"Có thực mới vực được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là Têrêsa Niu: TN 20-B51
"Có thực mới vực được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là Têrêsa Niu Man, là người đã trải qua 36 năm trời không ăn uống gì mà vẫn sống và giữ đạo sốt sắng. Têrêsa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của nước Ðức. Người dân trong làng Cổ Môn Trường gồm gần 1,000 người, hầu hết sống bằng nghề nông. Gia đình của Têrêsa rất nghèo như phần đông các gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêsa 14 tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những điền chủ ở các làng lân cận để có tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc nặng nhọc nhưng Têrêsa không ngại vì bản tính vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc súc vật. Giống như mấy em gái của nàng, Têrêsa cũng có những chàng trai để ý ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước riêng. Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều lần liên lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển Ðức. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng truyền giáo khác cho Têrêsa.
Ngày 13 tháng 11, 1925, Têrêsa bị đau ruột dư dữ dội, cơn sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm sóc cho nàng đề nghị một cuộc giải phẫu tức khắc tại một bệnh viện gần đó. Mẹ nàng khóc hết nước mắt. Cha sở Ngô Biên (Nobert) có mặt. Têrêsa xin cha Biên đặt thánh tích của thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu lên chỗ đau và chính nàng cầu xin: "Lạy thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều lần rồi. Con không xin Ngài vì con nhưng vì mẹ con."
Ðáp lại thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu đã cho nàng lập tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt. Nhưng trước đó thánh nhân đã nói cho Têrêsa Niu Man biết rằng: Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau khổ của con làm ta rất hài lòng. Ðể mọi người nhận thức đây là một biến cố phi thường, con sẽ không cần phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau tạ ơn Chúa. Con sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ điều gì, cả những đau khổ trong nội tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Chúa ở lại và cho dự phần vào cuộc thương khó của Ngài
Quả thật, không đầy bốn tháng sau, Têrêsa cảm thấy mệt mỏi phải nằm giường cả hơn tháng trời cho tới lễ Phục Sinh. Ðêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi nằm nghỉ trên giường, nàng chợt thấy trong một thị kiến, Chúa Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô biên đối với Ðấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Chúa Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng. Nàng cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh lại, Têrêsa thấy ở cạnh sườn bên trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương lại để mọi người không thấy và nói với em gái ở chung phòng với nàng là nàng bị phỏng.
Một tuần lễ sau cũng vào giờ đó Têrêsa lại thấy Chúa Giêsu trong vườn cây dầu, và sau đó cảnh Ngài bị đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa, nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Têrêsa thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi tỉnh lại nàng thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của nàng, không cách chi che giấu được. Khi mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như thế, Têrêsa trả lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Têrêsa được mục kích trọn đường thánh giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha sở Ngô Biên được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong nhật ký của cha: " Têrêsa nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt nàng đầy máu và hai giọt máu chảy xuống má nàng. Gương mặt nàng nhợt nhạt như một người chết. Ðến 3 giờ chiều, giờ chết của Ðấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu những cơn đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, nàng trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Têrêsa sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Têrêsa được thấy Ðấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy khoẻ khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Ban đầu gia đình Têrêsa nghi ngờ về những dấu lạ này nên cố gắng chữa trị cho Têrêsa. Nhưng càng chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những vết thương ấy càng lở loét và gây thêm đau nhức. Têrêsa lấy làm lạ về hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên chữa trị những vết thương đó. Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm đó, giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và thứ sáu, trong khi Têrêsa nhận được thị kiến về Chúa Giêsu chịu đội mão gai, người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu. Khi cất khăn đi người ta thấy đầu nàng ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên đầu nàng. Những vết ấy sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng Sinh 1926, Têrêsa kinh nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng ngày sau khi rước lễ nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36 năm liền, Têrêsa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn duy nhất của nàng. Cha Ngô Biên, người đã cho Têrêsa rước lễ mỗi ngày cho đến khi nàng chết, đã ghi trong nhật ký của ngài rằng Têrêsa thường nói với mọi người là nàng sống nhờ vào Ðấng Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêsa thực đã ứng nghiệm lời tuyên bố của Chúa Giêsu khi nói: "Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là của uống."
Chính bạn có thể dự phần vào cuộc thương khó của Chúa
Câu chuyện vừa kể minh họa lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56). Câu chuyện cho thấy Chúa ở lại một cách lạ lùng: (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền năng của Người nơi một giáo dân chỉ cần chịu lễ mà thôi? không cần ăn uống gì khác trong suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh khỏe! (2) Chúa còn ở lại và cho người ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là: "Con đừng sợ đau khổ, kể cả đau khổ nội tâm. Chỉ có cách đó, con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, phải luôn sống trong sạch và đơn sơ như hiện nay" - mục tiêu ấy được tiết lộ qua trung gian thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu trong một thị kiến.
Nhân vật trong câu chuyện có thực, vì ta biết rõ lý lịch. Sự kiện mà người đó chịu lễ và không ăn uống gì khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về năm dấu thánh nơi thân xác người đó với những đau đớn người đó phải chịu các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó đã được kiểm chứng đầy đủ do các bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo phận Ratisbon của Ðức Quốc. Ðồng thời, vụ án phong chân phước cho bà Têrêsa Niu Man đang được xúc tiến.
Chẳng ai buộc người Kitô phải tin vào ơn mạc khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén nhạy đối với những việc Chúa làm nơi thọ tạo.
Một số câu hỏi gợi ý
Khi bạn rước lễ, Chúa không tỏ quyền năng của Người ra bằng cách cho bạn bỏ qua bữa ăn hằng ngày mà vẫn sống; hoặc cho bạn có 5 dấu thánh trên thân xác bạn, nhưng bạn hãy nghĩ xem Chúa vẫn có thể cho bạn được dự phần vào cuộc thương khó của Chúa bằng cách: vất vả để làm việc nuôi sống gia đình? Aâm thầm phục vụ không cần được ca ngợi? Không biện minh cho lòng ham muốn trở nên giầu có bằng câu nói "có thực mới vực được đạo"? Nhẫn nại đối với những đứa con em khó dạy? Chống trả chước cám dỗ? V.v?
Chính bạn có thể nhắm mục tiêu mà Têrêsa Niu Man nhắm là: nhẫn nại chịu đựng những đau khổ Chúa để cho xảy ra nhằm cứu rỗi các linh hồn? Phải từ bỏ mình nhiều hơn? Phải luôn sống trong sạch? Phải trở nên như trẻ thơ để vào Nước Chúa?
Hai chủ đề đan xen vo nhau trong phụng vụ Lời Cha hơm nay: Lời mời gọi nuơi dưỡng mình: TN 20-B52
Hai chủ đề đan xen vào nhau trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay:
Lời mời gọi nuôi dưỡng mình bằng thần lương Thiên Chúa thiết đãi (bài đọc I và Tin Mừng).
Đề tài khôn ngoan ngự trị trong bài đọc I và bài đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa.
Cn 9: 1-16:
Bài đọc I trích từ sách Châm Ngôn trình bày Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến mà dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan tiên trưng bàn tiệc Thiên Sai.
Ep 5: 15-20:
Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Ki tô giáo.
Ga 6: 51-58:
in Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ “bánh ban sự sống”, trong đó, bằng những từ ngữ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: thịt và máu của Ngài, bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi theo sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, nhưng xem ra điên rồ đối với con người.
BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)
Sách Châm Ngôn thuộc trường phái minh triết Cựu Ước. Trường phái văn chương nầy có hai nguồn gốc: nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.
Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả kinh nghiệm được tích lủy qua nhiều thế kỷ; nó được diễn tả bằng những châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta gặp thấy trào lưu nầy khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.
Về nguồn gốc bác học, thậm chí hoàng gia nữa, như ở Ít-ra-en vua Sa-lô-mon là một bằng chứng điển hình: nhiều châm ngôn được gán cho vua (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên bảo khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương nầy.
Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn gốc nầy; đặc tính của sách đó là, ở giữa những châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn, có thể được soạn thảo muộn thời, đề tặng cho chính Đức Khôn Ngoan.
Ở đây Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một một nữ chủ nhân hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa nầy vẫn mang tính chất thi ca; Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân. Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en: “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”, không thể quan niệm khác đi được. Trong Cựu Ước, sự khôn ngoan của Đức Chúa cũng như thần khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân.
1. Bữa tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi.
Trong đoạn văn được đề nghị cho chúng ta, giáo huấn Đức Khôn Ngoan ban cho được sánh ví với một bàn tiệc mở ra cho tất cả những ai muốn làm môn đệ của mình.
“Đức Khôn Ngoan đã dựng xong nhà, đẻo bảy cột”, điều nầy giả sử một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật. “Bảy” là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân“ hạ thú vật”, tự tay mình “chế rượu” và “dọn bàn”; nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.
Đức Khôn Ngoan “sai nữ tỳ lên các nơi cao trong thành phố rao mời”. Câu nầy xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh việc sai phái các tôi tớ của mình ra đi thi hành sứ mạng quan trọng là cử chỉ của Thiên Chúa; truyền thống sẽ xem cử chỉ nầy thậm chí như cử chỉ thiên sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh cử chỉ nầy được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Ngài sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân của mình ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.
2. Lời mời được gởi đến hết mọi người.
Đức Khôn Ngoan đòi hỏi lời mời của mình phải được vang lên từ những nơi cao ngõ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời nầy mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi: Ở bữa tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su mời gọi: “Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.
Tuy nhiên lời kêu mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây ngô”. Đó là những người khao khát sự hiểu biết và muốn vươn lên cuộc sống trí tuệ, nhưng không những bậc thông thái tự mãn với sự hiểu biết của mình. Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng rồi sẽ đến một ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)
Thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô được trích hôm nay thuộc chương 5, ở đó thánh Phao-lô phô bày cách sống mới mẽ mà người Ki tô hữu đem lại; những lời khuyên nhũ ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.
1. Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình.
Đây không cốt là một lời khuyên mới nhưng lời kêu mời tổng quát và có tính nhắc nhở. Cách ăn nếp ở của người Ki tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki tô giáo mà thánh Phao-lô chủ ý kêu mời. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, sự khôn ngoan Hy lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.
2. Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại.
Chúng ta đừng quên rằng thánh nhân viết thư nầy đang khi ngài đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau: “Anh em có dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là dịp thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội nầy”.
3. Chớ say sưa rượu chè.
Một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra vào những bữa ăn cộng động Ki tô hữu; vì thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp nầy liền ngay sau khi mong ước rằng những buổi họp phải tập trung vào lời cầu nguyện.
Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần khí với việc say sưa rượu chè: “Hãy thấm nhuần Thần Khí”.
4. Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh.
Chúng ta biết rằng những người Ki tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập tục hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, vân vân. Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy.
Nhưng các cộng đoàn Ki tô hữu đã rất sớm sáng tác các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và “những lời ca ngợi chúc tụng Chúa” tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58).
Với đoạn trích nầy, chúng ta hoàn tất bài diễn từ “bánh ban sự sống”.
1. Bí tích Thánh Thể:
Đức Giê-su vừa công bố một lời gây sửng sốt: “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố không thể nào hiểu được nầy gây phản ứng ngay tức khắc từ phía những người Do thái, vốn nghi ngờ trước đây, tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bí tích Thánh Thể trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Tuy nhiên, ở đây, thánh Gioan không dùng từ “mình Thầy” (“sôma”) như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, mà lại từ “thịt tôi” (“sarsh”), từ nầy theo tiếng A-ram cũng như tiếng Hy-bá, chỉ toàn bộ con người; chúng ta có thể khẳng định rằng đây chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, từ “thịt tôi” đã được thay thế bởi từ “mình Thầy” cho phù hợp với công chúng nói ngôn ngữ Hy lạp. Dù thế nào, với từ “thịt tôi”, thánh ký thiết lập mối liên hệ chặc chẽ giữa “Nhập Thể” và “Thánh Thể”. “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”. Đức Giê-su nhận ra thái độ ngập ngừng của những người đối thoại, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa; lời nầy còn gây sửng sốt hơn nữa: chẳng những gợi lên “thịt của Ngài”, lại còn thêm “máu của Ngài”: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”.
Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được nhưng còn gây kỳ chướng nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa: trong mỗi hy lễ, máu hoàn toàn được dâng tiến cho Thiên Chúa.
Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông thường “thịt và máu” chỉ “toàn thể con người” như Đức Giê-su nói với Phê-rô sau khi ông tuyên xưng đức tin: “Nầy anh Si-mon con Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu (phàm nhân) mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát hai từ thịt và máu nối tiếp nhau nầy, Đức Giê-su gợi lên rằng máu sẽ được đổ ra để mà uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để mà ăn. Ngài loan báo rằng bí tích Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Can-vê. Ngoài ra để tránh việc hiểu bí tích Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng cách nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật thần linh đến trên mây trời ở trong sách Đa-ni-en; như vậy, thịt và máu Ngài ban cho để ăn và uống ngõ hầu có sự sống muôn đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét, con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, mà là thịt và máu của Đấng Phục Sinh.
2. Lời hứa ban sự sống:
Toàn thể phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa nầy được lập đi lập lại hầu như ở mỗi hàng. Chúa Con xuất thân từ Chúa Cha hằng sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài thông truyền cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là trong một sự hiệp thông mật thiết đến nỗi không thể nào sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”.
Như thường hằng trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha. Cũng vậy, động từ “ở trong” là một động từ tâm đắc đối với thánh Gioan, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của vương quốc Thiên Chúa.
Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh thêm một lần nữa sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban cho, làm mới lại lời hứa ban sự phục sinh của Ngài. Như vậy Ngài mạnh mẽ khẳng định ý nghĩa cánh chung của “Bánh Ban Sự sống”.
Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể, nhưng trong chương 6 nầy, thánh nhân muốn chúng ta thấm nhập mầu nhiệm vĩ đại nầy, còn hơn cả các sách Tin Mừng Nhất Lãm có thể làm trong những bài trình thuật thanh đạm của mình. Lm. Ignatiô Hồ Thông
Các Bài Đọc trong Chúa Nhật này tiếp tục hướng tâm trí chúng ta về của ăn nuôi dưỡng đời: TN 20-B53
Các Bài Đọc trong Chúa Nhật này tiếp tục hướng tâm trí chúng ta về của ăn nuôi dưỡng đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Bài Đọc I (Sách Phương Ngôn 9: 1-6) nói đến Bữa Tiệc Nước Trời được dọn sẵn để mọi người đến dự. Đây là lời mời gọi của Thiên Chúa là chính Sự Khôn Ngoan để những ai đến và sống theo lời chỉ dẫn khôn ngoan của Chúa, thì được bước đi trong đường hoàn thiện và được vào dự Tiệc Nước Trời.
Bài Phúc Âm (Gioan 6: 51-58) tiếp tục bài Giảng của Chúa Giêsu về Bánh Hằng Sống. Trong đoạn này, Chúa Giêsu nói rõ của ăn và của uống thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta chính là Mình và Máu Thánh Chúa hiện diện thực sự trong Hình Bánh và Hình Rượu. Khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Chúa là chúng ta được dự Bữa Tiệc thiêng liêng Nước Trời; được ăn, uống chính Mình và Máu Thánh Chúa; được Chúa ngự thật vào lòng chúng ta và chúng ta được sống trong Chúa và được Chúa sống trong chúng ta: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được ở trong Ta và Ta ở trong người ấy.” (Gioan 6: 56). Hơn nữa, chúng ta còn được bảo đảm cuộc sống đời đời: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết.” (Gioan 6: 54).
Tư tưởng Bài Đọc I và Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ đến đoạn Tin Mừng về Bữa Tiệc đã dọn sẵn (Matthêu 22: 1-14, Luca 14: 15-24) mà mọi người được mời đến dự, nhưng nhiều người lại lấy những lý do phàm tục để từ chối tham dự, nên một số người khác được mời vào dự; nhưng những ai tham dự thì đều phải “mặc áo cưới” tức là phải mặc lấy con người mới hầu xứng đáng dự Bữa Tiệc Nước Trời. “Phúc thay ai được dự bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa! (Luca 14: 15).
Những tư tưởng trong Bài Đọc II (Êphêsô 5: 15-20) hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải biết “sống khôn ngoan theo Thánh Ý Chúa. Phải biết chăm lo đến đời sống thiêng liêng của chúng ta. Phải biết nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta bằng cách dành thời giờ để cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ca tụng ngợi khen Chúa, dự Tiệc Thánh Thể, rước Mình và Máu Thánh Chúa. Con người có cả xác và hồn. Quá lo về đời sống vật chất, hoặc quá chìm đắm trong đời sống say sưa theo thú tính mà quên đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng, đời sống của Linh hồn, thì chúng ta đã sống như những kẻ dại dột, nhắm mắt đi vào đường diệt vong!
Vậy, trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng cộng đồng Dân Chúa hân hoan dâng Thánh Lễ sốt sáng thờ phượng Chúa, dự Tiệc Thánh Thể, đồng thời cảm tạ, ngợi khen Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã thương ban cho chúng ta, gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta. Đặc biệt trong “Năm Linh Mục” này, chúng ta cũng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các Linh Mục được “đầy ơn Chúa Thánh Thần” để khôn ngoan và yêu thương hướng dẫn đoàn chiên Chúa đi theo con đường thánh thiện dẫn đến cuộc sống muôn đời. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương con người hết lòng hết sức, trên hết mọi sự nên cũng trao ban cho họ: TN 20-B54
Thiên Chúa yêu thương con người hết lòng hết sức, trên hết mọi sự nên cũng trao ban cho họ những quà tặng vô giá.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giê-su xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giê-su không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào? Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn. Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su. Thế nên, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người như lời Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” Vậy thì ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại trong người ấy” nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Người, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.
Không gì quý bằng sự sống. Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
"Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết!
Sự sống sinh vật mà ta đang có tuy rất mong manh, giòn mỏng mà còn đáng quý như thế, huống chi Sự Sống vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giê-su
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giê-su khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Ki-tô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả, giáo hoàng trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Ki-tô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Ki-tô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giê-su,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Khi Chúa Giêsu bôn ba đó đây rao giảng Tin mừng, chúng ta thấy dân chúng đi theo Người: TN 20-B55
Khi Chúa Giêsu bôn ba đó đây rao giảng Tin mừng, chúng ta thấy dân chúng đi theo Người rất đông nhưng không hẳn vì họ thán phục giáo lý hay những phép lạ Người đã làm; họ đến với Chúa Giêsu chỉ để giải quyết vấn đề “bao tử” vốn đang cồn cào trong họ (x. Ga 6, 26). Chính vì thế, tại hội đường Caphácnaum, Chúa Giêsu hướng họ đến một thứ lương thực trường cửu khi Người đề cập đến chính Thịt và Máu Người làm của ăn Thần linh dưỡng nuôi họ.
Nói đến bánh từ trời xuống, không ai trong dân Dothái thời đó lại không hiểu tường tận câu chuyện của hơn 1250 năm trước trong sa mạc khi Giavê Thiên Chúa đã dùng Manna và chim cút nuôi dưỡng cha ông họ (x.Xh 16). Ngày đó, trên hành trình về đất Hứa, dân Dothái phải trải qua nhiều khó nhọc, gian khổ trăm bề. Những gian khổ đó có đáng là gì so với thời họ còn là nô lệ bên Aicập. Thế nhưng họ quên mất điều đó. Họ chỉ biết có mỗi một điều là trước đây họ được ăn no tuy bị kìm kẹp trong vòng nô lệ. Còn bây giờ, tuy được tự do nhưng lại phải đói khát. Vì thế họ kêu trách Môsê và lẩm bẩm than trách Giavê Thiên Chúa. Ngày đó, Giavê Thiên Chúa đã cho “kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần/Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 77, 25). Manna chính là hình ảnh tiên trưng, chuẩn bị cho việc mạc khải bánh đích thực từ trời là chính Đức Kytô hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn của Người.
Những dấu lạ hoá bánh ra nhiều của Chúa Giêsu cũng không gì khác hơn là muốn hướng họ đến một thứ lương thực trường tồn. Thế nhưng dân chúng vẫn không hiểu được ý nghĩa ấy. Họ chỉ biết rằng theo ông Giêsu thì được ăn bánh no nê và chỉ dừng lại ở đó. Điều Chúa Giêsu muốn là họ cần phải tìm một thứ lương thực nuôi sống không chỉ cho thân xác vốn mỏng giòn chóng qua mà còn để nuôi sống linh hồn họ nữa. Chúa Giêsu nhắc đến thân mình Người chính là của ăn quý giá ấy. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây”(c.51).
Rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn là loài người được hưởng sự sống dồi dào từ chính máu thịt của Người. Lẽ dĩ nhiên máu và thịt ở đây không phải là máu thịt bình thường như người Dothái vẫn xầm xì: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ấy được”(c.52), mà là Máu Thịt chính Chúa Giêsu sẽ hiến dâng làm của lễ dâng lên Chúa Cha khi Người bị treo trên thập giá. Như thế, chúng ta thấy, lương thực thần linh từ trời ban xuống cho nhân loại không chỉ dừng lại ở việc tin vào Con Thiên Chúa xuống thế làm người mà còn là việc lãnh nhận chính Mình và Máu của Người. Khi chúng ta ăn Thịt và uống Máu thánh Chúa Kytô là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Người, được ở lại trong Người và nhờ đó, chúng ta có được sự sống từ chính nơi Chúa Cha. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Hiệu quả của việc lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kytô không chỉ là việc Chúa Kytô ngự trị trong tâm hồn chúng ta và ngược lại, nhưng còn là việc chúng ta hưởng trọn vẹn sự sống vĩnh hằng trong nước Thiên Chúa. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Chính vì tầm quan trọng của việc lãnh nhận linh dược vô giá này, mà Giáo hội đòi buộc mọi tín hữu cần chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng, nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Điều này được thánh Phaolô ghi lại rất rõ ràng. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa… Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt mình” (1 Cr 11, 27.29).
Chúng ta dễ dàng nhận ra đây là một trình thuật gần như tương xứng với trình thuật về việc Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể. Phần chúng ta, muốn được cư ngụ cùng với Chúa Giêsu, muốn được cùng Người chung hưởng sự sống Thần linh, không gì tốt hơn cho bằng qua đức tin, giúp chúng ta đón nhận mầu nhiệm Thánh Thể, chính là tặng phẩm Thần Linh của Chúa Giêsu – qua việc hiến tế chính mình trên Thập giá- ban tặng cho chúng ta mội ngày trong bàn tiệc Thánh.
Lễ sao nhàm quá cha ơi!” một thanh niên than thở với cha xứ mình. “Sao lại nhàm?” cha xứ: TN 20-B56
“Lễ sao nhàm quá cha ơi!” một thanh niên than thở với cha xứ mình. “Sao lại nhàm?” cha xứ guợng hỏi. “Thưa Cha! Vì chỉ có chừng ấy bấy nhiêu rồi cứ lập đi lập lại hoài!” “Nhưng các bài đọc thay đổi mỗi Chúa Nhật mà sao con nói lập đi lập lại?” “Thưa Cha!” chàng thanh niên thú thật, “các bài đọc khác nhau nhưng bài giảng của cha lại.. .giống y nhau!!!”
Có lẽ mẫu đối thoại kia cũng đã trên môi miệng nhiều người và chắc chắn đã là tâm trạng của những bạn trẻ tuổi đang xanh và mơ uớc còn hồng. Nhưng nếu đổ lỗi cho một cá nhân không thôi thì thật không công bằng một chút nào vì có thể nào một cánh én lại tạo đuợc cả mùa xuân!? Dẫu cho vị linh mục kia có miệng lưỡi Tôn Tần, Thánh Lễ cũng sẽ nhàm sẽ chán nếu không có sự cộng tác tuyệt đối tích cực của mọi thành phần dân Chúa.
Nhưng trước khi đi sâu vào sự thụ động của mỗi một cá nhân là nguyên nhân chính gây ra sự nhàm chán chung cho cả cộng đoàn, chúng ta phải tái khẳng định điều này là Thánh Lễ dâng kính hôm nay không phải là sự lập đi lập lại của ngày hôm qua hay Chúa Nhật trước. Đây chính là “hoa màu ruộng đất và lao công” mà chúng ta “dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh và của uống thiêng liêng nuôi duỡng” không ai khác ngoài chính chúng ta.
Nhưng với Martin Luther, hy lễ dâng tiến hôm nay cũng chỉ là một sự tái diễn Buổi Tiệc Ly hơn hai ngàn năm trước. Nói một cách khác, theo Luther, “mỗi lần ăn bánh và uống chén này,” chúng ta chỉ tưởng niệm sứ vụ cứu chuộc Đức Kitô.
Nhưng Chúa không chỉ chết một lần trên đồi Núi Sọ. Người đã đang và sẽ chết mỗi từng phút giây cùng với chúng ta. Như Bruce Wilson đã viết là thay vì hỏi “tại sao Thiên Chúa lại để tạo vật Người chịu khổ đau như thế ” thì phải hỏi “tại sao Thiên Chúa lại để Người cùng tạo vật Nguời chịu khổ đau như thế?”
Như Cha Thánh Damien tại quần đảo Hạ Uy Di. Ngày kia, vừa bắt đầu bài giảng thuyết “Chúng tôi là những người phong hủi,” Ngài thấy nhiều vết đỏ đầy khắp tứ chi. Và Ngài mỉm cười ra điều hiểu biết. Như Chúa khi xưa, Ngài đã san sẻ cùng với những người Ngài được sai đến để xoa dịu muôn nỗi khổ đau.
Và vì thế, mỗi khi “ăn bánh của Ta” và “uống rượu Ta đã pha” này, chúng ta, như Sách Cách Ngôn dạy, “phải bỏ sự ngây dại đi” và “bước theo đuờng lối khôn ngoan.”. Bỏ sự ngây dại và bước đi theo đuờng lối khôn ngoan là phải biểu lộ cụ thể đức tin một cách liên lĩ và sáng tạo.
Một cụ già cùng đứa cháu trai ngồi hóng mát dưới bóng một cây cao rồi thỉnh thoảng ông cụ mỉm cười. “Có điều gì vui mà ông cuời thế?” đứa cháu buột miệng hỏi. “Ông cười khi nhìn mấy con sóc nhảy từ cành này sang cành khác,” ông cụ từ tốn trả lời. “Thử tưởng tượng chúng cứ ngồi lì một chỗ! Làm gì mà còn đời sống!”
Liên lĩ, vì thế, không thể là lúc nhặt lúc khoan, lúc nắng lúc mưa, lúc này lúc nọ. Sáng tạo, cũng vì thế, không thể là máy móc, thờ ơ, lạnh lùng, ngoại cuộc. Thánh Lễ sẽ không còn nhàm chán khi chúng ta cung kính rước lấy Bánh Trường Sinh. Khi chính đôi tay ta dâng lên mồ hôi ta, nước mắt ta và lao công ta. Khi môi miệng ta “hát lên những thánh vịnh và những bài ca đạo đức.” Khi “ hết lòng ca tụng Chúa,” Chúa sẽ ban sự sống đến muôn đời…
Trong lịch sử của dân Do Thái, trang sử hào hùng nhất vẫn là những tháng năm đi trong sa mạc: TN 20-B57
Trong lịch sử của dân Do Thái, trang sử hào hùng nhất vẫn là những tháng năm đi trong sa mạc. Cả bốn mươi năm dài, họ đã được Thiên Chúa nuôi sống bằng man-na từ trời rơi xuống. Những khó khăn, những chướng ngại qua đi để rồi in dấu ấn một lịch sử dân tộc được Thiên Chúa chăm sóc nuôi dưỡng bốn mươi năm trong rừng vắng. Niềm tự hào đó đã viết lên trang sử và biến thành một chất đối thoại khi mà những người Do Thái căn cứ vào đó để họ hỏi xem Chúa Giêsu có làm được gì hơn là cha ông của họ, vì cha ông của họ đã từng ăn manna trong sa mạc suốt bốn mươi năm.
