,5b) Vâng lời Thầy, thực hiện theo sự hướng dẫn của Thầy, tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thầy và cùng làm với Thầy; thành công hay bất cứ hoàn cảnh nào, môn đệ vẫn luôn bình an, sẽ sáng suốt nhận ra "Chúa đó!" Chúa vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành sẻ chia cùng.

Chính vì thế mà sau này khi đi rao giảng, các ngài cũng chỉ một lòng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” (Cv 5, 29) Phêrô không còn cậy dựa vào sự hiểu biết của mình, nhưng ông xác tín lời chứng của ông là: "cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người." (Cv 5, 32) Vì tình yêu mãnh liệt vào Chúa, các Tông đồ dù bị đánh đòn và cấm cách, lòng vẫn hân hoan được chịu đau khổ vì danh Chúa Giêsu.

Hôm nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thả tấm lưới yêu thương, công bằng, sự thật và bình an ngay trong cuộc sống đời thường của mình. Đời người Kitô hữu sống giữa trần gian và những thực tế của xã hội đôi khi làm ta nản lòng chẳng muốn ra khơi hay thả lưới dù ta cũng có chút tài năng hay kinh nghiệm nhưng vẫn cứ thất bại và thiệt thân. Ta đã cố gắng sống ngay lành, yêu thương để làm chứng cho Chúa nhưng vẫn chả đi đến đâu. Vậy hãy quay về với Chúa Giêsu, trong kinh nguyện ta lắng nghe tiếng Chúa và dù có vất vả, ta vẫn tiếp tục "Vâng lời Thầy." Tin tưởng vào Chúa Phục Sinh và quyền năng của Người.

+ Trở về bên Chúa để được bồi dưỡng. Đấng Phục Sinh đang ở bên bếp than hồng. Chúa chờ để chia sẻ với họ bữa ăn thân mật và đoàn tụ. Tình yêu Chúa dành cho các môn đệ thật chu đáo và nồng ấm. Chúa đã chuẩn bị tất cả "Có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa." (Ga 21, 9) Thế mà, trước đó Chúa đã hỏi các ông "Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21,5) Chúa biết rõ các ông và dường như Chúa muốn các ông chân nhận tình trạng của mình để rồi càng biết vâng lời Chúa, tin tưởng vào Chúa hơn.

Lối giáo huấn của Chúa thật tuyệt! Dù đã dọn sẵn cá và bánh, nhưng Chúa vẫn mời các ông "đem ít cá mới bắt được tới đây.” (Ga 21,10) Đó là thành quả, là công sức của các ông và họ có quyền tự hào vì đã thi hành theo ý Chúa. Chắc hẳn các môn đệ nhớ lại nhiều lần sau khi rao giảng, Chúa cũng thường nhắc nhở các ông nghỉ ngơi hay những lần hóa bánh, Người mời các ông cộng tác. Thật hạnh phúc vì lời mời chan chứa yêu thương "Anh em đến mà ăn" (Ga 21, 12) Và cũng thật vui vì được góp phần vào bữa tiệc. Sự chăm sóc ân cần này chỉ có Chúa dành cho các ông, nên tất cả đã biết đó là Chúa. Hơn thế nữa, cử chỉ bẻ bánh và cá trao cho từng người chỉ là cử chỉ của Chúa. Qua cử chỉ duy nhất này thì bất cứ môn đệ nào cũng nhận biết rõ đó là Chúa Giêsu.

Bữa ăn của Chúa và các môn đệ bên bờ biển tượng trưng cho Bữa Tiệc Thánh Thể hôm nay. Không thể có ra khơi tung lưới mà không có trở về bên Chúa. Trong Cử Hành Thánh Thể, mỗi Kitô hữu kín múc được nguồn sức sống từ Chúa. Thánh Lễ là đỉnh cao của Giáo Hội. Trong Thánh Lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa dạy, được chính Chúa trao ban Bánh là Thịt Máu Người. Cũng chính trong Thánh Lễ, chúng ta được mời gọi trao chúc bình an cho nhau, tha thứ và hòa giải vì ta được cùng ăn một Tấm Bánh, ta cố gắng làm như Chúa, chăm sóc anh chị em như Chúa đã chăm sóc ta, sống tình cộng đoàn yêu thương nhau như Chúa mời gọi. Chính Thánh Lễ bảo đảm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ không chấm dứt.

+ Sống và chết với Chúa. Chúng ta thấy mặc dù Phêrô đã chối Chúa, thế nhưng hôm nay Chúa trao cho ông làm đầu Hội Thánh. Theo cái nhìn bình thường thì ta thấy điều này hơi bất thường, nhưng đặt trong ánh sáng của lòng thương xót và tha thứ thể hiện trong Chúa Giêsu, ta sẽ nhận ra quả là điều kỳ diệu của tình yêu. Lỗi lầm không phải là không thể xóa được. Nhấn mạnh đến ba lần hỏi Phêrô "anh có mến Thầy không?", Chúa Giêsu như muốn làm vọng lại và thỏa ý với ba lần chối Chúa của ông. Lời giáo huấn và thái độ của Chúa đối với người môn đệ luôn rất dứt khoát, chỉ dựa vào tình yêu. Tình yêu của Chúa đụng chạm vào con tim của con người và mở ra với hành động tha thứ. Tình yêu nảy mầm sống mới trong trái tim.

Sự sống mới đã vươn mầm trong Tông đồ Phêrô. Từ nay ông không còn khoác lác tự phụ nữa. Trước đây ông đã nói:"Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” (Mc 14, 29) Giờ đây ông không dám khẳng định mình yêu Thầy hơn những người khác. Ông biết rằng ông yêu Chúa và đón nhận điều đó với lòng khiêm nhường "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17) Gần như trong ngại ngùng ông đã cảm thấy tất cả là ân huệ nhưng không mà ông được lãnh nhận thế mà ông đã không giữ lại trong sâu thẳm hồn mình.

Chúa Giêsu không muốn Phêrô nhìn về quá khứ nhưng là hướng về tương lai. Nếu Chúa đã chất vấn ông về tình yêu, đó là để chuẩn bị cho ông một trách nhiệm mà Người sẽ tin tưởng trao cho ông. Và nếu những câu hỏi của Chúa là sự nhấn mạnh đó là để cho ông hiểu một điểm tuyệt đối cần thiết cho ông đó là Yêu Thương. Ông không thể nối dài sự hiện diện và hoạt động của Thầy mà không yêu Thầy cách say mê và không yêu như Thầy. Chỉ có tình mến Thầy mới giúp ông chăn dắt đoàn chiên Thầy trao. Chăm sóc chiên bằng tình yêu mà ông yêu Thầy, thông truyền cho chiên tình yêu của Thầy dành cho ông và tình yêu, lòng tin của ông đối với Thầy. Chỉ bằng cách này, ông mới giúp chiên cảm nhận được sự hiện diện thực của Chúa Giêsu và tình yêu của Người dành cho ông, cho chiên. Đây chính là ý nghĩa cuộc sống tông đồ chứ không phải là những thành công rực rỡ bên ngoài.

Trước đây Phêrô đã bỏ chài lưới, bỏ nhà cửa để theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa mời gọi ông trao phó chính mình để chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh và để được "dẫn anh đến nơi mà anh chẳng muốn.” (Ga 21, 18) Chúa muốn Phêrô sống như Thầy, làm những gì Thầy làm và hiến mạng sống như Thầy đã hiến trao. Mỗi Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi sống trọn cuộc sống của mình và noi gương các Tông đồ, hăng say gieo tấm lưới cuộc đời mình "Vâng lời Thầy, con xin thả lưới." Dám can đảm sống chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chăm sóc chúng con. Xin giúp chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa và hăng say làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.

-----------------------------------
 
 

PS 3-C157: Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
 
 

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục kể lại sự kiện Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ PS 3-C157


Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục kể lại sự kiện Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Đây là lần thứ ba Ngài hiện ra với các ông sau khi từ cõi chết sống lại.

Ngài hiện ra tại Biển Hồ Tibêria đang khi các ông đang đánh bắt cá. Thánh Gioan cho biết, các ông khó nhọc suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Đúng lúc đó, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến, Ngài bảo các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được” (Ga 21,6). Vâng lời Chúa, các ông thả lưới xuống bên hữu thuyền. Khi kéo lưới lên, các ông đã bắt được rất nhiều cá, tất cả được một trăm năm mươi ba con. Theo các nhà động vật học Hilạp, thời đó người ta đã tìm được 153 giống cá ở biển khơi. Như vậy, 153 giống cá trong lưới của các Tông Đồ là hình ảnh tiên báo họ sẽ quy tụ muôn dân muôn nước vào trong gia đình Giáo Hội sau này. Vậy, làm sao để qui tụ muôn dân muôn nước thành một gia đình?

Thứ nhất, Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội và đặt Thánh Phêrô làm thủ lãnh. Phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật việc Chúa Giêsu bổ nhiệm Thánh Phêrô làm Giáo Hoàng tiên khởi. Đó cũng là khởi đầu của phẩm trật trong Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tới nay đã có 266 vị Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng hiện tại kế vị Thánh Phêrô là Đức Phanxicô. Để đảm nhận trách nhiệm quan trọng này, chắc chắn Chúa Giêsu đã cân nhắc và đặt ra nhiều tiêu chuẩn cần thiết. Nhưng tiêu chuẩn đầu tiên và trên hết đó chính là lòng yêu mến Chúa. Vì vậy, trước khi giao trách nhiệm cho Phêrô, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm lòng mến của ông: “Con có yêu mến Thầy không?”. Ngài hỏi Thánh Phêrô ba lần như vậy (x. Ga 10,15-18). Ba lần Ngài hỏi Phêrô có thể gợi lại ba lần Phêrô chối Chúa, nhưng đó cũng là cách Chúa muốn ông khẳng định chắc chắn hơn về quyết định của mình.

Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần vì yếu đuối, nhưng lòng mến của ông đối với Thầy luôn chân thành. Lòng mến đó được thể hiện qua câu trả lời hết sức đặc biệt của ông. Ông không trả lời “Có, con yêu mến Thầy”. Nếu trả lời như vậy thì quá bình thường. Phêrô đã trả lời một cách đặc biệt và tự tận đáy lòng rằng: “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Thật vậy, Chúa Giêsu biết lòng mến nơi Phêrô. Vì kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều hơn (x. Lc 7,36-50). Ngài tin tưởng Phêrô nên đã trao nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Ngài cho ông. Phêrô sẵn sàng đón nhận, từ đó về sau ông đã chu toàn trọn vẹn nhiệm vụ Chúa trao phó. Cuối cùng, ông lấy cái chết để chứng minh lòng mến và lòng trung thành của mình đối với Chúa.

Trong đời sống đạo, Đức Mến bao giờ cũng quan trọng. Đức Mến có thể quyết định tất cả mọi vấn đề. Hay nói cách khác, có Đức Mến là có tất cả. Thánh Phaolô nhắc nhở: "Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Nhưng lớn hơn cả là Đức Mến” (1 Cr 13,13). Thật vậy, nếu không có Đức Mến thì tất cả mọi việc làm của chúng ta chỉ mang hình thức bên ngoài, phô trương cho người ta thấy. Thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có Đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1). Nếu không có Đức Mến thì Đức Tin của chúng ta sẽ không bền vững, giống như người xây nhà trên cát. Chúng ta thấy rõ điều này qua các thời kỳ Giáo Hội bị bách hại, có vô số kitô hữu đã chấp nhận hy sinh vì lòng mến Chúa, nhưng cũng không thiếu những kitô hữu vì không có lòng mến nên đã nhẫn tâm dẫm đạp lên thập giá để được yên thân. Nếu hôm nay, Chúa hỏi chúng ta “Con có yêu mến Thầy không?” thì chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Hy vọng chúng ta cũng trả lời như Phêrô “Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Thứ hai, để qui tụ muôn dân nước, Giáo Hội có trách nhiệm loan báo Tin Mừng. Sau khi trắc nghiệm lòng mến của Phêrô, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”. Đàn chiên của Chúa hiểu theo nghĩa rộng là tất cả muôn dân nước. Vì vậy, nhiệm vụ của Giáo Hội không chỉ chăm lo cho những người kitô hữu, mà còn phải lo cho những người chưa nhận biết Chúa. Đó chính là sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ mạng “Đánh bắt các linh hồn”. Chính Chúa Giêsu đã nói với bốn môn đệ đầu tiên rằng: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mc 1,17). Sau khi sống lại, Ngài tiếp tục nhắc nhở các ông: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 46-48). Vâng lệnh Chúa, các Tông Đồ đã thi hành nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ngay những ngày đầu của Giáo Hội. Bài đọc I cho chúng ta thấy, các Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu để giảng dạy giáo lý khắp cả Giêrusalem. Mặc dầu thầy thượng tế cấm các ông không được nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy, nhưng Thánh Phêrô và các Tông Đồ trả lời với họ rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta" (Cv 5, 29).

Sau các Tông Đồ, các kitô hữu qua mọi thời đại vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Nhờ vậy, từ con số nhỏ bé ban đầu, hiện nay Giáo Hội đã có 1 tỷ 253 triệu người Công Giáo, chiếm 17% dân số hoàn cầu.

Giáo hội không dừng lại ở đó, nhưng Giáo Hội phải có trách nhiệm làm cho 83 % dân số còn lại trở thành thành viên của mình. Trách nhiệm của Giáo Hội cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, việc làm hay bằng chứng tá đời sống. Nhưng phải nhớ rằng, công việc loan báo Tin Mừng không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong ba năm giảng đạo, chính Chúa Giêsu đã gặp biết bao chống đối từ phía những người lãnh đạo Do thái và cuối cùng vì họ mà Ngài đã bị giết chết trên Thánh giá. Ngài cũng đã từng báo trước với các Tông Đồ về những bắt bớ, đau khổ mà các ông phải chịu. Ngài nói: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết” (Mt 10, 17-18). Đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng tiên báo về cái chết của Phêrô: “Khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến"(Ga 21,18). Như vậy, đau khổ, chết chóc là số phận của những người đi theo Chúa. Trong số 12 Tông Đồ, đã có 11 vị Tử đạo, riêng Thánh Gioan bị dìm vào vạt dầu sôi nhưng không hề hấn gì. Chính vì vậy, chúng ta không lạ gì, Giáo Hội qua mọi thời vẫn bị bách hại bằng cách này cách khác. Xin cho chúng ta và mọi thành phần trong Giáo Hội, dù trong hoàn cảnh nào cũng biết trung thành với sứ mạng rao giảng Tin Mừng, nhất là trung thành yêu mến Chúa. Vì “Ai bền độ đến cùng sẽ được cứu độ” (x. Mt 10,22)

Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nên Chúa đã hiện ra nhiều lần để củng cố niềm tin nơi các Tông Đồ. Vì yêu thương nên Chúa đã thiết lập Giáo Hội để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin cho chúng con. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội luôn hiệp nhất với nhau để vượt qua được mọi sóng gió trong cuộc đời. Xin cho chúng con luôn hăng say rao giảng Tin Mừng để mọi dân nước được qui tụ trong đại gia đình Giáo Hội. Amen.

---------------------------------
 
 

PS 3-C158: Do đâu Gioan nhận ra ngay: "Chính Chúa đó!"


(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
 
 

Một số người trong chúng ta, thời chưa có internet, đã hơn một lần giơ tay vặn nút dò đài trên PS 3-C158


Một số người trong chúng ta, thời chưa có internet, đã hơn một lần giơ tay vặn nút dò đài trên chiếc Radio. Rà tới chỗ 19m, 25m, 31m, 41m… quay đi quay lại cũng ngần ấy làn sóng. Nhất là làn sóng 31m. Nhưng mà rà tới đó rồi còn phải xê đi xích lại đôi chút (fine tuning) mới bắt được đúng đài mà mình muốn. Bởi lẽ cũng 31m đó, nhưng có biết bao nhiêu là đài: VN, BBC, VOA, Úc,… Mỗi đài trên làn sóng 31m đó có một tần số riêng, ví dụ: Hà Nội 31m 10.060KHz, VOA 31m 9890KHz, BBC 31m 9605KHz… (Những máy thu thanh nào có bộ rà đài bằng tần số, thì chỉ cần bấm nút: td. 10060 là ra ngay đài HN). Vì thế chúng ta hay nghe thông báo: "Chương trình chúng tôi được phát trên làn sóng 31m, tức là 9710 kilo chu kỳ." Phải đúng tần số thì mới bắt được đài mà ta cần.

Máy thu hình cũng vậy. Mỗi kênh có một tần số hình, tần số tiếng riêng. Rà đúng là hình rõ, tiếng trong. Rà lệch là hình mờ tiếng đục.

Chúa Giêsu chịu chết tại Giêrusalem, khi sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ cũng tại Giêrusalem, phía nam Palestina. Nhưng có một lần hiện ra với chị Maria Mađalêna tại Gierusalem, Chúa Giêsu nhờ chị đi báo với các môn đệ là hãy trở về Galilê, họ sẽ được gặp Chúa tại đó. Từ Giêrusalem về lại Galilê, chặng đường hơn trăm cây số, có lẽ phải ba ngày đường mới trở về đó được. Họ đã về "để gặp Chúa."

Trong khi chờ gặp Thầy mình hiện ra, họ rủ nhau đi đánh cá: 7 người tất cả: Phêrô, Toma, Natanael, 2 người con của Zebeđê: Gioan và Giacôbê, và hai môn đệ khác… Họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay: đêm ấy họ không bắt được gì cả. Sáng ra khi đã có thể nhận biết được người và thuyền, chứ không phải còn mờ mờ tối tối nữa, Chúa Giêsu hiện ra. Nhưng không ai nhận ra Chúa, mặc dầu họ từ Gierusalem trở về Galilê là "để gặp Chúa." Nói theo ví dụ trong phần mở đề, thì họ đã cố ý tiến đến làn sóng 31m, nhưng vẫn chưa “tinh chỉnh” cho đúng tần số để có thể bắt gặp được Chúa. Họ chỉ mới “thấy” Giêsu đứng trên bờ, như một chàng thanh niên nào đó. Chúa Giêsu gợi ý để họ bắt đúng tần số. Ngài phát tín hiệu:

“Các chú có gì ăn không?” Ngôn ngữ miền biển có nghĩa là có đánh được con cá nào không? Họ trả lời “không”. Chán nản, mệt mỏi, vẫn chưa nhận đúng tần số. Chúa lại phát tín hiệu mới như là một lệnh: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, anh em sẽ bắt được cá!”

Bên phải và bên trái thì khác gì đâu. Nhưng giống như một mật hiệu, khi cá thu được nhiều, Gioan (chúng ta tạm xem Gioan là người môn đệ Chúa yêu, như truyền thuyết xưa nay), Gioan nhận đúng tần số và báo liền cho Phêrô: “Chúa đó.” Còn các môn đệ khác, kéo lưới lên bờ đếm được 153 con cá to, lưới không rách, lại thấy than hồng có cá đang nướng bên trên, cộng thêm ít bánh bên cạnh, kèm theo lời mời nghe rất quen của Chúa: “anh em hãy đến mà ăn,” họ mới thật sự là rà đúng tần số. Không ai dám hỏi Người là ai, vì các ông lúc đó biết rằng chính là Chúa.

Do đâu Gioan nhận ra được ngay chính Chúa đó (rà đúng tần số nhanh nhất)? Thưa:

1) Do Gioan có lòng trong sạch. Phúc thứ 6 trong Bát Phúc: Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được "nhìn thấy Chúa." Những tâm hồn trong sạch, nhìn thấy Chúa nhanh hơn vì con mắt họ trong sáng. Có người còn nói mạnh, vì Gioan theo truyền thống là tông đồ duy nhất không lập gia đình, ở độc thân, giữ đức trong sạch, nên ông dễ nhận ra Chúa hơn các tông đồ khác. Nhưng lý do này không đủ mạnh cho bằng:

2) Do Gioan yêu Chúa và được Chúa yêu.

Gioan được kèm theo biệt hiệu “kẻ Chúa yêu”. Trước khi nhận ra “chính Chúa đó” và thông báo cho Phêrô, thì biệt hiệu “Kẻ Chúa yêu” được sách Tin Mừng nhấn mạnh: “Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với Phêrô: Chúa đó.”

Từ trái tim đi tới trái tim là con đường nhanh nhất. Khi hai tim cùng rung một nhịp, một tần số, thì dù cách xa nghìn trùng cũng “thấy nhau”. Hoàng thi Thơ có làm bài hát “Khi tình yêu đến” với những lời lẽ thật ý nghĩa này: “Khi tình yêu tình yêu tới, tuy có đông người, đôi mắt đôi mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi.” Cả một rừng người, chỉ thấy có một mình "ên" em!

Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau?

Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm mua một món quà đưa cho người khác, quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ!

Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thập giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, thì đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, và làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Trong bài Tin mừng, Chúa dọn sẵn cá, bánh, là một cách thức biểu lộ tình thương. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Ai sống cũng trong tình yêu thì nhận ra ngay được tình yêu.

Chính Phê-rô, cuối bài Tin Mừng (bài dài) cũng được thử thách bằng 3 câu hỏi: Có yêu mến Chúa không?

Một nhà kinh doanh ở Chicago có một môn giải trí vui vui, là cứ cuối tuần, ông chọn 5, 7 em bé của các gia đình nghèo, cho các em bộ đồ mới, dẫn các em đi công viên giải trí rồi đi ăn. Cứ vậy, tuần này qua tuần kia. Một hôm, sau bữa ăn khá ngon, một em bé 8 tuổi chỉ vào nhà kinh doanh và nói: “Thưa ông, ông là Giêsu.” Em bé này nói câu như Gioan nói với Phêrô: “Chính Chúa đó.”

Những ai làm ơn lành cho ta, có lẽ ta dễ nhận ra ”chính Chúa đó”.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ ở nơi những ân nhân, Ngài còn ở nơi cộng đoàn, nơi người linh mục, nơi Thánh Thể, và nhất là nơi những người cùng khổ.

Đó là những cách hiện diện của Chúa, những hiện thân của Ngài. Nhiều người trong chúng ta dư “biết” điều đó, nhưng chúng ta không dễ gì nhận ra (thấy) Ngài: như chúng ta biết làn sóng 31m đó… nhưng không thấy Ngài, vì tần số yêu thương ta chưa rà tới. Nói khác đi, ta chưa thật sự sống yêu thương nên không dễ gì nhận ra Chúa.

Phải sống thế nào như một nữ tu tập sự của Mẹ Têrêxa Calcutta: Sau khi chăm sóc cho một người nghèo khổ hấp hối, trở về báo cáo với Mẹ: "Thưa Mẹ, hôm nay con đã đụng tới thân thể Đức Kitô."

Chúng ta cũng phải yêu Chúa và nhất là yêu người để nhận ra ngay đó là Chúa ("chính Chúa đó") mà chúng ta yêu mến. ĐGH Phanxicô khi đi thăm những người tàn tật, đã nói: anh chị em là xác thịt của Chúa Kitô! “Chính Chúa đó!”.

--------------------------------
 
 

PS 3-C159: Chúa luôn ở bên bạn khi khó khăn


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
 
 

Thất bại đã dạy tôi bài học sâu cay: “Khi giàu có, ta không dám cho ai vay tiền nhưng lúc nghèo PS 3-C159


khó, cũng chẳng biết tìm ai để xin giúp đỡ”. Và cũng có câu nói rằng: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Quả đúng vậy, chỉ khi gặp khó khăn, bế tắc, chúng ta mới hiểu được cuộc sống này tìm được người giúp mình vượt qua khó khăn kể là khó. Người ta ví cuộc đời như trái táo:

Tôi có một quả táo, chia cho bạn một nửa, là tình bạn
Tôi cắn một miếng, phần còn lại cho bạn, là tình yêu
Tôi không cắn miếng nào, đưa hết cho bạn, là tình thân
Tôi giấu đi, nói rằng tôi cũng đói, là thực tế xã hội.

Xã hội là thế! Khi giầu có nhiều bạn bè. Khi quyền lực trong tay có hàng trăm kẻ theo hầu. Khi thất bại mới thấy xã hội thật khắc nghiệt. Bạn bè đã bỏ rơi mà xã hội lại càng muốn đạp mình xuống thật sâu trong đau khổ.

Có một linh mục kể rằng: ngài mới về một giáo xứ không được thành công. Việc ngài làm không hiệu quả bị giáo dân phản đối, bị anh em linh mục chế diễu xem thường. Dường như ngài không tìm được sự nâng đỡ, cảm thông, ủi an từ bề trên hay anh em. Một mình trong tủi hổ và cô đơn thất bại.

Đúng là trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành.

Thật hạnh phúc cho người ky-tô hữu chúng ta, vì luôn có một Đấng không bao giờ bỏ rơi ta. Ngài luôn theo sát cuộc đời ta. Ngài luôn có mặt khi ta gặp buồn sầu thất vọng. Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dường như Chúa Giê-su luôn đến bên những ai đang đau khổ buồn rầu để Ngài ủi an nâng đỡ. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một người đồng hànhvà đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).

Tin mừng hôm nay, Ngài đến với các môn đệ như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các môn đệ gặp thất bại: “Suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Cuộc đời hôm nay, có lẽ có nhiều lần chúng ta cũng từng vấp té, nhưng chẳng ai cảm thông, nâng đỡ. Đôi khi còn bàn tán, xem thường, chế diễu... Mỗi lần vấp té đã đau lại càng đau hơn khi không nhận được sự cảm thông nâng đỡ từ anh em. Một mình ta quặn đau. Một mình ta phải đương đầu với khó khăn. Một mình phải gượng đứng dậy. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán trường muốn buông xuôi mặc cho dòng đời đưa đẩy. Nhưng hãy tin tưởng vì Chúa biết mọi sự. Chúa vẫn nhìn chúng ta như Ngài đã từng trìu mến nhìn Phê-rô. Chúa đã từng hứa: “cho dù người mẹ có bỏ con, Ta vẫn không bỏ các ngươi”. Chúa vẫn ân cần vực dậy khi chúng ta vấp té trên đường.

Noi gương các tông đồ, ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen.

-------------------------------
 
 

PS 3-C160: Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây”.
 
 

Gậm nhấm mãi nỗi buồn chối Thầy, dù Thầy không một lời trách cứ, Phêrô tìm một công việc gì PS 3-C160


Gậm nhấm mãi nỗi buồn chối Thầy, dù Thầy không một lời trách cứ, Phêrô tìm một công việc gì làm để đừng nhớ đến nỗi buồn ray rứt đó.

Các anh em khác cùng đi. Nhưng cả đêm không bắt được gì. Một đêm mệt nhọc, lạnh giá mà không kết quả.

Hừng sáng, các ông bơi vào bờ, nhưng trên bờ có ai đó lên tiếng hỏi: “Này các chú có gì không?” Họ trả lời là không. Người ấy bảo: “Hãy thả lưới bên phải thuyền mới có cá”.

Họ làm theo và kết quả vượt mức tưởng tượng của họ là những tay đánh cá lâu năm nơi biển hồ này.

Người bảo họ bủa lưới là ai? Một người chài lưới có kinh nghiệm đã chỉ cho họ luồn cá đang di chuyển? Không chính là Thầy mà họ chưa nhận ra.

Sau khi sống lại, mặc dù Ngài vẫn giữ thân xác của Ngài, nhưng nó đã được biến đổi, vì thế mà Ngài có thể cho họ nhận ra hay không. Các môn đệ thành Emmaus, đi với Ngài suốt một ngày đàng vẫn không thể nhận ra Ngài.

Nơi đây cũng thế, họ không nhận ra Ngài. Có lẽ vì ở xa. Nhưng có một người đã nhận ra, đó là người môn đệ Thầy thương mến: “Chúa đó!” Ông đã nhận ra Thầy bằng con tim.

Khi người ta yêu nhau, quả tim thành một thứ “rađa” rất nhạy bén. Chỉ cần một ánh mắt, một hiện diện. Gioan, trước hết, đã nhận ra Thầy. Có lẽ ông còn nhớ, ngày nào đó, sau một đêm nhọc mệt không kết quả, Thầy đã bảo ra khơi thả lưới và cá đã đổ đầy hai chiếc thuyền. Hôm nay cũng thế, Thầy bảo thả lưới, sau một đêm vất vả vô ích. Cá đầy lưới mà lưới không rách: “Không có Thầy, chúng con không làm được việc gì”.

Muốn bắt được cá, muốn được kết quả, phải theo lệnh Thầy, phải có Thầy. Chúng ta có thể thành công trên phương diện nào đó. Chúng ta có thể tổ chức những buổi lễ hoành tráng, rực rỡ hoa đèn, nhưng ai đo được kết quả? Nhiều khi chỉ tốn kém, cực nhọc mà “không bắt được con cá nào”, lại làm tủi nhục cho những người nghèo, cơm không đủ no. Họ không cần hoa đèn rực rỡ, cũng không cần nhạc trỗi ầm vang. Họ cần được yêu thương, được ân cần nâng đỡ. Tôi có nghe những người đứng nhìn cảnh rực rỡ của một lễ Giáng Sinh: “Dọn lễ này chắc cũng 300 triệu. Phải chi…” Họ không nói thêm, nhưng sự im lặng mang nhiều ý nghĩa… Chúng ta có nhiều luận điệu biện minh cho sự sang trọng xa xỉ của chúng ta: cho sáng danh Chúa – cho Chúa bao nhiêu cũng không đủ - người nghèo có phần của người nghèo…

“Nghe lời Thầy con thả lưới…” Phải có Thầy, nếu không chúng ta chỉ uổng công múa may quay cuồng mà không có ích gì, chỉ phí thời gian và phô trương thôi.

Có Chúa, lưới sẽ đầy cá. Thầy là thế đó! Là sự sung mãn tràn trề, tuyệt diệu. Đám cưới ở Cana, nhà tiệc bỗng đầy rượu hảo hạng. Năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người no nê, còn dư mười hai thúng. Đó là dấu hiệu khiến Gioan nhận ra Thầy.

Chúng ta có nhạy bén nhận ra Chúa trong cuộc đời chúng ta không? Trong những biến cố xảy ra, trong những người anh em chúng ta không? “Chúa đó!” Chúa đang đợi chúng ta sau những ngày sống cơ cực không kết quả.

“Chúa đó!” khi người hàng xóm đang nhờ chúng ta một tay.
“Chúa đó!” khi tai nạn bất ngờ ập đến trên gia đình chúng ta.

Chúa trong từng giây phút.
Chúa trên mọi nẻo đường.
Hãy mau mắn như Phêrô đón Chúa.

Phêrô, khi nghe biết là Thầy, nhanh tay khoác áo vào và nhảy ngay xuống biển để đến gặp Thầy. Phêrô bao giờ cũng mau mắn, bộc trực, cũng thành thật nhưng mau thay đổi. Nhưng Thầy vẫn tin vào con người thành thật đó.

Các môn đệ khác kéo lưới vào bờ và kiểm tra kết quả: 153 con cá lớn. Con số này đã làm hao nhiều giấy bút. Chúng ta chỉ hiểu theo thánh Hiêrônimô: con số 153 tượng trưng cho mọi dân tộc trên thế giới, báo trước sứ mệnh của các Tông đồ là phải chinh phục các linh hồn. Mẻ cá lạ lùng này cũng giống như mẻ cá ngày nào khi Chúa gọi các ông làm “kẻ lưới người ta”, cũng trên bờ hồ này. Đây phải chăng là hình bóng của sứ mệnh Ngài trao cho các Tông đồ: “Hãy đi rao giảng khắp muôn dân…”

Ngài không còn hiện diện cụ thể trong trần gian nữa, các Tông đồ sẽ tiếp nối sứ mệnh của Thầy.

Đây là những giây phút quí báu cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Ngài làm một việc “lạ” hơn thường. Ngài nhóm lửa, nướng cá và bánh mì cho các ông. “Hãy lại đây ăn”.

Sau một đêm đánh cá vừa đói, vừa lạnh. Đám than hồng sưởi ấm và thức ăn đã sẵn. Khi đói lạnh mà có một đám than hồng sưởi ấm và bánh cá nướng thì còn gì ngon bằng! Và do ai? Thầy! Thầy thật ân cần! thật đáng yêu! Thầy như một người mẹ hiền hiểu những nhu cầu của con. “Hãy lại đây ăn”. Lời mời gọi thân tình, ngọt ngào thế nào đâu ấy!

Bữa ăn quanh ngọn lửa này trên bãi biển, ấm cúng, thân thương. Phải chăng đây là hình bóng của bữa tiệc Thánh Thể, của cộng đoàn dân Chúa, được mời gọi đến chia nhau bữa ăn đầy yêu thương do chính Chúa dọn sẵn? “Này là Mình Thầy… Chúng con hãy cầm lấy mà ăn”.

Không ai dám hỏi vì ai cũng biết là Thầy. Nhưng hành động, thái độ và tiếng nói của Thầy làm cho lòng các ông ấm lại. Lúc này chỉ cần im lặng để cho con tim nhìn thấy và cảm nhận.

Ăn xong, quanh ngọn lửa tàn, Chúa Giêsu nhìn Phêrô cũng như đã nhìn Tôma. Chúa hỏi: “Simon Phêrô, con ông Gioan, con có thương Thầy hơn nhưng người này không?” (khi gọi tên và nói cả tên cha, theo tục lệ Do Thái là đặc biệt chú ý đến người đó).

“Thương thầy hơn”, Chúa Giêsu chú ý đến từng tiếng. Chúa muốn Phêrô chứng tỏ tình yêu của mình trước mặt anh em, và Phêrô khiêm tốn trả lời: “Thầy biết, con yêu mến Thầy”.

Câu hỏi được lặp lại ba lần và lần thứ ba, hình như Phêrô hiểu và tỏ ra buồn. Ông nhớ lại ba lần chối Thầy. Hôm nào ông đã cương quyết liều mạng cho Thầy, hôm nay, ông nhìn nhận sự mong manh của mình. Yếu đuối, nhưng tình yêu nguyên vẹn và chắc không tự tin mà khiêm tốn: “Thầy biết mà, con yêu mến Thầy”.

Mỗi lần nói yêu mến Thầy, Thầy trao cho một sứ mệnh, cũng lặp lại ba lần: “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”, đàn chiên mà Thầy đã cứu vớt bằng chính cái chết đau thương, bằng dòng máu tinh tuyền của Thầy. Đàn chiên này quí giá hơn mọi sự trần gian, Thầy trao trong tay con. Hãy chăn dắt với tất cả tình yêu. Thầy tin cậy vào con”.

Phêrô đã nhận sứ mệnh đặc biệt đó và đã theo Thầy đến cùng.

