Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 18-C Bài 101-150 Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 12, 13-21: "Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu". Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi". Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau:
- PHẦN THỨ NHẤT: Một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giê-su can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
- PHẦN THỨ HAI: Người kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai ? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-15:
+ “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”: Luật Mô-sê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu... nữa (x. Đnl 21,17). Vậy có một người anh cả kia sau khi cha chết đã chiếm hết tài sản cha để lại và không chia cho người em phần nhỏ bé mà lẽ ra anh ta được hưởng. Thời Đức Giê-su người Do thái thường yêu cầu một luật sĩ đứng ra làm trọng tài khi có sự tranh chấp về Luật pháp.
+ Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?: Tuy “là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,42), nhưng Đức Giê-su đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này, vì điều cấp bách mà Người sắp phải chu toàn là đi lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn, nên Người tránh mất thì giờ vào việc riêng cá nhân, vốn thuộc thẩm quyền của các đầu mục Do thái (x. Xh 2,14).
+ Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam...: Tuy từ chối can thiệp, nhưng Đức Giê-su không nhắm mắt làm ngơ. Người nhân cơ hội này giúp cho anh ta và những người hiện diện tránh lòng tham tiền bạc của cải và tránh trông cậy quá đáng vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời của mình.
- C 16-19:
+ Có một nhà phú hộ kia: Dụ ngôn cho thấy ông phú hộ đã thành công trong công việc làm ăn. Ông mở rộng thêm nhà kho để tích trữ thóc lúa dư thừa cho an toàn.
+ Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi: Có nghĩa là đêm nay Thiên Chúa sẽ gọi ngươi ra khỏi thế gian bằng cái chết.
+ Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?: Thiên Chúa mới là chủ của sự sống và sự chết chứ không phải tiền bạc. Của cải trần gian không thể bảo đảm cho người ta được sống mãi mãi. Khi chết thì cả người anh giàu có khờ dại và đứa em nghèo khó tham lam đều không thể mang theo mình sang thế giới bên kia được. Như thế: Lòng tham lam và sự tích trữ của cải là một hành động khờ dại và vô ích !
5) Người muốn các tín hữu phải sử dụng tiền bạc của cải trần gian thế nào cho có lợi ở đời sau ?
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
2. CÂU CHUYỆN: TỪ “MỘT TÊN SÁT NHÂN” TRỞ THÀNH ÂN NHÂN CỦA THẾ GIỚI.
Cách đây khá lâu, vào một buổi sáng sớm, khi mở mấy tờ báo hằng ngày ra đọc, ON-PHIT NÔ-BƠN (Alfred Nobel) vô cùng sủng sốt khi nhìn thấy trên nhiều tờ báo hằng ngày được phát hành số lượng rất lớn, đã đồng loạt đưa tin về cái chết của ông với những hàng tít trên trang nhất, kèm theo những bài bình luận đầy ác cảm đối với ông. Họ dùng những từ có tính bôi nhọ, hạ nhục cá nhân ông như: “Nô-bơn, ông vua cốt mìn đã chết”, “Tên đồ tể Nô-bơn đã bị tiêu đời”, “Nô-bơn, một tên sát nhân đã chế tạo các thứ vũ khí giết người hàng loạt giờ đây không còn nữa !”... Sau đó dư luận mới té ngửa rằng: người chết không phải là Nô-bơn nhưng là người anh ruột có tên gần giống với ông. Mặc dù các tờ báo kia sau đó đã phải đính chính và xin lỗi về sự loan tin thất thiệt. Nhưng dù sao các bài bình luận đó cũng là một cú “sốc” đối với Nô-bơn. Nó đánh thức lương tâm khiến ông luôn suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao báo chí lại coi ta là một tên đồ tể giết người như vậy ? Tại sao dư luận lại tỏ ra ác cảm và thù hận ta như thế ? Tại sao chẳng thấy ai nói một lời an ủi thông cảm và lấy làm tiếc về cái chết của ta ?” Sau thời gian này, Nô-bơn đã quyết định phải biến đổi hình ảnh xấu trong dư luận đang có về mình. Ông đã nhờ luật sư lập tờ di chúc để trao tặng toàn bộ số tài sản kếch sù đang gửi trong ngân hàng, số tiền do ông kiếm được nhờ bán các phát minh khoa học về cốt mìn cho chính phủ. Từ đó mỗi năm một ủy ban quốc tế đã lấy ra số tiền lời, chia thành 5 phần thưởng có giá trị lớn để trao tặng cho những người có công về các lãnh vực: hòa bình, vật lý, hóa học, y học và văn chương. Nô-bơn đã thành công trong việc sử dụng tiền của vào việc tốt đẹp. Việc đó không những làm cho ông lấy lại quân bình về tinh thần, mà nó còn giúp ông biến đổi dư luận đang coi ông là “một tên đồ tể giết người”, công khai nhận ông là một vị đại ân nhân của nhân loại.
3. SUY NIỆM:
1) Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam: Đó là lời dạy của Chúa Giê-su nhân có người yêu cầu Người can thiệp để người anh chia gia tài cho anh ta. Người từ chối khi trả lời: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?”. Sau đó, Đức Giê-su đã kể ra dụ ngôn về một nhà phú hộ đã lo làm giàu rồi lo hưởng thụ số tài sản kiếm được, để dạy cho mọi người phải tránh thói tham lam ích ký như sau:
-Thói tham lam: Lòng tham của nhà phú hộ biểu lộ qua sự tính toán làm giàu. Tính toán để làm tăng thêm lợi nhuận tiền bạc như sau: “Ta sẽ phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”.
-Thói ích kỷ: Lẽ ra nhà phú hộ có thể làm được biết bao việc tốt cho tha nhân với số tài sản kếch sù của ông. Chẳng hạn: giúp đỡ những người nghèo khổ đang sống bên cạnh ông, tăng lương cho những người đang làm công cho ông; Đóng góp xây dựng trường học tại địa phương để trẻ em có nơi học hành tử tế; Góp phần tu bổ hội đường làng ông đang ở để nên khang trang xứng với việc thờ phượng hơn... Nhưng ông đã không nghĩ đến tha nhân mà chỉ quan tâm thỏa mãn các nhu cầu hưởng thụ ích kỷ, thể hiện qua quyết định như sau: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”
Cách đây ít năm, một vị thừa sai tại Phi châu đã cho biết như sau: Có một số dân Phi châu hiện vẫn giữ tục lệ này là: Khi có người chết, trước khi liệm xác chết vào quan tài, họ lột bỏ tất cả y phục mà kẻ đó đang mặc rồi đem đi chôn. Tục lệ này nói lên sự thật này là: chúng ta sẽ rời bỏ thế gian mà không mang theo được bất cứ vật gì như tiền bạc châu báu và mọi vật dụng khác theo với mình! Thánh Phao-lô dạy: “Chúng ta không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được” (Tm 6,7). Đây cũng là ý mà Đức Giê-su muốn dạy trong Tin mừng hôm nay: Khi chúng ta chết thì cái ta cần đến không phải là những gì ta đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là con người của ta đã được biến hóa như thế nào trong suốt cuộc sống ở trần gian.
Người ta không ngừng làm giàu, vì họ gán cho tiền bạc của cải một giá trị mà thực ra chúng không có như sau: Đồng tiền có sức mạnh vạn năng: “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Kim ngân phá lề luật”. Đồng tiền là chúa tể mọi sự: “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của lò xo, là sức đo của loài người, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, là đồng chí thật thân thương, là đồng hương rất thân cận, là thời vận để thanh xuân, là vui mừng và phấn khởi”… Nhưng thực ra họ đã lầm.
3)“Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”: Bao nhiêu người giàu có đã chết, cả khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Cho nên điều quan trọng là phải biết giá trị đích thực của tiền bạc của cải. Chúng chỉ có tương đối ở đời này và là ơn Chúa ban để ta sử dụng phục vụ Nước Chúa và tha nhân, hầu đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Vì chỉ có giá trị tương đối, nên ta sẽ không coi chúng là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ của mình. Vì “Đông tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”.
4) “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời”: Đức Giê-su dạy ta biết phải làm gì đối với tiền bạc vật chất. Người nói: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,32-33). Làm theo lời Chúa dạy như thế là ta đang “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Những gì ta tích trữ dưới thế này sẽ không thể mang theo được khi chết, nhưng ta có thể biến đồng tiền vật chất ở đời này trở thành đồng tiền thiêng liêng có giá trị ở đời sau, bằng việc thực thi bác ái, chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật chung quanh chúng ta theo lời dạy của Đức Giê-su: “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20).
Trong cuộc sống, con người thường hay coi trọng tiền bạc, bởi vì người ta thường nói: “đồng tiền liền với khúc ruột”; hay: “có tiền mua tiên cũng được” hoặc có những câu nói mỉa mai như: “Tiền là Tiên là Phật; là sức bật của lò xo; là thước đo của lòng người; là tiếng cười của tuổi trẻ; là sức khỏe của tuổi già; là cái đà danh vọng; là cái vọng che thân; là cán cân công lý”. Chính vì thế, rất nhiều người khi đã kiếm được đồng tiền, người ta lo hưởng thụ, ăn chơi và dùng đồng tiền để làm những điều bất chính. Họ tôn vinh đồng tiền như một ông chủ trong cuộc sống của họ.
Nhưng với người Công Giáo, chúng ta có được coi đồng tiền là mục đích, là tất cả không? Và, sử dụng thế nào cho hợp theo ý Thiên Chúa muốn để được sự sống đời đời?
Thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc một người trong đám đông cất tiếng xin Chúa làm người phân xử và chia gia tài cho anh ta: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”, nhưng Đức Giêsu trả lời: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?". Rồi Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”. Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài muốn xác định sứ mạng của Ngài là loan báo ơn cứu độ để cho con người được sự sống đời đời chứ không phải chuyện phân chia tài sản; đồng thời mời gọi chúng ta hãy tìm nước Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác Chúa sẽ lo cho sau.
Như vậy, Đức Giêsu không lên án, cũng chẳng ủng hộ việc này. Ngài cũng không thượng tôn tiền bạc cũng lại không khinh chê nó. Nhưng Ngài lại hướng cho anh ta và đám đông đang đứng quanh đó một hướng đi mới; hướng đi của ơn cứu độ. Hướng đi ấy chính là biết cách sử dụng đồng tiền sao cho hợp lý và biết cách làm giàu trước mặt Chúa để được hạnh phúc đời đời chính là Nước Trời.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu dạy họ phải biết tránh mọi thứ tham lam; đồng thời nhắc cho mọi người biết là của cải không thể đem lại hạnh phúc đích thực nếu không biết sử dụng nó theo ý Chúa, vì thế đừng có an tâm và cậy dựa vào nó một cách thái quá.
Đức Giêsu cũng đưa ra hình ảnh của nhà phú hộ ngu ngốc. Ông ta sẵn sàng bỏ quên Chúa, không lo cho phần hồn của mình, ngược lại, ông ta tìm mọi cách để thu tích của cải trần gian và hả hê với những gì đạt được. Nhưng, Đức Giêsu đã khiển trách ông rất nặng nề: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy". Qua lời cảnh cáo đó, Đức Giêsu cũng tiên báo cho những người chung quanh đó biết rằng: sự sống sự chết là ở trong tay Chúa, nên đừng như nhà phú hộ kia, nên hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Nhà phú hộ kia đã mơ tưởng hão huyền, nhưng chưa kịp hưởng thụ như trong mơ thì ông đã chết.
Quả thật, con người chúng ta có 3 người bạn luôn theo chúng ta trong cuộc đời, đó là: bà con, tiền bạc và phúc đức. Tuy nhiên, khi giờ chết đến, chỉ có ông bạn phúc đức là theo chúng ta sang thế giới bên kia và tiếp tục là bạn chung thủy của chúng ta mà thôi. Còn bà con họ hàng thì bỏ lại chúng ta ngay tại cửa mồ. Tiền bạc sẵn sàng chia tay chúng ta ngay khi chúng ta chết, nhưng nó lại sẵn sàng, hăng say tố cáo chúng ta trước tòa Phán xét. Ấy thế mà nhà phú hộ cứ ngỡ nó là người bạn tốt: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi". Ông ta đâu biết rằng cuộc sống của mình chỉ được cộng lại bằng những hơi thở ngắn ngủi, mong manh và người bạn bạc bẽo nhất chính là đồng tiền mà ông ta đang thượng tôn nó.
2. Người Kitô hữu và việc sử dụng tiền bạc
Bài đọc 1 cho chúng ta thấy: hư không trên các sự hư không; phù vân, quả là phù vân. Thật vậy, không có gì và không một ai trên trần gian này làm cho ta thỏa mãn với bản năng của con người, lại không thể đảm bảo cho chúng ta sự sống đời đời được. Chính vì thế, thánh Phaolô nói: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Đức Giêsu thì truyền cho chúng ta một cách cụ thể hơn khi nói: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Hãy loại trừ tính tham lam. Khi tham lam là ta bất chấp mọi thủ đoạn. Làm lớn có thủ đoạn của người làm lớn, làm nhỏ cũng có những mánh khóe của người làm nhỏ. Nào là: bóc lột, tham nhũng, gian dối, lọc lừa... Nhưng thảm hại thay, dù có làm đủ mọi cách, con người chúng ta cũng không bao giờ thỏa mãn, bởi vì “tham thì thâm”. Câu ngạn ngữ của người Lamã thật chí lý: “Của cải như nước muối, bạn càng uống thì càng khát”. Người Việt Nam của chúng ta cũng thường hay nói: “lòng tham vô đáy”.
Thật vậy, hạnh phúc của chúng ta chỉ có thể đạt được nó khi ta bằng lòng với những gì mình đang có. Nó hoàn toàn xa vời khi đó chỉ là những ước ao hão huyền. Cuộc sống của chúng ta phải cố gắng, nhưng cần phải có thái độ phó thác: “hãy phó thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”; “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Được như vậy, chúng ta sẽ hạnh phúc ngay cả những cái không có nữa. Nếu không, chúng ta sẽ bất hạnh và cảm thấy rất đau khổ cũng như luôn có thái độ bất mãn…
Augier đã nói một câu làm cho chúng ta phải suy nghĩ: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giầu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Thánh Tôma Aquinô nói thêm và ngài nhấn mạnh: “Những người giầu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Như vậy, trong cuộc sống, chúng ta phải nhạy bén và biết liên đới với những người sống chung quanh ta, đặc biệt là người nghèo. Vì xét cho cùng, mỗi người chúng ta đều là kẻ nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, đừng kiêu ngạo, tự phụ là do công sức của mình hoàn toàn rồi hả hê, an tâm với những gì mình đạt được một cách tự mãn. Thánh Công đồng Vaticanô II đã dạy cho chúng ta biết: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô”.
Quả thật, tiền bạc không phải là xấu, nhưng nó xấu đi là vì chúng ta biến nó thành ông chủ tồi thay vì là đầy tớ tốt.
Vì thế, đừng bao giờ đặt cho mình mục đích sống chỉ để kiếm tiền, bởi vì: “người giàu cũng khóc”. Cũng đừng vì tiền mà đánh mất lương tri và trà đạp người khác để đạt được mục đích. Đồng tiền không mua được hạnh phúc thật. Sự sống đời đời cũng không thể có nếu ta bóc lột, tham nhũng, bất chính…
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (x. Lc 12,21). “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33).
Như vậy, vấn đề không phải là giàu hay nghèo mà là thái độ sống trong các mối tương quan của ta với Chúa và tha nhân. Ưu tiên của tôi là cái gì: Thiên Chúa và anh em đồng loại hay tiền bạc? Xin để lại suy nghĩ cho mỗi người chúng ta!
Đề tài về sự tham lam bắt đầu bằng một câu chuyện thực tế trong đời sống hằng ngày. Chắc chắn đã có những người ngưỡng mộ Chúa Giê-su đến nỗi tin rằng Người có thể giúp họ giải quyết bất cứ khó khăn nào. Dẫn chứng là trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một người xin Chúa làm “người xử kiện hay người chia gia tài” cho hai anh em họ. Không rõ lý do nào khiến người em đến xin Chúa ra lệnh cho người anh của anh ta phải chia gia tài cho anh ta. Hoặc là vì người anh tham lam đã chiếm lấy hết, hoặc cũng có thể là người em đã có đủ phần của mình, nhưng cũng vì tham lam muốn đòi được chia nhiều hơn nữa. Chung qui chỉ là lòng tham của con người. Vì thế, câu chuyện đã trở thành cơ hội để Chúa Giê-su chia sẻ với chúng ta về sự tham lam của cải.
Tham lam là một từ trừu tượng, nên để diễn tả lòng tham lam, Chúa Giê-su sử dụng phương pháp quen thuộc: kể dụ ngôn nhà phú hộ. Ở đâu cũng vậy, người giàu có thường có đủ phương tiện để làm giàu thêm. Ngày xưa người giàu thì có đồng lúa thẳng cánh cò bay, vườn cây hoa trái đi mỏi cả chân. Hoa lợi mỗi năm một tăng triển. Có tiền, người ta mua thêm ruộng đất. Đối với họ, tiền bạc của cải là lẽ sống và là thước đo giá trị con người. Họ đã có người làm công, khỏi phải động tay động chân, chỉ cần ngồi đấy đề ra kế hoạch làm giàu thêm. Nhà phú hộ cũng không quên lên kế hoạch cho cuộc đời mình. Làm mãi đủ rồi. Bây giờ là lúc “cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Con đường sự tham lam dẫn người ta đi là cứ tiếp tục làm giàu thêm cho đến mức “không còn chỗ mà tích trữ hoa màu”. Tiếp theo là dựng kho lẫm lớn hơn để “tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”. Tưởng đâu con đường tham lam dừng lại ở đây! Nhưng không phải. Tham lam đưa người ta sang một lối khác: ăn uống vui chơi cho đã. Nó không đưa người ta đến với Thiên Chúa hoặc đến giúp đỡ người nghèo khổ, nhưng dừng lại ở chính con người tham lam ấy. Tham lam không đưa người ta đi theo kế hoạch của Thiên Chúa. Những tính toán và kế hoạch của kẻ tham lam chỉ là tính toán và kế hoạch của “đồ ngốc”. Tham lam không muốn nhìn nhận sự hiện diện của cái chết là “kẻ thù” sẽ lấy đi tất cả những gì người tham lam đã tích trữ trên cuộc đời này. Kế hoạch về cuộc đời chúng ta đã được Chúa sắp đặt, là phải “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Chúa không đánh giá trị chúng ta bằng đô-la hay vàng lá, nhưng bằng những công nghiệp việc lành phúc đức chúng ta đã thực hiện khi còn sống ở đời này. Dĩ nhiên làm việc và tiền của có mục đích tốt của nó, nhưng nó luôn là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Nhà phú hộ tham lam đã đảo lộn vai trò của công việc và tiền của khi ông ta chỉ lo làm giàu để cuối cùng mình được tha hồ ăn uống vui chơi cho đã. Tham lam đã dẫn ông ta đến con đường tự hủy diệt rồi!
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Có lẽ bạn sẽ trả lời: Tôi đã làm di chúc sẵn sàng rồi! Không phải Chúa không biết điều ấy. Nhưng Người muốn bảo chúng ta rằng qua cái chết, chúng ta không thể mang theo bất cứ gì ngoài công đức của chúng ta. Chúa không cần của cải, nhưng Người cần tâm hồn, một tâm hồn giống như tâm hồn của Người vậy. Người muốn một tâm hồn thực sự giàu tình yêu thương, giàu bác ái, giàu cảm thông, sẵn sàng đến với anh chị em nghèo khổ, an ủi khích lệ anh chị em gặp cơn khó khăn. Người muốn một tâm hồn đã được Ki-tô hóa, dễ dàng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ thiếu thốn của người khác.
Chắc chắn chúng ta không thích nghe Chúa gọi chúng ta là “đồ ngốc”, nhưng liệu chúng ta có chịu nghe lời Chúa cảnh báo “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” hay không? Thường chúng ta hay bị cám dỗ làm giàu, cho rằng tất cả những gì đang có chưa phải là đủ, cho nên chúng ta có khi trở thành “workaholic”, người tham làm việc không ngừng, đánh mất sự quân bình và quên chân lý “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mát-thêu 6:33).
“Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam”. Đó là lời dạy của Chúa Giê-su. Người không viết một bài khảo luận để nói với ta về sự tham lam, nhưng Người kể một dụ ngôn, dụ ngôn nhà phú hộ. Việc làm và não trạng của nhà phú hộ phản ảnh không biết bao nhiêu người mọi thời mọi nơi và là câu truyện có thể áp dụng vào mọi lãnh vực cuộc sống, từ giàu có về vật chất của cải cho đến giàu có về danh tiếng chức vị. Dụ ngôn còn đưa ta tới một chân lý vô cùng quan trọng cho ý nghĩa cuộc đời: làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
1) Lòng tham không đáy
Không biết ai đã nghĩ ra được hình ảnh cụ thể này để diễn tả lòng tham lam của con người! Đúng vậy, không có đáy thì chẳng bao giờ có thể đầy được. Đáy là phần cần thiết của một vật chứa đựng để giữ lại những gì trong đó và cho ta thấy thế nào là đầy là vơi. Một ly nước dù to hay nhỏ, nhờ đáy ly giữ lại phần dung tích, ta biết chúng đầy khi nước lên tới miệng ly. Không phải vì ly nhỏ mà ta bảo nó không đầy khi so sánh với ly lớn.
Làm sao ta biết nhà phú hộ trong dụ ngôn Chúa kể, lại là người có lòng tham không đáy? Lòng tham của ông ta biểu lộ qua tính toán và ích kỷ. Tính toán để làm tăng thêm của cải tiền bạc và ích kỷ vì không muốn dùng của cải tiền bạc ấy cho bất cứ người nào khác ngoài mình ra. Thoạt đầu dụ ngôn, ta đã tưởng nhà phú hộ sẽ dừng lại, bằng lòng với sự giàu có của ông và có một kế hoạch để sử dụng cho đúng những tài sản ông ta đang có. “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!” Nhưng trái lại, ông ta đã không vượt quá con người của ông để nhìn thấy có biết bao công việc lợi ích ông có thể làm với núi tài sản của ông. Nào là giúp đỡ những người cùng khổ đang sống bên cạnh ông, tăng lương cho những người làm công cho ông. Nào là đóng góp xây dựng cho ngôi trường học tại thành phố của ông để con em có nơi học hành tử tế. Hội đường của cộng đồng ông đang cần nới rộng thêm để nơi thờ phượng được xứng đáng hơn... Chắc chắn ông đã nhìn thấy những nhu cầu đó. Tuy nhiên những nhu cầu xã hội ấy lại không thể cân nặng bằng sự “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” của ông. Do đó, ông ta lại thấy vẫn còn chỗ để tích trữ hoa mầu và vẫn có những việc để ông ta làm cho riêng mình. Thế là ông ta lại lên kế hoạch làm giàu. Cái đáy tưởng đã có, giờ đây lại rơi đâu mất rồi!
Người tham lam bao giờ cũng có kế hoạch. Họ chỉ nhắm một mục đích làm giàu. Cho nên họ rất nhạy bén trước cơ hội và tìm cách nắm bắt cơ hội. Vì “còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu” nên kế hoạch của nhà phú hộ là phá những kho cũ đi và xây những kho mới lớn hơn. Nhưng rồi chẳng biết những kho mới xây sẽ lớn hơn cho tới bao giờ, hay cũng chỉ vài ba năm lại không đủ chỗ chứa! Rồi kế hoạch sau khi xây kho mới là “nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã”. Hay kế hoạch này rồi cũng lại phải hoãn lại vì tiền bạc của cải chưa đủ? Đúng là cái vòng luẩn quẩn, cái kho không đáy và không bao giờ dừng lại được.
2) Dừng!
Năm chục năm trước, cha Vũ minh Nghiễm, dòng Chúa Cứu Thế, có viết một cuốn sách suy niệm lấy tên là Dừng! Những bài suy niệm mời gọi ta phải biết dừng lại trong mọi lãnh vực cuộc sống, để hướng về cầu nguyện, suy nghĩ và dành những giây phút cho Chúa. Một trong những lãnh vực khó dừng nhất, đó là làm giầu. Thay vì dừng để nghĩ tới Chúa và tha nhân, người ta chỉ biết nghĩ đến tiền. Họ cũng nghĩ tới Chúa và tới người khác, nhưng thường là cớ để họ lao đầu đi kiếm tiền thêm. Họ nêu lên lý do: tôi phải làm nhiều tiền để giúp nhà thờ (!), cho tương lai của con cái. Thế là lễ Chúa Nhật chẳng đi, con cái cũng chẳng được vài ba giờ với cha mẹ mỗi ngày.
Người ta không biết dừng làm giàu, vì họ gán cho tiền bạc của cải một giá trị thực sự chúng không có. Họ theo triết lý “có tiền mua tiên cũng được”. Nhưng lầm. Chúa Giê-su nói thẳng: “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Bao nhiêu người giàu có đã chết, cả khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”.
Cho nên điều quan trọng là phải biết giá trị đích thực của tiền bạc của cải. Giá trị của chúng chỉ có giới hạn và là những ơn lành Chúa ban để ta sử dụng cho những mục đích tốt lành. Vì giá trị tương đối của chúng, nên ta không thể đặt chúng lên hàng đầu được. Chúa Giê-su dạy ta biết phải làm gì. Người nói: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:32-33). Làm theo lời Chúa dạy như thế là ta đang “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, vì “cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9). Những gì ta tích trữ dưới thế này ta sẽ không mang theo được khi chết, nhưng ta “hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6:20).
3) “Bán của cải đi mà bố thí”
Thánh Lu-ca ghi lại những lời dạy của Chúa Giê-su về việc sử dụng của cải tiền bạc trong chương 12. Kết luận là lời khuyên của Chúa: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc 12:33). Tiền bạc của cải phải có một hướng đi cho đúng. Ta không thể để chúng lẩn vẩn đầu óc và chi phối cuộc sống. Nhưng chúng phải được luân lưu, chuyên chở những giá trị tinh thần và đạo đức, tạo một thế quân bình trong đời ta. Khi ta “bán” của cải đi và “bố thí” thì không có nghĩa là mất, mà là dùng nó để tạo nên một giá trị mới nơi ta và nơi tha nhân. Nếu ta chỉ ôm của cải tiền bạc cho mình, ta cũng sẽ giống như ông nhà giàu, trái tim càng ngày càng nhỏ lại và chai cứng trước nỗi khổ đau của anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16:19-31). Trái lại, nếu ta dùng của cải tiền bạc để làm việc hữu ích và lo cho tha nhân, ta sẽ có trái tim mang chiều kích của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, quan phòng nuôi nấng muôn loài muôn vật.
Chúa Giê-su đến để ta được sống và sống phong phú theo tầm vóc của Người (Ga 10:10). Sự sống nơi Người đã được phát triển toàn hảo theo sự giàu có Thiên Chúa muốn thực hiện, để làm gương mẫu cho mỗi người noi theo mà đạt tới sự giàu có ấy. Chúa Giê-su không chỉ bán của cải mà bố thí, nhưng Người còn “bán đi” chính thân mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Người đã yêu thương nên cho đi tất cả những gì Người có. Người đã sống nghèo khó để làm giàu cho Thiên Chúa và nhân loại. Ước mong ta được Chúa ban cho những ơn lành vật chất, thì xin Người cũng cho ta biết cách sử dụng những ơn đó theo tình yêu, bác ái và lòng thương xót Người hằng dạy dỗ ta.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tham lam là một tính xấu rất khó nhận diện trong cuộc sống, len lỏi vào từng lãnh vực nhỏ bé nhất. Vậy có bao giờ tôi thử tìm ra những “vi khuẩn” tham lam trong đời sống của tôi không? Tôi có để ý tập sống quảng đại, để diệt trừ dần dần tính tham lam không?
Tiền bạc của cải có giá trị nào trong cuộc sống của tôi? Tôi đang làm giàu trước mặt Chúa như thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh Một tâm hồn trong trắng, cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa. Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao. Một tâm hồn đơn sơ, không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà không đòi lại. Một tâm hồn lặng lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác biết đến. Một tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa. Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ. Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.” - Cha Galot (Trích RABBOUNI, lời nguyện 103) Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Tôi có thói quen: mỗi tối trước khi đi ngủ, thường đọc một đoạn Tin Mừng, để lời chân lý thấm sâu hơn vào đời mình. Đêm qua, tôi đọc đoạn Tin Mừng Luca đoạn 12 từ câu 13 đến câu 21. Câu 20 gây ấn tượng mạnh cho tôi, khiến tôi giật mình: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai”. Gấp sách lại, tôi vào giường. Theo thói quen tôi bật ti vi, coi chớp nhoáng ít phút cho dễ ngủ. Chương trình đang chiếu là một buổi lễ hoành tráng: “Tôn vinh những người trẻ làm giàu giỏi”. Những người trẻ có nam, có nữ, bước lên, cúi đầu để nhận vòng hoa tươi quanh cổ, rồi tươi cười đưa hai tay đón nhận bằng khen. Tôi giật mình, không biết Chúa đúng hay thực tại cuộc đời đúng? Những người đang tươi cười bước lên lãnh vinh dự kia, là người giỏi, người khôn, hay “là đồ ngốc”.
1.- Ai đúng, Ai sai?
Dĩ nhiên, cả hai đều đúng. Chúa là Đấng quyền năng vô cùng, là Đấng thượng trí vô song, thì không thể sai được. Như vậy, thì những người chỉ lo làm giàu sẽ là người sai? Không! Họ cũng đúng. Ba phải thế! Họ đúng, bởi khi họ quyết tâm đầu tư xây dựng kinh tế là họ đang thi hành chỉ thị của Thiên Chúa “Các ngươi hãy làm đẹp bộ mặt trái đất”. Họ làm ra sản phẩm, vừa mang lại lợi ích cho mình, vừa mang lại lợi ích cho xã hội. Và dĩ nhiên, khi làm thế, họ có quyền hưởng lợi tức do họ đã làm ra. Họ trở nên giàu có. Đó là điều chính đáng.
2.- Ai khôn, ai ngốc?
Làm ra nhiều tiền bạc được xã hội khen là đúng. Vì đó cũng là mục đích của xã hội. Nhưng nếu họ chỉ ngừng lại cái mục đích của họ ở nơi ấy, thì coi chừng, họ sẽ là người ngốc. Sao vậy? Đơn giản, bởi đời họ phải chết. Cái chữ chết lạnh lùng quá. Bởi nó làm cứng bàn tay, không cho phép ai cầm được cái gì về đời sau cả. Đây là đang nói những người làm giàu chính đáng chứ chưa muốn nói đến những cái giàu, với những đồng tiền vấy máu những đồng tiền do tham nhũng, những đồng tiền trốn thuế, những đồng tiền ác độc, cắt đứt tình nghĩa, như chuyện hai anh em trong đoạn Phúc Âm trên. Họ làm giàu, họ tích trữ theo kiểu hi sinh đời bố củng cố đời con, là một sự dại khờ to lớn. Bởi vì họ có trở thành đại phú gia, để rồi được đặt một tên đường, một tên thành phố, thì cũng thành vô nghĩa, bởi họ chết rồi, cũng chẳng biết được gì. Cái định nghĩa mà Chúa dùng, để gọi họ là “ngốc” ở chỗ, là họ không nghĩ đến cái tương lai đời sau của mình. Đấy là một sự thật chắc chắn mà họ chẳng nhận ra và nghĩ đến. Chỉ nghĩ và sống cho cái đời này trước mặt, mà không nghĩ và chuẩn bị gì cho đời sau, phía sau cái chết là người rõ ngốc thật rồi. Gợi ý suy niệm:
1- Bạn là người khôn hay người ngốc? 2- Làm thế nào, để không là người ngốc?
Như chúng ta đã biết vua Salomon được coi như là người khôn ngoan nhất ở đời, bởi vì ông đã chỉ xin: TN 18-C106
Như chúng ta đã biết vua Salomon được coi như là người khôn ngoan nhất ở đời, bởi vì ông đã chỉ xin Thiên Chúa sự khôn ngoan mà thôi. Và Ngài đã cho ông được toại nguyện. Theo ông thì tất cả những cái chúng ta có đều là hồng ân của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi chúng ta hưởng dùng những niềm hạnh phúc ấy chúng ta phải biết đem lòng kính sợ Thiên Chúa. Chỉ người nào kính sợ Thiên Chúa mới thực sự hạnh phúc. Và đầu mối của sự khôn ngoan cũng chính là lòng kính sợ Thiên Chúa.
Đây cũng là điều Đức Kitô muốn nói với chúng ta qua dụ ngôn người phú hộ. Ông ta không phải là kẻ hà hiếp bóc lột người khác, cũng không phải là kẻ gian lận hay có bất cứ hành vi xấu xa nào. Ông ta biết làm ăn và trở nên giàu có. Ông ta đáng được hưởng công lao do tay mình làm ra. Thế nhưng ông ta chỉ thiếu có một điều, đó là lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông ta không ý thức được rằng hạnh phúc mà ông đang được hưởng là một hồng ân của Chúa. Hồng ân này chỉ được ban cho ông đời này mà thôi, nghĩa là ông ta sẽ chẳng thể đem được những thứ ông đang có sng thế giới bên kia.
Trong dụ ngôn này, chúng ta không thấy Chúa Giêsu gợi ý nên dùng của cải dư thừa làm gì, nhưng trong toàn bộ Tin Mừng, nhất là Tin Mừng theo thánh Luca, chúng ta thấy rõ khuynh hướng của Ngài là luôn khuyên chúng ta chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác, thậm chí Ngài còn đòi hỏi những ai muốn theo làm môn đệ Ngài, phải bán tất cả tài sản mà phân phát cho người nghèo. Kết thúc dụ ngôn người quản gia bất lương, Ngài bảo các môn đệ: Hãy dùng tiền của bất chính mà mua bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không khinh ghét của cải bởi vì chính Ngài cũng đã lao động để làm ra của cải, nhưng Ngài không bao giờ để cho của cải chi phối, thống trị mình. Của cải vật chất là những phương tiện cần thiết cho cuộc sống của mỗi người, nó cũng là phương tiện để chúng ta thực hành lòng bác ái yêu thương. Nó chỉ trở nên xấu xa bất chính khi vì nó mà người ta chà đạp, bóc lột kẻ khác, hay là khi người ta sử dụng nó một cách ích kỷ, không đem chia sẻ cho những kẻ khó nghèo. Chúa Giêsu đã từ chối không làm phép lạ hoá đá thành bánh, nhưng Ngài lại không do dự làm cho bánh hoá nhiều để nuôi những kẻ đến nghe Ngài giảng dạy.