Đức Giêsu đã không cần phải thời gian bốn mươi năm, Đức Giêsu không cần phải biện minh những gì mà người ta quan sát bề ngoài. Đức Giêsu tuyên bố một cách ngắn gọn, rõ ràng: “Bánh mà Cha Ta ban phải là bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời” (Ga 6,33). Lời tuyên bố này cho người Do Thái thấy rằng, cha ông của họ ăn man-na nhưng cũng đã chết trong hoang địa. Bánh từ trời đích thực phải là bánh đem đến sự sống đời đời. Người Do Thái hôm nay muốn được sự sống đời đời đó nên xin Đức Giêsu cho họ được bánh đó. Đấy chính là một con đường mà Đức Giêsu đã nhẹ nhàng dẫn họ tới đích và đích điểm của con đường đó là lời tuyên bố cuối cùng của Đức Giêsu, “Ta là bánh ban sự sống từ trời xuống”. Và như vậy, Đức Giêsu tuyên bố, Ngài mới chính là “bánh ban sự sống đời đời”(Ga 6,35). Lời tuyên bố này đã dẫn đến một lời tuyên bố rõ ràng hơn: “Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống. Ai ăn thịt Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,55). Người Do Thái nói đến của ăn ban sự sống đời đời thì mong muốn xin với Đức Giêsu. Nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống” thì những người Do Thái này đã tẩy chay và họ tẩy chay bằng lời nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga 6,60)rồi họ bỏ đi. Như vậy cuộc đối thoại hôm nay chưa phải là hồi kết thúc, bởi vì những người Do Thái chưa hiểu rõ “bánh ban sự sống đời đời” là gì, nhưng một điều rất buồn là khi họ hiểu được thì họ lại nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” và bỏ đi. Do vậy, đến với bí tích Thánh Thể, đến với bánh ban sự sống phải là ân huệ từ Trời và phải là thành tâm thiện chí từ lòng người trên mặt đất. Cộng hưởng hai điều đó, người ta mới có thể nhận ra sự sống đời đời và bánh ban sự sống đời đời là chính Đức Giêsu Kitô.
Người ta kể chuyện Napoleon, sau những cuộc chinh chiến, chinh phạt châu Âu, cuối cùng thì Napoleon thất thế và bị đày ra đảo Hélène(theo Minh họa Lời Chúa). Vào những ngày cuối đời của ông, người viết sử vẫn theo sát, và một ngày kia khi thấy ông tỏ ra vui vẻ thoải mái, người viết sử hỏi ông: “Trong cuộc đời của hoàng đế, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?”. Hoàng đế Napoleon suy nghĩ khá lâu rồi trả lời: “Tôi còn nhớ ngày đó qua đi lâu lắm rồi, ngày đó là ngày tôi rước lễ lần đầu”. Hoàng đế không nói ngày mình lên ngôi vua hay là ngày mình chiến thắng cả châu Âu, nhưng Hoàng đế nói: “ngày hạnh phúc nhất là ngày rước lễ lần đầu”. Lý do, là bởi vì đó là niềm vui sâu sa, thiêng liêng và ân thánh khác hẳn với niềm vui thế gian. Điều này, thánh Ignatio trong “Tự thuật” của ngài, ngài đã phân tích rất kỹ: “Khi mà lao vào những hưởng thụ và vui thú thế gian thì niềm vui đến nhưng qua đi rồi, nó để lại một sự cực nhọc và chán nản. Còn niềm vui đến trong tâm hồn, thật sâu lắng và càng ngày càng thấm sâu mãi.” Chính vì vậy mà đến với Đức Giêsu phải là một lòng tin, phải là một niềm thao thức từ trong cõi lòng. Và như lời Chúa Giêsu đã dạy cho người Do Thái hôm nay: “Các ngươi đừng làm việc vì của ăn hư nát nhưng hãy ra công làm việc vì của ăn đem đến sự sống đời đời” (Ga 6, 27), đấy mới là một sự tìm kiếm đích thực. Sự tìm kiếm này đòi hỏi người ta biết lắng nghe tiếng của tâm hồn, biết nhận ra sự gì là quan trọng và ý nghĩa mục đích của sự sống là gì.
Vào những thập niên 60, 70 của thế kỷ XX có một người ở Mỹ rất thành đạt tên là Colson, ông đã có một văn phòng riêng bên cạnh tòa bạch ốc và lợi tức thu được hàng năm lên tới hàng triệu đô-la, một nhân vật nổi tiếng quan trọng như vậy có văn phòng riêng bên cạnh tổng thống, vậy mà ông vẫn cảm thấy thiếu một cái gì: không phải thiếu tiền vì lợi tức của ông lên hàng triệu USD mỗi năm; cũng không thiếu gì danh vọng bởi vì ông đã thành đạt đến mức có văn phòng riêng bên cạnh phủ tổng thống, thế nhưng ông vẫn cảm thấy thiếu một điều gì đó. Cho đến khi, người bạn của ông là Thomas Phillip đến nói với ông rằng: “Tôi cũng mới khám phá ra sự thiếu đó mặc dù tôi rất thành đạt nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu một điều gì cho đến khi tôi khám phá ra tôi thiếu Chúa Giêsu, vì cuộc đời tôi đã không hề hướng lòng về Ngài”. Và sự trở lại của Thomas Phillip đã kéo theo sự trở lại của Colson. Colson nghe lời bạn khuyên và một đêm kia, ông cũng đã nhận ra điều đó. Ngay ngày hôm sau, các báo đã đăng tải tin về Colson – một nhân vật quan trọng của nước Mỹ đã trở lại đạo. Họ là những người mà thế giới theo dõi bước đi của họ, nhưng thực sự bước đi của họ chỉ có ý nghĩa và được thế giới ngạc nhiên cũng như ca tụng là khi họ khám phá ra Chúa Giêsu. Họ đã khám phá trong tâm hồn chính là: đức tin đem lại cho họ sự sống đời đời và đức tin ấy dẫn họ đến với Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người để họ sống theo sát dấu chân của Chúa và lắng nghe lời giảng dạy của Đức Kitô, họ đạt tới sự sống đời đời. Khi đi theo sát dấu chân của Chúa, lắng nghe lời Chúa, cuối cùng họ được ăn thịt và uống máu Chúa, và thịt máu ấy đúng là của ăn đích thực đem lại cho họ sự sống đời đời. Họ hay là chúng ta cũng là một.
Chúng ta, những người đi theo Đức Kitô hôm nay, cũng đang vắng thiếu, nếu chúng ta chỉ biết lương thực hằng ngày là của ăn vật chất. Vì vậy trong Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được “lương thực hàng ngày” là của ăn đời này và nhất là của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Trong bí tích Thánh Thể, chúng con nhận ra Chúa chính là bánh ban sự sống đời đời. Xin Chúa cho chúng con được đến với Chúa mỗi ngày để lương thực đích thật từ trời đem lại cho chúng con sức sống thiêng liêng phần linh hồn, và đem lại cho chúng con hạnh phúc vĩnh cửu.
***
Mỗi ngày, xin Chúa cho mỗi người chúng con thấy cuộc đời trở nên ý nghĩa hơn khi chúng con thấy không thể sống một ngày, một giờ vắng thiếu Chúa.
***
Xin cho chúng con trở nên những người khôn ngoan khi khám phá ra: Chúa chính là sự sống đời đời. Sự sống ấy đem lại cho chúng con ý nghĩa đích thực trong cuộc sống
***
để rồi ngày hôm nay, chúng con lắng nghe và chúng con lãnh nhận Lời Hằng Sống, cùng với Thịt và Máu Chúa từ trời xuống trao cho chúng con sự sống đời đời chính là cho chúng con thêm lòng yêu mến Bí tích Thánh Thể mỗi ngày một hơn. Amen.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác: TN 20-B58
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, khám phá sự lạ lùng này tới sự lạ lùng khác. Con người chúng ta như bị thu hút bởi một con người rất người, rất thực tế nhưng lại là một Đấng siêu việt, khiến chúng ta phải tạ ơn, cúi đầu khâm phục vì muôn việc kỳ diệu Ngài đã làm trong Tin Mừng cho nhân loại, cho con người.Đức Giêsu Kitô quả thực là một con người rất thực tế, Ngài đã chăm sóc dân, đã băng bó, đã chữa lành các vết thương, các bệnh hoạn tật nguyền của con người, Ngài còn mạc khải cho con người về lương thực nuôi sống con người, của ăn trường tồn, vĩnh cửu là chính thịt máu của Ngài.
Đức Giêsu Kitô yêu nhân loại, yêu con người chúng ta đến nỗi Ngài đã ban cho chúng ta thịt máu của Ngài. Đây là điều thật khó hiểu và hết sức ngỡ ngàng đối với mọi người.Ai dám ăn thịt và uống máu người mình yêu, người mình thương mến. Bởi vì, chẳng ai dám ăn thịt người yêu.Nhưng Đức Giêsu Kitô lại khác, Ngài muốn nuôi nhân loại, nuôi mọi người bằng chính thịt máu của Ngài. Đây là một điều hết sức kỳ diệu, lạ lùng và hết sức cao quí.Đây là mầu nhiệm đức tin.Cái chết trên thập giá, cái chết hy sinh tự nguyện gánh tội nhân loại của Chúa Giêsu đã minh chứng Ngài thực hiện sứ mạng cứu rỗi nhân loại và nuôi sống con người bằng chính thịt máu của Ngài. “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Đức Giêsu là tấm Bánh ( Ga 6,48.51). Đức Giêsu ban cho nhân loại, ban cho con người tấm Bánh ( Ga 6, 51 ). Tấm Bánh mang sự sống và tấm Bánh ban sự sống. Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Tấm Bánh. Bánh có nghĩa là chịu mất đi cho người khác, cho nhân loại.Bánh như thế mới có giá trị.” Chúa Giêsu là Đấng chịu người khác ăn đi “.Đây là ý nghĩa đích thực của Tấm Bánh Giêsu. Khi chúng ta ăn Ngài, chúng ta trở nên Ngài và Ngài trở nên chúng ta. Đây là sự hiệp thông sâu xa, thẳm sâu của Bí Tích Thánh Thể. Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Chúa:” Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy “ ( Ga 6, 56 ). Theo cách nói của người Do Thái “ thịt “ có nghĩa là con người toàn diện. Thịt và máu chỉ con người toàn thể. Nên, theo thánh Gioan, cụm từ “ Ngôi Lời hóa thành nhục thể “. Chúa trở nên con người lịch sử thì điều này cũng đúng với Bí Tích Thánh Thể. Chúa sống lại và tràn đầy vinh quang. Chúa mang trong người sự sống mới, Ngài cũng làm cho chúng ta được sống mãi như Ngài.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc, một Bí Tích Thánh Thể. Và để lãnh nhận Mình Máu của Chúa Giêsu, chúng ta phải sốt sắng cử hành bàn tiệc Lời của Chúa. Đức Giêsu sống nhờ Thiên Chúa Cha, chúng ta sống nhờ Chúa Giêsu ( Ga 6, 57 ).Chúa Giêsu đã từng nói: ” Ta là cây nho, chúng con là nhành “. Nhành chỉ có thể sống và sống tốt nhờ liên kết với thân nho. Con người chúng ta chỉ có thể sống tốt và sống dồi dào nhờ tháp nhập với thân là Đức Giêsu. Do đó, ăn và uống máu Chúa sẽ giúp chúng ta, sẽ giúp nhân loại tránh được sự hủy hoại của cái chết và được sự sống đời đời.
Con đường dẫn con người, dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa để có sự sống trường sinh, để được mọi người đón nhận ta như là anh em của họ, đòi hỏi chúng ta phải sống như Chúa: ” yêu như Chúa yêu “ ( Ga 15, 12 ) và “ sống không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Bởi vì, ngay nhiều người Do Thái đã sống với Chúa, đã gặp Chúa, hay như các môn đệ đã sống thân tình với Chúa, nhưng “ việc ăn thịt và uống máu Chúa Kitô “ đối với họ cũng không phải là điều dễ hiểu.Đối với con người thời đại việc nhận lãnh Mình và Máu Chúa Kitô đòi hỏi con người phải chuẩn bị tâm hồn và sống đức tin, vì rước Mình và Máu Chúa Kitô luôn thúc đẩy con người sống tột cùng điều Chúa đòi hỏi: ”…Thịt Tôi là của ăn đích thực, và máu Tôi là của uống đích thực.Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì sống mãi trong Tôi và Tôi sống mãi trong người ấy “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn soi dẫn đường lối chúng con đi. Xin cho Mình Máu Chúa luôn nuôi dưỡng hồn xác chúng con. Amen.
Tiếp nối Tin mừng của hai Chúa nhật trước nói về sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư: TN 20-B59
Tiếp nối Tin mừng của hai Chúa nhật trước nói về sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và Bánh Hằng sống từ trời xuống nuôi linh hồn loài người, trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu khẳng định một cách quyết liệt Bánh hằng sống từ trời đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa sẽ ban Bánh hằng sống đó trong phép Thánh Thể.
I. LỜI KHẲNG ĐỊNH CỦA ĐỨC GIÊSU.
1. Lời khẳng định tiệm tiến.
Đức Giêsu không nói ngay đến Bánh hằng sống là Mình Máu Ngài được ban trong phép Thánh Thể, mà Ngài còn dọn lòng dân chúng để họ có thể chấp nhận chân lý cao siêu mà Ngài muốn dạy dỗ họ. Trước tiên, Đức Giêsu phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi xác tức Manna trong Cựu ước và bánh thiêng liêng nuôi hồn tức là Thánh Thể Chúa Kitô trong Tân ước. Tiếp đến Ngài nói đến việc Ngài ban mình làm Bánh hằng sống từ trời xuống và kêu gọi người ta ăn bánh đó. Hôm nay Ngài khẳng định Bánh Hằng Sống đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa Bánh hằng sống ấy trong phép Thánh Thể.
2. Lời khẳng định quyết liệt.
Hôm nay Đức Giêsu dọn lòng dân chúng tiến dần đến tột điểm cùng đích của Ngài, đón nhận một mầu nhiệm thẳm sâu, Ngài cho biết rằng Bánh sự sống chính là Thịt và Máu của Ngài khi Ngài phán:”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55). Phép Thánh Thể là một bữa tiệc hy lễ trong đó chúng ta thực sự “ăn thịt và uống máu Chúa”. Lời tuyên bố vừa được nói ra thì nhiều người phản đối, ngờ vực, bỏ đi. Ai lại làm một việc kinh tởm như vậy ? Nhưng Đức Giêsu chẳng những không làm nhẹ bớt ý nghĩa mà lại nói cách rõ rằng hơn, không có thể hiểu một cách khác được:”Thật, Ta bảo thật các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6,53-54).
3. Phản ứng từ phía dân chúng.
Khi nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu: Thịt Ngài là của ăn, máu Ngài là của uống cho sự sống muôn đời thì người Do thái đã phản ứng rất mạnh:”Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được”?(Ga 6,52)? “Ông này chẳng phải ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói:”Ta từ trời xuống” (Ga 6, 42).
Trước phản ứng dữ dội của họ, Đức Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm:”Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”. Hơn nữa con người còn đi vào sự kết hiệp mật thiết với Ngài:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở lại trong Ta và Ta ở lại trong kẻ ấy”(Ga 6, 56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ nói:”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(Ga 6,60). Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn đi với Ngài nữa.
4. So sánh Manna xưa và nay.
Nhân dịp người Do thái gợi ra câu chuyện Manna, Đức Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về Bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày này lãnh bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng cho con người chính Người Con Một yêu dấu. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lại sự no nê cho thể xác, ngày nay mình máu Chúa Kitô trở thành thần lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà lại còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Ngài, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Ngài trong bí tích Thánh Thể (Vũ xuân Hạnh)
II. PHẢI HIỂU LỜI CHÚA THẾ NÀO ?
1. Hiểu theo nghĩa đen.
Những lời Đức Giêsu giảng dạy ở đây nói về phép Thánh Thể, chúng ta phải hiểu theo nghĩa nào: nghĩa đen hay là nghĩa bóng, nghĩa tượng trưng ? Anh em Tin lành không tin có Đức Giêsu trong phép Thánh Thể. Để phủ nhận, đoạn văn về việc hứa lập phép Thánh Thể phải hiểu theo nghĩa bóng, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Còn đối với chúng ta, giáo lý công giáo đã dạy chúng ta phải hiểu theo nghĩa đen thông thường khi nói về phép Thánh Thể, chứ không theo nghĩa bóng được.
Ta thử đọc lại đoạn văn này: Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh hằng sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trên rừng và họ đã chết. Đây là Bánh từ trời xuống: ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ cho chính là Thịt Ta cho thế gian được sống”(Ga 6,48.49.51).
Người Do thái nghe Đức Giêsu nói thế thì lẩm bẩm rằng:”Ông Ta lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn sao được”(Ga 6,52) ? Thế là họ hiểu theo nghĩa đen, đúng như ý Ngài muốn nói. Cho nên, Đức Giêsu không chữa lại (nghĩa là không bảo rằng: các người lẩm bẩm làm chi, Ta nói bóng đấy mà), mà còn nói hăng hơn:”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và uống máu Ngài, thì các ngươi không có sự sống trong mình...Vì thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” (Ga 6,53.55).
Nhiều người trong môn đệ nghe nói thế, rất khó chịu nên nói:”Lời nói chướng tai quá, nghe sao được”(Ga 6,60). Ngài không rút lời, không cải chính, nên có một số môn đệ bỏ đi. Giả như Đức Giêsu nói nghĩa bóng, thì Ngài giải thích cho họ chứ ? Chẳng những không cải chính, Ngài còn quay lại hỏi các Tông đồ rằng:”Còn các con, các con có muốn bỏ mà đi không” ? Nghĩa là Ngài muốn nói: nếu các con không tin mà bỏ Ta, thì Ta cũng cứ nói thế, chứ không rút lại lời đã nói.
2. Sự hiện diện thực sự.
Dân chúng trong hội đường Capharnaum đã không hiểu hay không muốn hiểu. Ngày nay cũng có nhiều người không muốn hiểu và muốn coi đó chỉ là một cách nói. Còn chúng ta, chúng ta tin rằng lời Chúa là sự thật. Khi chúng ta “ăn thịt và uống máu Chúa”, không phải chỉ là một sự hiện diện, mà là sự thông phần thực sự vào Thánh Thể vinh quang của Ngài. Sự sống của Ngài tuôn chảy trong mạch quản của chúng ta. Ngài ở trong Ta và Ta ở trong Ngài.
Thánh Cyrillô nói:”Đừng nghi ngờ đó là sự thật, nhưng tốt hơn nên đón nhận Lời của Đấng Cứu thế trong đức tin, vì Ngài không thể nói dối”.
Truyện: Ông Daniel Connell
Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ái-nhĩ - lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số bạn bè theo đạo Tin lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Bấy giờ Daniel đã trả lời như sau:”Sao các ông lại hỏi tôi ? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào lời Chúa nói. Nếu Lời Chúa khẳng định rằng:”Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi ! Nhưng tôi luôn tin rằng: Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời”.
Câu nói của Daniel Connell cho ta thấy: niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, la ølương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là đều kiện để ta được ơn cứu độ (Vietcatholic).
3. Lời Chúa và Thánh Thể.
Ngày nay có những người Công giáo bị ảnh hưởng các giáo phái khác, có khuynh hướng nhấn mạnh đến việc đọc lời Chúa, họp nhau chia sẻ lời Chúa, mà không quan tâm đến việc đi dự lễ để được rước Mình thánh Chúa. Đối với người công giáo, Lời Chúa và Mình thánh Chúa đều là lương thực thiêng liêng. Đọc lời Chúa và suy gẫm lời Chúa mà không đi dự lễ để được kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể thì không còn cái căn tính của người công giáo. Cha ông ta thường nói:”Quen quá hoá nhàm”, nghĩa là người ta không qúi trọng cái mà người ta có trong tay mà còn muốn tìm cái khác...
Đức tin của người công giáo về bánh hằng sống khác hẳn với người Tin lành. Người công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể, và tin việc rước lễ là rước Mình thánh Chúa. Vì nếu ta tin Chúa có quyền phép, ta cũng tin Chúa có thể biến đổi bánh rượu thành Mình thánh Người, mặc dù hình thái bên ngoài vẫn giống bánh rượu. Nếu ta tin Chúa có quyền thế, ta cũng tin Chúa trao quyền cho Linh mục, để truyền cho bánh rượu trở thành Mình Máu thánh Người.
III. HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH THỂ.
1. Thánh Thể là bữa tiệc.
Thánh lễ trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi người cho là một vinh dự. Ở đây mọi người trở nên bình đẳng, vì tất cả chúng ta là những người nghèo về mặt thiêng liêng nên tất cả đều được ăn uống no nê. Ngoài ra, tất cả những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta không đến dự ?
Truyện: Người mẹ hy sinh để con sống.
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ goá chồng, mang theo một đứa con thơ đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập tới làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đênh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tầu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chết đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa. Bà đã hy sinh chết để cho con bà được sống !
Về sau đứa bé lớn lên đã trở thành một dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ và biết ơn người mẹ thân thương và một ngày kia, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội, kể lại câu chuyện đau thương cuộc đời mình, và đề nghị Quốc hội chọn một ngày trong năm làm ngày để nhắc nhở con cái tỏ lòng biết ơn đối với mẹ mình. Đó là nguồn gốc của Ngày Quốc tế các Bà Mẹ hiện nay.
3. Hiệu quả việc tham dự Thánh Thể.
Đức Giêsu đã giãi bầy tâm sự với các môn đệ:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Khi chúng ta rước mình và máu thánh Chúa thì chúng ta được kết hợp với Ngài như Ngài ở trong chúng ta vậy. Một cuộc kết hợp giao thân như cành nho với thân nho (Ga 15,4-7), một cuộc trao đổi tình thương có một không hai, chỉ có trong phép Thánh Thể.
Để minh hoạ cho sự kết hợp trên, tôi xin đưa ra hình ảnh cụ thể: Đây là tủ sách của tôi, trong đó có một quyển sách mà tôi chưa hề đọc. Dù cho quyển sách đó có qúi và bổ ích đến bao nhiêu, nhưng nếu tôi không đọc đến thì nó vẫn ở ngoài tôi. Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và rung cảm. Câu truyện đó thôi thúc tôi, những dòng chữ quan trọng được ghi khắc vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc nào cần, tôi có thể lấy những điều kỳ diệu đó từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia cuốn sách đó vốn ở ngoài tôi, nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó đã thâm nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình. Những kinh nghiệm và từng trải trọng đại trong đời cũng vậy, chúng vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy cho riêng mình.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta có thể nuôi dưỡng bằng sự sống, sức mạnh và sinh động mà Ngài ban cho. Đức Giêsu dạy chúng ta phải uống máu Ngài, điều ấy Ngài muốn nói “Các ngươi phải tiếp thu sự sống của ta, đưa vào bên trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào bên trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy, các ngươi sẽ có sự sống, và đó là sự thật”. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói khi Ngài đề cập đến việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi Đức Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài là dạy chúng ta hãy lấy nhân tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn mình, hãy bồi bổ lại đời sống mình bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta được thấm nhuần, tràn ngập, đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa (Trần văn Hàm, Tin mừng Chúa nhật, năm B, tr 185).
Muốn thực sự gặp gỡ Đức Kitô, muốn được kết hợp chặt chẽ với Ngài, có lẽ chúng ta phải có chút duyên như người ta thường nói:
Hữu duyên vạn lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Muốn gặp Chúa kết hiệp nên một với Ngài thì phải có “duyên” với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hoà tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hoá tính căn bản giống nhau mới hoà tan với nhau được. Cũng vậy, “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định:”Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghirệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8) ; “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12) ; “Nếu ai có của cải thế gian mà thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được?” (JKN).
Để kết thúc tôi xin đưa ra đây câu truyện có vẻ hơi “kỳ kỳ”, không biết có tương xứng không, nhưng cũng có thể giúp chúng ta suy nghĩ, may ra có thể kiếm được một vài tư tưởng nào đó để áp dụng vào cuộc sống mình:
Truyện: Thánh Gióng.
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói:
Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con.
Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi:
Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì ?
Bé dõng dạc nói:
Về bảo vua đúc một con ngựa sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân. Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã mang gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, câm gươm, hét lớn tiếng:
Ta là tướng nhà trời.
Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc. Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thở kỷ niệm ở làng quê (Vũ khắc Nghiêm).
Câu chuyện có vẻ thần thoại, nhưng cũng có ý nghĩa. Nếu sứ giả của nhà vua cùng bà mẹ và dân làng khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà Trời đến cứu dân cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống.
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê Đức Giêsu, không tin lời Ngài vì Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse và cũng là người ở Nazareth, theo họ, tại Nazareth có cái gì hay đâu ! Ngày nay, người ta cũng chẳng khác gì người Do thái xưa. Đức Giêsu đã bảo họ:”Ai có tai để nghe thì hãy nghe”, nhưng đâu người ta có nghe, nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống gieo bên vệ đường chim trời ăn mất vì họ từ chối:”Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời nói của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt”(Mt 22,5-7).
Cuối cùng, chúng ta hãy đọc lại lời nói của Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong thông điệp Mysterium Fidei nói về việc tôn sùng phép Thánh Thể:
”Trong khi nhớ đến sự cao cả và lòng thương lạ lùng của Chúa Giêsu, Đấng đã ban sự sồng rất qúi giá của mình để làm giá cứu chuộc chúng ta và là Đấng đã ban thịt mình cho chúng ta ăn, các tín hữu hãy tin vững chắc và kính thờ sốt sắng mầu nhiệm Mình Máu thánh Người với một niềm kính trọng và đạo đức khả dĩ cho phép họ được năng rước lấy bánh siêu thể đó. Ước chi Người thực là đời sống của linh hồn họ, và là sức khoẻ vĩnh viễn của tinh thần họ ; ước chi, sau khi được tăng cường bởi nghị lực của Người, từ cuộc hành trình gian khổ đời này dần dà họ tới nơi quê trời, để được ăn ở đó bánh không còn che phủ của các thiên thần: bánh mà bây giờ họ được ăn dưới những tấm màn thánh che phủ”.
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến: TN 20-B60
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sỹ đã dự đoán cô gái này khó có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn đã năn nỉ các bác sỹ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng, ngực… trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần nào đền đáp khi sức khỏe của ‘bé Út’ dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn được thi đại học, khối C.
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giê-su đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
“Thật, tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sự sống nơi mình.”
Khi nghe lời này thì người Do thái trở nên tức giận, vì làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt và: TN 20-B61
Khi nghe lời này thì người Do thái trở nên tức giận, vì làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt và uống máu ông ấy được ? Chúa Giêsu hiểu rõ cái lối suy nghĩ “tầm thường” của người Do thái lúc bấy giờ. Đó là người ta chỉ nghĩ đến của ăn vật chất mà thôi. Còn ở đây, Chúa Giêsu lại muốn nói đến của ăn thiêng liêng, của ăn tinh thần, đó chính là Thịt và Máu Ngài.
Đứng trước hòan cảnh đó, Chúa Giêsu muốn khai mở tâm trí họ và giúp họ vượt ra khỏi lối suy nghĩ “tầm thường” đó, và hướng họ đến một lối suy nghĩ có giá trị cao hơn. Đó là hiểu rõ về Ngài và nhận Ngài là Thiên Chúa. Và nếu họ đón nhận Ngài là Thiên Chúa thì chắc chắn họ sẽ tin vào lời Ngài. Như lời Ngài nói: “ Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.” Chính Ngài là lương thực thần linh, là của ăn, là của uống ban sự sống cho con người. Lẽ dĩ nhiên không phải là của ăn thể xác mà là sự sống thần linh, sự sống siêu nhiên. Cũng vậy, nếu chúng ta biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa dạy thì chúng ta đã được thông hiệp vào sự sống thần linh của Thiên Chúa ngay từ bây giờ.
Sự sống thần linh, đó chính là Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể chính là quà tặng vô giá của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô, là bảo chứng sự sống vĩnh cửu cho đời sống chúng ta, vì Thánh Thể thông ban thần linh cho chúng ta.
Ngòai ra, Thánh Thể chính là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa, được biến đổi và được trở nên giống Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể để tiếp tục sống giữa loài người. Vậy, chúng ta hãy năng đến với Bí Tích Thánh Thể để kín múc sự sống vĩnh cửu, để bảo đảm cho chúng ta được sống đời đời.
Hiệu quả của việc rước lễ: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”. Vì thế, nếu chúng ta siêng năng đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô phục sinh và chúng ta cũng được trở nên giống như Ngài.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết cho đi mà không tính tóan, cho đi mãi không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân như chính Chúa đã trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng đời sống đức tin chúng con. Xin cho chúng con biết qúy trọng và yêu mến Thánh Thể Chúa bằng việc đón nhận Mình và Máu thánh Chúa qua việc tham dự thánh lễ hằng ngày. Có như thế thì đời sống chúng con mới gắn bó mật thiết với Chúa và trở nên giống Chúa hơn. Amen.
Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta; Đức Kitô phân biệt rõ Thịt và Máu để loan báo hy tế thập gia: TN 20-B62
Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta; Ðức Kitô phân biệt rõ Thịt và Máu để loan báo hy tế thập giá và phép Thánh Thể. Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta.
"Ðức Giêsu một cách mặc nhiên, trong diễn từ về Bánh Sự Sống là chính mình Ngài, đã đề cập đến cuộc hiến tế Núi Sọ. Ngài hiến thân chịu chết để làm lương thần nuôi dưỡng chúng ta".