Hôm nay, Thầy cũng hỏi mọi người chúng ta: “Con có yêu mến Thầy không?”

Chúng ta dám trả lời như Phêrô không? Nói yêu thì rất dễ, nhưng trung thành với tình yêu không dễ chút nào. Biết bao nhiêu gia đình sụp đổ chỉ vì họ không có can đảm yêu thương thực sự. Nhiều người chỉ mơ mộng thôi vì tình yêu đưa đến cái chết: “Chết cho người mình yêu”. Chúa Giêsu đã yêu đến tận cùng. Chúng ta chết không phải vì roi đòn, vì thập giá, nhưng chết vì phục vụ, hi sinh để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu.

“Con có yêu mến Thầy không?” Câu hỏi này là một ám ảnh êm đềm cho những ai yêu mến Chúa.

Câu nói cuối cùng Ngài nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, cũng là câu nói cuối cùng Ngài nói với mỗi tâm hồn thiện chí. Câu nói mang một âm vang nhẹ nhàng yêu thương, là một mời gọi kết nối cuộc đời chúng ta với Ngài… Bất tận!

--------------------------------
 
 

PS 3-C161: Anh em hãy đến mà ăn


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 
 

Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu quan tâm và săn sóc các tông đồ. “Này anh em, không có PS 3-C161


Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu quan tâm và săn sóc các tông đồ. “Này anh em, không có gì ăn ư?… Thả lưới xuống bên hữu thuyền thì sẽ bắt được cá”. “Khi lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt lên trên, và có cả bánh nữa. Đức Yêsu bảo các ông: đem ít cá mới bắt được tới đây… Anh em đến mà ăn” (Ga.21, 5-6. 9-10. 12). Qua cách đối xử của Đức Yêsu, các môn đệ nhận ra Ngài. Phải chăng đây là cách đối xử bình thường của Đức Yêsu đối với các môn đệ? Ngài luôn quan tâm để ý và săn sóc các ông, không chỉ về nhu cầu tinh thần nhưng cả nhu cầu vật chất nữa.

Các tông đồ làm chứng cho Đức Yêsu trước mặt mọi người, kể cả trước mặt những người có quyền hành: “Đức Yêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa cha ông chúng ta đã làm cho Ngài trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv.5, 30-31). Đức Yêsu mà các tông đồ rao giảng, những người thời đó ai cũng biết, đặc biệt là các thượng tế ký lục và biệt phái, là người có tương quan rất đặc biệt đối với các tông đồ. Các tông đồ đã sống với Ngài trước khi Ngài bị bắt và bị giết; hôm nay Đức Yêsu Phục Sinh săn sóc đặc biệt các tông đồ. Dù có bị ngăn cản cấm không được rao giảng nhân danh Đức Yêsu nữa, nhưng các tông đồ không thể vâng lời những người có quyền hành được. Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người. Các tông đồ vẫn tiếp tục rao giảng Đức Yêsu bị bắt, bị giết nhưng nay Ngài vẫn sống.

Đức Yêsu, được hiểu là, “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh.5, 12). Cái nhìn về Đức Yêsu đã biến đổi. Ngài không chỉ đơn thuần là người, mà là Con Chiên, Đấng gánh tội trần gian, Đấng xứng đáng lãnh nhận mọi vinh quang. Đức Yêsu mà các tông đồ rao giảng, là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, để con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người, để con người có thể tin tưởng phó thác tất cả đời họ cho Thiên Chúa hầu được bình an hạnh phúc.

Các tông đồ nhận ra sứ mạng của các ngài: rao giảng Đức Yêsu Phục Sinh. Làm chứng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi Đức Yêsu. Ngài đã rong ruổi rao giảng, đã chết, và nay đang sống. Ngài là công trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người. Tin Đức Yêsu đã phục sinh là khởi đầu để nhận ra chân tướng của Ngài. Ngài là một tiên tri, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Những người tốt lành, các thiên thần, các vị thiên sai đều được gọi là con Thiên Chúa; nhưng Đức Yêsu là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Con Thiên Chúa. Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), là Lời nhập thể (Ga.1, 14). Đức Yêsu là Con Chiên, xứng đáng mọi lời ca tụng.

Con Chiên này, theo cái nhìn của sách Khải Huyền, được đặt ngang hàng với Thiên Chúa, được nhận những danh dự dành cho Thiên Chúa: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh.5, 13). Đức Yêsu, Con Chiên đã bị giết nhưng vẫn đang sống, được chúc tụng cùng với Thiên Chúa. Đức Yêsu Phục Sinh, ngang hàng với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.

Đức Yêsu là Con Người, Con Chiên, Con Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Những từ ngữ này dùng để diễn tả chân tướng của Đức Yêsu. Lúc đó người ta chưa dùng từ ngữ Ba Ngôi để chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa, và chưa có từ Ngôi Hai nhập thể để chỉ Đức Yêsu. Từ ngữ Ba Ngôi chỉ xuất hiện sau này, để diễn tả thực tại Thiên Chúa vượt quá trí hiểu của con người. Đức Yêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa, giúp con người nhận ra Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, là Đấng yêu thương con người vô cùng.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Đức Yêsu rất gần gũi con người. Bạn nghĩ sao về khẳng định này? Bạn có thể chứng minh điều này được không?
2. Đức Yêsu Phục Sinh đang ở đâu? Bạn có thể gặp gỡ và nói chuyện với Ngài được không? Xin chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh, nếu có.

------------------------------
 
 

PS 3-C162: Chú giải của Noel Quesson


Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh”.
 
 

Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là PS 3-C162


Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.

Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.

Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya... họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.

Bảy người đang sống trên "biển nổi sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên... nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.

Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.

Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa không". Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ "bờ" bên kia?

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.

Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.

Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.

Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "

Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một "bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.

Ta biết tầm quan trọng của "bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.

Ông Simon - Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.

Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.

Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như "tấm lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả "chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.

Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.

Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!

Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Đây là bữa ăn thực sự... đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.
Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ", từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…

Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở "trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta "lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là Bánh hằng sống... Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ "con cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:

Lèsous Kristos Théou Unios Sôter
Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện "bằng xương, bằng thịt" nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".

Lần thứ hai... rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.

Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy".

Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu! "Anh có mến Thầy không?": Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh X... anh có yêu Thầy không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.

Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….

Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.

Thật Thầy bảo thật cho anh biết: "Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy".

Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt lưng cho anh"), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.

----------------------------
 
 

PS 3-C163: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
 
 

Sách Tông đồ Công vụ thường được gọi là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần. Nội dung sách này PS 3-C163


Sách Tông đồ Công vụ thường được gọi là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần. Nội dung sách này kể lại đời sống Đức tin của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, nhất là chứng từ của các tông đồ và nỗ lực truyền giáo của các ngài. Vào thời sơ khai ấy, nội dung lời giảng dạy của các tông đồ rất đơn giản, chỉ là sự quả quyết Đức Giêsu đã chết nhưng đã sống lại theo như lời Thánh Kinh và Người đang hiện diện giữa các tín hữu. Bài đọc I cho thấy, vị Thượng tế và các thành viên Thượng Hội đồng rất đỗi ngạc nhiên, vì thấy Phêrô và các tông đồ là những người dân chài ít học quê mùa, nhưng lời chứng của các ông rất rõ ràng, xác quyết. Các ông còn sẵn sàng chấp nhận đau khổ để chứng minh sự sống lại của Đức Giêsu. Hơn nữa, Phêrô còn tỏ ra rất uyên bác và khôn ngoan, khi tuyên bố trước các thành viên của Thượng Hội đồng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Ông còn diễn giải sự phục sinh của Đức Giêsu là do quyền năng của Thiên Chúa. Ông sẵn sàng làm chứng, cùng với Thánh Thần “Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”. Lời chứng của các ông mạnh mẽ đến nỗi, những thành viên Thượng Hội đồng là những người học thức, phải im lặng. Họ không làm gì được các ông, và chỉ còn gỡ thể diện bằng cách cho đánh đòn rồi thả các ông ra.

Không chỉ Phêrô và các tông đồ, cộng đoàn tín hữu tiên khởi cũng xác tín vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Chính Đấng Phục sinh đã làm cho lời giảng của các tông đồ mang tính thuyết phục. Chính Đấng Phục sinh đã quy tụ các tín hữu, để làm nên một thân thể và một tâm hồn, liên kết với nhau trong tình hiệp thông. Vì thế mà số người tin theo Chúa Giêsu qua lời giảng của các tông đồ tăng lên nhanh chóng.

Thực ra, ban đầu các môn đệ cũng rất hoang mang trước cái chết của Chúa. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus là một ví dụ. Dường như các ông chưa hiểu được sứ mạng của mình sau sự kiện Phục sinh. Việc ông Phêrô đi đánh cá, và các môn đệ cùng đi với ông trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các ông đã muốn trở lại với nghề nghiệp cũ, tức là nghề đánh cá, là công việc các ông vẫn làm trước khi theo Chúa Giêsu. Bởi lẽ khi nghe Chúa gọi, các ông đã bỏ thuyền, bỏ chài lưới và bỏ gia đình, cha mẹ mà đi theo Người. Qua việc các ông đi đánh cá, dường như việc theo Chúa đã kết thúc. Hơn ai hết, các ông hiểu thời điểm và vị trí nào thuận tiện để mẻ lưới có kết quả. Tuy vậy, các ông vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Chỉ đến lúc Đức Giêsu hiện ra và bảo các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, lúc bấy giờ, các ông mới thu hoạch được mẻ lưới kỳ diệu.

Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu hiện diện giữa các môn đệ với một phong thái khác. Chính các ông cũng không nhận ra Người, mặc dù trước đó các ông ở với Người, cùng ăn uống với Người. Chỉ khi trực tiếp chứng kiến mẻ cá lạ, mắt các ông mới mở ra và nhận ra Thày mình. Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mang tính huyền nhiệm linh thiêng, không còn như trước, bởi Người đã từ cõi chết sống lại. Nếu Chúa hiện diện vô hình và huyền nhiệm, thì hiệu năng của sự hiện diện ấy lại vô cùng mãnh liệt. Thánh sử Gioan ghi rõ số cá thu được từ mẻ lưới lạ là 153 con. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, con số 153 là số loài cá dưới đại dương mà những nhà nghiên cứu chuyên môn thời bấy giờ thống kê được. Như thế, 153 con cá có nghĩa là tất cả các loài cá dưới đại dương. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện qua Đức Giêsu Kitô mang tính hoàn vũ. Tất cả mọi người dưới gầm trời này, nếu đến với Đức Giêsu và đón nhận giáo huấn của Người, thì đều được cứu rỗi. Đó cũng là điều tác giả sách Khải Huyền đã thấy trong thị kiến, ở Bài đọc II của Chúa nhật này. Tác giả viết: “Tôi nghe thấy mọi loài thụ tạo trên trời dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả cùng tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời”. Con Chiên chính là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng đã chịu sát tế làm của lễ dâng lên Chúa Cha, giống như con chiên mà người Do Thái giết trong dịp lễ Vượt qua để tưởng niệm việc Chúa cứu Dân Ngài ra khỏi Ai Cập. Như máu chiên bôi trên khung cửa nhà người Do Thái để tránh cho các con đầu lòng bị tàn sát, máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá tẩy rửa tội lỗi, giải phóng và ban ơn cứu độ cho loài người.

Cuộc gặp gỡ giữa các môn đệ với Đức Kitô Phục sinh, vừa củng cố Đức tin của các ông, đồng thời cũng là dịp Chúa trao trách nhiệm trông coi đàn chiên, mà người đứng đầu là Phêrô. Trách nhiệm này chỉ được trao phó khi Phêrô thành tín tuyên xưng tình yêu mến và lòng trung thành. Lời tuyên xưng ấy, Phêrô đã giữ suốt đời, cho đến lúc chết để làm chứng cho Thày mình. Tác giả cuốn tiểu thuyết nối tiếng “Quo Vadis” của nhà văn người Ba Lan, Henryk Sienkievich, đã diễn tả Phêrô như một ông cụ già nua, khả kính, luôn hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu trong lúc cuộc bách hại của hoàng đế Nêrô ở thời điểm khốc liệt nhất. Trong cuộc hành hình các tín hữu ở Hý trường Rôma, Phêrô vẫn hiện diện giữa đám khán giả, để chúc lành cho các tín hữu đang bị làm mồi cho sư tử. Sự hiện diện của vị Tông đồ trưởng đã tiếp thêm sức mạnh để các tín hữu can đảm và trung thành tuyên xưng Đức tin cho đến hơi thở cuối cùng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Phêrô cảm thấy buồn, vì Thày hỏi đến ba lần về lòng yêu mến. Thực ra, những cử chỉ và lời nói yêu thương cần phải được lặp đi lặp suốt cả cuộc đời, như đôi lứa đang yêu tâm sự cùng nhau, như mẹ cha nói với con cái và như con cái tỏ bày với cha mẹ. Phêrô đã trung thành với lời hứa ấy. Chúa đã quên quá khứ của ông. Người không còn nhớ đến lỗi lầm của Phêrô cũng không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng ta.

Cũng như Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên, Người cũng đang mời gọi chúng ta làm chứng cho Người giữa thế gian. Làm chứng cho Chúa Phục sinh là sứ mạng nhiều khó khăn gian khổ. Chúa đã nói với tông đồ Phêrô về một tương lai sắp tới: “Anh sẽ phải giang tay cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Thánh sử Gioan đã nhận thấy đây là một lời tiên tri, ám chỉ Phêrô sẽ phải trải qua đau khổ và phải chết. Những chứng nhân của Chúa, thời nào cũng trải qua thập giá. Bởi lẽ, chúng ta rao giảng một Đức Giêsu chịu khổ hình và chịu đóng đinh. Muốn là người môn đệ đích thực, Kitô hữu phải đi trên con đường Thày mình đã đi. Đó là con đường thập giá. Nhưng thập giá không phải là đích điểm của hành trình Kitô hữu. Đó chỉ là một chặng đường tiến tới Phục sinh. Chúng ta đang đi trên con đường ấy, với lòng kiên nhẫn và trung thành, có Đấng Phục sinh luôn hiện diện và đỡ nâng chúng ta. Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã ghi lại một điều bất ngờ: khi Thượng tế và các thành viên Thượng Hội đồng ra lệnh đánh đòn ông Phêrô và các tông đồ, có ý đe doạ và làm các ông xấu hổ, các ông lại vui mừng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu không phải là một điều xấu hổ hay thẹn thùng, nhưng một vinh dự mang lại niềm vui. Tuy vậy, để có thể tuyên xưng Đức Giêsu Phục sinh, chúng ta phải kết nối với Người, tức là gặp gỡ Chúa, qua lời cầu nguyện và niềm tín thác cậy trông.

Người tín hữu mừng lễ Phục sinh không giống như một lễ hội thế tục. Các nghi lễ Phụng vụ giúp cho chúng ta gặp gỡ Đấng Phục sinh, để xác tín vào sự hiện diện của Người, đồng thời có khả năng giới thiệu Chúa cho những người xung quanh mình.

Xin cho mỗi Kitô hữu chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa giữa đời, để rồi nếu người thời nay không nhìn thấy Đấng Phục sinh, thì họ nhận ra Người đang sống và đang hiện diện qua những môn đệ của Người là chính chúng ta. Amen.

---------------------------------
 
 

PS 3-C164: MƠ ƯỚC ĐẸP


Lm. Jos DĐH.
 
 

Lên đường, khởi hành, ra khơi, chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta nghiêm túc với điểm đến ở PS 3-C164


Lên đường, khởi hành, ra khơi, chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta nghiêm túc với điểm đến ở phía trước. Cuộc đời chúng ta luôn có gian truân vất vả, đồng thời cũng sẽ thu được kết quả nhiều hoặc ít. Dù muốn hay không, đều phải tuân quy luật: cuộc hành trình ngàn dặm, cũng bắt đầu từ bước chân. Nhân vô thập toàn, nhưng ai cũng có thời gian, có cơ hội để tập luyện, hoàn thiện mình, hầu đạt tới mức độ trưởng thành thật sự. Cha ông chúng ta cho rằng: cần phải có cái đầu tỉnh táo, người ta mới biết sử dụng thời giờ cách hợp lý, hợp tình. Mơ ước nhiều tiền lắm của, khao khát được dồi dào sức khoẻ, được phong phú về kiến thức, đúng là đẹp và chuẩn hết ý. Bằng những cảm nghiệm riêng tư, một số lại cho rằng, đời còn gì vui hơn trong phút giây được yêu, dù mai này tình phụ hay phụ tình, đều là khổ là đau.

Được ra khơi là niềm vui của các ngư phủ, tuy là dân chuyên, thế mà suốt cả đêm các ông không bắt được con cá nào, thất bại là mẹ thành công, thiết tưởng các ông chỉ mơ ước nhỏ bé thế thôi ! Tiếp đến là tình yêu thương, đã cho thấy hành trình của các ông khởi sắc ngay khi Vị khách lạ xuất hiện, việc ra khơi thả lưới là điều khó chấp nhận, nếu các ông không được thôi thúc từ bên trong. Rõ ràng các ngư phủ không muốn thất bại, các ông phải vượt lên chính mình, phải vượt qua tự ái để nghe theo Vị khách lạ: “các bạn có gì ăn không ? Hãy thả lưới bên phải thuyền thì sẽ được”. Sự khôn ngoan ở đời: gió chiều nào theo chiều ấy, hoặc có bệnh vái tứ phương. Sự khôn ngoan của người môn đệ theo Chúa là: “ai không chống đối ta là ủng hộ ta”. (Mc 9, 40). “Bất cứ ai sống mà tin vào Thầy sẽ không phải thất vọng bao giờ”. (Ga 11, 26)

Tât cả mọi người đều có quyền mơ ước, dù lên đường đi du học, khăn gói đi làm kinh tế ở nơi xa, ai chẳng muốn thành công, được kết quả tốt đẹp. Có Đấng phục sinh, có niềm tin và vâng nghe Đấng là Thầy là Chúa, các môn đệ đã thấy mẻ cá lạ cùng. Trước mẻ cả đặc biệt, hẳn Vị khách lạ muốn nói về tình yêu và quyền năng của Đấng phục sinh, giống các ngư phủ hôm xưa, ai cũng có quyền mơ ước thành công. Bài học các môn đệ thể hiện, không phải là bề dày kiến thức hay kinh nghiệm đánh bắt cá, mà ở đâu có tình yêu, có niềm tin, có sự hiện diện của Đấng phục sinh, ở đó có phép lạ, có hạnh phúc. Sứ điệp mà Đấng phục sinh tác động nơi tâm hồn các học trò hết sức chân tình: cố gắng quên người mình yêu, cũng giống như cố gắng nhớ người mình yêu chưa bao giờ gặp.

Mơ ước đẹp đối với các môn đệ, chắc chắn không phải là “công lý báo thù”, không phải là ra khơi bắt cá, mơ ước đẹp cũng không phải là lẩn tránh Đấng đã chết vì yêu, Đấng đã sống lại vì yêu. Mơ ước đẹp đối với chúng ta hôm nay, chắc không phải là ngồi đó chờ phép lạ, điều đẹp ý Chúa thật đơn giản, là hãy tin Chúa luôn đồng hành với tất cả những ai thuộc về Đấng phục sinh. Mơ ước đẹp sẽ còn thôi thúc chúng ta đừng nghĩ rằng: tài giỏi là thông minh, giầu sang là do chăm chỉ, do chí thú làm ăn. Không phải cầu được ước thấy là do đạo đức hơn người, hãy tin, có Chúa trong cuộc sống là có tất cả. Đấng phục sinh sẽ còn ra khơi với các học trò, hiện diện, chúc lành, nhưng không phải là “lưới cá” mà là “lưới người”, đem các linh hồn trở về với Thiên Chúa cứu độ. Đừng xem thường lời động viên khích lệ của đấng bậc sinh thành, hãy khiêm tốn để thấy Chúa yêu ta, để hiểu và sống nén bạc Chúa trao.

Đấng phục sinh chính là mơ ước đẹp của từng người trong chúng ta, Ngài theo và ở cùng các môn đệ, Ngài cũng sẽ ở cùng mỗi chúng ta, dù ý thức của chúng ta còn non kém, giới hạn. Đấng phục sinh sẽ không hiện diện cách hữu hình, nhưng tình yêu và mơ ước đẹp của Ngài vẫn ở trong những ai tin Đức Kitô là Vị lãnh đạo tối cao. Đấng phục sinh mở ra cho các học trò: sứ mạng theo Thầy là qua đau khổ thập giá đến vinh quang, là cầu nguyện và hoạt động, là được yêu thương vì biết yêu. Sống ở đời, người ta vẫn cư xử với nhau rất sòng phẳng: có tiền bạn tựa như quan lớn, không tiền bạn chỉ là thứ dân. Đấng phục sinh đã đồng hành với các môn đệ, Ngài cho thấy hành trình cuộc đời, tin theo Chúa là một chuỗi ngày những hồng ân với mơ ước đẹp, có sức mạnh và phép lạ tình yêu thương hiện diện.

Con đường đưa đến sự khốn cùng, bao giờ cũng bằng phẳng. (Hésiode). Con đường đi đến hạnh phúc thật, không thể thiếu vắng khổ đau thập giá. Mơ ước đẹp mãi mãi là mơ ước được mở ngỏ, được chúc phúc, khi mỗi người biết chọn lựa và sống niềm tin có Chúa nơi các tương quan. Nếu ở đời quan niệm: vẻ đẹp bên ngoài, bắt nguồn từ sức khoẻ bên trong, thành công, tài giỏi thông minh, hoặc có danh có phận, nhưng thiếu bình an, thì cũng chỉ là hạnh phúc giả tạo, có khác gì người giầu thiếu sự khôn ngoan, nên bị xem như bù nhìn mặc áo gấm. Tất cả đều đáng thương, dù trẻ hay già cũng cần được quan tâm, Chúa phục sinh không đòi hỏi thành quả nơi chúng ta, nhưng Ngài rất cần mỗi người hãy bày tỏ niềm tin bằng ước mơ đẹp có Chúa. Amen.

----------------------------------
 
 

PS 3-C165: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH


Jorathe Nắng Tím
 
 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đi vào bầu khí hân hoan của những người tin vào PS 3-C165


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đi vào bầu khí hân hoan của những người tin vào Đức Giêsu sống lại. Họ là những môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, được ở với Ngài, chia sẻ  gian truân, đau khổ với Ngài và được thấy Ngài trong thân xác phục sinh. Họ là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7,9) đang cùng “ức ức triệu triệu các thiên thần” lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời chúc tụng” (Kh 5,11-12).

Bài đọc thứ nhất làm chứng sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh đã biến đổi những con người yếu đuối, nhát đảm mới hôm nào còn lấm lét sợ người Do Thái, còn kinh hãi bỏ Thầy trốn chạy để bảo toàn mạng sống, còn nao núng, chao đảo, thất vọng qua hành động thề thốt “không biết người ấy là ai” trước đầy tớ gái của thượng tế Caipha đang khi Thầy bị tra khảo (x. Mc 14,66-71), nay trở thành những chứng nhân anh dũng, mạnh mẽ trước uy lực của “thần quyền” là “Thượng Hội Đồng gồm” vị thượng tế và những người kề cận, cùng toàn thể viện bô lão Ítraen” (Cv 5,21) khi cương quyết tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29), trước lệnh “nghiêm cấm các ông không được giảng dạy” về danh Đức Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh, “nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy” (x.Cv 5, 28.30).

Bên cạnh sức mạnh phục sinh là niềm vui phục sinh của các môn đệ được Tin Mừng Gioan kể lại.

Trước hết, các môn đệ  hớn hở vui mừng vì bất ngờ “có người” đến chỉ cho các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” sau đêm dài thức trắng mà không bắt được con nào, và các ông đã “trúng” mẻ cá khủng, “vì lưới đầy những cá” (Ga 21,6).

Và niềm vui ấy bất chợt vút cao, khi bước lên bờ, các ông thấy “người ấy” đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt trên, và có cả bánh nữa”, lại còn thân thiện  mời các ông: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21,12).

Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhận  đây là cho đến lúc này không ai trong các ông đã nhận ra “người ấy” chính là Đức Giêsu, và có “nhận ra đó là Chúa”  cũng “không ai trong các môn đệ dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” (x. Ga 21,4.12).

Sau cùng, niềm vui  đã vỡ òa  khi chính “Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (Ga 21,13), là cử chỉ Đức Giêsu đã làm trong bữa ăn cuối cùng với các ông trước khi chịu khổ nạn và tử hình đóng đinh. Cử chỉ này làm các ông nhớ lại những lời trăn trối dạt dào yêu thương của Ngài, và  hôm nay, sau khi sống lai, tình yêu ấy lại được công khai thể hiện khi Đức Giêsu  âu yếm hỏi Phêrô đến ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” và nói với ông: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21.15.16.17).

Quả thực, Đức Giêsu sống lại là sức mạnh và niềm vui của những ai tin vào Ngài và đi theo Ngài.

Họ được trở nên mạnh mẽ vì qua biến cố phục sinh, họ nhận ra Đức Giêsu chính là “vị Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ”, Đấng mà “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, hầu đem cho dân Người ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv 5,31), đồng thời là “Chúa” như thánh tông đồ dân ngoại đã quả quyết: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người… và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9.11).

Họ được hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh của Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, vì qua Thánh Giá, Ngài đã chiến thắng tội lỗi, thần chết, hỏa ngục. Bằng chứng là khi được thả ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các Tông Đồ phấn khởi, “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).

Niềm vui ấy sẽ không bao giờ vơi cạn, vì ơn phục sinh đã cho đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu nhận ra Ngài là “người cha nhân hậu, quan phòng” quan tâm đến từng đứa con, như Đức Giêsu phục sinh đã chu đáo chuẩn bị sẵn than hồng, bánh, cá trên bờ, vì biết các môn đệ của Ngài  rất đói sau đêm dài mất ngủ và vất vả chài lưới.

Niềm vui ấy ngày càng phong phú, sâu sa vì họ nhận ra Đức Giêsu chính là Mục Tử  nhân lành chăn dắt đàn chiên bằng tình yêu; chăm sóc  chiên con yếu đuối, thơ dại bằng tình mẹ bao la, ân cần, tận tụy; và chăm nom đám chiên đau bệnh, xa đàn, lạc đàn bằng tình yêu nhẫn nại chịu đựng, kiên trì đợi chờ và  bao dung, thương xót.

Tóm lại, người môn đệ trên đường làm chứng, loan báo Nước Trời luôn được sức mạnh và niềm vui của Đức Giêsu phục sinh, Đấng mà Thiên Chúa đã nâng lên làm “Chúa, Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ và Mục Tử nhân lành” bao phủ, gìn giữ, bảo đảm. Và chính Ngài là Đấng chúng ta tuyệt đối tin tưởng và hy vọng, vì chỉ một mình Ngài là “Đường, Sự Thật, Sự Sống” và “Sự Sống Lại” (Ga 14,6 ; 11,25).

----------------------------------
 
 

PS 3-C166: TÌNH YÊU MẾN


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm
 
 

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ đã hai lần gặp được Chúa bằng xương bằng thịt (x. Ga 20 PS 3-C166


Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ đã hai lần gặp được Chúa bằng xương bằng thịt (x. Ga 20. 19.26), nhưng xem ra quá ngắn ngủi. Lòng các ông cũng còn bối rối và lo sợ, nên chưa đủ mạnh để thay đổi cuộc đời mình. Thầy không còn bên cạnh như trước nữa, nên họ thấy trống vắng, buồn tẻ và cuộc sống hằng ngày dường như vô vị, không còn ý nghĩa. Trong tâm trạng đó, họ muốn trở về với đời sống của dân thuyền chài, trở về với những gì quen thuộc ngày xưa để lấp đầy khoảng trống mênh mông. Trong tâm trạng như thế, nên khi Phêrô gợi ý đi đánh cá là họ đồng thanh hưởng ứng ngay.

Các ông đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào. Vào buổi bình minh của ngày mới, giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu xuất hiện trên bờ hồ, nhưng họ không nhận ra. Ngài bảo cho các ông cứ thả lưới bên phải mạn thuyền. Họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra, người môn đệ thân yêu đã tinh ý nhận ra là chính Chúa Giêsu, và nói với Phêrô: “Chúa đó”. Ông liền nhảy xuống biển, bơi ngay vào bờ để gặp Chúa.

Khi đưa thuyền vào bờ, các ông thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bánh và cá nướng. Chúa Phục Sinh dọn bữa sáng cho các ông. Bầu khí thật ấm cúng và chan hòa tình nghĩa Thầy trò. Khung cảnh bữa ăn gợi lên bầu khí của thánh lễ, cũng Chính Chúa dọn bữa ăn cho chúng ta, không phải của ăn vật chất mà là chính Lời Ngài và Mình Ngài. Hội Thánh vừa lan rộng vừa tập trung nơi thánh lễ, để kín múc và trao ban ơn phúc. Ðó là nhịp thở đều đặn làm nên sức sống cho Hội Thánh.

Hội Thánh ấy giờ đây được giao cho Simon Phêrô, nhưng trước hết ông phải trải qua một cuộc sát hạch: “Này anh Simon… anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không ?”. Câu hỏi thật khác thường khi giao sứ mạng, Chúa Giêsu không đặt vấn đề khả năng lãnh đạo hay tầm nhìn sâu rộng, nhưng là tình yêu mến. Có lẽ ông rất ngượng ngùng vì mới chối Thầy ba lần, mà Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả thật khó khăn. Chắc chắn là ông yêu mến Thầy rồi, nhưng Ngài lại thích cái “hơn”.

Tình yêu là như thế, chỉ khi yêu “hơn”, người ta mới dám sống “hơn” cho người mình yêu. Nhiệm vụ càng cao thì phải yêu mến càng nhiều. Bởi ai cũng rất sợ những người làm to mà trái tim lại quá nhỏ. Ngài hỏi Phêrô đến ba lần về tình yêu mến, như muốn xóa sạch mọi ký ức của ông về việc chối Ngài ba lần, để ông đừng tự phụ dựa vào sức riêng của mình nữa, mà từ đây hãy dựa vào chính Ngài. Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Thánh Phaolô cho thấy, không có tình yêu mến thì mọi hy sinh và công lao sẽ trở thành tro bụi (x. Cr 13,1-7). Nó khiến ta lệch lạc ngay trong cách sống hằng ngày: không có tình yêu mến thì bổn phận khiến ta dễ nóng giận; trách nhiệm đẩy ta tới chỗ bất nhã; công bằng làm cho ta đâm ra tàn nhẫn; sự thật biến ta thành kẻ ưa soi mói; khôn ngoan dẫn ta tới chỗ láu cá; sự đon đả biến ta thành kẻ giả dối; hiểu biết đẩy ta trở thành kẻ cố chấp; quyền bính khiến ta trở thành kẻ áp bức; danh thơm tiếng tốt làm ta trở thành kẻ kiêu ngạo; của cải làm ta trở nên tham lam; lòng tin biến ta thành kẻ cuồng tín.

Không có tình yêu mến, trên đời này ta không là gì cả! Nhưng với tình yêu mến, ta sẽ trở nên tất cả. Chỉ có tình yêu mới làm nên những điều nhiệm lạ chứ không phải tài năng hay tri thức. Thế giới này cũng chỉ được thu phục bởi tình yêu. Cha thánh Vianey cũng đã khẳng định: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!”.

Hôm nay Đức Kitô Phục Sinh cũng hỏi mỗi người chúng ta về tình yêu mến, được biểu lộ bằng việc sống hết mình cho Chúa và tha nhân. Cuộc sống này chẳng ai tin vào lời chúng ta nói, người ta chỉ tin vào việc chúng ta làm. Người ta cũng chẳng tin vào việc chúng ta đi lễ, mà chỉ tin khi cuộc đời ta biến thành của lễ, nghĩa là thấy được sự dấn thân phục vụ của chúng ta để đem lại những gì tốt đẹp cho con người và xã hội hôm nay. Thánh lễ nối dài là như thế, là Chúa tiếp tục tỏ mình và hiến mình cho nhân loại qua chính đời sống của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Thiên Chúa của Tình Yêu!
Với tình yêu thì không gì là thiếu,
tình yêu sẽ làm nên điều huyền diệu,
cho con thấy những chứng tích cao siêu.

Chính tình yêu là nguồn mạch sự sống,
khơi sáng mọi hoạt động của nhân trần.
làm nên ý nghĩa và giá trị nhân sinh,
là biểu hiện cao vời của nhân tính,
đỉnh cao nhân cách và lòng nhân đạo,
chiều sâu của tâm linh và tôn giáo.

Thành công không phải làm điều lớn lao,
mà làm sao thể hiện được tình yêu,
tội lỗi là vì đã từ chối tình yêu,
để chạy theo những dự định của mình,
và không theo chương trình của Thiên Chúa.

Khi Chúa đặt Phê-rô đứng làm đầu,
Chúa không đòi tài cao hay đức trọng,
mà chỉ cần một lòng mến thâm sâu,
còn mọi sự chính Chúa sẽ làm sau.

Cuộc đời con cũng chỉ cần như vậy,
là một trái tim yêu thật thắm nồng,
dám biểu tỏ hằng ngày trong cuộc sống
để đem đến niềm an vui hy vọng.

Xin cho con luôn yêu Chúa hết lòng,
để phục vụ với tính cách khiêm nhường,
để ứng xử với tâm hồn cao thượng,
để bức phá giới hạn của đời thường,
và tiến đến vô hạn của tình thương,
là niềm vui hạnh phúc cõi thiên đường. Amen.

