Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-C Bài 101-150 Anh em cứ xin thì sẽ được --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 11, 1-13: "Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. "Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. "Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Thường người ta chỉ cầu xin, xin xỏ,chứ không cầu nguyện mà "Cầu xin mà không được là vì không biết cách xin". Vẩn chưa hiểu cầu nguyện nên không biết câu nguyện. Luca n ói về cầu nguyện qua ba câu chuyện minh hoạ như sau. Nhưng xem ra cũng không dễ hiểu nên cũng chưa được hiểu rõ lắm.
I - Lạy Cha (c.1-4) Abba. CHÚA GIÊSU không dạy trực tiếp...Theo những phân tích ngôn ngữ học thì chữ "Abba" mới có vào cuối thế kỷ I.Nói CHÚA GIÊSU cho phép gọi Cha, biểu gọi Cha, dạy gọi Cha thì cứ gọi có đúng không? Cứ gọi mà có được ích gì không?CHÚA GIÊSU tuôn đổ tràn đầy Thần Khí của Người vào lòng chúng để Thần Khí kêu lên "Abba" Lạy Cha. Ngày xưa thì không biết còn ngày nay có thấy kêu la gì dâu.
CHÚA GIÊSU lạy Cha vì là Con thực thụ và cũng làm con thật sự bằng cả đời sống của Người. Ngoài CHÚA GIÊSU không ai là con thực thụ, chỉ có thể là con trong CHÚA GIÊSU. Lạy Cha đáng lẽ phải đi đôi với cử chỉ "sắp mình xuống đất kiểu do thái" trong tư thế thờ lạy, thờ phương, vâng phục hoàn toàn đối với Thiên Chúa như một thụ tạo và nếu có làm con xứng đáng thì lạy Cha như là "con". Không phải là nũng nịu kêu cha ơi ! Lạy Cha là cầu nguyện với Cha trong tư cách là con.
Ampere: Một người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện.
Một người lính á rạp đã gọi một sĩ quan tù binh Pháp là đồ chó vì 6 tháng không thấy anh này cầu nguyện.
Trước hết chúng ta xem Lc muốn nói "cầu nguyện Lạy Cha" thế nào.
Có lần trong một bữa tiệc mấy người có đạo gọi tôi là cha. Mấy người không có đạo nói: tụi tui cũng gọi cha chứ. Tôi nói gọi " ăn ké"thôi chứ có đạo mới là con thật.
Hay có lần một đứa chèm nhèm, hôi rình, lè nhè lại nói: con chèm nhèm vậy mà cũng là con cha, cha phải thương con..hết ham nổi.
Lc 1-4 không được làm kinh đọc nên không gọi là kinh Lạy cha của Luca. Là cách Luca diễn tả lại ý của CHÚA GIÊSU dạy về cầu nguyện:
Có lần CHÚA GIÊSU cầu nguyện ở một nơi kia: Không cần thời gian và nơi chốn chỉ muốn tập trung vào chủ đề"cầu nguyện". Có người xin: xin dạy chúng con cầu nguyện. Người dạy các ông : Khi cầu nguyện anh em hãy nói: Lạy Cha.. (5 diều)
1/ Ước mong cho danh Cha được thánh hoá. Mong muốn của người con là làm cho danh Cha được hiển thánh nơi mọi người vì Cha tự thân là thánh nhưng chưa được nhìn nhận là thánh nơi con người và do mọi người (ad extra). Làm con thì bổn phận là làm sao cho điều này được thực hiện. Trước hết là muốn, ước muốn thật lòng và hết lòng mong muốn. Rồi hết lòng hết sức làm cho được chứ không mong ước suông ,con mong ước còn Cha làm. Không xin Cha làm còn con đứng coi. Như CHÚA GIÊSU đang làm: Công việc của CHÚA GIÊSU là làm sáng danh Cha. Mục đích duy nhất của cuộc đời CHÚA GIÊSU là làm sáng danh Cha. Người dạy chúng ta hãy bắt chước Người, làm con như Người. Ước nguyện duy nhất của Người là làm cho danh Cha cả sáng. Đó là làm con. Chúng ta cũng phải nguyện như vậy, phải ước như vậy, phải cầu như vậy. Cầu được ước thấy . Cầu nguyện không phải là thuần tuý "xin". Nếu Cha làm được thì cần gì đợi chúng ta xin cho mệt. Là công việc của con, dành cho con, con phải làm. Xin Cha làm, con nghĩ khoẻ thì con làm gì, làm biếng ! Vậy là làm con sao? CHÚA GIÊSU dạy chúng ta làm giống như Người đã và đang còn làm cho tới hơi thở cuối cùng.Người không xin Cha làm mà tự làm đương nhiên là với mọi sự trợ giúp của Cha.
2/ Nước Cha mau đến . Là cách làm cho danh Cha hiển thánh. Có được nhận biết kính yêu tôn thờ thì danh Cha mới hiển thánh (ad extra) nơi tạo vật. Cha không tự làm được mà để cho con, bổn phận của con để con làm con, để con có việc mà làm. Không làm con thì làm sao xưng con và được gọi là con. Cũng như trên : là ước muốn, là mong ước của cả đời con. Con phải đem hết lòng hết sức mà thực hiện để tỏ ra xứng đáng là con để xứng đáng "lạy Cha". Trái lại có lạy nghìn lần cũng chẳng hiệu quả gì, chẳng đem lại được chút lợi lộc (ân huệ) gì.
3/ Xin Cha cho....Cha biết mọi cái chung con cần trước khi chúng con xin. Nếu Cha là Cha ie. Con có là con của Cha thì lo gì, Cha lo tất. Nhưng vì con người cần xin và dường như mở miệng ra là để xin nên CHÚA GIÊSU dạy xin cho có chứ xin là dở hơn để Cha tuỳ ý cho cũng như lần đó tôi về quê có đứa honda ôm lại chở tôi. Tôi hỏi "bao nhiêu".Nó nói: lâu lâu Cha về con chở giúp cha. Đáng lẽ có 1 đồng (1cs) nhưng tôi phải cho 5đ (coi mới được). Cái thằng khôn quá! Nếu nó nói : cho con xin một đồng thì chỉ phải trả 1đ thôi.
4/ Xin tha tội cho chung con: Có sạch tội "công chính" thì mới lay Cha được vì tội trọng làm mất ơn thánh hoá bít hết mọi đường nẻo đến với Cha . Có xin, có kêu cũng không thấu tới đâu...Nhưng đê dược tha thì phải tha. Không tha thì cũng không được tha đâu. Phải "như"không như không được ie. Có tha bao nhiêu thì được tha "như"vậy. Được tha rồi xin mới được. Tội thì để đó mà cứ xin !
5/ Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.Sa chước cám dỗ là phạm tội nữa thì lại có tội.(Đổ cho quỉ cám dỗ chứ thực thì tại mình ưa đấy chứ). Phải giữ cho được sự công chính vừa được do ơn tha thứ của Cha. Phạm tội nữa mất sự công chính thì ơn tha thứ cũng như không.
Tóm lại Luca muốn dạy chúng ta "lạy Cha" là cầu nguyện với Cha chứ không phải chỉ xin xỏ. Cầu nguyện thì phải với những điều kiện cần có "công chính" được tha rồi và không "sa chước cám" dỗ nữa.
II- Cầu nguyện là cứ quấy rầy ? Nghĩa chữ của câu chuyện là đúng vậy. Nhưng đâu có hợp với Cha chút nào . Vậy thì sao? Chúng ta đọc thấy ở nơi khác trong Phúc Âm : CHÚA GIÊSU thấy họ có lòng tin....mới... Chúa chờ cho " thấy lòng tin" nên xin thì phải kiên trì. Khong cho Chúa thấy lòng tin thì Chúa không thấy không nghe gì hết. Xin mà có lòng tin thì chắc chắn sẽ được toại lòng. Không phải nói có lòng tin mà phải cho Chúa thấy Chúa mới biết là có.Có lòng tin là cầu nguyện, xin là đi theo sau lòng tin.
III- Cứ xin thì sẽ được...cứ tìm .cứ gõdễ quá, đơn giản quá. Vậy thì cứ xin vô, xin tới luôn, hỏng được gì ! hỏng hiểu sao mà hỏng được. Chúa nói mà. Chỉ thuộc có bấy nhiêu Cứ xin.......nhưng Chúa ban theo ý Chúa. Nếu ý ta = ý Chúa thì nhất định.
Cứ xin không phải là xin vô điều kiện, xin đại, xin hoài. Xin không được là xin không đúng cách, không đúng cái có thể cho. Ơ trên chúng ta đã thấy "phải kiên trì, phải cho Chúa thấy long tin". Xin mà có lòng tin chắc thì mới chắc được. Tin là tin ý Chúa tốt lành. Tin là phó thác, để tuỳ ý Chúa, xin vâng ý Chúa dù là bất cứ thế nào. Xin vâng là cầu xin tốt nhất.Chúng ta có cảm tạ Chúa vì cái Chúa không cho?
Chúa có ơn, Chúa rộng rãi, Chúa muốn ban ơn. Nhưng ơn có đến được người xin hay không là do ở người xin . Là điều kiện quyết định và tuyệt đối không thể thiếu. Trời mưa nhưng muốn có nước thì phải có đồ hứng và đồ chứa.
Không phải CHÚA GIÊSU chỉ nói có câu nầy mà tại người ta chỉ thuộc có câu này vì đơn giản dễ nhớ. Học nhiều cực! Không chịu học Phúc Âm thì không biết CHÚA GIÊSU day gì, xin không đúng, không được.
Lạy Chúa Giêsu xin dạy chúng con biết học làm con Cha như Chúa đã làm để khi chúng con Lạy Cha thì được Cha nghe lời.Chúa đã lạy Cha bằng cả cuộc đời và dạy chúng con lạy Cha giống như Chúa.
Vào lúc Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì TN 17-C102
Vào lúc Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là “chuyện hằng ngày”. Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là “Cha” như Ngài. 1. Kinh Lạy Cha (11: 2-4)
Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.
“Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện” (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói “Lạy Cha”, còn thánh Mát-thêu thì viết: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?
Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta. A-Hướng về vinh quang của Thiên Chúa
a- “Xin làm cho danh Cha vinh hiển”:
Theo văn hóa Do thái, “Danh” được áp dụ
ng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi “tên” cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: “Xin danh Cha được vinh hiển” là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12: 28), nghĩa là “xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ”.
Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: “Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta…Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22: 32), hay “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta. b. “Triều đại Cha mau đến”:
Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.
Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia, Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).
Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: “Marana Tha!”, nghĩa là “Lạy Ngài, xin hãy đến” (1Cr 16: 22; Kh 22: 20). B-Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta:
a- “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”:
Lời khẩn nguyện này của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: “Đừng có ai để dành cho đến sáng” (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi. Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?
Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: “xin tha tội cho chúng con”, “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất khó mà hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể. b- “Xin tha tội cho chúng con…”:
Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ” (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
- Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”: Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:“mắc nợ”, nhưng thánh Lu-ca dùng từ “mắc lỗi” để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát. c- “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”:
Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu , và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1: 13). 2. ĐỪNG SỢ QUẤY RẦY THIÊN CHÚA (11: 5-13)
Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”, có nghĩa “Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho”, bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha của chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: “Thánh Thần”. Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về “những của tốt lành” mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra “Thánh Thần”, mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội tiên khởi trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8: 15) và “Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8: 27).
Tuần này Phúc Âm nhấn mạnh đến cầu nguyện và học cách cầu nguyện như chính Chúa Kitô dậy các tông đồ.
Hai lần Chúa nhắc các ông cầu nguyện.
Kinh Lậy Cha Chúa dậy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và xin cho ý Cha được thể hiện trong đời sống Kitô hữu.
Trên vườn Cây Dầu Chúa cũng nhắc các môn đệ cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối (Mat 26,41). Cầu nguyện thắng chước cám dỗ.
CÁCH THỨC
Cầu nguyện tựu chung có hai cách. Một là dùng lời nói như lần chuỗi, đọc kinh chung, thầm thĩ kêu xin các ơn hoặc hát thánh vịnh ca tụng, ngợi khen, cảm tạ Chúa. Cách thứ hai là im lặng, suy tôn, chiêm ngưỡng, nhìn ngắm, hay lắng nghe.
LỢI ÍCH
Cách cầu nguyện nào cũng đòi hỏi kiên tâm và khiêm nhường để xin ơn Chúa vì ý thức rằng ơn Chúa giúp chúng ta chống lại các cơn cám dỗ. Sức riêng khó chống trả cơn cám dỗ, phải cần ơn Chúa giúp. Ơn này nhận qua cầu nguyện. Cám dỗ xảy ra hàng ngày nên cần cầu nguyện mỗi ngày. Nhận ơn Chúa mỗi ngày nên cám ơn mỗi ngày để nói lên lòng biết ơn, tỏ lòng con thảo và liên kết trong lòng mến.
Thứ hai cầu nguyện với tinh thần cởi mở đón nhận hoàn cảnh mới giúp ta thay đổi. Không phải thay đổi hoàn cảnh mà thay đổi lòng người. Thay đổi thực phát xuất từ nội tâm giúp thay đổi từ trong ra ngoài. Cầu nguyện để thêm ơn khôn ngoan, can đảm cần thiết giúp thay đổi. Nên nhớ Thiên Chúa ít khi trực tiếp can thiệp thay đổi hoàn cảnh, kể cả thiên tai vì Ngài tôn trọng trật tự thiên nhiên và tự do con người.
TRÁNH XIN CHÚA THAY ĐỔI HOÀN CẢNH
Trong cùng xứ đạo người cầu mưa; gia đình kia cầu nắng vì là ngày cưới. Anh nọ cầu gió nhỏ để đi câu; đối lại anh nó thích sóng cầu gió to. Cùng ngày Chúa nhận nhiều lời cầu đối nghịch nhau. Chiều ai, bỏ ai.
Xin chúa can thiệp thay đổi hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu riêng cá nhân.Cá nhân ý thường khác biệt, ngay đối chọi. Xin Chúa thay đổi hoàn cảnh chính là xin chiều theo ý con. Thay đổi nội tâm có giá trị lâu bền vì khi di chuyển ta mang theo cái tâm tình cởi mở, thay đổi. Thay đổi hoàn cảnh dễ mất vì di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác hoàn cảnh thay đổi. Nếu ta không hài lòng với hoàn cảnh mới lại xin Chúa thay đổi nữa sao.
TRÁNH XIN CHÚA THAY ĐỔI NGƯỜI KHÁC
Vợ xin Chúa thay đổi tính nết 'chồng' cho gia đình yên vui đằm thắm. Chồng đến nhà thờ âm thầm van xin Chúa sửa tánh 'vợ ' để mọi người trong gia đình được sống trong yêu thương.
Xấp nhỏ đi nhà thờ cầu xin Chúa giúp 'cha mẹ' thay đổi để chúng con được hưởng tuổi thơ trong an vui, thờ phượng Chúa.
Xin Chúa thay đổi tính tình, nếp sống, lòng dạ người khác vì nghĩ người đó sai. Xin Chúa can thiệp, hướng dẫn họ đi đường ngay lẻo chính. Đường mình cho là đúng. Lấy gì xác quyết đường đó đúng?
Chúa dậy cầu nguyện cho mình và cho anh em. Tự cho là mình đúng; người khác sai như thế giải thích sao về đức khiêm nhường và công bằng. Tâm sự với Chúa ưu tư, lo lắng sầu muộn chính ta. Rất tốt. Đề nghị Chúa nên làm gì là sai vì Ngài biết rõ những gì cần làm.
Cởi mở dẫn đến thay đổi. Chính mình phải thay đổi trước. Sau khi thay đổi rồi mới có thể thành men, thành muối thánh hoá môi trường. Ta không có khả năng thay đổi người khác nhưng thay đổi chính ta người khác sẽ tự thay đổi theo và sẽ kéo theo việc thay đổi hoàn cảnh. Giúp người thay đổi bằng cách tha đổi chính mình.
XỬ DỤNG ƠN CHÚA
Chúng ta hãy coi trọng việc dùng ơn Chúa ban. Nhận ơn Chúa rất nhiều nhưng xử dụng ơn Chúa như thế nào là vấn đề cần quan tâm vì rất nhiều trường hợp lạm dụng ơn Chúa. Dùng ơn Chúa làm điều phi pháp, trái luân thường đạo lí, không hợp tinh thần Kitô hữu. Làm như thế là chúng ta phụ lòng và lạm dụng ơn Chúa.
Xin ơn khôn ngoan để kiến tạo hoà bình hay gây chiến.
Xin ơn thông minh để tìm hiểu biết Chúa hay để dựa vào thành công, kêu ngạo, chối bỏ Chúa hiện hữu.
Xin có sức khoẻ để sống hạnh phúc, bảo vệ kẻ cô đơn, yếu thế hay để hiếp đáp kẻ khác.
Xin ơn hoạt bát để giúp người hay để lấp liếm, lừa gạt anh chị em.
Xin trí nhớ tốt để tìm tòi học hỏi giúp đời hay để nhớ kể tội anh em.
Cần xét lại cách xử dụng ơn Chúa ban để biết dùng ơn Chúa cho nên.
Cách đây gần 30 năm, thời còn mài đũng quần ở Chủng Viện, khi học môn Kinh Thánh thì một trong những đoạn trích Cựu Ước khiến tôi vừa thích thú vừa cảm nhận tình thân của Thiên Chúa cách xâu xa đó là đoạn văn kể chyện Abraham cò kè, mặc cả với Giavê Thiên Chúa ( St 18, 16-33 ) để xin tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra.. Xin được bộc bạch chút tâm tình cá nhân.
Tình thân của Thiên Chúa : " Đức Chúa phán : Ta có nên giấu Abraham điều ta sắp làm chăng ?" ( St 18,17 ). Một câu tự hỏi cũng là câu trả lời cách rành rõi. Đã yêu nhau thì không điều gì phải giấu nhau. Không thể nói yêu thương nếu không tín nhiệm lẫn nhau. Làm sao ta có thể nói mình tín nhiệm một ai đó mà còn nhiều điều ta không muốn bộc bạch. Một Đấng vượt trên mọi sự mọi loài, là căn nguyên và cùng đích của mọi loài mọi sự lại thể hiện tình thân ái với một con người, quả là điều chỉ có thể hiểu được trong tình yêu. Tình yêu xóa tan mọi ngăn cách chức phận. Tình yêu đã khiến Đấng chí Tôn nên như đồng phận đồng thân với kẻ Người yêu. Trong tình yêu thì không còn gì là "bí mật" cần giữ kỷ. Nét đáng kinh ngạc ở đây là sáng kiến của người ở vai chí cao, ở phận chí tôn. Không đợi Abraham hỏi, không chờ Abraham tò mò hay hiếu kỳ. Giavê đi bước trước tỏ bày ý định, chương trình của mình.
Sự to gan và cũng là cách đáp trả rất thân tình của Abraham : Có kè, bớt một thêm hai cùng với những luận điệu rất dễ thương, Abraham đã đáp trả lại tình thân của Giavê cách dí dỏm vừa đúng phận vừa hợp tình. " Mặc dầu con con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa...; Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp...; Xin Chúa đừng giận,cho con nói một lần này nữa thôi...", những câu nói mào đầu không chỉ mang tính "phải phép" mà còn ẩn chứa một tình thân sâu đậm. Cái tình ấy lên đến đỉnh cao khi Abraham dường như chân thành góp ý với cả Giavê : "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó vì năm mươi người lành đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?"( St 18,23-25 ). Abraham làm như muốn chỉ dạy cả Giavê!
Sự tuyệt vời của tình yêu không chỉ thể hiện nơi sự to gan của Abraham mà còn nổi rõ cách đáng kinh ngạc nơi thái độ của Giavê. Giavê sẵn sàng nghe theo sự "khuyên can" của Abraham. " Nếu Ta tìm ra được trong thành Sôđôma năm mươi người lành thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho cả thành đó". Và cái điệp khúc tình yêu ấy lặp đi lặp lại với con số người lành mà Abraham bớt dần bớt dần.
Tình yêu thật diệu kỳ. Đã yêu nhau thì dường như mọi sự đều là có thể. Khi đã yêu thì sự thẳng thắn, chân thành với nhau là điều tất yếu. Khi đã yêu thì không ngần ngại bộc bạch tâm can nổi lòng. Khi đã yêu thì sẵn sàng vượt mọi rào cản để chia sẻ với nhau ý tình, chia sẻ với nhau cả những lời góp ý và sự bảo khuyên. Và khi đã yêu thì sự lắng nghe nhau là điều tất yếu cho dù mình đang ở vai trên, đang đảm nhận chức lớn.
Abraham thật tuyệt vời nhưng vẫn chưa cảm nhận hết tình thân của Giavê : Cuộc mặc cả, có kè đã dừng lại với con số mười. Đang trong phận người, Abraham vẫn còn đó nhiều giới hạn. Dù được gọi là cha của kẻ tin, nhưng đức tin chỉ dẫn chúng ta đến mức đón nhận chân lý cách "lờ mờ như nhìn thấy trong gương" ( x. 1Cr 13,12 ). Đâu phải là những tấm gương bằng kính được tráng bạc như ngày nay mà chỉ là những tấm đồng được đánh bóng mà thôi. Đức tin là cánh cửa dẫn đến đức ái. Có nhiều thực tại trần thế này ta chỉ có thể hiểu nhờ tình yêu hơn là lý trí. Để đến cùng Thiên Chúa là Tình Yêu đích thực thì trí khôn của ta có giới hạn. Ngay cả với con tim nhân trần chúng ta trong kiếp người lữ thứ cũng không thể nào thấu đạt Đấng là nguồn tình yêu. Abraham dừng lại với con số mười là lẽ đương nhiên. Dù Abraham chưa thấu hiểu mối thân tình của Giavê Thiên Chúa, nhưng hôm ấy Thiên Chúa đã phần nào làm theo lời "khuyên bảo" của ông. Bằng chứng là dù bà vợ ông Lót có bị hóa ra tượng muối vì không tuân lệnh nhưng gia đình ông Lót đã được cứu sống (x. St 19,1-29 )
Đến thời viên mãn, khi Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, nhân loại chúng ta mới được tỏ bày chân dung của Thiên Chúa cách tròn đầy, hoàn hảo. " Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha" ( Ga 14,9 ). "Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử" ( Dt 1,1-2 ). Thiên Chúa đã tỏ bày chính Người cách trọn vẹn và hoàn hảo qua Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế mà những người ở thời Tân Ước được cao trọng hơn cả Gioan Tiền Hô, không phải do bởi công trạng của họ nhưng là nhờ được Thiên Chúa tự tỏ bày cách đủ đầy.
Abraham đã trông mong được thấy ngày của Đức Kitô ( x.Ga 8,56 ). Giả như Abraham thấy được ngày của Đức Kitô hôm ấy thì ông đã không dừng lại ở con số mười. Ông có ngờ đâu, nếu ống cứ tiếp tục có kè bớt dần cho đến con số một thì Giavê Thiên Chúa cũng sẽ nói : vì một người công chính, Ta cũng sẽ tha cho cả thành. Thánh Tông đồ dân ngoại đã triển khai chân lý này trong thư gửi tín hữu Rôma. Vì một người công chính duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã ban ân sủng dồi dào cho nhân loại và cho muôn người được nên công chính để được sống đời đời ( x. Rm 5,12-21 ).
Một con đường để đến với Đấng là Tình Yêu : Trở nên dễ yêu và sống thân tình trước nhan Thiên Chúa. Hiểu được cái tình của Thiên Chúa, biết được cung cách của Thiên Chúa, thì thiết tưởng, không gì hơn hãy trở nên dễ yêu như chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Sống với Chúa, sống trước nhan Thiên Chúa cách thân tình như trẻ thơ trong vòng tay của bố, của mẹ. Không thể nào tránh được lầm lỗi khi đang trong kiếp người "bất thập toàn". Nhưng khi ta sống đơn sơ, trung thực trước nhan thánh Chúa thì những sai lầm ấy đã được yêu. Chuyện kể : " Một bé gái sáu tuổi đang nhổ tóc bạc cho mẹ, bé đơn sơ : "Sao tóc mẹ từ đen hóa ra màu trắng vậy ?" Bà mẹ giỡn yêu con gái : " Cứ mỗi lần con hư là một sợi tóc của mẹ từ đen hóa ra trắng bạc đó". "À, con hiểu rồi - Bé gái nhanh nhẩu ra vẻ khám phá điều mới lạ - Con hiểu vì sao tóc bà ngoại bạc trắng cả đầu". Bà mẹ trẻ cười khanh khách và ôm con vào lòng.
Thiên Chúa của tổ tiên dân Do Thái làm thế nào để một người phàm như Abraham xin Ngài "thay lòng đổi ý" về chương trình Ngài đã định từ trước? Làm thế nào một người phàm như thế lại có thể cố gắng xin Thiên Chúa đổi ý không huỷ diệt hai thành phố Sodom và Gomorra xa hoa trụy lạc vô cùng? Ông Abraham là ai mà dám xin Đức Chúa đừng nổi giận? Các tổ tiên người Do Thái đã vui vẻ kể lại cho nhau những câu chuyện giữa Đức Chúa và ông Abraham phải không? Họ đã hoan hỷ và ngợi khen sự táo bạo của tổ tiên họ? Họ nói "Tổ phụ Abraham chúng ta đã kỳ kèo được với Đức Chúa tối cao để xin Ngài thương xót đến người ngoại đạo".
Thật ra thì người Do Thái không kể chuyện Đức Chúa nói với tổ phụ Abraham như những người buôn bán mặc cả với khách hàng ở chợ? Một người nói giá là 50, rồi hạ xuống còn 45, rồi xuống còn 30, rồi đến 10. Nếu Đức Chúa là người bán hàng, sao lại để ông Abraham mặc cả được giá như thế? "Có lẽ tìm ở đó ra được 10 người".
Có lẽ Thiên Chúa chịu thua trong việc mặc cả với ông Abraham về thành Sodom và Gomorra, mặc dù đầy tội lỗi, họ vẫn còn được Chúa đoái thương hơn là được Abraham nghĩ đến họ mà mặc cả với Chúa thay cho họ. Hình như trong việc mặc cả này Đức Chúa muốn để mình thua; Đức Chúa thật sự muốn để Abraham thắng. "Ta sẽ không huỷ diệt vì mười người ấy". Các tổ phụ Do Thái không những vui trong lúc kể chuyện này, mà họ còn khâm phục nữa. Họ nói "Thật Thiên Chúa chúng ta luôn sẵn sàng tha thứ cho cả dân tộc của hai thành phố Sodom và Gomorra chỉ vì một ít người". Đây là Đức Chúa mà người Do Thái tôn thờ và kính phục với cả tấm lòng trong niềm tin tưởng tuyệt đối. Đó là Đức Chúa với đầy lòng nhân từ luôn nghĩ đến những người chạy đến cùng Ngài. Trong tiệc Thánh Thể hôm nay chúng ta hãy tỏ lòng khiêm tín tôn thờ vì Đức Chúa của chúng ta đầy lòng nhân hậu, với tất cả lòng cảm mến và tôn phục.
Hãy chú ý là Abraham không xin Đức Chúa cho thì giở để những người có tội chạy trốn, nhưng ông ta xin Chúa tha cho tất cả dân trong hai thành phố vì những người vô tội. Thử xem ông Abraham tính toán thế nào: 10 người tốt ngang bằng tội lỗi của những người khác? Ông Abraham thật táo bạo quá thể, ông ta lý luận sao lạ vậy? Ông ta dựa vào điều gì để xin Thiên Chúa việc ấy? Ông ta đưa lý luận dựa vào bản tính của Đức Chúa "thử hỏi các thẩm phán trên thế gian này nếu điều đó có làm đúng theo công lý không?" không xét xử công bằng phải không? Đối với tôi "Thẩm phán của thế gian" như thế là nhân từ thật. Đây không phải là loại công lý của loài người; nhưng đây là câu chuyện một Đấng toàn năng đầy lòng nhân từ quá sự mong đợi và tính toán của chúng ta. Vậy chúng ta hãy để Thiên Chúa xử theo công lý của Ngài và chúng ta là người được thụ hưởng.
Tất cả chúng ta; người trung thành và cả người tội lỗi đã xa Chúa đang nghe; đều cảm thấy thích câu chuyện này. Tất cả chúng ta đều được khuyến khích chân thành cầu xin sự nhân từ, mặc dù chúng ta không biết cách nào để trình bày lời cầu xin trong kinh nguyện. Câu chuyện này nói lên: "hãy kêu xin, hãy bạo dạn và táo bạo lên, Thiên Chúa đang lắng nghe và sẵn sàng giúp bạn". Biết bao nhiên lần Thiên Chúa trong Cựu Ước được xem như là Đấng công chính phẫn nộ "trên cao" xa thẳm. Nhưng Thiên Chúa của Abraham cuối xuống đến giúp đỡ người cầu xin, đến để lắng nghe lời cầu khẩn với lòng từ bi. Bài đọc này rất hợp với bài phúc âm của thánh Luca nói về Thiên Chúa của sự cầu nguyện và lòng nhân từ là yếu tố chính.
Chúa Giêsu vừa đi lên Jêrusalem vừa giảng dạy các tông đồ. Với tất cả tình thương yêu, Ngài dạy các ông tập hy sinh. Tập lắng nghe lời Thiên Chúa, và làm theo Lời Chúa. (Hãy nhớ lại bài phúc âm tuần vừa qua, về hai phụ nữa Martha và Maria, và tuần trước đó về người Samaritano?). Tuần này chú trọng đến lời cầu nguyện. Nếu ông Abraham cầu nguyện được cho hai thành Sodom và Gomorra, thì thử hỏi chúng ta có thể từ bỏ không cầu nguyện xin điều gì, nơi nào, tôn giáo nào, dân tộc nào hay người nào không? Chúng ta là ai mà dám đặt điều kiện ấy, và dám cả gan nói "tôi không cầu nguyện nữa... tôi buông tay cầu xin cho họ, hay cho bạn" trong khi Thiên Chúa chúng ta là đấng dịu dàng và kiên nhẫn? Cũng như ông Abraham, thánh Luca viết dụ ngôn về người bạn kiên nhẫn để khuyến khích sự kiên nhẫn, sự táo bạo và sự tin tưởng trong lời cầu nguyện của chúng ta. Thật vậy, Đấng đang ngự trong lòng chúng ta là một "bạn". Vì thế chúng ta hãy liên tục gõ cửa cho dù lúc đầu chưa thấy hồi âm, hoặc có cảm tưởng như chúng ta bị bỏ quên.
Lời cầu nguyện là một đề tài xuyên suốt trong phúc âm thánh Luca. Ngoại trừ bài Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thường hay cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện nhất là trước mỗi khi Ngài làm một việc qun trọng trong sứ vụ của Ngài (như 3:12; 6:12; 8:18; 9:28 v.v.) chúng ta được khuyên hãy năng cầu nguyện, vì cầu nguyện là biết tín thác vào "Chúa Cha" (Abba: diễn tả Chúa Cha) hiện giờ và trong tương lai.
Quý Cha không cần phải giảng bài phúc âm hôm nay như một đề tài riêng biệt. Trong các phúc âm khác đề tài cầu nguyện được trình bày nhiều chỗ khác nhau, nhưng thánh Luca chỉ trình bày một chỗ này thôi. Vì thế để cho đề tài được đơn giản và rõ ràng, tôi sẽ chú trọng đến một phần của câu chuyện trong "Kinh Chúa Giêsu dạy", dụ ngôn về lời cầu nguyện hay là bài dạy ngắn gọn ở phần cuối.
Nếu các Cha chọn giảng về "lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy" thì hãy nên để ý đến tính cơ bản là lời cầu nguyện chung. Lời cầu nguyện nói "chúng con". "Xin cho chúng con" "Xin tha tội cho chúng con" và "như chúng con". Một cộng đoàn đang lo đón Chúa trở lại để dâng lời cầu nguyện này. Trong khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện chúng ta "kiên nhẫn" trong khi cầu nguyện như Chúa Giêsu đã dạy. Giữa những thách đố và cám dỗ chúng ta "cố gắng kiên trì". Trong lúc này Giáo Hội chúng ta đang gặp nhiều thử thách, chúng ta cố gắng giữ vững đức tin là Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta. Ngài không buông thả chúng ta và một ngày nào đó Ngài sẽ trở lại. Trong lời cầu nguyện của cộng đoàn hãy cùng nhau cầu xin cho chúng ta đừng sa vào "thử thách", đừng mệt mỏi hay chán nản khi bị cám dỗ lôi kéo, để chờ đợi ngày Chúa Kitô trở lại.
Lời cầu xin "Xin cho chúng con lương thực hàng ngày" là lời cầu xin của người nghèo. Trong suốt phúc âm thánh Luca, người nghèo có địa vị quan trọng. Người nghèo hàng ngày đáp ứng lời Thiên Chúa, và dựa vào Thiên Chúa trong lương thực hàng ngày. Nhưng đây cũng là lời cầu nguyện mà cộng đoàn nên chia xẻ với nhau. Nếu cộng đoàn làm được như vậy thì cộng đoàn sẽ không còn có người nghèo. Các Cha nên nói đến những người đói kém chung quanh chúng ta và cộng đoàn chúng ta có thể giúp được những gì cho họ.
Trong thời buổi này sự giúp đỡ người nghèo thường không có kết quả. Vì kinh tế khủng hoảng, tiều trợ cấp bị cắt giảm. Người vô gia cư càng ngày càng tăng. "Xin cho chúng con lương thực hàng ngày" Chúng ta nghe lời người nghèo kêu lên cùng Thiên Chúa, xin Thiên Chúa giúp đỡ, và chúng ta là cộng đoàn Kitô Hữu phải giúp đỡ thế nào. Trong lúc kinh tế khủng hoảng, các Giám mục ở tiểu bang North Carolina kêu gọi "chúng ta hãy làm sao giúp đỡ những người nghèo. Vì số người nghèo quá nhiều, và sự giúp đỡ tài chánh không được bao nhiêu. Cộng đoàn Kitô Hữu kêu gọi tất cả chúng ta hãy đặt sự giúp đỡ người nghèo trên hết tất cả. Nên chú trọng đến kiếm việc làm cho họ, đây là cách để họ sinh sống" cho phù hợp với nền kinh tế hiện nay.
Chúng ta cũng cầu xin cho đủ lương thực hàng ngày để đáp lại lời Chúa Giêsu mời gọi làm môn đệ (9:23), và theo Ngài: hãy từ bỏ mình để theo lối sống của Ngài. Chúng ta hiểu rõ chúng ta cần lương thực hàng ngày để nên như môn đệ trung thành. Hàng ngày chúng ta luôn gặp thử thách trong cuộc sống và chúng ta cần lương thực hàng ngày. Chúng ta cần bí tích Thánh Thể một cách đặc biệt trong ngày hôm; đó chính là lương thực giúp chúng ta khỏi bị sa ngã trong đường đi của cuộc sống. Chúng ta tạm dừng lại trên đường đi với Chúa Giêsu, và bước tới đưa tay ra để xin lương thực, lương thực giúp chúng ta phấn khởi và đó là lý do khiến chúng ta hân hoan mừng đón nhận bí tích Thánh Thể.
Lời cầu nguyện để xin "lương thực hàng ngày" là điều cần thiết và quan trọng nuôi dưỡng chúng ta. Thế giới hiện đang thiếu đói vì những gì? Đói khát vì không được thoả mãn, mặc dù chúng ta có dư thừa của ăn. Cầu xin lương thực hàng ngày từ sự ban phát của Chúa Cha nghĩa là chúng ta tín thác vào sự săn sóc của Thiên Chúa cho những nhu cầu chính đáng của đời sống mà chúng ta không tự lo cho chúng ta được. Cầu xin lương thực ngày hôm nay và biết thoả mãn bởi lương thực đó, nghĩa là cầu xin cho chúng ta biết bỏ qua những gì chúng ta đang thụ đắc mà không đem đến cho chúng ta sự sống. Có rất nhiều cách thụ đắc: Như qua tiền của, quyền uy, giúp chúng ta bớt đói khát. Nhưng duy chỉ có Thiên Chúa mới làm chúng ta thoả mãn những đói khát trầm trọng. Chúng ta cầu xin của ăn trong bí tích Thánh Thể hôm nay giúp chúng ta đặt các giá trị cuộc sống theo đúng nấc thang, giúp từ bỏ những điều dư thừa, hình thức bề ngoài có thể tác hại đến sức sống của Chúa Giêsu trong chúng ta. Với bàn tay thanh sạch mà chúng ta lãnh nhận "lương thực hàng ngày" hôm nay, đó chính là lương thực không thể hư mất được, dù cho chúng ta phải gặp "thử thách" gian nan đến thế nào đi nữa.
Không ai là một hòn đảo ! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ "không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ".
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: "Abba", nghĩa là: "Lạy Cha".
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ "Lạy Cha" trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, "ở một nơi nào đó", "đang cầu nguyện", và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: "Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện". Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức - mà chúng ta không biết - mà "Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông". Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh "Lạy Cha".
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh...Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: "Nhờ Người, với Người, trong Người" là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý".
"Kinh Lạy Cha" của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: "Lạy Cha" ("Lạy Cha chúng con" trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: "Lạy Cha" (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa."
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài !
"Lạy Cha, xin ngự đến" đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là "đối tượng" duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa"
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: "Con", nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: "Chúng con", các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về "cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày". "Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày"
"Sự tha thứ tội lỗi của chúng con" đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong "cơn cám dỗ". Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: "Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin". Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay "lúc giữa đêm", và không ngại nằn nỉ đến độ "sỗ sàng", để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: "Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con. .."
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là "con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động".
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Chúng ta không thể quán xuyến mọi sự trong tầm tay vì còn có nhiều nguyên nhân tùy thuộc. Có ba điều cần để thành công trong mọi công việc là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Con người sống chung thì trăm người, trăm ý. Môi trường chung quanh thì thay đổi như mây bay gió thổi. Chỉ có một điều là chúng ta thuận theo ý trời. Chúng ta sẽ sống vui vẻ và hạnh phúc. Trong hạnh các Giáo phụ có kể lại: Một người nông dân hạnh phúc hơn bạn bè xóm làng. Được hỏi lý do tại sao, ông ta trả lời: Các ông đừng ngạc nhiên. Chính vì tôi luôn được thời tiết theo lòng tôi ước muốn. Người kia đáp lại: Không thể được. Người nông dân đáp: Không bao giờ tôi ước muốn thời tiết khác thời tiết Thiên Chúa gởi cho. Vì thế, Chúa luôn ban cho tôi mùa màng như lòng tôi ước nguyện.
Câu truyện của ông Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? (Stk 18, 23). Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? (Stk 18, 24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.
Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Chúa nhân từ trong mọi lời Chúa phán và thánh thiện trong mọi việc Chúa đã thực hiện. Chúa sửa phạt rồi Chúa lại tha thứ và đón nhận trở về. Lịch sử ơn cứu độ là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện con dân nên thánh thiện. Ông Abraham hết lời: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: "Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm" (Stk 18, 32). Nhân loại tồn tại và Giáo Hội tiếp tục sống còn là nhờ đời sống nhân đức của các bậc thánh nhân, những tín hữu nhiệt thành và những con người thành tâm sống gương mẫu giữa đời. Giáo hội luôn luôn cần những gương sáng để soi dọi cho những ai ngồi trong bóng tối sự dữ và sự chết.
Trong đời sống đạo, chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng. Người ban phát ân sủng cho mọi loài thọ tạo. Thế nên, chúng ta rất quen thuộc với những từ ngữ như cầu nguyện, cầu xin, nguyện xin, cầu bầu, xin ơn, phù trợ và nâng đỡ chở che. Trong tâm tình khiêm hạ và nhận biết thân phận yếu hèn, chúng ta cùng cúi đầu thờ lạy và vâng phục Đấng Tạo Hóa chí công. Chúng ta nên thành tâm cầu xin những ơn cần thiết cho đời sống và phần rỗi của chúng ta. Cầu nguyện là chúng ta nối một nhịp cầu tới Thiên Chúa bằng những lời nguyện xin. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện luôn: Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9). Một điều quan trọng mà Chúa Giêsu dạy là anh em cứ xin, thì sẽ được. Chúng ta xin Chúa điều gì bây giờ?
Chúa Giêsu đã dậy các tông đồ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha. Phần đầu của Kinh là nguyện sáng danh Thiên Chúa, nhưng phần sau là bốn lời xin: Xin cho chúng con lương thực hàng ngày và xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ (Lc 11, 4). Thiên Chúa không phải là ông chủ giầu có ngồi chờ chúng ta đến xin để phân phát. Hào bao của Thiên Chúa luôn rộng mở. Tùy thuộc chúng ta có xứng đáng lãnh nhận hay không. Nếu tâm hồn của chúng ta không rộng mở thì ơn Chúa không thể tuôn đổ. Nếu lòng chúng ta chất đầy của cải thế gian thì đâu còn chỗ để nhận lãnh thêm. Khi chén của chúng ta đã đầy tràn những thứ lỉnh kỉnh, làm sao ơn Chúa thấm nhập vào lòng. Khi cầu nguyện, chúng ta có thật lòng cầu xin, hay chỉ đọc ruổi một số những kinh kệ và kể lể một số nhu cầu cần thiết trong cuộc sống và nghĩ rằng Chúa sẽ ban phát mọi ơn.
Ước vọng của con người thì nhiều vô kể và cao sâu. Hầu như không khi nào chúng ta ước muốn cho đủ. Nhu cầu đòi hỏi của tâm linh cũng như thể chất luôn réo gọi vươn tới. Sức lực và khả năng của con người thì giới hạn. Mong ước thì to lớn. Khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm. Đường nên thánh còn dài và nhiều chông gai. Đường đời thì cặm bẫy giăng giăng. Đường nào cũng phải phấn đấu không ngừng. Người ta thường nói: Lòng tham vô đáy. Không những lòng tham mà mọi khao khát đều không có cùng. Làm sao chúng ta có thể: Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Biết đủ là đủ. Bao nhiêu mới là đủ chứ? Cuộc sống quá hấp dẫn gọi mời chúng ta tiến thân. Sống một ngày, mong thêm một bước. Cuộc đời là dòng chảy luôn luôn có cái mới. Điều mới mẻ giúp chúng ta hy vọng và sống vui. Nên chúng ta cứ phải cầu xin hoài.
Mấy ai trong chúng ta khi cầu nguyện mà không xin ơn. Ngay cả những người không tin có Thượng Đế hay quyền lực nào bên trên, họ vẫn cầu xin khấn vái cho được mọi sự lành. Người ta chỉ chối từ sự hiện hữu của thần linh, thiên thần, linh hồn trong lý thuyết, nhưng nơi cuộc sống thường ngày, họ cũng vẫn mong cầu thần phật gia hộ cách này hay cách khác. Có khi còn rơi vào sự mê tín dị đoan, tin vào bói khoa, bói toán, bói quẻ, chim kêu, gà gáy, xem tướng, chỉ tay vận số, xin sâm và cả cầu thần dữ để chế ngự. Ngày tư ngày Tết, ngày Rằm, Lễ Hội, vố số người, dù không tin thần linh, họ cũng say mê cúng vái hoa qủa, nhang hương, lẩm rẩm nguyện cầu và xin cho người an bình thư thái và làm ăn phát tài phát đạt. Hằng ngày chúng ta cũng thường cầu nguyện với rất nhiều ý cầu xin. Cầu xin cho sự tốt lành trong gia đình, mọi người khỏe mạnh, làm ăn may mắn và mọi sự bình an xác hồn.
Đôi khi chúng ta cầu xin theo kiểu trừ hao. Xin mười Chúa sẽ ban cho một. Với lòng thành, chúng ta xin những ơn cần thiết cho sự sống và phần rỗi. Chúa bao dung độ lượng sẽ không quay mặt làm ngơ. Thánh Luca viết: Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?(Lc 11, 13). Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy bền tâm và tỉnh thức cầu nguyện. Chúa đã nêu gương cầu nguyện luôn để kết hợp với Chúa Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện như Chúa dạy và xin những ơn cần thiết nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Trong thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô đã xác tín về hồng ân ơn cứu độ của Chúa Kitô: Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, số nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (Col 2, 14). Chúa Kitô đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha qua sự hiến tế của Ngài trên thập giá. Máu Thánh đã xóa sạch lỗi lầm và ban cho chúng ta được phúc làm con và cùng đồng chia sẻ vinh quang sự sống.
Lạy Chúa, Chúa là chủ tể mọi loài. Chúa cho mặt trời soi chiếu trên kẻ lành người dữ. Chúa tiếp tục ban phát hồng ân cho mọi loài. Xin cho chúng con biết tỏ lòng trông cậy vào Chúa là nguồn mọi phúc lộc. Chúng con thờ lạy, cảm tạ và hát ca danh Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
Mỗi tôn giáo đều có những kinh nguyện, những lời cầu xin và những phương cách cầu nguyện riêng.Đạo Công giáo đã luôn đi theo đường lối của Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Đạo, Ngài đã dạy các môn đệ, các tông đồ kinh lạy Cha như là lời kinh tuyệt vời nhất.Do đó, chúng ta hãy cầu nguyện với tâm tình thống hối, tôn thờ, cảm tạ và xin ơn.
Chúa Giêsu trong suốt cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng, Ngài luôn cầu nguyện, cả cuộc đời của Ngài là lời cảm tạ tri ân không ngừng. Ngài đã làm gương cho các tông đồ, làm gương cho nhân loại về việc cầu nguyện.Khi các tông đồ xin Chúa dạy các ngài cầu nguyện, Chúa dạy các ngài kinh lạy Cha. Kinh lạy Cha cho thấy Chúa dạy các tông đồ và nhân loại tâm tình và cách sống thế nào để xứng đáng là con cái Thiên Chúa, đáng gọi Thiên Chúa là Cha, và chúng ta phải xin Chúa những điều gì.
Chúa dạy chúng ta phải gọi Thiên Chúa là Cha vì Abba " Cha ơi " là lời thưa thân thương nhưng đầy lòng tôn kính bởi Chúa là Cha của chúng ta, yêu mến chúng ta, nên chúng ta phải yêu mến Chúa, tôn thờ Chúa. Ngài dựng nên vũ trụ, con người, Ngài điều khiển, hướng dẫn, cai quản mọi sự trên trời dưới đất.Nên, chúng ta phải kính thờ, tin tưởng, mến yêu Chúa.
Chúa dạy chúng ta nhận biết Danh Chúa, nhận biết Thiên Chúa là Cha, do đó, chúng ta cầu xin cho Danh của Chúa được cả sáng, Danh Chúa được vinh hiển và cho mọi người được nhận biết Nước Thiên Chúa. Ngài dạy như thế để chúng ta hiểu những gì chúng ta phải xin, những gì chúng ta cần xin và những gì cần xin trước, những gì xin sau.
Cầu xin không phải chỉ là xin ơn, chỉ là liệt kê những điều chúng ta muốn xin, nhưng Chúa dạy chúng ta phải kiên trì cầu nguyện, tức là nhẫn nại chờ đợi. Chúa dạy chúng ta phải có thái độ cầu nguyện liên lỉ, không ngừng, kiên trì, nhẫn nại. Chúng ta cầu nguyện không phải Chúa không nghe chúng ta, hay Chúa làm ngơ, Chúa không biết chúng ta xin gì, cần gì nhưng Chúa muốn củng cố đức tin cho chúng ta. Chúa muốn chúng ta chờ đợi với lòng tin sâu xa. Nếu chúng ta cầu xin mà vẫn chưa thấy gì thì không phải Chúa không muốn ban cho chúng ta nhưng Ngài muốn chúng ta nhẫn nại, xem đức tin của chúng ta thế nào, lòng trông cậy của chúng ta có vững chắc không ? Thực tế, khi cầu nguyện, chúng ta cứ tưởng Chúa phải chiều ý, phải ban cho chúng ta những điều chúng ta xin. NhưngThiên Chúa luôn nghe lời và Ngài ban cho chúng ta theo Ngài phân định, nghĩa là khi chúng ta xin ơn này, Chúa thấy chưa cần, Ngài lại ban cho chúng ta một ơn khác. Hoặc có lúc chúng ta xin nhưng Chúa lại cho chúng ta điều cần thiết mà chúng ta không nghĩ tới. Có lúc chúng ta cầu xin nhưng chờ hoài, chờ mãi Chúa vẫn chưa ban vì Chúa muốn tăng thêm, củng cố đức tin cho chúng ta.
Sống ở thế gian, nhiều khi chúng ta cầu nguyện nhưng Chúa chưa ban ơn, chúng ta nản lòng hay có lúc chúng ta còn dám phàn nàn cả Chúa nữa, còn dám trách móc kêu la Chúa nữa. Chúng ta thiếu kiên nhẫn, chúng ta chưa phó thác, chưa dám tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.Chúng ta nên biết rằng Chúa nhân từ và giầu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương và muốn điều gì lợi ích nhất cho linh hồn chúng ta. Chính vì thế, khi cầu nguyện chúng ta phải luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào sự quan phòng tuyệt đối của Chúa.
Cha Pierre Emonet s.j. đã viết :" ...Những ai hướng lòng trí về Thiên Chúa, không có gì đảm bảo rằng họ sẽ đạt được tất cả những gì mình mong muốn, nhưng chắc chắn một điều rằng họ sẽ được một phần thưởng không hề hư mất, đó là Thánh Thần. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho ta những điều quí giá dù ít hay nhiều, và Người ban cho Ta sự bất ngờ, lý trí và sức mạnh sống, mà qua đó Người ban cho ta Thần Khí theo cách riêng của Ngài ".
Lạy Chúa Giêsu, xin day chúng con cầu nguyện và tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết tin tưởng, cậy trông và phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Amen.
Cách đây vài năm có một phụ nữ, ở một thành phố thuộc miền nam, đã cống hiến đời mình cho người nghèo, được văn phòng Bác Ái Xã Hội của Tổng Giáo Phận tổ chức một bữa tiệc để tôn vinh chị. Khi được hỏi: chị đã bắt đầu chọn con đường suốt đời phục vụ này như thế nào? Sự cảm thông với những người khó nghèo đến từ đâu? Chị cho biết rằng mình đã lớn lên ở Miền Nam trong thời còn phân biệt chủng tộc. Sáu người Mỹ gốc Phi lúc đó đang đào mương trên mảnh đất cạnh nhà của chị. Đó là một ngày hè nắng gay gắt. Một trong những người đó đến gõ cánh cửa kính nhà chị để xin nước uống. Chị lấy cái ca mà mọi người trong nhà vẫn thường dùng để múc nước cho ông ấy. Nhưng mẹ của chị bảo bà: "Không được đâu, con gái ạ!" Rồi người mẹ đặt cái ca ấy chỗ tủ chén và với tay lấy cái ly để trên ngăn kệ cao nhất chỉ dùng tiếp khách quý. Bà đưa cái ly ấy cho chị và nói: "Này con yêu, chúng ta luôn phục vụ khách với những cái ly tốt nhất".
Chính cử chỉ của người mẹ đã in vào lòng chị suốt đời. Chị gọi đó là khoản khắc quyết định giúp chị quan tâm đến những người xa lạ, kẻ nghèo túng và tầm quan trọng của lòng hiếu khách. Chị nói rằng, chính cử chỉ của mẹ chị đã "đánh thức chị".
Trong dụ ngôn hôm nay, một người hàng xóm đến gõ cửa nhà người khác vào lúc nửa đêm. Trong một ngôi làng nhỏ, mọi người đều biết nhau và cò thể cùng sài chung lò nướng bánh. Do đó, hẳn là họ biết chỗ nào có bánh ngon để đãi khách đột xuất. Một người đứng ngoài cửa xin bánh của bạn mình. Dụ ngôn cho thấy rõ rằng đây không phải là một ngôi nhà lớn nhưng chỉ là một túp lều nhỏ với một gia đình đang nằm ngủ trong đó. Quả là các thành viên trong gia đình ấy rất lấy làm phiền khi phải thức dậy và chia bánh của bữa sáng hôm sau của gia đình mình cho người ấy. Như thế nghĩa là gia đình phải ăn ít đi. Lòng hiếu khách quả là bất tiện và nguy hiểm.
Những người đang nghe Đức Giêsu được giáo dục trong môi trường hiếu khách của miền Trung Đông. Nếu không tử tế và không đón tiếp lữ khách là một sự ô nhục, không chỉ đối với gia đình đó mà cả ngôi làng đó. Làng ấy sẽ bị xỉ nhục và bị cho là thiếu lòng hiếu khách. Trong dụ ngôn này không mang kịch tính. Người nghe hẳn đã biết được câu trả lời là: anh hãy trỗi dậy, bất kể ngày hay đêm, và quảng đại đãi người đang hỏi xin kia. Không cần bàn cãi hay do dự gì nữa: chia sẻ lương thực cũng chính là chia sẻ đời sống và nguyên tắc hiếu khách đòi phải chia sẻ cái quý nhất mà quý vị có; bánh mới nhất.
Đức Giêsu mở đầu dụ ngôn với câu nói rằng: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy..." Có vẻ như Đức Giêsu muốn nói: "Anh em có biết người nào như thế không?" Đó là câu hỏi tu từ mà họ phải trả lời: "Dĩ nhiên là biết, còn nghi ngờ chi nữa!"
Khi đời sống trở nên khó khăn, dù là thiếu cái ăn khi cần đến lòng hiếu khách, hay tinh thần suy kiệt, tâm trí rã rời, chúng ta thường nghĩ rằng Thiên Chúa chắc đã ngủ quên đằng sau cánh cửa đóng kín. Chúng ta thấy rất thất vọng khi đứng ngoài cửa. Những lúc như thế thì việc nghe được từ khóa của dụ ngôn hôm nay quả là quan trọng: người mà ta gõ cửa kia chính là một "Người Bạn".
Cách mà Đức Giêsu đưa ra trong dụ ngôn giả định một lời đáp lại cách thiện chí. Khi thiếu thốn, người này tìm đến bạn, không phải ai vô tâm hay hoàn toàn xa lạ. Trong bối cảnh đó thì lòng hiếu khách và quảng đại hết mình là điều bắt buộc; thậm chí có thể tốn kém hay nguy hiểm đối với người được yêu cầu.
Đức Giêsu chính là lòng hiếu khách của Thiên Chúa. Là tấm bánh ngon nhất và không bao giờ thiếu dành cho những kẻ thiếu thốn mà chúng ta gặp trên những bước đường gian khó ta trải qua. Cố gắng làm những điều đúng đắn và công bằng đã là mệt mỏi. Thật nản lòng khi phải yêu quý những kẻ khó ưa. Ắt hẳn dụ ngôn này nói đến vấn đề nghèo đói, giáo dục và sắc tộc như thể là một ngọn núi lớn và không thể vượt qua được. Đó là nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với những căn bệnh hiểm nghèo hay khó khăn về tinh thần thể xác của tuổi về già. Hành trình này thật gian khó, nếu không phải bây giờ, thì cũng sẽ đến lúc xảy đến.
Dụ ngôn muốn ám chỉ đến thắc mắc này: nếu một người bạn mà còn có thể cho ta miếng bánh trong lúc ta đang túng quẫn, thì Thiên Chúa còn rộng rãi biết nhường nào với những kẻ biết chạy đến cùng Người khi thiếu thốn? Thiên Chúa không phải là Đấng thích thử thách hay xa lạ như một số người đã được lớn lên với ý nghĩ như thế; nhưng là một Thiên Chúa thân thiện và sẵn sàng ra tay giúp đỡ khi ta đói khổ, và dĩ nhiên, để rồi chúng ta có thể sẵn sàng giúp đỡ những người đói khổ ta gặp trên suốt đường đời.
Tôi thường nghĩ rằng yêu cầu, tìm kiếm và gõ cửa là những phương thế bảo đảm. Nếu tôi tha thiết và đủ kiên nhẫn khẩn nguyện điều đúng đắn, thì điều gì tôi xin tôi sẽ nhận được. Khi kiếm tìm, tôi sẽ được thấy. Khi gõ cửa, tôi sẽ được mở cho và bước vào dễ dàng. Khi tôi khẩn khoản nguyện xin và đủ kiên nhẫn, không phải xin những điều vớ vẩn, tôi sẽ nghe được lời Đức Giêsu nói với mình: "chẳng lẽ Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?"
Nhìn lại đời mình, tôi nhận ra tôi đã được nghe và được trao ban bánh là chính Thần Khí của Đức Giêsu: khi tôi ở trong hoàn cảnh khó khăn và phải vất vả để thoát ra khỏi nó, thì Thánh Thần được ban cho; khi kiên trì đấu tranh cho điều mà tôi cho là đúng, thậm chí cả khi sự việc chẳng mấy biến chuyển, thì Thánh Thần vẫn được ban cho; và khi tôi thấy bản thân mình thay đổi và trở nên dễ cảm thông với những người làm tôi bực mình, thì Thánh Thần được ban cho tôi.
Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần. Ân huệ này là một hơi thở mới bên trong, để làm cho tinh thần của ta được sống động; thổi một sự sống mới vào trong mọi hoàn cảnh; mang lại niềm hy vọng ngay khi chúng ta hoàn toàn nản chí. Bất cứ nơi nào chúng ta thấy cần có Thánh Thần- hãy xin, tìm và gõ cửa. Khi cầu xin như thế là chúng ta tin tưởng vào dụ ngôn này: chúng ta đang đứng trước cửa và đằng sau cánh cửa ấy là một Người Bạn luôn sẵn sàng cho chúng ta thứ bánh ta cần.
Kiên tâm, bền chí là í tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay. Dụ ngôn người bạn nửa đêm đến gõ cửa xin thực phẩm cho người bạn khác cho thấy chính nhờ kiên tâm bền chí giúp anh đạt được điều anh mong muốn. Câu chuyện này cũng cho chúng ta thấy mức độ khác nhau trong tình bạn. Tất cả có ba người đều là bạn của nhau. Hai người đầu có vẻ nghèo và người thứ ba có của ăn, của để. Họ nghèo thực sự, ngay cả trường hợp khẩn cấp bạn đến bất tử vào đêm khuya mà trong nhà không có gì cho bạn ăn chống đói. Người kia có lẽ cũng nghèo không tiền mua thực phẩm trên đường đi. Tình bạn thân thiết, chân tình như thế quả hiếm thấy. Người bạn thứ ba có dư của ăn hay ít nhất còn có thực phẩm trong kho. Anh từ chối giúp bạn không phải vì không có để giúp mà đưa ra lí do cửa đã gài then, anh đã lên giường, con cái ngủ say không muốn phiền. Người gõ cửa cảm thông với anh vì những phiền toái đó nhưng anh lâm vào tình trạng túng quẫn không lối thoát. Anh muối mặt tiếp tục gõ xin thực phẩm. Tiếng gõ không làm người bạn mở cửa mà chính là nhờ anh bền chí, kiên trì xin cho bằng được. Kiên tâm, bền chí giúp anh đạt được điều mong muốn, dù gặp khó khăn, tủi nhục.
Thực tế cho thấy có thành công đáng giá nào mà không phải trả giá. Giá càng cao thành công càng rực rỡ. Nhiều năm chăm chỉ học hành mới có kiến thức sống đời. Đôi khi phải cố gắng, chuyên cần gần như vượt quá khả năng để có thể thành công trên đời.
Trong phục vụ tha nhân cũng cần kiên trì. Kẻ thù chính của kiên trì là cám dỗ bỏ cuộc. Lí do chính vì ma quỷ cũng dùng biện pháp tương tự nên chúng rất sợ người Kitô hữu kiên tâm, bền chí trong đức tin. Biện pháp chính của ma quỷ là lì ra, ù lì hay đấu lì. Vì thế cơn cám dỗ thường đến rồi đi rồi lại đến năm lần, bảy lượt nó vẫn đến. Mày chai, mặt đá đến thế. Khi nói đến đấu lì là nói đến vượt quá mọi lí luận hợp lí bình thường. Kẻ đấu lì mong đạt mục đích đen tối, bất kể tai hại gây cho người khác. Trong khi kiên tâm, bền chí cũng là cách 'đấu lì' nhưng mục đích mang lợi ích cho người khác, thành tâm vì yêu mến chân thành. Đó là điều khác biệt giữa đấu lì và kiên tâm, bền chí.
Một khi bị cám dỗ Kitô hữu cần kiên tâm trong cầu nguyện. Bền vững trong đức tin. Ai có thể nói kiên tâm cầu nguyện, bền vững trong đức tin là xấu. Điều bình thường xảy ra cho mọi người đó là khi phục vụ và làm chứng nhân cho Chúa, lúc tinh thần cao vời, lúc ngất ngưởng, chao đảo và lúc mệt mỏi, chồn chân, mỏi gối muốn bỏ ngang. Muốn bỏ ngang là một cám dỗ xem có vẻ vô hại nhưng là rất hại, đại hại. Kiên tâm bền chí là kẻ thù của bỏ ngang. Người bền đỗ đến cùng là người kiên tâm trong cầu nguyện, bền vững trong đức tin, dù ngay cả khi muốn bỏ ngang vẫn cố gắng trung kiên, bền chí. Điều rõ ràng là đau khổ, khó khăn đến rồi đi, mà không bao giờ đến ở vĩnh viễn trong ta. Đừng tưởng rằng mọi hy sinh cố gắng phục vụ của mình như sóng biển đại dương biếng mất sau tiếng vỗ bờ. Dù sóng biển có biến mất sau tiếng vỗ nó cũng làm thay đổi bờ cát. Kiên tâm bền chí cũng vậy có sức mạnh chuyển dời mọi cám dỗ. Với kiên trì trong cầu nguyện ơn Chúa chắc chắn thắng mọi cám dỗ của tà thần.
Học từ ơn khôn ngoan của người bạn nghèo kiên tâm, bền chí xin thì sẽ được, gõ thì sẽ mở cho. Người kiên tâm luôn là người thành nhân.
Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông". Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển...; xin tha tội cho chúng con..." (x.Lc 11,1-4). Tin mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với "Kinh Lạy Cha" bằng những lời cầu xin (x.Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất "dễ thương" như sau:
1.Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin điều gì với ai là giả thiết đã cậy trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình. Dưới một góc độ nào đó, thì lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức tin.
2.Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.
3.Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất toàn và cả bất lực của mình: "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ..."(x.Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ, thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như "sư tử luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây"(x.1P5,8).
4.Tâm tình thảo hiếu: "Nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.
5. Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ "chúng con" của lời kinh "Lạy Cha". Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.
Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép "tình hiếu đễ".
Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không vượt qua con số "mười". Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, "cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống" (Rm 5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi Thánh Ý.
"Xin cho danh Cha cả sáng". Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. "Xin Cha tha nợ cho chúng con". Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
Người Âu Mỹ vốn có lòng quý trọngt súc vật. Người ta đã thiết lập những hội bảo vệ súc vật, xây TN 17-C112
Người Âu Mỹ vốn có lòng quý trọngt súc vật. Người ta đã thiết lập những hội bảo vệ súc vật, xây những dưỡng đường để điều trị cho súc vật và có cả những nghĩa trang dành riêng cho súc vật. Phải chăng lòng quý trọng này có cái chi bất ổn và thái quá? Mặc dù con vật thì thấp kém hơn con người rất nhiều, nhưng nó cũng có những điều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn một con chó vẫy đuôi chào mừng khi chủ nó trở về; trong khi đó, nhiều người lại chẳng biết mở miệng chào hỏi bề trên và những bậc ân nhân của mình. Dĩ nhiên sự trung thành và biết ơn của một con chó phần lớn la do thói quen và bị hạn chế nhiều lắm.
Từ đó, chúng ta đi vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Lòng trung thành và biết ơn của chúng ta đối với Ngài là như thế nào? Buổi sáng khi thức dậy, khởi đầu cho một ngày mới với những ơn huệ Chúa ban, chúng ta có biết cầu nguyện và thân thưa với Chúa hay không? Nhiều người đã đưa ra 1001 lý do để khước từ việc làm tốt đẹp này. Nào là còn biết bao nhiêu công việc phải làm, nào là có biết bao nhiêu tin tức phải lắng nghe và ghi nhận, không còn đủ thời giờ để suy tư và cầu nguyện nữa. Có những người mặc dù còn cầu nguyện, nhưng lại chỉ làm vì thói quen, như một cái máy với một vận tốc hết sức mau lẹ.
Thiên Chúa, Đấng cho mặt trời mọc lên, để khởi đầu một ngày mới, phải được chúng ta ca tụng và chào kính với những tình cảm chân thành nhất, xuất phát từ trái tim. Mặc dù không có trí khôn, nhưng con chó còn biết cách biểu lộ sự biết ơn của minh. Trong khi đó, con người là tác phẩm tuyệt vời nhất của Thiên Chúa, thì lại chỉ biết đón nhận hết điều nọ đến điều kia, mà lại chẳng tỏ ra biết ơn một chút nào cả.
Sở dĩ như vậy là vì con người đã quên mất những kỷ niệm và sự nương nhờ của mình vào Thiên Chúa. Cuộc sống với những tiện nghi và dễ dại đã làm cho chúng ta quên mất những hồng ân của Thiên Chúa và dường như không còn cần đến Ngài nữa. Suy nghĩ và hành động như vậy, nên con người thời nay luôn cảm thấy khắc khoải và bất hạnh hơn lúc nào hết.
Với chúng ta thì khác. Trước khi khởi đầu một ngày mới với những công việc bận rộn, chúng ta hãy tìm gặp Chúa trong những tâm tình cầu nguyện. Đây là một việc làm xuất phát tự con tim, chứ không phải chỉ là một việc làm hoàn toàn máy móc. Bởi vì lời cầu nguyện là tiếng nói của một con tim nghèo nàn trước Đấng Tối Cao: Lạy Chúa, con cần đến Chúa như cần đến khí trời để thở.
Có kẻ lại bảo: Cầu nguyện cũng chẳng ích lợi chi! Chúng ta nên nhớ điều này: Cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa. Ngài không cần đến chúng ta, trái lại chúng ta luôn cần đến Ngài. Cho dù có quên đi mọi lời kinh, thì ít nữa cũng còn đọng lại kinh Lạy Cha, một lời kinh kiểu mẫu, đơn sơ và xâu xa.
Con người luôn cần đến Thiên Chúa, cho nên hãy tìm gặp Ngài trong những tâm tình cầu nguyện của mình.
1. Sống thân tình với Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương.
Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Câu đề TN 17-C113
Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Câu đề nghị mà một người môn đệ hỏi Chúa Giêsu, cũng có lẽ là câu đề nghị mà chúng ta đặt ra cho nhau và cho chính mỗi người trong cuộc sống đức tin hôm nay.
Để trả lời câu hỏi này, có lẽ mỗi chúng ta tự hỏi lòng mình: Chúng ta tương quan với Thiên Chúa như thế nào? Chính đời sống tương quan của mỗi người với Chúa sẽ quyết định thái độ cầu nguyện. Nếu ta sống với Thiên Chúa là ông chủ, chúng ta có nhiều khả năng cầu nguyện trong tư cách là tôi tớ. Nếu ta tương quan với Chúa là Đấng ban phát ơn, những lời cầu nguyện nhiều khả năng là những lời xin ơn về lợi lộc trần thế. Nếu ta sống yêu mến Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Đấng ban ơn cứu độ, chúng ta dễ dàng biểu lộ tâm tình cầu nguyện trong tư cách là người con hiếu thảo.
Sách Sáng Thế cho chúng ta thấy hình ảnh Apraham sống thân tình với Thiên Chúa. Nhờ đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, lời cầu nguyện của ông dâng lên Chúa toát ra từ một đời sống đầy tin tưởng và thân tình. Ông đã tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và hằng lắng nghe lời ông khẩn cầu.
Thật vậy, khi biết được ý định Thiên Chúa sắp phá hủy thành Sôđôma và Gômôra, nơi có gia đình người cháu là ông Lót ở đó, Ápraham đã kêu xin Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Ông tin rằng Thiên Chúa sẽ không tiêu diệt người tội lỗi cùng với công chính. Vì thế, ông đã mượn sự hiện diện của những người công chính để xin Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi cùng sống trong thành Sôđôma và Gômôra. Từ 50 người công chính hiện diện trong thành, sau 5 lần xin bớt, ông đã xin Thiên Chúa tha thứ cho thành chỉ với 10 người công chính. Sự kèo nài của Ápraham như một cuộc trả giá trong buôn bán đã cho thấy, ông rất gần gũi và thân thiết với Thiên Chúa, cách riêng, ông rất bền bỉ và kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Những lần ông xin bớt, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã nhận lời ông.
2. Thưa chuyện với Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Như thế, Apraham đã sống thân tình trước mắt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của ông dâng lên Thiên Chúa như là một cuộc trò chuyện đầy cởi mở và thân thiện giữa hai người bạn thân, nhưng vẫn có sự tôn kính Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay cho chúng ta một cách cầu nguyện trong tương quan mới, tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là những người con của Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là cha ơi. Tiếng xưng hô: cha ơi,thật đẹp làm sao. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha lại càng ý nhị và thân tình biết mấy.
Trong tâm tình con cái yêu mến cha mình, người con không xin những gì ngoài ý muốn của cha nhưng luôn thao thức nên một với Cha và làm đẹp lòng Cha. Mọi sự Cha muốn, người con cũng ao ước, mọi sự Cha cần, người con cũng ước ao nên trọn. Vì thế, Lời nguyện đầu tiên của Người con ngoan là xin cho danh Cha cả sáng, xin mọi người đều tin nhận và suy phục Cha mình.
Cuộc sống của người con ở trần gian này là cuộc lữ hành đi về với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con không tìm vinh danh trần thế này, cũng chẳng mong tích lũy của cải chóng qua nhưng là tìm vinh danh Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Vì thế, người con không xin sang giàu, cũng chẳng ước ao chức tước trần thế, nhưng xin đủ lương thực hằng ngày để có thể chu toàn bổ phận là con cái của Thiên Chúa.
Khi cùng nhau tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, người con cũng nhận thật, mọi người đều là anh em với nhau. Vì thế, người con khao khát sống hòa thuận với mọi người. Muốn thế, người con xin với Thiên Chúa cho mình biết thứ tha và thông cảm cho nhiều người khác để có thể sống yêu thương hết mọi người. Người con xin cho mình có khả năng tha thứ cho tha nhân để có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Cuối cùng, hạnh phúc của người con là luôn sống thân tình với Cha mình. Muốn thế, người con không chỉ dựa vào cố gắng của bản thân nhưng rất cần sự trợ lực của Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con xin với Cha gìn giữ để khỏi sa vào chước độc của ma quỷ. Có thế, hoàn tất cuộc đời này, người con đều tràn trề hy vọng sẽ được người Cha là Thiên Chúa cho hưởng gia nghiệp gia tài của những người con hiếu thảo.
Ước mong, Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta luôn sống tâm tình của người con hiếu thảo, để mọi lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa là bao tiếng thân thương của người con hiếu thảo dâng lên cha mình: Abba, cha ơi!
Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là lời kinh căn bản của Kitô giáo. Lời kinh TN 17-C114
Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là lời kinh căn bản của Kitô giáo. Lời kinh này là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là tâm điểm của Thánh Kinh như Thánh Augustinô nói: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong sách Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều được thâu tóm trong lời kinh Chúa dạy. Với lời kinh này, không những chúng ta nguyện xin tất cả những gì chúng ta có thể ao ước cách chính đáng, mà còn theo trật tự những gì nên ao ước. Vì thế, kinh nguyện này không chỉ dạy chúng ta nguyện xin, mà còn huấn luyện tâm tình của chúng ta nữa…Dù chúng ta có đọc lời nào khác, những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp”(x. Thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơrôba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335).
Kinh Lạy Cha độc đáo vì chính là lời kinh “của Chúa” và cũng là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Lời kinh này đã ăn sâu vào kinh nguyện phụng vụ. Trong Thánh lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung, hướng về ngày Chúa Quang Lâm “cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26).
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu để lại, lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.
“Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược” (x. Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
I. Đọc xuôi Kinh Lạy Cha
Đọc xuôi, bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.
Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
1. Lời thân thưa
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.
Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.
Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.
2. Hai lời nguyện ước
"Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển" và "Triều đại Cha mau đến" là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình. Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.
Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.
Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo. Biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
3. Ba lời cầu xin.
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.
Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vuột thắng mọi cám dỗ.
II. Đọc ngược Kinh Lạy Cha
Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:
1. Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ.
Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.
2. Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ.
Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.
3. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.
4. Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta.
Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.
5. Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện.
Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
6. Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta.
Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.
7. Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời.
Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
III. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
Lạy Cha,
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con chưa nhận thấy được.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.
Quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một nét gì đó rất mới mẻ và rất đặc trưng. TN 17-C115
Quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một nét gì đó rất mới mẻ và rất đặc trưng. Nét này không thấy có trong thói tục của người Do Thái nói chung, và của nhóm Biệt Phái nói riêng; khác cả với lối cầu nguyện mà Gio-an tẩy giả, nhóm Ét-sê-ni và các môn đệ ông thường làm. Người Do Thái nói chung cầu nguyện dựa trên việc cất cao giọng đọc các thánh vịnh, các lời ngôn sứ hay sách luật… Chính vì thế mà một vài đại diện trong nhóm môn đệ Đức Giêsu khẩn khoản xin Người dạy cho họ biết cầu nguyện, và cầu nguyên theo cách thức riêng của Người. Lời thỉnh cầu đó quả là chính đáng, và Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng vì nó liên quan tới điều quan trọng nhất mà người đang muốn khảng định: Cầu nguyện chính là đi vào tương quan phó thác với Chúa Cha nhân ái.
Điều mà các môn đệ mong đợi chắc hẳn không phải là được Thầy dạy cho một công thức cầu nguyện, mà chúng ta ngày nay quen gọi là kinh đọc. Người Do Thái thời đó vẫn quen sử dụng các thánh vịnh như công thức nền tảng. Tuy nhiên rất có thể khi quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì rất khác lạ, một kiểu cách cầu nguyện không giống ai. Nét này khác xa lề thói các Pha-ri-sêu vẫn thường cầu nguyện nơi công cộng, hoặc các tu sĩ Et-sê-ni làm tại Qum-ram. Nét đặc sắc nhất các ông nhân ra chính là tâm tình con thảo thâm sâu chưa từng thấy bất cứ nơi đâu. Xét cho cùng thì Thánh Vịnh cũng không phải là những ‘kinh’ theo nội dung mà bổn đạo chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Tự nó Thánh Vịnh là những tâm tình rất chân thành, nhưng trong tinh thần của ‘Cựu Ước’, mà mỗi người Do Thái diễn tả tương quan thường ngày của mình với Đức Chúa Gia-vê. Tất cả các tâm tình đó đều dựa trên một nền tảng duy nhất được các luật sĩ và Biệt Phái nhấn mạnh, đó là lòng trung thành kiên vững đối với giao ước đã ký kết. Sau này vào thời Đức Giêsu, qua ảnh hưởng của phái Ét-sê-ni, thái độ thống hối để lãnh phép rửa được nhấn mạnh. Nếu vậy thì nét cầu nguyện đặc trưng của Thầy Giêsu, đồng thời cũng là của từng người Ki-tô hữu chúng ta cụ thể là gì?