Tự nguồn gốc, Thánh Thể là một hy tế. Ðức Kitô qua cái chết và sự phục sinh, hiện diện trong Thánh Thể để nuôi sống chúng ta. Hy tế đó có giá trị chuộc tội, chữa ta khỏi tội lỗi và thông ban sự sống. Hãy hiến dâng thân mình với hy tế trên bàn thờ, nghĩa là kết hiệp đời mình với thập giá.
"Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Cha toàn năng". Tiếp nhận Chúa Thánh Thể, phải noi gương Ngài và ý thức mọi điều phải qui về Thiên Chúa. "Kẻ ăn Ta sẽ sống nhờ Ta, cũng như Ta sống nhờ Cha" (Ga 6,57).
Mỗi lần rước lễ bạn có vững tin mình đang ở giai đoạn đầu của đời sống vĩnh cửu trên thiên quốc chăng ? Tuy trạng thái khác nhau, vì ở trần gian còn bị giới hạn bởi vật chất hữu hình. Nhưng căn bản vẫn giống nhau, là có sự sống Thiên Chúa. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54).
Hiệu quả việc rước lễ, là sự kết hiệp thân mật tương hỗ với Ðức Kitô. Chúng ta đón nhận được sự sống sung mãn và có Ðức Kitô như người bạn thân tình đồng hành với ta trong đời. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6,36).
Người xác tín Chúa ngự trong Bánh Thánh nơi nhà tạm của giáo đường, thì:
Siêng năng đến gặp Chúa
Tâm sự đôi lời với Chúa khi đi ngang qua nhà thờ
Và khi có thể tham dự các giờ chầu Thánh Thể với cộng đoàn Giáo xứ.
Những việc đó một phần nào đánh giá được niềm tin của bạn. Tuy nhiên, bạn cần xét lại khi thực hành như vậy, mình đã xác tín sự hiện diện của Ngài đến mức nào ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa; Xin Chúa cũng biến đổi cuộc sống chúng con trở nên lễ tế hiến dâng trong tình yêu và trong thái độ vâng phục chương trình của Chúa Cha.
Thay vì hiệp nhất, Thánh thể lại trở thành cớ cho các Kitô hữu chia rẽ. Chia rẽ vì không biết: TN 20-B63
Thay vì hiệp nhất, Thánh thể lại trở thành cớ cho các Kitô hữu chia rẽ. Chia rẽ vì không biết đâu là sự thật về sự hiện diện của Ðức Giêsu trong bí tích. Lịch sử Giáo hội cho thấy niềm tin vào mầu nhiệm này đã tạo nên bao kỳ công vô cùng lớn lao trong Giáo hội. Hơn nữa, một chút nghiên cứu sâu xa cũng có thể cho ta nắm vững ý nghĩa lời Chúa khi lập bí tích Thánh thể.
Thực vậy, Chúa Giêsu quả quyết: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." (Ga 6:55) Xác quyết đó đã làm chói tai người Do thái. Họ chỉ hiểu sự vật theo lẽ tự nhiên. Chỉ trong Thần khí mới có sức mạnh siêu nhiên để hiểu mạc khải về mầu nhiệm Thánh Thể. Chỉ Thần khí mới nâng con người lên lãnh vực siêu nhiên để thấy được sự thật nơi xác quyết đó. Thật thế, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì." (Ga 6:63)
"Những chữ trong công thức 'truyền phép' Thánh thể không đủ chứng tỏ Mình Máu Chúa hiện diện thật sự. Ðộng từ 'là' không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5:5; Mt 13:37-38; Ga 15:1, 5). Tuy nhiên, trong văn hóa Sêmít, nếu chỉ có biểu tượng, không đủ thiết lập giao ước. Ðể lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự, chứ không chỉ có những dấu chỉ của những vật đó mà thôi (St 15:9-18; Xh 24:5)." (New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411)
Không những mạc khải về thực tại sự sống nơi thân xác Người, Ðức Giêsu còn muốn cho thấy thái độ và hiệu quả của những con người tin tưởng và đón nhận thực tại đó nữa. Người muốn cho mọi người thấy thịt máu Người vô cùng cần thiết cho ơn cứu độ. Thật vậy, Người đã quả quyết: ai đón nhận thân mình Người sẽ "có sự sống nơi mình," (Ga 6:53) "được sống muôn đời," (Ga 6:54; 58) và "ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6:56) Từ đó, họ sẽ tìm được tất cả ý nghĩa và giá trị đích thực cho con người và cuộc đời.
Sự sống ấy trào dâng từ Chúa Cha. Chính sự sống ấy khiến Ðức Giêsu làm được mọi sự. Giờ đây sự sống ấy lại cuồn cuộn chảy vào những ai "ăn thịt và uống máu Con Người." (Ga 6:53) Sự sống như quyện vào nhau. Ðó là điều Chúa Giêsu đã mạc khải: "Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:57) Chính sự sống này sẽ quyết định tất cả. Không có sự sống ấy, trần gian sẽ băng hoại. Muốn tránh cơn băng hoại đó, người tín hữu "hãy bước đi trên con đường hiểu biết," (Cn 9:6) và "sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5:15-16) "mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha." (Ep 5:20)
Tương quan sâu xa giữa Ðức Giêsu và người tín hữu được thiết lập trong bí tích Thánh Thể. Ðó là cái nhìn thần học của thánh Gioan và cũng là kinh nghiệm sống động của cộng đồng Gioan. Chính trong cộng đồng này, tín hữu đã thấu hiểu và cảm nghiệm sâu xa Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện "để cho thế gian được sống." (Ga 6:51) Từ đó, họ cũng đón nhận được sức mạnh xây dựng cộng đoàn. Trong cộng đoàn tông đồ này, họ đã "cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng" và "đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa." (Ep 5:19) Chính khi chia sẻ tình yêu Thánh Thể với anh em, họ đã xây dựng thành công Giáo hội tiên khởi. "Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Ðền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ." (Cv 2:46-47)
"Lễ bẻ bánh" chính là tiệc Thánh Thể (Mc 14:22; 1 Cr 11:24; Cv 2:42-47). Tin mừng Lc 24:13-35 cũng cho thấy hai môn đệ trên đường Emmau nhận ra Ðức Giêsu khi Người bẻ bánh. "Hình như thánh sử Luca dùng từ này để chỉ về Thánh Thể. Có lẽ thánh sử có ý cho thấy, trong khi Kinh thánh hướng tới Ðức Kitô, chỉ có Thánh thể mới cho phép Kitô hữu nhận thức và chiếm hữu Người trọn vẹn." (New Catholic Encyclopedia 2003:2, 600) Chính trong thịt và máu Ðức Kitô, tín hữu tiên khởi đã làm nên một thân thể và tạo thành một sức mạnh kiên cường đến nỗi "quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16:18)
Sức mạnh đó ngày nay vẫn còn. Giáo hội trổ sinh một mùa màng tươi tốt nuôi sống muôn dân. Thứ sáu 11/07/03 vừa qua, Liên Minh các tổ chức Caritas kết thúc tổng hội thứ 17 với tựa đề: "Việc Toàn cầu hóa sẽ thành công nếu mọi người đều hưởng phúc lợi từ đó." (Zenit 14/07/03) Tuyên bố chung nói: Caritas Quốc tế "cam kết hoạt động cho xã hội người nghèo và những người bị tách ly ra khỏi xã hội đang dần dần được toàn cầu hóa. Nghĩa là, sự liên đới phải được toàn cầu hóa, và Liên Minh Caritas phải tận tụy thực hiện mục tiêu này trong bốn năm tới." (Zenit 14/07/03) Caritas hi vọng thực hiện đầy đủ nghị quyết trong tông thư 'Tân Thiên Niên Kỷ'. ÐGH Gioan Phaolô II kêu gọi phải có 'sáng tạo mới' trong công cuộc bác ái. Caritas giải thích: "Trong kế hoạch hoạt động, các thành viên tổ chức Caritas Quốc tế tái cam kết làm cho tiếng nói người nghèo được lắng nghe trong các thực thể quốc tế, và thực hiện việc liên kết giữa những người có trách nhiệm quyết định và dân chúng chịu ảnh hưởng quyết định đó." (Zenit 14/07/03)
Tổ chức Caritas chuyên phục vụ những người nghèo khổ trên thế giới. Tổ chức lấy sức mạnh từ niềm tin nơi Ðức Giêsu, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Biết bao Kitô hữu cũng đang theo sát gót Ðức Kitô phục vụ trên khắp nẻo đường đời. Ðó là những người khôn ngoan đang cố gắng "tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5:16) để giải thoát nhân loại khỏi "những ngày đen tối." (Ep 5:16)
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, thánh Gioan kết thúc phần suy niệm diễn từ bánh trường sinh. Sẽ: TN 20-B64
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, thánh Gioan kết thúc phần suy niệm diễn từ bánh trường sinh. Sẽ thật là uổng công khi muốn tách rời điều Ðức Giêsu muốn nói và điều tác giả muốn hiểu - một suy tư ở cuối một kinh nghiệm dài về đời sống Hội Thánh. Toàn bộ diễn từ, đặc biệt phần kết luận, trình bày những suy tư của thánh Gioan về mặc khải Ðức Giêsu nói về chính Người qua Lời giảng và thập giá. Ðức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống và ở mãi với con người. Thịt Máu Người là quà tặng cho nhân loại được sống, là lương thực đưa đến vĩnh cửu và là bảo đảm cho sự phục sinh.
Kết luận của diễn từ cũng chỉ là nhấn mạnh đến thực tại tính của bí tích Thánh Thể. Ðiều này đã được hàm ẩn ở phần trên, còn ở đây được nói đến trực tiếp: những điều Ðức Giêsu nói trong diễn từ rất gần với trình thuật Tiệc Ly. Chính vì thế, tác giả Tin Mừng thứ tư không thuật lại chuyện Ðức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly; tác giả chỉ đưa ra những suy niệm rất phong phú sau trình thuật hoá bánh ra nhiều.
Quả thế, trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa, việc chia sẻ thực sự của ăn vật chất vẫn là điều thường được nhắc đến để rồi bí tích Thánh Thể do Ðức Giêsu thành lập chính là cao điểm. Bí tích Thánh Thể loan báo sự hoàn tất của điều chỉ mới phác thảo trong của ăn vật chất.
Do đó, bí tích Thánh Thể buộc con người phải suy nghĩ về cách thức phân phối của ăn trong thế giới hiện nay.
Biết bao lần con người đã làm cho dấu chỉ này mất đi nền tảng thực sự của mình. Người tín hữu vẫn mong muốn thế giới đến lãnh nhận bánh này, nhưng lại xao lãng thi hành điều Thiên Chúa muốn và chính Ðức Giêsu đã mở đầu. Ðó là trao tặng của ăn đích thực cho tất cả mọi người.
Trách nhiệm này không chỉ liên hệ đến gia đình hay những nhóm nhỏ, nhưng trở thành một vấn đề có tầm mức quốc tế, liên hệ đến cả lãnh vực kinh tế, chính trị. Ðiều này làm cho con người sợ ! Con người cảm thấy dễ dàng khi phải chấp nhận một số ít của cải hơn là phải chia sẻ những gì mình đang có, những lợi lộc mình kiếm được, những kỹ thuật tiên tiến hay kiến thức của mình. Họ sợ rằng những người được họ trao tặng những thứ đó mai này sẽ trở thành những đối thủ của họ trên thị trường cạnh tranh, tức là về công việc làm và về bánh ăn !
Nếu những ý tưởng đó thực sự là suy nghĩ của nhiều người thì tại sao họ lại ngạc nhiên khi thánh lễ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu đối với nhiều Ki-tô hữu, và lại càng chẳng có ý nghĩa gì đối với những người không tin ?
Chia sẻ ! Một đòi hỏi cần thiết trong mọi thời đại, vì đó chính là trao tặng "thịt làm của ăn". Ðiều này chỉ có một mình Ðức Giêsu thực hiện đến cùng.
Cuộc trao đổi kỳ diệu
Trao tặng cuộc sống: thành ngữ này làm người ta nghĩ ngay đến hành động anh hùng của người băng mình cứu người bị nạn, hay của người chiến binh liều mạng vì lợi ích của đồng đội. Thành ngữ này cũng làm người ta nghĩ đến các bậc cha mẹ, những nhà giáo dục, có thể cả những nhà chính trị thực sự hy sinh vì lợi ích chung.
Trao tặng cuộc sống, đó là hy sinh cuộc sống riêng mình vì các con, vì người thân cận, vì người đồng hương. Tất cả thời giờ để phục vụ người khác đều có ý nghĩa là cuộc sống được sử dụng, được tiêu dùng.
Thế nhưng, có thực tại nào của nhân loại diễn tả đầy đủ nhất về sự trao tặng này hơn là bữa ăn. Khi bữa ăn chia sẻ diễn ra trong một cộng đoàn yêu thương nhau, thì nó không chỉ là cung cấp của ăn vật chất, bởi vì người dọn bữa ăn cũng như người tham dự đã trao tặng một phần thời gian dành để kiếm sống. Trong bữa ăn như thế, người ta trao tặng phần thời gian đã qua cũng như khoảng thời gian hiện tại để cho người khác được sống và sống vui tươi.
Ðó là một thực tại tinh thần mà người ta ít quan tâm. Thật là dễ dàng biết bao khi chỉ nhìn sự vật theo dáng vẻ bên ngoài, và đánh giá bữa ăn theo chất lượng của thức ăn để rồi không nhận ra rằng chỉ một mẩu bánh nhỏ thôi, nhưng do chính người đang đói trao tặng với lòng yêu thương thì có giá trị hơn hẳn bữa tiệc huy hoàng nhất.
Ai hiểu được thực tại này cũng sẽ hiểu được thực tại vô cùng sâu xa do Ðức Giêsu loan báo: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống ... Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời."
Ðấng đưa ra lời mời này chính là nguồn mạch tình yêu. Dòng sống Người muốn đưa nhân loại vào khi trao tặng chính Người cho họ, đó là Thiên Chúa.
Ai tin tưởng và mở ra trước lời mời của Ðức Giêsu, ai tin tưởng và lãnh nhận tấm bánh do Thiên Chúa ban, thì sự sống đích thực sẽ phát triển nơi người ấy, bởi vì qua tấm bánh, họ lãnh nhận chính con người và sự sống của Ðức Giêsu. Như vậy, khi lãnh nhận thịt và máu Ðức Giêsu, người tín hữu bước vào mối tương quan thân mật hoàn toàn mới. Họ tham dự vào mối hiệp thông thần linh và vĩnh cửu giữa Cha và Con, đồng thời lãnh nhận bảo chứng sẽ được phục sinh vào ngày cuối cùng.
Một mẩu bánh, đó là tất cả những gì Ðức Giêsu để lại cho con người kèm theo một lời mời. Ai ăn tấm bánh đó thì được đồng hoá với Ðức Giêsu, trở nên thiêng liêng và được mời gọi trao tặng không giới hạn. Liệu con người còn có thể hy vọng có một chứng tá tình yêu nào lớn lao hơn là cuộc trao đổi kỳ diệu này ?
Hiệu quả tinh thần
Từ những lời của Ðức Giêsu, ta có thể nhận ra ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể.
* Sự sống đời đời và sự sống lại
Thánh Thể làm cho ta được hiệp thông với Ðức Giêsu Phục Sinh, đang ngự bên hữu Chúa Cha. Thân xác sống động ấy trở thành một hạt giống của sự sống vĩnh cửu được gieo vào trong chúng ta. Nhờ đó, ngay tại trần gian này, chúng ta đã bắt đầu tham dự vào hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
* Ðức Ki-tô ở lại trong người Ki-tô hữu
Thánh Gioan thường nhắc đi nhắc lại từ ngữ ở lại. Ơn gọi của tất cả chúng ta là được "ở lại với Thiên Chúa, trong Thiên Chúa". Ngược lại, Thiên Chúa vẫn luôn mong muốn ở lại với nhân loại. Lịch sử cứu độ không có gì khác hơn câu chuyện Thiên Chúa đến ở với con người và làm cho con người được ở với Thiên Chúa.
* Sống nhờ Chúa Cha
Qua cách dùng từ ngữ của thánh Gioan, chúng ta có thể hiểu rằng Ðức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và vì Chúa Cha. Thật ra, Ðức Giêsu không ngừng bày tỏ điều này trong suốt cuộc đời của Người. Bất cứ hành động hay lời nói nào của Người cũng đều phát xuất từ Chúa Cha và vì tình yêu mến đối với Chúa Cha. Ðức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta đi vào mối tương giao ấy qua việc đón nhận chính thân thể của Người.
"Chúng con ăn thân xác chí thánh của Chúa, thân xác đã chịu đóng đinh vì chúng con. Chúng con uống máu thánh của Chúa đã đổ ra để giải thoát chúng con. Ước mong thân xác của Chúa, nên ơn cứu độ cho chúng con ! Ước chi máu thánh của Chúa, trở thành ơn tha thứ mọi tội lỗi chúng con."(theo phụng vụ Pháp)
"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Suy NiỆm:
Cũng như trong các Chúa nhật trước, các bài đọc Kinh Thánh hôm nay dường như muốn lôi kéo suy tư: TN 20-B65
Cũng như trong các Chúa nhật trước, các bài đọc Kinh Thánh hôm nay dường như muốn lôi kéo suy tư của chúng ta ngay vào mầu nhiệm Thánh Thể. Nhưng vì đây là bí tích nhiệm mầu và phong phú, những tư tưởng trực tiếp về Thánh Thể vừa phải được chuẩn bị, vừa phải được khai triển. Chúng ta hãy đọc lại bài sách Cách Ngôn như dẫn nhập vào bài Tin Mừng và coi bài thư Phaolô như quyết tâm theo sau nhận thức của chúng ta về chính các lời của Ðức Kitô dạy dỗ hôm nay.
1. Hãy Ðến
Trước hết chúng ta hãy nhận lấy lời đức khôn ngoan mời đến dự tiệc Người đã dọn.
Sách Cách Ngôn trong đoạn văn này tỏ ra phi thường. Quả vậy, thường tình người ta chỉ coi sự khôn ngoan như là một kho tàng kiến thức giá trị hoặc như một tư cách tốt của tâm trí con người. Ở đây ngược lại, sách Cách Ngôn nhìn khôn ngoan như bậc thần linh, và phải nói như là hiện thân của Thiên Chúa nếu không phải làchính bản thân Người. Người là chính sự khôn ngoan. Người không chỉ ở nơi cao xa, biệt lập với con người. Ðấng Thiên Chúa của đạo mạc khải bao giờ cũng lấy làm vui thích ở giữa con cái loài người. Người khác hẳn các thần minh nơi mọi tôn giáo khác. Người chân thật chứ không trừu tượng. Người ở giữa chúng ta chứ không ngự nơi xa cách.
Chính vì vậy mà sách Cách Ngôn hôm nay viết: đức khôn ngoan đã xây nhà cho mình... Hẳn là tác giả đã nghĩ tới sự hiện diện của Yavê nơi Luật pháp, nơi Lều Giao ước, nơi Ðền thờ ở trong dân Chúa. Không có dân nào có Chúa của họ ở gần như dân riêng của Chúa, Người có nhà của mình ở giữa dân. Ðó là đền thờ Yêrusalem; và đúng hơn đó là bất cứ hình thức hiện diện nào của Người như Luật pháp, Lều Giao ước v.v...
Có hiểu như vậy mới dễ cắt nghĩa câu Cách Ngôn sau: "Người đã đẽo bảy cây cột". Tác giả không có ý đếm các cây cột của đền thờ Yêrusalem, cũng chẳng muốn nhắc đến dinh thự nào ở trong dân Chúa. Trong quan niệm của người đồng thời với ông, nhà có nhiều hàng cột là nhà sang và đẹp; và con số 7 nói đến ý nghĩa hoàn toàn. Tức là đối với ông sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã đến hiện thân ở giữa loài người, đặc biệt ở trong dân Chúa, nơi Ðền thờ Người. Nhà của Người rất khang trang và tươm tất.
Người ở đó làm gì? Sách viết tiếp: Người hạ súc vật, hãm rượu, rồi dọn bàn; đoạn sai nữ tỳ đi mời khách đến dự yến. Những ai từng đọc Kinh Thánh, hẳn đã nhận ra trong câu văn này một đề tài rất quen thuộc. Các tiên tri vẫn loan báo: vào thời thiên sai, Yavê sẽ mở tiệc thết các dân tộc trên núi thánh. Và hình ảnh bữa ăn luôn được Kinh Thánh dùng để nói đến sự thân mật mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với dân Người. Như vậy, ở đây sách Cách Ngôn muốn viết rằng: Thiên Chúa dựng lều ở giữa chúng ta...; Người mở tiệc mời ta đến dự. Mọi sự đã sẵn sàng rồi: không những thịt và rượu đã dọn xong mà bàn cũng đã được kê. Người lại sai tôi tớ đi mời khách đến dự.
Sách Cách Ngôn nói đến các nữ tỳ là vì đã hình dung đức Khôn ngoan như một bài quý phái; chứ chữ này phải hiểu về hết thảy các ngôn sứ mà Thiên Chúa đã sai đến với loài người... Họ được phái đến với những kẻ "ngây ngô khờ dại", cũng như sau này Yoan viết: Lời Chúa được gửi đến cho những tâm hồn bé mọn. Tuy nhiên chẳng ai cấm chúng ta hiểu những kẻ ngây ngô khờ dại đây là tất cả loài người tội lỗi. Nếu đã khôn thì họ đã không sa ngã và không đang đi trong sự lầm lạc. Dù sao nhìn vào kết quả, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng, Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã được tiền định cho những kẻ nghèo khó và bé mọn, bởi vì chân lý thánh giá luôn luôn là một điều điên dại đối với sự khôn ngoan của thế gian. Chúng ta hẳn cũng nhớ dụ ngôn về các khách dự tiệc kể trong Phúc Âm. Những kẻ khôn ngoan đã chối khéo, không đến dự tiệc, trong khi nhiều kẻ hèn mọn đã đến và đã được no thỏa.
Ở đây, sau khi dự tiệc của đức Khôn ngoan, người ta sẽ trút bỏ được sự ngây ngô và được sống vì sẽ biết đi trong đường lối hiểu biết.
Như vậy bài sách Cách Ngôn hôm nay không trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta được biết lòng Chúa yêu thương loài người. Người không nỡ bỏ họ đi trong lầm lạc; Người đến ở giữa dân, sai các sứ giả đi kêu mời chúng ta đến nghe Người dạy dỗ để nên khôn ngoan mà được sống. Tác giả sách Cách Ngôn muốn nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người và nhất là sự mạc khải của Người trong sách Thánh... Nhưng những lời của ông có thể trở thành lời tiên tri loan báo về Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ đến cắm lều ở giữa chúng ta khi nhập thể cứu đời. Chính Người sẽ mời gọi và sai các Tông đồ của Hội Thánh đi kêu mời chúng ta đến dự tiệc Người dọn. Và như thế, bài sách Cách Ngôn hôm nay rất thích hợp để dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng.
2. Hãy Ăn
Nói thật ra, từ bài sách Cách Ngôn sang bài Tin Mừng có một sự đột ngột mà chỉ có đức tin mới chấp nhận được Ðức Yêsu không xưng mình là sự khôn ngoan nhập thể; hay là lời ban sự sống. Giá có như vậy thì giữa bài Tin Mừng hôm nay và bài sách Cách Ngôn sẽ có sự liên tục nhiều hơn. Nhưng đàng này, những câu tuyên bố như thế, Ðức Yêsu đã làm trước cả rồi... Ðoạn Tin Mừng hôm nay đã đi vào phần chót của một bài diễn từ dài. Sau khi hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Người đã khuyến khích họ hãy nỗ lực tìm cho được thức ăn ban sự sống đời đời chứ đừng chỉ cặm cụi lo cho được lương thực hư nát. Và bánh ban sự sống đời đời trước hết là chính Người Con mà Thiên Chúa đã sai xuống trần gian để ai tin vào Người thì sẽ được sống. Người thật là sự khôn ngoan của Thiên chúa đã nhập thể để dẫn đường chỉ lối cho những kẻ tin Người. Lời Người có sức ban sự sống.
Nhưng không phải chỉ có bấy nhiêu. Nơi Người không phải chỉ có lời hằng sống. Chính Người còn là Bánh bởi trời xuống. Thịt Người là của ăn; Máu Người là của uống. Người ta muốn được sống phải ăn thịt và uống máu Người.
Không có đức tin, ai có thể hiểu và nhận được những lời như vậy? Người Dothái lập tức thắc mắc và phản đối, cũng không có gì lạ. Họ bảo rằng: làm sao người này lại có thể lấy thịt mình cho người ta ăn? Nhưng rồi họ sẽ thấy chính họ sẽ lấy thịt và máu Người khi họ hành hạ và giết Người trong mầu nhiệm Thập giá. Chính khi họ tra tấn, đánh đập xác thịt Người và làm cho hết mọi giọt máu của Người đổ ra, họ đã biến Người nên chiên vượt qua bị sát tế để giải phóng nhân loại tội lỗi khỏi xiềng xích sự chết và được sống. Thịt máu Người quả thực sẽ ban sự sống cho người ta.
Nhưng ở đây không những Yoan nghĩ đến cuộc tử nạn cứu độ của Ðức Yêsu trong ngày thứ Sáu tuần lễ Vượt qua. Người không tách rời hy lễ đổ máu ấy khỏi lễ dâng tại bàn tiệc ly và các thánh lễ còn đang cử hành trong Hội Thánh. Người còn nghĩ tới Thánh Thể, nhưng luôn luôn suy nghĩ về Thánh Thể mật thiết gắn bó với mầu nhiệm thập giá. Nói cách khác, trong đoạn Tin Mừng này Yoan nghĩ về Thánh Thể. Người khẳng định niềm tin bánh rượu trên bàn thờ là Thịt Máu Ðức Kitô. Và bí tích Thánh Thể này ban sự sống thật và bảo đảm sự sống lại sau này cho chúng ta, vì lẽ bánh mà Ðức Kitô ban đây chính là Thịt của Người đã được thí ban để cho thế gian được sống (c.51). Người đã liên kết bánh bàn thờ với Thân Thể Người ở trên thập giá. Thế mà chính trên cây gỗ này lại treo giá cứu chuộc trần gian. Như vậy, Thánh Thể có sức ban sự sống vì năng lực của Ðức Kitô nằm trên thập giá. Tại đây Người sống và sống lại nhờ Chúa Cha thế nào thì ai ăn Thịt và uống Máu Người trong Thánh Thể cũng được sống và sống lại như thế.
Chúng ta có đức tin, nên hiểu được những lời này. Và chúng ta thấy Ðức Yêsu đã làm hơn sự khôn ngoan ở trong sách Cách Ngôn. Người đã làm trọn nhưng cũng đã làm vượt quá mọi lời tiên tri trong Cựu Ước. Khi Người sinh ra làm Ðấng Emmanuel, tức là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi, không những Người đã là hiện thân của sự khôn ngoan của Thiên Chúa để xây nhà trong bản tính nhân loại và không ngừng làm vang lời Khôn ngoan cứu sống của Thiên Chúa nơi tâm hồn những kẻ tin theo Người. Hơn nữa, Người còn dọn thịt và rượu trên bàn thờ thập giá là chính Thịt Máu Người; và mời gọi các tâm hồn đơn sơ bé mọn đến nhận lấy mà được sống. Ðây thật là sự khôn ngoan của thập giá mà sự khôn ngoan của thế gian không thể nào chấp nhận được. Chúng ta đã nhờ đức tin mà chấp nhận thì như lời sách Cách Ngôn đã báo trước chúng ta đã trút bỏ được sự ngây ngô và trở nên khôn ngoan. Nhưng chúng ta có sống đúng như vậy không? Ðó là điều mà bài thư Phaolô hôm nay muốn trao đổi với chúng ta.
3. Hãy Cảm Tạ Chúa
Thánh Tông đồ nói: Nếu muốn tỏ ra khôn ngoan chứ không phải khờ dại, thì chúng ta phải để ý đến cách ăn ở. Người cũng suy nghĩ như tác giả bài sách Cách Ngôn: Khôn ngoan không phải là một mớ kiến thức hay là một tư cách của trí tuệ, nhưng là một cách sống, một nếp sống thể hiện trong hành động và trong thực tế. Người khôn theo thánh Tông đồ, là người biết "xử dụng" cuộc đời vì lẽ đời này xấu xa.
Có lẽ bấy giờ Phaolô đang bị giữ ở Rôma. Người thấy Tin Mừng của Chúa bị cản trở tại nhiều nơi. Hội Thánh gặp nhiều khó khăn. Và có thể tội lỗi cũng đã lộ mặt trong nhiều cộng đồng tín hữu. Tất cả khiến Phaolô nhìn đời bằng con mắt ít cảm tình. Hơn nữa chính xã hội Rôma thời bấy giờ cũng không đáng lạc quan.