------------------------------
 
 

PS 3-C167: XIN CHO CON NHẬN RA CHÚA


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
 
 

Là con người, dù mạnh mẽ đến đâu rồi cũng có lúc yếu đuối, thất vọng, muốn buông xuôi mọi PS 3-C167


Là con người, dù mạnh mẽ đến đâu rồi cũng có lúc yếu đuối, thất vọng, muốn buông xuôi mọi sự. Dù đam mê tự do đến đâu, cũng có lúc cảm thấy cô đơn, lạc lõng chơi vơi giữa dòng đời… Và sau những dọc dài cuộc sống vì miếng cơm manh áo sẽ có ngày một mình đối diện với đủ thứ khó khăn của thế giới này, ta cũng cần lắm một bờ vai rộng, một bàn tay ấm, một sự cảm thông và khích lệ để cho ta niềm tin, nghị lực vươn lên, như ai đó đã viết rằng:

“Mình chỉ cần một ai đó gọi tên giữa cuộc đời
Trong giấc mơ dù chỉ là thoáng qua cũng có hình ảnh mình trong đó
Dù biết sẽ trải qua những tháng ngày khó khăn chưa rõ
Người vẫn tin sẽ có mình ở đó
đứng đợi người.
Mình chỉ cần một ai đó lắng nghe mình kể hết những câu chuyện cười
Rồi vục đầu vào vai ngủ một giấc ngon lành đến sáng
Nghe mình lải nhải đâu đâu từ bình minh đến hoàng hôn chạng vạng
Người vẫn thấy ở bên mình là đáng
chẳng hối hận điều gì.
Mình chỉ cần một người làm cho những vết xước trong tim mình quên đi…

Đức Thánh Cha Phanxico với trái tim của người cha cũng rất muốn đến với đất nước Ucraina đang chìm trong bể khổ của chiến tranh để an ủi, chia sẻ và cầu nguyện cho họ sớm bình an. Trước đó, vào ngày 26/03/2022, Đức Hồng y Konrad Krajewski, Chánh Sở Từ thiện của Tòa Thánh đến Ucraina thay mặt Đức Thánh Cha: “Để gần những người đang đau khổ và mang lại cho họ sự gần gũi của Đức Giáo hoàng, để nói với họ rằng ngài yêu thương họ, và cầu nguyện với họ vì lời cầu nguyện cũng có thể ngăn chặn chiến tranh.”

Chúa Giê-su sau khi phục sinh dường như vẫn luôn hiện diện đồng hành thật gần gũi với các môn đệ và với những người thân quen để nâng đỡ, cảm thông và khích lệ họ sống và làm chứng cho Chúa Phục sinh. Có khi Ngài đến với họ như một người làm vườn để thăm hỏi anủi: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Có khi ngài hiện diện như người đồng hành với hai môn đệ đi làng Emmau. “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy ?” (Lc 24, 17). Và rồi qua sự gàn gũi ấy, Chúa Giê-su từng bước dùng Kinh Thánh để soi dẫn cho họ hiểu về những gì đang xảy ra trong mầu nhiệm ơn cứu độ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?.

Tin mừng Chúa Nhật thứ 3 mùa phục sinh hôm nay, Chúa Giê-su đã đến bên các tông đồ như một người đồng nghiệp, sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ và cảm thông. Khi nhận ra bạn hữu mình: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21, 3b), thì Ngài đưa ra kế sách cho họ: “Anhem hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen

----------------------------------
 
 

PS 3-C168: BIỂN HỒ TIBÊRIA VÀ BA CUỘC GẶP GỠ


Gioan Phạm Duy Anh

Các bạn thân mến!
 
 

Cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi vô vàn mối tương quan và bởi vô số cuộc gặp. Có những PS 3-C168


Cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi vô vàn mối tương quan và bởi vô số cuộc gặp. Có những cuộc gặp chỉ thoáng qua đời ta mà không để lại ấn tượng sâu sắc. Nhưng cũng có những cuộc gặp vĩnh viễn thay đổi số phận và dự định hiện hữu của đời ta. Cuộc gặp gỡ ấy được xem là cuộc gặp gỡ định mệnh. Cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Giê-su trên bờ biển hồ Tibêria là cuộc gặp gỡ định mệnh bởi vì nó vĩnh viễn thay đổi số phận và cuộc đời của các ông. Thực chất cuộc gặp của các ông đổi với Chúa Giê-su bao hàm ba cuộc gặp gỡ khác: cuộc gặp gỡ mang tính bản lể, cuộc gặp gỡ của đức tin và của gặp gỡ của tình yêu.

Cuộc gặp gỡ bản lề

Bờ biển hồ lúc ấy diễn ra cuộc gặp gỡ với của những con người mà số phận còn dang dở. Sau khi Chúa Giê-su chịu chết, người thì bỏ Chúa, kẻ thì chối Chúa, nhóm môn đệ nòng cốt xem ra có vẻ mất kiên nhẫn, mất lý tưởng và năng lượng sống, đàn chiên có nguy cơ tan rã. Các tông đồ trở về với nhịp sống xưa, vẫn bờ biển ấy nhưng con người ấy đang lao động trên bờ biển quen thuộc. Giờ đây các ông trải qua kinh nghiệm về sự mất mát vị thủ lãnh, người Thầy lãnh đạo tinh thần. Sự mất mát này trở thành lỗ hổng không thể nào bù đắp lại được nơi các ông. Các ông vất vả suốt đêm nhưng không bắt được gì. “Ví như CHÚA chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà CHÚA không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.”[1] Cái sự khác biệt căn bản giữa việc “vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì” và lưới đầy thuyền là có Chúa Giê-su hiện diện, can thiệp và các ông làm theo lời Chúa.

Chính cuộc gặp gỡ với vị thầy Giê-su biến đổi hoàn toàn cuộc đời các ông. Cuộc gặp ấy ngang qua mẻ cá lạ lùng. Hai khung cảnh đối nghịch giữa trước khi gặp Đức Ki-tô Phục Sinh và sau khi gặp Đức Ki-tô Phục Sinh là “trời tối” và ” vất vả suốt đêm mà không bắt được gì” và “bình minh,” “than hồng” và thuyền đấy cá. “ 6 Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.”[2] Rõ ràng bạn thấy rằng, việc thả lưới bắt cá là việc của các ông. Các ông phải nỗ lực, bằng sự khôn khéo của mình để thả lưới nhưng việc thu lượm và bắt được cá lại tùy thuộc vào yếu tố bên ngoài ông. Sự thành công trong mẻ lưới tùy thuộc vào Chúa. Nếu Chúa không hiện diện và các ông không thả lưới bên phải mạn thuyền thì có lẽ, mẻ cá lạ sẽ không xảy ra. Việc xây dựng đời sống gia đình và giáo hội cũng như nỗ lực truyền giáo sẽ trở nên vô ích và sẽ là “vất vả suốt đêm mà chẳng được gì” nếu thiếu sự hiện diện của Đức Ki-tô trong những nỗ lực ấy. Sự hiện diện của Ngài biến đổi nỗ lực của con người từ tình trạng không được gì đến tình trạng “thuyền đầy ắp.”

Cũng nên nhớ rằng sự khác biệt giữa việc bắt được cá và không bắt được gì là có sự hiện diện của Đức Ki-tô. Trong bất cứu hoàn cảnh nào, bạn và tôi phải là người luôn ý thức được rằng Chúa luôn đồng hành với mỗi người chúng ta dù có trải qua nhưng khúc quanh tăm tối như thế nào. Chắc chắn một điều, ngoại trừ cái đêm gặp Chúa Ki-tô, các môn đệ thường xuyên đối diện với việc trắng tay. Đêm tối của thế gian và của tâm hồn luôn tìm cách vùi dập và bóp nghẹt giá trị Tin Mừng. Trải qua hơn hai ngàn năm giá trị Tin Mừng và chân lý về Đức Ki-tô Phục Sinh vẫn còn bị nhiều người bóp méo. Người ta vẫn tìm cách hủy hoại Tin Mừng Phục Sinh, giá trị Ki-tô giáo, chân lý cứu độ, và muốn chôn vùi Đức Ki-tô Phục Sinh trong ngôi mộ trống. Với niềm tin và ân sủng của Đấng Phục Sinh, bạn và tôi tin rằng một ngày nào đó, Tin Mừng đó sẽ phục sinh trở lại, sự sống sẽ chiến thắng cái chết, Thầy sẽ chiến thắng thế gian. Sự phục sinh trước hết là sự phục sinh giá trị Tin Mừng, hình ảnh của Đức Ki-tô trong trái tim con người, sự phục sinh lại sự thiện đã bị sự dữ đè bẹp. Sự phục sinh đó biến đối toàn thể hệ thống giá trị và sự hiện hữu của bạn và tôi.

Cuộc gặp của đức tin

Trong nhiều trường hợp, người môn đệ được Chúa yêu và cũng đồng thời là người môn đệ yêu Chúa trở thành trung gian giữa Chúa và các tông đồ mà trong trường hợp này là Phê-rô. Trong khi những người khác không nhận ra Đức Ki-tô Phục Sinh thì chỉ người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra điều đó.“ 7Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô:“Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.”[3]

Điều gì làm nên sự khác biệt này. Đó là do cặp mắt đức tin, cặp mắt siêu nhiên, là sự thân mật trong tình yêu Thiên Chúa. Việc Gioan nhận ra Chúa có sự nối kết gì giữa việc nhận ra Đức Ki-tô hôm nay và Đức Ki-tô phục sinh, khi ông chứng kiến các băng vải được xếp lại hay không. Điều này có thể cho bạn thấy tính tiệm tiến trong tiến trình khám phá ra dấu chỉ về Đức Ki-tô Phục Sinh. Trước kia từ băng vài được cuốn mà nhận ra Đức Ki-tô phục Sinh, còn bây giờ phải vén băng vài “vô minh” của sự tối tăm và kém tin để nhận ra người. Việc nhận ra Đức Ki-tô bây giờ không chỉ còn qua dấu chỉ băng vải được xếp lại nhưng là tiếp xúc trực tiếp với Đức Ki-tô phục sinh. Nói cách khác, muốn nhận ra Đức Ki-tô phục Sinh không chỉ là khởi từ bằng vải như trước kia nhưng phải vén bức màn che phủ trong trái tim của mình để có thể nhận ra Chúa.

Hơn ai hết, Chúa Giê-su đã là người vén bức màn trong Trái Tim Ngài cho con người qua lưỡi đòng bị đâm thâu. Xuyên qua vết thương diễn tả tình yêu dâng hiến đến cùng này mà bạn nhận Đấng Ban Sự Sống. Việc thả lưới bên phải mạn thuyền[4] cũng ít nhiều giúp bạn liên tưởng đến điều này. Hai điều tiên quyết khi thả lưới đó là vâng lời Thầy và thả bên phải, bên cạnh sườn bị đâm thâu, nơi trái tim đã chảy Máu và Nước, bằng tình yêu của chính Đấng đã yêu thương và hiến mình vì tôi.

Cuộc gặp gỡ trong tình yêu

Anh có thương mến thầy không? Có thể nói rằng, tự bản chất con người đi tìm sự thông hiệp và sự trao tặng sự sống. Điều mà bạn và tôi vẫn xác quyết đó là con người xuất phát từ Thiên Chúa và phản ảnh “chính mẫu thức” của Thiên Chúa về việc sống tình yêu và việc trao tặng sự sống. “Đức tin không chỉ tìm kiếm sự hiểu biết” nhưng, “đức tin còn tìm kiếm sự thông hiệp.” Sự đồng nhất là điều mà mọi người đều tìm kiếm, bất chấp bạn là người có tôn giáo hay không. Sau khi đã trải qua những kinh nghiệm với Thầy, có lẽ đây là thời điểm quyết định về số phận và sự chọn lựa dứt khoát. Chúa Giê-su hỏi Phê-rô ba lần: “Anh có thương mến Thầy không.”[5]

Đến thời điểm này, Chúa Giê-su không hỏi Phê-rô về tài năng, bằng cấp và địa vị xã hội nhưng hỏi về việc “Anh có thương mến Thầy không.” Với sự chân thành, yêu thương và sự khiêm tốn, Phê-rô chỉ trả lời: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Câu hỏi này giả định “một cuộc trao đổi của tình yêu, một sự chân thành, tự do và trách nhiệm.” Tình yêu của Thầy đã đi bước trước: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.”[6] Để đến bây giờ khi đã cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã chết vì mình, ông mới khiêm tốn trả lời về tình yêu của mình dành cho Thầy. Chỉ khi cảm nghiệm được một cách thật sự tình yêu của Thầy đã chết và thông ban sự sống cho mình khi đó ông mới có thể trả lời với Chúa được câu này. Giả như câu trả lời không phản ánh tâm hồn và con người của ông, chắc chắn ông không thể theo Chúa đến cùng.

Ngang qua mẻ cá lạ, Đức Ki-tô Phục Sinh vẫn đồng hành với các môn đệ. Ngài không để các ông mồ coi. Ngài là điểm tới cho các ông chèo thuyền. Ngài hiện diện và mời gọi các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Thả lưới bằng chính tình yêu và sức mạnh của Đấng đã chết và cứu cho muôn người. Câu hỏi của Chúa Giê-su hỏi Phê-rô là một lời mời gọi sự đáp trả của tình yêu sau khi ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã sống và chết cho ông. Câu trả lời của bạn và tôi trước câu hỏi của Chúa, “Anh có thương mến Thầy không,” vẫn là một lời mời gọi bước vào tương quan thông hiệp, trao ban sự sống và “hãy chăm sóc chiên của thầy.”

Như thế, chính kinh nghiệm gặp gỡ với một con người đã thay đổi số phận và hướng đi của bạn và tôi. Cuộc gặp gỡ này không phải là cuộc gặp gỡ thông thường nhưng nó chính là cuộc gặp gỡ định mệnh. Cuộc gặp gỡ đó mở ra một chân trời mới và một hướng đi mới. “Ở nguồn gốc của việc làm một Kitô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định“[7]

-------------------
[1] TV 127, 1
[2] Ga 21, 6
[3] Ga 21, 7-8
[4] Ám chỉ đến thị kiến của tiên tri Ezekiel về nước từ bên phải đền thờ chảy ra. Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu tức thì Máu và Nước chảy ra làm phát sinh sự sống và ơn cứu độ.
[5] Ga 21, 17
[6] Ga 13, 1
[7] Encyclical Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 1: AAS 98 (2006), 217

-------------------------------
 
 

PS 3-C169: TÌNH THẦY TRÒ PHÊRÔ – GIÊSU VÀ GIOAN


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
 

Vào lúc bình minh ló rạng. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và hỏi: “Này các con, có gì PS 3-C169


Vào lúc bình minh ló rạng. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển (Ga 21, 5- 7). Hỏi : Đâu là cái để Gioan với biệt hiệu là “người môn đệ Chúa yêu” nhận ra Thầy mình, và điều gì đã khiến Phêrô khoác áo vào và nhảy ngay xuống biển? Thưa: Tình yêu.

Tình thầy trò

Tình thầy trò Phêrô – Giêsu và Gioan thật đậm đà thắm thiết. Tình yêu giúp người môn đệ được yêu mến là người đầu tiên nhận ra chính Chúa (x. Ga 21,7). Vì yêu mà Gioan được ngồi cạnh Thầy trong bữa Tiệc Ly và tựa đầu vào ngực Chúa và hỏi thay cho Phêrô (x. Ga 13, 23). Nhờ yêu mà Gioan cùng với Thầy đi vào nhà Caipha bằng cổng chính như những mục tử, chứ không như Phêrô phải ở ngoài chờ Gioan ra dẫn vào.

Từ yêu đi đến hành động. Phêrô chỉ được chọn làm thủ lãnh và chăm sóc đàn chiên Chúa sau khi công bố yêu mến Thầy đến ba lần (Ga 21,15-17). Chúa chọn Phêrô với trọn tình yêu. Phêrô đáp lại cách trung thành, dù phải mất mạng (Ga 21,18). Dẫu biết rằng, đàn chiên thuộc về Thầy Giêsu chứ không thuộc về trò Phêrô.

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy rõ được tình Thầy trò Giêsu. Gioan là người duy nhất trong các tông đồ ra đi trong tuổi già. Ngài cũng là môn đệ được Chúa Giêsu trao phó nghĩa vụ làm con thay thế Thầy đón Mẹ Thầy về nhà chăm sóc.

Phêrô đã tiếp nối công việc Thầy trao, chèo lái con thuyền Giáo Hội từ buổi sơ khai, rao truyền giáo huấn của Thầy cho những người chưa biết, bảo vệ chân lý về Ơn Cứu Độ mà Thầy đã trao ban. Ông hạnh phúc được lãnh nhận phúc tử đạo giống như cái chết của Thầy. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm lái vượt qua biết bao sống cả ba đào, và cho đến hôm nay vẫn vững chắc lướt qua sóng gió trần gian.

Mẻ cá tình yêu

“Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển” (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và vòng xoáy của ba thù, và bờ tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: “Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa” (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l’Évangile, n°24).

Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.

Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, chẳng những không hướng về Thiên Chúa, mà còn đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây“(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: “Bây giờ họ không có gì khác để làm“.

Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau “khổ đau” của Thập Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này chứng tỏ bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày hôm sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới  trống rỗng.

Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Thầy, họ thả lưới ở “phía bên kia” thuyền. Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại bên kia? Bên kia là bên của tình yêu Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của tình yêu Chúa. Tình yêu ấy rất cần thiết trong thế giới hôm nay.

Hiệp nhất trong tình yêu

Phúc âm thánh Gioan có hai cảnh bên lửa than hồng. Một lần bên lò sưởi, Phêrô chối Thầy ba lần (Ga 18). Lần hai cũng bên lửa than, ông bày tỏ tình yêu với Thầy mình ba lần. Tình yêu đã tẩy xóa tội của ông và nối kết ông trở lại với Đức Giêsu.

Bữa ăn mà Chúa Giêsu dọn cho các môn đệ là bữa ăn hiệp nhất trong tình yêu (x. Ga 21,9-13) tiên trưng cho phép Thánh Thể. Lưới không rách là dấu chỉ sự hiệp nhất mà 153 con cá do các môn đệ mang bắt được tượng trưng cho cả thế giới lúc bầy giờ là 153 nước đến với Chúa Giêsu.

----------------------------
 
 

PS 3-C170: BÀI HỌC TỪ MẺ CÁ KỲ DIỆU


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
 
 

Cha Antony de Mello có kể câu chuyện như sau: ngày nọ, một người băng ngàn lội suối để kiểm PS 3-C170


Cha Antony de Mello có kể câu chuyện như sau: ngày nọ, một người băng ngàn lội suối để kiểm chứng cho rõ thực hư về danh tiếng đồn đãi của vị Minh Sư. Ông ta hỏi một đệ tử: “Minh Sư của anh đã làm được những phép lạ nào?” Người môn đệ đó trả lời: “Này ông bạn, có những phép lạ khác nhau. Trong xứ bạn, người ta bảo phép lạ là khi Thượng Đế làm theo ý muốn của một người. Còn trong xứ chúng tôi, người ta bảo phép lạ là khi một người thực thi thánh ý Thượng Đế!”

Nếu nói phép lạ là khi một người thực thi thánh ý Thượng Đế, thì trình thuật “mẻ cá kì diệu” của thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay có thể được coi là “phép lạ của việc thực thi thánh ý Chúa.” Trình thuật này gợi cho chúng ta những bài học quý giá đáng suy gẫm. Xin được gợi ý hai điểm:

1- “Đêm hôm đó, họ chẳng bắt được gì cả”

Trước hết, đó là sự kiện các môn đệ đánh cá suốt đêm nhưng họ chẳng bắt được gì cả.

Thánh Gioan cho chúng ta biết: sau khi chứng kiến biến cố Thầy mình bị giết và treo trên thập giá cách đau đớn, các môn đệ thất vọng, bỏ cuộc, họ trở về Galiêa và tiếp tục nghề đánh cá. Lúc đó, có bảy môn đệ của Chúa Giêsu ở biển hồ Tibêria. Các ông rủ nhau đi đánh cá.

Theo kinh nghiệm của người ngư phủ thời đó, người ta thường đánh cá vào ban đêm thì sẽ bắt được nhiều cá. Nhưng lần này, họ đã vất vả suốt đêm và không bắt được gì (x. Ga 21,3). Bởi vì, đêm hôm đó, Chúa Giêsu không hiện diện với các ông. Các ông tự mình làm việc mà không có sự giúp đỡ của Chúa Giêsu.

Đây là một ghi nhận đáng lưu ý đối với mỗi người chúng ta. Cũng vậy, trong cuộc sống hằng ngày, đã nhiều lần chúng ta trải nghiệm nhiều thất bại giống như các Tông Đồ. Có nhiều lúc chúng ta dốc hết sức, dồn hết lực làm việc, phải mất ăn, mất ngủ vì công việc, nhưng kết cục, mọi sự “dã tràng xe cát biển đông.” Cuối cùng không mang lại kết quả gì. Tại sao? Xin thưa: vì chúng ta làm việc mà không cần đến ơn Chúa đồng hành. Chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mình mà không cần đến Chúa. Chúng ta làm việc mà không có ơn Chúa trợ giúp. Kết quả là không được gì cả!

2- “Vâng Lời Thầy, con thả lưới”

Sau một đêm vất vả mà không thu được kết quả gì, Đức Kitô Phục Sinh hiện ra và bảo các ông: “Cứ thả lưới bên phải thuyền, thì sẽ bắt được nhiều cá.”

Nếu xét về kinh nghiệm nghề nghiệp, các Tông Đồ chắc chắn hơn hẳn Chúa Giêsu. Các ông là những tay ngư phủ lành nghề, biết phải đi giờ nào, đánh chỗ nào và đánh như thế nào thì bắt được cá. Còn Chúa Giêsu chỉ là con bác thợ mộc, đâu có kinh nghiệm gì về đánh cá và biển cả. Thế nhưng, vâng lời Thầy, Phêrô và các môn đệ thả lưới. Quả thật, phép lạ đã xảy ra: họ “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy cá.”

Sự kiện này nói lên một bài học quan trọng: Phêrô và các môn đệ không còn dựa trên kinh nghiệm cá nhân, ý riêng và tài cán của mình nữa, nhưng là dựa vào “Lời Thầy,” tin vào quyền năng của Thầy. Đây là thái độ đức tin, một thái độ giúp các ông vượt lên giới hạn của mình, đi xa hơn những kinh nghiệm và hiểu biết cá nhân, để tiến tới một sự vâng phục, tín thác hoàn toàn và làm theo ý Chúa muốn.

Như thế, phép lạ mẻ cá kỳ lạ là kết quả của ơn Chúa và là phần thưởng cho những ai biết tín thác vào quyền năng Thiên Chúa. Phép lạ này cho thấy: Ai tin vào Chúa, sẽ thành công. Ai tín thác vào Chúa, sẽ gặt hái những hoa quả tốt đẹp. Ai cậy dựa vào Chúa, sẽ không bao giờ làm việc mà không có kết quả.

Đây là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta: Tất cả chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, không cậy dựa vào khả năng mình, nhưng tín thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa, và nhất là thực thi theo thánh ý Người. Lúc đó phép lạ sẽ xảy ra cho chúng ta.

Lạy Chúa, xin Chúa cho mỗi người chúng con biết chọn lựa như các Tông Đồ: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người phàm” (Cv 5,29), biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, biết lắng nghe Lời Chúa và hành động theo sự hướng dẫn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của mình. Amen!

--------------------------------
 
 

PS 3-C171: YÊU NGHỀ


Trầm Thiên Thu
 
 

Người ta nói: “Sinh nghề, tử nghiệp.” Ở đây “sinh tử” không phải là “sống chết” theo nghĩa đen PS 3-C171


Người ta nói: “Sinh nghề, tử nghiệp.” Ở đây “sinh tử” không phải là “sống chết” theo nghĩa đen, mà là “sống chết” theo nghĩa bóng, tức là phải có niềm đam mê và yêu công việc mình làm. Người Việt thường nói “gộp chung” là Nghề Nghiệp.

Nghề của dân Biển Hồ là đánh cá. Dân vùng biển là ngư dân. Đa số các tông đồ cũng là ngư phủ. Ngư nghiệp liên quan cá, và cá liên quan con người. Chúa Giêsu dùng hình ảnh chài lưới để nói về việc “chài lưới linh hồn người ta.” Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá chỉ có giác hồn, còn con người có linh hồn – cao cấp hơn.

Trong đời thường, con cá cũng thường được dùng để ví von. Chẳng hạn, khi nói về tình quân và dân: “Quân và dân như cá với nước.” Hoặc khi nói về giáo dục: “Cá không ăn muối cá ươn.” Khi kêu gọi Phêrô và Anrê đi truyền giáo, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con cá: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt 4:19; Mc 1:18; x. Lc 5:10) Cá là cá là loài có gì đó rất đặc biệt: chứa nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể, đặc biệt là khi ăn chay theo Kitô giáo, người ta không phải kiêng cá.

Khi biết chắc Chúa Giêsu đã sống lại thật, các Tông Đồ không còn lo sợ, nhát đảm, vì họ đã xác tín và được Thầy Giêsu ban Chúa Thánh Thần qua việc thổi hơi vào họ. (Ga 20:22) Trình thuật Cv 5:27b-32, 40b-41 cho biết rằng khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”

Mặc kệ. Các Tông Đồ vẫn hiên ngang và thẳng thắn nói: “Phải VÂNG LỜI THIÊN CHÚA hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ƠN SÁM HỐI và ƠN THA TỘI. Về những sự kiện đó, CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”

Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà ĐÁNH ĐÒN và CẤM các ông KHÔNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN DANH ĐỨC GIÊSU, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng CHỊU KHỔ NHỤC VÌ DANH ĐỨC GIÊSU. Và tất nhiên các Tông Đồ không thể im lặng theo lệnh thế quyền. Họ vẫn rao giảng về Đức Kitô dù biết khó yên thân. Hằng ngày, cả trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu – Đấng chịu đóng đinh, chịu chết nhưng đã phục sinh.

Điều này quá kỳ cục: Mắc mớ chi mà cấm nói về Ông Giêsu? Ngày nay người ta cũng vẫn viện đủ lý do để bách hại những người tin vào Đức Kitô. Tại sao người ta tìm bắt Chúa Giêsu và những người tuyên xưng Ngài? Nếu không là ghen tức thì là gì? Những người tin vào Đức Kitô luôn làm điều tốt mà sao cứ bị ghét? Vô cùng vô lý!

Vô tri bất mộ. Có biết mới yêu. Khi đã biết rõ thì người ta càng thêm lòng yêu mến, và phải thổ lộ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con.” (Tv 30:2) Ai cũng có kinh nghiệm sống, đặc biệt là sống thật về phần linh hồn. Chỉ kẻ cố chấp và vô ơn mới không chịu nhận ra hồng ân Thiên Chúa trao ban hằng ngày, mọi lúc và mọi nơi.

Sự thật minh nhiên là Chúa Giêsu phục sinh, nhưng người ta không muốn tin, thậm chí còn phao tin giả; chính người ta cũng được cứu thoát nhưng vẫn không muốn công nhận. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, như Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.” (Tv 30:4-6)

Chuỗi vui-buồn-sướng-khổ hoặc chuỗi sinh-lão-bệnh-tử được gọi là “bể khổ.” Đó là chuỗi đời nhân thế. Sầu khổ luôn nhiều hơn vui sướng, nhưng người có đức tin vẫn thấy thanh thản, ngay cả khi đối diện với cái chết. Họ tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót nên cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.” (Tv 30:11-13) Đối với tín nhân, không có gì tách họ ra khỏi tình yêu của Đức Kitô. (x. Rm 8:35) Thực sự đúng như vậy!

Thánh Gioan cho biết thị kiến về sự tôn vinh Con Chiên: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” (Kh 5:11-12) Vô số các sinh vật tôn vinh và xưng tụng Con Chiên, không thể đếm nổi. Dù ngày nay con số đó chưa nhiều, chỉ là số ít so với dân số thế giới, nhưng ngày cuối cùng sẽ là đa số, có hằng hà sa số những người tin vào Đức Kitô. Con số đó đang gia tăng hàng năm, hàng tháng, và hàng ngày. Một sự thật minh nhiên!

Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’ Bốn Con Vật thưa: ‘Amen.’ Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.” (Kh 5:13-14) Con số những người tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đã và đang gia tăng – từ cấp số cộng rồi cấp số nhân. Thực sự chúng ta đang chứng kiến sự lạ lùng như vậy. Loài người không thể làm gì nhưng Thiên Chúa có thể biến đổi tất cả.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba tại Biển Hồ Tibêria. Qua trình thuật Ga 21:1-19, Thánh Gioan cho biết: Hôm đó, ông Simôn Phêrô, ông Tôma, ông Nathanaen, các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác, đang ở bên nhau. Vậy là có 7 người. Có lẽ ngồi không cũng buồn, vả lại làm việc quen rồi, thế nên ông Phêrô nói đi đánh cá. Nghe nói vậy, các ông kia cũng đi. Thế nhưng suốt đêm đó họ không bắt được con cá nào.

Tảng sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các ông không nhận ra. Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông uể oải lắc đầu và nói “không.” Rồi Ngài bảo các ông cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông làm theo. Thật lạ lùng, họ không sao kéo lưới lên được vì quá nhiều cá. Ông Gioan tinh ý nhận ra Ngài nên nói với ông Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói vậy, ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì bờ chỉ cách khoảng gần trăm thước, không xa lắm.

Lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và cả bánh nữa. Chúa Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được tới nướng. Ông Phêrô lên thuyền và kéo lưới vào bờ. Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con, vậy mà lưới không bị rách. Chúa Giêsu bảo mọi người đến ăn. Không ai dám hỏi “Ông là ai?” vì họ đã biết chắc đó là Thầy rồi. Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, với cá Ngài cũng làm như vậy. Một Thánh Lễ ngay tại bờ biển Hồ. Thật tuyệt vời!

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Phêrô có mến Ngài hơn các anh em không. Ông thưa “có,” và xác định: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chắc hẳn lỡ miệng chối Thầy mấy hôm trước nên lúc này hối hận lắm. Tội to mà được Thầy tha thì còn gì bằng, thế nên ông càng yêu Thầy nhiều hơn. Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Rồi Ngài lại hỏi lại như trước, ông cũng thưa “có.” Ngài lại hỏi ông lần thứ ba, thế nên ông hơi buồn. Lần này ông thưa rạch ròi: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giêsu cũng bảo ông chăm sóc chiên của Ngài.

Ôi, thật kỳ diệu, vì buổi đăng quang giáo hoàng của Phêrô rất giản dị trong khung cảnh thân mật tình Thầy trò, cũng ngay tại bờ biển. Hay quá chừng! Rõ ràng Chúa Giêsu không câu nệ nghi thức. Từ đó, ngư phủ Phêrô không còn lưới cá mú chi nữa, mà chỉ chuyên lưới người ta mà thôi.

Sự công bằng hiển nhiên: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều. Chúa Giêsu cũng minh định với GH Phêrô: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh TỰ MÌNH thắt lưng lấy, và đi đâu TUỲ Ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ PHẢI dang tay ra cho người khác thắt lưng và DẪN ANH ĐẾN NƠI ANH CHẲNG MUỐN.” Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy.” Phêrô đã theo Thầy Giêsu đến cùng, chứng minh bằng cái chết là bị đóng đinh ngược trên thập giá!

Cá sống nhờ nước, người sống nhờ khí. Có nước và không khí là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiếu nước thì cá chết, thiếu khí thì người chết. Nhưng có nước và có khí mà cá và người cũng vẫn chết, vì sinh – tử là quy luật muôn thuở. Sinh ra để chờ chết. Chết rồi chờ sống lại. Chính cái chết là ngưỡng chuyển tiếp từ cõi tử qua miền sinh. Đó là cuộc vượt qua rất ngoạn mục và kỳ diệu.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự phục sinh của Ngài bảo đảm cho cuộc vượt qua kiếp người của chúng ta. Thật là mầu nhiệm về sự chết và sự sống của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa!

Chúng ta biết chắc rằng Muhammad không sống lại, Khổng Tử không sống lại, Lão Tử không sống lại, Phật Thích Ca không sống lại. Nhưng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, dù bị người ta giết chết, đặc biệt là đúng như Ngài đã BÁO TRƯỚC. Dù là ai cũng chẳng có ai sống lại. Ướp xác, quan tài đồ sộ, lăng tẩm to lớn,… để làm gì? Khoe khoang cũng chỉ “đẹp mặt” người sống. Thực sự quá vô ích!

Và rồi cũng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ đi trên nước, tuyên bố là Thiên Chúa, và làm cho người khác sống lại. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, chiến thắng Tử Thần, chiến thắng vĩnh viễn. Chỉ có trong Kitô giáo mới có Đức Kitô là Thiên Chúa, làm nhiều phép lạ minh chứng Ngài là Thiên Chúa thật, chỉ có một mình Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống,” và chúng ta chỉ có thể qua Ngài đến với Chúa Cha mà thôi. (Ga 14:6) Tín nhân thực sự hãnh diện và hạnh phúc, vì niềm tin của chúng ta không mơ hồ.

Sau mỗi màn diễn, dù phim hay kịch, chúng ta thường nhận xét về cách diễn của diễn viên chứ không cần biết vai diễn của người đó là chính diện hay phản diện, là hoàng đế hay tướng cướp, là chủ nhân hay đầy tớ,…

Cuộc đời giống như một sân khấu lớn, và ai cũng là diễn viên trên “sàn diễn cuộc đời.” Thiên Chúa không xét “vai diễn” của chúng ta – giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, giàu hay nghèo, giỏi hay dốt, đẹp hay xấu,… Ngài chỉ xét “cách diễn” của chúng ta – tức là có sống đúng cương vị của mình và thể hiện đức ái theo Thánh Ý Chúa hay không.

Khoảng năm 1602, họa sĩ Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức hình “Domine, Quo Vadis?” mô tả một cảnh trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Ông là người sáng lập trường phái hội họa Baroque của Ý – Trường Phái Bologna. Bức hình “Quo Vadis” là m​​ột trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Khi đó, Phêrô hỏi: “Domine, quo vadis? – Lạy Chúa, Ngài đi đâu vậy?” Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi! – Thầy đến Rôma chịu đóng đinh!” Nghe Thầy Giêsu nói vậy, GH Phêrô trở lại Rôma ngay lập tức.

Ước gì chúng ta có thể xác định như Thánh Phaolô: “Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 2:19-20a)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn duy trì sự sống trong ơn nghĩa với Ngài, được ngụp lặn trong Dòng Tình Thương Xót của Ngài. Vâng, lạy Ngài, xin giữ gìn con như thể con ngươi, và dưới bóng Ngài, xin thương che chở. (Tv 17:8) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------
 
 

PS 3-C172: YÊU THẦY HƠN


Bông hồng nhỏ
 
 

Dù đã được gặp gỡ, nói chuyện, cùng ăn uống với Chúa phục sinh vài lần nhưng mỗi lần Người PS 3-C172


Dù đã được gặp gỡ, nói chuyện, cùng ăn uống với Chúa phục sinh vài lần nhưng mỗi lần Người hiện đến cách bất ngờ thì các môn đệ vẫn chưa thể nhận ra Chúa ngay được. Lần này cũng vậy. Sau khi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, các ông đành phải chèo thuyền vào bờ trong tâm trạng mệt mỏi, chán chường. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Thầy Giêsu. Chỉ khi làm theo lời Thầy “thả lưới bên phải mạn thuyền” và bắt được rất nhiều cá, được ăn bánh và cá từ tay Thầy, các ông mới nhận ra Chúa. Cũng trong lần Chúa hiện ra này, ông Phêrô được Người hỏi tới ba lần về tình yêu ông dành cho Người. Người mời gọi ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).