Đức Giêsu không đơn thuần dạy một công thức diễn đạt mới, cái sau này được đặt tên là ‘kinh Lạy Cha’ (tiêu đề quen thuộc luôn được gán cho đoạn văn này). Ngay trong câu Đức Giêsu nói: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói hoặc đọc) thế này: ‘Lạy Cha, nguyện ( thay vì cầu xin) cho danh Cha vinh hiển…’, ta sẽ thấy ngay nổi cộm một tâm tình, tâm tình tín thác. Ngay cả các điều ‘xin’ của phần sau cũng toát ra niềm tin tưởng sâu đậm nhất. Chính cái tâm tình này mới là chất tố cốt lõi của lối cầu nguyện mà Đức Giêsu đang muốn thông truyền.
Đương nhiện là bất cứ lời cầu nguyện nào cũng đều ít nhiều mang tâm tình này. Trong mọi tôn giáo, khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng sẽ được thần thánh phù trì. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, dựa trên cơ sở nào mà họ đặt niềm tin tưởng phó thác. Người Do thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng giữa Đức Chúa Gia-vê với dân riêng của Ngài. Gio-an nhấn mạnh trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3, 3-18). Tín đồ các tôn giáo khác nói chung, dựa trên qui luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội. Họ thờ cúng dâng hương để mong được thần thánh phù trì… Thế còn Ki-tô hữu chúng ta cầu nguyện dựa trên cơ sở nào?
Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của lòng tín thác Ki-tô hữu trong cầu nguyện: người bạn và người cha. Hai hình ảnh này có tác dụng trước hết là triệt tiêu cả ba cơ sở nói trên. Nếu là ‘nguyện xin’ với bạn và cha, thì sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết, không còn sự cách biệt trên dưới, và cũng chẳng cần lễ vật quà cáp lót đường. Chỉ còn một điều duy nhất quan trọng là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ không ngại gây phiền hà. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya, hay xin ‘bố’ của ăn, phải chăng là để nêu rõ thái độ rất ‘độc’ này của cầu nguyện Ki-tô hữu?
Và điều này không chỉ đơn thuần là một khảng định trên lý thuyết. Có lẽ vào thời điểm lúc Đức Giêsu trả lời câu hỏi của mộn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời thật, ngược ngạo nữa là đàng khác: Thiên Chúa mà là cha và là bạn sao được! Thế nhưng sau biến cố thập giá và phục sinh, thì đã trở thành một thực tế quá rõ ràng và hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin vào thập giá và phục sinh trở thành cơ bản trong tương quan (giao ước mới) giữa người môn đệ với Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu Người, ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quí nhất Người cũng chẳng từ. Do vậy bất cứ ai tự cho mình là môn đệ Đức Giêsu, mà không biết chất tố này khi cầu nguyện, thì chưa thể được kể là Ki-tô hữu chân chính.
Nếu như thế ta có thể khảng định được chăng: tin tưởng phó thác trong cầu nguyện chính là thước đo chính xác nhất của niềm tin Ki-tô hữu? Thánh Phao-lô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên siết trong ta (xem Rm 8,18-27). Phải chăng Đức Giêsu cũng có ý tưởng tương tự khi nói ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’? Thế thì, một chút chiêm ngắm thập giá, một chút vào sâu hơn trong tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều tối cần thiết để mọi Ki-tô hữu có thể tiến hành cầu nguyện của mình. Tuy nhiên thật không may, ‘cái chút’ này trên thực tế xem ra vẫn còn thiếu trầm trọng trong cầu nguyện của nhiều Ki-tô hữu chúng ta. Chính vì lẽ đó mà lời khẩn cầu của các môn đệ: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con biết cầu nguyện!” vẫn tiếp tục phải là điệp khúc khởi đầu cho mọi cầu nguyện chân thành của mọi Ki-tô hữu chúng ta.
Lạy Thầy Giêsu, xin dạy con cầu nguyện! Xin hãy dạy con cầu nguyện với một Thiên Chúa không tiếc xót con bất cứ điều gì, kể cả phó nộp Người Con yêu quí nhất của Người. Xin cho con biết dành một chút thời giờ cho việc chiêm ngắm tinh yêu nhân ái và lòng thương xót bao la của Chúa trước khi tiến hành cầu nguyện. Xin Thần Khí Chúa hãy luôn nhắc nhở con rằng: dấu Thánh Giá mà con làm đầu giờ cầu nguyện chính là để giúp đưa con vào tâm tình cơ bản và thiết yếu này, là trọn vẹn tin tưởng phó thác nơi lòng Chúa xót thương và cứu độ. Chỉ như thế lời cầu nguyện của con mới có được tâm tình như Chúa muốn. A-men
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên TN 17-C116
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Người khác cho cầu nguyện là thương lượng với Thiên Chúa. Người khác nữa cho cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa như hai người bạn nói chuyện với nhau. Và cũng có những người cho cầu nguyện là cầu xin những gì mình đang túng thiếu và cần Thiên Chúa ban ơn. Tất cả những định nghĩa trên đây nói lên một khía cạnh của cầu nguyện, tổng hợp tất cả cho chúng ta cái nhìn toàn bộ về việc cầu nguyện.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện cách xứng hợp qua Kinh Lạy Cha, và hai thái độ cần có trong khi cầu nguyện là tin tưởng và kiên trì.
Có hai sự khác biệt giữa kinh Lạy Cha của Luca và Matthêu: Thứ nhất, trình thuật của Luca thiếu câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thứ hai, trình thuật của Luca cũng thiếu câu “xin cứu chữa chúng con khỏi sự dữ.”
Cả hai trình thuật đều đặt sự quan trọng của việc cầu xin cho Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến, trước khi hướng tới những nhu cầu căn bản của con người. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ, và sức mạnh để vượt qua mọi cơn cám dỗ là ba điều quan trọng trong đời sống thường nhật của một Kitô hữu.
- Kiên trì: Ví dụ Chúa Giêsu đưa ra có mục đích đòi hỏi con người phải có thái độ kiên khi cầu nguyện. Truyền thống Do-thái rất hiếu khách, nhất là những khách từ xa tới. Người kêu xin bị đặt trong thế kẹt: một là chịu thất lễ với khách, hai là chịu làm phiền hàng xóm, anh đã chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ sự sống cho người bạn mình.
Nhà của người Do-thái ngày xưa không rộng mà nhân số trong nhà lại đông, nên cả gia đình thường ngủ chung dưới sàn trên chăn chiếu. Vì thế, nếu một người phải thức và ra mở cửa sẽ làm cho những người khác phải thức theo. Đó là lý do người hàng xóm từ chối lúc đầu; nhưng khi anh bạn có khách cứ gõ và nói mãi, anh phải chỗi dậy lấy bánh cho mượn, không phải vì tình bạn; nhưng vì sự lỳ lợm của anh. Lúc này, chắc những người trong gia đình đang ngủ chung cũng đã thức dậy hết!
- Tin tưởng: Thái độ này còn quan trọng hơn cả thái độ kiên trì, vì nó là động lực giúp con người chạy đến với Thiên Chúa. Hầu như trong tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu chỉ làm khi Ngài nhận thấy có dấu chỉ của niềm tin. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào khi chỉ thấy sự cứng lòng hay thử thách.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh người Cha trên trời với các người cha dưới đất: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
- Đức Kitô là căn nguyên của tha thứ, hòa giải, và mọi ơn lành. Để lời cầu nguyện chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe, chúng ta phải cầu xin nhờ danh và công nghiệp của Ngài.
- Để lời cầu nguyện có hiệu quả, chúng ta cần có thái độ tin tưởng và kiên trì nơi Thiên Chúa. Chúng ta cứ việc cầu xin mọi sự đẹp ý Thiên Chúa, nhưng phải sẵn lòng để chấp nhận thánh ý của Ngài.
Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế TN 17-C117
Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế nào khi cầu nguyện. Rất nhiều lần, các ông thấy Chúa Giêsu đắm mình trong thinh lặng: khi sáng sớm, lúc hoàng hôn, nơi hoang địa, trên biển hồ… Và rồi để giải tỏa những nỗi khắc khoải trong lòng họ, Đức Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện.
Người bảo các công: “Khi cầu nguyện anh em hãy nói Lạy Cha…”
Cha ơi! Như một em bé mới bập bẹ tập nói, nó gọi baba, và lập tức người cha sẽ chạy đến và ẵm em vào lòng. Thiên Chúa là Cha. Thật vậy người Ki-tô giáo luôn tuyên tín vào Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha. Ngài đón nhận con cái mọi người với tình yêu Phụ tử. Mỗi lần con cái kêu lên thì không bao giờ người Cha lại ngoảnh mặt làm ngơ. Trái lại, người cha sẵn sàng và chờ đợi để ban xuống muôn ơn lành cho con cái của mình. Và hơn thế nữa, bao giờ người Cha cũng luôn trao cho con những món quà tốt đẹp nhất. Và Người nói: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con cái xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (Lc 11, 11). Thiên Chúa nhân từ, Ngài luôn rộng mở và quảng đại trao ban cho mọi người tất cả. Miễn là chúng ta kiên tâm và vững lòng như hình ảnh một người bạn đi đường, giữa đêm khuya gõ cửa nhờ đến một người bạn khác của mình vậy: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta lì ra đó” (Lc 11, 8). Cầu nguyện là tạo một mối liên hệ thâm sâu và vững bền với Chúa, bằng lời, bằng con tim và bằng cả trí hiểu. Như thế cầu nguyện không chỉ là mong muốn và đạt thấu những điều thuộc về mình, nhưng là một khám phá trong tình yêu với Đấng mà mình cậy trông.
Đức Giêsu dạy kinh nguyện cầu nguyện, và chính Ngài cũng đã trải nghiệm qua từng phút giây trong cuộc đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầunguyện. Như một thong điệp cho mọi người. Kinh Lạy Cha, một lời nguyện xin chân thành và đầy đủ ý nghĩa cho bất cứ ai, muốn gặp gỡ Đức Giêsu, trong cuộc đời của mình.
Tuần lễ vừa qua có thể gọi là tuần lễ dành cho giới trẻ vì có nhiều sự kiện liên quan đến các bạn trẻ. TN 17-C118
Tuần lễ vừa qua có thể gọi là tuần lễ dành cho giới trẻ vì có nhiều sự kiện liên quan đến các bạn trẻ. Trước hết là Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới diễn ra tại Brazil. Chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này do Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chọn: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, cách riêng của những người trẻ. Để có thể “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, Đức nguyên Giáo Hoàng đã viết trong sứ điệp ngày quốc tế Giới Trẻ như sau: “Cha khuyến khích các con hãy kiên trì trong đức tin, tin chắc rằng Đức Kitô hằng ở cạnh bên các con trong mọi cơn gian nan thử thách”.
Tiếp nối vị tiền nhiệm của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương kiêm đã nói lên ý nghĩa của ngày đại hội này trước khi lên đường sang Brazil như sau: “Tất cả mọi người đến Rio muốn nghe tiếng nói của Đức Giêsu, lắng nghe Đức Giêsu” và họ muốn thưa với Chúa rằng “Con phải làm gì cho cuộc đời của con? Đâu là lộ trình cho con?” – Đó là cuộc gặp quan trọng mà Đức Giáo Hoàng muốn người trẻ gặp được ở Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì vậy có thể nói “kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu, hầu trở thành nhân chứng cho Chúa” chính là chủ đề nỗi bật trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này.
Còn ngoài xã hội, cách riêng tại Việt Nam, tuần qua những ai quan tâm đến làng giải trí, nhất là nhạc trẻ đều bàng hoàng trước cái chết của chàng ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ở tuổi đời 26. Tôi chẳng biết Wanbi Tuấn Anh là ai, cũng chưa từng nghe anh hát, nhưng thấy có nhiều người quan tâm đến sự kiện này nên tôi cũng thử tìm hiểu xem sao. Sau khi tìm hiểu tôi được biết đây là chàng ca sĩ điển trai; dành nhiều giải thưởng âm nhạc, nhất là Làn Sóng Xanh, Zing Me…; là thần tượng của nhiều bạn trẻ, nhất là các bạn nữ; giọng hát trầm ấm như lời tâm sự rót vào tai người nghe. Đặc biệt anh có những bài hát như tiên báo trước số phận của mình. Khởi đầu sự nghiệp ca hát với ca khúc hít “đôi mắt”:
“Giờ em nơi phương xa nhiều bỡ ngỡ, giờ còn lại minh bơ vơ, bao nhiêu mộng mơ rồi tan biến đâu ai ngờ. Tình yêu trong anh cho em mãi mãi, để trở về ngồi bên anh, yêu thương còn đây mà đôi mắt kia hao gầy”. Có ai ngờ căn bệnh u não đã làm cho đôi mắt anh “hao gầy” vĩnh viễn. Cách đây hơn một năm, sau khi sang Singapor để giải phẫu, anh biết căn bệnh của mình không thể qua khỏi, nên anh đã sáng tác bài “cám ơn” như trãi tấm lòng: “Dẫu ngày sau đi về đâu nhưng lòng này tôi thầm muốn nói. Tận đáy con tim chân thành vẫn muốn được hát lên: Cám ơn mẹ và ba, cảm ơn một gia đình. Cám ơn người dạy dỗ, cám ơn người sinh thành. Để bây giờ khôn lớn, bước qua bao đắng cay cuộc đời. Cám ơn bạn bè tôi, cám ơn người rất nhiều, vẫn luôn ở bên tôi, dẫu khi tôi khóc tôi vui. Cảm ơn ngày hôm nay, khát khao và hi vọng. Đã cho tôi niềm tin để tôi vững bước tới ngày mai. Cám ơn và cám ơn, vì cuộc sống với bao tiếng cười”. Tôi đã nghẹn lòng khi lần đầu tiên nghe bài hát này, nhất là khi đã biết rõ hoàn cảnh của chàng ca sĩ tài hoa, bạc mệnh này. Trong hoàn cảnh như vậy mà anh vẫn sáng tác và hát lên bài hát: “Cám ơn”.
Anh rất vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Anh nói với mẹ, với gia đình và những người thân yêu rằng anh sẽ chiến đấu cho đến cùng để chống chọi với bệnh tật. Những giây phút cuối cùng ở trần gian này, khi biết mình không thể chiến thắng bệnh tật, anh đã nói với mẹ: “Nếu ở trần gian này con không thể hát, sang thế giới bên kia con sẽ hát tiếp”. Tôi muốn nói đến một sự kiên trì, trong sự kiên trì này có sự phó thác. Cứ tha thiết nài xin theo ý mình, nhưng khi ý Trời đã định, Wanbi Tuấn Anh vẫn sẵn sàng vâng theo .
Từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới với sứ điệp kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu hầu trở thành chứng nhân cho Chúa; và câu chuyện của chàng ca sĩ tài hoa bạc mệnh: Wanbi Tuấn Anh kiên trì vật lộn với cơn bệnh, nhưng khi bị khuất phục, anh vẫn vui vẻ bước vào thế giới bên kia để tiếp tục niềm đam mê của mình, chúng ta đi vào phụng vụ lời Chúa hôm nay để xem sứ điệp lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: St 18, 20 – 32
Đây là cuộc mặc cả giữa Apraham với Thiên Chúa. Khi hai thành phố Xơ đơm và Gômôra tội lỗi quá sức, nói theo kiểu chúng ta bây giờ là “hết thuốc chữa”, Thiên Chúa có ý định giáng phạt hai thành phố này. Nhưng Apraham đã đứng ra để thương lượng với Thiên Chúa, thậm chí có những lúc ông “dạy khôn” Thiên Chúa: “Ngài làm như vậy chắc không được đâu!” (Xh 18, 25a); nói khích Thiên Chúa: Nếu trong thành có người lành mà Chúa tiêu diệt chung với người dữ, thì người ta sẽ nói Thiên Chúa như vậy mà công mình gì?! (x.Xh 18, 25b). Thế là Thiên Chúa đã chịu nhượng bộ Apraham với điều kiện tìm được 50 người công chính. Sau khi suy nghĩ, Apraham đã xin hạ giá: bốn mươi lăm, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, cuối cùng là mười người. Thiên Chúa vẫn đồng ý. Tuy nhiên Apraham chỉ dừng lại ở con số 10 mà không dám van xin nữa. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã quyết định thiêu hủy thành Xơ đơm vì không có được 10 người công chính. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng tha cho gia đình ông Lot là cháu của Apraham. Thiên Chúa sẵn sàng thương lượng với con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài trong sự đối thoại, thậm chí trả giá nữa. Tuy nhiên, Apraham chưa đủ kiên trì để chạm tới lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là bài học để chúng ta kiên trì gắn bó với Chúa.
2. Tin Mừng: (Lc 11, 1-13)
Tin mừng Luca được khởi sự bằng việc cầu nguyện của người Do Thái tại Đền Thờ và kết thúc bằng việc các môn đệ: “không ngừng chúc tụng Chúa trong Đền Thờ”. Điều đó cho chúng ta thấy mặc khải trong Tin Mừng Luca là mặc khải về việc cầu nguyện kiên trì. Vì vậy mà hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài nội dung và thái độ khi cầu nguyện. Nội dung là kinh Lạy Cha. Thái độ là kiên trì.
Để dẫn chứng cho thái độ kiên trì cầu nguyện, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người bạn quấy rầy, nửa đêm lại nhà người ta gõ cửa vay bánh. Nếu không cho vì tình bạn, thì chủ nhà cũng cho vì sự quấy rầy của người này. Qua dụ ngôn đó Chúa Giêsu kết luận con người còn như vậy huống chi là Thiên Chúa. Vì vậy Ngài nói với các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9). Đó là sự kiên trì.
Tuy nhiên, thánh Phaolô nói: “Anh em không có là vì anh em không xịn. Anh em xin mà không được là vì anh em xin không đúng”. Vì vậy xin là chuyện của chúng ta, còn cho hay không là quyền của Thiên Chúa, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Cho nên trong kiên trì phải có sự phó thác. Tôi cứ xin, nhưng Chúa muốn sao tôi chịu vậy.
Cách đây hai tuần, qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, chúng ta biết rằng con đường theo Chúa là con đường yêu thương tha nhân, một tình yêu thương vượt trên mọi lề luật. Chúa Nhật tuần rồi, qua hình ảnh của Maria, chúng ta biết được con đường đó là con đường lắng nghe lời Chúa. Còn hôm nay, con đường đó là con đường cầu nguyện trong thái độ kiên trì nhưng biết phó thác.
II. CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ, PHÓ THÁC
Đức tin là cuộc hành trình đòi hỏi chúng ta phải liên tục lên đường. Thiên Chúa đã nói với Apraham: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Điều đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ của con người là đón nhận lời của Thiên Chúa, bước đi trong sự chỉ dạy của Ngài. Vì vậy, đức tin đòi hỏi chúng ta phải biết kiên trì và phó thác.
1. Kiên trì:
Phải kiên trì vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai bền đổ đến cùng sẽ được cứu độ”. Giá trị của mọi việc và mọi người là ở chỗ kiên trì đến mức nào. Nếu các môn đệ chỉ nhắm đến những cái trước mắt thì các ông sẽ thất vọng hoàn toàn. Quả thực có những lúc các ông hoàn toàn thất vọng. Đức tin là một cuộc hành trình. Đời sống đạo không phải một sớm một chiều, một khoảng thời gian nào đó do chúng ta chọn lựa, nhưng là cả cuộc đời chúng ta. Mà cuộc đời thì có biết bao thăng trầm, sướng khổ. Có những mảnh đời trầm nhiều hơn thăng, khổ nhiều hơn sướng… Vẫn còn nhiều người, thậm chí là chính chúng ta thường than thở: “Sao mà khổ dữ vậy!” Vẫn còn nhiều người đạo đức thốt lên trong cầu nguyện: “Chúa ơi, Chúa thử thách con đến bao giờ?” Nếu tôi là Chúa, tôi sẽ trả lời: “Tới chết lận con!” Đức Maria, thánh nữ Mônica, cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là những mẫu gương cho chúng ta trong sự kiên trì, nhẫn nại.
2. Phó thác:
Tuy nhiên nếu kiên trì mà không có sự phó thác thì chúng ta sẽ trở thành lì lợm, vô cảm, “trơ mặt ra như đá”. Kiên trì trong phó thác là chúng ta không bắt Chúa phải làm theo ý mình, nhưng là sự chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Vì vậy khi lời cầu xin không được nhậm lời thì đó cũng là một ân huệ của Chúa, vì Chúa luôn ban cho chúng ta điều mà Ngài thấy là tốt đẹp. Sự phó thác xuất phát từ lòng tin Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài biết những gì cần thiết cho chúng ta.
Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
“Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.
Chúng ta cứ xin những gì mình muốn, nhưng đừng bao giờ muốn theo ý mình. Đó là kiên trì trong phó thác.
Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên TN 17-C119
Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn chúng ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản của chính chúng ta. Tuy nhiên, không phải là chúng ta xin điều gì thì được điều ấy. Thiên Chúa nhân lành không bao giờ ban điều xấu cho con cái Người là chúng ta. Quà tặng cao quý nhất là Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ và nâng đỡ chúng ta.
Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, "nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.
Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ. Ý muốn của chúng ta thường hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.
Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc đầy đủ mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói "no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc" đó sao? Đức Giêsu muốn tránh cho chúng ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn chúng ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì như hoa huệ ngoài đồng Thiên Chúa cũng nuôi.
Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai là hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ. Con người cần Thiên Chúa tha nợ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết bỏ qua cho anh em mình "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh; cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu mỗi người.
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt xảy đến cho con người, là bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại... nói chung là điều xấu. Xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta luôn bình an, hạnh phúc.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Khi đọc lời kinh này trong tâm tình con thảo, đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy niệm, chúng ta làm phong phú đời sống tâm linh của mình mỗi ngày.
Lạy Cha trên trời là Cha chúng con. Chúng con dâng Cha tâm tình ngợi khen, chúc tụng, thống hối và nguyện xin. Chúng con nguyện cho mọi người nhìn nhận Cha là Chủ tể trời đất muôn vật, là Đấng thống lãnh, điều khiển lịch sử nhân loại. Chúng con nguyện cho sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần ngự trị khắp mọi nơi. Chúng con xin dâng ý riêng con để cầu cho thánh ý Cha được thành tựu khắp nơi. Xin cho chúng con trở nên những người nghèo khó, biết chấp nhận cuộc đời, biết chấp nhận con người. Xin gìn giữ chúng con luôn được bình an, hạnh phúc. Amen.
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất TN 17-C120
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa
Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: "Abba!"Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.
Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: "Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần". Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.
Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.
Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.
Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.
"Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày". Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: "Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng" (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ "chúng con", chia sẻ lương thực với những người đang đói.
"Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con". Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: "Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ". Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.
"Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ". Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: "Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).
"Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ". Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.
"Dụ ngôn người bạn quấy rầy". Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: "Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn". Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.
Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào TN 17-C121
Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người bằng niềm tin. Tin Mừng Thánh Luca (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy Cha...'“. Ngài mời gọi các môn đệ hướng về Cha, không phải Ngài dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha với trọn niềm tin vì: “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền” (Ca nhập lễ).
Gương của tổ phụ Abraham
Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa đã tỏ ý định của Ngài cho Abraham biết (St 18,1), và Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Thiên Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Quả thật, bản văn Thánh Kinh thuật lại những lời Chúa phán cùng Abraham: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ” (St 18, 20-21). Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt các thành Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có của Abraham, ông đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi: Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mười người xuống còn năm người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, Ngài chú ý đến những kêu xin của ông.
Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Đức Giêsu cầu nguyện thế nào và Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).
Chuyện là khi các môn đệ Đức Giêsu chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời xin của môn đệ và Ngài dạy: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy cha...'“. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Ngài không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài tình phụ tử hỗ tương giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và con người tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.
Đức Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Ngài đưa con người vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta khiêm tốn và tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy nhiên, lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý”; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống”; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ”; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)... Cũng cách thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà hình như Thiên Chúa trung thành hoàn toàn vắng mặt.
Thiên Chúa luôn giữ lời hứa cứu độ, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa đối với chúng ta? Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Đức Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao? Chính Chúa, là kho tàng duy nhất và quí giá mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện; Lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.
Lấy lại những lời nguyện cầu của Đức Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang Lời thương xót của Chúa Cha muốn cứu độ người ta. Amen.
Nét đặc trưng làm người, dễ thấy bộc lộ và phát hiện. ‘Tâm linh’ quy hướng con người về thế giới TN 17-C122
Nét đặc trưng làm người, dễ thấy bộc lộ và phát hiện. ‘Tâm linh’ quy hướng con người về thế giới huyền linh vượt ngoài khả năng vũ trụ. Tâm linh được phú bẩm, là nguyên si như hạt giống hay như lời Đức Giêsu nói về nén bạc,‘mỗi người một nén’ (x.Lc.19,13). Có kẻ mang chôn giấu, có kẻ đem đi sinh lợi. Tâm linh thể hiện không gì đặc thù hơn là cầu nguyện. Cầu nguyện, với tư thế trang nghiêm, biểu lộ trong tưởng nghĩ hay bằng môi miệng thầm thĩ, có khi nói lớn tiếng.
Nay có môn đệ cả dám xin Thầy dạy cầu nguyện ‘như Gioan tiền hô đã dạy môn đệ ông’. Dạy cầu nguyện ư? Có thể là giúp tâm linh thức tỉnh. Có mà chưa sử dụng xem là chưa thông hoặc chưa đánh thức. Đón nhận lời xin, Đức Giêsu dạy họ cầu nguyện với những lời khúc chiết, đủ, gọn, tự phát đã trở nên nguyên mẫu bất biến: kinh Lạy Cha.
2. Đức Giêsu dạy ‘kinh Lạy Cha’.
Kinh Lạy Cha, mà Đức Giêsu dạy môn đệ Người, bộc lộ tâm tình cả hai thành phần, tâm tình của TC như của Đức Giêsu vị Thầy trên đường lên Giêrusalem thực hiện cứu độ, kế đến là của con người đáp lại.
Những tâm tình ấy được biểu lộ ngay khởi đầu trong hai tiếng xưng hô: Lay Cha. Lạy Cha, lối xưng hô rất quen thuộc, rất đời thường và cũng rất mật thiết. Lạy Cha trước hết bày tỏ sự hiểu biết Đấng sinh thành, còn là sự nhìn nhận, đồng thời bộc lộ tình Thiên Chúa với đàn con do mình tác thành. Vì tiếng Lạy Cha, là cách xưng hô thông dụng và gần gủi giữa con người trần thế trong mối quan hệ huyết thống gia đình. Âm vang nghe tình thấm đậm giữa kẻ sinh thành và những người được sinh thành. Lời đâu tiên trên môi miệng em bé tập nói bi bô ‘Cha, Cha’! Với người sinh ra, khi nghe âm vang ấy, không khỏi thích thú vui mừng. Với người được sinh ra, thốt lên âm vang ấy, để diễn tả đầu đời sự cảm nhận Đấng sinh thành, tuy còn sơ đẳng mờ mịt. Điều đó vẫn nhận chân được mối quan hệ hữu cơ giữa nguyên lý và hệ quả.
Với Đức Giêsu, khi dạy cho các môn đệ kinh Lạy Cha, Người cũng muốn thực tâm dạy cho họ biết họ thật là những người được Người sinh thành như Kinh Tin Kinh đã tuyên tín: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
3. Năm điều ‘uớc-nguyện-xin’ kinh Lạy Cha.
Năm điều để xin gồm hai nhóm đối tượng: Thiên Chúa và toàn thể nhân loại anh em.
Những điều dành cho Thiên Chúa trước hết và ưu tiên! Với Luca chỉ cần hai nội dung quy về Thiên Chúa: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến (c.2). Hai ý cũng đủ diễn tả tâm tình ngoan ngùy của những người con thảo hiếu đã nhậnbiết, trên hết và trước hết, đâu là Đấng sinh dựng. Bằng lý trí dần dà đàu sâu rông rải hiểu biết trong sáng hơn. Với con tim, bày tỏ tâm tình sâu sắc trọng kính mến yêu. Với tình cảm ý chí đưa tâm quyết đền đền ơn đáp nghĩa.
Thế nên, là con, để diễn đạt thảo hiếu tốt nhất, tiên thiên mong ước những điều cao cả hướng về Cha mỗi dịp cầu nguyện. Đối lại những điều ấy cũng mang lại hữu ích cho chính mình. Vì hai điều ước ấy cũng chinh là những điều mà Thiên Chúa mong ước cho chính mình vì con người trần. Biết rằng Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối vô song, hơn hẳn cha mẹ cõi đời, Ngài không thể quên ai, để mặc bất cứ gì Ngài sinh dựng. Cũng như cõi trần, không một người cha nào có thể quên bất kỳ đứa con nào do mình sinh ra. Với Thiên Chúa nỗi nhớ của Ngài phải tuyệt đối. Tuy nhiên, phần con người trong thế giới vật chất xa cách, không hẳn tất cả đều có thể dễ dàng và trực giác quy về nhìn biết Thiên Chúa và phận vụ mình để chu toàn.
Thứ đến là ba điều cầu xin cho chung toàn thể, cũng bao gồm cho mỗi người. Ở đây cũng vậy, với Luca, xin ba điều ước là đủ: cho hết mọi người ai cũng đủ của ăn hằng ngày, được tha thứ lỗi lầm trót phạm bởi hành vi ám muội trong các mối tương quan, sau hết được gìn giữ bênh vực khỏi cám dỗ ác thần.
Những điều ước xin như thế chia hai nhóm, duy một điều dành cho phần xác, hai điều dành cho tâm linh. Phần xác để hoàn tất cuộc lữ hành. Tâm linh để đạt được mong ước hạnh phúc bất diệt. ‘Lối-xin’ như vậy xem ra coi trọng và đặt nặng phần tâm linh hơn thể xác. Vậy đây dạy các điều chỉ phải xin ít oi như thế thấy có giống với những gì mà lệnh truyền giữ cho các môn đệ được sai đi rao giảng trước đây một khoảng: không mang gì, ai dọn cho gì dùng thứ đó, không lựa chọn thay đổi nơi ăn chốn ở!? Có phải bởi tại các môn đệ Đức Giêsu là những người phải nên giống Người, giống tinh thần từ bỏ, giống hình ảnh là những người phản ảnh đời sống nước trời ngay hôm nay và thực thụ ngày mai? Thực tế, không sao quên được hình ảnh trải nghiệm từ cuộc đời của những người đã sống trong trần gian, nay thăng lên vinh quang mai giáng hạ tồi tệ. Như cuộc đời vị quan cũng là nhà thơ lỗi lạc Nguyễn Công Trứ chẳng hạn! Ông trải nghiệm thật thấm thía đời, đã viết nên những vần thơ đính kèm nguyên tắc sống bất hủ, như chủ trương sướng khổ là tùy vào: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc”, hay vang danh với bài thơ ‘Hàn nho phong vị phú’, rời quan sang về hưu làng, cảm nghiệm cảnh hàn vi, chán chê thời huy hoàng thu nhặt, trở về thích thú với cảnh thanh bần:“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch... Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”.
Biết rằng, dù dạy cho môn đệ xin những điều ít oi thế, Đức Giêsu không hề muốn có sự nghèo mạc cho bất cứ ai! mà chủ đích con người làm sao để chiếm hữu cuộc sống là hình ành bất tận trong cõi trường sinh và hạnh phúc Nước Trời.
4. Lời dạy chí tình ‘hãy xin’.
Sau cùng, khi truyền dạy ‘biểu thức’ dành cho ‘mỗi khi’ cầu nguyện, Đức Giêsu nhắc nhớ việc hãy xin: ‘Anh em cứ xin’ (c.9). Là thế nào? Cầu xin với vài phong cách cần thiết.
- Năng cầu xin và can đảm cầu xin! Bởi ngay các tông đồ và môn đệ xưa, không thấy họ đã có thói quen thực hiện như vậy, thường thấy tán gẫu, tranh cải hoặc mê ngủ. Hãy xin để biết Thiên Chúa là Cha trên trời đã muốn ban ơn thế nào vì yêu thương dào dạt?
- Kiên trì và nhẫn nại xin! vì ‘điếu được ban’ còn liên quan quan đến bao hệ lụy khác. Đã xin mà chưa gặp được không có nghĩa là không cho! Vì có biết bao điều, để hiểu được, còn phải nhờ vào ơn mạc khải soi sáng? Chẳng hạng, lắm khi điều xin chưa có lại có được điều chẳng hề xin. Khi này cần đón nhận trong khiêm tốn đợi chờ.
- Khi cầu xin, cầu xin với tâm ý chân thật, khiêm nhường và tin tưởng phó thác! Đây có là những yếu tố đầy mặc cả cho sự thành bại khi cầu xin?
Chắc rằng Thiên Chúa hằng muốn và kêu gọi con người cùng Ngài hưởng phúc trường sinh nước trời. Dù con người không hề có ai xin, Ngài vẫn trường cữu mong ước. Ý muốn này được bộc lộ qua dấu chỉ, biểu lộ các dấu chỉ ấy cách minh nhiên không che dấu dù quá khứ hay hiện tại. Thế, vì Ngài luôn là Đấng quang minh chính đại và là Thiên Chúa tình yêu trung tín.
Nhìn lại. Với kinh Lạy Cha, Đức Giêsu trao cho các môn đệ ‘biểu thức’ cầu nguyện thích hợp cho cộng đoàn vào thời buổi Tân Ước. Biểu thức có cấu trúc định thức sẵn. Những điều xin mang đến hạnh phúc vừa ý đôi đàng, không thừa không thiếu. Tâm tình cầu xin là cần thiết. Vậy mỗi khi cầu xin, cầu xin với hay ngoài khinh Lạy Cha, tâm tình cầu xin cần được gắn kết mật thiết với tâm tình Đức Giêsu. Khi đó việc cầu xin sẽ mang lại cho người điều không thể không thỏa đáng hy vọng.
Lạy Thầy, trước thánh nhan Thầy, con dâng lời cầu xin. Điều gì chưa phù hợp, xin hãy tha thứ, Vì Danh Cha cả sáng, xin cho con luôn bình an sống thuận theo thánh ý Người.
Vì không có nên mới “xin”, nhưng có khi chúng ta đã có mà vẫn phải xin: Xin lỗi. Thật vậy, “một TN 17-C123 Ephata
Vì không có nên mới “xin”, nhưng có khi chúng ta đã có mà vẫn phải xin: Xin lỗi. Thật vậy, “một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn là im lặng” ( Stephen Gosson, 1554-1624, văn sĩ trào phúng người Anh ). Nói đến động thái xin lỗi thì không thể không nhắc tới động thái tha thứ.
Xin lỗi và tha thứ là hai động thái luôn cần thiết và cấp bách, vì đó là động thái của tình yêu thương, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót, đặc biệt là trong năm 2016 này – Năm Thánh LÒNG THƯƠNG XÓT.
Nhân vô thập toàn. Ai cũng là tội nhân, ai cũng cần xin lỗi, và tất nhiên ai cũng cần tha thứ. Vả lại, tất cả chúng ta đều là huynh đệ trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa, không thể không yêu thương hoặc không tha thứ.
Tại sao phải xin lỗi ? Người ta đưa ra 10 lý do:
1. Vì những lúc tôi hứa mà không thực hiện cho tha nhân. 2. Vì những lúc tôi thờ ơ, vô cảm với nỗi đau của tha nhân. 3. Vì những lúc tôi ích kỷ, vụng về, hiểu lầm nên làm phiền tha nhân. 4. Vì những lời nói, hành động của tôi, dù vô tình hay cố ý, đã làm tổn thương tha nhân. 5. Vì những lúc tôi không giúp đỡ tha nhân, và vì những điều tôi muốn mà hèn nhát không dám làm. 6. Vì những mối bất hòa, cãi vã, mâu thuẫn,... với tha nhân. 7. Vì những lúc tôi làm cho chính mình đau khổ và nghĩ xấu về tha nhân. 8. Vì những lúc tôi cố gắng mà vẫn chưa làm được điều tốt đẹp cho cuộc đời và xã hội. 9. Vì những lúc tôi đã làm cho tha nhân thất vọng, hụt hẫng, mệt mỏi,... 10. Vì những lúc tôi đã thay đổi thất thường, đòi hỏi người khác phải theo ý mình.