Tuy nhiên đấy vẫn chỉ là hiện tượng. Nhà thần học Phaolô còn có cái nhìn xa hơn. Thế gian đã đóng đinh Ðức Yêsu, Vua vinh hiển thì bản chất của nó là xấu. Và sống theo nó là khờ dại vì mầu nhiệm phục sinh của Ðức Kitô đã sáng ngời làm chứng mưu đồ thế gian giết Ðấng vinh hiển đã thất bại hoàn toàn. Ai dại gì mà còn sống theo thế gian.
Nhưng thế gian vẫn bao trùm lấy người ta. Con người vẫn phải sống ở trong đó. Người khôn ngoan không phải là kẻ ra khỏi thế gian vì điều này không có thể làm được. Họ chỉ có thể ở trong thế gian, nhưng không còn thuộc về thế gian. Và sống như vậy là theo thánh Phaolô biết xử dụng cuộc đời.
Thú thực chính từ ngữ mà Phaolô dùng và ở đây chúng ta chuyển ngữ là "xử dụng" có một nội dung rất khó diễn tả. Nó gợi lên hình ảnh một người nội trợ tốt đi chợ mua sắm cho gia đình. Bà khéo léo vừa chi ít tiền vừa sắm đầy đủ cho đời sống của mọi người trong gia đình. Thánh Phaolô bảo: người khôn ngoan đạo đức cũng vậy. Họ biết dùng những sự ở đời để mua sắm sự sống đời đời. Và cho được như vậy, họ phải tìm hiểu và thi hành thánh ý Chúa (c.17).
Nhưng nhờ ai mà biết được thiên ý?
Thánh Phaolô đáp: chúng ta đã được tràn đầy Thánh Thần. Chính Người hiểu thấu cung lòng thâm sâu của Thiên Chúa. Và Người đã được ban cho chúng ta trong giai đoạn hiện nay của Hội Thánh. Người ngụ nơi lòng chúng ta như ở trong đền thờ. Và như vậy Người là sự khôn ngoan hiện nay của ta, vì như lời sách Cách Ngôn viết: đức khôn ngoan đã xây nhà ở với con cái loài người, và vì Thánh Thần là hồng ân đặc biệt của thời thiên sai chỉ được ban cho loài người khi Ðức Yêsu đã hoàn tất mầu nhiệm tử nạn phục sinh.
Ở đây chúng ta hãy chú ý điểm mà thánh Phaolô so sánh. Người bảo: đừng say sưa rượu chè, chỉ tổ hư thân; nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thánh Thần. Chúng ta không nghĩ rằng người muốn nói việc say sưa rượu chè sẽ đem lại nhiều tội lỗi. Nhưng chắc là người muốn nói đến nếp sống say mê những sự thế gian dẫn đến diệt vong. Ngược lại phải no đầy Thánh Thần như các Tông đồ trong ngày lễ Hiện xuống mà người ta tưởng là các ngài say rượu.
Ðọc những câu này trong bối cảnh của Phụng vụ hôm nay, chẳng ai có thể cấm chúng ta áp dụng rằng: đừng coi Thánh Thể là vấn đề bánh rượu làm no say thân xác, nhưng hãy tin đó là thần lương ban Thánh Thần cho ai nhận lấy như Thịt Máu Ðức Yêsu. Ai cư xử như vậy chắc chắn là nhận được sự sống đời đời và trở nên khôn ngoan thật sự như bài sách Cách Ngôn và bài Tin Mừng đã nói.
Giờ đây chúng ta sắp chạm trán với những thực tại linh thiêng ấy. Chúng ta sẽ hiệp dâng bánh rượu, để chứng kiến bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Kitô trong mầu nhiệm cứu thế. Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy hết lòng tung hô chúc tụng theo các bài kinh lễ và nhất là hãy cảm mến tạ ơn nhân danh Ðức Yêsu, để như vậy chúng ta được tràn đầy Thánh Thần là sự khôn ngoan của Thiên Chúa bây giờ ở với chúng ta. Nhờ đó chúng ta sẽ được Người soi sáng hướng dẫn luôn thi hành ý Chúa khiến chúng ta biết xử dụng cuộc đời chóng qua để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Mở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XX Thường Niên năm B hôm nay, Giáo Hội cho lập lại nguyên: TN 20-B66
Mở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XX Thường Niên năm B hôm nay, Giáo Hội cho lập lại nguyên văn đoạn kết của bài Phúc Âm tuần trước, đoạn mạc khải hết sức quan trọng, đoạn có thể nói là cốt lõi của toàn thể Bài Giảng về Bánh Hằng Sống, đó là đoạn: “Chính Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời; bánh Tôi sẽ ban là thịt Tôi cho thế gian được sự sống”. Đoạn kết của bài Phúc Âm tuần trước cũng là đoạn mở đầu cho bài Phúc Âm tuần này trên đây chẳng những có tầm vóc quan trọng về nội dung mạc khải của nó mà còn có tính cách chuyển tiếp về mạch văn nữa. Vì ngay sau đó, bài Phúc Âm tuần này cho biết:
“Nghe thế, những người Do Thái tranh luận với nhau rằng ‘làm sao ngài lại có thể ban thịt của ngài cho chúng ta ăn chứ?’”. Lợi dụng những thắc mắc theo lập luận và cảm nhận tự nhiên của người Do Thái, Chúa Giêsu đã tiếp tục mạc khải sâu xa hơn nữa về thành quả siêu linh của việc thưởng thức “bánh Tôi sẽ ban là thịt Tôi cho thế gian được sự sống” như thế này: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong họ. Như Cha là Đấng có sự sống đã sai Tôi và Tôi có sự sống bởi Cha thế nào thì ai ăn Tôi sẽ có sự sống bởi Tôi như vậy”.
Như thế, qua lời mạc khải của Chúa Giêsu vừa được trích dẫn trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, “sự sống” phát xuất từ “Bánh hằng sống bởi trời xuống”, tức từ Chúa Giêsu Kitô, từ Lời Nhập Thể đây chính là “sự sống” phát xuất từ Cha, một “sự sống” hằng làm cho Cha Con luôn ở trong nhau (x Jn 17:21-22), một “sự sống” làm cho những ai “ăn thịt và uống máu” Lời Nhập Thể cũng được “ở trong” Người, cũng được “sự sống” bởi Người như Người “có sự sống bởi Cha”. Thật vậy, nếu “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3) thì kẻ “ăn thịt và uống máu” Lời Nhập Thể quả thực là kẻ chẳng những nhận biết Thiên Chúa, Đấng ban bánh bởi trời (như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hai tuần trước), mà còn nhận biết Đấng Cha Sai là Chúa Giêsu Kitô, Bánh bởi trời xuống ban sự sống cho thế gian, Đấng đã đến trong xác thịt nữa (như bài chia sẻ Phúc Âm tuần trước nhận định).
Đúng thế, nếu Cha muốn ban cho con người sự sống đời đời qua việc sai Con Một Ngài đến trần gian (x Jn 3:16) thì Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cũng đến để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), tức để con người có thể nhận biết Cha mà được sự sống, như Người luôn tỏ ra nhận biết Cha bằng những việc Người làm trên thế gian, nghĩa là Người muốn thông ban cho con người “sự sống” Người “có bởi Cha”, thông ban cho con người tất cả kiến thức của Người về Cha. Tuy nhiên, tự bản chất, kiến thức về Cha là một kiến thức thần linh vô cùng siêu việt, con người hữu hình và hữu hạn không thể nào có thể chấp chứa, ngoại trừ Ngôi Vị thần nhân duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật. Chính vì kiến thức thần linh cũng chính là sự sống thần linh này được thông ban cho con người hữu hình và hữu hạn nơi Lời Nhập Thể và qua Lời Nhập Thể mà Chúa Giêsu Kitô đã tuyên bố trong bài Phúc Âm hôm nay “chính Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống” và “bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống”. Đó là lý do Chúa Giêsu còn khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống”. Bởi vì máu thịt của Người là yếu tố, là chất liệu ban “sự sống” thần linh, ban kiến thức thần linh.
Ở đây chúng ta nên lưu ý hai điều: thứ nhất, Chúa Giêsu không nói “Mình Tôi hay thân thể (body) Tôi thật là của ăn”, mà là “thịt (flesh) Tôi thật là của ăn”, một từ ngữ được Thánh Ký Gioan sử dụng khi nói đến mầu nhiệm nhập thể: “Lời đã hóa thành nhục thể (flesh)” (1:14); thứ hai, Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi con người ăn thịt Người mà còn uống máu Người nữa. Tại sao? Nếu không phải “thịt” của Người là biểu hiệu cho Mầu Nhiệm Nhập Thể và là thực tại của Mầu Nhiệm Nhập Thể, và “máu” của Người là biểu hiệu cho Mầu Nhiệm Tử Giá và là thực tại của Mầu Nhiệm Tử Giá, những mầu nhiệm ban sự sống, tức những mầu nhiệm làm cho con người nhờ đó được “sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Nếu Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn dân (x Mt 20:28), tức để ban sự sống cho thế gian, thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: “Nếu quí vị không ăn thịt Con Người và uống máu Người, quí vị không có sự sống nơi mình”. Như thế, tác động ăn uống máu thịt Con Người đây là tác động đức tin, là tác động chấp nhận Lời Nhập Thể Tử Giá, là tác động chẳng những tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), mà còn chấp nhận một Đấng Thiên Sai Vượt Qua nữa (x Mt 16:21).
Chính vì máu thịt Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua, và tác động ăn uống thịt máu của Người là tác động tuyên nhận Người là Đức Kitô Thiên Sai mà những ai không bao giờ thực sự “ăn thịt và uống máu Con Người” một cách cụ thể nơi Bí Tích Thánh Thể, như thành phần trước Chúa Kitô giáng sinh, hay thành phần không hề nghe rao giảng về Người, mới có thể được cứu rỗi, mới có thể được sự sống đời đời, khi họ thành tâm tìm kiếm Đấng Tối Cao và nỗ lực sống theo đường lối của Ngài, được thể hiện qua lề luật tự nhiên và tiếng lương tâm chân chính, một đường lối đã được Ngài hoàn toàn mạc khải một cách thiện hảo nơi Lời Nhập Thể là Đấng họ không hay chưa bao giờ biết tới một cách nào đó. Tuy nhiên, đối với Giáo Hội Nhiệm Thể của Chúa Kitô, thì việc tin tưởng Người là Đức Kitô Thiên Sai được liên tục thể hiện qua việc cử hành Mầu Nhiệm Tử Giá nói riêng và Mầu Nhiệm Vượt Qua nói chung, một việc Người muốn Giáo Hội làm để nhớ đến Người (x Lk 22:19). Đó là lý do, ngay sau phần vị linh mục chủ tế truyền phép bánh và rượu để trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô, cộng đồng Dân Chúa đã phải tuyên xưng “mầu nhiệm đức tin”: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”.
Việc Giáo Hội cử hành “mầu nhiệm đức tin” “mà nhớ đến Thày” trong Hy Tế Thánh Thể không phải Giáo Hội chỉ lập lại một biến cố lịch sử đã qua đi, song hiện thực hóa Mầu Nhiệm Tử Giá, Mầu Nhiệm Cứu Chuộc nơi chính bản thân Giáo Hội cũng như nơi từng chi thể Giáo Hội là Kitô hữu. Chính vì biến cố Tử Giá không phải là một biến cố lịch sử thuần túy, song còn là một hiện thực Phụng Vụ của Giáo Hội, mà Giáo Hội đã cảm nhận được chẳng những sự hiện diện liên tục của Đấng đã hứa “Thày sẽ mãi ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28:20), mà còn cả sinh lực thần linh vô cùng viên mãn của Thày, như cành nho được nuôi dưỡng bởi nhựa sống của thân nho (x Jn 15:5), để Giáo Hội có thể sinh muôn vàn hoa trái qua việc tông đồ truyền giáo. Như thế, Lời Nhập Thể Vượt Qua chẳng những hiện thực trên bàn thờ qua việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ Thánh Thể mà còn sống động qua các chứng nhân tông đồ truyền giáo trung thực của Giáo Hội nữa. Bởi thế, mỗi lần lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô, Kitô hữu Công Giáo chúng ta, qua lời thưa “amen”, chẳng những tuyên nhận Người là Đức Kitô Thiên Sai Vượt Qua, mà còn phải tận tuyệt hiến thân cho Người, phải ý thức mình đã thực sự và hoàn toàn thuộc về Người qua Bí Tích Rửa Tội Tái Sinh, và nhất là phải quyết tâm Sống Thánh Chứng Nhân, nhờ đó, qua con người huyết nhục yếu đuối của chúng ta, sự sống Chúa Kitô mỗi ngày được tỏ hiện (x 2Cor 4:10).
“Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được” (Gio-an 6:52).
Đây là vấn nạn không những đối với những người Do-thái đương thời khi nghe Chúa Giê-su: TN 20-B67
Đây là vấn nạn không những đối với những người Do-thái đương thời khi nghe Chúa Giê-su nói hôm đó về một thứ của ăn mà ngài sẽ ban cho họ, cũng như cho tất cả mọi người chúng ta sau này. Nhưng xem như Chúa càng nhấn mạnh đến thứ thực phẩm lạ lùng ấy, hiếm quí ấy, và cần thiết ấy, thì người nghe càng thấy chói tai, khó hiểu và bỏ đi.
“Đây không phải là Giê-su con ông Giu-se sao? Chúng ta lại chẳng biết bố mẹ ông ấy là gì?” (Gio-an 6:42). Vậy mà Chúa Giê-su lại cứ một mực khẳng định mình là: “Chính ta là bánh sự sống” (Gio-an 6:35). Và: “Chính ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời; bánh ta ban đây là thịt ta cho thế gian được sống” (Gio-an 51).
Thật ra người Do-thái lúc đó và ngay cả chúng ta hôm nay nữa, không phải là không cần đến của ăn và thức uống ấy. Cũng như tất cả chúng ta đều cần có Chúa, bởi vì phần đông nhân loại đều sống trong cảnh “tay làm, hàm nhai”, ăn bữa trước lo bữa sao, đổi giọt mồ hôi lấy bát cơm manh áo. Tất cả chúng ta đều đói khát: “Xin ngài ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi” (Gio-an 6: 34). Và chúng ta vẫn tiếp tục xin như vậy mỗi ngày qua kinh Lậy Cha: “Xin cho chúng con hằng ngày dùng đủ”.
Nhưng rồi Chúa nói thì vẫn nói, mà con người hoài nghi thì vẫn hoài nghi. Việc con người hoài nghi ấy không chỉ ở những câu hỏi mà người Do-thái đã chất vấn Chúa, đã lẩm bẩm với nhau khi nghe ngài nói về thứ lương thực lạ lùng là “thịt và máu” của ngài. Thứ lương thực mà ngài gọi là “bánh từ trời xuống”. Tuy nhiên, nếu có người cho những lời đó là chói tai và bỏ đi: “Lời nói chói tai, ai hiểu cho thấu” (Gio-an 6:60), thì vẫn có người như Phê-rô đã mạnh mẽ xác tín: “Lậy Thầy, bỏ Thầy chúng tôi biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống” (Gio-an 6:68).
Như vậy vấn đề ở đây là sự khác biệt giữa đức tin và lý trí. Giữa những gì Chúa Giê-su nói, và những gì con người suy nghĩ. Một bên nói về ý nghĩa của tâm linh, của sự sống tâm linh; ngược lại, một bên nghĩ về thể lý và sự sống thể lý. Và sự khác biệt này đã làm cho nhiều người không tiến lại gần được với Thiên Chúa. Không cảm được ý nghĩa và những gì Chúa Giê-su nói. Với Thiên Chúa thì không có gì mà không làm được, nhưng với con người thì làm gì có thứ bánh ăn vào khỏi phải chết. Ăn vào lại được sống đời đời. Nhất là làm gì có thứ bánh lại làm bằng thịt người. Cũng như làm gì có thức uống làm bằng máu người. Nhưng việc làm này không khó đối với Thiên Chúa, vì nó phát xuất từ tình thương của ngài, và vì ngài làm gì cũng được. Cái khó là ở sự chấp nhận của con người đến từ những ngăn trở của giác quan, của trí khôn, và của lòng mến.
- Giác quan:
Đức tin để tin nhận thực phẩm thần linh và đón nhận thực phẩm này đến từ việc con người phải loại bỏ phần cảm giác như sờ mó, ngửi, hoặc nếm. Những cảm giác này không động đến mầu nhiệm ngoại trừ vị cay của rượu, và mùi thơm, dòn, mỏng, của bánh. Điều này chính thánh Tô-ma A’quinas cũng dường như phải rrăn trở, khiến ông phải thốt lên: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”.
- Lý trí:
Đức tin cũng không đến từ những thắc mắc cần giải đáp của lý trí như những người Do-thái đã hỏi, đã phàn nàn, đã lẩm bẩm với nhau về điều mà Chúa Giê-su đã nói với họ liên quan đến lương thực thần linh này. Theo họ, là sao sao một người như ông Giê-su này lại có thể lấy thịt mình cho họ ăn. Lấy máu mình cho họ uống. Đối với họ, con người ấy đến từ Na-gia-rét, con của Giu-se và Ma-ri-a thì ai mà không biết. Làm gì có chuyện từ trời xuống.
Mầu nhiệm đức tin khựng lại ở đó, vì nó đối chọi và đi ngược lại với nhận thức và suy luận của con người. Một cách tương tự, ngày nay những thắc mắc về Thánh Thể cũng đang gây thắc mắc cho rất nhiều người, đôi khi có cả chúng ta nữa.
Không bằng lòng với những lối giải thích trìu tượng, người ta đã nghĩ đến việc phân tích, và nghiên cứu bánh thánh trước và sau khi truyền phép để tìm xem có thật sự đó là “thịt” và “máu” Chúa không?! Nhưng rồi vẫn không thấy Chúa. Không thấy thịt và máu của ngài. Và không có sự khác biệt trước và sau khi bánh và rượu đã được truyền phép. Tóm lại, thì trước trí khôn con người, Thánh Thể – bánh từ trời xuống, bánh làm bằng thịt và máu Chúa - chỉ là việc tin tưởng nhảm nhí, không có cơ sở khoa học. Và điều này khiến cho trí khôn và suy hiểu biết của con người có lý do để chối bỏ hoặc nghi ngờ.
Nhưng đối với Thánh Thể, tri thức con người, sự hiểu biết con người phải dùng để học hỏi, để chấp nhận hơn là để phân tích và tìm tòi thỏa mãn.
- Lòng mến:
Sau cùng, là lòng yêu mến – tình yêu. Thái độ yêu mến khác hẳn với thái độ lơ là, nghi ngờ và thù ghét. Trong khi những người Do-thái khác tỏ vẻ lạnh lùng và lãnh đạm khi nghe Chúa Giê-su nói về bánh hằng sống, và nước hằng sống, thì người phụ nữ Sa-ma-ri-ta bên bờ giếng Gia-cóp đã vội vã xin ngài: “Lậy Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy để tôi khỏi khát và khỏi phải ra đây kín nước nữa” (Gio-an 4:15). Còn phần Phê-rô thì khẳng định rằng mình sẽ không thể từ bỏ được những lời này, dù là lời khó nghe. Cũng như ông không thể xa lìa con người này là người đã nói lên những lời khó nghe ấy: “Lậy thầy, bỏ thầy chúng tôi biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống” (Gio-an 6:68)).
Lý do đã khiến người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cóp cởi mở và đón nhận ngay đề nghị của Chúa Giê-su vì bà cảm nhận và yêu mến. Bà đã đón nhận lời Thiên Chúa bằng trái tim rung cảm, chứ không bằng lý trí khô khan và cứng cỏi. Cũng như lý do Phê-rô mạnh mẽ tuyên bố quan điểm của mình là: “Lậy thầy, thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến thầy” (Gio-an 21:17). Một tình yêu cao cả vượt trên mọi thách đố và rào cản của lý trí.
Tóm lại, giác quan, trí khôn, và trái tim phải hòa nhập với nhau trong việc làm vững mạnh niềm tin. Nếu giác quan nghi ngờ thì ta phải dùng đến khả năng của lý trí để học hỏi và tìm hiểu. Và nếu trí khôn còn thắc mắc, còn hồ nghì, thì ta cần phải làm phát triển hơn tình mến của chúng ta, bằng việc nhìn vào và cảm nhận những ơn huệ đến từ tình yêu của Thiên Chúa. Bằng tình yêu ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và muôn loài tạo vật. Và bằng tình yêu ngài sáng tạo nên con người trong đó có mỗi người chúng ta. Và bằng tình yêu, ngài đã quan phòng, gìn giữ mỗi người chúng ta. Những thực hành căn bản này sẽ giúp Kitô hữu chúng ta tăng trưởng đức tin trước một mầu nhiệm cao cả và siêu vượt phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa.
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống: TN 20-B68
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
Dân gian có câu “người ta ăn để sống chứ không phải sống để ăn” là có ý nói ăn uống không phải TN 20-B69
Dân gian có câu “người ta ăn để sống chứ không phải sống để ăn” là có ý nói ăn uống không phải là mục đích của đời người mà chỉ là phương tiện để con người duy trì và phát triển sự sống thể lý. Nhưng con người không chỉ có sự sống thể lý mà còn có sự sống tâm linh. Vậy người ta phải ăn gì uống gì để duy trì và phát triển sự sống tâm linh, sự sống đời đời ?
Sách Thánh cho chúng ta câu trả lời: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế !” ( Cn 9, 5 ). “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” ( Ga 6, 54-56 ). Chúng ta hãy đáp lại lời mời tha thiết trên của Thiên Chúa !
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH:
Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế ( Cn 9, 1-6 ):
Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: "Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây !" Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: "Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế ! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết."
Hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa ( Ep 5, 15-20 ):
Thưa anh em, anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Vì thế, anh em đừng hóa ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha.
Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống ( Ga 6, 51-58 ):
Khi ấy Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống." Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?" Đức Giêsu nói với họ: "Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIỂN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
Thiên Chúa là Đấng nào ?
Trong bài đọc 1 ( Cn 9, 1-6 ) chúng ta biết được việc làm và lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan tức của Thần Khí Thiên Chúa hay là của chính Thiên Chúa: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây ! Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế ! Đừng ngây thơ khờ dại nữa và các con sẽ được sống, hãy bước đi trên đường hiểu biết.”
Trong bài đọc 2 ( Ep 5, 15-20 ) chúng ta được nghe lại những lời khuyên của Thánh Phaolô gửi cho các tín hữu Êphêxô, về một lối sống phù hợp với tư cách người Kitô hữu. Đó là sống khôn ngoan, biết tận dụng thời hiện tại, tìm hiểu đâu là Ý Chúa, ca hát chúc tụng Thiên Chúa trong mọi cảnh ngộ của cuộc đời.
Trong bài Tin Mừng ( Ga 6, 51-58 ) chúng ta được đọc lại một phần bài diễn từ về bánh của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trước những lời khó hiểu và thậm chí khó nghe của Đức Giêsu, người Do Thái phản ứng rất mạnh. Nhưng Đức Giêsu không giải thích gì thêm mà còn khẳng định mạnh mẽ hơn nữa điều mà Người vừa công bố trước đó. Những lời “chắc như đinh đóng cột” của Đức Giêsu sau đây, đòi chúng ta phải suy nghĩ và đáp lại: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”.
Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì ?
Sứ điệp của ba bài Sách Thánh là Thiên Chúa mời chúng ta ăn và uống Thịt và Máu của Chúa Giêsu Kitô là Thánh Thể vì đó là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, là Bánh Ban Sự Sống Đời Đời.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương chúng ta đến độ biến mình thành cơm, thành bánh, thành lương thực nuôi sống chúng ta trên hành trình trần thế này.
Thực thi sứ điệp Lời Chúa là lãnh nhận Thánh Thể, để có Sự Sống Đời Đời mà Chúa Giêsu Kitô dành cho những ai ăn bánh và uống rượu Người ban. Sự Sống Đời Đời khởi đầu bằng sự hiểu biết và khôn ngoan ở đời này và kết thúc bằng hạnh phúc trong Nhà Cha ở đời sau.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ CHO HỘI THÁNH
"Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại": Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho hết mọi người sống trên thế gian này để họ biết sống khôn ngoan và biết tận dụng những gì đang có trong tầm tay, để mưu cầu hạnh phúc trường cửu.
"Hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa và hãy thấm nhuần Thần Khí": Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục và phó tế, để các vị ấy luôn tìm kiếm Thánh Ý Chúa và thấm nhuần Thần Khí, ngõ hầu có thể lãnh đạo và phục vụ cộng đồng Dân Chúa một cách đẹp lòng Thiên Chúa.
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống": Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc Giáo Xứ chúng ta để mọi người siêng năng sốt sáng rước Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô làm lương thực.
"Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy": Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các tín hữu thường xuyên rước Chúa vào lòng nhưng chưa sống được như Chúa Giêsu Kitô đã dậy, để họ cố gắng noi gương bắt chước Người hơn nữa mà sống đẹp lòng Chúa Cha.
Có lẽ chúng ta đã không chú ý đến bài Tin Mừng hôm nay. Nghe những lời đầu, chúng ta tư: TN 20-B70
Có lẽ chúng ta đã không chú ý đến bài Tin Mừng hôm nay. Nghe những lời đầu, chúng ta tự nhủ: Đây là việc rước lễ... Và chúng ta nghĩ đến điều gì khác. Quả thật Tin Mừng hôm nay nói về Thánh Thể và đây là một đề tài quan trọng đến nõi chúng ta cần phải nghe lại giáo huấn của Chúa Giêsu về đề tài này với một niềm tin mạnh mẽ hơn.
Tìm kiếm của ăn tuyệt vời.
Mỗi người đều hy vọng tìm kiếm một lương thực tuyệt vời, vừa hợp sở thích vừa hoàn toàn cân đối, không làm cho mập ra cũng không làm cho gầy đi, duy trì sự sống một cách phong phú đến nỗi sự sống này dường như có thể kéo dài mãi mãi. Nhưng thật đáng tiếc, chúng ta phải dẹp bỏ đi những ước mơ kiểu đó. Không có của ăn nào hoàn hảo cả. Chỉ có những của ăn duy trì được sự sống nhưng rồi cũng hướng về cái chết thôi.
Các thính giả của Chúa Giêsu, khi chứng kiến phép lạ hóa bánh, đã nhớ lại biến cố xưa kia: Mỗi ngày Thiên Chúa ban cho một lương thực từ trời mà đến và đã nâng đỡ tổ tiên họ trong cuộc hành trình dài hướng về đất hứa. Ân huệ này đã chấm dứt. Người ta hy vọng nó sẽ tái diễn khi Đấng Mêsia đến. Và khi đó sẽ là một lương thực tuyệt vời, lương thực của các Thiên Thần, của ăn ban sự sống đời đời.
Của ăn thật.
Chúa Giêsu chấm dứt niềm hy vọng ấy. Sẽ không có lương thực nào của các thiên thần có thể ban sự sống đời đời cả. Chính vì thế mà Ngài đã làm cho bánh của loài người hóa ra nhiều, bánh hằng ngày thực sự, vì nó mà phải làm lụng vất vả, để cảnh giác chúng ta rằng dù có Chúa hiện diện, ta vẫn phải tiếp tục gieo vãi, gặt hái, xay bột, nhồi bột, nướng và chia sẻ bánh cho nhau.
Đồng thời Ngài loan báo một việc diệu kỳ bất ngờ, đã không được tiếp nhận. Thiên Chúa muốn ban sự sống vĩnh cửu. Và, chính để ban sự sống mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai đến. Chính Ngài là sự sống. Ta chỉ nhận được sự sống này khi kết hợp hoàn toàn với Ngài thôi. Không còn là lương thực tuyệt vời nữa nhưng là sự hiệp thông được diễn tả bằng một lời khó tin: "Ăn Thịt Con Người và uống Máu Ngài", kèm theo một cử chỉ bất ngờ: Nhận lấy bánh mà từ nay Ngài sẽ ban cho: "Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời".
Kết hợp với Thập giá.
Tìm kiếm một lương thực tuyệt vời là để che dấu đi ước muốn thoát khỏi những đòi hỏi của cuộc sống. Ta hãy nhớ rằng lời Chúa Giêsu hứa cho chúng ta được hiệp thông đời đời với sự sống mà Ngài đã lãnh nhận nơi Chúa Cha không đưa chúng ta ra khỏi những khó khăn của đời sống hiện tại.
Chúa Giêsu nói tới một thực tại quen thuộc với các thính giả của Ngài hơn là chúng ta: Của lễ hiệp thông dâng cho Thiên Chúa trên bàn thờ của đền Thánh. Một phần của lễ đó được thiêu đốt dâng cho Chúa, phần kia được chia sẻ giữa những người dâng của lễ. Hiệp thông với Chúa Giêsu cũng tương tự như vậy. Đó là tham dự vào hy lễ của Ngài để chia sẻ vinh quang của Ngài. Trong cụ thể, điều này có nghĩa là vác Thập giá của mình cùng với Ngài.