Biết rõ các môn đệ đang mỏi mệt và đói, Thầy Giêsu hỏi các ông như một lời mời gọi: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không” (Ga 21, 5). Dù Người biết rõ những thất bại và thiếu thốn mà người môn đệ đang phải đối diện, nhưng Người vẫn muốn các ông chia sẻ cho Người biết về những điều ấy. Người không ngần ngại lắng nghe những than phiền của người môn đệ, Người chỉ đơn giản lắng nghe tất cả với sự quan tâm. Người hướng dẫn các ông cách thức thả lưới. Các ông vâng lời dù chưa nhận ra người lạ ấy chính là Chúa. Sau khi mẻ cá được kéo lên, Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Ông là người đầu tiên nhận ra Chúa. Có lẽ, chính nhờ việc ông luôn lắng nghe và cảm nhận tình yêu của Chúa, nên ông mới mau mắn nhận ra Chúa. Ông đã nhận ra Chúa và ngay lập tức nói cho người anh cả biết. Trong đời sống của người Kitô hữu, sẽ có những lúc họ gặp phải những gian nan, thử thách, những thất bại. Giữa những lúc ấy, họ sẽ gặp bế tắc và sẽ dễ đánh mất đức tin. Ai sẽ nâng đỡ họ? Điều cần thiết là luôn luôn cần có một ai đó nói cho họ biết về sự hiện diện của Chúa. Cần một ai đó dám nói cho những người khác biết về sự hiện diện của Chúa, dù đó chỉ là kinh nghiệm của cá nhân mình. Cần phải có ai đó cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, có lòng yêu mến và gắn bó với Chúa. Người ấy có thể là một người rất bình thường, nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng họ sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm về Chúa cho người khác. Một Kitô hữu thực sự sẽ luôn muốn chia sẻ tình yêu mà họ nhận được từ Chúa cho người khác, luôn muốn cho người khác được nhận biết Chúa. Ta có phải là người ấy không?

Khi đã ăn bánh và cá từ tay Thầy Giêsu, các ông đều biết rằng đó là Chúa, dù chẳng ai nói ra. Khi bữa sáng đã kết thúc, Thầy Giêsu hỏi ông Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Người hỏi ông tới ba lần về điều ấy. Sau khi ông công khai bày tỏ tình yêu ông dành cho Thầy, Người trao cho ông nhiệm vụ chăn dắt chiên của Người. Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần. Ông thưa với Thầy: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người biết rõ tâm tư tình cảm của ông và hiểu rõ ông hơn ai hết, Người hiểu ông hơn cả ông nữa. Và chắc chắn, Người cũng yêu ông hơn ông yêu Người. Theo Chúa, người môn đệ được mời gọi dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Chúa. Ta cần yêu Chúa bằng một tình yêu luôn muốn nhiều hơn nữa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu Người dành cho ta thì vô cùng, ta không thể yêu Chúa ít hơn yêu người khác hay ít hơn yêu bản thân ta. Vì yêu Chúa, ta sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa; sẵn sàng chết đi với con người tự nhiên để trở nên người môn đệ của Thầy Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh! Người đã sống lại và Người cũng kêu lớn tiếng để gọi con trỗi dậy. Người không muốn con sống mà như đã chết, sống èo ọt và tàn lụi dần. Người ban sức mạnh cho con để con có thể từng ngày từ bỏ mình, vác lấy thập giá mình mà theo Chúa; và từng ngày sống để yêu Chúa với một tình yêu hơn nữa. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

------------------------------
 
 

PS 3-C173: GỞI GẮM YÊU THƯƠNG


Thiên San
 
 

Đức Giêsu Phục sinh nhiều lần hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ông, sai các PS 3-C173


Đức Giêsu Phục sinh nhiều lần hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ông, sai các ông ra đi loan báo về Tin mừng phục sinh. Tại biển hồ Tibêria ngày hôm ấy, Đức Giêsu Phục sinh đã hiện ra với các môn đệ cách gần gũi thân thuộc. Sau một đêm vất vả mà không bắt được gì, các môn đệ vẫn đủ kiên nhẫn để nghe theo lời hướng dẫn của ai đó đang đi dạo trên bờ biển. Quả thực, các ông đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. “Chúa đó!” (Ga 21, 7), môn đệ Gioan nói với ông Phêrô rằng người đang ở trên bờ kia là Chúa. Sau khi kéo lưới vào bờ, các ông được dùng bữa sáng do chính Thầy Giêsu chuẩn bị, có than hồng sưởi ấm, có cá và bánh lót dạ. Sau đó, môn đệ Phêrô được Đức Giê su Phục sinh gửi gắm và trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Người.

Khung cảnh của buổi sáng ngày hôm ấy thật đẹp. Đó là một bức tranh có đủ màu sắc sáng tối, buồn vui, thương nhớ, bịn rịn và cả tin yêu. Khi không có Chúa bên cạnh, các ông chẳng bắt được gì cả, mặc dù các ông vẫn sát cánh bên nhau. Đêm hôm đó là một đêm thật tối. Tối từ cảnh vật đến cả trong tâm hồn các ông. Hai lần được gặp Chúa phục sinh vẫn chưa đủ vơi đi nỗi nhớ thương trong lòng, những cảm xúc sau bao biến cố lớn nhỏ cứ liên tục xảy đến. Đức Giêsu phục sinh vẫn thật sự rất dễ thương, gần gũi, ân cần như ngày nào. Người biết rằng, sau một đêm vất vả, các môn đệ cần có cái gì đó lót dạ. Than hồng và sự hiện diện của Chúa đã sưởi ấm cõi lòng các ông, xua tan bao mệt nhọc, nhớ thương. Không ai trong các ông dám hỏi “ông là ai?” vì tất cả các ông đều biết rằng đó là Chúa (x. Ga 21, 12).

Sau bữa ăn, Đức Giêsu chính thức gửi gắm đoàn chiên thân yêu của mình cho tông đồ trưởng Phêrô. Ba lần xác tín về tình yêu của mình dành cho Thầy là ba lần Phêrô chuộc lại lỗi lầm xưa khi buông lời chối Chúa. Ông biết rõ Chúa hiểu lòng ông. Chúa hiểu ông yếu đuối dường nào và cũng yêu Chúa dường nào. Ông không ngần ngại để nắm lấy cơ hội bày tỏ tình yêu của mình dành cho Thầy. Ông buồn vì Thầy hỏi đến ba lần “anh có yêu mến Thầy không?”. Buồn nhưng Phêrô vẫn đón nhận sứ mạng Chúa trao phó cho ông. Ông cũng được báo cho biết sẽ phải chết cách nào để làm chứng cho Chúa.

Chúa Giêsu Phục sinh đã gửi gắm bao yêu thương, sự ân cần, quan tâm, chăm sóc đến các môn đệ. Đặc biệt, Người đã không ngần ngại trao phó trách nhiệm coi sóc, chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên cho Phêrô – người đã từng chối Thầy. Chúng ta sẽ chẳng thể hiểu được cách chọn gọi của Chúa, bởi Người không chọn gọi theo cách chúng ta thường làm. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang gửi gắm bao yêu thương, sự ân cần chăm sóc đến từng người chúng ta qua các trung gian là những cánh tay hữu hình của Người. Như tông đồ Phêrô, trong một cách thức nào đó, chúng ta cũng được mời gọi can đảm lãnh sứ mạng coi sóc đoàn chiên Chúa trao. Đoàn chiên ấy có thể là gia đình nhỏ của ta, nhóm bạn, lớp học, hội đoàn… là những con người đang sống với chúng ta, thậm chí là cả những người chúng ta chưa từng có cơ hội gặp mặt. Can đảm lên: “Hãy theo Thầy” (Ga 21, 19).

-----------------------------

 

PS 3-C174: NHẬN RA NGƯỜI LÚC BẺ BÁNH


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Trong cuộc sống để nhận ra được Chúa hiện diện, không thể nào bỏ qua những cuộc gặp gỡ PS 3-C174


Trong cuộc sống để nhận ra được Chúa hiện diện, không thể nào bỏ qua những cuộc gặp gỡ Chúa trong Thánh lễ và Thánh Thể. Các tông đồ nhận ra Chúa Phục Sinh qua các lần bẻ bánh là một minh chứng.

Hiện diện đích thật.

Công đồng Vat II nhấn mạnh về bí tích là biến cố gặp gỡ giữa Đấng đang sống và những người đang sống, giữa Đấng Phục sinh và những được tái sinh. Là một cuộc gặp gỡ, giữa Chúa Giê su và Chúa Cha, giữa chúng ta với Chúa Giê su nhờ việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần.

Như lời kinh nguyện hiến tế của Chúa Giê su với Chúa Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta”  (Ga 17, 20 – 21).

Thánh Lễ là nơi Chúa Giê su thực hiện công trình gặp gỡ với dân của Người, Chính Chúa Thánh Thần quy tụ, thánh hoá, đưa con người vào trong Chúa Giê su. Chúa Giê su là Đấng đón nhận tất cả ở trong Người, dâng lên Chúa Cha. Không chỉ dâng lên như cách hiểu từ dưới thế dâng lên Chúa Cha, mà chính Chúa Giê su đã về trời, trình bày lễ vật của con người trước nhan Chúa Cha.

Hiện diện trong nỗi khổ đau của nhân loại.

Chúa Giê su vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng là một Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại. Một con người đích thật, hiểu và cảm thông và chính Người cũng mang nhiều đau khổ do nhiều yếu tố, hoàn cảnh, và của con người gây ra. Người mang lấy để biết thế nào là con người với sự khốn cùng: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4, 15 – 16).

Được mời gọi đến dâng lễ vật cuộc đời mình trong Thánh lễ. Người đến dâng lễ mang lấy lễ vật cuộc đời mình: Tội lỗi, hoa trái hống ân, những đau thương hồn xác, xin được tháp nhập trong Chúa Giê su, và để được biến đổi.. Tại bờ hồ Tiberia, những môn đệ Chúa tưởng là lấy bánh và cá của mình để thết đãi Chúa, nhưng chính Chúa đã dùng bánh và cá của Người để thết đãi các môn đệ. Điều này chỉ ra trong bí tích Thánh Thể chính Chúa đã lấy thân mình và máu Người là của lễ, là của ăn dưỡng nuôi con người chúng ta.


Trong đau thương, con người một lần nữa kết hợp trong Chúa Giê su, được bổ túc, làm lễ tế thánh hoá chính bản thân mình, cho người anh chị em, cho tất cả những ai nhớ đến và cầu nguyện cho họ. “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Cl 1, 24). “Con tự hiến thánh Con, để họ cũng đước thánh hiến” (Ga 17, 18).

Nhận ra Chúa trong lúc Người bẻ bánh, có một ý nghĩa rất đặc biệt. Chính Chúa là Thượng tế duy nhất, là Của Lễ tinh tuyền, là Bàn Thờ dâng lên Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được kết hợp trong Chúa. Chính Người là Đấng bẻ bánh thân mình Người để ban sự sống, như lời Người đã nói: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Nhận ra được Chúa để sống niềm vui Chúa Phục sinh. Xin cho chúng con như Thánh Phêrô nhảy xuống thuyền bơi vào bờ trước để mau chóng gặp gỡ Chúa, dành ưu tiên trước mọi việc để đến tham dự Thánh Lễ.

-------------------------------

 

PS 3-C175: TÌNH THƯƠNG CHÚA


Lm Vũđình Tường

 

Cuộc khổ nạn và Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô vừa là sự phá huỷ vừa là nguồn sống thật. Phá PS 3-C175


Cuộc khổ nạn và Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô vừa là sự phá huỷ vừa là nguồn sống thật. Phá huỷ gì? Đức Kitô Phục Sinh đập tan xiềng xích của sự chết, chế ngự ma quỷ, phá tan quỉ kế bè lũ chúng và những âm mưu đen tối do chúng tạo dựng lên. Sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài mang lại niềm vui, tràn đầy hy vọng và tương lai huy hoàng cho các môn đệ và những ai tin theo Ngài. Đức Kitô Phục Sinh lần đầu tiên hiện ra với các môn đệ, không phải để hạch tội bất trung, chối bỏ, trốn chạy khi Ngài gặp nạn. Không phải thế, Đức Kitô hiện ra với các ông và lời nói đầu tiên chính là ban cho các ông ơn bình an. Bởi các ông đang sống trong lo sợ, bất an, sợ sệt. Điều các ông đang cần chính là ơn bình an và Đức Kitô Phục Sinh ban cho các ông điều các ông đang cần. Bình anh cho anh em Gn 20,20. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để các ông nhận ra Đức Kitô chịu đóng đinh và Đức Kitô Phục Sinh, không phải là hai con người khác nhau, mà chính là một Đấng.

Lần hiện ra thứ hai Đức Kitô Phục Sinh ban cho các ông sức mạnh và sự sống Phục Sinh của chính Ngài. Đức Kitô thổi hơi vào các ông phán bảo: Hãy nhận lấy Thánh Thần Gn 20,22. Sau khi trốn chạy Thầy, các tông đồ sống như kẻ không hồn bởi sợ bị bắt, sợ khổ đau, tương lai mù mịt. Các ông lẩn trốn, bám víu lấy nhau trong sợ hãi. Thánh Thần Chúa mang lại cho các ông sự sống mới, tinh thần mới, tương lai tươi sáng mới. Bình minh mới rực sáng trong tâm hồn các ông và các ông mạnh dạn ra khỏi cửa cài then, làm công việc thường ngày của mình. Hầu như con người không đủ khả năng đón nhận tất cả ân sủng Chúa cùng lúc, nhưng phải đón nhận từ từ. Đức Kitô biết rõ hữu hạn của nhân loại vì thế Ngài sẽ ban Thánh Thần xuống hướng dẫn Kitô hữu, bởi sự giới hạn lãnh nhận của họ Gn 16,12.

Lần thứ ba hiện ra với các môn đệ, không phải sau cửa cài then mà bên bờ biển, nơi chài lưới quen thuộc của các ông. Lần hiện ra này Đức Kitô biến đổi các ông, kẻ chài lưới cá thành kẻ chài lưới các linh hồn. Thiên Chúa biết rõ tâm hồn, con tim của từng người. Tuy nhiên Đức Kitô muốn Phêrô tuyên xưng đức tin của ông. Điều này không mang lợi ích gì cho Đức Kitô nhưng cần thiết và quan trọng cho chính Phêrô và cho các đồng nghiệp của Phêrô. Ba lần Đức Kitô hỏi Phêrô ông có yêu mến Ngài không và cả ba lần Phêrô tuyên xưng ông yêu mến Đức Kitô hết cả tấm lòng Gn 21:15-17. Sau mỗi lần tuyên xưng đức tin, Đức Kitô lại trao cho Phêrô một trách nhiệm. Cả ba trách nhiệm đều qui về một điều duy nhất là chăm sóc các linh hồn với tình thương đi chung với lòng mến. Sứ mạng rao giảng Tin Đức Kitô Phục Sinh cho muôn dân luôn có va chạm và thách đố. Kẻ không tin mãnh liệt chống lại Tin Mừng Phục Sinh. Người tin theo muốn rao giảng Tin Mừng Phục Sinh theo phong cách riêng của họ, vì thế đưa đến va chạm, bất mãn. Phúc Âm ghi rõ Phêrô sẽ phải đương đầu với những thách đố đến độ phải đổ hết máu trong tim ra làm nhân chứng sống động cho Tin Mừng Phục Sinh (Gn 21, 19).

Kitô hữu, tin theo Đức Kitô Phục Sinh, sống tinh thần phục vụ với lòng yêu mến. Nuôi nấng, chăm sóc đàn chiên, và bảo bọc chúng sẽ không tránh khỏi chống đối, thách đố tư bề. Tuy nhiên họ không cô đơn, Đức Kitô Phục Sinh sẽ cùng đồng hành với họ. Tình yêu Ngài ban phát. Chúng ta đón nhận, không phải cho riêng mình, nhưng để chia sẻ cho anh em. Tình yêu Chúa luôn sống động và đồng hành cùng chúng ta trong cánh đồng truyền giáo. Đức Kitô Phục Sinh không hướng dẫn các tông đồ thêm về việc truyền giáo mới bởi đã có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với họ. Thánh Thần sẽ hướng dẫn, chỉ bảo công cuộc chứng nhân. Ngài cũng không còn đồng hành bằng xương, bằng thịt như trước ngày về trời, bởi đã có Phêrô thay thế Ngài nơi trần gian.

-------------------------------

 

PS 3-C176: MỂ CÁ


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Ra khơi đánh cá thâu đêm, Tông đồ thả lưới, chẳng thêm được gì. Rạng đông giặt lưới tháo chì PS 3-C176


Ra khơi đánh cá thâu đêm,
Tông đồ thả lưới, chẳng thêm được gì.
Rạng đông giặt lưới tháo chì,
Đón chào ngày mới, đợi khi nước ròng.
Bên bờ khách lạ thong dong,
Yêu cầu thả lưới, bên dòng nước trôi.
Vâng lời hạ lưới một hồi,
Cá vào trúng lưới, kéo lôi đầy thuyền.
Tuân theo vâng lệnh lời khuyên,
Môn đồ nhận biết, Thầy truyền đến bên.
Phê-rô sửng sốt ngó lên,
Là Thầy đứng đó, trên nền cát xa.
Lửa than đốt cháy thổi phà,
Sẵn sàng bánh cá, cả nhà cùng xơi.
Mang thêm cá mới tới nơi,
Cùng nhau trui nướng, gọi mời ăn chung.
Lưới đầy cá lớn trong thùng,
Chúa làm phép lạ, bao dung tấm lòng.
Quây quần bên Chúa xoay vòng,
Không ai dám hỏi, trong lòng vững tin.

Chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương của Chúa, các Tông đồ tỏ ra chán nản và cảm thấy hụt hẫng. Các ngài chưa hiểu rõ về sứ mệnh rao truyền sự Chúa sống lại. Các ngài trở lại với cuộc sống thường nhật. Cả đời các ngài đã quen với sông nước và chài lưới. Các ngài lại rủ nhau đi đánh cá. Cực nhọc thâu đêm mà các ngài chẳng bắt được con cá nào. Đột nhiên một người lạ xuất hiện với lệnh truyền: Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được. Vâng lời, các ngài đã thả luới và một mẻ cá đầy chưa từng thấy.

Hiểu rõ tâm trạng yếu đuối của các tông đồ, Chúa Giêsu đã từ từ huấn luyện và chỉ dạy các Tông đồ trở thành những thợ đánh cá người. Các ngài đi từ những đau buồn, nghi ngờ, lo âu đến sự vui mừng gặp lại Chúa. Hình ảnh mẻ cá là viễn tượng sứ mệnh cuộc đời của các ngài. Kinh nghiệm của các Tông đồ cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng phải lo toan vất vả và cực nhọc lo lắng trong cuộc sống hằng ngày nào là gia đình, con cái và rồi công ăn việc làm. Chúng ta tính toán đủ cách nhưng rồi chẳng có kết quả bao nhiêu. Hãy lắng nghe lời mời gọi của Chúa: Hãy thả lưới, hãy cố thêm một lần nữa.

Một điều rất lạ mà ít người lấy làm lạ, đó là ai theo đạo Chúa cũng tin rằng Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng lại ít khi thấy Chúa trong lúc này và ở đây ngay bên cạnh mình. Chúng ta thấy, hầu như lần nào Chúa hiện đến, các Tông đồ cũng chẳng nhận ra Ngài. Ngày thứ nhất trong tuần, Chúa hiện ra với bà Maria Mađalêna, thì bà tưởng là người làm vườn. Chúa hiện ra với hai môn đệ về quê, các ông tưởng là khách đi đường. Hôm nay lần Chúa hiện ra ở bờ biển, các Tông đồ cũng không biết là ai.

Chúa hiện ra mọi nơi và mọi lúc, nhưng Chúa muốn tỏ cho ai, người đó mới có thể thấy Chúa. Kinh Thánh thuật lại một số trường hợp điển hình như trong phòng hội của các môn đệ, hiện ra trên đường đi và ngoài bãi biển. Ngài hiện ra trong những cảnh thông thường nhất nơi cuộc sống. Chúng ta cũng cần có con mắt đức tin để nhận biết Ngài. Hãy tập nhìn mọi tạo vật chung quanh vì nó đang biểu lộ vinh quang của Chúa.

Bà Sue Bender, trong cuốn Every Sacred, kể rằng một nhà giáo dạy vẽ tên là Gale. Trong lớp hội họa, bà yêu cầu các học viên phải vẽ thực tập. Mỗi người chọn một vật quen thuộc, đơn sơ và vẽ đủ 100 lần. Chính bà cũng bị học sinh yêu cầu vẽ hay chụp 100 lần chỉ một vật. Hãy tập nhìn, chúng ta sẽ nhận ra sự kỳ diệu của vạn vật.

Mẻ cá lạ lùng đã đưa các Tông đồ trở lại với sứ mệnh làm nhân chứng. Chúa không cho mẻ cá dư đầy để bán kiếm nhiều tiền hay ăn uống dư thừa. Chúa dùng mẻ cá đặc biệt để dạy các Tông đồ về quyền năng của Chúa. Chúa muốn các ông cộng tác ra đi tung lưới khắp nơi để thu hoạch mẻ cá nước trời.

-------------------------------

 

PS 3-C177: YÊU CHÚA


Anna Cỏ May

 

Để xây dựng được một ngôi nhà vững chắc và đẹp, chúng ta không chỉ chuẩn bị sẵn kinh phí, vật PS 3-C177


Để xây dựng được một ngôi nhà vững chắc và đẹp, chúng ta không chỉ chuẩn bị sẵn kinh phí, vật liệu xây dựng tốt nhưng trước hết chúng ta phải thuê được thợ có tâm với nghề. Đức Giêsu cũng là ông chủ, Ngài cần những thợ lành nghề và tận tâm để lãnh nhận sứ mạng mà Ngài trao phó trước khi về trời. Những người thợ ấy là ai?

Sau khi được tràn đầy Thánh Thần, các môn đệ không còn sợ hãi và quen dần với sự xuất hiện và biến mất của Thầy. Trong cuộc hiện ra lần thứ ba, Đức Giêsu mời gọi các ông bước vào một cuộc sống mới, cuộc sống cho đi cách nhưng không. Cuộc sống mới này đòi buộc các ông có một tình yêu, một lòng tin mạnh hơn. Vì thế, Đức Giêsu đã hỏi ông Phêrô, người sẽ đứng đầu Hội Thánh: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Đức Giêsu hỏi ông Phêrô về lòng yêu mến đến ba lần. Đáp lại lời Thầy, ông Phêrô lần lượt xác tín: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ông đã buồn vì Thầy hỏi tới ba lần. Nhưng lần thứ ba câu trả lời càng thêm dứt khoát: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu mời gọi và trao cho ông sứ mạng là “hãy chăn dắt chiên của Thầy”. Đó là một lời mời gọi và một sứ mạng thật cao cả tuyệt vời (x.Ga 21,15-18). Đức Giêsu không hỏi ông về khả năng, kinh nghiệm, Ngài chỉ hỏi tình yêu ông dành cho Ngài. Vì yêu Chúa, ông sẽ chấp nhận mọi khốn khó của cuộc sống. Ông sẽ dấn thân, phục vụ cho đoàn chiên Chúa; yêu Chúa, ông sẽ thấy Chúa nơi đoàn chiên; yêu Chúa, ông yêu những gì là của Chúa, chịu sự cô đơn sỉ vả và đón nhận tất cả mọi sự cho đến cùng. Nhờ tình yêu ấy mà ông đã trở nên vị Tông đồ trụ cột cho Hội Thánh.

Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu qua các tông đồ. Đức Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta sống với một con tim biết yêu. Ai có một trái tim chưa biết yêu, hãy tập yêu; ai yêu rồi thì hãy yêu nhiều hơn nữa. Vì tình yêu là một cử chỉ đẹp và tuyệt hảo nhất mà Đức Giêsu đã biểu lộ cho mọi người. Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa được biểu lộ ngay chính trong công việc chúng ta đang làm. Làm việc với trái tim vì yêu Chúa thì chúng ta không trở nên nô lệ nhưng trở nên con cái Thiên Chúa và thừa hưởng Nước Trời. Mẹ Têrêsa thành Calcutta nói: “Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta tiếp xúc phục vụ, nơi mỗi công việc chúng ta làm”.

Lạy Chúa, làm công việc mình thích, chúng con dễ đặt tình yêu vào hơn. Còn những công việc chúng con không thích, chúng con rất khó đặt tình yêu vào đó, bởi tình yêu của chúng con chỉ là yêu vị kỷ. Xin cho mỗi người chúng con bắt đầu lại tình yêu với Chúa ngay trong những công việc thường ngày. Nhờ đó, chúng con mới xứng đáng với tình yêu mà Chúa đã ban cho. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C178: THỦ LÃNH PHÊRÔ


Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

 

Cả bốn tác giả Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ ghi lại, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi PS 3-C178


Cả bốn tác giả Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ ghi lại, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ngài hiện ra có đến 18 lần dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như: Ngài hiện ra với bà Maria Mađalenna như một người làm vườn, bà không nhận ra Chúa. Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làng Emmaus, như khách bộ hành chưa từng quen biết. Ngài hiện ra với bảy tông đồ trên biển hồ Tibêria, đang lúc các ông đi đánh cá, xem ra như một người xa lạ.

Bà Mađalenna nhận ra Chúa sống lại, khi Chúa gọi đúng tên bà. Hai môn đệ đi làng Emmaus nhận ra Chúa phục sinh qua cử chỉ quen thuộc, lúc Ngài bẻ bánh trao cho họ. Các Tông đồ nhận ra Thầy Giêsu sống lại, khi Ngài ăn điểm tâm với các ông.

Tin Tibêria. Sau một đêm thất bại ê chề vì không bắt được con cá nào, nhưng vâng Thầy, Phêrô chèo thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới, nên bắt được hai thuyền đầy cá. Lúc bấy giờ, Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những tay chài lưới người ta” (Lc 5,10).

Hôm nay, tại biển hồ Tibêria, cũng sau một đêm vất vả thả lưới mà không bắt được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, các ông thả lưới bên hữu thuyền, và kìa, đã bắt được 153 con cá lớn. Theo các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng: con số 153, là số tượng trưng tất cả mọi thứ cá trong biển. Hàm ý nói rằng: Giáo hội mang tính phổ quát, rồi đây trên hành trình truyền giáo, các tông đồ sẽ quy tụ muôn dân, làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội Công Giáo.

Ở đây chúng ta nghiệm thấy rằng, Đức Kitô hiện ra không phải lúc các tông đồ chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng là lúc các ông đang làm việc ở ngoài biển cả.

Đức Kitô Phục Sinh đến với các tông đồ giữa những công việc thường ngày, và Ngài thể hiện bằng cử chỉ trao ban, là dọn điểm tâm cho các ông. Đồng thời, cùng ăn uống với họ, đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà Chúa dành cho các môn sinh của mình.

Sau khi điểm tâm, là phần Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trước khi trao sứ vụ, Đức Giêsu không đòi Phêrô học vị bằng cấp hay đã tốt nghiệp trường đại học nào, mà chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”.

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng, Đức Giêsu thiết lập Hội thánh trên nền tảng yêu thương. Người đứng đầu Hội thánh không phải là người ra lệnh chỉ huy, nhưng là người phục vụ. Sức mạnh của Giáo Hội không dựa trên quyền hành thống trị, nhưng trên tình yêu thương. Cho nên, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất.

Chính vì thế, trước khi trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Đức Giêsu hỏi tới 3 lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Vì có lòng yêu mến Chúa, thì mới có khả năng yêu thương anh em đồng loại. Như vậy, tình yêu là cốt lõi của đạo Công giáo. Bao lâu còn tình yêu, Giáo Hội còn hiệp nhất và phát triển, khi nào tình yêu suy giảm, Giáo Hội sẽ suy tàn.

Thế thì, tại sao Đức Giêsu không trao quyền thủ lãnh cho một người thông thái, có tài lãnh đạo, mà lại trao cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen thưởng, như vậy, chắc chắn Phêrô có lòng mến Chúa thiết tha lắm.

Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu đối với Thầy, Đức Giêsu bảo “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Kể từ đó, Phêrô vâng lời Thầy về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn đầy sức thuyết phục, đã có 3.000 người xin rửa tội. Rồi Ngài đi đến thành đô Rôma, một cánh đồng truyền giáo bao la, là. Nơi đây, Ngài đối diện với biết bao gian nan, bắt bớ, tù đày, nhưng thánh nhân đã can đảm làm chứng cho Chúa đến cùng. Ngài lấy máu đào để minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết lên trang sử vàng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.

Anh chị em thân mến,

Ngày nay, Giáo Hội được thừa hưởng đức tin do các tông đồ để lại. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng cái chết đẫm máu của mình. Như vậy, muốn sống làm chứng cho Tin mừng phục sinh, chúng ta không được an phận, mà phải lên đường, phải ra đi đến những vùng ngoại biên, phải nỗ lực tìm kiếm các linh hồn. Có nghĩa là phải chèo thuyền ra chỗ nước sâu, đôi lúc phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng.

Bởi vì Giáo Hội của Chúa chỉ có thể phát triển qua những vất vả, khó khăn, cấm cách trăm bề như các Tông đồ năm xưa, nhưng chúng ta hãy vững tin rằng, Đức Kitô Phục sinh vẫn luôn đồng hành thiêng liêng với chúng ta trên mọi nẻo đường.

Ngày nay, mỗi lần cử hành Thánh lễ, Đức Kitô Phục sinh vẫn tiếp tục dọn cho chúng ta những bữa ăn nơi bàn Tiệc Thánh, một bữa ăn hiệp nhất đong đầy tình yêu thương.

Cử chỉ bẻ bánh và cá nướng trao cho các tông đồ năm xưa, gợi lên cho chúng ta thấy Thánh lễ cũng là một bữa ăn. Ngày nay, Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục dùng đôi tay linh mục bẻ tấm bánh, là Mình và Máu thánh Ngài trao cho chúng ta. Và phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một. Ngày nay, Ngài vẫn đến với chúng ta qua cử chỉ trao ban ấy.

Xin Đức Kitô mở ánh mắt đức tin, để chúng ta nhận ra dung mạo của Chúa trong mọi biến cố thường ngày. Xin cho chúng ta biết sống quảng đại đối với tha nhân, như Chúa đã từng quảng đại đối với chúng ta. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C179: HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY


Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

 

Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều PS 3-C179


Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh. Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới : trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.

         Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).

          Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.

          Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta  cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhậïn thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù chúng ta không cảm thấy.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Cv 5,27-32.40-41.

          Sau khi chữa lành mộât số bệnh nhân, các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô trả lời cách quả quyết :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô  có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.

          Nhưng vị thủ lãnh các tông đồ luôn kiên quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu ; các ngài vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các ngài.

          +  Bài đọc 2 : Kh 5,11-14.

          Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ, trong đó vũ trụ  hiệp cùng các thiên thần ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như vị vua và Thiên Chúa : “Xin chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn đời”.

          +  Bài Tin mừng : Ga 21,1-19.

          Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ. Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề :”Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên khởi vềà sau đã phảiõ trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy mình.

          Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối vớ nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG.

Tâm trạng của các môn đệ.
          Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng của họ lúc này trở nên khó tả : buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa và để kiếm gì để ăn chứ ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết được gì.

Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba.
          Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là : sự bình an, sứ mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga 19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy. Chính Tôma, tuyên xưng :”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem ra hai ông Phêrô và Gioan  tìm kiếm  điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới : tất cả qui về tập thể mà các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự trong hậu trường.

Một mẻ lưới kỷ lục.
          Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông  câu hỏi thường thức  như người ta quen hỏi các người đi đánh cá : Có kiếm được gì ăn không ? Các ông đồng thanh trả lời :”Thưa không”. Ngài bảo họ :”Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp của các ông  vì các ông đã thất bại suốt một đêm trắng.

          Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được 153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh giáo hữu đã chinh phục cho Chúa  bằng lời giảng dạy của các Tông đồ.

          Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là  các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá  chứ không nhất thiết là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.

II. PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘI.

Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh.
Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Đức Giêsu muốn  là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô – vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi :”Phêrô, con có yêu mến Thầy không” ? Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta  dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.

          Chính vì thế, Đức Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ  ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu – Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.

Con người thủ lãnh Phêrô.
          * Yêu Chúa tận tình.

Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc 1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô, không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới, một tạo vật mới, rất can trường. Ôâng rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng:”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống. Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không ?

         * Yếu đuối và gan dạ.

          Chúng ta thấy trong con người Phêrô có pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ôâng yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh hưởng ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ôâng đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ôâng nhận ra rằng ông không được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này, thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.

          Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ôâng nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình, thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng

          Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này đã loại trừ nơi ông  thói tự hào  và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu đuối của người khác (McCarthy).

Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh.
          Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó.  Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ôâng vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng  sống trong các khu ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu  đã trở thành miếng mồi ngon  cho lũ sư tử đói khát vồ xé,  một số khác thì bị chết  trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy hiểm ấy, công đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.

          Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ôâng nhận ra đó là Đức Giêsu, ông lên tiếng hỏi :”Thầy đi đâu” (Quo vadis) ? Đức Giêsu đáp :”Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa. Ôâng bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng, ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.

III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

Phải biết nhận ra Chúa.
          Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối bỏ ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không  do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…

          Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức tìm Chúa.  Nhưng trong thực tế, rất nhiều người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.

Truyện : Chỉ vì vô tình.

          Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Aán giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông : Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế.  Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Aán giáo cho biết nguyên do nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Aán giáo ôn tồn bảo :”Các tội đã và đang xẩy ra  trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích :”Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”

          Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ôâng tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứùu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có  thể là Đấng Cứu Thế.

          Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích trong Món quà Giáng sinh).

Làm cho nhiều người trở lại với Chúa.
          Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao nhao hỏi :”Chúng tôi phải làm gì” ? Phêrô bảo :”Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ được ơn Chúa Thánh Thần”.

          Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng… Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường  đi Emmau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.

Truyện : gương bày lôi kéo.

          Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn và đánh động : họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.

Phải dựa vào quyền năng Chúa.
          Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Là chứng nhân, các Tông đồø phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.

          Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đứùc Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.

          Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân : số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ : 000.0001.

          Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ : 1.000.000.

          Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).

-------------------------------

 

PS 3-C180: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH


Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh hôm nay dâng hiến cho chúng ta những chứng từ PS 3-C180


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh hôm nay dâng hiến cho chúng ta những chứng từ mới về biến cố Phục Sinh.