Tại sao phải tha thứ ? Người ta cũng đưa ra 10 lý do:
1. Tha thứ cho người khác về điều dối gian mà họ dành cho tôi. 2. Tha thứ cho người khác về những gì xấu xa nhất mà họ nghĩ về tôi. 3. Tha thứ cho người khác vì họ đã làm tôi phải khóc, đau lòng. 4. Tha thứ cho người khác về sự không chân thành, lãnh đạm, xa lánh, mà họ dành cho tôi. 5. Tha thứ cho người khác về sự vô tâm của họ trước những nỗi khó khăn của tôi. 6. Tha thứ cho người khác về sự giả dối, chỉ giả vờ quý mến tôi mà thôi. 7. Tha thứ cho những lỗi lầm của tha nhân để cùng nhau sống tích cực, hướng tới điều tốt đẹp hơn. 8. Tha thứ cho bất cứ ai làm tôi tổn thương, tự giải thoát mình để có thể sống thanh thản. 9. Tha thứ cho chính mình, vì đôi khi chính mình sống thật tồi tệ. 10. Tha thứ cho mọi người, bất kỳ ai, về bất cứ lỗi lầm nào.
Đôi khi “xin” có thể là năn nỉ hoặc mặc cả. Trình thuật St 18, 20-32 cho biết về việc Tổ Phụ Ápraham “mặc cả” với Thiên Chúa vì lòng thương xót tha nhân.
Chính Thiên Chúa đã lên tiếng: “Tiếng kêu trách Xơđôm và Gômôra thật quá lớn ! Tội lỗi của chúng quá nặng nề ! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”.
Ông Ápraham thưa với Đức Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao ? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao ? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu ! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao ?” Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó”.
Ông Ápraham “mặc cả” với Thiên Chúa, ông hạ từ năm mươi người lành xuống còn bốn mươi lăm người, rồi bốn mươi người, ba mươi người, hai mươi người, thậm chí chỉ còn mười người. Dù là con số ít ỏi, Thiên Chúa vẫn chấp nhận mà không nỡ phá huỷ thành Xơđôm. Vâng, Thiên Chúa luôn nhẫn nại và muốn tha thứ. Thế nhưng cả thành phố đó cũng không có được mười người lành. Nhân loại vẫn bướng bỉnh, cố chấp, ỷ lại và làm ngơ với lòng thương xót của Ngài. Làn ranh giữa “mặc cả” và “lợi dụng” rất mong manh. Chắc chắn ông Ápraham không có ý lợi dụng Lòng Chúa Thương Xót, nhưng chúng ta phải lưu ý: Đừng bao giờ lợi dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa !
Ma quỷ rất ranh mãnh, sợ nhất là nó cám dỗ chúng ta ảo tưởng về sự thánh thiện của mình. Thật vậy, Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng ( 1873-1897 ) cho biết: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Kinh khủng thật ! Thế nên Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng !” ( Ep 4, 27 ).
Ước gì chúng ta khả dĩ cảm nghiệm được Thiên Chúa như tác giả Thánh Vịnh để có thể thân thưa chân thành: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” ( Tv 138, 1-3 ).
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự ( Sbn 28, 9; Gđt 8, 14; Et 5, 1; 2 Mcb 7, 35; 2 Mcb 9, 5; 2 Mcb 12, 22; 2 Mcb 15, 2; G 28, 27; Tv 139, 2; Cn 16, 2; Cn 21, 2; Cn 24, 12; Kn 1, 6; Kn 7, 23; Hc 23, 19; Hc 42, 20; Gr 11, 20; Gr 20, 12; 1 Cr 12, 4-6 ), không gì có thể che giấu Ngài, dù là điều nhỏ nhoi nhất và tinh vi nhất. Ngài biết chúng ta vốn dĩ xấu xa ( x. Lc 11, 13 ) nhưng Ngài vẫn đại lượng: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” ( Tv 138, 6-7 ). Ngài luôn quan phòng, che chở, giữ gìn chúng ta dù có lúc chúng ta không nhớ đến Ngài. Nếu Ngài nhắm mắt làm ngơ chúng ta chỉ trong giây lát thôi, chúng ta sẽ không thể sống nổi. Thế mà chúng ta vẫn luôn muốn nổi loạn !
Hôm nay và bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy cùng nhau thân thưa với Ngài: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” ( Tv 138, 8 ).
Thánh Phaolô nói rõ về thân phận của chúng ta: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” ( Cl 2, 12-13 ).
Thiên Chúa vô cùng đại lượng, cao thượng, từ bi và nhân hậu, chúng ta chỉ là những “con nợ”, chúng ta chưa mở miệng cầu xin mà Ngài đã tha thứ rồi, tha thứ vô điều kiện: “Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” ( Cl 2, 14 ). Vì thế, chắc chắn chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, không còn cách nào khác.
Cầu xin là điều cần thiết, cầu nguyện là lương thực hằng ngày. Có một lần, sau khi Đức Giêsu cầu nguyện xong, có một môn đệ nói xin Ngài dạy cách cầu nguyện, và Ngài đã dạy Kinh Lạy Cha ( Lc 11, 2-4; Mt 6, 9-13 ). Đó là “Đệ Nhất Kinh”, là lời kinh cao cả được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Chúng ta vô cùng diễm phúc, vì chỉ là tội nhân khốn nạn mà hằng ngày chúng ta nhiều lần được tôn xưng Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời…”
Để minh họa lòng thương xót, Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về “người bạn quấy rầy và việc cầu xin”. Ngài nói với họ: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó”.
Chỉ là tội nhân, là phàm nhân mà người ta còn thế, huống chi Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Anh em cứ XIN thì sẽ ĐƯỢC, cứ TÌM thì sẽ THẤY, cứ GÕ cửa thì sẽ MỞ cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. Nhưng cũng cần lưu ý: Đừng lải nhải, chớ lẻo mép, lắm lời ! ( x. Mt 6, 7 ).
Và để tái xác nhận, Chúa Giêsu nói thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?” Tin sao, được vậy ( x. Mt 8, 13; Mt 9, 29 ). Đó là hệ lụy tất yếu vậy. Đúng như Thánh Lm. Don Bosco ( 1815-1888 ) xác định: “Chính Đức Tin hoàn thành tất cả mọi sự”.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết vững tin khi cầu xin, và luôn biết mau mắn tha thứ cho người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời TN 17-C124
Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng. Động từ "dám" diễn tả một thái độ kính sợ đối với Chúa. Thái độ này bắt nguồn từ truyền thống lâu dài trong Kinh Thánh, được minh họa tuyệt vời trong cảnh Môsê gặp Thiên Chúa trong bụi gai bốc cháy: "Chớ lại gần. Cởi dép ra, bởi đất ngươi đang đứng là đất Thánh" ( Xh 3, 5 ). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người – chúng ta mới dám đến gần Thiên Chúa là Cha, trong niềm tin yêu thảo hiếu: "Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và được đến cùng Cha, đầy lòng tín thác vì đã tin vào Ngài" ( Ep 3, 12 ).
Kinh Lạy Cha là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của Chúa, lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha còn là lời kinh của Hội Thánh, trong Phụng vụ, Kinh Lạy Cha luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các Giờ kinh Nhật tụng, trong Thánh lễ và trong các Bí tích gia nhập Kitô giáo.
Thánh Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Martha, Maria. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu”. Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến, Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha. Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm Nhà Thờ Kinh Lạy Cha tại Giêrusalem. Tảng đá Chúa ngồi dạy Kinh Lạy Cha vẫn còn đó. Nhà Thờ này do các Soeurs Dòng Kín Cát Minh người Pháp coi sóc. Nơi đây có 114 phiến đá ghi Kinh Lạy Cha bằng 114 ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do Đức cố Giám Mục Phạm Ngọc Chi đặt từ năm 1959.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa để lại. Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
Lời thân thưa
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.
Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa: Lạy Cha chúng con ở trên Trời.
Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.
Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu.
Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, luôn tín thác vào Cha, thực thi ý Cha, và sống tình huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau. Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đọc với tâm tình khiêm tốn và biết ơn: khiêm tốn nhận ra sự thật về con người bất xứng của mình, tạ ơn vì biết rằng tất cả đều là ân huệ Thiên Chúa ban.
Hai lời nguyện ước
"Xin làm cho Danh Thánh Cha vinh hiển" và "Triều đại Cha mau đến" là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha của mình.
Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, Danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.
Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì ? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.
Hai lời nguyện ước là xin cho Danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào sự sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo, biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên Trời, chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
Ba lời cầu xin
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.
Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để Chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Nhý thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.
Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vượt thắng mọi cám dỗ.
Phân biệt "thử thách" và "cám dỗ". Thánh Phaolô tự hào vì những thử thách gian truân gặp phải trong đời: "Gian truân tạo kiên nhẫn, kiên nhẫn tạo nhân đức" ( Rm 5, 3-5 ). Còn cám dỗ là sự xúi giục điều xấu, đưa đến tội và sự chết, và Thiên Chúa không cám dỗ ai cả: "Bị cám dỗ, đừng ai nói: Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ. Vì Thiên Chúa không thể bị điều dữ cám dỗ Người, và Người cũng không cám dỗ ai. Mỗi người có bị cám dỗ là do đam mê của mình" ( Gc 1, 13-14 ).
Phân biệt "bị cám dỗ" và "sa chước cám dỗ". Bị cám dỗ là chuyện tự nhiên của thân phận con người. Chính Chúa Kitô cũng bị cám dỗ ( Mt 4, 1-11 ). Và vì thế, không có tội lỗi gì khi bị cám dỗ. Vấn đề là ở chỗ chiều theo cơn cám dỗ. Ở đây, ta cần được ơn biện phân các thần khí để nhận diện sự ác, xuất hiện với dáng vẻ bên ngoài "tốt đẹp... nhìn thật hấp dẫn" ( St 3, 6 ), nhưng bên trong lại ẩn chứa nọc độc tội lỗi và sự chết. Có chiều theo cơn cám dỗ hay không, điều đó tùy thuộc tâm hồn ta: "Kho tàng, của người ở đâu, lòng người ở đó... Không ai có thể làm tôi hai chủ..." ( Mt 6, 21-24 ).
Chúng ta cần sự trợ giúp của Thiên Chúa để hướng lòng về điều thiện: "Chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước" ( GI 5, 25 ). Thánh Phaolô quả quyết: "Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức chịu đựng" ( 1Cr 10, 13 ). Chính vì thế, cần tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ ( x. Mc 13, 9; Cl 4, 4; 1Pr 5, 8-10 ).
"Nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ". Sự dữ chính là Satan, kẻ đối nghịch với Thiên Chúa, “kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại” ( Kh 12, 9 ); "Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối" ( Ga 8, 44 ). Chúa Kitô phục sinh đã chiến thắng "Ðầu mục của thế gian này” ( Ga 14, 30 ). Chúa Kitô trấn an chúng ta: "Ðừng sợ, Thầy đã thắng thế gian". Và vì thế, trong thánh lễ, chúng ta luôn cầu xin cho cả gia đình nhân loại được giải thoát khỏi Satan và mọi việc làm của nó, chúng ta cũng cầu xin hồng ân quý giá là sự bình an và ân sủng để kiên trì chờ đợi Đức Kitô lại đến, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ cách dứt khoát: "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời".
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
Kinh Lạy Cha, lời kinh Chúa dạy, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta “dám” thân thưa lời cầu nguyện hàng ngày với Cha trên trời. Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, vị chủ tế nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, tuyên xưng rằng:
Chính nhờ Ðức Kitô, Cùng với Ðức Kitô, Và trong Ðức Kitô, Hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, Mọi vinh quang và danh dự, Ðều thuộc về Cha, Là Thiên Chúa toàn năng, Ðến muôn thuở muôn đời. Amen.
Đức Thánh Cha Phanxicô kể: “Tôi nhớ đến một Linh Mục giải tội, là một cha Dòng Capuchinô, TN 17-C125
Đức Thánh Cha Phanxicô kể: “Tôi nhớ đến một Linh Mục giải tội, là một cha Dòng Capuchinô, phục vụ ở Buenos Aires, thủ đô Achentina. Một lần, cha ấy đến gặp và muốn nói chuyện với tôi. Cha ấy nói: “Con cần sự giúp đỡ của Đức Hồng Y ( khi ấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang là Hồng Y Tổng Giám Mục Giáo Phận thủ đô Buenos Aires ). Luôn luôn có rất nhiều người đến xưng tội với con; đủ mọi hạng người, những người khiêm nhường, cũng như người thiếu khiêm nhường, cũng như nhiều Linh Mục…. Con đã tha tội cho rất nhiều người và thỉnh thoảng con lo lắng, vì con đã tha quá nhiều.”
Chúng tôi đã nói về lòng thương xót và tôi hỏi cha ấy là cha đã làm gì khi cha cảm thấy bối rối như thế. Cha đã trả lời: “Con đến trước nhà Tạm Thánh Thể trong ngôi Nhà Nguyện bé nhỏ của chúng con và con nói với Chúa Giêsu: Chúa ơi xin tha tội cho con, vì con đã tha tội quá nhiều. Nhưng chính Chúa đã làm gương xấu cho con !” Tôi không bao giờ quên câu chuyện này. Khi một Linh Mục cảm thấy được sự thương xót này ngay trên chính da thịt mình, thì Linh Mục ấy có thể trao ban sự thương xót cho người khác”.
Vị Linh Mục Dòng Capuchinô mà Đức Thánh Cha Phanxicô kể, đến chính là cha Luis Dli, 89 tuổi. Cha đã dùng hết thời gian của mình để ngồi tòa giải tội, ở trong một khu phố ngoại ô thủ đô Buenos Aires. Trong một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao cha trả lời Đức Hồng Y Bergoglio, như Đức Thánh Cha đã kể, cha Luis trả lời rằng, cha đã rất tin tưởng Đức Hồng Y Bergoglio và một lần Đức Hồng Y đã bảo cha: “Hãy tha thứ ! Hãy tha thứ ! Điều quan trọng là tha thứ !” Và cha đã trả lời Đức Hồng Y, như Đức Thánh Cha đã kể lại. Chúa Giêsu làm gương xấu, vì Chúa tha thứ tất cả; Chúa không bao giờ đẩy ai ra xa Ngài.
Đức Hồng Y Bergoglio, là Đức Thánh Cha bây giờ, đã bị ấn tượng với câu trả lời này. Ngài biết cha Luis ngồi giải tội nhiều giờ sáng, chiều. Nhiều lần ngài đã khuyên các Linh Mục đến xưng tội với cha Luis, khi họ gặp những vấn đề. Cha đã lắng nghe họ và đã trở thành bạn với nhiều người trong số họ. Đến với cha họ được lắng nghe và cảm thấy tốt hơn về tinh thần cũng như về mục vụ.
Cha Luis chia sẻ thêm: “Cha cám ơn Đức Thánh Cha đã đặt tin tưởng nơi cha, dù cha không xứng đáng. Cha không phải là một Linh Mục hay Tu Sĩ học cao và có bằng cấp, nhưng cuộc sống đã dạy cho cha rất nhiều; cuộc sống đã ghi dấu trên cha, vì cha sinh ra trong sự nghèo khó và cha cảm thấy cha nên luôn luôn trao ban lời thương xót, sự giúp đỡ và gần gũi với những ai đến với cha. Không ai phải bỏ đi với ý nghĩ, là họ không được hiểu hay họ bị hất hủi khinh bỉ.”
Với kinh nghiệm của một Linh Mục 89 tuổi đã dành cả cuộc đời để giải tội, cha Luis khuyên các Linh Mục như sau: “Tôi không có gì khác để nói ngoài điều Đức Thánh Cha nói, vì tôi cảm và sống nó. Lòng thương xót, sự thông hiểu, dành cuộc đời mình để lắng nghe, hiểu và thử đặt mình trong “đôi giày” của người khác, để hiểu những gì đang diễn ra. Chúng ta, các Linh Mục không nên giải tội như những vị công chức: “Tôi ban cho họ ơn tha tội”, thế là xong, nhưng trái lại, tôi tin là chúng tôi cần tỏ sự gần gũi và đặc biệt đối xử tốt với họ, vì thường có những người không biết xưng tội là gì. Hãy nói với họ: “Đừng sợ ! Đừng lo lắng ! Tất cả những gì bạn cần làm khi xưng tội, là mong muốn được trở nên tốt hơn.” Chúng ta hãy quên họ thường pham tội thế nào, hay với ai, hay điều gì, vì những điều này dường như đẩy họ ra xa chúng ta. Và công việc của tôi là mang con người đến gần Thiên Chúa, gần Chúa Giêsu hơn.”
Còn đối với những tội nhân đến xưng tội, cha Luis thường khuyên họ đừng sợ. Cha thường trình bày hình ảnh người cha nhân từ ôm chầm đứa con hoang đàng. Họ thường hỏi cha là Thiên Chúa sẽ tha thứ cho con không. Cha nói với họ: “Thiên Chúa ôm lấy chúng ta, Ngài chăm sóc, yêu thương và đồng hành với bạn. Thiên Chúa đến để tha thứ chứ không để xử phạt. Người từ trời xuống để ở với chúng ta, vậy tại sao chúng ta có thể sợ hãi Thiên Chúa !” ( Hồng Thủy OP, Lm. Luis Dli, cha giải tội giàu lòng thương xót, Vatican Insider 9.5.2016 ).
Linh Mục Luis Dli vừa tái xác nhận nhiệm vụ cao cả của Đức Giêsu nhập thể: “Người từ Trời xuống để ở với chúng ta, vậy tại sao chúng ta có thể sợ hãi Thiên Chúa !” Người hoàn toán xoá tan đi nỗi sợ hãi bắt nguồn từ Ađam, kiêu căng, phản bội, tạo nên hố ngăn cách với Thiên Chúa. Nay Người đưa nhân loại trở về cội nguồn, dẫn dắt những con chiên lầm lỡ đi lạc, trở về đàn chiên duy nhất.
Trích thuật Tin Mừng Chúa Nhật 17 thường niên hôm nay, Thánh Luca tường thuật Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha, một mạc khải rất quan trọng cho tất cả tín hữu Kitô, cũng như một mẫu mực cho tất cả nội dung cầu nguyện sâu sắc, từ tuyên xưng và bảy ý nguyện đến lời bảo chứng bền vững.
“Abba, Cha ơi !” Lời tuyên xưng thân ái
Sang đến thời Tân Ước, Đức Giêsu là Người đầu tiên khởi xướng, thân thưa gọi Đức Chúa Cha là Abba, Cha ơi !, qua lời mào đầu Kinh Lạy Cha. Như vậy, nhờ Đức Giêsu nhập thế, hạ mình, khiêm nhường mặc lấy thân phận làm người, cứu chuộc con người, nhân loại mới được nâng cao, trở nên nghĩa tử ưu ái của Thiên Chúa Cha. Đồng thời Người cũng trở nên huynh đệ với tất cả những ai thực hành Thánh Ý Chúa. “Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời, thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta vậy” ( Mt 12, 50 ).
Với lời tuyên xưng thân ái “Abba, Cha ơi”, Người tái khẳng định mối giao hảo yêu thương tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo thấp hèn, tội lỗi đáng thương. Người không những giải thoát con người khỏi hệ luỵ thế gian, mà còn dẫn loài người trở về thượng giới, khi tuyên dương: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời.” Hơn nữa, Người còn hoà giải nhân loại, triệt tiêu đi mâu thuẫn, xóa bỏ nạn đối xử phân biệt, kỳ thị, đố kỵ, oán ghét, thù hằn, chia rẽ, bất đồng, bất mãn, để tất cả mọi người trở nên anh chị em của nhau, cùng tuyên xưng hai chữ “chúng con” trong Kinh Lạy Cha.
Bảy ý nguyện
Ý nguyện đầu tiên: “Danh Cha cả sáng.” Xin Cha thể hiện sự toàn năng của Cha qua lòng nhân hậu vô cùng, qua lòng thương xót vô biên, qua tình phụ tử vô tận. Cha vốn quyền năng, vinh quang tột bực, không cần đến con người can dự, cũng chẳng cần nhờ đến thụ tạo tôn vinh. Chúng con trân trọng biết ơn, cảm tạ Cha. Xin Cha chiếu toả ánh sáng tình yêu, chân lý và công chính trên mọi sự, để thế gian có thể nhận ra Đấng Tạo Dựng muôn loài.
Ý nguyện thứ hai: “Xin Nước Cha trị đến,” Nước Trời là"nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" ( Rm 14, 17 ). “Khi con người ở trong ân sủng của Thiên Chúa, khi thế giới ở trong trật tự của Thiên Chúa: Đó là Nước Trời” ( Lm. Alfred Delp ).
Ý nguyện thứ ba: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thánh Ý Chúa muốn ban phổ quát ơn cứu độ, trao bình an, hạnh phúc, hoan lạc đến mọi người, không phân biệt dân tộc, màu da, ngôn ngữ, cũng không loại trừ bất cứ ai.
Ý nguyện thứ tư: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.” Xin Cha ban đủ dùng hằng ngày, chẳng dư thừa, cũng chẳng thiếu thốn. Không những lương thực nuôi thân xác, mà cả lương thực thiết yếu cho phần hồn được sống, đó là Lời Chúa và Thánh Thể.
Ý nguyện thứ năm: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Chúng con đều là kẻ phàm hèn, tội lỗi, xin Cha thương tình thứ tha, cũng như chúng con quyết tâm tha thứ cho tất cả những ai xúc phạm đến chúng con.
Ý nguyện thứ sáu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.” Từng giây phút trong đời, chúng con phải gay go chiến đấu những cám dỗ của ba thù, thân xác, thế gian và ma quỷ, xin Cha cứu thoát chúng con.
Ý nguyện thứ bảy: “Xin cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.” Tội lỗi là sự dữ nguy hiểm nhất, thâm độc nhất, luôn đe doạ hãm hại chúng con. Tội lỗi là một lực lượng rất mạnh, rất lớn, rất gần. Thánh Phêrô tông đồ coi tội lỗi chính là sự dữ, là “ma quỉ, thù địch của loài người, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi để cắn xé” ( 1Pr 5, 8 ).
Kiên trì và tín thác
Xin Cha cho chúng con luôn vững vàng cậy trông và phó thác vào tình Cha nhân từ, giàu Lòng Thương Xót. Cha luôn thấu hiểu và ban cho chúng con những gì cần thiết để sống và sống dồi dào. Nhất là vào những lúc gian nan, thử thách, xin Cha giúp chúng con biết chấp nhận, biết chịu đựng, biết thánh hoá đau khổ, cũng như luôn bền vững Tin Cậy Mến.
Lời bảo chứng
“Nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên Trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người." Chúa Thánh Thần trong chúng con chính là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa. Đồng thời chính Ngài là động lực thúc đẩy chung con yêu mến Cha tha thiết, đắm say hơn.
Thánh Phaolô giải thích tầm hoạt động quan trọng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mỗi người: "Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa" ( Rm 8, 26-27 ).
Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: "Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì ! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con." Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử” ( Đường Hy Vọng, số 127 ). Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng cho chúng con dần dần cảm nhận, lãnh hội và thấu hiểu ý nghĩa thâm sâu từng ý nguyện của Kinh Lạy Cha, để chúng con có thể sốt sắng hiệp ý cùng Chúa Thánh Thần dâng lên lời biết ơn, cảm tạ, ca ngợi, tôn vinh Thiên Chúa.
Khấn xin Mẹ cầu bầu, dẫn dắt cho chúng con noi theo Mẹ cầu nguyện, luôn biết tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Chúa trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện Kitô giáo đầu tiên và cao quý nhất (Tôi đang đề cập đến bản văn TN 17-C126
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện Kitô giáo đầu tiên và cao quý nhất (Tôi đang đề cập đến bản văn theo thánh Mátthêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản lại chứa đựng tất cả những mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Không chỉ hướng dẫn chúng ta biết cầu xin những nhu cầu gì, kinh Lạy Cha còn dạy cho ta cách thức cầu nguyện như thế nào nữa.
Tuy nhiên, kinh Lạy Cha lại thường bị người ta đọc rất vội vã và vô ý thức, khiến đánh mất đi ý nghĩa của lời kinh. Đây thật là điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách đúng đắn, kinh Lạy Cha chứa đựng trọn vẹn chương trình sống của người Kitô hữu. Nếu chúng ta thật sự sống theo điều chứa đựng trong lời kinh, chúng ta sẽ được hoàn toàn hoà hợp với tinh thần của Đức Kitô, bởi vì rõ ràng đây là cách thức Chúa Giêsu đã cầu nguyện và đã sống.
Phần đầu của kinh Lạy Cha liên quan tới Thiên Chúa
Chúng ta bắt đầu bằng việc nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là "Cha". Thiên Chúa là cha mẹ của chúng ta, và chúng ta là con cái của Người. Thỉnh thoảng Người hành động như một người cha, và đôi khi lại như một người mẹ.
Vì thế chúng ta cầu khẩn danh Người. Trong khi cầu khẩn danh Người là chúng ta cầu khẩn với Người.
Chúng ta cầu nguyện cho Vương quốc Người trị đến - vương quốc của sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và bình an. Chúng ta phải góp phần mình vào công cuộc thực hiện cho Vương quốc Người trở thành thực tại.
Chúng ta cầu nguyện cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. "Dưới đất" cũng có nghĩa là trong chính cuộc sống của ta. Thánh ý Chúa không phải luôn dễ dàng để thực hiện, nhưng lại luôn là điều tốt nhất.
Phần thứ hai của kinh Lạy Cha liên quan tới chúng ta và những nhu cầu cần thiết
Chúng ta bắt đầu bằng việc cầu xin lương thực hằng ngày của chúng ta. "Lương thực" tượng trưng cho tất cả những nhu cầu vật chất của ta. Tất cả đều thật sự cần thiết, tuy nhiên, chỉ cần đủ cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin ơn tha thứ cho những tội lỗi của chúng ta, và xin được ân huệ để có thể sẵn sàng tha thứ cho những người có lỗi với ta. Không có khả năng tha thứ cho người khác sẽ khiến ta không thể nào đón nhận được ơn tha thứ của Chúa.
Chúng ta cầu nguyện đừng để sa chước cám dỗ. Chúa không bao giờ đặt cơn cám dỗ trên bước đường của ta mà cuộc sống vẫn diễn ra. Và bản thân chúng ta đôi khi lại sa vào cơn cám dỗ của chính ý muốn chúng ta. Chúng ta cầu xin Chúa giúp ta đối phó với những cơn cám dỗ mà chúng tự ý đến, và để ngăn ngừa những chọn lựa theo ý riêng của ta.
Cuối cùng, chúng ta cầu xin được thoát khỏi tất cả sự dữ, kể cả thể lý và luân lý. Chúng ta đừng trông mong không bao giờ phải đụng độ với sự dữ. Điều mà chúng ta nài xin Chúa là ban cho chúng ta ân sủng để chiến thắng vượt qua mọi sự dữ, đặc biệt là những sự dữ luân lý.
Chú ý rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được trải dài trong văn phong số nhiều. Điều này cho thấy chúng ta là một gia đình trong Chúa, và vì thế ta sẽ không được hưởng ơn cứu độ nếu ta loại trừ người anh chị em của ta.
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã không ngừng cầu nguyện. Các tông đồ và những theo TN 17-C127
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã không ngừng cầu nguyện. Các tông đồ và những theo Chúa đã chứng kiến tâm tình và cách thức cầu nguyện liên lỉ của Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta phải biết cầu nguyện kiên trì, vì cầu nguyện là cách chúng ta duy trì mối tương quan Cha – con giữa Thiên Chúa với ta.
Chúa Giêsu không muốn đưa ra một công thức cầu nguyện nhất thời nhưng là cả một đời sống cầu nguyện. Dường như thánh sử Luca đã nhận ra điều ấy, nên ngài không kể ra một cách công thức như thế mà chú ý nhiều hơn đến tâm tình cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện trong tâm tình của một người Con thưa với Cha yêu dấu. Ngài đã giữ mãi tâm tình này trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cho đến khi chịu treo trên thánh giá: “Cha ơi! Sao Cha bỏ Con! Nhưng đừng xin theo ý Con như xin cho ý Cha thành sự.”
Ngoài tâm tình của một Người Con khi cầu nguyện, Chúa Giêsu còn nhắn nhủ thêm những tâm tình cần phải có bằng hai hai dụ ngôn trong trong bài Tin Mừng hôm nay.
Với dụ ngôn người bạn xin bánh nửa đêm, Chúa muốn nhắc chúng ta lưu tâm đến lòng kiên trì cầu nguyện. Đừng chú trọng đến công thức cầu nguyện cho một thời điểm mà lưu tâm hơn đến tâm tình cầu nguyện liên lỉ trong đời. Hãy ở trong tâm tình cầu nguyện nghĩa là luôn gắn bó với Chúa, luôn thưa lên với Chúa mọi nơi mọi lúc.
Chẳng phải đến lúc chúng ta thưa lên những nhu cầu của mình thì Chúa mới biết nhưng Người đã biết trước khi chúng ta cầu xin. Tuy nhiên, Người muốn chúng ta tin tưởng và phó thác. Nếu không kiên trì thì thái dộ nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến việc van xin hết ông bụt này đến bà thần kia. Chúng ta sẽ đi lang thang khắp cùng trời cuối đất để mong được thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Thiên Chúa không làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, Ngài nhạy cảm trước những gì chúng ta đang thiếu thốn. Vấn đề là chúng ta hãy kiên trì trong cầu nguyện. Hãy biết kiên trì gõ cửa giữa đêm khuya như người bạn xin bánh để học được tính lệ thuộc vào Thiên Chúa. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành mà chúng ta cần đến.
Đôi lúc trong cuộc đời, chúng ta cũng đã kêu trách vì những lời cầu xin của mình không được như ý. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn là lời động viên cho chúng ta đừng tuyệt vọng. Hãy kiên trì trong cầu nguyện. Hãy xin Chúa cho chúng ta nhận ra thánh ý Chúa trong từng biến cố của cuộc sống. Có kiên trì trong cầu nguyện chúng ta mới nhận ra lòng nhân lành của Chúa. Như Chúa đã nói trong dụ ngôn thứ II của bài Tin Mừng hôm nay: Không có người cha nào có con xin bánh mà lại cho hòn đá, xin cá lại cho con rắn. Cũng vậy, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn tốt lành nhát từ kho tàng tình thương của ngài. Ước gì chúng ta cũng hãy kiên trì cầu nguyện để nhận ra sự tốt lành đến từ nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thật kiên nhẫn với chúng con. Chúa không trách phạt chúng con như chúng con đáng tội. Chúa muốn chờ đợi sự trở về của chúng con và Chúa hằng thi ân ngay khi chúng con còn mang ách tội nhân. Xin cho chúng con luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ nản lòng trước những rủi ro nhưng biết kiên trì chờ đợi cho đến khi lãnh nhận hồng ân từ Chúa.
Xin cho chúng con cũng biết kiên nhẫn lắng nghe tiếng Chúa, biết lắng nghe nhu cầu của tha nhân và sẵn lòng giúp đỡ trong khả năng của mình. Xin cho chúng con biết sống với nhau trong tình bác ái chân thành.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em TN 17-C128
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái..., từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng... Đó là các mối liên hệ tự nhiên. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt. Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.
1) Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện
Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông".
Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.
Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài. Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.
Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.
Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến”.
Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.
Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình. Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.
Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”.
Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.
Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.
Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.
Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta. Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.
2) Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta
Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả. Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.
Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.
Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.
Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn.
Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.
Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.
Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người. Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái”.
Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.
Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con! Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu TN 17-C129
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sự kiện Thiên Chúa vui thích lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, sự kiện này được mặc khải cả trong Cựu Ước lần trong Tân Ước.
St 18: 20-32
Sách Sáng Thế thuật lại lời cầu bầu thật cảm động của tổ phụ Áp-ra-ham cho dân thành Xơ-đôm tội lỗi. Thiên Chúa lắng nghe lời khẩn nguyện của người công chính.
Cl 2: 12-14
Đoạn trích Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô đề cập đến thành quả của Phép Rửa là đem lại cho chúng ta ơn tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời, vì bí tích này được tháp nhập vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.
Lc 11: 1-13
Tin Mừng Lu-ca thuật lại giáo huấn của Chúa Giê-su về cầu nguyện: cầu nguyện chính là thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa, vì Người là Cha đầy lòng yêu thương và chúng ta là con cái của Người.
BÀI ĐỌC I (St 18: 20-32)
Chuyện tích Kinh Thánh nổi tiếng này tiếp nối chuyện tích Kinh Thánh tuần trước thuật lại việc ba nhân vật mầu nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham dưới cụm sồi Mam-rê, không xa thành Khép-rôn.
1. Bối cảnh:
Bản văn ở đây nói rõ cho chúng ta biết rằng một trong ba vị khách là chính Đức Chúa. Đức Chúa đã thân hành đến trần gian không chỉ để báo tin vui cho ông Áp-ra-ham biết rằng vào độ này sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ một quý tử cho ông, nhưng còn có một mục đích khác nữa là trừng phạt hai thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra tội lỗi. Tuy nhiên, hai thành nầy ở cách xa cụm sồi Mam-rê, vì thế Đức Chúa sai hai người bạn đồng hành của Ngài đến hai thành đó trong khi Ngài còn đứng nán lại chuyện trò với ông Áp-ra-ham.
Tuy nhiên, Đức Chúa xem ra chưa quyết định dứt khoát: "Ta phải xuống xem thực sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết", vì thế vẫn còn dành chỗ cho lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham là một con người quảng đại, thường hằng quan tâm đến những người khác. Ông đã cảm nghiệm tấm lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa. Ông cũng biết rằng ơn gọi của ông có tầm mức phổ quát: "Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc" (12: 3). Vì thế, ông thu hết cam đảm cầu bầu cho hai thành ngoại quốc đó.
2. Vai trò cầu bầu của người công chính:
Tiến trình mặc cả của ông Áp-ra-ham với Đức Chúa mang tính chất rất đông phương, nhưng nó dâng hiến một chiều kích tinh thần với một cung giọng đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến niên biểu rất cổ xưa của chuyện tích này (có thể vào thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, vào triều đại vua Sa-lô-mon). Chuyện tích này vang dội lời phản kháng đầu tiên chống lại khái niệm trừng phạt tập thể, khái niệm này dần dần nhường chỗ cho lời khẳng định về trách nhiệm cá nhân vào những thế kỷ sau này: "Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình" (Đnl 24: 16).
Ngoài ra, lời cầu bầu trên môi miệng của ông Áp-ra-ham khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ. Ông Áp-ra-ham không dám mặc cả với Đức Chúa xuống dưới con số mười người công chính: "Xin Chúa Thượng đừng giận, cho con nói một lần nữa thôi: giả như tìm được mười người thì sao?". Rồi sẽ đến một ngày, viễn cảnh của ơn cứu độ được dự kiến đạt được nhờ chỉ một người công chính duy nhất, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo: "Hãy rảo quanh đường phố Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cả thành" (Gr 5: 1). Và chẳng bao lâu sau, một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ nhị, sẽ mô tả dung mạo Người Tôi Trung, nhờ nỗi thống khổ của chính bản thân mình "sẽ làm cho muôn người nên công chính" (I s 53: 11). Đức Ki-tô sẽ thực hiện những sấm ngôn này; Ngài sẽ là Người Công Chính thập toàn, vì thế lời cầu bầu của Ngài sẽ là độc nhất vô nhị và khôn sánh.
3. Thiêu hủy thành Xơ-đôm:
Đoạn trích dẫn hôm nay không nói cho chúng ta biết phần tiếp theo, vì không gặp thấy mười người công chính ở thành Xơ-đôm nên thành Xơ-đôm cũng như thành Gô-mô-ra bị thiêu hủy. Chỉ ông Lót và gia đình ông thoát nạn nhờ hai sứ thần của Đức Chúa can thiệp. Tác giả đặt việc ông Lót và gia đình ông được cứu thoát trong mối liên hệ với lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham: "Khi Thiên Chúa phá hủy các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở" (St 19: 29).
BÀI ĐỌC II (Cl 2: 12-14)
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô ngỏ lời với cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang hoang mang trước những đạo lý sai lạc làm lu mờ đi đức tin chính truyền và đặc biệt làm giảm thiểu vai trò cứu độ của Đức Ki-tô. Vì thế, sứ điệp cốt yếu của Thư này nhắm đến tính ưu việt của Đức Ki-tô và phẩm tính trung gian duy nhất của Ngài.
Bấy giờ, thánh Phao-lô khai mở cuộc bút chiến quyết liệt: "Hãy coi chừng chớ để ai gày bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô" (Cl 2: 8). Trong số những đạo lý sai lạc mà Thư nêu lên là phép cắt bì và vai trò trung gian của ơn cứu độ được ban cho các thiên thần. Trong đoạn trích Thư hôm nay, thánh Phao-lô minh chứng sự cao vời khôn ví của Phép Rửa so với phép cắt bì, vì Phép Rửa là phép cắt bì trong tinh thần, nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
1. Phép Rửa, chính là cùng chết và sống lại với Đức Kitô:
Vào thời kỳ đầu tiên, Phép Rửa được thực hành qua việc dìm mình vào trong nước. Người chịu phép rửa, cởi bỏ quần áo, bước vào trong bể nước thanh tẩy; sau đó, bước ra khỏi bể nước trong bộ áo quần mới. Đây là nghi thức mai táng theo đó tội nhân cởi bỏ con người xác thịt, tức là con người tội lỗi của mình để được tái sinh trong một đời sống ân sủng và trở thành một tạo vật mới. Cũng có thể nói như vậy, người chịu Phép Rửa được mai táng với Đức Ki-tô và chết cho con người tội lỗi để được sống lại với Ngài, được tinh tuyền, được ban ơn tha thứ mọi tội lỗi nhờ quyền năng của Chúa Cha; cũng với quyền năng này, Chúa Cha đã phục sinh Con của Người từ cõi chết.
Thần học về Phép Rửa này cũng đã được thánh Phao-lô diễn tả như vậy trong Thư gởi tín hữu Rô-ma: "Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống... Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài" (Rm 6: 3-8). Tuy nhiên, chúng ta lưu ý đến nhịp điệu mạnh dần nào đó trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê. Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thánh Phao-lô không còn đặt động từ "sống lại" ở thì tương lai như trong Thư gởi tín hữu Rô-ma, nhưng ở thì quá khứ: "Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Ngài"; thậm chí thánh nhân còn khai triển xa hơn nữa trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: "Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô... Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời" (Ep 3: 5-6). Vị thế Đức Ki-tô ngự trị bên cạnh Chúa Cha đó cũng là vị thế của chúng ta rồi cho dù chúng ta hiện nay đang sống trên cõi thế.
2. Đức tin:
Mặt khác, trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân nhấn mạnh sự tất yếu của đức tin, niềm tin vào Thiên Chúa phải là hàng đầu, vì Ngài là căn nguyên của ơn cứu độ: chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, chính Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta và chính Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Quả thật, niềm tin vào Đức Ki-tô phát xuất từ niềm tin vào Chúa Cha này, vì chính nhờ thập giá mà ơn tha thứ và sự sống đến với chúng ta. Hình ảnh sau cùng thánh Phao-lô dùng thật thấm thía. Nếu Phi-la-tô đã cho đóng một tấm bảng trên đỉnh thập giá để chỉ bản án, thì Thiên Chúa đã đóng đinh vào chính thập giá này "các giới luật": phép cắt bì, những điều khoản giam hãm chúng ta trong vòng tội lỗi, như những lời thánh Phao-lô ngỏ với các tín hữu Rô-ma (Rm 4: 15; 7: 7-25). Như vậy, Phép Rửa là ơn giải thoát, cuộc tái sinh, sự sống đời đời, được khởi sự rồi ngay cả hiện nay chúng ta đang sống tại thế này, vì Đức Ki-tô đã cho chúng ta được liên đới với vận mệnh Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
TIN MỪNG (Lc 11: 1-13)
Vào lúc Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là "chuyện hằng ngày". Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là "Cha" như Ngài.
1. KINH LẠY CHA (11: 2-4)
Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.
"Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông". Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện" (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói "Lạy Cha", còn thánh Mát-thêu thì viết: "Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời" (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?
Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta.
A- Hướng về vinh quang của Thiên Chúa
a- "Xin làm cho danh Cha vinh hiển":
Theo văn hóa Do thái, "Danh" được áp dụng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi "tên" cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: "Xin danh Cha được vinh hiển" là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: "Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha" (Ga 12: 28), nghĩa là "xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ". Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: "Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta...Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi" (Lv 22: 32), hay "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: "Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta.
b. "Triều đại Cha mau đến":
Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: "Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.
Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng "Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị" (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia, Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).
Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: "Marana Tha!", nghĩa là "Lạy Ngài, xin hãy đến" (1Cr 16: 22; Kh 22: 20).
B- Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta:
a- "Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy":
Lời khẩn nguyện này của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: "Đừng có ai để dành cho đến sáng" (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: "Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy". Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi.
Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?
Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: "xin tha tội cho chúng con", "xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ"; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất khó mà hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể. b- "Xin tha tội cho chúng con...":
Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ" (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
- Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con": Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:"mắc nợ", nhưng thánh Lu-ca dùng từ "mắc lỗi" để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát.
c- "Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ":
Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: "Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: "Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ" (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: "Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo" (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: "Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: 'Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ', vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai" (Gc 1: 13).
2. ĐỪNG SỢ QUẤY RẦY THIÊN CHÚA (11: 5-13)
Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho", có nghĩa "Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho", bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha của chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: "Thánh Thần". Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về "những của tốt lành" mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra "Thánh Thần", mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội tiên khởi trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: "Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi!" (Rm 8: 15) và "Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8: 27).
Đời sống của Đức Giêsu luôn chìm đắm trong ân sủng của cầu nguyện, từ sáng sớm cho đến lúc TN 17-C130
Đời sống của Đức Giêsu luôn chìm đắm trong ân sủng của cầu nguyện, từ sáng sớm cho đến lúc chiều về, Ngài luôn cầu nguyện và dạy các Tông đồ của mình cũng hãy làm như vậy. Bản kinh Lạy Cha được ra đời trong hoàn cảnh: “ Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi thì một môn đồ thưa Ngài: “ Lạy Thầy, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Gioan đã dạy các môn đồ của ông” (Lc 11, 1). Chẳng phải người môn đồ của Đức Ki-tô, vì chiêm ngưỡng Thầy mình cầu nguyện trước, rồi khao khát cầu nguyện đó sao?
Cầu nguyện là gì?
Có nhiều cách để định nghĩa về điều này, nhưng như Thánh Gioan Đamascênô: “ Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp”, còn Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu thì: “ cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, là tiếng kêu tri ân và yêu mến cả trong cơn thử thách lẫn trong lúc vui mừng”. Và trong cả những lúc: “ Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26), thì Thiên Chúa vẫn luôn đáp lời và sẵn sàng đón nhận những lời cầu xin “ Từ vực thẳm” (Tv 130. 1), của mỗi chúng ta.
Tổ phụ Abraham cầu nguyện Thiên Chúa muốn phạt và tiêu diệt dân thành Sô-đôm và Gomora, vì tội lỗi của họ. Abraham muốn cứu dân khỏi tội chết. Ông cầu xin cùng Thiên Chúa, với lời cầu nguyện thống thiết, nài nỉ và kiên trì. Con số năm mươi người công chính có mặt trong thành, rồi từ từ hạ xuống với con số là mười người. nhờ lời cầu bàu của Abraham, Thiên Chúa đã không hủy diệt các dân trong thành.
“Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9). Sống cầu nguyện là sống tin, cậy và mến Chúa một cách trọn vẹn. Sự tín thác vào Chúa quan phòng sẽ giúp con người thoát khỏi mọi ràng buộc trên bước đường trần thế, và chỉ để cuộc đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay của Thiên Chúa đầy lòng từ bi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Tôi hỏi đất: đất sống với nhau thế nào? Đất trả lời: chúng TN 17-C131
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Tôi hỏi đất: đất sống với nhau thế nào? Đất trả lời: chúng tôi làm nền móng cho nhau Tôi hỏi nước: nước sống với nhau thế nào? Nước trả lời: chúng tôi hoà lẫn vào nhau Tôi hỏi gió: gió sống với nhau thế nào? Gió trả lời: chúng tôi nâng cánh cho nhau Tôi hỏi mây: mây sống với nhau thế nào? Mây trả lời: chúng tôi tan biến vào nhau Tôi hỏi cỏ: cỏ sống với nhau thế nào? Cỏ trả lời: chúng tôi hoà quyện và réo rắt bên nhau Tôi hỏi cây: cây sống với nhau thế nào? Cây trả lời: chúng tôi che chở và leo quấn cho nhau Tôi hỏi người: người sống với nhau thế nào?
Không ai trả lời Không ai trả lời Không ai nói gì cả
Vì người còn đang bận giận hờn và chà đạp lên nhau Vì người còn chôn chặt nụ cười và không cùng chia sẻ Vì người còn nghi kị và mưu chước lẫn nhau Vì người còn nặng nỗi thương đau Vì người còn quên cách yêu nhau Vì người còn chưa biết được rằng sự sống vốn rất mau... tàn lụi...
Quả thực, một cuộc sống chung đòi hỏi phải đón nhận nhau trong sự tôn trọng, chia sẻ và đỡ nâng nhau. Như đất, như nước, như gió... biết hòa tan trong nhau để bảo vệ và nâng đỡ nhau. Nếu cuộc sống chung chỉ muốn độc tôn mình và loại trừ người khác thì cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu và nước mắt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn nhận một mối giây liên hệ thật gần gũi giữa người với người. Đó là liên hệ anh em con một Cha trên trời. Chúa bảo chúng ta phải sống yêu thương nhau để làm rạng danh Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sống tuân theo thiên ý để mọi người được sống yêu thương nhau. Một cuộc sống mà mỗi người cùng nhìn nhận nhau là anh em thì chắc chắc cuộc đời sẽ “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, để rồi “chín bỏ làm mười” mà sống hòa thuận yêu thương nhau. Một cuộc sống nhìn nhận nhau có chung một cha trên trời sẽ nâng đỡ chia sẻ với nhau, đến nỗi “chị ngã em nâng” và cùng dìu nhau bước đi trong cuộc đời.
Hãy xem cha chúng ta trên trời thật tốt lành. Ngài luôn yêu thương mọi loài tạo vật. Ngài không thiên vị ai. Ngài cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành cũng như kẻ dữ. Ngài luôn nhẫn nại và từ bi, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Thế nên, là con của Chúa chúng ta cũng phải đối xử khoan dung với nhau. Hãy sống đùm bọc, nâng đỡ và chia sẻ với nhau. Xin đừng vì những tham lam ích kỷ mà gây nên những tranh chấp hận thù với nhau. Hơn nữa, chúng ta cần phải tha thứ cho nhau như Chúa cũng đã từng tha thứ chúng ta.
Lời kinh lạy Cha luôn được đọc trên môi không chỉ để chúng ta cầu nguyện mà còn để chúng ta nhận ra một mối dây thật thân tình giữa chúng ta với Chúa và giữa con người với nhau. Một mối dây thật cao sang vì được làm con của Chúa Trời. Một Thiên Chúa quyền năng nhưng luôn yêu thương con người, luôn muốn chia sẻ với những thăng trầm của đời người. Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những khó khăn cuộc sống. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Hãy trao vào tay Chúa những khó nguy trong cuộc đời để Ngài nâng đỡ ủi an chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.
Tin vào Thiên Chúa là Cha cũng mời gọi chúng ta đón nhận nhau như anh em một nhà. Đón nhận nhau trong sự tôn trọng yêu thương. Đón nhận nhau trong bao dung và tha thứ để cùng nhau xây dựng một thế giới thấm nhuần tình Chúa tình người, để triều đại Chúa mau đến và mọi người sẽ tìm kiếm và tuân phục thánh ý Chúa.
Xin cho chúng ta luôn trở thành con ngoan của Chúa, biết lắng nghe và thi hành lời Chúa để danh Chúa được cả sáng và cuộc đời thắm đượm tình yêu thương nhau. Amen.
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,” “Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.” (dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Bàng hoàng, hốt hoảng hay thổn thức phải chăng đó cũng là động-thái của những người gặp cảnh TN 17-C132
Bàng hoàng, hốt hoảng hay thổn thức phải chăng đó cũng là động-thái của những người gặp cảnh ngộ “sa chước cám dỗ, vẫn cầu xin. Cầu và xin, như lời cuối kinh Lạy Cha, ta từng đọc?
Trình thuật, thánh Luca ghi về sự thể đồ đệ Chúa từng nghe Thày Chí Thánh dạy cách nguyện cầu qua lời kinh “Lạy Cha”. Ý/lời “sa chước cám dỗ” ở cuối kinh, diễn tả một nhận thức rất rõ về cuộc đời của Chúa có nối kết với “chước cám dỗ” công khai cả một đời. “Chước cám dỗ” Chúa gặp, kể về sự việc xảy đến ở đầu đời, khi Thần Khí dẫn Ngài vào “sa mạc” thanh vắng và Ngài ở đó 40 ngày để “sa chước cám dỗ”, có giáp mặt “quỷ ma”, và có cả thiên sứ đến hầu hạ Ngài.
Sa chước cám dỗ, không chỉ xảy đến vào buổi đầu đời Ngài, mà cả vào ngày Ngài nhận thanh tẩy cho đến thời khắc diễn ra ở vườn Géthsêmani, là yếu tố lịch sử được diễn tả không theo nghĩa hiện tượng, nhưng như sự thể xảy đến suốt một đời. Sự việc này, thánh sử Máccô diễn tả đặc biệt hơn thánh Mátthêu và Luca, chỉ sơ qua ở kinh Lạy Cha mà thôi.
Cụm từ “sa mạc” thánh Máccô tả, không có nghĩa chốn miền nóng cháy đầy những cát ở Giuđêa hay đâu đó, mà là sự việc Chúa đi vào cuộc sống công khai với mọi người. Bởi, với Chúa, tính công khai của cuộc sống mang ý nghĩa mở ra ngoài, hoặc tính chính trị cũng như tính công-khai-hoá như “sa mạc đời người”. Và, Ngài ở đó cho đến ngày trút hơi cuối cùng cuộc đời Ngài, mới thôi. Cuộc sống công khai của Chúa được đề cập ở đầu Tin Mừng, là việc Chúa dấn thân phục vụ người nghèo khó, sống vì nguời khó nghèo. Bởi Ngài ít được người hỗ trợ, nên cứ bị kình chống/đối lập không ngớt. Và, trong đời người, hễ ta công khai có lập trường sống giống như Ngài, rồi cũng bị xa cách/tách biệt khỏi “sa mạc cuộc đời” người; và khi đó, bạn bè ta là người nghèo khó sẽ chẳng giúp ích gì cho ta hết.
Truyện kể Chúa chịu “sa chước cám dỗ”, đề cập việc Ngài giáp mặt/đụng trận với đám “quỷ ma”, tức các lãnh tụ tôn giáo người Do thái thời đó cứ kình chống/khích bác những gì Ngài công khai phục vụ người nghèo. Và cuối cùng, “thiên sứ đến với Ngài”, chính là đồ đệ đến giúp Ngài thực hiện mọi sự cho người nghèo, cách công khai.
Cụm từ “sa chước cám dỗ”, tiếng Hy Lạp là “Peirasmos” nghĩa là khai thác/thử nghiệm giá trị sự việc để xem mình kình chống được bao lăm và xem có khả năng đi xa hơn thế không. Ở Tin Mừng thánh Luca đoạn 22 câu 28, cụm từ này mô tả không chỉ tình huống khó khăn Chúa gặp phải, khi Ngài công khai lo cho người nghèo thôi; mà còn diễn bày những khó khăn của Hội thánh thời tiên khởi quyết theo Chúa đi vào quãng đời công khai sống thực hiện những điều Chúa dạy.
Như thế thì Chúa nhìn vào những gì, khai thác những gì và “sa chước cám dỗ” đến thế nào?
Tin Mừng thánh Luca cho thấy, khả năng trở thành Đấng Mêsia cứu vớt người nghèo theo cách thống trị hoặc thụ động hoặc sinh hoạt đầy tính chất rất kịch.
Thứ nhất, theo cách thống trị. Có người hỏi: nếu Đức Giêsu là Chúa, thì sao Ngài không hạ gục phe đối lập để thống trị? Nếu Ngài làm thế cũng để đem lại lợi ích cho người nghèo, cũng đâu khó. Ở đây, thánh Luca gọi đó là cách làm của ma quỷ. Ở các đoạn sau đó, thánh Luca lại đã coi quyền lực và vinh dự ở đời thuộc dạng quỷ ma, đầy cám dỗ.
Thứ hai, là tính thụ động. Theo thánh sử, thụ động đây, không có nghĩa lười biếng mà là: bắt Chúa làm mọi việc, còn mình thì chẳng làm chút gì hết, cứ rút lui vào bóng tối, thế là xong. Làm như thế, tức: phủ nhận điều lạ kỳ về sự quan phòng của Chúa. Thánh Luca gọi đó là những gì mang tính chất rất “người”, nghĩa là: cứ “mặc xác”, biếng nhác chẳng chịu làm gì, lại coi đó như cách phục vụ Chúa rất hữu hiệu, đây là kiểu cách rất xấu của những người ù lì, bị động.
Thứ ba, sinh hoạt đầy chất kịch. Có thể, đây là tấn thảm kịch bi đát, sẽ còn diễn tiến nhiều lần về sau. Tác giả Luca từng cho thấy người Hy Lạp chẳng cần xem đấng bậc anh hùng hảo hán đi vào hoàn cảnh ra sao, nhưng thần linh của họ cuối cùng cũng ra tay cứu vớt, và người người lại ra về vui vẻ. Cái khó ở đây, không là sống đời thực tế, mà là cung cách biến thái/bay nhảy, không trưởng thành theo cách cuộc sống thực tế vẫn tạo ra. Quả là, sự việc này xem ra thật trẻ con, nhưng cũng đúng.
Lời đáp của Chúa khi “sa chước cám dỗ”, quả thật dứt khoát. Ngài đã nói tiếng “không” với các đề nghị do “quỷ ma” đưa ra. Ngài ra lệnh cho quỷ ma đi cho khuất mắt Ngài. Ngài nguyện cầu Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi ác thần/sự dữ. Sự dữ đây, chính là giới cầm-quyền chuyên khuynh-loát những người đưa ra nhiều chính sách cho dân con mọi người. Và, Ngài nguyện cầu Cha, nếu được, “xin Cha cất bỏ chén đắng này khỏi nơi Con.”
Chúa cho thấy bản chất lười biếng của con người đã bớt dần tính “linh đạo”, cứ gãy đổ và lại muốn làm thứ gì đó, khác hẳn. Ngài không ngồi ì một chỗ như ai đó, rồi giao hết việc cho Cha làm. Nhưng, Ngài thừa nhận một số khuôn mẫu về chức năng của Đấng Mêsia có thể viết thành kịch-bản cho sân khấu không thực. Tất cả là bài học để đời về trách nhiệm, ngõ hầu đồ đệ học lấy mà thực thi.
Vùng Cận Đông cũng như Israel khi xưa, con dân trong Đạo vẫn đặt ra một số mẫu kinh để ta nguyện cầu, van xin. Mẫu kinh, gồm ba phần: phần đầu, gồm toàn những chuyện đẹp của đấng bậc được người cầu kinh dâng lời nguyện, như thể tung nâng các đấng trước khi dâng lời khốn khó với các ngài. Thứ hai, lời cầu đơn giản, rõ ràng và ngắn gọn chỉ diễn tả những gì người cầu mong muốnb. Thứ ba, xin lỗi đấng bậc mình dâng lời kinh để đưa ra điều thỉnh nguyện (và hứa sẽ không lặp lại điều ấy một lần nữa). Và, rõ ràng, đây là cấu trúc của “Kinh Lạy Cha”.
Phần đầu kinh, là lời thưa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện Danh Cha cả sang, nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Phần hai, là câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Phần ba, lại thêm câu: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, và xin chớ để chúng con “sa chước cám dỗ”, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”
Phần chính của Kinh Lạy Cha là yêu cầu có lương thực hằng ngày, cho người đói nghèo, ngày hôm nay, Kế đó, là việc khởi động rồi xin thứ tha vì đã cầu xin và hy vọng cảnh tình này sẽ không diễn ra nữa. Amen.
Lương thực hằng ngày phải chăng là cơm bánh? Không hẳn thế. Đây chỉ là biểu trưng. Là, biểu tượng đặc trưng cho việc chúng ta và mọi người có nhu cầu sống còn trong cuộc chiến phấn đấu mỗi ngày, cuộc sống thực. Đại ý muốn nói cùng Chúa Cha: “Xin cho chúng con có đủ sức mạnh và khả năng tự tại để đến được đó, hôm nay đây.
“Lương thực hằng ngày” cho người nghèo đó: Ta vẫn “sa chước cám dỗ” như thế, rất nhiều ngày, là: làm điều gì khác thay vì đem “cơm bánh” ban phát cho người nghèo. Thế nên, hãy cầu xin làm sao để ta đừng “chào thua” về những “sa chước cám dỗ” như thế, và sau đó có thể ban phát cơm bánh cho người nghèo đói.
Và tiếp đó, kinh “Lạy Cha” đề cập đến việc thứ tha, và sự dữ. Tại sao thế? Có lẽ Chúa biết rõ Ngài từng có những kẻ đối lập với Ngài trong cuộc sống, và Ngài đã thứ tha chonhững người đứng đằng sau đó. Và có lẽ, Ngài cũng biết Ngài từng phạm một vài sai sót về chính trị trong cuộc sống, như: lời Ngài nói có thể là mạnh đối với người này, nhưng lại quá yếu với người khác. Nên, trong kinh Lạy Cha, Chúa yêu cầu những người bị đau lòng vì những sự việc như thế hãy thứ tha Ngài, như Ngài đã tha thứ họ. Ngài công nhận: không phải mọi người lúc nào cũng làm đúng, chí ít là những chuyện công khai, với chúng dân.
Thánh Luca viết Tin Mừng cho Hội thánh thời tiên khởi, vào nhiều thập niên sau khi Chúa mất, tức: viết cho một Giáo hội tin vào lời lẽ vẫn công nhận rằng: Đức Giêsu là Chúa, nên câu cuối ở kinh Lạy Cha, có ý căn dặn rằng: nếu ta không thận trọng lại để mình “sa chước cám dỗ”, sẽ bị quyền lực và vinh quang lôi cuốn gài bẫy. Ta càng lún sâu vào bẫy đó nếu cứ thử. Và khi đó, chớ trách móc.
Và, tiếp tục kinh Lạy Cha, thánh sử Luca lại kể tiếp truyện dụ ngôn về cuộc sống đời thường ở thôn làng bé nhỏ, như thể cất lên lời kinh gọi mọi người trong nhân loại như lời gọi “Lạy Cha”, tức van nài bạn bè tấm bánh lúc nửa đêm tắt lửa tối đèn, vẫn cần đến tình thương yêu, của mọi người. Chí ít, là bạn bè người thân gần xa, lại cứ quấy rầy mình vào những lúc khó thực hiện lòng thương mến/bác ái.
Nói tóm lại, điều mà thánh Luca muốn nói đến ở lời kinh thần thánh rất “Lạy Cha” hôm nay, sẽ không đem gì nhiều đến với ta, nếu ta không thực thi đối xử với bạn bè gần xa, chỗ thân quen hoặc xa lạ, vẫn là nhân loại bằng lời kinh “Lạy Cha chúng tôi”, rất mọi người.
Trong tinh thần hiểu biết như thế, ta sẽ cất lên câu thơ như lời kinh đêm của thi sĩ họ Bùi như:
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức, Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm. Tôi xin chịu cuồng si để sang suốt, Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.” (Bùi Giáng – Phụng HIến)
“Thỏa dạ yêu Em”, đúng như lời thánh-nhân từng dặn dò trong lời kinh “Lạy Cha”, rất hôm nay.
Bác sĩ Alexis Carrel là một nhà nhân bản. Trong một tác phẩm được cả thế giới biết đến: L’homme TN 17-C133
Bác sĩ Alexis Carrel là một nhà nhân bản. Trong một tác phẩm được cả thế giới biết đến: L’homme inconnu (Con người tuyệt diệu), đã không tiếc lời ca ngợi giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Theo ông thì cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi chức năng “con người thụ tạo” của ta với Đấng Tối Cao, tức Thiên Chúa. Theo đó, con người nhờ trí tuệ phong phú, nhờ cuộc sống, nhờ những điều mắt thấy tai nghe, mà càng ngày càng nhận thức được sự cao cả tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa. Đồng thời cũng nhận ra sự nhỏ bé, hữu hạn và bất toàn của mình, nhưng lại được tham dự vào cuộc sống tuyệt vời của Đấng Tối Cao. Do đó không thể không thốt lên những lời tôn vinh chúc tụng cảm tạ và cầu xin cùng Ngài. Nhưng cầu nguyện như thế nào cho đúng cách, chúng ta cùng nhau lắng nghe Lời Chúa qua phụng vụ của Chúa nhật XVII mùa thường niên năm C:
Trong bài đọc 1 được trích từ sách Sáng Thế (St 18, 20-32) thuật lại rằng: Abraham không chỉ hiếu khách mà còn quảng đại khi mạnh dạn đứng lên cầu xin cho dân thành Sôđôma. Ông được Thiên Chúa mạc khải cho biết thành Sôđôma tội lỗi thấu trời sẽ bị tiêu diệt. Tất cả sẽ bị chìm trong lửa bởi trời, sẽ bị giáng phạt, nhưng Thiên Chúa chỉ giáng phạt khi Ngài đã biết rõ thực hư. Và Abraham đã kêu xin cho dân thành này. Ông mặc cả với Chúa xin Ngài đừng nỡ lên án những người lành chung với người dữ và hãy vì những người lành mà tha thứ cho cả thành. Thiên Chúa chấp nhận theo ý nguyện của Abraham. Ở đây cho thấy có sự liên đới trong ơn cứu độ. Abraham cầu xin thay cho dân: vì những người tốt lành Thiên Chúa sẽ không trừng phạt những người tội lỗi. Mọi người cùng sống với nhau, cùng chia sẻ một niềm tin thì luôn liên đới và cần cho nhau. Do đó cầu nguyện không chỉ cho mình mà quan trọng phải biết cầu nguyện cho người khác. Vì lời cầu nguyện cho nhau thì dễ được Thiên Chúa chấp nhận hơn lời cầu nguyện cho chính mình. Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các ông kinh Lạy Cha. Qua nội dung của lời kinh này, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ không chỉ biết cách cầu nguyện như thế nào cho đúng, mà còn đưa các ông đi vào trong mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa và tha nhân. Cầu nguyện là sống tương quan con thảo với Thiên Chúa là Cha và sống tương quan huynh đệ với mọi người.
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người vào một mối tương quan mới. Người thông ban cho môn đệ và chúng ta quyền gọi Thiên Chúa là Cha, thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh em với nhau trong đức tin. Lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời” nói lên thân phận của người Kitô hữu là con Chúa và là anh em của nhau, nói lên tình yêu hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa. Nên trong lời thư của thánh Phaolô khi nhắc nhở dân Côlôsê cũng chính là lời khuyên ta suy nghĩ về ơn gọi của mình. Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Vì vậy, điều cần duy nhất là chúng ta phải giữ vững tư cách con cái Chúa, để luôn nhận được lòng thương xót của Người. Ước gì mỗi khi đọc lời kinh ấy, chúng ta thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, thực sự ý thức và sống tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh.
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm thiện chí trong cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho dân thành Sôđôma đến dụ ngôn trong bài Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quý giá: hãy cầu nguyện, cầu nguyện luôn, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta mong ước.
Hôm nay Chúa dạy về cầu nguyện. Nhưng ta không khai triển đề tài cầu nguyện, mà triển khai TN 17-C134
Hôm nay Chúa dạy về cầu nguyện. Nhưng ta không khai triển đề tài cầu nguyện, mà triển khai một góc nhỏ, nhưng là đỉnh lớn của nội dung lời nguyện. Chúa dạy cầu nguyện. Và cầu nguyên bằng kinh Lạy Cha. Ta chỉ dừng lại tiếng xưng hô “Lạy Cha” đó mà thôi.
I. Phận con
1. Chúng ta không phải là anh em mồ côi.
Câu chúng ta thường nghe “tứ hải giai huynh đệ”: khắp bốn bể đều là anh em, câu này thoạt tưởng là hay, nhưng suy nghĩ lại, lại thiếu một yếu tố quan trọng. Tất cả là anh em, nhưng lại là anh em … mồ côi, vì không có cha. Quan là “dân chi phụ mẫu,” thì quan đó cũng chỉ là cha mẹ của một góc nhỏ dân: dân Tàu, dân Việt… chứ bốn bể làm gì có ông quan nào làm chủ được để gọi là mẹ là cha. Còn suy ra từ kinh Lạy Cha, thì chúng ta là anh em, và không mồ côi vì có chung một Cha trên trời. Anh cũng đọc Lạy Cha, tôi cũng đọc lạy Cha, chị cũng xướng Lạy Cha… và là một Cha thôi, nên tất cả trở thành anh em. Tứ hải giai huynh đệ nhi đồng nhất phụ. Để có thể bao phủ cả bốn bể, chỉ có bầu trời. Để có thể làm cha anh em trong bốn bể chỉ có Ông Trời. Và chính Ông Trời này là Cha của chúng ta. Lạy Cha, Đấng ngự trên Trời.
2. Ai cho ta quyền này: gọi Ông Trời, Chúa Trời là Cha chúng ta. Hẳn ai cũng trả lời được. Chính Chúa Giêsu. Không có Ngài chẳng ai dám gọi Chúa Trời là Cha.
Trong Thánh lễ, trước kinh Lạy Cha, chúng ta nghe lời dẫn thế nào? Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo Lời Người dạy, chúng ta dám (cả dám, cả gan, gan cùng mình) nguyện rằng. Một chỗ khác Chúa nói rõ, “Thầy đi về cùng Cha của Thầy và cũng là Cha của anh em.” Không phải Cha của Thầy khác Cha chúng ta, mà Chúa Giêsu và chúng ta có chung một Cha, nên ta là anh em với nhau, và là em (dẫu bảy tám mươi tuổi, dẫu sinh ra trước khi Đức Giêsu xuống thế làm người, thời ông Bành Tổ cổ lai) tất cả đều là em của Đức Giêsu. Ngài là Trưởng Tử, của một đàn em đông đúc (Rm 8,29: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”).
Và Chúa Giêsu chỉ cho ta quyền này thông qua Chúa Thánh Thần. Chính nhờ nước và Thánh Thần, tức Phép Thánh Tẩy, mà Thánh Thần, tức vị thần thánh hoá, biến ta thành thánh, để ta dám, cả dám cùng với Thánh Thần trong ta, kêu lên abba, Cha ơi Cha. (Gl 4,6: Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!")
Vậy mà chúng ta có thấy chói tai và mâu thuẫn không, khi vào xưng tội, có linh mục nói cách rất tự nhiên: để “đền tội”, con hãy đọc 3 kinh Lạy Cha. Làm như đọc Kinh Lạy Cha là một hình phạt, như để đền tội phá trong lớp, hãy quì gối trên vỏ sầu riêng một giờ!
Đọc Kinh Lạy Cha, được kêu Cha ơi Cha là một ân phúc, đâu phải ai muốn cũng được. Phải những kẻ đã được tái sinh trong Phép Rửa bằng nước và Thánh Thần.
Thời nguyên thuỷ Kitô giáo, và nay khi Công Đồng muốn trở về nguồn để chia thành nhiều giai đoạn khi cử hành bí tích thánh tẩy, thì, dự tòng chỉ được trao kinh Lạy Cha cuối cùng (Kinh Tin Kính được trao trong giai đoạn trước), ngay trước khi lãnh nhận Phép Rửa, để khi được thánh tẩy xong là trở thành em Chúa Giêsu, thành con Chúa Cha, để vinh hạnh đọc kinh Lạy Cha, gọi Chúa Trời là Cha ơi Cha.
Trong một lớp học về phụng vụ khi còn ở Chicago, tôi có nêu lên lưu ý này: tại sao lại nói: để đền tội, hãy đọc kinh Lạy Cha. Cả lớp thấy có lý và cuối giờ ông thầy vẫn còn tâm đắc cho nên nói với cả lớp lúc đứng dậy đọc kinh kết thúc: for penalty say Glory to the Father (one time).
Chị thánh Têrêxa chẳng bao giờ đọc hết câu đầu của kinh Lạy Cha chứ đừng nói là hết cả kinh. Bởi vì mới đọc được hai chữ Lạy Cha, mà tiếng ngoại quốc thì có thể hiểu thân mật hơn: cha ơi, Bố ơi, Ba ơi… là chị không đọc thêm được nữa, vì nghĩ mình là ai. Nhỏ bé, thấp hèn, tội lỗi, mà được phép gọi Chúa Tể đất trời là Ba ơi, không thể hiểu nổi. Chị ngất ngây với tiếng kêu Cha ơi, mà không thể đọc thêm được danh Cha cả sáng nước Cha trị đến gì nữa…
Các chị nữ và các bà mẹ đừng buồn, khi thấy Chúa chỉ được gọi là Cha. Vậy ngài không là Mẹ hay sao?
Trong khoá họp THĐGM về gia đình ở Roma, tháng 10-1980, ĐGM Nguyễn văn Hoà có phát biểu: khi chúng ta gọi Chúa là Cha, chúng ta mới gọi được 50% phẩm tính, danh xưng của Chúa. Sau buổi họp, một chuyên viên Kinh Thánh, và một chuyên gia về luật đến nói với Đức Cha: ngài nói đúng. Nhưng tiếc thay cho đến nay ta chưa tìm được cách nào để vượt ra khỏi, bởi bản văn Kinh Thánh ghi rõ ràng Abba, Cha ơi Cha (chứ không phải Imma: má à má).
ĐGH Gioan Phaolô II hình như còn đi xa hơn khi vào đầu triều đại của ngài, ngài đã nói: Chúa là Cha, hơn thế nữa, Chúa là Mẹ. Vậy là “hơn thế nữa” có thể Chúa là Mẹ 60, Chúa là Cha 40 (tứ lục)! Ta không lạm bàn thêm vì là vấn đề khá nóng bỏng, nhất là tại các nước phương Tây. Gọi Chúa là She or He.
Vậy là ta cứ phải theo truyền thống gọi Chúa là Cha nhưng vẫn ngầm hiểu “hơn thế nữa Ngài là Mẹ,” bởi lẽ để diễn tả tình yêu (chứ không phải uy quyền) thì lòng Mẹ vẫn là biểu tượng vượt trội hơn ý chí của Cha.
II. Thân Cha
Nếu Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, thì ta cũng có thể nhìn vào ta mà suy ra Chúa.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: “lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.” Quả thật. Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha, ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống.
Tôi có một anh bạn, cùng lớp thời chủng viện, nay anh làm bố đời, tôi làm cha đạo. Anh ở vùng quê Cái Sắn, nhiều nắng lắm sương vất vả nuôi nấng gia đình. Anh nói, “mỗi ngày đi làm ruộng về, mệt muốn chết, nhưng khi về đến nhà nghe đứa nhỏ kêu lên: ba về, bố về… thấy mệt mỏi chạy mất tiêu.”
Vậy khi ta gọi Chúa là “Cha ơi Cha,” ta đã suy xét trong phần I rằng đó là một ân phúc lớn lao, không sao cảm tạ, thì trong phần II này, ta thử “chơi cha” một chút, khi ta gọi Chúa là Cha, Chúa có sung sướng quên đi mệt mỏi, xúc phạm của ta như hai bố đời, bố trần gian trên đây tâm sự không? Có được phép áp dụng tâm trạng của bố dưới trần cho Cha trên trời không? Hẳn là được. Vì ta được tạo dựng giông giống như Chúa mà.
Bởi đó khi cầu nguyện, xin ơn gì, chỉ cần kêu ba ơi ba là Cha trời sẽ “bủn rủn tay chân, sẽ quên hết lỗi lầm của ta, mà ban cho ta hết ơn này đến ơn kia.” Chính bài Tin Mừng đoạn cuối cho ta biết điều này “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?"
Không cần nói gì nhiều, Cha trên trời cũng ban ơn dư dật.
Để minh hoạ cho điều này có rất nhiều mẫu gương. Chuyện kể cũng nhiều mà tiểu sử thánh nhân cũng không thiếu. Nên chỉ nhắc đến một, mà là một chuyện:
Số là chàng tu sinh kia đi sớm, quên mang sách kinh để cầu nguyện. Thế là chàng nảy ra lời nguyện này: “Cha ơi, con quên sách rồi, bây giờ con đọc cho Cha 24 mẫu tự, ba lần. Cha muốn ghép (giống chương trình “chiếc nón kì diệu”) chữ nào vào ô nào cho đúng cho đẹp ý Cha thì Cha cứ ghép."
Chúa Cha trên trời phán với triều thần: từ trước tới nay Ta chưa hề nghe được lời cầu nguyện nào hay như thế.
Hay ở chỗ phó thác hết cho Cha, cho bố. Bố muốn làm gì bố làm.
Ta đang sống trong Năm Đức Tin. Sống đức tin là phải truyền bá đức tin, tức làm cho nhiều người nhận biết và tin Chúa là Cha (Chúng con nguyện danh Cha cả sáng). Chúa thì nhiều người cũng nhận biết rồi, nhưng đây là: Chúa là Cha, ba ơi ba. Rồi từ nhận biết và tin, họ sẽ gia nhập vào gia đình Cha (Nước Cha trị đến).
Nhưng trước tiên, bản thân ta hãy sống cho đẹp tình Cha con. Kêu Chúa thật thân tình “Ba ơi Ba,” chắc Chúa sẽ bủn rủn tay chân và sung sướng vì tiếng gọi phó thác của ta. Amen.
Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa TN 17-C135
Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa nhật XVII thường niên C, giới thiệu Abraham, con người của cầu nguyện, ông nài xin Thiên Chúa cách kiên trì, ông xin cho đến bao giờ được mới thôi (x. St 18,20-32), thì bài Tin mừng (Lc 11, 1-13) cho thấy Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha, liền sau đó Người dạy các môn đệ cầu nguyện thể theo lời họ xin (x. Lc 11,5-8), và khuyên họ kiên trì cầu nguyện với niềm xác tín đầy tình con thảo với Cha trên trời: "Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ thì sẽ mở cho." (x. Lc 11,10)
Abraham được phụng vụ trình bày như là gương sáng về sự nguyện giúp cầu thay, ngay cả khi hành vi của ông có vấn đề. Với lòng hiếu khách, ông đã mời ba vị khách vào trại của ông. Một trong ba vị lặp đi lặp lại với Abraham và Sara lời Thiên Chúa hứa ban cho ông bà có con nối dõi tông đường, điều mà ông bà hằng khao khát (x. St 18, 1.10).