Hiệp thông với Chúa Giêsu, khi ăn bánh hằng sống mà Ngài chia sẻ cho chúng ta, mời gọi chúng ta kết hợp vào hy tế của Ngài những hy sinh hằng ngày mà chúng ta phải vác như một cây thập giá cùng với Chúa Giêsu, và chúng ta chấp nhận như một của lễ hiến dâng để cho chúng ta và thế giới được cứu độ. Không thể hiệp thông với sự sống vĩnh cửu mà Chúa Cha ban tràn đầy cho Chúa Giêsu nếu không cùng với Ngài vác Thánh giá hằng ngày của chúng ta. Khác hẳn với chuyện ngồi trên bãi cỏ mà chờ bánh từ trời rơi xuống.
Kết luận.
Chúng ta phải nghiêm túc tự hỏi xem mình chờ đợi gì nơi việc rước lễ và tại sao việc rước lễ có vẻ ít sinh ích và ít hấp dẫn đến thế? Chúng ta có muốn liên kết vào hy tế của Chúa Giêsu bản thân và cuộc sống của chúng ta không hay là chúng ta tìm cách tránh né được càng nhiều hy sinh càng tốt, và đó là một dấu chỉ cho thấy rằng chúng ta không muốn vác thập giá của mình chút nào cả?
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ: TN 20-B71
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do-thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51); 2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52); 3) Triển khai đề tài (6,53-56); 4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do-thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Họi Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn ... uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt ... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Đọng từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do-thái (52)
Người Do-thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do-thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai mọt đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, Bí tích nuôi sống. Chúa Giêsu đã tuyên bố:” Bánh mà: TN 20-B72:
Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, Bí tích nuôi sống. Chúa Giêsu đã tuyên bố:” Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống “ ( Ga 6, 51 ). Lời của Chúa không chỉ ở trên môi miệng, nhưng Chúa Giêsu đã nuôi sống chúng ta bằng chính sự sống của Ngài. Sự sống của Chúa được trao cho nhân loại, trao cho mỗi người chúng ta bằng cái chết tự nguyện của Ngài và sự sống ấy được viên mãn qua sự sống lại của Ngài…
Danh từ Eucharistie, có nghĩa là dâng lời tạ ơn. Bởi vì qua cái chết tự nguyện trên thập giá, Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại hy tế tạ ơn. Hy tế tạ ơn là thánh lễ. Và để nối kết với từ “ tạ ơn “, chúng ta có từ “ sự sống”. Chúa chết và Ngài đã phục sinh để cho nhân loại sự sống. Điều Chúa hứa cho nhân loại, cho con người là sự sống vĩnh cửu. “ Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào thời sau hết “ ( Ga 6, 54 ). Chúa minh xác:” …thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống “ ( Ga 6, 55 ). Trước khi tuyên bố những lời đầy yêu thương, những lời mang lại cho chúng ta sự sống, Chúa Giêsu đã tự nhận:” Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống “ . Chúa nhận Ngài là tấm bánh từ trời. Bánh ở đây khác với Manna trong sa mạc. Bởi vì, bánh Ngài tặng ban là thịt của Ngài để cho thế gian và cho chúng ta được sống . Chúa Giêsu là tấm bánh đặc biệt. Trong bữa Tiệc Ly, bữa ăn cuối cùng với các môn đệ trước khi Ngài ra đi chịu chết theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Bánh trở nên Mình và Máu trở nên chính Máu của Chúa Giêsu. Bí tích Thánh Thể là Bí tích của đời sống linh thiêng, đời sống thần linh. Bí tích thần linh làm cho đời sống chúng ta được tồn tại, giúp con người chúng ta được sống trong Thân Xác của Chúa, đẩy xa những tổn hư của tội lỗi gây ra cho chúng ta và ban cho chúng ta sự sống mới, sự sống đời đời. Chúa cho chúng ta biết:” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy “ ( Ga 6, 56 ) Đây là mầu nhiệm. Vì khi chúng ta chịu lấy Mình Máu Chúa, Ngài biến thành ta và ta biến thành Ngài. Thật lạ lùng và kỳ diệu. Đây là Bí tích của lòng tin.
Khi chúng ta rước lễ, chúng ta đón nhận chính sự sống của Đức Kitô. Bởi vì, Đức Kitô sống nhờ Cha, chúng ta sống nhờ Đức Kitô. Chúng ta giống như những cành nho được tháp nhập vào thân cây nho và nhờ đó dòng nhựa nguyên, nhựa luyện sẽ luân chuyển nuôi sống những cành nho. Trong đoan Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, động từ ăn được nhắc tới 8 lần. Nhắc tới ăn, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta rước lấy, chịu lấy Ngài để Ngài nuôi sống chúng ta .Quả thực, lời mời gọi của Đức Kitô mang chiều kích thiêng liêng. Ở trần gian, con người phải ăn, phải uống mới có thể sống được. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng rất cần được Chúa nuôi dưỡng. Chúa đã công bố một cách minh nhiên, rõ ràng, minh bạch:” Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời “ .
Lời của Chúa thúc bách chúng ta. Hãy sốt sắng, chuẩn bị tâm hồn thanh sạch để rước Chúa. Chúng ta đừng làm vì thói quen khi thấy người khác lên rước lễ mà mình không lên thì đâm ra áy náy. Rước Chúa là gặp gỡ Ngài . Chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng để đón nhận Chúa. Chúa là Đấng vô cùng cao cả, chúng ta phải thật hãnh diện và hạnh phúc để được tiếp đón Ngài. Bí Tích Thánh Thể là biểu lộ thật tuyệt vời, thật cao quí, thật đẹp của đức tin của chúng ta và tình yêu chúng ta đáp trả lại tình yêu vô biên của Đức Kitô.
Thánh Phaolô đã diễn tả đức tin và đức ái chúng ta phải có khi rước Mình và Máu Đức Kitô:” Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ? “ ( 1 Co 16-17 ).
Vâng, đức tin và đức ái chúng ta phải có đối với Chúa, đối với anh em khi chúng ta được nghe những lời tuyên bố của Đức Kitô trong bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay:” Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy “ ( Ga 6, 58 ) .
Lạy Chúa, Chúa đã ban Bí tích Thánh Thể cho chúng con được tham dự vào sự sống của Đức Kitô; xin cho chúng con trở nên giống như Người, để mai sau được vào thiên quốc cùng Người chung hưởng phúc vinh quang. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen ( Lời nguyện hiệp lễ, Chúa nhật XX thường niên ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Bí tích Thánh Thể là gì ? 2.Khi rước lễ mà chúng ta đang mắc tội trọng có được ích gì không ? 3.Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể lúc nào ? 4.Tại sao Chúa nói đây là Mình Ta.Đây là Máu Ta ? 5.Bánh chưa được truyền phép có phải là Mình Chúa không ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:51-58)
Câu chuyện “bánh bởi trời” bắt đầu từ sau phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều, rồi: TN 20-B73:
Câu chuyện “bánh bởi trời” bắt đầu từ sau phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều, rồi đưa tới những phản ứng của dân chúng mỗi lần Chúa nói với họ về sứ mệnh của mình. Khi Người nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, thì dân chúng phản đối và bảo rằng họ đã biết rõ lý lịch và gia đình của Người. Tiếp đến Người khẳng định: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”, thì người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Sau cùng, Chúa Giê-su nói thẳng: “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Đến đây, ngay cả các môn đệ còn cho đó là lời chướng tai, nói chi tới dân chúng, nên họ đã không đi theo Người nữa.
Chúng ta đều hiểu là Chúa Giê-su không có ý nói những lời này theo nghĩa đen, nhưng theo ý nghĩa bí tích. Thịt và máu nói lên toàn bộ con người, từ thân xác tới linh hồn và tất cả những gì liên hệ đến con người ấy. Như vậy, khi Chúa Giê-su mời gọi chúng ta “ăn thịt và uống máu Người” có nghĩa là Chúa mời gọi chúng ta hãy đón nhận tất cả con người của Người, nhận biết Người là Con Thiên Chúa được sai đến để ở giữa chúng ta. “Ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su” có nghĩa là chúng ta lắng nghe và đón nhận vào tâm hồn tất cả những điều Người dạy dỗ, vì “Đấng được Thiên Chúa sai đến, thì nói những lời của Thiên Chúa” (Gio-an 3:34). Nếu hiểu theo ý nghĩa bí tích như vậy, chúng ta sẽ được gì khi tiếp nhận Chúa Giê-su?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời người Do-thái: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. Trong Tin Mừng Gio-an, từ “người Do-thái” có nghĩa là những kẻ chống đối Chúa Giê-su, tức là nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư. Họ là những kẻ không nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ. Mà Chúa Giê-su là lời ban sự sống của Thiên Chúa, cho nên họ không tiếp nhận lời ban sự sống là họ “không có sự sống nơi mình” và tự đi vào cõi chết. Để xác định sự sống ấy là sự sống nào, Chúa nói đó là “sự sống muôn đời”. Đúng thế, ngoài Thiên Chúa Cha là Đấng hằng sống ra, ai có thể ban cho chúng ta sự sống đời đời? Chúa Giê-su còn giải thích rõ ràng sự sống muôn đời ấy: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. Tóm lại, sự sống và sự sống đời đời phát sinh từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giê-su mà đến với chúng ta là những kẻ đón nhận Người. Dòng sống lưu chuyển ấy nói lên mối tương quan sống động từ Chúa Cha qua Chúa Con rồi tới với chúng ta và được thần học gia Phao-lô gọi là “đời sống trong Chúa Thánh Thần”, tức là chúng ta sống sự sống mới Thiên Chúa ban cho và sống theo đường lối của Người.
Như thế, khi lãnh nhận Mình Máu Chúa Giê-su là chúng ta mở lòng lãnh nhận chính sự sống của Thiên Chúa, để chúng ta sống theo đường lối Thiên Chúa và đường lối ấy sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu bên cạnh Đấng tạo dựng chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Từng bước một, Chúa Giê-su giúp chúng ta hiểu ý nghĩa tại sao Người được Chúa Cha sai đến ở giữa chúng ta. Tất cả chúng ta được kêu gọi lên đường trở về nhà Cha trong cuộc lữ hành trần thế này. Chúng ta cần duy trì sự sống phần xác, nhưng cũng không thể sao lãng bồi dưỡng sự sống thiêng liêng. Đến với Chúa Giê-su Thánh Thể và múc lấy ở nơi Người sự sống của Thiên Chúa, chẳng những chúng ta có sự sống nơi mình mà còn chuẩn bị cho sự sống đời đời của chúng ta. Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa Giê-su, Người muốn chúng ta “ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta”. Chính Chúa Giê-su đã làm gương mẫu “ở lại với Chúa Cha” qua cầu nguyện và nhất là qua việc thi hành thánh ý Người. Người ở lại với Chúa Cha đến cùng khi Người phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha, để rồi sau khi sống lại từ kẻ chết, Người ở lại muôn đời với Đấng đã sai Người xuống trần gian. Chúa Giê-su cũng ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể cho đến tận thế. Vậy bạn sẽ đáp lời mời gọi “ở lại với Chúa Giê-su” như thế nào? Dù chỉ là một ít phút đặc biệt sau khi bạn rước lễ, nhưng Chúa cũng vui lòng lắm đấy!
Gio 6:51-58: 51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." 52 Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? " 53 Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ sống muôn đời."
Đoạn 6:52-58 giải quyết thắc mắc thứ hai của người Do thái liên quan đến việc ban thịt của: TN 20-B74:
Đoạn 6:52-58 giải quyết thắc mắc thứ hai của người Do thái liên quan đến việc ban thịt của Chúa Giêsu làm của ăn (Xem mạch văn của đoạn được trình bày trong bài chú giải Chúa Nhật XIX Thường Niên B). Câu 6:51 là kết luận của đoạn trước, mở ra vấn đề mới cho đoạn tiếp theo 6:52-58, khi xác định bánh ban sự sống chính là thịt của Người. Về cấu trúc, đoạn nầy gồm: 1- Nhập đề: thắc mắc của người Do thái (c.52); 2- Giáo huấn của Chúa Giêsu (cc.53-58); đoạn nầy gồm 4 phân đoạn dựa trên sự lập lại 4 lần cụm từ “Ai ăn” (c.54.56.57.58) và được đóng khung bằng cụm từ “có sự sống muôn đời” (cc.54.58); 3- Kết luận (c.59).
Sau khi nói đến bánh ban sự sống và nguồn gốc bởi trời của bánh, Chúa Giêsu xác định thêm bánh ấy chính là thịt của Người, được ban làm của ăn. Vấn đề người Do thái đặt ra vấn đề là làm thế nào Chúa Giêsu có thể ban thịt của Người để ăn. Tuy nhiên trong câu trả lời, Người chỉ nói đến việc ăn thịt ấy là cần thiết để được sống. Công thức “Quả thật, quả thật, Tôi nói cho các ông” được dùng trước một tuyên bố quan trọng (1:51; 3:3.5.11; 5:19.24tt; 6:26.32.47.53; 8:34.51.58; 10:1.7; 12:24; 13:16.20tt.38; 14:12; 16:20.23; 21:18). Ở đây, là sự cần thiết của việc ăn thịt và uống máu của Người Con của Nhân Loại để có sự sống trong mình (c.53). Khi dùng chữ “của Người Con của Nhân Loại”, Gioan muốn ám chỉ thịt và máu ấy là bởi trời và là của Con Thiên Chúa. Thật vậy, Người Con của Nhân Loại đến từ trời (x.1:51; 3:13.14; 6:62). Người là Con Thiên Chúa, có sự sống trong mình (5:26) và có thể ban lương thực mang lại sự sống muôn đời (6:27). “Thịt” (sarx) ở đây là xác, là thịt tự nhiên của con người mà Người đã nhận lấy khi đến trần gian (1:14); chứ không phải là xác thịt hiểu theo nghĩa là bản tính hư hoại đối nghịch với thần khí và Thiên Chúa (1:13; 3:6; 6:63; 8:15). Do đó, “thịt” cũng chính là toàn thân và chính Người. Một yếu tố không được chuẩn bị trước, đó là “máu”. Máu là sự sống của một người, một sinh vật. Hai yếu tố “Ăn thịt” và “Uống máu” được liên kết không tách rời nhau và được nhấn mạnh cách đặc biệt đến bốn lần trong một đoạn ngắn chỉ gồm năm câu (cc.53.54.55.56). Vậy khi trả lời trực tiếp cho những người Do thái, dưới dạng một câu điều kiện phủ định, Chúa Giêsu đã xác định nguyên tắc căn bản là phải ăn thịt và uống máu của Người để có sự sống (c.53).
Trong phần tiếp theo (cc.54-58), Gioan khai triển nguyên tắc trên trong bốn mệnh đề mở đầu bằng một động từ ở thể phân từ “Ai ăn”; nguyên tắc ấy bây giờ được áp dụng cách chung cho mọi người. Vai trò của Chúa Giêsu trở nên tích cực và chính yếu trong phần nầy. Ở mệnh đề thứ nhất (c.54), thịt và máu được nói rõ là “của Tôi” (c.54.55.56); như thế, Người tự đồng hóa mình với Người Con của Nhân Loại (x.6:53). Nói cách khác, thịt và máu của Người đến từ trời. Hiệu quả đầu tiên là Người làm cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thuộc về phần nầy, Người còn đưa ra một giải thích cho việc ăn thịt và uống máu của Người. Đó là thức ăn và thức uống “thật”. “Thức ăn thật” là vì nó do Chúa Cha ban xuống từ trời (6:32) và vì nó tồn tại trong sự sống muôn đời (6:27); đối nghịch với thức ăn hư nát mà dân chúng đã kiếm tìm (x.6:26-27). Hiệu quả thứ hai của việc ăn thịt và uống máu là “ở trong Tôi” (c.56); hiệu quả nầy tương tự như việc nghe và giữ lời của Thiên Chúa (x.14:23; 15:4-7.10). Hiệu quả thứ ba là sẽ sống bởi Chúa Giêsu (c.57). Sự sống của người ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu lệ thuộc vào Người như chính Người trong sự sống lệ thuộc vào Cha của Người (x.15:10; 17:18.21; 20:21). Sau cùng, như kết luận của diễn từ về Bánh làm cho sống (6:32-59), được đóng khung bằng cụm từ “bánh bởi trời” (cc.32.58), Chúa Giêsu khẳng định lại hiệu quả cốt yếu của việc ăn bánh bởi trời là “sẽ sống muôn đời” (c.58), đối nghịch với tổ phụ đã ăn manna và đã chết. Kết luận (c.59), Người giảng dạy những điều trên để tin và được sống muôn đời.
Chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho bánh bởi trời, bánh mang lại sự sống muôn đời. Bánh ấy chính là thịt của Người. Ai muốn sống muôn đời, hãy tin vào Người và đến nhận lấy Bánh mà ăn. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đề tài “bánh trường sinh” bước sang một khai triển mới: Chúa Giê-su là máng chuyển đức: TN 20-B75
Đề tài “bánh trường sinh” bước sang một khai triển mới: Chúa Giê-su là máng chuyển đức Khôn ngoan và sự sống của Thiên Chúa đến với ta. Tiếp nhận Chúa Giê-su là gặp gỡ đức Khôn ngoan của Thiên Chúa và “ở lại” với Chúa Giê-su là tham dự vào sự sống của Thiên Chúa ngay từ đời này để chiếm hữu vĩnh viễn trong tương lai. Nói chung, bánh trường sinh được trình bày trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa ta vào một cuộc sống theo ý nghĩa đích thực trong kế hoạch của Thiên Chúa.
1. Ca tụng đức Khôn ngoan của Thiên Chúa (bài đọc Cựu Ước – Châm Ngôn 9:1-6)
Sách Châm Ngôn trong Cựu Ước gồm ba phần chính: phần thứ nhất (chương 1-9) là những lời huấn dụ tổng quát của chính Đức Khôn Ngoan, phần thứ hai (chương 10-24) là bộ sưu tập thứ nhất ghi lại các câu châm ngôn của vua Sa-lô-môn và các lời của những bậc khôn ngoan, phần thứ ba (chương 25-29) là bộ sưu tập thứ hai ghi lại các câu châm ngôn của vua Sa-lô-môn, lời của ông A-gua, lời châm ngôn bí ẩn, lời của Lơ-mu-ên, và châm ngôn về người vợ đảm đang.
Khôn ngoan và khờ dại là hai con đường ngược chiều, nhưng mỗi con đường lại đều có những mời mọc riêng khiến cho ta nhiều khi không biết phải chọn lựa đường nào. Bài đọc Cựu Ước hôm nay trình lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan dưới hình thức một bữa tiệc thịnh soạn và khách được mời cũng rất đặc biệt. Khách mời không phải là những bậc quyền quý sang trọng, mà là những người “ngây thơ và ngu si” (Cn 9:4). Đúng vậy, đứng trước Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa, con người đều là những kẻ ngây thơ và ngu si. Vì ngây thơ nên ta dễ dàng bị sa vào những cạm bẫy nguy hiểm và để cho những quyến rũ bất chính mê hoặc. Do đó, ta cần phải đáp lời mời gọi và đến với Đức Khôn Ngoan, để cho Đức Khôn Ngoan dẫn dắt ta tránh khỏi những thứ ngây thơ có thể hủy hoại tương lai được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Còn ngu si khiến ta không biết nhận ra đâu là đường lối của Thiên Chúa và đâu là đường lối của thế gian. Ngu si là cánh cửa đưa ta đến hết lầm lạc này tới lầm lạc khác và cuối cùng trở thành kẻ thù của Thiên Chúa. Do đó, Đức Khôn Ngoan soi sáng tâm hồn ta, giúp ta phân định điều thiện điều ác, nhận biết phải suy nghĩ và hành động thế nào là đúng với tinh thần của Thiên Chúa. Tóm lại, vai trò của Đức Khôn Ngoan được ví như bánh ăn, rượu được pha chế đặc biệt Thiên Chúa ban cho ta để ta “bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:6).
Đó là lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan hay lời giới thiệu cho ta biết về Đức Khôn Ngoan. Tuy nhiên ta biết phải tìm ở đâu và làm sao đến với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa? Thiên Chúa đã dự liệu nỗi lo lắng ấy của nhân loại. Vì ta không thể đến với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nên Người đã sai Đức Khôn Ngoan đến với ta. Đức Khôn Ngoan chính là Chúa Giê-su, Ngôi Lời nhập thể, đến cư ngụ giữa loài người để dạy loài người biết về sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Ga 1:14). Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã hé mở một chút khi cậu bé Giê-su “ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi” khiến cho “ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu” (Lc 2:46-47). Đức Khôn Ngoan nhập thể là Chúa Giê-su đã lập lại lời mời gọi trong Cựu Ước “hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế” khi Người tuyên bố trong bài giảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:51).
2. “Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Bài Tin Mừng – Gio-an 6:51-58)
Chúa Giê-su, bánh ban sự sống, đang nói với ta về sự sống Người đem từ trời xuống cho ta. Xác nhận bánh từ trời là xác nhận về xuất xứ của chính Người. Chúa Giê-su khẳng định Người được Chúa Cha sai đến trần gian (x. Ga 6:57). Tiếp đến, Người cho ta biết đâu là lẽ sống của Người. “Tôi sống nhờ Chúa Cha” được hiểu là sự sống của Chúa Cha cũng là sự sống của Chúa Giê-su. Sự sống của Chúa Giê-su không thể tách rời khỏi sự sống của Thiên Chúa. Nói đến sự sống của Chúa Giê-su, ta sẽ hiểu theo cả hai ý nghĩa: sự sống của một con người sống ở trần gian và sự sống của Thiên Chúa nơi Ngôi Lời, cả hai đã kết hiệp với nhau trong mầu nhiệp Nhập Thể. Nhờ sự kết hiệp mầu nhiệm giữa bản thể Thiên Chúa và bản thể nhân loại, Chúa Giê-su đích thực là bánh trường sinh cho nhân loại. Khi sai Ngôi Lời xuống thế, Thiên Chúa Cha đã một lúc ban cho nhân loại hai điều quý giá và đặc biệt nhất thuộc về Người, đó là Đức Khôn Ngoan và Sự Sống. Như thế, đón nhận Chúa Giê-su là Đức Khôn Ngoan và Sự Sống của Thiên Chúa cũng có nghĩa là “ăn” Chúa Giê-su của Mầu nhiệm Thánh Thể.
Nói đến sự sống của Thiên Chúa là nói đến sự sống vĩnh cửu. Sự sống ấy là mục đích ta phải đạt tới. Giữa sự sống của nhân loại và sự sống của Thiên Chúa có một nhịp cầu là Chúa Giê-su. Người đã làm gương liên kết hai sự sống ấy với nhau, để đi từ sự sống trên trần gian tiến về sự sống trên thiên quốc. Tự sức riêng ta, ta không thể vượt qua được khoảng cách vô biên đó. Nhưng nếu ta liên kết với Chúa Ki-tô, hoặc ăn bánh Ki-tô, ta mới có thể được sống đời đời. Đây cũng là ý nghĩa hết sức cảm động của Bí tích Thánh Thể, ý nghĩa của việc “ăn Thịt và uống Máu Chúa Ki-tô”.
3. “Đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan” (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 5:15-20)
Từ ý niệm chủ yếu là sống Mầu nhiệm Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã rút ra rất nhiều bài học thực hành cho Ki-tô hữu. Chúa Giê-su là chính sự khôn ngoan và sự sống của Thiên Chúa. Cho nên sống Mầu nhiệm Đức Ki-tô là sống theo sự khôn ngoan và sự sống của Người. Nói khác đi, thánh Phao-lô muốn nói vắn tắt: Ki-tô hữu hãy sống như người khôn ngoan. Không phải sự khôn ngoan của người đời hay của thế gian, nhưng sự khôn ngoan của Đức Ki-tô.
Trước hết, thánh Tông đồ nói đến môi trường và thời điểm sống của ta: “Chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:16). Đúng thế, thời gian sống ở trần gian là những ngày đen tối. Đen tối với đầy tội ác, cám dỗ, yếu đuối. Đen tối ở bên ngoài xã hội và nhiều khi đen tối ngay chính trong tâm hồn ta. Giữa những đen tối ấy, ta khó mà nhận ra chính lộ, nhận ra điều nên làm và điều nên tránh, nhận biết đâu là thánh ý Chúa và đâu là ý riêng bởi tham vọng của ta. Do đó, nếu ta “sống như kẻ khờ dại” (Ep 5:15) hoặc “hóa ra ngu xuẩn” (Ep 5:17), ta sẽ đương nhiên đánh mất sự sống đời đời.
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu người khôn ngoan ai cũng có thể thực hiện được. Trước hết đó là người “không say sưa rượu chè, nhưng thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5:18). Rượu chè đưa tới trụy lạc là hình ảnh của tinh thần thế gian. Vì thế ta đừng để cho mình bị thấm nhuần tinh thần của thế gian, nhưng tinh thần của Thiên Chúa là Thánh Thần. Tiếp đến, người khôn ngoan là người biết lấy đời sống đức tin để biến đổi chính mình. Đời sống đức tin được thể hiện qua việc xây dựng tình bác ái và liên đới bằng những sinh hoạt đạo đức, như “đối đáp những bài thánh vịnh và thánh ca do Thần Khí linh hứng, đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Đời sống đức tin cũng là đời sống của những người trong bất cứ hoàn cảnh nào đều có thể “cảm ta Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh đến đời sống đức tin và đạo đức, bởi vì tất cả những điều này đều bị thế gian cho là không có giá trị và những người khôn ngoan của nó không khi nào chịu làm.
Quả thực đề xuất của thánh Phao-lô quá đơn sơ, nhưng cũng hết sức phong phú và quan trọng. Ngài có cái nhìn sáng suốt về mối hiểm nguy bị “khôn ngoan của thế gian” cám dỗ và lừa gạt. Do đó, ngài mời gọi ta trở về “ăn bánh và uống rượu đã được pha chế đặc biệt” của Thiên Chúa, tức là về với Chúa Ki-tô, để Người dạy dỗ và dẫn ta đi theo đường nẻo của Thiên Chúa như chính Người đã đi trong cuộc sống trần gian của Người.
Sống Lời Chúa
Ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay ngắn gọn, nhưng ý nghĩa lại phong phú và liên kết chặt chẽ với nhau. Mỗi bài tưởng như có ý nghĩa riêng, nhưng tất cả lại cùng hương về một đề tài chính, là giới thiệu Chúa Ki-tô như là sự khôn ngoan và sự sống Thiên Chúa muốn chia sẻ với nhân loại. Người mời gọi ta hãy tiếp nhận sự khôn ngoan và sự sống ấy bằng cách sống Lời Chúa và múc lấy sức mạnh từ nguồn Bí tích Thánh Thể. Đó cũng chính là lối sống của Ki-tô hữu đích thực, được liên kết chặt chẽ với Chúa Giê-su Thánh Thể.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô dạy ta “hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan”. Vậy tôi “cẩn thận xem xét” bằng cách nào? Bằng việc xét mình hằng ngày với lòng khiêm nhường và quyết tâm sửa đổi? Đâu là những “khờ dại” của tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dành muôn ân huệ thiêng liêng cho những người mến Chúa, xin đổ tràn tình yêu nồng nhiệt xuống tâm hồn chúng con, giúp chúng con một niềm mến Chúa trong mọi sự và hơn mọi loài, hầu được hưởng gia nghiệp Chúa hứa, là gia nghiệp cao quý hơn những gì lòng người dám ước mong. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 20 mùa Thường niên).
Bài đọc hôm nay và Chúa Nhật tới thuộc về phần thứ ba của huấn dụ (5:15-6:9), trong đó: TN 20-B76
Bài đọc hôm nay và Chúa Nhật tới thuộc về phần thứ ba của huấn dụ (5:15-6:9), trong đó thánh Phao-lô đề cập tới đời sống nội tâm của cộng đoàn, nhất là của gia đình. Ngay trước phần khuyên nhủ này, ngài nêu lên lý do tại sao phải sống đời nội tâm: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (5:8). Để giúp tín hữu Ê-phê-xô tiếp tục cư xử như con cái ánh sáng, Phao-lô nêu lên mấy điểm chính yếu sau đây:
a) Thái độ Ki-tô hữu phải có trong khi họ “đang sống những ngày đen tối.”
Trước hết tín hữu cần nhận định hoàn cảnh mình đang sống là hoàn cảnh nào. Phao-lô gọi hoàn cảnh này là “những ngày đen tối.” Đen tối không có nghĩa hoàn cảnh nội tâm của tín hữu, nhưng là môi trường bên ngoài, là xã hội với những xấu xa và suy đồi của nó. Nếu đen tối không gian có thể làm cho chúng ta khó nhận định được đâu là chướng ngại vật và nguy hiểm cho sự an toàn thể xác của mình, thì đen tối về luân lý và đạo đức cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta khó nhận ra được những tác hại vô hình của một xã hội sa đọa và đầy cám dỗ. Vì thế, tín hữu cần giữ những thái độ cơ bản là phải “cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình” để coi mình thuộc loại người khờ dại hay khôn ngoan. Lời cảnh giác này khiến chúng ta nhớ tới dụ ngôn “mười trinh nữ” Chúa Giê-su đã nói để nhắc nhở chúng ta phải sẵn sàng. Sống trong những ngày đen tối, cây đèn đức tin của người khôn ngoan lúc nào cũng đầy ắp dầu, và họ biết “tận dụng thời buổi hiện tại,” giống như “chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13:52), biết tận dụng mọi sự và mọi hoàn cảnh mình có để mưu ích phần rỗi cho mình và cho anh chị em.
Từ sau khi được lãnh nhận bí tích Rửa tội, tín hữu phải sống đúng với căn tính của mình là con cái sự sáng. Thời điểm hiện tại đối với họ luôn luôn là “đêm sắp tàn, ngày gần đến.” Đêm tượng trưng cho thế giới xấu xa hiện nay và ngày tượng trưng cho vũ trụ mới của chiến thắng sẽ đến. Đêm cũng là thời của tội lỗi và ma quỷ, còn ngày là thời của Đức Ki-tô và Hội Thánh đang chiếm lĩnh nhân loại. Màn đêm lui dần và ngày mỗi lúc một hiện ra rõ rệt hơn. Sống với viễn tượng ấy, Ki-tô hữu mới thực sự có niềm hy vọng chắc chắn và họ sẽ sẵn sàng “loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13:12).
b) Ki-tô hữu phải làm gì để sống như người khôn ngoan?
Sau khi nói lên thái độ căn bản của Ki-tô hữu, thánh Phao-lô đưa ra một số đề nghị thực tế liên quan tới đời sống cá nhân và cộng đoàn. Trước hết, mỗi cá nhân tín hữu “hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa.” Ý Chúa không hẳn là Chúa muốn tôi làm điều này điều nọ, hoặc phải quyết định thế này thế kia, nhưng ý Chúa là Người muốn trong mọi hoàn cảnh tôi phải sống như thế nào cho xứng đáng là con cái Người. Ý Chúa là “Chính anh em là muối cho đời..., là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:13-16).
Tiếp đến, tín hữu hãy giữ cuộc sống tiết độ, đừng say sưa rượu chè. Rượu chè là lối sống theo tính xác thịt, đối nghịch với lối sống theo Thần Khí. Rượu chè làm cho thân xác ra nặng nề và đưa tới trụy lạc. “Tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26:41). Do đó, thay vì say sưa do rượu chè, tín hữu hãy để cho tâm hồn mình say sưa Thánh Thần, hăng hái nhờ sức mạnh của Người. Thánh Phao-lô cũng không quên nói đến đời sống cộng đoàn. Chính đời sống cộng đoàn là một yếu tố cần thiết giúp mỗi cá nhân phát triển đời sống nội tâm của mình. Phao-lô coi sinh hoạt phụng vụ của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi như môi trường giúp họ phát triển đời sống đức tin. Quả thực là một cộng đoàn đức tin đầy sức sống khi mọi người tích cực tham dự vào cử hành phụng vụ. Cùng nhau đối đáp thánh vịnh, cùng ngâm nga thánh thi và cất tiếng hát lên những bài thánh ca, mọi tâm hồn tín hữu đều hướng về cùng một mục đích là chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Hy vọng mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật cùng với cộng đoàn, chúng ta cũng cảm nghiệm được cùng những tâm tình này! Ở đây, có lẽ nhiều người chúng ta cần phải đặt lại vấn đề về cách chúng ta tham dự cử hành phụng vụ. Phần đông, chúng ta quá thụ động, quá yên lặng trong các Thánh lễ Chúa Nhật. Chúng ta “khoán trắng” việc hát thánh ca cho ca đoàn, việc đọc Sách Thánh cho người đọc sách, việc đọc kinh nguyện Thánh Thể cho các cha... Chúng ta chỉ cần có mặt, “xem” lễ, “nghe” hát... rồi ra về. Thế là xong bổn phận... đi lễ Chúa Nhật! Tại sao có tình trạng dửng dưng như vậy? Đó là vì chúng ta không được “thấm nhuần Thần Khí,” chỉ có cái xác trong nhà thờ mà vắng cái hồn. Thêm một lý do nữa, là vì chúng ta không làm “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô,” nhưng nhân danh những cái không tên khác, thí dụ để cha mẹ khỏi buồn vì thấy chúng ta khô khan, để không phạm tội bỏ lễ Chúa Nhật, để kiếm bồ bịch, để cho cộng đoàn thấy chúng ta là người siêng năng đạo đức... Tóm lại có biết bao nhiêu cái “nhân danh” ẩn núp trong chúng ta khiến chúng ta không còn thờ phượng Chúa “trong tinh thần và sự thật” nữa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi thường hiểu sai thế nào về ý Chúa? Nhìn vào cuộc sống hiện tại với tất cả những bổn phận và trong hoàn cảnh gia đình và xã hội của tôi, tôi hiểu ý Chúa là gì?
Sinh hoạt cầu nguyện của gia đình tôi thế nào? Cầu nguyện chung và cùng nhau hát thánh ca có là một sinh hoạt đều đặn của gia đình không? Sinh hoạt ấy giúp mọi người trong nhà phát triển đời sống đạo đức như thế nào?
Đối với việc tham dự Thánh lễ Chúa Nhật, tôi và gia đình tôi có thể đóng góp được những gì? Đọc Sách Thánh? Giúp lễ? Gia nhập ca đoàn? Giúp quyên tiền? Nói chung, mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật với cộng đoàn, tôi có nhận ra đó là môi trường giúp tôi lớn lên trong đức tin không?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa.
Nếu có mặt trong đám đông lúc đó, chắc hẳn tôi cũng sẽ là người giơ cao nắm đấm mà phản đối: TN 20-B77
Nếu có mặt trong đám đông lúc đó, chắc hẳn tôi cũng sẽ là người giơ cao nắm đấm mà phản đối. Bởi điều mà Chúa Giêsu nói, không thể nào chấp nhận được: Bánh tôi sẽ ban, chính là thịt tôi đây. Ghê thế! Ai lại cho người khác ăn thịt mình. Nhìn kia kìa! Nhiều người đã lắc đầu bỏ đi. Thực ra, cứ theo cái nhìn tự nhiên, với trí óc bình thường, thì không thể chấp nhận.
Cũng giống như cái ý nghĩ của anh Jean, một người đầy tớ của nhà quý tộc Middleburg ở Hà Lan năm 1374. Mùa Chay, bà chủ bắt các gia nhân phải đi xưng tội. Jean đến nhà thờ, không xưng tội, nhưng vẫn lên rước lễ. Khi cha vừa đặt Mình Thánh lên lưỡi anh, thì bất chợt, Mình Thánh bỗng biến thành miếng thịt to, khiến Jean không tài nào nuốt nổi. Jean định nhai, nhưng khi vừa cắn, thì máu lại ứa ra đầy miệng. Và rồi, có ba giọt máu nhỏ xuống từ mép, đọng lại trên ngực áo anh ta. Quá sững sờ, vị linh mục vội vã lấy Thánh Thể từ trong miệng anh ta ra, kính cẩn mang lên bàn thờ, đặt vào một chiếc bình nhỏ bằng vàng. Hối hận và sợ hãi, anh ra giữa nhà thờ, thú nhận tội lỗi của mình. Sau đó, Jean trở về, và sống một cuộc đời đạo đức cho đến hết đời.
Thật ra, đây cũng chỉ là một trường hợp rất đặc biệt, mà Chúa đã làm phép lạ, để tỏ cho chúng ta về sự cao cả đích thực của phép Mình Thánh Chúa. Bởi bí tích Thánh Thể mà Chúa nói đến, là điều vượt lên trên những suy nghĩ của con người. Cho nên, với đôi mắt trần, với trí óc con người, con người không thể hiểu nổi, chỉ với cái nhìn của Đức Tin, ta mới có thể chấp nhận được chân lý này.
Tổ tiên các ngươi đã ăn Mana và đã chết, ai ăn bánh này, sẽ sống muôn đời. Câu kết của đoạn Tin Mừng này, mở ra cho chúng ta một cái nhìn cao hơn, và xa hơn. Ai ăn bánh này sẽ, sống muôn đời. Nghĩa là, Chúa Giêsu không nói đến sự sống tạm bợ của thân xác, mà Ngài có ý nói đến sự sống đời đời, là sự sống của linh hồn.
Chính vì thế, ta không được hiểu theo nghĩa đen; mà phải hiểu theo nghĩa của niềm Tin: Chúa Giêsu hiện diện trong tấm bánh và ly rượu, một cách đích thực, nghĩa là có toàn vẹn, mình Ngài, máu Ngài, linh hồn Ngài, và bản tính Thiên Chúa của Ngài. Ngài xác quyết đi xác quyết lại nhiều lần về sự thật ấy. Nhưng điều hệ trọng ta lưu ý là: sự hiện diện của Ngài trong bánh và rượu, không là sự hiện diện vật chất thông thường, nhưng là sự hiện diện một cách nhiệm mầu.
Câu hỏi:
1- Theo bạn nghĩ, vì sao Chúa Giêsu lại lập Phép Thánh Thể? 2- Bạn có cảm thấy, có một sự lạ lùng và hạnh phúc, khi bạn rước Mình Chúa không?
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi TN 20-B78
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện: Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và bí tích Thánh Thể chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và đến gần nhau hay không?
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao TN 20-B79
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất. TN 20-B80 Lượng
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: "Ta sẽ ban cho các con món quà quý báu nhất", thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một may mắn vô cùng, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: "Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Đúng vậy. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như giun, như sâu bọ, như kiến... tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả: hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong bí tích thánh thể.
"Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy mau mau nhận lãnh món quà quý báu nầy với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này TN 20-B81
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em…. Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không? 2. Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ goá chồng, mang theo một đứa con TN 20-B82
Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ goá chồng, mang theo một đứa con thơ còn đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột bườm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đệnh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tàu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chêt đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa.
Câu chuyện trên là hình ảnh tuyệt hảo diễn tả tình thương của Chúa Giêsu khi lập bí tích Thánh Thể. Ngài là Tấm Bánh được ban cho loài người: Bánh là một thứ lương thực có thể ăn được và cho người ăn được sống. Bánh không sống cho mình, mà luôn sống vì người khác và cho người khác. Chúa Giêsu tự xưng mình là Bánh, nghĩa là Ngài tự huỷ chính mình, hy sinh bản thân mình để cho loài người được sống.
Rước Mình máu Chúa là đón nhận chính sự sống của Chúa Giêsu: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chính khi rước lễ, là chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu, sống trong Chúa Giêsu và sống cho Chúa Giêsu, như cành nho chỉ sống được là nhờ hút nhựa sống từ thân cây nho.
Để việc rước lễ mang lại lợi ích thiêng liêng, thì không phải chỉ cần có sự chuẩn bị trước, mà còn phải gặp gỡ thân tình với Chúa sau khi đón rước Ngài. Cần tránh thái độ lên rước lễ do thói quen, do sự thúc bách của hoàn cảnh, nên thiếu sự chuẩn bị trước và thiếu đối thoại đối thoại kết hiệp với Chúa sau khi rước lễ. Ngày nay nhiều người rước lễ, nhưng phần đông rước lễ cách khô khan: Bỏ giây phút Thinh Lặng Thánh sau khi rước lễ, vội vàng ra ngoài lấy xe để còn lo chuyện làm ăn hay vui vẻ ăn nhậu với bè bạn. Vì thế mà việc rước lễ trở thành nhàm chán, một lễ nghi hình thức bên ngoài: rước lễ chỉ là việc đi lên đón nhận và ăn một tấm Bánh Thánh, thay vì để được gặp Chúa Giêsu Thánh Thể. Thật ít có vị khách quý nào lại bị chủ nhà tiếp đón cách lạnh nhạt như Ngài! Vì thế, dù siêng năng rước lễ, nhưng người tín hữu vẫn không gặp được Chúa, không nhận được sức sống thần linh của Ngài, để được ơn biến đổi nên con người mới. Vì vậy, sau nhiều năm theo đạo, chúng ta cảm thấy mình vẫn chỉ là mình với những thói hư và tội lỗi như cũ!
Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống". Đó là lời của bà Susanna TN 20-B83
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống" Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta. Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh". Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: "Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa". Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy? Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài. Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy." Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56). Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh. "Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57). Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha. Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống. Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa. Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa. Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ... Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
Ai đã làm nghề cây kiểng, hẳn hiểu rõ hai từ gắn bó. Không những gắn vào nhau, mà còn bó lại, tháp TN 20-B84
Ai đã làm nghề cây kiểng, hẳn hiểu rõ hai từ gắn bó. Không những gắn vào nhau, mà còn bó lại, tháp nhập hai cây vào nhau để có chung một mạch sống. Lời Chúa hôm nay là lời kinh Magnificat, gợi lên cho chúng ta sự gắn bó mật thiết của Mẹ Maria với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với nhân loại.
1. Gắn bó với Thiên Chúa
Mẹ Maria mang thai Đức Giêsu và lên đường viếng thăm chị họ của mình là bà Êlisabét. Khi Mẹ vào nhà chào bà Êlisabét, thì hài nhi trong lòng bà Êlisabét đã nhảy mừng, và bà Êlisabét cất tiếng khen ngợi: “Này Maria, Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Em được chúc phúc. Phúc cho Em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.
Đó là những câu khen tặng chúc mừng của Bà Êlisabét dành cho Mẹ Maria. Lẽ ra Mẹ Maria phải sung sướng và lấy làm vinh dự, hãnh diện lắm chứ, nhưng không, có vẻ như Mẹ Maria không màng đến, hoặc không tự nhận những lời chúc tụng ấy cho mình. Mẹ Maria đã sống đúng tinh thần của Chúa Giêsu, Con Mẹ, là quy hướng tất cả mọi lời chúc tụng, mọi lời ngợi khen và cảm tạ về cho Thiên Chúa. Mẹ cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa vì Người là Đấng thực hiện mọi điều tốt lành trên cuộc đời của Mẹ, nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ chúc tụng Chúa vì muôn thế hệ khen Mẹ có phước, nhưng không do bởi khả năng hay nhân đức Mẹ, mà là do Tình Thương Thiên Chúa Tối Cao.
Bởi thế, lời kinh Magnificat là lời kinh “vui mừng trong Chúa”, vui mừng hãnh diện về Chúa, với Chúa, không mảy may chút vui mừng hãnh diện về mình, đúng như lời mở đầu xuất phát tự lòng khiêm nhượng thẳm sâu: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi”. Tâm tình khiêm nhượng ngợi khen Thiên Chúa xuyên suốt cuộc đời Mẹ, trong suốt mọi biến cố vui thương mừng sáng, bởi vì Mẹ đã hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa, Mẹ đã tuyên xưng một lần cho vĩnh cửu, rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa. Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. XIN HÃY THÀNH SỰ TRONG TÔI ĐIỀU THIÊN CHÚA MUỐN”.
Mẹ Maria đã gửi đến cho chúng ta bài học thánh thiện quý giá này là: Mẹ luôn gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Tất cả cuộc đời Mẹ là một sự kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa. Mẹ sống là để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Mẹ sống cho vinh danh Chúa. Bởi, Mẹ thấu hiểu điều này là: cả cuộc đời Mẹ và tất cả những gì xảy đến trong đời Mẹ đều là hồng ân của Thiên Chúa. Với Mẹ, không có gì là của Mẹ, tất cả là của Chúa.
Gắn bó với Thiên Chúa chính là khát khao bỏng cháy của Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta. Chúa muốn chúng ta noi gương Mẹ Maria mà sống gắn bó nên một với Thiên Chúa trong tâm tình con thảo, trong tâm tình của một thọ tạo được dựng nên bởi lòng yêu thương của Chúa, trong tâm tình khiêm tốn của một nữ tỳ luôn vâng phục và thực hiện thánh ý của Chúa. Chúa muốn chúng ta đặt cuộc đời mình vào trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Chúa, như em bé thơ trong vòng tay của mẹ, với lòng tín thác tuyệt đối.
Hãy nhận ra chân lý này: sở dĩ chúng ta đã hư mất phần linh hồn, đã thất bại trên đường đời, đã thất bại trong đời sống gia đình, đã lâm lụy vào muôn muôn cảnh khốn khổ, đau buồn và đôi khi thất vọng ê chề nữa, là bởi vì, chúng ta không kết hiệp đời mình với Chúa.
Bao lâu chúng ta còn phủ nhận sự hiện diện của Chúa, hoặc kiêu căng tự tin vào khả năng học biết hay vốn liếng tài sản của mình mà từ chối sự can thiệp của Chúa trong đời chúng ta, thì bấy lâu, chắc chắn chúng ta sẽ còn hư mất, sẽ còn thất bại.
Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm vinh dự cho mình, mà không lo tìm kiếm vinh danh cho Thiên Chúa, thì bấy lâu, chúng ta còn sẽ phải não nề trong thất vọng.
Bao lâu chúng ta còn vênh vang tự đắc rằng tất cả những gì chúng ta có là bởi tài năng trí tuệ của chúng ta làm ra, thì chẳng mấy chốc, tất cả những thứ phù du ấy sẽ tàn lụi, sẽ tan bay, và chúng ta sẽ còn lại chỉ đôi bàn tay trắng.
Chúa muốn chúng ta yêu mến Chúa. Chúa muốn chúng ta đặt cả cuộc đời trong tay Chúa để Chúa thực hiện nơi chúng ta những điều Chúa muốn. Bởi vậy, hãy năng kết hiệp với Chúa bằng cách nghe và sống lời Chúa, rước lấy Thánh Thể Chúa và bẻ tấm bánh đời mình ra mà nuôi nhau.
2. Gắn bó với Giáo Hội
Lời Kinh Magnificat của Mẹ Maria còn cho chúng ta biết Mẹ có lòng yêu mến và gắn bó khắng khít với Giáo Hội của Chúa. Vẫn biết rằng, ngày ấy, Chúa Giêsu chưa thiết lập Giáo Hội, nhưng Thiên Chúa đã thiết lập Dân Riêng của Người. Mẹ Maria đã gắn bó với Dân Riêng của Người cách mật thiết đến nỗi Mẹ đã được tỏ bày mầu nhiệm Nước Thiên Chúa dành cho Dân Riêng của Người. Mẹ ngợi khen Chúa vì cũng chính Người, Đấng thực hiện bao điều vĩ đại diệu kỳ trên dân riêng của Người, đó là Ơn Cứu Độ. Thiên Chúa xứng đáng mọi lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ của Dân Riêng Người. Và Mẹ đã hát lên lời chúc tụng Chúa với tư cách là người của Dân Riêng Thiên Chúa.
Mẹ ca tụng Chúa rằng: Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Quả thực, có ai ngờ được tấm lòng của một thiếu nữ Israel mang tên Maria, một thiếu nữ đơn sơ nghèo hèn bé nhỏ thế kia, lại ôm ấp một mối tình bao la rộng lớn: Mối tình dành cho cả dân tộc, và hôm nay, là mối tình dành trọn cho nhân loại, dành cho Giáo Hội của Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là dành cho Giáo Hội của Chúa Giêsu một lòng yêu mến sắt son. Đồng cảm với Giáo Hội. Thao thức với Giáo Hội. Lắng lo với Giáo Hội. Cùng đau với Giáo Hội vì những thương tích mà nhân loại đang làm loang lổ trên thân mình Chúa Giêsu. Và nhất là cùng Giáo Hội loan báo hồng ân cứu rỗi cho nhân loại.
Không còn là một mối bận tâm mang tính xã hội, nhưng phải là một mối tình, một tấm lòng, bắt nguồn từ sự liên kết mật thiết những con người cùng chung một số phận, cùng chung một hoàn cảnh địa lý, và nhất là cùng chung hưởng một lời hứa cứu độ. Mẹ Maria gắn bó với Dân Riêng Thiên Chúa, và thay mặt cho Dân Riêng Thiên Chúa mà dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng tạ ơn.
Mỗi chúng ta đây được liên kết với nhau trong cùng một ân sủng cứu độ nhờ phép Thánh Tẩy, nhờ Máu Cứu Độ của Chúa Giêsu, và nhất là nhờ Thánh Thể Chúa Chúa Giêsu. Hồng ân ấy lớn lao và huyền nhiệm biết bao.
Thế nhưng, chúng ta vẫn vô tình, vô cảm với Giáo Hội Chúa, với Thân Mình, với Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Mẹ Maria hiệp nhất với Dân Riêng Thiên Chúa, Mẹ mang cả tâm tình của muôn người mong đợi Chúa đến thế nào, thì mỗi chúng ta cũng hiệp nhất với Giáo Hội, cũng mang cả tâm tình của Giáo Hội mà hiên ngang làm chứng cho Chúa và Giáo Hội của Người.
Biết bao lần chúng ta vẫn như người ngoài cuộc, vẫn dửng dưng với Giáo Hội khi Giáo Hội đang phải đối diện với những thách đố cam go. Và còn hơn thế nữa, chính chúng ta, không những đã không hiệp nhất với Giáo Hội, mà còn có đôi khi lại là những tác nhân gây ra bao nỗi đau lòng cho Giáo Hội.
Trong khi Giáo Hội đang đau lòng vì nhân loại phủ nhận sự hiện diện của Chúa, từ chối đón nhận Tin Mừng, thì chính chúng ta cũng sống cách sống của người không tin, hoặc nghe Lời Chúa mà không thực hiện trong cuộc sống.
Trong khi Giáo Hội đang đau lòng vì nhân loại không tôn trọng sự sống con người, nhân loại đang tìm hưởng thụ lạc thú mà không đón nhận con người của Chúa ban, trong khi Giáo Hội đang đau lòng vì nhân loại giết chết biết bao con người từ trong trứng nước, thì chính chúng ta lại là những người không đón nhận con cái Chúa ban, lại là những người phá thai không kể tuần tuổi tháng tuổi nào. Làm như thế coi sao được? Sống như thế thì làm sao có thể nói là tôi yêu mến và gắn bó với Giáo Hội.
Trong khi Giáo Hội đang đau lòng vì sự bền vững của hôn nhân Công Giáo đang trên đà xuống cấp đến mức báo động, làm điên đảo các gia đình, làm cho biết bao trẻ em phải chịu cảnh mồ côi cha, mồ côi mẹ trong khi cha mẹ mình hãy còn sống, thì chính chúng ta lại là những người không bảo vệ hạnh phúc gia đình Công Giáo, lại còn để bỏ nhau, ly thân, ly dị, ngoại tình, lấy chồng hai vợ hai, sống công khai ngoài vòng luật Chúa và Hội Thánh. Coi sao được?
Trong khi Giáo Hội đang đau lòng vì chiến tranh loạn lạc, bè phái đố kỵ, khủng bố khắp nơi, thì chính chúng ta lại là những người tiếp tay cho những chia rẽ, đố kỵ, bè phái hơn thua, trong làng xóm, đoàn thể, Giáo Xứ… Coi sao được? Ước gì, mỗi chúng ta sẽ không làm đau lòng Giáo Hội nữa, nhưng xin cho mọi người luôn yêu mến, gắn bó với Giáo Hội vì phần rỗi của chính mình, của gia đình mình, của Giáo Xứ mình, và của mọi người.
3. Gắn bó với nhau
Chúng ta hãy vui mừng vì Mẹ Maria còn có một tấm lòng, một mối tình vĩ đại hơn nữa, khi Mẹ đặc biệt để tâm tới những ai có lòng tin vào Thiên Chúa, những ai sống đời khiêm nhường bé nhỏ, nghèo hèn khốn khổ trong xã hội trần gian. Mẹ đã mặc lấy lòng thương xót của Thiên Chúa mà trải tình thương của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Mẹ chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không.
Quả thực, Mẹ liên kết với Chúa, Mẹ sống bằng tình yêu của Chúa, Mẹ liên kết với Giáo Hội, Mẹ sống tâm tình của Giáo Hội, vì thế Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận tất cả con người vào trong trái tim yêu thương của Mẹ. Mẹ gắn bó với mọi người, Mẹ nên một với mọi người bằng cách thấu cảm và sẻ chia mọi hoàn cảnh sống, mọi nỗi đau, nỗi lắng lo của cuộc đời.
Từ gương gắn bó của Mẹ Maria, chúng ta học được bài học này là: Chỉ có những người gắn bó với Chúa, hiệp nhất với Giáo Hội mới có khả năng sống gắn bó hiệp nhất với nhau đúng tinh thần của Chúa. Nói như thế có nghĩa là, những người hiệp nhất với nhau mà không hiệp nhất Chúa và với Giáo Hội, thì cũng chẳng khác gì một đảng phái chính trị, một tập thể xã hội, tự tôn phong một chủ trương, một chủ thuyết, một chánh đạo, chưa hẳn đã là phù hợp thánh ý Chúa, đôi khi còn chống lại ý Chúa, chống lại Giáo Hội.
Người yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội của Chúa, thì mặc lấy tâm tình của Chúa và của Giáo Hội mà sống với mọi người, từ trong gia đình đến làng xóm, đến xã hội. Người yêu mến Chúa thì cũng yêu mến tha nhân. Người yêu mến Giáo Hội thì cũng mang lại cho tha nhân niềm vui của ân sủng mà Hội Thánh chuyển ban.
Đừng để vì thiếu sự gắn bó với Chúa, với Giáo Hội mà cách sống của chúng ta trở nên những ốc đảo, những con người tự làm mình đơn độc giữa cuộc sống chung này.
Đừng để thiếu tình yêu Chúa và tình yêu Giáo Hội, mà làm cho đời sống gia đình của chúng ta nên bất an, bất hạnh, vì bất nhất.
Hãy gắn bó với Chúa, hiệp nhất với Giáo Hội để kín múc từ tình yêu Chúa, tình yêu Giáo Hội một nội lực cần có để chúng ta liên kết với nhau trong tình yêu, hiệp nhất với nhau trong cùng một ơn cứu rỗi.
Thiên Chúa đưa cả hồn xác Mẹ Maria lên Trời, Thiên Chúa thưởng Mẹ trên trời với tước vị Nữ Vương, bởi Mẹ đã khiêm tốn đặt đời mình thuộc trọn về Chúa, và khi thuộc trọn về Chúa, thì Mẹ cũng đã dành cho Giáo Hội và nhân loại này, một lòng xót thương như Chúa Cha đã xót thương.
Nói cách khác, Mẹ đã gắn bó với Chúa, với Giáo Hội và với mọi người.
Đây cũng chính là chìa khóa hạnh phúc cho các gia đình chúng ta, cho cuộc sống trần gian của chúng ta. Đây cũng chính là chìa khóa hạnh phúc cho mỗi chúng ta, mỗi cộng đoàn Dòng Tu, mỗi gia đình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con noi gương Mẹ Maria mà tháp nhập toàn thân con vào cùng nguồn mạch sự sống của Chúa, của Giáo Hội và của mọi người. Amen.
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của TN 20-B85
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã TN 20-B86
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về “Bánh” trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm” (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: “Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu “luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “Ut unum sint” (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. “Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế”. Theo TN 20-B87
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế”. Theo lời sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được “thiên cách hóa” như chính Thiên Chúa: “đừng ngây thơ dại ngờ nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết”.
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Người Do thái phản ứng và tranh luận sôi nổi: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi “ăn thịt và uống máu” là được kết hiệp mật thiết với Chúa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: “Tổ tiên các ngươi đã ăn mana và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải rõ ràng về Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa thiết lập trong Tiệc Ly: “Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (Mt 26,26-29).
Bí Tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh” (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau. Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cor10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy "khoảng cách" giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên "công hiệu", làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay "biến thể". Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
- "Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
- "Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
- "Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: "Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống..." (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com, Tặng phẩm Thần Linh, ĐGM Bùi Văn Đọc).
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một...” (Ga 3, 16) và Con Một là Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”, đồng thời: “Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại…hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa…hãy thấm nhuần Thần Khí”. Ý Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Khi CS nắm chính quyền ở Trung Quốc, họ giam một Linh Mục trong chính nhà xứ của cha, nhà TN 20-B88
Khi CS nắm chính quyền ở Trung Quốc, họ giam một Linh Mục trong chính nhà xứ của cha, nhà xứ này ở gần Nhà Thờ của cha. Từ cửa sổ nhà mình ngó qua Nhà Thờ, cha kinh hoàng thấy các người CS đến phá nhà thờ, họ xông lên bàn thờ. Lòng đầy hận thù, họ phạm thượng đến Nhà Tạm, vứt Chén thánh xuống đất, các bánh thánh rớt tung tóe dưới đất. Vào thời buổi bị bách hại, linh mục biết chính xác con số bánh thánh của mình trong Chén Thánh: 32 Bánh Thánh.