Cv 5: 27b-32, 40b-41

Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật lời chứng của các Tông Đồ trước Thượng Hội Đồng. Các Tông Đồ khẳng định đầy xác tín rằng Đức Giê-su, mà các ông đã đóng đinh, đã sống lại và được tôn vinh.

Kh 5: 11-14

Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan mô tả thị kiến về phụng vụ thiên quốc tôn vinh Con Chiên chịu sát tế, được cả triều thần thánh thiên quốc cũng như muôn loài thụ tạo chúc tụng tôn vinh.

Ga 21: 1-19

Tin Mừng tường thuật Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ Ngài trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Đây là giây phút Chúa Giê-su trao gởi con thuyền Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô và tấn phong thánh nhân làm Mục Tử tối cao trên toàn thể đoàn chiên Ngài, căn cứ  trên tình yêu của thánh nhân đối với Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 5: 27b-32, 40b-41)

Sự kiện các Tông Đồ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức là tòa án tối cao ở Giê-ru-sa-lem, được đặt vào trong hoàn cảnh rất đặc thù. Trước đó, thánh Phê-rô và thánh Gioan đã bị bắt sau khi đã chữa lành một người bại liệt ở cửa Đền Thờ và đã ngỏ lời với đám đông tụ tập chung quanh các ngài. Sau khi tra hỏi các ngài, các thành viên Thượng Hội Đồng ngăm đe và nghiêm cấm các ông không được rao giảng Đức Giê-su nữa, rồi thả các ông về “vì họ sợ dân chúng” (4: 21).

Thánh Phê-rô, thánh Gioan cũng như các Tông Đồ khác, chẳng những đã không nín lặng, lại càng lớn tiếng rao giảng Đức Giê-su. Thánh Lu-ca xác định: “Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng” (5: 18). Vào ban đêm, thiên sứ mở cửa ngục, đưa hai ông ra ngoài. Ngay từ sáng sớm, các ông lại xuất hiện trong Đền Thờ để giảng dạy đám đông. Các thượng tế càng nỗi giận và bắt các ngài một lần nữa. Chính đây là đoạn trích dẫn hôm nay: các Tông Đồ lại bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng.

Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người
Vì thế, vị thượng tế hỏi những kẻ tái phạm ngoan cố này: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (5: 28)

Nhân danh nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô khôn khéo trả lời. Thánh nhân giải thích cho các tư tế được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa trong Đền Thờ rằng chính “vị Thiên Chúa của cha ông chúng ta” này đã cho Đức Giê-su sống lại, tôn vinh Ngài và đặt Ngài làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ. Vì thế, nếu thánh nhân cũng như các bạn đồng môn đã không thể nào nín lặng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người.

Chúng tôi cùng Chúa Thánh Thần xin làm chứng
Thánh Phê-rô biết rằng lời chứng của mình có thể bị bác bỏ. Luật Do thái đòi hỏi việc xét xử chỉ có giá trị nếu căn cứ ít nhất trên hai nhân chứng (Đnl 17: 6). Chứng nhân thứ hai mà vị Tông Đồ viện dẫn, quả thật bất ngờ, là Chúa Thánh Thần: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người” (5: 33).

Cũng vẫn ở nơi Thiên Chúa mà thánh Phê-rô quy giá trị những lời nói được Thánh Thần linh hứng cho mình. Như vậy, thánh nhân kết thúc bài diễn từ của mình với cùng viễn cảnh như thánh nhân đã bắt đầu: “Vâng phục Thiên Chúa” (5: 29 và 32).

Qua bài diễn từ này và những bài diễn từ khác nữa của thánh Phê-rô (tổng cộng là năm bài diễn từ), thánh Lu-ca cho chúng ta biết những đề tài cốt yếu của giáo lý tiên khởi; vào lúc đó, giáo lý này chỉ ngỏ lời với các thính giả Do thái.

Thượng Hội Đồng lại miển cưỡng thả các Tông Đồ. Quả thật, vào gần cuối của đoạn trích này, thánh Lu-ca đặt ông Ga-ma-li-ên, một người Pha-ri-sêu, đồng thời một kinh sư đáng kính có khuynh hướng cởi mở, lên tiếng bênh vực cho các Tông Đồ. Như vậy, ngay ở giữa lòng Thượng Hội Đồng xảy ra những căng thẳng nội bộ. Những đối thủ hung dữ nhất của các Tông Đồ không là những người Pha-ri-sêu (thánh Lu-ca đã không nêu tên họ trong suốt bài tường thuật Thương Khó), nhưng giới giáo sĩ, đặc biệt nhà Kha-nan (“vị thượng tế cùng những người thân cận”).

Tuy nhiên, các Tông Đồ, trước khi được thả ra, phải bị đánh đòn theo luật Mô-sê cho là có tội, và chỉ được phép đánh không quá bốn mươi đòn, “sợ rằng đánh thêm sẽ bị trọng thương, và người anh em của anh em sẽ bị nhục trước mặt anh em” (Đnl 25: 2-3).

Niềm vui của những người bị khổ nhục vì danh Đức Giê-su
Dù bị đánh đòn, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”. Chúa Giê-su đã nói trước với các ông: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5: 11-12). Thánh Phê-rô, khi viết cho các cộng đoàn Ki-tô hữu bị bách hại, cũng phát biểu như vậy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4: 13).

BÀI ĐỌC II (Kh 5: 11-14)

Sách Khải Huyền được chi phối bởi hai thị kiến khai mạc. Chúng ta đã đọc thị kiến thứ nhất vào Chúa Nhật trước. Thị kiến thứ hai giới thiệu phần chính yếu thứ hai sách Khải Huyền. Thị kiến này bao gồm các chương 4 và 5 và được chia thành hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất mô tả một lễ nghi hùng vĩ tôn thờ Thiên Chúa cực thánh, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật, và phân đoạn thứ hai là một phụng vụ trang trọng tôn vinh Con Chiên chịu sát tế. Bản văn của chúng ta được trích dẫn từ phân đoạn thứ hai này.

Đức Ki-tô, Con Chiên chịu sát tế
Trong sách Khải Huyền, đây là lần đầu tiên Đức Ki-tô được gọi là Con Chiên và Con Chiên chịu sát tế. Danh xưng này từ nay sẽ ngự trị toàn bộ sách Khải Huyền. Tước hiệu này mang đậm nét truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Thứ Tư, thánh Gioan Tẩy Giả chứng nhận Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36); cũng trong Tin Mừng Thứ Tư, Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho người Do thái đóng đinh vào thập giá “hôm ấy vào ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 18: 14), đúng vào giờ trong sân Đền Thờ người ta sát tế những con chiên dành cho bữa ăn Vượt Qua.

Hình ảnh con chiên ẩn hiện trong tư tưởng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, khi ông gợi lên Người Tôi Trung bị đem đi giết “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53). Ngược dòng lịch sử, sách Xuất Hành tường thuật máu chiên vượt qua đã bảo vệ dân Do thái khỏi chết như thế nào khi họ bôi máu con chiên trên khung cửa nhà mình (Xh 12: 7-13).

Trong thị kiến của mình, tác giả sách Khải Huyền xác định rằng ông thấy “con chiên đã bị sát tế”, nghĩa là được ghi dấu bởi những vết thương hy tế. Trong vinh quang của mình, Chúa Ki-tô muôn đời mang lấy những dấu tích cuộc Tử Nạn của mình mà giá trị của chúng không bao giờ phai nhạt. Chính ở nơi Con Chiên này mà muôn vàn thiên thần và muôn vị chư thánh dâng lời tôn vinh chúc tụng.

Lời chúc tụng của các thiên thần và con số 7
Muôn vàn thiên thần đứng chầu chung quanh ngai. Ngai chỉ Thiên Chúa, Đấng không bao giờ được miêu tả, ngoại trừ qua những ám chỉ đến ánh sáng huy hoàng nhiệm mầu của Ngài, được sánh ví với những viên đá quý lung linh rực rỡ. Ấy vậy, ở đây, ngai cũng chỉ Con Chiên, cách thức công bố thần tính của Chúa Giê-su.

Các thiên thần tán dương Con Chiên qua bảy phẩm tính: “Con Chiên đã bị giết quả xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng!”. Bảy là con số chỉ sự viên mãn. Xa hơn một chút, chúng ta gặp lại lời chúc tụng khác cũng về bảy phẩm tính, mà cộng đoàn được tuyển chọn dâng lên cho chính Thiên Chúa: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!” (7: 12). Nếu Con Chiên đón nhận cùng một phụng thờ như thế, đó là một cách thức mới khẳng định thần tính của Ngài.

Cả triều thần thánh trên trời đều tán dương Con Chiên, như thế khẳng định thần học của thánh Phao-lô và thần học của tác giả thư gởi tín hữu Do thái: Chúa Ki-tô đã được đặt trên các thiên thần (x. Ep 1: 21; Dt 1: 4-14).

Lời chúc tụng của các Con Vật, các Kỳ Mục và con số 4
Chung quanh ngai có các Con Vật và các Kỳ Mục. Các Con Vật và các Kỳ Mục này đã được nêu lên và đã được mô tả trước đây. Các Con Vật được biểu tượng bởi con số bốn, con số có nghĩa hoàn vũ (“bốn phương”). Chúng được mô tả có cánh, giống như con vật hay con người (4: 7), gần với bốn con vật có hình thù kỳ lạ nâng đỡ ngai Thiên Chúa trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 18). Ở đây, chúng đại diện vũ trụ.

Các Kỳ Mục có tất cả là hai mươi bốn vị. Họ biểu thị mười hai chi tộc Ít-ra-en và mười hai Tông Đồ, tức là vừa Giao Ước Cũ vừa Giao Ước Mới; như vậy, hai mươi bốn Kỳ Mục ngụ ý rằng chỉ có một Giao Ước duy nhất. Dù thế nào, họ thuộc về nhân loại và đã đóng vài trò của những người thờ phượng trong phụng vụ trước đó: mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên (4: 10-11). Họ cũng tôn thờ Con Chiên: “Các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”.

Lời chúc tụng của muôn loài thọ tạo và con số 4
Muôn loài thọ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tung hô Con Chiên. Vũ trụ được chỉ rõ bởi bốn miền. Bài thánh thi tung hô Con Chiên với bốn phẩm tính: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!”.

Mầu nhiệm vượt qua
Con Chiên được tôn thờ, tán dương, chúc tụng vì nó đã được sát tế. Tất cả mầu nhiệm Vượt Qua được tiềm ẩn ở nơi khía cạnh hy tế và cứu chuộc, rồi đến vinh quang, vinh quang mà Chúa Giê-su đã xin Cha Ngài trong lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho Con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).

Sứ điệp
Ngoài phụng vụ tôn vinh Con Chiên – phản ảnh nào đó cuộc sống phụng vụ Giáo Hội – nổi bật sứ điệp then chốt của sách Khải Huyền: những người Ki-tô hữu bị bách hại, dẫn đến cuộc tử đạo, chính họ là những con chiên bị sát tế, “bị đem đi làm thịt”; họ theo bước chân của Chúa Ki-tô; họ dự phần vào vận mệnh và vinh quang của Ngài. Lời hứa đã được ban cho họ một cách long trọng: “Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người” (3: 21).

TIN MỪNG (Ga 21: 1-19)

Chương 21 Tin Mừng Gioan là phần phụ chương. Tác phẩm đã đóng lại rồi ở 20: 30-31: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người”. Chung chung, người ta nghĩ rằng phần phụ chương này đã được thêm vào, hoặc bởi chính tác giả hay bởi một trong các môn đệ của ông.

Dù thế nào, người ta nhận ra ở đây văn phong của Gioan: những thực tại được mô tả chất nặng những dấu chỉ đến mức chúng ban cho câu chuyện nghĩa thứ hai, tròn đầy hơn nghĩa của từ ngữ. Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài trình thuật, nhưng có chung một đề tài: quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14) và quyền mục tử tối cao của thánh nhân trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19).

Quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14)
A- Cuộc hội ngộ bên biển hồ Ti-bê-ri-a miền Ga-li-lê

Sau những cuộc gặp gỡ ban đầu với Đấng Phục Sinh ở Giê-ru-sa-lem, các Tông Đồ trở về Ga-li-lê. Về điểm này, thánh Gioan đồng thuận với thánh Mát-thêu. Theo thánh Mát-thêu, vào lúc trên đường đến đồi Ô-liu, sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26: 31-32). Thiên sứ đã lập lại sứ điệp này cho những người phụ nữ đến mồ: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (Mt 28: 6-7).

Theo Tin Mừng Gioan, không phải tất cả các Tông Đồ đều có mặt ở đó, nhưng chỉ có bảy người, con số chỉ sự viên mãn, và tất cả họ đều lên thuyền, thuyền của thánh Phê-rô. Người ta nhận ra rồi ở nơi tình tiết này ý nghĩa Giáo Hội. Cũng giống như mẻ lưới cá lạ lùng thứ nhất được thánh Lu-ca tường thuật (Lc 5: 1-11), “Đêm ấy không bắt được gì cả”. Ấy vậy, những mẻ lưới ban đêm, theo kinh nghiệm nghề nghiệp, được xem là những mẻ lưới đánh nhiều cá hơn những mẻ lưới ban ngày.

B- Chúa Giê-su Phục Sinh ở trên bờ

“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển” như một khách vãng lai vui miệng hỏi thăm công việc của các ngư phủ như thế nào. Họ trả lời là chẳng bắt được gì cả. Vâng theo lời chỉ dẫn của Ngài “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được nhiều cá”, họ đánh bắt được một mẻ lưới đầy những cá. “Người môn đệ Chúa yêu” nhận ra ngay chính Chúa đó. Trong Tin Mừng Gioan, độ nhạy bén của con tim luôn luôn trổi vượt hơn sự suy luận của lý trí. Tuy nhiên, thánh Phê-rô là người phản ứng trước tiên: không đợi thuyền cập bến, thánh nhân lao mình xuống nước đến gặp Thầy.

Thánh Lu-ca tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng được định vị vào lúc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ đầu tiên, theo đó Đức Giê-su đã ở trong thuyền với các môn đệ của Ngài (Lc 5: 1-7). Thánh Gioan cũng tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng, nhưng được định vị sau biến cố Phục Sinh, theo đó Đức Giê-su Phục Sinh không còn ở trên thuyền với các môn đệ, nhưng ở bên bờ cuộc sống đời đời của Ngài. Chỉ một mình các môn đệ của Ngài trên biển, theo truyền thống được xem như nơi trú ngụ của những quyền lực sự dữ. Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn tiếp tục quan tâm đến công việc của họ và hướng dẫn họ. Chính nhờ sự can thiệp của Ngài mà công việc của họ đâm hoa kết trái. Rõ ràng, con thuyền giữa sóng nước mênh mông là biểu tượng của Giáo Hội giữa trần thế. Và công việc đánh cá của các ông được Chúa Giê-su xác định với thánh Phê-rô ngay từ mẻ lưới cá lạ lùng đầu tiên: “Từ nay anh sẽ là người chài lưới người” (Lc 5: 10).

C- Riêng một mình thánh Phê-rô

Thánh Phê-rô một mình bơi vào bờ, trong khi các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá. Khi Chúa Giê-su bảo các ông đem ít cá mới vừa mới đánh bắt được đến đây, thì chỉ mình thánh Phê-rô lại xuống thuyền, rồi kéo lưới đầy cá lớn lên bờ, công việc vượt quá sức của một người, và lưới dù đầy cá đến thế mà không bị rách (21: 11). Chính nơi thánh Phê-rô mà Chúa Giê-su trao phó trách nhiệm hàng đầu đối với Giáo Hội truyền giáo của Ngài; chính thánh nhân phải dẫn đến với Chúa những ai mà sứ mạng truyền giáo đã thu phục được và chính ở nơi thánh nhân mà Ngài ủy nhiệm bổn phận ân cần săn sóc để không có bất kỳ một ai phải bị mất đi. Thời điểm được xác định ngay từ đầu câu chuyện: “trời đã sáng”, hình ảnh rất tâm đắc của thánh Gioan, đây là thời điểm ánh sáng, thời điểm cứu độ.

Còn con số “một trăm năm mươi ba con” được thánh Giê-rô-ni-mô giải thích theo đó vào thời của thánh nhân, các nhà động vật học liệt kê được một trăm năm mươi ba loài cá. Như vậy, qua con số biểu tượng này, tác giả ám chỉ đến công việc truyền giáo các Tông Đồ sẽ thực hiện theo lệnh của Đức Ki-tô dưới sự hướng dẫn của thánh Phê-rô, đồng thời tác giả cũng tiên báo công trình ấy sẽ đem muôn dân muôn nước về với Đức Ki-tô.

D- Bữa ăn của Chúa

Biết các môn đệ vất vả suốt đêm trong cái lạnh của nước và gió, Đức Giê-su chuẩn bị sẵn cho các ông một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa ăn để no lòng. Tất cả đã sẵn sàng: “Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, hai yếu tố này xem ra không phù hợp với bàn tiệc Thánh Thể, tuy nhiên biểu thức: “Đức Giê-su cầm lấy bánh và trao cho các môn đệ ăn” rõ ràng là biểu thức của bàn tiệc Thánh Thể. Hơn nữa vào thời Giáo Hội tiên khởi “bánh” và “cá” biểu tượng Thánh Thể, như được thấy trong phép lạ “Bánh và Cá hóa nhiều” được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.

“Mẻ cá lạ lùng” và “bữa ăn của Chúa” diễn tả hai khía cạnh bất khả phân của thực tại Giáo Hội: hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể. Giáo Hội được mời gọi nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su, loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều gian nan vất vả như cuộc đời cứu thế của Đức Giê-su đã cho thấy. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho các môn đệ của Ngài bữa ăn của Ngài để sưởi ấm lòng mến của các ông và nuôi dưỡng đức tin kiên vững của các ông trong sứ mạng.

2- Quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19)

A- Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su Phục Sinh với thánh Phê-rô

Sau đó diễn ra một cuộc đối thoại thật cảm động giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô. Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”, và cả ba lần thánh nhân đều khẳng định là mình yêu mến Thầy.

Ngoài ra, có một sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế giữa hai động từ Hy lạp: “agapaô”: diễn tả một tình yêu cho đến mức sẵn sàng chết cho người mình yêu, và “phileô”: diễn tả tình bằng hữu. Trong hai lần đầu, Chúa Giê-su hỏi thánh nhân với động từ “agapaô”, nghĩa là Ngài đòi hỏi thánh nhân yêu mến Ngài đến mức dám chết cho Ngài. Tuy nhiên, cả ba lần thánh nhân điều trả lời cho Thầy với cùng một động từ “phileô”, nghĩa là, từ kinh nghiệm mình đã chối Thầy ba lần, thánh nhân không dám hứa với Thầy rằng thánh nhân yêu mến Thầy theo cùng mức độ tình yêu tận mức mà động từ “agapaô” đòi hỏi, nhưng chỉ theo tầm mức mà động từ “phileô” diễn tả. Vì thế, đến lần thứ ba, một cách tế nhị, Chúa Giê-su hạ mức độ lòng yêu mến của thánh nhân đối với Ngài xuống cho ngang tầm với yêu cầu của thánh nhân khi hỏi thánh nhân với động từ “phileô”. Chính với câu hỏi lần thứ ba này, thánh nhân buồn vì mình không thể đáp trả lòng mến của mình đối với Thầy trên cùng mức độ “agapaô” như Chúa muốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.

B- Các bản văn Tin Mừng nói đến quyền tối thượng của thánh Phê-rô

Trong các sách Tin Mừng, chúng ta có đến ba bản văn thiết lập quyền tối thượng của thánh Phê-rô: Mt 16: 13-19, Lc 22: 31-34 và Ga 21: 15-17. Không là một nhưng cả ba bản văn bổ túc cho nhau thắp sáng dung mạo tuyệt đẹp của vị lãnh đạo Giáo Hội của Chúa Giê-su.

Theo bản văn Mt 16: 13-19, Đức Giê-su đã long trọng tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo tối thượng của Giáo Hội Ngài căn cứ trên niềm tin của thánh Tông Đồ. Sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, Chúa Giê-su đã long trọng công bố thánh nhân là đá tảng trên đó Ngài sẽ xây Giáo Hội của Ngài cách vững chắc, ngay cả thế lực sự dữ cũng không thể nào làm lay chuyển được.

Theo bản văn Lc 22: 31-34, sau khi báo trước thánh nhân sẽ chối Thầy và các ông sẽ bỏ rơi Thầy trong cuộc thương khó của Thầy, Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em mình nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Thánh Phê-rô ý thức hơn ai hết về sự yếu đuối ngay chính trong bản thân mình: đã ba lần mình đã chối Thầy, và thánh nhân có kinh nghiệm sâu xa hơn ai hết về sự yêu thương tha thứ vô bờ của Thầy. Từ đó, thánh nhân phải thông cảm những yếu đuối của anh em mình và ra sức nâng đỡ niềm tin của anh em mình.

Theo bản văn Ga 21: 15-17, Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô căn cứ trên “tình yêu”. Cho đến lúc đó, Chúa Giê-su đã cho thánh nhân thấy rằng Ngài đã yêu mến Giáo Hội Ngài và toàn thể nhân loại đến mức hy sinh mạng sống mình. Chính trên cùng mức độ tình yêu như thế mà Ngài đòi hỏi thánh Phê-rô phải có khi đặt thánh nhân làm “mục tử chăm sóc đoàn chiên của Ngài”, như Ngài đã phác họa ở nơi dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”: quyết tâm bảo vệ đoàn chiên cho dù phải hy sinh mạng sống mình để “chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Chính đó cũng là tiêu chuẩn để nhận dạng người mục tử đích thật với kẻ chăn chiên thuê (Ga 10: 11-15).

Như vậy, trong bản văn Gioan này, điều quan trọng không chỉ ghi nhận quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô, nhưng còn cả tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su dành cho đoàn chiên của Ngài nữa. Trước khi trao gởi đến ba lần đoàn chiên của Ngài cho thánh Phê-rô chăn dắt, Chúa Giê-su đã hỏi thánh nhân cũng đến ba lần có yêu mến Ngài không. Như vậy, tấm lòng của thánh nhân dành cho Đức Giê-su như thế nào, thì tấm lòng của thánh nhân đối với đoàn chiên của Ngài cũng phải như vậy. Nói cách khác, chính qua cách thức người mục tử cư xử với đoàn chiên của Đức Giê-su như thế nào, người ta đo lường được lòng yêu mến của người mục tử ấy đối với Đức Ki-tô cũng như vậy.

Vì thế, trong phần kết (21: 18-19), Chúa Giê-su cho thánh nhân hiểu rằng với tư cách Mục Tử tối cao, thánh nhân sẽ hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên như Ngài: “Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa”. Cuối cùng, Chúa Giê-su mời gọi thánh nhân “Hãy theo Thầy” trên cùng một con đường yêu thương vô bờ dành cho đoàn chiên như Ngài. Như vậy, trong cuộc đối thoại, khi ý thức thân phận yếu đuối của mình, thánh nhân không dám đáp trả bằng một tình yêu tròn đầy như Chúa muốn; nhưng trong khi thi hành sứ vụ mục tử, thánh nhân đã đi cho đến cùng tình yêu bằng cuộc tử đạo của mình.

Trước khi chấm dứt bài suy niệm này, chúng ta đừng quên rằng chính Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đương nhiệm đã chọn đoạn Tin Mừng Gioan này trong ngày lễ đăng quang của mình nhân dịp lễ thánh Giu-se. Trong bài giảng vào ngày lễ đăng quang của ngài, được xem như định hướng toàn bộ hoạt động mục vụ của tân Giáo Hoàng, chính dựa trên đoạn Tin Mừng Gioan này mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã phác họa chân dung thật đẹp của vị Mục Tử tối cao như sau: “Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân Giám Mục Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm cả quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn dắt các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Matthêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (x. Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi tất cả mọi người: “Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!”.

-------------------------------

 

PS 3-C181: LỜI THỀ


Trầm Thiên Thu

 

Lời thề là lời nói nghiêm túc để cam kết điều quan trọng nào đó. Cụ Nguyễn Du viết: “Chỉ non PS 3-C181


Lời thề là lời nói nghiêm túc để cam kết điều quan trọng nào đó. Cụ Nguyễn Du viết: “Chỉ non thề biển nặng gieo đến lời”. Có nhiều lĩnh vực cần thề hứa, đơn giản và phổ biến là tình yêu, cụ thể là lời thề hứa trong hôn nhân. Tình yêu trừu tượng và bao la, chưa ai có thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ “mơ hồ” nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Thế nào là ít hay nhiều? Mức độ cũng vẫn trừu tượng lắm!

Trong tình yêu (nói chung, theo nghĩa rộng), người ta có thể cảm thấy hạnh phúc hoặc đau khổ, mà thường thì khổ nhiều hơn, nhưng người ta vẫn phải có trách nhiệm – dù ít hay nhiều, nhẹ hay nặng. Tình yêu thuộc lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim. Thế mới là tình yêu. Nhiêu khê lắm!

Cứ nói đến tình yêu là mặc nhiên đề cập trái tim, và trái tim được coi là biểu tượng của tình yêu. Trái tim là trung tâm yêu thương, nơi phân phối máu giúp cơ thể sống, trung tâm này phân phối máu, và máu liên quan tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: “Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu”. Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13:13). Tất cả đều liên quan với nhau rất lô-gích.

Tình yêu có vẻ bình thường mà lại mạnh hơn Tử Thần. Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là… “chuyện nhỏ”. Mối tình “lịch sử” nổi tiếng thế giới là mối tình của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam cũng có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thảo nào đại văn hào Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Thật lạ lùng!

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các tông đồ bị bắt và bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng. Vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (Cv 5:28). Rất thản nhiên, ông Phêrô và các tông đồ khác mạnh mẽ xác định: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa. Một con người nhưng hai phong cách khác nhau hoàn toàn. Mới khác cũ – mới lạ chứ không cũ rích nữa.

Còn hơn thế, hôm đó ông Phêrô đã hùng hồn nói thẳng thắn: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5:30-32). Một Phêrô mạnh mẽ của ngày hôm nay chứ không còn là một Phêrô yếu đuối của ngày hôm qua nữa. Tuyệt vời!

Họ cấm nói tới danh Giêsu mà cứ nói thì họ chẳng để yên. Y như rằng, các tông đồ bị họ đánh đòn rồi được thả. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mọc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Trong xã hội đời thường, người ta gọi đó là “thú đau thương”. Lĩnh vực tâm linh cũng tương tự, vì cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của con tim – mãnh lực tình yêu đâu dễ gì cưỡng lại.

Biết là đúng thì không thể không tin, tin rồi thì không thể im lặng. Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2). Không sợ bị thua thiệt.

Quả thật là thế, rạch ròi là “từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Do đó, Thánh Vịnh gia muốn chia sẻ bằng cách mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi”. Yêu thương thật khác với yêu thương giả tạo, thời gian sẽ cho biết thật – giả.

Chân thành tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:11-13).

Kể lại thị kiến, Thánh Gioan cho biết: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ luyện thì thành tài, ai lao nhọc thì được thưởng công. Đó là công lý, công minh và chính trực. Thiên Chúa luôn công bằng, chẳng thiên vị bất kỳ ai (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9).

Và rồi Thánh Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: “Amen”. Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.

Trình thuật Ga 21:1-19 đề cập hai điều quan trọng: mẻ cá kỳ lạ và việc trao quyền cho “ngư phủ” Phêrô – giáo hoàng tiên khởi.

Một hôm, tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Cách Ngài tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma – Điđymô, ông Nathanaen – người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Vốn năng động và bộc trực, ông Simôn Phêrô không thể ngồi yên nên nói: “Tôi đi đánh cá đây”. Có lẽ ngồi không cũng buồn, thế nên các ông khác muốn đi cùng. Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng suốt đêm hôm đó họ không bắt được gì cả. Mệt mỏi mà lưới trống, thuyền không.

Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Ngài bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Lạ thật, Phêrô kinh nghiệm đánh cá bao năm mà cũng phải khâm phục.

Ngay lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Ôi chao! Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá đi! Nhưng bản tính Phêrô là thế, nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay, làm cho bằng được. Thấy anh Hai Phêrô làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Quá đã luôn!

Vừa lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo họ đem ít cá mới bắt được tới. Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!”. Trong lúc các ông gom cá thì Thầy Giêsu nướng cá, xong việc là có cái ăn ngay. Thầy chu đáo quá. Bữa điểm tâm sáng hôm đó chắc chắn ngon hơn mọi ngày khác. Lúc này các ông biết rõ đích thực là Thầy Giêsu rồi. Ngài đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy. Và đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

Mọi người đã ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Có lẽ ánh mắt Chúa Giêsu lúc đó âu yếm lắm. Ông đáp ngay: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ngài nói với ông: “Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy”. Rồi Ngài lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”. Ông cũng nói ngay: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ngài nói: “Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy”.

Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Ông Phêrô… gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ ghê, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Và ông vẫn xác quyết: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy”. Rồi Ngài nói thêm với ông: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”.

Theo Thánh Gioan, ý Ngài nói vậy là ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh vào thập giá y như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Vậy là ông đã trung tín với lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy theo Thầy” (Ga 21:19). Ba lần chối bỏ được “đền tội” bằng ba lần tuyên tín, và Phêrô đã trung thành thới hơi thở cuối cùng, trọn lời thề với Đức Giêsu Kitô.

Theo cách nói của Người Việt là “quá tam ba bận”. Có sự trùng hợp thú vị: Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó cũng là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng chứ không khiên cưỡng. Hoàn toàn tự do. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này. Và khi đó, người ta không ngần ngại thề nguyền và cố gắng giữ trọn.

Lời thề có thể là công khai hoặc thầm kín, chung hoặc riêng. Mỗi Kitô hữu cũng đã thề hứa với Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy: tin kính một Thiên Chúa, và từ bỏ mọi hoạt động của ma quỷ.

Nói về tình yêu có nhiều cách, mỗi vị thánh cũng có cách cảm nhận khác nhau: “Yêu là chiến thắng Thiên Chúa” (Thánh Bênađô), “Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài” (Thánh Phanxicô Salê), “Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt” (Thánh Madeleine Barat), “Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng” (Thánh Augustinô), “Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi), “Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người” (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), “Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu” (Thánh Tôma Aquinô), “Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (Thánh Inhaxiô Lôyôla). Mỗi người mỗi vẻ, như hoa muôn sắc màu, cách diễn tả tình yêu cũng rất đa dạng… Nhưng tất cả đều đồng quy về một lời thề hứa: mến Chúa và yêu người suốt đời.

Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu Vĩnh Hằng, Đấng giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết chân thành thể hiện yêu thương như Đấng Phục Sinh. Nguyện xin Tình Yêu Đức Kitô thúc bách và biến đổi tất cả chúng con hành động nhờ tác động của Thánh Thần Thiên Chúa, và giúp chúng con trung thành giữ lời hứa với Ngài cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C182: NIỀM VUI GẶP CHÚA


Lm. Jos. DĐH.

 

Ra biển khơi đánh bắt cá, ra biển để thư giãn vào dịp lễ nghỉ, mùa hè oi bức, nhưng chắc không ai PS 3-C182


Ra biển khơi đánh bắt cá, ra biển để thư giãn vào dịp lễ nghỉ, mùa hè oi bức, nhưng chắc không ai ra biển chỉ nhằm đốt thời gian, hy vọng gặp người thân quen chia vui giải sầu ! Đồng ý rằng, hành trình đời người ai cũng vất vả, phải nhẫn nại, cố gắng, để mong có cuộc sống ổn định nhất. Việc ra khơi bắt cá của các môn đệ có phải là giải toả căng thẳng, là muốn sống lại “cái nghiệp” chài lưới ? Vất vả cả đêm không bắt được cá, là thiếu may mắn, hay lụt nghề vì đã lâu ngày theo Thầy Giêsu học chuyên môn khác ? Đấng phục sinh dõi theo các học trò đi biển bắt cá, phải chăng Ngài đã cho các ông hiểu: không nên ra khơi trong tâm trạng vui buồn, các ông không thể mang lại thành quả nếu chỉ cậy vào tài sức của mình. Ra khơi có phải là bước khởi đầu cho hành trình đời người không ? Sứ mạng tông đồ là “lưới người” hay lưới cá, dù phía trước còn nhiều ngao ngán khiếp sợ, hãy tin Thầy, chớ thấy sóng mà ngã tay chèo.

Xét theo phương diện chuyên môn, dân chài lưới mà vất vả cả đêm không bắt được con cá nào, quả là khó hiểu, đã vậy, người khách lạ trên bờ là ai, vì cớ gì ông hỏi: “anh em có gì ăn không ?  Nói theo ngôn ngữ “thể thao”, những con người đầy ưu tư hôm đó đã gặt hái được niềm vui chiến thắng ở phút 89, khi nhận tín hiệu: “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Vì chưng, sống ở đời thiếu chí khí trong công việc, suy sụp khi gặp thất bại, buông thả, mặc kệ ai có thân người ấy lo, đâu phải là chuyện khó hiểu ! Hành trình ra khơi bắt cá của những kẻ chài lưới hôm đó có tình anh em huynh đệ theo cùng ; đúng, người ta chỉ có thể lấy tình yêu thương để đo chiều dài, chiều rộng, và độ nông sâu khi tin theo Đức Kitô là Thầy là Chúa.

Mẻ cá lạ lùng, hẳn đã mở ra cho các học trò và cho chúng ta hôm nay: hành trình ra khơi của người môn đệ chỉ có kết quả khi Đấng phục sinh ở cùng. Ngày hôm nay, có phải ai cũng có cơ hội ra khơi thả lưới ? Thưa, hiểu theo nghĩa đen, mọi người đều phải lao động, làm việc, không thể sống dựa, sống bám vào người khác. Hiểu theo nghĩa bóng, tất cả dù là linh mục tu sĩ, dù là tín hữu bình thường, đều có cơ hội ra khơi thả lưới, có nghĩa vụ làm chứng nhân đức tin về Đấng phục sinh. Hành trình ra khơi của mỗi chúng ta có thể khác nhau, nhiều năng lực hay bất tài, nhất định phải ở trong tình yêu của Đấng phục sinh, mới sinh hoa kết quả tốt đẹp. Mẻ cá lạ lùng, cũng là lúc các môn đệ nhận biết Chúa, hiểu biết Chúa luôn đồng hành, và phép lạ của Chúa có thể can thiệp bất cứ lúc nào, nếu đặt tình yêu vào Chúa, sống niềm tin tuyệt đối vào Chúa.