Họ là ba, tuy nhiên, trong khung cảnh của Chúa nhật tuần trước, đúng hơn Abraham nói với họ như thể họ là một: vì thiên thần của Chúa (theo Kinh Thánh là những sứ giả được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ vụ qua tên riêng của họ), có lúc nhiều, có khi lại chỉ là một.
Hôm nay chúng ta tiếp tục sự kiện này khi hai người trong số họ quyết định đi đến Sôđôma trong lúc Abraham đang ở trước mặt người thứ ba, là Thiên Chúa. Các cuộc thương lượng giữa Thiên Chúa với Abraham liên quan đến dân thành Sôđôma, có Lót, cháu trai của ông và gia đình ông. "Khi những người Sôđôma độc ác và tội lỗi chống lại Thiên Chúa." (St 13,13) Bạo lực của họ "kêu thấu" tới Chúa và Chúa nhìn họ với cái nhìn: tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, vì Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót.
Trong cuộc thương lượng, Abraham đặt mình vào vị trí của người công chính và Thiên Chúa là người đáng trách: "Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?" (St 18, 25). Thiên Chúa vẫn giữ một thái độ mà Abraham cho là bất công. Con người có thể lượng giá theo cái biết phiến diện của mình. Thiên Chúa thì không như thế, Ngài phán xét cách công minh.
Vì thiếu lòng tin nên Abraham đã mặc cả với Chúa đến mười người công chính (St 18,31). Nếu như Thiên Chúa quyết định kết án chín người vô tội, chín người công chính trong số các cư dân thành Sôđôma.... Kinh Thánh do miệng các tiên tri cho chúng ta câu trả lời: không, Thiên Chúa không hành động như vậy. "Rảo khắp các phố phường Giêrusalem mà nhìn cho tỏ, hãy tìm nơi các công trường xem có kiếm được một người, một người mà thôi biết giữ công lý, biết tìm sự thật, để Ta tha tội cho thành, sấm của Đức Chúa."(Gr 5, 1)
Bấy giờ ở Sôđôma đã có một người công chính là ông Lót. Nhưng sự hiện diện của ông không ngăn cản được án phạt giáng xuống cả thành. Thậm chí nếu cứu vớt cá nhân ông, và cả gia đình ông, thì người công chính này cũng không cứu được toàn dân trong thành. Lý do ông chỉ là khách ngoại kiều. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ, Ngài sẵn sàng tha thứ tội chết cho toàn dân nếu ăn năn hối cải.
Tin tưởng vào Thiên Chúa và tha thiết nguyện cầu. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, nên Người dạy chúng ta. Người đã thực hành điều Người dạy. Vào những thời điểm quan trọng trong đời như: chịu phép rửa (Lc 3,21), biến hình (Lc 9,29), hấp hối trong vườn cây dầu (Lc 22, 41), Chúa thường cầu nguyện. Người không đặt vấn nạn, cũng không phát biểu những công thức cao siêu huyền bí, nhưng Người đã nói cách đơn sơ: "Cha ơi..." và tiếp đó Người dạy kinh Lạy Cha (x. Lc 11,2-4). Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, phải đặt mình vào hoàn cảnh của một người cha phải đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, chúng đang đói, chúng cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối: " Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi". Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời!
Chúng ta là những kẻ xấu còn đối xử với nhau như thế, phương chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, chúng ta phải tin tưởng vào Ngài, vì Ngài hằng yêu thương, nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn mạnh khi chúng ta cầu xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).
Thế giới ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót, thứ tha, nhất là để cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Người là Đấng công chính duy nhất giữa muôn người tội lỗi: "Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, thủ tiêu văn khế tội nợ của ta dựa trên lệnh chỉ cáo tội ta, và Người hủy bỏ đi, đóng đinh nó vào thập giá." (Col 2. 14)
Ơn cứu độ là có thể vì Đức Giêsu Kitô không phải là người xa lạ. Người trở nên nguyên nhân ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Thánh Têrêxa đã mời gọi các chị em của mình như thế này: "Chúng ta cần phải van xin Chúa giải thoát chúng ta mãi mãi khỏi hết mọi hiểm nguy và xin cất đi mọi sự dữ. Và cho dù lòng ước ao của chúng ta còn bất toàn đi nữa, chúng ta cũng hãy kiên trì nhắc đi nhắc lại lời van xin đó. Ðừng lo sẽ xin xỏ quá đáng, xét vì chúng ta đang ngỏ lời với Ðấng Toàn năng mà? (Camino 60).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Người. Abba, lạy Cha, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.
Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng dài. Có thể nói là hơi dài một chút. Cha đố chúng con bài TN 17-C136
1. Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng dài. Có thể nói là hơi dài một chút.
Cha đố chúng con bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta về vấn đề gì nào?
- Về việc cầu nguyện.
- Rất đúng. Thế chúng con đã có bao giờ cầu nguyện chưa?
- Thưa cha rồi…
- Thế chúng con cầu nguyện với ai? Như thế nào? Cầu nguyện làm sao? Cha hỏi nhiều quá phải không? Thôi bây giờ cha bắt đầu câu chuyện hôm nay. Cha bắt đầu trả lời câu hỏi: Cầu nguyện với ai? Dĩ nhiên là với Chúa rồi nhưng…..Chúa là ai đối với chúng ta?
Câu trả lời rất vắn: Chúa là CHA. Chúa Giêsu bảo chúng ta cầu nguyện với Chúa và khi cầu nguyện hãy thưa với Chúa là CHA. Chúa thích chúng ta thưa với Chúa như thế.
Đây là câu chuyện do Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu kể trong một tập sách nhỏ của ngài. Câu chuyện như thế này:
"Một ngày kia, Thiên Chúa đưa mắt nhìn xuống trần gian để xem người ta thờ phượng Người như thế nào. Người thấy một tín đồ Ấn giáo đang ngồi trầm mặc thinh lặng như thể quên hết mọi sự trên trần gian này. Thiên Chúa rất hài lòng về cử chỉ ấy nhưng Người nói: "Tại sao phải nhọc thân khổ xác như thế?".
Người lại thấy một nhà sư Phật giáo đang mỉm cười và cố gắng tạo ra sự hài hòa giữa cái thiện và cái ác. Thiên Chúa vui mừng vì nụ cười ấy, nhưng Người lại nói: "Tại sao con người lại tốn công nhọc sức như thế mà không nhờ đến trời cao?".
Người lại thấy một người bán khai, người bán khai là người như thế nào chúng con? Đó là những người sống trong rừng rú, thiếu ánh sáng văn minh. Người người bán khai đang tế thần với tất cả sự run rẩy sợ hãi. Thiên Chúa xúc động trước cử chỉ ấy, nhưng lại nói: "Tại sao con người lại có thể run sợ như thế?".
Người lại thấy một người Hồi giáo đang quì phủ phục hướng về thành La Mecque. La Mecque là một nơi hành hương nổi tiếng của người Hồi Giáo. Thiên Chúa thấy họ cúi đầu thán phục, nhưng Người lại nói: "Tại sao lại phải phủ phục nhiều như thế?"
Người lại thấy một nhà thông luật Do thái cất tiếng đọc to những khoản luật trong Kinh Thánh. Thiên Chúa cũng hài lòng vì những lời cầu nguyện, nhưng Người lại nói: "Tại sao có quá nhiều luật lệ như thế?"
Sau khi đã quan sát tất cả những hình thức cầu nguyện và thờ phượng của con người, Thiên Chúa Cha nói với Con Một như sau: "Con hãy xuống nói với thế gian và mang Thần Khí yêu thương xuống cho chúng. Cha không muốn những hi tế vô ích bởi vì Cha là Cha. Cha không muốn sự sợ hãi bởi vì Cha là Cha. Cha không muốn lề luật bởi vì Cha là Cha. Cha chỉ muôn một tình yêu thanh thản và chân thành, bởi vì tất cả mọi người dầu là con cái của Cha".
Khi mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha, Ðức Giê-su đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng "Abba" là tiếng gọi "Ba ơi" rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
2. Đúng là phải cầu nguyện với Chúa như một NGƯỜI CHA. Và khi đến và cầu nguyện với Chúa, chúng ta phải đến với một tâm hồn hồn nhiên, đơn sơ và chân thành.
Nhưng phải cầu nguyện như thế nào?
Rõ rệt là Chúa không muốn có sự xa cách. Chúa muốn cho con người thân mật gần gũi với Chúa.
Có một câu chuyện trong KT Cựu Ườc rất hay cha muốn kể cho chúng con. Chúng con thấy Abraham nói truyện với Chúa thật là gần gũi và thân mật. Cha thích câu chuyện này vì nó làm cho cha cảm thấy giữa Chúa và con người dường như không còn một cái gì ngăn cách.
Abraham thấy Chúa sắp thịnh nộ giáng tai họa xuống dân thành Sodoma, Abraham liền nài nỉ Chúa tha thứ cho họ... có lẽ khi làm việc này Abraham cũng nghĩ tới gia đình của đứa cháu tên là Lot cư ngụ trong thành này, ông ta có một người vợ và hai cô con gái.
Cha nhắc lại cho chúng con câu chuyện này để chúng con thấy:
Chúa bảo với Abraham:
- Này có chuyện này Ta sắp làm mà Ta không muốn dấu ngươi. Tội lỗi của Sodoma và Gômora quá nặng nề và Ta muốn hủy diệt chúng.
Abraham muốn cứu Sodoma nên thưa với Chúa:
- Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?
Rồi ông đưa ra một lời thắc mắc:
- Nếu có 50 người công chính trong thành chẳng lẽ họ cũng phải chung số phận? Với 50 người công chính đang cư ngụ trong đó chẳng lẽ chưa đủ để Chúa tha cho cả thành ư ?
Và sau đó ông lại can ngăn Chúa :
- Xin Chúa đừng làm vậy, xin đừng sát hại những người công chính cùng với kẻ dữ. Xin Chúa đừng làm thế.
(Đó chúng con thấy, lời lẽ của Abraham thật thân tình chưa... nói với Chúa như nói với người bạn vậy).
Và Chúa cũng nói với ông một cách thân tình như thế:
- Nếu Ta tìm thấy trong thành Sodoma 50 người công chính, ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành.
Thấy ý định của mình có mòi không thành, Abraham thưa lại với Chúa:
- Dù tôi chỉ là tro bụi, nhưng con đã bắt đầu nói thì con cũng xin thưa: nếu trong số 50 người công chính ... còn thiếu 5 người thì sao?
Rồi ông tỏ ra như có vẻ thắc mắc.
- Vì 45 người công chính Chúa có tàn phá cả thành không?
Chúa trả lời cho ông biết:
+ Nếu ta tìm thấy 45 người công chính Ta sẽ không phá huỷ cả thành.
Abraham thấy Chúa có vẻ dễ dãi và xuống nước, Abraham “quất” thêm một câu nữa:
- Giả tỉ như chỉ có 40 người công chính thôi, thế Chúa sẽ làm gì?
+ Ta sẽ vì 40 người đó mà tha cho cả thành.
Abraham thấy thế cũng chưa thành công... nhưng lại không dám can đảm ..
- Nếu Chúa không nổi giận cơ ... thì con mới dám nói: nếu chỉ có 30 người thì sao? - Ta sẽ ... - Con trót nói... nếu chỉ có 20 ... - Vì 20 người đó Ta sẽ không tàn sát. - Xin đừng nổi giận, một lần cuối... nếu chỉ có 10 người? - Vì 10 người đó Ta sẽ không tàn phá.
Sáu lần Abraham đặt điều kiện để xin Chúa tha cho thành Sodoma. Đó chúng con thấy, Chúa thích sự gần gũi thân thiện... như những người bạn nói truyện với nhau.
Thánh Gérald Majeiia hồi còn nhỏ ở giúp việc cho đức cha Lacedogma. Một ngay kia đức cha đi vắng giao chìa khóa cho cậu, bảo cậu kín nước đổ vào bồn. Chẳng may khi cúi xuống chùm chìa khóa rớt xuống giếng sâu, sợ quá... không biết sao để lấy lên.
Bỗng cậu nhớ đến Chúa Giêsu Hài Đồng, cậu vội chạy vào máng cỏ trong nhà thờ quì cầu nguyện rồi ẵm Chúa ra giếng... trước sự kinh ngạc của mọi người.
Cậu cột Chúa vào giây vừa thả Chúa xuống giếng vừa nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới giúp con lấy lại chìa khóa”
Rồi cậu từ từ kéo Chúa lên. Lạ lùng thay ... chìa khoá trong tay Chúa hài đồng. Cha kết thúc ở đây nhé!
Trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Thiên Chúa không bao TN 17-C137
Trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Thiên Chúa không bao giờ biết mệt khi tha thứ, chính chúng ta là kẻ cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin lòng thương xót của Người. Người là Đấng mời chúng ta tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22) và ban cho chúng ta một mẫu gương: Người tha thứ bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác Người lại đến để vác chúng ta trên vai của Người. Không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta phẩm giá mà tình yêu vô hạn và bền vững này đã ban cho chúng ta. Người cho phép chúng ta ngẩng cao đầu và bắt đầu lại một lần nữa, với một sự dịu dàng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng nhưng luôn luôn đem lại cho chúng ta niềm vui” (Số 3). Quả vậy, lòng thương xót bao dung là danh xưng và là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trở về để giang rộng vòng tay yêu thương đón nhận chúng ta.
Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử ghi lại lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa trong cách đối xử với Dân riêng của Ngài, một dân được gọi là “dân cứng đầu cứng cổ” và “lòng chai dạ đá”. Lịch sử ấy đan xen giữa yếu đuối bất trung của con người với quyền năng tối cao của Thiên Chúa. Biết bao lần Israel sa ngã, Thiên Chúa trừng phạt và khi họ sám hối ăn năn, Ngài tha thứ cho họ.
Tác giả Sách Sáng thế diễn tả cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với ông Abraham như một cuộc “mặc cả” giữa hai người mua bán. Từ con số 50 người công chính là điều kiện để Chúa không trừng phạt cho thành Sodoma, Thiên Chúa đã nhận lời giảm xuống còn 10 người. Cuộc “mặc cả” này cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Thiên Chúa trước tội lỗi của con người. Nếu đọc tiếp sách Sáng thế, chúng ta sẽ thấy con số 10 người công chính trong thành Sodoma cũng không thể tìm thấy. Vì vậy, thành này đã bị tiêu diệt.
Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung, con người cũng cần phải kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và bao dung trong ứng xử hằng ngày. Hai hình ảnh được Đức Giêsu dùng để nói về sự kiên nhẫn và bao dung: hình ảnh người bạn và hình ảnh người cha. Người bạn cho vay bánh vì bất đắc dĩ và không muốn bị quấy rầy. Người cha cho con những điều tốt đẹp xuất phát từ tình thương. Từ hai hình ảnh đó, Chúa Giêsu đã kết luận: Nếu con người với nhau mà còn đối xử như thế, huống chi Cha trên trời lại không đối xử tốt hơn sao? “Hãy xin thì sẽ được; Hãy tìm thì sẽ thấy; Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Lời khẳng định này đem lại cho chúng ta niềm vững tin và hy vọng nơi Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Người là cội nguồn của muôn phúc lành. Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng thầm kín riêng tư của chúng ta để ra tay cứu giúp và phù trợ. Cầu nguyện với Chúa không chỉ diễn tả những nhu cầu để xin Ngài ban ơn. Cầu nguyện còn là những dòng tâm sự nồng nàn của tình mến yêu và hiếu thảo, để sống trong mối liên hệ thân tình mật thiết với Chúa, Đấng mà chúng ta được phép gọi là “Cha”. Lời cầu nguyện không chỉ nhằm mục đích xin ơn cho cá nhân người cầu nguyện, mà còn cho những người xung quanh, đặc biệt những người đang rất cần ơn Chúa như những người ốm đau bệnh tật, người nghèo khó, người đang gặp thử thách gian nan và thất bại trong cuộc sống. Lời nguyện cần phải đi đôi với lòng kiên nhẫn, với niềm xác tín rằng Chúa luôn thấu hiểu chúng ta. Như người cha, Ngài luôn muốn cho chúng ta gặp những điều tốt lành.
Để lời cầu nguyện được Chúa nhận lời, người cầu nguyện cũng phải lo sống đạo đức đẹp lòng Chúa và cố gắng thực thi Lời của Ngài. Thánh Phaolô nhắc đến phép rửa của người Kitô hữu, tượng trưng cho cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Khi được dìm mình trong dòng nước thanh tẩy, người Kitô hữu chết với Chúa Giêsu và được sinh ra trong sự sống mới. Đó là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Mọi cố gắng hy sinh đều nhằm đạt tới mục đích này. Mọi ơn Chúa ban cũng nhằm giúp chúng ta sống đúng ơn gọi của Bí tíchThanh tẩy.
Thiên Chúa là Đấng bao dung. Các tín hữu là con của Chúa cũng phải sống bao dung như Ngài. “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đó là lời kinh Chúa Giêsu dạy chúng ta, cũng là lời kinh chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Tuy vậy, trong thực tế, ít khi chúng ta để ý đến việc thực thi lời kinh ấy.
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và ông Abraham kết thúc bằng lời cam kết: “Vì mười người đó (mười người công chính), Ta sẽ không phá hủy Sodoma.” Thế giới hôm nay đầy tràn tội ác. Nếu có những người công chính biết cầu nguyện và tôn vinh lòng thương xót của Chúa, Ngài sẽ ban ơn giúp sức để thế gian tránh khỏi những hình phạt, để được bình an. Ước chi mỗi tín hữu chúng ta hãy là những nhân tố tốt lành, như muối men và như ánh sáng cuộc đời hôm nay, để nhờ đó Thiên Chúa giáng muôn phúc lành cho nhân loại.
(1) Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông". (2) Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói". "Lạy Cha, xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến. (3) Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy. (4) Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con. Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ". (5) Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, (6) vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả. (7) Mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi: Cửa đã đóng rồi. Các cháu lại ngủ cùng giường với tôi. Tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được". (8) Thầy nói cho anh biết: Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện". (9) Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. (10) Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (11) Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? (12) Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bò cạp ? (13) Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời. Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người ?"
2. Ý CHÍNH:
Theo đề nghị của môn đệ, Đức Giê-su đã dạy các ông Kinh Lạy Cha và 3 lời khuyên về sự TN 17-C138
Theo đề nghị của môn đệ, Đức Giê-su đã dạy các ông Kinh Lạy Cha và 3 lời khuyên về sự cầu nguyện như sau: Một là lời cầu nguyện phải vừa tâm tình lại vừa ngắn gọn phong phú. Hai là phải kiên trì cầu xin. Ba là phải vững tâm và phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2a:
+ Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia: Thánh Mat-thêu đặt Kinh Lạy Cha trong khung cảnh Bài giảng trên núi" (x. Mt 6,5-15). Còn ở đây thánh Lu-ca không nói về thời gian và nơi chốn của Kinh Lạy Cha, mà chỉ cho thấy có liên quan giữa gương cầu nguyện của Đức Giê-su với việc Người dạy môn đệ cầu nguyện.
- C 2b-4:
+ Lạy Cha: Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn trong Tin mừng Mát-thêu. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Đức Giê-su muốn dạy môn đệ khẩn cầu với Thiên Chúa như với một người Cha rất gần gũi thân thương.
+ Xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển: Xin cho Danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh. Đây là lời ước nguyện cho hết mọi người được nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
+ Triều đại Cha mau đến: Triều đại ám chỉ Hội thánh trần thế hữu hình. Ở đây xin cho Hội thánh được lan truyền khắp nơi, cho Vương quốc của Thiên Chúa được mọi người đón nhận.- Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy: Xin Chúa ban thực phẩm cần dùng hằng ngày. Của ăn nuôi thể xác là cơm ăn áo mặc và của nuôi linh hồn là Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và Thánh Ý Chúa (x Ga 6,34).
+ Xin tha tội cho chúng con: Lu-ca đổi chữ "lỗi" trong Mát-thêu (x. Mt 6,12) thành chữ "tội". Hai từ "tội, lỗi" tiếng Hy lạp còn có nghĩa là "nợ". Tội là trở ngại lớn nhất cho Triều đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ yêu thương, nên cần phải xin Cha tha tội.
+ Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con: Tha thứ cho người mắc lỗi với mình là điều kiện để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình (x Lc 23,34; Mt 6,14; Mc 11,25).
+ Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ: Cám dỗ nguy hiểm nhất của ma quỷ là xúi người ta chối bỏ đức tin. Do đó Đức Giê-su kêu gọi "Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc 22,40).
- C 5-8:
+ Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn."..: Đức Giê-su dùng dụ ngôn về người bạn quấy rầy để dạy môn đệ phải kiên nhẫn nài xin và đừng bao giờ ngã lòng khi xin mà chưa nhận được. Kiên trì xin đi xin lại là điều kiện để lời cầu của ta được Thiên Chúa chấp nhận. Thiên Chúa sẽ không ban ơn để khỏi bị quấy rầy giống như người chủ nhà trong bài dụ ngôn. Khi không ban ngay điều ta xin là Người để ta có dịp tỏ ra kiên nhẫn tin tưởng cậy trông và phó thác hơn vào Người.
+ Vì thể diện: Câu chuyện dụ ngôn xoay quanh ba nhân vật như sau: Nhân dịp có một anh bạn A lỡ đường ghé lại trọ tại nhà của bạn mình là B. Anh B liền chạy sang nhà anh C cũng là bạn để xin vay ba cái bánh về nhà đãi khách. Anh C khi ấy đã vào giường ngủ rồi và rất ngại phải ra khỏi giường lấy bánh cho bạn mình. Nhưng vì anh B cứ kêu nài mãi nên cuối cùng anh C đành phải ra khỏi giường thỏa mãn tất cả những gì anh B cần, với lý do: dù không phải do tình thân hữu thúc đẩy thì cũng vì sợ sẽ bị mất thể diện, sợ bị mang tiếng là ích kỷ vì đã từ chối giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn. Từ đó Đức Giê-su muốn các môn đệ nhớ đến Thiên Chúa là Cha. Người sẽ ban điều tốt lành và cần thiết là ơn thánh hóa của Thánh Thần, cho những kẻ thành khẩn và kiên trì cầu xin Người.
- C 9-13:
+ Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho...: Lời cầu nguyện là điều kiện cần để được Chúa nhậm lời: Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai xin, ban đức tin cho những ai đi tìm, và sẵn sàng rộng mở Nước Trời cho những ai kiên trì gõ cửa nhà Người.
+ Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?: Đức Giê-su cho biết Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta, vì Người là Cha nhân hậu và hay thương xót hơn các người cha thế gian bội phần.
+ Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời: Đức Giê-su so sánh giữa tình thương có giới hạn của các bậc cha mẹ thế gian vốn gian ác, với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Cha thánh thiện và đầy từ tâm.
+ Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người: Ơn Thiên Chúa ban cho những kẻ kêu xin Người là "Thánh Thần", tương đương với "những của tốt lành" trong Mát-thêu (Mt 7,11). Chính "Thánh Thần làm cho ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên "Áp-ba! Cha ơi!" (Rm 8,15).
4. CÂU HỎI:
1) Dựa theo lời Đức Giê-su dạy trong kinh Lạy Cha, bạn hãy cho biết: Cầu nguyện là gì ? Phải cầu nguyện với ai và cầu khi nào ? Nên cầu xin những gì ?
Có một bác sĩ gốc công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện và không đến nhà thờ dự lễ từ năm lên 10. Một hôm bệnh viện của ông ta tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải được mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: "Này em, bệnh em cần phải mổ. Bây giờ em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em". Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ có lòng đạo đức huấn luyện thói quen cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Khi nghe bác sĩ nói sắp phải đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép và quì gối đọc kinh rồi cuối cùng kết thúc bằng lời cầu nguyện như sau: "Xin Chúa chúc lành cho chú bác sĩ và xin Chúa cho con được mau khỏi bệnh". Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện thật sốt sắng, một việc làm mà sau ba mươi năm trời lãng quên, đến nay ông mới bắt đầu làm lại.
3. SUY NIỆM:
1) Cầu nguyện là gì ? :
Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, như tổ phụ A-bra-ham trong bài đọc một hôm nay, hoặc như Đức Giê-su đã dành lúc sáng sớm tinh sương hoặc đêm khuya thanh vắng để đàm đạo với Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Cả đời sống của Đức Giê-su là một lời cầu nguyện liên lỉ. Khi làm bất cứ việc gì, hay trước khi quyết định điều gì quan trọng, Đức Giê-su đều cầu nguyện để tìm biết ý Chúa Cha và thi hành. Khi đựoc môn đệ yêu cầu, Đức Giê-su đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha hàm chứa những tâm tình như sau:
2) Nội dung lời cầu Chúa dạy trong kinh Lạy Cha:
- Qua lời thưa: "Lạy Cha", Đức Giê-su dạy môn đệ phải thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như đứa con hiếu thảo tâm sự với người cha thân yêu của mình.
- Nội dung lời cầu nguyện Chúa dạy bao gồm bốn tâm tình chính yếu: Một là Chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa qua câu: "xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến" ( Lc 11,2 ). Hai là tâm tình Ăn năn sám hối vì những tội ta đã xúc phạm đến Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót qua câu: "Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con" ( Lc 11, 4). Ba là cảm tạ hồng ân Chúa đã thương ban, và bốn là xin các ơn lành hồn xác qua câu: "Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy" ( Lc 11,3), và "xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ" (Lc 11,4).
3) Cần câu nguyện voi lòng cậy trông phó thác:
Sau khi dạy môn đệ kinh Lạy Cha, Đức Giê-su còn khuyên họ phải kiên nhẫn cầu nguyện với lòng cậy trông và hòan tòan tín thác vào tình thưong của Thiên Chúa.
- Kiên nhẫn nài xin: như dụ ngôn hai người bạn mà người này giữa lúc đêm khuya tìm đến nhà người kia yêu cầu được giúp đỡ. Lúc đầu bị chủ nhà từ chối với lý do cả nhà đã ngủ. Nhưng cuối cùng chủ nhà cũng phải trỗi dậy lấy bánh cho người kia để tránh khỏi bị quấy rầy.
- Tín thác vào Chúa: Có những điều chúng ta cầu xin mà xem ra đã không được Chúa đáp ứng. Thực ra Chúa chưa ban là do chúng ta còn thiếu sụu kiên trì và thành tâm. Hoặc Chúa không ban không phải vì không muốn, nhưng có thể Ngài thấy điều đó không có lợi cho ta. Bù lại, Ngài sẽ ban những ơn khác đem lại hạnh phúc đời đời cho ta như lời Đức Giê-su dạy ở cuối bài: " Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?... Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" ( Lc 11,11.13).
4) Áp dụng thực hành:
-Phải làm mọi việc với hết khả năng của mình : Thiên Chúa là Cha chung của mọi người lành kẻ dữ (x Mt 5,45b). Ngài muốn mọi người cộng tác bằng việc tuân theo các quy luật tự nhiên do Ngài sáng tạo là các quy luật tự nhiên như: Phải học hành chăm chỉ mới mong thi đậu, phải uống thuốc đúng liều lượng theo toa bác sĩ mới hy vọng được khỏi bệnh, phải gieo trồng đúng thời vụ và đúng theo kỹ thuật mới hy vọng một mùa gặt bội thu... Trừ ra trong vài trường hợp vì ích lợi thiêng liêng mới được Ngài can thiệp làm phép lạ mà thôi. Do đó chúng ta không được ỷ nại vào tình thương và quyền năng của Chúa để lười biếng làm việc, và chỉ biết xin Chúa ban ơn theo ý riêng mình. -Phải vừa cầu nguyện vừa vâng theo ý Chúa: Chúng ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện, và phó thác kết quả thành bại cho Chúa, noi gưong Đức Giê-su trước giờ chịu khổ nạn đã cầu xin Chúa Cha: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su cũng dạy môn đệ cầu nguyện theo ý Chúa Cha: "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta cần vâng theo ý Chúa vì chỉ Ngài mới biết điều nào tốt nhất cho ta. Nhiều khi chúng ta xin được trúng số mà không biết tiền bạc đó là rắn độc làm hại linh hồn mình sau này. Nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa ban ơn lành mà trái lại chúng ta lại gặp tòan tai ương họan nạn... Nhưng thực ra các tai ương đó chính là thuốc đắng chữa lành thói hư: "thuốc đắng dã tật". Đó cũng là phương cách Chúa dùng để dạy dỗ chúng ta bỏ đương tội ác để theo con đường thánh thiện đẹp lòng Chúa.
-Phải mở lòng đón nhận Thánh Thần: Cần phải có đức tin chúng ta mới hiểu rằng: khi thành tâm cầu nguyện là ta đã được Chúa nhận lời rồi. Nhưng Chúa thường ban ơn khác với điều ta nghĩ. Phải sau một thời gian, chúng ta mới có thể nhận ra các biến cố kia đều là hồng ân Thánh Thần, được Chúa thương ban để đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
1) Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào ?
2) Bạn nên phản ứng thế nào khi cầu xin những điều chính đáng mà lâu ngày vẫn chưa được Chúa ban cho như ý ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con xin thú thật là con ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của lời cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại mỗi khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.
- LẠY CHÚA. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn sống hiếu thảo với Chúa Cha, năng dành thời gian thưa chuyện với Cha, lắng nghe lời Cha trong Sách Thánh và sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha, tránh lợi dụng lòng khoan dung của Cha. Xin cho con luôn sẵn sàng cộng tác cho Nước Cha mau đến. Con xin phó thác cậy trông vào lòng nhân hậu của Cha luôn ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ban Thánh Thần để giúp con đón nhận được hồng ân cứu độ và được hạnh phúc đời đời trong Nước Cha.
Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu TN 17-C139
Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… là chuyện thông thường. Đối với Thiên Chúa, Đấng mà từ xưa dân Do thái đã có liên hệ mật thiết với Ngài – Và khi Đức Kitô giáng thế khởi đầu “dân mới” thì những điều Ngài thực hiện giữa loài người đã trở nên cụ thể và hiển nhiên với biết bao con người. Có một lời kinh đã đáp lại lời thỉnh cầu của các Tông đồ.
Theo lời thỉnh cầu của một Tông đồ, Đức Giêsu đã dạy các ông một lời kinh tuyệt vời mà ta gọi là “Kinh Lạy Cha”. Đây là một kinh nguyện khuôn mẫu của lời cầu nguyện cùng Cha trên trời. Với lời cầu nguyện này, chắc chắn những ước nguyện của chúng ta sẽ được Cha trên trời chấp nhận: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Lời thỉnh nguyện của ông Abraham dâng lên Thiên Chúa để xin tha thứ cho dân thành Sôđôma và Gômôra đã chứng tỏ điều đó (bài đọc 1).
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay, còn dạy chúng ta phải có thái độ kiên trì trong khi cầu nguyện với dụ ngôn “người bạn bị quấy rầy”. Ngoài ra, Ngài cũng dạy chúng ta phải lấy tình con thảo mà cầu nguyện với Cha trên trời là Người Cha vô cùng nhân ái. Nếu người cha trần thế chẳng tốt lành gì mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, huống chi Cha trên trời lại không đáp ứng cho con cái Ngài những điều tốt lành sao? Hơn nữa, Ngài còn ban cho con người một điều vô cùng tốt lành nữa, đó là ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài dọc 1: St 18,20-32.
Thiên Chúa cho ông Abraham biết dân thành Sôđôma và Gômôra phạm tội quá nhiều, Ngài định sai lửa trên trời thiêu rụi thành này. Ông Abraham đứng làm trung gian xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành này vì sự hiện diện của một số người công chính. Ông biết Thiên Chúa rất yêu thương: yêu thương chính ông và yêu thương con người.
Vì thế ông dám “mặc cả” với Thiên Chúa, từ con số 50 đến con số 10. Mỗi lần mặc cả của ông là mỗi lần tỏ ra rằng Chúa chỉ muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được hai điều quan trọng:
a) Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.
b) Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người, nhất là qua trung gian của các thánh.
+ Bài đọc 2: Cl 2,12-14
Có những người cứ muốn cho tín hữu Côrintô tuân thủ các lề luật Đạo cũ. Thánh Phaolô nhắc lại cho họ biết rằng phép rửa tội trong Đức Kitô đã làm cho họ phục sinh, làm cho họ khỏi chết vì tội. Như vậy, qua phép Thánh Tẩy một Kitô hữu chết cho các tội lỗi trước đây, và bắt đầu sống một đời sống mới.
Còn Đức Giêsu, bằng cái chết trên thập giá, đã trở thành vị Trung gian duy nhất đưa lại ơn tha thứ của Thiên Chúa cho chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 11,1-13
Abraham đã tin tưởng chuyển cầu cho người tội lỗi vì ông biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng ông không dám đi xa hơn mức. Còn Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, và khuyến khích chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Cha, với niềm tín thác của một trẻ thơ khi có những nhu cầu về tâm linh cũng như trần thế.
Kinh Lạy Cha của Luca trong bài Tin mừng hôm nay khác với kinh Lạy Cha của Matthêu (6,9-13): điều đó cho chúng ta biết khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng quan trọng là nội dung: trước hết, xin cho Nước Cha trị đến, sau đến những nhu cầu của con người; và xin thì sẽ được nhận lời vì Cha trên trời không nỡ từ chối.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lạy Cha chúng con ở trên trời
I. KINH LẠY CHA CỦA CHÚNG TA
1. Cơ hội đưa đến Kinh Lạy Cha
Các môn đệ ở gần Đức Giêsu, thấy Ngài cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu giờ, nhất là trước những biến cố trọng đại. Ngài là bậc Thầy của sự cầu nguyện. Các môn đệ đã được chứng kiến tận mắt những lần Ngài cầu nguyện, không những bằng mắt thấy mà còn bằng tai nghe. Vào thời đó, cầu nguyện, theo tiếng Do thái, có nghĩa là “kêu lên”, và như vậy các môn đệ đã nghe tiếng Đức Giêsu cầu nguyện.
Cha George viết: “Các môn đệ phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho một ý tưởng cầu nguyện riêng. Đức Giêsu đã muốn người ta nghe Ngài cầu nguyện, Ngài muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Ngài” (Cahiers-Évangiles”, số 5, tr 43).
Thời Đức Giêsu, có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, trong trường hợp ở đây, chúng ta có nhóm Gioan Tẩy giả. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm.
Hôm nay, một môn đệ được ảnh hưởng do việc Đức Giêsu cầu nguyện và vì thấy Gioan Tẩy Giả đã dạy các đệ tử của ông cầu nguyện, nên đã xin Ngài dạy về sự cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
2. Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha
a) Hoàn cảnh của kinh Lạy Cha
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, nhưng chúng ta không biết rõ ở nơi nào. Thánh Matthêu đặt kinh Lạy Cha trong bài giảng trên núi. Đây chắc là do sự sắp xếp lại để dạy giáo lý cho Kitô hữu. Thánh Luca nói một cách trống: Ngày kia, không nói ở đâu.
Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha này sau câu chuyện xẩy ra ở Bêtania. Như vậy, ta có thể biết được rằng kinh Lạy Cha này Chúa dạy ở chung quanh Giêrusalem, không xa Bêtania, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem lần thứ nhất.
Kinh Lạy Cha được lưu truyền từ thế kỷ thứ 9 rằng Chúa dạy trên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem theo như những điều kiện kể trên kia có lẽ đúng.
So sánh hai kinh Lạy Cha của Matthêu và Luca, ta thấy kinh Lạy Cha của thánh Matthêu dài hơn kinh Lạy Cha của thánh Luca. Trong thánh Luca không có lời nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và không có lời xin: “Xin cứu chúng con khỏi sự dữ”. Kinh Lạy Cha của thánh Luca tuy ngắn hơn, nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa không thiếu gì. “Vâng ý Cha” gồm trong lời nguyện “Nước Cha trị đến”, và “Cứu chúng con cho khỏi sự dữ” gồm trong lời cầu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
b) Nội dung kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha gồm hai phần với 5 lời xin:
* Phần I: hướng về Chúa với hai lời cầu:
– Xin cho danh Cha cả sáng.
– Nước Cha trị đến.
* Phần II: hướng về lợi ích của chúng ta với 3 lời cầu:
– Xin cho chúng con lương thực hằng ngày. – Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. – Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Kinh Lạy Cha là kinh khuôn mẫu Chúa dạy chúng ta hãy dùng mà cầu nguyện. Theo đó, nội dụng sự cầu nguyện có ba phần: Phần thứ nhất là những lời Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời cầu xin đích thực.
II. CẦU NGUYỆN VÀ KINH LẠY CHA
1. Cầu nguyện là điều cần thiết
* Cầu nguyện nơi các tôn giáo
Mọi tôn giáo đều có sự cầu nguyện, nhưng hình thức thì khác nhau, rất đa dạng. Mỗi tôn giáo đều có hình thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy giả hình như cũng có cho các người theo ông. Chính vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu cũng muốn cho mình phải có một hình thức cầu nguyện riêng của mình nên mới thưa với Ngài: “Xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
Đức Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một công thức kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Luca ghi lại có ngắn hơn của Matthêu nhưng cũng chứa đủ những điều cần biết để cầu nguyện thế nào và phải cầu xin những gì.
* Chúa dạy chúng ta cầu nguyện
Trong sách Tin mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu đã truyền cho chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện liên, ví dụ: “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài cũng khuyên bảo chúng ta hãy cầu nguyện và cầu xin cùng Cha trên trời: “Hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho” (Lc 11,10).
Ngày xưa, có người đặt vấn đề với thánh Augustinô: “Nếu Thiên Chúa biết những nhu cầu của chúng ta trước cả khi chúng ta xin, thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện”? Ngài đã trả lời: “Bởi vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện”. Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn câu trả lời này.
* Một vấn nạn cho việc cầu nguyện
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời này, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức : cầu nguyện là đào nhiệm: đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hóa; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào?
Ông Blaise Pascal, nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 17 đã nói về vấn đề ấy: “Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ không phải chỉ bằng việc sử dụng trí thông minh của mình mà còn bằng việc sử dụng cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa”.
Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy đi nữa, ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia sẻ cho chúng ta.
Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.
2. Hiệu lực của việc cầu nguyện
Trong bài đọc thứ nhất (St 18,20-32) chúng ta nghe một câu chuyện thật hấp dẫn về sự tin tưởng của Abraham vào lòng tốt lành và nhân từ của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không dung tha hình phạt cho hai thành Sôđôma và Gomôra nếu có 50 người công chính trong thành sao? Thiên Chúa trả lời: “Tha chứ”! Nếu chỉ có 45 thì sao? Hay 30? hay 10 thì sao Thiên Chúa cũng vẫn đồng ý tha thứ. Thật đáng tiếc, vì 10 người vô tội thôi vẫn không thể tìm thấy, mà chỉ có 4 người là ông Lót, vợ ông, và hai người con gái. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Abraham vì ông tin tưởng nơi Ngài mà cứu 4 người khỏi bị tiêu diệt. Nếu chúng ta đặt tất cả sự tin tưởng ở Thiên Chúa, lòng bao dung của Ngài sẽ ban cho chúng ta rộng rãi hơn là điều chúng ta nghĩ tưởng.
Xưa kia thánh Gioan Vianney đã nói: “Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói “Yes”, khi Ngài đã nói “No”.
Và thánh Gioan Chrysostômô đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này: “Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.
3. Cầu nguyện và khoa học
Sự cầu nguyện cũng có ảnh hưởng tới khoa học. Sức mạnh của lời cầu nguyện cũng đang được khoa học hiện đại kiểm nghiệm qua những hiệu quả lạ lùng. Bác sĩ Alexis Carrel (1873-1944), người đoạt giải Nobel về y khoa năm 1912 đã viết trong cuốn sách nhan đề “Man, the Unknown” như sau
“Cầu nguyện là hình thức mạnh mẽ nhất của nghị lực mà chúng ta có thể phát sinh ra được. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện trên thân thể và tâm trí giống như những tuyến hạch nằm kín đáo trong cơ thể tạo nên sức mạnh đề kháng. Chỉ trong sự cầu nguyện, chúng ta có được sự hiệp nhất thật hoàn hảo và nhịp nhàng giữa thân xác, tâm trí và tinh thần. Nó làm cho thân phận cỏ cây yếu đuối của con người trở thành một sức mạnh không thể lay chuyển được”.
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261).
III. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN
1. Phải kiên trì
Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta: khi cầu nguyện phải biết kiên trì, và để minh họa cho thái độ đó, Ngài đưa ra một dụ ngôn về “Người bạn bị quấy rầy”. Nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nì đến độ sỗ sàng, để giúp đỡ, người bạn khác ở xa mới đến.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa, hoặc là vì tình bạn… Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi): người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua thái độ kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Có người thắc mắc hỏi: Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự ngay trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta: “Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ” ? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị cho của Ngài ban cho”.
Tiếp theo lời giải thích của thánh Augustinô, chúng ta có thể lý luận thêm:
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái .
Một hôm thánh Phanxicô Salesiô nói: “Nếu một em bé thấy con chó dữ đàng xa, hung hăng nhào tới em thì em bé sẽ làm gì? Chạy trốn ư? Không thể được vì em chưa đủ sức. Vậy em phải làm sao? Chỉ còn một cách là em la lên thật to cầu cứu cha mẹ. Và cha mẹ em sẽ chạy đến để bênh vực em và cứu sống em”.
Em bé đó chính là hình ảnh mỗi người chúng ta với sức riêng yếu đuối không thể tự mình bước tới được một bước trên con đường cứu rỗi. Và con chó đó chính là ba địch thù lợi hại của con người: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Phải làm gì đây ? Phải kêu cứu, phải cầu nguyện với Chúa, nếu không, đời ta sẽ gặp nguy khốn.
Phải cầu nguyện, nhưng phải cầu nguyện thế nào để đạt hiệu quả tối ưu ? Ta hãy nghe thánh Phanxicô Salêsiô trả lời tiếp: “Con ruồi đậu trên đóa hoa này liền vội vã bay sang đóa hoa khác, luôn hay thay đổi, còn con ong mật thì lặng lẽ hoạt động, dừng lâu, hút cạn nhụy hoa rồi đem về tổ làm thành mật ngon ngọt. Không nên có thứ Kitô hữu-ruồi, mà phải là Kitô hữu-ong mật, nghĩa là phải kiên trì cầu nguyện”.
2. Cầu nguyện trong tình nghĩa cha con
Dân Do thái đã gọi Thiên Chúa là “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Osée 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16 ; Khôn ngoan 5,5vv..)
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Ngài dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba, Cha ơi”… từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Ngài ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Ngài là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu”, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Con Một của Ngài” (Quesson).
Cha Jean-Luc Vesco nói thêm: “Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha.Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Ga 4,6; Rm 8,15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa” (Jérusalem et son prophète, Cerf, tr 72).
Trong khi cầu nguyện, chúng ta hãy mang lấy tâm tình của Đức Giêsu đối với Cha Ngài, chúng ta hãy lấy tư cách của người con nói chuyện với cha. Cha trên trời luôn luôn là người Cha thương yêu của chúng ta, Ngài thích chúng ta nói chuyện với Ngài trong tư cách của một người con. Ngài sẽ lấy làm vinh dự khi chúng ta kêu Ngài bằng “Abba, Cha ơi”.
Tướng Marc Arthur nói lên tâm sự của ông là một người cha: “Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc kinh nguyện đơn sơ hằng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…. Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và trong tinh thần con thảo. Cầu nguyện! Đó là một từ ngữ của đức tin. Một Kitô hữu mà không cầu nguyện thì còn nghĩa gì nữa .Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng, cầu nguyện cũng là một thử thách.
Ngày nay có người cho việc cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay, hãy xắn tay áo lên. Cầu nguyện là một ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… Cầu nguyện là một sự tha hóa; hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… hãy gạt bỏ những điều mê tín.
Trái ngược với khẳng định của một số người, bác sĩ Alexis Carrel, trong cuốn sách nhan đề “Man,The Unknown” đã không tiếc lời ca tụng giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Ông nói: “Cầu nguyện là một hành vi sáng suốt của con người”. Theo bác sĩ, cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi cái chức năng “con người thụ tạo” con người của ta với Đấng Sáng Tạo Tối cao, tức là Thiên Chúa.
Truyện: Một đứa bé cầu nguyện
Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu. Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không”? Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói: “Cháu hãy để cho Chúa liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ” (Mỗi ngày một tin vui).
Ở thời nào cũng có những người thích chơi ngông, chơi trội để đánh bóng tên tuổi của mình. Ngày TN 17-C140
Ở thời nào cũng có những người thích chơi ngông, chơi trội để đánh bóng tên tuổi của mình. Ngày xưa có Hắc – Bạch công tử thi đốt tiền nấu chè để thể hiện sự giàu có của mình. Ngày nay cũng có những công tử đỏ thi nhau vất nhẫn xuống sông xem ai không tiếc tiền; Có người còn thuê cả chiếc Boeing cho bạn bè bay sang Mỹ mừng sinh nhật. . . Hàng năm các chính khách chi cả hàng tỉ đồng để cho báo chí lăng xê mình trên truyền thông để củng cố quyền lực của mình. Đôi khi người ta cũng lợi dụng tôn giáo, lợi dụng những việc đạo đức hay từ thiện bác ái để đánh bóng tên tuổi của mình như thần thánh. Nhất là với công nghệ mạng xã hội hôm nay họ càng dễ dàng đánh bóng tên tuổi của mình bằng một tấm hình có minh họa, thế là được hàng ngàn người like dần dần trở thành người đức cao trọng vọng. . .
Rất nhiều vị quan chức đạo cũng như đời luôn được người đời ca tụng là có tấm lòng bác ái với người nghèo, nhưng thực chất có mấy ai dám trích từ đồng lương của mình để giúp đỡ anh em nghèo khó, hay chỉ là quyên góp để lấy công cho mình? Có người thì luôn miệng kêu gào người khác đưa tiền để cha làm từ thiện, nhưng không phải để danh Chúa cả sáng mà chỉ tìm hư danh cho bản thân. Đôi khi còn có những mờ ám chung quanh khẩu hiệu từ thiện bác ái … Bằng chứng là vẫn có những cá nhân đã dùng tiền quyên góp để mua nhà, mua xe làm của riêng, cuối cùng danh Chúa cũng bị hoen ố bởi những người thích hư danh và lừa dối này . . .
Hôm nay Chúa Giê-su dạy ta về kinh lạy Cha được khởi đầu bằng việc cầu cho danh Thánh Cha được cả sáng. Bởi lẽ, con người được Thiên Chúa tạo dựng để ca tụng và làm vinh danh Chúa. Vì trong muôn loài muôn vật chỉ có con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa, nên cũng chỉ có con người mới có khả năng tôn thờ và làm vinh danh Chúa.
Trong thánh vịnh cũng từng xác tín: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo. Muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7).
Thực vậy, con người chẳng là chi so với muôn vàn tinh tú trên địa cầu, thế mà Chúa đã yêu thương tạo dựng giống hình ảnh Người, và còn ban cho quản lý công trình Ngài tạo dựng, đặc biệt là còn ban cho vinh dự là con cái Thiên Chúa.
Thế nên, con người cần phải hiểu rằng: mọi sự mình có là do Thiên Chúa thì con người phải dành mọi vinh quang danh dự cho Thiên Chúa. Con người phải phụng thờ Chúa trên hết mọi sự và làm mọi điều để danh Chúa được cả sáng.
Qua kinh lạy Cha Chúa Giê-su còn cho chúng ta biết khi chúng ta làm vinh danh Chúa, thì những lời xin của chúng ta sẽ được Chúa nhận lời và Ngài sẽ ban cho chúng ta lương thực hằng ngày; Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi muôn điều sự dữ.
Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.
Thật hạnh phúc cho chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Hãy làm mọi việc để vinh danh Chúa hầu đền đáp ân tình Chúa ban.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn là con ngoan của Chúa, biết lắng nghe và thi hành Lời Chúa để danh Chúa được cả sáng . Xin đừng lạm dụng danh Chúa để mưu ích cho bản thân làm hoen ô danh Chúa. Ước gì những điều mình nói, những việc mình làm luôn để ca tụng Chúa và làm rạng danh Chúa.Amen
Có một vị giáo sĩ nọ đến chủ tọa buổi cầu nguyện chung với dân chúng. Ông mở đầu với lời TN 17-C141
Có một vị giáo sĩ nọ đến chủ tọa buổi cầu nguyện chung với dân chúng. Ông mở đầu với lời phát biểu như sau: “Kính thưa quý vị, quý vị đã đọc nhiều lời kinh, đã nghe nhiều câu kinh đến độ thuộc lòng. Hôm nay tôi muốn quý vị thưởng lãm một bài kinh đặc biệt. Vừa dứt lời, bức màn được vén ra, đàn nhạc trổi lên và một điệu múa được bắt đầu. Vị giáo trưởng say sưa nhảy múa và dân chúng cũng hoan vui cùng nhau múa nhảy để chúc tụng Thiên Chúa. Tất cả hội trường biểu tỏ niềm vui và sự hiệp thông trong vũ điệu, biến thành những tâm tình cầu nguyện sống động để ca khen Chúa.
Các bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về việc cầu nguyện. Lời cầu nguyện chân thành không phải là những sáo ngữ rỗng tuếch bên ngoài, nhưng phải phát xuất từ sâu tận, bên trong tâm hồn. Đặc biệt trong bài Tin mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện với lời kinh lạy Cha. Đây là lời cầu nguyện hoàn hảo nhất và ý nghĩa nhất để chúng ta diễn bày tâm tình con thảo đối với Cha, đấng ngự trên trời.
Kinh Lạy Cha: Bản tổng lược những định hướng của ơn gọi làm con
Thánh Phanxicô Salê, Giám mục Thành Genève trong một lần thăm viếng mục vụ, đã hỏi một cụ già rất đạo đức xem cụ thường đọc những kinh gì khi cầu nguyện. Cụ già đơn sơ trả lời: “Thưa Cha, con quê mùa dốt nát, kinh kệ chẳng thuộc nhiều, chỉ biết những câu kinh đơn giản, ví dụ kinh Lạy Cha. Nhưng chưa lần nào con đọc hết lời kinh này được. Khi bắt đầu mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha, con xúc động quá, nước mắt cứ tuôn trào. Con nghĩ rằng mình là một người tội lỗi mà được gọi Thiên Chúa là Cha thì con không thể nào cầm trí để đọc tiếp”.
Kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy, tóm kết những định hướng của cuộc sống ơn gọi Kitô hữu chúng ta. Nó khơi dậy tâm tình con thảo, tín thác vào Thiên Chúa là Cha yêu thương, đấng luôn săn sóc và thấu tỏ những nhu cầu của từng người. Nó cũng dạy chúng ta phải yêu mến tha nhân, quảng đại tha thứ cho họ mỗi khi chúng ta bị xúc phạm. Nó khai mở ý thức làm tông đồ để mở rộng Vương quốc Nước Trời, tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa chứ không phải hư vinh trần thế. Lòi kinh cũng nhắc cho chúng ta biết rằng, cuộc sống Kitô hữu là một cuộc hành trình đi tìm kiếm và thực hành những điều Thiên Chúa mong muốn. Nói tóm lại, kinh Lạy Cha là một hệ thống chính trị, không phải chính trị theo kiểu thế gian, nhưng là chính trị của Vương quốc Nước Trời.
Con gái ông Karl Marx, một triết gia vô thần, đã thú nhận rằng ngay từ nhỏ cô ta đã được giáo dục để trở nên một người vô tín, không tin vào Thiên Chúa. Nhưng tình cờ có lần cô ta xem một bản kinh mà cô thấy rất thâm thúy. Các bạn hỏi cô xem đó là kinh gì, cô dõng dạc đọc một mạch kinh Lạy Cha bằng tiếng Đức. Rất có thể lời kinh đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ trong cuộc đời của cô, cho dù bề ngoài cô ta vẫn tỏ vẻ như là một người vô thần.
Tâm tình khiêm tốn và tín thác.
Một Cha già nọ đã chua chát nhận xét rằng, có nhiều linh mục thời nay khi được giáo dân gọi là ‘Cha’, lại quên mất ơn gọi làm ‘con’ của mình. Đây là ơn gọi căn bản của mọi Kitô hữu, từ các linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Mỗi khi dâng Thánh lễ, cả cộng đoàn cùng đọc lên lời kinh mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng hôm nay để hướng lòng chúng ta về Thiên Chúa là Cha chung của mọi người. Chính Chúa Giêsu đã nói : “Đừng gọi ai dưới đất là cha, vì anh em chỉ có một Cha đấng ngự trên trời” (Mt 23,9). Với kinh Lạy Cha, chúng ta mặc lấy tâm tình con thảo để thưa lên với Chúa ‘Abba, Cha ơi’. Cha Thánh Gioan Bosco cũng dạy các con cái mình, đặc biệt các bạn trẻ, phương cách cầu nguyện với 3 sắc nét căn bản: lòng đơn thành (simplicity), tính sống động (liveliness) và sự chân thực (authenticity). Sự đơn sơ trong phong cách cầu nguyện chính là tâm tình của một người con đang thưa chuyện với ‘bố’ của mình. Vì thế khi cầu nguyện, chúng ta không cần trưng ra những ngôn từ bác học kiêu sa, không cần phô diễn những sáo ngữ rỗng tuếch hay những nghi thức cồng kềnh. Chính Chúa Giêsu cũng dâng lời cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha, vì đã mặc khải những mầu nhiệm cao sâu cho những người đơn sơ nhỏ bé (Mt 11,25). Cũng vậy, sự sống động trong cầu nguyện biểu tỏ thái độ vui tươi khi đến với Chúa, bởi vì cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là Chúa của niềm vui. Nhưng quan trọng hơn cả, lời cầu nguyện của chúng ta phải luôn chân thành, không giả dối, không quá câu nệ vào những nghi tiết trang trọng mang nặng tính hình thức (formalities). Nếu kinh nguyện của chúng ta không gắn kết với cuộc sống, đặc biệt thể hiện qua những nhiệt tình tông đồ để phục vụ cho ‘Nước Cha trị đến’, thì những lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch mà thôi. Cha Julius Barberis trong cuốn ‘Vade me cum’ đã viết: “Lòng đạo đức chân thật không hệ tại ở việc đọc kinh nhiều hay ít, nhưng cần nhất là thái độ tâm hồn luôn biết quy hướng về Thiên Chúa (x. chương 35).
Kết luận
Có một bác nông dân nọ quê mùa chất phác ra đồng làm việc. Ông ta vẫn thường mang theo sách kinh để đọc. Một bữa kia vì lơ đễnh, ông để quên sách kinh ở nhà. Đến giờ cầu nguyện như thường lệ, ông bối rối không biết phải làm sao và phải đọc những kinh gì. Ông thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con thật đáng trách. Sáng nay vì vội vàng con quên mang theo sách kinh. Trí nhớ con lại quá kém, chẳng thuộc kinh nào cả. Nhưng con biết Chúa rất thông minh và tốt lành, chẳng chấp lỗi lầm của con. Con sẽ chầm chậm đọc 5 lần tất cả 24 chữ cái từ A đến Z. Xin Chúa cứ việc ghép những chữ đó thành một bài kinh như thế nào tùy ý Chúa”. Nghe vậy, Chúa nói với các Thiên Thần: “Trong các lời kinh mà ta nghe hôm nay, đây là lời nguyện hay nhất vì nó xuất phát từ một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn và rất chân thành.
Mỗi khi mở miệng cầu nguyện với kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy hôm nay, chớ gì chúng ta cũng đọc lên với tất cả sự đơn thành, phát xuất từ tấm lòng con thảo nơi mỗi người.
(Suy niệm Tin mừng Luca (11, 1-13) trích đọc vào Chúa Nhật 17 thường niên)
Năm 1953, một thanh niên da đen ở nước Trung Phi, tham gia vào quân đội viễn chinh Pháp tham TN 17-C142
Năm 1953, một thanh niên da đen ở nước Trung Phi, tham gia vào quân đội viễn chinh Pháp tham chiến tại Việt Nam. Đó là trung sĩ Bokassa. Ông này kết bạn với một cô gái quê ở Biên Hòa tên là Nguyễn Thị Huệ. Năm 1954, sau khi có hiệp định Genève, trung sĩ Bokassa chia tay cô Huệ theo đoàn quân viễn chinh về Pháp, để lại cho cô Huệ một bào thai.
Cô Huệ sanh được một bé gái, mình mẫy đen ngòm như lọ nồi, tóc quăn, môi dầy, đặt tên là Nguyễn Thị Martine. Gia đình cô Huệ rất túng thiếu nên khi vừa lớn khôn, Martine phải mang đậu phộng, bánh mì, trà đá… bán rong cho khách qua đường để kiếm sống qua ngày.
Đầu năm 1972, lên 18 tuổi, Martine vào làm phu khuân vác trong nhà máy xi măng Hà Tiên, cuộc đời lam lũ tăm tối, đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm.
Thế rồi vào một ngày cuối năm 1972, khi Martine đang bốc vác xi măng, bụi bặm đầy người, thì cậu của Martine bất thần xuất hiện và la to: “Martine! Đi về thay đồ chuẩn bị lên máy bay, đi gặp ba mầy làm tổng thống!”
***
Martine bàng hoàng ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì. Hóa ra, dịp may ngàn năm một thuở đã xảy đến với cô: Cha của Martine là ông Bokassa, người lính da đen thuộc quân đội Pháp tham chiến ở Việt Nam năm xưa, nay đã trở thành tổng thống nước Cộng Hoà Trung Phi, một đất nước nổi tiếng có nhiều kim cương nên được gọi là Vương quốc Kim Cương. Ông Bokassa đã cậy nhờ chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó tìm kiếm đứa con lai của mình tại Việt Nam và rước cô này về Trung Phi. Thế là Cô Martine từ thân phận một cô gái lọ lem nghèo hèn khốn khổ bỗng trở thành công chúa trong vương quốc kim cương! Thật là một cuộc đổi đời thật ngoạn mục, hiếm có và rất tuyệt vời!
***
Qua trích đoạn Tin mừng Lu-ca hôm nay, Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta một tin vui triệu lần lớn lao hơn tin vui mà cô Martine đã được nghe biết. Đó là mỗi người trong chúng ta có một Người Cha tuyệt vời nhất thế gian. Đó là Thiên Chúa Cha, Ngài là Đấng dựng nên hoàn vũ bao la tuyệt vời này, là Đấng cao cả quyền năng và đầy lòng yêu thương nhân loại.
Ngài là Cha thật của chúng ta nên Chúa Giê-su dạy chúng ta gọi Ngài là Abba! Abba là tiếng bập bẹ của trẻ thơ Do-thái gọi cha yêu của mình, dịch ra tiếng Việt là Ba ơi! Bố ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, là Chúa Tể càn khôn, còn loài người chỉ là loại thụ tạo thấp hèn, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta tâu với Ngài là “Muôn tâu ngọc hoàng Thượng đế”, mà lại gọi Ngài cách thân thương là Áp-ba, có nghĩa là Bố, là Ba.
Mặc dù Thiên Chúa là Vua trên muôn vua, là Chúa trên các chúa, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Chúa Cha là: “Muôn tâu thánh thượng”, nghe có vẻ xa cách quá, mà lại gọi Ngài cách thân mật là Ba ơi, Bố yêu ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Ông Chủ cao cả, còn chúng ta là tôi tớ thấp hèn, vậy mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Ngài bằng câu: “Kính thưa ông Chủ”, mà gọi Ngài là Bố ơi, Ba ơi!
Khi dạy ta gọi Thiên Chúa bằng Ba, Bố, Cha… Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn nhận Ngài là Người Cha yêu quý trong gia đình và Ngài nhìn nhận chúng ta là đứa con bé bỏng rất đáng yêu trong nhà. Được làm con Cha trên trời là một hạnh phúc vô biên, là một niềm vinh dự lớn lao không tưởng được.
Tiếc thay, còn rất nhiều anh chị em đang sống chung quanh ta, chưa được may mắn nhận biết mình có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa.
Vì thế, qua ý nguyện đầu tiên trong kinh Lạy Cha là “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy cầu xin Cha trên trời ban cho mọi người được diễm phúc nhận biết Thiên Chúa là Cha, là Đấng thánh thiện, đáng được chúc tụng tôn thờ (GLHTCG số 2807 và 2858).
Tiếp theo, qua ý nguyện thứ hai, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu cho “Nước Cha trị đến” nghĩa là cầu cho mọi người đón nhận Chúa Giê-su, Ngài chính là “Nước Thiên Chúa”, đến ngự trị trong tâm hồn mọi người và dẫn đưa nhân loại về với Cha yêu của mình là Thiên Chúa (GLHTCG số 2816).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con cảm tạ Chúa đã bày tỏ cho chúng con biết mình có một Người Cha rất đỗi tuyệt vời, ngàn trùng chí thánh và giàu lòng yêu thương, nhờ đó, tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc vì được diễm phúc làm con chí ái của Cha trên trời.
Xin cho chúng con biết chia sẻ diễm phúc này cho những anh chị em khác, để họ cũng được hạnh phúc làm con của Cha trên trời như chúng con và cùng chúng con ca tụng ngợi khen Cha vinh hiển muôn đời.
Hình ảnh Abraham nài xin Thiên Chúa cứu dân Sôđôma và Gômôra thật là hấp dẫn. Ý tưởng ấy TN 17-C143
Hình ảnh Abraham nài xin Thiên Chúa cứu dân Sôđôma và Gômôra thật là hấp dẫn. Ý tưởng ấy hiểu là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt đám đông dân chúng tội lỗi vì nếu không như thế, thì Người đã trừng phạt cùng lúc kể cả một số ít người công chính. Chúng ta hành xử theo một thái cực đối nghịch. Chúng ta hoàn toàn muốn trừng phạt đám đông vô tội trong khi chỉ có một số ít người tội lỗi đáng phải bị trừng phạt. Xin nêu vài thí dụ:
Trong chiến tranh rất nhiều thường dân, phụ nữ và trẻ em đã chết oan giữa cuộc công kích lẫn nhau giữa hai phe tham chiến (trưng dẫn vài thông tin thời sự về vấn đề này).
Điều tương tự cũng có thể xảy ra ở trong các trường học. Giáo viên rời khỏi lớp trong giây lát. Khi thầy (cô) trở lại thấy chiếc ghế đã bị bẻ gãy. Bất chấp những lời thuyết phục hoặc đe doạ thế nào đi nữa của thầy giáo, thủ phạm không hề ló mặt ra và cũng chẳng có học sinh nào nêu tên thủ phạm. Do đó thầy giáo phạt cả lớp. Tất cả học sinh bị ở lại sau giờ tan học.
Tương tự như thế cũng xảy ra trong gia đình. Bà mẹ trở về nhà phát hiện vật nào đó đã bị rớt bể. Không có đứa trẻ nào nhận lỗi. Do đó cả bầy trẻ đều bị phạt. Không được xem chương trình truyền hình tối nay.
Khuynh hướng được nại đến trước tiên cho những hành vi của chúng ta đó là sự suy xét một cách khôn ngoan sáng suốt và công bằng. Điều này nghĩa là gì ? Phải chăng là sự công bằng khi phạt luôn 99 người vô tội để bảo đảm rằng tên tội phạm đã bị phạt trong đám 100 người ? Dĩ nhiên không thể như thế được. Điều đó không công bằng. Thật là khủng khiếp khi bị phạt về điều mà bạn không hề vi phạm. Nếu xảy ra, nó sẽ để lại trong bạn nỗi niềm đau khổ với cay đắng.
Mặc dù lôi cuốn, cách thế xử sự đó không thể là cách thế của người Kitô hữu được, ngay cả của con người nữa. Thiên Chúa không bao giờ phải sử dụng đến điều đó. Đây là điều chúng ta đã được nghe trong bài đọc thứ nhất. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta bài học tương tự trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ cỏ lùng kẻo rồi lại làm bật gốc cả lúa trong ruộng.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm sao để vượt qua sự dữ mà không làm cho sự dữ tiến triển hơn. Sự dữ phải bị chống đối. Nhưng chúng ta phải làm cách nào đó, sao cho đừng để sự dữ tăng trưởng. Sự dữ không thể vượt qua bằng chính sự dữ. Chỉ có điều thiện hảo mới thắng vượt sự dữ.
Chúa Giêsu hôm nay xác quyết rằng “Cứ xin sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho TN 17-C144
Chúa Giêsu hôm nay xác quyết rằng “Cứ xin sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho”. Ấy vậy mà nhiều lần trong đời sống, chúng ta nhận thấy rằng chúng ta xin hoài mà chẳng được, tìm mãi mà chẳng thấy, và gõ hoài, chẳng ai mở. Ngược lại, người khác xin thì được ào ào dù họ chẳng đạo đức hơn gì mình, nhiều khi thua mình nữa là khác nếu xét về đời sống đức tin. Chính lúc ấy, niềm tin của chúng ta bị chao đảo, dễ tàn lụi vì nghĩ rằng Chúa không thương mình nữa, Chúa có thật không hay chỉ là ảo tưởng, thôi ta đi tìm chỗ dựa khác vững chắc hơn, có lợi hơn. Không! Nghĩ như thế là nông cạn lắm, bởi vì trong bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể ông Ápraham xin Chúa tha thứ cho dân thánh Xơ-đôm nếu trong thành có 50 người lành. Ông Apraham tìm mãi không có nên nài xin Chúa hạ xuống còn 10 người lành Chúa vẫn tha cho. Cho nên, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng anh em là những kẻ xấu mà biết cho con cái mình của cái tốt lành, phương chi Cha trên trời không ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người sao? Vì thế, bây giờ vấn đề là tôi xin cái gì và xin như thế nào? Tại sao xin không được?
Khi xin, đương nhiên chúng ta xin những cái tốt. Nhưng, thế nào là tốt? Ngày nay người ta đánh giá tốt hay xấu không bằng thang giá trị của cuộc sống mà bằng cái dáng vẻ bên ngoài. Ngày xưa “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng ngày nay “cái đẹp đánh bẹp cái nết”. Vì vậy, liệu cái mà chúng ta cho là tốt nhưng nó có thật sự tốt trước mặt Chúa không? Nó tốt trong giây phút hiện tại nhưng không tốt cho tương lai và vĩnh cửu sao? Chính vì thế, Chúa không cho, không phải vì không thương nhưng Ngài thương chúng ta ngay cả đời này và lo cho ta được hưởng đời sau nữa. Ví dụ một đứa trẻ xin cao dao cắt trái cây, cha mẹ có cho không? Mới lớp 8 xin nghỉ đi học để đi làm kiếm tiền giúp đỡ gia đình, cha mẹ có cho không? Hay anh sinh viên xin nghỉ học để chạy Grabike để kiếm tiền, cha mẹ có cho không? Tại sao không cho? Vì một em bé đang chơi với đám trẻ ngoài đồng, bỗng chạy vào nhà xin bố cho nó mượn con dao. Bố không cho? Đợi bố bu bu làm việc dưới bếp nó lẻn cầm dao chạy u ra đồng. Bố tinh ý, chạy theo xem nó làm gì, thì ra nó lấy dao để chặt trái lựa đạn mà nó tưởng đâu một loại trái gì đó ăn được. Bố nó nhảy tới giựt con dao trước khi nó bổ đôi trái lựu đạn. Tầm nhìn đứa trẻ và anh sinh viên còn hạn hẹp. Cha mẹ thì nhìn xa trông rộng luôn biết được tương lai của đứa con sau này sẽ ra sau trong cuộc sống, huống chi là Thiên Chúa, tạo dựng nên con người, Ngài thông biết mọi sự. Cho nên, nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng Chúa biết điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho chúng ta ngay hiện tại và tương lai, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Vì vậy, Thiên Chúa không ban cho chúng ta như lòng chúng ta mong ước, đó là bởi sự khôn ngoan, lòng thương xót và sự quan phòng của một người Cha đầy tình từ bi nhân ái.
Nhiều khi chúng ta xin mà chưa được hay không được, hãy an tâm vì Chúa có cách tốt nhất Chúa dành cho chúng ta. Chúa biết những gì thiết thực cho phần hồn, phần xác chúng ta nên Ngài ban hay không ban là vì thương và muốn chúng ta xứng đáng là con cái của Ngài để nói như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai rằng chúng ta sẽ được sống với Đức Kitô nhờ Thiên Chúa ban muôn ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta hầu được hưởng ơn cứu rỗi. Để được như thế, có lúc Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng cách không ban cái chúng ta xin để chúng ta tự thăng tiến, trưởng thành trong đời sống tự nhiên và tín thác vào Thiên Chúa trong đời sống siêu nhiên. Có khi chúng ta nhận được thất bại để rút tỉa kinh nghiệm và làm cho cuộc sống thêm chất lượng hơn và trung tín theo Chúa đến cùng để hưởng hạnh phúc bên Chúa. Cho nên, một người tín hữu chia sẻ kinh nghiệm rằng nhiều lần trong đời sống, tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao - Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn. Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn - Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn. Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng - Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn. Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống - Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự. Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần.
Qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết điều chúng ta cần không phải là chúng ta có được gì sau khi xin, nhưng chúng ta cần có được lòng thương xót Chúa và nhận ra thánh ý Chúa sau mỗi lần xin để chấp nhận thi hành. Vì thánh ý Chúa như một món quà yêu thương mà chúng ta cần lãnh nhận bằng cả niềm tin và lòng tri ân cảm mến. Vì vậy, có được Chúa là có tất cả đồng thời nhận ra cách thức Chúa ban ơn cho chúng ta sẽ giúp chúng ta biết cảm tạ và tín thác đời mình cho lòng thương xót Chúa quan phòng. Như thế, chúng ta sẵn sàng theo Chúa cho đến hết hơi cho đến trọn đời. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể mà chúng ta đang cử hành là bảo đảm cho thấy Chúa luôn thương xót, chăm sóc và ban ơn bình an, vui mừng và hy vọng. Ước gì Chúa Giêsu Thánh Thể đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố và mọi nẻo đường của cuộc sống hôm nay. Amen.
Tin mừng Lc 11: 1-13: Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y Học và Đức Tin với sự TN 17-C145
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y Học và Đức Tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức Tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim.
Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường.
Từ xa xưa, con người đã thấy sự cần thiết và hữu ích của cầu nguyện, chính vì vậy, Gioan đã làm như thế cho môn đệ của ông và bây giờ các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến xin thầy mình dạy cầu nguyện. Đây là bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy, được Luca và Matthêu ghi lại.
Một số điểm chúng ta cần lưu ý:
1. Abba, Lạy Cha
Danh xưng “Cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy Lạp, Rôma và Sêmít. Nhưng điều lạ là việc sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do Thái dùng để thân thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “Cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy tương quan thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ tương quan mới mẻ và duy nhất, vô song.
2. Nội dung kinh cầu nguyện của Chúa Giêsu
Phần đầu: lời cầu cho Nước Chúa được hiển trị.
Phần hai: xin những sự cần thiết cho chúng ta.
Thiên Chúa là một người Cha luôn quan tâm đến nhu cầu của chúng ta. Đây là một lời cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
- Nó bao trùm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin lương thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện xưa về manna trong hoang địa (Xh 16,11-21). Dân Chúa chỉ được lượm manna đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
- Lời cầu nguyện này cũng bao trùm tội lỗi đã qua Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.
- Lời cầu nguyện này cũng bao trùm các thử thách trong tương lai
Từ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta chỉ có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban.
3. Trở lại phần một của kinh Lạy Cha
Cầu nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Điều đáng ngạc nhiên nhất là khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, Chúa Giêsu không nói một tiếng về bản thân mình. Không nói gì đến Chúa Giêsu ở đây là một trong những điều thật ý nghĩa: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha.
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha hiển trị. Để thể hiện được điều này đòi chúng ta phải cầu cho ý Thiên Chúa, chớ không phải ý của chúng ta. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta.
Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nên lời cầu nguyện của chúng ta cũng phải rập theo lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, tức là cầu nguyện để ý của Thiên Chúa Cha được thể hiện. Ý của Thiên Chúa được thể hiện, đó chính là làm cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha được hiển trị.
Cầu nguyện cho ý của Thiên Chúa, đó mới là điều quan trọng. Chính vì vậy nhiều khi chúng ta tưởng rằng chúng ta xin một đường mà Chúa lại cho một nẻo như khi
- Chúng ta xin Người vứt bỏ nỗi đau khổ, thì Người lại nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Thiên Chúa hơn.
- Khi chúng ta xin Chúa cho sức khoẻ để có thể làm được những việc lớn lao – Người lại ban cho chúng ta sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
- Khi chúng ta xin Chúa cho giàu sang để có thể sống hạnh phúc hơn – Người lại ban cho chúng ta sự nghèo nàn để chúng ta biết cậy dựa vào Chúa hơn.
- Khi chúng ta xin Chúa ban cho quyền lực để được người đời xưng tụng – Người lại ban cho chúng ta sự mọn hèn để chúng ta biết cần đến Ngài hơn.
- Khi chúng ta xin Chúa ban cho mọi sự, nhờ đó chúng ta có thể tận hưởng thú vui cuộc sống – Người lại ban cho chúng ta cuộc sống để nhờ đó chúng ta tận hưởng mọi sự.
Như thế xem ra chúng ta chẳng được tất cả những điều chúng ta xin, nhưng lại nhận được mọi thứ chúng tai cần. (Anon)
Hiểu được như vậy, khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta, chúng ta mới dám tin rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17). Đó chính là tâm tình của Chúa Giêsu khi dạy chúng ta thân thưa với Thiên Chúa Cha: ABBA, Lạy Cha. Amen.
“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”
Lời yêu cầu của một người trong nhóm môn đệ cho chúng ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không dạy TN 17-C146
Lời yêu cầu của một người trong nhóm môn đệ cho chúng ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không dạy các ông cầu nguyện. Chúa Giêsu không dạy các ông cầu nguyện vì từ nhỏ, một người Do Thái đã biết cầu nguyện với lời Thánh vịnh rồi. Ngài chỉ dạy họ bằng chính cuộc sống cầu nguyện của Ngài, bằng chứng là sau khi cầu nguyện, người môn đệ kia mới đến xin Ngài dạy cầu nguyện. Các thánh sử nhiều lần đã nhắc đến việc Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng và cầu nguyện thâu đêm. Đó chẳng phải là những bài học sống động sao?
Nhưng khi nghe lời thỉnh cầu của người môn đệ, Chúa Giêsu chấp nhận ngay và dạy họ cầu nguyện như Ngài.
Bài học cầu nguyện này vẫn còn được sử dụng và cho đến tận thế, Giáo hội vẫn cầu nguyện như thế: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng:…
Đây là một lời cầu nguyện chính Chúa Con dạy. Trong Cựu Ước không có lời cầu nguyện nào độc đáo như thế. Độc đáo vì Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Chúa là Cha như Ngài. Đây phải chăng là một hồng ân vô giá mà chúng ta không xứng đáng lãnh nhận? Nhờ Chúa Giêsu đến mang cho chúng ta hồng ân vô giá này. Nhưng mấy người đã hiểu được giá trị của nó? Hằng ngày chúng ta vẫn cầu nguyện với những lời này, nhưng chúng ta gần như không mấy khi để ý, vì quá quen thuộc. Thói quen bào mòn tất cả những gì cao quí nhất.
Chúng ta hãy nói lên tiếng Cha như Chúa Giêsu, chúng ta mới cảm thấy niềm hạnh phúc Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phanxicô Assisi, một ngày kia đi đường với một thầy trong dòng. Vì đường xa, thánh nhân mới đề nghị: “Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong lúc đi đường”. Thế là hai người im lặng cầu nguyện suốt quãng đường dài. Đến nơi, thánh nhân hỏi thầy: “Thầy đọc được mấy kinh?” Thầy nhanh miệng trả lời: “Con đọc được hai trăm năm chục kinh”.
Thánh nhân nói: “Còn tôi, tôi đọc chưa được một kinh.” Trước sự ngạc nhiên của thầy, thánh nhân nói: “Tôi chỉ nói được một tiếng thôi: lạy Cha, và tôi cảm thấy hạnh phúc đến nỗi tôi chỉ nói có một tiếng lạy Cha thôi”.
Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta nếm được thứ hạnh phúc tuyệt vời đó, hạnh phúc biết mình là con của Cha trên trời.
Nếm được hạnh phúc này, những lời cầu tiếp theo mới có giá trị. Nếu chúng ta không cảm thấy mình là con của Cha thì xin cho Danh Cha cả sáng… có nghĩa gì? Hơn nữa, với tâm tình con thảo thì chúng ta xin gì cũng có thể được.
Nhiều người thắc mắc: sao chúng ta vẫn cầu xin cho Danh cha cả sáng mà không thấy kết quả? Thế giới vẫn vô đạo và con người càng ngày càng từ chối Thiên Chúa?
Chúng ta làm sao biết được kết quả? Hay chúng ta chỉ cầu nguyện ngoài môi miệng mà lòng chúng ta xa Cha muôn trùng?
Danh Cha có cả sáng, Nước cha có trị đến trong chúng ta chưa? Tâm hồn chúng ta thực sự là Nước Cha chưa? Chúng ta mơ mộng nhiều hơn là sống.
Dù sao, Chúa Giêsu vẫn là mẫu mực của việc cầu nguyện. Cầu nguyện như Ngài, với tâm tình con thảo, với trọn tình yêu.
Chúa dạy chúng ta cầu nguyện cho Danh Cha, cho Nước Cha, nhiều người tưởng rằng chúng ta cầu xin cho Chúa. Chúa không cần chúng ta nhưng khi chúng ta cầu cho Danh Cha và Nước Cha thì chúng ta cầu nguyện cho chính chúng ta. Danh Cha và Nước Cha là Tình Yêu. Nếu Nước Tình Yêu của Cha được thực hiện thì người được hưởng đầu tiên là chúng ta. Nước Tình Yêu của Cha là hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta là ai mà cầu cho Thiên Chúa? Chúng ta làm được gì cho Chúa? Chúng ta chỉ là tro bụi, chỉ biết lãnh nhận mà thôi. Tất cả những lời cầu xin chúa Giêsu dạy cho chúng ta đều quy hướng về Cha, nhưng lại là hồng ân mà chúng ta đang cần. Nhưng hồng ân ấy đến từ nơi Cha là Tình Yêu mà thôi.
Dạy cho chúng ta cầu xin những gì cần cho chúng ta, Chúa còn dạy chúng ta cầu xin thế nào cho phải; là cầu xin bền bĩ và tin cậy. Dụ ngôn người bạn đang đêm đến mượn bánh, cho chúng ta một bài học rất quí giá, cầu nguyện phải khẩn thiết. Chúng ta thường gấp rút muốn được ngay những gì chúng ta xin, phải có kết quả ngay. Vì thế nhiều người trách Chúa sao không nhậm lời họ xin. Phải nhìn nhận rằng chỉ có Chúa mới biết được những nhu cầu chính đáng của chúng ta: “Cha chúng con ở trên trời biết những gì chúng con cần”.
Cha trên trời là một người cha đầy tình thương, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, vì thế: “xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp”. Chúng ta là những người xấu xa mà còn biết cho con mình những gì tốt nhất, huống hồ Cha trên trời là một người cha tuyệt đối nhân lành, không lẽ Ngài để chúng thất vọng! Chỉ có chúng ta hèn tin.
“Xin thì sẽ được” sao chúng ta không nhận được những gì chúng ta cầu xin? Chỉ có Chúa mới biết những gì thích hợp cho chúng ta, vì thế Ngài không ban cho chúng ta những gì có thể gây tai hại cho chúng ta, Ngài chỉ ban những gì hữu ích cho chúng ta mà thôi. Chúng ta xin làm ăn phát đạt, điều này xem ra hợp lý, nhưng có lợi cho chúng ta không hay sẽ trở thành một tai hại lớn lao hơn?
Chúng ta hãy cầu xin những gì thích hợp với ý muốn của Chúa Cha, như thế, chúng ta mới thực sự là những người con thảo. Cầu xin với tất cả lòng tin cậy thì chúng ta sẽ thấy những gì chúng ta tìm kiếm, chúng ta sẽ thấy mọi cánh cửa đều mở.
Hơn nữa, Cha trên trời dành cho chúng ta một hồng ân tuyệt hảo đó là Thánh Thần của Người.
Thánh Thần sẽ giúp chúng ta xác nhận tính cách con thảo của chúng ta và ban cho chúng ta những “hoa quả của Thánh Thần là bình an và hoan lạc”. Chính Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho phải và sẽ cầu nguyện trong chúng ta “bằng những tiếng rên khôn tả”. Chính Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện trong tình con thảo. Như thế, khi chúng ta cầu nguyện với những lời Chúa Giêsu dạy, với sự trợ giúp của Thánh Thần, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ mang lại kết quả tràn trề dù chúng ta không thấy. Đừng đọc những lời kinh quí báu này theo thói quen mà hãy đọc với con tim tràn đầy tâm tình biết ơn. Hãy để cho Thánh Thần biến chúng ta thành con thảo của Chúa Cha, chúng ta mới đủ sáng suốt và can đảm thực hiện ý Cha dưới đất cũng như trên trời.
Hôm nay, trong Hiến Tế Tạ Ơn và mỗi ngày, chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu có mặt nơi Bí tích Tình Yêu, nguyện xin như Chúa đã dạy và chúng ta sẽ lãnh nhận Ngài trong thân xác hay chết của chúng ta, như một của ăn, để sống trong Ngài, yêu mến Ngài tha thiết hơn. Đó là hạnh phúc Ngài ban tặng cho chúng ta, là “lương thực hằng ngày” mà chúng ta vẫn cầu xin.
Tin mừng Lc 11: 1-13: Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người.
Cầu nguyện là thái độ sống căn bản của Kitô hữu. Trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện con người TN 17-C147
Cầu nguyện là thái độ sống căn bản của Kitô hữu. Trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện con người gặp gỡ Thiên Chúa, được nối kết và gắn bó mật thiết với Người. Cầu nguyện có khả năng mang lại sức mạnh cho đời sống đức tin. Không cầu nguyện thì không còn là Kitô hữu. Chắc hẳn ý thức được điều đó, các môn đệ đã xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện. Các bản văn lời Chúa hôm nay nêu bật sức mạnh và vai trò quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống đức tin.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 11,1-13
Kinh Lạy Cha và hiệu lực của việc cầu nguyện
Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, đồng thời, qua các dụ ngôn sau đó, Người cũng cho thấy sức mạnh và hiệu quả của việc cầu nguyện. Cầu nguyện là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha, để từ đó, đón nhận được ơn sủng của Chúa cũng như khả năng sống theo Ý Chúa.
a. Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ không chỉ biết cách cầu nguyện như thế nào mà còn đưa các ông đi vào trong mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Cha. Cầu nguyện là sống tương quan con thảo với Chúa Cha; sống tương quan huynh đệ với mọi người trong Thiên Chúa.
b. Các ý tưởng cầu nguyện của kinh Lạy Cha cho thấy cầu nguyện không chỉ là xin ơn mà còn là làm sao cho Danh chúa được hiển vinh; là đón nhận và thực thi ý Chúa; là lên đường xây dựng Nước Chúa.
c. Với các dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu cho thấy hiệu quả lớn lao do việc cầu nguyện mang lại. Nếu biết bền tâm cầu nguyện thì chắc chắn luôn được Thiên Chúa nhận lời. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn luôn ban cho con cái mình những điều thiện hảo.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Lạy Thầy! Xin dạy chúng con cầu nguyện:
Theo nhiều nhà tu đức và truyền thống của Giáo hội thì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Một linh hồn cầu nguyện là một linh hồn đang sống động. Nhờ Bí tích Thánh tẩy, con người được hiệp thông sự sống của chính Thiên Chúa; được gọi Thiên Chúa là Cha. Một mối tương quan tình yêu đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và chúng ta. Thiên Chúa là Cha còn chúng ta là con cái của Ngài. Mối tương quan đó có sống động, tồn tại và phát triển hay không tùy thuộc vào thái độ, vào đời sống cầu nguyện của mỗi cá nhân. Chính trong cầu nguyện mỗi người ngày càng thắt chặt và đi sâu vào trong thân tình với Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu đã luôn luôn cầu nguyện. Người đã dạy kinh Lạy Cha sau khi cầu nguyện riêng. Do đó, kinh này phát xuất từ chính kinh nghiệm cầu nguyện của Người. Kinh Lạy Cha phản ánh mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, và Người đã hướng dẫn để mọi người cùng sống mối tương quan đó với Người.
Cầu nguyện cần thiết như thế cho nên, phải bắt chước các môn đệ cầu xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Không thể nào sống mối tương quan mật thiết với Chúa Cha nếu không biết cầu nguyện, không chịu cầu nguyện và không chân thành cầu nguyện.
2. Lạy Cha chúng con ở trên trời:
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người. Thiên Chúa là Cha là động lực mạnh mẽ của mọi kinh nguyện Kitô giáo. Gọi Thiên Chúa là cha là ơn huệ vô song mà người Kitô hữu nhận được từ nơi Thiên Chúa. Ơn huệ này là nguồn của mọi ơn huệ vì nhờ đó, con người được trở nên con cái, được đồng thừa tự với Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha. Khi trở nên con Thiên Chúa được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh chị em của nhau. Lời kinh "Lạy Cha chúng con ở trên trời" nói lên thân phận của Kitô hữu là con Chúa, là anh chị em của nhau; nói lên niềm hy vọng vì sẽ thuộc về Nước Trời; nói lên tình yêu hiệp nhất của Kitô hữu.
Kinh Lạy Cha là câu kinh quen thuộc chắc hẳn mọi người đều thuộc làu, đều đọc hằng ngày. Tuy nhiên, mỗi khi vang lên lời kinh ấy trên môi miệng, người đọc có thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha không? Có thực sự ý thức và sống mối tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh không?
3. Hãy xin thì sẽ được:
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng trong cầu nguyện vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm cầu nguyện. Chắc chắn không ai cầu nguyện nếu không tin tưởng, không hy vọng. Lời Chúa Giêsu không phải là một lời hứa nhưng Người nói lên một thực tại. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn lắng nghe và thỏa mãn mọi lời con cái nài van. Thiên Chúa sẽ ban không chỉ những gì chúng ta xin mà còn ban hơn nữa, ban chính Chúa Thánh Thần, là nguồn hồng ân. Đấy cũng chính là sức mạnh và hiệu quả của lời cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho thành Sôđôma (bài đọc I) đến dụ ngôn trong Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quí báu: Hãy cầu nguyện, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta ước mong.
Tin mừng hôm nay hướng dẫn chúng ta, những Kitô hữu cách thức, thái độ phải có khi cầu nguyện và giá trị vô song của cầu nguyện. Dựa vào đó, mỗi người hãy nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình. Tôi đã và đang cầu nguyện như thế nào?
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là cha chúng ta, Ngài hằng yêu thương chăm lo cho chúng ta với tất cả tình phụ tử. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo hội qua đời sống kinh nguyện và Thánh lễ có trách nhiệm khẩn cầu Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho đời sống cầu nguyện của Giáo hội ngày càng phong phú hơn để đưa được nhiều người trở về với Chúa là Cha và làm cho Nước Chúa ngày càng phát triển.
2. Mọi người đều được mời gọi trở nên con cái của Chúa và là anh chị em của nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho thế giới hôm nay có hòa bình và công lý, cho xã hội ngày càng thắm đượm tình người hơn.
3. Được qui tụ lại trong tình Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống cầu nguyện, nhờ đó, mọi người biết xây dựng và phát triển tình yêu thương hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn cũng như trong toàn thể Giáo hội.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Xin nhìn đến đời sống đức tin của chúng con là con cái Chúa. Xin gia tăng niềm tin và niềm hy vọng nơi chúng con để tất cả mọi người biết chuyên cần cầu nguyện và mọi lời cầu nguyện chúng con dâng lên làm đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,” “Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.” (dẫn từ TN 17-C148
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,” “Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.” (dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Bàng hoàng, hốt hoảng hay thổn thức phải chăng đó cũng là động-thái của những người gặp cảnh ngộ “sa chước cám dỗ, vẫn cầu xin. Cầu và xin, như lời cuối kinh Lạy Cha, ta từng đọc?
Trình thuật, thánh Luca ghi về sự thể đồ đệ Chúa từng nghe Thày Chí Thánh dạy cách nguyện cầu qua lời kinh “Lạy Cha”. Ý/lời “sa chước cám dỗ” ở cuối kinh, diễn tả một nhận thức rất rõ về cuộc đời của Chúa có nối kết với “chước cám dỗ” công khai cả một đời. “Chước cám dỗ” Chúa gặp, kể về sự việc xảy đến ở đầu đời, khi Thần Khí dẫn Ngài vào “sa mạc” thanh vắng và Ngài ở đó 40 ngày để “sa chước cám dỗ”, có giáp mặt “quỷ ma”, và có cả thiên sứ đến hầu hạ Ngài.
Sa chước cám dỗ, không chỉ xảy đến vào buổi đầu đời Ngài, mà cả vào ngày Ngài nhận thanh tẩy cho đến thời khắc diễn ra ở vườn Géthsêmani, là yếu tố lịch sử được diễn tả không theo nghĩa hiện tượng, nhưng như sự thể xảy đến suốt một đời. Sự việc này, thánh sử Máccô diễn tả đặc biệt hơn thánh Mátthêu và Luca, chỉ sơ qua ở kinh Lạy Cha mà thôi.
Cụm từ “sa mạc” thánh Máccô tả, không có nghĩa chốn miền nóng cháy đầy những cát ở Giuđêa hay đâu đó, mà là sự việc Chúa đi vào cuộc sống công khai với mọi người. Bởi, với Chúa, tính công khai của cuộc sống mang ý nghĩa mở ra ngoài, hoặc tính chính trị cũng như tính công-khai-hoá như “sa mạc đời người”. Và, Ngài ở đó cho đến ngày trút hơi cuối cùng cuộc đời Ngài, mới thôi. Cuộc sống công khai của Chúa được đề cập ở đầu Tin Mừng, là việc Chúa dấn thân phục vụ người nghèo khó, sống vì nguời khó nghèo. Bởi Ngài ít được người hỗ trợ, nên cứ bị kình chống/đối lập không ngớt. Và, trong đời người, hễ ta công khai có lập trường sống giống như Ngài, rồi cũng bị xa cách/tách biệt khỏi “sa mạc cuộc đời” người; và khi đó, bạn bè ta là người nghèo khó sẽ chẳng giúp ích gì cho ta hết.
Truyện kể Chúa chịu “sa chước cám dỗ”, đề cập việc Ngài giáp mặt/đụng trận với đám “quỷ ma”, tức các lãnh tụ tôn giáo người Do thái thời đó cứ kình chống/khích bác những gì Ngài công khai phục vụ người nghèo. Và cuối cùng, “thiên sứ đến với Ngài”, chính là đồ đệ đến giúp Ngài thực hiện mọi sự cho người nghèo, cách công khai.
Cụm từ “sa chước cám dỗ”, tiếng Hy Lạp là “Peirasmos” nghĩa là khai thác/thử nghiệm giá trị sự việc để xem mình kình chống được bao lăm và xem có khả năng đi xa hơn thế không. Ở Tin Mừng thánh Luca đoạn 22 câu 28, cụm từ này mô tả không chỉ tình huống khó khăn Chúa gặp phải, khi Ngài công khai lo cho người nghèo thôi; mà còn diễn bày những khó khăn của Hội thánh thời tiên khởi quyết theo Chúa đi vào quãng đời công khai sống thực hiện những điều Chúa dạy.
Như thế thì Chúa nhìn vào những gì, khai thác những gì và “sa chước cám dỗ” đến thế nào?
Tin Mừng thánh Luca cho thấy, khả năng trở thành Đấng Mêsia cứu vớt người nghèo theo cách thống trị hoặc thụ động hoặc sinh hoạt đầy tính chất rất kịch.
Thứ nhất, theo cách thống trị. Có người hỏi: nếu Đức Giêsu là Chúa, thì sao Ngài không hạ gục phe đối lập để thống trị? Nếu Ngài làm thế cũng để đem lại lợi ích cho người nghèo, cũng đâu khó. Ở đây, thánh Luca gọi đó là cách làm của ma quỷ. Ở các đoạn sau đó, thánh Luca lại đã coi quyền lực và vinh dự ở đời thuộc dạng quỷ ma, đầy cám dỗ.
Thứ hai, là tính thụ động. Theo thánh sử, thụ động đây, không có nghĩa lười biếng mà là: bắt Chúa làm mọi việc, còn mình thì chẳng làm chút gì hết, cứ rút lui vào bóng tối, thế là xong. Làm như thế, tức: phủ nhận điều lạ kỳ về sự quan phòng của Chúa. Thánh Luca gọi đó là những gì mang tính chất rất “người”, nghĩa là: cứ “mặc xác”, biếng nhác chẳng chịu làm gì, lại coi đó như cách phục vụ Chúa rất hữu hiệu, đây là kiểu cách rất xấu của những người ù lì, bị động.
Thứ ba, sinh hoạt đầy chất kịch. Có thể, đây là tấn thảm kịch bi đát, sẽ còn diễn tiến nhiều lần về sau. Tác giả Luca từng cho thấy người Hy Lạp chẳng cần xem đấng bậc anh hùng hảo hán đi vào hoàn cảnh ra sao, nhưng thần linh của họ cuối cùng cũng ra tay cứu vớt, và người người lại ra về vui vẻ. Cái khó ở đây, không là sống đời thực tế, mà là cung cách biến thái/bay nhảy, không trưởng thành theo cách cuộc sống thực tế vẫn tạo ra. Quả là, sự việc này xem ra thật trẻ con, nhưng cũng đúng. Lời đáp của Chúa khi “sa chước cám dỗ”, quả thật dứt khoát. Ngài đã nói tiếng “không” với các đề nghị do “quỷ ma” đưa ra. Ngài ra lệnh cho quỷ ma đi cho khuất mắt Ngài. Ngài nguyện cầu Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi ác thần/sự dữ. Sự dữ đây, chính là giới cầm-quyền chuyên khuynh-loát những người đưa ra nhiều chính sách cho dân con mọi người. Và, Ngài nguyện cầu Cha, nếu được, “xin Cha cất bỏ chén đắng này khỏi nơi Con.”
Chúa cho thấy bản chất lười biếng của con người đã bớt dần tính “linh đạo”, cứ gãy đổ và lại muốn làm thứ gì đó, khác hẳn. Ngài không ngồi ì một chỗ như ai đó, rồi giao hết việc cho Cha làm. Nhưng, Ngài thừa nhận một số khuôn mẫu về chức năng của Đấng Mêsia có thể viết thành kịch-bản cho sân khấu không thực. Tất cả là bài học để đời về trách nhiệm, ngõ hầu đồ đệ học lấy mà thực thi.
Vùng Cận Đông cũng như Israel khi xưa, con dân trong Đạo vẫn đặt ra một số mẫu kinh để ta nguyện cầu, van xin. Mẫu kinh, gồm ba phần: phần đầu, gồm toàn những chuyện đẹp của đấng bậc được người cầu kinh dâng lời nguyện, như thể tung nâng các đấng trước khi dâng lời khốn khó với các ngài. Thứ hai, lời cầu đơn giản, rõ ràng và ngắn gọn chỉ diễn tả những gì người cầu mong muốnb. Thứ ba, xin lỗi đấng bậc mình dâng lời kinh để đưa ra điều thỉnh nguyện (và hứa sẽ không lặp lại điều ấy một lần nữa). Và, rõ ràng, đây là cấu trúc của “Kinh Lạy Cha”.
Phần đầu kinh, là lời thưa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện Danh Cha cả sang, nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Phần hai, là câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Phần ba, lại thêm câu: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, và xin chớ để chúng con “sa chước cám dỗ”, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”
Phần chính của Kinh Lạy Cha là yêu cầu có lương thực hằng ngày, cho người đói nghèo, ngày hôm nay, Kế đó, là việc khởi động rồi xin thứ tha vì đã cầu xin và hy vọng cảnh tình này sẽ không diễn ra nữa. Amen.
Lương thực hằng ngày phải chăng là cơm bánh? Không hẳn thế. Đây chỉ là biểu trưng. Là, biểu tượng đặc trưng cho việc chúng ta và mọi người có nhu cầu sống còn trong cuộc chiến phấn đấu mỗi ngày, cuộc sống thực. Đại ý muốn nói cùng Chúa Cha: “Xin cho chúng con có đủ sức mạnh và khả năng tự tại để đến được đó, hôm nay đây.
“Lương thực hằng ngày” cho người nghèo đó: Ta vẫn “sa chước cám dỗ” như thế, rất nhiều ngày, là: làm điều gì khác thay vì đem “cơm bánh” ban phát cho người nghèo. Thế nên, hãy cầu xin làm sao để ta đừng “chào thua” về những “sa chước cám dỗ” như thế, và sau đó có thể ban phát cơm bánh cho người nghèo đói.
Và tiếp đó, kinh “Lạy Cha” đề cập đến việc thứ tha, và sự dữ. Tại sao thế? Có lẽ Chúa biết rõ Ngài từng có những kẻ đối lập với Ngài trong cuộc sống, và Ngài đã thứ tha chonhững người đứng đằng sau đó. Và có lẽ, Ngài cũng biết Ngài từng phạm một vài sai sót về chính trị trong cuộc sống, như: lời Ngài nói có thể là mạnh đối với người này, nhưng lại quá yếu với người khác. Nên, trong kinh Lạy Cha, Chúa yêu cầu những người bị đau lòng vì những sự việc như thế hãy thứ tha Ngài, như Ngài đã tha thứ họ. Ngài công nhận: không phải mọi người lúc nào cũng làm đúng, chí ít là những chuyện công khai, với chúng dân.
Thánh Luca viết Tin Mừng cho Hội thánh thời tiên khởi, vào nhiều thập niên sau khi Chúa mất, tức: viết cho một Giáo hội tin vào lời lẽ vẫn công nhận rằng: Đức Giêsu là Chúa, nên câu cuối ở kinh Lạy Cha, có ý căn dặn rằng: nếu ta không thận trọng lại để mình “sa chước cám dỗ”, sẽ bị quyền lực và vinh quang lôi cuốn gài bẫy. Ta càng lún sâu vào bẫy đó nếu cứ thử. Và khi đó, chớ trách móc.
Và, tiếp tục kinh Lạy Cha, thánh sử Luca lại kể tiếp truyện dụ ngôn về cuộc sống đời thường ở thôn làng bé nhỏ, như thể cất lên lời kinh gọi mọi người trong nhân loại như lời gọi “Lạy Cha”, tức van nài bạn bè tấm bánh lúc nửa đêm tắt lửa tối đèn, vẫn cần đến tình thương yêu, của mọi người. Chí ít, là bạn bè người thân gần xa, lại cứ quấy rầy mình vào những lúc khó thực hiện lòng thương mến/bác ái.
Nói tóm lại, điều mà thánh Luca muốn nói đến ở lời kinh thần thánh rất “Lạy Cha” hôm nay, sẽ không đem gì nhiều đến với ta, nếu ta không thực thi đối xử với bạn bè gần xa, chỗ thân quen hoặc xa lạ, vẫn là nhân loại bằng lời kinh “Lạy Cha chúng tôi”, rất mọi người.
Trong tinh thần hiểu biết như thế, ta sẽ cất lên câu thơ như lời kinh đêm của thi sĩ họ Bùi như:
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức, Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm. Tôi xin chịu cuồng si để sang suốt, Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.” (Bùi Giáng – Phụng HIến)
“Thỏa dạ yêu Em”, đúng như lời thánh-nhân từng dặn dò trong lời kinh “Lạy Cha”, rất hôm nay.
Cầu nguyện phải chăng là xin ơn? Có người cho rằng cầu nguyện không nhất thiết phải xin ơn TN 17-C149
này ơn kia, nhưng còn là ca tụng Thiên Chúa, tán dương những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho con người. Có người không muốn xin gì cả trong cầu nguyện; có người còn kết án cầu nguyện như cầu xin ơn này ơn kia. Họ cho rằng chính Đức Yêsu cũng nói khi cầu nguyện, đừng cầu xin lải nhải dài lời như dân ngoại vì Thiên Chúa biết chúng ta cần gì (Mt.6, 7-8).
Đức Yêsu dạy các môn đệ đừng nhiều lời như thể làm áp lực đối với Thiên Chúa, hoặc như thể Thiên Chúa không yêu thương mình, phải dài lời Thiên Chúa mới nghe. Tuy vậy, chúng ta không được hiểu sai ý Đức Yêsu, vì chính Ngài cũng dạy các tông đồ cầu nguyện, và trong lời dạy của Ngài, chúng ta thấy cầu nguyện cũng là lời cầu xin. Những gì Đức Yêsu dạy trong kinh Lạy Cha, đều là những ơn xin.
Người ta chỉ xin khi người ta thấy mình thiếu, khi thấy mình không có điều mình cần mà người ta lại không thể có nó do tự sức mình. Nếu tôi có thể có được điều gì đó do khả năng của bản thân tôi, tôi không cần xin xỏ ai cả. Tôi sẽ nỗ lực để có được điều đó bằng chính sức lực và khả năng của mình. Cầu xin, là thái độ của một người ý thức mình bất lực. Họ nhận thực mình chỉ là tạo vật; Thiên Chúa mới là chủ tể của mọi loài; và tất cả đều là ơn và bởi Thiên Chúa mà có. Cầu nguyện hàm chứa thái độ của một tạo vật đối với Tạo Hóa, thái độ của của một người bất lực cần sự trợ giúp của Thiên Chúa, thái độ cần Thiên Chúa để mình sống trọn ơn gọi làm người.
Lời Chúa trong sách Sáng Thế hôm nay cho biết hơn về Thiên Chúa. Người ta có cảm tưởng như Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa, nhưng thực không phải vậy. Tất cả những gì Abraham nghĩ rằng đúng và dám xin, Thiên Chúa đều đã sẵn sàng làm như Abraham yêu cầu; hơn nữa, “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.” “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Ngài cho thế gian…” Nếu Thiên Chúa yêu con người đến độ dám ban Con Một Yêu Quý của Ngài cho con người, thì Thiên Chúa còn tiếc gì với con người nữa! Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là, Thiên Chúa luôn yêu thương, Thiên Chúa làm tất cả vì yêu thương. Yêu thương hàm chứa tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Yêu thương đòi khoan nhân đối với người tội lỗi. Thiên Chúa yêu thương nên tha thứ mọi lỗi lầm cho con người; Ngài khoan hồng tha thứ những gì con người xúc phạm đến tha nhân và đến Ngài.
Đức Yêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã là một người như tất cả mỗi người chúng ta; Ngài đã chia sẻ thân phận con người, đã phải nghèo đói bị khinh khi, đã phải làm lụng như bất cứ ai vất vả nhất trên đời, đã phải ngủ màn trời chiếu đất (Lc.21, 37), đã bị hiểu lầm hàm oan, đã bị ghét, bị hành hạ cho đến chết. Tất cả mọi người trên dương trần được mời gọi để nhìn vào Ngài, để biết phải sống như thế nào trong những lúc cùng khốn nhất của đời người.
Đức Yêsu cũng không phải là người luôn thành đạt, bằng chứng là Ngài đã phải chết ô nhục trên thập giá, một trong những môn đệ yêu quý nhất của Ngài đã phản bội nộp Ngài cho những kẻ thù ghét Ngài. Ngài đã từng mời gọi người ta theo Ngài, nhưng Ngài đã bị từ chối (Mc.10, 22), và cũng có lắm kẻ bỏ Ngài (Ga.6, 66). Không thể nói rằng lúc nào Ngài cũng vui và hân hoan, vì trong vườn dầu Ngài đã chiến đấu đổ mồ hôi máu (Lc.22, 39-45), đã kinh hoảng âu sầu, đã “buồn đến chết được.” Trên thập giá Ngài còn có cảm nghiệm như thể Thiên Chúa bỏ Ngài, tuy nhiên Ngài vẫn vượt thắng những cám dỗ nơi Ngài, Ngài vẫn một niềm phó thác tất cả đời Ngài cho Thiên Chúa, kể cả mọi dự phóng tốt lành. Ngài đã nói: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”
Sự bình an Đức Yêsu có, đó là sự bình an của người biết Thiên Chúa yêu thương mình, và tin Thiên Chúa sẽ làm những điều tốt lành nhất cho mình. Sự bình an Kitô hữu có, không phải là không có chuyện gì xảy ra cho họ, nhưng là, ngay cả những khó khăn bất lợi đó, họ vẫn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Đấng họ tin tưởng luôn yêu thương họ, sẽ làm mọi chuyện thành tốt cho họ. Bình an Kitô hữu có, đó là bình an của một người được yêu, tin rằng mình được Đấng vô cùng quyền năng yêu, và Ngài sẽ giúp họ trong mọi hoàn cảnh.
Bận tâm và ao ước của Đức Yêsu là làm sao cho Danh Thánh Cha vinh hiển, làm sao để Nước Công Bình và Yêu Thương bao trùm khắp, làm sao để con người đủ cơm bánh hằng ngày, để con người sống bình an hạnh phúc. Đức Yêsu mong ước con người tha thứ cho nhau theo gương Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ tất cả cho con người. Đức Yêsu mong ước con người đừng xúc phạm đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu cầu xin để xin Thiên Chúa ban những điều đó cho con người.
Làm con người nên thánh, làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là ân sủng và công việc mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể làm được. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác với Thiên Chúa để thuộc trọn về Thiên Chúa, để trở nên thánh, để là tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Con người cần Thiên Chúa giúp để thuộc trọn về Thiên Chúa, để nên thánh, để trở nên người tuyệt vời, để sống bình an hạnh phúc. Không có Thiên Chúa, con người không thể làm gì được.
Xin thì sẽ được, gõ cửa thì sẽ mở cho. Chắc chắn con người sẽ được điều quý nhất khi chạy đến với Thiên Chúa và cầu xin những gì mình ao ước. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho con người điều quý gấp vô cùng lần điều con người cầu xin, đó là Thánh Thần. “Nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Cha anh em trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” Nếu tôi chạy tới với Thiên Chúa, tôi sẽ được những gì quý nhất có thể có được. Xin cho mỗi người thấy được điều này, để luôn chạy đến với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. “Xin thì được gõ cửa thì sẽ mở cho.” Bạn có thấy câu Lời Chúa này ứng nghiệm trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm của bạn. 2. Có những người cho rằng họ đã xin mà không được. Bạn giải thích cho họ thế nào? 3. Bạn ao ước điều gì? Đức Yêsu ao ước điều gì? Điều Đức Yêsu ao ước và điều bạn ao ước, giống và khác nhau ở điểm nào?
TỪ NGỮ "LẠY CHA" LÀ BÍ QUYẾT CỦA KINH NGUYỆN CHÚA GIÊSU
Anh chị em thân mến,
Phúc Âm hôm nay khởi đầu với cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện một mình tại một nơi riêng biệt TN 17-C150
Phúc Âm hôm nay khởi đầu với cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện một mình tại một nơi riêng biệt. Khi Người cầu nguyện xong các môn đệ xin Người, “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện.” Và Người đã đáp lời, “Khi anh em cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha…”
Từ ngữ “Lạy Cha” là bí quyết của kinh nguyện của Chúa Giê-su; đó là bí quyết Người truyền lại cho chúng ta để chúng ta có thể bước vào mối tương quan đối thoại mật thiết với Chúa Cha là Đấng đã đồng hành và nâng đỡ đời sống của Người.
Với từ ngữ “Lạy Cha”, Chúa Giê-su gắn liền với hai điều thỉnh nguyện: xin cho “danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến.” Do đó kinh nguyện của Chúa Giê-su là một kinh cho các Ki-tô hữu, trước hết dành chỗ cho Thiên Chúa, để cho Người thể hiện sự lành thánh trong chúng ta và để cho thiên quốc được phát triển qua sự hiện thực của tình yêu của Người trong đời sống chúng ta.
Ba lời thỉnh cầu khác hoàn tất kinh Chúa GIê-su dạy chúng ta. Đây là ba điều bầy tỏ các nhu cầu căn bản của chúng ta: cơm bánh, sự tha thứ và giúp tránh các chước cám dỗ. Con người không thể sống không cơm bánh, không có sự tha thứ, và không có sự trợ giúp của Thiên Chúa để tránh các chước cám dỗ.
Cơm bánh Chúa Giê-su muốn chúng ta xin là điều cần thiết. Đó là bánh của các khách hành hương, của người công chính, bánh không tích luỹ và không dư thừa để bị vứt bỏ, và không làm cho hành trang chúng ta nặng chĩu trên đường.
Tha thứ trên hết là những gì chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa: Chỉ khi ý thức được mình là kẻ tội lỗi được tha thứ bởi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa thì mình mới có thể có khả năng làm các cử chỉ giảng hòa với anh em.
Nếu có ai không ý thức rằng mình là kẻ tội lỗi được tha thứ, thì không bao giờ có thể làm một cử chỉ tha thứ hay giảng hòa. Các cử chỉ này bắt đầu từ trong tim nơi chúng ta cảm thấy chúng ta là những kẻ tội lỗi được tha thứ.
Điều cầu xin cuối cùng – xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ - bầy tỏ một sự ý thức về tình trạng của chúng ta, luôn luôn bị sự dữ và sự tham nhũng quấy nhiễu.Tất cả chúng ta đều biết rõ về các cám dỗ này!
Giáo huấn của Chúa Giê-su tiếp tục với hai dụ ngôn, trong đó Chúa dùng gương sang của thái độ một người bạn đối với bạn hữu mình, và của một người cha đối với người con.
Cả hai dụ ngôn nhắm dạy chúng ta phải hoàn toàn tin cậy nơi Thiên Chúa là Cha. Chúa Cha biết rõ các nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta can đảm và liên lỉ trình bầy với Người, vì đây là đường lối chúng ta tham dự vào công trình cứu chuộc của Người..
Cầu nguyện là “công cụ” trước hết và chính yếu chúng ta có trong tay. Năn nỉ [một điều gì] với Chúa không phải là để thuyết phục Người, nhưng là để tăng cường đức tin và lòng kiên nhẫn của chúng ta, nghĩa là khả năng chúng ta có thể tranh đấu bên cạnh Chúa về những gì thật sự quan trọng và cần thiết. Trong việc cầu nguyện chúng ta có song đôi: Thiên Chúa và tôi, cùng tranh đấu cho những gì quan trọng.
Trong số những điều này, có một điều quan trọng nhất, Chúa Giê-su dạy chúng ta trong Phúc Âm hôm nay, mà chúng ta ít khi nghĩ đến, và đó là Chúa Thánh Thần.
“Xin ban Thánh Thần cho con!”
Và Chúa Giê-su nói, “Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Thánh Thần! Chúng ta cần phải xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Nhưng tại sao lại cần đến Chúa Thánh Thần? Để sống tốt lành, với sự khôn ngoan, với tình yêu, và thi hành Thánh Ý Chúa.
Kinh cầu này sẽ tốt đẹp biết bao nếu mỗi người trong chúng ta trong tuần lễ này sẽ biết cầu xin, “Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho con.”
Đức Nữ Đồng Trinh Maria đã bầy tỏ điều này cho chúng ta qua đòi sống của Mẹ, vì Mẹ đã được Chúa Thánh Thần linh ứng. Mẹ giúp chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha, xin Mẹ giúp chúng ta kết hiệp với Chúa Giê-suu để chúng ta không sống theo cách trần tế, nhưng theo Phúc Âm, và được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.