Khi các người cộng sản ra đi, có thể họ không thấy, hoặc họ không chú ý đến một cô bé đang quỳ cầu nguyện ở dưới lòng Nhà Thờ, em đã chứng kiến tất cả cảnh này. Buổi tối, em trở lại Nhà Thờ, thoát được sự canh phòng của người canh gác trước nhà xứ, em vào trong Nhà Thờ. Em quỳ chầu một giờ, một hành vi yêu thương để đền bù cho hành động hận thù. Em tiến gần bàn thờ, quỳ xuống và bò bốn chân khom mình để nhận Mình Thánh Chúa, vì thời đó Giáo Dân không dùng tay để nhận Mình Thánh Chúa, mà Mình Thánh Chúa được Linh Mục đưa tận lưỡi.
Mỗi ngày em mỗi đến chầu giờ thánh và rước Chúa Giêsu trong Thánh Thể bằng lưỡi. Một ngày nọ, chỉ còn một bánh thôi và em rước như thường lệ, nhưng vô tình em đã gây tiếng động và người canh gác biết được, ông này chạy đến sau lưng em và dùng báng súng đánh em cho đến chết. Từ cửa sổ phòng mình, mà cũng là phòng giam của mình, Linh Mục bàng hoàng chứng kiến cảnh tử đạo này.
Khi Tổng Giám Mục Fulton Sheen nghe câu chuyện này, ngài quá xúc động và ngài hứa với Chúa, mỗi ngày cho đến chết, ngài sẽ để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa: một lời hứa ngài giữ trong vòng 60 năm tu hành. Ngài mất ngày 9 tháng 12 năm 1979, và người ta tìm thấy di hài của ngài ngay trước Nhà Tạm của Nhà Nguyện riêng. Ngài đã tự nhủ: "Nếu em bé gái tử đạo người Trung Quốc làm chứng bằng chính đời sống của em cho sự hiện diện đích thực và cao đẹp của Thánh Thể, thì một vị Giám Mục như mình cũng phải làm được như vậy". Từ đó, ước muốn duy nhất của ngài là đưa Giáo Dân về với Thánh Tâm bừng nóng của Chúa Giêsu trong Thánh Thể ( Giáo sư Felipe Aquino, aleteia.org, 16.6.2015, Cô bé Trung Quốc đã đánh động lòng kính Mình Thánh Chúa của Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen ).
Trong Tin Mừng Chúa Nhật 19 Thường Niên hôm nay, Thánh Gioan thuật lại tuyên ngôn của Đức Giêsu: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.”khiến dân chúng hoang mang thắc mắc và không thể chấp nhận. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và dân chúng tiếp tục bế tắc giữa hai bờ Biền Hồ. Một bên vật chất, thế tục, phù phiếm, một bên chân lý, sự thật và sự sống vĩnh cửu. Muốn hiểu được Lời Chúa, phải thoát ra khỏi não trạng thực dụng, vật chất, muốn đến với Người, thì từ bỏ bản thân, vác thập giá mà theo. Vì chỉ có thể nhờ Người, với Người và trong Người, con người mới hiểu được thế nào là Nước Chúa, mới được vinh dự sống viên mãn. Cháu bé gái Trung Hoa kể trên đã thấm nhuần tin cậy vào Lời Chúa cùng với lửa mến con tin, và được dưỡng nuôi bằng Thánh Thể, nên sẵn sàng hiến thân, bỏ mình, để được sống vĩnh hằng.
Nhờ Đức Kitô
Con người bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng vì kiêu ngạo, bất tuân Thiên Chúa. Tội nguyên tổ truyền đời này sang đời nọ, như vòng kim cô luân chuyển. Xa cách Thiên Chúa, con người trầm luân vào tội lỗi, bản năng, dục vọng, bụi trần phù phiếm. Nhờ Đức Kitô vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế làm người, giải thoát loài người khỏi vong thân, tái sinh trong ơn cứu chuộc.
Không những giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi, sự chết, Đức Kitô còn hiến thân mình làm lương thực thần linh, ban sự sống muôn đời: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời.
Với Đức Kitô
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ( Mt 11, 29 ). Đức Giêsu mời gọi con người noi gương theo, sống theo Người. Khiêm nhường, hạ mình, vâng lời Thánh Ý Thiên Chúa, đơn sơ, hiền từ, nhân ái, phục vụ và thương xót tha nhân. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi" ( Mt 9, 13 ).
Trong Đức Kitô
Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống." Đức Giêsu không chỉ giảng dạy, mà còn hy sinh chính bản thân làm lương thực cho con người được cứu độ, được hưởng sự sống đời đời. Trong Người, tín hữu được chia sẻ sự thương khó, cái chết và phục sinh cùng Người. Những khốn khó, đau khổ, gian nan, hiểm nguy, thử thách và chết vì danh Chúa Kitô, chính là góp phần nào vào công chuộc cứu thế của Người. Nhờ vậy, con người được thánh hóa trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn dắt chúng con trở thành muối, men cho đời, xin dạy chúng con trở nên quà tặng của Chúa với muôn dân. Xin cho chúng con được sống mãi trong ơn Chúa nhờ Lời Chúa và thánh Thể.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn mở lòng đón nhận và sống Lời Chúa, cũng như cho chúng con dọn mình xứng đáng đón rước Thánh Thể, làm của ăn đi đường Hy Vọng. Amen.
Cha tôi không được ăn học nhiều ở nhà trường, càng không học về triết học, nhưng trường đời của N20-B89
Cha tôi không được ăn học nhiều ở nhà trường, càng không học về triết học, nhưng trường đời của cha đã dạy cha nhiều bài học quý giá. Quý giá nhất vẫn là những bài học rút ra từ việc gẫm suy đời mình trong con mắt của Thiên Chúa và bằng con mắt Đức Tin. Tôi nhớ mãi bài học cha dạy tôi khi vừa mới lớn: “Con người” ( là một hữu thể ) gồm nửa cái “con” và nửa cái “người”. Bởi vậy, mình phải sống làm sao cho ra cái “người”, đừng mê muội sống theo cách sống của cái “con”, con à !”
Có một lần cha cho hai anh em tôi hai cái cặp đi học, tôi giành cái cặp đẹp hơn, đắt tiền hơn. Cha tôi nói “con đang làm chuyện của cái “con” chứ không phải cái “người”. Cha buồn. Tôi xin lỗi cha. Và cha giải thích thêm: “Cái “người” trong con người là phần hình ảnh của Thiên Chúa trong mình, nhé con ! Còn cái “con” trong con người là phần hình ảnh của “Adong và Evà đã từng phạm tội phản nghịch Thiên Chúa”. Cái “người” thì khiêm nhường, cái “con” thì kiêu căng, tự phụ, hống hách. Cái “người” thì nhường nhịn cho người khác phần hơn, phần tốt nhất; cái “con” thì tham lam, giành giựt, vun quén cho mình. Cái “người” thì biết chạnh lòng, biết yêu thương, biết sẻ chia, giúp đỡ; còn cái “con” thì cũng có con có tình cảm tự nhiên, có chạnh lòng, có yêu thương tự nhiên… nhưng cũng có con thì vô cảm, hung hãn, ăn thịt bạn bè, ăn thịt đồng loại, đôi khi giết con và ăn cả thịt con mình để mình được sống, còn con nào sống chết cũng mặc.
Dòng suy tư về cái “con” và cái “người” thấy có vẻ đơn giản thế đó, vì có thể ai cũng hiểu được nơi chính con người mình. Vậy mà, tôi có thể chắc rằng, đã nhiều lần, chúng ta phải đấm ngực vì mình đã nghiêng về phía cái “con” nhiều hơn cái “người”.
Một vài thập kỷ qua, và nhất là những ngày này, người ta tôn vinh cái “con” hơn là cái “người”. Họ tập trung, đầu tư mọi thứ, mọi sự cho việc xây dựng đời sống cái "con" cho viên mãn, còn cái "người" thì xem nhẹ. Vì thế, có thể nói, cái "con” trong con người phát triển không ngừng, nhất là ở nơi những con người “không tin sự hiện diện của mình trên trần gian này là do Thiên Chúa”, mà khăng khăng cho rằng “sự hiện diện của chính mình là một phát triển vật chất tự nhiên”.
Nhìn kỹ vào đời sống con người hôm nay, đang có những dấu hiệu cho thấy người ta đang ăn uống, đang làm việc, đang vui chơi, đang hưởng thụ, đang sống trong gia đình, trong xã hội… theo cách của cái “con” quá nhiều. Cái “con” không chú trọng đến đức Khiết Tịnh. Cái “con” không quý cái ngàn vàng. Cái “con” không biết điều gì thiêng liêng cao quý trong sinh hoạt vợ chồng. Cái “con” chẳng hiểu ra giá trị của đơn hôn và vĩnh hôn. Cái “con” làm đảo lộn mọi thứ luân thường đạo lý. Nhưng, sống như thế để rồi được gì ? Có chăng “cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Cái “con” vẫn hoàn cái “con”. Tự con người hạ thấp giá trị của mình từ là “người” xuống ngang hàng với cái “con”, mà không hay biết, lại còn huênh hoang cho là tiến bộ. Tự mình đưa mình vào cõi chết muôn đời, vào cõi diệt vong, bằng cách sống của loài ăn tạp, ăn vội, ăn giành ăn giựt, ăn lấy ăn để, ăn ngấu ăn nghiến, vì sợ chết là hết, không còn được ăn nữa… vậy mà lại cứ tự cho mình là… văn minh nhất nhì thế giới !
Bạn và tôi, những người tin vào Thiên Chúa, tin nguồn gốc của mình là Thiên Chúa, tin Chúa Giêsu Kitô đã phục hồi Sự Sống thiên thu cho chúng ta qua cái chết của Ngài… hiện đang sống giữa một xã hội quá nghiêng về cách sống của cái “con”. Liệu mỗi chúng ta có giữ vững cách sống của phần “người” giống hình ảnh Thiên Chúa không ? Hay là, chúng ta đã thất trận trước những lời dỗ ngọt của những kẻ sống theo cái “con” mà rước vào mình bao thứ sự hay hư nát và hư nát muôn đời ?
Sống cho ra “người” luôn là một thách đố với mỗi chúng ta.
Lời Chúa hôm nay, thiết tưởng, sẽ giúp chúng ta vượt qua thách đố ấy mà sống cho ra “người”.
Chúa Giêsu nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Người nghe, là những người ăn theo cách của cái “con”, ăn để sống cái phần xác, mới thắc mắc rằng: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” Còn chúng ta, hãy là những người ăn theo cách của “người”, của con cái Thiên Chúa, và hãy hiểu ăn ở đây nghĩa là một sự kết hiệp toàn bích với Đức Giêsu, một Đức Giêsu bị giết chết, một Đức Giêsu Phục Sinh, một Đức Giêsu hoàn toàn dâng hiến thân mình để chúng ta được sống và sống dồi dào, sống trường sinh.
“Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống”. Thịt máu chính là cả con người, cả Sự Sống thần linh của Đức Giêsu.
Vậy, khi rước lễ, chắc hẳn là chúng ta đang ăn một tấm bánh hữu hình, biểu trưng cho Sự Sống thần linh của Đức Giêsu, để chúng ta sống cách sống thần linh của Người trong cuộc đời. Thực ra, không phải chúng ta ăn bánh hay uống rượu, ăn thịt hay uống máu, nhưng là chúng ta rước lấy một Con Người Đang Sống, một Con Người Hằng Sống, rước lấy Nguồn Thiện Hảo của Thiên Chúa vào trong lòng mình, để mình sống cho ra “người”, cái "người" giống hình ảnh của Thiên Chúa.
Tôi tìm thấy ý tưởng này trong đoạn thơ suy tư sau đây:
Chẳng phải là con đang ăn bánh hay uống rượu Ăn thịt hay, uống máu Chúa Giêsu Nhưng con rước lấy nguồn thiện hảo Của Đấng Xót Thương đến tự lòng trời. Vậy, khi con ăn tấm bánh của Người Chẳng phải là để được no phần xác Nhưng là con đắm trong nguồn hoan lạc Của Thần Linh, của hạnh phúc thiên thu. Vậy, khi con ăn tấm bánh Đức Giêsu Chẳng phải vì tin như tấm bùa hộ mạng Nhưng là tin một Con Người Đang Sống Sẽ sống trong con đến trọn kiếp người. …. ( Trích trong “Rước lấy nguồn thiện hảo” của tác giả Ả Giang Hồ,
Thi Ca Cầu Nguyện số 231, thanhlinh.net )
Để sống cho ra “người” giữa một toàn cảnh sùng sục chuyện cái "con", chắc hẳn, chúng ta phải tìm cho ra lương thực chính hiệu dành cho “người”. Lương thực ấy, không nơi nào khác hơn Thánh Thể Chúa Giêsu, chính Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đã bao lần con ăn Chúa, như một của ăn phần xác, và theo cách ăn phàm tục, không khác gì những người không tin Chúa. Xin cho con từ nay ý thức rằng: mỗi khi con rước lễ, là con đang rước một Con Người Đang Sống, một Con Người Hằng Sống vào trong con, chính là Đức Giê-su, để con biết sống cho ra người như NGƯỜI đang sống trong con. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 13.8.2015
---------------------------
TN 20-B90: Sống từng ngày trong tư cách là con Chúa
Chúa nhật tuần qua, chúng ta đã có dịp nói với nhau về diễn từ Bánh Hằng Sống kéo dài từ Chúa nhật 17 TN 20-B90
Chúa nhật tuần qua, chúng ta đã có dịp nói với nhau về diễn từ Bánh Hằng Sống kéo dài từ Chúa nhật 17 đến Chúa nhật 21 thường niên Năm phụng vụ B.
Ở Chúa nhật 20 thường niên, chúng ta đã gom lại với nhau ba điểm trong phần diễn từ của tuần để cùng suy gẫm:
- Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là bánh từ trời xuống, - Chính Chúa Cha kéo lôi con người chúng ta đến với Ngài, - Ngài là Bánh Hằng Sống và là Bánh ban sự sống đời đời.
Chúa nhật XX hôm nay, chúng ta tiếp tục với diễn từ Bánh Hằng Sống ấy và đi vào tâm điểm của diễn từ: Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống.
Các nhà chuyên môn đã cho biết là Chúa dùng chữ “SARX” để nói về thịt của Ngài chứ không là chữ “soma” chỉ thân thể Chúa... Nghĩa là thực sự Ngài ban THỊT Ngài để chúng ta ăn và MÁU Ngài để chúng ta uống. Đồng thời Chúa cũng khẳng định ăn THỊT và uống MÁU Ngài là điều kiện để chúng ta ở trong Ngài, Ngài ở trong chúng ta và chúng ta có sự sống đời đời.
Đây là chuyện khó tin và khó chịu đối với người Do Thái nghe Chúa lúc đó.
Với chúng ta hôm nay, trong đức tin của người Công giáo, chúng ta hiểu bởi vì chúng ta đón nhận Lời Chúa, sống trong truyền thống của Giáo hội và được giáo dục trong đức tin của gia đình Công giáo. Chúng ta không có những vấn nạn như người Do Thái ngày xưa nhưng lại dễ dàng để rơi vào một tình trạng khác có lẽ còn tệ hơn cả thái độ của những người khó chịu khi nghe Chúa: Đó là sự không quan tâm tới lương thực ban sự sống đời đời cho chúng ta là Mình và Máu Chúa.
Vấn nạn đặt ra cho chúng ta hôm nay là bản thân mỗi người nghĩ gì và sống như thế nào đối với THỊT và MÁU Chúa - lương thực từ trời được ban cho chúng ta để chúng ta được sống đời đời?
Trả lời được câu hỏi này, chúng ta sẽ thấy sự cần thiết phải đến với Chúa với một tâm hồn, với một nỗi khát khao và với một ước mong: Đó là sẵn sàng luôn để có thể đón nhận Mình và Máu Chúa, làm cho Chúa ở lại nơi mình và để cho mình được ở trong Chúa.
Cái gì cho thấy chúng ta đạt được điều đó? Xin thưa, đấy là những gì chúng ta sống từng ngày trong tư cách là con cái Chúa và là người Công giáo.
Không thể là con người sạch nếu chúng ta không bao giờ biết cầm đến cái chổi để quét mảnh sân chung, cầm miếng vải để lau bàn ăn chung, hay đi đổ giỏ rác đã đầy hoặc nhắc nhở nhau không quăng vất bừa bãi, khạc nhổ lung tung ở bất cứ nơi nào...
Không thể là con người tốt nếu chúng ta luôn tìm cách né tránh người nọ, người kia vì không thích họ, vì họ không thuộc nhóm mình, vì họ lỡ xúc phạm đến mình, vì họ không đồng thuận với cách hành xử của mình...
Không thể là con người đẹp nếu chúng ta luôn luôn tôn thờ phong cách quá đáng, luôn luôn có những chuẩn mực này nọ nhằm tôn vinh bản thân, đánh bóng cách sống và con người của mình...
Không thể là con người cao thượng khi chúng ta vặt vãnh xem xét và vạch lá tìm sâu nhằm hạ giá tha nhân chỉ bởi vì họ không cùng một quan điểm với chúng ta, không cùng một đường lối với chúng ta, thậm chí không cùng một niềm tin như chúng ta...
Rất nhiều điều mà trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành xử một cách không có Chúa và không như Chúa, lý do vì chúng ta không đón nhận THỊT và MÁU Chúa làm lương thực sống của mình hay vì chúng ta đón nhận nhưng không với một cái tâm muốn nên giống Chúa mỗi ngày ở ngay những gì nhỏ nhoi và bình thường nhất. Chính với những nhỏ nhoi và bình thường ấy sẽ dần thành nếp và thành cách sống của những người tin Chúa và sống những gì Chúa dạy. Về những bất ổn xã hội hôm nay, phải thẳng thắn thú nhận: một phần khá lớn là do những người “mang danh nghĩa là con cái Chúa” nhưng lại “né tránh”... Đây là cách và kiểu nói của con người vốn được mệnh danh là “bạn của người nghèo” - Đức Tổng Giám mục Helder Pessoa Camara: “Đang khi nhiều người đau khổ khát mong, đợi chờ những tấm lòng từ thiện biết đau cái đau của họ, biết khóc với tiếng khóc của họ, thì những người mang danh nghĩa là con cái Chúa đã tìm cách để né tránh…”. Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp, chính xứ Cầu Bảo, Gp.Nha Trang
Có lẽ khi nói đến Bánh Trường Sinh, Bánh ban Sự Sống, chắc chắn nhiều người trong chúng ta sẽ rất TN 20-B91 Dalat
Có lẽ khi nói đến Bánh Trường Sinh, Bánh ban Sự Sống, chắc chắn nhiều người trong chúng ta sẽ rất ngạc nhiên. Ăn thịt và uống máu của con người là điều chẳng ai dám nghĩ tới. Chúa Giêsu đã quả quyết:” Tôi là Bánh ban Sự Sống “ “ Ai ăn và uống máu tôi sẽ có sự sống đời đời “.Thật lạ lùng, thật kỳ diệu ! Do đó, ngay một số môn đệ khi nghe Chúa tuyên bố như thế, đã bỏ Chúa mà đi…Còn những người Do Thái đều bửu môi không tin…Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã muốn nuôi tất cả chúng ta, tất cả nhân loại bằng chính thịt máu của Ngài. Đó mới là điều lạ lùng…
Chúa Giêsu quả thực đã nuôi nhân loại bằng cái chết trên thập giá…” Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “ hoặc “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Ngài đã ban cho nhân loại, cho chúng ta bằng chính sự sống của Ngài. Sự sống được trao ban cho chúng ta qua cái chết tự nguyện trên thập giá và sự sống được lấy lại qua sự sống lại của Chúa Giêsu. Ngài là Tấm Bánh. Tôi là bắng hằng sống từ trời xuống ( Ga 6, 51 ) và Ngài quả quyết:” Ai ăn bánh này sẽ được sống muốn đời “. Điều lạ lùng và hết sức mầu nhiệm là “…Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống “. Chúa Giêsu chấp nhận mình là Bánh, có nghĩa là chịu mất đi. Bởi vì, là Tấm Bánh, chấp nhận bị nghiền nát để khi người khác ăn, họ sẽ trở nên mình, máu của Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu ở trong người ấy và người ấy ở trong Chúa Giêsu. Cái kỳ điệu hơn cả là khi chúng ta chấp nhận ăn Chúa, Ngài biến chúng ta trở nên Ngài và Ngài trở nên chúng ta. Đây là sự hiệp thông sâu thẳm, chìm đắm trong nhau:” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy “ ( Ga 6, 56 ).
Chúa Giêsu, chính là Tấm Bánh: Bánh Sự Sống, Bánh Trường Sinh. Chúa Giêsu để lại chính Thịt và Máu của Người để nuôi sống nhân loại. Sự sống trần gian sẽ mau qua. Lương thực: vật chất, cơm, bánh, gạo, tiền rồi sẽ qua đi. Chỉ có Mình và Máu của Chúa mới ban Sự Sống thường tồn. Thánh Thể không chỉ là thịt máu của Chúa mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa:” Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo Hội “ ( Pv 7 ). Chúng ta còn đọc thấy điều này trong Hiến chế Tín lý Mạc Khải:” Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy Bánh ban Sự Sống từ bàn Tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn Tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu “ ( MK 21 ).
Do đó, bàn Tiệc Lời Chúa và bàn Tiệc Thánh Thể liên kết mật thiết với nhau. Người Kitô hữu không thể chỉ đến để rước Mình Thánh Chúa mà bỏ qua bàn Tiệc Lời Chúa. Bởi vì, thánh lễ gồm hai phần rất quan trọng đến nỗi bỏ đi một phần là chúng ta chưa tham dự, hiệp dâng thánh lễ trọn vẹn.Người Kitô hữu đến nhà thờ mà không rước lễ thì giống như họ đi dự tiệc mà lại ngồi ngó tiệc mà không ăn tiệc. Hoặc đi tới nhà thờ người Kitô hữu không chịu lắng nghe Lời Chúa, họ giống như người đi dự tiệc mà không trang điểm, ăn mặc cẩu thả, bê bối.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn sạch tội để chúng con rước Chúa ngự vào lòng chúng con. Xin cho chúng con cũng trở nên tấm bánh được nghiền nát để chia sẻ với anh chị em đồng loại. Xin cho chúng con một tấm lòng quảng đại để chúng con hy sinh cho người khác vì chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời, chính khi cho đi là khi lãnh nhận. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Chúa Giêsu muốn nuôi nhân loại bằng gì ? Tấm Bánh Mình Máu Chúa và Tấm Bánh Lời Chúa là hai phần quan trọng, nối kết trong thánh lễ.Vậy, bỏ đi phần Lời Chúa có được không? Giáo Hội tôn kính Thánh Kinh như tôn kính ai ? Trước khi rước lễ chúng ta phải làm gì ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép TN 20-B92
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ. Họ được ăn bánh no nê nên tiếp tục tìm kiếm và đi theo Chúa. Vì không hài lòng với ý tưởng ấy, Chúa trách họ: "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Sau lời trách, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì hãy tìm kiếm lương thực trường tồn là chính Chúa (x. Ga 6). Khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải cho họ luôn: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Hôm nay, tiếp tục diễn từ về bánh hằng sống, Chúa Giêsu kêu gọi những người Do thái và cả chúng ta nữa, hãy đến mà ăn cho no uống cho thoả. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: "Là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51).
Lời Chúa trong sách Châm Ngôn giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của lời Chúa Giêsu phán ở trên: " Sự khôn ngoan đã xây nhà mình… Pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: Hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi" (Cn 9, 1-5).
Nhưng Đức Khôn Ngoan ở đây là ai vậy ?
Theo thánh Irênê, vị giáo phụ thời danh của Giáo hội thì Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không phải ai khác ngoài chính Ngôi Vị Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đúng như sách Khôn Ngoan mô tả: Người tìm thấy niềm vui giữa loài người ... "Người đã làm người giữa muôn người ... Người đã trao ban sự sống và thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người "(Kinh Tin Kính của Thánh Irênê).
Con người có được sự sống là nhờ Đức Khôn Ngoan nhập thể làm người thông ban sự sống ấy cho, và sở dĩ con người được hiệp thông với Thiên Chúa là nhờ Đức Khôn Ngoan ở giữa loài người, là chiếc cầu nối kết giữa con người với Thiên Chúa. Những lời cuối trong diễn từ về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng (Ga 6, 51-58) hôm nay là bằng chứng.
Theo tác giả sách Châm Ngôn thì chính Đức Khôn Ngoan ban tặng đồ ăn thức uống cho những kẻ ngây thơ, tín thành và ban tặng sự sống cho kẻ bỏ đi sự ngây dại và bước đi theo đường lối khôn ngoan (x. Cn 9, 6). Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu chính là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa từ trời nhập thể, đích thân mời gọi chúng ta ăn Người, để có sự sống trong chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi" (Ga 6, 53). Bắt đầu đặt bút viết Tin Mừng, Gioan đã viết: " Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1). Thiên Chúa đã dùng chính Ngôi Lời mà tạo thành vũ trụ, nay lại sai Ngôi Lời xuống thế để ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Tin và đón nhận Chúa Giêsu là tin và đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tự chúng ta không thể có sự sống đời đời được, phải cậy nhờ vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu. Vì thế, kết hợp cả hai dòng tư tưởng, một của thánh Gioan và một của sách Khôn Ngoan, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời: "Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56).
Vậy, hãy nghe và thực hành lời khuyên của thánh Phaolô mà thận trọng trong cách ăn nết ở: " đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan" (Eph 5, 15). Ai bước theo đường lối khôn ngoan, và cư ngụ trong nhà Đức Khôn Ngoan đã xây dựng, ngồi tại bàn của của Đức Khôn Ngoan thì sẽ được ăn thoả thích những đồ ăn mỹ vị và uống rượu ngon do Đức Khôn Ngoan dọn sẵn cho.
Chính do sự khôn ngoan của Thiên Chúa, con cái Israel mới có Manna từ trời rơi xuống làm lương thực để ăn dòng dã suốt 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36 ) ; Va nhờ lòng từ bi mà Chúa sai Thiên Thần mang bánh đến cho Êlia ăn, nhờ "sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa" (1V 19, 8) ; Hay do chạnh lòng thương, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho "ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 11)
Cho dù là Manna từ trời xuống, hay bánh Thiên Thần mang đến nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ là thứ lương thực rất tạm bợ, kẻ nào ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết, nghĩa là không có sự sống nơi mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh, nên trọn lành hãy nhớ lời sách Châm Ngôn dạy: "Hỡi những người ngây thơ hãy lại đây… hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế" (Cn 9, 5).
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:51-58)
Sau bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giê-su, người Do-thái tranh luận sôi nổi: “Làm sao TN 20-B93
Sau bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giê-su, người Do-thái tranh luận sôi nổi: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Sau này, trong cuộc bách hại tín hữu tại Rô-ma những thế kỷ đầu, Ki-tô hữu cũng đã bị tố cáo là ăn thịt người khi họ họp nhau lại để cử hành Thánh Thể! Làm sao người ta lại có thể hiểu lầm như vậy trong khi rõ ràng ở đây Chúa Giê-su nói đến sự sống muôn đời! Người ta phải hiểu thế nào khi nghe Chúa nói “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”?
Với lời tuyên bố trên, chúng ta thấy đây rõ ràng là một thứ “thịt” và “máu” Chúa Giê-su để lại trong Bí tích Thánh Thể. Bề ngoài, thịt và máu này vẫn giữ nguyên hình thể bánh và rượu, nhưng sau khi được truyền phép, chúng đã biến đổi bản thể thành thịt và máu Chúa, mang một chức năng mới là làm cho người lãnh nhận xứng đáng được “sống muôn đời và sống lại vào ngày sau hết”. Đúng thế, nếu là thịt và máu bình thường thì chúng chỉ bảo tồn cho sự sống thể lý tạm thời, chứ không thể cho sự sống vĩnh cửu. Vậy Chúa Giê-su muốn chúng ta hiểu thịt và máu Người là gì? Con người chúng ta có hai nguyên tố chính nói lên sự sống, là thịt và máu. Nếu không có thịt và máu, chúng ta khác nào những bộ xương khô, những người đã chết cần được hồi sinh (Ê-dê-ki-en 37)! Hơn nữa, theo quan niệm Do-thái, khi nói thịt và máu là ám chỉ về một con người toàn diện, có thân xác, linh hồn, trí tuệ và tình cảm. Cho nên Chúa Giê-su dạy: ai ăn thịt và uống máu Chúa, tức là tiếp nhận tất cả con người của Chúa cùng với tinh thần của Người, giáo huấn của Người và cách sống của Người, thì sẽ được biến đổi nên giống như Người, và sự biến đổi này đưa họ tới gần sự sống đời đời mỗi ngày một hơn.
Để có được sự sống đời đời, chúng ta phải tham dự vào sự sống mới của Chúa Giê-su. Sự sống mới hay sự sống tái sinh là sự sống chúng ta lãnh nhận khi được rửa tội. Sự sống này cũng gọi là đời sống mới trong Thánh Thần và phải được nuôi dưỡng qua sự kết hợp với Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su mô tả sự kết hợp này bằng những hành vi thực tế: ăn thịt và uống máu Chúa. Khi chúng ta kính cẩn đọc lời Chúa và suy niệm cầu nguyện là chúng ta đang “ăn”, đang sống nhờ những lời do miệng Chúa phán ra. Chúng ta theo cách sống của Chúa Giê-su, tức “sống nhờ Chúa Cha”. Phải, lối sống của Người là hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Gio-an 4:34). Chúa Giê-su đã nuôi dưỡng sự sống đời đời của Người bằng lối “ăn” thánh ý Chúa Cha. Giờ đây Người cũng muốn chúng ta đạt tới sự sống vĩnh cửu bằng cách “ăn” giáo huấn Tin Mừng, lắng nghe và thực hành lời Người. Ngoài ra, chúng ta còn một cách ăn uống thiêng liêng rất đặc biệt, đó là rước Mình Máu Thánh Chúa, để duy trì và phát huy mối tương quan với Chúa. Người bảo đảm với chúng ta rằng nếu chúng ta tiếp nhận Người là của ăn thiêng liêng như thế, chúng ta sẽ được sống muôn đời, chứ không như tổ tiên dân Ít-ra-en đã ăn man-na và đã chết!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta lo lắng sao để được mạnh khỏe. Chúng ta chọn lựa thức ăn kỹ càng để tránh bệnh tật và được phát triển đúng cách. Nhưng có khi nào chúng ta quan tâm đến lương thực cần thiết cho sự sống thiêng liêng không? Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể lúc nào cũng đầy những thứ cao lương mỹ vị. Rồi chúng ta được mời tới dự mà không phải trả tiền (Châm Ngôn 9:3-4). Cũng vậy, trong dụ ngôn Tiệc cưới, chủ tiệc sai đầy tớ đi mời hết mọi người, “người tốt kẻ xấu”, vào dự tiệc. Còn chính Chúa Giê-su, Người bảo “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Người không đòi hỏi gì cả, chỉ muốn chúng ta hãy đến, hãy “nhận lấy mà ăn”, hãy “nhận lấy mà uống”.
Hiểu được ý nghĩa lời mời “ăn thịt và uống máu Chúa”, chúng ta hãy quan tâm hơn tới đời sống thiêng liêng và sự sống đời đời. Quả thực, Thiên Chúa Cha đã ban cho ta “bánh bởi trời” là Chúa Giê-su. Trước ân huệ cao cả này, chúng ta cùng với thánh Phao-lô “hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”.
Khi nói về thân phận phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương”, người ta thường nhớ đến câu thơ bất hủ TN 20-B94
Khi nói về thân phận phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương”, người ta thường nhớ đến câu thơ bất hủ của Tú Xương đã nói về vợ mình như sau:
“Quanh năm buôn bán ở ven sông Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Và những ai thích ca cổ cải lương, sẽ nhớ mãi câu chuyện huyền thoại thật cảm động về Thoại Khanh – Châu Tuấn. Chuyện kể về một người vợ chung thủy, một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lấy chồng nhưng không phải để được sống sung sướng hạnh phúc. Nàng lấy chồng không phải để có chỗ nương tựa như bao người phụ nữ khác. Nàng lấy chồng để được “nâng khăn sửa túi” cho chồng, và nhất là thay chồng để gánh lấy “giang sơn nhà chồng”. Nàng cặm cụi dệt cửi thêu thùa để lo cho chồng ăn học. Và rồi tai hoạ đã đổ ập xuống trên cuộc đời nàng, khi chồng đang mãi ứng thí trên kinh thành, thiên tai lũ lụt đã tàn phá quê nhà đến nỗi nhiều gia đình phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói khổ bần cùng. Nàng cùng mẹ chồng sống lây lất qua ngày. Lương thực thiếu thốn. Mẹ chồng già yếu, lại thêm mù loà. Nàng đã hằng ngày róc thịt mình cho mẹ ăn. Nàng đã chấp nhận róc từng thớ thịt của mình để nuôi mẹ già sống cho tới ngày chồng trở về để “vinh quy bái tổ”. Xem tuồng cải lương về Thoại Khanh – Châu Tuấn, nhiều người đã rơi nước mắt. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của nàng dâu lấy thịt nuôi mẹ chồng. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình cho mẹ già được sống trong an vui hạnh phúc.
Chuyện kể về Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay không phải là huyền thoại, mà là sự thật. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Người mẹ chồng đã từng sống nhờ từng thớ thịt nàng dâu nhưng rồi cũng từ giã cõi trần. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được lớn lên trong tình yêu. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự đổi trác qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Ngay lúc này tại vùng trung đông luôn có biết bao sự xung đột bom đạn và hoả tiễn giết chết hàng vạn người. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng. Ngay lúc này có hàng ngàn thai nhi bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ và có hàng triệu người chết vì đói khổ và thiên tai lũ lụt.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường, chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình, nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi, nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Con người sẽ hạnh phúc và lạc quan hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin đừng bao giờ biến mình thành ác qủy luôn đe doạ sự sống tha nhân và trở thành mối lo của xã hội. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không TN 20-B95 CT
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói: “Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi: “Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì?”. Gióng dõng dạc nói: “Về bảo Vua đúc một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một áo giáp sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân”. Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã đem gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, cầm gươm, hét lớn tiếng: “Ta là tướng nhà trời”. Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc, Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ kỷ niệm ở làng quê. Câu truyện có vẻ thần thoại, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Thứ nhất, gặp nguy khốn, thấy mình bất lực, phải lo tìm hiền tài cứu nước, chớ đừng kiêu ngạo cậy mình tự ái kẻo nguy khốn. Đức Giêsu thấy con người nguy khốn phải chết đời đời, nên đã bảo Ta phải tìm bánh hằng sống, đừng cậy dựa vào thức ăn hư nát.
Thứ hai, đừng khinh chê những kẻ bé nhỏ yếu đuối, nhiều khi đó là thứ bé bé hạt tiêu. Dân Do thái khinh chê Đức Giêsu là con bác thợ mộc, đâu có ngờ rằng chính Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế họ hằng trông mong.
Thứ ba, sức con người dù là vua, quan, quân tướng, cơm gạo chẳng đáng là gì, nếu không nhờ trời cứu giúp thì sẽ bị diệt vong.
Đức Giêsu báo động cho dân chúng biết cơm bánh trần gian đâu có cứu được họ khỏi chết, nếu không nhờ bánh từ trời. Bánh hằng sống thì họ sẽ bị diệt vong đời đời.
Thứ bốn, nhân dân muốn được cứu khỏi tay quân giặc tàn bạo, thì phải biết tham gia vào công việc cứu mình, cứu quốc bằng góp gạo, góp sức đúc ngựa sắt, áo, mũ, gươm sắt để tỏ lòng thành khẩn cầu cứu. Thực ra, tướng nhà trời đâu cần những thứ đó.
Đức Giêsu cũng đòi người ta phải ra công làm những việc Thiên Chúa dạy dỗ, để chứng tỏ lòng mình thành tâm tin thờ Ngài. Chứ những việc làm của con người đâu có thêm gì cho Thiên Chúa, mà chỉ mang lại sự sống đời đời cho con người.
Nếu sứ giả cũng như nhà vua cùng bà mẹ và dân làng, khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công, góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà trời đến cứu dân, cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe theo lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống. Đúng như câu tục ngữ: Hãy giúp mình thì trời sẽ giúp anh (Aides-toi, le ciel t’aidera).
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê lời Đức Giêsu. Họ quá quen ăn thịt chiên, cừu, gà, vịt, mỗi khi nghe nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời”. Họ lấy làm chướng tai, phản đối và bỏ đi. Cố chấp, dầu Đức Giêsu đã giải thích rõ lời của Người là lời hằng sống, Thịt của Người là bánh trường sinh từ trời xuống, để cho thế gian được sống, họ vẫn không tin. Họ không nhận ra lòng yêu thương vô cùng của Người đã cứu chữa bao nhiêu kẻ tàn tật phong cùi, và mới cứu họ khỏi đói khát, đã cho họ ăn bánh lạ no nê. Bây giờ Người cho họ biết: Người sẽ hy sinh lấy Thịt Máu Mình nuôi sống họ muôn đời. Họ lại càng thấy chướng tai.
Cảnh tượng đó thật đau lòng. Cảnh tượng đau lòng này cũng đang diễn ra nơi chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa thì ít, học lời Chúa càng ít hơn, còn tin lời Chúa, suy niệm lời Chúa và sống lời Chúa thì không biết được mấy ai? Nhưng chúng ta nghe nói hành, nói xấu thì tham gia thêm thắt rất hăng hái. Nghe chuyện bù cú thì rất thích chí, cười khềnh khệch. Nghe nói dóc, tán tỉnh rất mùi mẫm, nghe chuyện tào lao phim ảnh như chuyện Ngộ Không, Trư bát Giới thì nhớ rất kỹ và kể lại thao thao bất tuyệt.
Chúa hết lòng dạy dỗ và đã phải kêu gọi: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” thì chẳng ai nghe. Nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống rơi trên vệ đường đá sỏi, bụi gai, chẳng gặp được đất tốt.
Chúa bảo: “Ai ăn Thịt Ta thì được sống đời đời”, thế mà chỉ được một số, còn rất nhiều người bỏ đi uống cà phê, hút thuốc, say rượu, dung dưỡng xác thịt hơn là lãnh của ăn hằng sống bổ dưỡng cho linh hồn. Biết bao nhiêu người được mời dự tiệc con chiên nước Trời, nhưng họ đã tìm hết cách từ chối: “Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời mời của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt” (Mt. 22, 5-7 Lc. 14, 18-20).
Lạy Chúa, ai đã thương lấy thịt mình nuôi con. Ai đã thương cứu con khỏi cảnh hư đốn. Ai đã thương cho con được sống muôn đời. Ai đã thương cho con được sống vinh phúc với Ngài. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mà thôi. Amen.
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó mới ra lò: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng TN 20-B96
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó mới ra lò: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng thịt mỗi ngày thứ sáu. Vì thế, hôm nay ngày thứ sáu, con không dám rước Chúa vì rước Chúa là ăn thịt, uống máu Chúa Giêsu. Mà ăn thịt là lỗi luật Hội Thánh dạy.” Chắc hẳn ông cha phó dù mới ra lò cũng có đủ cách, đủ kiểu để thoát cạm bẩy của mấy tay giáo lý viên ngỗ nghịch ấy. Tuy nhiên, qua câu chuyện vui này, chúng ta có lẽ dễ thông cảm với người Do Thái xưa thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Tin mừng tường thuật rằng họ đã tranh luận sôi nổi với nhau rằng: “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Kho tàng các chuyện dân gian về tình mẫu tử hay tình hiếu thảo vẫn có đó nhiều mẫu gương các bà mẹ cho con “uống máu”mình hay những người con hiếu thảo cắt thịt để nuôi mẹ già. Dù vậy, khi nghe đến các từ ăn thịt và uống máu người, thì chúng ta vẫn thấy gai gai, rờn rợn chút nào đó. Thế nhưng, có thể nói rằng tất cả mọi người đều đã từng ăn uống thịt máu người để được sống. Cứ vào mỗi dịp chuẩn bị cho các em xưng tội rước lễ lần đầu, tôi thường nói lên sự thật này đó là con người chúng ta thoặt sinh ra hầu hết đều nhờ chính thịt máu của mẹ qua dòng sữa để sống và lớn lên. Đã từng một thời, nhiều bà mẹ không ý thức tầm quan trọng của dòng sữa mình trong việc nuôi con thưở con mới lọt lòng và khi con còn thơ bé. Nhờ khoa học tiến bộ và cũng nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay người ta biết khôn ngoan hơn khi nhìn nhận: sữa mẹ là sữa tốt nhất cho trẻ sơ sinh và các trẻ nhỏ” Qua hình ảnh dòng sữa mẹ, xin được chia sẻ đôi điều về chính Thịt Máu Chúa Kitô là quà tặng nhưng không, là phương dược kháng bệnh tuyệt vời và là nguồn ban sự sống đời đời.
Thánh Thể: Quà tặng nhưng không. Nói rằng nhưng không thì có thể là thừa, vì đã nói là quà tặng thì không đòi hỏi phải trả tiền hay công sức. Tuy nhiên, không nói thì cũng có thể thiếu vì trong thực tế đằng sau nhiều quà tặng vẫn có đó hậu ý “bánh ít trao đi, bánh nhì trả lại” hay chuyện trả nợ đời của những bữa tiệc cưới hỏi, đám đình. Dòng sữa mẹ trao ban cho con thơ thì như là tuyệt đối nhưng không, nghĩa là tất cả chỉ vì con và cho con, ngay cả khi con chưa cất tiếng khóc vì khát sữa. Thiên Chúa được nhân cách hóa bằng Đức Khôn ngoan đã bảo “ Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa…” (Cn 9,5). Ngôn sứ Isaia cũng đã từng khẳng định: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon…”(Is 25,6) và ngài đã nói thay Thiên Chúa rằng: “Đến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mà mua mà dùng; đến mua rượu, mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1). Thánh Thể là quà tặng miễn phí, nhưng không. “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không” (Mt 10,8).
Thánh Thể: Phương dược kháng khuẩn, phòng bệnh tuyệt vời. Khôn ngoan hơn người xưa, các bà trẻ ngày nay ý thức tầm quan trọng của những “giọt sữa trong” của mình khi đứa con vừa chào đời, là một linh dược giúp đứa trẻ kháng bệnh tật cách tuyệt vời. Chúa Kitô minh nhiên phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Mẹ Hội Thánh còn dạy chúng ta: “ Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta rước lấy Mình Chúa Kitô, ‘đã phó nộp vì chúng ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế, bí tích Thánh Thể không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi” (GLCG chung số 1393).
Thánh Thể: Nguồn ban sự sống thần thiêng, nhờ được kết hiệp nên một với Chúa Kitô. Qua dòng sữa, đứa trẻ ngày càng khắng khít với người sinh ra nó. Nhờ dòng sữa, cái tình giữa người mẹ và đứa con thêm đậm đà. Chúa Kitô đã từng khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi, và Tôi luôn kết hiệp với người ấy”. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể: Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) (GLCG chung số 1391).
Không ai tự nhận là người khờ dại. Chúng ta đều muốn là những người khôn ngoan, nhưng có thể là “khôn ngoan của con cái thế gian”. Người khôn ngoan kiểu này thì tìm mọi cách thế để có được những thiện hảo đời này kể cả những cách thế phi nghĩa (x.Mt 16,1-8). Không chối cãi rằng vẫn có đó những bậc hiền triết và khôn ngoan đáng trân trọng. Tuy nhiên khôn ngoan theo kiểu này vẫn chưa đủ bảo đảm cho sự sống đời đời vì người ta có thể ỷ lại vào luận lý nhân loại để khước từ Đấng là bánh hằng sống từ trời xuống (x.Mt 11,25-56; Lc 10,21). Ngoài sự khôn ngoan chính đáng thì cần phải có lòng tin. Dù luận suy thế nào đi nữa thì Bánh hằng sống là nguồn ban sự sống đời đời, là phương dược xóa tội và giúp chống lại chước cám dỗ, là quà tặng nhưng không, mãi luôn là mầu nhiệm của đức tin.
Nói đến đức tin thì chúng ta nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban và cũng là sự dấn thân đáp trả của chúng ta. Sự đáp trả này đòi hỏi nhiều sự từ bỏ. Một trong những sự từ bỏ phải có, đó là chấp nhận sự hạn chế của lý trí trước các thực tại siêu nhiên, vì đối tượng của đức tin không minh nhiên rõ ràng theo sự luận lý của trí khôn nhân loại. Vì Chúa Kitô là Đấng có lời quyền năng trên bệnh tật, trên sự chết, trên cả thiên nhiên và Người là Đấng từ bi, nhân hậu, đầy lòng xót thương, nên chúng ta tin nhận những gì Người mạc khải.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin củng cố đức tin cho chúng con (x. Mc 9,24).
Cơ thể con người được Thiên Chúa tạo dựng và phần nào cũng có chức năng riêng của nó, phần nào TN 20-B97
Cơ thể con người được Thiên Chúa tạo dựng và phần nào cũng có chức năng riêng của nó, phần nào cũng quan trọng, phần nào cũng cần thiết. Ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán, xã hội chia thân thể con người ra nhiều phần khác nhau. Bởi có chia thành từng phần nên việc thích phần cơ thể này nhiều hơn phần cơ thể kia là điều không thể tránh. Người ta nói đến khuôn mặt dễ thương, sóng mũi cao đẹp, đôi mắt tinh anh, miệng cười dí dỏm. Bởi thích hơn nên chăm sóc phần đó nhiều hơn và lơ là chăm sóc phần khác. Từ tư tưởng chăm sóc thiên vị kia dẫn đến việc ca ngợi phần cơ thể này và dùng phần không ưa kia tặng người mình không ưa kèm theo lời thậm tệ, chửi rủa, hạ nhục kẻ khác. Chửi rủa thường gắn liền với một phần nào đó của thân thể và phần đó thường được che kín, bởi giận nên bới tung phần che kín xả cơn bực dọc, khó chịu. Những câu nói đó dù nói riêng tư hay nói nơi công cộng đều khó nghe cả nhưng dường như hầu hết mọi người ít nhiều dùng những câu nói đó mà chúng ta gọi là chửi thề. Chửi thề là cách diễn tả cảm xúc của con người và diễn tả cảm xúc buồn vui, tức giận là điều cần thiết và người bình thường nào cũng cần đến. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào cách diễn tả tình cảm của ta để người khác biết về cá tính và tư cách của người đó. Tư cách con người biểu lộ rõ ràng nhất khi người đó nóng giận, bực dọc bởi chính lúc đó là lúc sống thực với mình nhất. Sống thực bởi không kiềm chế được sự bực dọc.
Đức Kitô cũng dùng chính thân thể của Ngài để diễn tả không phải tình cảm suông mà Ngài dùng toàn thể con người Ngài để nói lên tình yêu tuyệt vời dành cho những ai Ngài yêu mến. Ngài hứa ban thịt và máu Ngài làm của ăn cho mọi người. Cách diễn tả mạnh bạo, mãnh liệt đến độ khi nghe đến người ta giật nảy mình, không tin vào điều tai vừa nghe.
Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Gn 6, 53-56.
Có rất nhiều trường hợp Đức Kitô biểu lộ rõ ràng tâm tình của Ngài nhưng chưa lần nào Ngài biểu lộ cách rõ ràng, tỏ tường như lần Ngài dùng chính thịt và máu mình làm của nuôi tâm hồn con người. Đây không phải là diễn tả tình cảm riêng tư mà chính là ngôn ngữ diễn tả hành động vì yêu thương nên dâng hiến. Cho đi thịt và máu là cho đi tất cả thể xác lẫn tâm hồn, không giữ lại bất cứ chút nào mà là cho toàn vẹn. Ngôn ngữ nghe có vẻ chói tai cho những ai không tin vào Đức Kitô hay cho những ai đức tin yếu kém. Đức Kitô dùng ngôn ngữ hiến cho trọn vẹn để diễn tả tình yêu thiết tha, chân thành hết mực cho người mình yêu. Ngôn ngữ hy sinh trọn vẹn không thuần về tâm tình mà tiến xa hơn tâm tình đến hy sinh, hiến tặng vô điều kiện để nói lên mối tình tuyệt vời, không còn cấp bậc tình yêu nào cao hơn là chết vô điều kiện cho người mình yêu.
Khi hiến tặng toàn thể con người cho nhân loại Đức Kitô mời gọi chúng ta liên kết với Ngài qua việc bẻ bánh, qua việc đón nhận tình yêu Chúa vào trong tâm hồn một cách sốt sắng, mến yêu đáp lại tình Chúa yêu thương. Việc đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn là liên kết sống trong Chúa. Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa. Thánh Phaolô diễn tả tình yêu liên kết là một bảo vệ, che chở tuyệt vời: khi Chúa ở cùng tôi, tôi còn sợ ai vì Thánh Thần Chúa giải thoát tôi (Rm. 8,31)
Liên kết với Đức Kitô, tội lỗi và sự chết không còn làm chủ được ta nữa vì có Chúa ở cùng. Đấng chiến thắng sự chết. Sự sống trường sinh Chúa ban không bao giờ tàn lụi bởi sự sống đó đến từ Thiên Chúa hằng sống. Vì thế chúng ta cầu xin mỗi lần đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa chúng ta cảm nhận được sự sống Phục Sinh của Ngài trong ta.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ, hình ảnh nông thôn, dân dã, mộc mạc để diễn tả mầu nhiệm TN 20-B98
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ, hình ảnh nông thôn, dân dã, mộc mạc để diễn tả mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm Nước Chúa. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, những thuật ngữ kinh tế dùng trong bài dưới đây đều phổ thông, gần gũi, cũng có thể sữ dụng để diễn tả Lời Chúa. Kính mong đối với bất cứ ai, chúng không trở nên cớ xúc phạm, bất kính Thiên Chúa.
Theo một số tài liệu thì thuật ngữ Marketing xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào đầu thế kỷ 20 và được đưa vào Từ điển tiếng Anh năm 1944. Xét về mặt cấu trúc, thuật ngữ Marketing gồm gốc “market” có nghĩa là “cái chợ” hay “thị trường” và hậu tố “ing” diễn đạt sự vận động và quá trình đang diễn ra của thị trường.
Tại Việt Nam, một số tài liệu thường hay dịch từ marketing sang tiếng việt là “tiếp thị”. Tuy nhiên, từ “tiếp thị” không thể bao hàm hết được ý nghĩa của marketing, nó chỉ là phạm vi hẹp của marketing.
Một kế hoạch marketing để đạt được thành công đòi hỏi sự kết hợp chiến lược và hiệu quả của 4 chữ P (Product, Place, Price, Promotion) – Sản phẩm, Phân phối, Định giá và Khuyến mãi. (Wikipedia)
Từ 21 thế kỷ trước Chúa Giêsu đã khéo léo Marketing về Bánh Từ Trời, về Nước Trời rất nhuần nhuyễn. Nắm bắt từ nhu cầu sinh tồn đến khao khát trường sinh của con người, Chúa Giêsu đã ân cần dẫn dắt các khách hàng tiềm năng đến tuyệt đỉnh Cõi Phúc trường sinh.
1- Siêu phẩm: Bánh Từ Trời
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là Bánh Từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.”(Ga 6, 51). Người chính là siêu phẩm, đứng trên mọi thứ sản phẩm trong thế gian, không có gì sánh nổi. Bánh Từ Trời tồn tại, không hư hao, không biến đổi, mãi mãi tinh tuyền nguyên thủy, nguyên chất cho đến muôn đời, dưới hai dạng Lời Chúa và Thánh Thể.
2- Phân phối: Phổ thông
Siêu phẩm này được phân phối bởi chính Chúa Giêsu. Sau đó bởi các Tông đồ, môn đệ, và đến nay bởi Giáo Hội, thông qua các Chủ Chiên cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Nhưng mấu chốt vẫn là nhờ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 44)
Dẫu vậy, như “xưa có lời chép trong sách ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.”(Ga, 6, 45)
Hơn nữa, để phân phối sâu rộng khắp nơi, khắp chốn, khắp thời đại, mỗi tín hữu Ki tô đều được mời gọi trở nên chứng nhân, hay nhân viên tiếp thị cho Bánh Từ Trời. “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài”( Mc 16, 15)
3- Định Giá: Vô giá
Vì là siêu phẩm, chứ không phải sản phẩm bình thường như manna trước đây, nên Bánh Từ Trời này vô giá, độc nhất vô nhị, vì có công năng phi thường, đem lại sự sống vĩnh cửu. “Đây là Bánh Từ Trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
4- Khuyến mãi: Biếu không và có thưởng
Dù vô cùng quý hiếm, vô giá, nhưng lại cho không, biếu không, hoàn toàn miễn phí. Chỉ ban tặng, chứ không bán buôn cho ai. “Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51) Nhưng với điều kiện: “Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sống đời đời.” (Ga, 47)
Hơn nữa, còn được giải thưởng tuyệt vời. Ai ăn Bánh này còn hứa hẹn trúng lô độc đắc thật vinh phúc: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Bởi vì: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống, đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6, 54 -57)
Mỗi khi trao Chúa Giê su Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, sức khỏe, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai. (ĐHV, 376)
Lạy Chúa, con cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Chúa đã thương yêu, ban Bánh Từ Trời dưỡng nuôi con sống đời đời.
Lạy Mẹ Maria, con xin Mẹ nâng đỡ, hộ trỉ con luôn xứng đáng rước Mình Thánh Chúa, hầu con luôn vững cậy trông vào Chúa trước phong ba cuộc đời. Amen.
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. TN 20-B99
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng lời nói “làm ăn”. Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Quả thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải “chết”. Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành. Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3,16) Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa, sau lần sáng thế.nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời, tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng CN 20 TN (B) (Ga 6,51-58) hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể -nhậpthế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trương sinh, ví nó là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu? thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
Vào một buổi sáng vào khoảng thế kỷ 12, một linh mục thuộc dòng Basiliô đang dâng Lễ tại TN 20-B100
Vào một buổi sáng vào khoảng thế kỷ 12, một linh mục thuộc dòng Basiliô đang dâng Lễ tại một thánh đường thuộc thành phố Lancianô, nước Ý. Đang khi dâng lễ ngài bị cám dỗ nghi ngờ về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Đang khi nghi ngờ như thế thì đột nhiên ngài thấy bánh rượu đã truyền phép trở nên Thịt Máu Chúa Giêsu. Ngài ngạc nhiên hết sức không thể che dấu phép lạ nhãn tiền nên cho giáo dân biết. Chẳng mấy chốc tin phép lạ Thánh Thể truyền ra nhanh chóng. Hiện nay Máu Thịt Chúa vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay.
Trong Lời Chúa hôm nay Chúa Giêsu nói về của ăn thiêng liêng Ngài ban nuôi dưỡng linh hồn người ta, “A i ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ có sự sống đời đời.” Lời tuyên bố này làm cho người Do Thái bối rối khó hiểu, “Làm sao Ngài lại có thể lấy thịt máu Ngài cho người ta ăn uống được.” Đối với tín hữu thời nay nhất là những người Tin lành và cả người Công giáo cũng đồng ý với người Do Thái. “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho người ta ăn được.” Họ kết luận rằng, có lẽ Chúa chỉ có ý nói về biểu tượng chứ không phải nói về sự hiện diện thật sự của Chúa trong Thánh Thể.
Thật ra theo niềm tin từ thời các thánh tông đồ các thánh giáo phụ thì giáo lý về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể là sự thật đáng tin. Vì khi Chúa Giêsu ban Mình Máu Thánh Người làm của ăn nuôi dưỡn g linh hồn người ta Ngài không nói, “Đây là biểu tượng Mình Ta, nhưng mà “Đây là Mình Ta.” Ngài cũng không nói, “Đây là biểu tượng Máu Ta,” mà là “Đây là Máu Ta.” Thánh Augustinô nói, “Những gì chúng ta thấy nơi Bánh Rượu đã truyền phép qua con mắt xác thịt là bánh rượu bình thường, nhưng với con mắt đức tin, bánh và rượu đã truyền phép thực sự chính là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu.” Cho nên khi ta nói: “Chỉ những gì tôi thấy tôi mới tin,” không áp dụng cho Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể chính là qua tặng Chúa ban và là của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn ta trên đường lữ thứ trần gian và là bảo đảm đời sống vĩnh cửu cho ta sau này như lời Chúa hứa, “A i ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết, vì Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống.” Ta cần phải tin thật về điều ấy qua cử chỉ và hành động khi vào thánh đường. Ta có bái gối hay cúi mình khi vào nhà thờ hay nhà nguyện có Chúa hiện diện trong Nhà tạm? Ta có hay viếng Chúa để tâm sự với Ngài hay mỗi lần lái xe qua các nhà thờ Công Giáo, ta có thầm thỉ chào Chúa không? Ta có chầu Thánh Thể mỗi khi giáo xứ hay cộng đồng tổ chức? Nhất là ta có chuẩn bị tâm hồn chu đáo để rước Chúa một cách sốt sắng khi tham dự Thánh Lễ? Ta có dám rước Chúa khi tâm hồn đang vương mắc tội trọng phạm sự thánh khi chưa được tha thứ trong phép Giải Tội?
Ta thật khôn ngoan khi biết trân quý của cải tiền bạc và các vật dụng của mình và tìm cách lo lắng bảo vệ khỏi mất và đánh cắp. Nhưng ta thật thiếu khôn ngoan khi coi thường giá trị của phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là lương thực thiêng nuôi sống linh hồn ta. Ước gì ta là người biết khôn ngoan nhận ra giá trị đích thực của Thánh Thể hầu được bình an hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.