Tin Chúa phục sinh luôn ở cùng giáo hội, ở cùng tâm hồn mỗi người là cần thiết, nhưng tin Chúa đang ở trong anh chị em mình, và chúng ta có bổn phận giúp đỡ nhau gặp Chúa, đó là một hành trình dài. Yêu Chúa, gặp Chúa, hiểu biết ý Chúa, nhận ra Chúa nơi anh chị em mình không hề dễ, nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mình, kết quả có được chỉ là cực nhọc, vất vả vô ích mà thôi. Đồng ý rằng, gian nan thất bại, nơi cuộc sống là bình thường như tiền nhân chúng ta có nói: cơm sôi cả lửa thì khê, việc làm hay hỏng là lề thế gian. Thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, cuộc sống còn có ý nghĩa gì, khi mà nhiều tiền lắm của không biết sử dụng, khi mà cuộc sống chỉ là nghi ngờ, cô đơn ! Mỗi chúng ta được Đấng phục sinh xác thực một lần qua Bí-tích rửa tội là đủ, tình yêu của Đấng phục sinh có ở mãi trong ta, mẻ cá lạ lùng và ơn ban có sống động, phát triển, là tuỳ thuộc khi ta sống niềm tin thế nào.

Niềm vui tới do công thành danh toại, niềm vui do lắm tiền nhiều của, niềm vui vì đông con nhiều cháu, tất cả đều gọi chung là niềm vui, nhưng chắc chắn sẽ mang một giá trị hạnh phúc khác nhau. Niềm vui theo Thầy Giêsu bởi Thầy giảng giải hay, được tung hô, Thầy chữa lành được nhiều bệnh nan y, niềm vui vì mẻ cá lạ lùng, niềm vui do nhận ra Vị khách lạ chính là Chúa ; niềm vui do ý thức Đấng phục sinh sẽ ở cùng người tin Chúa, luôn cần đến sự kết hiệp cầu nguyện. Chăm chỉ lao động làm việc, sống nghiêm túc kỷ luật với bản thân đã đẹp lòng Chúa rồi, nhưng làm sao chúng ta đủ ý thức lời nói, việc làm có tình yêu Chúa và có niềm vui của Chúa, bao giờ cũng là một sứ mạng cao cả. Gặp Chúa Phục sinh, gặp anh chị em hàng ngày, luôn là một hành trình ra khơi, thành quả tốt xấu, nhiều ít, tuỳ thuộc lòng mến yêu và hiệp thông gắn bó trong tin yêu của mỗi chúng ta. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C183: PHẢI VÂNG LỜI THIÊN CHÚA HƠN LÀ VÂNG LỜI NGƯỜI PHÀM


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Bị điệu ra giữa Thượng Hội Đồng, bị chất vấn rằng vì sao không chấp hành lệnh nghiêm cấm không PS 3-C183


Bị điệu ra giữa Thượng Hội Đồng, bị chất vấn rằng vì sao không chấp hành lệnh nghiêm cấm không được giảng dạy nhân danh Giêsu nữa, Phêrô và các Tông đồ đã khẳng khái trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cvtđ 5,32). Câu trả lời thật tuyệt vời. Hầu như tất cả những ai đã tin vào Thiên Chúa đều phải “tâm phục, khẩu phục” trước câu nói này.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để phân biệt đâu là lời của Thiên Chúa và đâu là lời của người phàm? Kitô hữu chúng ta vốn nhìn nhận tiếng Chúa phán qua thiên nhiên vũ trụ, qua các biến cố lịch sử, qua tiếng lương tâm. Nhưng cần thú nhận rằng các phương thức phán dạy ấy của Thiên Chúa dường như không minh nhiên rõ ràng với nhiều người. Chúng ta vốn tin nhận Lời Chúa qua Thánh Kinh, đặc biệt qua lời của Con Một Thiên Chúa nhập thể, Giêsu Kitô. Tuy nhiên cũng không dễ phân biệt đâu là cách thế trình bày của tác giả nhân loại và đâu là ý lời Thiên Chúa muốn truyền. Ngay đến các tông đồ là những người trực tiếp tai nghe lời Đấng Cứu Thế mà vẫn còn nhiều điều các ngài chưa thể hiểu (x.Ga 16,12-13). Trong lịch sử đã không thiếu nhiều trường hợp lời của Thiên Chúa đã bị cắt xén hoặc bị đưa khỏi ngữ cảnh, để phục vụ cho ý, lời của phàm nhân. Ngoài ra còn cần phải kể đến nhiều lời giảng dạy của Đấng Cứu độ mà không được ghi chép trong Kinh Thánh (x.Ga 20,30-31;21,25). Đó là một trong những nội hàm mà Giáo Hội Công Giáo gọi là Thánh Truyền.

Căn cứ bài Tin Mừng thánh Gioan (Ga 21,1-19) mà Giáo Hội cho trích đọc trong Chúa Nhật III mùa Phục Sinh năm C, xin cùng nghe và có đôi suy nghĩ về những lời từ miệng của Đấng Phục Sinh. Xin được ghép những lời của Chúa Kitô trong lần tỏ mình ra trên biển hồ Tibêria thành bốn cặp lời hữu quan, mang tính biện chứng như sau:

1. “Này các anh, có gì ăn không?” – “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”.

Các anh có gì ăn không? Một lời cầu xin ư? Đúng vậy. Rất nhiều nhu cầu của tha nhân đang vọng vang bên tai chúng ta. Đó không chỉ là nhu cầu lương thực vật chất mà còn nhiều nhu cầu thiết yếu khác về tinh thần, tâm linh. Người ta không chỉ sống đúng nhân phẩm bằng cơm bánh mà còn bằng nhu cầu học hành, đi lại, nói năng, suy nghĩ, kết hội… Chắc hẳn thế nào các môn đệ cũng nhớ lại lời Thầy Chí Thánh trước đây: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9,13). Có người thầm thỉ, nói đúng hơn là than thở: “Chúa ơi, Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp, thế mà sao còn quá nhiều người đói khổ như ở Sômali, ở Haiti…còn quá nhiều người bị áp bức, chịu cảnh bất công nơi này nơi kia trên thế giới và ngay cả chung quanh con?” Chắc hẳn Chúa sẽ trả lời rằng: “Con ơi, Ta đã làm rồi đó. Ta đã dựng nên con. Đó là điều rất tốt đẹp” (x.St 1,31).

Chúng ta cũng đã từng phân trần: “Tài mọn, sức yếu như con làm sao kham nỗi? Hoàn cảnh thế sự lại quá khó khăn, Chúa biết đấy “một con én không làm nên mùa xuân”. Thế nhưng Chúa vẫn cứ gợi ý, ra lệnh hay mời gọi: “Cứ thả lưới!” Các ngư phủ lành nghề ngày xưa đã làm điều nghịch thường: thả lưới giữa ban ngày! Trước đây trên dưới ba năm Simon đã được một mẻ cá lạ lùng chất đầy hai thuyền nặng gần chìm và hôm nay ngài cùng với các bạn lại được một mẻ cá không kém: 153 con cá lớn, nghĩa là bắt gần hết cá dưới biển vì theo quan niệm thời bấy giờ thì dưới biển chỉ có 153 loại cá. Ngạn ngữ Tây: “Les paresseurs sont ceux qui toujours veulent faire quelque chose”(Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó). Xin đừng mộng mơ! Xin chớ ngồi mà ước muốn suông hoặc chỉ biết chấp tay cầu nguyện! Hãy thả lưới dù trời đã sáng, nghĩa là cả lúc thế thời xem ra không thuận lợi.

2. “Anh em hãy đến mà ăn!” – “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”

“Hãy đến mà ăn!” Lời mời gọi của Chúa Cứu Thế nhắc nhớ chúng ta rằng mọi người đều cần đến lương thực bởi trời. Mọi hiện hữu ở đời đều do bởi Thiên Chúa. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,5). Đến với Chúa để kín múc nguồn sống, để nhận lấy năng lực yêu thương, phục vụ, trao ban. Đấng Cứu Độ không muốn chúng ta đến với Người với đôi bàn tay trắng. Dù có thể làm được mọi sự, nhưng Người cũng đã từng muốn cần đến năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ (x.Mt 14,17). Hằng ngày đến với Người qua bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta đã mang gì để dâng cho Người?

3. “Con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” – “Hãy chăn dắt chiên (chiên con và chiên mẹ) của Thầy!”

Vì yêu Chúa Kitô nên chúng ta sẵn sàng đảm nhận phần việc của Người. Nhờ yêu Chúa Kitô nên chúng ta mới có khả năng chăn dắt các chiên lớn bé của Người. Không ai dại dột giao trứng cho ác. Người ta chỉ ký thác người thân yêu cho kẻ đáng tin cậy. Và người đáng tin, đáng cậy nhất đó là người yêu mến mình hết sức, hết lòng. Biết chăn dắt đàn chiên với cả tấm lòng yêu mến thì mới xứng là mục tử. Không có tình yêu thì không thể chuyên chăm dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh và dòng suối mát. Không có tình yêu thì không thế can đảm chống trả sói dữ và liều mạng sống vì đàn chiên. Không có tình yêu thì chẳng thể quan tâm chăm sóc chiên gầy, chiên bệnh tật hoặc vất vả đi tìm con lạc và cả những chiên đang ở ngoài đàn.

4. “Anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” – “Hãy theo Thầy!”

Dưới đóa hoa hồng thường lấp ló những cành gai. Thập giá là hệ quả như tất yếu của tình yêu. Đường tình yêu là đường thập giá. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”(Lc 9,23). Vấn đề đặt ra là bạn, tôi, chúng ta muốn theo ai? Đã quyết đinh theo Chúa Kitô thì không có con đường nào khác, ngoài con đường Người đã đi. Xin đừng quá chăm chú đến khúc gỗ sần sù. Đường Chúa đi là đường yêu thương. Khi đã lao mình vào biển tình yêu, hết lòng vì người mình yêu, hết tình vì người yêu mình, thì những khúc gỗ sần sù kia dù có ê vai nhưng rồi sẽ trở thành ách êm ái, gánh nhẹ nhàng. (x.Mt 11,29-30)

Có ai yêu thương chúng ta như Đấng đã phó ban Người Con Một, vì hạnh phúc chúng ta? Có ai đầy quyền uy cao cả cho bằng Đấng đã dựng nên cả đất trời và đưa chúng ta từ chốn hư vô đến hiện hữu ở đời này? Vì thế, thái độ vừa chính đáng vừa khôn ngoan và phải đạo là: “Phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời người ta.”

-------------------------------

 

PS 3-C184: GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 

Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật PS 3-C184


Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin.

Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô.

Bởi vậy, những gì ta từng sống, từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô, nhưng chưa có chiều sâu bằng cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô.

Thánh Gioan tông đồ là người luôn có cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô dành cho mình. Chỉ một mình thánh nhân nói lên nỗi tự hào vì được Chúa yêu trong danh xưng mà thánh nhân tự nhận: “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu”.

Chính nhờ cảm nghiệm vừa cá nhân, vừa nội tâm về tình yêu của Chúa, thánh Gioan đã nhiều lần phát hiện Đấng Phục Sinh đến với mình. Chẳng hạn, ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.

Hôm nay, cũng bằng chính cảm nghiệm nội tâm về Chúa Kitô, một lần nữa, thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra Chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốn rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu” hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.

Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin, không có lòng yêu mến Chúa.

Nhưng nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng

Để khởi đầu cho việc cảm nhận cách cá vị về tình yêu của Chúa, mỗi người hãy chiêm ngắm Chúa Kitô trước đã. Hãy gắn bó với Chúa bằng những suy niệm về đời sống của chính Chúa, bằng lời dạy mà Chúa đã giảng dạy. Hãy học lấy tấm gương yêu mến Chúa của thánh Gioan tông đồ: yêu một cách cá vị bằng cảm nghiệm nội tâm và thâm sâu với Chúa Kitô.

Chỉ có thể cảm nghiệm tận hồn về tình yêu mà Chúa dành cho mình, và mình dành cho Chúa, thì từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiện các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy.

Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi…

Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình.

Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui…

Người đàng ông là tù binh chắc chắn không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông.

Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.

Ta cần thay đổi tương quan giữa mình với Chúa, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm yêu thương và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.

Nếu ta thay đổi tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: Gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…, điều mà trước đây ta chưa từng nhận ra, vì trước đây, ta đã không có tương quan cá vị với Chúa…

-------------------------------

 

PS 3-C185: TÂM PHỤC KHẨU PHỤC


JM. Lam Thy

 

Khi đặt tiêu đề cho bài viết (TÂM PHỤC KHẨU PHỤC), kẻ viết bài này liên tưởng tới câu nói PS 3-C185


Khi đặt tiêu đề cho bài viết (TÂM PHỤC KHẨU PHỤC), kẻ viết bài này liên tưởng tới câu nói của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10). Đúng vậy, khi người ta mới chỉ nói “tin” ngoài miệng thì “lời nói theo gió bay đi mất”, mà sự tIn phục ấy cần phải xuất phát tự trong lòng, đó mới thực sự là “Tâm phục khẩu phục” (       : phục tự đáy lòng, chứ không phải chỉ nói ngoài miệng – Từ nguyên). Chính Đức Giê-su cũng dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21)

Có hai lần Đức Giê-su làm phép lạ lưới cá vào 2 dịp đặc biệt: lần thứ nhất Người làm vào thời điểm khai mạc sứ vụ, khi thu nhận 4 môn đệ đầu tiên (ông Phê-rô và người anh là ông An-rê, ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an). Vì cả 4 người đều là dân chài lưới, nên Người muốn dùng chính những dụng cụ và việc làm quen thuộc hàng ngày của các môn đệ, để các ngài được chứng kiến tận mắt Người Thầy mà mình sắp đi theo chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Đó là một cách thu phục nhân tâm cụ thể nhất, hữu hiệu nhất.

Sau bài giảng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, Đức Giê-su Ki-tô bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm” (Lc 5, 4-7). Cả 4 môn đệ và đám đông được chứng kiến tận mắt phép lạ, đều kinh ngạc và thán phục. Người bộc trực Phê-rô đã thể hiện sự tín phục như vậy khi “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 8). Và vì thế, Đức Ki-tô trấn an và chính thức thu nhận các ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (trở thành những kẻ “lưới người như lưới cá” – Mt 4, 20). Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người (Lc 5, 10-11). Quả thật là “có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 10).

Lần thứ hai sau Phục Sinh, Đức Giê-su Ki-tô lại làm phép lạ lưới cá (Bài Tin Mừng hôm nay – CN III.PS-C – Ga 21, 1-19). Lần này cũng giống như lần ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, “Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6). Cả 2 lần, các tông đồ đều có được mẻ cá lớn đến không thể tưởng tượng. Hai lần làm phép lạ với 2 mẻ cá lớn (là những con cá thực sự), Đức Giê-su Ki-tô đã làm cho các môn đệ – kể cả đám đông chứng kiến phép lạ – tâm phục khẩu phục. Và một lần nữa, thánh Phê-rô biểu lộ lòng tin phục bằng hành động (“ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” – Ga 21, 7). Cũng chính hành động dũng cảm khi nhảy xuống biển để bơi vào bờ mong gặp Thầy ngay lập tức (chớ không chờ “Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá” – Ga 21, 8), đã biểu hiện đức tín phục của Phê-rô là “Đức tin và hành động luôn đi đôi với nhau”. Thật vậy, “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26)

Khách quan mà nói, với phép lạ ở biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Ki-tô đã củng cố đức tin cho các Tông đồ một cách chắc chắn. Tuy nhiên, hơn ai hết, Đức Giê-su Thiên Chúa vẫn còn nghi ngại các Tông đồ với bản chất loài người cũng rất có thể không chu toàn được sứ vụ mà Người đã trao (“lưới người như lưới cá”). Vì thế, sau phép lạ, Người hỏi thánh Phê-rô ba lần liền: “Si-môn, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Ba lần chỉ với một câu hỏi, khiến người môn đệ bản tính bộc trực tỏ ra buồn rầu, vì nghĩ là Thầy vẫn chưa thực sự tin tưởng vào tấm lòng chân thực của mình. Để ý kỹ một chút, sẽ thấy có lẽ tại khi bước vào cuộc khổ nạn, Phê-rô đã chối Thầy ba lần trong một buổi tối, nên lần này Đức Ki-tô cũng gặng hỏi Phê-rô tới 3 lần chỉ với một câu hỏi.

Cũng lại là con số 3. Ba lần Phê-rô chối Chúa chứng tỏ đức tin của Phê-rô chưa kiên định. Vậy tại sao Đức Ki-tô không hỏi lại ba lần “Si-mon, con ông Gio-an, con có tin Thầy không?” mà lại là “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Vấn đề mấu chốt chính ở điểm này: Để củng cố đức tin thì cần – rất cần – phải có đức ái, vì “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Các môn đệ đã củng cố đức tin vững mạnh chính là nhờ các ngài đã yêu mến Thầy hết lòng hết sức. Vâng, tất cả mọi sự, mọi hành động “phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình.” (1Tm 1, 5). Cũng bởi vì “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).

Với 2 lần làm phép lạ, Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ hai mẻ cá lớn không chỉ là những con cá thực sự nằm trong lưới, mà còn là những con cá đức tin và đức mến, khiến cho các ngài tâm phục khẩu phục; để từ đó “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.” (Cv 1, 14). Chính vì thế, kết quả tất yếu là mẻ cá lớn thứ ba (là những con-cá-tín-hữu) các tông đồ thu lượm được tới con số 3.000, đáp ứng được sự mong mỏi của Đức Ki-tô Phục Sinh (“Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.” – Cv 2, 40-41).

Riêng con người bộc trực Phê-rô đã chính thức trở thành người đứng đầu cộng-đồng-lưới-người là Giáo Hội tiên khởi, đúng như Lời hứa của Thầy Chí Thánh (“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh  biết: anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” – Mt 16, 18). Với vô vàn vô số những mẻ cá lớn thu lượm được trong quá trình hơn 2.000 năm “lưới người”, Giáo Hội Công Giáo ngày hôm nay đã chứng minh một cách hùng hồn rằng: Tất cả những môn đệ thừa kế sự nghiệp của các môn đệ tiên khởi đã biết sống đức tin trong đức mến và triệt để áp dụng – áp dụng rất hiệu quả – công cuộc mà các tông đồ thủa xưa đã thể hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần: Đó chính là “ĐỨC TIN + ĐỨC MẾN => CẦU NGUYỆN => HÀNH ĐỘNG”. Và phải chăng đó chính là châm ngôn sống cho tôi, cho anh, cho tất cả chúng  ta – những dân chài trong làng chài lưới Giáo Hội hiện đại?

Tóm lại, Thiên Chúa là Tình Yêu, nên người Ki-tô hữu cần phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình”. Và khi đã yêu như thế, thì còn chờ đợi gì mà không đến với Lời Phục Sinh. Ấy cũng bởi vì “Lời này cũng được gửi đến chúng ta, như đã được nói với các phụ nữ chạy đến mộ Chúa: ”Tại sao các bà tìm người sống nơi những người chết? Người không ở đây, Người đã sống lại rồi!” (Lc 24, 5-6). Sự chết, cô đơn và sợ hãi không còn là tiếng nói cuối cùng nữa. Có một lời đi xa hơn và chỉ có Thiên Chúa mới có thể nói lên: đó là Lời Phục Sinh.

Xin hiệp ý với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô dâng lời cầu nguyện lên Đấng Phục Sinh: “Xin Đấng Phục Sinh, Đấng đã mở toang cánh cửa của những ngôi mộ, cũng mở con tim của chúng ta trước những nhu cầu của những người thiếu thốn, người không được bảo vệ, người nghèo đói, người thất nghiệp, người vô gia cư, những người gõ cửa ngôi nhà chúng ta để xin đồ ăn, xin một nơi ẩn náu, và xin được nhìn nhận phẩm giá của mình.” (Sứ điệp Phục Sinh 2019). Ước được như vậy. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C186: GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan ghi lại cuộc gặp gỡ lần thứ ba, cũng là lần cuối PS 3-C186


Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan ghi lại cuộc gặp gỡ lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng giữa Chúa Giêsu Phục sinh và các môn đệ. Việc đánh cá được nói đến trước và sau khi Đức Giêsu tỏ mình, mang ý nghĩa đặc biệt. Trước đó, các ông vất vả mà không được con cá nào. Sau khi nghe lệnh của Đức Giêsu và thả lưới, các ông kéo được một mẻ cá lạ lùng, đếm được 153 con. Gặp gỡ với Đấng Phục sinh là điều kiện cần thiết để mang lại những hiệu quả ngoạn mục trong sứ mạng tông đồ.
 
Qua hình ảnh mẻ cá lạ, Thánh Gioan muốn nói với chúng ta về một cộng đoàn tín hữu đang phát triển nhanh chóng đầy hứa hẹn vào tương lai. Sách Công vụ Tông đồ kể lại, nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, số người tin theo Chúa ngày một gia tăng. Những người mới gia nhập Đạo, vừa là người Do Thái, vừa là người gốc dân ngoại. Cộng đoàn tín hữu đoàn kết hiệp nhất với nhau đến nỗi họ chỉ có một tâm hồn. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 153 là con số tượng trưng, vì thời bấy giờ, khoa nghiên cứu thủy sản hệ thống các loài cá dưới biển và liệt kê được 153 loài cá lớn nhỏ khác nhau. Khi nói đến một mẻ lưới bắt được 153 con cá, tác giả muốn nói với chúng ta về hình ảnh Giáo Hội của Chúa Kitô. Nhờ có Chúa Phục sinh hiện diện, cả nhân loại được mời gọi gia nhập Giáo Hội, làm thành gia đình của Thiên Chúa. Hơn nữa, tác giả cũng muốn khẳng định với chúng ta, ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ máu của Đức Kitô có giá trị cứu thoát mọi dân tộc, mọi quốc gia trên toàn thế giới này.
 
Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình trên thế gian, nhưng Người vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người là sức sống và nguồn nghị lực truyền giáo của Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu Phục sinh trao phó cho các tông đồ, mà cụ thể là Phêrô, vị Tông đồ trưởng, nhiệm vụ hướng dẫn đàn chiên của Người. Tin Mừng Thánh Gioan, vào lúc kết thúc, lại mở ra một thời đại mới, thời đại của Giáo Hội. Tông đồ Phêrô đã ba lần tuyên thệ yêu mến Thày, như một tình yêu mến trọn hảo. Dựa trên tình yêu mến được tuyên xưng đó, Chúa trao phó cho ông thay Người cai quản Giáo Hội. Giáo Hội Công giáo kể từ Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên cho đến nay, luôn có người kế thừa lãnh đạo. Trong lịch sử, có những giai đoạn khó khăn thử thách khốc liệt, nhưng vẫn có người kế vị Thánh Phêrô để chèo lái con thuyền Giáo Hội lướt qua sóng gió phong ba của biển đời.
 
Sau khi tuyên thệ một lòng yêu mến, Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thày”. Chúa cũng đã nói lời này với Phêrô, khi lần đầu gặp ông đang vá lưới ở bờ hồ Galilêa, và ông mau mắn từ bỏ mọi sự đi theo Người. Hôm nay, Chúa lại nói với ông một lần nữa, như thể đây là khởi đầu của một hành trình mới để làm môn đệ của Người. Nếu trước đây, ông đi theo Chúa để được thụ giáo với Người, thì bây giờ, ông theo Chúa để trở thành hiện thân của Người giữa thế gian. Có Chúa ở với ông, nên ông trở nên mạnh mẽ và can đảm. Đứng trước thày Thượng tế, Phêrô và các tông đồ đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết và treo Người trên thập giá”. Khi bị đánh đòn, các ông lại “hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” Bài đọc I). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã giúp các ông có thêm nghị lực và nhiệt huyết để làm chứng về Người.
 
Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Có những lúc chúng ta không nhận ra Người, nhưng Người vẫn đồng hành với chúng ta, vì Người là Thiên Chúa quyền năng và nhân ái. Khi cử hành phụng vụ mùa Phục sinh, Giáo Hội muốn cho chúng ta được gặp gỡ Đấng đã từ cõi chết sống lại. Chúa Phục Sinh cũng đang đặt ra cho mỗi người chúng ta câu hỏi về tình yêu mến: “Con có yêu mến Thày không?”.  Câu trả lời của chúng ta thể hiện mức độ dấn thân theo Chúa và thiện chí trở thành môn đệ của Người.

-------------------------------

 

PS 3-C187: GIÁO HỘI LÀ QUÀ TẶNG VÀ LÀ TRUNG GIAN LÒNG THƯƠNG XÓT


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Vào ngày lễ Thánh Giuse vừa qua, Đức Thánh Cha Francis kỷ niệm ba năm nhận lãnh sứ vụ PS 3-C187


Vào ngày lễ Thánh Giuse vừa qua, Đức Thánh Cha Francis kỷ niệm ba năm nhận lãnh sứ vụ chăm sóc Giáo Hội trên ngai tòa của Simon Phêrô. Cũng dịp này, báo chí đánh giá rằng, ba năm qua, Đức Thánh Cha đã làm được nhiều việc cho Giáo Hội. Ngài thúc đẩy mọi thành phần của Giáo Hội phải đi ra đến với những vùng ven, với những người nghèo. Ngài dẫn dắt Giáo Hội bằng trực giác của con tim, vì thế, đời sống và hoạt động của Ngài đã chạm đến được trái tim của nhiều người. Báo chí cũng nhận định rằng, tình yêu thương của Đức Thánh Cha dành cho người nghèo, người đau khổ bệnh tật và các trẻ em là một tình yêu hết sức tự nhiên, phát xuất từ một tâm hồn cảm thông. Đặc biệt ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng, Ngài đã cho thế giới thấy rằng, Giáo Hội không phải là thành trì, cũng không phải là một tiểu thư đài các, nhưng Giáo Hội dám chấp nhận sự lấm lem vì bước đến với những người bị bỏ rơi. Qua đó, Đức Thánh Cha cũng cho thấy, Giáo Hội thực sự là quà tặng của lòng thương xót của Chúa và đồng thời là trung gian của lòng thương xót Chúa cho thế giới.

Chúa Giêsu Phục sinh đã hết lòng tin tưởng Simon Phêrô, đã trao cho ông và các tông đồ nhiệm vụ yêu thương, chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Câu chuyện Thánh Gioan kể hôm nay mang những ý nghĩa đặc biệt. Các tông đồ đã lấy lại được bình an sau lần gặp Chúa Phục sinh. Hình ảnh các ông sống với nhau và làm việc cùng với Simon cho thấy một Giáo Hội gắn bó mật thiết với Simon là thủ lãnh. Simon cũng là người khởi xướng mọi hoạt động của Giáo Hội. Ông nói với anh em : Tôi đi đánh cá đây. Các tông đồ khác đã đồng thanh đáp lại : Chúng tôi cùng đi với anh. Chi tiết này cho thấy sự hiệp nhất đồng tâm của Giáo Hội, đặc biệt là các tông đồ quanh thủ lãnh Phêrô. Việc khởi xướng của Simon : Tôi đi đánh cá, không chỉ là đi ra Biển Hồ, nhưng còn là mệnh lệnh của vị thủ lãnh, mời gọi mọi thành viên của Giáo Hội lên đường ra khơi loan báo Tin Mừng và tình yêu thương của Chúa, đem các linh hồn về cho Chúa.

Tuy nhiên, với cố gắng riêng mình, cả đêm các ông không bắt được gì, đến độ không còn gì để ăn. Lúc đó, Chúa Giêsu Phục sinh đã đứng trên bãi biển mà các ông không nhận ra. Ngài truyền cho các tông đồ : Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông đã thả lưới và bắt được một mẻ cá thật lớn. Điều đó cho thấy rằng, dù không nhìn thấy Chúa, nhưng nếu các ông cứ vâng theo Lời Chúa, các ông sẽ đạt được kết quả vượt sức mong đợi của các ông. Người môn đệ được thương mến đã nhờ trực giác tình yêu nhận ra Chúa Phục sinh và nói cho Simon : Chúa đó. Chúa vẫn hiện diện, theo dõi và trợ giúp mọi hoạt động của các tông đồ, nhưng chỉ với tâm hồn của những người biết mình được yêu, thì mới nhận ra Chúa mà thôi.

Tin Mừng kể tiếp : Bước lên bờ, các ông thấy đã có sẵn than hồng và cá đang nướng ở trên và có cả bánh nữa. Điều đó cho thấy, Chúa Phục sinh hằng lo lắng cho Giáo Hội và các môn đệ của Ngài. Không phải các ông dọn bữa cho Chúa, nhưng sau một đêm vất vả, vật lộn với công việc, thì chính Chúa sẽ chuẩn bị bữa ăn cho các ông. Ngài không bao giờ để cho Giáo Hội của Ngài phải thiếu thốn khi họ làm việc cho Chúa. Sau đó, Chúa nói các ông đem cá mới lên. Chính Simon lên thuyền đưa lưới vào bờ. Lưới đầy cá lớn mà không hề rách. Giáo Hội của Chúa như chiếc lưới mở ra để thâu nhận tất cả mọi người, mọi dân tộc vào Giáo Hội. Giáo Hội luôn có dư, đủ chỗ cho hết mọi người. Chiếc lưới là Giáo Hội dù có đầy đến mấy cũng không hề rách. Đức Giêsu lại bước đến, cầm bánh trao cho các ông. Cử chỉ này chính là cử chỉ thân quen Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể. Khi lặp lại cử chỉ này, Tin Mừng cho thấy, Giáo Hội được thiết lập, được nuôi dưỡng bằng lòng thương xót và bằng chính Thánh Thể của Chúa Giêsu.

Sau khi ăn xong, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với Simon Phêrô : Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không ? Thật hết sức bất ngờ, khi Chúa Giêsu không đặt một điều kiện nào với Simon, Ngài cũng không hề nhắc lại quá khứ của ông. Ngài muốn mời ông bước thêm một bước dài hơn, cao hơn trong hành trình theo Chúa, mà điều kiện duy nhất là lòng yêu mến. Simon đã trả lời : Thưa thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chỉ khi có lòng yêu mến thực sự, thì người ta mới có thể đem lòng yêu mến đến cho người khác. Chúa trả lời Simon : Anh hãy chăm sóc các chiên con của Thầy. Như thế, sứ mạng của Phêrô là nhân danh Chúa Giêsu, thay mặt Chúa Giêsu để chăm sóc đoàn chiên của Chúa Giêsu, tiếp tục nối dài lòng thương xót của Chúa cho đoàn chiên.

Chúa lại hỏi Simon lần thứ hai và đến lần thứ ba : Con có yêu mến Thầy không ? Lần thứ ba được hỏi, Phêrô có vẻ buồn. Ông buồn không phải vì nghĩ rằng Thầy không tin ông, cũng không vì quá khứ của ông, nhưng vì ông nhìn thấy một sứ mạng hết sức lớn lao mà con người của ông thật giới hạn, yếu đuối. Vì vậy, ông đã hết sức khiêm tốn, không mạnh dạn như hai lần trước, ông thưa : Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Với câu trả lời này, Phêrô đã trải lòng mình ra trước mặt Chúa, mở cả tâm hồn để cho Chúa thấy một Simon yêu Chúa thật nhiều, nhưng cũng gây đau khổ cho Chúa thật nhiều, nhiệt thành nhưng cũng lại hay vấp váp. Ông tin rằng Chúa biết, Chúa thấu tỏ con người ông, Chúa biết ông cần lòng xót thương và sự nâng đỡ của Chúa.

Trước thái độ chân thành, khiêm tốn của Simon, Chúa đã đổ tràn tình yêu xuống tâm hồn ông và trao cho ông quyền : Con hãy chăm sóc các chiên của Thầy. Chúa muốn ông thay Chúa, nhân danh Chúa để yêu thương, chăm sóc cho hết mọi người. Chúa muốn mượn con người, đôi tay của ông để có thể tiếp tục đụng chạm, yêu thương, vỗ về những con chiên của Chúa. Như vậy, sứ mạng của Phêrô và của Giáo Hội rõ ràng là sứ mạnh yêu thương, là chuyển tải lòng thương xót của Chúa đến cho thế giới.

Chúa Giêsu cũng nói cho Phêrô biết về tương lai của ông. Chúa muốn Simon theo Chúa đến cùng, không chỉ khi còn trẻ mà cả khi về già, không chỉ khi còn sức lực, nhưng cả khi tóc bạc da mồi vẫn phải trung thành theo Chúa. Ông cũng phải giang tay ra như Chúa để có thể ôm hết mọi người vào lòng để yêu thương, để phục vụ.

Trước một tương lai và sứ mạng quá lớn lao, có lẽ đã làm Phêrô có phần lo sợ. Chúa Giêsu đã mời gọi ông : Hãy theo Thầy. Lời mời gọi lần này chắc chắn khác với lời mời gọi ngày xưa ở bờ hồ Tiberia. Lúc đó, các ông trẻ trung, theo Chúa, các ông mong đợi và nuôi trong mình bao nhiêu dự định theo kiểu trần gian. Lần này, trước sứ mạng thật lớn lao, ông sẽ phải giang rộng tay để yêu thương, để trao ban, chứ không còn tìm kiếm cho mình nữa. Lời mời gọi lần này đòi Phêrô phải đáp trả một cách quyết liệt và vĩnh viễn không đổi thay. Ông sẽ phải tiếp nối sứ mạng của Thầy là yêu thương không thể trì hoãn, xót thương không còn giới hạn, là bước vào con đường thập giá với Thầy.

Suy niệm Tin Mừng hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã thiết lập Giáo Hội, cho chúng ta được làm con, làm thành viên của Giáo Hội. Thiên Chúa đã không muốn để công trình yêu thương cứu chuộc của Chúa bị dừng lại, Ngài đã thiết lập nên Giáo Hội và muốn Giáo Hội trở thành quà tặng lòng thương xót của Chúa. Lòng thương xót Chúa được trao ban cho nhân loại như mưa trời tuôn đổ, nhưng Chúa muốn Giáo Hội trở thành dòng chảy đem lòng thương xót Chúa cho thế giới.

Là con của Giáo Hội, chúng ta được đón nhận lòng thương xót của Chúa qua sự chăm sóc của mẹ Giáo Hội, được sự dẫn dắt của Giáo Hội như người Thầy. Qua quyền cử hành Bí tích, Giáo Hội tiếp tục yêu thương và chuyển tải ân sủng của Chúa cho các con mình. Đặc biệt qua Bí tích Giải tội, Thiên Chúa đã muốn dùng Giáo Hội để nói lời yêu thương tha thứ, chỉ bảo và chữa lành tâm hồn các tín hữu, ban lòng thương xót Chúa cho con cái mình.

