Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 6-A Bài 51-100: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn ----------------------------------- Phúc Âm: Mt 5, 17-37: "Người xưa đã bảo như thế, còn Ta, Ta bảo thật các con thế này".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; Trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời. Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẩn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là ngốc, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: "Ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!"
Các con đã nghe nói với người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Còn Ta, Ta bảo các con: "Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã ngoại tình với họ trong lòng rồi. Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Cũng có lời dạy rằng: "Ai ly dị vợ mình, trừ trường hợp tà dâm, thì làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ đã ly dị, cũng phạm tội ngoại tình".
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời TN 6-A51
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ "đừng chống cự lại kẻ ác" mà còn "giơ má kia cho người ta đánh" hoặc "phải yêu kẻ thù"(x.Mt 5,38-44).
"Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai". Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời tin mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5,38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình "mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm...". Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật "mắt đền mắt, răng đền răng" dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị "ông từ" đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gãy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: "thế thì theo luật "mắt đèn mắt, răng đền răng", ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!" Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói "ngoa ngữ" dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong "ngoa ngữ" thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: "Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?"(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta "nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa" thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: "đừng chống cự người ác", nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi...Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mc 12,30-31). Hạn từ "hết" đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ "như chính mình" làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng...Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ...(x.Lv 19,9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ai là người thân cận của tôi?" Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn "người Samaritanô nhân hậu" và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt...?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội...Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương "kẻ thù", yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: "Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó" (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu "kẻ thù", đã làm ơn cho người "làm hại mình", nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
Chọn lựa là chọn cái vừa ý, điều hài lòng, lựa cái ưa thích. Không phải bất cứ điều gì mình ưa thích TN 6-A52
Chọn lựa là chọn cái vừa ý, điều hài lòng, lựa cái ưa thích. Không phải bất cứ điều gì mình ưa thích đều tốt cả và điều mình ưng ý người khác cũng đồng thuận.
Có điều tôi thích; người ghét. Có tội tôi quên; người nhớ. Có phim tôi sợ; người mê. Món ăn tôi ưa; người chán. Có sách tôi đọc; người chê. Chuyện tôi chê; người chuộng. Có điều tôi tươi; người héo. Có điều tôi than; người thích. Câu tôi hài lòng; người đau. Điều tôi tin; người ngờ....
Muốn chọn đúng cần có kinh nghiệm, nếu không sẽ chọn lầm, lựa sai. Không tin cứ hỏi những người ham của rẻ, mua đồ chợ trời thì rõ. Sớm muộn gì cũng có lần mua lầm, chọn sai. Mình tinh mắt, kẻ chuyên bán đồ giả ranh hơn một bậc.
Sơ hở
Chọn lựa có hai thái cực trái ngược. Có chọn tất có loại. Có lựa tất có so sánh lấy, bỏ. Lựa theo sở thích không phải luôn chọn điều tốt vì sở thích thì khác nhau. Người thích điều tốt lành. Kẻ ham ăn chơi. Kẻ kín miệng; người khoe khoang. Tự do chọn lựa kèm theo trách nhiệm. Hậu quả chọn lựa ảnh hưởng lâu dài. Đôi khi kéo dài tới đời con cháu. Thí dụ gia đình công khai phê bình, chỉ trích Giáo Hội, con cái mất lòng mộ mến. Đến đời cháu rất có thể mất niềm tin.
Khôn ngoan
Cần ơn khôn ngoan để chọn đúng. Thiếu ơn khôn ngoan sẽ chọn sai. Có hai loại khôn. Khôn trần thế và khôn nước trời. Cả hai đều do Chúa ban. Khôn nước trời mặc khải Chúa hằng hữu. Khôn trần thế giúp nhận ra khôn nước trời để học hỏi, hiểu biết thêm về Chúa. Tài cao học rộng, kiến thức siêu phàm chưa chắc đã khôn. Sống đời bình dị, chân lấm tay bùn, nghèo kiến thức nhưng lại khôn. Sai lầm lớn nhất của giới trí thức là đồng hoá kiến thức với khôn ngoan. Có người nghĩ mình khôn, dựa vào kiến thức học được, chối bỏ Chúa. Quả là dại. Đức tin, không phải do kiến thức, mà nhờ mặc khải, ơn Chúa ban. Mặc khải không phải là kiến thức mà là ơn khôn ngoan. Từ chối ơn khôn ngoan không nhận biết Chúa. Họ sẽ tin vào kiến thức khoa học thực nghiệm, tin vào suy nghĩ của trí óc.
Dùng kiến thức, hiểu biết sáng tạo niềm tin mới hay chối bỏ Chúa là làm sai chức năng của kiến thức. Chúa ban cho con người tài trí, hiểu biết, để học hỏi củng cố, đào sâu niềm tin. Con người nhận những ơn đó, đã không tạ ơn, còn vô ơn, chối bỏ Chúa. Kinh nghiệm có thay đổi. Nhận định lúc tỏ, lúc mờ. Lí luận kĩ mấy cũng có sơ hở. Khó tránh khỏi thiên kiến, chủ quan khi nhận định. Ơn khôn ngoan vững bền vì đến từ Chúa.
Khôn trong Chúa
Niềm tin vô hình nên cần sức mạnh vô hình hỗ trợ. Sức mạnh đó là ân sủng Chúa giúp phán đoán, nhận định. Lời Chúa đóng vai chủ động hướng dẫn niềm tin. Yếu kém Lời Chúa niềm tin u mê, mù mờ. Tin Chúa mà không để Chúa làm việc là mâu thuẫn từ trong tâm hồn. Từ bỏ ý mình, sống theo ý Chúa là hợp lí, là khôn ngoan vì Lời Chúa là đèn soi tâm hồn, chiếu dọi miền u tối, toả sáng giúp nhận biết đúng sai.
Người môn đệ khôn ngoan là người biết lắng nghe Lời Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trog cuộc sống. Họ là muối, là men, là ánh sáng đem Đức Kitô cho thế giới. Muối và ánh sáng của họ khác muối và ánh sáng gian trần vì đến từ Chúa.
Vì thế Đức Kitô xác quyết với thế gian là môn đệ trung tín của Ngài ăn ở công chính hơn hẳn các người khác. Công chính hơn cả các bậc thầy, người lãnh đạo trong dân, hơn cả Kinh Sư và người Pharisiêu. Vì sao vì họ là những người có ơn Chúa. Ơn khôn ngoan thể hiện qua niềm tin vào Đức Kitô và thực hành niềm tin đó bằng cách bảo vệ, nâng cao, tôn trọng sự sống dù ở bất cứ đâu, lứa tuổi nào, giai cấp nào. Sự sống con người cần được bảo vệ. Bảo vệ sự sống bằng yêu thương và tha thứ. Bảo vệ sự sống bằng cách bảo vệ thiên nhiên, rừng sâu, núi cao, biển rộng, sông dài, hầm mỏ và mọi sinh vật sống nhờ chúng. Bảo vệ sự sống bằng lối sống yêu thương tha thứ để được sống bình an. Cảm nhận được những ơn trên nên họ không ngớt lời cảm tạ Chúa. Họ biết ơn và thi ơn cũng như chân thành trong lời nói và hành động
Khuôn vàng, thước ngọc họ theo đuổi là Yêu người như yêu mình Không làm cho người điều gì mình không muốn người làm cho mình
Đây là những hướng dẫn mới mẻ Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu thực hành trong cuộc sống. Mt 7,12. Thánh Phaolô diễn tả cách sống này trong thư Roma 13,8 như sau
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.
Đức ái
Giáo lý của Ngài tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Đức ái là giới răn quan trọng nhất trong cuộc sống người Kitô hữu. VìYêu, Chúa gọi ta vào đời. Ta sa ngã Chúa cứu chuộc. Ta mất ơn nghĩa tử Chúa cho làm kẻ thừa tự. Ta chết trong tội Chúa ban sự sống đời đời. Nhận biết những điều trên để dâng lời tạ ơn là sống khôn ngoan. Kitô hữu có bổn phận học và thực hành, yêu người khác như Chúa yêu ta. Giữ trọn lề luật mà thiếu yêu thương là phạm luật. Luật đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Bỏ luật con tim là bỏ luật Chúa. Thờ phượng Chúa mà thiếu thực hành đức ái đến từ đức tin nông cạn.
Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn TN 6-A53
Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn nhắc đi nhắc lại khẩu hiệu ‘Không có gì quý hơn độc lập và tự do’. Tự do và tuân thủ pháp luật là cặp phạm trù luôn đi song đôi mà trong bất cứ tổ chức nào, người ta vẫn thường hay nhắc tới. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh về 2 điều này. Ngài khẳng quyết: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn. Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật sẽ không qua đi”(Mt 5, 18). Nhưng Đức Giêsu đã mặc cho lề luật cũ một tinh thần mới, đó là chiều kích nội tâm với sự tự do đích thực. Tuân thủ lề luật một cách cứng ngắc và vụ hình thức sẽ giết chết chúng ta, nhưng trong tự do của Thần Khí, chúng ta sẽ đi vào cốt lõi của lề luật như lời giải thích của Chúa Giêsu hôm nay.
Luật trong Cựu ước.
Trong trình thuật Tin Mừng, Chúa Giêsu đã 4 lần nhắc đi nhắc lại: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng...” Ngài nêu ra 4 ví dụ tiêu biểu về luật cũ, và giải thích theo tinh thần mới.Luật cũ mà người Do Thái vẫn tuân giữ rất cặn kẽ được viết lại trong sách Torah. Bộ sách gồm 5 quyển, chứa 613 điều khoản, gồm 365 khoản cấm và 248 khoản buộc. Ngoài 613 điều khoản này, Do Thái giáo theo dòng thời gian còn qui định thêm những tập tục khác và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Các tập tục đó được tóm lược trong bộ sách Talmud. Có nhiều tập tục đã quá lỗi thời và lạc điệu ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ví dụ việc giữ ngày Sa- bát 1 cách rất chi tiết và nặng hình thức. Cụ thể như trong ngày Sa-bát, người Do thái không được đi xa hơn 1000 bước chân, không được tắm rửa, không được soi gương, không được mang răng giả v.v..Có lần các môn đệ Chúa Giêsu đã bứt lúa để ăn trong ngày Sa-bát vì đói và đã bị những người Pharisiêu khiển trách (Mc 2, 24). Những lề luật và những tập tục cũ đã trở nên như một gánh nặng cho dân chúng (Mt 11,28), và Đức Giêsu đã đến để ‘giải phóng’, giúp trút bỏ những gánh nặng cồng kềnh ấy để con người chúng ta được tự do hoàn toàn.
Luật trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập một giao ước mới. Trong giao ước đó, Ngài chỉ nêu ra 1 khoản luật duy nhất, đó là luật của tình yêu. “Thầy để lại cho anh em 1 điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34a). Mô thức của lề luật mới mà Chúa đã thiết định chính là cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì thế, chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu mới có thể nói cho các học trò của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34b). Chúa Giêsu không phải là một nhà mô phạm lý thuyết. Ngài quảng diễn bài học yêu thương qua chính hình ảnh cụ thể nơi Ngài. Chúng ta hãy đọc lại thư Rôma, trong đó Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất sâu sắc về khoản luật mới này. Ngài viết: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật” (Rm2,29b). “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới chứ không phải theo văn bản cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh Tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức đơn giản và viết cách vắn gọn: “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,16). Từ chương 5 đến chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa thế nào là việc thực hành lề luật mới, bằng cách sống theo Thần khí. ‘Spiritus’ có nghĩa là ‘Thần Khí’ và spiritus cũng có nghĩa là tinh thần (của lề luật). Thánh nhân đã tóm kết: “Lề luật (cứng ngắc) thì giết chết, nhưng tinh thần của lề luật, tức sống theo Thần Khí mới làm cho chúng ta sống (Lex occidit, Spiritus vivificat).
Người biệt phái ngày xưa giữ luật rất nghiêm túc và tỉ mỉ. Xét bề ngoài, họ là những con người rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ vạch trần thái độ cao ngạo trịnh thượng và sự rỗng tếch nơi họ. Họ đến trình diện trước Chúa chỉ để khoe khoang những thành tích đạo đức giả tạo nơi mình. “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng 1 phần 10 huê lợi của con cho Chúa” (Lc 18, 12). Chúa Giêsu đã nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Nhiều khi, chúng ta cũng giữ đạo một cách máy móc và giả hình giống như thế.
Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”(trích trong sách Tự thuật). Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người chúng ta. Một nhà tu đức đã nói: “Khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa không thích chúng ta trưng ra những bằng khen hay những giấy khen. Chúa cũng chẳng ưa ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để phô diễn những kỳ tích đạo đức của mình. Điều Chúa thích nhất, là Ngài cứ mân mê sờ nắn những vết sẹo hằn sâu nơi tâm hồn con người. Những vết sẹo đó là dấu tích tội lỗi chúng ta đã phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành”.
Kết luận
Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già với áo quần cũ kỹ, nhầu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn tôi nhìn khuôn mặt đức vua trông giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?” Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”. Nói xong, vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một vị thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong Giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm nơi chính mình để tìm ra câu trả lời.
Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì TN 6-A54
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.
Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.
- Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)
- Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).
- Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)
Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại….(Các điều răn V, VI, VII, VIII)
- Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại….(Điều răn IX, X)
Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.
Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng ngàn khoản luật nhỏ, đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.
Vì luật họ để mặc những anh chị em bịphung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.
Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.
Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…
Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em.
Chính Đức Ki-tô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3)
Đức Ki-tô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài, những điều mà họ hoàn toàn dị ứng với nếp nghĩ và ứng xử tôn giáo của họ.
“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”
Và điều cốt yếu mà Đức Ki-tô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Ki-tô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó:
“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật ; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.
Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. …
Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giê-su muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc ; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: "Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13,8) và thánh Augustinô cũng nhắc nhở: "Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà “luật lệ thì đầy dẫy”, nhưng người ta chỉ muốn xài “luật rừng”.
Luật cấm giết người ai mà không biết. Nhưng mỗi ngày có biết bao nhiêu vụ giết người man rợ đã xảy ra. Vào đúng ngày Lễ Tình Nhân hôm qua (14/2/2014), tại Đà Nẵng đã xảy ra một vụ án mạng kinh khủng. Một chàng thanh niên đã đâm chết người yêu rồi nhảy lầu tự tử.
Luật thương mại, sản xuất có đầy đấy chứ. Nhưng ngoài thị trường hàng giả, hàng nhái đầy dẫy. Luật giao thông có đấy, nhưng hàng ngày biết bao tai nạn thương tâm vì người ta bất cần luật…
Luật cấm mê tín dị đoan có đấy chứ. Nhưng từ cán bộ trung ương đến hàng hàng lớp lớp dân chúng thay nhau mà cướp ấn của Đền Trần trong ngày hội khai ấn vừa qua tại Ninh Bình để mong được cầu tài và phúc lộc vật chất, cho dù phải dẫm đạp lên nhau, sống chết mặc kệ.
Phải chăng vì con người hôm nay đã đánh mất cái tâm, cái tinh thần tương thân tương ái, cái trái tim để yêu thương và tương kính lẫn nhau.
Như vậy, chúng ta, những người được chính Đức Ki-tô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”, chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo ; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất.
Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Ki-tô đã dạy. Nói cách khác, luật của người Kitô hữu là luật mang dáng đứng tình yêu.
Bỏ qua để vui sống là điều cần trong cuộc sống và đây cũng là cái khôn của người xưa. Người xưa TN 6-A55
Bỏ qua để vui sống là điều cần trong cuộc sống và đây cũng là cái khôn của người xưa. Người xưa dậy mắt đền mắt, răng đền răng và không được phép làm hơn thế. Mục đích là ngăn cấm hành động trả đũa quá đáng. Hành động trả đũa thường bắt đầu bằng cá nhân, cá nhân lôi bè, kéo cánh trả đũa sự việc trở nên khủng khiếp hơn. Lúc đó sẽ không còn cảnh răng đền răng mà răng đền mạng. Giới hạn trả đũa, ngăn ngừa nội chiến trong tộc.
Để hiểu hơn điều Đức Kitô dậy chúng ta cần lần mò một chút văn hoá người xưa. Ai vả má phải hãy đưa má trái cho họ. Vả má người đối diện bẳng lòng bàn tay vì thuận tay nhưng khi không thuận tay nên phải vả má kia bằng lưng bàn tay. Phong tục lúc đó ai vả má người khác bằng lưng bàn tay là hành động của người mất trí. Hành động thiếu tự chủ đáng khinh bỉ. Nạn nhân trở thành người được xã hội bênh dỡ, thông cảm, còn kẻ vả má người bằng lưng bàn tay bị kết án. Việc vả má biểu lộ nội tâm của người đó. Họ là người hành động khôn ngoan, chừng mực hay thô lỗ, tục tằn.
Người xưa đo đường bằng bước chân vì thế quân đội Rôma có thể bắt dân khuôn vác dùm trong vòng một ngàn bước. Nếu muốn phải nhờ người khác. Để cho vác đi hơn một ngàn bước người lính mắc lỗi. Mục đích của luật là ngăn cấm lạm dụng quyền hành.
Hãy cho vay và đừng mong trả. Hiểu theo mạch văn này thì sẽ không ai cho vay. Luật lúc đó cho biết hạn trả nợ là bảy năm. Sau bảy năm mà không trả nổi thì coi như xoá bỏ. Vì thế đến năm thứ năm hay thứ sáu chủ nợ làm dữ trước hạn bảy năm. Sáu năm trả lời đã quá mức mượn ban đầu nếu tiếp tục, mượn một trả thành ba hay bốn. Người xưa không mượn tiền mua nhà, đất mà mua thực phẩm nuôi gia đình. Mượn thức ăn nuôi thân mà bảy năm trời không trả nổi quả đáng thương. Chủ nợ đòi riết quả là nghèo lòng xót thương, đói bác ái. Vay thì phải trả nhưng vay thực phẩm, trả không nổi, còn gì để bắt, ngoài bắt người trừ nợ.
Ba ví dụ trên cho thấy Đức Kitô dậy con người sống yêu thương, thông cảm hoàn cảnh khó khăn của anh chị em khác. Đó chính là luật yêu thương Ngài công bố cho toàn dân: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau (Ga 13,34)
Luật yêu thương tóm gọn luật của tổ phụ Môsê dậy trong Mười Điều Răn nhận từ núi thánh. Luật yêu thương mở ra chân trời mới, đưa ra cái nhìn mới hướng dẫn lương tâm con người sống thứ tha, thông cảm và biết thương đến anh em đồng loại, thông cảm với kẻ khốn cùng, tha thứ cho kẻ làm lỗi, kẻ đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc. Luật yêu thương đặt căn bản trên con tim. Người biết tha thứ là người mạnh. Có thể không mạnh thể lực mà mạnh về tâm linh, mạnh về lí trí. Sức mạnh nội tâm giúp vượt thắng cám dỗ trả đũa. Sức mạnh này giúp ta tự làm hoà với ta trước sau đó dẫn đến hành làm hoà cùng anh em. Sức mạnh nội tâm giúp ta nhìn rõ sự việc, cân nhắc phải trái khi chọn lựa. Chọn tha thứ là khôn ngoan hơn cả. Chọn bỏ qua để vui sống. Chọn tha thứ là chọn vứt bỏ gánh bực dọc để vui sống. Quảng gắng xong người thấy nhẹ nhõm, tinh thần bình an, lòng thoải mái.
Sống yêu thương giúp ta trở thành người biết thương người. Chỉ chủ nợ mới có thể tha, con nợ không thể tha. Trong yêu thương cũng thế biết thứ tha là biết làm chủ đời mình; không thể bực dọc gây đau khổ, vật vã, bực tức trong lòng, làm khổ mình. Không tha thứ là trói buộc. Tha thứ là giải thoát vì lòng họ thảnh thơi, an bình. Thiếu tha thứ sống đau khổ, tự trói buộc là làn mô lệ cho cái tôi. Không phải ai cũng có thể tha thứ mà chỉ những ai hiểu rõ luật yêu thương mới có thể tha thứ. Luật yêu thương bắt nguồn từ Đức Kitô, giáo huấn chính của Ngài. Để tha thứ cần ơn Chúa. Kết hợp với Chúa dễ tha thứ hơn sống theo thói tục.
Tha thứ không dễ vì phải thắng cái tôi, cái tôi càng lớn chiến đấu càng mãnh liệt, chiến đấu mãnh liệt sẽ có nhiều đau khổ nhưng đau khổ đó êm dịu vì cậy nhờ ơn Chúa. Một khi đau khổ qua đi tâm hồn thảnh thơi, lòng người thoải mái. Chiều theo cái tôi, trói buộc đau khổ kéo dài, cần nhiều thời gian để nguôi ngoai. Càng kéo dài đau khổ càng tăng, như thế trong hai cái đau chọn cái đau ngắn hạn tốt hơn, dại gì chọn đau dài hạn.
Tha thứ nối kết tình bạn, làm cho tình bạn nồng thắm hơn và tạo tin tưởng mãnh liệt hơn. Như thế tha thứ gắn liền với kết hợp với tình yêu Chúa.
Tạp chí Reader’s Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một truyện ngắn: Đôi vợ chồng kia đã nhiều TN 6-A56
Tạp chí Reader’s Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một truyện ngắn:
Đôi vợ chồng kia đã nhiều lần cãi nhau, và lần này, đang lúc hai người cãi nhau hăng say, thì người chồng đề nghị với vợ: “Thôi, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Bây giờ mỗi người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau”. Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu. Người vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, liền hối hả viết liên hồi, dường như cố ý tranh với chồng, để kể ra nhiều tật xấu hơn. Người chồng chỉ viết một câu rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra tật xấu của người chồng, và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn.
Đến lúc không còn gì để viết nữa, hai người trao cho nhau bản kể tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt của người vợ bỗng biến đổi vì xúc động. Bà vội vàng đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng và tỏ thái độ làm hoà ngay với chồng. Trong tờ giấy của người chồng, bà chỉ đọc được có một câu duy nhất: “Anh yêu em!”.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi: “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người sẽ không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa người với người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.
Luật mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới, tạo nên “Nước Trời”: “Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”. Trong một số ví dụ được Đức Giêsu đưa ra như giết người, gian dâm, bội thề… Luật mới không chỉ dừng lại ở những hành động tội ác, mà đòi hỏi phải đổi mới tận chiều sâu của tâm hồn, tận trái tim yêu thương:
- Trước kia, có huỷ hoại sự sống thể xác mới phải ra toà. Nhưng từ đây, chỉ mới có tâm tình giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em là đã đủ để lãnh án nặng nề.
- Thậm chí chưa tích cực giải hoà với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng phải kể là không được liên hệ tốt với chính Thiên Chúa, không còn quyên dâng của lễ cho Thiên Chúa.
- Luật cũ xử phạt người có hành động ngoại tình. Từ đây, Luật mới đòi buộc phải trong sáng từ ánh mắt đến tận tâm hồn. Phải tôn trọng và lãnh trách nhiệm bảo vệ người bạn đời của mình.
- Luật cũ cấm phản bội lời thề. Luật mới đòi phải sử dụng lời nói thế nào trong cả đời anh, để người nghe, hiểu và nhận được lòng chân thành của anh, mà không cần anh thề thốt gì hết.
Do đó, chúng ta không lạ gì lối giữ đạo duy hình thức, vụ Lề Luật của các luật sĩ và các nhóm Biệt phái Pharisêu thời Chúa Giêsu, đã bị chính cuộc sống của Chúa Giêsu vạch trần là giả hình là “mồ mả tô vôi”: Giữ luật chi li, nhưng là để cho bản thân mình nổi danh đạo đức trước người khác và tự mãn nơi lòng mình. Tệ hơn nữa là hạng người mượn danh “luật Chúa” để kết án người có tội, người nghèo khổ, hoặc người mang bệnh tật. Và còn đáng Ngài phản đối nặng nề hơn nữa khi họ chủ trương bắt người khác cũng phải hoạ theo lối sống hà khắc của họ. Chính Chúa Giêsu đã bảo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
Anh chị em thân mến,
Luật mới là một “Giao Ước Mới”, một “hợp đồng tình thương” với những điều khoản được Chúa “ghi tạc tận đáy lòng, tận trái tim con người” (Gr 31,33). Ngôn sứ Êzêkiel còn diễn tả qua hình ảnh cụ thể hơn nữa: “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con và ban tặng các con một trái tim thịt mềm biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (36,23-27).
Đức Giêsu đã kiện toàn Luật của Thiên Chúa. Ngài đã sống trọn vẹn đến từng chi tiết. Ngài đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa lấy con người làm đối tượng của tình yêu thương, khi đích thân Ngài, như một tên tử tội khốn nạn nhất, chết treo trên Thập giá, chỉ vì muốn nâng con người lên tận hàng con cái Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Nhập Thể không chỉ là mầu nhiệm của Ngôi Lời Thiên Chúa làm con người mà còn là dấu chứng của tình yêu, cũng là bản thể Thiên Chúa đã dính chặt vào với mỗi con người của trần thế, đến độ bất cứ ai làm gì cho mỗi con người, đều làm cho đích thân Ngài, và bỏ qua không làm tốt cho con người, cho dù với mọi thứ lý do, sẽ chỉ đưa đến kết quả là: “Không được sống đời đời” (Mt 25,41).
Thưa anh chị em, Đạo của Chúa, Luật của Chúa là như thế đó. Nó nhằm mục tiêu cho mỗi người chúng ta hoà nhập vào dòng suối vô tận của tình thương vô biên, khơi nguồn từ Chúa Cha và thông qua Chúa Giêsu và nhờ Thánh Thần chuyển đến mỗi người chúng ta, đến với mọi người muôn thế hệ. Bởi vì chỉ có tình thương mới cho chúng ta góp phần xây dựng, phát triển hạnh phúc của con người anh em. Và chỉ có hạnh phúc của anh em, có chúng ta góp phần, mới cho chúng ta cảm nghiệm và dự phần hạnh phúc của Thiên-Chúa-Tình-Thương.
Sau khi đã mở đầu bài diễn từ trên núi bằng 8 mối phúc. Đến phần thân bài Đức Giêsu tuyên bố: "Ngài TN 6-A57
Sau khi đã mở đầu bài diễn từ trên núi bằng 8 mối phúc. Đến phần thân bài Đức Giêsu tuyên bố: "Ngài đến không để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật". Kiện toàn thế nào? Phải chăng một nét chấm, một nét phẩy trong sách luật không bỏ qua? Phải chăng giữ luật từng chi tiết, từng điều luật nhỏ nhất? Đức Giêsu không kiện toàn luật theo kiểu đó, bởi Ngài đã chẳng tuân giữ luật ngày hưu lễ, chẳng quan tâm đến luật tinh sạch (Mt 15,3; 19,17; 22,36). Đàng khác, những luật được Ngài trưng ra trong đoạn Tin mừng hôm nay, đã được Ngài sửa đổi. Sửa đổi bằng cách đưa về thời nguyên sơ của nó, nghĩa là vào thời kỳ Thiên Chúa đã ban nó cho Maisen. Sửa đổi bằng cách thay đổi não trạng nệ luật của con người, giữ luật vì luật, bám sát từng chữ của luật và tuân thủ một cách nô lệ từng chữ ấy, biến luật thành chủ, con người là nô lệ, quên tinh thần của luật, là để phục vụ con người. Một khi luật đã được Đức Giêsu sửa đổi, giải thích, gạn lọc, vứt bỏ những thêm thắt của con người, kiện toàn đúng tinh thần, phù hợp với chủ ý của Thiên Chúa, sẽ có một uy quyền tuyệt đối một nét phẩy, nét chấm không bỏ qua, một sự trường tồn, trời đất sẽ qua đi, nhưng thánh ý Thiên Chúa (lề luật) sẽ không bao giờ qua. Một thứ luật như thế, một điều răn nhỏ nhất cũng quan trọng, ai thực thi sẽ là người công chính hơn những Kinh sư và Pharisiêu. Để cụ thể, Đức Giêsu đã trích dẫn sáu điều luật và đưa ra các yêu sách mới của Người. Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập bốn điều:
1. Giết người
Luật dậy người xưa: "Chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra toà". Đức Giêsu bảo: "Giận anh em cũng đã bị kết án". Đây là kiểu nói của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng để nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Giận anh em, đâu bị đưa ra toà, mắng anh em là ngốc, đâu bị đưa ra trước Hội đồng, chửi anh em là quân phản đạo, đâu đến nỗi phải xuống hoả ngục. Đàng khác, xét về mặt tâm lý, giận là một trong "thất tình": hỷ (mừng), nộ (giận), ai (thương xót), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn), nghĩa là một trong bẩy thứ tình cảm tự nhiên mà người lành mạnh nào cũng có. Nếu ta biết yêu mình và tự trọng ta, ai đó đối xử bất công với ta tự nhiên ta nổi giận. Tuy nhiên, không nên giữ cơn giận mãi trong lòng. Khoa tâm bệnh học cho biết: cứ đè nén cơn giận mãi có thể hại cho tâm thần, không lợi cho sức khoẻ dễ bị ung thư. Thánh Phaolô nói: Đừng để cơn giận qua lúc mặt trời lặn. Tự nó, giận không có gì là xấu. Chính Đức Giêsu cũng từng nổi giận, khi thấy người ta buôn bán trong Đền thờ. Chỉ xấu khi nổi giận với anh em mình, không còn coi người anh em mình như anh em nữa, trái lại coi họ là người dưng, thậm chí là kẻ thù. Giận như thế đồng nghĩa với giết, không phải giết chết một mạng sống, mà giết chết một mối tình. Anh em không còn là anh em, mà là kẻ thù. Giận như thế bị kết án.
2. Ngoại tình
Quả thực ngoại tình là một lỗi nặng, nó phá vỡ tổ ấm của người anh em, nó bị mọi nền văn minh lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội coi thường lâu dài vấn đề này chắc chắn sẽ tự tiêu diệt. Luật Dothái dậy ném đá những người phạm tội ngoại tình. Đức Giêsu chẳng những cấm ngoại tình bằng hành động, bằng hành vi bên ngoài. Người còn cấm ngoại tình từ trong lòng. Người nói: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi". Để nói lên tầm quan trọng của vấn đề, Đức Giêsu bảo: "Nếu mắt hoặc tay anh em làm cớ cho anh em vấp phạm, thì hãy móc mắt hoặc chặt tay đó đi, vì thà rằng mất phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục". Đây là kiểu nói mạnh của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng. Bởi lẽ cho dù có móc một mắt, chặt tay, cũng không làm cho người ta khỏi sa ngã. Tội bởi trong lòng mà ra, mắt, chân tay chỉ là khí cụ. Vả lại, Đức Giêsu kết án tội ngoại tình, nhưng Đức Giêsu không ném đá người phụ nữ phạm tội.
3. Ly dị
Luật Maisen cho phép người Dothái ly dị và dạy rằng: "Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị". Đức Giêsu bảo: "Ai rẫy vợ mình, trừ phi nố dâm bôn, và cưới vợ khác tức là phạm tội ngoại tình". Chỉ có Matthêu ghi lại nố trừ này. Trong Tin mừng Maccô và Luca không có, và chỉ ghi rằng: Đức Giêsu cấm tuyệt đối không được ly dị. Làm sao hai tác giả đó có thể quên một điều quan trọng như thế? Có lẽ đúng là một trong các người cuối cùng soạn bản Tin mừng của Matthêu đã thêm điều khoản ấy vào, để trả lời vấn đề các tôn sư tranh luận với nhau (những lý do cho phép rẫy vợ) và cũng là vấn đề có thể làm bận tâm những tín hữu gốc Dothái. Nếu thế thì ở đây có lẽ là một quyết định của Hội thánh có giá trị địa phương và tạm thời, như sắc lệnh của Công đồng Giêrusalem về vấn đề kiêng thịt cúng, vật chết ngạt và tránh gian dâm cho giáo đoàn Antiôkia (Cv 15, 23-29).
Tuy nhiên, Giáo hội chính thống và Tin lành cho rằng, "dâm bôn" có nghĩa là ngoại tình, đây chính là lời của Đức Giêsu, bởi thế các giáo hội đó chấp nhận cho ly hôn, khi một trong hai người phối ngẫu phạm tội ngoại tình.
Nhưng có những người khác lại cho rằng từ "dâm bôn" chỉ một hôn nhân bất hợp pháp, trái với luật Thiên Chúa, như thứ hôn nhân loạn luân ngăn trở họ máu. Luật cấm lấy nhau (Lv 18,6-18; Cv 15,28-29). Những thứ hôn nhân ấy dù là hợp pháp giữa người ngoại giáo với nhau, hay được người Do thái làm thinh nơi các người theo Do thái giáo, hẳn là đã gây rắc rối, khi những người ấy theo Kitô giáo trong những môi trường thượng luật, như môi trường Matthêu. Vì thế có chỉ thị nên huỷ những hôn nhân bất hợp pháp ấy, vì đó chỉ là hôn nhân giả tạo.
Một ý kiến khác nữa cho rằng nố trừ "dâm bôn" mà Đức Giêsu cho phép rẫy vợ đây, không phải là ly dị, nhưng là ly thân. Chính Phaolô đã hiểu theo nghĩa đó, ông đã đề cập đến trong thư thứ 1 gửi giáo hữu Côrintô (1 Cr 7-11). Giáo hội Công giáo từ xưa đến nay đã hiểu như vậy, không cho ly hôn mà chỉ ly thân khi người ta phạm tội ngoại tình.
4. Thề thốt
Luật dạy người xưa rằng: "Chớ bội thề, nhưng hãy giữ trọn lời thề với Chúa". Đức Giêsu bảo: "Đừng thề chi cả, có thì nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ".
Nhiều giáo phụ cho rằng, đây là lệnh truyền nghiêm cấm tuyệt đối của Chúa, không được thề thốt chi cả, nhiều giáo phái Tin lành cũng đồng quan điểm đó. Họ từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Thực ra Đức Giêsu không nghiêm cấm cách tuyệt đối như thế. Thánh Phaolô đã thề với giáo hữu Rôma, Côrintô, Galata, (Rm 1,9; 2 Cr 1,23; 11,3; Gal 1,20). Giáo hội không những cho phép thề trước các toà án mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (thề chống Duy Tân chủ nghĩa). Theo thánh Augustin, lời thề tự nó không phải là điều tốt chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Trong mọi trường hợp "Có phải nói có, không phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ".
Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã ban lề luật cho chúng con, và đã cho Con Chúa sửa đổi lại theo ý Chúa. Xin cho chúng con được bước đi dưới ánh sáng của lề luật để chúng con được sống muôn đời. Chúng con cầu xin...
Ngày nay, rất nhiều người hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói luật của tự do và tình yêu. Con người t TN 6-A58
Ngày nay, rất nhiều người hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói luật của tự do và tình yêu. Con người trưởng thành luôn khát vọng được tự do, được tự mình làm nên đời mình và rất giận khi có ai can thiệp vào đời sống riêng tư của mình.
Chính Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do của con người, sau khi ban tặng cho họ tự do như một ân huệ quý giá. Ngài đã không ngăn cản Ađam Evà hái trái cấm, và chấp nhận phải làm rất nhiều việc để sửa chữa tội lỗi đó chỉ vì muốn tôn trọng tự do của họ. Bài đọc I hôm nay cho ta hiểu con người hoàn toàn tự do lựa chọn điều tốt hay xấu để tạo nên "sinh tử" cho mình khi nói: "việc trung thành tuân giữ các giới răn là tuỳ ở con người".
Vậy thì luật lệ của Chúa, của dân tộc Israel mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng có ngăn cản hay xúc phạm đến tự do của con người hay không? Chúng ta tuân giữ các luật lệ với tinh thần nào để phát triển trọn vẹn tự do của mình? đó là vấn đề chúng ta suy niệm tuần này.
1. Tự do là gì?
a/ Tự do là khả năng của ý chí để nhờ đó con người quyết định về chính mình, tự hành động mà không bị bên trong thúc bách hay bên ngoài ép buộc. Nói cách khác, đó là khả năng của một hữu thể có lý trí, có thể làm hay không làm, làm cách này hay cách khác.Những hữu thể đó là con người, là thiên thần và Thiên Chúa. Còn các loài vật khác không có tinh thần thì không có tự do vì bị thúc đẩy do bản năng hay do đối tượng bên ngoài. Tự do của con người là thứ tự do tương đối vì được Thiên Chúa ban tặng, khác với tự do tuyệt đối của Thiên Chúa. Tự do con người cũng còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian và thời gian.
Hơn nữa, điều kiện kiên quyết để thực hiện tự do là có thể lựa chọn và biết lựa chọn theo ý muốn của mình. Thí dụ giữa bao nhiêu người bạn gái, người con trai có thể chọn một người để làm vợ và khi chọn như thế, người đó hiểu mình tại sao chọn cô này mà không lấy cô khác.
Tuy nhiên, sự lựa chọn của con người luôn mang một tính cách liều lĩnh vì con người không thể hiểu rõ đối tượng mình chọn lựa và không bao giờ có thể thấy rõ được tương lai: vì nếu biết chắc chắn người con gái kia sẽ phản bội mình hoặc sau này bị tai nạn què chân, cụt tay, thì người con trai đã chọn người khác.
b/ Khi tự do lựa chọn con người. Thiên Chúa cũng đánh liều như vậy. Ngài sáng tạo nên con người, chia sẻ tự do của mình cho con người nên ngài chấp nhận cả việc con người phản bội tình yêu của mình. Ngài đã không thu lại ân sủng tự do, Ngài cũng chẳng giơ tay ngăn cản Ađam và mọi người chúng ta phạm tội. Ngài để cho con người làm chủ vận mệnh của mình. Ngài chỉ nhắc nhở con người phải khôn ngoan khi lựa chọn bằng lương tâm ngay chính của họ. Bài sách Huấn ca nói cho chúng ta hay rằng: "Trước mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ họ thích thứ nào thì được thứ ấy. Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấy mọi loài và thấu suốt mọi hành động của con người " (Hc 15, 16-21).
Con người càng lắng nghe tiếng Chúa và hành động theo ý Ngài diễn tả qua các luật lệ đúng đắn, qua tiếng lương tâm trung thực thì càng thấy mình được tự do. Đó là thứ tự do đặc biệt của người tín hữu vì các giới luật và lương tâm chỉ có mục đích là làm cho con người sống gắn bó với Thiên Chúa, là Đấng tự do tuyệt đối, Nhưng khi con người chiều theo dục vọng bất chính của mình hay của người khác là con người đã đánh mất tự do cao quý của người con cái Chúa. Con người tưởng mình hoàn toàn tự do để ăn chơi, hưởng thụ hay hành động theo ý của mình , nhưng sự thực lúc đó con người lại đang làm nô lệ cho tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi và ma quỷ hơn cả, rồi từ đó làm nô lệ cho tội lỗi, chết chóc, vong thân.
Tuy nhiên, chính khi tuân giữ luật lệ của Chúa, con người lại cảm thấy mình mất tự do nếu không biết dùng lý trí để hiểu tại sao mình phải lựa chọn hành động này mà không lựa chọn hành động khác. Lúc đó người ta chỉ giữ luật vì sợ bị phạt hơn là hiểu rõ tinh thần của luật. Giống như một vài người chạy xe ngừng lại khi đèn đỏ vì sợ người cảnh sát giao thông thổi phạt, chứ không phải tôn trọng luật lệ giao thông để bảo vệ sinh mạng của mình và của người khác. Đó là kiểu giữ luật của nhiều kinh sư và biệt phái trong đạo Dothái, Họ tuân giữ tỉ mỉ 673 điều khoản trong Cựu Ước nhưng lại không hiểu tinh thần luật Chúa nằm ở lòng yêu thương chân thành đối với Chúa và tha nhân. Nên Đức Giêsu nói hôm nay: "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào nước Trời".
2. Tinh thần tự do của những con cái Chúa
a/ Đức Giêsu đến để đem lại cho con người sự tự do hoàn toàn của những người con Thiên Chúa. Ngài là một "người tự do vượt bậc" đối với tội lỗi đối với cái chết, đối với ma quỷ và đối với lề luật. Tự do đối với tội lỗi là vì Ngài đã yêu thương trọn vẹn, chân thành và quảng đại, trong khi tội lỗi là sự từ khước yêu thương. Đối với cái chết vì Ngài sẵn sàng đón nhận nó để rồi sống lại hiển vinh thay vì né tránh, trốn chạy nó. Ngài đã tiêu diệt tên địch thù cuối cùng là tử thần (x. 1Cr 15,26) để hứa ban sự sống vĩnh hằng cho những ai tin vào ngài. Tự do đối với ma quỷ. Vì Ngài đã chữa trị bao nhiêu người bị quỷ ám, giải phóng họ khỏi những điều áp bức, bệnh tật mà ma quỷ gây nên cho con người.Tự do đối với lề luật vì Ngài đã đi sâu vào tinh thần yêu thương của mọi lề luật để dạy chúng ta tuân giữ. Luật tôn trọng sự sống chẳng hạn: không phải chỉ giết người mới phạm luật, nhưng những thái độ hờ hững lạnh nhạt, những lời nói đay nghiến, chỉ trích cũng đều đáng lên án vì gây tác hại đến sự sống của người khác.
Do đó, ngài mới quả quyết rằng: "Ai giận anh em mình thì cũng đáng bị đưa ra toà rồi". Luật pháp "cấm ngoại tình" nhưng tinh thần của lề luật ấy là muốn bảo vệ sự thanh khiết toàn vẹn của con người. Vì vậy Ngài mới dạy: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi". Rất nhiều khi chúng ta an tâm khi giữ đúng điều răn thứ 6 và thứ 9: không làm điều dâm dục, không muốn vợ chồng người. Nhưng chúng ta lại vẫn thích thú với sách báo, phim ảnh, câu chuyện tục tĩu, dâm ô. Chúng ta có lẽ đã quên tinh thần của các điều răn ấy.
b/ Giữ luật với tinh thần tự do và tình yêu. Do đó, để phát huy tự do của mình một cách trọn vẹn, chúng ta cần phải gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, hay nói đúng hơn và cụ thể hơn là ta hãy chọn Đức Giêsu và hành động theo lời dạy của Ngài. Đó là lẽ "khôn ngoan nhiệm mầu" của Thiên Chúa được thánh Phaolô nói đến trong bài đọc thứ hai ngày hôm nay.
Quả thật, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã chọn Ngài, đã thành một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Điều còn thiếu là chúng ta chưa hoàn toàn hành động theo lời dạy của Ngài: tất cả giới luật và dạy dỗ của Ngài chỉ quy về một điều duy nhất là: "Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em". Chính tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua nô lệ vào luật pháp để đạt tới tinh thần tự do của những con cái Thiên Chúa. Vì thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: "Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13, 8) và thánh Augutinô nhắc nhở: "Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn."
c/ "Mầu nhiệm của tự do". Ngày nay con người thường hiểu lầm về tự do, không phân biệt tự do tương đối với tự do tuyệt đối, nên đã lạm dụng tự do của mình. Con người đã muốn tách rời tự do ra khỏi tương quan cốt yếu và cơ bản của nó với sự thật và chuẩn mực luân lý. Do đó, đã gây nên bao tai họa khủng khiếp cho cá nhân và xã hội. Thí dụ: cụ thể là việc tự do muốn uống bao nhiêu rượu thì uống, dẫn đến tai nạn khi lái xe trong cơn say, cho đến những cuộc bạo động, chém giết, đập phá, cướp bóc nhân danh tự do đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Khi đi từ mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2, 7-8), chúng ta hiểu rằng: vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau đời sống của Đức Giêsu minh chứng rằng mầu nhiệm về tự do của con người là con đường vâng phục ý muốn của Chúa Cha bằng tình yêu của người con hiếu thảo: càng yêu thì càng muốn vâng phục, và càng vâng phục thì con người càng được tự do trong quyền năng của Thiên Chúa (x. Ga 10, 30;14, 11).
Kết luận:
Chúa Giêsu phục sinh là biểu tượng của sự tự do viên mãn, mà con người mơ ước vì Ngài cho chúng ta hiểu rằng, mình không còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian, thời gian và được sống như con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên để đạt được điều đó chúng ta cần phải trải qua khổ nạn và thập giá của sự vâng phục Chúa Cha như Đức Giêsu. Sự vâng phục đầy tình yêu như Ngài sẽ làm cho các luật lệ trở thành nhẹ nhàng và đem lại ơn cứu độ.
Các triết gia đã rút ra một kết luật thật chí lý cho rằng: Cuộc sống là một chọn lựa. Đúng như thế, ai trong TN 6-A59
Các triết gia đã rút ra một kết luật thật chí lý cho rằng: Cuộc sống là một chọn lựa. Đúng như thế, ai trong chúng ta cũng ít nhiều có những lúc phải đứng ở hai ngả đắn do: bước đi thì ngại trở về thì thương. Hầu như ông trời không cho con người thỏa mãn cả đôi đàng bao giờ, mà cứ đặt chúng ta ở cái thế, được bên này thì mất bên kia, chọn điều này thì phải bỏ điều kia. Có những chon lựa thật nhỏ bé dễ dàng như: chọn xay bột thì khỏi bồng em, nhưng cũng có những chọn lựa khó hơn vì nó động chạm đến trái tim của mình như khi quyết định kết hôn, chọn cưới cô chị thì buộc lòng phải bỏ cô em, cưới anh A thì phải tạm biệt anh B. Nhưng vẫn còn những chọn lựa khó hơn nữa đó là chọn một đường để đi, một lối sống để theo, một lý tưởng để dấn thân, thì đòi người quyết định phải chấp nhận hoàn toàn những điều kiện và đòi buộc đi kèm theo quyết định của mình.
Một khi đã quyết định chọn lựa một niềm tin, một tôn giáo thì dĩ nhiên chúng ta cũng phải chấp nhận hoàn toàn những đòi buộc của niềm tin tôn giáo ấy. Tuy nhiên dù đã quyết định và đã chọn, nhưng người ta vẫn bị cám dỗ tìm kiếm một điều gì đó dễ dãi hơn, một sự thay đổi nào đó có phần thoải mái hơn. Ví dụ người ta biết hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh viễn, thế nhưng người ta vẫn cứ tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự ràng buộc đó.
Ngày xưa những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng thế, họ tin Chúa theo Chúa, chấp nhận giới răn lề luật của Thiên Chúa, thế nhưng khi Đức Giêsu đến dạy cho họ một thái độ mới, một tâm tình thờ phượng mới, một tương quan mới cần phải có, thì họ chờ đợi một sự dễ dãi châm chước nào đó từ giáo lý của Chúa Giêsu. Chính vì thế hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các môn đệ: Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Biệt phái thì anh em sẽ không được vào Nước trời. Chúa Giêsu cho thấy việc bước theo con đường của Ngài là một đòi hỏi quyết liệt và triệt để, phải là sự chấp nhận từ bên trong được thể hiện ra bên ngoài, chứ không phải là sự chấp nhận miễn cưỡng, giả hình.
Chúa Giêsu không hứa hẹn cho những kẻ bước theo Ngài một lối sống thoải mái hay một cuộc sống dễ dãi hình thức, Chúa Giêsu đến không phải để hủy bỏ nền tảng đạo đức cũng như lề luật của Cựu Ước, nhưng Ngài đến để làm cho luật của cựu Ước nên hoàn hảo hơn. Vì thế việc tuân hành giới răn lề luật của Tin Mừng không chỉ là chu toàn mặt chữ, không chỉ chu toàn luật dạy làm điều lành tránh điều diều xấu, nhưng phải là một ý thức phát xuất từ lòng yêu mến Chúa và yêu mến anh em và ý thức mình là con Thiên Chúa, là mộn đệ của Đức Kitô. Các ngươi nghe bảo chớ giết người: Ai giết người thì bị đưa ra tòa. Còn Thày, Thày bảo anh em: Ai giận ghét anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa rồi. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu đòi người môn đệ phải chấp nhận một điều kiện cao hơn, là phải làm sao loại trừ được nguyên nhân đưa đến giết chóc bạo lực là sự giật ghét, vì thế Chúa Giêsu coi việc giận ghét anh em thì cũng là điều đáng trách rồi.
Cũng vậy, trong đời sống hôn nhân không phài chỉ là đòi buộc: Chớ ngoại tình, nhưng bất cứ ai nhìn xem người khác phái mà ước ao thèm muốn trong lòng thôi, thì đã là phạm tội rồi. Vì tội được bắt đầu từ suy nghĩ đến thèm muốn ước ao, sau đó mới đưa đến hành động. Như thế khi ngăn chặn được sự thèm muốn thì hành động sẽ không xảy ra. Cũng vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải có một lương tâm ngay thẳng, một đời sống thật thà từ trong suy nghĩ đến hành động, bụng nghĩ sao nói vậy, gạt bỏ khỏi mình tất cả sự gian dối. Khi mọi người sống và cư xử với nhau bằng sự chân thành ngay thẳng, thì người ta sẽ không cần phải thề thốt, không phải lấy bất cứ ai hay bất cứ sự gì để bảo đảm cho lời nói của mình, mà lấy chính phẩm giá, địa vị làm môn đệ của Chúa làm bảo chứng cho lời nói và hành động của mình.
Người đời thường dùng những lời lẽ hoa mỹ, những lời xảo trá để đánh lừa người khác và để đạt được mục đích cho mình, nhưng Thánh Phaolô cho biết, khi Ngài giảng dạy về giáo lý của Đức Kitô, Ngài không hề dùng những lý lẽ khôn ngoan xảo trá của thế gian và thủ lãnh của nó, trái lại Ngài chỉ giảng dạy một lẽ khôn ngoan duy nhất là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó chính là màu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa, Ngài muốn tiền định cho con người được chung hưởng vinh quang với Người. Vì Ngài đã tiền định cho con người được vinh quang, nên Ngài đã làm mọi cách để đem con người về với Ngài, kể cả việc cho Con của Ngài là Đức Giêsu đến để dẫn chúng ta về, và Đức Giêsu đã bị thế gian từ chối và đóng đinh Ngài trên thập giá. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận lề luật, huấn lệnh của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ, được vào chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.
Nhưng để được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đòi chúng ta phải có một quyết định chọn lựa dứt khoát hoặc là tin hoặc không tin, hoặc đón nhận hay từ chối Ngài. Sách Huấn Ca cũng đã căn dặn như thế: Nếu muốn thì các con hãy tuân giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp lòng Người. Trước mặt con là lửa và nước, là cửa sinh cửa tử, con muốn bên nào thì hãy đưa tay ra mà lấy. Chọn lựa đúng thì hạnh phúc mãi mãi, còn chọn lựa sai thì phải bất hạnh muôn đời.
Thưa quý OBACE, là Kitô hữu chúng ta thuộc về Chúa Kitô, có Chúa Kitô, thế nhưng nhiều người vẫn không có được một quyết tâm dứt khoát theo Ngài, người ta lưỡng lự đứng bên này và thèm muốn bến kia. Nhiều người theo Chúa, nhưng lại vẫn mang nếp sống của dân ngoại, thực hành những thói quen tin kiêng cúng bái của dân ngoại. Tin Chúa, nhưng nhiều người không dám phó thác cuộc đời và những lo lắng tương lai cho Chúa, mà họ vẫn tin và tìm kiếm tương lai của mình nơi những thày bà bói toán, nhất là nhiều người đã bỏ qua giới răn lề luật của Thiên Chúa, không sống và thực hành giới răn yêu thương, nhưng sống thù hằn gian dối với nhau.
Trong đời sống hôn nhân gia đình, nhiều cặp vợ chồng đã cố tình hủy bỏ hoặc làm sứt mẻ sự thánh thiêng của giao ước hôn nhân, sống buông thả ngoại tình. Trước mặt Chúa và Giáo Hội trong ngày thành hôn, họ cam kết và thề hứa chu toàn kế ước hôn nhân, sinh sản và giáo dục con cái theo luật Chúa và giáo Hội, nhưng nhiều người hầu như đã không còn nhớ đến lời thề ấy, họ không dám đón nhận con cái Chúa ban, và còn tìm mọi cách để loại trừ chúng, nhiều người khác đã không quan tâm đủ đến việc giáo dục đức tin cho con cái, để con cái mình lớn lên trong sự thiếu hiểu biết về giáo lý, về Chúa Kitô và giới răn của Người.
Trong đời sống thường ngày, mang danh là con Chúa là người Công Giáo, nhiều người cũng gian dối xảo trá không khác gì con cái của thế gian của ma quỷ, tìm cách lừa lọc lẫn nhau, sống gian tham lỗi đức công bằng, khiến cho người ta không tin, mà còn dị ứng với chúng ta nữa. Hãy số gắng sống làm sao để cho mọi người thấy việc chúng ta chọn Đức Giêsu và giới răn của Ngài đem đến cho chúng ta hạnh phúc ngay ở đời này, và là động lực thúc đẩy chúng ta sống chân thành ngay thẳng, dễ thương dể mến trước mặt anh em.
Chắc chắn chọn Chúa và giới răn của Ngài, không phải chúng ta tìm kiếm một sự dễ dãi, nhưng là một chọn lựa đem đến cho chúng ta một phẩm giá, địa vị cao quý, đó là chúng ta được làm con Thiên Chúa. Chọn lựa này luôn là một thách thức cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, biết chọn để làm theo ý Chúa, và chọn sống xứng đáng là người được Chúa yêu thương và tiền định cho hưởng Nước Trời. Amen.
Trong cuộc sống, dù muốn hay không muốn, tất cả chúng ta đều phải tuân giữ luật pháp. Tuân giữ luật TN 6-A60
Trong cuộc sống, dù muốn hay không muốn, tất cả chúng ta đều phải tuân giữ luật pháp. Tuân giữ luật pháp, pháp luật sẽ bảo vệ chúng ta. Coi thường luật pháp, pháp luật sẽ trừng trị chúng ta. Nhìn chung, luật pháp có ba loại: 1. Luật Thiên định: Do Thiên Chúa thiết lập, như Mười điều răn của Thiên Chúa và luật một vợ một chồng và bất khả phân ly. 2. Luật thiết định: Do con người làm ra, như hiến pháp của mỗi quốc gia, luật của Giáo hội.v.v. Luật này có thể thay đổi với thời gian 3. Luật tự nhiên: Do Thiên Chúa đặt để nơi mỗi người chúng ta. Tôi sinh ra là người Nam hay người Nữ, thì tôi phải sống theo đúng với giới tính của mình. Đoạn Tin mừng hôm nay đề cập về luật do con người làm ra. Chúng ta sẽ tìm hiểu hai vấn đề: 1. Kiện toàn luật cũ. 2. Đức công chính mới của Chúa Giêsu.
1. Kiện toàn luật cũ
Câu chủ yếu của chủ đề này được tóm tắt qua Lời Chúa phán: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5, 17). Kiện toàn là làm cho nó nên hoàn hảo hơn. Muốn biết luật cũ được kiện toàn như thế nào, Chúa Giêsu đã nêu ra bốn trường hợp:
Từ luật: “Không được giết người”, Chúa bảo chúng ta không được phẫn nộ và rủa sả anh em mình (Mt 5, 22).
Từ luật: “Chớ ngoại tình”, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ những ước muốn thầm kín bên trong (Mt 5, 27).
Từ luật: “Cho phép ly dị”, Chúa bảo chúng ta không được ly dị, trừ trường hợp tà dâm (Mt 5, 32).
Từ luật: “Chớ thề gian”, Chúa bảo chúng ta đừng thề chi cả. “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).
Qua bốn điều luật có tính cách tiêu cực trên, Chúa có ý nhắn nhủ chúng ta: Tội lỗi không chỉ thể hiện bằng những việc làm bên ngoài, nhưng nó bắt nguồn từ những ước muốn bên trong của mỗi người. Theo định luật tâm lý: “Có tư tưởng, thì mới có hành động. Tư tưởng càng rõ rệt, thì hành động càng có kết quả”. Trong việc kiện toàn luật cũ, Chúa khuyên chúng ta đừng giữ đạo có tính cách tiêu cực và hình thức bề ngoài, nhưng cốt yếu là thay đổi não trạng, tâm tình và ý hướng bên trong. Ý hướng tốt, thì việc làm đó sẽ tốt, ý hướng xấu, thì việc làm đó sẽ xấu. Hai người cùng bố thí trong đền thờ, Chúa đã khen cách cho của bà góa nghèo, vì bà cho vì lòng yêu mến, còn người giàu có cho vì khoe khoang (Mc 12, 41-44).
Qua việc kiện toàn luật cũ, Bernard HURAULT và Louis HURAULT đã giải thích: “Đạo của Cựu Ước là một giai đoạn tạm thời, nhưng cần thiết trong lịch sử cứu độ. Cũng như các lời ngôn sứ phải được hoàn thành, thì cũng vậy, nhưng lễ nghi và lễ tế của thời Cựu Ước diễn đạt cách nào đó mầu nhiệm tội lỗi và lòng thương xót, cũng phải được hiểu dưới ánh sáng, mà Chúa Giêsu đem lại”. (Bản dịch do Nhóm phiên dịch các giờ kinh Phụng vụ, tr 1590). Muốn biết rõ luật mới của Chúa như thế nào, chúng ta hãy tìm hiểu đức công chính mới của Chúa Giêsu.
2. Đức công chính mới của Chúa Giêsu
Chủ đề đức công chính mới của Chúa Giêsu được tóm gọn trong lời Chúa phán: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Sau khi kiện toàn luật cũ thời Cựu Ước, Bernard HURAULT và Louis HURAULT đã giải thích thêm: “Việc giữ các lề luật trong Kinh Thánh, tự nó không phải là cùng đích. Đó là cách biểu hiện tình thương đích thực và là những tay vịn cho khỏi sẩy chân. Nhờ tuân theo luật, chúng ta sẽ ở trong trạng thái sẵn sàng tùng phục Chúa Thánh Thần để đi xa hơn luật. Như vậy, chúng ta sẽ khám phá một sự công chính còn hoàn hảo hơn sự công chính, mà các nhà thông luật thời Chúa Giêsu, là các kinh sư và người Pharisêu, đòi hỏi” (Bản dịch do Nhóm phiên dịch các giờ kinh Phụng vụ, tr 1590).
Sự công chính, mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các Luật sĩ và Biệt phái ngày xưa và chúng ta ngày nay không chỉ giới hạn trong việc tuân giữ cách máy móc các hình thức của luật pháp, nhưng thể hiện với niềm tin và tình yêu. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Dù anh em ăn, uống hay làm bất kỳ công việc gì, anh em hãy làm cho sáng danh Chúa, làm vì lòng yêu mến Chúa” (I Cor 10:31). Qua bài đọc I, tác giả sách Đức Huấn Ca cũng đã khuyên chúng ta hãy hành động cách tự nguyện: “Nếu ngươi muốn, ngươi hãy tuân giữ những giới luật của Ta. Việc trung thành là tuỳ ở nơi ngươi. Trước mặt ngươi là sự sống và sự chết, ngươi có thể tuỳ nghi lựa chọn” (Hc 15, 15-16).
Thế nhưng, biết là một chuyện, còn làm được hay không, lại là chuyện khác. Kể từ khi có trí khôn cho đến giờ phút này, biết bao nhiêu lời hay, lẽ phải từ nơi ông bà, cha mẹ, các vị lãnh đạo các tôn giáo và sách báo phim ảnh răn khuyên chúng ta. Thế nhưng, có mấy ai thực hiện được. Chỉ những ai được Chúa ưu ái tuyển chọn, ban ơn và sai đi thực hiện chương trình của Người. Qua bài đọc 2, thánh Phaolô cũng nhắc lại điều đó: “Sự mắt chưa từng thấy, và tai chưa từng nghe và lòng người chưa từng mơ ước tới. Đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người” (1Cr 2, 9).
Quý cộng đoàn thân mến, cha mẹ nào cũng hết lòng yêu thương con và luôn tạo điều kiện thuận lợi, để cho con cái mình nên người. Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Điều quan trọng là chúng ta có muôn cộng tác với Người hay không mà tôi. Trong cuộc sống, dù muốn hay không muốn, chúng ta phải tuân giữ luật của Chúa, của Giáo Hội và của Xã hội, thì luật pháp sẽ bảo vệ chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta đừng giữ luật vì luật, nhưng hãy giữ luật vì tình yêu. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Trên hết mọi đức tính, anh em hãy có đức yêu thương. Đó là dây ràng buộc điều thoàn thiện” (Col 3, 14). Amen.
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì không được vào Nước Trời”
Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ VI thường niên mời gọi chúng ta sống công chính để TN 6-A61
Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ VI thường niên mời gọi chúng ta sống công chính để được vào Nước Trời. Tuy nhiên không phải bất cứ thứ công chính nào mà phải là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” mới được hưởng hạnh phúc đó. Thế nào mới là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu”?
Trong thời Chúa Giêsu, các kinh sư và người Pharisêu tuy thuộc hai nhóm khác nhau nhưng rất nhiều kinh sư cũng đồng thời thuộc nhóm Pharisêu (Cv 23,9) như ông Ga-ma-li-ên (Cv 5,34), hoặc phần lớn ủng hộ lập trường của nhóm Pharisêu. Theo Phúc Âm kể lại, những kinh sư và người Pharisêu thường đứng chung một phe để chống lại Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu khi lên án người Pharisêu cũng gộp chung cả giới kinh sư vào một nhóm (Mt 23; Lc 11,37-53).
Các kinh sư và người Pharisêu là những người chuyên môn am hiểu Kinh Thánh; họ chuyên giải thích và áp dụng luật Môsê, một hệ thống luật chi li phức tạp mà ngoài họ ra, không mấy ai dám nói mình thông thạo. Càng ít người hơn dám nói mình chu toàn đầy đủ những khoản luật đó. Thế mà họ thì dám. Họ dám tự hào mình là những người tự hào mình là người công chính (Lc 18,9-14). Phúc Âm thánh Luca, khi nói về ông bà Dacaria và Êlisabét là “người công chính trước mặt Thiên Chúa” đã mô tả đó là những người “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Nói về công chính, các kinh sư và người Pharisêu phải được kể là những nhà quán quân. Không những họ giữ mọi điều răn giới luật “không ai chê trách được điều gì” mà còn làm hơn những gì luật đòi hỏi nữa.
Giữ luật được bằng họ đã khó, thế mà Chúa Giêsu gọi họ là “những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời” (Lc 16,14) và còn yêu cầu phải công chính hơn họ mới được vào Nước Trời. Sự “công chính hơn” mà Ngài yêu cầu đó hệ tại điều gì? Cách giữ luật của các kinh sư và người Pharisêu không được Chúa Giêsu coi là công chính mà trái lại còn bị Ngài lên án là giữ luật theo hình thức bên ngoài, để tìm kiếm hư danh, chú trọng những tiểu tiết mà bỏ qua điều cốt yếu, hoặc thậm chí chỉ nói mà không thực hành (x. Mt 23,1-32; Lc 11,37-48). Vậy muốn công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì các môn đệ Chúa Giêsu phải tránh được những sai lầm mà họ đã vấp phải. Chúa Giêsu đối chiếu cho chúng ta những phương diện khác nhau giữa cách giữ luật của người Pharisêu và cách giữ luật như Chúa dạy để chúng ta biết thế nào là “công chính hơn”.
Trước tiên để trở nên “công chính hơn”, Chúa dạy phải giữ luật với cả tấm lòng, từ tận đáy lòng và là tấm lòng yêu mến. Quả thật khi giận ghét, người ta muốn loại trừ kẻ khác ra khỏi ý thức của mình, và hành vi giết người chính là đẩy tư tưởng đó trở thành hành động loại trừ sự hiện diện của người khác khỏi cuộc sống dương gian này. Vì thế, nếu chúng ta khử trừ khỏi tâm hồn chúng ta lòng giận ghét thì có thể nói chúng ta đã khử trừ tận gốc rễ hành vi giết người. Để trở nên “công chính hơn” Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.” Cũng thế, để khỏi ngoại tình bằng hành động, trước tiên phải loại bỏ những ước muốn ngoại tình trong tư tưởng đã.
Mặt khác điều làm cho chúng ta nên công chính không phải là công việc chúng ta làm mà là do tác động của ân sủng Chúa thánh hoá chúng ta. Chính Thiên Chúa là nguyên lý và xác định chuẩn mực cho cuộc sống của chúng ta từ tư tưởng, cho đến lời nói và việc làm. Chính vì thế, Chúa dạy ‘trọn lời thề với Thiên Chúa” và “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Và trên hết, “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” có nghĩa là công chính như Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Giêsu Kitô. Khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu đóng đinh chịu chết trên thập giá viên đội trưởng Rôma đã tuyên xưng: “Người này đích thực là người công chính” (Lc 23,47). Sự công chính được trọn vẹn nơi Chúa Kitô hiến thân mình chịu chết để đền bù tội lỗi cho nhân loại.
Nói tóm lại sự công chính mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài là sự công chính có nền tảng và động lực nơi chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, sự công chính ấy phải phát xuất từ tâm hồn con người, được thực hiện với tình yêu mến trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Một cách cụ thể, để “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” chúng ta không chỉ giữ luật Chúa bằng công việc hình thức bên ngoài mà giữ với lòng yêu mến Chúa, giữ luật không vì lý do nào khác ngoại trừ vì Chúa muốn như thế, và để làm đẹp lòng Chúa. Và nhất là sự công chính cao cả nhất chính là noi theo và kết hợp với mẫu gương của chúng ta là Chúa Giêsu tự hiến thân mình để đền bù tội lỗi qua việc chính chúng ta cũng biết hy sinh quên mình và phục vụ anh chị em trong tinh thần khiêm tốn.
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng được Chúa Giêsu tiếp tục TN 6-A62
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng được Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: "Các con đã nghe bảo... Còn Thầy, Thầy bảo các con ". Vậy nghe bảo gì, và Chúa Giêsu bảo các môn đệ mình ra làm sao ?
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước "Mắt đền mắt, răng đền răng " ( Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: "Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!" (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật "Mắt đền mắt, răng đền răng" (Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác" (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta "đưa má bên kia cho nó nữa," là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thế. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình sự hiệp thông trong tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ". (Mt 5, 44)
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: "Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại - người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau. Chúng ta có kẻ thù, đó là một thực tế.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái Cha các con ở trên trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Nếu chúng ta sống lời dạy Chúa Giêsu, chúng ta lại tìm thấy lời mời gọi trên đây với cùng một mức độ mãnh liệt, Ngài nói: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-no từng viết: "Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người" (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành "như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành"(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, những Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
Vua Cản công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đến ăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ TN 6-A63
Vua Cản công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đến ăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ của ông, Vua liền hỏi: - Phu nhân đấy phải không?
Án Tử thưa: - Vâng, phải đấy!
Vua nói: - Ôi ! người trông sao vừa già, vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
Án Tử đứng dậy, thưa rằng: - Phu nhân tôi vừa già, vừa xấu nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, từ lúc còn trẻ đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già; lúc đẹp cốt để nhờ cậy lúc xấu. Phu nhân tôi thường nhờ cậy tôi và tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều phu nhân tôi đã cậy bấy lâu nay!
Nói đoạn, Án Tử lạy hai lạy, xin chối từ không nhận người con gái xinh đẹp của Vua.
***
Con người biết giữ lòng thủy chung như Án Tử thật đáng quý biết bao. Còn đáng khâm phục hơn nữa, khi chính ông quyết chối từ một sự mời mọc quá hấp dẫn. Ông đã dứt khoát tiêu diệt cơn cám dỗ ngay từ trong trứng nước. Cao quý thay tình nghĩa phu thê mặn nồng!
Trong bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã kiện toàn luật trong sạch của đời sống hôn nhân: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: chớ ngoại tìn. Còn thầy, thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27). Có những con mắt không nhìn thấy vẻ đẹp nơi người yêu của mình, mà chỉ thấy nét đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Đôi mắt là cánh cửa tâm hồn. Và tội lỗi cũng đi vào từ đó. Cho nên, luật cũ dạy “chớ ngoại tình”, còn Đức Giêsu, cấm ngay từ sự thèm muốn vừa nhen nhúm trong lòng. Vì “ý tưởng dẫn tới hành động”, nên tự bản chất cưu mang ý tưởng xấu là đã phạm tội rồi.
Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì coi như đã phạm tội giết người. vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình. Tuy chưa giết họ thật sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim mình rồi. Thánh Gioan viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15).
Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”, còn Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả”. Lời nói tự nó phải có một giá trị. Vì thế, “Hễ có thì phải nói có, hễ không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Cả 3 khoản luật trên đây đã được Đức Giêsu “kiện toàn” và làm cho nên “mới”.
- “kiện toàn” vì nó đòi hoi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bhan hơn và đạo đức hơn. Nói cách khác, vì nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương.
- “mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bên ngoài, mà phải tỏ thiện chí từ bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Luật mới mà Đức Giêsu kiện toàn thật tuyệt vời, nhưng lại đòi hỏi quá nhiều, quá khó, quá sức con người. Tuy nhiên, Người lại bảo: “Nếu anh e m không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Các kinh sư và nhóm Pharisêu tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật. Đức Giêsu trái lại, Người cho rằng chỉ nhờ ơn Chúa con người mới được nên công chính. Người công chính là người luôn mau mắn thi hành thánh ý Chúa, mà thánh Chúa bao giờ cũng tốt lành và luôn hữu ích cho phần rỗi con người. Không một thánh ý nào của Người mà không phát xuất từ tình yêu. Nên cho dù Người có đòi hỏi gắt gao cũng là để mang lại hạnh phúc cho họ mà thôi.
Hãy cố gắng hết khả năng với tất ả thiện chí, phần còn lại là cha Chúa. Người đã hứa với Phao lô: “ơn của Thầy đủ cho con” (2Cr 12,9). Với ơn Chúa chúng ta sẽ làm được tất cả. Thánh Phao lô nói: “Tôi làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh tôi” (Pl 4,13).
***
Lạy Chúa, Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin thanh luyện lòng trí chúng con. Giữa một thế giới thù hận ganh ghét, xin hoán cải con tim chúng con. Giữa một thế giới lọc lừa gian dối, xin gìn giữ miệng lưỡi chúng con. Như đóa hoa sen trong đầm lầy, xin bảo vệ tâm hồn chúng con luôn thanh khiết. Amen.
Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt về giáo huần của Ngài. Chúa Giêsu TN 6-A64 Dalat
Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt về giáo huần của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để kiện toàn các lề luật mà các Kinh sư, Pharisêu cho rằng Ngài phá đổ lề luật của Môsê, của cha ông, tổ tiên. Không, Chúa đến không phải để phá đổ nhưng để kiện toàn các lề luật dựa trên luật đức ái, yêu thương. Đối với Chúa, giới luật yêu thương, đức ái là chủ đạo trong giáo lý của Ngài. Đối với Chúa, đức ái không cho phép con người giận nhau, chửi nhau, tranh chấp, hận thù, ghen ghét nhau, không được ngoại tình dù chỉ trong tư tưởng.Đức ái cao độ, tuyệt hảo không cho phép người môn đệ Chúa ăn gian, nói dối, lọc lừa, phỉnh gạt mà họ luôn phải 000sống theo sự thật.
Thiên Chúa tạo dựng con người, sáng tạo vũ trụ, Ngài ban cho con người lý trí để biết phân biệt điều lành, điều dữ, cái phải, cái trái. Ngài còn cho con người ý chí để tự quyết định điều được làm và điều không được làm. Thiên Chúa yêu thương đã cho con người quyền tự do để quyết định làm điều tốt, tránh điều xấu. Tuy nhiên, ma quỷ ngay từ đầu đã cám dỗ ông bà tổ tiên Ađam-Evà làm điều cấm, phản nghịch lại Thiên Chúa là Đấng yêu thương ông bà. Do đó, trong cuộc sống hằng ngày, ma quỷ vẫn xúi giục, cám dỗ con người, đẩy con người xa sự thật, ma quỷ vẫn lợi dụng con người bản chất yếu đuối, lôi kéo con người sa vào cạm bẫy, ham mê xác thịt, dục vọng, tiền tài, chức tước, nên nhiều khi con người không dám nói sự thật, không dám sống sự thật, mà lại lọc lừa, gian dối, phỉnh gạt. Tất cả những điều xấu mà đoạn Tin mừng của thánh Matthêu kể ra như “ không sống công chính, giết người, giận anh em, chủi bới anh em, mắng anh em là đồ ngốc, đồ khùng, ngoại tình, nhìn người phụ nữ ham muốn điều xấu, bội thề vv…” đều là do ma quỷ. Thực tế, tất cả những điều xấu này làm cho con người sống theo giả trá, sống theo ma quỷ bởi vì ma quỷ sống dối trá, phỉnh gạt. Chúng là cha của sự giả dối…
Chúng ta đang sống trong một thế giới với những văn minh phát triển tột bậc, nhưng thế giới này vẫn đan xen vàng thau lẫn lộn, ánh sáng và bóng tối, điều lành và điều dữ, sự thật và dối trá. Thiên Chúa luôn dạy con người phải sống công chính. Chúng ta không được bắt chước thói hư nết xấu của Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái. Bởi vì họ giả đạo đức, nhưng lòng họ đầy bẩn thỉu, đầy gian tham…Họ chất trên vai người khác những gánh nặng, nhưng chính họ lại không dám đưa ngón tay lay thử. Họ nới dài tua áo, thẻ kinh rỏng rẻng…Họ làm ra những thứ luật tỉ mỉ, chi li và bắt người khác giữ mà chính họ lại không giữ vv…Họ sống giả hình, là hiện thân của ma quỷ.
Thánh Phaolô đã viết:” Anh em hãy mặc lấy Đức Kitô “. Mặc lấy Đức Kitô nghĩa là sống con người mới, con người công chính, thánh thiện bởi vì Chúa là Đấng tuyệt đối thánh, thánh ba lần thánh. Tin mừng của Đức Giêsu là làm chứng cho sự công chính, thánh thiện, làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót. Chúa mời con tất cả môn đệ của Người hãy bắt chước Người làm chứng cho sự thật. Chính vì sống cho sự thật, làm chứng cho sự thật mà Đức Giêsu đã bị người Do Thái, bị Philatô kết án bất công. Philatô đã nói với Chúa:” Sự thật là gì ? “. Philatô đang đứng trước Chúa Giêsu là sự thật nhưng ông không nhận ra sự thật. Cái bi đát là thế ! Chính vì dám nói lên sự thật với Hêrôđê không được lấy vợ của anh mình, Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu…
Chúa Giêsu luôn kêu gọi chúng ta sống như Người, làm chứng cho sự thật trong mọi trạng huống của cuộc đời ngay cả khi phải hy sinh tính mạng như các tông đồ, như các thánh tử đạo vv…Giáo Hội cũng luôn mời gọi mọi Kitô hữu phải sống và làm chứng cho sự thật giữa một thế giới còn nhiều khiếm khuyết, bất toàn…
Lạy Chúa Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót, Đấng là Sự thật, là Chân lý, là Sự sống, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con can đảm sống sự thật, làm chứng cho sự thật như Ngài đã sống, đã chết cho sự thật. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sự thật là gì ? 2.Tại sao chúng ta phải bảo vệ sự thật ? 3.Ma quỷ là cha của sự gì ? 4.Tại sao lại gọi ma quỷ là cha của sự dối trá ? 5.Chúa mời gọi chúng ta phải làm gì ?
"Thiên Chúa ban cho con người sự sống và sự chết, con người có quyền lựa chọn thích thứ nào thì được thứ ấy" (Hc 15, 17 ).
Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng TN 6-A65
Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 , 9 ). Chúng ta không "quyết định" chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: "Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi". Đây là Tin Mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, Người chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4 ) . Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người: "Sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người " (x. 1 Cr 2, 6-10) .
Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến "kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, khác với "sự khôn ngoan của thế gian" (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta.
Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ "quyền lợi" cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu" (Mt 5, 20). Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?
Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: "Các con đã nghe người xưa nói rằng... ", rồi Ngài khẳng định: "Còn Thầy, thầy bảo các con... ". Chẳng hạn: "Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa" (x. Mt 5,21-22). Và sáu lần như vậy. Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là: trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: "Yêu thương là chu toàn Lề Luật" (Rm 13,10).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn: "Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục" (Mt 5,29-30). Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?
Thánh Phaolô nói: "lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người" (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, "Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người" ( Hc 15, 19 ) ; "Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng" ( Lời nguyện nhập lễ ).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau ? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: "khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ" (Mt 5,23-24). Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?
Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen. -------------------------------------
Lề luật là phương tiện giúp chúng ta làm đúng và sống tốt, chứ không phải là cùng đích. Một khi người ta TN 6-A66
Lề luật là phương tiện giúp chúng ta làm đúng và sống tốt, chứ không phải là cùng đích. Một khi người ta quá câu nệ vào lề luật thì việc tuân thủ lề luật sẽ trở thành gánh nặng. Thiên Chúa là Đấng ban Lề Luật cho chúng ta qua việc Người phán dạy. Thư gửi tín hữu Do-thái khẳng định điều này: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Do-thái 1:1-2). Những điều Chúa phán dạy, tức Lề luật của Chúa được ghi chép lại trong Sách Luật và Các Ngôn sứ, trình bày “lẽ khôn ngoan” của Người. Nhưng Thiên Chúa lại ban cho chúng ta một lẽ khôn ngoan bằng xương bằng thịt là Chúa Giê-su Ki-tô, để làm sinh động bộ luật đã được ghi trên bia đá hay trong sách vở. Ngày xưa người ta sống theo Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ. Còn “vào thời sau hết này”, chúng ta sống theo Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người. Đó là điều Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn trình bày.
Chúng ta có hai giao ước, cũ và mới. Chúng ta cũng có hai bộ luật, Luật Mô-sê và Luật của Chúa Giê-su. Giao ước cũ không bị bãi bỏ, nhưng vẫn là nền tảng để Thiên Chúa thiết lập giao ước mới. Cũng vậy, luật cũ tuy vẫn được duy trì, nhưng luật mới được ban hành là để bổ túc và kiện toàn cho luật cũ trong cách giải thích và thực hành. Chính trong ý nghĩa đó mà Chúa Giê-su đã tuyên bố: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.
Thánh Phao-lô, khi suy tư về sự ưu việt của Chúa Giê-su (Luật Mới) vượt trên ông Mô-sê (Luật cũ), đã gọi Chúa Giê-su là “lẽ khôn ngoan” của Thiên Chúa: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người”. Nhận định này cũng đã được sách Huấn ca nói lên từ trước: “Vị trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao… Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người”. Như vậy sách Huấn ca và thư 1 Cô-rin-tô mời gọi chúng ta hãy lắng nghe lời giảng của Chúa Giê-su nói về vai trò ban Lề Luật của Người: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” Bài Tin Mừng hôm nay đan cử một vài thí dụ về lời dạy trích từ bộ luật sống là Chúa Giê-su. Trước hết về luật giết người. Luật xưa chú trọng đến việc giết thân xác; nhưng luật của Chúa Giê-su còn nhấn mạnh đến cách giết vô hình, tức giết bằng sự giận dữ, mắng chửi người khác nữa.
Về hận thù: luật xưa nói đến việc đem nhau ra tòa để tìm sự công bằng; còn luật của Chúa Giê-su khuyên chúng ta hãy làm hòa với nhau trước khi làm việc thờ phượng đạo đức, chứng tỏ việc làm hòa còn cần thiết và cao trọng hơn cả việc đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ! Về việc ngoại tình: luật xưa đề cập tới hành vi ngoại tình, hễ bị bắt quả tang là bị ném đá đến chết; còn luật mới nói đến cả thứ tội thèm muốn trong tâm hồn nữa, không những phải tránh tội mà còn phải tránh cả dịp gây nên tội nữa. Dĩ nhiên chúng ta còn gặp thấy rất nhiều cách trình bày mới mẻ khác của Đấng đã nghiêm túc phán rằng: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” Như thế là chúng ta hiểu được phần nào cách Chúa Giê-su đã “kiện toàn” Luật Mô-sê thế nào rồi! Kiện toàn qua cách chú trọng tới tận gốc rễ sâu xa của vấn đề. Kiện toàn bằng cách nhấn mạnh đến tinh thần của việc tuân thủ lề luật, để lề luật không phải là cứu cánh, nhưng là phương tiện giúp chúng ta nên trọn lành. Quan trọng nhất, đó là kiện toàn trong cách sống lề luật, để lề luật giúp chúng ta chiếu tỏa căn tính đích thực của những người con Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hôm nay chúng ta đã nghe lời sách Huấn ca dạy: “Thiên Chúa không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. Nghĩa là Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy sống lề luật để “nên thiện hảo như Cha anh em trên trời là Đấng thiện hảo”. Làm sao chúng ta có thể thực hiện được điều nói trên? Đơn giản thôi. Chúng ta hãy tìm “lẽ khôn ngoan” của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô. Trong trường học Giê-su, chúng ta sẽ gặp được “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới…” Chúng ta hãy lắng nghe và thực hành tất cả những điều mà “Thầy bảo cho anh em biết” sẽ dạy dỗ chúng ta!
Có lẽ khó có thể định nghĩa đầy đủ về cuộc sống hoặc cuộc đời, nhưng ai cũng cảm nghiệm rất cụ TN 6-A67 Ephata
Có lẽ khó có thể định nghĩa đầy đủ về cuộc sống hoặc cuộc đời, nhưng ai cũng cảm nghiệm rất cụ thể và “trọn vẹn” ở một mức độ nào đó. Người ta nói “đời là bể khổ”, cách nói này có thể tiêu cực hoặc tích cực theo tầm nhìn của mỗi người – để bi quan yếm thế hoặc để nỗ lực sống tốt.
Cuộc sống trần gian vốn dĩ bình thường nhưng lại rất phức tạp, vì thế cần phải biết đơn giản hóa cuộc sống để vượt qua chính mình và vượt qua tất cả mọi sự đời. Đó là cách “buông thả” để tự giải thoát mình khỏi mọi thứ rắc rối – buông thả chứ đừng buông xuôi. Tỷ phú Bill Gates ( “cha đẻ” của Microsoft, sinh năm 1955 ) nhắn nhủ: “Đừng so sánh mình với bất cứ ai trên thế giới này. Nếu bạn tự so sánh như vậy tức là bạn sỉ nhục chính mình. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó”. Một câu nói đáng để chúng ta “vắt tay lên trán” mà suy nghĩ lắm.
Không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người tuyệt vọng vì hoàn cảnh. Thượng Đế khép lại cánh cửa này thì lại mở cánh cửa khác để người ta tiếp tục sống. Thượng Đế rất công bằng. Chúng ta không có quyền chọn nơi sinh nhưng chúng ta có quyền chọn cách sống. Hãy cứ là chính mình, có thể cuộc sống của chúng ta không có gì nổi trội, rất ư bình thường nhưng vấn đề là đừng sống tầm thường. Đó là sự tự do mà Thiên Chúa đã trao ban cho mỗi chúng ta.
Sách Huấn Ca có đề cập sự tự do của con người, với cách đặt vấn đề giản dị và tự nhiên: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” ( Hc 15, 15 ). Chữ “nếu” xem chừng đơn giản mà lại phức tạp, ngắn gọn mà dài lê thê. Tác giả sách Huấn Ca nói cụ thể: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó” ( Hc 15, 16-17 ). Muốn gì, cứ lấy; thích gì, được nấy. Trong cuộc sống hằng ngày, người Việt cũng thường nói: “Thích thì chiều”. Vừa khôi hài, vừa nghiêm túc. Đó là cách đề cập sự tự do. Sự tự do quý giá, nhưng con người phải trả giá cao về cách chọn lựa của mình. Quả là gay go thật !
Gọi là tự do nhưng cũng có giới hạn, trong “phạm vi tự do” đúng nghĩa – tức là tự do làm điều tốt mà thôi. Trong cuộc sống, cái gì cũng có lý do riêng và mang tính đặc thù. Kinh Thánh lý giải: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người KHÔNG truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng KHÔNG cho phép ai phạm tội” ( Hc 15, 18-20 ).
Xử dụng quyền tự do để làm điều ác thì sẽ nhận phần đau khổ, sử dụng quyền tự do để làm điều tốt thì sẽ nhận phần hạnh phúc. Người ta cũng nói là “ác giả, ác báo” hoặc gọi là “luật nhân – quả”. Luật Chúa là những gì rất tự nhiên, rất bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người” ( Tv 119, 1-2 ).
Cuộc sống là chuỗi ngày tháng tìm kiếm Chúa. Tìm thì sẽ gặp, gặp Ngài qua việc tuân giữ Thánh Luật. Ngài vẫn “hóa trang” thành những con người nghèo khổ trong cuộc sống đời thường. Tác giả Thánh Vịnh vẫn luôn tâm niệm: “Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh, truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn. Ước mong sao con hằng vững bước theo thánh chỉ Ngài ban” ( Tv 119, 4-5 ). Ước mong sao các Kitô hữu cũng luôn tâm nguyện như vậy để làm chứng về Thiên Chúa và cũng là cách sống thánh giữa cuộc đời này.
Chính nhân còn sai lầm mỗi ngày bảy lần, huống chí phàm phu tục tử, vì thế mà luôn cần ơn tha thứ của Thiên Chúa: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” ( Tv 119, 17-18 ). Thật là không dễ hoàn thiện khi còn bị giằng co giữa tinh thần và xác thịt, sơ sảy một chút là “chết chắc”. Biết vậy không phải là để buông xuôi mà là để cố gắng, và không ngừng tự nhủ: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” ( Tv 119, 33-34 ).
Thông minh không phải để tự tôn hoặc làm điều gì khác người, mà là để “hết lòng tuân giữ Thánh Luật của Thiên Chúa”. Đó là sống khôn ngoan, cách sống này cần thiết lắm. Salômôn đã thực sự khôn ngoan khi ông chỉ xin ơn khôn ngoan. Ai tuân giữ Luật Chúa là người khôn ngoan, như Kinh Thánh xác định: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là KHÔN NGOAN và THÔNG MINH” ( Đnl 4, 6 ). Cách sống khôn ngoan cũng là cách sống thông minh, thật kỳ diệu về mối liên quan này.
Đề cập sự khôn ngoan, Thánh Phaolô phân tích: “Điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” ( 1Cr 2, 6-7 ). Thiên Chúa quan phòng và tiền định mọi sự, nhưng Ngài tiền định điều tốt, sự lành, chứ Ngài không ấn định sự dữ, điều ác. Thuyết Nhị Nguyên ( Dualism ) và các thuyết liên quan (như Albigensianism, Manichaeism, Priscillianism, …) là các tà thuyết đối lập với Thiên Chúa, và trái ngược với Công giáo.
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá. Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” ( 1Cr 2, 8-10 ). Cách thức của Thiên Chúa luôn trái ngược với cách thức của phàm nhân: Không mà Có, Yếu mà Mạnh, Dốt mà Giỏi, Nhỏ mà Lớn, Thua mà Thắng, Chết mà Sống,…
Thiên Chúa khác hẳn đối với chúng ta về mọi thứ. Chúng ta cứ tưởng thế này rồi áp đặt hoặc khinh chê người khác, vì chúng ta suy diễn theo cách của mình, thậm chí có khi còn áp đặt cả đối với Thiên Chúa. Ngài cũng phải “chịu đựng” cái thói suy diễn của chúng ta lắm đấy.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 5, 17-37 ) có năm vấn đề – tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ và hàm súc, tất nhiên là cũng “chói tai” nữa.
– Vấn đề thứ nhất về Lề Luật. Chúa Giêsu đến để kiện toàn luật Môsê nhưng chúng ta lại cứ tưởng Ngài đến để phá bỏ Lề Luật cũ. Chính Ngài đã xác định: “Trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” ( Mt 5, 18 ). Và Ngài kết luận: “Ai bãi BỎ dù chỉ là MỘT trong những điều răn NHỎ NHẤT ấy và DẠY người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” ( Mt 5, 19 ). Chúa Giêsu xác định rõ ràng như vậy, nhưng trong thự tế đời thường vẫn có tình trạng “so sánh” vì chúng ta vẫn nhìn nhau bằng con mắt phàm phu tục tử, “con chiên” nào béo thì vẫn được lưu ý đặc biệt!
Để nhấn mạnh, Chúa Giêsu đòi hỏi nghiêm túc về Đức Công Chính của người môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em KHÔNG ăn ở công chính HƠN các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ CHẲNG được vào Nước Trời” ( Mt 5, 20 ). Ai dám vỗ ngực mình là người công chính ? Vì có “máu” Pharisêu nên người ta vẫn ưỡn ngực và vỗ rất mạnh để người khác phải chú ý. Tình trạng này không hiếm thấy trong cuộc sống hằng ngày đâu!
– Vấn đề thứ nhì về Tính Giận Ghét ( cũng đề cập trong Lc 12, 57-59 ). Chúa Giêsu đưa ra Luật xưa: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Đúng, không sai. Nhưng như vậy còn tiêu cực, và Ngài muốn chúng ta phải sống tích cực: “Ai GIẬN anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai MẮNG anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai CHỬI anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” ( Mt 5, 22 ). Những lời nhẹ nhàng mà nhức nhối lắm, nếu không “nghe tai này qua tai kia”. Điều luật tích cực chắc chắn khó hơn nhiều so với điều luật tiêu cực.
Và còn hơn thế nữa, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” ( Mt 5, 23-24 ). Sự thể có vẻ bình thường mà lại rất bất thường, không hề giống như chúng ta tưởng.
Cụ thể hóa vấn đề, Chúa Giêsu giải thích chi tiết: “Hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” ( Mt 5, 25-26 ). Đó cũng là bí quyết Ngài chỉ cha chúng ta cách sống đúng đắn và tích cực về đức ái, cũng chính là sống lòng thương xót vậy.
– Vấn đề thứ ba về Chuyện Ngoại Tình. Luật cũ cấm chung: Chớ ngoại tình. Chúa Giêsu rạch ròi chi tiết hơn: “Ai NHÌN người phụ nữ mà THÈM MUỐN thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” ( Mt 5, 25 ). Loại tội này không ai biết, chỉ có chính mình biết và Chúa biết mà thôi. Bề ngoài nghiêm nghị chưa chắc là đạo đức, cúi đầu chưa chắc là vâng phục, khúm núm chưa chắc là ngoan ngoãn, ... đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Chúa Giêsu xoáy sâu và cụ thể luôn: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy MÓC mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh LÀM CỚ cho anh sa ngã thì hãy CHẶT mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” ( Mt 5, 25-30 ). Quả thật, những lời nói kiểu này rất “khó nghe”, nhưng sự thật thì mãi là sự thật, không thể khác được.
– Vấn đề thứ tư về Chuyện Ly Dị ( cũng đề cập trong Mt 19, 9; Mc 10, 11-12 và Lc 16, 18 ). Luật Cựu Ước dạy: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Tương tự, ngày nay người ta ra tòa án đời và có giấy chứng thực ly hôn là xong. Ai lo phận nấy. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không thể như vậy: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai RẪY vợ là ĐẨY vợ đến chỗ ngoại tình; và ai CƯỚI người đàn bà BỊ RẪY thì cũng phạm tội NGOẠI TÌNH” ( Mt 5, 31 ). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Tuy nhiên, tại một số Giáo Hội địa phương ở hải ngoại, cụ thể là Hoa Kỳ, có trường hợp hai vợ chồng còn sống, họ không ở với nhau mà hai người vẫn được cưới người khác. [ Tôi biết một trường hợp như vậy. Phải chăng cả hai đều không khai báo thật hay có vấn đề gì ? ].
– Vấn đề thứ năm về Lời Thề Hứa. Chúa Giêsu tiếp tục dẫn chứng Luật cũ: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa”. Rồi Ngài ra nghiêm lệnh: “ĐỪNG thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. ĐỪNG chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. ĐỪNG chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. ĐỪNG chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” ( Mt 5, 34-37 ). Bốn cái “đừng” liên tiếp. Chúa Giêsu đưa ra là bốn mệnh lệnh phủ định nhằm đề cao sự thật, vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta ( Ga 8, 32 ).
Cuộc sống có triết lý riêng, đừng lo người khác không hiểu mình hoặc ghét mình, họ nhìn mình thế nào không thành vấn đề, quan trọng là bản thân mình nhận biết mình như thế nào. Cuộc đời sẽ thú vị và có ý nghĩa nếu biết SỐNG CHO, SỐNG VÌ và SỐNG VỚI người khác trong tình liên đới yêu thương – cả tình Chúa và tình người. Hãy ghi nhớ lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa: “Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng” ( Gr 29, 11 ).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Con chỉ là một kẻ bình thường nhất trong số những người bình thường, nhưng xin đừng để con sống tầm thường, và xin Ngài gìn giữ con trong điều kiện bình thường – chứ con không dám xin điều khác thường khi Ngài không muốn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên Hoàng triều luật lệ, Quốc triều điều luật, Nguyễn TN 6-A68
Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên Hoàng triều luật lệ, Quốc triều điều luật, Nguyễn triều hình luật, bộ luật Gia Long là bộ luật chính thức của Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn do Bắc thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn thảo và vua Gia Long cho ban hành năm 1815.
Luật Gia Long được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn, rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam. Gồm có 398 điều và 30 điều tỷ dẫn, chép trong 22 cuốn. Có sáu thể loại do ứng với việc sáu Bộ: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình phụ trách.
Lại luật là những quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại; Công luật quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm; Lễ luật quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình; Hộ luật quy định về quản lý dân cư và đất đai; Binh luật quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng; Hình luật quy định về các tội danh và hình phạt. Trong 398 điều của Luật Gia Long, có 166 điều về hình luật, 66 điều về hộ luật, 10 điều về công luật. Một số điều trong Hộ luật đã được cụ thể thành chính sách kinh tế của nhà Nguyễn. Từ việc phân chia các điều luật, có thể thấy rằng nhà Nguyễn rất quan tâm tới pháp luật trong quá trình trị nước, đặc biệt là yếu tố hình luật được đề cao, thể hiện sự hà khắc của Luật Gia Long, với mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị của vương triều ( Ths. Đỗ Việt Hà, Pháp luật Triều Nguyễn ).
Bộ Luật Gia Long tuy đã giữ cho đất nước ổn định bền vững, nhưng cũng chỉ là nhất thời, rồi cũng bị phũ phàng xoá sổ cùng quốc gia bị xâm chiếm. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu công bố những điều luật căn bản, đạo đức, mẫu mực, bất biến, để con người hưởng hạnh phúc trường sinh trong Nước Trời vĩnh cửu.
Luật yêu thương
Luật Môsê đã dẫn dắt dân Do Thái thoát khỏi luật rừng, đem lại nhân phẩm cho người dân. Nhưng Đức Giêsu muốn nâng cấp lề luật, hướng con người lên tầm cao mới, tốt lành hơn, thánh thiện hơn. Đó là lòng nhân ái, yêu thương, khoan dung, độ lượng, xoá tan đi sự ác, bất nhân, đố kỵ, hận thù, ganh ghét, kỳ thị, phân biệt, chia rẽ. “Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.”
Người còn kêu gọi yêu thương, tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho người thù oán, thủ ác, hãm hại, hành hạ và giết mình, như gương sáng của chính Người. “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” ( Lc 6, 27-28 ).
Luật lương tâm
Luật cũ thường xét xử theo những hậu quả xấu do đương sự đã gây ra. Còn Luật mới của Đức Giêsu xét xử ngay từ căn nguyên, nguồn gốc sự dữ, ngay từ trong lòng dạ, thâm tâm mỗi người. Luận phạt từ ngay những âm mưu đen tối, những ham muốn lệch lạc, ý đồ hãm hại. “Còn Ta, Ta bảo các con: Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã ngoại tình với họ trong lòng rồi.”
Hơn nữa, Người nêu ra cách ngăn chận, tiêu diệt sự dữ ngay từ khởi sự, tích cực và sâu sắc, hơn những hình phạt thông thường. “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.”Tuy những điều đó thực hành khó khăn, gần như bất khả thi, Đức Giêsu muốn đòi hỏi con người phải dũng mãnh từ bỏ mình, kiên quyết, hy sinh, dẫu rất đau đớn, để có thể chế ngự, hoàn toàn làm chủ bản thân trước cám dỗ rất hấp dẫn, ngọt ngào.
Luật công chính
Đức Giêsu công khai truy ra đích danh nguồn cội của sự dối trá: “Ma quỷ là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối.” ( Ga 8, 44 ) Vì vậy, Người đòi hỏi con người, con cái sự sáng phải sống công chính, chánh trực, không thể chấp nhận sự man trá, gian xảo trong tư tưởng, lời nói, lẫn việc làm. “Nhưng lời nói của các con phải là: Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra."
Luật công chính không có điều khoản ấn định thế nào là minh bạch, nhưng bàng bạc ẩn hiện trong suốt sinh hoạt thường ngày, qua ứng xử, hành động, ăn nói. Có thể đánh lừa cả thiên hạ, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm ở đời. "Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5, 20 ).
“Cái gì làm con xa Chúa, hãy hy sinh nó đi: "móc mắt, chặt tay, cưa chân..." (Đường Hy Vọng, số 162 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến kiện toàn Lề Luật, bằng những Luật Mới, như yêu thương, lương tâm và công chính. Xin dạy chúng con thấu hiểu, thấm nhuần và kiên trì tuân giữ Luật Mới, hầu chúng con xứng đáng là con cái sự sống.
Khấn xin Mẹ cầu bầu, giúp đỡ chúng con luôn trung thành tuân giữ những Giới Răn Mới của Chúa Kitô trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
Đời sống dân sự và thường ngày của chúng ta đều được xoay quanh trục luật pháp. Thật vậy, bất TN 6-A69
Đời sống dân sự và thường ngày của chúng ta đều được xoay quanh trục luật pháp. Thật vậy, bất cứ thời nào, xã hội hay tôn giáo, đều cần có luật lệ. Người ta sống và cư xử với nhau thường dựa trên luật. Đối với Do Thái Giáo, từ thời Môsê, đã có cả một sách Đệ Nhị Luật, chứa nhiều khoản luật buộc con cái Israel thực hiện. Nhưng điểm chủ yếu của lề luật vẫn là Yêu Mến Chúa (x. Đnl 6,1-13). Thế nên, khi Chúa Giêsu đến, Ngài không bãi bỏ nhưng kiện toàn lề luật và thực thi luật cách thiết thực hơn "Thầy đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn." Người làm cho Luật được trọn hảo và được đặt nền trên tình yêu thương.
Chúng ta đã nghe Chúa dặn "Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, và yêu người thân cận như chính mình."(x. Mt 22, 37-40) Luật và các lời ngôn sứ là yếu tố cốt yếu của Kinh Thánh, diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Những lời ngôn sứ loan báo đều được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa đến trần gian là để thực hiện ý Chúa Cha và hoàn tất công trình cứu độ nhân loại "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người."(Ga 4,34)
Đối với Chúa, không bảo thủ cố định, cũng chẳng cách mạng đổi thay tất cả. Người muốn làm cho luật có sự sống mới. Người không nệ vào truyền thống tiền nhân, nhưng cho chúng ta thấy mẫu gương thực hành luật cách sống động vì tình yêu. Vốn dĩ là Thiên Chúa, Người vẫn để cha mẹ Người thực thi luật cắt bì và dâng cho Thiên Chúa. (x. Lc 2,21-24) Chúa cũng nộp thuế và thi hành luật ngày Sabát, nhưng Người đã kiện toàn tất cả cách dứt khoát. Cốt lõi của luật là tình yêu, lòng nhân từ. Thế nên luật được làm ra nhằm phục vụ con người chứ không phải một cơ chế hay quyền lực nào. Luật vì con người, cho con người thăng tiến và được sống.
Trái lại, các kinh sư và người Pharisiêu luôn nệ luật. Họ thi hành luật cách cứng ngắc cốt chỉ để triệt hạ tha nhân. Cũng có thể họ chỉ áp dụng luật cho dân thường còn chính họ lại chẳng thi hành. Chính vì thế, Chúa đã nhắn nhủ các môn đệ "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời." Vậy Luật và đức Công Chính mà Chúa mong các môn đệ và cũng muốn tất cả chúng ta, những Kitô hữu thực thi là gì?
- Đó là đừng giận ghét anh chị em mình. Vì "Ai giận anh em mình, ai mắng anh em mình là đồ ngốc, ai chửi anh em mình là quân phản đạo...đều bị phạt."(x. Mt 5, 22) Chỉ nóng giận mắng chửi anh em đã là xúc phạm và phạm tội rồi. Chắc chắn là con người yếu đuối, trong cuộc sống ta sẽ dễ vấp phạm, nhưng Chúa khuyên ta hãy biết sống yêu thương, bác ái với nhau, làm hòa với anh em, tha thứ cho nhau, tôn trọng nhau, cảm thông và hiểu nhau. Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta hãy sống đức ái với nhau "Yêu thương thì nhẫn nhục, hiền hậu,...không nóng giận. Yêu thương thì tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả..."(x. 1Cr 13, 4-7) Và để ta xứng đáng đến trước Chúa với tâm hồn trong sạch và bình an, ta hãy mau đến với Bí Tích Hòa Giải để xin Chúa tha thứ và giao hòa với anh em, chứ "Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỉ thừa cơ lợi dụng."(Ep 4,26-27)
- Đó là giữ tâm hồn và thân xác trong trắng, vì tâm hồn chúng ta là ngai Thiên Chúa ngự và thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Vậy, với điều răn thứ 6 ta cần thực thi "Chớ làm sự dâm dục" và thứ 9 "Chớ muốn vợ chồng người." Chúa còn muốn chúng ta thực hiện cách gắt gao hơn "Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi." Cái nhìn và tư tưởng ngoại tình đã sinh ra tội chứ không chỉ đến lúc hành động! Nếu chúng ta không biết kiềm chế bản thân từ trong ánh mắt, suy nghĩ, lời nói, ta sẽ dễ dẫn đến phạm tội. Chúa dạy ta cần ý thức và cảnh giác với những nguyên cớ dẫn đến tội, để ta tránh và quyết đoạn tuyệt, cho dù mất mát, đau thương hay phải hy sinh từ bỏ.( x. Mt 5, 29-30) Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, Ngài không muốn chúng ta đánh mất Nước Trời, sa vào hỏa ngục.
- Đó là chu toàn luật hôn nhân một vợ một chồng. Hôn nhân là Bí Tích Chúa đã lập "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."(Mt 19,6) Giá trị của đời sống hôn nhân ở chỗ trung tín, thủy chung. Ảnh hưởng đời sống xã hội, hôn nhân của Kitô hữu hiện nay đang phải đối diện với những thách đố về luân lý và sự chung thủy. Những nguy cơ dẫn đến ly dị là sự ngoại tình, là bất hòa và nóng giận, là thiếu hy sinh cho nhau, không đủ kiên nhẫn, cảm thông và tha thứ. Thế nên, với gia đình Kitô hữu, ta hãy biết thực thi giới răn yêu thương của Chúa, thể hiện cách thiết thực với người thân nhất của mình là vợ, là chồng, là con cái và hãy biết sống khiết tịnh trong bậc sống của mình.
- Đó là sống chân thật, đừng thề thốt. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hàng thật hàng giả lẫn lộn, người thật người dối không thể nhận ra. Một không gian tràn đầy nghi ngờ vì sự thật như bị lãng quên và ai sống thật thì lạc lõng và quí hiếm. Chúa Giêsu nhắc chúng ta "Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ." Mỗi Kitô hữu hãy khắc ghi Lời Chúa, sống và làm chứng cho chân lý giữa xã hội tha hóa hôm nay. Hãy làm chứng cho Chúa và Tin Mừng bằng đời sống chân thành, thật thà, giản dị. Chúa Giêsu, Đấng là Sự Thật, Đấng đến làm chứng cho Sự Thật. Theo Chúa, chúng ta được mời gọi sống thật trong từng lời nói, hành động đối với tha nhân. Hành xử thật thà trong cách sống; thật trong buôn bán, chăn nuôi, trồng tỉa để đem lại bình an, sức khỏe, niềm vui cho tha nhân. Bởi mọi gian dối, gian lận làm hại người, ta sẽ phải trả lẽ và sẽ lãnh hậu quả ngay trong cuộc sống này.
"Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48) Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện trong việc thi hành Luật Chúa và Hội Thánh với Tình Yêu chứ không vụ hình thức và chỉ là bổn phận hay bị bắt buộc, như lời ĐGH Phanxicô nhắn nhủ "Đừng làm nô lệ cho Luật, nhưng Kitô hữu hãy làm nô lệ cho Tình yêu mến, bạn sẽ tự do." Hãy tham dự Thánh Lễ, các Bí tích, cầu nguyện và thực hành việc bác ái vì yêu Chúa và yêu tha nhân. Hãy sống sâu hơn trong tâm hồn, yêu thương, tôn trọng anh chị em; chứ giận ghét, la mắng đã là xúc phạm, giết anh em rồi "Ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân."(1Ga 3,15) Hãy tiết độ trong ánh nhìn, lời nói, bởi khi ước muốn là đã phạm tội, đã ngoại tình trong tư tưởng. Hãy sống bao dung, nhân hậu, thật thà với anh chị em. Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta biết sống can đảm và làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống thánh thiện, đạo đức, yêu thương, chung thủy, chân thật của mình cho thế giới hôm nay. Vì "ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật."(x. Rm 13,10)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tuân giữ luật Chúa và sống đời Kitô hữu vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương anh em. Amen.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một điều xem ra mâu thuẫn với thái độ của TN 6-A70
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một điều xem ra mâu thuẫn với thái độ của Ngài: Ta đến để kiện toàn, chứ không phải là để huỷ bỏ lề luật và các tiên tri. Trong lời khẳng định này của Chúa Giêsu, chúng ta phải hiểu là không khi nào lề luật, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ mất hiệu lực, nghĩa là sẽ mất tính cách bắt buộc. Vậy phải cắt nghĩ làm sao điều xem ra như mâu thuẫn giữa lời tuyên bố và hành động của Ngài đối với lề luật?
Luật Thiên Chúa còn đó! Đúng như lời Ngài đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc giáo huấn của các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, và cho đến khi mọi sự được hoàn thành, thì một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt5,17-18).
Về phần Đức Giêsu, Người luôn khảng định việc căn kẽ giữ luật là cần thiết “một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Các môn đệ hiểu rõ điều đó cho nên sau này, kể cả khi Đức Giêsu đã về trời, họ vẫn tuân giữ căn kẽ mọi lề luật Môsê. Các tông đồ còn muốn mọi tín hữu (nhất là các người gốc Do Thái giáo) phải tiếp tục giữ trọn luật pháp theo lời Chúa dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Tuy nhiên, sứ mạng đích thực của Đức Giêsu không nhằm kêu gọi dân chúng giữ luật. Điều này đã được các Pharisêu, các luật sĩ… và Gioan Tiền hô làm bằng nhiều cách. Người khảng định: “Thầy đến… để kiện toàn luật Môsê!” Và không chỉ Người, mà bất cứ kẻ nào tin vào Người cũng phải kiện toàn lề luật như thế: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vài Nước Trời”.
Thiên Chúa đã trao ban cho con người một thứ quà tặng quý giá đó là sự tự do. Chính sự tự do, này nếu chúng ta biết sử dụng, sẽ đem lại cho chúng ta vẻ cao quý, bằng không nó sẽ vùi chúng ta xuống tận bùn đen.
Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự Ngài một cách tự do, không ép buộc, bởi vì hành động của một kẻ nô lệ, của một người máy thì làm sao tạo được công nghiệp. Sự tự do là như một chiếc chìa khoá, nhờ đó mà mở ra khung trời hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến biết bao nhiêu tội ác.
Thiên Chúa không bao giờ cưỡng bức chúng ta phải phụng thờ Ngài. Nhưng đồng thời, Ngài cũng không bao giờ làm cho bàn tay của kẻ độc ác bị bại liệt.
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật và kiện toàn ở đây không có nghĩa là tuân giữ lề luật một cách chín chắn, trọn đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.
Khi Thiên Chúa tuyển chọn và kết giao ước với dân riêng của Ngài, Ngài đã ban cho họ mười điều răn, cốt yếu là những điều cấm, quy định ranh giới sinh hoạt mà kẻ thuộc về Ngài không thể vượt qua. Ở đây cũng cần phải lưu ý mười điều răn không phải là những điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài, mà trái lại, giao ước đã được ký kết do sáng kiến của chính Thiên Chúa, rồi sau đó, mười điều răn mới được mạc khải cho dân Ngài.
“Luật trần gian” có giới hạn của nó. Lòng tham, sự yếu đuối, cùng với khát vọng vô bờ bến, con người không thể sống tốt chỉ với những luật lệ trên giấy trắng mực đen đó. Người ta có thể lòn lách để trách né luật lệ, và có khi dùng chính luật lệ đó để bảo vệ sự an toàn cho mình và sống lạnh lùng đối với tha nhân.
Khi chúng ta lắng nghe cách cẩn thận những lời của Chúa Giêsu trong bài giảng của Người hôm nay, chúng ta có thể kết luận rằng, Chúa Giêsu dạy chúng ta tình yêu dành cho Thiên Chúa không tách biệt tình yêu dành cho người lân cận của chúng ta. Thật là một lỗi nghiêm trọng để hành động nếu chúng ta đặt quan hệ của mình với Thiên Chúa với tư cách cá nhân và riêng tư, không có gì để làm với tha nhân. Khi chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như một người Cha, chúng ta phải dành tình yêu của mình cho tất cả con cái của Người.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ thực hành niềm tin bằng cách: đừng giận ghét. Chúa dạy như vậy có khả thi không? Bởi vì trên đời này, dù một người hiền lành đến mấy cũng không tránh khỏi đôi lần nổi giận. Chính Chúa Giêsu cũng đã nổi giận với những người buôn bán trong Đền thờ kia mà!
Chúa dạy đừng giận ghét, thì ta phải hiểu rằng: ta không được ghét ai, nghĩa là loại trừ họ, đó là điều trái với đức thương yêu, nhưng đồng thời ta cũng phải tập làm chủ nhưng cơn nóng giận của mình. Việc đó có thể làm được với ơn Chúa và nhất là với đời sống cầu nguyện, vì đó là cách thức chúng ta dễ nâng tâm hồn lên với Chúa để Ngài thanh luyện tâm hồn chúng ta thuộc về Chúa và gần gũi với tha nhân hơn.
Tình yêu chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi: “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người sẽ không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa người với người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.
Luật mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới, tạo nên “Nước Trời”: “Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”. Trong một số ví dụ được Đức Giêsu đưa ra như giết người, gian dâm, bội thề… Luật mới không chỉ dừng lại ở những hành động tội ác, mà đòi hỏi phải đổi mới tận chiều sâu của tâm hồn, tận trái tim yêu thương
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần phúc âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào lòng mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Nhìn vào thế giới hôm nay đó là một thế giới đầy bạo lực. Con người không cần lý lẽ. Người ta có thể dùng quyền để bẻ cong công lý. Người ta dùng sức mạnh để đè bẹp tự do và xâm phạm quyền sống của tha nhân. Vâng, giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, bằng gươm đao. Giữa một thế giới mà lòng nhân đã đánh mất chỉ còn sự giả hình, hay nhẹ hơn là mạnh ai nấy lo, sống thiếu tình liên đới với nhau. Người kytô hữu cần phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta hãy nhịn nhục lẫn nhau. Vì Chúa chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Vì Chúa chúng ta hãy “chín bỏ làm mười”, sống vị tha và bác ái với nhau.
Đức Giêsu là mẫu gương tuân giữ Lề Luật: Ngài giữ luật nộp thế cho đền thờ như bất cứ ai TN 6-A71
Đức Giêsu là mẫu gương tuân giữ Lề Luật: Ngài giữ luật nộp thế cho đền thờ như bất cứ ai (x. Mt 17, 24-27); Ngài giữ luật hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để dự lễ vượt qua (x. Lc 2,41-42).
Cả cuộc đời của Ngài đã sống theo ý Chúa Cha, Ngài nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cái chết khổ hình, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin theo ý Cha đừng theo ý con”(Lc 22,44).
Đức Giêsu không những tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật. Ngài nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”(Mt 5,17). Nghĩa là, Luật Mô-sê vẫn giữ nguyên, không thể bãi bỏ dầu một chấm một phết, nhưng luật đó được Đức Giêsu kiện toàn. Ngài kiện toàn bằng cách lấy tình thương làm nền tảng và làm kim chỉ nam cho việc tuân giữ luật. Xin được nêu lên mấy dẫn chứng sau đây:
Thứ nhất, Đức Giêsu kiện toàn luật ngày Sa-bát: Ngài đã dùng câu chuyện lịch sử trong sách Sa-mu-el (x. 1Sm 3-7) để giúp cho người Do thái hiểu được tinh thần giữ luật như thế nào, Ngài nói: "Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao?”(Mt 12, 3-5).
Chính vì chủ trương giữ luật vì tình thương nên chúng ta thấy trong ngày sa-bát: Ngài vẫn chữa lành cho người có tay khô bại (x. Mt 12,9); chữa lành cho người đàn bà bị còng lưng được đứng thẳng (x. Lc 13,10); chữa lành cho người mắc bệnh phù thũng được khỏi (x. Lc 14,1); chữa lành cho người bất toại nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x. Ga 5,1t); hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng ngàn người dân ăn no nê (x. Ga 6,4); chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x. Ga 9,16).
Tất cả những việc làm đó của Đức Giêsu nói lên việc kiện toàn lề luật của Ngài đối với ngày Sa-bát. Đúng như lời Ngài khẳng định: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2,27).
Thứ hai, Đức Giêsu kiện toàn luật giết người: Luật Mô-sê dạy: “Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà”(Mt 5, 21). Còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”(Mt 5, 22). Như vậy, Đức Giêsu không những cấm “giết” người mà Ngài còn cấm cả những thái độ “giận”, “mắng” và “chửi” anh em. Bởi vì, những hành động đó là mầm mống có thể dẫn đến việc giết người. Chính thánh Gioan đã khẳng định: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”(1Ga 3,15).
Thứ ba, Đức Giêsu kiện toàn luật ngoại tình: Luật Mô-sê cấm ngoại tình. Đức Giêsu không chỉ cấm ngoại tình mà Ngài còn cấm cả tư tưởng ngoại tình, tức là nguyên nhân sinh ra tội ngoại tình. Chính vua Đa-vít đã phạm tội ngoại tình nguyên do từ cái nhìn (x. 2Sm 11,2). Vì thế, Ngài nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”(Mt 5,28). Cho nên, Ngài mời gọi chúng ta phải có hành động dứt khoát với nguyên nhân sinh ra tội giống như móc mắt, chặt tay, chặt chân vậy. Ngài nói rằng: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”(Mt 5, 29-30).
Thứ tư, Đức Giêsu kiện toàn luật một vợ một chồng: Luật Mô-sê dạy: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị.” Đức Giêsu cấm hẳn ly dị hoặc đa thê. Vì thế, khi có mấy người Pha-ri-siêu hỏi Ngài có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do gì không? Ngài trả lời rằng: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 4-6). Ngài còn cho biết rõ hơn: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5, 32).
Thứ năm, Đức Giêsu kiện toàn luật lời thề: Luật Mô-sê cho phép thề, nhưng “chớ bội thề,” còn Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được” (Mt 5, 34-36). Sỡ dĩ Đức Giêsu cấm thề, là vì lời nói cần phải có giá trị: “Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Ngoài ra, Đức Giêsu còn kiện toàn luật ăn chay, cầu nguyện, bố thí (x. Mt 6, 1-18), luật báo thù (x. Mt 5, 38-42), luật yêu thương (x. Mt 5, 43-48).
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ là mẫu gương tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật theo tiêu chí tình thương.
Ai cũng biết trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống tôn giáo, luật lệ có tầm quan trọng rất lớn. Luật lệ để giúp cho cá nhân và tập thể sống có trật tự, có nề nếp, có nhân cách, có trách nhiệm, đồng thời ngăn chặn được cái xấu, cái ác, sự bất công. Vì thế, người sống theo luật lệ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và tập thể. Thánh Bênađô Viện phụ nói: “Ai giữ luật thì luật gìn giữ người ấy.” Ngược lại, người sống vô kỷ luật là người thiếu nhân cách, thiếu trách nhiệm, dễ sa vào các tệ nạn, ảnh hưởng tới gia đình và xã hội cũng như Giáo hội. Tác giả sách Huấn ca trong bài đọc I cho chúng ta biết: Con người có tự do để lựa chọn hay khước từ các điều răn của Chúa, nhưng ai nấy đều phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Giữ luật Chúa thì được sống, khước từ luật Chúa thì phải chết (x. Hc 15, 16-21).
Người kitô hữu chúng ta được mời gọi tuân giữ Lề luật, đặc biệt là luật Chúa. Vì “Sống theo luật là sống theo Chúa.” (Thánh Grêgôriô). Nhưng chúng ta tuân giữ luật Chúa như thế nào? Phải tuân giữ luật Chúa với tinh thần của Đức Giêsu, đó là giữ luật vì tình thương và lòng yêu mến. Tránh tình trạng giữ luật theo kiểu biệt phái và luật sĩ: Giữ luật theo hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng hay chỉ giữ những điều phụ thuộc mà quên đi những điều chính yếu, giữ những luật nhỏ nhặt mà quên đi công bình bác ái yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con biết giữ luật Chúa với tinh thần yêu mến. Amen.
Có người bảo Giáo Lý của Đức Kitô là không tưởng. Cũng có người phàn nàn: giá như tôi không TN 6-A72
Có người bảo Giáo Lý của Đức Kitô là không tưởng. Cũng có người phàn nàn: giá như tôi không theo Đạo Chúa, tôi đâu phải kiêng cữ đủ thứ như vậy (!). Vậy Đức Giêsu nói gì?
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho con nhận ra được con đường theo Đức Kitô. Chúa nói với các môn đồ và dân chúng theo Người: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào nước Trời”. Giới Kinh sư là những người nhiều năm nghiên cứu Kinh Thánh, họ là những nhà chuyên môn am hiểu lề luật trong Đạo Do Thái, một số nhỏ trong họ là Tư Tế. Các Kinh sư là người giải thích luật và áp dụng Luật. Họ có uy tín trong dân.
Tuy vậy họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ Luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của Luật. Còn Pharisiêu, còn gọi là nhóm biệt phái, là những người sống đạo đức truyền thống, nghiêm nhặt. Nhưng trong số đó có những người giả hình, kiêu hãnh thường hay lên án người khác. Họ tự cho mình có thể mua được nước Trời bằng công trạng và lòng đạo đức của họ (Xem Dẫn vào Tân Ước của nhóm CGKPV).
Như vậy, những người Kinh sư và Pharisiêu thời Đức Kitô không phải là những người xấu, nhưng họ mới chỉ dừng lại ở chỗ giữ lề luật và phê phán người khác, nếu vi phạm lề luật. Họ tự nhận là công chính hơn người. Còn Chúa Giêsu, Người đòi hỏi những người theo Chúa còn phải đi xa hơn, “Công chính hơn”. Không dừng lại ở cách sống “có đi có lại, mới tọai lòng nhau” hay đừng làm điều này, chớ làm điều kia như luật dạy.
Thái độ sống vị luật, sống trong nỗi sợ, không phải là con đường Chúa dạy. Con đường của Chúa dạy là sống yêu thương, sống bác ái ngay từ trong trái tim, trong tâm khảm.Đối với Chúa, chớ giết người, đó là giới răn Chúa truyền dạy. Thế nhưng: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình , thì đáng bị đưa ra tòa... Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình...”.
Lạy Chúa,
Quả là khó lắm đối với con. Sống không làm hại ai, không lấy của ai, không xích mích với ai đã là một cố gắng, một hy sinh của con lắm rồi, nhưng với Chúa thì chưa đủ. Con đã nhận ra, không làm hại ai, tốt đấy! Nhưng không giúp ai, không nhờ vả ai, không liên đới với ai cũng là có lỗi rồi. Chúa dạy con phải làm muối, nhưng muối của con không có vị mặn, hay muối đóng chai, đóng hộp cất trong tủ thì có ý nghĩa gì. Chúa dạy con là ánh sáng, nhưng đèn của con cháy leo lét, đèn của con chỉ thắp sáng trong phòng, trong nhà để soi sáng cho con thôi, thì nào có ích gì (Mt 15;13-16).
Con vẫn đi lễ ngày Chúa nhật, vẫn sẵn sàng ăn chay, kiêng thịt ngày Hội Thánh dạy: thứ Tư lễ tro, thứ sáu tuần Thánh, nhưng sau đó thì ăn bù cho thỏa thích. Con không ăn cắp, ăn trộm nhưng sống lỗi đức công bằng, chỉ tìm lợi ích cho con mà bất chấp người khác. Con có xứng đáng là người đứng trong nước trời, dù là kẻ nhỏ nhất?
Xin Chúa cho con biết tuân giữ Lời Chúa dạy bằng lòng yêu mến thực. Không vì sợ hãi, không vì áp lực, vì sĩ diện hay vì làm vui lòng người khác. Chớ gì con nhận biết thân phận yếu đuối của bản thân, dễ vấp phạm, dễ xa ngã. Nhưng với lòng yêu mến Chúa và nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ đứng dậy và tiếp tục bước theo Chúa, hầu mỗi ngày con sẽ hòan thiện mình hơn, rồi dần trở nên công chính trước mặt Chúa. Amen.
Lời Chúa chúng ta vừa nghe nói với chúng ta về giá trị của Lề Luật trong cuộc sống. Luật là TN 6-A73
Lời Chúa chúng ta vừa nghe nói với chúng ta về giá trị của Lề Luật trong cuộc sống.
Luật là do Thiên Chúa ấn định. Luật luôn đi liền với hiện hữu, nói một cách dễ hiểu hơn thì Luật luôn có mặt và tồn tại cùng với tất cả những gì có trên đời.
Khi vũ trụ được dựng nên, ta thấy có Luật vũ trụ.
Khi con người và thế giới được hình thành ta thấy có luật tự nhiên. Rồi kể từ đó luật luôn có mặt trong tất cả mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. Trên trời chúng ta thấy có luật hàng không. Dưới nước chúng ta thấy có luật đường thủy, đường sông v…v…
Trong các sinh hoạt của con người trong vũ trụ, ở đâu chúng ta cũng có luật kèm theo.
Ngày 8 tháng 2 năm 2020, gõ nhẹ vào phím tìm từ “Luật” trong máy vi tính, Google cho chúng ta một kết quả thật đáng kinh ngạc: Khoảng 162.000.000 kết quả (0,39 giây). Xét như thế thì chúng ta thấy luật bao trùm chi phối mọi lãnh vực của cuộc sống con người.
A. Luật của CUỘC SỐNG. Cha hỏi chúng con luật nhiều như thế nhưng có luật nào quan trọng và được nhiều người đặt mình dưới sự chi phối của Luật đó hay không ? Có ba thứ luật này. Đó là Luật rừng, luật công bằng, luật bác ái yêu thương.
1. Luật Rừng.
Tại sao người ta gọi luật này là Luật rừng ? Sở dĩ người ta đặt tên như thế bời vì loại luật này là luật của cầm thú, luật dựa trên sức mạnh, dựa trên cơ bắp chứ không dựa trên bất cứ giá trị tốt đẹp nào của con người.
Ngày nọ các anh chị bự trong rừng bắt được một con chiên xả ra làm 3 phần. Sư tử, cọp, beo, gấu họp nhau để chia. Sư tử đứng ra chia:
- Phần thứ nhất thuộc về tao vì tao là Vua thú vật nên hưởng trước hết. - Phần thứ hai thuộc về tao vì tao có công nhiều. Tao lớn tiếng, rộng họng la lối nên chiên mới hoảng sợ không dám chống cự nên tụi bay mới bắt được nó và nó vì sợ tao nên mới dừng chân để chúng bay bắt. - Còn phần thứ ba, đứa nào ngon giỏi nhào vô lấy đi… sẽ biết tay tao… Beo, gấu cúp đuôi, cụp tai, cúi đầu rút lui, không con nào dám tranh cãi.
Đó là luật rừng.
2. Luật Công Bằng.
Luật công bằng có từ thời Môisen. Lúc này cuộc sống con người đã khá hơn. Chúa làm ra luật này để Môisen dùng mà trị nước. Luật này được đặt trên một nguyên tắc: Mắt thế mắt, răng đền răng. Đây là luật có đi có lại.
Chúng ta hãy nhìn lên đỉnh đồi Golgotha lúc Chúa Giêsu bị hành hình một cách hết sức bất công và tàn nhẫn. Hãy nhớ lại những gì xảy ra lúc đó. Giữa những tiếng sỉ nhục của bao người dành cho Chúa, thì có một tiếng nói lẻ loi, ít ỏi được vang lên: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ sao! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái đâu!” (Mt 23,39)
Đó là tiếng nói của công bằng. Công bằng có gan làm thì có gan chịu. Làm đến đâu thì phải chịu đến đó.
3. Luật Bác Ái Yêu Thương.
Luật này do chính Chúa Giêsu thiết lập. Chúa thiết lập luật này vào một hoàn cảnh rất đặc biệt: Lúc Chúa lập Bí tích Thánh Thể. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. (Ga 13,34-35)
Một bà mẹ đang van xin vua Napoléon I ân xá cho con trai của bà. Hoàng đế liền tuyên bố rằng:
- Ta không thể tha thứ cho con trai bà được vì anh ta đã phạm tội lần thứ hai, và lẽ công bằng đòi hỏi ta phải xử tử hắn thôi!.
Bà mẹ khẩn khoản:
- Thưa ngài, tôi không dám đòi hỏi lẽ công bằng, tôi chỉ van xin lòng thương xót của ngài mà thôi.
Hoàng đế nói thẳng thừng:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót!
Bà mẹ lại kêu lên:
- Thưa ngài, nếu con tôi xứng đáng, thì không còn gọi là lòng thương xót nữa. Vâng, con trai tôi bất xứng, nhưng tôi chỉ dám van xin ngài dủ lòng thương xót đến nó mà thôi.
Cuối cùng, hoàng đế đã động lòng thương:
- Thôi được rồi, ta sẽ tha cho nó chỉ vì lòng thương xót của ta mà thôi.
Đó là luật bác ái yêu thương. Bác ái yêu thương vượt lên trên sự công bằng.
B. Chúa kiện toàn luật pháp.
Cha đố chúng con thế nào là kiện toàn ? Ai trả lời cho cha ?
Kiện toàn là làm cho nó tốt hơn, hoàn chỉnh hơn, hoàn hảo hơn.
Vậy theo Chúa thì luật nào là luật hoàn hảo nhất ?
Chúng con hãy thử tưởng tượng xem: Một người đặt mình dưới sự chi phối của Luật rừng và sống với sự hướng dẫn của luật đó thì giá trị đời sống của họ sẽ ra sao. Có thể nói giá trị cuộc sống của họ không hơn gì loài cầm thú. Người đời vẫn gọi những loại người này là loài thú có hai chân. Sống mà như thế thì thà đừng có mặt ở trên đời này có lẽ còn hay hơn.
Còn nếu như một người đặt cuộc sống của mình dưới sự chỉ dẫn và chi phối của luật công bằng thì sao ? Chắc chắn giá trị cuộc sống của người đó sẽ cao hơn. Họ đã xứng đáng làm người. Cha thấy hầu như mọi hệ thống luật pháp trên thế giới hôm nay đều cố gắng hướng con người vào con đường này. Cuộc sống có đi có lại ngày hôm nay đã được các xã hội loài người chấp nhận và cổ võ. Sống được như thế cha thấy giá trị của cuộc sống cũng đã rất tốt đẹp nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở tầm cỡ con người.
Chúa Giêsu Chúa của chúng ta đã không muốn dừng lại ở đây. Chúa đề nghị chúng ta phải vươn lên tới một cuộc sống cao cả hơn. Cuộc sống của những người CON THIÊN CHÚA, cuộc sống được thông phần vào cuộc sống của Thiên Chúa. Đó là cuộc sống yêu thương. Những ai biết đặt cuộc sống của mình trên nền tảng này, họ sẽ làm cho cuộc sống của họ thành cuộc sống của người CON THIÊN CHÚA.
Từ cuộc sống bị coi như ngang hàng với cầm thú, Chúa đưa con người lên cao hơn một bậc để họ sống xứng danh là con người. Tới đây thì cuộc sống đó đã đẹp, nhưng Thiên Chúa vì yêu thương con người chưa muốn giá trị cuộc sống con người dừng lại ở đó. Phải làm cho cuộc sống của con người cao cả hơn, xứng danh với công trình tạo dựng của Thiên Chúa hơn, đó là cuộc sống của những người CON THIÊN CHÚA.
Chính trong ý hướng này mà trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa kêu gọi người ta không được giết người, không được rẫy vợ mình, không được ngoại tình, không được bội thề v…v… Vì những điều ấy một cách nào đó còn do ách công bằng chi phối. Hãy cố gắng vươn lên và vượt qua để cho tình yêu thương được nảy mầm và lớn lên làm cho cuộc sống của chúng ta xứng đáng là CON THIÊN CHÚA hơn. Amen.
(17) "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. (18) Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. (19) Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời. (20) "Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. (21) "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; Ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. (22) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. (23) Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, (24) thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (25) Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. (26) Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng. (27) "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. (28) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. (29) Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (30) Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. (31) "Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. (32) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. (33) "Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. (34) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (35) Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. (36) Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. (37) Nhưng hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại các lời dạy của Đức Giê-su trong nhiều thời điểm khác nhau liên quan TN 6-A74
Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại các lời dạy của Đức Giê-su trong nhiều thời điểm khác nhau liên quan đến Tám Mối Phúc Thật làm thành một bài giảng dài gọi là Bài Giảng Trên Núi. Qua đoạn này Người dạy dân chúng về tương quan giữa Người với Luật Mô-sê: Người đến không phải để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn Luật Cũ của Mô-sê bằng Luật Mới của Người là mến Chúa yêu người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 17-19:
+ Luật Mô-sê: Gồm 5 cuốn đầu của bộ Kinh Thánh Cựu Ước gọi là Ngũ Kinh như sau: Sáng Thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ Nhị Luật.
+ Lời các ngôn sứ: Là các sách ghi những lời tuyên sấm của các ngôn sứ. Kiểu nói Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ ám chỉ toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước.
+ Thầy đến không phải là để bãi bỏ…: Vì Đức Giê-su dạy một số điều xem ra không giống như Luật Mô-sê và lời giáo huấn của các ngôn sứ mà các Luật sĩ vẫn giải thích khi giảng dạy trong các hội đường Do thái. Chẳng hạn: Rượu mới bình mới (x Lc 5,37-39), Con Người làm chủ ngày sa-bát (x Mt 12,8), Con Người có quyền tha tội (x Mt 9,6), Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x Mt 7,29)… nên nhiều người nghĩ rằng Đức Giê-su đã hủy bỏ Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ. Do đó, trong đoạn này Đức Giê-su khẳng định Người đến không phải để hủy bỏ mà để kiện toàn Luật Mô-sê, bằng cách dạy người ta giữ Luật với tinh thần yêu mến Thiên Chúa thay vì vụ vào Luật theo nghĩa đen trong từng chi tiết.
+ nhưng là để kiện toàn: Đức Giê-su kiện toàn bằng cách Người thực hiện các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai (x Mt 2,23); Người rút lại điều khoản Luật cho phép ly hôn (x Mc 10,5-12); Người cố ý chữa bệnh trong ngày sa-bát, nhằm dạy môn đệ phải làm các việc tốt là chia sẻ phục vụ tha nhân, thay vì không được làm bất cứ việc gì (x Mc 2,27-28); Người cố ý không rửa tay trước khi dùng bữa nhằm dạy phải tẩy rửa tội lỗi trong lòng thay vì chỉ rửa tay chân hay tắm rửa ngoài thân xác mà thôi (x Mt 15,1-9.10-20)…
+ Một chấm một phết trong Lề Luật: Sau khi đã loại bỏ những điều Luật không phù hợp hoặc những điều nhỏ nhặt vụ hình thức, Đức Giê-su dạy môn đệ phải tôn trọng mọi điều khoản còn lại trong từng chi tiết của Luật Mô-sê (x Mt 9,17).
+ Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời: Nhỏ hay lớn ở đây không phải về cấp bậc cao thấp, mà về lối sống được chấp nhận hay không trong Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
- C 20-26:
+ Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời: Sự công chính theo các kinh sư và người Pha-ri-sêu dạy là do sự tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, bất kể chỉ ở hình thức bề ngoài và thiếu mất tâm tình bên trong. Còn sự công chính Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ Luật vì lòng yêu mến và nhằm tôn vinh Thiên Chúa.
+ Anh em đã nghe Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Đức Giê-su nêu ra 6 điều được Người kiện toàn trong Luật Mô-sê.
+ Chớ giết người… Ai giận anh em mìn…. Ai mắng anh em mình… Còn ai chửi anh em mình…: Luật Mô-sê chỉ cấm giết người thực sự. Nhưng Đức Giê-su kiện toàn bằng việc cấm gây đau khổ tinh thần như không được mắng chửi anh em, vì cũng có tội giống như thực sự đã giết hại và làm đổ máu người anh em mình.
+ đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng… đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt: Tuy những lời mắng chửi anh em là “ngốc, khùng” không đáng bị phạt nặng, nhưng chính sự giận ghét căm thù anh em mới đáng bị kết án và trừng phạt ở đời sau.
+ Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ: Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính là một cuộc sống mến Chúa yêu người. Do đó, trước khi dâng lễ vật trên bàn thờ, phải lo hòa giải với những ai đang bất hòa với mình. Việc làm hòa là điều kiện để lễ vật dâng lên xứng đáng được Chúa vui nhận.
+ Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công…: Cần làm hòa ngay khi còn sống. Đừng đợi đến lúc chết mà vẫn còn giận ghét anh em, vì bấy giờ họ sẽ bị kết án và phải đền tội cân xứng là “trả hết đồng xu cuối cùng”.
-C 27-32:
+ Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình…Còn Thầy, Thầy bảo anh em biết:…: Luật Mô-sê cấm ngoại tình (x Xh 20,14; Ds 5,18). Tuy nhiên người ngoại tình thực sự bằng hành động mới có tội. Còn những việc trong đầu như ước muốn ngoại tình mà thôi thì chưa thành tội. Đức Giê-su kiện toàn bằng lời dạy: Ước muốn tà dâm trong tâm trí mà thôi cũng là phạm tội giống như đã phạm thực sự rồi. Do đó, người ta phải tránh mọi tư tưởng xấu và phải xa lánh dịp tội là những nguyên nhân dẫn đến hành động phạm tội.
+ Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi… Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã…: Kiểu nói cường điệu “móc mắt, chặt tay” ở đây nhằm nhấn mạnh phải tránh mọi dịp tội, thà chết chẳng thà phạm tội, thà hy sinh một phần thân thể mà được ơn cứu độ còn hơn có đầy đủ các phần thân thể mà toàn thân phải sa vào hỏa ngục.
+ Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Luật Mô-sê cho phép chồng ly dị vợ bằng cách trao cho vợ tờ giấy ly thư (x Đnl 24,1). Nhưng Đức Giê-su đã rút lại điều khoản này. Theo Người, sở dĩ Luật Mô-sê phải tạm thời cho phép ly hôn là do lòng dạ chai đá của người đương thời (x Mt 19,8-9). Đức Giê-su kiện toàn điều này qua lời dạy: Ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình và ai cưới người đàn bà bị bỏ kia, cũng phạm tội ngoại tình”.
+ Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp: Câu này không có trong Tin mừng Mác-cô (Mc 10,11-12) và Lu-ca (Lc 16,18). Hội Thánh không chấp nhận ly hôn vì muốn bảo vệ đặc tính vĩnh hôn như Lời Chúa dạy: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6b). Người Tin lành và Chính Thống giải thích Chúa cho phép ly hôn nếu một bên ngoại tình. Còn các nhà chú giải Kinh Thánh Công Giáo giải thích trường hợp nói đây là hôn nhân bất hợp pháp, nghĩa là kết hôn trái với luật Chúa nên không được Hội Thánh công nhận. Do đó hai người không được tiếp tục chung sống như vợ chồng. Nếu Đức Giê-su cho phép vợ chồng ly dị vì lý do ngoại tình thì giáo lý của Người cũng đâu có gì khác và trổi vượt so với Luật Mô-sê. Thánh Phao-lô cũng cấm sự ly hôn và chỉ cho hai vợ chồng sống “ly thân”, nghĩa là không còn sống chung với nhau nhưng đồng thời cũng không được kết hôn với người khác (x 1Cr 7,10-11).
-C 33-37:
+ Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả: Luật Mô-sê cho phép thề với điều kiện phải giữ trọn lời đã thề hứa. Nhưng Đức Giê-su kiện toàn điều này khi dạy không được thề. Tuy nhiên đây chỉ là lời khuyên chứ không cấm vì lý do sau: Một là chính thánh Phao-lô cũng đã nhiều lần lấy danh Chúa mà thề như:” Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: …”(2 Cr 1,23; Rm 1,9; Gl 1,20…). Hai là Đức Giê-su có lần mặc nhiên chấp nhận lời thề của Thượng tế khi ông ta nói: “Tôi nói đến Thiên Chúa hằng sống, mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không ?” Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó…” (Mt 26,63-64). Ngày nay trong một vài trường hợp đặc biệt không biết rõ thực hư, Hội Thánh cũng đòi các tín hữu phải đặt tay trên Sách Thánh Kinh để thề, và phải tuân giữ lời đã thề (Sách GLCG Tân Định số 309 về điều răn thứ II).
4. CÂU HỎI:
1) Hãy trưng dẫn Đức Giê-su đã kiện toàn Luật Mô-sê trong những trường hợp nào?
2) Phải chăng Đức Giê-su cho phép vợ chồng được ra tòa ly hôn để lấy người khác khi một trong hai người phạm tội ngoại tình ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHIẾC NHẪN KỲ DIỆU:
Truyện cổ Đông phương có câu chuyện như sau: Ngày xưa có một vị đạo sĩ dâng cho vị Đại vương một chiếc nhẫn thần kỳ diệu và quý giá. Nó vô giá vì được làm bằng vàng mười và trên mặt nhẫn có gắn nhiều viên kim cương chiếu sáng lấp lánh. Ngoài ra chiếc nhẫn này còn kỳ diệu ở chỗ: Người nào đeo nó mà làm điều tốt thì chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay sẽ vừa khít và viên các kim cương sẽ phát ra ánh sáng lấp lánh. Nhưng nếu người đeo nhẫn làm điều gì thất nhân ác đức, thì chiếc nhẫn sẽ siết chặt lại làm ngón tay đeo nó sưng to đau đớn. Từ ngày có đeo chiếc nhẫn thần này, vị Đại vương do luôn được nhẫn cảnh báo nên đã trở thành một vị vua anh minh nhân hậu, khiến thần dân kính phục yêu mến, và đất nước ngày một cường thịnh.
Mỗi người trong chúng ta cũng có một chiếc nhẫn kỳ diệu và quý giá là Lời Chúa và sự cáo trách của lương tâm. Nếu chúng ta làm điều thiện thì lương tâm sẽ bình an hạnh phúc. Nhưng nếu ta phạm tội có lòng thù ghét tha nhân thì dù không có ai khác hay biết, nhưng tiếng lương tâm vẫn cáo trách chúng ta. Tiếng ấy chính là tiếng Chúa khuyên ta làm lành lánh dữ.
2) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU VÀ SỰ KHIÊM TỐN:
Gần đây tạp chí Reader’s Digest có đăng một câu chuyện cảm động về tình yêu giữa hai vợ chồng như sau:
Có đôi vợ chồng nhà kia thường tranh cãi hơn thua với nhau. Lần kia, trong lúc đang to tiếng tranh cãi thì người chồng đột nhiên im lặng và ôn tồn nói với vợ rằng: “Thôi, chúng ta đã cãi nhau nhiều lần rồi mà đâu có ai chiến thắng. Vậy bây giờ thay vì cãi nhau, mỗi người chúng ta hãy lấy giấy bút viết ra những lỗi lầm của nhau trong một thời gian mười phút, xem ai có nhiều sai lỗi hơn nhé”. Người vợ liền đồng ý. Sau đó anh chồng lấy giấy ra và bắt đầu ngồi viết. Thấy vậy, cô vợ không chịu thua cũng ngồi xuống viết liên hồi. Cô kể ra mọi sai lỗi của chồng trong quá khứ mà cô vẫn còn nhớ. Cô cảm thấy rất hả hê khi trang giấy của cô mỗi lúc một nhiều thêm những sai lỗi của chồng. Sau mười phút, hai người trao bản cáo trạng cho nhau. Nhưng rồi sự lạ xảy ra là khi cầm đọc tờ giấy của chồng, nét mặt cô vợ từ vẻ hả hê đã biến đổi vì hối hận. Cô vội chạy lại giật lấy tờ giấy vừa trao cho chồng và ôm choàng lấy anh mà khóc. Sở dĩ kết quả bất ngờ tốt đẹp như vậy là do trên tờ giấy của anh chồng, cô chỉ đọc thấy dòng chữ như sau: “Anh rất yêu em và nhiều lần đã có lỗi với em. Anh rất hối hận và ngàn lần xin lỗi em. Hãy tha thứ cho anh nhé em yêu!”.
3) PHẢI NÊN THÁNH CÁCH TRỌN VẸN:
Một hôm, một người tín hữu gặp một người bạn vô tín. Người bạn vô tín lên tiếng hỏi:
- Anh mới đi đâu về vậy ? - Tôi vừa từ nhà thờ về. - Hôm nay, ở nhà thờ anh nghe giảng về đề tài gì ? - Giảng về vấn đề người tín hữu phải nên thánh. - Vậy anh đã nên thánh chưa ? Anh tín hữu đáp: - Anh cứ coi mặt tôi đây thì sẽ biết. - À để tôi coi thử.
Nói rồi, anh ta tát một cái thật mạnh vào mặt anh tín hữu. Anh này liền nổi giận chửi mắng anh bạn vô tín kia và còn muốn đánh lại. Anh bạn vô tín liền nói:
- Anh nên thánh thì lẽ ra đã phải nên giống như Chúa Giê-su để có lòng từ bi thương xót và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình mới phải. Thế tại sao anh lại chửi mắng và muốn đánh tôi khi tôi mới chỉ tát anh có một cái ? Anh tín hữu trả lời:
- Tôi đã nói với anh là tôi mới chỉ nên thánh ở trên mặt. Còn cái miệng và tay chân thì vẫn chưa nên thánh, nên tôi có quyền đánh anh được. Anh bạn vô tín liền vui vẻ nói:
- Ôi, tôi tưởng anh đã nên thánh trọn vẹn. Chứ nếu anh mới nên thánh nửa vời như vậy thì anh đâu có hơn gì tôi ? Tôi đề nghị nếu đã quyết tâm nên thánh thì anh đã phải nên thánh cả hồn lẫn xác, nên thánh từ tư tưởng đến lời nói và việc làm nữa mới đúng.
4) HẬU QUẢ CỦA LỐI SỐNG THIẾU KHOAN DUNG:
Trong một trường nội trú kia, một số học sinh thường hay to tiếng cãi lộn và đánh nhau làm mất trật tự và gây náo loạn trong trường. Một hôm thầy giám thị yêu cầu mỗi học sinh phải đeo một chiếc túi ny-lông và nhà trường sẽ cung cấp một bao đầy các củ khoai tây nhỏ để ở sọt cuối hành lang. Sau đó, thầy giám thị yêu cầu các em mỗi khi bị bạn bè xúc phạm, thay vì tranh cãi hoặc đánh lộn nhau như trước, thì hãy lẳng lặng đến sọt cuối hành lang lấy ra một củ khoai, lột vỏ và viết ngày giờ cùng tên người kia trước khi bỏ củ khoai đó vào túi ny-lông đeo luôn bên mình. Trong ngày các em phải luôn đeo túi ny-lông: khi đi học, ăn cơm hay cả lúc đi ngủ… Sau vài ngày, túi của nhiều em học sinh đã có nhiều khoai tây. Sự phiền phức khi phải mang vác túi khoai khiến các em cảm nghiệm được gánh nặng tinh thần đang phải chịu đựng. Sau mấy ngày, khoai tây bắt đầu phân huỷ thành một thứ nhầy nhụa hôi hám và các em chỉ muốn mau vứt được nó đi.
Bấy giờ, thầy giám thị mới tập trung và nói: Các em thấy đó. Sự giận dữ một ai đó chỉ là một gánh nặng cho bản thân chúng ta, nó làm chúng ta mất nhiều thời gian để quan tâm tới nó; Nhiều khi còn gây cho người chung quanh chúng ta phải bực bội nữa… Như vậy tha thứ chính là cách làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, giúp cuộc sống của chúng ta luôn bình an, và là phương thế mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng làm thật không dễ chút nào. Vì tính tự ái, vì thiếu lòng quảng đại, nên chúng ta thường nuôi dưỡng sự hận thù và như vậy là ta đã tự làm khổ mình và tha nhân bên cạnh.
5) GIỮ ĐẠO VỚI TRÁI TIM CỦA MỘT CON HEO HAY CỦA MỘT VỊ THÁNH ?
Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già với áo quần cũ kỹ, nhàu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn thần thì thấy mặt bệ hạ giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh là sao ?” Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng thấy họ giống như heo. Ngược lại, một người có tâm hồn và trái tim của một vị thánh, sẽ thấy người chung quanh giống như các vị thánh”. Nói xong, vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
6) THẾ NÀO LÀ MỘT VỊ THÁNH HOÀN HẢO ?
Có một thanh niên đến xin tu học với một vị ẩn sĩ trên núi nổi tiếng nhân đức thánh thiện. Sau vài năm theo học, một hôm anh ta đến xin thầy cho xuống núi hành đạo, vì thấy mình đã trở thành một người thánh thiện. Bấy giờ vị thầy mới hỏi: "Từ ngày lên núi ở với thầy đến nay con đã đạt được mức độ thánh thiện thế nào rồi ?". Anh tu sĩ nhanh nhảu khoe: "Con đã sống rất khổ hạnh, đã làm nhiều việc hành xác như: không ăn thịt cá mà chỉ ăn rau cỏ, kiêng cữ uống rượu, các lạc thú xác thịt và tránh những món ăn ngon. Ban đêm con nằm ngủ trên nền đất lạnh giá và còn đánh tội 3 lần mỗi ngày!". Nghe vậy, vị thầy liền mỉm cười và ôn tồn nói: "Sự thánh thiện của con cũng khá đó. Tuy nhiên, con hãy nhìn ra sân sau nhà mà quan sát con lừa của chúng ta: Ban ngày nó cũng chỉ ăn cỏ ngoài cánh đồng, ban đêm cũng chỉ nằm ngủ trên nền đất lạnh giá. Nó cũng không uống rượu không hưởng lạc thú xác thịt. Thân thể của nó cũng bị người chăn đánh đòn ít nhất 3 lần mỗi ngày. Thầy nói thật cho con biết: Hiện giờ sự thánh thiện của con chỉ ở mức thấp nhất, và đừng nói là đã trở nên một vị thánh! ».
Anh tu sĩ nghĩ lầm rằng: khi anh tuân giữ một số hình thức tu đức là đã đạt được một mức độ thánh thiện cao, đang khi theo thầy thì sự thánh thiện của anh mới chỉ bằng con lừa mà thôi!
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊ-SU LUÔN GIỮ LUẬT MÔ-SÊ:
-Trong thời thơ ấu, khi mới sinh được 8 ngày, Hài Nhi Giê-su đã được cha mẹ làm lễ cắt bì như Luật Mô-sê dạy và được đặt tên là Giê-su (x Lc 2,21). Rồi bốn mươi ngày sau, cha mẹ lại đem Hài Nhi Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa (x Lc 2,22-24). Năm 12 tuổi, trẻ Giê-su đã theo cha mẹ đi hành hương lên thủ đô Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua (x Lc 2,41-42).
-Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su tiếp tục tuân giữ Luật Mô-sê: Người dạy việc giữ Luật là điều kiện để được vào Nước Trời: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn”. (Mt 19, 17). Người tóm gọn Lề Luật trong hai điều chính yếu là mến Chúa hết lòng và yêu người như mình (x Lc 10,25-28). Người ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ theo Luật Mô-sê dạy ngay trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,7-8).
2) ĐỨC GIÊ-SU ĐẾN KHÔNG HỦY BỎ NHƯNG KIỆN TOÀN LUẬT MÔ-SÊ:
- Tin Mừng hôm nay đề cập đến miệng lưỡi và con mắt là hai cơ quan khiến người ta phạm tội: Vì từ miệng lưỡi, người ta có thể nói ra những lời dối trá, xúc phạm kẻ khác. Vì « Lòng có đầy thì miệng mới nói ra » (x.Mt 12,34 b). Cũng do nhìn xem nên vua Đa-vít đã phạm tội « giết chồng đoạt vợ ».
- Đức Giê-su kiện toàn Luật bằng việc cấm cả nguyên nhân dẫn đến giết người như tức giận chửi rủa. Người đòi môn đệ phải sẵn sàng tha thứ làm hòa khi đi dâng lễ, để lễ vật xứng đáng được Thiên Chúa chấp nhận. Người cấm cả nguyên nhân dẫn đến tội ngoại tình như nhìn xem và ước ao phạm tội. Người đòi luôn nói thật và tránh sự thề thốt.
3) ĐỨC GIÊ-SU KIỆN TOÀN LUẬT MÔ-SÊ BẰNG LUẬT MỚI YÊU THƯƠNG:
- Luật được lập ra vì ích lợi cho loài người: Đức Giê-su dạy các môn đệ phải ưu tiên thực hành giới luật yêu thương. Người đã khen người luật sĩ đã phát biểu: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như yêu chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh” (Mc 12,33).
- Ngày nay sự công chính thánh thiện không hệ tại ở việc giữ Luật Mô-sê, mà ở đức tin vào Đức Giê-su thể hiện qua thực hành đức cậy và đức mến giữa đời thường. Tông đồ Phao-lô đã viết: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28). Nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hóa ra Đức Ki-tô đã chết vô ích hay sao ? “(Gl 2,21). Vì “Ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8).
4) THỰC HÀNH LUẬT YÊU THƯƠNG CỤ THỂ:
Trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời trao cho ông Mô-sê có điều thứ Năm: “Chớ giết người. Ai giết người là phạm tội nặng và sẽ phải đền tội” (x. Lv 24,17).
- Còn Đức Giê-su còn đòi môn đệ tránh cả sự giận ghét mắng chửi tha nhân: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23). Người dạy yêu thương tha nhân bằng thái độ bao dung nhân hậu, cảm thông thứ tha, lịch sự hòa nhã, không la mắng chửi rủa…, nhưng sẵn sàng tha thứ và đi bước trước để làm hòa khi đi dâng lễ tại nhà thờ.
- Nhìn thực tế cuộc sống hôm nay, hầu như mọi người chúng ta đều vẫn giữ luật « Chớ giết người ». Nhưng chúng ta lại chưa biết tôn trọng tha nhân. Nhiều người tín hữu đã chửi bới nhau trên các phương tiện truyền thông cách hồ đồ ... khiến những kẻ thù ghét đạo nói với nhau rằng: “Xem kìa, bọn Ki-tô hữu đang chia rẽ, chống đối và thù ghét nhau là dường nào! ».
4. THẢO LUẬN:
Có hai loại thước đo lòng đạo đức: Thước đo của người Biệt phái dựa vào việc tuân giữ Luật trong từng chi tiết, và thước đo của Chúa Giê-su dựa vào tình yêu thương. Vậy bạn sẽ chọn loại thước đo nào ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay bằng việc thực thi Đức Ái cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin cho chúng con sẵn sàng tuân giữ 10 Điều Răn Đức Chúa Trời và 5 Điều Luật Hội Thánh trong tâm tình yêu mến. Nhờ đó việc giữ Luật của chúng con sẽ làm vinh danh cho Thiên Chúa và giúp nhiều người được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
(Suy niệm Tin mừng Mat-thêu (5, 20-37) trích đọc vào Chúa Nhật 6 thường niên)
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ khởi đầu từ năm 1502, người nô lệ da đen Châu Phi bị săn bắt như TN 6-A75
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ khởi đầu từ năm 1502, người nô lệ da đen Châu Phi bị săn bắt như những con thú rừng, bị lùa lên tàu buôn như súc vật rồi bị đem đi bán cho các chủ đồn điền, cho những chủ nhân khai thác hầm mỏ ở Châu Mỹ… như những món hàng ngoài chợ. Họ không được xem là con người mà chỉ như là con vật, bị đối xử như súc vật, như trâu kéo cày, như ngựa kéo xe…
Như thế, người nô lệ không có chút phẩm giá nào trước mắt chủ cũng như trước mặt mọi người trong xã hội đương thời.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong xã hội phong kiến, phẩm giá của người phụ nữ cũng bị hạ thấp so với nam giới. Họ phải gánh chịu nhiều trói buộc, bị nhiều thiệt thòi, bị xem thường… vì não trạng trọng nam khinh nữ.
Theo quan điểm của những người theo thuyết tiến hóa, họ cho rằng con người là hậu duệ của loài khỉ, vượn… do khỉ, vượn tiến hóa mà thành, thì phẩm giá con người không hơn loài vật bao nhiêu.
Phẩm giá con người theo nhãn quan Ki-tô giáo
Trong khi đó, theo giáo lý Công giáo, con người có phẩm giá rất cao.
Con người có phẩm giá rất cao vì con người là tạo vật ưu việt của ba ngôi Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa sáng tạo nên theo hình ảnh Ngài.
Con người có phẩm giá rất cao vì con người là con chí ái của Chúa tể trời đất, được Thiên Chúa ưu ái như đứa con bé bỏng trong gia đình.
Con người có phẩm giá rất cao vì con người, một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, được trở thành một phần trong thân thể Chúa Giê-su (I Cr 6,15, GLCG số 1267).
Con người có phẩm giá rất cao vì con người được đồng hóa với Thiên Chúa, được nên một với Chúa; vì thế, những gì ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Chúa. “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa” (Thánh Athanasio, GLCG số 460).
Như thế, theo giáo huấn của Hội Thánh Công giáo, con người có giá trị cao vời, cao tột đỉnh.
Chính vì thế, qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải tôn trọng phẩm giá con người tối đa. Việc gây tổn thương cho con người dưới mọi hình thức đều bị Chúa Giê-su lên án mạnh mẽ.
Vì thế, chẳng những “không được giết người” mà ngay cả việc hờn giận người khác cũng bị luận phạt: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà”; ngay cả việc mắng chửi người khác cũng bị tuyên án gắt gao như lời Chúa nói: “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”, còn ai đang có điều bất hòa với người khác thì phải liệu làm hòa trước khi đến dâng lễ vật cho Thiên Chúa (Mt 5,22-23).
Ngoài ra, chiếu theo luật Mô-sê: “Con cái phải thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử!” (Mc 7,10).
Và ngay cả kẻ thù cũng phải được thương yêu, cả những người tội lỗi cũng phải được tôn trọng, những kẻ bé mọn nhất cũng không được xem thường (Mt 18, 10).
Nói tóm lại, vì con người có phẩm giá rất cao, nên phải tôn trọng mọi người cách tuyệt đối và không được xúc phạm con người dưới bất cứ hình thức nào. Mọi hình thức khinh khi, mắng chửi, xúc phạm con người đều bị Thiên Chúa lên án nặng nề.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa vì từ thân phận bụi đất thấp hèn, Chúa đã nâng chúng con lên hàng thần thánh, cho làm con của Vua cả trời đất, cho trở nên phần thân thể của Thiên Chúa chí tôn và được Chúa cho nên một với Ngài.
Xin cho chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến, phục vụ những anh chị em chung quanh, vì họ cùng là anh chị em con cùng một Chúa, cùng là những chi thể trong thân thể Chúa, cùng được chung hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng mai sau.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên Năm A đưa ra câu trả lời cho một vấn đề: sự TN 6-A76
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên Năm A đưa ra câu trả lời cho một vấn đề: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?
Hc 15: 15-20
Theo hiền nhân Si-rác, sự khôn ngoan của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người.
1Cr 2: 6-10
Theo thánh Phao-lô, sự khôn ngoan của Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan mà Tin Mừng công bố. Mầu nhiệm được ẩn dấu từ muôn thuở đã được Đức Ki-tô mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần, đó là kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại, tức là cho con người được dự phần vào vinh quang của Ngài.
Mt 5: 17-37
Luật Cựu Ước được xem như diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su công bố rằng Ngài đến để kiện toàn Lề Luật: những đòi hỏi mà Ngài thêm vào Lề Luật đem lại quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm. Lề Luật bị vượt qua một cách sâu xa khi đặt người Ki-tô hữu dưới cái nhìn của Thiên Chúa chứ không của con người.
BÀI ĐỌC I (Hc 15: 15-20)
Bản văn này rất nổi tiếng vì nó hình thành nên một trong những tham chiếu kinh điển thần học về vấn đề sự tự do của con người. Tác giả là một bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem, sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Ông là một nhà hiền triết, nghĩa là bậc thầy dạy lẽ khôn ngoan, đã mở trường và đào tạo môn sinh; ông ghi lại những thành quả từ kinh nghiệm và những gẫm suy của ông.
Vào thời đó, dân Ít-ra-en trải qua một khúc quanh lịch sử của mình. Sau khi trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, tiếp đó tái thiết Đền Thờ (521 trước Công Nguyên), Do thái giáo đã ý thức về chính mình. Ấy vậy, sau những cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-323 trước Công Nguyên), Cận Đông mở rộng cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Vào năm 250 trước Công Nguyên, nền văn hóa Hy lạp tràn ngập khắp miền Pa-lét-tin; những môi trường quý tộc ở Giê-ru-sa-lem sẵn lòng đón nhận nền văn hóa này. Ông Si-rác, tâm trí cởi mở và sáng suốt, thấy trước mối nguy: Do thái giáo có nguy cơ đánh mất tâm hồn của mình. Được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch Kinh Thánh, ông Si-rác đem lại niềm tin và sức mạnh cho các truyền thống của cha ông. Lề Luật, mà ông đồng hóa với sự khôn ngoan, đem lại niềm tôn kính cho chức tư tế và Đền Thờ, cũng cho những thực hành nghi lễ. Ông biên soạn một thủ bản dạy cách ăn nếp ở cho người Do thái trung thành, những người cưỡng kháng lại những ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp.
Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri. Nhưng khoảng năm mươi năm sau, vào khoảng năm 130 trước Công Nguyên, cháu nội của ông dịch tác phẩm này sang Hy ngữ. Sách của hiền nhân Si-rác là một loại bách khoa; nhiều chủ đề đa dạng được đề cập ở đây, không có trật tự xác định, nhưng chung chung được hợp thành nhóm theo chủ đề. Đoạn văn chúng ta bàn đến sự tự do của con người, gồm có ba phần:
-Khẳng định con người có quyền chọn lựa.
-Khẳng định Thiên Chúa là Đấng toàn năng và toàn tri, điều này xem ra đi ngược lại với sự tự do chọn lựa của con người.
-Giải pháp được phác họa dưới hình thức hai phủ định ở nơi câu cuối cùng.
1.Con người có quyền chọn lựa:
Hiền nhân Si-rắc khẳng định rõ ràng là con người có quyền quyết định số phận của mình. Thiên Chúa đã đặt trước mặt mỗi người sự chết (“lửa”) và sự sống (“nước”), tùy thuộc vào sự tự do chọn lựa của mình:
“Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15: 16-17).
Theo truyền thống Kinh Thánh, sự sống được liên kết với việc thực thi Lề Luật:
“Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15: 15).
Chúng ta có thể trích dẫn nhiều bản văn theo nghĩa này, chẳng hạn như Đnl 30: 15-20: “Hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lới của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu… Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên mặt đất… Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa…”.
Vài bản văn Cựu Ước có thể khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa điều khiển mọi hành động của con người – thậm chí những hành động xấu. Tuy nhiên, sự tự do của con người được khẳng định ngay từ sách Sáng Thế ở đó rõ ràng Thiên Chúa đã cho con người quyền chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Trách nhiệm tội lỗi không thể chối cãi là trách nhiệm của con người. Các tác giả Kinh Thánh thường đề cao sự tự do chọn lựa của con người: hoặc ăn năn sám hối hay cứ ngoan cố trong sự bất tín. Nhiều lần Kinh Thánh gợi lên sự nhẫn nại của Thiên Chúa, Ngài hy vọng, chờ đợi tội nhân trở về với Ngài. Hiền nhân Si-rác cô động các giáo huấn tản mác này và phát biểu một cách thấm thía và rõ ràng.
2.Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và Toàn Tri:
Đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, hiền nhân Si-rắc thắp sáng sự toàn năng và toàn tri của Thiên Chúa:
“Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (15: 18).
Dân Hy lạp nói: “Tinh thần mực thước là giới hạn duy nhất đối với quyền năng của các thần”. Hiền nhân Si-rác, không phải là không biết tư tưởng Hy lạp, nhất là tư tưởng của phái khắc kỷ, diễn tả một ý tưởng tương tự khi đặt lên hàng đầu trí khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nhưng trước hết Ngài là Đấng Thượng Trí. Trí khôn ngoan này đánh dấu sự giới hạn của Ngài đối với quyền tự do chọn lựa của chúng ta, nghĩa là Ngài không thể nào biết trước sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.
C. Chúa không cho phép ai phạm tội:
Trước vấn nạn này, hiền nhân Si-rác thoáng thấy một giải pháp mà ông diễn tả bằng hai câu theo hình thức phủ định:
“Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (15: 20).
Thiên Chúa muốn điều thiện chứ không điều ác. Khi đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, trí khôn ngoan của Ngài không bỏ mặc con người. Thiên Chúa lôi kéo con người hướng về điều thiện mà không áp đặt con người:
“Chúa để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện” (15: 19).
Nghĩa là Ngài trợ giúp con người bằng cách kêu mời nên thánh khi tuôn đổ muôn ân sủng của Ngài trên họ.
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 6-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Phao-lô đã nhắc tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng thánh nhân đã trình bày Tin Mừng cho họ như thế nào: bằng những ngôn từ thật đơn sơ mộc mạc, không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu.
1.Sự khôn ngoan của Tin Mừng:
Nhưng khi ngỏ lời với những tín hữu gốc Hy lạp, thánh nhân không thể không quan tấm đến sự khôn ngoan. Thánh nhân cũng bận lòng chứng mình rằng có “sự khôn ngoan của Tin Mừng”, gắn bó với đức tin dẫn đưa chúng ta thậm chí vào tận nơi sự khôn ngoan cao cả.
Đây không là sáng kiến của thánh Phao-lô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được trào lưu minh triết Cựu Ước ca ngợi rồi. Nhưng sự khôn ngoan này đã mặc lấy một khía cạnh mới với sự kiện Chúa Ki-tô ngự đến giữa loài người; sự khôn ngoan này bao hàm một mầu nhiệm: mầu nhiệm này đã được mặc khải ở nơi con người của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô dùng từ “mầu nhiệm” không theo nghĩa Hy-lạp: một bí mật phải được giữ kín, nhưng theo nghĩa của các sách khải huyền Do thái: kế hoạch mà Thiên Chúa tiền định từ trước muôn đời nay được vén mở.
2.Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
Trước tiên, thánh Phao-lô đưa ra hai khía cạnh tiêu cực của sự khôn ngoan, hay đúng hơn, khía cạnh tiêu cực thứ nhất là bút chiến: sự khôn ngoan này chỉ đạt đến cho “các tín hữu trưởng thành”. Ở đây, thánh nhân nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô, cho thấy họ chưa trưởng thành qua những tranh cãi trẻ con. Khía cạnh tiêu cực thứ hai nhắm đến sự khôn ngoan của thế gian, tức là những thủ lãnh nắm quyền thống trị thế gian: chắc chắn vừa là những thế lực ma quỷ vừa là thế lực của những kẻ hám danh lợi trên cõi thế này, đặc biệt những quyền lực chính trị, như thánh nhân xác định sau này.
Tiếp đó, thánh Phao-lô đề cập đến khí cạnh tích cực của sự khôn ngoan Ki tô giáo, đó là biết được ý định của Thiên Chúa đã được tiền định từ trước muôn đời, nay được bày tỏ ra, tức là cho con người được dự phần vào vinh hiển của Ngài.
Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã biết được kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, họ đã đóng đinh “Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”. Thánh Phao-lô cho Đức Ki-tô một tước hiệu mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Thánh nhân thường hằng nhận ra Đức Giê-su là “Chúa”, như vậy hàm chứa Thần Tính của Ngài. Qua tước hiệu cao cả này, thánh nhân nhấn mạnh sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngoài ra, khi lấy lại từ ngữ “vinh quang”, thánh Phao-lô chỉ ra rằng chính qua Chúa Ki-tô mà chúng ta mới có thể được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
3.Sự khôn ngoan cao vời khôn ví:
Vận mệnh vinh quang này mà Thiên Chúa dọn sẵn cho loài người không thể nghi ngờ được. Thánh Phao-lô trích dẫn khá tự do một đoạn văn của Is 64: 3: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Sự khôn ngoan cao vời của Thiên Chúa không ai có thể đạt đến được nếu không có mặc khải, “còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí”.
Đại từ “chúng ta” này chỉ ra thánh nhân và những cộng tác viên của thánh nhân. Thánh nhân thường nhấn mạnh ơn thần khải mà sứ vụ tông đồ hưởng được. Thánh nhân đã có kinh nghiệm trực tiếp về điều này. Dù thánh nhân đã không sống với Đức Ki-tô tại thế, nhưng đã lãnh nhận ơn gọi độc nhất vô nhị: ánh sáng trên đường Đa-mát không ngừng soi sáng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 5: 17: 37)
Sau khi đã trình bày cho các môn đệ cách ăn nếp ở được chỉ ra trong bản Hiến Chương Nước Trời về các Mối Phúc, Chúa Giê-su sắp đi vào chi tiết và đối chiếu bản Hiến Chương này với Luật Mô-sê.
1.Đức Giê-su kiện toàn Lề Luật:
Khi khẳng định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi”, Chúa Giê-su mượn kiểu nói văn chương mà các kinh sư thời đó thường lập đi lập lại: “Đừng chạm tới một chấm một phết của Lề Luật”. Qua kiểu nói này, các kinh sư lưu ý rằng họ vui thích giải thích Lề Luật, nhưng không bao giờ cho phép mình sửa đổi bất kỳ chi tiết nhỏ nhặt nào của Lề Luật.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su hạn định lời khẳng định của mình: “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chắc chắn phải hiểu cho đến khi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài thiết lập một trật tự mới.
2.Điều quan trọng của Lề Luật:
Trong lời phát biểu của Chúa Giê-su, “kẻ nhỏ nhất” và “kẻ lớn nhất” không diễn tả đẳng cấp hơn kém, nhưng là kiểu nói sê-mít bày tỏ sự tán thành hay không tán thành đối với cách hành xử của một người nào đó. Việc ca ngợi Lề Luật và tuân giữ Lề Luật dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất khó ăn khớp với giáo huấn theo sau của Chúa Giê-su, Ngài sắp lật đổ thể chế Lề Luật này và thay đổi nó trên nhiều điểm quan trọng.
Nhưng đừng quên rằng thánh Mát-thêu đang ngỏ lời với độc giả Do thái cải đạo hay muốn cải đạo. Điều quan trọng là phải chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-su đã không thực sự hủy bỏ Lề Luật, ít nhất những lệnh truyền luân lý của Lề Luật (những chỉ thị về nghi lễ nhất thiết trở nên lỗi thời đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái), nhưng Ngài kiện toàn Lề Luật.
Ngoài ra, mạch văn trực tiếp không loại trừ bầu khí bút chiến chống lại những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su đã trách cứ những người này không phải vì họ tuân giữ Lề Luật cho đến những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng vì họ tin rằng việc tuân giữ này miễn cho họ khỏi thực thi những nhân đức. Phải đọc lại chương 23 ở đó Chúa Giê-su trách cứ nặng lời: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23: 23).
3. “Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo…”:
Vào thời Chúa Giê-su, Lề Luật được tán dương hết mức, dù các ngôn sứ đã kịch liệt đả kích. Lề Luật bất khả xâm phạm, nó được đồng hóa với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thật ra, những luật luân lý đã làm cho lề luật cao hơn các luật của thế giới dân ngoại chung quanh.
Chúa Giê-su sắp kiện toàn Lề Luật, thậm chí đưa nó trở về sự tinh tuyền nguyên thủy khi định vị những yêu sách của Lề Luật trước tiên ở nơi lòng dạ chính trực và phân định luật yêu thương như luật cao hơn tất cả mọi luật khác.
Đức Giê-su phát biểu long trọng với một uy quyền tối cao: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…”. Ngài tự đặt mình là nhà lập pháp trên ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Do thái. Đức Giê-su sắp đưa ra nhiều ví dụ, trong số đó ba ví dụ đầu tiên là sát nhân, ngoại tình, thề gian.
A. Tội sát nhân:
Chúa Giê-su không chỉ kết án tội sát nhân, nhưng còn những khích động trong lòng dẫn đến tội sát nhân. Ngài đặt theo mức độ tăng dần: chỉ nóng giận, nóng giận với những lời mắng nhiếc, nóng giận với những lời chửi rủa. Những án phạt theo mức độ tăng dần: trước tiên tòa án địa phương, rồi đến Thượng Hội Đồng, và sau cùng là lửa hỏa ngục.
Nhưng sẽ không có tội sát nhân, sẽ không có tòa án, nếu luật yêu thương ngự trị giữa con người. Vì thế, trước khi dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trước tiên phải tự mình hòa giải với người khác: “Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công”, nghĩa là đừng đợi đến lúc trình diện trước “quan tòa”, tức trước Thiên Chúa, rồi mới hối cải.
B. Tội ngoại tình:
Luật kết án tội ngoại tình chỉ khi nào bắt quả tang. Chúa Giê-su công bố rằng ngay khi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Không luật pháp phàm nhân nào có thể đi xa đến như vậy; Luật mới xem những tư thế sẵn sàng trong lòng còn quan trọng hơn những hành vi bên ngoài. Chúng ta luôn luôn theo hướng đi các Mối Phúc.
Chúa Giê-su nhấn mạnh tư tưởng của Ngài bằng những hình ảnh cố ý cực đoan: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc nó mà ném đi…”. Tiếp đó, Ngài tiếp tục khai triển tội ngoại tình. Luật cho phép chồng rẫy vợ. Chúa Giê-su tuyên bố rằng mọi hình thức rẫy vợ đều là tội ngoại tình, vì ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; vì thế, người chồng phải chịu trách nhiệm về tội ngoại tình của vợ. Cũng vậy, ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. Chúa Giê-su sẽ còn tuyên bố nghiêm khắc như vậy khi Ngài nói về sự bất khả phân ly của hôn nhân: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu , không có như thế” (Mt 19: 8). Từ đây, chính luật yêu thương phải trổi vượt trên mọi lề luật.
Câu “ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp” của thánh Mát-thêu đã làm tốn không biết bao giấy mực. Phải chăng Chúa Giê-su tiên liệu một trường hợp theo đó việc ly dị có thể? Đây là điều người ta gọi “luật trừ của thánh Mát-thêu”. Bản văn được dịch sát từ: “trong trường hợp điều trơ trẽn”. Vài người đã thấy ở đây một ám chỉ đến sự bất trung của người vợ; thật ra, Lề Luật tiên liệu theo đó hình phạt của tội ngoại tình không là rẩy vợ, nhưng là ném đá. Những người khác nghĩ rằng đây là trường hợp vô hiệu của hôn nhân: việc ăn ở với nhau không cưới xin và đặc biệt loạn luân hay đồng tính luyến ái, tức là trường hợp mà Lv 18: 6-18, 22 đã tiên liệu và nhấn mạnh tính chất trơ trẽn của những hôn nhân này.
C. Tội thề thốt:
Ví dụ thứ ba Chúa Giê-su trưng dẫn là tội thề thốt. Vào lúc đó việc người ta lạm dụng việc thề nguyền là một trong những vết thương của Do thái giáo. Sự tinh tế của các tiến sĩ Luật đã thiết lập vài biểu thức cam kết thật sự, những biểu thức khác chỉ cam kết cho có lệ. Thánh Mát-thêu trưng dẫn vài biểu thức này ở chương 23: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc… Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt 23: 16-22).
Chúa Giê-su chứng minh rằng vì phải tuân giữ Lề Luật bên ngoài, người ta buộc phải thề nguyền, đó là phạm thánh và bội thề. Việc chỉ trời, ngai Thiên Chúa, hay đất, bệ chân Ngài, mà thề được mượn ở Is 66: 1-2; còn việc chỉ Giê-ru-sa-lem, thành của Đức Vua cao cả mà thề xuất phát từ Tv 48. Thêm một lần nữa, Ngài đưa vấn đề trở về chiều kích nội tâm của nó: chân thành với chính lòng mình. “Hể ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.
Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do TN 6-A77
Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.
Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.
Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.
Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.
Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.
Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5
Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23).
Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.
Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.
Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9
Điều răn thứ 6 dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.
Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!
Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8
Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.
Cuốn sách hai chữ: Yêu Thương.
Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.
Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.
Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.
Luật “là hàng rào che chắn , bảo vệ, cứu vớt, tar3 lại công bằng, minh bạch cho “ nạn nhân “. Như TN 6-A78
“Luật “là hàng rào che chắn , bảo vệ, cứu vớt, tar3 lại công bằng, minh bạch cho “ nạn nhân “. Như vậy, “ luật “ gọi là “ chiếc lưới”. Ngoài luật trần gian do con người tạo lập, người ta gọi là ” lập pháp”, từ những căn cứ thức tế, người ta tích lũy , đúc kết , cùng với thời gian, lịch sử nước sở tại và thế giới, cùng với tri thức và sử sách, người ta soạn thảo, rồi đưa ra một “ đạo luật “, sau đó đưa ra lấy ý kiến, gọi là trưng cầu công khai, dân ý. Sau cùng, do một cơ quan cao nhất gọi là Quốc Hội thống nhất ban hành.
Ngày nay, ngày càng tiến bộ, văn minh là nhờ vào việc thực thi pháp luật. Pháp luật dành cho người dân, nên gọi là “ tư pháp”, đứng đầu ngành tòa án là “Bộ Tư Pháp”, luật dành cho Đất Nước, cho Quốc Gia gọi là ” Hiến Pháp”. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc ngày càng kiện toàn hiến pháp và luật pháp. Nhưng, thực tế không “tròn trịa” như vậy, người ta cũng “bóp méo” hiến pháp và luật pháp để tư hữu bất chính, để “ lợi ich nhóm “, bòn rút của nhân dân, dẫn đến bất công, ta thán.
Như vậy, khi “ luật” trần gian xử lý bất công, bất minh thì sao ?! Thưa, phải có “ LUẬT TRỜI”. Như vậy, luật pháp là “phương tiện “ rất gần gũi với con người, không thể tách rời. Vì ngay từ đầu Sáng Thế, Thiên Chúa đã ban hành luật pháp. Luật đầu tiên chính là ” Lời Chúa”. Qủa thật, nếu chúng ta tuân giữ Lời Chúa, thì Lời Chúa chính là ” ÁNH SÁNG “ cho chúng ta, vì “ Lời Chúa là đèn soi cho con bước , là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 118). Nếu chúng ta có ánh sáng Lời Chúa chỉ đường, thì chúng ta sợ gì luật trần thế. Vì, luật pháp dung xử lý cho kẻ “ phạm luật “, chứ luật pháp không xử lý người “ vô tội”. Nhưng, nhiều khi, “ luật” trần thế cũng xử luôn người vô tội, như “ luật pháp của Việt Nam “, nhìn đâu cũng thấy có tội “phạm pháp ”.
Thiên Chúa chỉ có một “ luật “ duy nhất đó là ” tình yêu “ dành cho con người, luật tình yêu bao trùm tất cả cho kẻ dữ, cũng như người lành. Như vậy, mọi luật pháp dưới bầu trời nầy đều quy về Thiên Chúa. Vì vậy, không có luật nào của trần thế xây dựng và ban hành một cách chính đáng mà không dó bởi “ LUẬT TRỜI”. Nhưng, mỗi Quốc Gia đều có quyền độc đóan riêng, đều có những động thái hành xử trái hiến pháp và Pháp Luật. Họ cứ nghĩ “ quyền “ cầm quyền là thượng sách, tối thượng, hay tối cao, họ gạt bỏ Thiên Chúa, hầu cai trị như một thế độc tôn hữu hình duy nhất mà không cần biết đến sự siêu nhiên, quyền năng vô biên của Thượng Đế.
Vì thế, dù vậy, Thiên Chúa vẫn dạy chúng ta “ tôn trọng ” nhà cầm quyền, luật pháp trần gian. Chúng ta không có quyền đứng lên lật đổ chính quyền, gây bạo động, dùng vũ trang, vũ lực. Vì , mọi quyền hành dưới trần thế nầy không nằm ngoài Quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa.
Trở về với Cựu Ứơc, chúng ta thấy, sau khi loài người phản nghịch, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một “ dân riêng “. Sách Đệ Nhị Luật là một trong năm cuốn sách Thánh Kinh đâu tiên , gọi là “Ngũ Thư” . Nhưng, Đệ Nhị Luật là sách luật dành cho sự “công bằng” theo sự “ trả đũa”. Mắt đền mắt răng đền răng. Trở thành một thứ luật trong dân tộc Dothai như một thứ “ gông cùm “ xiềng xích, chứ không phải như một “ân sủng”. Từ đó, chúng ta thấy “ân sủng” từ Thiên Chúa ban xuống trên con người , dường như bị “ bóp nghẹt”, con người sống trong sự “sòng phẳng” ăn thua một mất , một còn, dẫn đến một xã hội loài người như “xã hội đen”, tình yêu của Thiên Chúa hầu như m” phản tác dụng”. Vì thế, họ mong mỏi ơn Cứu Độ, một ơn mà được Thiên Chúa “ Hứa” từ ngàn xưa, để cứu thoát dân tộc Dothai.
Vì cứ “ mắt đền mắt, răng đền răng”, thì sự sống teo tóp, nguồn sống là Thiên Chúa sẽ bị lu mờ, không còn chiếu tỏa được.
Vì thế, hôm nay đây một lần nữa, chúng ta cùng suy niệm lại đoạn Tin Mừng ( Mt 5, 17 -37), Chúa Giêsu nói: “ Ta đến không phải hủy để bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn “ ( c 17).
Tại sao vậy ? thưa quý vị, thưa: vì là Luật của Thiên Chúa dành cho con người và vì con người, nhưng ban hành qua con người, vì thế cái luật “đó “không chuyển tải, không thông ban xuyên xuốt tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại được. Vì vậy, Đấng Cứu Thế đến là để kiện toàn, kiện toàn lề luật là kiện toàn tình yêu bởi Thiên Chúa. Kiện là: làm cho mạnh lên, cho chắc chắn, bền vững. Toàn là: làm cho đầy đủ, hoàn toàn. Như vậy, Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật, làm cho nó “ thông suốt” hầu để nguyên lý tình yêu là chính Thiên Chúa được lan tỏa.
Theo đó, Muối và ánh sáng là chủ đề khai dẫn chủ đề lề luật tuần này. Như chúng ta biết, muối có vị mặn là để làm chắc lên, làm cho mạnh mẽ, như vậy muối góp phần tạo nên “sức mạnh”. Và như vậy, “muối “ có tính chất “kiện toàn “. Ánh sáng là để tỏa sáng, làm chiếu tỏ những nơi tăm tối. Như vậy, Chúa Giêsu nêu bật giá trị của muối và ánh sáng là nêu bật giá trị tình yêu nơi Thiên Chúa. hầu làm chó “Tình yêu “ phát sinh nguồn sống. D9inh5 nghĩa tình yêu là:” thông ban”, ban 3cha61t tình yêu là: nguồn sống. Vì vậy, mới nói Thiên Chúa là Tình Yêu. Theo đó, tính dục chỉ là một phần của tình yêu thuần túy, chứ tính dục không phải là tình yêu thuần khiết và tròn đầy bởi Thiên Chúa.
Cũng nằm trong sự thông truyền sự sống, nhưng , tính dục chỉ phản ánh một phần của sự sống hữu hình. Còn tình yêu phản ánh trọn vẹn sự thông ban nguồn sống từ Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu thuần khiết và tính dục tự nhiên cũng giống như sự vô biên siêu nhiên và sự hữu hình. Tình yêu là sự thôi thúc nội tâm từ Thần Khí siêu nhiên. Tính dục là sự thôi thúc từ xác thịt hữu hình, bụi đất.
Luật pháp của Thiên Chúa được bắt nguồn từ tình yêu siêu nhiên giống như bầu trời bao phủ nhân loại toàn thể vũ trụ, còn luật pháp thế trần chỉ giống như những tán cây ở đưới bầu trời mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến hầu kiện toàn lề luật, là kiện toàn tình yêu cho thế gian, Chúa đã dạy cho chúng con biết chân lý của sự sống, đó là tình yêu, tình yêu thông ban sự sống, một sự sống bất diệt từ Thiên Chúa.
Có thể nói những ai được mời gọi bước theo Đức Kitô là những người hạnh phúc nhất trần gian TN 6-A79
Có thể nói những ai được mời gọi bước theo Đức Kitô là những người hạnh phúc nhất trần gian. Tại sao ? Thưa, bởi vì , không một ai có thể trao ban một tình thương trọn vẹn và vĩnh cửu như Đức Kitô. Có thể nói rằng: Người chính là “Hạt Muối tinh khiết” mà Thiên Chúa đã bỏ vào biển đại dương là thế gian. Vâng, đại dương thế gian ,nếu không có muối là vị mặn của Thầy Giêsu thì nó sẽ ươn thối từ rất lâu. Bởi thế, cho nên Chúa Giêsu chính là “vị mặn” để ướp đời.
Tin Mừng Chúa Nhật VI TN hôm nay sẽ triển khai ý nghĩa trên. Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong chương 15 , từ câu 32 đến câu 39, của Mt.
Chương Mt 15 có 05 phần:
– Tranh luận về truyền thống – Điều gì làm cho con người ra ô uế – Đức Giêsu chữa bệnh cho con gái người đàn bà Ca-na-an. – Đức Giêsu chữa nhiều bệnh nhân tại biển hồ Ga-li- lê. – Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần II .
Kính thưa quý vị, bánh và cá là lương thực cần thiết và quen thuộc đối với cuộc sống nhân thế nói chung và người cùng thời với Chúa Giêsu.
Như vậy, “Bánh và Cá” mang ý nghĩa biểu tượng gì trong Kinh Thánh ? Thưa “Bánh “ chính là “Thần Lương ”từ Thiên Chúa. Từ “bánh” là lương thực hằng ngày của con người, đến bánh “Thiêng Liêng ” của Trời là”Man-na”. Rồi đến chính “Thần Lương “ cao trọng mà chúng ta sẽ chia sẻ trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
“Cá” chính là tượng trưng cho nhân loại, sự sống của loài cá tuy ngắn ngủi, nhưng cá là loài động vật tượng trưng cho sự đa dạng, phong phú về chủng loại, màu sắc, kích thước. Cá còn có ý nghĩa góp phần mang lại sự sống cho con người.
Về mặt ý nghĩa nào đó, thì “ muối và cá” có sự liên quan mật thiết với nhau. Qua ý nghĩa cụ thể, chúng ta thấy, muối và cá là điểm tương đồng, tạo nên căn tính thiết yếu cho cuộc sống nhân loại. Cá tượng trưng cho sự “đón nhận và trao ban”, như vậy, cá mang đặc tính của tình yêu. Mặc nhiên, cá mang ý nghĩa “Ơn Cứu Độ”. Từ đó, cá mang ý nghĩa tượng trưng “Đấng Cứu Thế”. Chúng ta nhớ lại, tiên tri Gio-na ở trong bụng cá 3 ngày đêm, tượng trưng cho Đấng Cứu Thế “ chết cho nhân loại” 3 ngày trong mồ. Cá cũng tượng trưng cho vũ trụ đó nhận ơn mặc khải của Thiên Chúa. Hình dáng cá tượng trưng cho chén lễ hình chữ “Y”, miệng cá và đuôi cá cũng có hình chữ “Y “. Cá sống được là cần có nước, cũng như con người được sống trong ân sũng của Thiên Chúa.
Qua hình ảnh và ý nghĩa của cá, chúng ta thấy, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng yêu thương, đã ban tặng cho nhân loại chính Đức Giêsu- Kitô là “Cá “ cho nhân loại, Cá “ban sự sống”, tức “ Cá ”Thần Linh, “Cá” siêu nhiên. Chúng ta thấy trong Tin Mừng (Mattheu 15, 34) ,” … có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ …” Nhưng Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều, nuôi bốn ngàn người, chưa kể đàn bà và trẻ nhỏ. Con số “bảy” trong Kinh Thánh là số tượng trưng sự viên mãn, sự vô biên. Như vậy, cũng có dấu chỉ cho chính “Đấng Cứu Thế”, là Chúa Giêsu. Vì vậy, đây là dấu chỉ Chúa sẽ trao ban chính Thân Thể của Người làm Thần Lương nuôi nhân loại và Thánh Thể” ấy” hằng ở cùng nhân loại cho đến ngày viên mãn.Thánh Thể là Thần Lương Hữu Hình bởi mầu nhiệm Nhập Thể siêu linh của Con Thiên Chúa làm Người, Thánh Thể “ấy” ví như “Cá” được ướp muối Thần Khí Thiên Chúa, là vị mặn tình yêu, để trở nên “Chén “ Cứu Độ dâng lên Thiên Chúa vì nhân loại. Khi Người còn hiện hữu nơi Thân Xác Phàm Nhân, thì Người đã trao ban sự nhiệm mầu của Thân Thể. Tiên báo cuộc Tử Nạn nơi Thánh Thể, đồng thời sự Phục Sinh nơi nhiệm tích ấy, để ban cho nhân loại sự sống viên mãn. Nhưng thể thức nhiệm mầu, mà con người không thể hiểu được, đó là: “ Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra , trao cho các môn đệ, và các môn đệ trao cho đám đông” ( c 36).
– Dâng lời tạ ơn: có nghĩa là thánh hóa và ưng thuận, tự nguyện nộp mình, chịu khổ hình.
– Bẻ ra: có nghĩa là phân phát, chia sẻ sự hiệp thông bởi mầu nhiệm Thập giá. – Trao ban cho môn đệ: là những người đứng đầu, kế tục, được nhận lãnh.
– Các môn đệ trao cho đám đông: có nghĩa là nhận lãnh thì phải trao ban (định nghĩa tình yêu).
Như vậy, ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể là chia sẻ, trao ban , và được nhận lãnh. Không còn giữ cho riêng mình, nên chi được gọi là Công Gíao.Người được nhận lãnh thì phải trao ban, gọi là Tông Truyền. Đám đông có nghĩa là “cá” đã được ướp muối bởi “Thánh Thể Giêsu”.
Con số “Bốn” trong Kinh Thánh được tượng trưng cho nhân loại. Một ngàn (1.000), chỉ thời gian lấu dài. Có nghĩa là: “Thánh Thể Giêsu” được trao ban cho nhân loại trong một thời gian rất lâu dài. Cũng có thể hiểu năm 4.000 sau CN là thời gian viên mãn, chứ không phải từng 1.000 năm như người ta nghĩ.
Thánh Thể là Thần Lương Thiên Quốc, sự hội tụ của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, là nơi Thiên Tính Đức Chúa Trời, cùng với Linh Hồn Chúa Giêsu, tức Thiên Tính Thần Linh của Ngôi Lời làm Người, và Thần Khí Thánh Thần. Chứ không phải thịt máu đơn thuần của nhân loại. Nên chi, Linh Hồn của Đức Kitô không phải là linh hồn nhân loại, vì Người đã mang thân Xác nhân loại trong LINH HỒN CỦA THIÊN TÍNH, chứ không phải linh hồn nhân loại như người ta nghĩ.
Từ đó, Chúa Giêsu không có quyền phép riêng, Người hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong mọi sự. Ngôi Con không hoàn toàn tách biệt với Thiên Tính khi thực hiện chương trinh làm Người. Mầu nhiệm làm Người của Chúa Giêsu cũng toàn năng như Thiên Tính của Người, nhưng để thực thi mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại, mặc nhiên Người phải chu toàn. Người vốn dĩ ngang hàng với Thiên Chúa, vì vậy Linh Hồn Chúa Giêsu không phải là Linh Hồn nhân loại. Người hoàn toàn trút bỏ là tự nguyện mang lấy thân xác phàm nhân, chứ không phải trút bỏ Thiên Tính, vì đây là tuyệt đối. Nếu như thế, Thánh Thể của Người là hoàn toàn Thịt Máu nhân loại sao ? Như thế thì không phải là “Mầu Nhiệm Thánh Thể”.
Như vậy câu” Thầy chạnh lòng thương đám đông …” ( Mt 15, 32) là ý nghĩa tiên trưng rằng: Chúa Giêsu yêu thương nhân loại đến ngày viên mãn, và Thần Lương “ấy” chính là Bí Tích Thánh Thể, mà “Bánh và Cá” trong đoạn Tin Mừng hôm nay chính là ý nghĩa tiên trưng “ấy”, cũng như Man-na xưa trong Cựu Ước. Để làm rõ thêm vấn đề vừa nêu, chúng ta nhớ lại đoạn khác trong Tin Mừng ( Mt 28, 20 ) mang ý trùng khớp rằng: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” , câu cuối cùng của Tin Mừng Matthêu minh định rằng Bí Tích Thánh Thể là Thần Lương “GIêSU”.
Theo đó, tin vào Lời dạy của Chúa Giêsu, mà hằng ngày khắp nơi trên thế giới tin thờ, suy tôn, cảm tạ, mếm yêu Bí Tích Thánh Thể một cách không ngừng.
Vâng , “ Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20) , là Lời Hứa thể hiện tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại và những ai bước theo Người. Vì Người chạnh lòng thương đám đông.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con, và ban cho chúng con biết tin thờ Thần Lương của Chúa mọi ngày cách xứng đáng. Amen
Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn là bước khởi đầu để con người sống với TN 6-A80
Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn là bước khởi đầu để con người sống với nhau và với Chúa trên căn bản mười điều răn. Dần dần, vì những khung lề luật ấy mở rộng ra như là những định chế để họ bám theo cách máy móc, mất đi ý nghĩa về lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự. Lề luật dẫn đến không còn vâng phục Thiên Chúa mà chỉ theo hình thức. Sự yếu kém của lề luật không chỉ ra căn rễ của tội lỗi.
Lề luật mang tính hình thức.
“Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7, 7). Tính giới hạn của lề luật là sống vị luật, không kèm theo giá trị cốt lõi của lề luật. Luật mang tính hướng dẫn đời sống, song cũng vì thế mà có nhiều cách né luật để theo tự do của mình.
Tuân giữ lề luật một cách nghiêm chỉnh, người thanh niên vẫn thiếu một điều chính yếu, hiến dâng tất cả (Xem Mc 10, 17 – 21). Tuân thủ mọi điều răn một cách nghiêm túc, người thanh niên còn thiếu một điều vượt trên lề luật, buông bỏ tất cả để theo Chúa.
“Nói mà không làm” (Mt 23, 3). Dạy người khác tuân giữ lề luật nhưng chính họ lại không thực thi. Lề luật áp dụng trên người khác còn chính mình thì không.
Lề luật trói buộc người khác chứ không làm cho người ta tự do trong lề luật, như luật lệ ngày Sabat mà luật sỹ thường hay hỏi Chúa được phép làm hay không được phép làm? Chúa Giêsu hỏi lại họ, làm những việc lành, cứu chữa hay là mặc kệ (Xem Mt 12, 9 – 13).
Lề luật cần trở về với đúng nghĩa của nó như điều răn thứ nhất mời gọi: “Kinh mến Chúa trên hết mọi sự”.
Lề luật cần chỉ rõ căn nguyên tội lỗi.
Lề luật có khi che giấu tâm trạng bên trong, như luật không báo thù nhưng lòng vẫn căm phẫn. Như luật chớ ngoại tình những lòng vẫn dâm ô. Chúa Giêsu bảo cái gốc rễ sự xấu ở trong con người ra chứ không phải cái bên ngoài vào (Mc 7, 15). Thanh tẩy tâm hồn để việc giữ luật được nên trọn.
Lề luật để giới hạn con người trong chừng mực chứ không có chức năng chữa lành căn nguyên tội lỗi. Quyền năng tha tội đến từ Thiên Chúa, chứ không do con người giữ lề luật mà tẩy trừ tội lỗi. Chúa Giêsu chữa cho người bất toại: “Hãy vững lòng, tội lỗi của con đã được tha” (Mt 9, 2) thay vì nói hãy trỗi dậy mà đi!.
Tuân giữ lề luật của Chúa trên hết đó là quyền làm con Thiên Chúa. Như Thánh Vịnh có chép: “Hy sinh cùng lễ vật, Người đã chẳng màng, Người đã mở tai tôi, lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đòi. Bấy giờ tôi nói: Này tôi đến! trong cuốn sách đã chép dạy tôi: “Phải thi hành điều thỏa lòng Người. Lạy Thiên Chúa tôi, tôi mộ mến luật Người tận đáy lòng” (Tv 40 8 – 9).
Hoàn thành lề luật như Chúa Giêsu muốn dạy: Hoán cải nội tâm và Tin vào Tin Mừng. Nhờ vào quyền năng của Chúa để được tha thứ. Thực thi mọi sự trong lòng kính mến Chúa. Tình yêu làm cho lề luật được hoàn thành.
Theo thống kê của Bộ Y Tế trong dịp tết Canh Tý đã có hang ngàn người vì đánh nhau mà phải TN 6-A81
Theo thống kê của Bộ Y Tế trong dịp tết Canh Tý đã có hang ngàn người vì đánh nhau mà phải nhập viện. Đa số người nhập viện là thanh thiếu niên có sức khoẻ nhưng không làm chủ được bản thân.
Vì đâu mà người Việt nên nỗi? Đừng đổ lỗi cho thầy cô giáo, vì môi trường giáo dục nào cũng dạy học sinh phải trở thành người biết yêu thương, giúp đỡ mọi người. Đừng đỗ lỗi cho tôn giáo, vì tôn giáo nào cũng dạy biết yêu thương. Nhiều người Việt Nam rất sùng đạo, điển hình là ngày tết số lượng người đến lễ Chùa có lẽ còn đông hơn đi du lịch. Vậy tại sao nhiều người vẫn bạo lực và bất khoan dung với nhau?
Người Công giáo luôn được Kinh Thánh dạy dỗ biết sống hiền lành và khiêm nhường , biết sống bao dung và ôn hoà như Đức Ky-tô, thế mà ở đâu đó ta vẫn thấy người có đạo đã sống thiếu tình yêu. Thậm chí, có người còn nói rằng tin đạo chứ không tin người có đạo. Bởi vì vẫn còn đó những người mang danh Ky-tô hữu mà sống thiếu bác ái, thiếu công bình và thiếu tình yêu. Họ đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ vẫn đến nhà thờ nhưng vẫn trộm cắp gian tham, vẫn ăn gian nói dối, vẫn cãi nhau , chửi nhau giữa chốn chợ đời …
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần Phúc Âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Sống giữa một xã hội đầy hận thù như vậy, người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi phải sống triệt để giới răn yêu thương để làm chứng cho Tin mừng. Yêu thương thì “chín bỏ làm mười”. Yêu thương thì nhẫn nại đến nỗi “người ta có tát má này thì đưa má kia cho người ta tát”. Yêu thương thì luôn sống bao dung và sẵn lòng cầu nguyện cho kẻ đã xúc phạm đến mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen
Chúa Giêsu là một người thầy vĩ đại vì Ngài không dạy mà còn sống như lời mình đã dạy. Bao TN 6-A82
Chúa Giêsu là một người thầy vĩ đại vì Ngài không dạy mà còn sống như lời mình đã dạy. Bao người mộ mến đi theo Chúa và được Người yêu thương. Thế nhưng, trước những việc làm tốt đẹp của Chúa Giêsu, các người Biệt phái và những người Pharisêu tỏ ra rất khó chịu, họ tìm cách giết Người. Các môn đệ cũng lầm tưởng theo kiểu thế gian về những việc Thầy đang làm. Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Chúa Giêsu đã kiện toàn điều gì nơi Lề Luật?
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng,… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Đó là cách Người gợi nhắc cho các môn đệ nhớ lại điều Luật xưa đã dạy và lắng nghe điều Thầy dạy ngay lúc này đây. Tất cả những gì Luật Môsê chỉ dẫn, các môn đệ đều phải giữ nhưng bấy nhiêu thôi thì chưa đủ. “Nếu anh em không sống công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Các kinh sư và những người Pharisêu chỉ sống công chính bằng việc giữ Luật mà bỏ qua lòng nhân ái. Sự công chính mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải sống đó là luật yêu thương. Luật yêu thương sẽ giúp chúng ta vươn cao hơn mãi. Tình yêu sẽ làm cho con tim của chúng ta triển nở hơn mỗi ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc sống yêu thương.
Yêu thương là luôn đi bước trước. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Ai trong chúng ta sẵn sàng bỏ qua tự ái để đi làm hòa với người khác? Của lễ nào là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa? Đó chẳng phải là tình yêu thương, lòng vị tha chúng ta dành cho nhau sao. Nếu như lòng tự ái của chúng ta cao quá, chúng ta vẫn ở lại dâng lễ vật đang khi tình huynh đệ đang bị rạn nứt thì nào có đẹp lòng Chúa đâu. Để có thể làm một bước đi mới như Chúa đòi hỏi, chúng ta cần để cho lòng mình lắng lại, để cho tình yêu chiến thắng ích kỷ và hận thù trong lòng, nhờ ơn Chúa, chúng ta mới có thể bước đến với người anh em, nhất là đến với người mà ta không mấy dễ chịu. Mỗi ngày, trước những chọn lựa, trong những chọn lựa và sau những chọn lựa của chính mình, chúng ta hãy tự hỏi: “Trong trường hợp này, con muốn như thế. Còn Chúa, Chúa muốn con làm gì?”.
Lạy Chúa Giêsu! Để sống được điều Chúa dạy, mỗi ngày Chúa vẫn mời gọi con vượt qua chính mình. Xin Chúa thanh luyện tâm hồn và trái tim con, xin thánh hóa ánh mắt con, lời nói của con và những hành động con dành cho anh chị em con. Xin Chúa luôn ở lại trong trái tim của con, trong lý trí và ở lại trên ánh mắt của con, trong lời nói của con, trên từng việc con làm, để tất cả chỉ vì một chữ yêu mà con trở nên môn đệ của Chúa. Amen.
Đi tới đâu, ở bất cứ nơi nào, chúng ta điều phải tuân thủ luật lệ ở đó. Có bao giờ chúng ta suy TN 6-A83
Đi tới đâu, ở bất cứ nơi nào, chúng ta điều phải tuân thủ luật lệ ở đó. Có bao giờ chúng ta suy nghĩ và tự hỏi: Luật đặt ra để làm gì? Tại sao mọi người đều phải tuân giữ?
Mỗi người có một lối suy nghĩ và có câu trả lời riêng. Tuy nhiên, điểm cốt yếu chính là luật đề ra để nhắm đến lợi ích cho đất nước và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Chúa Giêsu cũng khẳng định luật lập ra để phục vụ cho con người. Ngài đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài nhấn mạnh luật phải dựa trên tình bác ái yêu thương và phục vụ giữa con người với nhau. Bởi vì, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành (x Mt 5.18).
Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”(Mt 5,19a). Vì vậy, luật Chúa Giêsu trao cho Giáo hội mà chúng ta đang thực hành chính là các điều răn. Các điều răn đó xuất phát từ Lời Chúa là Kinh Thánh. Khi tuân giữ các điều răn đó là chúng ta cũng đang tuân giữ luật xã hội. Như thế, chúng ta đã đạt đến sự sống ở đời này và cả đời sau. Thế nhưng, ngày hôm nay, chúng ta dễ rơi vào lối sống của thuyết tương đối, nghĩa là khi phạm luật, chúng ta tự nhủ với mình hoặc với người khác rằng “phạm một lần có sao đâu”, hay một câu nói khác để biện minh cho hành động sai của mình. Từ lối suy nghĩ và hành động biện minh dẫn tới biết bao tai hại xảy ra cho đất nước và cho mọi người. Bao lâu, chúng ta không tuân giữ luật trong tình bác ái là chúng ta đang sống một cuộc sống ích kỷ và vô tâm với người khác, gây ra sự xáo trộn cho xã hội và Giáo hội. Còn khi chúng ta tuân giữ và dạy người khác tuân giữ là chúng ta đang làm chủ luật và xây dựng đất nước, hướng đến cuộc sống Nước Trời. Chúng ta sẽ trở nên người công chính ngay khi ở đời này.
Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì đã bao lần chúng con thờ ơ trong việc tuân giữ luật Chúa. Xin Chúa cho mọi người chúng con ý thức và bắt đầu lại việc thi hành luật yêu thương. Từ đó, mỗi người chúng con được sống hạnh phúc và đất nước được an bình. Amen.
Có lẽ chẳng ai không bao giờ mắc nợ, cụ thể là tiền bạc, không nhiều thì ít, dù chỉ là một số TN 6-A84
Có lẽ chẳng ai không bao giờ mắc nợ, cụ thể là tiền bạc, không nhiều thì ít, dù chỉ là một số tiền nhỏ – vài ngàn, vài trăm, vài triệu (theo mệnh giá tiền VN). Nói cho “sang” thì nợ là trái khoản. Và dù ít hay nhiều cũng phải thanh toán, không thể không trả nợ, vì còn nợ ngày nào thì “nặng mình” ngày đó. Khổ tâm lắm!
Về tinh thần thì còn nợ nhiều hơn: nợ cha mẹ, nợ gia đình, nợ thầy dạy, nợ hàng xóm, nợ bạn bè,… không nợ cách này thì cách khác, không trực tiếp thì gián tiếp: Nợ tình. Đúng là nợ ngập đầu! Món nợ đó không hề vay mà vẫn nợ, phải nợ, muốn nợ, Thánh Phaolô nói rằng nên mắc “món nợ tương thân tương ái” đó. (Rm 13:8) Đặc biệt nhất là ai cũng mắc nợ Thiên Chúa – kể cả người vô thần.
Được sinh ra làm người và được sống trên đời là một hồng ân cao cả, khôn tả. Và dần dần, với vốn kinh nghiệm sống, chúng ta luôn thấy có những điều trái ngược nhau nhưng lại không thể tách rời nhau, có cái này thì ắt có cái kia: Mở – đóng, cao – thấp, trên – dưới, nam – nữ, âm – dương, phải – trái, thiện – ác, đẹp – xấu, trẻ – già,… đặc biệt là sống – chết. Cái “nghịch” mà không hề ngược, vẫn xuôi, vẫn thuận. Bởi vì trí tuệ con người nhỏ bé, nông cạn, hữu hạn, không thể hiểu thấu, thế nên người ta cho đó là “cái vòng lẩn quẩn” bí ẩn, không thể lý giải. Người đời cho đó là Luật Nhân Quả, nhưng đối với người có niềm tin Kitô giáo thì đó chính là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Về vấn đề sinh – tử, chắc hẳn ai cũng thắc mắc, đặt vấn đề, bởi vì thấy đó là một nghịch lý, thế nhưng chẳng ai có được câu trả lời thỏa đáng, chấp nhận đó là điều bí ẩn đối với con người. Thơ rằng:
Sinh ra ai cũng khóc òa Đời vui sao chẳng cười xòa mà vui? Đến khi chết, nước mắt rơi Sao lại chẳng cười được thoát khổ đau?
Không chỉ là rắc rối, phức tạp, mà là nhiêu khê. Thế nhưng chẳng ai hiểu rõ cái nghịch lý đó. Khi sinh ra, ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, đứa trẻ nào bật khóc thì cha mẹ an tâm, đứa trẻ nào không bật khóc thì cha mẹ lo lắng. Phải chăng định mệnh đã an bài như phần cứng được cài đặt mặc định? Người ta vẫn thường nói: “Đời là bể khổ!” Có lẽ vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Định mệnh đó là sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Theo quan niệm Phật giáo, cái vòng đời lẩn quẩn đó được gọi là “vòng sinh tử” – cũng gọi là “hữu luân.” Đó là “bánh xe” của sự sinh tồn, chỉ sự luân chuyển của thế giới hữu hình. Đây là cách nói và biểu tượng của người Tây Tạng ám chỉ “vòng luân hồi” (sa.saṃsāra). Tuy nhiên, chắc chắn rằng “không có vòng luân hồi” như người ta quan niệm hoặc suy diễn. Đúng là bé cái lầm!
Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, lời thật thì chói tai, phải như thế mới có thể nên người, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai và cho toàn quyền tự chọn. Khôn hay khốn là tự mình mà thôi. Sách Huấn Ca cho biết: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa SINH cửa TỬ, ai thích gì, sẽ được cái đó.” (Hc 15:16-17) Rõ ràng con người được Thiên Chúa cho tự do hoàn toàn, và Ngài luôn tôn trọng quyền tự do chọn lựa của chúng ta. Lý do đơn giản, không có gì khó hiểu: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và TRÔNG THẤY TẤT CẢ. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và BIẾT RÕ TẤT CẢ những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.” (Hc 15:18-20) Minh nhiên và rạch ròi, “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng Nếu, Bởi, Tại, Vì… chi ráo trọi!
Yêu thương là Thiên Chúa, tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa, nơi Ngài chỉ có sự thiện mà thôi. Ngài toàn năng và toàn trí, đúng như Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.” (Tv 139:1-4) Chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm được gì, cũng chẳng thể biện hộ được chi. Vải thưa không thể che mắt thánh!
Và như đã nói – tất nhiên ai cũng biết, đó là tất cả chúng ta được Thiên Chúa ban cho quyền tự do chọn lựa, tùy ý thích cài này hoặc cái kia. Đơn giản như việc ăn uống, người ta tự do ăn bất cứ thứ gì, không chịu kiêng cữ thì béo phì hoặc bệnh tật là hệ lụy tất yếu. Có triết lý này: Cái gì TỐT thì luôn ĐẸP, còn cái gì ĐẸP chưa chắc TỐT. Ai chọn cái tốt đẹp, đó là người khôn: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.” (Tv 119:1-2) Theo Việt ngữ, KHÔN ngoan và KHÔNG ngoan có cách viết gần giống nhau nhưng hoàn toàn trái nghĩa – sai một ly đi một dặm.
Là những người tin vào Đức Giêsu Kitô, chắc chắn ai cũng ước mong xác định suốt đời về tín ngôn này: “Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh, truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn. Ước mong sao con hằng vững bước theo thánh chỉ Ngài ban.” (Tv 119:4-5) Và biết chân thành cầu nguyện liên lỉ: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:17-18) Biết hành động như vậy là người thực sự khôn ngoan, bởi vì biết chọn Đường Sống chứ không chọn Đường Chết. Khó chứ chẳng dễ, khó vì phải dứt khoát.
Tuy nhiên, muốn khôn ngoan như vậy thì chỉ có cách duy nhất là “bám vào Chúa” chứ không thể ỷ sức mình, đồng thời phải thiết tha cầu xin không ngừng: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.” (Tv 119:33-34) Chắc chắn Ngài chỉ chờ có vậy, nghĩa là Ngài sẽ không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ. Đó là sống tín thác, nhận biết mình hữu hạn, nhỏ bé, yếu đuối,…
Thánh Phaolô nói về sự khôn ngoan: “Điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:6-7) Thật vậy, “không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá.” (1 Cr 2:8)
Đúng như đã có lời chép: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.” (1 Cr 2:9-10) Quả thật, chúng ta là những người rất may mắn và diễm phúc!
Vấn đề sinh – tử cũng liên quan luật pháp. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng con người yếu đuối nên dễ sa đà, thoái hóa, hư hỏng, vì thế phải có luật pháp để kiểm soát, cũng như loài ngựa dễ sinh chứng nên cần có hàm thiếc để kiềm chế. Do đó, có những người hư hỏng đã hoàn thiện nhờ nghiêm luật: “Phúc thay người được Thiên Chúa sửa trị! Chớ coi thường giáo huấn của Đấng Toàn Năng.” (G 5:17)
Khi nhập thể làm người, chính Chúa Giêsu cũng vẫn luôn tôn trọng luật pháp. Ngài đã xác định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.” (Mt 5:17-19) Luật Chúa nghiêm minh nhưng vô cùng hữu ích, như Thánh Vịnh gia xác nhận: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8)
Có nhiều thứ cần cảnh báo mà Chúa Giêsu đã cho biết, đây là một trong số các cảnh báo: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5:20) Giết người, cướp của, gian dâm,… hoặc phạm những tội tày trời là điều hiển nhiên ai cũng ghét – ghét tội chứ không ghét người. Nhưng với Chúa Giêsu, tội nhỏ cũng không được phạm: “Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5:21-12) Thậm chí là điều xem chừng rất nhỏ mọn: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-25) Thực sự “căng” lắm! Nhưng đã là nghiêm luật thì có “căng” cỡ nào cũng phải làm, bởi vì chính Ngài đã nói thẳng thắn và rạch ròi: “Bạn sẽ không ra khỏi đó trước khi TRẢ HẾT ĐỒNG XU CUỐI CÙNG.” (Mt 5:26) Ôi chao, đúng là “căng” thật đấy!
Ai cũng biết rằng ngoại tình là chuyện lớn, không được “lóm lém” chi cả, nhưng Chúa Giêsu cấm cả chuyện nhỏ: “Ai NHÌN người phụ nữ mà THÈM MUỐN thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5:28) Và Ngài thẳng thắn và dứt khoát rằng “thà mù, cụt, què mà vào Nước Trời còn hơn đẹp trai hoặc đẹp gái mà phải vào hỏa ngục.” (x. Mt 5:29-30) Chúa Giêsu luôn rõ ràng, không mơ hồ, chẳng hoa mỹ hoặc bóng gió.
Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, luật pháp cho phép người ta ly dị, nhưng thời Tân Ước thì cấm triệt để. Chúa Giêsu cho biết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mt 5:32) Mọi hệ lụy đều có tính liên đới, kể cả tội lỗi.
Và còn hơn thế nữa, ngay cả việc thề thốt cũng là điều cấm: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:34-36)
Kết luận, Chúa Giêsu không dài dòng hoặc lòng vòng, mà tóm tắt cho dễ nhớ: “Hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5:37) Đó là Luật Chân Lý, Luật Sự Thật, rất ngắn gọn và đơn giản, nhưng đừng tưởng là “chuyện nhỏ,” bởi vì không dễ mấy ai dám làm đâu. Cái nhỏ mà lại quan trọng: Tế bào rất nhỏ, không thể nhìn bằng mắt thường, nhưng nó lại là “nền tảng” tạo chuỗi AND kỳ diệu.
Nếu thực sự muốn thanh toán món nợ tình thì chỉ có cách là sám hối, yêu thương mọi người và tha thứ mọi sự. Tất cả mọi trái khoản sẽ được Thiên Chúa tha bổng: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Tuyệt vời biết bao vì chúng ta được tận hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình và thoát khỏi “vòng lẩn quẩn” của cuộc đời này, xin thêm sức mạnh và lòng can đảm để chúng con miệt mài sống theo Thánh Luật của Ngài, giữ đúng mọi điều khoản. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hai vợ chồng lớn tuổi ghé vào một quán ven đường đề điểm tâm. Ăn xong, khi đã lên xe đi TN 6-A85
Hai vợ chồng lớn tuổi ghé vào một quán ven đường đề điểm tâm. Ăn xong, khi đã lên xe đi được khá xa, bà vợ mới sực nhớ là mình quên cặp kính trên bàn ăn. Suốt quãng đường trở lại quán, ông chồng luôn mồm cằn nhằn tính đoản vị, hay quên của bà vợ. Đến chỗ cũ, khi bà vợ tất tả chạy vào tìm kính, ông chồng dặn với theo:
– Bà nhớ cầm ra luôn cho tôi cả mũ lẫn ô nhé!
Đôi khi chúng ta hay trách người này chê người kia. Có khi kết án ông này bà nọ. Sự kết án của chúng ta khiến nhiều người bảo rằng: bạn hãy nhìn lại bản thân mình xem tốt chưa mà chê người khác? Vì có khi những điều sai lầm ấy chính chúng ta cũng đang hay đã từng mắc phải?
Điều quan yếu trong cuộc sống không phải là kết án nhau mà là biết sống tốt từ bản thân của mình để nên gương sáng cho anh em. Đừng sống theo kiểu mà cha ông ta từng chê trách:
“Chân mình còn lấm bê bê Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần Phúc Âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng mang danh con cái Chúa mà lại sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào Lòng Mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Nhìn vào thế giới hôm nay đó là một thế giới đầy bạo lực. Con người không cần lý lẽ. Người ta có thể dùng quyền để bẻ cong công lý. Người ta dùng sức mạnh để đè bẹp tự do và xâm phạm quyền sống của tha nhân. Vâng, giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, bằng gươm đao. Giữa một thế giới mà lòng nhân đã đánh mất chỉ còn sự giả hình, hay nhẹ hơn là mạnh ai nấy lo, sống thiếu tình liên đới với nhau. Người kytô hữu cần phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa mà chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa mà chúng ta hãy nhịn nhục lẫn nhau. Vì Chúa mà chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Vì Chúa mà chúng ta hãy “chín bỏ làm mười”, sống vị tha và bác ái với nhau.
Điều đáng trách là nhiều người mang danh ky-tô hữu nhưng lại sống thiếu tình yêu. Bởi vì vẫn còn đó những người siêng năng đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ có đạo nhưng họ vẫn sống rối vợ rối chồng, vẫn chồng chung vợ chạ, vẫn lăng nhăng, vẫn ngoại tình . . . Họ đến nhà thờ nhưng vẫn lỗi công bình bác ái trong lời nói và hành động. Họ mang danh Chúa Ky-tô nhưng lại sợ hy sinh, sợ trách nhiệm và trốn tránh bổn phận với gia đình và giáo hội.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen.
Con người bản tính mỏng dòn, Dễ dàng sa ngã, xói mòn chánh tâm. Luật điều Chúa dậy uyên thâm, Mở đường dẫn lối, tránh lầm thế gian. Giết người tội ác phá tan, Nơi tòa luận phạt, khóc than khổ sầu. Nếu ai phẫn nộ thẳm sâu, Trước bàn công nghị, xét hầu tội khinh. Nói ai khùng ngốc dối mình, Lửa thiêu địa ngục, cực hình tấm thân. Khi dâng của lễ dự phần, Thành tâm hòa giải, tinh thần bình an. Ngoại tình phản bội liên can, Tránh xa dịp tội, yên hàn tấm thân. Tay chân mắt mũi góp phần, Thà rằng cắt chặt, cứu thân tội đời. Thề gian dối trá đầy vơi, Lòng người độc ác, gọi mời đổi thay. Có thì nói có mới hay. Là người công chính, thẳng ngay sống đời.
Hãy làm hòa với anh em trước khi dâng của lễ trên bàn thờ. Truyện kể: Có hai ông bà già giận nhau đòi ly thân. Dù khuyên thế nào, ông già nhất định không chịu hòa giải với bà cụ. Sau lời khuyên của cha xứ, bà cụ đã sám hối, sẵn sàng bỏ qua, tha thứ và hòa giải nhưng ông chồng nhất định không chịu. Ông thì cứ khăng khăng bắt lỗi bà. Linh mục hỏi rằng vậy nếu khi bà cụ chết trước, được lên thiên đàng, rồi sau ông cũng chết, Chúa cho ông lên thiên đàng gặp bà cụ. Ông tính thế nào? Chưa hết giận, ông liền nói: Nếu gặp bà ở đó, tôi sẽ đi ra.
Hòa giải là một ơn huệ giúp tâm hồn chúng ta thanh thản và mang lại cuộc sống an vui thư thái. Nếu chúng ta không biết bỏ qua và tha thứ những lỗi lầm cho nhau, cuộc sống tự nó sẽ trở thành gánh nặng. Chúng ta phải vác và phải mang nó đi mọi nơi. Nó sẽ âm thầm gặm nhấm cuộc đời qua cách cư xử, qua sự lộ diện và mọi biểu tỏ cuộc sống. Chúng ta cứ phải nghĩ đến nó và đau khổ với nó. Cách tốt nhất hãy rời nó lại đàng sau và tiến bước.
Truyện kể: Người Ấn Độ muốn bắt khỉ, người ta lấy một chiếc hộp rồi cắt một lỗ nhỏ vừa đủ. Để những hạt đậu rang thơm phức bên trong. Chú khỉ ta đi qua, bắt mùi, thò tay vào bốc một nắm đầy. Vì tham, chú khỉ không rút tay ra được, đành chịu đứng đó cho người ta bắt. Chỉ vì chú khỉ không muốn buông nắm mồi. Để được tự do, chú khỉ chỉ việc buông tay và chạy thoát. Cuộc đời chúng ta cũng thế, chúng ta cần buông bỏ những thứ không cần thiết để được tự do.
Trong bài phúc âm dài Chúa Giêsu dậy chúng ta rất nhiều điều và nhiều luật. Luật bác ái và yêu thương là quan trọng nhất. Mọi điều luật đều qui về hai giới răn này là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Chúa nói rằng ai giữ và dạy người khác chu toàn lề luật là người cao trọng trong Nước Trời.
Chúa dạy rằng không được giết người, không nên phẫn nộ, không gọi anh em mình là ngốc và không rủa anh em là khùng, không ngoại tình và không thề gian dối. Nếu có chuyện bất bình, hãy làm hòa với nhau. Hòa thuận là mối phúc thật. Anh em xum họp một nhà bao la tốt đẹp, bao là sướng vui.
Hãy hòa giải với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ tìm được nguồn vui tự tại trong an bình. Hãy hòa giải với nhau, đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trình thuật về vấn đề “Đức Giê-su kiện TN 6-A87
Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trình thuật về vấn đề “Đức Giê-su kiện toàn luật Mô-sê”. Luật Mô-sê là luật gì mà Đức Giê-su phải kiện toàn? Xin sơ lược về Luật Mô-sê: Trong Kinh Thánh, sau trận lụt đại hồng thủy, “Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng: “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi, kể cả dã thú. Mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa. Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất.” (St 9, 8-16).
Sau đó, Thiên Chúa cứu dân Israel thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ra khỏi Ai Cập, dân Chúa đi vào rừng vắng, họ đi rất vất vả, nhưng được Thiên Chúa lo lắng mọi sự: cho họ ăn Man-na và chim cút, uống nước từ tảng đá. Dân Chúa cắm trại dưới chân núi Si-nai. Mô-sê theo lời Chúa, bảo dân tắm rửa sạch sẽ, rồi ông lên núi. Đến ngày thứ ba, sấm chớp kinh hoàng và một đám mây che phủ đỉnh núi. Chúa hiện xuống trên núi, toàn dân run sợ. “Ông Mô-sê bảo dân: “Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” Dân đứng xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự. ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem ĐỨC CHÚA, kẻo nhiều người phải lăn ra chết. Ngay các tư tế đến gần ĐỨC CHÚA cũng phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị ĐỨC CHÚA đánh phạt.”
Cuối cùng Thiên Chúa thiết lập bộ Luật Giao Ước (Xh 19, 1-25; 20, 1-25). Giao ước là cam kết giữa Thiên Chúa và dân Israel được thiết lập ở núi Si-nai. Tại đây, Thiên Chúa nhận dân Israel làm dân riêng và hứa sẽ che chở họ, còn dân thì hứa trung thành thờ phượng một mình Thiên Chúa và tuân giữ lề luật do Người ban truyền. Mười điều luật Giao ước được Thiên Chúa khắc trên hai bia đá. Ông Mô-sê đã làm một cái hòm để đựng, gọi là Hòm Bia Giao Ước hay Khám Giao Ước. Hòm Bia được đặt ở trong lều trung tâm trại của Israel được gọi là Lều Giao Ước. Mười giới răn trong Giao ước bao gồm: Ba điều răn đầu là luật phải giữ với Thiên Chúa, bảy điều răn sau là cách cư xử giữa con người với nhau. Nói cách cụ thể, Giao Ước Si-nai chính là điều răn trọng nhất mà về sau Đức Giê-su truyền dạy: “Mến Chúa yêu người” (Mt 22, 35-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28).
Đó là tóm lược lề luật mà Thiên Chúa ban cho It-ra-en thông qua Giao ước Si-nai, mà về sau Mô-sê diễn tả thành bộ luật (quen gọi là Luật Mô-sê). Khi diễn tả, tất nhiên cũng có xen vào ý chủ quan của nhà làm luật. Một ví dụ điển hình là trong “Bài giảng trên núi” (Mt 5, 1-48), Đức Ki-tô có nhắc lai một điều luật khắt khe trong Luật Mô-sê: “Mắt đền mắt răng đền răng” (với ngụ ý giữ luật công bằng). Thực chất điều này trong Giao ước Si-nai (Xh 21, 12-25) là: “Giết người không có mưu tính trước (“ngộ sát”) thì được tha, nhưng cố tình (“cố sát”) thì sẽ bị giết chết. Đánh đập gây thương tích nhưng không làm chết người, vẫn được tha; nhưng phải bồi thường thiệt hại cho người bị đánh (do nghỉ làm việc và tiền thuốc thang). Rõ ràng Giao ước Si-nai không quá khắt khe như luật Mô-sê; và vì thế Đức Ki-tô mới dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm… Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 38-44).
Ngoài ra, còn một nguyên do khác khiến Đức Giê-su phải kiện toàn luật Mô-sê, đó là: Những kinh sư và luật sĩ Pha-ri-sêu chống đối Đức Giê-su vì cho rằng Người chống lại Lề Luật (vd: không rửa tay trước khi ăn – Mc 7, 1-8; bứt lúa ăn ngày sa-bát – Mc 2:23 -28; hoặc chữa bệnh trong ngày sa-bát – Mc 3:1-6). Người Do-thái bị ảnh hưởng nặng nề bởi những giáo lý khắt khe của nhóm kinh sư Pha-ri-sêu, nên bất cứ một điều gì luật Mô-sê ngăn cấm thì họ đều tuân giữ triệt để. Đám người luật sĩ Pha-ri-sêu đã quên mất (hoặc cố tình bỏ qua) điều quan trong trong Giao ước của Thiên Chúa, đó là Người vẫn luôn tôn trọng sự tự do của con người trong khi thi hành luật lệ. Người đã dạy: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó. Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.” (Hc 14, 16-20).
Tất cả những điều phân giải trên cho thấy Đức Giê-su không hề có ý bãi bỏ luật Mô-sê. Người thấy trong luật Mô-sê có những điều luật không phản ánh đúng tinh thần Giao ước Si-nai, nên Người mới phải lên tiếng, cốt ý để kiện toàn mà thôi (“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 17-18). Mới thoạt nghe, không hiểu vì sao Đức Ki-tô lại nói về vấn đề bãi bỏ hay kiện toàn Lề Luật, nhưng đọc tiếp câu sau (“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” – Mt 5, 20), thì hiểu ra là Người muốn nhắc đến đám luật sĩ, kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
“Các nhà thông luật kinh sư và Pha-ri-sêu” rất đáng nhận những lời khiển trách này: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Họ tự cho là mình thông luật, muốn dùng luật lệ để dạy dỗ hướng dẫn người khác, nhưng khi hành động và nhất là cư xử với những người xung quanh, thì họ lại chứng tỏ họ là “quân dẫn đường mù quáng”. Dẫn đường mù quáng thì có khác gì “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6, 39). Thực ra, những người ấy không phải là không biết mình đang làm gì. Họ rất thông luật, miệng thì leo lẻo luật lệ, nhưng khi thực hành thì “Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.” (Lc 11, 46). Họ “đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.” (Lc 11, 52).
Quả thật những nhà thông luật “mồm loa mép giải” đã cố tình quên mất điều căn bản của Lề Luật là những lý luận mang tính răn đe, nhằm giúp con người trở nên hoàn thiện; nó chỉ thực sự có ích khi người ta đem ra thực hành. Nói (lý thuyết) mà không làm (thực hành) thì chỉ là thứ “thùng rỗng kêu to” mà thôi. Trong khi đó, đám kinh sư và Pha-ri-sêu dạy người ta cách giữ Luật để được khen ngợi chứ không phải để được nên hoàn thiện. Họ chỉ giữ cái vỏ bên ngoài mà cố tình quên đi cái cốt lõi bên trong (“Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” – Lc 11, 39). Họ chỉ nói mà không làm, hoặc nói một đàng làm một nẻo, “ngôn hành bất nhất”, nên Đức Giê-su mới dạy: “Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm hãy giữ; còn những việc họ làm thì đừng có làm theo.”
Với chủ định ấy, Đức Giê-su đã liên tục đưa ra 6 Lời khuyên: Đừng giận ghét, Chớ ngoại tình, Đừng ly dị, Đừng thề thốt, Chớ trả thù, Phải yêu kẻ thù. Trước hết là lời khuyên “Đừng giận ghét”: Con người khi đứng trước những mối bất hoà thường có 2 thái độ, hoặc nổi sùng tìm cách chống cự, hoặc thoái lui theo kiểu “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Chống cự, trả thù ư? Ca dao VN có câu “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, Đánh được người thì mặt vàng như nghệ”. Mặt đỏ như vang thì hách lắm, cứ như Quan Công ấy! Nhưng mặt vàng như nghệ thì hẳn là …không giống ai! Tức giận quá độ thì mặt đỏ bừng bừng, quyết một trận sống mái. Đánh người bị thương tật, thậm chí có thể tử vong, thì mình tránh sao khỏi vòng tù tội. Ấy là chưa kể mình đánh người, bộ người không biết đánh trả sao? Nếu người khoẻ hơn mình và trả đòn, hoặc nếu người không chống trả được, nhưng liệu con cháu người ta có để yên cho mình không? Chắc chắn phải tù tội, hoặc có thể bị trả thù, xin tí huyết, mặt lúc đó không “vàng như nghệ” thì còn “đỏ như vang” làm sao được nữa.
Đừng ngoại tình ư? Khó lắm! “Văn mình vợ người”, viết văn thì chỉ thấy văn mình là hay, còn văn thiên hạ là đồ bỏ; nhưng đối với người bạn đời thì lại thấy thua xa vợ hàng xóm. Thế đấy! Làm sao tránh khỏi tội ngoại tình khi trong tư tưởng đã như thế! Nên chi “ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đã có một truyện cổ kể rằng: Các bà phải mang nặng cái bào thai tới 9 tháng 10 ngày, đến khi sinh đẻ thì lại đau đớn tưởng chừng muốn đứt hơi, bèn bàn nhau lên xin Thương đế cho các bà chỉ chịu mang nặng thôi đã quá đủ, còn khi sinh nở thì để các ông đau đớn cho biết mùi. Thượng đế xét thấy cũng hợp lý và chấp thuận. Từ đó, mỗi khi các bà sinh đẻ, thì đức lang quân quằn quại kêu la; nhưng khổ một nỗi, không thiếu những trường hợp vợ ông A sinh, mà ông B lại quằn quại đau đớn. Phu nhân nhà sinh, đức lang quân hàng xóm đau, ấy mới kẹt! Thế là các bà lại lũ lượt kéo lên xin Thương đế cho “ai đẻ thì người ấy đau”. Kể cũng thú vị.
Cứ tưởng ở cái thời đại được gọi là văn minh phù phiếm này mới có nhiều cảnh cười ra nước mắt, thực không ngờ cách đây hơn 2.000 năm, ngoại tình đã làm xốn mắt Đấng Cứu Thế, và còn xa hơn thế nữa, bởi đến ngay như vua Đa-vit (cách Đức Giê-su tới 42 đời – Mt 1, 17-18) đã vợ con đùm đề (Sb 3, 1-9), mà cũng cầm lòng không được trước cảnh vợ của U-ri-gia, người Khết – một tướng quân thuộc quyền nhà vua – đang tắm, rồi thì cướp vợ và đầy chồng người ta ra biên ải, để mượn tay quân thù sát hại (2Sm 11, 10-26). Thế đấy! Quả thực, vấn đề ngoại tình là truyện dài từ xưa tới nay không có hồi kết. Bệnh ngoại tình đã trở thành bệnh mãn tính cổ kim thời đại, và có lẽ hơn ai hết, Đức Ki-tô biết rõ con người là như thế, nên Người đã không kết án người đàn bà ngoại tình; chẳng những thế, Người còn cứu chị ta thoát khỏi nhục hình “ném đá cho tới chết” như lụât Mô-sê thời đó (Ga 7, 2-11).
Rồi cũng từ cái “văn mình, vợ người” đi tới chỗ “chán cơm thèm phở” cũng chẳng bao xa và tếch thêm một bước nữa mấy hồi, khoái rẫy vợ là cái chắc! Ngày xưa thì còn hiếm chứ ngày nay thì đầy rẫy, mà cũng không thiếu những quốc gia chấp nhận, khuyến khích việc ly dị, khiến xảy ra biết bao thảm cảnh nhà tan cửa nát. Chia của, chia con, chia đủ thứ, rồi thì “Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi” (Thế Lữ). Rốt lại, cũng không đi ra ngoài Lời dạy của Đức Giê-su: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mt 5, 32). Chung quy cũng lại là ngoại tình, vậy mà còn được đời khen là ông ấy (bà ấy) có số đào hoa nữa cơ đấy!
Đến như thề thốt thì xưa và nay cũng đều coi đó như một cách minh hoạ cho lời nói chứng tỏ sự thật. Nói về một vấn đề gì, phải thề mới được người ta tin. Người chân chính mà thề thì chẳng nói làm gì, mà có lẽ cũng vì thế nên Luật Mô-sê mới khuyên “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa” (Mt 5, 33). Nhưng phần lớn – không, phải nòi là hầu hết mới đúng – những người dối trá, lươn lẹo, mới hay thề thốt, phần thì để che giấu cái xấu của mình, phần thì có thể lợi dụng lòng tin của người khác để lừa phỉnh, lường gạt. Ấy cũng bởi con người thích sự dối trá hơn là sự thật, thích khen hơn là chê, nên mới khoái thề thốt. Tuy nhiên, thề mà “thề cá trê chui ống” (tục ngữ VN) thì cũng trớt quớt (1) và… huề cả làng. Đó mới chỉ nói về mặt nhân sinh, nhưng còn mặt chính trị, kinh tế, xã hội, thì chẳng cần nói đâu xa, mà ngay ở cái nước VN lắm chuyện này, cũng nhan nhan cảnh ấy. Thực không thể ngờ được đến những người cầm cân nảy mực, quyết sách quốc gia, cũng đặt tay lên hiến pháp mà thề nhăng, hứa cuội! Ôi chao! Chỉ trời, chỉ đất, chỉ lên đầu, còn chỉ cả vào thần thánh mà thề nữa kia. Khiếp chưa? Chính vì thấy con người là như thế, nên Đức Ki-tô mới dạy: Đừng thề thốt.
Đức Giê-su muốn các môn đệ cũng như những kẻ tin theo Người hiểu rằng việc tuân giữ Lề Luật để làm đẹp lòng Thiên Chúa, cốt ở hành động chớ không phải chỉ lý thuyết suông. Thật vậy, “khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống. Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua – thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao? Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang như thế, thì việc phục vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao? So với vinh quang tuyệt vời này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì. Thật vậy, nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?” (2Cr 3, 6-11). Đức Giê-su “không bãi bỏ mà chỉ kiện toàn Lề Luật” chính là vì thế.
Nói tóm lại, giữ luật là để biểu lộ tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng muốn cho chúng ta cũng được trở nên hoàn thiện như chính Người. Do đó, giữ luật là sống mối quan hệ yêu thương, chứ không phải là việc làm vì ép buộc. Tình yêu đích thực không bao giờ là áp đặt, vì thế Lời dạy của Đức Ki-tô chỉ “khuyên” chớ không “buộc”. Chúa luôn mong muốn người tín hữu hôm nay hãy thành thực xét lại vấn đề tuân giữ Giáo luật. Ôi! “Lạy Chúa Giêsu, “Chúa đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn”. Xin cho chúng con ngày càng tuân giữ luật Chúa cách trọn hảo, để được vào Nước Chúa hưởng phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Danh Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện Giáo dân Thánh lễ CN.VI/TN-A).
———————— Chú thích: (1) Theo Từ điển mở (Wiktionary), “Trớt quớt” là tiếng nói địa phương (miền Nam VN) thường được dùng một cách cảm thán, để chỉ tình trạng sau những nỗ lực bỏ ra chỉ thu được kết quả hoàn toàn không thỏa một phần nhỏ nào của ý định ban đầu, hoặc để chỉ chiều hướng diễn biến của đàm luận hoàn toàn sai trệch với định hướng ban đầu.
Chuyện kể rằng: “Nước Sở có người bái mâu và cái thuẫn. Y khoe rằng: “Cái mâu của tôi rất TN 6-A88
Chuyện kể rằng: “Nước Sở có người bái mâu và cái thuẫn. Y khoe rằng: “Cái mâu của tôi rất nhọn, cái gì đâm cũng thủng”. Đến khi quảng cáo đến cái thuẫn, y nói: “Cái thuẫn của tôi cứng lắm, có thể ngăn cản được mọi thứ binh khí, không có cái gì đâm thủng nó được”. Có người hỏi: “Vậy, nếu dùng cái mâu của anh để đâm vào cái thuẫn của anh thì sao?”. Người kia không thể nào trả lời được. Vì thế, những điều trái ngược nhau thì gọi là mâu thuẫn.”
Đọc Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu xem ra đôi khi cũng mâu thuẫn với chính mình. Số là Ngài coi thường lề luật, thậm chí có lúc Ngài cố tình vi phạm lề luật.
Chẳng hạn, ngày Sabbat phải kiêng việc xác, thì Ngài nhè đúng ngày Sabbat để chữa bệnh. Ngày Sabbat không được đi bộ lâu, Ngài và các môn đệ đi bộ qua cánh đồng, lại bứt lúa miến mà ăn.
Chẳng hạn luật dạy người Do thái phải rửa tay trước khi ăn, Ngài và các môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay trước. Những hành động ấy, trái luật Môisen, lại ngang nhiên phạm luật trước mặt bọn biệt phái, luật sĩ, nên chúng mới ghét và tìm các cách thủ tiêu Ngài.
Một mặt Ngài vi phạm luật, mặt khác Ngài lại là Đấng bảo vệ lề luật. Phúc âm hôm nay Ngài đã không tuyên bố rõ ràng để bảo vệ lề luật là gì? “Ta đến không phải là để phá lề luật, mà để kiện toàn lề luật và lời các tiên tri”.
Vậy phải hiểu thế nào trước những việc làm có vẻ mâu thuẫn của Chúa?
Nên nhớ, Đức Kitô tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật. Kiện toàn ở đây không có nghĩa là giữ luật một các tỉ mỉ, chín chắn, đầy đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.
Ngược dòng lịch sử Cựu ước, ta biết Thiên Chúa đã tuyển chọn cho Ngài một dân tộc làm dân riêng để cho họ được sống hạnh phúc. Ngài đã ban 10 giới răn của Ngài qua Môisen, trên núi Sinai. Mỗi giới răn ấy vừa có tính cách cấm kỵ làm điều ác, vừa có tính cách khuyến dụ làm điều lành. Những kẻ thuộc về Chúa, không được phép vi phạm, hoặc vượt qua 10 giới răn ấy được. Mười giới răn ấy, mới chỉ là những điều tổng quát. Cho nên, vẫn có những khoảng trống mà người ta có thể lạm dụng lỗi phạm được. Vì thế, các nhà lãnh đạo tôn giáo trong dân Do thái đã lấp cho đầy những khoảng trống ấy bằng rất nhiều điều luật tỉ mỉ họ đặt ra.
Đến đời Chúa Giêsu, người ta đã quá vụ luật, đã quá nặng hình thức giữ luật. Nhất là những luật tỉ mỉ thì đề cao, còn điều quan trọng, chính yếu xem ra lại bỏ sót! Nên Chúa Giêsu đã phàn nàn với các biệt phái và luật sĩ thông luật rằng: “Các ngươi chồng chất lên vai kẻ khác những gánh nặng, còn các ngươi không muốn dùng ngón tay lay thử”.
Cũng chỉ vì thấy người ta chỉ giữ những chi tiết nhỏ mà bỏ qua những điều quan trọng trong luật, nên Chúa Kitô đã tuyên bố: “Ta đến để kiện toàn lề luật”. Kiện toàn là làm cho trọn, làm cho lề luật đầy đủ ý nghĩa hơn.
Có lần bọn biệt phái và luật sĩ bắt bẻ Chúa Giêsu rằng Ngài đã lỗi luật vì chữa bệnh trong ngày Sabbat. Ngài đáp lại: “Trong ngày Sabbat, giả sử ai trong anh em có con bò rơi xuống hố, anh em có lôi nó lên ngay chăng? Ngày Sabbat không được phép làm việc lành sao?”.
Như thế, Ngài nhắc cho họ biết giữ luật bác ái (việc cứu chữa người) quan trọng hơn luật giữ ngày Sabbat. Và một lần kia, người ta điệu đến trước mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang vì phạm tội ngoại tình. “Cứ theo luật Môisen hạng phụ nữ như thế phải bị ném đá, còn Thầy, Thầy xử thế nào?”. Nếu Chúa tha bổng cho chị thì Chúa vi phạm luật Môisen. Nếu Chúa kết tội chị, thì Chúa lỗi đức bác ái, điều Chúa đang đề cao. Họ gài bẫy Chúa.
Nhưng Chúa Giêsu thật khôn ngoan. Ngài không để rơi vào bẫy của họ, Ngài nói: “Ai vô tội hãy ném đá chị này đi?”.
Như vậy, Chúa đã kiện toàn lề luật bằng cách đề cao luật bác ái. Bác ái là phải sẵn sàng tha thứ cho anh em, nếu muốn được Chúa thứ tha.
Giới răn thứ năm của Chúa là chớ giết người. Nhưng không phải không giết người là đã hoàn hảo? Muốn giữ luật bác ái hoàn hảo còn phải tích cực giúp đỡ anh em, sẵn lòng tha thứ cho anh em những lầm lỗi và tha thứ cho cả kẻ thù của mình nữa.
Trong một góc phố nọ có đám trẻ bụi đời. Đứa đứng đầu đám ấy tự xưng là đại ca. Nó nói với đàn em: “Hôm nay thứ sáu tuần thánh, tao hy sinh không hút thuốc lá”. Đang khi đó, nó móc túi, giựt đồ, ăn cắp, chửi thề, đâm chém kẻ khác để cướp của.
Khi giữ lề luật, chỉ giữ những điều tỉ mỉ, mà quên đi điều chính yếu, quan trọng là một thiếu sót lớn.
Cũng có một bà nọ rất đạo đức: chăm chỉ đi dự lễ, đọc kinh ran ran, đeo tràng hạt dài,… Thế mà nhỡ có ai xúc phạm tới bà, bà không tiếc lời chửi rủa! Giữ đạo theo những cách thức ấy chỉ là giả dối!
Thánh Phaolô dạy: “Dù bạn nói được mọi thứ tiếng của loài người, nếu bạn không có đức bác ái, bạn chỉ là con số không”.
Xin Chúa giúp chúng con sống đạo một cách trưởng thành: Yêu Chúa vì Chúa chứ không phải vì người đời. Và xin cũng giúp chúng con trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa, nhất là biết bác ái đối với anh em. Chúa dạy: “Cứ dấu này mà người ta biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy yêu thương nhau”.
Thông minh sáng suốt, là khả năng tốt nhất nhằm giúp người ta lý giải điều nên làm hoặc không nên TN 6-A89
Thông minh sáng suốt, là khả năng tốt nhất nhằm giúp người ta lý giải điều nên làm hoặc không nên, như câu thành ngữ: kiến thức thì giá trị hơn vàng, vì nó thuộc về ta cả đời. Lười biếng, sống vô kỷ luật, chính là nguyên nhân vấp ngã, thất bại, tiền nhân chúng ta đã răn dạy: giầu đâu những kẻ ngủ trưa, sang đâu những kẻ say sưa tối ngày. Trong khi đó, xã hội vẫn không ít người thoải mái cho rằng: người sống đống vàng, sống ngày nào, biết ngày ấy. Thực ra thì người tài trí minh mẫn hay cần cù bù cù lần, hoặc chăm chỉ siêng năng, tỉnh hay say, tất cả đều hướng tới mục đích: thành công, hạnh phúc.
Trở nên công chính hay phải nên hoàn thiện hơn các luật sĩ và biệt phái, lời chỉ dẫn đó, đâu phải chỉ hôm xưa, người thời nay cũng cảm thấy khó lòng đạt được tiêu chí ấy. Luật lệ, qui định, sẽ là ràng buộc, tù túng, hoặc sẽ là hàng rào bảo vệ con người khỏi sự xấu tấn công, còn tùy cách suy xét của chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các học trò: “cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót….”. Những học trò ấy càng giật mình hơn vì tính nghiêm khắc của lề luật mà “Sư phụ” các ông lưu ý. Chúa Giêsu cho thấy để trở nên công chính không ai được dễ dãi với lề luật, lề luật và các tiên tri đều đến từ Thiên Chúa. Sứ mạng khó khăn hơn là Chúa Giêsu phải làm sao để các học trò và mọi người cảm nhận được tình yêu thật sống động trong lề luật ?
Người xưa có câu: lên non mới biết non cao, lội sông mới biết lạch nào cạn sâu. Con người không trải nghiệm làm sao biết đâu là núi cao biển rộng, không tìm hiểu và sống lề luật, sẽ không hiểu thế nào về sự hiện diện đầy tình yêu thương của Thiên Chúa trong giới luật. Thiên Chúa ban lề luật qua Môisê và các ngôn sứ, nhưng để ơn ban hữu hiệu, người ta phải hiểu lề luật là gì, phải sống và cộng tác bằng sự tự do của mỗi người. Chỉ khi nào đi vào chiều sâu của việc tuân giữ và sống điều luật dạy, người ta mới thực sự hiểu thế lực thù nghịch là ma quỷ không thể xâm nhập làm hại những tâm hồn tin theo Chúa.
Khi đưa ra khẳng định: “Ta không đến để phá hủy lời dạy của Môisê và các tiên tri, nhưng để hoàn tất những gì còn bỏ ngỏ”. Chúa Giêsu gợi lên việc Thiên Chúa ban lề luật, Ngài còn quan tâm ban Đấng phải đến để hướng dẫn, làm sáng tỏ hơn, mới hơn về cách ứng xử với tha nhân và sống niềm tin yêu. Trở nên công chính không phải là xóa bỏ, tiêu diệt thời thơ ấu của chúng ta, mà làm sáng rõ hơn về con người mới, trưởng thành trong đức tin và đức ái của ta hôm nay. “Phải nên công chính hơn ác luật sĩ và biệt phái”, đó là việc người môn đệ phải để Đức Giêsu kiện toàn, làm mới tâm hồn, hiệp thông trọn vẹn với Chúa và sống thánh ý Chúa.
Bản chất của con người là hướng về “cái đẹp, cái mới”, khi nghèo đói, ta chỉ mơ ước được no ấm, khi chưa có nhà để ở, ta chỉ cần chỗ trú ngụ ; khi có rồi, ta lại cần ăn ngon, mặc đẹp, cần nhà to, nhà đẹp. Lòng tham vô đáy, được voi đòi tiên là thế, chỉ khi người ta đọc được, hiểu được lề luật của Chúa luôn mới và sống động, vì được xây dựng trên tình yêu thật vững chắc. Chỉ khi tin tuyệt vào tình yêu của Đức Kitô, người ta mới thấy rõ ý nghĩa của lề luật, vì ở trong tình Chúa ta sẽ cảm nhận được tình người, cơ hội nên công chính không còn dựa trên lý thuyết môi miệng.
Được gọi là công chính, trở nên hoàn thiện, đối với người Do-thái hay chúng ta hôm nay đều quan trọng, quan trọng vì nhờ lề luật và các ngôn sứ dẫn đưa người ta thoát khỏi tình trạng của luật rừng. Ông Môisê và các ngôn sứ chính là bước khởi đầu cho sự hiện diện của Đức Giêsu, Đức Giêsu hoàn thiện đạo luật làm người và làm con Chúa trong hành động tình yêu thương. Người tin vào Đức Giêsu, sẽ luôn thấy được tinh thần mới trong giới luật, tình yêu dành cho Chúa không tách biệt tình yêu đối với tha nhân. Luật xưa xử phạt người có hành động ngoại tình, Chúa Giêsu kiện toàn đạo luật mới cao đẹp hơn, cần nghiêm túc để có sự trong sáng từ ánh mắt đến tâm hồn, xứng hợp với ơn gọi nên công chính.
Đẹp, mới, tốt, bền vững, dù ở phạm vi xã hội hay tôn giáo cũng đều thu hút đám đông, nhưng niềm vui hạnh phúc có Chúa làm gia nghiệp, thật đáng để chúng ta quan tâm hơn. Sách có câu: chẳng ai làm khóa mà không làm chìa, đó là lý do để chúng ta tin rằng, mọi vấn đề đều có hướng giải quyết. Thiên Chúa yêu thương ban lề luật, Ngài ban cả Đức Giêsu đến trong sứ mạng là Thầy chỉ đường, là Thợ làm mới các tâm hồn, là Anh Cả dạy yêu thương, sống yêu thương. Giáo huấn của Chúa Giêsu có mới và ý nghĩa thế nào, tùy thuộc tâm tư chúng ta có đặt để lời dạy của Ngài làm thước đo hay không ? Tình yêu của Đức Giêsu có đẹp, cuộc sống của chúng ta có nên công chính hay không, tùy ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ theo lòng mến của ta ra sao. Amen.
Ở Mỹ, đến nay vẫn chưa có một Đệ nhất phu nhân nào vượt qua được danh tiếng và hình ảnh của TN 6-A90
Ở Mỹ, đến nay vẫn chưa có một Đệ nhất phu nhân nào vượt qua được danh tiếng và hình ảnh của Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt. Nổi tiếng là người năng động, tích cực, bà là người kiên quyết giũ bỏ vai trò thụ động của một Đệ nhất phu nhân, để trở thành một nhà nhân đạo, nhà hoạt động xã hội chuyên nghiệp. Bà đã nói: “Về lâu về dài, chính chúng ta sẽ định hình bản thân con người chúng ta và cuộc sống của chúng ta. Quá trình đó không bao giờ kết thúc cho tới khi ta chết. Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”.
Hay như một chàng trai đứng trước một cuộc tình có quá nhiều rắc rối, cuối cùng chàng quyết định:
“Đâu dễ dàng khi đau lòng chọn lựa, Chọn về mình một vết cứa tình yêu. Tình yêu anh đúng chưa hẳn là nhiều, nhưng thử hỏi bao nhiêu là tất cả? Tình yêu đong đếm? Thôi tan rã. Anh sẽ dừng! Mệt lã một tình yêu…”( Sưu tầm)
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy thay đổi cái nhìn để nhận ra rằng chúng ta có quyền chọn lựa, nhưng đừng ngu dại mà chọn lựa con đường chết, phải chọn con đường sống. Sự sống và cái chết ở đây không chỉ đơn giản về mặt thể lý, mà hơn thế nữa nó là tình trạng đau khổ và hạnh phúc trong tương lai, ở một thế giới vĩnh hằng. Nói một cách ngắn gọn hơn phải sống làm sao để được lên thiên đàng chứ đừng sa hỏa ngục.
II. MỘT VÀI SUY TƯ TRONG NĂM GIA ĐÌNH
Giáo hội đang thao thức với thực trạng của đời sống gia đình hiện nay. Mặc dù một số gia đình vẫn giữ được giao kết trong ngày thành hôn, vẫn hạnh phúc, nhất là vẫn giữ vững đức tin, vẫn sống đạo tốt… Nhưng rất nhiều gia đình, nhất là những gia đình trẻ đã đổ vỡ, hoặc đang có nguy cơ đổ vỡ do bất đồng ý kiến, do bạo hành, do ngoại tình hoặc nhiều nguyên nhân khác. Giới trẻ sống buông thả trong tính dục và những nhu cầu theo bản năng với câu cửa miệng: “Mình thích thì mình làm”; tính khí hung hăng nên xảy ra nhiều vụ án mạng… Cha mẹ nói con cái chẳng những không nghe, thậm chí còn phản kháng… Những thực trạng đó đang làm cho Giáo hội phải thực sự lo lắng. Không biết anh chị em, nhất là những phụ huynh có lúc nào ngồi nhìn lại để cùng chung thao thức với Giáo hội, hay vì những bộn bề của cuộc sống mà để cho mình trở thành những kẻ bàng quan, mặc kệ cho thực trạng xã hội ngày càng xuống cấp? Ít ra những giây phút ngắn ngủi này, chúng ta là những Kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ, phải ý thức lại trách nhiệm của chúng ta với ơn gọi gia đình, với bổn phận chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống Hôn nhân.
Đừng để tuổi thơ bị đánh cắp
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của gia đình, cũng như tội ác gia tăng nhất là trong giới trẻ là do sự ích kỷ được hình thành ngay từ bé khi một đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều, cung phụng cho những thứ mà nó đòi hỏi, mặc dù lúc đó nó không có tội gì, vì chỉ là một đứa con nít.
Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể một câu chuyện khiến những bậc phụ huynh phải suy gẫm. Một đứa bé sống trong một gia đình có cha mẹ và bà nội. Cha đứa bé rất ý thức đến việc giáo dục con cái. Một hôm có người bán cà rem đi ngang nhà, đứa bé đòi ăn. Cha nó nói con ăn bánh rồi, không được ăn cà rem nữa, mai cha mua cho con ăn. Nó òa lên khóc. Bà nội nghe được chạy lên dỗ dành và bồng nó ra cổng mua cho nó cây cà rem. Nó cầm cây cà rem vừa mút vừa nghênh mặt lên với cha nó. Chắc chắn ai cũng hiểu ý nghĩa của câu chuyện này và thấy rằng câu nói: “Cháu hư tại bà” trong trường hợp này là đúng.
Do sự phát triển của xã hội, đời sống của người dân cũng ngày càng thuận tiện hơn trong nhiều thứ. Thuận tiện đến mức trẻ em 1, 2 tuổi cũng có thể cầm iphone, ipad. Chính điều đó vô tình làm cho thế giới trẻ thơ của các em chỉ gói gọn lại trong màn hình với những điều ảo, và thậm chí là những điều không đúng đắn, như game bạo lực, game nói dối, và vô tình cũng có những hình ảnh khiêu dâm ảnh hưởng đến tuổi thơ trong sáng của các em. Thế giới của trẻ thơ phải được mở rộng với những con người và những vui chơi thực tế, với tình yêu thương của cha mẹ, người thân và bạn bè. Nó phải được nghe những câu hát ru từ chính giọng hát khàn khàn, rè rè, lạt giọng của người bà, người mẹ nó: “Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi, khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học mẹ đi trường đời”. Những câu hát ru mang tính nhân văn đó được gieo vào lòng của biết bao thế hệ trẻ thơ mặc dù còn rất nhiều thiếu thốn. Thế nhưng ngày hôm nay còn bao nhiêu người mẹ biết ru con, hay hoàn toàn dành cho máy móc? Nếu không mướn người giữ trẻ thì cũng là những chiếc võng điện tử đong đưa theo nhịp đã cài đặt. Ngay từ bé trẻ em đã phải tiếp nhận vào bộ não những tiếng u ơ, ú ớ của Sơn Tùng, hay giọng gào thét với những ngôn từ kỳ quái, dung tục của một ca sĩ nổi tiếng nào đó…
“Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Đừng nói tôi không thể lựa chọn những điều vượt quá sức tôi. Những vị thánh nhất là những vị thánh trong thời đại chúng ta đã biết chọn lựa những giá trị cao cả, dĩ nhiên các ngài phải hy sinh nhiều thứ, kể cả mạng sống mình như cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Để có được những sự lựa chọn đúng đắn đòi hỏi chúng ta phải có thói quen phân định điều tốt và điều xấu. Điều đó đã được Chúa phú bẩm cho mỗi người trong một lương tâm ngay chính, điều quan trọng là phải tập cho lương tâm có sự nhạy bén. Thêm vào đó như chúng ta đã nói ở trên, nếu chỉ chỉ ích kỷ để sống cho riêng mình, thì không bao giờ người ta có thể chọn lựa điều tốt, vì họ không thể từ bỏ những điều xấu, mà thường những điều xấu lại đem đến sự ngọt ngào, dễ chịu cho người ta.
Thế cho nên năm Mục vụ Gia đình 2017, Giáo hội muốn các gia đình hãy quay về với sự thánh thiện. Vì chính nhờ sự thánh thiện mà người ta mới có thể chọn lựa điều tốt và từ bỏ điều xấu. Nếu các gia đình thấy được nguy cơ xấu cho thiếu nhi và giới trẻ ngày hôm nay, hãy quyết tâm để có giờ kinh hôm chung trong gia đình, hãy nhắc nhở các em thiếu nhi và các bạn trẻ đi học giáo lý, quyết tâm không bỏ ngày Chúa Nhật. Đừng ngồi đó than trách, mà hãy góp phần thánh hóa thế gian bằng những giá trị linh thánh.
Hãy nhớ lại bài đồng dao của một thời đã xa để nhắc nhở chính mình và các bạn trẻ: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa, đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn, linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.
Báo Tuổi Trẻ số ra gần đây đề cập đến việc chính phủ vừa ra nghị định qua đó phạt năng hành vi TN 6-A91
Báo Tuổi Trẻ số ra gần đây đề cập đến việc chính phủ vừa ra nghị định qua đó phạt năng hành vi làm mất vệ sinh nơi công cộng và nêu câu hỏi:Ai Phạt? Phạt Ai? Theo qui định mới này thì những hành vi như xả rác bừa bãi, phóng uếnơi công cộng khi bị phát hiện sẽ bị phạt với những số tiền hàng triệu đồng. Vứt mẩu thuốc lá ra đường phố có thể bị phạt hàng trăm ngàn đồng. Nhưng qua dư luận thì cần hơn hết là ý thức tự giác của người dân chứ khó khả thi khi thực hiện qui định này bởi ai sẽ là người thực hiện?
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho con nhận ra được con đường theo Đức Kitô. Chúa nói với các môn đồ và dân chúng theo Người: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào nước Trời “. Giới Kinh sư là những người nhiều năm nghiên cứu Kinh Thánh, họ là những nhà chuyên môn am hiểu lề luật trong Đạo Do Thái, một số nhỏ trong họ là Tư Tế. Các Kinh sư là người giải thích luật và áp dụng Luật. Họ có uy tín trong dân. Tuy vậy họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ Luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của Luật. Còn Pharisiêu, còn gọi là nhóm biệt phái, là những người sống đạo đức truyền thống, nghiêm nhặt. Nhưng trong số đó có những người giả hình, kiêu hãnh thường hay lên án người khác. Họ tự cho mình có thể mua được nước Trời bằng công trạng và lòng đạo đức của họ . (Xem Dẫn vào Tân Ước của nhóm CGKPV).
Như vậy, những người Kinh sư và Pharisiêu thời Đức Kitô không phải là những người xấu, nhưng họ mới chỉ dừng lại ở chỗ giữ lề luật và phê phán người khác, nếu vi phạm lề luật. Họ tự nhận là công chính. Còn Chúa Giêsu, Người đòi hỏi những người theo Chúa còn phải đi xa hơn, “Công chính hơn “. Không dừng lại ở cách sống” có đi có lại, mới tọai lòng nhau “ hay đừng làm điều này, chớ làm điều kia như luật dạy. Thái độ sống vị luật, sống trong nỗi sợ, không phải là con đường Chúa dạy. Con đường của Chúa dạy là sống yêu thương, sống bác ái ngay từ trong trái tim, trong tâm khảm.Đối với người Do Thái, chớ giết người, đó là giới răn Chúa truyền dạy. Thế nhưng:” Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình , thì đáng bị đưa ra tòa. . . Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình . . .”.
Lạy Chúa,
Quả là khó lắm đối với con. Sống không làm hại ai, không lấy của ai, không xích mích với ai đã là một cố gắng, một hy sinh của con lắm rồi, nhưng với Chúa thì chưa đủ. Con đã nhận ra, không làm hại ai, tốt đấy! nhưng không giúp ai, không nhờ vả ai, không liên đới với ai cũng là có lỗi rồi. Chúa dạy con phải làm muối, nhưng muối của con không có vị mặn, hay muối mà đóng chai, đóng hộp cất trong tủ thì có ý nghĩa gì. Chúa dạy con là ánh sáng, nhưng đèn của con cháy leo lét, đèn của con chỉ thắp sáng trong phòng, trong nhà để soi sáng cho con thôi, thì nào có ích gì.(Mt 15;13-16)
Con vẫn đi lễ ngày Chúa nhật, vẫn sẵn sàng ăn chay, kiêng thịt ngày Hội Thánh dạy: thứ Tư lễ tro, thứ sáu tuần Thánh, nhưng sau đó thì ăn bù cho thỏa thích. Con không ăn cắp, ăn trộm nhưng sống lỗi đức công bằng, chỉ tìm lợi ích cho con mà bất chấp người khác. Con giữ nhà con cho sạch, còn rác rưởi xả ra thì đem đổ lén ngoài đường, ngoài kênh rạch, cống rãnh hoặc sáng sớm ra quyét sang nhà hàng xóm, quyét ra đường, con có xứng đáng là người đứng trong nước trời, dù là kẻ nhỏ nhất ?
Xin Chúa cho con biết tuân giữ Lời Chúa dạy bằng lòng yêu mến thực. Không vì sợ hãi bị phạt với số tiền lớn, không vì áp lực, vì sĩ diện hay vì làm vui lòng người khác. Chớ gì con nhận biết thân phận yếu đuối của bản thân, dễ vấp phạm, dễ xa ngã. Nhưng với lòng yêu mến Chúa và nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ đứng dậy và tiếp tục bước theo Chúa, hầu mỗi ngày con sẽ hòan thiện mình hơn, rồi dần trở nên công chính trước mặt Chúa.AMEN
Ngay sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông huấn: Niềm vui Tình yêu, nói về các TN 6-A92
Ngay sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông huấn: Niềm vui Tình yêu, nói về các vấn đề của gia đình ngày nay, nhiều người nghĩ rằng, Đức Thánh Cha đã làm một cuộc cải cách trong Giáo Hội. Có một vài vị giám mục cho rằng, Đức Thánh Cha hủy bỏ những giáo huấn trước đây của Giáo Hội về vấn đề Hôn Nhân, chấp thuận cho các cặp vợ chồng đổ vỡ, ly dị tái hôn hoặc được xưng tội rước lễ bình thường. Văn phòng báo chí tòa thánh liền sau đó đã có lời giải thích chính thức cho rằng: Những ai mong đợi Đức Thánh Cha loại bỏ những định chế hôn nhân Công Giáo quả là một sai lầm; những ai vội vàng cho rằng các cặp ly dị được tái hôn hoặc xưng tội rước lễ bình thường là hiểu sai ý của tông huấn.
Qua tông huấn Niềm vui Tình yêu, Đức Thánh Cha không hủy bỏ quy định truyền thống của Giáo hội, nhưng Ngài mời gọi mọi người cần có một cái nhìn thông cảm, không loại trừ những người đang gặp cảnh đổ vỡ trong hôn nhân, vì họ cũng là thành viên của Giáo hội, cần được yêu thương và nâng đỡ. Tông Huấn của Giáo hội mời gọi mọi người khám phá ra ý định của Thiên Chúa nơi đời sống hôn nhân gia đình, giá trị và nét đẹp của hôn nhân, chứ không nhằm đem lời Chúa để hợp thức hóa cho tình trạng cá nhân của con người.
Ngày xưa, khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài rao giảng lòng xót thương của Thiên Chúa, mời gọi mọi người sống Tin Mừng với một niềm vui và hạnh phúc. Những người Do Thái, kể cả các môn đệ, cảm thấy như bị gò bó bởi luật của Cựu ước, vì thế, họ nghĩ rằng, Chúa Giêsu sẽ đem đến một luật mới, hoàn toàn hủy bỏ luật cũ. Họ chờ đợi một lối sống dễ dãi tự do, không gò bó, không quy định, nói đúng hơn, họ không muốn chấp nhận một thứ luật nào cả. Chúa Giêsu đã không hứa hẹn như thế. Chúa không bãi bỏ luật Mose, nhưng còn tuyên bố, Ngài là Đấng Kiện toàn và làm cho luật của Thiên Chúa đi vào tâm hồn và cuộc sống của con người: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phẩy trong lề luật sẽ không bị bỏ qua, cho đến khi được hoàn tất.
Nhiều người có thói quen giữ luật vì sợ phạm tội, sợ bị phạt, nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ luật của Ngài với một tầm mức cao hơn, hoàn thiện hơn và đó là giữ luật vì tình yêu đối với Thiên Chúa. Các Luật sĩ và Biệt phái bị Chúa Giêsu chê trách bởi vì họ chú tâm giữ luật để khỏi vi phạm, nhưng lai không biết mình giữ luật để làm gì, giữ luật vì ai, hoặc tại sao phải giữ luật. Những người này giữ luật không phải vì Chúa, nhưng vì bản thân. Họ muốn tỏ ra là người công chính thánh thiện, nhưng trong lòng không có lòng mến và không có sự bao dung. Vì vậy, họ dễ dàng lên án những người bị coi là không chu toàn lề luật.
Chúa Giêsu muốn chúng ta không chỉ giữ luật theo mặt chữ như: chớ giết người, chớ làm nhục anh em, chớ thù hận…, nhưng Ngài muốn chúng ta đi vào trung tâm của lề luật, đó là loại trừ nguyên nhân có thể khiến người ta vi phạm luật. Anh em nghe luật xưa dạy: Chớ giết người, ai giết người thì bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Ai rủa anh em mình là quân phản đạo, thì đánh bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Như thế có nghĩa là không chỉ khi giết người mới là tội ác, mà ngay cả khi gây tổn thương hạ nhục anh chị em thì cũng đáng bị kết án rồi.
Đàng khác, khi nguyền rủa anh chị em, giận hờn anh chị em, là chúng ta đã loại trừ họ ra khỏi tâm hồn và sự quan tâm của mình. Khi để lòng thù ghét giận dỗi với anh em, thì chính trái tim và tâm hồn của ta bị khô héo và bị chết. Một người đã đóng cửa lòng với anh chị em, thì cũng không thể mở tâm hồn ra với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu còn đòi hỏi rất mạnh: Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại trước bàn thờ, trở về làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Chúa muốn chúng ta đến với Chúa phải có một tâm hồn thanh thản, bình an, một đôi tay trong sạch, một tương quan không bận vướng. Ở đây Chúa Giêsu nói: Khi sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh. Điều này có nghĩa là, cho dù ta không phải là người gây ra chuyện bất bình, mà là người kia; cho dù sự việc xảy ra đã lâu ta không còn nhớ, mà lúc đó chỉ chợt nhớ lại, thì cũng phải chủ động tìm đến để làm hòa với người anh em đó trước khi dâng của lễ. Chỉ khi làm hòa với anh em, có được tương quan tốt đẹp với người khác, thì của lễ và lời cầu nguyện của ta dâng lên Chúa mới có thể được Chúa chấp nhận.
Như thế, việc thực hành lề luật của Chúa và các đòi hỏi trong đời sống đạo không phải là một gánh nặng, cũng không phải chỉ để khỏi vi phạm, nhưng là để chúng ta vươn tới sự hoàn thiện. Tin Mừng của Chúa Giêsu và lề luật của Ngài giúp nâng chúng ta lên khỏi mọi hình thức nô lệ, giúp ta sống trong sự tự do của con Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa hẹn một cuộc sống tự do buông thả, nhưng Ngài mời gọi chúng ta, một khi theo Ngài phải bước vào con đường hẹp của Tin Mừng. Đó là con đường tự nguyện từ bỏ và hy sinh, tự nguyện đón nhận và tuân giữ những giới răn của Chúa. Chúa không muốn chúng ta theo Chúa trong sợ hãi, nhưng trong tin tưởng yêu thương và phó thác. Chúa không muốn chúng ta theo Chúa cách hời hợt a dua theo đám đông hoặc theo cha truyền con nối, nhưng theo với một sự ý thức và với quyết tâm thể hiện lòng mến cá nhân của mình. Như thế, mọi sự ù lì lười biếng, hoặc thái độ nệ luật sợ hãi, đều không thích hợp với người môn đệ của Chúa.
Có nhiều người dân ngoại vẫn cho rằng, theo đạo sao khó thế? Đạo Công Giáo sao có nhiều luật lệ thế? Thánh Phaolô cho biết, khi chúng ta tự nguyện chon sống theo giới răn lề luật của Chúa Kitô là chúng ta chọn lựa cách khôn ngoan. Sự chọn lựa này khiến cho người đời, dân ngoại khó hiểu, khó chấp nhận, nhưng Thiên Chúa đã soi sáng, mạc khải cho ta và Thánh Thần ban sức mạnh giúp chúng ta đón nhận Tin Mừng và giáo huấn của Chúa với niềm vui hân hoan giúp ta chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa.
Suy nghĩ của nhiều người ngày nay cũng giống như những người Do Thái ngày xưa. Nhiều người theo đạo nhưng không có lòng mến Chúa, họ giữa đạo chỉ theo thói quen hoặc do sợ vi phạm lề luật. Cụ thể, nhiều người đến nhà thờ dâng lễ chỉ vì luật bắt buộc, vì thế ngày Chúa Nhật họ đi lễ cho qua lần, đứng ở một góc nào đó, hoặc tìm một chổ ngồi bên ngoài, mà không quan tâm đến việc chính mình phải dâng lên Chúa của lễ tạ ơn sau một tuần lễ làm việc. Có những người chỉ lo khỏi vi phạm luật Chúa mà không quan tâm đến các mối tương quan với anh chị em. Vì thế, bên ngoài hoặc ở nhà thờ, họ tỏ ra rất tốt, nhưng về với cuộc sống gia đình hoặc với lối xóm họ cư xử rất tệ.
Trong đời sống hôn nhân gia đình và xã hội, nhiều người có đạo nhưng vẫn bỏ ngoài tai giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Họ tìm cách tránh né hoặc tìm cách biện minh cho hành động sai trái của mình. Thay vì phải đối chiếu cuộc sống bản thân cho phù hợp với giáo huấn của Chúa, thì ngược lại, họ bóp méo Lời Chúa để biện minh cho sự sai trái cố chấp của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm Chúa và giáo huấn của Ngài và thực thi với lòng yêu mến cách tự do. Xin cho chúng ta đi vào cốt lõi những đòi hỏi của Tin Mừng, giúp ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin,yêu mến Chúa và anh em mốt cách chân thành hơn. Xin cho chúng ta mỗi lần đên đây dâng của lễ, thì cũng biết can đảm đi bước trước hàn gắn lại các tương quan của chúng ta với anh chị em để của lễ và lời cầu xin của chúng ta dâng được chúa thương tình đón nhận. Amen.
Dù không ít lần cố tình vi phạm luật ngày lễ nghỉ và luật sạch – nhơ cũng như công khai bênh vực TN 6-A93
Dù không ít lần cố tình vi phạm luật ngày lễ nghỉ và luật sạch – nhơ cũng như công khai bênh vực các môn đồ về việc không ăn chay, nhưng Chúa Giêsu đã từng nhiều lần trưng dẫn Lời Thánh Kinh Cựu Ước, đặc biệt khẳng định tính ưu việt của thập giới. Chính Người đã minh định rõ ràng: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề
luật hay lời các tiên tri, Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Xin cùng xem xét đôi nét về việc kiện toàn lề luật của Đấng Cứu Độ.
Chúa Kitô trả lề luật về đúng vị trí của nó.
Lề luật là “một phương thế” chứ không phải là mục đích. “Ngày Sabbat được tạo nên cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabbat” (Mc 2,27). Khi khẳng định điều ấy thì Chúa Kitô nhắc nhớ chúng ta vị trí vai trò của lề luật như là các phương thế. Các phương thế chỉ có ý nghĩa khi hướng đến mục đích được nhắm. Nếu vì lý do gì đó mà chính phương thế làm cản trở mục đích nhắm thì chúng ta cần phải bỏ nó qua một bên. Đã nhiều lần Chúa Kitô cố tình vi phạm luật ngày lễ nghỉ là cốt dạy chân lý này.
Hãy giữ lề luật khởi đi từ đáy lòng.
Thời Chúa Kitô, đã và đang có đó nhiều biệt phái giữ lề luật cách hình thức bên ngoài. Dĩ nhiên điều mà họ nhắm là chứng tỏ cho người ta thấy lòng đạo đức của mình. Cái bên ngoài tuy vẫn cần thiết nhưng nếu thiếu điều bên trong thì nó thành trống rỗng vô hồn. Những khi cố tình vi phạm luật sạch – nhơ thì Chúa Kitô đã cho thấy sự thật này. Ích gì khi rửa tay chân, chén bát bên ngoài mà lòng vẫn đầy tham lam bất chính. Ý hướng và mục đích tự đáy lòng góp phần lớn xác định tính luân lý của các hành vi bên ngoài. Nhiều khi chưa thực hiện bằng hành động bên ngoài nhưng đã có ý hướng và chủ định bên trong thì đã dệt thành giá trị tốt xấu các hành vi của chúng ta. Chúa Kitô nói rõ điều này khi khẳng định là nếu đã có chủ định phạm tội với người phụ nữ dù chưa thực hiện bên ngoài thì cũng đã phạm tội ngoại tình rồi (x.Mt 5,27-28).
Chúa Kitô xác định bậc thang giá trị của các loại lề luật.
Xét về nguồn gốc thì Kitô giáo chúng ta phân biệt rõ ràng nhân luật (luật do con người làm ra) với thiên luật (luật do Thiên Chúa đặt định). Thiên luật thì có giá trị trường cửu, không hề thay đổi theo thời gian, vì do chính Thiên Chúa đặt định. Lề luật của Thiên Chúa được tỏ bày qua tiếng lương tâm dưới ánh sáng của lý trí đúng và qua Lời mạc khải thì luôn có vị trí ưu tiên hàng đầu. Còn nhân luật là luật do các thể chế, các quốc gia và cả do Giáo Hội lập ra thì có tính tương đối và nó có thể thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử. Theo nhãn quan Kitô giáo, khi nào mà luật của con người trái với luật của Thiên Chúa thì nó không có giá trị. Và khi ấy chúng ta không chỉ bỏ qua nó mà có khi phải hành xử ngược với nó. Chúa Kitô đã nhiều lần khẳng định điều này khi Người trách cứ các lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ đã bỏ qua lề luật của Thiên Chúa mà quá chăm chú vào luật của nhân trần, dù cho đó là truyền thống của tiền nhân.
Đã là người với tính xã hội thì lề luật luôn còn đó vai trò vị trí của nó. Tuy nhiên lịch sử cho thấy rất nhiều người khi đã ở vai cao, vị trọng trong các tập thể xã hội, có khi cả trong Giáo hội, thì dễ bị cám dỗ đặt ra các luật lệ phục vụ cho lợi ích của mình. Đã và đang có đó tình trạng nô lệ lề luật thay vì làm chủ nó. Là Kitô hữu thì chúng ta phải có thái độ đúng với lề luật như Chúa Kitô truyền dạy. Nhiều hiền nhân, nhất là các thánh nhân đã từng chấp nhận mang tiếng là “chống đối”, là “phản động”, là “gây xáo trộn”… để góp phần kiện toàn lề luật như Chúa Kitô đã làm.
Trong nhiều năm qua các bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng cho chúng ta biết thức ăn gì chúng TN 6-A94
Trong nhiều năm qua các bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng cho chúng ta biết thức ăn gì chúng ta đưa vào thân thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Ngày nay chúng ta biết và hiểu rõ sự kiện này, điển hình là ăn thịt, cá và hoa quả tẩm hay nhiễm những hóa chất độc sẽ gây ung thư về sau. Những nhà tâm lý, xã hội và những người khôn ngoan cũng cho chúng ta biết điều hay tư tưởng gì chúng ta cho vào tâm trí sẽ ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh cuộc sống về tâm lý, cảm xúc và xã hội của chúng ta. Thí dụ như những phim ảnh đồi trụy về tình dục, hung bạo, dữ tợn và giết người trên TV, video game hay internet sẽ truyền vào tâm trí trẻ con cũng như người lớn những tư tưởng xấu xa, và sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến đời sống sau này, và còn gây ra những trạng thái hỗn độn, tội phạm, cướp của, giết người trong xã hội, và làm cho những giá trị hôn nhân, cuộc sống gia đình xa xút, bất an. Thông thường trong thực tế có sự liên hệ và ảnh hưởng giữa thức ăn và tư tưởng, đến sức khỏe cũng như thái độ và cách hành xử của con người. Ông bà anh chị em thân mến. Điều mà tôi nêu ra trên đây nối kết với điều mà Chúa Giê-su dạy bảo chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay. Chúa cho chúng ta biết căn nguyên của tội lỗi, cũng như dạy chúng ta sống đúng lề luật, giáo huấn của Chúa. Chúa cho chúng ta biết cội rễ của 4 tội: giết người, ngoại tình, ly dị và thề gian, và dạy chúng ta phải hành xử ra sao và phải sống như thế nào. Chúa cho chúng ta biết nguyên nhân, tư tưởng đưa đến sự phạm tội một cách rất rõ ràng. Thí dụ như về tội giết người, Chúa cho chúng ta biết nguyên nhân là thái độ phẫn nộ, giận dữ, nguyền rủa và bất bình gây ra. Nguyên nhân của tội ngoại tình bắt đầu từ sự ước ao trong tư tưởng. Tình trạng vợ chồng ly dị đưa đến tội ngoại tình. Ngoài ra, Chúa còn cho chúng ta biết về luật cấm thề gian dối và dạy chúng ta luôn trung thành với Chúa. Chúng ta biết cuộc sống đạo đức, khiêm nhường, luân lý, bác ái, yêu thương, quảng đại, hy sinh, tha thứ, phục vụ và hiệp nhất bắt nguồn, khởi đầu từ những tư tưởng hiện hữu trong tâm trí chúng ta, hay một cách khác từ Lời Chúa trong tâm hồn phát ra bên ngoài. Tương tự, Chúa dạy chúng ta giết người không những là tội sẽ bị luận phạt, mà những sự phẫn nộ, giận dữ, ghen ghét và hận thù trong thâm tâm cũng sẽ bị luận phạt. Cho dù chúng ta không giết người, và tuy những tư tưởng này chỉ hiện hữu trong thâm tâm, cũng sẽ ảnh hưởng đến không những thái độ, cuộc sống của chính chúng ta, mà còn ảnh hưởng đến sự liên hệ giữa chúng ta với người khác. Và điều này cũng thực sự liên quan đến vấn đề ngoại tình, ly dị, thề gian, làm chứng dối. Một điều tôi muốn ông bà anh chị em lưu ý ở đây là tôi không đề cập đến những sự giận dữ thoáng qua gây ra bởi thái độ một người nào đó, hay những cảm tình thoáng qua do sự lôi cuốn của người nào. Tôi muốn nhấn mạnh đến sự muốn giữ và nuôi dưỡng những tư tưởng đó trong thâm tâm. Bài Tin mừng còn cho chúng ta thấy một thái độ khác cũng được Chúa coi như ngang hàng với tội sát nhân, giết người, đó là hành động nguyền rủa, nói xấu, phỉ báng và vu khống. Giết người có 2 hình thức, một là giết thân xác và hai là giết thanh danh. Khi chúng ta nguyền rủa, nói xấu hay vu khống cho người khác, chúng ta làm mất hay giết thanh danh của họ. Cho nên, là những Ki-tô hữu, Chúa dạy chúng ta một phương cách là làm hòa và phải biết tha thứ. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa dạy chúng ta phải có một đời sống hiền hòa, nhân từ và quảng đại, Chúa nói: “Phúc cho những ai hiền hòa, vì họ sẽ được Nước Trời là cơ nghiệp. Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” Có một câu chuyện về một tài tử nổi tiếng tên là Landon, đã qua đời cách đây mấy năm. Vào một buổi chiều mùa hè, ông đang lái xe trên xa lộ về nhà. Trời nóng nực và giao thông rất bận rộn, tắc nghẽn. Xe cộ lách qua lách lại giữa những tiếng còi inh ỏi và la hét chửi thề của tài xế. Thình lình một tài xế mở cửa và tiến đến chiếc xe trước nổ súng và hạ sát người tài xế. Ông Landon cảm thấy rùng mình kinh sợ khi nhìn thấy cảnh tượng sát nhân trước mắt. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông tự hỏi tại sao giận dữ, thù hằn và giết người xảy ra khắp nơi? Tại sao con người thù hằn, ghen ghét nhau như thế? Nếu con người sống hiền hòa thì sẽ ra sao? Lúc đó tâm trí ông trở về với quá khứ lúc ông còn nhỏ. Ông nhận ra những sự giận dữ, thù hằn, ghen ghét và tranh chấp thường xảy ra trong gia đình ông và những người hàng xóm chung quanh. Thình lình một tư tưởng sáng loè ra trong tâm trí, thúc dục ông thực hiện một chương trình TV đặt trọng tâm vào sự hiền lành, hòa thuận. Ông nghĩ rằng đây chính là câu trả lời chính đáng cho những vấn đề xảy ra trong cuộc sống và trong xã hội. Từ đó, ông đã thực hiện một chương trình có tên là “Highway to Heaven” xin tạm dịch là “Xa lộ dẫn đến Thiên Đàng.” Mỗi show TV có một chủ đề trong Tám Mối Phúc Thật. Chương trình TV này rất nổi tiếng trong những thập niên 70, 80, và có những ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Ông bà anh chị em thân mến. Tư tưởng như những hạt giống chúng ta gieo vào thủa vườn. Hạt giống nào chúng ta gieo sẽ quyết định cho cây nào sẽ mọc lên. Tư tưởng nào chúng ta quyết định gieo vào tâm hồn của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến thái độ và cuộc sống chúng ta. Hôm nay, Chúa muốn gieo hạt giống Lời Chúa vào trong tâm hồn chúng ta, để đời sống chúng ta phản chiếu giáo huấn Ngài dạy, để trở thành ánh sáng và chứng nhân cho Chúa trong xã hội đầy cám dỗ, sự dữ và gian dối hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan biết chọn và sống thánh ý Chúa, xứng đáng là người được Chúa yêu thương và tiền định cho hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Người Do-thái coi trọng Luật Chúa đã ban cho ông Môsê, từ núi thánh Xinai, giữa mây mù, khói TN 6-A95
Người Do-thái coi trọng Luật Chúa đã ban cho ông Môsê, từ núi thánh Xinai, giữa mây mù, khói lửa và sấm chớp (Xh 19,16-19). Ông Môsê được Chúa sai làm người phát ngôn cho Ngài. Ông có đủ thẩm quyền để giải thích Luật Chúa cho dân Ítraen, vì ông là người đã lên núi gặp Chúa, đã nhận Luật chép trên bia đá, và đã ở lại trên núi bốn mươi ngày đêm (Xh 24,18; Đnl 9,9). Tuy nhiên, Đức Giêsu hẳn làm các môn đệ ngỡ ngàng khi Ngài tuyên bố: Anh em đã nghe ông Môsê nói như thế này với dân Ítraen ngày xưa, để giải thích cho họ về Luật Chúa. Ngày nay, Thầy cho anh em một cách giải thích khác về Luật. Hãy sống theo giáo huấn mới mẻ của Thầy. Quả thật, Đức Giêsu có uy quyền hơn ông Môsê nhiều. Môse chỉ là một thụ tạo gần gũi Thiên Chúa trong một thời gian, Còn Đức Giêsu là Con Một luôn ở trong lòng Thiên Chúa Cha (Ga 1,18). Vì thế Ngài biết rõ và truyền đạt trung thành ý muốn của Thiên Chúa. Thầy không đến để bãi bỏ Luật mà Thiên Chúa đã ban qua ông Môsê, Thầy đến để kiện toàn, và làm cho Luật ấy được nên trọn (Mt 5,17). Đức Giêsu đã kiện toàn Luật Môsê bằng những đòi hỏi nội tâm. Ngài không ngừng lại ở hành vi bên ngoài, Ngài đòi chúng ta đi vào bên trong trái tim mình. Không giết người bằng gươm dao, chưa đủ. Còn cần tránh cả sự giận dữ vốn là cội rễ của tội sát nhân (1 Ga 3,15), hơn nữa cần tránh cả những lời nói nhục mạ kẻ khác (Mt 5,21-23). Không ngoại tình với vợ người khác, chưa đủ. Còn cần tránh cả ngoại tình trong cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt, đó là thứ ngoại tình không ai biết, vì nằm tận trong tim (Mt 5,28). Đức Giêsu còn đưa ra những đòi hỏi tận căn về việc giữ Luật. Ngài đòi để lễ vật lại trước bàn thờ để đi làm hòa với anh em, không phải với người anh em mà chính mình đang bất hòa, nhưng với người anh em đang gây cho mình nhiều rắc rối. Phải làm hòa trước đã, rồi mới dâng lễ sau (Mt 5,23-24). Hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa đòi hiệp thông trước với anh em. Bằng lối nói cường điệu, Đức Giêsu đòi người môn đệ phải dứt khoát tránh dịp tội, tránh cớ làm cho mình sa ngã. Thà bỏ đi một phần quý giá như mắt phải hay tay phải, còn hơn là toàn thân phải chịu hư mất đời đời (Mt 5,29-30). Chúng ta không nên hiểu câu nói trên theo nghĩa đen, nhưng lại không được quyền làm yếu đi sức mạnh của hình ảnh ấy. Đức Giêsu đã dám đưa ra một giải thích khác với Môse về ly dị. Ngài không coi ly dị là chuyện được phép. Người đàn ông thời đó có nhiều tự do để ly dị vợ, lắm khi chỉ vì một lý do cỏn con. Ngài cho thấy mình biết rõ ý định ban đầu của Thiên Chúa (Mt 19,4), nên Ngài cương quyết bảo vệ tính bất khả phân ly của hôn nhân. Bài Giảng trên Núi của Đức Giêsu vẫn có tính thời sự, vì chạm đến những vấn đề nóng bỏng ngày nay của chúng ta: thù hận, giết người, ngoại tình, ly dị, thiếu trung thực… Chỉ khi sống những giáo huấn của Đức Giêsu một cách nghiêm túc, chúng ta mới giải quyết được những vấn đề lớn của thế giới. Chỉ khi để cho tình yêu thấm vào mọi tương quan, chúng ta mới thực sự là người mở lòng đón lấy Nước Trời.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau.
Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần TN 6-A96
Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế. Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.
Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình. Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại. Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa. Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản. Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân. Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.
Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa. Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp. Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật. Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực. Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt. Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ. Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình. Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra. Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá. Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.
Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình. Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh. Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I). Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha. Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa. Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian. Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.
Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.
Phải chăng đạo Công giáo có một nền đạo đức luân lý quá khắc khe? Một đạo đặt nặng vấn đề TN 6-A97
Phải chăng đạo Công giáo có một nền đạo đức luân lý quá khắc khe? Một đạo đặt nặng vấn đề lề luật, vấn đề tội?
Có người phê bình Đạo Công Giáo là đạo của “lề luật” và của “tội’. Họ nói đạo gì mà cứ hở một chút là nói: “phạm luật”, phạm điều răn này điều răn nọ; hở một chút là nói “có tội”, nói “Chúa phạt”; hở một chút là nói “bị dứt phép thông công", “bị xuống hỏa ngục".
Đôi khi họ cũng có lý. Bởi thực tế là, mới gia nhập đạo thì phải chịu “Rửa tội”; phải học giáo lý xét mình để có thể “xưng tội”; phải xưng tội thường xuyên, ít ra là mỗi năm một lần; rồi phải “ăn năn đền tội” suốt cả đời, mỗi năm đều có mùa chay để ăn năn đền tội.
Các đạo khác đâu có như vậy! Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Cao Đài ... đâu có nói đến tội nhiều như vậy; đâu có đòi phải rửa tội, xưng tội, đền tội như vậy!!!
Một cụ già người lương sống rất lương thiện tốt lành. Ông nghe người bạn giới thiệu về Chúa, ông thích quá. Nhưng khi người bạn đề nghị ông chịu phép Rửa tội thì ông mới ngạc nhiên nói: “Tại sao lại phải rửa tội? Tôi có tội gì đâu? Tôi đâu có ăn trộm, giết người cướp của, ngoại tình gì đâu? Tôi đâu có làm hại ai mà tôi phải chịu phép Rửa tội?”
Vậy thì phải chăng đạo Công giáo chúng ta đặt nặng vấn đề lề luật, vấn đề tội?
Trước tiên, chúng ta thấy “tội” là một khái niệm khá quan trọng trong đạo. Sách Sáng Thế Ký đã nói đến Tội Nguyên Tổ làm cho con người phải đau khổ và phải chết. Con Thiên Chúa giáng trần là để cứu nhân loại khỏi tội, khỏi sự chết. Tuy nhiên quan niệm về lề luật và tội lỗi của chúng ta cũng đã có những sai lệch.
Một sáng sớm Chúa nhật, tôi đang chuẩn bị dâng lễ, chỉ còn không đầy một phút nữa là tiến ra bàn thờ, một giáo dân chạy vào nói: “Xin cha giải tội cho con”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao ông lại xin xưng tội gấp gáp vào lúc này?” Người ấy đáp: “Thưa cha tuần vừa rồi con đi đường xa nên bỏ lễ Chúa nhật, con có tội trọng nên không thể rước lễ được. Tôi bảo: “Không sao, ông cứ việc dự lễ và rước lễ, ông không có tội trọng đâu. Ông bỏ lễ Chúa nhật có lý do chính đáng, nên ông không có tội!”
Trường hợp người giáo dân này phản ảnh thái độ quá lệ thuộc lề luật như người Do Thái ngày xưa. Người ta cho rằng làm điều tội chỉ vì có luật cấm làm điều đó, hoặc có tội nếu không làm điều luật buộc phải làm. Và cũng cho rằng, nếu không có luật cấm thì không có tội. Như vậy, tội được định nghĩa hoàn toàn theo pháp lý. Đây là một quan niệm cứng nhắc, tai hại, coi Thiên Chúa như một quan tòa hung dữ, ban ra lề luật, để rồi phạt khi người ta phạm luật.
Hậu quả là người giữ đạo như giữ một số lề luật và con người cảm thấy bị trói buộc; thấy giữ đạo như mang một gánh nặng. Họ thấy, phạm đến lề luật là phạm tội trọng và nếu chết bất ngờ mà không kịp xưng tội trọng thì bị xuống hỏa ngục.
Có phải giữ đạo là giữ những điều luật của đạo; chúng ta thử nghĩ xem, có đúng không?
Cũng có cái đúng đó chứ, bằng chứng là có những người trong nhà thờ hôm nay sợ tội nên không bỏ lễ Chúa Nhật, sợ tội nên không ăn cắp ăn trộm, sợ tội nên không ngoại tình gian dâm!
Nhưng cũng có điều không đúng nếu như chỉ khư khư bám vào lề luật để đánh giá việc làm của mình. Một thái độ khư khư bám vào lề luật như thế được gọi là chủ nghĩa duy pháp lý, một chủ nghĩa sai lạc vì bỏ qua chiều kích thăng tiến con người, hạ giá con người.
Cái nhìn duy pháp lý này lại gây một hậu quả ngược lại, rất nghiêm trọng hơn nữa, đó là góp phần vào tình trạng giảm ý thức về tội. Càng thấy mình phạm luật là phạm tội thì người ta càng giảm ý thức về tội. Lý do là người ta chỉ tố giác những hành vi phạm bên ngoài chứ không còn tố giác sự đồi bại bên trong, sự đồi bại nội tại của tội nữa.
Lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về tội, về lề luật. Ngài coi là tội không chỉ như những hành vi phạm một điều cấm như giết người, ngoại tình nhưng xét đến cái ý muốn nội tại xấu xa của hành vi. Ngài dạy:
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22a). Ngài còn dạy: “Bất cứ ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28).
Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải công chính hơn các kinh sư và người Biệt phái. Công chính hơn ở đây, được hiểu như là sống chân thật: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Công chính hơn ở đây, được hiểu là sống bác ái yêu thương, không giận ghét người khác, trung tín với nhau, tôn trọng lẫn nhau.
Một hôm, tôi nghe một ông xưng tội: “Thưa cha, con có không vâng lời vợ con.” Tôi ngạc nhiên, tưởng mình nghe sai, hỏi lại. Ông này nói rõ hơn: “Thưa cha, con là một ông chồng, con có tội là không vâng lời vợ con”. Tôi hỏi: “Sao ông nghĩ: không vâng lời vợ lại có tội ?”. Ông đáp: “Dạ, thưa cha, vợ con nói đúng, nói có lý, mà con không nghe lời, nên con thấy là con có tội!”
Đây là quả một cái nhìn về tội rất đúng đắn. Tội được xét một cách tích cực như những lỗi phạm hay những thiếu sót của đức bác ái. Đức bác ái ở đây là sự tôn trọng phẩm giá, quyền lợi và ý kiến của người khác. Đức bác ái của ông chồng này thể hiện ở chỗ không độc tài; ông xem vợ mình như người bạn bình đẳng, và biết tôn trọng vợ mình.
Về phần chúng ta, đã nhiều lần chúng ta xét tội như những vi phạm những luật cấm. Thế nhưng, thử hỏi đã bao nhiêu lần chúng ta xét mình là có tội vì thiếu vắng tình yêu thương; đã bao nhiêu lần chúng ta hành động, suy nghĩ, nói năng mà gây tổn hại cho người anh em; đã bao lần chúng ta đã khước từ phẩm giá người môn đệ của Chúa Kitô; đã sống theo kiểu thế gian, chứ không sống theo cung cách của con cái Thiên Chúa!
Phải chăng đạo Công giáo có một nền đạo đức luân lý quá khắc khe? Một đạo đặt nặng vấn đề TN 6-A98
Phải chăng đạo Công giáo có một nền đạo đức luân lý quá khắc khe? Một đạo đặt nặng vấn đề lề luật, vấn đề tội? Có người phê bình Đạo Công Giáo là đạo của “lề luật” và của “tội’. Họ nói đạo gì mà cứ hở một chút là nói: “phạm luật”, phạm điều răn này điều răn nọ; hở một chút là nói “có tội”, nói “Chúa phạt”; hở một chút là nói “bị dứt phép thông công", “bị xuống hỏa ngục".
Đôi khi họ cũng có lý. Bởi thực tế là, mới gia nhập đạo thì phải chịu “Rửa tội”; phải học giáo lý xét mình để có thể “xưng tội”; phải xưng tội thường xuyên, ít ra là mỗi năm một lần; rồi phải “ăn năn đền tội” suốt cả đời, mỗi năm đều có mùa chay để ăn năn đền tội.
Các đạo khác đâu có như vậy! Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Cao Đài ... đâu có nói đến tội nhiều như vậy; đâu có đòi phải rửa tội, xưng tội, đền tội như vậy!!!
Một cụ già người lương sống rất lương thiện tốt lành. Ông nghe người bạn giới thiệu về Chúa, ông thích quá. Nhưng khi người bạn đề nghị ông chịu phép Rửa tội thì ông mới ngạc nhiên nói: “Tại sao lại phải rửa tội? Tôi có tội gì đâu? Tôi đâu có ăn trộm, giết người cướp của, ngoại tình gì đâu? Tôi đâu có làm hại ai mà tôi phải chịu phép Rửa tội?”
Vậy thì phải chăng đạo Công giáo chúng ta đặt nặng vấn đề lề luật, vấn đề tội?
Trước tiên, chúng ta thấy “tội” là một khái niệm khá quan trọng trong đạo. Sách Sáng Thế Ký đã nói đến Tội Nguyên Tổ làm cho con người phải đau khổ và phải chết. Con Thiên Chúa giáng trần là để cứu nhân loại khỏi tội, khỏi sự chết. Tuy nhiên quan niệm về lề luật và tội lỗi của chúng ta cũng đã có những sai lệch.
Một sáng sớm Chúa nhật, tôi đang chuẩn bị dâng lễ, chỉ còn không đầy một phút nữa là tiến ra bàn thờ, một giáo dân chạy vào nói: “Xin cha giải tội cho con”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao ông lại xin xưng tội gấp gáp vào lúc này?” Người ấy đáp: “Thưa cha tuần vừa rồi con đi đường xa nên bỏ lễ Chúa nhật, con có tội trọng nên không thể rước lễ được. Tôi bảo: “Không sao, ông cứ việc dự lễ và rước lễ, ông không có tội trọng đâu. Ông bỏ lễ Chúa nhật có lý do chính đáng, nên ông không có tội!”
Trường hợp người giáo dân này phản ảnh thái độ quá lệ thuộc lề luật như người Do Thái ngày xưa. Người ta cho rằng làm điều tội chỉ vì có luật cấm làm điều đó, hoặc có tội nếu không làm điều luật buộc phải làm. Và cũng cho rằng, nếu không có luật cấm thì không có tội. Như vậy, tội được định nghĩa hoàn toàn theo pháp lý. Đây là một quan niệm cứng nhắc, tai hại, coi Thiên Chúa như một quan tòa hung dữ, ban ra lề luật, để rồi phạt khi người ta phạm luật.
Hậu quả là người giữ đạo như giữ một số lề luật và con người cảm thấy bị trói buộc; thấy giữ đạo như mang một gánh nặng. Họ thấy, phạm đến lề luật là phạm tội trọng và nếu chết bất ngờ mà không kịp xưng tội trọng thì bị xuống hỏa ngục.
Có phải giữ đạo là giữ những điều luật của đạo; chúng ta thử nghĩ xem, có đúng không?
Cũng có cái đúng đó chứ, bằng chứng là có những người trong nhà thờ hôm nay sợ tội nên không bỏ lễ Chúa Nhật, sợ tội nên không ăn cắp ăn trộm, sợ tội nên không ngoại tình gian dâm!
Nhưng cũng có điều không đúng nếu như chỉ khư khư bám vào lề luật để đánh giá việc làm của mình. Một thái độ khư khư bám vào lề luật như thế được gọi là chủ nghĩa duy pháp lý, một chủ nghĩa sai lạc vì bỏ qua chiều kích thăng tiến con người, hạ giá con người.
Cái nhìn duy pháp lý này lại gây một hậu quả ngược lại, rất nghiêm trọng hơn nữa, đó là góp phần vào tình trạng giảm ý thức về tội. Càng thấy mình phạm luật là phạm tội thì người ta càng giảm ý thức về tội. Lý do là người ta chỉ tố giác những hành vi phạm bên ngoài chứ không còn tố giác sự đồi bại bên trong, sự đồi bại nội tại của tội nữa.
Lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về tội, về lề luật. Ngài coi là tội không chỉ như những hành vi phạm một điều cấm như giết người, ngoại tình nhưng xét đến cái ý muốn nội tại xấu xa của hành vi. Ngài dạy:
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22a). Ngài còn dạy: “Bất cứ ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28).
Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải công chính hơn các kinh sư và người Biệt phái. Công chính hơn ở đây, được hiểu như là sống chân thật: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Công chính hơn ở đây, được hiểu là sống bác ái yêu thương, không giận ghét người khác, trung tín với nhau, tôn trọng lẫn nhau.
Một hôm, tôi nghe một ông xưng tội: “Thưa cha, con có không vâng lời vợ con.” Tôi ngạc nhiên, tưởng mình nghe sai, hỏi lại. Ông này nói rõ hơn: “Thưa cha, con là một ông chồng, con có tội là không vâng lời vợ con”. Tôi hỏi: “Sao ông nghĩ: không vâng lời vợ lại có tội ?”. Ông đáp: “Dạ, thưa cha, vợ con nói đúng, nói có lý, mà con không nghe lời, nên con thấy là con có tội!”
Đây là quả một cái nhìn về tội rất đúng đắn. Tội được xét một cách tích cực như những lỗi phạm hay những thiếu sót của đức bác ái. Đức bác ái ở đây là sự tôn trọng phẩm giá, quyền lợi và ý kiến của người khác. Đức bác ái của ông chồng này thể hiện ở chỗ không độc tài; ông xem vợ mình như người bạn bình đẳng, và biết tôn trọng vợ mình.
Về phần chúng ta, đã nhiều lần chúng ta xét tội như những vi phạm những luật cấm. Thế nhưng, thử hỏi đã bao nhiêu lần chúng ta xét mình là có tội vì thiếu vắng tình yêu thương; đã bao nhiêu lần chúng ta hành động, suy nghĩ, nói năng mà gây tổn hại cho người anh em; đã bao lần chúng ta đã khước từ phẩm giá người môn đệ của Chúa Kitô; đã sống theo kiểu thế gian, chứ không sống theo cung cách của con cái Thiên Chúa!
Tin mừng Mt 5: 17-37: Không chỉ huỷ hoại sự sống thể xác mới phải ra toà, nhưng chỉ mới giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em là đã đủ để lãnh án nặng nề, vì đó là con đường dẫn đến tội giết người...
Có câu chuyện kể rằng: Một chiều tối nọ, nước lũ cuồn cuộn ập đến. Ông Lưu khi thấy nước lũ TN 6-A99
Có câu chuyện kể rằng: Một chiều tối nọ, nước lũ cuồn cuộn ập đến. Ông Lưu khi thấy nước lũ đã dâng đến mặt cầu, ông mới chống gậy, vịn thành cầu, dắt theo đứa cháu từ từ lội qua cầu.
Đang đi, ông bỗng phát hiện một nhịp bị nước lũ cuốn đi. Thật nguy hiểm quá! Nếu không có cái thành cầu hai ông cháu sẽ chìm sâu trong biển nước. Thế là họ vội quay lại, dự định sẽ leo lên ngọn núi nhỏ sau nhà để tránh lũ.
Hai ông cháu vừa về đến đầu cầu thì thấy một chiếc xe hơi đang chạy tới.
Ông Lưu lập tức giơ cây gậy ra để chặn đầu xe và hét lớn:
“Cầu hư rồi”.
Không biết sao tài xế không những không dừng xe mà còn tăng tốc, bất chấp cây gậy cản phía trước, lao về phía cầu và lập tức bị chìm xuống đáy sông.
- “Ông ơi, vì sao chú ấy lại tự tìm lấy cái chết?”.
. “Cháu không hiểu rồi. Chú ấy không phải muốn tìm cái chết mà là muốn được sống. Chú ấy tăng tốc là muốn nhanh chóng thoát chết”, ông vừa nói vừa đi nhặt cây gậy bị xe cán gãy làm đôi.
- “Ông đã giơ gậy lên, vì sao chú ấy không chịu dừng lại?
. “Tiếng mưa gió lớn quá, chú ấy không nghe được tiếng ông, chú ấy tưởng rằng ông cháu mình muốn quá giang để thoát nạn. Chú ấy không muốn vì chúng ta mà lỡ mất thời gian quý báu. Nhưng chú ấy đâu biết rằng phía trước là con đường chết. Tiếc rằng gậy ông quá ngắn, không thể cản được chú ấy”.
- “Sao chú ấy lại dám tông gãy gậy ông?”.
. “Vào giây phút sinh tử, đừng nói tông gãy một cây gậy, thậm chí còn có thể tông cả vào ông, cán qua người ông để lao về phía trước nữa đấy”. - “Ông ơi, nước lũ càng lúc càng lớn, ông cháu mình hãy leo lên núi nhanh lên, nếu không sẽ mất mạng đấy”.
. “Ông còn phải đợi một chút. Cháu nghe xem, lại có tiếng xe chạy đến.
Và ông đã lấy chính thân mình để chận chiếc xe lại.[1]
Ông lão cứu họ, mà họ lại cứ tưởng ông muốn đi nhờ xe, để rồi đi đến chỗ chết.
Chúa Giêsu đến hoàn thiện Lề Luật để giải thoát giới lãnh đạo Do Thái mà họ lại cứ cho rằng Chúa đến phá hủy Lề Luật.
Chúa không đến huỷ bỏ Lề Luật nhưng kiện toàn Lề Luật.
Chúa Giêsu đi thẳng vào nguồn ngọn, vào đáy lòng và lương tâm, nơi xảy ra đích thực mối liên hệ của con người với Thiên Chúa. Giá trị luân lý của hành vi không nằm ở vẻ bên ngoài, nhưng ở những quyết định từ bên trong.
Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề Luật theo nghĩa là Người vươn tới thế giới lương tâm chớ không phải chỉ giữ luật theo hình thức bên ngoài.
Chúa nêu ra một số điểm cụ thể như sau:
1. Chớ giết người
Không chỉ huỷ hoại sự sống thể xác mới phải ra toà, nhưng chỉ mới giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em là đã đủ để lãnh án nặng nề, vì đó là con đường dẫn đến tội giết người.
2. Chớ ngoại tình Luật cũ xử phạt người có hành động ngoại tình. Từ đây, Luật Mới đòi buộc phải trong sáng từ ánh mắt đến tận tâm hồn. Phải tôn trọng và lãnh trách nhiệm bảo vệ người bạn đời của mình. Điều răn này nhằm bảo vệ phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Song ý nghĩa nó đi xa hơn, sâu hơn nhiều. Chúa Giêsu đặt nó vào bình diện của ước muốn.
Chính lòng ước muốn sẽ đưa con người đến chỗ ngoại tình.
3. Chớ thề gian
Luật cũ cấm phản bội lời thề. Còn Đức Kitô nói không được thề thốt gì cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là ma quỉ.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi:
“Ta không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại mục đích nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau.
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Luật Mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới:
“Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”. Do đó, chúng ta không lạ gì lối giữ đạo duy hình thức, vụ Lề Luật của các luật sĩ và các nhóm Biệt Phái thời Chúa Giêsu, đã bị chính cuộc sống của Chúa Giêsu vạch trần là giả hình là “mồ mả tô vôi”:
Giữ luật chi li, nhưng là để cho bản thân mình nổi danh đạo đức trước người khác và tự mãn nơi lòng mình. Tệ hơn nữa là hạng người mượn danh “Luật Chúa” để kết án người tội lỗi và người nghèo khổ nên Chúa Giêsu đã bảo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
Chúa Giêsu đã cảnh báo những người đương thời với Chúa và Chúa cũng cảnh báo con người chúng ta hôm nay. Amen.
-------------------- [1] QUANG TỊNH, Bài học lớn từ những câu chuyện nhỏ, trg.141-143
Khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do và Ngài luôn tôn trọng tự do TN 6-A100
Khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do và Ngài luôn tôn trọng tự do của con người để con người dùng tự do định đoạt số phận của đời mình. Chẳng hạn, Sách Sáng Thế kể khi Thiên Chúa dựng nên Adam và Eva, Ngài đã đặt ông bà nguyên tổ vào vườn Eden và cho tự do hưởng dùng tất cả nhưng chỉ một cây biết lành biết dữ là không được dùng. Nhưng, ông bà đã nghe lời cám dỗ của quỷ dữ nên dùng tự do của mình mà phạm tội không vâng lời Thiên Chúa và dẫn đến cái kết đau khổ đắng cay. Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống bình an và hạnh phúc viên mãn nên Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn ca dạy: “Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Hc 15, 19-20).
Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống. Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương và tôn trọng nhau”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10)
Cho nên, Chúa Giêsu kiện toàn Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người” ở chỗ rằng giết người là có tội trọng dĩ nhiên. Giết người thì không còn tính người và tình người, giết người là luật rừng vì thế Luật của Chúa Giêsu thì không được giết người là điều phải giữ mà còn chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật trọng rồi và dẫn đến cái kết đáng sợ. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23). Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi nên Chúa Giêsu đã từng dạy rằng đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.
Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý: yêu thương và tôn trọng phải đi đôi với nhau. Vì nếu, con người giữ được lòng yêu thương và tôn trọng với nhau trong cuộc sống thì chắc chắn không giận ghét, không mắng chửi, căm thù… từ đó sẽ không có nguyên nhân dẫn đến việc đỗ vỡ tình người hay giết người. Nói đây xa, ngay trong gia đình hay giáo xứ chúng ta nếu mỗi người hiểu biết và giữ luật yêu thương tôn trọng của Chúa Giêsu dạy, gia đình và giáo xứ sẽ hòa thuận, yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời khi thịnh vượng cũng lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc ôm đau bệnh dịch này, lúc thất bại cũng như khi thành công, lúc tội lỗi cũng như thánh thiện… nhờ đó mà biết đùm bọc nhau thay cho kỳ thị, nói lời an ủi thay cho la lối thóa mạ thô tục, lấy lời lành mà dạy cho nhau thay cho đấm đá bạo lực, chăm sóc nhau thay cho loại bỏ giết sạch và hy sinh phục vụ cho nhau thay cho bỏ cho chúng chết mặc kệ…
Nhìn thực tế cuộc sống Đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng nhau một cách nghiêm túc và chân tình. Chúng ta vẫn còn trách mắng nhau, chửi bới nhau, giận ghét nhau, kỳ thị nhau, còn vô cảm với nhau thậm chí từ nhau ngay từ gia đình ra gia tộc… Nhưng, dựa vào Lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta phải có sự yêu thương và tôn trọng nhau trong cuộc này, chúng ta nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu và tha nhân một cách nhẹ nhàng và bình an vì chưng với đức tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh chị em với nhau, chúng ta không được phép loại bỏ nhau, sát phạt hay giết nhau dù dưới bất cứ hình thức nào, đồng thời cần giúp nhau, nâng đỡ, sẻ chia, bao dung và hy sinh cho nhau theo thánh ý Thiên Chúa để tạo hạnh phúc, bình an và niềm an ủi đích thực trong cuộc sống đồng thời giúp nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày.
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, không đố kỵ nhau hay kỳ thị người đau yếu khổ đau nhưng biết giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí là sự quảng đại bao dung thương xót nhau hầu tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa mọi đường lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.