Trong thế giới chúng ta đang sống, không thiếu gì những ông phú hộ và những người ăn mày như Lagiarô. Những ông phú hộ là những kẻ làm giàu cho mình bằng đủ mọi mánh lới thủ đoạn, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Trong khi đó hơn ba phần tư nhân loại ngày càng nghèo đói thêm. Vấn đề không phải là bảo những người giàu đừng làm giàu nữa, vì đó là điều không thực tế, nhưng là đòi hỏi họ phải chia sẻ những của cải dư thừa mà họ đang tích luỹ nhờ xương máu của chính những người nghèo, để giúp người nghèo khỏi chết đói.
Vấn đề còn là làm sao cho người giàu hiểu rằng bao nhiêu của cải họ đang khư khư nắm giữ cho mình sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay họ, khi họ nhắm mắt ra đi. Bởi vì chúng ta vào đời với hai bàn tay trắng, thì chúng ta cũng sẽ ra đi với hai bàn tay trắn, không còn khả năng nắm giữ nổi dù chỉ một hạt lúa mà thôi.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi ông đang ở có một người nông: TN 18-C107
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi ông đang ở có một người nông dân nghèo nhưng lòng đầy tham lam. Ngày nọ, vị lãnh chúa nói với người nông dân: "Tôi sẽ cho anh tất cả những phần đất nào mà anh có thể chạy bao quanh, tính từ khi mặt trời bắt đầu mọc cho đến khi mặt trời lặn. Nếu anh trở về đến điểm xuất phát trước khi mặt trời chìm khuất sau đồi, thì anh sẽ làm chủ tất cả những vùng đất anh đã chạy bao quanh. Nếu không, anh chẳng được gì."
Người nông dân nghe lời hứa đó mà tưởng như mơ! Đúng là một cơ hội ngàn vàng. Thế là đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi rặng núi, anh bắt đầu cắm đầu cắm cổ chạy trối chết. Trước hết, anh chạy bao quanh một khu rừng già đầy gỗ quý. Thế là chỉ trong buổi sáng, anh đã trở thành một chủ nhân của hàng trăm mẫu rừng.
Mặt trời lên cao, nắng như đổ lửa, mồ hôi đầm đìa, nhưng anh vẫn tiếp tục chạy phăng phăng bao quanh đồng lúa phì nhiêu bao la bát ngát. Thế là đến trưa, anh đã là người điền chủ giàu có nhất vùng.
Mặt trời sắp lặn, chỉ cách ngọn đồi chỉ chừng một con sào, anh lại thấy một con suối lớn nước chảy lênh láng tràn bờ. Anh tự nhủ lòng: Nếu ta không làm chủ được con suối nầy thì toàn bộ cánh đồng mà ta vừa thu tóm được phải đành bỏ khô. Thế là anh dồn hết hơi tàn lực kiệt, quyết chạy bao quanh con suối.
Cuối cùng, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, anh thở hồng hộc như con bò bị thọc tiết... Mặt trời bắt đầu lặn, chỉ còn là một vầng bán nguyệt đỏ ối sắp chìm xuống đỉnh đồi. Anh phải cố chạy nhanh cho tới nơi xuất phát, nếu không kịp thì chỉ còn là hư không.
Và rồi khi chỉ còn mươi bước nữa là tới đích, anh ngã gục xuống. Vỡ tim!
Thế là cuối cùng, anh chỉ còn được hưởng vài thước đất để chôn vùi thân xác!
(Phỏng theo câu chuyện nhan đề: "Chỉ cần ba tấc đất" của Văn Hào Leon Tolstoi)
* * *
Người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay cũng học theo sách đó.
Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông "mới nghĩ bụng rằng: 'Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!' Rồi ông ta tự bảo: 'Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!' Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: 'Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?' Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó."
Xét cho cùng, trong thế giới hôm nay, những hạng người ngốc nghếch như vậy không hề thiếu.
Trong tôi vẫn có lòng tham của người nông dân ngu dại trên đây, hằng thúc đẩy tôi thu tóm, ky cóp cho thật nhiều, không bao giờ thấy đủ.
Trong tôi cũng có một gã phú hộ dại khờ, tìm cách cơi nới thêm kho lẫm để chất cho đầy của cải chóng qua.
Nếu chỉ biết thu gom, ki cóp của cải vật chất đời nầy, chỉ biết lo cho nhu cầu vật chất mà lãng quên linh hồn thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe của người phú hộ đáng thương kia.
Tất nhiên là mỗi người cũng cần phải tạo thêm nhiều của cải để bảo đảm cho đời sống phần xác, cho mình và cho xã hội, nhưng nếu chưa tạo được kho báu thiêng liêng thì khác gì "dã tràng xe cát biển đông"!
Trái lại, nếu hôm nay chúng ta tích trữ thật nhiều của cải thiêng liêng, trở nên người giàu có trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta có thể an tâm tự nhủ lòng mình: Hồn ta ơi, hãy hoan lạc và mừng vui, vì ngươi đã có một kho báu trên trời. Mai đây tha hồ vui hưởng!
Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái: TN 18-C108
Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.
Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng. Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này. Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay. Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2, 21).
Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.
Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài. Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu" (Lc 12, 15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.
Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu cảnh báo: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự. Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy" (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.
Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường. Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất. Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải. Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất. Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày. Lòng tham vô đáy. Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu. Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất. Thế là cuộc sống kéo lôi vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ. Biết rằng lao động kiếm sống là tốt. Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.
Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.
Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất. Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2).
Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn. Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ. Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3, 9-10). Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành. Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.
Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.
Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên hải ở: TN 18-C109 chuyện
Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp vào bờ. Bên trong tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người đánh cá về mẻ lưới của ông ta, rồi hỏi tiếp:
“Ông ra khơi trong bao lâu?”. “Ồ, một hoặc hai giờ” người ngư phủ đáp. “Tại sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?” “Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình tôi” “Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?”
“Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ trưa vào buổi trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi đàn ghi-ta và nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống đầy đủ”. Người đánh cá nói. Ông chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng: “Ông nên dành thêm thời gian để đánh cá”, ông nói: “Rồi khi công việc tiến triển, ông có thể mua một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy chiếc tàu. Sau cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang thêm nhà xưởng và nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng này và chuyển đến ở thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New York, từ nơi này ông có thể mở rộng việc kinh doanh”.
“Mọi việc ấy cần bao nhiêu thời gian?”. Người đánh cá nói. “Khoảng hai mươi năm”, ông chủ ngân hàng đáp. “Và rồi sau đó?” Người đánh cá hỏi. “Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú”. “Rồi sau đó?” người đánh cá hỏi “Sau đó ông có thê rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng nhỏ miền biển, ở đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con cái ông, ngủ trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một vài cuộc vui với bạn bè”. “Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào?” người đánh cá hỏi.
Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản TN 18-C110
Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Sở dĩ có luật ấy là vì trong gia tộc cần có người gia trưởng, và người được chọn phải là con trưởng.
Thời Chúa Giêsu cũng như ngày nay, người Do Thái thường nhờ một rabbi uy tín để làm trọng tài phân giải việc chia gia tài cho những người con trai trong gia đình như trường hợp điển hình trong Phúc âm hôm nay.
Trong thực tế như đã nói trên, chỉ có con trai cả mới được hưởng trọn gia tài của cha để lại, và những người con trai thứ khác chỉ được hưởng một phần rất nhỏ nếu người cha hay người con trai cả muốn chia cho. Vì không được như ý, nên người con trai thứ mới đi tìm “rabbi trẻ Giêsu” uy tín để nhờ và, nhưng rabbi này lại từ chốí khi trả lời anh: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Câu trả lời của Chúa Giêsu chắc chắn làm anh ta và cả chúng ta đều thất vọng, và hình như trái với luật bác ái mà Người đã dạy. Chúng ta sẽ nghĩ thế nào?
Có vài ba lý do giúp chúng ta hiểu được điều Chúa Giêsu từ chối, để có thể học được bài học chân lý của tin Mừng. Thứ nhất kiểu nói của Chúa Giêsu đã được Người quen dùng ngay từ khi lên 12 tuối. Khi Người ở lại đền thờ Giêrusalem để tham dự cuộc đối đáp về kinh thánh với các thầy tư tế, Mẹ Người tìm thấy Người ở đó và đã nói: “Sao con lại làm thế với cha mẹ, kià chúng ta đã tìm con ba ngày đàng... Và Người trả lời: Sao cha mẹ lại tìm con ...” hoặc khi mẹ Người xin Người can thiệp vào tiệc cưới Cana thiếu rượu, Người đáp::Giờ tôi chưa dến... (Ga 2:3-4)
Thứ đến, người con trai thứ đó đã hỏi Chúa Giêsu vào thời điểm không thích hợp, bởi vì chỉ còn độ ba ngày nữa là đến giờ Người chịu chết trên thập giá ở Giêrusalem, có thể Người không quan tâm đến việc trần thế “chia chác của cải vật chất”, vì việc này chẳng hề lien quan đến sứ mệnh cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết muôn đời.
Và sau cùng có thể việc từ chối của Chúa Giêsu sẽ dạy anh ta và chúng ta một chân lý trong cuộc sống làm người: Những việc trần thế đã có những người khác lo cho, như các quan án hay luật sư chẳng hạn, vì đó là việc của họ. Còn việc của Chúa Giêsu là lo cho Nước Trời. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm sau những câu trả lời tương tự từ chối như vậy, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn đáp lại yêu cầu của những người xin. Thí dụ sau khi ở đền thờ Giêrusalem, Thánh Kinh nói Người đã trở về Nazarét và vâng lời hai ông bà ...; hoặc ở tiệc cưới Cana, cho dù giờ của Người chưa đến, nhưng Người đã làm phép lạ nước hóa thành rượu theo yêu cầu của Mẹ Người... Điều đó chứng tỏ rằng trong trái tim nhân ái của Chúa Giêsu luôn phát ra tình thương vô cùng của Thiên Chúa trong cả lãnh vực tâm linh lẫn các việc trần thế liên quan đến sự cứu rỗi và hạnh phúc của con người.
Để chứng minh cho sự từ chối khéo léo trên, Chúa Giêsu đã dạy một chân lý vĩnh cửu về mục đích đời sống con người: Đời sống họ không kết thức ở trần gian này, nên đừng lầm lẫn như nhà phú hộ trong dụ ngôn chỉ lo ăn chơi và thỏa mãn với của cải vật chất, vì vật chất sẽ tận cùng ở trần gian, chỉ có linh hồn mới đáng kể và đáng lo mà thôi. Do đó cần phải biết sử dụng vật chất để đạt được Nước Trời.
Người Kitô hữu nên suy gẫm dụ ngôn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, để có thể quân bình hóa các nhu cầu trong cuộc sống, và trước hết và ưu tiên nhất vẫn là lo cho các nhu cầu của đời sống linh hồn. Một khi linh hồn luôn thuộc về Chúa, chúng ta sẽ an vui sống hạnh phúc ở trần gian, cho dù phải sống trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Thỉnh thoảng cũng có đôi lời tự an ủi phát ra từ những cuộc đời lam lũ vất vả, hay từ những hoàn TN 18-C111
Thỉnh thoảng cũng có đôi lời tự an ủi phát ra từ những cuộc đời lam lũ vất vả, hay từ những hoàn cảnh tiêu phí hết cả cuộc đời mà vẫn không thấy thỏa mãn giàu có hơn ai, như nhìn quanh mình: tất cả đều đi đến tận cùng, đi đến nghĩa trang...! Và tại nơi đây, những kẻ giàu có hơn mình còn cơ hội tô son tô phấn đời họ lần cuối bằng những lời ca tụng của gió của mây, trước khi bước vào lòng đất quê hương cát bụi cô đơn lạnh lẽo!
Khổ nỗi cuộc đời từ ngàn xưa xem ra vẫn cứ bất công giàu - nghèo, sung sướng - đói khổ, thế lực - trắng tay, danh vọng - cùng đinh... Mỗi cố gắng vươn lên là như thêm một dịp nhận chìm kẻ khác trong vô hình chung hay cố ý. Nhưng đó là phần ảo tưởng của cuộc đời. Phần thực sự của thân phận con người được kết thúc bằng lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy." (Lc 12:20-21)
Lời Chúa xem ra chẳng yên ủi người nghèo, và cũng chẳng khích lệ hay lên án người giàu, nhưng cảnh cáo những kẻ Người gọi là ngu ngốc chỉ biết tiêu xài cuộc đời để tích trữ và hưởng thụ vật chất.
Lời Chúa Giêsu hình như làm khó dễ chúng ta quá! Sống trên đời ai lại chẳng muốn được sung sướng giàu có, vì có tiền mua tiên cũng được cơ mà. Hơn nữa Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ đầu đã muốn cho họ được sống hạnh phúc; và vì lầm lỗi phạm tội, chính Ngài đã sai Con Một của Ngài đến cứu họ đó.
Đúng thế, Thiên Chúa muốn tất cả mọi người chẳng những được sống hạnh phúc ở đời này, mà nhất là sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn trên quê hương vĩnh cửu với Ngài. Tội tổ tông đã làm cho con người thường lầm lẫn giữa các thực tại giới hạn và vô hạn, nên chẳng lạ gì người phú hộ mà Chúa Giêsu dạy đã trở nên thí dụ điển hình. Ông ta có nhiều của cải vật chất hơn người, và niềm vui duy nhất của ông chỉ tập trung ở đó. Ông lầm lẫn giữa đời sống linh hồn và thể xác, và coi vật chất là nhu cầu duy nhất thỏa mãn cho cả hai khi nói: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!"
Đây chính là sự lầm lẫn vừa cố ý lại vừa ngu ngốc như Chúa nói, bởi vì vật chất sẽ tiêu tan, và chỉ có linh hồn mới bền vững mà thôi. Và như thế câu kết luận của Chúa Giêsu sau đây: "Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy" sẽ cho chúng ta nhiều suy tư và quyết định chọn lựa. Dù ở hoàn cảnh nào mà không để mình bị lầm lẫn giữa các giá trị hạnh phúc, chắc chắn sẽ nếm được hạnh phúc thật mà Chúa đang và sẽ dành cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập tới tiền bạc và của cải vật chất. Tôi muốn dừng lại và suy TN 18-C112
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập tới tiền bạc và của cải vật chất. Tôi muốn dừng lại và suy nghĩ về cách sử dụng, đó là đừng phú phí.
Sự phung phí là một hiện tượng đã có từ lâu đời, vẫn còn và có lẽ sẽ còn mãi mãi bao lâu con người hiện diện trên trái đất này. Nó là một hiện tượng phổ quát nhưng lại xuất hiện dưới nhiều hình thức và thường được che đậy bằng những danh hiệu, nếu không tốt đẹp thì ít ra cũng vô hại. Người ta ít ai ý thức rằng mình phung phí tiền bạc, nhưng bao giờ người ta cũng có đủ lý do để phung phí tiền bạc một cách bừa bãi. Điều đáng chú ý là không phải chỉ những kẻ dư tiền bạc mới phung phí, trái lại, những kẻ nghèo lại là những người phung phí nhiều nhất. Người ta kể lại, trên miền thượng, có một người đồng bào sắc tộc trúng số độc đắc, anh ta đã dùng cả mấy chục triệu bạc đó kể tổ chức nhậu nhẹt cho cả làng: ăn cho đến hết thì thôi. Nghe câu chuyện trên, chắc nhiều người tác lưỡi tiếc thầm: Giá mình trúng số thì hay biết mấy. Người ta có rất nhiều những dự định với cái “giá mà” kia. Nhưng điều quái lạ là người ta ít khi biết sử dụng cho đúng đắn, hợp lý những tiền bạc, không phải là của trời cho, mà do công lao khó nhọc, mồ hôi nước mắt mà có. Chẳng hạn hiện tượng ăn tết hay là những hội hè đình đám, những tổ chức làm đám ma, đám cưới, nhiều khi đưa các gia đình tới chỗ kiệt quệ, hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần. Dĩ nhiên việc ăn tết, tổ chức ma chay cưới hỏi là những việc làm tốt đẹp và cần thiết.
Vấn đề chúng ta đặt ra ở đây không phải là đưa tới cho huỷ bỏ những tập tục nói trên, nhưng là để cho thấy cách tiêu xài phung phí quá đáng. Nhu cầu tổ chức những hội hè đình đám là một nhu cầu tự nhiên của con người muốn thoát ra ngoài cuộc sống tẻ nhạt, thực hiện một thế quân bình tâm lý bằng cách làm giảm bớt hay quên đi những lao nhọc vất vả. Thực vậy, cuộc sống thường ngày luôn luôn là một sự tranh sống. Làm để mà ăn. Ăn để mà sống và sống để mà làm. Nếu cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp tục hoài, thì cuộc sống nếu không phi lý thì cũng buồn tẻ không đáng sống. Bởi đó ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn tìm cách vượt ra khỏi cái vòng lẩn quẩn kia bằng cách làm những gì không trực tiếp đáp ứng nhu cầu sinh tồn hơn là chỉ để lấp đầy sự đói khát của dạ dày. Do đó mới có những ngày lễ, những cuộc hội hè đình đám. Làm ở đây không còn là lắm ăn nữa và ăn ở đây không còn là để sống mà là ăn lấy thơm lấy tho, chứ không phải ăn cho no cho béo. Làm cho vui, ăn cho sướng.
Ngoài tính cách mua vui trong những hội hè đình đám, đối với người Việt Nam, thì đó còn là một dịp khoe giàu sang, khoe danh vọng. Từ đó xuất phát ra cái tục ăn khao ăn mừng. Vô vọng bất thành quan, kẻ làm quan kẻ đỗ đạt phải được trình diện xóm làng để làm vẻ vang cho gia đình họ hàng. Việc cưới hỏi ma chay cũng thế, đó thường là dịp cho các gia đình khoe khoang cái danh vọng, cái chữ hiếu của mình, được đánh giá bằng số mâm số cỗ và những người được mời. Thú ăn chơi cộng với tính khoe khoang đã làm cho nhiều người khánh kiệt điêu đứng hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần: Kiếm củi ba năm đốt một giờ. Bao nhiêu tiền dành dụm do mồ hôi nước mắt đổ ra, đổi lấy chút danh tiếng hão huyền. Tệ hơn nữa, nhiều gia đình thường phải vay mượn để tổ chức ma chay đình đám, rồi sau đó suốt bao nhiêu ngày tháng phải kéo cày trả nợ. Kẻ chết trở thành một gánh nặng mà gia đình phải gánh chịu nhiều năm và nụ cười trong đám cưới trở thành nếp nhăn trên khuôn mặt cặp vợ chồng trẻ trong một thời gian lâu dài. Bởi đó, cần phải tiều xaì tiền bạc một cách hợp tình và hợp lý để bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình, và nhát là để mua lấy Nước Trời bằng những hành động bác ái yêu thương.
Có người bi quan bảo rằng: “sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến TN 18-C113
Có người bi quan bảo rằng: “sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh - bệnh - lão - tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22,000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích... Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Ðừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Ðừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.
Nếu nhìn vào toàn cảnh Việt Nam, người ta thấy kinh tế càng ngày càng khó khăn. Đồng tiền TN 18-C114
Nếu nhìn vào toàn cảnh Việt Nam, người ta thấy kinh tế càng ngày càng khó khăn. Đồng tiền kiếm được ít ỏi, lại mất giá. Giá xăng liên tục tăng, giá vàng lên xuống thất thường. Trong khi thông tin về tình hình kinh tế không mấy sáng sủa thì đồng thời, trên các phương tiện truyền thông lại liên tục cập nhật những vụ việc “mẹ tự thiêu vì con rể nợ 2 chỉ vàng”; “Bẻ gãy tay mẹ vì đòi chia tài sản”...
Ngày 08/7, báo Bà Rịa-Vũng Tàu đưa tin, người dân ở khu phố Hải Dinh, phường Kim Dinh hết sức bức xúc việc bà Nguyễn Thị Thanh (61 tuổi) bị con gái là Đặng Thị Thủy, đánh gãy tay, phải vào viện. Bà Thanh nói: “Nỗi đau của tôi không phải ở bàn tay bị gãy, mà ở sự hỗn hào, bất hiếu của con cái”
Theo lời bà Thanh, gần đây, Thủy muốn bà Thanh bán lô đất trị giá hơn 1 tỷ để chia cho Thủy một phần, nhưng bà không đồng ý.
Thủy chửi bới, chì chiết, xưng hô mày tao với mẹ. Quá đau lòng, bà Thanh đã dùng tay tát Thủy, không ngờ bị con gái nắm được tay bà và bẻ ngang khiến bà Thanh bị gãy ngón tay giữa, phải đi bó bột ở bệnh viện Bà Rịa. “Nếu không có hàng xóm vào can ngăn thì có lẽ nó đã đánh chết tôi rồi”- bà Thanh xót xa nói.
Trước hành động quá đáng của con gái, bà Thanh đã gửi đơn lên phường mong xử phạt và răn đe, giáo dục con gái. “Máu chảy ruột mềm, thật lòng tôi chỉ muốn con gái tới xin lỗi mình, chứ không ai muốn con dính vào luật pháp, nhưng con nào có hiểu được lòng mẹ”- bà Thanh ngậm ngùi nói.
Câu chuyện đau lòng phải kể đến là trường hợp cụ bà Nguyễn Thị Bương (83 tuổi, trú thôn Phước Lương, xã Hòa Xuân Tây, Đông Hòa) đã tự thiêu bằng xăng ngay tại trước bậc sảnh Toà Án Nhân Dân huyện Đông Hòa (Phú Yên), ngày 05/7.
Theo người nhà cụ Bương, nhiều khả năng cụ tự thiêu vì bức xúc chuyện ông Lập, con rể, chưa trả hết 3 chỉ vàng đã mượn, lại còn lấy vợ khác.
Những câu chuyện đắng lòng khiến người ta phải đặt câu hỏi, phải chăng kinh tế khó khăn khiến tình người càng thêm cạn kiệt?
Đành rằng cuộc sống rất cần tiền, nhưng không phải nhờ tiền mà ta sống được lâu dài hơn. Không phải nhờ giầu có tiền của mà ta sống giá trị hơn. Điều quan trọng mà Chúa muốn nhắc chúng ta là phải làm giầu trước mặt Chúa. Làm giầu ở đây, không phải là giầu của cải vật chất, mà là giầu đức hạnh, giầu việc lành bác ái với tha nhân. Lòng tham con người vô đáy. Nếu cuộc sống chỉ theo đuổi tính tham lam của mình, con người sẽ trở nên bủn xín keo kiệt với anh em. Nếu cuộc sống con ngưởi chỉ biết nghĩ đến mình, con người sẽ sống trong ốc đảo cô đơn và tuyệt vọng.
Thế nhưng, con người ngày nay chỉ cần tiền. Họ quan tâm tới tiền. Họ sống vì tiền và họ đặt mọi quan hệ trên đồng tiền. Họ coi đồng tiền là phương tiện để họ gắn kết với nhau hơn. Thế nên, thế giới càng giầu của cải thì tình người càng cạn kiệt hơn. Người ta vì tiền mà phản bội nhau, lừa dối nhau và giết hại lẫn nhau. Vì tiền mà con người đánh mất tình người và đôi khi đánh mất chính bản thân mình đến nỗi vì tiền mà sống hèn hạ, mất danh dự nhân phẩm của một con người.
Có lẽ chúng ta đã không còn lạ về những câu chuyện bi thương giữa những người thân trong gia đình đã tàn sát lẫn nhau chỉ vì tiền, vì của cải, vì tài sản... Cha mẹ bỏ rơi con cái chỉ vì tiền. Con cái sát hại cha mẹ cũng vì tiền. Và vợ chồng bất trung với nhau cũng vì tiền. Đồng tiền lên ngôi là lúc tình người lại xuống thấp. Đề cao đồng tiền cũng đồng nghĩa giảm đi tình người.
Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy xét lại xem “nếu ngay trong đêm nay ta từ giã cuộc đời này ta sẽ được gì?” Đồng tiền có mua được bạn hữu khi ta đã nhắm mắt xuôi tay. Sự gian ác, tàn nhẫn, thiếu tình người chỉ vì coi trọng đồng tiền, có mang ta đi về thế giới đời sau trong an nhàn hạnh phúc hay lo âu sợ hãi khi phải đối diện với tử thần? Con người sinh ra, rồi cũng sẽ chết, nhưng cái chết đến, chúng ta sẽ mang theo được điều gì? Là tiền bạc hay việc làm phúc đức? Điều gì ta mang theo, sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc ngàn thu?
Người đời hay có câu giỡn với nhau: “Làm chi cho nhiều, chết rồi cũng để lại cho ‘dượng’ nó xài, vợ con mình ‘dượng’ nó sai...”. Lời Chúa hôm nay thì bảo: “Đồ ngốc, Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy, kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Có lẽ không ai muốn chết mà không có bạn bè, người thân bên cạnh trong lúc lâm chung? Có lẽ không ai muốn sau cái chết, là mất mát, là đau khổ? Vậy, chúng ta phải làm điều gì để có bạn bè, có người thân bên cạnh chúng ta hôm nay và mãi mãi? Thưa, đó chính là một cuộc sống đặt tình người lên trên của cải, và biết sống vì mọi người và cho mọi người. Một cuộc sống vị tha sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Đúng như Nguyễn Công Trứ đã nói:
“Người trồng cây hạnh, người chơi. Ta trồng cây phúc để dành đời sau.”
Xin cho chúng ta luôn biết khôn ngoan chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những phù vân mau qua, biết chọn tình người hơn là của cải, và biết chọn Chúa hơn là danh lợi thú trần gian. Amen.
Hư không trên các sự hư không”. Đây là lời của ông Cô-he-lét con vua Đa-vít trong sách Giảng TN 18-C115
“Hư không trên các sự hư không”. Đây là lời của ông Cô-he-lét con vua Đa-vít trong sách Giảng Viên, (Bài đọc I). Cô-hé-let là một vị vua khôn ngoan, ông nhìn thế giới với cái nhìn hướng thượng và truyền lại cho các môn sinh. Một trong các môn sinh lấy lại lời dạy của Thầy và đào sâu hơn: “Hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không” (Gv 1,2). Sự khôn ngoan này đã trở thành cách ngôn dân gian để mọi người nhìn thế giới mình đang sống với sự tỉnh táo, không ảo tưởng, với hy vọng những cố gắng của con người sẽ không bị tiêu tan vô ích trong một thế giới thấp hèn!
Tuy nhiên, đây là dịp để chất vấn chúng ta về vị trí của mình trên trái đất này và cách thức chúng ta quản lý thế giới. Chính trong bối cảnh này mà Đức Giêsu ngang qua dòng người, ở giữa đám đông vây quanh, với tất cả khổ đau và kêu cứu, một người trong nhóm họ lên tiếng thưa: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi” (Lc 12, 13). Đức Giêsu bỗng dưng bị đặt làm trọng tài giữa hai người trong tương quan nhân loại. Có người hỏi: vì lý do gì mà người kia lại thưa với Đức Giêsu một điều như thế, Người đâu phải là một quan tòa chuyên xử các vụ chia cắt gia tài của các gia đình? Tuy nhiên chúng ta không vội kết án người này. Anh ta có hai lần đúng khi chạy đến nhờ Đức Giêsu. Trước hết bởi vì đối với Đức Giêsu không có gì vô nghĩa, thứ đến Đức Giêsu với tư cách là Thầy, Ngài hoàn toàn có quyền làm trọng tại để giải quyết cho anh vấn đề anh nêu ở trên, nên chạy đến Người cầu cứu!
Tuy nhiên Đức Giêsu nhanh chóng gạt đi và dứt khoát từ chối can thiệp vào những chuyện như thế: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?” (Lc 12,14). Đức Giêsu không can thiệp, nhưng Người lại chỉ cho cách cần phải giải quyết những vấn đề đó với tinh thần nào: “Các ngươi phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12,15).
Trở lại bài đọc I ta thấy: “Kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao” (Gv 1,3). Ở đây “kẻ làm việc vất vả trong sự khôn ngoan” phải kể đến là cha mẹ hai anh, nên hai anh có lý để tranh dành của cải họ được kế thừa.
Câu “Hư không trên các sự hư không” không thể hiện điều cam chịu nhưng mở ra con đường ân sủng cứu độ. Thật khôn ngoan khi biết rằng thế giới mà chúng ta đang sống không mang lại ý nghĩa tối hậu chúng ta tìm kiếm trong cuộc đời. Nhưng cũng thật sai lầm khi để mình bị giam hãm trong sự phi lí của thế gian này. Thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta tìm kiếm những sự cao siêu trên trời (Cl 3, 1).
Câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: chúng ta đang bám víu vào ai và cái gì? Dụ ngôn Đức Giêsu kể trên dành cho chúng ta là những kẻ đang ngồi đây, đang tiêu tán do những dự án và lo lằng mà không biết rằng thế giời này là hư không (ý nghĩa văn chương hư không có nghĩa là hơi nước đọng lại, phù du), chúng ta hy vọng sẽ thỏa mãn và ổn định lâu dài. Một ngày kia, người giầu tỉnh giấc, đau buồn vì của cải thế gian này không còn là của ông nữa.
Người nhà giầu bị trách, không phải vì ông thu góp của cải, những của cải, vật chất đời này không phải là xấu, nhưng tự bản chất, chúng không có giá trị bền vững. Xấu là ở chỗ lòng ông bám bíu trọn vẹn vào chúng, ông đã quên đi cái được cái mất và ý nghĩa cuộc đời. Ông muốn “nghỉ ngơi”, ông muốn bình an “trong nhiều năm” (x. Lc 12,19). Liệu có phải là mục đích cuộc đời của ông không? Tại sao? Ông có chắc rằng ông có thể tự cho mình nghỉ ngơi vui chơi không? Những thứ ông đang sở hữu có mang lại sự nghỉ ngơi, bình an và niềm vui không?” Đó chính là lý do mà Đức Giêsu cho ông là “kẻ ngu dại” (Lc 12,20). Vì hạnh phúc bền lâu không đến từ thế gian này mà đến từ Thiên Chúa. Ông đã nhầm khi chọn cái tạm bợ (đời này) làm chỗ dựa bền vững.
Mỗi lần “kẻ ngu dại” trong Tin Mừng xuất hiện là một lần Thánh Phaolô hỏi chúng ta về vấn đề này: trong cuộc đời, anh em có “bê tha, nhơ bẩn, dục vọng, ước muốn sấu và thèm khát hưởng thụ không”? Chúng ta có chắc rằng “Hư không trên hết các sự hư không”? Trong đời ta có còn những thần tượng tạm bợ ở đời này không? Đây là lúc chúng ta gạt bỏ “những thủ đoạn của người xưa”, vì ngu dại chọn lựa sự hư không khi Đức Kitô trao bạn cho chúng ta những phương tiện để xây dựng trên sự bền vững.
Phải chăng lời của ông Cô-he-lét trong sách Giảng Viên: “Hư không trên hết các sự hư không” (Gv 1,2), không phải là một tiếng kêu đầy thất vọng và chán chường sao? Tác giả của Sách Giảng Viên đã bày tỏ nỗi buồn và thất vọng của mình về sự đời, về những việc làm thuần túy nhân loại, vì chúng không mang lại lợi ích bền lâu cho những người ra công thực hiện chúng và chúng không hề có giá trị tồn tại vĩnh cửu.
Đức Giêsu và tác giả Sách Giảng Viên nhắn nhủ chúng ta hay rằng, tất cả là hư không, là lầm lẫn khi con người chỉ lo tìm địa vị, quyền hành và đặt hết tin tưởng của mình vào những sự vật chóng qua, mà lại sao nhãng việc tích trử các của cải thiêng liêng, thực thi các việc lành phúc đức bác ái, thì chỉ là những kẻ dại dột và thua thiệt. Vì một ngày kia, khi chết, chúng ta sẽ làm được gì với những thứ của cải vật chất kia mà chúng ta từng ký cóp cả đời? Chúng ta đã trang bị, sửa soạn cho mình được những gì khi phải ra đứng trước tòa Thiên Chúa? Mọi vất vả khó nhọc của những kẻ sống như thế sẽ hoàn toàn hư không!
Đây là một lời dạy khôn ngoan luôn mang tính cách thời sự. Vì trong thời đại chúng ta, con người đang bỏ quên đi các giá trị tinh thần vĩnh cửu và cố chạy theo tìm kiếm những tạm thời sẽ qua và sẽ hết.
Qua những suy tư trên, chúng ta thấy điều cơ bản cho cuộc sống vĩnh cửu mà con người cần phải tìm đạt tới, không phải là thế giới hữu hình, nhưng là những thực tại của Nước Thiên Chúa, những thực tại tinh thần chứa đựng các giá trị vĩnh cửu.
Đêm Cầu Nguyện 25-7-2013, tại bãi biển Copacabana, Rio de Janeiro, Đức Thánh Cha Phanxicô TN 18-C116
Đêm Cầu Nguyện 25-7-2013, tại bãi biển Copacabana, Rio de Janeiro, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với giới trẻ rằng: “Hôm nay, cha muốn mỗi người chúng ta chân thành tự hỏi: Chúng ta đặt niềm tin của mình vào ai? Vào chính mình, vào vật chất, hoặc vào Chúa Giêsu? Tất cả chúng ta bị cám dỗ đặt mình ở trung tâm, nghĩ rằng mình là cái rốn của vũ trụ, tin rằng một mình mình, tự mình có thể xây dựng cuộc đời mình, hay nghĩ rằng đời sống mình chỉ có thể hạnh phúc nếu được xây dựng trên của cải, tiền bạc hay quyền lực. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng không phải như thế! Chắc chắn rằng của cải, tiền bạc và quyền lực có thể cung cấp cho chúng một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng được hạnh phúc, nhưng chúng cuối cùng sẽ sở hữu chúng ta và làm cho chúng ta luôn luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ thỏa mãn. Cuối cùng, chúng ta được “đổ đầy” mà không bao giờ được nuôi dưỡng, và thật rất đáng buồn khi thấy những người trẻ “được đổ đầy” mà yếu đuối. Tuổi trẻ phải mạnh mẽ, phải được nuôi dưỡng bằng đức tin chứ không phải được đổ đầy bằng những thứ khác”.
Của cải, tiền bạc và quyền lực không phải là cùng đích của đời người. Tin Mừng hôm nay nói về dụ ngôn ông phú hộ dại khờ. Ông phú hộ nghĩ rằng: tiền bạc, của cải là tài sản có giá trị tuyệt đối. Với tài sản đồ sộ, ông tưởng rằng bản thân mình từ nay sẽ được sung sướng, được an toàn mạng sống. Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Tài sản không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay. “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Tiền bạc, của cải, quyền lực, danh vọng, cuối cùng vẫn chỉ là phù vân (Gv 1,2), chẳng có nghĩa lý gì hết, nếu người ta không biết sử dụng nó. “Vì không phải dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).
Nhưng những dự định ông phú hộ cho là khôn ngoan thì Chúa Giêsu lại bảo đó dại khờ.
Nhà phú hộ dại khờ vì không phân định đâu là tài sản đích thực và đâu là tài sản tạm thời chóng qua, mau hư nát. Dại khờ vì ông nghĩ rằng có thể xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng của cải nhưng nó chỉ là những thứ chóng tàn phai, nay còn mai mất. Dại khờ vì ông chỉ nghĩ đến của cải vất chất mà quên mất Thiên Chúa.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy: Hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trở nên giàu có như Chúa Giêsu, luôn “yêu thương, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng” (Cl 3,12) và “trên tất cả là lòng mến, giềng mối của mọi trọn lành”. (Cl 3,14).
“Lắm của cải đâu quý bằng danh thơm tiếng tốt, vàng với bạc nào trọng bằng được mến được thương” (Cn 22,1). Trong cuộc đời này, có biết bao người giàu tình thương, chăm lo cho bệnh nhân, chăm sóc trẻ em tật nguyền, tiếp đón người khổ đau bất hạnh, ưu tư lo lắng cho người sầu khổ, dấn thân phục vụ cho các hoạt động xã hội, bác ái và thăng tiến con người...
Có thể nói được là không ai giàu có, tự do, và mạnh mẽ hơn ‘người giàu trước mặt Chúa”, người mà niềm tin vào Chúa giúp họ vượt lên trên mọi tài sản trần gian, vì đã có “Chúa là nơi họ ẩn náu”(Tv 13,6). Vì thế, mối phúc đầu tiên được dành cho người nghèo, người “đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7). Người giàu trước mặt Chúa không phải là người có nhiều tài sản, mà là người tài sản chỉ đủ dùng nhưng biết lo tìm kiếm Nước Trời: “chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8).
Phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc. Tình người đáng giá hơn giàu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. Chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với tha nhân nơi trần thế này để trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. Hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
Để “giàu có trước mặt Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ đến với Đức Kitô, để sống đức tin, hy vọng và tình yêu.
“Hãy mặc lấy đức tin” và cuộc sống của các con sẽ có một hương vị mới, nó sẽ có một la bàn để chỉ đường cho các con.
“Hãy mặc lấy hy vọng” và mỗi ngày của các con sẽ được soi sáng và chân trời của các con sẽ không còn tăm tối, nhưng sáng sủa.
“Hãy mặc lấy tình yêu” và cuộc đời của các con sẽ như một căn nhà được xây trên đá, cuộc hành trình của các con sẽ là cuộc hành trình vui mừng, bởi vì các con sẽ gặp nhiều bạn bè để cùng hành trình với các con.
Nhưng ai có thể ban cho chúng ta tất cả những điều ấy? Đó chính là Chúa Giêsu, Đấng mang Thiên Chúa đến với chúng ta và mang chúng ta đến với Thiên Chúa. Với Người, toàn thể cuộc đời của chúng ta được biến đổi, đổi mới, và chúng ta có thể nhìn thực tại với cái nhìn mới, từ quan điểm của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Người (x.TĐ Lumen Fidei,18).
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các con, và các con sẽ tìm thấy một người bạn mà nơi Người các con luôn luôn có thể tin tưởng.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và các con sẽ thấy đôi cánh hy vọng giang ra để các con hành trình với niềm vui hướng về tương lai.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và cuộc đời các con sẽ tràn đầy tình yêu của Người; nó sẽ là một cuộc đời sinh đầy hoa trái. Vì tất cả chúng ta đều muốn một cuộc đời sinh hoa trái, một cuộc đời nói về sự sống với những người khác!
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các con. Trong những ngày này, Người đang chờ các con: hãy cẩn thận lắng nghe Người và sự hiện diện của Người sẽ làm cho tâm hồn các con được hăng say.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô”: Người đang chờ các con trong Bí Tích Hòa Giải, để lòng thương xót của Người chữa lành tất cả mọi vết thương gây ra bởi tội lỗi. Đừng sợ cầu xin ơn tha thứ của Thiên Chúa! Ngài không bao giờ biết mệt khi tha thứ cho chúng ta, như một người cha yêu thương chúng ta. Thiên Chúa là lòng thương xót tinh tuyền! “Hãy mặc lấy Đức Kitô”: Người đang chờ các con trong Thánh Thể, Bí Tích của sự hiện diện, và của sự hy sinh vì tình yêu của Người, và Người cũng chờ đợi các con trong lòng nhân đạo của nhiều người trẻ là những người sẽ phong phú hóa các con với tình bằng hữu của họ, khuyến khích các con bằng việc làm chứng cho đức tin của họ, và dạy các con ngôn ngữ của đức ái, sự tốt lành và phục vụ. Các người trẻ thân mến, các con cũng có thể làm những chứng nhân vui vẻ của tình yêu của Người, chứng nhân can đảm của Tin Mừng của Người, để mang đến trong thế giới này một chút ánh sáng của Người. Hãy để cho mình được Chúa Giêsu yêu thương, Người là người bạn không bao giờ lừa dối. (x.Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi Cầu Nguyện ở Copacabana).
Giáo huấn của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 gởi tín hữu Côlôsê là: anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá. Đấng Tạo Hoá là Chân Thiện Mỹ. Hướng về Chân Thiện Mỹ, mọi người đều được nâng cao, trở nên con người đúng nghĩa hơn, trọn vẹn hơn, gần với Thiên Chúa hơn, giống Chúa Giêsu hơn.
Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những TN 18-C117
Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho bản thân và gia đình.
Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.
Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì đồng tiền dính liền khúc ruột.
Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”… Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?
Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh, nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24). Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).
Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn, vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối tội đầu”.
Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St 1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).
Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.
Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại, vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.
Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, cần biết luật pháp Dothái thời đó. Luật quy định trong việc thừa kế: TN 18-C118
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, cần biết luật pháp Dothái thời đó. Luật quy định trong việc thừa kế: Bất động sản thuộc con trai trưởng như nhà cửa, đất đai. Động sản như tiền bạc, bàn ghế, tủ sập... chia đều cho các con, con trai trưởng vẫn được gấp đôi và chỉ con trai được hưởng, con gái thì không. Đó cũng là luật chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử. Sở dĩ có luật ấy, vì người Đông Phương muốn lập nên "người gia trưởng" để gìn giữ gia sản của gia tộc.
Trong giới Dothái xưa cũng như nay, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng Dothái danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề lề luật. Chính vì thế, cậu trai út đã cầu cứu uy tín của Đức Giêsu: "Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi". Đối với mọi người, Đức Giêsu sẽ nói với người anh cả chia lại cho người em, bởi trong suốt Tin Mừng, Đức Giêsu thường giảng dậy: "Anh em hãy yêu thương nhau", thế nhưng Đức Giêsu đã hỏi người em út: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?". Phải hiểu và giải thích câu hỏi của Đức Giêsu thế nào?
Phần đông các nhà chú giải cho rằng, Đức Giêsu đã dùng cách thức của người Đông Phương, trả lời bằng một câu hỏi hay một ẩn ngữ làm cho người ta phải suy nghĩ. Khi lạc mất trong đền thờ, Mẹ Người hỏi: "Con ơi! Sao lại xử với cha mẹ như vậy?", Người trả lời: "Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ không biết là Con có bổn phận ở nhà của Cha Con sao "(Lc 2, 49). Với các con trai ông Giêbêđê xin được ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người, Người hỏi họ: Có uống nổi chén Người sắp uống không? (Mt 20,23).
Ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia gia sản, không phải là Đức Giêsu không quan tâm đến những vấn đề trần thế. Là Cứu Chúa, Đức Giêsu cứu chuộc con người cả xác và hồn, quả tim và ý thức, thể chất và tinh thần. Trong những năm rao giảng, Đức Giêsu không ngừng chú trọng đến con người toàn diện đó. Người đã nuôi dưỡng hồn họ bằng của ăn Lời Chúa, Người lại nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều để nuôi dưỡng thể xác họ. Khi rao giảng, các bệnh nhân đến, đều được Người chữa lành. Tuy nhiên, không phải mọi bệnh nhân Dothái thời đó đều được Đức Giêsu cứu chữa, cũng như mọi người bệnh tật của thế giới sau này, không được Đức Giêsu chữa lành. Công việc đó là của con người. Người ta phải đào tạo các bác sĩ, phải lo có bệnh viện, phải tìm ra các thứ thuốc để chữa các bệnh nhân. Cũng vậy, các vấn đề xã hội như chia gia tài, giải quyết những tranh chấp bất hoà là nhiệm vụ của các quan toà, các thẩm phán, những nhà phụ trách thế tục... Đức Giêsu từ chối đặt mình vào vị trí của những người ấy.
Trong chiều hướng đó, công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực riêng của họ: Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Thế nhưng, họ đừng vì thế, mà nghĩ: Các linh mục có đủ khả năng chuyên môn về mọi vấn đề. Thực ra có nhiều vấn đề mà linh mục không biết, nhất là những vấn đề không thuộc lãnh vực của linh mục. Với những vấn đề ấy, giáo dân phải tìm cách giải quyết, vì đó là trách nhiệm và thuộc lãnh vực của mình (Gs 43.)
Mặc dù Đức Giêsu không trực tiếp đảm nhận những nhiệm vụ trần thế, Người uỷ thác cho những vị có chức quyền, nhưng Người đưa ra một nguyên tắc để các nhà hữu trách áp dụng cho những trường hợp cụ thể. Nguyên tắc đó là không nên lẫn lộn phương tiện với mục đích. Mục đích là con người, của cải là phương tiện. Nhà nước cũng như chính quyền tạo ra của cải không phải để tiêu thụ tối đa, nhưng là phục vụ con người. Chính sự sống con người đứng đầu chứ không phải của cải. Sự sống con người gồm: Sự sống, thể xác và linh hồn, sự sống đời này và đời sau. Dĩ nhiên sự sống linh hồn, sự sống đời sau là cơ bản, sự sống thể xác, sự sống đời này là tạm bợ. Trong hai cái tạm bợ và cơ bản, cái sau quan trọng hơn cái trước.
Để làm sáng tỏ, Đức Giêsu kể dụ ngôn người phú hộ và những kho lẫm. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu lên án nhà phú hộ, một tay duy vật hoàn hảo, tin vào những kho lẫm mang lại hạnh phúc cho mình. Thế nhưng, Đức Giêsu cảnh giác: "Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?"
Ông phú hộ thật sai lầm, ông nhầm lẫn hoàn toàn. Sự giầu sang không mang lại hạnh phúc... không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn mạng sống. Sự sống của một người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian. Ông phú hộ đã bị Đức Giêsu gọi là "đồ ngốc". "Đồ ngốc" với "dại" không hơn gì nhau., "dại" với "điên" là một. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu không ngừng đặt đối lập "kẻ điên dại" (nabal) với "người khôn ngoan" (maskil). Năm cô thiếu nữ không mang theo dầu cho đèn mình, là dại, năm cô mang theo dầu cho đèn, là khôn (Mt 25,2). Người mù để cho người mù dẫn đường là dại (Lc 6,39). Người biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại là khôn (Lc12,56). Nhưng cái khôn ai cũng cần phải có, đó là nhận ra của cải chân thực, nhận ra ý nghĩa đích thực của đời sống, đó là đời sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu, Người sắp chết trong ít ngày nữa, không muốn làm việc cho một người dù đó là quyền lợi chính đáng. Việc chia gia tài, không phải là việc làm đích thực cho anh. Có một tiếng nhỏ âm vang trong chúng ta: "Ngài có lý". Ngài biết rõ điều Ngài nói: "Anh em hãy coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu".
Sống ở đời, ai cũng muốn tỏ ra mình là người khôn ngoan để tồn tại. Tục ngữ Việt Nam có câu TN 18-C119
Sống ở đời, ai cũng muốn tỏ ra mình là người khôn ngoan để tồn tại. Tục ngữ Việt Nam có câu ‘Khôn sống, bống chết’. Kẻ khôn ngoan sẽ sống, còn kẻ khờ dại sẽ bị đào thải. Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về sự khôn ngoan, nhưng không theo quan niệm trần thế mà theo hướng đích của Tin mừng. Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Nguyên lý căn bản của khôn ngoan: ‘Memento Finis’ (hãy nghĩ đến cùng đích)
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Socrates cũng đã nói đến nguyên lý này. Nhưng ông ta chỉ giới hạn quan điểm trong phạm trù triết học mà thôi. Nền triết học Hy lạp ngày xưa không thể đưa dẫn con người đến cùng đích tối hậu của cuộc sống như Kinh thánh mặc khải, mặc dù họ vẫn biết rằng sự khôn ngoan ở đời là hãy nghĩ đến mục đích sau cùng. Họ không biết và cũng không thể xác định được đích đến của cuộc sống hôm nay là gì, ở đâu và như thế nào. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Giảng viên từ từ hé mở thực tại này với nhận định ‘Phù vân, tất cả chỉ là phù vân’. Mọi giá trị trần gian chỉ mang tính tương đối và rất tạm bợ. Tiền bạc, danh vọng hay sắc đẹp rồi sẽ biến tan như mây khói khi chúng ta đối diện trước cái chết. Nhưng tác giả vẫn chưa soi tỏ cho chúng ta biết thực tại sau cái chết sẽ ra sao.
Mãi muộn thời sau này, ý niệm về cuộc sống mai hậu mới từ từ được hé mở. Anh em nhà Ma-ca-bê (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) đã quyên tiền xin lễ cầu nguyện cho những người đã chết. Đây là quyển sách đầu tiên trong Kinh thánh Cựu ước nói về niềm tin vào cuộc sống mai sau. Niềm tin đó được Chúa Giêsu dần dần mặc khải rõ nét qua các giáo huấn của Ngài. Đặc biệt, Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết và đi vào vinh quang Phục sinh để diễn bày chân lý mà Thánh Phaolô diễn tả: “Những ai cùng chết với Đức Kitô, sẽ được cùng sống lại với Ngài”.
Trong cái nhìn thần học ấy về cánh chung, Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôssê mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, cũng tổng lược một viễn ảnh cuộc sống tương lai đặt nền tảng trên niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh để giúp chúng ta có một thái độ sống khôn ngoan đích thực. Ngài viết:”Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…Khi Đức Kitô xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang.” (Col 3,1-5).
Sự khôn ngoan của Tin mừng: Tinh thần nghèo khó và sống thanh thoát.
Mối phúc đầu tiên trong bát phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, chính là nếp sống khó nghèo. “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Mối phúc đó cũng được Chúa Giêsu nhắc lại gián tiếp qua dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay. Tên nhà giàu bám vào của cải vật chất và sống cuộc sống hưởng thụ đã bị Chúa kết án một cách gay gắt. Chúa gọi anh ta là ‘đồ ngốc’ (c 20). Ngài còn răn đe một cách mạnh mẽ: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng sẽ giống như vậy (c 21).
Alexandre Đại Đế (thế kỷ thứ tư trước công nguyên) là một ông vua rất nổi tiếng trong thế giới Hy lạp ngày xưa. Ông đã chiến thắng lẫy lừng và chinh phục hầu hết các nước miền Trung Đông. Ông chết lúc còn rất trẻ, mới 30 tuổi. Trước khi chết, ông dặn các cận thần hãy để thi hài của ông trong cỗ quan tài với hai bàn tay thò ra ngoài. Ông muốn cho mọi người thấy rằng, một con người như ông với bao danh vọng và của cải giầu sang, khi chết cũng chỉ còn 2 bàn tay trắng. Giai thoại này rất tương thích với nội dung mà lời Chúa hôm nay đề cập đến. Chúng ta đã nghe nói khá nhiều về tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu mời gọi, nhưng trong thực tế, tiền bạc vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất ở bất cứ thời đại nào. Nó tấn công tất cả mọi người, không loại trừ ai. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta từng chứng kiến nhiều trường hợp, ngay cả cha mẹ và con cái đem nhau ra tòa chỉ vì tranh chấp một căn nhà hay vài ba thước đất. Có biết bao nhiêu bài học cay đắng và nghiệt ngã chúng ta đã rút ra từ vấn đề tiền bạc. Lúc còn nghèo xác nghèo xơ, chẳng ai thèm ngó ngàng tới. Khi trở thành việt kiều với đô la rủng rỉnh trong túi trở về thăm quê hương, căn nhà lúc nào cũng đầy ắp bạn bè đến hỏi han. Trong tiểu thuyết ‘Những con chim ẩn mình chờ chết (les oiseaux se cachent pour mourir)’ tác giả cũng nêu lên một thực tế phũ phàng đã và đang xảy ra, đó là tiền bạc như một ma lực làm tha hóa và biến chất rất nhiều người, ngay cả các anh em linh mục.
Kết luận
Ngày xưa có một ông vua nuôi một thằng ngốc trong cung để giải sầu. Những lúc buồn, ông gọi thằng ngốc đến để mua vui. Khuôn mặt ngờ nghệch và những cử chỉ ngô nghê của nó cũng giúp nhà vua khuây khỏa đôi chút. Nhà vua thưởng cho nó một cây gậy bằng bạc và dặn: “Tao thưởng cho mày cây gậy này vì mày rất ngốc. Khi có ai ngốc hơn mày, mày hãy trao cây gậy cho nó”. Một bữa kia, nhà vua lâm trọng bệnh và rất nguy kịch. Ông cho gọi thằng ngốc đến để giải khuây. Ông nói với nó: “Ngốc ơi, ta sắp đi xa rồi”. “Đức vua đi đâu và chuẩn bị hành trang gì chưa?” Thằng ngốc hỏi lại. “Ta chưa chuẩn bị gì và ta cũng chẳng biết đi đâu nữa”. Nghe vậy, thằng ngốc nhẩy cẫng lên và trao cây gậy bạc cho đức vua. Nó nói: “Bây giờ, con đã tìm ra được một người ngốc hơn con rồi, đó là chính đức vua. Đức vua sắp đi xa mà không biết mình đi đâu và cũng chưa chuẩn bị gì thì chắc chắn đức vua là người ngốc nhất trên đời”.
Đúng vậy, điều xuẩn ngốc nhất trên trần gian là ta đang sống mà không biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và cuộc sống mai sau sẽ đi về đâu. Tên nhà giầu trong bài Tin mừng hôm nay cũng được Chúa gọi là ‘đồ ngốc’. Lời Chúa nhắc nhở để chúng ta biết sống khôn ngoan thực sự theo hướng đích của Tin mừng.
CỦA CẢI DƯ GIẢ CÓ BẢO ĐẢM ĐƯỢC MẠNG SỐNG CON NGƯỜI
Là vấn đề được Đức Giêsu nêu lên không riêng cho người đòi chia gia tài mà còn cho mọi người TN 18-C120
Là vấn đề được Đức Giêsu nêu lên không riêng cho người đòi chia gia tài mà còn cho mọi người trong đám đông theo Người. Gia tài là gia bảo để lại, vừa là vật thể, vừa là tinh thần. Vật thể chỉ để sử dụng, tinh thần biểu trưng công ơn cha mẹ tạo ra giờ các ngài đã khuất. Điều đó, trên nguyên tắc, được phân chia đồng đều cho các con. Hôm nay giữa đám đông, có người lên tiếng xin Đức Giêsu lấy quyền ‘chia phần gia tài công bình cho anh’. Có lẽ do Đức Giêsu dạy cầu nguyện hấp dẫn từ kinh Lạy Cha trước đây. Anh mạnh dạn mạo muội lên tiếng xin Người phân giải.
Đứng ra chia gia tài? Đức Giêsu không làm được! Vì, ở đây bây giờ, Người không xử kiện, không là quan tòa ‘chợ đời’. Người đang mang sứ mệnh, dành cho Người, tuyệt đối cao cả, trên đường lên Giêrusalem chịu chết. Cái chết của Người sẽ lập nên ‘cơ đồ’ thiêng liêng mà muôn người trần thừa hưởng bất tận. Đó là điều Người cũng muốn mọi người đồng tâm cùng thực hiện.
Trong câu chuyện kể cho mọi người, Đức Giêsu nêu hai vấn đề đối chiếu, vật chất dư giả và sự tồn vong mạng sống. Nên khi lấy vật chất dư giả để bảo đảm mạng sống thật là điều hão huyền. Thế mà không ít người, trong khi miệt mài lo thu tích gom góp những gì chóng qua, quên mất những gì là trường cửu. Vì thế Người đã nói: “Ấy người nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”(c.21)! ‘Làm giàu’ theo đường lối của Người là gầy dựng những gì ‘công đức’, sự nghiệp, tài sản thiêng liêng trường cửu, là sự công chính. Đây là chủ đích giáo huấn của Đức Giêsu như đã thấy trong Tin Mừng Matthêu: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. (x.6,19-20)
Biết rằng mọi ‘vật chất’ hiện có là do Thiên Chúa tạo ‘chung’ cho con người hưởng dùng. Chính những vật chất này làm nên cơ sở để con người lấy năng lực bẩm sinh làm ra nhu cầu cần dùng. Vật chất luôn vô tri. Dù vậy khi ở trước con người, vật chất đã trở nên duyên cớ phát sinh mọi sự phức tạp rối ren. Điều đó được trải nghiệm qua bao thời giữa mọi người, mọi nước, mọi dân. Và Đức Giêsu cũng đã chỉ ra nguyên nhân, duyên do nội tại là ‘mọi thứ tham lam’ của con người đã, thật cụ thể, gây ra bao tiêu cực làm suy suyển tình anh em đồng loại và cuộc sống chung an bình đấy.
Tuy nhiên, đứng trước tâm địa con người, vật chất cũng đã chịu số phận đảo điên. Vì con người, dù trong chiều hướng tâm linh nào, cũng có thể có quan điểm và đánh giá khác nhau về chúng. Ở tiêu cực, một bộ phận cho là phù phiếm chóng qua; bộ phận khác, cách tích cực, tha thiết gắn bó, như Thần Tài Thổ địa, có tầm vóc mang lại may mắn vượt cung cầu không hề chấp nhận thiếu thốn hoặc chỉ đủ. Một bộ phận khác nữa nhìn vật chất là công cụ để thi thố tài cán nội tại sẵn nơi chính mình. Như tôi đã đọc thuộc câu này, ở đâu bao giờ, mà không nhớ nổi rằng: “Ngày xưa hạn hán cầu trời, ngày nay hạn hán mời trời xuống coi”. Không hề không đồng tình điều người xưa nói: Tận nhân lực tri thiên mệnh”.
Ở góc độ tiêu cực như đã nói, không thể không trích dẫn cụ đồ nho Nguyễn Sinh Sắc để thấy được quan điểm chung không ít, vì rất gần với thời hiện đại. Có lẽ trong khi dồi mài kinh sử tiến quan qua nhiều phen thành bại thăng trầm, đã không khỏi nhìn mọi sự thật đáng tủi buồn chê chán. Qua mấy vần thơ khá hấp dẫn, cụ đã bộc lộ rõ quan điểm của mình trước mọi sự đời: “Nhân sinh nhược đại mộng, thế sự như phù vân”. Quan điểm này rất trùng lập với tư tưởng vua Salomon cách cụ gần mấy nghìn năm trong bài đọc thứ I: “Mọi sự là phù hoa”.
Với Đức Giêsu! Người không đưa ra đánh giá phê phán nào đối với vật chất. Vì Người quá am tường tính chất cùng mức độ giá trị của chúng, bởi Người là Đấng tạo dựng nên chúng: ‘mọi sự đều thiện hảo’, thiện hảo theo cung cách ‘Chủ Tác’ tạo thành. Thế vậy, Người thẳng thắn chỉ dạy lập trường sống cho con người mỗi khi đối diện với vật chất đã tạo thành. Là luôn vận dụng khối óc, con tim, tình cảm để lọc chọn hành vi tốt, thực hiện hoạch định, sao đạt được điều độ phải cách, đúng phép và trách nhiệm! Chỉ thế là theo cách hướng dẫn mà Người nói với đám đông dân chúng trên đường theo Người qua đoạn Tin Mừng được trích công bố để suy nghĩ và tâm đắc hôm nay.
Với Phaolô, vị tông đồ yêu mến Đức Giêsu chí tình, qua mỗi bước trên đường rao giảng, đã nghiền ngẫm học hỏi rập khuôn vói Đức Giêsu, xác tín dạy dỗ các giáo đoàn tòng đạo. Bởi vì ánh sáng Đức Giêsu nhập tâm ngài. Trước vật chất là những gì con người phải biết tự phòng, nếu còn muốn ở mãi, và tha thiết bảo toàn đời sống công chính, điều cần thiết là khôn ngoan trong sử dụng, thức tỉnh trước cám dỗ và chất hấp dẫn hiểm nguy của chúng! Tuy không là tên cám dỗ, nó vẫn có ma lực cuốn hút vào vòng hấp lực xoáy ốc của nó kích động cái ‘bụng hèn yếu’ ở con người. Không phải chứ, cái bụng con người, nếu không có tâm linh đạo như ‘vòng khóa kiểm định hãm mở tự động’ thì không là túi tham không đáy đấy ư?
Điển hình với mọi người, Phaolô luôn có tâm ý khuyên bảo hãy có một tinh thần tự do và thái độ hưởng dùng mà không để lòng tha thiết gắn bó với của cải. Ngài viết trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (x. 7,31). Thánh nhân cũng không quên nhắc điều như vậy với các cộng sự của ngài, như với Timôtê, trong vai trò chăn dắt đàn chiên, dạy cho họ biết đặt trọn hi vọng và niềm trông cậy vào Thiên Chúa Đấng là chủ mọi sự và thấu suốt mọi sự thì hơn, đặc biệt lưu tâm đến những người giàu của cải:”Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (tđd. 6,17).
Nhìn chung, Giáo Hội xưa nay trung thành với giáo huấn của Đức Giêsu, vị Thầy không ngừng toàn tâm ý hướng dẫn đoàn dân Chúa đón nhận giáo huấn của Người vì nơi hội tụ Nước trời. Bởi giá trị nhân linh được mua lấy bằng máu vô giá Đấng Cứu Độ. Giá trị đó đã trở nên vô cùng cao quý. Chỉ còn một điều mọi người biết trân trọng giữ lời dạy của Đức Giêsu, khi người phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33). Tâm quyết này là kiên định dành cho những ai, trên đường lữ hành, diễn tả rực sáng niềm hi vọng.
Lạy Cha! chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày! Chúng con xin cảm tạ Cha.
Trong thời gian gần đây, báo chí hay đưa tin những doanh nghiệp làm ăn thành công cũng như TN 18-C121
Trong thời gian gần đây, báo chí hay đưa tin những doanh nghiệp làm ăn thành công cũng như thất bại. Thậm chí có những tên tuổi của những người trong giới văn nghệ sỹ, rất được công chúng hâm mộ, nhưng rồi khi hay tin doanh nhân này, ca sỹ nọ, người mẫu kia làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất… Rồi cũng rất nhiều những ông to bà lớn mà tài sản của họ rất kếch sù, không phải là những con số nhỏ mà là lên đến một vài tỷ mỹ kim. Xem ra của cải vật chất như là thước đo của khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Người giàu ngày càng muốn giàu hơn, trong khi kẻ nghèo cũng cật lực để làm cho mình có của cải tiêu dùng. Ai cũng muốn đầu tư tích trữ, như nhà phú hộ mà Tin mừng Luca giới thiệu, ông không biết để đâu, hay làm gì nữa, vì ông ta có quá nhiều của cải.
Trước hết, dùng của cải vật chất như là những phương tiện
Khi sáng tạo nên con người, Thiên Chúa đã đặt để Adam canh gác vười Ê-den, Ngài cho con người tự do canh tác, làm lụng vất vả để có lương thực nuôi sống bản thân. Con người là chủ tế vạn vật, và cũng là những quản lý vườn nho cho Chúa. Đức Giê-sa cũng dạy các môn đệ làm việc và Ngài cũng là người tích cựa làm việc từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn. Vật chất, tiền bạc tự nó không xấu, vì đó là điều kiện tối cần cho nhu cầu của con người. Tiền bạc là phương tiện, nó giúp mỗi người đạt đến cứu cánh là ơn cứu độ. Giáo hội cũng luôn khuyến khích con cái mình hãy ra sức làm việc, để cải thiện đời sống, để thoát khỏi cảnh nghèo nàn, và cũng là để có cơ hội chia sẻ và hoạt động cho công cuộc truyền giáo, bác ái xã hội của toàn thế giới.
Thứ hai, của cải vật chất là ân huệ của Chúa thương ban
Khi Ngài rộng mở tay ban,
Là bao sinh vật, thoả thuê muôn vàn.(Tv 144, 16).
Lời Thánh vịnh nhắc nhở mỗi người hiểu rằng, tất cả những gì mình đang có, hay đang sở hữu là do hồng ân của Thiên Chúa thương ban, như Chúa Giêsu khẳng định: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được gì”. Thật vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126 (127). Không phải tôi tài giỏi cho bằng Đấng đã dựng nên tôi, đã cho tôi trí khôn, sức khoẻ và có điều kiện, cũng như cộng vào đó là một chút may mắn, gặp thời vận. Nên tôi thành công, tôi có nhiều của cải, nhưng cũng nên nhớ một điều mà chính người Phú hộ đã ldạy cho chúng ta một bài học, đang khi ông mải mê tính toán, xây thêm nhiều kho lẫm thì: “Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12, 20).
Sau cùng, hãy làm giàu trước mặt Thiên Chúa
Nhiều lần, Chúa Giêsu đã dạy dỗ mỗi người: “ Chúng con đừng lo lắng, áy náy…”, hãy kiếm tìm những giá trị vĩnh cửu hơn là những thứ chóng qua ở đời này. Người môn đệ của Chúa, luôn tìm kiếm những cúu cánh vững bền, đó là hạnh phúc thiên đàng, chứ không phải ảo ảnh trần gian. Mặc dù đang khi hoàn tất số mạng lữ hành trần gian, họ vẫn phải chu tất mọi trách nhiệm, sự liên đới đầy nhân văn trong thế giới hiện đại hôm nay. Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người không thể tách rời ra khỏi cuộc sống của các Kitô hữu. Thế nhưng, những tín hữu vẫn luôn ý thức thức rằng: “Chúng con sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian”.
Những bất thuận bất hoà, những tranh chấp, bất công, đàn áp như là những trì trệ, nó làm cho con người không thể vươn lên để xây dựng một cuộc sống văn minh tình thương. Trong khi đó, biết chia sẻ áo cơm cho những người đói khát, biết cảm thông và giúp đỡ lẫn nhau sẽ thăng tiến con người và đưa họ đến gần Thiên Chúa hơn.
Theo Đệ Nhị Luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được nhận gấp đơi phần của cac em TN 18-C122
Theo Đệ Nhị Luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được nhận gấp đơi phần của cac em (Đnl 21,17).
Luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng người ta vẫn vi phạm. Bài Tin Mừng (Lc 12, 13-21) kể truyện một người tới thưa với Chúa: “Thưa thầy, xin thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Có lẽ người anh đã chiếm giữ tất cả, người em chỉ còn nước đi kiện. Thông thường, người bị thiệt tới xin các thầy Pharisiêu, ký lục xét xử. Phán quyết của họ có giá trị trước cộng đoàn, bắt đôi bên nguyên / bị phải tuân theo.
Tới Chúa Kitô xin Ngài xét xử, người ta xem Chúa như một thầy ký lục hoặc Pharisiêu nghĩa là xem Chúa ở bậc “thầy dạy”. Chúa không phân xử chính ngay nội dung vụ người ta yêu cầu. Chúa nói: “Này anh, ai đặt tôi làm thẩm phán hay làm trọng tài giữa các anh”. Qua vụ kiện nầy Chúa vạch ra cho biết nguyên nhân sâu xa là lòng tham lam tiền bạc và mọi thứ tham lam khác. Chúa đả kích quan niệm xem tiền bạc là bảo đảm đời sống người ta.
Dụ ngôn Chúa đưa ra rất cụ thể: một phú hộ của cải nhiều, phát đạt quá, phải làm nhà kho lớn để tích trữ thóc lúa. Ông ta tự thỏa mãn, bảo với chính mình hãy hưởng giàu sang, phú quý cả đời chưa hết, tiền bạc bảo đảm ơng. Chúa bảo ông ta là hạng ngốc (Giêremia 17, 11) vì cái chết đến tiền bạc trở nn vơ ích với ơng.
Dụ ngôn trên cho ta biết hai điều: tiền tài giúp người ta sống, có thể sống lâu, nhưng không thể sống lâu theo ý muốn người ta. Cái chết đến bất thình lình, lúc người ta không muốn, khi người ta đang ham sống và tiền của tỏ ra bất lực trong vấn đề này. Thứ hai lo thu tích nhiều tiền của, khi chết, hai tay buông xuôi, mọi sự vất lại cả, không có gì mang theo.
Đúng là nhà phú hộ hạng ngốc. Thánh vịnh nói hạng ngốc sống không cần biết Chúa (Tv 13 (14), 1). Ông này chỉ biết đến tiền bạc và hưởng phú quý do tiền bạc đem lại. Cái chết đến, đống tiền của,hưởng vinh hoa phú quý trở nn vơ nghĩa với ơng. Trái lại, người làm giàu nơi Thiên Chúa sống theo ý Chúa, cái chết đến là lúc họ đạt tới đích của cuộc sống, tới cùng cực ý nghĩa đời sống trần gian, họ trở thành giàu có trong Thiên Chúa.
Nói như vây, không phải khinh chê tiền bạc. Tiền bạc, của cải vật chất tự nó có giá trị để phục vụ con người, để con người không bị lệ thuộc, sống đúng với nhân phẩm của mình. Tiền bạc thực sự không làm thêm tuổi đời, kéo dài đời người, nhưng giúp con người đạt tới tuổi thọ của mình. Thí dụ, vì nghèo khổ thiếu dinh dưỡng, người ta chỉ sống đến 30 tuổi, thay vì tuổi thọ 60, 90, 100. Tiền bạc sẽ giúp người ta cải thiện cuộc sống, tạo nên thuận tiện cho cuộc sống, đạt tới tuổi thọ 100. Rõ ràng tiền bạc, của cải không phải là đảm bảo tuyệt đối cho đời sống, nó chỉ là phương tiện “gia hạn” cho cuộc sống trần gian. Người phú hộ đã tưởng rằng tiền của nhiều bảo đảm đời sống ở mức tuyệt đối, cuộc sống viên mãn ở trần gian, mà không nghĩ cái chết đến chấm dứt tất cả.
Kẻ sáng suốt biết tính toán đúng, biết giá trị của tiền của, biết sử dụng nó để làm phong phú đời sống, làm giàu cho đời sống nơi Chúa, không thể dùng tiền bạc để mua Nước Trời. Có tiền mua tiên cũng được? Chắc chắn tiền bạc không thể mua Nước Trời, trái lại tiền của có lúc là thần Mammon đối nghịch với Thiên Chúa (Lc 16, 13). Phải biết sử dụng tiền của để sống theo Ý Chúa, làm giàu nơi Chúa bằng bác ái. Kẻ chỉ sống với tiền bạc, hưởng thụ mọi thứ không lành mạnh ở trần gian, cậy tiền của nhiều sống theo dục vọng, thỏa mãn lòng tham quyền chức làm thiệt hại bản thân, linh hồn và thể xác, họ đã dùng tiền của mua lấy án phạt đời đời.
Chúng ta hiện sống trong một thế giới khủng hoảng nặng nề về nhiều phương diện. Ta có thể nói TN 18-C123
Chúng ta hiện sống trong một thế giới khủng hoảng nặng nề về nhiều phương diện. Ta có thể nói được rằng: đứng trước một hoàn cảnh như vậy, nhiều khi con người không còn biết phương hướng nào mà sống nữa. Con người cảm thấy mình bị hụt hẫng, chao đảo, hoang mang, ray rứt, bất an...
Thậm chí nhiều kitô hữu như mất hẳn niềm tin, muốn buông thả và để mình rơi vào cám dỗ, cứ lao mình vào cuộc tìm kiếm cho được nhiều vàng bạc của cải và thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người... Đang khi đó người kitô hữu lại được Chúa mời gọi sống vươn lên trong chính nếp sống nhiễu nhương này...
Lời Chúa của Chủ Nhật 18 Thường Niên hôm nay muốn soi sáng cho chúng ta...
Trước tiên, căn cứ vào bài đọc Cựu ước và bài Phúc âm, ta thấy Chúa tha thiết nhắn nhủ ta rằng:
1. Cuộc sống con người tại thế chỉ là cuộc sống tạm bợ, mau qua mà thôi.
Đây là điều mà trong Thánh kinh, rải rác đó đây Lời Chúa đã nhắc nhở cho ta. Ta chỉ cần đọc lại một số bản văn tiêu biểu như: Tv 38; Tv 48; G 1,21, v.v. cũng đủ thấy rồi.
Cuộc sống con người chóng qua như hoa đồng cỏ nội: chỉ một cơn gió thoảng qua cũng đủ làm nó biến đi... Đây là nếp sống chóng qua như làn gió thoảng, như bóng câu lướt qua cửa sổ. Nhiều danh vọng và vật chất, người ta thấy mình có được bảo đảm hạnh phúc đâu.
Tóm lại: Trần trụi sinh ra từ lòng mẹ, con người sẽ trần trụi trở về lòng đất.
2. Nếu kiếp sống con người tại thế mong manh, phù du như vậy mà con người còn lo lắng, bồn chồn ngày đêm: ăn không ngon, ngủ không yên, chỉ mong tích lũy được nhiều vàng bạc, của cải vật chất, thì thật là điên rồ biết chừng nào ! Bởi vì vất vả, lo lắng ngày đêm như thế để rồi khi phải nhắm mắt lìa đời, thì vàng bạc, của cải vật chất có mang theo được ? Danh vọng, giàu sang có bảo đảm được sự sống ?
3. Vậy con người tại thế hãy làm giàu cho mình trước mặt Thiên Chúa bằng cách
- Hoặc là đem chia sẻ cho anh em đồng loại đói khát, nghèo nàn, cần sự giúp đỡ của ta.
- Hay là dùng của cải tích lũy được để đền bù gấp ba, gấp bốn cho kẻ ta làm thiệt hại, theo gương của ông Giakêu đã làm...
- Hoặc là cao thượng và quảng đại hơn thì ta hãy đem bán đi tất cả những gì ta có, để bố thí cho kẻ nghèo đói, rồi đến theo Chúa...
- Sau cùng, căn cứ vào đoạn Thánh thư gởi cho giáo hữu Côlôsê, ta thấy thánh Tông đồ ân cần nhủ bảo ta thế này: Vì được chỗi dậy với Chúa Kitô, ta hãy tìm kiếm những sự trên trời. nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha. Đừng tìm kiếm những của cải vật chất ở đời này.
Tìm kiếm những sự thuộc thiên giới như thế có nghĩa là chấp nhận như Chúa Kitô, chết đi cho thành kiến, nết hư, cho mọi thứ tội lỗi của con người cũ và mặc lấy con người mới.
Sống được như thế, người kitô hữu sẽ có được một sức sống mới giấu kín với Đức Kitô trong Thiên Chúa, và sự sống mới này sẽ đem họ tới vinh quang toàn vẹn.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh chúng con vào trong cuộc đời mong manh, đầy cạm bẫy nơi trần thế đây, là để thử xem chúng con có thật tình tin vào tình thương và quyền năng của Chúa hay không. Xin Chúa luôn giúp chúng con biết sử dụng của cải phù vân để làm phương tiện đi về với Chúa, mà vẫn một niềm kiên quyết tín thác vào Chúa mà thôi. Amen.
Các khách du lịch đến thăm Trung Quốc, ai cũng muốn một lần chứng kiến kỳ quang thế giới, hiện TN 18-C124
Các khách du lịch đến thăm Trung Quốc, ai cũng muốn một lần chứng kiến kỳ quang thế giới, hiện đang tọa lạc trên đất nước đông dân nhất thế giới nầy. Đó là vạn lý trường thành. Công trình vĩ đại của vua Tần Thủy Hoàng đã lưu lại cho đến ngày nay, một công trình làm kinh ngạc cho cả thế giới. Tần Thủy Hoàng là một vị vua đã có công thống nhất đất nước, ông xây Vạn Lý Trường Thành để phòng thủ. Ông là một vị vua đầy quyền lực và giàu có. Ông cũng muốn dùng những gì mình đang có để tìm lấy sự sống cho chính mình. Ong đã tìm thuốc trường sinh bất tử, không ngại tốn kếm và cả sự tàn ác. Nhưng cuối cùng ông đành bất lực. Quyền thế trong tay không giúp gì được cho ông. Tiền bạc của cải cũng vô dụng. Ong phải từ giã cõi đời mà ông không muốn xa nó vào tuổi 52. Ông dường như có tất cả, nhưng ông không có được sự sống như ông mong muốn, nên ông cũng mất tất cả. Ong cũng là một người khôn ngoan, ông muốn đi tìm sự sống, nhưng tìm không đúng cách, nên ông không có được sự sống.
Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trử, sẽ để lại cho ai?
Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ và những người thời bấy giờ về cuộc sống khôn hay dại. Người ta chạy đến với Ngài, không phải để nghe những lời giảng dạy, cũng không phải để đi theo Ngài. Nhưng muốn lôi kéo Ngài vào những lợi ích riêng tư của họ, lôi kéo Ngài vào những tranh chấp cá nhân. Họ quên rằng, Ngài là một Vì Thiên Chúa nên Ngài không bao giờ bị con người lôi kéo hay khống chế. Ngài mới cho họ bài giáo huấn về cuộc sống, về sự khôn dại trước mặt Thiên Chúa: Một người chỉ biết gom góp tích trử cho riêng mình, để rồi quá cậy dựa vào những gì mình có mà tự hào. Ngài gọi những người đó là: “Hỡi kẻ ngu dại,...” Chúa Giêsu cũng nói như thế với những người của ngày hôm nay, những người đang quý trọng mạng sống, những người đang tìm đến Ngài. Chúa Giêsu cũng muốn nói với từng người trong chúng ta, những người môn đệ thân thương của Ngài, những người đang hướng về cuộc sống đời đời. Ngài nhắc nhở chúng ta, lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa để cuộc sống được bảo đảm.
Chúng cũng đang lo cho cuộc sống, chúng ta cũng đang tìm sự bảo đảm cho tương lai, đang tích trử, đang thu gom. Có nhiều lúc cũng tự mãn về những gì mình đang có. Chúng ta cũng thường xuyên đến với Chúa. Nếu nhìn lại và suy nghĩ một chút, thường chúng ta đến để tìm những gì? Chúng ta nói gì với Chúa? Còn trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta không sống đúng với những gì mình cầu xin, chúng ta chỉ biết thu gom góp cho bản thân, tích trử cho thật nhiều, để rồi vui mừng, tự hào, an tâm. Khi đó Chúa Giêsu cũng lập lại:”Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trử, sẽ để lại cho ai”.
Mỗi lần trong cuộc sống mà chúng ta biết ban phát cách tự nguyện, chịu mất đi một chút của cải, một chút sức lực, chịu thiệt thòi đi một chút những gì mình đang dự trử, đang thu gom. Đó là những lúc chúng ta đang mua lấy sự sống đời đời, đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cũng đang cố gắng để sống, đang dùng tất cả những gì mình có để phục vụ, để đi tìm sự sống. Nhưng chúng ta có đi đúng hướng để mua được sự sống đời đời. Hay chúng ta cũng đi sai đường như Tần Thủy Hoàng, nếu như thế, chúng ta cũng sẽ đi vào cõi hư vô mà bỏ lại tất cả, vì không tìm được sự sống đích thực.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người biết năng chạy đến với Chúa và tìm được sự sống do chính Chúa tặng ban.
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, kiếp phù hoa trông thấy nực cười” đó là cảm nghĩ của ông Nguyễn TN 18-C125
1. “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, kiếp phù hoa trông thấy nực cười” đó là cảm nghĩ của ông Nguyễn Công Trứ trước đời người ngắn ngủi, mau qua. Bài đọc I, Sách Giảng Viên từ hàng ngàn năm trước cũng đã cho ta thấy tính tạm bợ của vũ trụ vạn vật: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”(Gv 1,2). Vâng tất cả đều là phù vân, chóng qua, nay còn, mai mất! Vậy mà có những người sống như không bao giờ mình phải chết, chỉ lo tranh giành, tham lam thu tích tiền của và mọi thứ khác cho mình, mà không lo cho sự sống đời sau, là điều quan trọng hơn, Đức Giêsu đã cảnh giác những người sống như thế.
2. Trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc hôm nay kể lại việc một người đến xin Đức Giêsu phân xử việc chia gia tài. Nhân đó Đức Giêsu nhắc nhở anh, cũng là nhắc nhở mọi người chúng ta đừng tham lam của cải bằng cách Người kể dụ ngôn người phú hộ. Qua đó cho thấy tiền của không thể là chỗ dựa vững chắc cho ta được. Ông phú hộ này xem ra là người thành đạt trong công việc làm ăn và biết lo xa; nhưng ông chỉ biết thu tích của cải cho mình mà không biết chia sẻ cho người khác. Cuối cùng ông chết trên đống của cải đó, mà nó chẳng giúp ích gì cho ông! Vì thế, Đức Giêsu xem ông là kẻ khờ dại: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”, rồi Người nói thêm “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.
3. Chắn rằng Thiên Chúa không muốn con người phải sống nghèo khổ. Từ thưở ban đầu, tạo dựng, Thiên Chúa đã giao cho con người làm chủ vũ trụ, vạn vật và khai thác nó để phục vụ cho đời sống của con người (x. St 1,26.29). Thánh Vịnh 65 cũng cho ta thấy giàu sang là điều mà Thiên Chúa muốn cho con người:”Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang…” (Tv 65,10). Ai trong chúng ta cũng dễ thấy rằng tiền bạc của cải, tuy không là trên hết, nhưng rất cần cho đời sống của con người. Thực ra của cải vật chất, tự nó không tốt mà cũng chẳng xấu, xấu tốt do ý hướng của người làm ra, sở hữu và sử dụng nó.
Đức Giêsu không chê trách người phú hộ kia vì ông ta có nhiều của cải. Mà trách ông ta chỉ biết lo thu tích của cải mà mà không nghĩ đến những giá trị khác cao hơn. Chúa trách ông không biết dùng của cải chóng qua để làm giàu trước mặt Thiên Chúa như làm phúc, bố thí… Đúng như một danh nhân đã nói “tiền bạc là người đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Biết làm ra của cải, tiền bạc cách chính đáng và dùng nó để làm sáng danh Chúa, giúp đỡ tha nhân và sử dụng cho những nhu cầu chính đáng của mình, thì nó trở thành người đầy tớ tốt. Còn ngược lại, khi nào ta bị của cải, tiền bạc chi phối đến đánh mất cả lương tri, thì nó trở thành ông chủ ác nghiệt. Đọc Kinh Thánh, bên cạnh những người giàu đáng chê trách, ta còn thấy không thiếu những người giàu biết dùng tiền của vào việc tông đồ, giúp người nghèo khổ (x. Lc 8,3; Cv 9,39), thật đáng khen.
4. Lên án người giàu mà không biết dùng của cải, tiền bạc làm ta cũng nhớ rằng người nghèo không hẳn là đương nhiên được vào Nước Trời! Giuđa Iscariốt xem ra bỏ nghề nghiệp, nhà cửa mọi sự để theo Chúa, nhưng mà không bỏ được lòng tham! Cho nên đã can tâm cả việc phản Thầy. Trong cuộc sống, không thiếu những người nghèo khổ nhưng lương tâm ham hố, keo kiệt sinh ra trộm cắp, làm những điều bất chính... Vậy Tin Mừng không nhằm kêu gọi người Kitô hữu phải sống trong cảnh nghèo khổ cho bằng thái độ không lệ thuộc đối với của cải, tức tinh thần nghèo khó. Chỉ ai có tinh thần nghèo khó thực sự thì mới có thể phục vụ Thiên Chúa và tha nhân tốt được.
5. Lo lắng về vật chất, tiền của cho bản thân, gia đình là bản tính tự nhiên của con người, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường, giá cả bất ổn. Nhưng đừng quên trước hết là hãy lo làm đẹp lòng Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho (Mt 6,33). Đức Giêsu cũng nhắc bảo chúng ta: “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình tránh mọi thứ tham lam…” (Lc 12,15). Người muốn chúng ta không chỉ tránh tham lam về tiền của, mà còn tránh mọi sự tham lam khác như danh vọng, chức quyền… bởi vì tất cả đều là “phù vân” và nó không ích lợi gì cho mạng sống thật của chúng ta (x.Lc 9,25)
6. Hãy luôn trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta làm con người, hơn nữa được làm con Chúa và được mời gọi sống hạnh phúc với Ngài, đó là điều quý nhất. Giàu nghèo ở đời nầy chỉ là chóng qua, hãy cảm tạ Thiên Chúa nếu như Ngài thương ban cho gia đình chúng ta khá giả; nếu gia đình chúng ta còn nhiều khó khăn chúng ta đừng buồn mà hãy nhớ rằng chính Đức Giêsu đã sinh ra trong gia đình khó nghèo để cảm thông với người nghèo. Trên hết, xin Chúa giúp chúng ta dù giàu, dù đủ tiêu dùng hay nghèo túng, nhưng không bao giờ làm điều gì sai trái. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta quyết không tham lam, không nô lệ cho tiền của, mà hãy biết dùng tiền của cách chính đáng, làm việc nghĩa chính là làm giàu trước mặt Thiên Chúa vậy.
Câu chuyện dụ ngôn của bài TM ngày chúa nhật hôm nay trình bày: một anh nhà giàu, chỉ biết TN 18-C126
Câu chuyện dụ ngôn của bài TM ngày chúa nhật hôm nay trình bày: một anh nhà giàu, chỉ biết thu tích tiền của vật chất; khi anh thấy mùa màn sắp tới đầy thắng lợi, anh bèn nghĩ ra cách xây thêm kho lẫm mới để dự trữ, xong rồi ông thấy của cải mình dư dật xài không hết, anh tự nhủ lòng: chà chà nay mình quá giàu rồi. Vậy từ nay cứ ăn uống vui chơi cho thỏa thích, không còn phải bận tâm gì nữa…. Nhưng Chúa bảo: này tên ngốc, ngay đêm nay, Chúa sẽ đến để đòi linh hồn anh. Vậy những gì bao lâu nay anh cố thu tích, sẽ để lại cho ai? Câu cuối cùng của bài Phúc âm là lời kết cho bài dụ ngôn này: “người nào thu tích của cải mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận sẽ như thế đó.”
a/. Sức mạnh của đồng tiền: người ta thường nói: “Có tiền chán vạn kẻ theo, nghèotiền thì bạn cũng đòi bỏ đi..” hoặc: “đồng tiền liền khúc ruột” hay:
“Ghê thay mãnh lực bạc tiền, tưởng rằng hể có là tiên trên đời. Biết bao bài học ai ơi, Thân danh lụn bại tiếng đời buốn thay!” Câu nói chơi: “Tiền là Tiên là Phật, là sức bậc của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà cho danh vọng, là cái lộng cho tương lại…”
Đồng tiền có sức hút mê hoặc như thế, nên người ta cũng nói: “Tiền là tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”. Khi người ta sữ dụng đồng tiền để phục vụ con người, nó là phương tiện tối hảo, nhưng khi con người nô lệ nó, coi nó là ông chủ, thì đồng tiền sẽ trở nên vô cùng xấu xa. Hiểu rõ như thế nên Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ: đừng để mình thành nô lệ của tiền bạc. Chúa không cấm các ông sử dụng tiền của. Nhưng rõ ràng, Người muốn họ thoát khỏi nanh vuốt của bạc tiền: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được…” Chính bài dụ ngôn hôm nay cho ta hiểu rõ điều đó.
b/. Một câu chuyện: Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đô la bằng bạc trên đường đi, thế là từ đó, khi ra đường, anh đều cúi xuống nhìn dưới đất tìm kiếm, không nhìn lên trời nữa. Kết quả là sau 30 năm, anh nhặt được: 3 đô la rưởi tiền bằng bạc - 37 đồng nửa đô la bằng đồng – 18.400 nút áo đủ cở - 14.600 đinh óc - kim may, kim gút đủ loại. Kết quả đó đổi lại bằng cái tật khòm lưng – tâm trạng bi quan và tính khí khó thương – kể cả đôi mắt anh không hề nhìn lên bầu trời xanh, hay nhìn chung quanh ngắm cỏ cây xinh đẹp, cảnh trí hùng vĩ của sông nước… Chính lòng ham mê của cải đã giết chết con người của anh ta… Bài dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay, giống y câu chuyện trên đây. Chúa đưa ra một giáo huấn về tính phù du, về tiền của và cả tính mạng con người nữa. Chúa cũng phân định rõ ràng: Trước hết phải lo tìm kiếm Nước TC trước đã, phải biết sáng suốt lo thu tích của cải trên Nước Trời. Anh nhà giàu chỉ biết thu tích của cải trần gian, không lo làm giàu của cải thiêng liêng, nên khi Chúa kêu phải ra trước tòa Chúa, anh ta đã chưa sẵn sàng gì cả.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Tiền bạc thực ra cũng cần phải có để sống, nhưng không phải cần thiết nhất. Mấy ai hiểu được điều này? Nếu đã hiểu, người ta sẽ không bỏ cả ngày giờ, sức khỏe, để chỉ lo tìm nó. Người ta vẫn biết của cải sẽ không theo mình qua thế giới bên kia, nhưng họ vẫn khư khư bám vào của cải. Tại sao thế? Vì người ta nghỉ rằng mình không phải chết, hoặc vì không tin có sự sống đời sau, có thưởng có phạt, hoặc vì biết, nhưng họ làm ngơ giả điếc, như không hiểu gì. Bài Tin Mừng hôm nay là một bài học thấm thía cho những người đó. Chúng ta nên thường đọc đi đọc lại câu nói của chúa Giêsu: “ Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì của cải ngươi có sẽ để lại cho ai?
Đã từ lâu đời, nơi xã hội loài người, con người luôn coi trọng đồng tiền. Đồng tiền nhiều khi đóng vai trò TN 18-C127 Dalat
Đã từ lâu đời, nơi xã hội loài người, con người luôn coi trọng đồng tiền. Đồng tiền nhiều khi đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại... chẳng thế mà người ta thường nói:
“Đồng tiền là tiên là phật Là sức bật của con người Là nụ cười của tuổi trẻ Là sức khỏe của tuổi già Là cái đà danh vọng Là cái lọng che thân Là cán cân công lý…!”.
Và còn có những người mạnh miệng hơn khi tuyên bố rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa hôm nay chỉ ra sự giới hạn của đồng tiền. Đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về cách sử dụng tiền của sao cho hợp lý, để nó không chỉ có ích cho cuộc sống, mà còn có lợi cho phần hồn và ơn cứu chuộc.
Thái độ của con người về tiền bạc
Khi diễn tả tâm lý của con người về sự quý chuộng đồng tiền, người ta đã đúc kết qua một câu nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”.
Bởi vậy, nhiều người đã dành cả một cuộc đời cặm cụi kiếm tiền, tìm mọi cách để giữ tiền và không chịu rời bỏ đồng tiền. Khi phải sử dụng hay mất mát, họ cảm thấy như mất đi một phần cuộc sống, chẳng khác gì: “Của đau con xót”.
Thực ra, việc kiếm tiền và giữ tiền tự bản chất không xấu. Tuy nhiên, sử dụng tiền làm sao cho hợp lý mới là điều đáng lưu tâm.
Đáng buồn thay, trong thực trạng xã hội hiện thời, người ta coi trọng đồng tiền đến độ tôn thờ nó như ông chủ. Họ sẵn sàng sử dụng đồng tiền để làm cho cán cân công lý bị lệch chuẩn cũng như đổi trắng thành đen...
Thật vậy:
“Đồng tiền không phấn không hồ, Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người”. Chính vì lẽ đó, mà thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thốt lên một cách chua chát: “Nếu không điều lợi khôn thành dại, Đã có đồng tiền dở cũng hay”.
Nếu sử dụng đồng tiền cho tốt thì nó sẽ trở thành tên đầy tớ trung thành, còn nếu sử dụng sai, nó sẽ là ông chủ bất nhân và lẽ đương nhiên, ta trở thành nô lệ cho nó.
Kinh nghiệm cuộc sống của mỗi người đã dạy cho chúng ta bài học về đồng tiền. Thật vậy, đồng tiền nó cũng có thể trang điểm cho chúng ta vinh quang, danh dự và giúp chúng ta trở thành con người có nhân nghĩa với anh chị em đồng loại. Nhưng ngược lại, đồng tiền nó cũng nhấn chìm chúng ta xuống tận bùn đen và nó tước hết tất cả những gì là danh thơm tiếng tốt nơi mỗi người nếu đặt để chúng sai vị trí!
Thái độ và lời dạy của Đức Giêsu về tiền bạc
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc và làm toát lên lời dạy của Ngài cho người đương thời biết sự giới hạn của đồng tiền.
Câu chuyện được khỏi đi từ việc có hai anh em đến nhờ Ngài phân chia tài sản, bởi lẽ, trước mắt họ, Đức Giêsu là một bậc thầy rabbi có uy tín trong dân, nên việc nhờ Ngài phân chia tài sản là điều cần thiết.
Tuy nhiên, trước lời đề nghị này, Đức Giêsu đã thẳng thắn từ chối vai trò trung gian. Ngài từ chối, không phải vì Ngài thờ ơ, lạnh lùng với thực trạng cuộc sống của hai anh em này. Nhưng qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: sứ vụ Thiên Sai của Ngài không phải là để làm những chuyện như thế, mà là loan báo ơn cứu độ và phần rỗi của con người. Vì thế, Ngài đã trả lời khi được đề nghị: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài cho các anh”?.
Nhân dịp thuận lợi này, Đức Giêsu đã dạy cho hai anh em này bài học: hãy tránh xa mọi thứ tham lam, bởi lẽ những của cải chiếm dụng được sẽ không đảm bảo cho được sống đời đời. Vì thế, đừng cậy dựa vào chúng quá lẽ.
Như một sự chứng minh, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn nhà phú hộ giàu có, nhưng đã không biết sử dụng tiền của cách chính đáng và hữu ích.
Lý do, ông phú hộ này khi có tiền của dư thừa, đã chè chén say sưa, xây dựng đền đài kho lẫm khổng lồ; ăn chơi phung phí, không hề nghĩ đến việc chia sẻ cho người nghèo và mưu cầu sự sống mai sau, tức là phần hồn. Ông ta coi những thứ đó như là một thứ đảm bảo cho cuộc sống của ông. Vì thế, ông ta đã ngủ mê trên sự giàu có, nhưng thực ra, đến ngày tận cùng, sự giàu có đó đã tố cáo ông và làm cho ông trắng tay.
Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu đưa ra giả thiết: “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó: “Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?.
Thái độ của người Kitô hữu về việc sử dụng tiền bạc
Lời cảnh tỉnh trên của Đức Giêsu đã là một sự cảnh báo cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Vì thế, với tư cách là Kitô hữu, chúng ta phải chọn sao cho trọn. Tức là trước khi lựa chọn, chúng ta hãy xét đến sự ưu tiên. Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã đưa ra lời nhắc nhở: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
Sang bài đọc II, thánh Phaolô tiếp nối tư tưởng đó để khuyên bảo tín hữu của ngài khi đã trở nên thụ tạo mới, mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài qua Bí tích Rửa Tội, thì: “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
Và, như một sự mặc khải, Đức Giêsu đã chỉ dạy thật rõ ràng: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Nhưng oái oăm thay! Nhiều người trong chúng ta không mảy may đến những lời cảch báo trên, mà ngược lại, chúng ta đã thượng tôn đồng tiền đến độ tôn thờ chúng. Coi chúng như gia tài. Giữ chúng như kho báu. Nên đã tìm mọi thủ đoạn để chụp giật được đồng tiền, đôi khi bán rẻ cả lương tâm để có được đồng tiền. Khi có nó, chúng ta đã phung phí cách thỏa thích nơi các cuộc ăn nhậu vô bổ, hút chích cũng như những việc làm bất chính khác...!
Trước những thái độ trên, hẳn là chúng ta đã đi vào vết xe đổ của nhà phú hộ ngu ngốc trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ điệp Lời Chúa dạy chúng ta rằng:
Nhiều tiền lắm bạc không phải là tội hay xấu xa, nếu đồng tiền được làm ra bởi công khó của mình. Mặt khác, giàu có mà biết sử dụng đúng mục đích thì thật là hữu ích không chỉ cho phần xác, mà còn cả phần hồn. Vì thế, giàu có trước mặt Thiên Chúa không hệ tại ở đồng tiền, mà là ở cách sử dụng đồng tiền.
Cần nhớ rằng: “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1Tm 6,7).
Vì thế, đừng bám víu quá lẽ vào tiền bạc, mà hãy: “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), đó là sự sẻ chia cho người nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự cho đi thì mới là gia tài của chúng con. Bởi vì khi nằm xuống, những gì chúng con đang có, cũng phải trả lại cho đời. Những gì thuộc về chúng con thì từ nay không còn nữa. Chỉ những gì đã cho đi vì lòng mến thì mới thuộc về chúng con và nó sẽ theo chúng con đến trước tòa phán xét để bênh vực chúng con mà thôi. Amen.
Chúa đến trần gian để dạy cho con người về tìm được sự sống đời đời.Bởi vì, con người sinh ra trên đời này, TN 18-C128
Chúa đến trần gian để dạy cho con người về tìm được sự sống đời đời.Bởi vì, con người sinh ra trên đời này, cơm gạo bạc tiền, vật chất luôn là những cám dỗ làm cho con người nhiều khi quên đi điều chính yếu không phải chỉ chăm chú vào những của cải hay hư nát ở đời này, nhưng mục đích chính của nhân loại, của con người là tìm của cải không hư nát, đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sống ở thế giới, sống nơi gian trần, của cải, vật chất, lương thực là cần thiết thật nhưng là người Công giáo: phẩm giá của con người không cho chúng ta dừng lại nơi những thực tại hữu hình ở trần gian này. Trong Cựu Ước, Ông Côhêlét đã nói:” Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân “ ( Gv 1, 2 ).
Do đó, nếu chúng ta tưởng rằng của cải ở trần gian này là mục đích chính yếu thì họ đã lầm . Thực tế, Thánh Vịnh 39 đã cho chúng ta thấy rõ sự mau qua của đời này như thế nào:” Tuổi đời con Chúa đo cho vài gang tấc, kiếp sống này, Chúa kể bằng không. Sống ở đời, con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.Công vất vả vả việc làm ngược xuôi:làn gió thoảng, ký cóp mà chẳng ai hay sẽ hưởng dùng “. Dụ ngôn người phú hộ giầu có cho chúng ta hiểu rõ điều này. Người phú hộ ngu xuẩn, có của cải dư thừa, đến nỗi phải xây kho lẫm to lớn hơn để chứa của cải. Cái dại dột của người phú hộ là luôn dựa vào của cải, luôn níu kéo của cải, ông ta không nghĩ rằng một lúc nào đó ông cũng phải chết đột ngột, không thể mang theo được bất cứ thứ gì đi theo…Ông phú hộ cứ tưởng sư giầu sang, dư của, lắm tiền sẽ làm cho ông sống mãi: ông không nghĩ tới cái chết bao giờ cả. Ông tham lam và như nhiều người khác ở thế gian này tham lam, bao nhiêu tiền của cũng không đủ, càng có tiền, càng muốn có thêm. Ông và nhiều ngươi cứ tưởng lắm của là bảo đảm được hạnh phúc ở đời này, do đó, không cần kiếm những giá trị vĩnh viễn, của cải không bị ten sét, mối mọt gặm nhấm vv…Tuy nhiên, ông phú hộ và nhiều người đã lầm tưởng vì tất cả đều phải chết và khi chết họ sẽ đòi phải trả lời trước Chúa, và như thế sự sống vĩnh cửu họ cũng bị mất !.
Lời Chúa Chúa Nhật XVIII thường niên, năm C cho chúng ta hiểu thế nào là giầu có của cải ở trần gian. Chúa đã gọi những kẻ giầu có kiểu này là những kẻ ngu xuẩn. Thực tế, cái ngu xuẩn, dại khờ của người phú hộ là không nhìn xa, thấy rộng. ông ta chỉ xây lẫm và không nhìn ra khỏi cái kho lẫm của mình. Ông ngu dại đến nỗi không để một ngõ ngách nào để có thể nhìn thấy anh Lazarô đói nghèo đang nằm chờ từng miếng vụn của bánh mì trên bàn của ông phú hộ rơi xuống. Cái mỉa mai là chỉ có con chó đến liếm những chỗ ghẻ chốc cho anh Lazarô! Cái ngu dại khác là ông phú hộ cũng không biết rằng sau khi chết mình chẳng có thể đem được bất cứ gì đi theo với mình.
Vâng, những kẻ ngu xuẩn, dại khờ là những kẻ sống nhưng không biết mình sống để làm gì, của cải mình làm với mục đích gì và chết rồi mình sẽ đi về đâu ? Những kẻ ngu dại là những kẻ lấy cái phụ làm cái chính, lấy của cải, lấy thú vui, quyền lợi, danh vọng làm mục đích, cùng đích của cuộc đời. Những người này không biết chia sẻ của cải Chúa ban, chà đạp người nghèo và tranh giành với người khác, đặc biệt với những người thấp cổ bé họng, những người nghèo khổ để làm giầu cho bản thân và gia đình của mình vv…Đời sống con người quả thực không dài nhưng nhiều khi cái khó nó bó cái khôn làm cho con người ra ngu dai để chỉ biết nhìn thật gần mà không biết nhìn xa và không biết làm những hành động bác ái tỏa sáng vv…
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta:” Sự sống đời này thật mau qua “ như người xưa thường ví von “ cuộc sống là phù du, như hoa sớm nở, chiều tàn vv…”. Sự sống vĩnh cửu, của ăn trường tồn mới là điều con người và chúng ta phải đầu tư lâu dài để tìm kiếm.Con người chúng ta phải có những định hướng và chấn chỉnh theo đúng Lời Chúa để cuộc đời chúng ta được hạnh phúc tròn đầy. Chúng ta là người có niềm tin, chúng ta phải sống đúng niềm tin để giữa sự bon chen của cuộc sống, chúng ta vẫn là những người khôn ngoan theo ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống ô tạp, bon chen, xin Chúa giúp chúng con biết chọn lựa và tìm kiếm những của cải thường tồn là của cải mà Chúa muốn chúng con tìm kiếm.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Cái ngu dại của người phú hộ là gì ? 2.Người ta có sống mãi ở đời để hưởng thụ không ? 3.Khôn ngoan của người đời là gì ? 4.Người có đức tin phải sống thế nào giữa cuộc đời đầy bon chen này ? 5.Giá trị của Nước Trời là gì ?
Tích lũy là thu gom để chất chứa càng ngày càng nhiều thêm. Có nhiều dạng tích lũy: tích lũy của cải, TN 18-C129 Ephata
Tích lũy là thu gom để chất chứa càng ngày càng nhiều thêm. Có nhiều dạng tích lũy: tích lũy của cải, kiến thức, kinh nghiệm, tinh thần, sức khỏe... Tích lũy là quá trình lâu dài, khó chứ không dễ, thế nên rất cần lòng kiên trì.
Vạn sự khởi đầu nan. Khởi đầu là thời điểm quan trọng, cần dứt khoát và quyết tâm. Có lẽ vì thế mà người ta thường coi trọng ngày khai trương. Jim Rhon nhận xét: “Học tập là khởi đầu của giàu có. Học tập là khởi đầu của sức khỏe. Học tập là khởi đầu của tâm linh. Tìm kiếm và học hỏi là nơi điều kỳ diệu bắt nguồn”.
Hành trình lâu dài nên thường có những lúc gặp khó khăn. Như thế mới cần quyết tâm cao độ, và phải xác định rằng khó khăn là chướng ngại vật nhưng không thể cản bước tiến của chúng ta. Robert S. Schuller nói: “Rắc rối không phải biển báo cấm, chúng chính là những tấm biển chỉ đường”. Tuyệt vời lắm ! Thật vậy, chí sĩ Phan Bội Châu đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai ?” Hơn nhau ở chỗ là dám vượt qua khó khăn.
Có những thứ cần tích lũy trong một thời gian – có thể mau hoặc lâu, nhưng có những thứ phải tích lũy cả đời. Con người có hai phần là xác và hồn, việc tích lũy cũng có hai phần rạch ròi – không thể lo cho phần này và bỏ mặc phần kia. Chắc chắn “phần tốt nhất” đối với một Kitô hữu vẫn là cách tích lũy tâm linh.
Người ta tích lũy nhiều thứ tài sản trần gian nhưng lại quên tích lũy tài sản thiêng liêng, người ta cũng tìm kiếm các kho tàng trần thế nhưng lại quên tìm kiếm kho tàng trên trời. Một trong các kho tàng quý giá nhất chính là sự khôn ngoan: “Trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” ( Kn 3, 15 ).
Miệng ăn, núi lở. Tất cả sẽ hết. Không hết thì cũng chẳng đem theo được khi chúng ta chết. Những gì chúng ta tích lũy sẽ để lại cho người khác sử dụng. Cũng vì cứ lo tích lũy mà nảy sinh xung đột, tranh giành, rồi sinh ra chiến tranh. Tiền tan, tình tàn. Rồi cả đôi bên đều đau khổ và mất mát. Hơn thua gì, lợi lộc gì ?
Ông Côhelét thật là dày dạn kinh nghiệm và cảm nghiệm sâu sắc: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời ?” ( Gv 1, 2-3 ).
Tiền nhân đã nói: “Ky cóp cho cọp xơi”. Quả không sai. Ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, tối ngày cứ chạy theo đồng tiền. Tham thì thâm. Kinh Thánh xác định: “Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời ? Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền ! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân !” ( Gv 2, 21-23 ). Cách đặt vấn đề rất độc đáo và thú vị. Chí lý lắm !
Tiền chỉ là tờ giấy mỏng, nhưng nó có thể “cưa đứt” mọi song sắt của tất cả các cửa ở trần gian, kể cả “cửa tâm hồn”. Tiền có một sức mạnh hầu như bất khả kháng, người ta gọi đó là mãnh lực, thậm chí là ma lực. Tiền không có mùi nhưng “hương vị” của nó quyến rũ bất cứ ai. Dính vào nó thì khó gỡ lắm: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” ( 1Tm 6, 10 ). Thật vậy, tiền bạc làm người ta mất lương tri, mất tình nghĩa – kể cả tình ruột rà, nói chung là mất mọi thứ – mất trắng. Thế mà người ta vẫn không thoát khỏi “lưới dò” của tiền bạc, tôn giáo cũng chẳng thoát.
Ma quỷ rất ranh mãnh, lơ là một chút sẽ chết với nó ngay. Thật vậy, lịch sử xưa nay cho thấy rõ hệ lụy này. Tông đồ Giuđa sẵn sàng bán Thầy không văn tự, nhiều cha mẹ bán con ruột của mình, chồng bán vợ, người ta dám bán cả đất nước, thậm chí là buôn thần bán thánh nữa,... Thiên hình vạn trạng. Bán để làm gì ? Để lấy tiền !
Muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiền bạc, chỉ có cách duy nhất là “bám chặt vào gấu áo Chúa Giêsu”. Áo Ngài có bị xé rách thì cứ giữ lấy miếng vải đó làm “bùa hộ mạng”. Chắc chắn ma quỷ sẽ sợ hãi “lá bùa” này. Bám vào Chúa sẽ có Chúa, có Ngài thì an tâm, an tâm thì vui sướng, vui sướng thì phải ca hát và chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” ( Tv 95, 1-2 ).
Vui mừng thì nhớ đừng ngủ quên trong chiến thắng, đừng ỷ lại mà làm cho con tim xơ cứng, đừng bắt Thiên Chúa phải lên tiếng nhắc nhở như Ngài đã cảnh báo dân Israel xưa: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” ( Tv 95, 8-9 ).
Con người rất yếu đuối, thế nên luôn phải tự cảnh giác. Lý do đơn giản là “cái tôi” lúc nào cũng rình vùng lên, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, với bất cứ ai. Cứ biện hộ với những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ,… thì tiêu đời thôi. Tại sao vậy ? Đó là kiêu ngạo, không phục thiện !
Thánh Phaolô vừa khuyên nhủ, vừa phân tích, vừa nhắc nhở: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” ( Cl 3, 1-5 ). Thảo nào Chúa Giêsu bảo chúng ta là “vốn là những kẻ xấu” ( Mt 7, 11 ).
Vì chúng ta xấu xa nên mới “tham”, vì tham mà hóa “sân” khi không thỏa mãn, và rồi cứ miệt mài trong cõi “si”. Thật không dễ để vượt ra khỏi “tam độc” đó. Và Thánh Phaolô lại tiếp tục khuyến cáo: “Anh em ĐỪNG nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng CHỈ CÓ Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” ( Cl 3, 9-11 ).
Trình thuật Lc 12, 13-21 cho biết lời cảnh báo về động thái “tích lũy của cải”. Cuộc sống mà cứ “bóc ngắn, cắn dài”, vung tay quá trán, cứ “xả láng sáng về sớm”, không lo tích cốc phòng cơ thì không được. Chắc chắn Thiên Chúa không cảnh báo dạng “tích lũy” này, vì đó là tiết kiệm, mà tiết kiệm là “đức tính tốt”, và hẳn là Ngài không ngăn cản mà lại khuyến khích.
Thiên Chúa cảnh báo là đừng tích lũy của cải vật chất theo kiểu tham vọng, mê tiền bạc, thực dụng đến nỗi bất chấp mọi thứ. Kiểu tích lũy này sẽ gây xung đột và tranh chấp. Rất nguy hiểm. Thế nên Ngài mới cảnh báo chúng ta phải cẩn trọng và cảnh giác !
Một hôm, có người trong đám đông đề nghị với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Ngài hỏi lại: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” Rồi Ngài nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Thảo nào người ta bảo rằng “người giàu cũng khóc”. Khóc nghĩa là khổ. Giàu sang mà sao lại không vui ? Vì không có hạnh phúc, giàu vật chất mà nghèo tinh thần, nghèo lòng thương xót.
Rồi Ngài nói với họ dụ ngôn này: Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”
Dụ ngôn này gợi nhớ thi sĩ ngụ ngôn La Fontaine ( 1621-1695, Pháp ). Ông có truyện thơ “Con Ve và Con Kiến” ( được dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ năm 1928 ). Chuyện kể rằng: Ve suốt ngày cứ rong chơi, ca hát, chẳng lo gì cho tương lai, còn Kiến luôn cần mẫn làm việc. Mùa đông đến, Ve không còn đồ ăn nên phải sang vay Kiến, nhưng Kiến hỏi Ve làm gì khi trời nắng ráo, Ve vẫn sĩ diện và chảnh chọe trả lời: “Tôi ca hát đêm ngày, thế thì thiệt gì bác ?”. Kiến thản nhiên nói: “Trước chú vui ca hát, giờ thử múa coi đi !” Nói như vậy, Kiến cũng ngụ ý nói với Ve rằng: “Đúng là đồ ngốc !”
Còn đối với đại gia kia, Thiên Chúa nói thẳng: “Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, số phận cũng như thế đó”. Chúng ta cũng có những lúc lo tích trữ, không chỉ vật chất mà còn các thói hư và tật xấu khác, đôi khi chúng ta còn “hãnh diện” vì đã lừa được người này, bịp được kẻ khác, sỉ nhục được người nọ. Và cứ thế, “vốn tích lũy” khá nhiều khiến chúng ta bị “khóa chặt” trong vòng xoáy tam độc Tham-Sân-Si. Chúa Giêsu cũng đã hoặc đang nguyền rủa chúng ta là “đồ ngốc”.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, con thực sự là một kẻ ngu ngốc, xin Ngài mau phá ngu đời con. Xin giúp con biết chuyển hướng trước khi quá muộn, để con có thể tích lũy chút việc lành – mặc dù nhỏ mọn – để kịp trong Giờ Thương Xót của Ngài, trước khi Thẩm Phán Công Minh tái lâm. Con chân thành tạ ơn và cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Bài Tin Mừng kể lại: Một hôm Chúa Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một thanh niên TN 18-C130
Bài Tin Mừng kể lại: Một hôm Chúa Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một thanh niên lên tiếng xin Chúa giải quyết giúp vụ tranh chấp gia tài của anh em họ. Người Do Thái vẫn có thói quen đem trình mọi vấn đề rắc rối cho vị đạo trưởng như vậy. Chính luật Mô-sê cũng không phân biệt rõ luật hình, luật sự, luật đạo, luật đời hay luân lý. Cho nên, một vị đạo trưởng là phải “nghề”, phải “sành” mọi thứ luật để giải quyết cho dân. Trường hợp người thanh niên này, có lẽ anh đã tranh đấu đòi người anh trả lại quyền lợi một phần ba gia tài như luật định mà người anh đã tham lam ngốn hết tất cả, không chia chác gì cho ai, nên mới có chuyện.
Nhưng Chúa Giêsu đã không can thiệp vào sự việc đó, Chúa muốn cho thấy ranh giới giữa các thứ luật. Vấn đề chia chác của cải không thuộc lãnh vực của Chúa, không thuộc sứ mệnh của Ngài mà thuộc về lãnh vực xã hội. Nhưng nhân dịp này Chúa dạy mọi người một bài học: đừng sống tham lam, đừng ích kỷ. Để dễ hiểu, Chúa đưa ra một dụ ngôn về một người giàu có kia, suốt đời cắm cúi lo thu tích hoa mầu, của cải, dù là cách lương thiện, nhưng đời sống lại là hưởng thụ ích kỷ, sản xuất hoa mầu được nhiều, nhưng thu cất hết vào kho lẫm, chỉ lo cho vinh thân phì da. Trước mặt Thiên Chúa, Tin Mừng nói, đó là kẻ ngốc, tức là kẻ dại dột. Dại dột ở chỗ ông ta chỉ để ý đến vật chất mà không chú ý đến linh hồn, chỉ để ý vào của cải đời này mà quên mất đời sau, giàu ở đời này nhưng nghèo ở đời sau thì ích gì? đời này chỉ là tạm bợ, đời sau mới trường tồn. Kẻ giàu sụ kia đã chết bất ngờ, mất cả của lại mất cả linh hồn. Như vậy, có của không có nghĩa là có hạnh phúc. Hạnh phúc nước trời phải được mua sắm bằng của cải thiêng liêng là việc lành phúc đức, bác ái, chia sẻ.
Sau đây chúng ta tìm hiểu ít điều về lòng tham: lòng tham là thế nào và tai hại ra sao? Chúng ta phải có thái độ thế nào đối với của cải vật chất?
Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Lòng tham vô đáy”, “tham thực cực thân”, “lòng tham là một cái túi thủng, mà những người sống nửa cuộc đời hay vướng mắc, bởi vì tuổi trẻ thì hay phung phí, còn tuổi già thì hay hà tiện”. Kẻ tham lam không bao giờ bằng lòng với số phận hiện có của mình, những gì họ có vẫn còn là ít, là nhỏ, là thiếu, cho nên, đạt được mục tiêu này, họ lại thấy có bao nhiêu điều khác phải với tới, họ không bao giờ lường đúng được giá trị thật của họ, họ luôn bị thúc đẩy phải đi kiếm thêm cho đầy túi, đầy bị hay đầy két sắt. Khi chúng ta tham lam, chúng ta sẽ mắc ngay phải một tính xấu là ghen ghét. Người khác có hơn chúng ta cái gì, chúng ta không chịu được, chúng ta thèm khát những thứ người ta có mà chúng ta chưa có. Từ chỗ thèm khát đến ganh tị ghen ghét, từ ghen ghét đến hận thù và tàn hại nhau. Kinh nghiệm đau thương cho thấy lòng tham lam là mối cực lòng nhất trong đời, nó không đem lại hạnh phúc cho ai cả. Có tiền có của thì lại lo lắng bảo vệ, lo lắng mất mát. Có tiền của tất nhiên sẽ xoay trở làm sao cho có sức mạnh, có uy quyền. Đã có mạnh lại muốn mạnh hơn, đã có quyền lại muốn có nhiều quyền hơn. Nếu mình có quyền, tất nhiên là bớt quyền của người khác, ít là hạn chế, giới hạn quyền lợi của người anh em. Nếu hạnh phúc đến trên căn bản như thế, thì hạnh phúc chỉ đến với một số người, và sẽ không bao giờ đến với một số người khác.
Đàng khác, lòng tham còn tạo ra nhiều bất công xáo trộn, vì người tham sẽ tìm mọi cách để vơ vét của người khác, bất kể phương tiện tốt xấu, mọi phương tiện đều tốt cho lòng tham vô đáy, trong khi đó lại khép chặt lòng trước bất cứ ai, họ không yêu thương người khác, mà cũng chẳng yêu thương được chính mình, vì chính họ cũng phải ti tiện, dành dụm, không dám tiêu pha, chỉ mong sao cho có thật nhiều, bảo đảm cho đời mình được an toàn, được kéo dài. Và như vậy họ giết chết nhân đức phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Đối với họ, tiền của sẽ thay thế Chúa quan phòng cho họ, từ đó, ma quỷ sẽ chen vào, sẽ thổi phồng lòng tham lên nữa, và sẽ khống chế, bắt họ phải làm những tội ác khác nữa.
Chúng ta thấy lòng tham thật nguy hiểm và tai hại, nó tạo ra ghen tương, đố kỵ, xung đột, mọi cuộc chiến tranh lớn nhỏ đều bắt đầu từ đó, mọi đau khổ cũng có thể bắt nguồn từ đó, cho nên, vấn đề là làm sao loại bỏ được lòng tham. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng: lòng tham đã trở nên một thành phần của con người, ai cũng có lòng tham, không nhiều thì ít, do đó, loại bỏ được lòng tham không phải là dễ, tức là khó chứ không phải là không loại bỏ được. Chúng ta có thể loại bỏ được và chúng ta phải loại bỏ bằng cách ý thức rõ ràng về của cải vật chất, đó là lời Chúa dạy bảo hôm nay. Chúa nhắc nhở chúng ta phải luôn ý thức tính cách mong manh, tạm bợ, nay còn mai mất của mọi của cải trần gian, tất cả chỉ là phù vân, là mây khói, nếu chúng ta không biết hướng chúng lên cao, không biết dùng chúng để đạt đến mục đích sau cùng của mình. Biết bao người đã kinh nghiệm tính cách phù vân, tương đối của tiền bạc, danh vọng, hưởng thụ… và họ đã bộc lộ ra qua những câu văn, những lời thơ để nhắc nhở mọi người, như “Của phù vân không chân hay chạy, sớm hợp tối tan”, “Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào, vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”, “Của trời trời lại lấy đi, giương hai mắt ếch làm chi được trời”, “Của thiên trả địa”, “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong buớc vào”. Tóm lại, một trong những vấn đề quan trọng và căn bản nhất của đời sống là chọn Chúa hay chọn vật chất, của cải? Trên lý thuyết, dĩ nhiên ai cũng chọn Chúa, nhưng trong thực tế có thực sự như thế không? Xin đề nghị một điều, đó là hãy làm việc thiện. Có tiền của nhiều hay ít, chúng ta hãy giàu lòng, một đàng sẽ giải phóng chúng ta khỏi tính tham lam, ích kỷ, đàng khác, lại tích lũy công phúc cho đời sau, nghĩa là sống bác ái, chia sẻ sẽ giúp chúng ta thấy mình hữu ích cho nhân quần xã hội, mà còn là một cách chúng ta ký thác công phúc vào ngân hàng trên trời.
Sáng 21.5.2015, Toà Án Nhân Dân TP. HCM đã hòa giải thành vụ tranh chấp tài sản giữa nguyên TN 18-C131
Sáng 21.5.2015, Toà Án Nhân Dân TP. HCM đã hòa giải thành vụ tranh chấp tài sản giữa nguyên đơn là ông Hà Xuân ( em bà bán bún Thạch Kim Phát – người để lại khối tài sản nghìn tỷ sau khi đột tử ) và bị đơn Thạch Hà Huệ Lan ( 27 tuổi, con gái nuôi bà Phát ). Theo đó, người đại diện cho bị đơn đồng ý trả cho ông Xuân số tiền 90.000 Euro theo giấy cam kết trước đó.
Hai bên cũng thống nhất về việc bị đơn sẽ đổi số tiền trên thành tiền Việt Nam ( tương đương 2,2 tỷ đồng ) và chuyển vào tài khoản của ông Thạch Vũ Phương ( người đại diện của ông Xuân ) sau khi tòa có quyết định công nhận hòa giải thành. Ngoài ra, số tiền án phí cũng được chia đều cho hai bên là 18 triệu đồng. Theo đơn kiện, ông Hà Xuân ( đang sống ở nước ngoài ) cho rằng trước đây có gửi chị gái Thạch Kim Phát số tiền 90.000 Euro tại Ngân Hàng Việt Nam với ý định để dưỡng già khi về nước. Bà Phát sống độc thân, chỉ có con nuôi là Thạch Hà Huệ Lan ( 27 tuổi ). Tuy nhiên, hồi tháng 3 năm 2011, bà Phát đột tử để lại tài sản lên đến cả nghìn tỷ đồng.
Là người duy nhất thừa kế khối di sản, Lan được cho là đã cam kết trả lại 90.000 Euro cho ông Hà Xuân. Tuy nhiên người chú cho rằng, sau khi nhận khối tài sản của bà Phát, cô cháu gái né tránh không chịu trả tiền như cam kết nên ông khởi kiện. Vụ việc được ủy quyền cho ông Thạch Vũ Phương, một người em khác của bà Phát, tham gia tố tụng. Sau nhiều lần phải hoãn xét xử do người đại diện của bị đơn vắng mặt, tòa đã tiến hành hòa giải thành.
Liên quan đến việc tranh chấp khối tài sản nghìn tỷ đồng của bà bán bún, nửa tháng trước, Lan cũng đồng ý trả cho một người em khác của mẹ nuôi số tiền 100.000 USD.
Hiện, người thân trong gia đình bà Phát vẫn còn theo đuổi một vụ kiện khác với Lan, liên quan đến căn biệt thự cũ trên đường Tô Hiệu ( quận Tân Phú ), nơi bà Phát sống trước đây và được các anh em của bà cho là tài sản chung của cả gia tộc. Hồi cuối năm 2014, TAND TP. HCM đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Không đồng ý với quyết định này, ông Phương kháng cáo. ( Hải Duyên, Cô gái thừa kế di sản nghìn tỷ tiếp tục trả 90.000 Euro cho chú, vnexpress ).
Chuyện thừa kế bỗng nhiên trở nên một “cuộc chiến gia tộc” khốc liệt giữa những người một thời khắng khít thương yêu, khiến họ lôi nhau ra toà với lòng tràn ngập chua xót và oán hận. Trong Tin Mừng Chúa Nhật 18, mùa Thường Niên hôm nay, Thánh Luca tường thuật một người đến cậy nhờ Đức Giêsu xét xử việc chia gia tài bất công. Nhưng Người từ chối, không can dự việc này.
Đức Giêsu tránh can thiệp việc tranh chấp, chẳng phải Người chấp nhận sự bất công, hay dửng dung với nỗi thua thiệt của người kêu xin, nhưng chỉ vì đó không phải sứ vụ hay trách nhiệm của Người. Trong khi Thánh Ý Chúa Cha muốn Người lo liệu, làm sao cho toàn thể loài người được cứu rỗi và thừa kế Nước Trời. Người đến chủ yếu phục vụ con người, chứ không phải phân xử quyền lợi vật chất thế gian phù vân.
Sau này, Thánh Phaolô còn thành tâm nhắc nhủ tín hữu thành Côlôxê: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” ( Cl 3, 1-2 ).
Trong thư gửi ông Timôthê, Thánh Phaolô còn ân cần, tha thiết và thân thương khuyên nhủ: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa Đức Tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” ( 1Tm 6, 10 ).
Khôn dại
Trong cuộc đời, những ai nỗ lực, phấn đấu và may mắn gặt hái nhiều phúc lộc, giàu sang, quyền cao chức trọng, đều được thiên hạ bái phục, kính nể, cho rằng họ thiệt là khôn ngoan, thành đạt, thật phúc đức.
Nhưng có thật là phúc đức chăng, nếu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ, thoả mãn, kiêu hãnh, tự tôn về những thành quả ấy, thì hẳn chưa phải là khôn ngoan thật dưới cái nhìn của Thiên Chúa, như sách Giảng Viên đã viết: “Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ.” ( Gv 2, 21 ). Câu chuyện thừa kế kể trên đúng là tai hoạ kinh khủng khôn lường cho cả một gia tộc, còn dai dẳng chưa biết đến khi nào mới kết thúc.
Chính Đức Giêsu cũng cực lực cảnh báo những ai tham lam của cải thế gian, sẽ chẳng bảo đảm được sống đời đời: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu."
Thánh Phaolô cũng cực lực tẩy chay những thứ vật chất, danh lợi của gian trần nhơ nhuốc, mà lòng tham lam cũng chính là tôn thờ ngẫu tượng: “Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” ( Cl 3, 3-5 ).
Vậy khôn ngoan thế gian, tham lam vơ vét mọi sự, thu gom danh lợi, đam mê phù hoa, đắm đuối hưởng lạc, bất nhân, vị kỷ, sẽ chẳng thế nào tìm được và gia nhập Nước Trời. Cứ cố gắng noi gương dại khờ, điên rồ của các Thánh, các Tu Sĩ, từ bỏ thế gian, từ bỏ những quyến rũ, ảo ảnh phù vân, quyết tâm theo Chúa đến cùng, để được sống hạnh phúc viên mãn trong Nước Trời.
Làm giàu
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5, 3 ). Đức Giêsu kêu gọi sống tinh thần nghèo khó, đơn sơ, giản dị, không làm nô lệ cho thế gian, cho của cải, quyền lực, danh lợi, không làm ôsin cho tham sân si, cũng chẳng làm tay sai cho bản năng.
Hơn nữa, Người còn kêu gọi từ bỏ vật chất, những thứ phù phiếm, ảo ảnh quyến rũ thế gian, mà dấn thân, hy sinh phục vụ, sống nhân đức, bác ái, thương xót tha nhân, để đầu tư, tích luỹ và làm giàu kho tàng vĩnh cửu: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” ( Lc 12, 33 ).
Người còn khuyên nhủ tín hữu đều hết sức cố gắng, kiên quyết làm giàu, kiên trì, thuỷ chung, tích luỹ thật nhiều nhân đức, thật nhiều tấm lòng vàng, thật nhiều lòng nhân ái, để có thể sắm được viên bảo ngọc Thiên Quốc: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” ( Mt 13, 45-46 ).
“Con chỉ thiếu một điều: "Bán của cải, bố thí và theo Thầy" nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly !” ( Đường Hy Vọng, số 993 ).
Lạy Chúa Giêsu, Người đã vâng theo Thánh Ý Chúa Cha nhập thể xuống trần, rao giảng Tin Mừng, chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá, cùng phục sinh vinh hiển, để cứu rỗi chúng con, để cho chúng con xứng đáng được thừa kế Nước Trời vinh hiển. Nguyện xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức, luôn ước ao, luôn trông cậy của thừa kế vô song, tràn đầy hạnh phúc viên mãn.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con biết từ bỏ mọi sự thế gian, cùng hy sinh bỏ cả chính bản thân, để được diễm phúc đồng hành cùng Mẹ về Quê Trời. Amen.
Xưa có một người keo kiệt thu tích được một số tiền lớn, và vui sướng chờ đợi những năm tháng TN 18-C132
Xưa có một người keo kiệt thu tích được một số tiền lớn, và vui sướng chờ đợi những năm tháng rồi đây sẽ sống hạnh phúc. Tuy nhiên, trước khi có thể dự tính quyết định sao cho việc sử dụng tiền có hiệu quả nhất, thì thần chết đã xuất hiện và lấy đi mạng sống của ông.
Người keo kiệt đã nài nỉ thần chết cho ông được sống thêm một ít nữa. "Cho tôi được sống thêm ba ngày nữa và tôi sẽ cho ông một nửa tài sản của tôi", ông ta van nài. Nhưng thần chết không nghe điều đó và bắt đầu giật mạnh áo choàng của ông. "Cho tôi thêm một ngày nữa thôi, tôi van ông, và ông sẽ có tất cả những gì tôi đã tích góp được bằng biết bao mồ hôi và vất vả", người keo kiệt nói. Nhưng thần chết vẫn từ chối lời yêu cầu của ông.
Người keo kiệt cố gắng xoay sở tìm kiếm một chút nhân nhượng nơi thần chết, nhưng cuối cùng cũng chỉ được vài phút đủ để viết thông điệp này: "Ôi ! Các bạn, dẫu bạn là ai, mà tình cờ đọc thông điệp này, nếu bạn có cơ hội còn được tiếp tục sống, đừng lãng phí cuộc sống trong việc tích góp của cải. Ôi cuộc sống ! Của cải của tôi không thể dùng để mua thêm cho tôi dù chỉ một giờ sống."
Vấn đề không phải là chúng ta có được bao nhiêu của cải nhưng là chúng ta hưởng dùng những của cải mà chúng ta có như thế nào. Sự giàu sang không hệ tại nơi của cải mà là hưởng dùng. Nhiều người đánh mất khả năng hưởng dùng, đặc biệt những người ở những quốc gia giàu có. Họ cố kiếm cho được ngày càng nhiều đồ dùng đắt tiền. Để rồi họ không thể thưởng thức những điều đơn giản của cuộc sống như những trẻ thơ.
Điều làm cho chúng ta giàu có không phải số tiền chúng ta có được nhưng là khả năng hưởng dùng. Đi tìm kiếm sự giàu có trong khi không có khả năng hưởng dùng, thì cũng giống như người mù mà sưu tầm phim vidéo. Chúng ta có thể bắt đầu bị chi phối bởi vật chất, nhiều người bận tâm kiếm thêm cho nhiều của cải đến nỗi không còn thời gian để thưởng thức cuộc sống.
Tiền bạc và quyền lực có thể giam hãm và kiềm chế một cách hữu hiệu như những chấn song sắt của cửa sổ và xiềng xích. "Trát vàng cho bộ cánh của con chim và nó sẽ không bao giờ bay được nữa" (Tagore).
Một số người phải đợi đến khi vào trong nhà tù mới khám phá ra sự thiếu thốn ở nơi đó, và cảm nghiệm được sự tuyệt diệu của một tâm hồn tự do và bình an như thế nào. Điều ấy giải thoát chúng ta để tinh thần được triển nở. "Người ta không biết rằng họ đang phấn đấu cho điều gì. Họ dốc hết toàn lực trong cuộc theo đuổi rồ dại kiếm tìm vật chất, và khi chết đi vẫn không nhận biết được sự cao trọng của chính tinh thần mình" (Solzhenitsyn).
Hoàng tử Nhỏ nói: "Người ta vội vã trong chuyến xe lửa tốc hành, nhưng họ không biết họ đang tìm kiếm cái gì. Họ trồng mười ngàn hoa hồng trong cùng một khu vườn, và họ vẫn không biết họ đang tìm cái gì. Nhưng điều mà họ đang tìm lại có thể gặp thấy chỉ trong một bông hồng mà thôi." Khi chúng ta phân biệt được giữa nhu cầu và lòng muốn của chúng ta, chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận ra rằng chỉ cần một chút cũng là đủ.
"Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Người ta sẽ được lợi gì sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả phải chịu dưới ánh mặt trời ?", lời của sách Giảng viên trong bài đọc thứ nhất. Những lời này phác hoạ một cái nhìn có vẻ bi quan về cuộc sống, nhưng lại thật có ý nghĩa cho chúng ta khiến chúng ta tự hỏi, mục đích của cuộc sống là gì ? Chắc chắn không phải là tích trữ tài sản, tài sản mà sẽ phải bỏ lại trong bất cứ trường hợp nào.
Vật chất trần gian không bao giờ có thể làm thoả mãn tâm hồn của con người. Chỉ nơi Thiên Chúa, Người mới có thể cho chúng ta thứ hạnh phúc vĩnh cửu cho tâm hồn. Vì thế, thánh Phaolô nói: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" (Cl 3,2). Và Chúa Giêsu mong muốn chúng ta đừng tích luỹ của cải trên mặt đất, mà hãy tự làm giàu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho chúng ta trở nên giàu có trước mặt Chúa, không phải là những điều mà chúng ta sở hữu, cũng không phải là những việc chúng ta đã làm, nhưng chính là điều mà chúng ta là.
Tolstoy kể câu chuyện về một nông dân, có tên gọi là Pakhom, kẻ đã liều mạng muốn chiếm hữu TN 18-C133
Tolstoy kể câu chuyện về một nông dân, có tên gọi là Pakhom, kẻ đã liều mạng muốn chiếm hữu một số đất đai. Bằng những đồng xu dành dụm được, ông mua được 40 mẫu đất, ông vui mừng khôn xiết. Tuy nhiên, chẳng bao lâu ông lại cảm thấy bị tù túng, cho nên ông bán đi 40 mẫu đất, và mua 80 mẫu ở một khu vực khác. Nhưng việc này cũng không làm ông vừa lòng được bao lâu, vì thế ông lại bắt đầu một cuộc tìm kiếm mới.
Một buổi chiều nọ, có người khách lạ đến. Pakhom nói đến ước mơ của ông về một vùng đất mênh mông. Người khách lạ nói phía bên kia dãy núi là nơi sinh sống của một bộ lạc những người hoang sơ, họ có rất nhiều đất để bán.
Ngay ngày hôm sau ông ra đi. Người tù trưởng đón ông và nói: "Chỉ cần ông trả cho chúng tôi một ngàn rúp là ông có thể lấy bao nhiêu tuỳ ý, khu đất mà ông có thể đi bộ giáp vòng trong một ngày. Nhưng ông phải trở về đúng nơi ông đã xuất phát trong cùng một ngày, nếu không ông sẽ mất hết tiền."
Pakhom bàng hoàng xúc động. Suốt đêm đó ông không thể ngủ được, cứ mải suy nghĩ về vùng đất mà chẳng bao lâu nữa sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, điểm mốc được đánh dấu trên đỉnh đồi nhỏ, và ông bắt đầu ra đi. Những người đàn ông cỡi ngựa theo sau ông và đóng những cây cọc xuống đất để đánh dấu con đường mà ông đã đi qua.
Pakhom đã đi rất nhanh và mọi việc tiến triển tốt đẹp. Ông đi càng xa, đất đai ngày càng phì nhiêu. Với niềm say mê, ông cố khoanh vùng khu đất càng nhiều càng tốt, thế là ông quên mất thời gian. Sau đó ông thật sự sợ hãi khi thấy mặt trời bắt đầu lặn. Ông cố gắng chạy về hướng đỉnh đồi nhỏ, nơi xuất phát sáng nay càng nhanh càng tốt. Ông vừa về đến đỉnh đồi thì mặt trời tắt hẳn. Tuy nhiên, tới đó ông ngã quỵ sấp mặt xuống đất.
"Tôi xin chúc mừng ông", người tù trưởng nói. "Ông đã đạt được nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ." Nhưng Pakhom im lặng không trả lời. Họ lật ông trở lại. Ông đã chết.
Sở hữu một số tiền hay của cải vật chất nào đó thì rất cần thiết. Câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giêsu không nhắm đến nhu cầu mà nhắm đến lòng tham lam. Thoạt tiên người nông dân trở nên giàu có, nhưng ông vẫn không hài lòng. Sự tham lam như ngọn lửa, càng nhiều củi chất vào thì nó càng cháy mau hơn. Một trong những vấn đề chính của thời đại chúng ta ngày hôm nay là người ta không biết khi nào mới gọi là sung túc nhất.
Elvis Presley đã chết ở tuổi 42 vì lạm dụng ma tuý. Anh là chủ sở hữu của 8 chiếc ô tô, 6 mô tô, 2 máy bay, 16 hệ thông truyền hình, một toà nhà rộng lớn, và một số tài khoản kếch xù.
Khi con quạ xây tổ trong rừng, nó chỉ chiếm một nhánh cây. Khi con nai đi kiếm dòng sông để làm dịu cơn khát, thì nó chỉ uống theo nhu cầu cơn khát của nó lúc đó. Vậy tại sao con người lại phải tích trữ ?
Người ta có khát vọng tìm kiếm sự an toàn. Vào thời Kinh Thánh, khi nạn đói là mối đe doạ thường xuyên, thì người ta tìm sự an toàn bằng cách dự trữ lúa gạo. Vào thời đại hôm nay, người ta tìm kiếm bằng dự trữ tiền bạc, tài sản. Người ta tích luỹ vật chất và bám chặt vào nó, bởi vì họ ảo tưởng về sự an toàn mà nó sẽ đem lại. Nhưng sự an toàn không tìm thấy được nơi của cải. Sự an toàn chỉ có thể được tìm thấy trong Chúa.
Cũng như sự an toàn, người ta cũng tìm kiếm giá trị bản thân mình trong của cải. Trong xã hội, người ta được đánh giá qua số tài sản họ đang sở hữu. Sở hữu nhiều thì được đánh giá cao, chẳng có gì sở hữu thì chẳng đáng gì cả.
Mahatma Gandhi là một trong những người vĩ đại của thế kỷ 20. Tuy nhiên ông đã sống trong một căn nhà tạm bợ làm bằng cây trét bùn. Ông chỉ sở hữu những thứ thật sự cần thiết tối thiểu mà thôi. Của cải không bao giờ đem lại cho chúng ta nội lực. Chúng chỉ là đôi nạng của những người què quặt tinh thần.
Chúa Giêsu dạy chúng ta nên tìm cách làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa hơn là tích góp của cải vật chất. Điều làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là số tài sản mà chúng ta đang có, hoặc thậm chí những gì chúng ta đã làm, nhưng là điều mà chúng ta là.
Sở hữu không phải là tội lỗi, tội chính là thái độ sống ích kỷ. Không lệ thuộc không có nghĩa là hờ hững hay không quan tâm, nó có nghĩa là không chiếm hữu. Cuộc sống là quà tặng để ta đón nhận với lòng biết ơn, chớ không phải là của cải để ta bám chặt vào. Cuộc sống không chiếm hữu là cuộc sống tự do.
Tài sản duy nhất đáng được tích góp là sự giàu có của trái tim. Một tâm hồn quảng đại là một kho báu, có được tâm hồn quảng đại là giàu có trước mặt Thiên Chúa. Sợ hãi và tham lam là những kẻ thù thật sự. Nỗi lo sợ đói khát trong khi kho thóc đã đầy là sự đói khát chẳng bao giờ no thoả được.
Dẫu một người có khôn ngoan, tài giỏi và thành công trong những lao công vất vả thế nào chăng TN 18-C134
Dẫu một người có khôn ngoan, tài giỏi và thành công trong những lao công vất vả thế nào chăng nữa, khi chết anh vẫn không mang theo mình sự giàu có. Những người khác sẽ thừa hưởng những thành quả do bao công lao vất vả của anh để lại (bài đọc 1). Vấn đề xem chừng còn tệ hơn nữa, gia tài mà ông để lại có thể phá vỡ bình an trong gia đình. Tài sản thừa kế có thể là phúc lành hoặc là lời nguyền rủa. Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy hai anh em giành nhau của thừa kế. Đau buồn thay khi thấy con người tranh giành nhau bởi sự tham lam, ghen tỵ, gây nên những mối bất hoà.
Có một uỷ viên trong ban quản trị của một công ty đang làm ăn phát đạt. Anh sống với vợ và các con thơ trong một ngôi nhà khang trang, bà con láng giềng lại tốt bụng. Tuy nhiên anh vẫn cảm thấy không hài lòng, anh còn quá trẻ và đầy nhiệt huyết, đầy khát vọng. Với anh, bất cứ chuyện gì dường như cũng đều có thể đạt được. Vì thế, anh tự nhủ: "Tôi có thể làm tốt hơn, tôi phải làm việc cật lực."
Anh làm thêm nhiều giờ phụ trội và kiếm được thu nhập gấp đôi. Anh chuyển đến một căn nhà lớn hơn trong khu phố sang trọng của thành phố. Mặc dù công việc làm tiến triển rất tuyệt vời, thế mà anh ta vẫn chưa thoả mãn. Anh nhìn thấy những căn nhà trong giấc mơ mà giờ đây anh chưa có đủ tiền để mua. Nhưng chỉ một vài năm nữa là anh có thể sẽ mua được.
Anh đã không bao giờ có thể sở hữu được ngôi nhà trong mơ ấy, bởi vì anh đã bị đột quỵ bởi một căn bệnh không thể cứu chữa. Đột nhiên anh thấy mình ở ngay ngưỡng cửa của sự chết. Thế rồi, anh thật sự kinh hãi khi nhận ra rằng hầu như anh không biết đến vợ con, chỉ vì anh quá mải mê với căn nhà trong mơ. Tồi tệ hơn, khi anh nhận thức rằng anh đã không thật sự sống một chút nào. Anh đã làm cuộc sống ngưng lại cho đến ngày khi mà tất cả mục đích của anh đạt đến được.
Các nhân viên công ty và láng giềng nhìn anh, đánh giá anh là người thành công tuyệt vời. Nhưng tự xét bản thân mình, anh biết rằng anh chỉ là kẻ thất bại. Anh đã bỏ mất những điều quan trọng nhất trong cuộc đời. Anh cảm thấy trống rỗng, quy hướng về nội tâm và đầy bối rối xúc động. Phải chăng đó là trạng thái hạnh phúc nhất mà giờ đây khi hành trình trên trái đất của anh đã đến hồi kết thúc. Anh mong ước anh có thể bắt đầu lại tất cả, nếu được như vậy mọi việc sẽ khác biết bao.
Và anh sẽ để lại gì cho con cái ? Thật nhiều tiền, vâng. Nhưng còn gì nữa ? Không còn gì cả, hoàn toàn chẳng còn gì cả. Các con đã lớn lên hầu như vắng bóng anh, và bây giờ chắc chắn chúng sẽ tồn tại cũng không có anh.
Ngày nay, nhiều bậc cha mẹ ý thức rằng họ phải có nhiều thứ để ban tặng cho con cái chứ không đơn thuần chỉ là tài sản. Thông qua cách thức thực hành trong việc giáo dục con cái, họ đã chứng tỏ rằng họ thật sự chăm sóc chúng. Những đứa con là những người thừa kế thứ gia sản quan trọng nhất, và là sở hữu chủ thứ tài sản mà không tiền bạc nào có thể mua được.
Anh chàng giàu có khờ khạo đã quá trễ khi biết rằng tài sản vật chất không phải là thứ gia tài vĩnh cửu. Bởi vì anh đã cống hiến hết năng lực để thu góp của cải, thế mà anh chẳng có gì để gọi là của riêng, và cái chết đã bộc lộ cái cảnh nghèo nàn thuộc bản chất của anh. Chỉ có thứ tài sản đáng giá phải hết sức cố gắng giành được là những gì mà cái chết không cướp đi được, những gì sẽ tồn tại với cuộc sống đời đời. "Khi giây phút cuối cùng cuộc đời, chỉ những gì bạn đã đạt được mới đáng kể" (Antony de Saint Exupery).
Có một người tốt lành, ông đã từ chối để lại chúc thư, thay vào đó, ông nói ông sẽ để lại cho con cái những gì tốt đẹp nhất mà ông có, mẫu gương sống của cuộc đời ông. Hãy cho đi tài sản, quà cáp và tình yêu của bạn ngay bây giờ. Đừng chờ cho đến khi bạn chết đi, rồi ai đó sẽ phân phát chúng.
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần TN 18-C135
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi"
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên "người gia trưởng" được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người "con trưởng" đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau... Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.
Người đáp: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
1. Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy "giáo trưởng" trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.
2. Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một "ẩn ngữ", một "số ý lộn xộn" để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?". Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con?" Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của "người bị hiểu lầm", thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem "một cách công khai", dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được "ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người", thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì "chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi" (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các "dấu chỉ", Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
3. Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự "từ chối" việc can thiệp đó trong một câu hỏi: "Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?". Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: "Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng" (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu".
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ "con người"!. Chính "sự sống con người" đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: "Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: 'Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!' Rồi ông ta tự bảo: 'Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc 'kinh tin kính' của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: "Tôi... Tôi... Tôi... Mình... Mình... Mình sẽ làm... mình sẽ phá... mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình... kho lẫm của mình... thóc lúa của mình... chính bản thân mình...".
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của "đứa con hoang đàng" (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các "tiệc tùng", ở đó người ta "tiêu tiền như nước" "ăn uống no say" cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: 'Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại "nabal" với người khôn ngoan "maskil". Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. "Điên", năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). "Điên", những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những "dấu chỉ của thời đại" (Lc 12,56). "Dại" người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình "rơi xuống hố" (Lc 6,39). "Điên" ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng "đời sống" con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ "vì mình" (Lc 12,33-34).
Ông chủ trang trại trong dụ ngôn hôm nay đã quá lo lắng kiếm tiền và không giành thời gian để TN 18-C136
Ông chủ trang trại trong dụ ngôn hôm nay đã quá lo lắng kiếm tiền và không giành thời gian để làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu không tố cáo ông có những thành đạt, làm việc nhiệt tình để làm cho cuộc sống trở nên tốt hơn. Chúa chỉ phê bình ông vì ông có tính ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ về mình: tôi, tôi, tôi..”Tôi sẽ làm điều này, tôi sẽ làm điều kia, tôi sẽ xây lại kho lẫm, tôi sẽ tích trữ tất cả thóc lúa và của cải vào trong đó…”
Con người này tin rằng mình có tất cả và tự nhủ rằng: “hồn ta ơi, mình bây giờ mình ê hề của cải, dư sài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã…”(Lc 12,19). Nhưng Thiên Chúa nói với ông: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? …”(Lc 12, 20)
Cuộc sống của mỗi người chúng ta không thể có tất cả. Cần phải chọn lựa. Nếu quá quan tâm đến tiền bạc, của cải, quyền hành và danh vọng thôi, thì nhiều điều quan trọng khác có nguy cơ rất dễ bị quên lãng. Đây không phải là vấn đề đặt ra tiền bạc là xấu hay là tốt, nhưng vấn đề ở chỗ là cái gì phải ưu tiên hơn?
- Không có gì là xấu nếu chúng ta hăng say làm việc, nhưng chỉ có một điều là liệu tôi có thời gian để phục vụ gia đình bạn bè, sinh họat tôn giáo và những công việc từ thiện bác ái không?
- Không có gì là xấu nếu chúng ta xem chương trình TV hữu ích mỗi ngày 3 hoặc 4 tiếng đồng hồ, nhưng chúng ta cũng phải giành thời gian cho gia đình, cho con cái hoặc là giúp một việc gì đó cho họ đạo và cho giáo xứ.
- Không có gì là xấu nếu chơi thể thao mỗi ngày, nhưng đừng quên giúp đỡ và thăm viếng người hàng xóm ốm đau bệnh tật.
- Không có gì là xấu nếu hằng năm chúng ta phải tốn kém tiền của cho việc du lịch, nhưng đừng bao giờ quên chia sẻ tiền của cho những người nghèo hoặc những nhu cầu công ích.
- Không có gì là xấu nếu chúng ta đi tắm biển, nghĩ mát tại Sapa hoặc nghỉ cuối tuần, nhưng đừng bao giờ quên ngày của Chúa, ngày Chủ Nhật, chúng ta phải đi tham dự Thánh lễ.
Mở con tim chúng ta ra đối với những nhu cầu cần thiết của anh chị em chúng ta, là chúng ta đã trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có chọn lựa riêng có giá trị trong cuộc sống, nhưng phải chọn lựa thế nào cho đúng. Bài học quan trọng của dụ ngôn hôm nay, đó là trong một thế giới đầy dẫy những tiện nghi, có nhiều thứ vui chơi giải trí và hữu ích, những quảng cáo làm chúng ta dễ xiêu lòng; lúc đó chúng ta dễ có thể nói với mình rằng: “chẳng có gì là xấu nếu tôi biết hưởng thụ cuộc sống, biết du lịch một cách tối đa, biết mua sắm nhiều thứ”. Nếu nói như thế lại là xấu…
Nhưng nếu chúng ta biết đặt vấn đề:” Liệu tôi có thể làm điều gì khác cao thượng hơn không?”, thì cũng chẳng có gì là xấu...”
Trong KINH THÚ NHẬN, chúng ta vẫn thường đọc: “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều quên sót”. Trong đời sống chúng ta, có những quên sót vô trách nhiệm, quên sót nguy hiểm nhất, đó là quên Thiên Chúa, quên quan tâm đến nhu cầu cần thiết của người khác, sống một cuộc sống hưởng thụ không nghĩ đến ai. Lúc đó Thiên Chúa có thể khiển trách chúng ta vì đã bỏ quên bổn phận của người kitô: “Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã không cho Ta uống, Ta ốm đau hoặc ngồi tù các người đã không thăm viếng…”
Dụ ngôn người giàu có và ông Lagiaro nghèo trong Tin mừng cũng vậy. Người giàu không làm điều gì xấu nhưng ông không bao giờ quan tâm đến Lagiaro nghèo sắp chết đói tại cửa nhà người giàu mà trong khi đó người giàu ngày ngày mở tiệc linh đình.
Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học quý giá: đừng để lãng phí cuộc đời chúng ta, cần làm cho cuộc đời chúng ta trở nên giàu trước mặt Thiên Chúa. Hãy mở một tài khoản trong ngân hàng của Thiên Chúa, nơi mà kẻ trộm không thể đến được, nơi mà tiền lãi suất luôn ổn định, không sợ phải hạ thấp đột ngột về kinh tế tài chính!
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng hành động ngu xuẩn như ông chủ trang trại thiếu khôn ngoan trong Tin Mừng hôm nay. Lúc nào ông cũng chỉ nghĩ về tiền bạc hơn là trở nên một công cụ để hiệp thông, chia sẻ và giúp đỡ người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay là một cơ hội để chúng ta suy nghĩ về cái gì là quan trọng, là ưu tiên hơn thúc đẩy cuộc đời chúng ta, một cơ hội để chúng ta sử dụng tiền bạc, tài năng và thời gian của chúng ta như thế nào.
Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc đời chúng ta phải biết chọn lựa cái gì là có giá trị và bậc thang của các giá trị đó. Không phải cái gì cũng là tốt…Chúa không nói tiền bạc là xấu, nhưng Chúa nhắc nhở chúng ta rằng: cần phải chia sẻ tiền bạc và tài năng của chúng ta cho người khác. Mở con tim chúng ta ra đối với những nhu cầu cần thiết của anh chị em chúng ta, là chúng ta đã trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa. Amen!
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích TN 18-C137
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.
Gv 1: 2; 2: 21-23
Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.
Cl 3: 1-5, 9-11
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Ki-tô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được dự phần vào sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô, họ trở thành một tạo vật mới.
Lc 12: 13-21
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, lúc đó ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)
Câu mở đầu sách Giảng Viên: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”, đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền lâu. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.
1.Tác giả và tác phẩm:
Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.
Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ bi quan yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-môn, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn phiền (2: 14-16).
2.Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:
Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do: Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác, việc thừa kế quả là một đại họa; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.
-Việc thừa kế quả là một đại họa:
Khi viết: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19), tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.
-Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:
“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức khó nhọc mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.
Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)
Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.
1.Lập luận của thánh Phao-lô:
Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Ki-tô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.
2.Thực tại tinh thần:
Phép Rửa hiệp nhất người Ki-tô hữu với Đức Ki-tô Phục Sinh, Đức Ki-tô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
3.Con người mới:
Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Ki-tô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ viên mãn vào ngày tận thế. Sống theo Đức Ki-tô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.
4.Mặc lấy Đức Ki-tô:
Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Ki-tô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Ki-tô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.
“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thụ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Ki-tô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Ki-tô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 2: 27).
5.Ơn thông hiểu:
“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo Mặc Khải Ki-tô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3).
Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Ki-tô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)
Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giê-su về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.
1.Đức Giê-su từ chối lời thỉnh cầu:
“Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giê-su nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giê-su để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.
Chúa Giê-su từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giê-su cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).
2.Sự giàu có đích thật:
Chúa Giê-su chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.
Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giê-su có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm, chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).
Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi". Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy".
Suy niệm:
Qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu cho thấy hạnh phúc của con người không phải là có nhiều của cải TN 18-C138
Qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu cho thấy hạnh phúc của con người không phải là có nhiều của cải ở đời này, vì chúng mau qua và không thể mua được sự sống đời đời.
Nhiều lúc chúng ta cũng khờ khạo như người phú hộ kia, tìm sự bảo đảm cho cuộc sống của mình bằng cách mải mê tích cóp cho có thật nhiều tiền của mà quên đi nỗi lầm than túng thiếu của anh em. Chúng ta cũng đã lầm vì cuối cùng chúng ta chỉ còn hai bàn tay trắng.
Cầu nguyện: Lạy Chú là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng con. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan sáng suốt khi sự dụng những ân huệ Chúa ban. Biết dùng của cải đời này để mua lấy sự sống vĩnh cửu, bằng cách chia sẻ, giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ chung quanh chúng con. Amen.
Ghi nhớ: "Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"
Đọc câu chuyện dụ ngôn về ‘nhà phú hộ lo thu tích’, tôi trộm nghĩ: Đức Giê-su đúng là một TN 18-C139
Đọc câu chuyện dụ ngôn về ‘nhà phú hộ lo thu tích’, tôi trộm nghĩ: Đức Giê-su đúng là một hiền triết thứ thiệt. Từ cổ chí kim các nhà hiền triết đều dạy các điều tương tự như thế. Không ai còn lạ gì với tư tưởng uyên thâm: mọi của cải vật chất chỉ là phù phiếm, có những của cải khác còn đáng giá hơn nhiều; “Phù vân, mọi sự chỉ là phù vân!” (Gv 1:2 và xem thêm 1:16-18)… Tư tưởng này biện minh cho thái độ khinh chê giàu sang phú quí được nhiều người đề cao, hầu có được tâm hồn thanh thoát chuyên chăm vào các việc khác cao thượng hơn, như thu thập kiến thức, sống lịch lãm quân tử, khổ luyện đắc đạo chân tu… hầu lưu danh lâu dài cho hậu thế. Tuy nhiên như tất cả chúng ta đều biết, Đức Giê-su đâu có tới trần gian để chỉ dạy một triết lý sống; người không cần làm điều đó, vì nó chẳng có gì là mới mẻ cả, biết bao người khác cũng đã từng dạy môn sinh của mình như thế! Vì thế tôi rất mừng vì: trong một dịp khác Người đã từ chối trở thành người cầm cân nảy mực cho công lý: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” (Lc 12:14), cho dầu vào thời đại của Người, có lẽ xã hội đang rất cần những con người như thế (thử nghĩ tới những bóc lột, áp chế của đế quốc Rô-ma thống trị… , hay chế độ nô lệ bất nhân và hà khắc rất phổ biến). Không, Đức Giê-su không muốn được ai coi mình là thầy dạy luân lý; vì sứ mệnh của Người hoàn toàn khác!
Cái ‘triết lý’ xem ra Người muốn diễn đạt qua bài du ngôn dứt khoát phải theo định hướng Tin Mừng: Người muốn dẫn đưa con người tiến vào một tương quan đích thực với Thiên Chúa là Cha của Người. Theo Người: bất cứ cái gì cản trở mối tương quan đó đều phải dứt khoát loại bỏ. Dầu không sử dụng thành ngữ ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’, nhưng rõ ràng Đức Giê-su muốn ám chỉ điều đó khi Người nói: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”. Trong nội dung này thì ‘của cải’ ở đây phải bao gồm luôn cả kiến thức, thanh danh, đạo đức… được các triết lý sống khác thường đề cao. Ngoài việc nhắc nhở phải tránh lòng tham, bài học Đức Giê-su dạy còn liên quan tới một điều khác nữa tích cực hơn: làm cách nào để trở nên ‘giầu / nghèo trước mặt Thiên Chúa. Rất tiếc là bài Tin Mừng Chúa Nhật XVIII dừng lại ở câu 21; lẽ ra nó còn phải được tiếp tục tới đoạn sau, là mục tiêu chính của bài huấn dụ: sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa là Cha. Qua hình ảnh người phú hộ lo thu tích, nội dung ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’ đã lộ rõ; “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?… vì không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Thế nhưng thế nào là ‘làm giầu’ trước mặt Thiên Chúa thì đoạn văn trên vẫn chưa làm sáng tỏ đủ? Ai có thể được coi là ‘giầu có’ trước mặt Thiên Chúa, phải chăng là các bậc tài cao học rộng, những người đạo đức thánh thiện, hay các vị chân tu đạo sĩ…? Đối với một thương nhân ‘giầu’ thì ‘làm giầu’ sẽ có nghĩa là làm ra lắm tiền nhiều của; đối với một nghệ nhân thì giầu là phát triển tài năng thiên phú; đối với nhà thông thái thì lại là trau dồi học thức uyên thâm v.v…; còn thì ‘làm giầu trước mặt Chúa’ thì cũng tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm ta có về Thiên Chúa. Cựu Ước đề cao hình ảnh một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, khôn ngoan, công minh; và thế là ta có các mẫu người ‘giầu trước mặt Thiên Chúa’ như Mô-sê hùng mạnh, như Ê-li-a thánh thiện, như Sa-lô-môn khôn ngoan, như Da-vít công minh…; vậy thì, Đức Giê-su khi kêu gọi ta ‘lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa’, Người đang có trong đầu hình ảnh nào về Thiên Chúa? Thiên Chúa mà Đức Giê-su phác họa chắc chắn không thiếu các nét trên vì Ngài bao gồn tất cả; tuy nhiên nét nổi bật và độc đáo nhất mà Cựu Ước chưa hề có, hoặc mới chỉ được các ngôn sứ phác thảo mờ mờ chưa rõ ràng đó là: Thiên Chúa nhân ái và đầy lòng xót thương, một Thiên Chúa cứu độ. Đây mới là nét chân dung trung thực nhất về Thiên Chúa mà Đức Ki-tô Giê-su, và chỉ duy nhất mình Người mà thôi, có thể vẽ lên. Đó đồng thời cũng là bản chất của ‘vương quốc’ giầu sang mà Người công bố và mời gọi chúng ta hết lòng chăm lo tìm kiếm cho bằng được (xem Lc 12:30).
Hiểu như thế: ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ theo cách nói của Đức Giê-su, còn cao xa hơn cả sống thánh thiện, khôn ngoan, công chính, làm phép lạ…, nó phải là nội dung trung thực nhất của đời sống Ki-tô hữu; đó chính là đón nhận lòng nhân ái xót thương vô điều kiện Thiên Chúa ban…, và rồi thực thi lòng nhân ái đó cách quảng đại đối với tha nhân. Đương nhiên đời sống tín hữu Ki-tô không được phép thua kém luật pháp Do Thái trong các khía cạnh luân lý đạo đức, tuy nhiên nó không dừng lại ở đó! Trong số các giá trị Tin Mừng thì đón nhận và sống lòng xót thương phải là cao trọng hơn tất cả! Ki-tô hữu phải đặt điều này lên tầm cao tuyệt đối, và rồi toàn tâm toàn lực thực thi nó; đó là mục tiêu cao cả nhất mà chỉ những ai dám đứt bỏ mọi thứ thu tích (=làm nghèo) mới có thể thực hiện nổi.
Thế nhưng ngay trong công tác ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ này, Đức Giê-su không quên khuyến cáo: không có gì phải lo lắng, phải gò ép, phải luyện tập…, chỉ cần một điều kiện duy nhất là tín thác trọn vẹn vào lòng nhân ái của Thiên Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Ôi, thật an ủi xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, cảm tạ Chúa đã đưa con vào vương quốc yêu thương của Người. Ngay từ khi trở thành Ki-tô hữu, con đồng thời đã trở nên giầu có vô song, vì được sở hữu cách trọn vẹn lòng Chúa xót thương; xin đừng bao giờ để con bị rơi trở lại vào tình trạng nghèo nàn cố hữu, khi chỉ chuyên lo thu tích các của cải vật chất cũng như tinh thần mong làm cho đời mình thêm phong phú. Xin cho con biết ngày càng làm cho mình nên giầu sang hơn cho ‘vương quốc Nước Trời’, nhờ thủ đắc ngày càng trọn vẹn hơn lòng lân tuất vô biên của Thiên Chúa cứu độ. A-men
Uy tín của Ðức Giêsu đối với dân chúng thật rộng rãi, đến nỗi người ta coi Người như một quan TN 18-C140
Uy tín của Ðức Giêsu đối với dân chúng thật rộng rãi, đến nỗi người ta coi Người như một quan án thời Cựu Ước. Dân chúng tìm đến để nghe Ðức Giêsu giảng dạy, đồng thời đưa ra những thắc mắc để Người giải quyết. Hôm nay, một anh bạn trẻ tìm đến Ðức Giêsu để xin Người can thiệp vào việc chia gia tài. Thế nhưng, khác với sự chờ đợi của nhiều người, Ðức Giêsu đã từ chối lời đề nghị của người bạn trẻ. Tại sao thế? Phải chăng Ðức Giêsu không muốn can thiệp vào những câu chuyện cụ thể? Phải chăng việc giải quyết những trục trặc của đời sống không nằm trong sứ mạng của Người?
Thực ra, lời thỉnh cầu của anh bạn trẻ là một đòi hỏi cụ thể của sự công bằng. Người anh cả đã vượt quá những quy định của lề luật, và dành lấy hết cả phần gia tài, không chia lại cho người em. Theo thói quen thời ấy, anh bạn trẻ đến gặp Ðức Giêsu, anh tin tưởng rằng Người có thể giúp anh được hưởng phần gia tài theo đúng luật đã định. Nếu như Ðức Giêsu có can thiệp giùm anh, có dùng uy tín của mình để giải quyết bất công, điều đó cũng phải, cũng cần thiết lắm chứ. Vậy mà Ðức Giêsu đã từ chối. Kể là cũng khó hiểu. Có thể giải thích thái độ của Ðức Giêsu theo những khía cạnh sau đây.
Trước hết, anh bạn trẻ tìm đến Ðức Giêsu không phải để sẵn sàng nghe Người giảng dạy. Anh đến và đặt vấn đề anh đang bận tâm. Anh muốn Ðức Giêsu sử dụng uy tín của mình để giúp anh đạt được mục tiêu của mình. Anh đã có sẵn lời giải đáp, anh có một thế giới riêng và anh muốn tìm phương thế để mục tiêu của mình được thành tựu. Anh không muốn ra khỏi thế giới của mình, nhưng muốn người khác đi vào thế giới đó, làm cho thế giới đó được tốt đẹp theo cách nghĩ của anh.
Ðàng khác, có thể nói Ðức Giêsu công nhận lời thỉnh cầu của anh bạn trẻ là chính đáng, nhưng Người không muốn giải quyết cho cá nhân anh để rổi đám đông dân chúng, và cả chính anh, hiểu lầm về sứ mạng của Người. Ðã có nhiều lần, Người từ chối không giải quyết những bận tâm của dân chúng, của môn đệ. Sứ mạng của Ðức Giêsu có tính cách cao cả, dứt khoát, chứ không phải là giải quyết phần ngọn của vấn đề. Ðức Giêsu được sai đến trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi sự dữ, khỏi quyền lực của ma quỷ, để đưa họ vào sống trong tự do, trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Ở đây, nếu Ðức Giêsu can thiệp giùm người bạn trẻ, thì đương nhiên Người cho dân chúng có cảm tưởng rằng cuộc sống tuỳ thuộc vào của cải. Bởi đó, Ðức Giêsu đã không đi vào vấn đề cụ thể của người bạn trẻ, nhưng nhân đó để nói đến những điều sâu xa hơn, có tính căn bản cho mọi người và mọi thời.
Ðiều tương đối và điều tuyệt đối
Từ đó, Ðức Giêsu đưa ra giáo huấn của Người về của cải, về tiền bạc. Cuộc sống con người không tuỳ thuộc vào những gì người ta có. Thật là điên rổ khi có người nghĩ rằng của cải là một bảo đảm vững chắc cho đời sống của mình. Ðức Giêsu bác bỏ sự thống trị của điều xem ra là có "giá trị" nhất trần gian: của cải, tiền bạc. Trong giáo huấn của Ðức Giêsu, sự an toàn do vật chất chỉ là một thứ điên rổ. Nếu không hiểu điều ấy, sự giàu có sẽ trở thành một nhà tù, và người giàu có trở thành tù nhân trong căn phòng ấy. Càng nỗ lực thu góp của cải, người ta lại càng củng cố nhà tù của mình thêm vững chắc.
Giới hạn cuối cùng làm sáng tỏ vấn đề khi cái chết xuất hiện. Của cải không thể bảo tổn sự sống và cũng chẳng đáng là gì so với sự sống. Mạng sống là mục đích của của cải mà còn tương đối thì huống chi những thứ phụ thuộc. Của cải chỉ là để phục vụ cho sự sống, chứ không có giá trị nào khác. Và sâu hơn nữa là sự sống đích thực được đặt trên nền tảng vững chắc: mối tương giao với Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là vững bền và chính Người có quyền trên cuộc sống.
Ðàng khác, nếu ngụp lặn trong sự giàu sang để hy vọng được sống lâu, sống hạnh phúc là một điều điên rổ, thì cũng điên rổ không kém khi cho rằng giàu có là để hưởng thụ cho riêng mình. Lòng tham lam, sự say mê của cải làm cho con người chỉ nghĩ đến bản thân mình, đổng thời ngăn cản sự quan tâm đến người khác. Nó làm cho người ta chỉ nghĩ đến bản thân và cuộc sống hiện tại. Từ đó, sự tham lam kéo theo nhiều sự bất công với mục đích củng cố sự giàu có của mình, sẵn sàng chà đạp lên cuộc sống của người khác, miễn là sự giàu có của mình được bảo đảm.
Như thế, Ðức Giêsu trả lại vị trí tương đối cho của cải. Người đề cập đến "nền tảng" của vấn đề. Người mời gọi đi vào một viễn tượng mới: "Sự giàu có nơi Thiên Chúa." Chính vũ trụ này mới làm cho sống, bởi vì nó được đặt trên, không phải sự an toàn giả tạo, nhưng trên sự hiệp thông trong tình yêu. Trước mắt người đời, thực tại này có thể bị coi là điên rổ, nhưng lại là thực tại vững chắc nhất, thực tại mở ra sự sống.
Bởi đó, với kinh nghiệm cá nhân, thánh Phao-lô đã giải thích cho tín hữu Phi-líp-phê: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Ðức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Ki-tô, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đổ bỏ, để được Ðức Ki-tô" (Pl 3,7-8).
Cuộc đấu tranh trường kỳ
Thế nhưng, trong thực tế, của cải vẫn là ám ảnh rất lớn. Ðây thực sự là một cuộc đấu tranh để lựa chọn giữa Thiên Chúa và của cải. Không phải là trận chiến trong một vài ngày, vài năm, nhưng kéo dài suốt cả cuộc đời. Bởi vì, trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa, người Ki-tô hữu vẫn phải làm việc, vẫn phải kiếm tiền để sinh sống. Biết đâu là giới hạn, để coi tiền bạc như là phương tiện chứ không hướng tới như một mục đích, đó vẫn là điều rất khó khăn, ngay cả trong những việc lành thánh nhất. Ðó là một thái độ phải lựa chọn, và người Ki-tô hữu phải hợp lý với chính mình, không quá say mê của cải trần gian, nhưng cũng không phải là chỉ nghĩ đến Thiên Chúa để bỏ quên mọi thứ của trần gian.
Theo sách Giảng viên, mọi sự đều là phù vân. Ðúng vậy, so với Thiên Chúa, tất cả đều không có giá trị. Ngày nay, trong quan điểm của lòng tin, mọi sự đều là hổng ân. Nếu coi mọi sự mình đang có là hổng ân, người Ki-tô hữu sẽ sử dụng hổng ân một cách tốt đẹp nhất, ích lợi nhất, cho chính mình và cho cả người khác. Nếu mọi sự chúng ta có đều do nhận được, thì chúng ta cũng sẽ không giữ cho mình, không coi là của mình, để rổi biết đem chia sẻ cho người khác, và nhất là để làm vinh danh Ðấng đã ban tặng những của cái đó.
Bấy giờ, cái chết đến, và không phải là lúc chúng ta buông xuôi, mất đi mọi của cải, nhưng nhận lại được gấp trăm. Cái chết làm cho chúng ta ra trắng tay, nhưng Thiên Chúa lại cần đến để đỗ tràn nơi chúng ta vinh quang vĩnh cửu.
* * *
Có những người nghĩ rằng họ sẽ sống mãi mãi, và quyền hành thuộc về họ muôn đời.
...
Bạn đừng bao giờ thất vọng khi thấy người nào đó giàu lên, khi thấy họ có nhiều của cải, và được người người ca tụng. Vì trong cái chết, họ sẽ chẳng còn quyền lực nào. Họ sẽ phải đi đến nơi vĩnh viễn, không có một tia sáng. Họ cứ tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ chết; họ quên mất một điều họ sẽ phải chết như mọi loài. phỏng theo F. Cardenal.
Vấn đề Đức Giêsu đặt ra cho những người làm giàu, chính là phải biết làm giàu trước mặt TN 18-C141
TMĐP- Vấn đề Đức Giêsu đặt ra cho những người làm giàu, chính là phải biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa, chứ không chỉ làm giàu trước mặt thế gian.
Người ta thường nói: Nghèo là một cái tội. Quả thực nghèo mà không khéo sẽ sinh ra muôn ngàn giống tội. Có người vì nghèo đã trấn lột, cướp bóc để rồi rơi vào vòng lao lý; có người vì nghèo đã phải bán thân, tự hạ thấp danh dự; và không ít người vì nghèo đã quyên sinh, tự tử… Nghèo cũng làm con người dễ bỏ Chúa, đánh mất đức tin, và nhiều giá trị khác …
Nhưng giàu chưa chắc đã có phúc, nếu không khéo làm giàu và khôn ngoan biết sống giàu.
Các bài đọc phụng vụ hôm nay chứng minh cho chúng ta điều này:
Trước hết, Cựu Ước nhắc nhở: “Phù vân, qủa là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời?” (Gv 1,2-3). “Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại họa” (Gv 2,21).
Phù vân, vì có người làm giàu mà chẳng được hưởng hoa trái của mồ hôi nước mắt mình đổ ra; đại họa vì có khi chính sự nghiệp mình đã vất vả tạo nên lại trở thành mồ chôn chính mình. Đó là chưa nói tới phận người chỉ là cát bụi và phải trở về cát bụi; kiếp người chóng vánh mong manh “như hoa sớm nở tối tàn, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc không còn mang vết tích”( x. Tv 89,4-5).
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu từ chối can thiệp vào việc chia gia tài của anh em nhà kia, và dứt khoát khẳng định: con người phải tự giải quyết với nhau những lấn cấn về của cải, mà không nên chờ Thiên Chúa giải quyết thay họ, bởi đó là trách nhiệm của con người phải tìm ra đâu là công lý, thế nào là công bằng, và cùng nhau thực hiện trong tinh thần bác ái, huynh đệ (x. Lc 12, 13-14).
Để giải thích lời cảnh báo: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư dả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12, 15), Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về người giàu có kia suốt đời mải mê thu gom, tích trữ của cải và say sưa hưởng thụ mọi thú vui do của cải mang lại. Nhưng rất tiếc, ông quên bẵng một điều là nội trong đêm nay, mạng sống của ông sẽ bị lấy đi, và của cải ông có sẽ về tay ai? (x. Lc 12, 16-20). Chắc chắn sẽ về tay người khác, còn ông sẽ trở nên người nghèo khó, đã ngu ngốc “không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21).
Như thế, làm giàu không phải là tội, vì Thiên Chúa không cấm chúng ta làm giàu, bởi có tiền mới đem lại cho chính bản thân và thân nhân cuộc sống đầy đủ và xứng đáng; có của cải mới bảo đảm đời sống hằng ngày, và có phương tiện giải quyết những khó khăn, bất trắc trong đời sống; vật chất có dư dả, trái tim mới có thể hào sảng và bàn tay mới có thể rộng rãi chia sẻ, giúp đỡ người chung quanh, và người giàu không có gì đáng trách khi họ làm giàu, và họ luôn được Thiên Chúa yêu thương, trân trọng như bao người khác, điều mà Tin Mừng đã minh chứng qua những lần Đức Giêsu đến gặp và dùng bữa ở nhà những người giàu.
Vấn đề Đức Giêsu đặt ra cho những người làm giàu, chính là phải biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa, chứ không chỉ làm giàu trước mặt thế gian, làm giàu để thoả mãn lòng tham vô đáy, vì nếu chỉ làm giàu trước mặt thế gian, mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa, người giàu sẽ cậy vào khối của cải kếch xù, và tài sản khổng lồ, vĩ đại của mình mà lầm tưởng mình toàn năng, bất tử, và quên bẵng số phận của mình luôn nằm trong tay Thiên Chúa. Cũng thế, làm giàu để thoả mãn lòng tham vô đáy sẽ làm người giàu trở nên kiêu căng, ích kỷ, dễ rơi vào bất chính, bất công, bất nhân bất nghiã khi làm giàu, vì không nhận ra tất cả những gì mình có đều là “món qùa Thiên Chúa ban tặng” (Gv 3,13), và có bổn phận chia sẻ với những người thiếu thốn quanh mình.
Người làm giàu trước mặt Thiên Chúa là “người khôn ngoan biết mở mắt nhìn”, không như “kẻ dại bước đi trong đêm tối” (Gv 2,14). Và người khôn ngoan thì nhận ra những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra chính là do Thiên Chúa mà đến (x. Gv 2,24), đồng thời biết rõ: “người công chính cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử. Vì mọi sự, mọi việc, đều có thời, có lúc” (Gv 3, 17).
Và điều Thiên Chúa sẽ xét xử người công chính cũng như kẻ gian ác, người nghèo cũng như người giàu, người làm giàu cũng như kẻ lười biếng, chính là lòng quảng đại, trái tim nhân hậu, tâm hồn vị tha và bàn tay biết chia sẻ với những người thiếu thốn, nghèo khó, cơ cùng, như hình phạt ông phú hộ kia phải chịu trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (x. Lc 16,19-31), vì khi còn sống, ông đã không “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, khi không thương cảm, cho ăn cho mặc “người nghèo khó tên Ladarô, mụn nhọn đầy mình, nằm trước cổng nhà ông” (Lc 16, 20).
Chuyện kể rằng, ngày xưa, có một vị tướng rất giỏi, có khả năng chinh đông dẹp bắc. Một lần TN 18-C142
Chuyện kể rằng, ngày xưa, có một vị tướng rất giỏi, có khả năng chinh đông dẹp bắc. Một lần kia, sau khi đánh thắng quân thù, nhà vua muốn khen thưởng cho vị tướng và nói: “Trẫm ban cho ngươi một phần thưởng: ngươi cưỡi ngựa phi đến đâu thì phần đất ấy thuộc về ngươi”. Vị tướng nọ cưỡi ngựa phi nước đại, chẳng mấy chốc, đã đi được rất xa. Nhưng ông ta tiếp tục phi ngựa vì nghĩ rằng cần phải mở rộng đất đai cho con, cháu và các thế hệ tương lai. Ông phi ngựa tới lúc xế chiều và con ngựa mệt mỏi vấp chân làm ông ngã lăn ra, đập đầu vào tảng đá. Lúc hấp hối, vị tướng đã thốt lên: “Ta tham vọng có một giang sơn, nhưng nay, lúc chết, chỉ cần mấy tấc đất làm chỗ chôn là đủ”. Việc một người đề nghị Chúa Giêsu làm trọng tài phân chia của cải làm chúng ta nghĩ đến những cuộc tranh chấp thường xuyên xảy ra giữa những người cùng chung máu huyết trong cuộc sống hôm nay. Thực vậy, của cải tiền bạc đã làm nhiều người mờ con mắt và quên hết mọi sự. Đối với những người này, tiền bạc là lý tưởng, là ưu tiên. Vì tiền bạc, người ta có thể phủ nhận những gì là thiêng liêng nhất: anh em chia rẽ, huynh đệ tương tàn, bạo lực cướp bóc gia tăng tràn lan, xã hội hỗn loạn, gia đình tan vỡ, bạn bè chia lìa. Trong lãnh vực đức tin cũng vậy. Nhiều người sẵn sàng làm những điều trái với luật Đạo, để làm giàu hoặc thăng tiến trong đời sống chính trị. Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay muốn khẳng định: chọn của cải như lý tưởng của cuộc đời là một chọn lựa lầm lẫn, thậm chí là ngu ngốc. Người phú hộ thực ra là người khôn ngoan và cần mẫn. Nhờ sự khôn ngoan khéo léo mà anh có thể làm giàu. Anh lo lắng tích trữ của cải, phá kho nhỏ đề xây kho lớn. Đến lúc anh tưởng như mình thực sự an toàn và được hưởng thụ của cải bao lao công khó nhọc làm ra, thì anh lại bị quở trách là đồ ngu ngốc! Anh bị kết án vì anh tham lam và coi của cải là lý tưởng cao cả nhất của mình. Anh đặt mọi niềm hy vọng nơi của cải. Anh còn bị kết án là ngốc, vì anh không biết lo lắng cho linh hồn mình, là điều mà Chúa Giêsu gọi là “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Vì vậy, nếu anh nghĩ rằng đã đến lúc nghỉ ngơi thoải mái, thì Chúa lại đòi linh hồn anh, có nghĩa là anh chẳng còn cơ hội để mà hưởng lạc nữa. Đừng vội cho rằng Chúa kết án những người giàu có! Trong lịch sử, biết bao người giàu có đã nên thánh. Họ không coi tiền bạc của cải như lý tưởng và mục đích cuối cùng của cuộc đời. Họ ý thức rằng, ở đời này, của cải thực ra là Chúa trao cho mỗi người quản lý và sinh lợi. Họ như những đóa sen, sống gần bùn mà vẫn thanh tao tinh tuyền, tỏa hương thơm ngát. Của cải chi là phương tiện để giúp họ nối kết tình bạn, thực thi bác ái và làm cho phẩm giá con người được tôn trọng. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” Chúa dạy chúng ta, đừng cậy dựa vào của cải như một điểm tựa vững chắc vĩnh cửu. Kinh nghiệm đời thường cũng cho chúng ta thấy, dư dật của cải không phải lúc nào cũng cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc. Tác giả sách Giảng Viên đã khẳng định: mọi sự đời này đều như mây trôi, hội tụ rồi lại phân tán, như đóa hoa phù dung sớm nở chiều tàn, tất cả chỉ là hư vô. Con người cứ mải mê làm giàu, một lúc nào đó giật mình nhìn lại, không biết mình sống vì ai và để làm gì, như trường hợp vị tướng trong câu chuyện trên đây. Anh nghĩ rằng cần phải mở rộng giang sơn, nhưng “ba tấc đất mới thật là nhà”. Giang sơn rộng rãi ấy, đối với một người đang hấp hối, đã trở nên vô nghĩa. Thánh Phaolô không chỉ phê phán thói quen gắn bó lệ thuộc vào của cải, mà còn mời gọi mọi người hãy từ bỏ gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam, từ bỏ giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, ăn nói thô tục. Thánh nhân cũng gọi tham lam là một thứ ngẫu tượng, cần phải diệt trừ để có thể trung thành sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu, trở nên con người của thượng giới, vì con người hạ giới đã bị giết chết khi chúng ta trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự vấn lương tâm, xem đâu là chọn lựa quan trọng và ưu tiên cho đời mình. Chọn Chúa là một chọn lựa khó khăn và chấp nhận nhiều thiệt thòi, nhưng đó là một chọn lựa căn bản, giúp ta tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định với chúng ta: Đừng sợ chọn lựa Chúa Giêsu. Bạn sẽ không phải thiệt thòi, vì Chúa Giêsu sẽ ở bên bạn và Người sẽ giúp bạn vượt lên những thử thách cam go của cuộc đời. Chúa cũng nói với chúng ta : “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Con người ngày nay xem ra họ rất cần tiền và chỉ cần tiền. Vì tiền mà họ bỏ rơi nhau, làm hại TN 18-C143
Con người ngày nay xem ra họ rất cần tiền và chỉ cần tiền. Vì tiền mà họ bỏ rơi nhau, làm hại nhau, có khi loại trừ nhau. Có những gia đình ngày xưa nghèo chỉ ăn mắm muối mà hạnh phúc bên nhau, nay có lắm tiền nhiều của thì tranh giành lẫn nhau và xa rời nhau. Có những bạn bè khi cơ hàn là bạn chí cốt của nhau đến khi giầu sang lại quên đi tình nghĩa năm xưa. Có những mối tình phải ngậm ngùi chia tay chỉ vì đồng tiền xem trọng hơn con người mình yêu.
Cuộc đời vẫn là thế! Tình người dễ thay trắng đổi đen. Có thể vì một chút bổng lộc mà làm hại lẫn nhau. Người ta sống như thể không bao giờ chết. Sống giành giựt lẫn nhau. Bon chen, lừa đảo và làm hại lẫn nhau chỉ vì tiền. Một cuộc sống đề cao đồng tiền thì khác chi một chiến trường cạnh tranh đầy khốc liệt. Một cuộc sống chỉ lo tranh giành làm sao có giây phút tận hưởng cuộc sống mà Chúa đã tặng ban?
Tôi nhớ có một bài thơ của ai đó viết rằng:
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật Thế cho nên tất bật ðến bây giờ ! Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc Nào ngờ ðâu ở mãi ðến hôm nay !
Nhưng rồi với những ngày tháng tất bật ngược xuôi đã giúp con người khám phá ra sự thật của kiếp người. Một kiếp con người thật mong manh, thật phù dù!
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ Cuộc ðời này chỉ tạm bợ mà thôi Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Nếu hiểu rằng cuộc đời là phù du thì xin đừng tranh chấp, đừng tích lũy của cải phù vân. Hãy sống cho vui vẻ với cuộc đời và với mọi người:
Cuộc ðời ta phù du như cát bụi Sống hôm nay và ðâu biết ngày mai ? Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Và hãy sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau thay cho những bon chen ganh ghét, hận thù nào có ích chi?
Thì người ơi! Xin ðừng ganh ðừng ghét Ðừng hận thù tranh chấp với một ai Hãy vui sống với tháng ngày ta có Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Nếu ta biết sống cho nhau và vì nhau, ta sẽ không bao giờ nuối tiếc vì cuộc đời đã qua. Con người chỉ tiếc nuối khi mình sống quá ích kỷ mà làm tổn thương đến đồng loại mà thôi.
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc Vì ðời ta ðã sống trọn kiếp người Với tất cả tấm lòng thành thương mến Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Con người cần phải hiểu được nguyên lý của tạo vật : là cát ta sẽ về với bụi, lúc đó ta mới sống không bon chen, không tích lũy, nhưng luôn yêu thương quảng đại trao ban cho tha nhân.
Ta là cát ta sẽ về với bụi Trả trần gian những cay ðắng muộn phiền Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hai nhân vật tiêu biểu cho hai loại người hôm nay: tham quyền và tham tiền. Kẻ tham quyền thì dùng quyền bính để ăn chận tài sản người khác. Kẻ tham tiền thì lo vun quén cho đầy kho. Mẫu số chung của cả hai loại người này là ích kỷ, chỉ lo cho bản thân và không màng tới tha nhân, cho dù đó là người thân của mình. Người anh đã dùng quyền bính để khước từ việc chia gia sản cho người em. Người phú hộ vì tham tiền nên chỉ lo nghĩ đến việc tích góp của cải đến nỗi không còn thời giờ dành cho tha nhân. Họ tham tiền, tham quyền đến mức độ coi tha nhân là kẻ thù, là kẻ đang tranh giành địa vị và tiền tài với mình. Họ không cần tình bạn, họ chỉ cần tiền. Họ không cần người thân, họ chỉ cần kho lẫm chất đầy vàng dư. Họ đâu hiểu được rằng tất cả chỉ là phù vân. Sự sống đời sau mới là vĩnh cửu. Và sự sống vĩnh hằng không thể mua bằng tiền bạc, càng không thể tìm kiếm bằng vũ lực mà bằng lòng nhân nghĩa. Lòng nhân nghĩa đối với đồng loại bao hàm tinh thần yêu thương và phục vụ. Yêu thương nên sẵn lòng dấn thân và phục vụ vì lợi ích của tha nhân. Yêu thương nên sẵn lòng nhường nhịn và chia sẻ lẫn nhau. Yêu thương nên sẵn lòng hy sinh bản thân mình để tìm niềm vui trong phục vụ tha nhân.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết dùng gia sản là tài năng và khả năng của mình để mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Xin đừng tích lũy kho báu hư nát đời này mà hãy tích lũy công đức cho đời sau. Amen.
Của cải vật chất luôn là những cám dỗ lớn của con người. Nhiều lúc do mải mê trong thế sự TN 18-C144
Của cải vật chất luôn là những cám dỗ lớn của con người. Nhiều lúc do mải mê trong thế sự, đắm chìm trong những đam mê, của những giá trị trần thế, mà quên đi cùng đích, và ý nghĩa của cuộc đời. Các bài đọc lời Chúa tuần này, nhấn mạnh đến phần rỗi và sự sống đời đời, vì nếu được lời cả thế gian, mà mất linh hồn thì được ích gì.
Sách Giảng viên của một tác giả Qohelet sống vào khoảng năm 300-200, trước công nguyên, đã dạy rằng : “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không”(Gv 1,2). Tất cả mọi sự trên cuộc đời này sẽ không tồn tại mãi mãi. Triết gia Heralitus cũng đã nhận định rằng: “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, mọi sự sẽ qua đi. Vì thế, nếu cứ lo đi tìm cho mình những của cải chóng qua ở đời tạm này, thì thật khác nào: dã tràng xe cát biển đông, vì: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.” (Lc 12:20-21). Nói thế, không phải phủ nhận tất cả những giá trị căn bản của trần thế, vì chính Đức Giê-su Ngài cũng đã dạy các môn đệ, và chính Ngài đã làm gương cho họ: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy” (Ga 5,17). Làm việc để tạo ra những vật chất, chúng là những phương tiện hữu ích, giúp cho đời sống con người, ngày một thăng tiến hơn. Sử dụng của cải vật chất ở đời này, để mua lấy thửa ruộng có chứa kho tàng, và viên ngọc quý, đó là cách làm của những người khôn ngoan. Trái lại, nếu chỉ biết dừng lại ở chỗ hưởng thụ và tham lam thu tích của cải đời này, thì chẳng khác nào người phú hộ trong Tin mừng hôm nay. Những gì tôi đang sắm sửa, sẽ không còn nữa. Những gì tôi đang có sẽ không thuộc về tôi. Chỉ những cái tôi cho, thì mới là cái tôi đang có.
Xin Chúa ban ơn giúp sức, để mỗi người chúng con biết tìm kiếm và sống theo những giá trị của Tin mừng. Đồng thời luôn cảnh giác với chủ nghĩa hưởng thụ và khoái lạc luôn rình rập xung quanh mình. Amen.
Bài đọc 1 hôm nay (CN XVIII/TN-C – Gv 1, 2; 2, 21-23) trich Lời tựa của sách Giảng Viên: “Đây là lời ông Cô-he-lét (vua Sa-lô-môn), làm vua ngự tại Giê-ru-sa-lem. Ông là con vua Đa-vít.” (Gv 1, 1). Ngay câu mở đầu đã gây sự chú ý cho người đọc: “Ông Cô-he-lét nói : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.” Sau đó, tác giả trình bày “có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Chính vua Sa-lô-môn đã tự nhận mình là nhân vật có quan điểm cuộc sống là “phù vân”: “Tôi là Cô-he-lét, tôi đã làm vua cai trị Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem. Tôi đã chú tâm tìm hiểu và dùng trí khôn ngoan mà khảo sát tất cả những gì xảy ra dưới bầu trời: đó là công việc nhọc nhằn Thiên Chúa bắt con cái loài người phải để tâm thực hiện. Sau khi nhìn thấy mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt trời, tôi nhận ra: tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát. Cái gì đã cong, uốn làm sao nổi, cái gì đã thiếu, đếm thế nào ra?” (Gv 1, 12-15).
Tiếng “phù vân” được lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Thử tìm hiểu xem “phù vân” là gì? Sách Giảng viên đã chú thích như sau: Nguyên ngữ tiếng Híp-ri là “hebel” có nghĩa là hơi nước hay hơi thở, nhằm nói đến cái gì mau qua làm cho con người chán chường, thất vọng. Chính vua Sa-lô-môn dù khôn ngoan (1V 5, 9-11), giàu có, sung sướng (1V 10, 4-10) cũng không được hạnh phúc. Bản dịch Kinh Thánh đã dịch “hebel” là “phù vân”. Theo từ nguyên Hán Việt thì “phù vân” ( 浮雲 ) có nghĩa: Đám mây nổi (chỉ sự không bền vững). Nói đến “Phù vân” lại nhớ đến 2 câu thơ của Đỗ Phủ (đời Đường, Trung Quốc): “Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu du hốt biến vi thương cẩu” (Trên trời có đám mây bồng bềnh như áo trắng, Bất chợt biến thành con chó xanh). Hình ảnh “Đám mây trôi nổi trên bầu trời biến thành hình con chó xanh” đã khiến nhiều văn nhân thi sĩ đồng cảm với Đỗ Phủ và coi cuộc sống phù du giống như bức tranh “vân cẩu” (mây chó); như Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán Ngâm Khúc” đã viết: “Lò cừ nung nấu sự đời; Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.”
Hồi còn trẻ, đọc câu “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” cứ tưởng “tang thương” là “chết chóc (tang) đau thương”, nhưng sau được học “Tang thương ngẫu lục” mới biết “tang thương” ( 桑滄 ) là từ viết gọn của câu “thương hải biến vi tang điền 滄海變為桑田 ” (biển xanh biến thành ruộng dâu) có nghĩa là sự biến dịch mau lẹ trong thiên nhiên. Như vậy “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” chỉ hàm nghĩa cuộc đời chóng qua, biến đổi không ngừng. Đọc tiếp, sẽ thấy rõ hơn “Mùi phú quý nhủ lòng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh. Giấc Nam kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.” (“Cung Oán Ngâm Khúc”, câu 81-84). Cuộc thế ba vạn sáu ngàn ngày chẳng qua cũng chỉ là “Tuồng huyễn hoá đã bày ra đấy, Kiếp phù sinh trông thấy mà đau. Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” (ibid – câu 101-104). Cũng còn may lắm khi có dịp “bừng con mắt dậy” để “thấy mình tay không”. Đến như anh chàng đầy tớ trong truyện cổ sau đây thì … hết biết!
Truyện kể rằng: Có một phú hộ cỡ bự, một hôm kêu đầy tớ đến bảo: “Ta sẽ cho ngươi ruộng đất của ta như lòng mong mỏi của ngươi. Vậy sáng mai lúc mặt trời mọc, ngươi sẽ chạy khoanh vùng cho tới khi mặt trời lặn. Ngươi chạy khoanh được bao nhiêu thì bấy nhiêu ruộng đất sẽ thuộc về ngươi. Nhớ điều này: Nếu ngươi trở về khởi điểm sau khi mặt trời lặn, ngươi sẽ chẳng được gì, dù một tấc đất”. Người đầy tớ sung sướng vô cùng nghĩ bụng : “chỉ trong vòng ngày mai thôi, với sức khoẻ thế này, ta sẽ có trong tay bao nhiêu ruộng đất và trở thành ông chủ chẳng kém gì ông chủ hiện thời”. Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, anh ta đã cắm đầu cắm cổ chạy, chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Đến đúng ngọ, thay vì phải chạy vòng trở về, nhưng nhìn đồng ruộng xanh tươi bạt ngàn trước mắt, anh ta còn muốn có thêm ruộng đất nên vẫn cắm cúi chạy tới miết. Cho đến khi trời xế chiều, anh ta mới giật mình chạy vòng trở về khởi điểm. Nhưng thấy đường còn xa, tên đầy tớ lo sợ không về kịp lúc mặt trời lặn, nên càng gắng sức “vắt giò lên cổ” chạy nhanh hơn, trong khi thân thể đã mỏi mệt rã rời. Về tới nơi thì mặt trời cũng vừa lặn, nhưng tên đầy tớ kiệt sức, ngã gục và chết ngay dưới chân chủ. Chủ vẫn giữ lời hứa, nhưng anh đầy tớ giờ đây chỉ cần “ba tấc đất gửi nắm xương tàn” đã là quá đủ. Thế đấy! Tham giàu đến thiệt mạng! Quả đúng là “tham thì thâm”!
Anh chàng phú hộ trong dụ ngôn Đức Giê-su kể (bài Tin Mừng CN XVIII/TN-C – Lc 12, 16-21) nếu nói về lòng tham quả thực cũng y như anh chàng đầy tớ trong câu chuyện cổ. Nhưng anh phú hộ may mắn hơn anh đầy tớ nhiều, vì còn được Thiên Chúa nhắc nhở: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21). Và đây chính là dịp cho anh chàng phú hộ mở mắt. Mở mắt, “bừng con mắt dậy…” để “thấy mình tay không”, ngộ ra được cuộc sống trăm năm với biết bao của cải vật chất cũng chỉ là “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1, 2). Còn chàng đầy tớ, tiếc thay, lại tắt thở vào đúng thời điểm thu tích của cải!
Quả thực, đã qua tuổi “thất thập cổ lai hi” mới thấy thấm thía “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Đợi đến khi “chán cơm, thèm đất” rồi mới hiểu “Trăm năm nào có gì đâu, Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” thì có quá muộn không? Vấn đề là ở chỗ biết được cuộc sống “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.” (Nguyễn Công Trứ), thì phải làm gì, hay lại chỉ biết “Cứ liều nhắm mắt, đưa chân, Thử xem con tạo xoay vần đến đâu.” (“Kiều” – Nguyễn Du)? Kẻ viết bài này cứ lẩn quẩn với những câu tự vấn ấy, mãi chẳng tìm được lối ra. Tuy nhiên, gẫm cho kỹ, nghĩ cho sâu, suy cho cùng mới thấy mình vẫn còn may mắn có được một người thầy, một vị Chúa coi mình như bạn hữu (“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.” – Ga 15, 15), Người vẫn đồng hành và luôn sẵn sàng nhắc nhở: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15). Hoá cho nên phải biết mở mắt ra mà nhìn lại chặng đường đã kinh qua, nhìn lại chính con người của mình.
Hàng ngày cầu nguyện “Xin cho chúng con lương thực hàng ngày” với mục đích “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”, thì chẳng có gì đáng nói, bởi “anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho”. Nhưng khốn nỗi, có 1 lại đòi 2, có 2 lại đòi 3, đòi 4, chưa có ăn thì chỉ cầu có bữa ăn, đến lúc có bữa ăn rồi thì lại muốn có “bữa ăn, bữa để”, rồi thì thu tích đầy hết kho lẫm vẫn chưa thoả mãn, lại muốn xây thêm kho lẫm thật hoành tráng, nguy nga, để chứa cho vừa lòng tham. Mà lòng tham con người vốn dĩ không có đáy, biết thế nào cho vừa, biết làm sao cho đủ, cho đầy. Như vậy thì phải chăng đã mờ mắt vì cái bả phù hoa, mà quên mất “bóng câu cửa sổ”, “cuộc đời ngắn chẳng tày gang”? “Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!” (Gv 1, 23). Nên chi, cần phải có một khoảnh khắc nào đó “bừng con mắt dậy…”, mà lắng nghe trong thẳm sâu tiềm thức Lời nhắc nhở “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 13).
Vâng, mà muốn có được khoảnh khắc “bừng con mắt dậy…” ấy, thì cần pphải biết sử dụng cái vũ khí sắc bén nhất, đắc lực nhất, đó là “cầu nguyện”. Cầu nguyện xin ơn soi sáng để ý thức được “Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh: Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4).
Chỉ tới khi ấy, chỉ tới khi thấm thía được tất cả chỉ là “phù vân”, là “phù dung”, là “phù thế”, “phù sinh”, anh mới không còn lo sợ “thấy mình tay không” nữa, vì anh đã chiếm hữu được kho tàng không bao giờ hư nát, kho tàng vĩnh cửu: Nước Trời. Được coi là bạn của Con Người nghèo đến độ “không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20), người Ki-tô hữu đừng bao giờ “tham phú phụ bần” (ham giàu chê nghèo), mà cần phải tỉnh thức mở mắt ra “nhìn linh thị” (Ds 24, 16) trong cầu nguyện, lắng nghe Lời Thầy Chí Thánh, hy vọng có dịp “bừng con mắt dậy” trước khi bước tới “một nấm cỏ khâu xanh rì”. Còn nếu có tham giàu, thì hãy lo làm giàu khôn ngoan bằng cách thu tích của cải Nước Trời mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Ước được như vậy. Amen.
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, của cải chính là ”PHƯƠNG TIỆN “ tốt, nhưng là “ ÔNG TN 18-C146
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, của cải chính là ”PHƯƠNG TIỆN “ tốt, nhưng là “ ÔNG CHỦ “xấu, bởi vì đừng ai đặt của cải là “ông chủ”. Tại sao vậy ? Thưa , quý vị, thưa, bởi vì “ của cải không có ” TRÁI TIM “. Vâng, thật vậy, nếu của cải có trái tim, thì không còn là của cải nữa, bởi vì ai cũng biết của cải là “vật chất”, mà vật chất là “bị động”, chỉ có con người mới là “ chủ động”, bởi vì con người được Thiên Chúa ban cho có “ trái tim”. Vâng, trái tim của con người chính là “LƯƠNG TÂM “. Vâng, Lương Tâm có nghĩa là: “TRÁI TIM TỐT LÀNH ”, trái tim tốt lành là trái tim lương thiện.
Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó mà thôi. Thưa quý vị. Người ta nói : “ Nhân chi sơ, tánh bổn thiện “ là như thế.
Thiên Chúa đặt vào trong tâm hồn con người sự lương thiện tức lương tâm tốt lành, như vậy, lương tâm của con người chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Vì rõ ràng, lương tâm chính là điều mà không cần luật pháp. Vì lương tâm là điều thiện hảo, dù làm trong bóng tối , nó vẫn sáng, vì vậy, lương tâm “KHÔNG SỢ “ pháp luật. Pháp luật chỉ là dành cho kẻ bất lương trá hình. Vì, nếu bạn sống theo lương tâm, thì cần gì bạn phải sợ pháp luật. Vì , không pháp luật nào đi “ XÉT XỬ “ người có “ LƯƠNG TÂM “. Con người sống theo lương tâm, thì pháp luật phải sợ họ vì kẻ xấu phải lui bước.
Vâng, LƯƠNG TÂM chính là TINH THẦN PHÚC ÂM. Vậy, người chưa biết Thiên Chúa có “ LƯƠNG TÂM “không. ? Thưa có, tai sao ? Thưa, chính là “Nhân chi sơ , tánh bản thiện “. Vâng, lương tâm là ân huệ tự nhiên mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, dù chưa nhận biết Ngài.
Nhưng, “ LƯƠNG TÂM CÔNG GIÁO” thì cao hơn một bậc, phải hơn lương tâm “Nhân chi sơ, tánh bản thiện”. Bởi vì, lương tâm Công Giáo được mặc lấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, theo luật công bằng tự nhiên, điều gì được đón nhận nhiều , thì phải hoàn trả nhiều. theo đó, LƯƠNG TÂM CÔNG GIÁO, phải trả lẽ nhiều hơn trước mặt Thiên Chúa đối với lương tâm thuần túy.
Vâng, lương tâm không ai “soi xét “ được, vì vậy, kẻ “bất lương” thì phải cần đến “LUẬT PHÁP” , còn người có lương tâm, tức người công chính không cần luật pháp. Nhưng, thực tế thì nhiều khi “luật pháp” cũng bất chấp lương tâm, hay nói cách khác “chà đạp” lương tâm. Vâng, vì vậy, “LƯƠNG TÂM CÔNG GIÁO” luôn bị “trả giá” từ trong “ trứng nước “ cho đến ngày sau cùng.
Vâng, lương tâm là điều tốt phải thực thi dù không ai nhìn thấy, mục “ người tốt việc tốt”, hay “ việc tử tế” đôi khi không hẳn là” lương tâm”. Lương tâm là điều thôi thúc tự nhiên của bản năng con người và người Kitô hữu phải thực thi gấp nhiều lần việc tốt mà người ”có lương tâm” phải làm.
Vì vậy, người có Đức Tin, có Thiên Chúa mà lãnh đạo đất nước, thì tốt hơn người không có Thiên Chúa làm lãnh đạo đất nước, lãnh đạo Quốc Gia.
Trở lại lời Chúa, Chúa Nhật XVIII ( C ) ( Lc 12 , 13 -21) hôm nay, chúng ta có thể thấy ngay điều mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Môn đệ của Người thì xin Người dạy cho họ cách cầu nguyện. Cầu nguyện để Tôn Vinh, chúc tụng Thiên Chúa, cầu nguyện để xin ơn lương thực và xin ơn tha thứ, sau cùng để xin ơn khỏi sa chước ma quỷ, thoát khỏi tai ương.
Vâng , nhu cầu thiêng liêng và nhu cầu thể xác, đó là “dùng đủ”. Dùng đủ là dùng đúng, dùng chính đáng, không dư thừa, không thiếu thốn. Vậy, “ cái gì đủ” là” chính đáng”, tục ngữ Việt Nam cũng có câu : “Thái quá thì bất cập”, có nghĩa là cái gì “quá “ là xấu.
Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin cho đủ dung là như thế. Theo đó, ý nghĩa Lời Chúa tuần nầy quãng diễn cho chúng ta tiếp theo ý nghĩa tuần trước. Đọc Lời Chúa Chúa Nhật tuần nầy, hôm nay ( Lc 12 ,13 -21) , tuy chủ đề nói về tiền của, nhưng con lại có ý tưởng về “LƯƠNG TÂM “. Vâng, một lương tâm trong sạch sẽ dễ dàng “xem nhẹ” tiền của. Nhưng , một lương tâm đen tối , chắc chắn sẽ coi trọng tiền của, và như thế hiểm họa tức khắc sẽ xảy ra. Bởi vì, nếu xem “TIỀN CỦA “ là “ÔNG CHỦ “, tức khắc chúng ta sẽ là “NÔ LỆ ” cho nó. Ngược lại, nếu xem tiền của là “ ĐẦY TỚ ”, thì nó sẽ phục vụ chúng ta. Vì ,có lần Chúa Giêsu nói : “ Các ngươi hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu… “ Như vậy, rõ ràng tiền của là phương tiện để đạt đến cứu cánh.
Vâng, sức mạnh của đồng tiền thì thật kinh khủng, nó có thể bất chấp tât cả, bởi vì, nó như một phương tiện, thì người ta sẵn sàng lạm dụng nó. Đồng tiền do công sức con người làm ra, giúp ích cho gia đình và xã hội, thì mặc nhiên nó trở nên thánh thiện. Nhưng, nếu “đồng tiền “ ấy không có lương tri, thì nó là quỷ dữ.
Vốn tự bản chất, đồng tiền không xấu, vì nó là vật “ vô tri “, nhưng, kẻ sử dụng đồng tiền mà không có “LƯƠNG TÂM “, thì vô cùng nguy hiểm.
Vì đồng tiền có thể thay trắng đổi đen, làm nghiêng cán cân công lý. Vì : “Nén bạc đâm toạc tờ giấy ”, đồng tiền có thể làm khuynh loát gia đình và xã hội, làm chao đảo mọi thứ. Vì vậy, trong trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát, Người không phải là Vị quan tòa thế gian có trách nhiệm phân chia gia sản cho người trần thế. Có lẽ về mặt tích cực, người thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay rất “ ngưỡng mộ” Chúa Giêsu, vì nghĩ rằng Người rất ngay thẳng, là người công chính qua cách Người giảng dạy và thi hành. Nhưng, về mặt siêu nhiên, thì người thanh niên nầy hoàn toàn không lầm. Nhưng, Chúa Giêsu đến thế gian không phải vì thế gian, mà vì Nước Trời.
Nếu chúng ta sống bằng một lương tâm ngay thẳng, chắc chắn chúng ta không đặt “tiền của” làm “ông chủ” của chúng ta, mà là sẽ tôn thờ Thiên Chúa là Ông Chủ duy nhất của chúng ta mà thôi. Chúng ta tín thác hoàn toàn tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không thể nào Người để cho thể lý của chúng ta phải đói khổ khi chúng ta toàn tâm phục vụ Người và tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con và đã dạy chúng con biết tín thác vào Cha trên Trời. Xin cho chúng con biết hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa, để chúng con biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng “của cải đích thực” mà Người đã ban cho chúng con là ơn cứu độ ./. Amen.
Đời người như bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới chuyện lặt vặt. Cuộc đời chỉ là giấc mơ, đẹp hay TN 18-C147
Đời người như bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới chuyện lặt vặt. Cuộc đời chỉ là giấc mơ, đẹp hay xấu, tùy vào sự bình an hiện tại của mỗi người đang tô vẽ hạnh phúc đời mình. Hầu hết những lời hay ý đẹp đều mở ra cánh cửa hy vọng, an vui, tuy nhiên, chúng ta đang chọn, và sống lý tưởng ấy thế nào. Nếu hỏi người trẻ, điều nào hấp dẫn bạn, câu trả lời sẽ là tài sắc, tiền của, vì có tiền mua tiên cũng được. Hỏi người trung niên thế nào là hạnh phúc ? Câu trả lời sẽ cụ thể hơn : giá trị cuộc đời thành đạt ở chỗ gia đình ấm êm hòa thuận. Nếu gặp người đau bệnh, tự chúng ta sẽ có câu trả lời : sức khỏe là vàng, sức khỏe làm nên giá trị cuộc sống.
Người thanh niên trong Tin-mừng hôm nay lầm tưởng Đức Giêsu sẽ trả lại công bằng cho anh ta, nhưng không, lẽ công bằng theo Đức Giêsu phải là người biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Tình người, tình máu mủ ruột thịt, chỉ bền vững khi được xây dựng trên nền tảng yêu thương. Bông hoa, phải có hương hoặc có sắc mới gây được sự chú ý đến cộng động xã hội ; người khôn ngoan phải là người biết tôn trọng nghĩa tình, mới mong xóa đi được hai từ “cô đơn” nơi cuộc sống này. Tiền và quyền không làm nên tính nông hay sâu đối với tình yêu Chúa, điều thích hợp để tưới gội nên mùa bội thu ở phía trước chính là tình người được sẻ chia.
Để nói lên giá trị thật của hạnh phúc, Chúa Giêsu kể câu chuyện rất thực tế về người phú hộ, ông ta chỉ lo làm việc, ki cóp, rồi nghĩ đến hưởng thụ, thật đáng tiếc cho ông ! Vì suy nghĩ nông cạn, vì không biết sử dụng lợi thế mà hiện tại ông đang có, nên người phú hộ bị đổi tên là “ngốc”, là “khờ dại”. Ngu ngốc, đần độn, khờ dại, thật đáng để hậu thế mỉa mai chê cười : ba năm sống gần người đần, không bằng một phút sống gần người khôn. Kiểu phá kho lẫm nhỏ, xây dựng kho lẫm lớn, rồi nghĩ tới hưởng thụ, có thể hiếm gặp đối với người thời nay, nhưng dụ ngôn có ý nhắc nhớ ta không sử dụng thời giờ, thành quả đúng, vẫn bị coi là khờ dại.
Giá trị hạnh phúc ở đời này không thể đong đo bằng địa vị cao sang, nhiều tiền lắm của, nhưng do chúng ta hiểu, biết và sống tốt với anh chị em mình, sống đúng với khả năng điều kiện ta đang có. Câu chuyện về người phú hộ còn nói rõ là chỉ những ai biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa, mới đáng gọi là người khôn ngoan. Người ngốc, người khờ dại, là người chỉ lo làm giàu vật chất rồi hưởng thụ, không sử dụng đúng những thành quả hiện tại của mình, sẽ mãi là nghèo hèn trước Thiên Chúa mà thôi. Tư duy của người phú hộ quá nhỏ hẹp, ích kỷ, khối óc và trái tim của ông không có tình người, không còn biết đâu là tình nghĩa anh chị em.
Kinh nghiệm của các đấng bậc khôn ngoan cho rằng, cuộc đời chẳng ai cho không ta thứ gì cả, những giá trị hạnh phúc đem lại cho ta đều đã được “ghi giá” một cách kín đáo. Đức Phật thì nhắn nhủ các học trò, đừng nhìn lại quá khứ, đừng mơ tưởng vào tương lai, nhưng hãy chú tâm vào giây phút hiện tại. Chúa Giêsu vẫn thực tế đối với những ai theo Ngài, hãy trở nên khôn ngoan, sớm biết tích trữ kho tàng trên trời, mau biết sống bác ái yêu thương, đừng ngại làm giàu công đức với số vốn hiện tại của mình. Niềm tin của người Kitô hữu là chẳng ai có thể đi đúng đường lối của Thiên Chúa, không ai được gọi là khôn ngoan, nếu không sử dụng của cải vật chất theo tinh thần công bằng và bác ái.
Tụ ngữ có câu : chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy. Nhìn bàn tay, người ta có thể đoán biết được những việc làm tốt ; qua cách ứng xử, người ta sẽ phân biệt đâu là kẻ tiểu nhân, đâu là người quân tử. Người phú hộ khờ dại đến độ, dùng cả cuộc đời để tích cóp, để hướng tới mục đích hưởng thụ, nhưng đáng tiếc, cả kho lẫm lớn nhỏ của ông cũng không thể đánh đổi được mạng sống. Cổ nhân chúng ta còn cho rằng, khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay. Kẻ hoang phí là kẻ là kẻ ăn mày trong tương lai, kẻ tham lam là kẻ ăn mày suốt đời. Chỉ những ai biết sử dụng con tim, khối óc của mình cách hợp lý, mới đáng gọi là khôn ngoan, biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Bằng những cảm nghiệm thực tế, chúng ta biết con tàu sẽ thật an toàn, khi neo đậu trong bến cảng, nhưng người đóng tàu không hề có mục đích hướng tới là neo đậu. Thiên Chúa ban điều kiện vật chất, ban trí thông minh không để người ta tùy tiện sử dụng cho riêng mình, nhưng Thiên Chúa luôn kêu gọi người ta thực thi đức công bình yêu thương. Người khôn ngoan ở đâu cũng có, người không màng lợi lộc vật chất địa vị thì ít hơn ; đâu phải ai cũng biết lấy giá trị hạnh phúc làm thước đo cho hiện tại và tương lai của mình. Xin Chúa chúc lành, ban ơn khôn ngoan để mỗi người biết sử dụng hồng ân Chúa cách tốt nhất, biết làm giầu trước ơn gọi làm công dân nước trời chứ không phải nước trần gian này. Amen.
Hằng ngày, tôi gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau của những gia đình công giáo. Có những gia đình TN 18-C148
Hằng ngày, tôi gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau của những gia đình công giáo. Có những gia đình làm ăn thất bại, thế là họ đến xin cha Phanxicô Trương Bửu Diệp cho công việc làm ăn thuận lợi. Tôi hỏi thăm: “Anh chị có đọc kinh cầu nguyện, có đi lễ… nói chung là sống đạo tử tế không?” Họ trả lời: “Nghèo quá cha ơi, sao giữ đạo được, đợi khi nào bớt vất vả thì tụi con mới đi đạo lại”. Cũng có những người rất giàu có, họ đến đây để xin cho gia đình mình được bình an, vì dù có tiền bạc nhưng gia đình họ vẫn trục trặc. Tôi hỏi thăm cùng một câu hỏi: “Anh chị có đọc kinh cầu nguyện, có đi lễ… nói chung là sống đạo tử tế không?” Và họ trả lời “Gia đình con còn bê bối quá hà, đợi khi nào ổn định tụi con mới đi lễ lại”.
Nhưng trong thực tế chúng ta vẫn thấy nhiều người dù nghèo, dù làm mướn kiếm tiền hằng ngày vẫn đi lễ, vẫn đọc kinh lòng thương xót mỗi chiều, vẫn đến đài Đức Mẹ mỗi tối, thậm chí là làm việc bác ái rất tốt. Nhiều người giàu có, tiền bạc không thể tưởng, nhưng họ rất bình an và xem đó là chuyện nhỏ. Điều quan trọng của họ là làm sao thờ phượng Chúa cho đàng hoàng tử tế, làm sao thực thi tình bác ái một cách cụ thể.
Qua đó chúng ta thấy sống đạo không phải do có tiền hay không có tiền, giàu hay nghèo, đời sống ổn định hay không ổn định, mà do người ta biết chọn lựa điều gì, người ta thấy cùng đích cuộc đời người ta ở chỗ nào. Phụng vụ lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc nhở chúng ta đâu là giá trị thật? đâu là cùng đích cuộc đời mình?
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Gv 1, 2;2,21-23
Sự khôn ngoan của các bậc hiền triết được ghi lại trong sách Giảng viên. Một trong những sự khôn ngoan đó là nhìn nhận giá trị thật của sự sống đời này, tác giả viết: “Phù vân nối tiếp phù vân, trần gian tất cả chỉ là phù vân”. Tác giả dẫn chứng cụ thể: có người làm lụng vất vả để thu tích của cải vật chất, nhưng khi chết cũng phải bỏ lại tất cả. Đó là phù vân. Hoặc tác giả mỉa mai những người lo thu tích tài sản: “Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng, yên trí. Đó cũng là phù vân”.
Bài đọc II: Cl 3, 1-5.9-11
Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín nữu Côlôxê khi đã có được sự sống mới nhờ phép rửa, hãy “Biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Thánh Phaolô đã liệt kê những thứ thuộc hạ giới: gian dâm, dâm ô, đam mê, ước muốn xấu và tham lam. Nói chung là những giá trị vật chất.
Tin Mừng: Lc 21, 13-21
Giáo huấn trong bài Tin Mừng hôm nay xuất phát từ việc tranh giành tài sản: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Chúa Giêsu đến đâu phải để làm điều đó. Tuy nhiên không vì thế mà CG lại tỏ vẻ bực mình, ngược lại Ngài lấy sự kiện đó để giáo huấn họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
Để phần giáo huấn về việc đừng ham mê tiền của sống động hơn, Chúa Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn về ông phú hộ suốt ngày cứ lo tính toán xây nhiều kho lẫm để chứa gia tài. Chúa Giêsu gọi ông ta là “Đồ ngốc!” Tại sao vậy? Có tiền thì phải lo tìm chỗ gởi, tìm ngân hàng nào uy tín chất lượng. Cái ngốc của người phú hộ này là ông ta vui thích với tài sản của mình, tưởng nó là cùng đích của cuộc đời ông. Chúa Giêsu giả dụ: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Và đó là sự thật chứ không phải giả dụ. Vất vả lo kiếm tiền để cho cả đống, bỗng nhiệt nằm lăn ra chết, thì thử hỏi được ích gì?
Vì vậy qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay chúng ta nhận được sứ điệp gần gũi với cuộc sống thường ngày, đó là đừng ham mê tiền bạc một cách quá đáng, nhưng hãy biết khôn ngoan tìm kiếm giá trị đích thực là hạnh phúc vĩnh cửu trên trời; và nhất là hãy biết tận dụng tiền của để thực thi bác ái, chính là giá trị vĩnh cửu.
II. QUAN NIỆM VỀ TIỀN CỦA
Tiền của nói riêng và vật chất nói chung không phải là điều xấu vì Thiên Chúa dựng nên mọi sự cho con người đều tốt đẹp. Tuy nhiên tiền của vật chất chính là điều chi phối đời sống người ta nhiều nhất. Chính vì vậy cần phải có quan niệm đúng đắn về tiền của vật chất, thì chúng ta mới có thể “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, kẻo chúng ta sử dụng không đúng, CG lại quở trách chúng ta là “đồ ngốc!”.
Ân ban của Thiên Chúa
Khi hỏi thăm một số người: “Lúc này làm ăn sao rồi?” Họ trả lời: “Chúa cho chúng con cũng tàm tạm vậy!” Hoặc có người làm ăn khá hơn thì trả lời: “Chúa cho chúng con đủ xài, còn dư chút đỉnh để làm việc bác ái”. Đó là những cách nhìn đúng đắn. Tiền của vật chất là do Chúa ban. Vì là một ân ban nên Chúa ban cho ai là tùy, ban bao nhiêu là kệ. Con người không được quyền trách tại sao Chúa ban cho người kia mà không ban cho mình, không được quyền phân bì tại sao Chúa ban cho thằng kia nhiều còn tôi thì ít. Tấm gương ông Gióp trong cựu ước cho chúng ta có cái nhìn vô tư về tiền của vật chất: “Chúa ban cho Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng Chúa”; chứ không phải ban cho thì mừng, còn lấy đi thì buồn bực. Trong mọi hoàn cảnh đều chúc tụng Chúa.
Để phục vụ con người
Khi sáng tạo con người, Thiên Chúa đã có ý định “Để con người làm bá chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Nghĩa là để con người có quyền sử dụng của cải vật chất, và của cải vật chất là để phục vụ con người. Chính vì vậy tiền bạc vật chất chỉ có ý nghĩa đúng đắn khi nó phục vụ con người. Còn nếu con người phục vụ cho tiền bạc của cải vật chất, hay nói cách khác để nó điều khiển con người thì vật chất đó không làm đúng bản chất, và tệ hơn là sẽ dẫn con người đến sai trái, thậm chí là tội lỗi.
Để con người thực thi tình bác ái
Trong dụ ngôn ông phú hộ mà chúng ta vừa nghe, phải chi ông biết dùng số hoa lợi từ ruộng nương nhiều đến mức không còn chỗ chứa kia để phục vụ xã hội, phục vụ con người thì chắc chắn ông không bị CG quở trách là “đồ ngốc!”, ngược lại đó là sự khôn ngoan, là tài sản đích thực của ông, vì ông đã có một gia tài mà mối mọt, ten sét không thể nào ăn được. Nhưng bởi vì ông ích kỷ, chỉ giữ cho riêng mình, tưởng rằng đó là tài sản vĩnh viễn của mình, lấy làm vui thích về những điều đó, nên CG đã quở ông là “Đồ ngốc!”. CG đến là để phục vụ với tất cả những gì Ngài có, thậm chí là cả mạng sống của Ngài. Vì vậy con đường theo Đức Kitô cũng đòi hỏi chúng ta phải biết phục vụ với tất cả những gì mình có, mà tiền bạc vật chất là một trong những điểm chia sẻ cụ thể nhất.
SỬ DỤNG TIỀN CỦA
Khi biết được tiền bạc vật chất là một ân ban của Thiên Chúa, là để phục vụ con người và để con người dùng đó mà phục vụ người khác. Chúng ta hãy sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng đắn.
Trước hết biết cám ơn Chúa về cuộc sống vật chất của mình. Những người giàu có hoặc đủ ăn thì dễ cám ơn, còn những người nghèo khổ, kiếm cơm từng ngày sẽ nói: “Khổ muốn chết mà cám ơn gì!” Tất cả đều là ân huệ của Chúa. Lao động vất vả, cuộc sống khó khăn cũng có giá trị của nó, hệ tại ở cách nhìn con người. Tôi nhớ một câu trong một bài hát nào đó: “Đời nghèo mà vui cũng như tình nghèo mà vui”. Người vui vẻ lạc quan nhìn mọi thứ rất nhẹ nhàng, đến nỗi nhạc sĩ Mặc Thế Nhân sáng tác bài hát có vẻ ngược đời “Xin Trả Tôi Về”: “Xin trả tôi về miền quê tôi nghèo khó, có đám dân lành lòng chất phác vô tư, ngày chăm lo cấy trồng đêm quần vui bên chén trà, kể chuyện một ngày qua”. Người ta mơ ước được trở lại cảnh nghèo nàn, nhưng bình an và thanh thản. Người ta mơ ước được trở lại “những ngày xưa thân ái” dù nghèo khổ để thoát khỏi cảnh nhân tình thê thái của hiện tại…
Kế đến đừng để tiền bạc làm cho mình bận tâm. Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên đã viết: “Có cũng như không dù không hay là có, chớ để âu lo cho lòng thêm vấn vương”. Hãy để tâm hồn thanh thản để tìm kiếm giá trị vĩnh cửu. Người ta ví von người kia có 3 người bạn, 2 người kia là bạn thân, người thứ 3 bình thường vậy thôi. Ngày kia ông bị bắt ra tòa, ông xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ không đi được. Người bạn thứ hai bằng lòn đi đến cửa quan nhưng không dám vào. Chỉ có người bạn thứ ba dù ông không yêu thích nhưng vẫn vào tận tòa án và biện hộ cho ông được trắng án. Người ta kết luận: Người bạn thứ nhất là tiền bạc. Khi ta chết tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta chiếc chiếu và cái hòm. Người bạn thứ hai là bà con bạn hữu, họ khóc lóc đưa tiễn ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là những việc lành ta đã làm. Chính nó dẫn chúng ta vào thiên đàng. Biết như vậy để chúng ta đừng bám víu vào tiền của, vật chất, nó sẽ bỏ rơi ta.
Sau cùng hãy cố gắng dùng tiền của vật chất để làm những việc từ thiện bác ái. Vì chính những việc lành từ những hy sinh của chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc thật.
Đó là thái độ khôn ngoan mà sứ điệp lời Chúa muốn gởi đến chúng ta ngày hôm nay.
Chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có nhất thế giới, có nền văn minh hưởng thụ, và TN 18-C149
Chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có nhất thế giới, có nền văn minh hưởng thụ, và có sự lôi cuốn mạnh về vật chất, vì vậy, chúng ta bị tiền bạc và vật chất thu hút, chi phối và điều khiển, cũng như có ảnh hưởng rất lớn vào đời sống cá nhân, gia đình và đức tin. Chúng ta cũng biết rõ tiền bạc là một yếu tố cần thiết và quan trọng cho cuộc sống. Muốn có cuộc sống thoải mái và muốn có cái gì cũng phải bằng tiền. Hàng ngày chúng ta phải dùng tiền để trả tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm, tiền ăn, tiền điện, tiền nước và tiền đóng cho nhà thờ. Nhưng tiền cũng là một con dao hai lưỡi vừa tốt và vừa xấu, nhiều khi có hại, nghĩa là nó vừa có thể giúp chúng ta có đời sống thoải mái và đầy đủ, nhưng cũng có thể vì tham lam làm giảm giá trị và phẩm giá con người, bán lương tâm, mất đức công bằng, và mất tự do. Tiền bạc nhiều khi cũng không đem lại hạnh phúc và bình an đời này, nhưng nhiều khi vì quá tham lam, tiền bạc đem lại những bất trắc, gia đình tan nát, những lo âu, sợ hãi và bất an. Có một nhà hiền triết đã nói “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.” Và ông nói tiếp rằng “Có những mà tiền bạc không mua được: tiền không mua được tình bạn chân thực; tiền không mua được lương tâm trong sạch, tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.” Và chúng ta cũng biết khi chết chúng ta không thể mang tiền bạc theo được. Do đó, là Ki-tô hữu, chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy phải có thái độ và xử dụng tiền bạc như thế nào để cuộc sống có giá trị, hữu ích đời này, và để làm giàu, mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho đời sau.
Bài đọc một hôm nay theo Sách Giảng viên là những lời dạy quí báu cho chúng ta, vì là những suy tư và kinh nghiệm khôn ngoan gom góp của nhiều thế hệ qua dòng thời gian. Thoáng vừa nghe, chúng ta cảm thấy hình như có nhiều ý tưởng bi quan yếm thế, nhưng lại rất chí lý và là sự thật. Con người chúng ta phải vất vả làm việc suốt đời thu tích tiền bạc, của cải và vật chất, nhưng khi chết thì buông xuôi phải bỏ lại tất cả. Ngoài ra, khi có được nhiều tiền, nhiều người cảm thấy hay phải đối diện với đau khổ, bất hòa và mất hạnh phúc trong gia đình, cũng như bất an vì nhiều đêm giấc ngủ không yên vì sợ mất, trộm cắp và bị hành hung. Thế thì chẳng phải cuộc sống chúng ta là hư không ư!
Qua câu truyện Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta một điều, một bài học quan trọng cho đời sống đức tin của chúng ta hôm nay, đó là, đừng quá tham lam và cậy dựa vào tiền của mà khi thần chết đến, và nhiều khi đến bất ngờ lúc chúng ta không biết, thì sự giàu có hay tiền muôn bạc bể cũng không cứu được linh hồn của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta đang có, chúng ta sẽ không đem theo được vào cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta chỉ biết làm giàu, hay mãi mê chạy theo lòng tham của mình không chu toàn bổn phận gia đình và đời sống đức tin, thì tất cả sự giàu sang và tiền bạc của chúng ta chỉ là hư vô thôi.
Có một câu chuyện dụ ngôn về 1 người kia có ba người bạn. Anh rất thân với người bạn thứ 1 và thứ 2, còn người thứ ba thì thường thường vậy thôi. Ngày kia ông ra tòa và xin 3 người bạn đi theo để biện hộ giúp cho mình. Người bạn thứ nhất từ chối ngay viện cớ quá bận rộn với công việc làm ăn không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi nhưng đến cửa phòng xử án lại không dám vào. Chỉ người bạn thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra rất trung thành vào trong tòa án biện hộ cho ông không những trắng án mà còn được thưởng nữa. Tôi xin được cắt nghĩa dụ ngôn như sau. Người bạn thứ nhất là tiền bạc. Khi chúng ta chết, tiền bạc bỏ rơi chúng ta, chỉ để lại cho chúng ta một cái hòm và ngôi mộ. Người bạn thứ hai là bà con, bạn hữu, thân thuộc, họ khóc thương đưa chúng ta tới mộ huyệt rồi trở về. Người bạn thứ ba là các việc tốt lành, hy sinh và bác ái, chúng theo chúng ta đến tòa Chúa phán xét, biện hộ và đưa chúng ta vào tận cửa Thiên đàng.
Ông bà anh chị em thân mến. Như chúng ta biết, khi chúng ta đến một quốc gia nào trên thế giới, thì việc đầu tiên là phải có “visa’ hay giấy thông hành, và thứ hai là phải đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại quốc gia đó. Là những Ki-tô hữu tin vào Chúa Giê-su là Vua trên trời dưới đất và là Vị Thẩm Phán công minh chính trực, chúng ta có “visa”, thông hành, để chắc chắn được sống lại và hiện diện trước tòa phán xét. Nhưng chúng ta phải ý thức tiền bạc của chúng ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên Nước Trời, nếu chúng ta không đổi tiền bạc, những ơn lành Chúa ban, thành những việc tốt lành, hy sinh, quảng đại và bác ái. Vì thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại quan niệm, thái độ và cách sống của chúng ta trước của cải và tiền bạc. Xin Chúa giúp chúng ta biết tránh thái độ và cách sống ích kỷ của người phú hộ mà Chúa đã khiển trách “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”, xem tiền bạc và của cải trên cả Thiên Chúa, đức tin, trên cả giá trị, phẩm giá cuộc sống mình và trên cả hạnh phúc, hòa thuận của gia đình. Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều: một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng cách khôn ngoan tiền bạc mà Chúa đã ban.
Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin có cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Chắc chắn một ngày nào đó, như Chúa đã cho chúng ta biết trước, khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa sẽ hỏi chúng ta đã xử dụng tiền bạc, những ơn lành của Chúa trong cuộc sống trần gian như thế nào? Hy vọng rằng lúc đó ông bà anh chị em và tôi có “cái gì” để làm bằng chứng, trình lại với Chúa, và để Chúa ban cho chúng ta hạnh phúc vĩnh cửu. trên Nước Trời.
TIN MỪNG: Lc 12,13-21 (13) Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. (14) Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” (15) Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam. Vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. (16) Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, (17) mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu ! (18) Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. (19) Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi. Mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”. (20) Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (21) Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”.
Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau: – PHẦN THỨ NHẤT: Một anh TN 18-C150
Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau:
– PHẦN THỨ NHẤT:
Một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giêsu can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
– PHẦN THỨ HAI:
Người kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai ? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
CHÚ THÍCH:
– C 13-15:
+ “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”: Luật Môsê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu… nữa (x. Đnl 21,17). Vậy có một người anh cả kia sau khi cha chết đã chiếm hết tài sản cha để lại và không chia cho người em phần nhỏ bé mà lẽ ra anh ta được hưởng. Thời Đức Giêsu người Do thái thường yêu cầu một luật sĩ đứng ra làm trọng tài khi có sự tranh chấp về Luật pháp.
+ Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?: Tuy “là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,42), nhưng Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này, vì điều cấp bách mà Người sắp phải chu toàn là đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn, nên Người tránh mất thì giờ vào việc riêng cá nhân, vốn thuộc thẩm quyền của các đầu mục Do thái (x. Xh 2,14).
+ Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…: Tuy từ chối can thiệp, nhưng Đức Giêsu không nhắm mắt làm ngơ. Người nhân cơ hội này giúp cho anh ta và những người hiện diện tránh lòng tham tiền bạc của cải và tránh trông cậy quá đáng vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời của mình.
– C 16-19:
+ Có một nhà phú hộ kia: Dụ ngôn cho thấy ông phú hộ đã thành công trong công việc làm ăn. Ông mở rộng thêm nhà kho để tích trữ thóc lúa dư thừa cho an toàn.
+ Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi: Có nghĩa là đêm nay Thiên Chúa sẽ gọi ngươi ra khỏi thế gian bằng cái chết.
+ Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?: Thiên Chúa mới là chủ của sự sống và sự chết chứ không phải tiền bạc. Của cải trần gian không thể bảo đảm cho người ta được sống mãi mãi. Khi chết thì cả người anh giàu có khờ dại và đứa em nghèo khó tham lam đều không thể mang theo mình sang thế giới bên kia được. Như thế: Lòng tham lam và sự tích trữ của cải là một hành động khờ dại và vô ích !
1) Tại sao người em lại yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh chia gia tài cho mình ? 2) Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này vì lý do gì ? 3) Đức Giêsu đã khuyên bảo thế nào về thái độ phải có đối với tiền bạc của cải trần gian ? 4) Tại sao Đức Giêsu gọi kẻ chỉ biết thu tích của cải vật chất và quá trông cậy vào giá trị của đồng tiền là “đồ ngốc” ? 5) Người muốn các tín hữu phải sử dụng tiền bạc của cải trần gian thế nào cho có lợi ở đời sau ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY :
TOLSTOI kể rằng một bác nông dân kia tên là Pakhom rất thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, bác ta rất mừng khi tậu được một mảnh đất rộng tới 40 mẫu tây. Nhưng rồi sau đó, anh muốn sở hữu một mảnh khác rộng hơn. Anh liền chịu vất vả làm lụng để dành, rồi bán đi mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, và cuối cùng đã mua được một mảnh đất 80 mẫu tây. Nhưng anh vẫn chưa cảm thấy thoả mãn, muốn có một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người mách bảo rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được. Ngay sáng hôm sau, anh nông dân liền đi sang vùng đất phía bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói : “Anh chỉ cần đặt cọc trước 1000 rúp là có thể sở hữu được một vùng đất mà anh có thể đi vòng quanh được trong một ngày hôm đó. Nhưng phải nhớ kỹ điều kiện là bắt đầu xuất phát từ 6 giờ sáng và đến đúng 6 giờ chiều phải quay trở lại điểm đã xuất phát. Nếu về không kịp một giây thì anh sẽ bị mất trắng số tiền đã đặt cọc 1000 rúp kia !”
Đêm hôm đó bác nông dân cảm thấy thật sung sướng không sao ngủ được. Vừa rạng sáng hôm sau anh đã có mặt để nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu đi. Càng đi anh càng sung sướng khi nhìn thấy phần đất của mình mỗi lúc một rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên cả dừng lại dọc đường để nghỉ ngơi ăn uống. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh liền hốt hoảng quay trở về. Nhưng vì đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Khi chạy về tới điểm đã xuất phát thì anh đã ngã gục xuống. Vị tù trưởng đến chúc mừng : “Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh”. Nhưng người nông dân kia đã không thể đứng dậy được nữa để nhận lấy phần đất của mình, vì anh đã chết rồi !
2) TỪ “MỘT TÊN SÁT NHÂN” TRỞ THÀNH ÂN NHÂN CỦA THẾ GIỚI.
Cách đây khá lâu, vào một buổi sáng sớm, khi mở mấy tờ báo hằng ngày ra đọc, ON-PHIT NÔ-BƠN (Alfred Nobel) vô cùng sủng sốt khi nhìn thấy trên nhiều tờ báo hằng ngày được phát hành số lượng rất lớn, đã đồng loạt đưa tin về cái chết của ông với những hàng tít trên trang nhất, kèm theo những bài bình luận đầy ác cảm đối với ông. Họ dùng những từ có tính bôi nhọ, hạ nhục cá nhân ông như: “Nô-bơn, ông vua cốt mìn đã chết”, “Tên đồ tể Nô-bơn đã bị tiêu đời”, “Nô-bơn, một tên sát nhân đã chế tạo các thứ vũ khí giết người hàng loạt giờ đây không còn nữa !”… Sau đó dư luận mới té ngửa rằng: người chết không phải là Nô-bơn nhưng là người anh ruột có tên gần giống với ông. Mặc dù các tờ báo kia sau đó đã phải đính chính và xin lỗi về sự loan tin thất thiệt. Nhưng dù sao các bài bình luận đó cũng là một cú “sốc” đối với Nô-bơn. Nó đánh thức lương tâm khiến ông luôn suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao báo chí lại coi ta là một tên đồ tể giết người như vậy ? Tại sao dư luận lại tỏ ra ác cảm và thù hận ta như thế ? Tại sao chẳng thấy ai nói một lời an ủi thông cảm và lấy làm tiếc về cái chết của ta ?” Sau thời gian này, Nô-bơn đã quyết định phải biến đổi hình ảnh xấu trong dư luận đang có về mình. Ông đã nhờ luật sư lập tờ di chúc để trao tặng toàn bộ số tài sản kếch sù đang gửi trong ngân hàng, số tiền do ông kiếm được nhờ bán các phát minh khoa học về cốt mìn cho chính phủ. Từ đó mỗi năm một ủy ban quốc tế đã lấy ra số tiền lời, chia thành 5 phần thưởng có giá trị lớn để trao tặng cho những người có công về các lãnh vực: hòa bình, vật lý, hóa học, y học và văn chương. Nô-bơn đã thành công trong việc sử dụng tiền của vào việc tốt đẹp. Việc đó không những làm cho ông lấy lại quân bình về tinh thần, mà nó còn giúp ông biến đổi dư luận đang coi ông là “một tên đồ tể giết người”, công khai nhận ông là một vị đại ân nhân của nhân loại.
3) VỀ BA NGƯỜI BẠN THÂN CỦA CHÚNG TA :
Một người kia có 3 người bạn, trong đó hai người là bạn rất thân còn người thứ ba chỉ là bạn thân bình thường. Nhưng rồi đến một ngày nọ, ông ta bị quân lính đến bắt và bị đưa ra trước quan tòa. Ông ta liền xin 3 người bạn thân kia đi theo ra trước tòa án biện hộ cho mình. Nhưng anh bạn thân thứ nhất liền từ chối và dứt khoát không chịu theo ông, viện cớ bận nhiều việc phải làm không thể đi được. Anh bạn thứ hai thì cũng bằng lòng đi theo ông ta đến tòa, nhưng khi đến nơi, anh ta liền dừng lại và sợ không dám theo ông vào nghe tòa xử. Chỉ có anh bạn thứ ba tuy không được ông mấy yêu thích, nhưng đã tỏ thái độ trung thành khi sẵn sàng ra trước tòa án để biện hộ cho ông cuối cùng được trắng án và còn được ban thưởng nữa.
Mỗi người chúng ta cũng có ba người bạn giống như người trong câu chuyện trên: Anh bạn thứ nhất là Tiền Bạc Của Cải: Khi chúng ta chết, anh bạn Tiền Bạc này lập tức bỏ rơi chúng ta, chỉ để lại cho chúng ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Anh bạn thứ hai chính là các Thân Bằng Quyến Thuộc. Họ yêu thương khóc lóc tiễn đưa chúng ta ra tới nghĩa trang, nhưng sau đó đã trở về nhà. Chỉ duy anh bạn thứ ba là các Việc Lành Phúc Đức. Chúng sẵn sàng đi theo chúng ta ra trước tòa Chúa phán xét và giúp chúng ta xin cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
THẢO LUẬN:
1) Có hai cách sử dụng đồng tiền: Nếu dùng tiền cách ích kỷ thì ta sẽ bị mất sự sống ở đời sau. Ngược lại nếu dùng tiền của đời này cách bác ái vị tha thì ta sẽ có cuộc sống vĩnh hằng. Vậy bạn quyết tâm sẽ sử dụng tiền bạc thế nào ?
2) Trong những ngày này bạn sẽ làm gì cụ thể để biến những đồng tiền vật chất trở thành đồng tiền thiêng liêng có giá trị cho phần rỗi đời đời sau khi chết ?
SUY NIỆM:
1) Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam:
Nhân có người yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh ruột chia gia tài cho anh ta. Người trả lời: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?”. Nhân dịp này Người đã kể dụ ngôn về một nhà phú hộ đã lo làm giàu rồi lại lo hưởng thụ số tài sản đã kiếm được, để dạy mọi người phải tránh cho mình thói xấu tham lam ích kỷ như sau:
-Thói tham lam: Lòng tham của nhà phú hộ biểu lộ qua sự tính toán làm giàu. Tính toán để làm tăng thêm lợi nhuận tiền bạc qua câu nói : “Ta sẽ phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”.
-Thói ích kỷ: Lẽ ra nhà phú hộ có thể làm được biết bao việc tốt cho tha nhân với số tài sản lớn lao đó như : giúp đỡ những người nghèo khổ sống bên cạnh nhà ông, tăng lương cho những người làm công cho ông; Đóng góp xây dựng trường học tại địa phương để trẻ em có nơi học hành tử tế; Góp phần tu bổ hội đường của làng ông đang ở cho khang trang tốt đẹp hơn… Nhưng ông đã không làm như thế, mà chỉ quan tâm dùng tiền để thỏa mãn các nhu cầu hưởng các lạc thú ích kỷ qua suy nghĩ như sau: “Thôi, hãy cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”
2) Giá trị đích thực của đồng tiền là gì ? :
a) Loài người thường gán cho tiền bạc của cải nhiều giá trị cao quý như sau: – Đồng tiền rất được yêu quý : “Đồng tiền liền khúc ruột” và “Của đau, con xót” …
– Đồng tiền có sức vạn năng : “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Kim ngân phá lề luật”.
– Đồng tiền là chúa tể mọi sự : “Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là đồng chí thật thân thương; Là đồng hương rất thân cận; Là thời vận tuổi thanh xuân… Tóm lại là vui mừng và phấn khởi !”.
b) Nhưng Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay lại không phải như thế ! : – Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã nhắn nhủ người đời : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
– Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu một khi nhờ bí tích Rửa Tội được trở nên thụ tạo mới, được mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Người thì : “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
– Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã dạy : “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Vì những kẻ giàu có mà thiếu lòng nhân ái thì quả thật khờ dại như lời Chúa phán với tên phú hộ : “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi thì lúc đó những của cải ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai ?”. Thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ Timôthê như sau : “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1 Tm 6,7).
– Vì thế, thái độ khôn ngoan của các tín hữu là : Đừng quá tham lam tiền bạc, nhưng hãy : “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), và hãy biết quảng đại sẻ chia những đồng tiền mình đang chiếm hữu cho những người nghèo khổ túng cực.
– Một vị thừa sai tại Phi châu cũng cho biết như sau: Có một số dân tộc Phi châu hiện vẫn giữ tục lệ này là: Khi một người trong bộ lạc chết, trước khi liệm xác chết vào quan tài, họ sẽ lột bỏ tất cả y phục kẻ đó đang mặc rồi mới đem đi chôn. Tục lệ này nói lên sự thật này là: chúng ta sẽ rời bỏ thế gian mà không mang theo được gì như tiền bạc châu báu và mọi vật dụng khác ! Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn dạy qua Tin mừng hôm nay : Khi chết thì cái chúng ta cần đến không phải là những gì đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là những việc tốt đã làm ở trần gian. Vì “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Thực tế đã có biết bao người giàu phải ra đi mãi mãi khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Cho nên điều quan trọng chúng ta phải làm là: ý thức về giá trị đích thực của tiền bạc : Chúng chỉ có giá trị tương đối ở đời này và là phương tiện Chúa ban để chúng ta sử dụng mà phục vụ làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc đời sau. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ. Vì quả thật : “Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu !”.
3) Chúng ta phải làm gì ? :
– Ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa : Đối với của cải vật chất Đức Giêsu dạy các tín hữu : “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,32-33).
– Biến đồng tiền vật chất đời này trở thành đồng tiền thiêng liêng đời sau : Chúng ta cần ưu tiên “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Đồng tiền chúng ta tích trữ được hôm nay, chúng ta vẫn có thể biến chúng thành những đồng tiền có giá trị trước tòa phán xét mai ngày, bằng cách : Tích cực góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” ; Quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật, như lời Chúa phán : “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ xét xử chúng ta dựa vào những việc bác ái chúng ta đã làm cho tha nhân như sau : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu , các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40).
NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Bài học Chúa dạy chúng con hôm nay là phải biết khôn ngoan sử dụng tiền bạc của cải Chúa đã ban cho chúng con. Trong thực tế những kẻ đang giàu lại muốn ngày một giàu thêm. Còn những kẻ nghèo mà có lòng tham thì “bao nhiêu cũng không vừa!”, “Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”: Người nghèo thật khổ lắm chắc Chúa đã quá rõ.
– LẠY CHÚA. Xin ban cho chúng con “mưa thuận gió hòa”, cho con người biết nghĩ tới nhau và biết chia sẻ cho nhau đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Xin Chúa soi sáng cho người giàu biết thực hành Lời Chúa hôm nay để biết làm giàu cả về phần thiêng liêng, bằng cách quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất cho những người đói khổ bất hạnh. Xin cho người nghèo đừng chỉ miệt mài đi tìm kiếm tiền của như lẽ sống đời mình. Xin cho mọi người chúng con biết thực hành Lời Chúa dạy : “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác như ăn gì mặc gì thì Người sẽ thêm cho chúng con sau” (Mt 6,33).