Là thành viên của Giáo Hội, chúng ta cùng mang sứ mạng của Giáo Hội, là sứ mạng yêu thương và phục vụ, chuyển tải lòng thương xót của Chúa đến cho người chung quanh. Bắt đầu từ gia đình, chúng ta biến gia đình thành cộng đoàn của lòng thương xót Chúa qua sự yêu thương, phục vụ, cảm thông. Chúng ta còn phải thông chuyển lòng Chúa xót thương đến những người chung quanh, những người dù tin Chúa hay chưa tin, những người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị ức hiếp. Chúng ta phải bước đến với họ, đưa tay ra để nâng họ dậy, an ủi, xoa dịu đau khổ của họ, để qua việc tiếp xúc với mỗi thành viên của Giáo Hội, họ có thể đụng chạm và gặp được gương mặt xót thương của Chúa. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C188: CON CÁ VÀ CON NGƯỜI


Trầm Thiên Thu

 

Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá PS 3-C188


Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá chỉ có giác hồn, còn con người có linh hồn.

Người ta thường dùng con cá để ví von. Như khi nói về tình quân và dân: Quân và dân như cá với nước; khi so sánh về giáo dục: Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Và khi kêu gọi Phêrô và Anrê đi truyền giáo, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con cá để nói về con người: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4:19; Mc 1:18; x. Lc 5:10).

Cá là loài chứa nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể, đặc biệt là khi ăn chay theo Kitô giáo, người ta không phải kiêng cá. Quả thật, cá là loài có gì đó rất đặc biệt.

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các Tông Đồ không còn nhút nhát như trước, vì họ đã xác tín và được Thầy Giêsu ban Chúa Thánh Thần khi Ngài hiện ra và thổi hơi vào họ (Ga 20:22). Trình thuật Cv 5:27b-32. 40b-41 cho biết về lòng can đảm của các Tông Đồ.

Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”.

Nói về Ông Giêsu thì mắc mớ chi tới họ mà họ cấm? Ngày nay cũng vậy, người ta vẫn tìm mọi cách bách hại những người tin vào Đức Kitô. Cả xưa và nay, tại sao người ta tìm bắt Chúa Giêsu và những người tuyên xưng Đức Kitô? Nếu không là ghen tức thì là lý do gì? Những người tin vào Đức Kitô thì chỉ làm điều tốt chứ có hại ai mà họ lại ghét thế? Thật là vô lý hết sức!

Tuy nhiên, họ nói gì thì cứ nói, ông Phêrô và các Tông Đồ khác vẫn hiên ngang đáp lại thẳng thắn: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”.

Nghe nói vậy, họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Và tất nhiên các Tông Đồ không thể im lặng theo lệnh của những người có quyền lực kia.

Thật vậy, họ vẫn rao giảng về Đức Kitô dù biết khó yên thân. Và hàng ngày, cả trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu – Đấng chịu đóng đinh, chịu chết nhưng đã phục sinh.

Vì “vô tri” mà “bất mộ”. Nhưng một khi đã biết rồi thì người ta càng thêm lòng yêu mến và không thể lặng im: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2). Ai cũng có kinh nghiệm sống, đặc biệt là sống thật về phần linh hồn. Chỉ những người cố chấp và vô ơn mới không chịu nhận ra hồng ân của Thiên Chúa trao ban hàng ngày, từng phút và từng giây.

Chúa Giêsu phục sinh vinh hiển, nhưng người ta không muốn tin; chính người ta cũng đã và đang được cứu thoát, nhưng người ta vẫn không muốn công nhận. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật minh nhiên, không thể phủ nhận: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:4-6).

Chuỗi vui-buồn-sướng-khổ hoặc chuỗi sinh-lão-bệnh-khổ – mà người ta gọi chung là “bể khổ” – chính là chuỗi cuộc đời nhân thế. Buồn khổ nhiều hơn vui sướng, nhưng người có đức tin vẫn thấy thanh thản, ngay cả khi đối diện với cái chết. Họ tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót nên họ vẫn cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng” (Tv 30:11-13).

Đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (x. Rm 8:35).

Trong trình thuật Kh 5:11-14, Thánh Gioan cho biết thị kiến về sự tôn thờ Con Chiên: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Vô số các sinh vật tôn vinh và xưng tụng Con Chiên, không thể đếm nổi. Dù ngày nay con số đó chưa nhiều, chỉ là số ít so với dân số thế giới, nhưng ngày cuối cùng sẽ là đa số, có hằng hà sa số những người tin vào Đức Kitô. Con số đó đang gia tăng hàng năm, hàng tháng, và hàng ngày. Một sự thật minh nhiên!

Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’. Bốn Con Vật thưa: ‘Amen’. Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”. Con số những người tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đã và đang tăng lên theo cấp số cộng, rồi theo cấp số nhân. Và chúng ta đang chứng kiến sự lạ lùng này.

Trình thuật Ga 21:1-14 cho biết về cuộc hiện ra lần thứ ba của Chúa Giêsu ở Biển Hồ Tibêria, sau khi Ngài sống lại.

Hôm đó, ông Simôn Phêrô, ông Tôma (Điđymô), ông Nathanaen (người Cana miền Galilê), các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, họ đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói đi đánh cá. Các ông kia cũng muốn cùng đi. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư?”. Các ông nói là “không”. Ngài bảo các ông cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Ông Gioan nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Vừa nghe nói vậy, ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được tới nướng. Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Rồi Đức Giêsu bảo mọi người đến ăn. Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy. Như vậy là Ngài dâng Thánh Lễ ngay tại bờ biển, Chúa Giêsu thật tuyệt vời và vô cùng bình dân!

Tiếp theo, trình thuât Ga 21:1-19 cho biết mối liên kết giữa Chúa Giêsu và Giáo hội.

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô có mến Ngài hơn các anh em không. Ông thưa là “có”, và nói rõ: “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chối Thầy mấy hôm trước nên ông hối hận lắm. Tội to mà được Thầy tha thì còn gì bằng, thế nên ông yâu Thầy lắm. Đức Giêsu bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Rồi Ngài lại hỏi lại như trước, ông cũng thưa như trước. Nhưng Ngài lại hỏi ông lần thứ ba, thế nên ông hơi buồn. Lần này ông thưa rạch ròi: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu cũng bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Ôi, thật kỳ diệu, vì buổi đăng quang giáo hoàng của Phêrô rất giản dị trong khung cảnh thân mật tình Thầy trò, cũng ngay tại bờ biển. Hay quá chừng! Rõ ràng Thiên Chúa không câu nệ nghi thức chi cả. Từ nay, ngư phủ Phêrô không còn lưới cá nữa, mà chuyên lưới người.

ĐƯỢC nhiều thì ắt bị ĐÒI nhiều. Đó là sự công bằng. Và Chúa Giêsu nói với giáo hoàng tiên khởi: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy”. Và Phêrô đã theo Thầy Giêsu đến cùng, chứng minh bằng cái chết là bị đóng đinh ngược trên thập giá!

Con cá sống nhờ nước, con người sống nhờ không khí. Nước và không khí có được là nhờ hồng ân thương xót của Thiên Chúa. Thiếu nước thì cá chết, thiếu không khí thì người cũng chết. Nhưng có nước và có không khí mà cá và người cũng vẫn chết. Sinh – tử là quy luật muôn thuở. Sinh là để chết. Chết là để sống lại. Chết là ngưỡng chuyển tiếp từ cõi chết qua cõi sống. Một cuộc vượt qua ngoạn mục. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa Giêsu bảo đảm cho cuộc vượt qua kiếp người của chúng ta. Thật là mầu nhiệm về sự chết và sự sống của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.

Tiên tri Muhammad không sống lại. Khổng Tử không sống lại. Lão Tử không sống lại. Phật Thích Ca không sống lại. Chẳng thấy có bất kỳ ai sống lại. Nhưng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, dù bị người ta giết chết, và đúng như Ngài đã BÁO TRƯỚC. Cũng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ đi trên nước, tuyên bố là Thiên Chúa, và làm cho người khác sống lại. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, chiến thắng Tử Thần, chiến thắng vĩnh viễn.

Thật là hạnh phúc, vì chỉ có trong Kitô giáo của chúng ta mới có Đức Kitô là Thiên Chúa, làm nhiều phép lạ chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, và chỉ có một mình Chúa Giêsu tuyên bố Ngài “là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” và chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô (Ga 14:6). Thật hạnh phúc biết bao, vì niềm tin của chúng ta là chính đáng, không hề mơ hồ!

Cuộc đời giống như một sân khấu lớn, và ai cũng là diễn viên trên “sàn diễn cuộc đời”. Sau mỗi màn diễn, dù là phim hay kịch, chúng ta thường nhận xét về cách diễn của diễn viên có đạt hay không, chứ chúng ta không cần biết vai diễn của người đó là chính diện hay phản diện, là hoàng đế hay tướng cướp, là chủ nhân hay đầy tớ,…

Tương tự, Thiên Chúa không xét VAI DIỄN của chúng ta – là giáo sĩ, tu sĩ, hay giáo dân, giàu hay nghèo, mà Ngài chỉ xét CÁCH DIỄN của chúng ta – tức là chúng ta có sống đúng cương vị của mình và thể hiện đức ái theo Thánh Ý Chúa hay không.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con luôn duy trì sự sống trong ơn nghĩa với Ngài, được ngụp lặn trong Dòng Tình Thương Xót của Ngài. Vâng, lạy Ngài, xin giữ gìn con như thể con ngươi, và dưới bóng Ngài, xin thương che chở (Tv 17:8). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C189: TRƯỚC KHI TRUYỀN GIÁO, PHẢI BIẾT “YÊU”


Jos.Vinc. Ngọc Biển

 

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha PS 3-C189


Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con nhưng lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay trình thuật chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.

Tuy nhiên, Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền, phải là một Giáo Hội mang trong mình tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho các Tông đồ về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Đức Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.

Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn: đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: “Chúa đó!”. Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em? (x. Ga 20, 1-9).

Khi nghe Gioan nói: “Chúa đó!” các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn tràn đầy lòng thương xót của Đấng Phục Sinh.

Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21, 15a). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15b). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15c). Đức Giêsu hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã yếu đuối và sa ngã tới ba lần khi trối Thầy trong cuộc thương khó. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ, bởi lẽ: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13,13). Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21,18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới có sức chịu đựng được những cực hình ấy.

Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối, nên sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Đức Giêsu đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở sứ vụ truyền giáo.

Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.

Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Thầy Giêsu mặc khải cho các ông thấy rằng: công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu chuộc.

Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Đức Giêsu luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của “ba thù”. Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Thiên Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô; vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.

Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).

Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm “vườn nho của Ngài”.

Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Đức Giêsu đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.

Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: hẳn ai cũng thấy có biết bao lần mình sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua! Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời?

Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời, để rồi sứ vụ loan báo Tin Mừng của người môn đệ luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm, và, ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là lời mời gọi ra đi truyền giáo cách tha thiết tới mỗi người chúng ta.

Như vậy, sứ mạng truyền giáo đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng…

Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng, để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.

Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: “hãy theo Thầy” và cùng Thầy lên đường…?

Đây chính là sứ điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Ngài tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết và cũng là sứ vụ được trao phó cho chúng ta hôm nay. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C190: CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ


Lm. Phạm Thanh Liêm

 

Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức PS 3-C190


Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

-------------------------------

 

PS 3-C191: CÓ CHÚA ĐỒNG HÀNH


Lm. Jos. DĐH

 

Con người thời đại vẫn chuộng bằng cấp, đề cao tính chuyên nghiệp, họ có thể loại bỏ những tay PS 3-C191


Con người thời đại vẫn chuộng bằng cấp, đề cao tính chuyên nghiệp, họ có thể loại bỏ những tay thợ lười biếng, thiếu khả năng bất cứ lúc nào. Những người chăm chỉ nhiệt thành, cùng với năng lực dồi dào, xã hội luôn cho đó sự vững chắc như “kiềng 3 chân”, làm việc gì cũng thành công. Thực ra không phải vô tình, vô cớ, mà thi sĩ Bùi giáng cho rằng : đừng tưởng cứ nghèo là hèn, cứ sang thì trọng, cứ tiền là xong. Chung quanh ta, biết bao gia đình túng thiếu, nhưng họ lại mỉm cười với kết quả thu được từ con cái : chẳng ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời. Cũng không thiếu những gia đình giầu sang phú quý, họ phải khóc vì con hư hỏng : nuôi con chẳng dạy chẳng răn, chẳng thà nuôi lợn lấy lòng mà ăn.

Trở lại với biển khơi thả lưới đánh bắt cá, tưởng đó là chuyên môn của các học trò Đức Giêsu, vậy mà cả đêm các ông không tóm được con cá nào ! Không biết là do có ai trong số họ xui, hay vì quãng thời gian theo Thầy, các ông đã lụt nghề ? Không biết có phải quá tự tin vào khả năng lưới cá của mình, nên các ông đã hụt hẫng khi đối diện với thất bại ê chề ? Nếu xét theo nghĩa vật chất, các môn đệ Đức Giêsu đúng là vô duyên bất tài. Hiểu theo nghĩa tích cực, vất vả suốt đêm mà không thu được kết quả nào, là dấu hiệu các ông không thể làm gì, nếu thiếu Thầy.

Vị khách lạ ở bờ biển từ sáng sớm hôm đó đã giải thoát cho những bế tắc đang rối loạn tâm trí các ông, đưa các ông về đúng vị trí huấn luyện của tình thầy-trò. Các ông không thể sống mà thiếu tình yêu thương, các ông cần vị chỉ huy, hướng dẫn, ít là biết nhớ đến Vị Thầy đã từng cho họ chứng kiến thành quả. Khi nghe tín hiệu “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”, hẳn là các ông đã có linh cảm vị khách lạ phải là người tốt, yêu quí họ. Mẻ cá lạ lùng đã để lại cho số các môn đệ nhiều cảm giác khác nhau, và cho các ông một niềm vui từ Vị khách lạ mang tới.

Đấng phục sinh, hẳn đã thức tỉnh các ông từ niềm vui lưới cá bên ngoài đi sâu vào hạnh phúc tâm linh, khai mở cho các ông cảm nhận tình yêu cứu độ luôn ở gần sát con người. Không có Đấng phục sinh, hành trình ra khơi của Phêrô, của các tông đồ, của chúng ta cũng chỉ là quá trình vất vả, tốn công, uổng sức. Thiếu tình yêu của Đấng phục sinh, ai có thể mở trí mở lòng, giúp chúng ta phân biệt được đúng sai, thật giả, mà tiếp tục thả lưới bên hữu mạn thuyền bắt cá ?

Ngày hôm nay, sứ mạng người tông đồ không thể tránh khỏi những thất bại, những chống đối, nếu chỉ cậy dựa vào tài năng của mình, cùng lắm là ta chỉ nhìn thấy bóng dáng người bên cạnh ta là vị khách lạ mà thôi. Trong công việc làm ăn, nhiều người chủ trương phải kiên nhẫn, thua keo này bày keo khác, hay tự an ủi mình : thất bại là mẹ thành công. Nếu tai mắt ta không thể nhìn, không thể nghe được tiếng nói của Đấng phục sinh, ít ra ta cũng đủ khiêm tốn để tin tưởng người anh chị em mình trước lời chân tình : “chính Chúa đó”. Cuộc đời có Chúa, việc làm có Chúa, bao giờ cũng thú vị, đầy cảm xúc vì tình yêu và niềm vui dù thành công hay thất bại.

Chỉ khi nhớ tới Thầy Giêsu, nghe được tiếng nói của Đấng phục sinh, và mau mắn hành động tin yêu, các tông đồ mới có được mẻ cá bội thu. Từ nay Thầy Giêsu không còn hiện diện cách hữu hình để huấn luyện, để trợ giúp ta lưới cá, nhưng Đấng phục sinh đang đồng hành với ta, Ngài vẫn là Vị thuyền trưởng, là quân sư, chỉ đường dẫn lối ta đến hạnh phúc thật. Sống trên đời này, nếu ta không yêu mến, hay yêu mến quá ít, việc cầu nguyện của ta sẽ chán ngán, đến nhà thờ cũng sẽ là gánh nặng, mang vác đau khổ thập giá là cực hình.

Con thuyền chở các tông đồ ra khơi bắt cá hôm đó thiếu sự hiện diện của Thầy Giêsu, nhưng có Đấng phục sinh cùng đồng hành, và rồi các ông đã thành công với mẻ cá lạ kỳ, nhận ra “chính Chúa đó”. Hành trình vượt biển trần gian, giông tố có thể ập tới bất cứ lúc nào, nhưng người môn đệ sẽ không nao núng, vì ánh sáng Đức Kitô luôn tỏa chiếu giúp ta nhận ra con đường phải đi. Biển trần không sóng gió thì không phải là biển, ra khơi thả lưới về không, thất bại, vì cậy dựa vào sức riêng của mình, tự mãn, kiêng căng, là điều dễ hiểu. Trước mẻ cá lạ lùng, đầy ắp vui mừng, Chúa phục sinh nhắc nhớ người môn đệ về sứ mạng lưới người như lưới cá, luôn cần đến đức tin vâng phục, qua đó ta sẽ thấy sự hiện diện liên tục của Chúa phục sinh, hầu ta có mãi niềm vui hạnh phúc trong thành quả tốt đẹp của Chúa. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C192: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_C


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. 

 

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với một số người khác, để PS 3-C192


Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với một số người khác, để minh chứng Người là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đã sống lại thật như lời Người đã tiên báo.  Sự hiện ra của Chúa đem vui mừng và bình an đến trong tâm hồn các ông, và củng cố đức tin làm cho các tông đồ trở nên vững mạnh, can đảm thi hành sứ mệnh làm chứng và rao giảng Tin mừng cho Chúa.  Đây là một sứ mệnh, như chúng ta biết, có tầm rất quan trọng, và Chúa biết trước rằng các ông sẽ phải đối diện với những khó khăn, thử thách, gian lao và đau khổ.

Bài tin mừng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu hiện ra với 7 tông đồ là Phêrô, Tôma, Natanaen, Giacôbê, Gioan và 2 người khác không rõ tên, ở bờ biển Ti-bê-ri-a, nơi mà các ông đã từng sống trước khi theo Chúa.  Đêm hôm đầu tiên, các ông rủ nhau đi đánh cá, nhưng hoàn toàn thất bại, không bắt được gì.  Khi thuyền về gần đến bờ, thì Chúa Giêsu hiện ra, nhưng các ông không nhận ra Chúa, có lẽ vì mệt mỏi, chán chường và thất vọng.  Sau vài câu chào hỏi, Chúa bảo các ông trở ra biển thả lưới.  Chúng ta thấy, các ông đã thả lưới suốt cả đêm mà không bắt được gì, bây giờ đang mệt mỏi, buồn ngủ và chán nản lại bảo thả lưới ở gần bờ, chỗ mà theo kinh nghiệm lão luyện của các ông, chẳng bao giờ có cá thì hy vọng gì!  Nhưng không biết tại sao các ông đã vâng lời làm theo lời chỉ bảo đó và đã được một mẻ cá lớn.

Tôi xin chia sẻ với ông bà anh chị em 3 ý nghĩa chứa đựng trong bài Tin mừng hôm nay.  Ý nghĩ thứ nhất chú trọng trong câu Chúa Giê-su hỏi Phê-rô được lập lại 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”  3 câu hỏi của Chúa Giê-su với Phê-rô liên quan đến 3 câu chối Chúa của Phê-rô trong ngày Chúa bị bắt.  Ba câu trả lời của Phê-rô với Chúa là ba câu xác quyết lòng yêu mến để xóa bỏ và đền bù lại ba câu chối Chúa.   Hay nói một cách khác, ba câu hỏi và trả lời này đã cho Phê-rô một cơ hội chuộc lỗi và tái xác định lòng trung thành của mình với Chúa.

Ý nghĩa thứ hai là chủ đích của bài Tin mừng.  Chúng ta tự hỏi: tại sao thánh Gioan ghi chép lại câu chuyện này?  Thánh Gioan muốn nói gì với chúng ta qua câu chuyện trong bài Tin mừng?  Công Đồng Va-ti-can II đã trích dẫn ba câu nhắn nhủ của Chúa với Phê-rô “Hãy chăn dắt chiên Ta” là một bằng chứng hiển nhiên về việc Chúa trao ban sứ vụ, quyền năng và trách nhiệm cho tông đồ Phê-rô, trở thành chủ chăn và chăn dắt đoàn chiên của Người. Hay nói một cách khác, Chúa tái xác quyết ý định mà Chúa đã nói trước đây “Phê-rô, con là Đá, và trên đá này Ta sẽ xây giáo hội… Ta sẽ trao ban cho con chìa khóa Nước Trời.”

Chúng ta thấy trong dịp này vì sự yếu đuối và lỗi lầm của Phê-rô, Chúa có thể đổi ý định và rút lại quyết định chọn Phê-rô và nói với ông rằng “Vì con đã chối Ta ba lần, nên Ta quyết định rút lại ý định, và trao ban cho người khác.”   Nhưng Chúa Giê-su Ki-tô đã không làm như vậy, Người còn tái xác nhận ý định của chính mình chọn Phê-rô làm chủ chiên.

Ý nghĩa quan trọng thứ ba là Chúa muốn dạy, Chúa muốn nói, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta, những người lắng nghe lời Chúa hôm nay điều gì? Trước khi chúng ta vào điểm chính này, chúng ta trở về bài Tin mừng. Khi Chúa Giê-su bảo Phê-rô, một người lão luyện, đầy kinh nghiệm và đã thả lưới bắt cá cả đêm nhưng không được con cá nào, hãy trở ra biển và thả lưới.  Chúng ta thấy Phê-rô đã bỏ sự tự cao và kiêu căng, để khiêm nhường nghe và thực hành lời Chúa phán bảo, kết quả thật lạ lùng, bắt được một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng.  Vậy Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta điều gì?  Chúng ta thấy trước đó, Phê-rô và các tông đồ tự ý đi đánh cá và thất bại, nhưng sau đó vì có sự hiện diện của Chúa Phục sinh, và biết khiêm nhường lắng nghe lời Chúa thì thành công một cách lạ lùng.  Như Phê-rô và các tông đồ xưa, có lẽ chúng ta hằng cầu nguyện, nhiệt tình hy sinh phục vụ, làm việc tốt lành hay bác ái và quảng đại theo ý chúng ta, nhưng vì không có sự hiện diện của Chúa, cho nên việc làm của chúng ta không đem lại kết quả hay kết quả ít, không như lòng chúng ta mong ước, hay không có kết quả gì, làm cho chúng ta chán nản, thất bại hay cảm thấy vô vọng. Hay chúng ta vẫn cảm thấy sầu khổ và âu lo, vì Chúa vẫn còn chết tang trong mồ chưa sống lại.  Có lẽ chúng ta đã quên lời Chúa nói với các môn đệ “Thầy là cây nho, chúng con là ngành.  Ngành nào lìa cây sẽ khô héo. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”  (John 15:5) 

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta thấy sau khi đã xác quyết lòng yêu mến của mình với Chúa Giê-su ba lần “Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”, tông đồ Phê-rô và các tông đồ khác, qua sự hiện diện và lòng yêu mến Chúa chân thành, đã không quản ngại khó khăn và đau khổ, quyết tâm hy sinh và trung thành với Chúa để trở thành chứng nhân và rao giảng lời Chúa cho mọi người, Phê-rô đã trở thành chủ chăn của một giáo hội rộng lớn và tồn tại đến ngày nay.  Đối với chúng ta, những Ki-tô hữu, hôm nay cũng thế, nếu chúng ta không có Chúa Phục sinh trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, phục vụ và hy sinh thì khó khăn, vác thập giá là một cực hình, bác ái và quảng đại là thiệt thòi. Vì sao? Vì chúng ta làm theo ý chúng ta, chúng ta hành động theo ý chúng ta, hay không có sự hiện diện của Chúa trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành.  Còn nếu chúng ta có Chúa, có lòng yêu Chúa chân thành thì cầu nguyện là một việc thích thú và sốt sắng, chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ, vui mừng khi hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại vì tha nhân và vì Chúa.

Cho nên, ông bà anh chị em thân mến, ý nghĩa chính và bài học quan trọng Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay là: điều cần thiết trong đời sống Ki-tô hữu là phải bỏ sự tự cao, tự kiêu lắng nghe lời Chúa nói, phải có sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục sinh, và phải có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì chúng ta mới có sự bình an và vui mừng, và đời sống Ki-tô hữu mới sinh kết quả tốt lành. 

Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh đã hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?”  Đó cũng là câu hỏi Chúa hỏi chúng ta hôm nay.  Nếu thành thật nhìn vào đời sống, chúng ta trả lời Chúa như thế nào?  Chúng ta thật sự có Chúa trong đời sống hay không?  Có Chúa hiện diện và vâng lời Chúa, Phê-rô đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Chúng ta cầu xin, đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng sinh nhiều hoa trái tốt lành đời này và đời sau, luôn luôn sống trong an bình, vui mừng và hạnh phúc vì có Chúa Guê-su Ki-tô Phục sinh hiện diện.

-------------------------------

 

PS 3-C193: GIÁO HỘI CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT


Lm. Giuse Trực

 

Đặt trang Tin Mừng hôm nay dưới ánh sáng của Lòng Thương Xót, tôi thấy được một Giáo hội PS 3-C193


Đặt trang Tin Mừng hôm nay dưới ánh sáng của Lòng Thương Xót, tôi thấy được một Giáo hội của Lòng Thương Xót.

Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Trước hết, Lòng Thương Xót của Chúa được biểu lộ rõ ràng qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Đối với loài người, sự hy sinh cho người khác là một công ơn không gì đền đáp được. Những liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc sẽ được tổ quốc “đời đời nhớ ơn”. Những người vợ, những người mẹ hy sinh cho chồng, cho con được thơ văn ca ngợi như: “con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, hay: “Cái cò là cái cò con, mẹ đi xúc tép để con ở nhà, mẹ đến chỗ cánh đồng xa, mẹ sà chân xuống phải mà con lươn”… Tuy nhiên sự hy sinh của con người dành cho nhau chỉ dừng lại ở cái chết, và cái chết đó là cái chết đẹp vô cùng. Dù người đời có đời đời nhớ ơn, có ca ngợi thì cũng thế thôi, hoàn cảnh của người ở lại cũng không thể thay đổi được.

Đức Giêsu cũng đã hy sính tính mạng vì loài người. Đó là tình yêu thể hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cái chết, mà Ngài còn Phục Sinh để làm cho thân phận phải chết của con người cũng được sống lại với Ngài. Vì vậy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc hy sinh mạng sống, mà còn có khả năng đưa nhân loại đến hạnh phúc vô tận.

Đấng Phục Sinh chuẩn bị mọi sự sẵn sàng
  Khi các môn đệ đang trong tâm trạng buồn sầu vì Thầy mình đã chết, sợ hãi vì có nguy cơ mình cũng sẽ bị bắt và giết chết, thất vọng vì “3 năm vất vả chỉ bằng không”… Quá chán nản nên họ tìm cách thoát khỏi hoàn cảnh đó. Phêrô là người chủ động khởi xướng: “Tôi đi đánh cá đây!” Vai trò lãnh đạo của Phêrô dường như đã được chuẩn bị từ trước. Mọi người đều cùng chung tâm trạng, nhưng chỉ khi Phêrô muốn rời khỏi nơi đó thì những người còn lại mới nói: “Chúng tôi cùng đi với ông”.

Đánh cá ban đêm là kinh nghiệm của ngư dân chuyên nghiệp như Phêrô và các anh em của ông. Nhưng ở đây tác giả Tin Mừng dường như muốn “thê thảm hóa” hoàn cảnh của các ông. Các ông ra đi trong đêm tối, nghĩa là lúc cuộc đời “tối đen như mực”. Mọi thứ chung quanh không còn lối thoát, chẳng biết đường biết hướng về đâu… Và quả thật, kết quả: “Đêm ấy họ không bắt được gì cả”.

“Khi trời cả sáng”. Đây không chỉ là quy luật của vũ trụ, mà còn nói lên sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Ngài đã lẽo đẽo theo các ông trên bãi biển suốt đêm. Ngài nhìn các ông vất vả trong đêm tối… Không phải chỉ đi theo, chỉ nhìn thấy hoàn cảnh “trong đêm tối” của các môn đệ, mà Ngài đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt ở trên, và cả bánh nữa”.

Sau mẻ cá lạ lùng mà người lạ mặt đã chỉ cho, chắc chắn các ông vui lắm. Nhưng chỉ có một người vượt qua niềm vui tự nhiên đó để nhận ra hành động này là sự can thiệp của một con người rất thân thương: “Chúa đó!”. Người nhận ra Chúa chính là “môn đệ được Đức Giêsu thương mến”. Công sức con người chẳng là gì cả, nhưng Chúa luôn luôn ban thưởng cho những cố gắng của họ.

Sau khi tất cả đã lên bờ, một cảnh tượng hạnh phúc vì họ được quây quần bên Đấng Phục Sinh. Chắc chắn chưa bao giờ các ông vui như vậy vì mọi tâm trạng, mọi cảm xúc trong con người các ông đã được thay đổi nhờ sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Than hồng, cá, bánh… tất cả đều nói lên tình yêu của một người Thầy không bao giờ bỏ rơi đệ tử của mình.

Giáo Hội của Lòng Thương Xót
Khi đang ăn uống với Đấng Phục Sinh trên bãi biển, chắc có lẽ các môn đệ không mong muốn gì hơn nữa. Hay nói cách khác, cuộc đời của các ông chỉ mong có thế thôi. Nhưng Đấng Phục Sinh nhìn đến một tương lai xa hơn, vì Ngài biết rằng Ngài phải trở về cùng Cha. Ngài muốn tình yêu thương Ngài dành cho tập thể nhỏ bé này phải được nhân lên, lan rộng đến tận cùng trái đất. Và cảnh tượng trên bãi biển này phải là mô hình cho Giáo hội đó. Mọi người quây quần hạnh phúc bên Đấng Phục Sinh.

Để có được hạnh phúc đó, Đấng Phục Sinh thể hiện Lòng Thương Xót của Ngài một cách rõ nét.

Lòng Thương Xót khi chọn Phêrô làm người lãnh đạo mặc dù trước đó mấy hôm ông đã chối thầy 3 lần. Điều kiện để Đức Giêsu trao đoàn chiên lại cho ông là: “Con có mến Thầy không?” Điều đó nhắc nhở cho bản thân ông biết rằng chỉ vì tình yêu mà Đức Giêsu đã chọn ông, thì ông cũng phải dùng tình yêu mà đối xử với đoàn chiên này. Chính vì vậy mà Giáo hội của Chúa được mời gọi không ngừng thể hiện Lòng Thương Xót.

Giáo hội thể hiện Lòng Thương xót
Sau khi đọc trang Tin mừng này tôi mạnh mẽ trả lời cho câu hỏi: “Giáo hội là gì?” Thưa Giáo hội là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Nhiều cuộc tấn công nhắm vào Giáo hội với nhiều hình thức khác nhau, nhưng tôi luôn luôn xác quyết lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Phục Sinh 2016: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”.

Tuy nhiên Lòng Thương Xót đó bị chính những con người trong Giáo hội ngăn chặn lại nếu họ không khơi thông trái tim của mình, nghĩa là không biết thực thi lòng thương xót của Chúa.

Những cơ cấu quá nặng nề, quá rườm rà… Những mục tử không quảng đại, không biết hy sinh, quên mình… Những con chiên tranh giành, đấu đá lẫn nhau…

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở cho mọi người trong Giáo hội biết rằng: “Tất cả chúng ta đều là đối tượng của Lòng Thương Xót”. Nghĩa là chúng ta đều là những con người tội lỗi nhưng Chúa sẵn sàng tha thứ và mở một cánh cửa khác cho chúng ta. Lòng Thương Xót của Chúa sẽ bị tổn thương khi con người không biết trân trọng điều đó để kết án người khác.

Hình ảnh các môn đệ ra đi trong đêm tối, vất vả, cực nhọc mà không được gì; chỉ khi ánh sáng bừng lên, Đấng Phục Sinh hiện diện thì các ông mới được sưởi ấm, mới được ăn uống no nê… cho chúng ta thấy Giáo hội của Chúa cứ việc lên đường dù là đêm tối, vì chúng ta tin rằng ánh sáng sẽ bừng lên.

Chúng ta lên đường bằng một con tim quảng đại, biết yêu thương, thông cảm, tha thứ cho người khác giống như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta; biết hạ mình xuống đi bên cạnh cuộc đời của những người cô đơn, bất hạnh, khốn khổ, nghèo hèn giống như “người lạ” trong bài Tin mừng hôm nay.

Lạy Chúa, con luôn tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa. Xin cho Giáo hội mà Chúa đã thiết lập cũng thể hiện Lòng Thương Xót cho nhân loại đang rất cần được xót thương.

-------------------------------

 

PS 3-C194: SỰ PHỤC SINH CỦA PHÊ-RÔ


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Chương 21 Phúc Âm Gio-an được các học giả Kinh Thánh cho là đã được các môn đồ của tông PS 3-C194


Chương 21 Phúc Âm Gio-an được các học giả Kinh Thánh cho là đã được các môn đồ của tông đồ Gio-an thêm vào sau này; vì tự nó kết luận toàn cuốn Tin Mừng thứ tư đã trọn vẹn ở ngay cuối chương 20 rồi. Dầu vậy thì tôi vẫn thấy rằng: thêm chương 21 này không những hợp lý, mà còn rất cần thiết nữa là đàng khác; cần phải đề cập tới Phê-rô – thủ lãnh đã phục sinh như thế nào, sau khi đã gục ngã trong tội chối bỏ Thầy mình; cần phải biết: một Phê-rô – tuyên tín ‘đã trở lại’ như thế nào, sau khi ‘bị Sa-tan sàng như người ta sàng gạo’ (Lc 22:31-32). Và nếu đây là suy tư của nhóm môn đồ của tông đồ Gio-an… thì tôi lại càng thấy Hội Thánh thời sơ khai đã có một tầm hiểu biết sâu sắc và cụ thể như thế nào về biến cố Phục Sinh.

Lần hiện hình của Đấng Phục Sinh trên bờ hồ Ti-bê-ri-a diễn ra trong một khung cảnh rất ư là đời thường! Hình như tác giả vẫn muốn lưu tâm độc giả mình tới vai trò lãnh đạo của Phê-rô, kể cả trong các công việc vặt vãnh: các môn đệ khác vẫn tôn trọng vai trò làm đầu của ông, thậm chí cả trong việc đi đánh cá. Thế rồi Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra đứng trên bờ hồ trong một hình dạng rất đời thường, tầm thường tới độ: ‘các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su”. Và như một gợi ý để nhận ra mình, Đức Giê-su đã dùng tới sự kiện đánh cá, một công việc không những thiết thân với bốn môn đệ đầu tiên, mà còn liên quan tới niềm tin của các ông – cách riêng Phê-rô, vì nó gợi nhớ mẻ cá lạ ngày nào đã làm cho ông nhận ra con người tội lỗi thấp hèn của mình (Lc 5:4-11). Lần này thì môn đệ Gio-an là người đã phát hiện ra điều đó, nhưng trong một nội dung mới mẻ và sâu sắc hơn nhiều.

Nhờ cũng một mẻ cá lạ trên mặt hồ này, Phê-rô năm nào đã khởi đầu ơn gọi môn đệ của mình bằng lời tuyên xưng đầy khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” nhưng rồi dần dà ông hầu như quên bẵng đi điều ấy. Những lần tuyên xưng sau này của ông lại sặc mùi tự mãn, nặng tính chủ quan với những lời quyết đoán chắc nịch; ông cam đoan mình sẽ trung thành bảo vệ Thầy đến cùng… Tông đồ Phê-rô hùng hổ ngăn cản Thầy ra đi chịu chết; ông sắm gươm để chiến đấu vì Thầy; ông nặng lời tuyên thệ: “dầu có phải vào tù hay phải chết với Thầy đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Đúng là Sa-tan đang sàng sẩy ông! Cạm bẫy ‘mất lòng tin’ lớn nhất mà ông đang rơi vào, chính là để mình bị cuốn trôi xa khỏi lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa, vì thái độ tự cao tự đại…; và hậu quả là: ông đã bị chìm ngập, đã chết trong sự phản bội chối bỏ Thầy.

Đức Ki-tô Phục Sinh hiện hình trên bờ hồ, cũng với một mẻ cá lạ khác, chính là lời mời gọi Phê-rô (và các tông đồ khác) hãy chỗi dậy, tức là: hãy quay trở về từ thái độ tự phụ ‘cam đoan sẽ trung kiên…’ để rồi dẫn đến ngã quị trong cái chết chối bỏ Thầy, để rồi họ khiêm cung chỗi dậy đón nhận tình yêu tha thứ đầy nhân ái của Thầy Chí Thánh. May mắn thay, Phê-rô đã chỗi dậy và đã thực sự phục sinh! Gio-an cho thấy: cuối cùng thì Phê-rô đã nhận ra điều này cách sâu xa hơn hết thảy các môn đệ khác. Cái tánh bộc trực của một Simon, con ông Gioan (nghĩa là một Phê-rô trần tục) vẫn còn đó: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Nhưng tới lần thứ ba thì ông chỉ dám đáp lại câu hỏi: “Anh có yêu mến thầy hơn các anh em này không?” bằng lời khiêm tốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”; có nghĩa là: Thầy biết con yếu đuối như thế nào nhưng vẫn cố yêu mến, Thầy biết con có một tình yêu khác trước nhiều lắm rồi. Cũng chính lúc đó, phải chỉ lúc đó mà thôi, vai trò lãnh đạo tối cao của Phê-rô mới chính thức được chuẩn nhận: “Hãy chăm sóc các cừu mẹ của Thầy”; nói cách khác: “hãy làm cho (lòng tin của) anh em của anh nên vững mạnh”. Quyền lãnh đạo Hội Thánh Phục Sinh được trao cho một Phê-rô phục sinh, từ vị trí tự mãn trao ban tới thâm tín khiêm tốn đón nhận, quả là điều đáng cho ta lưu tâm!

Thế mới rõ: phục sinh phải là cuộc trở lại tận căn của mọi môn đệ Đức Ki-tô, bắt đầu từ các thủ lãnh trong Hội Thánh…, kể cả các đấng nắm giữ vai trò kế vị Phê-rô ‘chăm sóc các cừu mẹ’. Tất cả mọi Ki-tô hữu chúng ta đều cần phải được phục sinh ngay từ bây giờ, bởi vì phục sinh chính là nhận biết tội chết của mình, để được quyền năng Chúa cho ‘vượt qua’ tới sự sống trọn hảo trong lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Hết thảy Ki-tô hữu chúng ta đều phải là đoàn dân phục sinh ngay từ bây giờ!

Và những người dẫn đầu đoàn dân phục sinh này, như Phê-rô, các Giám Mục và Linh Mục, trong đó có tôi… cũng phải là những con người phục sinh, cũng như chính mình đã từng trải nghiệm cách sâu xa về tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa ngày nào, trong cái chết lâm sàn…: một tình yêu đã vực mình chỗi dậy từ cõi chết.

Lạy Thiên Chúa giầu lòng xót thương, cảm tạ Chúa đã cho con học biết bài học phục sinh của Phê-rô, bài học làm con thấm thía, trong tư cách linh mục. Con biết: tuyên xưng đức tin thực sự hệ tại ở điều gì, và làm thế nào củng cố niềm tin của các anh em con. Nếu việc sa ngã của Phê-rô đã trở thành một đại phúc cho ông, thì xin Chúa cũng đưa những khuyết điểm, sa ngã và lỗi phạm của con vào trong Phục Sinh của Chúa; để chính con, và nhiều anh em linh mục khác nữa, sẽ thâm tín hơn về lòng thương xót cứu độ Chúa hằng trao ban. A-men.

-------------------------------

 

PS 3-C195: Hãy chăn dắt chiên của Thầy


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

SUY NIỆM

 

Từ chương 13 trong Tin Mừng thứ tư, bỗng nhiên xuất hiện một nhân vật bí ẩn mang tên “người PS 3-C195


Từ chương 13 trong Tin Mừng thứ tư, bỗng nhiên xuất hiện
một nhân vật bí ẩn mang tên “người môn đệ Chúa yêu.”
Có vẻ người môn đệ này trội hơn Simôn Phêrô.
Trong bữa tiệc ly, anh này nằm gần Chúa hơn Simôn.
Anh nằm bên lòng Chúa, sát bên ngực Chúa (Ga 13,23-25).
Simôn nằm xa hơn, nên phải làm hiệu, nhờ anh hỏi dùm
xem Thầy muốn nói ai là kẻ sẽ nộp Thầy.
Trong khi Simôn chối Thầy ba lần trong dinh vị thượng tế,
dù trước đó ông đã chém đứt tai tên đầy tớ của vị này,
thì người môn đệ Chúa yêu lại là người đứng bên thập giá,
đứng bên cạnh thân mẫu của Thầy (Ga 19,26-27).
Chính anh được làm con của Bà và đưa Bà về nhà mình.
Buổi sáng Phục sinh, Simon Phêrô và anh cùng chạy ra mộ,
nhưng người môn đệ Chúa yêu chạy nhanh hơn,
và có vẻ anh cũng tin nhanh hơn Phêrô (Ga 20,4.8).
Khi Chúa phục sinh tỏ mình cho bảy môn đệ
ở biển hồ Tibêria, ta thấy có sự hiện diện của anh.
Sau khi mẻ cá lạ xảy ra, một lần nữa,
anh lại là người nhạy bén hơn Phêrô,
khi nhận ra người đàn ông đứng trên bãi biển là ai.
Anh nói với Phêrô: “Chúa đó!” (Ga 21,7).
Người môn đệ Chúa yêu thật là mẫu mực lý tưởng
về sự gần gũi, thân thiết với Thầy.
Anh có mặt trong những lúc quan trọng của đời Thầy.
Anh đồng hành với Phêrô gần như hình với bóng.
Chúa ban cho anh nhiều ơn đặc biệt,
anh đã khiêm tốn đón nhận và sử dụng cho anh em.
Không hề có sự tranh dành quyền lực giữa anh với Phêrô.
Anh tôn trọng vị thế của Phêrô trong nhóm.
Phêrô có thể không nhạy bén bằng người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông được chọn đứng đầu nhóm môn đệ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Phêrô đưa ra một đề nghị,
cũng là một lời mời kín đáo: “Tôi đi đánh cá đây!”
Lời mời này được tán thành: “Chúng tôi cùng đi với anh.”
Thế là bảy môn đệ xuống thuyền đi đánh cá.
Chuyến ra khơi này là hình ảnh tượng trưng cho Giáo hội,
Một Giáo hội có người lãnh đạo, có sự đồng tâm nhất trí,
một Giáo hội cùng đi với nhau, cùng làm việc với nhau,
cùng chia sẻ một thất bại hay một thành công.
Có khi cả đêm không được con cá nào.
Có khi gặp mẻ cá đầy những cá lớn mà lưới không rách.
Lúc vui, lúc buồn, lúc nào họ cũng “ở với nhau” (Ga 21,2).
Phêrô có thể không nhạy bén bằng người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông là người đầu tiên lên bờ để gặp Chúa.
Ông bơi nhanh hơn con thuyền đang kéo lê lưới đầy cá,
vì ông muốn gặp Chúa càng sớm càng tốt.
Ông là người xuống thuyền để kéo lưới cá vào bờ (Ga 21,11).
Sau bữa ăn sáng, Chúa đã muốn nói chuyện riêng với Phêrô.
Bên đống lửa, Chúa cho thấy Ngài đã tha thứ cho ông,
và cho ông có cơ hội bày tỏ tình yêu, xóa đi các vấp ngã.
Những điệp khúc được nhắc đi nhắc lại:
“Con có yêu Thầy không?” “Thầy biết con mến Thầy.”
Tất cả dẫn đến việc trao cho Phêrô sứ mạng chăn dắt chiên.
Đây là đàn chiên của Thầy, đàn chiên Thầy yêu quý.
Theo truyền thống, người môn đệ Chúa yêu không chịu tử đạo,
nhưng đối với Phêrô, Chúa đã tiên báo cái chết của ông.
Khi về già, ông không được đi đâu tùy ý,
và sẽ bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (Ga 21,18-19).
Giáo hội luôn cần có Phêrô và người môn đệ Chúa yêu.
Hai khuôn mặt có vẻ tương phản, nhưng lại bổ sung cho nhau.
Cả hai phải đi với nhau, dựa vào nhau, lắng nghe nhau.
Giáo hội hôm nay đa dạng về suy nghĩ, cách nhìn, hướng đi.
Ước gì chúng ta vẫn hiệp hành, vẫn chờ nhau,
không buông tay nhau trong lúc khó khăn nhất.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa,
Con tự hào mình biết phân định,
xin cho con biết để ý đến sự phân định của người khác.
Con sống có nguyên tắc hẳn hoi,
xin cho con biết người khác cũng có nguyên tắc của họ.
Con có tri thức và kinh nghiệm,
xin cho con đừng khép lại và tự mãn,
vì tri thức thì vô tận,
và kinh nghiệm thì bao giờ cũng mới.
Con có bản lãnh và lập trường vững chắc,
xin cho con biết mở ra
để đón lấy những gì làm lập trường đó bị lung lay,
và vui sướng khi thấy mình đã đổi lập trường.

Lạy Chúa,
Xin cho con mềm mại hơn, nhẹ nhàng hơn, hiền lành hơn,
biết nhận ra và nâng niu những cố gắng nhỏ bé của anh em,
nhờ biết đặt mình trong hoàn cảnh của người khác.
Xin cho con tìm kiếm chân lý với trọn cả tâm hồn,
để chân lý làm con được tự do.

-------------------------------

 

PS 3-C196: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

 

Chúng ta thấy mỗi lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cho các môn đệ, trước hết là để các ông PS 3-C196


Chúng ta thấy mỗi lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cho các môn đệ, trước hết là để các ông có niềm tin Chúa đã sống lại thật và hơn nữa Chúa còn trao phó sứ mạng cho các ông. Vậy chúng ta hãy xem Chúa hiện ra lần này với bảy tông đồ ở bờ biển Tibêria như thế nào?

- Khoảnh khắc Chúa Giêsu ở giữa các môn đệ: Sau khi Chúa chỉ cho các ông thả lưới bên phải thuyền, các ông nghe theo và bắt được nhiều cá thì ông Gioan là người đầu tiên nhận ra: "Chính Chúa đó, nghe vậy,  ông Phêrô liền lấy áo thắt lưng rồi nhảy ngay xuống biển bơi vào bờ để  gặp Chúa Giêsu trước các môn đệ khác. Tiếp đến các ông có được khoảnh khắc tuyệt vời sống với Chúa: được Chúa dọn bữa ăn điểm tâm cho. Khi các ông vào bờ  thấy có sẵn than lửa, có bánh và cá trên bếp lửa, rồi Chúa bảo các ông đưa thêm cá mới bắt được tới nữa. Thế là Chúa Giêsu cùng các ông dùng bữa ăn sáng. Chúa mời các ông tới ăn: "Các con hãy lại ăn". Còn gì ấm cúng cho bằng được quây quần bên Chúa, được Chúa dọn cho ăn. Chúa Giêsu làm những cử chỉ quen thuộc như trước đây là lại gần, lấy bánh trao cho môn đệ và cũng cho cá như thế. Sau một đêm lao nhọc, bụng đói, vừa được của ăn bồi dưỡng vừa được sống tình Thầy trò như trước đây, các ông rất vui mừng. Lúc này tất cả các ông đã tin Người đang hiện diện giữa các ông là Chúa Phục sinh như Tin mừng nói mọi người đã biết là Chúa, không có như lúc mới thấy Chúa xa xa trên bờ, tưởng Chúa chỉ là bạn chài khi Chúa hỏi: "Này các bạn có gì ăn không?"các ông đồng thanh đáp:"Thưa không".

Trao Quyền: Trong những lần hiện ra trước, Chúa trao sứ mạng cho tập thể các tông đồ: Chúa sai các ông đi làm  chứng nhân cho Chúa bắt đầu từ Giêrusalem cho đến cùng bờ cõi trái đất, cùng với việc Chúa ban Chúa Thánh Thần và quyền tha tội cho các ông, nhưng trong lần hiện ra này, đặc biệt Chúa trao quyền cho ông Phêrô.

Chúng ta nhớ khi Chúa còn sống giữa các tông đồ, có lần Chúa hỏi các ông: "Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?" Ông Phêrô đã mau mắn tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu đã đáp lại: "Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và Cửa Hỏa ngục không phá được". Chúa đã đặt Phêrô làm Đá tảng xây nên Hội Thánh Chúa ngay từ lúc đó (Mt 16,13- 19)

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu báo trước Phêrô sẽ chối Chúa, nhưng Chúa cho biết: Chúa cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và khi ông trở lại, Chúa giao cho ông sứ mạng  củng cố đức tin cho các anh em (Lc 22, 31-34)

Còn hôm nay sau Phục sinh, Chúa trao quyền cho ông Phêrô sau ba lần hỏi: "Con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ba lần Chúa hỏi và ba lần ông đáp lại: 'Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Tuy ông có buồn vì Chúa hỏi tới lần thứ ba, có lẽ vì ông nhớ lại mình đã yếu đuối chối Chúa ba lần. Sau mỗi lần Phêrô nói lên lòng yêu mến Thầy, thì Chúa Giêsu trao quyền chăn dắt đoàn chiên Chúa: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy" và lần thứ Ba thì Chúa nói: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy". Như vậy Chúa trao cho ông Phêrô quyền trên cả Giáo hội hoàn vũ không những quyền bính trên các chiên con và cả chiên mẹ nữa, chúng ta hiểu là quyền bính trên giáo dân và cả trên các giám mục nữa; nhưng quyền này phải thực thi bằng tinh thần phục vụ và lòng yêu mến vì Phêrô phải 3 lần xưng ra lòng Mến Chúa Giêsu trước khi được trao quyền chăn dắt đoàn chiên. Chúa Giêsu cũng không ngần ngại cho ông biết tương lai khi về già, ông sẽ được theo Chúa trên con đường tử nạn như sau này chúng ta thấy ông cũng phải chịu đóng đinh Thập Giá; vì thế mà Chúa khích lệ ông: "Con hãy theo Thầy".

Câu chuyện: Charles de Foucauld là sĩ quan trong quân đội Pháp và cũng là chàng trai phong nhã, nổi tiếng  ăn chơi. Trong chuyến về thăm gia đình ở Pháp, anh say sưa kể những chiến công hiển hách và những cuộc thám hiểm ngoạn mục ở nước Maroc xa xăm cho bà con nghe. Đứa cháu gái 10 tuổi nghe cậu kể xong thì nói: "Thưa cậu, cháu hãnh diện vì cậu đã làm được những việc lớn cho nước Pháp, nhưng cháu thắc mắc: cậu đã làm được gì cho Chúa chưa?" Câu nói của đứa cháu động tới con tim Charles, cậu xét mình thấy hồi giờ chỉ theo đuổi danh vọng và ăn chơi, bỏ qua đạo nghĩa và bổn phận đối với Chúa. Nên sau khi rời quân ngũ, Charles đã nhập dòng tu La Trappe rồi xin Bề trên cho qua sống ở Nazareth quê hương Chúa Giêsu. Sau Charles qua Sahara Phi Châu sống giữa những người Hồi giáo kết thân với họ để làm chứng về Chúa Giêsu cho họ. Tối ngày 01/ 12/1916, đang khi cầu nguyện trong nhà, cha đã bị một toán người Hồi giáo cực đoan giết chết ở tuổi 58.

Nay theo tinh thần của Cha Charles de Foucauld, các tiểu đệ và tiểu muội chọn lối sống hòa đồng giữa những người lao động nghèo để chia sẻ, giúp đỡ họ và đem ơn cứu độ đến cho họ. Cha sẽ được phong thánh vào ngày 15/5/2022 này.

Chúng ta là những chiên trong đoàn chiên Chúa. Chúa Giêsu  trao quyền cho ông Phêrô thì Chúa cũng quan tâm tới tất cả chúng ta là chiên của Chúa. Chúa Giêsu nói: "Chiên tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi (Ga 10,27)". Chúng ta lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành vì lời Chúa đem lại sự sống đời đời như thánh Phêrô đã nói lên. Đồng thời chúng ta biết Chúa Giêsu bằng lòng yêu mến như thánh Phêrô và cũng sẽ đi theo Chúa đến cùng như Ngài. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C197: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)

 

Tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay (Ga 21, 1-19) tường thuật lại cho chúng ta câu chuyện về PS 3-C197


Tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay (Ga 21, 1-19) tường thuật lại cho chúng ta câu chuyện về ơn gọi tình yêu của Phêrô qua thái độ, cung cách đáp trả tiếng mời gọi của của Ngài cho Chúa.  Nhưng thật ra, nói đúng hơn, đây chính là ơn ban mà Chúa Phục Sinh đã mời gọi, tuyển chọn, chất vấn, đồng ý-chấp thuận và trao sứ vụ tình yêu của Chúa cho Phêrô cũng như những ai sống theo như Phêrô như thế nào.

Sau khi Chúa hiện ra với Phêrô và các môn đệ, Chúa đã ban cho các Ngài được ơn chứng kiến phép lạ “Mẻ lưới bắt được đầy cá”. Tiếp đến, Chúa đã cùng ngồi ăn với các ông; và cũng chính từ bữa ăn này, Thầy-trò đã cùng trò chuyện với nhau về “câu chuyện ơn gọi, hay ơn ban tình yêu”. Với tường thuật thật thú vị này, Chúa đã hỏi Phêrô tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Và cả ba lần Phêrô đều thưa lại với Chúa: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy?” Chúng ta sẽ thắc mắc tự hỏi, tại sao Chúa lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy? Mới thoạt nghe qua, có người suy nghĩ, cho rằng: Tại vì Phêrô đã chối Chúa tới ba lần, thế nên, giờ đây Chúa phải hỏi lại ông ba lần để biết chắc về lòng trung thành, yêu mến Chúa của Phêrô. Thật ra thưa ACE, không phải như vậy, Thiên Chúa không bao giờ nhỏ nhen, hay suy tính theo như cách của con người, vì Chúa biết rõ lòng dạ, thấu suốt mọi tư tưởng và ước muốn của con người. Thật ra, Chúa hỏi Phêrô ba lần, điều này phải được hiểu theo ý nghĩa của bản văn.

Tin mừng theo Thánh Gioan được viết bằng tiếng Hy lạp, mà trong ngôn ngữ của tiếng Hy lạp có tới bốn từ để diễn tả cùng một ý nghĩa yêu-tình yêu đó là: “Eros-tình yêu nhục dục-thể xác; Philia-tình yêu thầy trò, bạn hữu; Storge-tình yêu của người thân trong gia đình và Agape-tình yêu tự hiến, trao ban, hiến thân cách nhưng không cho người mình yêu thương”. Thật ra, trong lần thứ nhất khi Chúa hỏi Phêrô, Chúa đã động từ Agape để hỏi: Phêrô, con có Agape Thầy không? Và lần thứ nhất Phêrô đã trả lời với Chúa bằng động từ: Con Philia Thầy. Lần thứ hai, Chúa cũng dùng động từ Agape để hỏi Phêrô như lần thứ nhất và Phêrô cũng đã trả lời với Chúa: Con chỉ Philia Thầy. Thế nhưng điều thú vị là, lần thứ ba Chúa đã đổi cách dùng từ, khi Ngài dùng chính cung cách trả lời của Phêrô mà hỏi lại ông: Con có Philia Thầy không? Tin mừng thuật lại “Phêrô đã buồn phiền” và trả lời với Chúa: Thưa Thầy, Thầy biết rõ là con không thể nào mà Agape Thầy được, vì với sức của con, con chỉ có thể Philia Thầy mà thôi.

Tại sao tới ba lần Phêrô đều trả lời với Chúa với động từ “Philia Thầy” như vậy? Thưa vì, đúng như Phêrô đã nhận xét về khả năng thật sự của con người mình, Ngài không thể nào mà yêu mến Chúa bằng tình yêu Agape-chính là tình yêu tự hiến, trao ban, tình yêu vô vị lợi, tình yêu cho đi cách nhưng không được. Vì tình yêu Agape chính là tình yêu thương mà chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương, trao ban và hiến tặng cho con người mà chúng ta mà thôi. Còn với Phêrô, Ngài đã thành tâm trước Chúa, với khả năng, tài sức của Ngài, Chúa biết rõ, con chỉ có thể yêu Chúa cách tốt nhất cũng chỉ là tình yêu-Philia là, vì đây là tình yêu của con, người học trò, người yếu đuối, tội lỗi, người nhận ơn của Chúa và giờ đây muốn đền đáp lại cho Thiên Chúa. Thật tuyệt vời, vì qua ngôn ngữ chính thức của bản văn, chúng ta mới nhận thấy được con người chân thật của Phêrô, một người môn đệ trung tín với Chúa, với Thầy của mình, khi được Chúa thương tuyển chọn để trao ban sứ vụ yêu thương của Chúa cho ông. Thêm vào đó, chúng ta cũng có thể hiểu qua cách trả lời với lần thứ ba của Phêrô là: Lạy Thầy, nếu như không có ơn của Thầy ban cho con, nếu như không được Thầy thương yêu, tín nhiệm và trao phó, thì bản thân con không thể nào mà có thể chu toàn thánh ý Thầy trao theo như cách thức và gương mẫu của Thầy được.

Thế nên, đúng như những gì mà Phêrô đã trung tín thưa với Chúa trong Tin mừng là Ngài đã yêu mến Chúa, thì trong bài đọc một (Cv 5, 27b-32. 40b-41) cũng minh chứng cách cụ thể cho chúng ta qua hành động sống yêu thương của Phêrô. Ý thức ơn ban của Chúa nơi sứ vụ của mình, Phêrô và các Tông đồ đã mạnh dạn rao giảng và làm chứng về Chúa cho người khác bất chấp mọi gian khổ cùng với những cực hình, tù đày…các Ngài luôn sống chứng tá cho tình yêu thương của Chúa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Các Ngài làm được như vậy, vì lòng tin yêu của các Ngài vào Chúa, đồng thời, các Ngài xác tín và nhận ra được nơi sứ vụ của mình chính là ơn ban mà Chúa thương ủy thác cho.

Thưa ACE, nếu phải trả lời cho Chúa như cách mà Chúa hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Ta không?” thì mỗi người chúng ta sẽ phải trả lời cho Chúa như thế nào? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời là có yêu mến Chúa, thế nhưng, chúng ta đang đặt Chúa ở vị trí nào trong lòng trí, tâm hồn và cuộc sống của chúng ta? Và rồi chúng ta sẽ lấy gì để minh chứng cho niềm tin yêu của mình vào Chúa? Thánh Phêrô chính là mẫu gương rất tuyệt vời cho chúng ta khi Ngài mời gọi chúng ta hãy tin vào Lời Chúa dạy, khiêm tốn vâng nghe theo sự linh ứng của Thánh thần để thực hành theo những gì mà Chúa đã sống và thực thi.

Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con cũng yêu mến Chúa, nhưng chúng con cũng yếu đuối, tội lỗi, xin ban ơn giúp sức để chúng con luôn tín thác cậy trông vào Chúa, nhờ đó mà chúng con sẽ hăng say dấn thân hơn để làm chứng tá cho tình yêu mà Chúa đã thương trao ban ủy thác cho chúng con. Amen.

-------------------------------

 

PS 3-C198: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: Nhóm Sao Biển - Nguồn: Stellamaris.edu.vn)

NHỮNG DẤU HIỆU NHẬN RA CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU TIÊN KHỞI: PHỤC VỤ, HIỆP THÔNG VÀ CỬ HÀNH BẺ BÁNH

 

Vào thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rửa chân cho mười hai tù nhân, tái diễn PS 3-C198


Vào thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rửa chân cho mười hai tù nhân, tái diễn lại việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ trước khi Ngài chịu đóng đinh. Được gợi hứng từ bài tường thuật Bữa Tiệc Ly của thánh Gioan, thực hành này của Đức Phanxicô là một hành động yêu thương và là lời nhắc nhớ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những nhà lãnh đạo, phải cống hiến hết mình vì nhu cầu của người khác, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương và thiếu thốn.

Theo Tin mừng Gioan, sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với một nhóm môn đệ khi họ đang đánh cá ở Biển hồ Galilê. Khi các môn đệ không bắt được con cá nào, Chúa Giêsu đã hướng dẫn và giúp các ông có một mẻ cá lớn. Việc Chúa Giêsu làm phép lạ giúp các môn đệ bắt được nhiều cá trong bài Tin mừng hôm nay gợi nhớ lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Câu chuyện này có vẻ quen thuộc, vì trong Tin mừng Luca cũng có một trình thuật tương tự xảy ra vào lúc Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ khi Ngài kêu gọi các môn đệ.

Bài Tin mừng thuật lại, khi Chúa Giêsu xuất hiện, các môn đệ không nhận ra Ngài ngay lúc đó, tương tự như trường hợp bà Maria Mađalêna gặp Chúa Kitô Phục sinh. Bà chỉ nhận ra Chúa Giêsu sau khi Ngài gọi tên bà. Các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay cũng chỉ nhận ra Chúa Giêsu sau khi được chỉ dạy và bắt được cá. Chỉ khi đó, người môn đệ Chúa yêu mới tuyên bố “Chính Chúa đó”. Chúa Giêsu đã mạc khải Ngài là ai bằng chính hành động chứ không phải bằng việc Ngài hiện ra.

Câu chuyện tiếp tục, Chúa Giêsu chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ. Tường thuật chi tiết cho thấy Chúa Giêsu nhóm lửa, nướng cá, mời cả nhóm dùng bữa và cùng ăn với họ. Chúa Giêsu phục vụ các môn đệ, tương tự như cách Ngài đã ân cần chăm sóc khi rửa chân cho các ông trong Bữa Tiệc Ly. Tin mừng Gioan không tường thuật việc Chúa Giêsu bẻ bánh và dùng rượu trong Bữa Tiệc Ly, nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu bẻ bánh và chia cá cho các môn đệ. Tin mừng Luca cũng nhắc đến trình thuật này lúc Chúa Giêsu cùng ăn cá nướng với các môn đệ sau khi phục sinh.

Truyền thống này đề cao phục vụ, hiệp thông và cử hành bẻ bánh. Chính Chúa Giêsu đã truyền lại những nguyên tắc này cho cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Chúa Giêsu củng cố mối tương quan với các môn đệ và nêu gương phục vụ qua việc chuẩn bị, chia sẻ và nuôi dưỡng các ông. Nếu chọn bài đọc dài hơn, bài Tin mừng sẽ có cuộc đối thoại riêng giữa Chúa Giêsu và Phêrô, khi đó Ngài nêu vấn đề là nếu Phêrô yêu mến Thầy thì ông phải: “Chăm sóc chiên con của Thầy… Chăn dắt chiên của Thầy… Chăm sóc chiên của thầy”. Lời truyền dạy này, đặc biệt đối với Phêrô, người được Chúa Giêsu tuyển chọn để trở thành khuôn mẫu cho chức vụ giáo hoàng, có thể được diễn giải theo nghĩa đen và ẩn dụ. Khi nêu gương qua việc dọn bữa như một hình thức chăm sóc và phục vụ, Chúa Giêsu bảo Phêrô cũng hãy làm như vậy đối với cộng đoàn của mình, hãy giúp đỡ và hỗ trợ nhu cầu vật chất cho các tín hữu. Tương tự, như một phép ẩn dụ đối với việc lãnh đạo, Chúa Giêsu hướng dẫn Phêrô cũng phải biết chăm sóc và nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu.

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu coi việc phục vụ là nền tảng của cộng đoàn đức tin. Qua những hành động mưu ích cho tha nhân của Chúa Giêsu, Ngài nêu lên một mẫu gương phục vụ để tất cả chúng ta, đặc biệt là giới lãnh đạo, nghiêm túc noi theo.

-------------------------------

 

PS 3-C199: Luật Của Nước Trời, Luật Tình Yêu


(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)

 

Thiên Chúa luôn lấy tình thương mà đối xử với con người. Dù bạn là ai, dù bạn thế nào, Thiên Chúa PS 3-C199


Thiên Chúa luôn lấy tình thương mà đối xử với con người. Dù bạn là ai, dù bạn thế nào, Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương bạn. Luật mà Thiên Chúa dùng để phân xử con người là luật tình thương. Mời bạn hãy chiêm ngắm cách ứng xử của Chúa qua bài Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 21, 1-19) để cảm nghiệm tình thương mà Thiên Chúa muốn dành cho bạn.

Đức Giêsu đối xử với các môn đệ

Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ sợ hãi ẩn chốn. Bài Tin mừng tuần trước, ta đã chứng kiến cảnh các ông sợ hãi ẩn chốn trong nhà (x. Ga 20, 19-31). Trong bài Tin mừng hôm nay, ta thấy các ông bỏ về quê với công việc chài lưới năm xưa. Chính trong tình trạng hoang mang và sợ hãi ấy của các ông, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện đến không một lời oán trách, hạch tội nhưng ngập tràn tình thương mến.

Cho dù chối thầy như Phêrô, cho dù sợ hãi bỏ thầy chạy chốn như Nathanael, Giacobe, Anre … nhưng khi Giêsu xuất hiện, Ngài chỉ một niềm tìm cách giúp đỡ các ông, an ủi các ông, lặng lẽ xoa dịu tâm hồn các ông.

Những con cá nướng, những tấm bánh được bẻ ra được trao cho các ông. Thầy trò quây quần bên đống lửa. Không một lời nói, không một câu hỏi, tất cả thinh lặng bên ngoài nhưng tâm hồn rộn ràng một niềm vui khôn tả (x. Ga 21,12). Một tình yêu chan hòa của Đấng Phục Sinh đang lan tỏa trong con người các ông. Tình yêu ấy không thể nói bằng lời. Một tình yêu sâu đậm thấm nhuần mọi con tim.

Đức Giêsu dùng luật tình yêu

Giêsu là thế. Loài người thường lấy luật của thế gian mà đối xử với nhau, mà xét xử kẻ có tội: có công thì thưởng, có tội thì phạt. Nhưng Đức Giêsu luôn lấy tình thương tha thứ mà xét xử tội nhân.

Tội chối thầy của Phêrô to lắm nhưng Giêsu chỉ một niềm “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 15-17). Tội của người phụ nữ phạm tội bị bắt quả tang đáng phải bị tử hình nhưng Giêsu chỉ một lời: “Ta không kết án chị đâu, hãy về đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Tội nghi ngờ của Tôma chẳng đáng là môn đệ của Giêsu, nhưng Giêsu đã đến với ông với lòng đầy trìu mến: “Hãy xỏ tay vào lỗ đinh tay Thầy đây. Đừng cứng lòng nữa” (Ga 20, 27).

Tấm lưới mà Giêsu trao cho Phêrô và các môn đệ để đi “bắt người ta” không phải được dệt bằng những sợi gai, sợi vải hay sợi nilon. Tấm lưới ấy được dệt bằng những sợi dây tình thương, tình mến. Chỉ với tấm lưới này của Giêsu mới cho các ông mẻ cá lạ quét sạch cả thế gian mà đưa vào Nước Trời. Thời ấy người ta quan niệm chỉ có 153 loài cá. Với mẻ cá bắt được 153 con chẳng phải là tất cả hay sao (x. Ga 20, 11).

Sống luật tình yêu trong cuộc sống

Thiên Chúa đã lấy tình yêu mà đối xử với con người. Luật của Nước Trời là luật tình yêu. Vậy nếu tôi muốn là công dân của Nước Trời, lẽ dĩ nhiên tôi phải sống và cư xử bằng luật của Nước Trời, luật tình yêu.

Cuộc sống quanh ta có muôn vàn cung bậc, có người lành kẻ dữ. Nếu lấy luật của thế gian mà kết án lẫn nhau thì há chẳng phải ta đẩy nhau vào chỗ diệt vong sao. Trái lại, khi ta luôn lấy tình thương để sửa trị, lấy bác ái mà đùm bọc lẫn nhau, ta sẽ dìu nhau tiến về Nước Trời, về nơi hằng sống.

Cuộc sống an bình biết bao khi nó được dệt bởi những sợi dây dàng buộc của tình thương yêu đùm bọc. Vợ chồng với nhau, cha mẹ với con cái, bạn bè với nhau, đồng nghiệp với nhau, xóm làng với nhau, tất cả luôn lấy tiêu chuẩn của tình thương để xét xử lầm lỗi thì một Nền Văn Minh Tình Thương mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời gọi sẽ nở rộ, và Nước Trời đang mở cửa đón chào ta.

Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin thật Chúa đang ở cùng con. Chính Ngài uốn nắn trái tim con; Chính Ngài tiếp sức cho con. Con xin đến và ở lại trong Ngài để điều con mong ước được vẹn toàn.

-------------------------------

 

PS 3-C200: Bảo đảm cho sự chân truyền


(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các PS 3-C200


Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên đoán biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Đức Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.

1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động, Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.

2) Những lời Thày nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa chọn một số người “lập thành nhóm các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân 19). “Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta” (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây