Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 19-C Bài 1-50 Anh em hãy tỉnh thức và sẵn sàng
---------------------------------------
Phúc Âm: Lc 12, 32-48: "Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
TN 19-C1. LINH ĐẠO LỮ HÀNH.. 2
TN 19-C2. Tất Cả Các Bạn. 4
TN 19-C3. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành. 6
TN 19-C4. Chủ Về. 7
TN 19-C5. Tỉnh thức vẫn là thái độ quan trọng. 10
TN 19-C6. TIN LÀ SỐNG.. 12
TN 19-C7. Các con hãy sẵn sàng. 15
TN 19-C8. CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN, NĂM C.. 16
TN 19-C9. Chúa đang đi tìm ta, Người sẽ đến. 17
TN 19-C10. HÃY THẮT LƯNG VÀ THẮP ĐÈN LÊN SẴN SÀNG.. 19
TN 19-C11. LÀM GIÀU.. 23
TN 19-C12. HRK/155- TỈNH THỨC.. 25
TN 19-C13. HRK/389- SẴN SÀNG.. 27
TN 19-C14. NTGT/217- VĨNH CỬU.. 28
TN 19-C15. CSTM/187- TỈNH THỨC.. 31
TN 19-C16. PV/549- TRUNG TÍN.. 34
TN 19-C17. SCĐ/647- BẤP BÊNH.. 35
TN 19-C18. SCĐ/649- SẴN SÀNG.. 36
TN 19-C19. SCĐ/649- HÀNH TRÌNH.. 39
TN 19-C20. ĐẦY TỚ KHÔN NGOAN.. 40
TN 19-C21. DƯ VÀ THIẾU - CS/123. 42
TN 19-C22. TIỀN BẠC - NMS/142. 44
TN 19-C23. SẴN SÀNG - ASTY/170. 45
TN 19-C24. HẠNH PHÚC - P/134. 47
TN 19-C25. PHỤC VỤ - MNMTV/248. 49
TN 19-C26. Môn đệ phải trở nên như quản gia. 50
TN 19-C27. NƯỚC TRỜI CHO ANH EM... 54
TN 19-C28. Bài học tỉnh thức. 56
TN 19-C29. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng… Jkn. 58
TN 19-C30. THỜI ĐIỂM CON SỐ 13. 61
TN 19-C31. Hiến dâng và tỉnh thức. 64
TN 19-C32. TỈNH THỨC VÀ CẢNH GIÁC.. 67
TN 19-C33. TỈNH THỨC TRONG ĐÊM TỐI 74
TN 19-C34. BÁN HẾT CỦA CẢI VÀ LÀM PHÚC BỐ THÍ 79
TN 19-C35. NGƯỜI ỊÀN ÔNG TRONG PHÒNG SỐ 40. 83
TN 19-C36. CHA MẸ KHÔN NGOAN.. 86
TN 19-C37. Hãy sẵn sàng. 88
TN 19-C38. HÃY CHUẨN BỊ HÀNH TRANG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU.. 89
TN 19-C39. HÀNH TRANG CHO CUỘC ĐỜI VĨNH CỬU.. 92
TN 19-C40. ĐỪNG SỢ.. 95
TN 19-C41. TIN – LÀ ĐỔI CỦA HÈN LẤY CỦA TRỌNG.. 98
TN 19-C42. NHỮNG ĐẦY TỚ TỈNH THỨC.. 101
TN 19-C43. Những người có trách vụ siêu nhiên. 104
TN 19-C44. Phải luôn sẵn sàng. 105
TN 19-C45. Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến. 106
TN 19-C46. Sẵn sàng đợi chờ Chúa viếng thăm.. 108
TN 19-C47. TIN TƯỞNG VÀ CẢNH GIÁC.. 112
TN 19-C48. MUỐN LUÔN TỈNH THỨC.. 117
TN 19-C49. MỘT THOÁNG HOẢNG SỢ.. 121
TN 19-C50. Tỉnh thức trước những thách đố mới 125
-------------------------------------------------
- Lm. Jos. Phạm thanh Liêm
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần? Những người đang trên đường: TN 19-C1
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần?
Những người đang trên đường
Đức Yêsu nói: “Đừng tích trữ những gì có thể mục nát hay trộm cướp có thể lấy đi được, nhưng hãy tích trữ những gì không hư nát và không thể bị đánh cắp”. Cái mình cho là quý, mình luôn bận tâm và hướng lòng về đó. Cái mình cho là quý, có thực sự là những điều trường tồn? Tiêu chuẩn nào giúp mình nhận ra cái có giá trị thực sự? Cái chết giúp con người nhận ra, mình chỉ là lữ khách.
Cái chết đến với mình lúc nào mình đâu có biết! Một tai nạn giao thông có thể xảy ra ai lường trước được. Mình đâu có thể mang tài sản vật chất đi với mình được. Cuộc đời này qua mau. Ai hành động như thể sống vĩnh viễn trên cõi đời này, là người không khôn ngoan. Giờ chết đến, tôi sẽ ra đi tay trắng, và chỉ mang theo chính mình, ngay cả thân xác này cũng không thể mang theo được.
Đức Yêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ chờ chủ về để dạy thái độ phải có khi sống trên dương thế này. “Sẵn sàng”. Phải tỉnh thức vì không biết giờ nào chủ về đến. Cái chết là chung cho tất cả mọi người, cho cả các tông đồ và dân chúng. Cách đối xử của Thiên Chúa với mọi người đều như nhau, dù ở bất cứ địa vị hay bậc sống nào. Sự trung thành không hệ tại ở chức vụ nhưng qua cuộc sống, nơi việc làm.
Đức tin giúp sống linh đạo lữ hành
Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn còn phải tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Vì tin mà bao nhiêu người đã dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa.
Nếu không có đức tin, Noê, Abraham, và các anh hùng tử đạo đã không hành xử như vậy. Nếu không có đức tin, các tín hữu đã chẳng sống nghèo và giúp đỡ những người khốn khổ. Nếu không có đức tin, chắc người ta đã sống phóng đãng và bất chấp tất cả, cốt sao để được lợi trước mắt.
Đức tin giúp con người hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, chấp nhận những điều không vừa ý một cách can đảm và anh hùng, cũng như giúp con người sống hạnh phúc trong những điều kiện mà người ta tưởng rằng không có thể.
Linh đạo lữ hành
Khi coi cuộc sống trần gian như cuộc lữ hành, không có nghĩa, coi thường cuộc sống trần thế, nhưng muốn nói, cuộc sống trần thế là thời gian dẫn ta tới sự sống vĩnh cửu.
Cuộc sống trần thế này rất quan trọng, nếu ta không tận dụng hoặc không sống nó một cách trọn vẹn, ta không thể dễ dàng tới đích ở cuối đường đời. Cuộc đời chóng qua, nhưng rất quan trọng. Cũng tương tự dùng máy bay để đi tới một nơi nào đó, tuy dù chỉ bay trong mấy giờ nhưng rất quan trọng, nếu không dùng thời giờ đó một cách đúng đắn nghiêm chỉnh, người ta không đi được tới nơi người ta muốn. Đời tạm dẫn ta về quê trời, nếu không sống trọn vẹn đời tạm, e rằng khó đạt đến quê trời.
Đức tin giúp người ta nhận biết đúng thực tại, và Thiên Chúa luôn luôn ban ơn giúp người ta sống với Ngài ngay trong cuộc sống đời tạm này. Thiên Chúa làm tất cả cho ta. Hãy tin tưởng và vui sống, ngay cả trong “biển đời” này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là nét đẹp của cuộc đời này?
2. Thiên Chúa muốn bạn làm gì trong suốt đời bạn?
3. Điều gì ngăn cản bạn sống hạnh phúc trong cuộc sống này?
---------------------------------
Tin mừng lớn lao nhất đã chấn động trong lịch sử của loài người đó là Tin Mừng về Tình Yêu: TN 19-C2
Tin mừng lớn lao nhất đã chấn động trong lịch sử của loài người đó là Tin Mừng về Tình Yêu của Chúa. Một Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và còn tiếp tục bảo tồn chúng ta toàn vẹn trong cuộc sống. Chúng ta cùng nhau vui sướng tán dương tình yêu của Chúa cho chúng ta và mong muốn chúng ta trở nên hoàn mỹ và trọn vẹn.
Một buổi sáng, sau khi bà mẹ đã chuẩn bị điểm tâm sáng xong thì sai hai người con gái của bà chạy lên lầu nói với ông bố xuống dùng. Người con gái lớn chạy nhanh hơn nên đã lên lầu trước, và cô nũng nịu chạy vô lòng bố và nói, "Mời bố xuống dùng điểm tâm." Người con thứ hai cũng đến, và cô bị người chị lớn chọc, "Chị đã chiếm hết tình thương của bố rồi!" Thế nhưng ông bố lại nhìn người con thứ hai với ánh mắt trìu mến và cũng đưa cánh tay kia ra để ôm lấy cô. Người con thứ hai quay sang chị nó nói, "Có lẽ chị đã chiếm hết tình thương của bố, nhưng bố lại chiếm hết tình yêu của em!" (You may have all there is of daddy, but daddy's got all there is of me!)
Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng nên chúng ta thì Ngài cũng muốn chúng ta thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn biết chọn Ngài làm kho tàng, Ngài sẽ chiếm hết con người của các bạn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em...Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể nào hao hụt ở trên trời... Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó" (Lc 12:32-34).
Đôi lúc, đó là một điều khó để tìm lời mà diễn tả cái cảm nghiệm sâu xa về con người nói chung. Thí dụ ai trong chúng ta có thể diển tả nổi cái kho tàng lớn lao nhất: Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn bạn, hoặc cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nền tảng đức tin, nền tảng tôn giáo chân chính, nền tảng của sự cảm nghiệm lòng sốt sắng chúng ta là những gì mà Cựu Ước gọi là "yêu Chúa hết lòng", và Tân Ước thì gọi là "Ơn thánh của Chúa." Điều đó có nghĩa là cho dù chúng ta có nghĩ hoặc cảm thấy điều gì về Thiên Chúa, hoặc là thần học có dạy cho chúng ta điều gì đi nữa, thì điểm cốt yếu của đức tin chúng ta vẫn là Thiên Chúa là cùng đích của chúng ta. Thiên Chúa yêu thương săn sóc cho chúng ta. Nếu điều đó được chúng ta cất giữ và suy niệm trong tận đáy thâm tâm của mình thì chúng ta sẽ được biến đổi. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô luôn luôn bắt đầu thư của Ngài bằng lời chào "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta chúc lành cho anh em." Ngài có ý làm như vậy là để 7cho chúng ta phải biết biến đổi ý tưởng trước khi lắng nghe lời ngài bởi vì đó là tâm điểm của đức tin.
Đó là do ơn thánh của Chúa mà Ngài đã đến với chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô, và trở nên một với chúng ta hầu chỉ cho chúng ta biết sống thế nào cho phải lẽ.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà Ngài đã trở nên một trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần, và làm cho chúng ta lớn lên.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta được gọi để hiệp nhất trong tình yêu của Ngài, điều mà Chúa Giêsu gọi là tối hảo cần thiết của con người.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta đón nhận món quà sự sống và hy vọng trong tương lai và sức mạnh để yêu thương kẻ khác với đức ái.
Trong ngày Chúa Nhật hôm nay, khi chúng ta tụ họp lại nơi đây để lắng nghe Lời Chúa, không phải chỉ là nghe lại, nhưng tôi xin các bạn hãy nghe và hãy suy nghĩ với lòng chân thành và giữ trong lòng chúng ta.
Một điều quan trọng chúng ta cần phải hỏi mình: chúng ta có ôm ấp Tin Mừng của Chúa ở tận đáy tâm hồn của mình nơi mà chúng ta thường hay làm những quyết định cho những gì chúng ta muốn làm? Chúng ta có đứng vững trên nền đá của đức tin hay trên nền cát?
Nếu một người đến Hoa Kỳ từ một nước khác, họ thật ngạc nhiên khi nhìn thấy đủ loại thực phẩm ở các cửa hàng: sữa bột, chỉ cần pha với nước là có sữa, nước cam bột, chỉ cần pha với nước là có một ly nước cam, rồi fast food (đồ ăn liền), xe đủ loại, máy điện toán... Chúng ta có thể kể ra đủ mọi thứ loại hàng mà chúng ta có thể nhìn thấy. Thế nhưng nếu cuộc sống của chúng ta chỉ để tâm đến những thứ này thì là một điều đáng tiếc.
Tôi cầm thử những thứ thế gian, ôi chúng chỉ là kho tàng chóng qua, chúng có lợi ích gì? Tôi cầm thử những thứ thuộc về tôi, lạy Chúa, xin cho con cầm lấy thật chặt tất cả những gì thuộc về Ngài.
Khi các bạn biết chọn Chúa Giêsu làm kho tàng, Ngài sẽ là phần thưởng cho các bạn.
---------------------------------
Chi Tiết Hay
Qua những câu đầu tiên, đoạn Phúc Âm hôm nay tiếp nối đoạn tuần trước nói về của cải trong: TN 19-C3
Qua những câu đầu tiên, đoạn Phúc Âm hôm nay tiếp nối đoạn tuần trước nói về của cải trong đời sống Kitô hữu.
(c.32) "đoàn chiên nhỏ bé": cách nói dịu dàng âu yếm ở đây tương tự với "bạn hữu" trong đoạn 12:4. Hình ảnh đoàn chiên nhắc lại hình ảnh dân Do Thái được Thiên Chúa dẫn dắt khi xưa (Ez. 34:11-24). Các môn đệ là "đoàn chiên", những người nồng cốt quanh vị ngôn sứ.
(c.35) "hãy thắt lưng cho gọn": Người thời đó hay nới lỏng thắt lưng khi nghỉ ngơi, nhưng khi làm việc thì thắt chặt lại để áo choàng được kéo cao lên không vướng chân. Việc thắt lưng cũng nhắc lại việc Xuất Hành của dân Do Thái khi xưa. Họ phải sẵn sàng để lên đường. Các môn đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng mở cửa khi Ngài đến.
(c.36) Đoạn này nhắc ta nhớ lại đoạn nói về mười người trinh nữ trong Phúc Âm Mattthêu (24:42-51). Những người Kitô hữu đầu tiên tin tưởng Đức Giêsu sẽ trở lại một ngày rất gần. Nhưng cho đến khi Luca viết Phúc Âm này - khoảng hơn năm mươi năm sau - ý nghĩ đó đã thay đổi, không ai biết ngày nào Đức Giêsu sẽ trở lại. Vì thế Luca khuyên mọi người hãy tỉnh thức và trung thành.
(c.37) Người quản gia cũng là một kẻ nô lệ nhưng được đặt để điều khiển những nô lệ khác trong nhà. Mặc dù được trao cho chút quyền hành, người quản gia vẫn phải tuân phục chủ của mình.
(c.45) Luca nhấn mạnh đến việc trừng phạt. Những người phục vụ trong Giáo Hội không bao giờ được lạm dụng quyền hạn của mình. Chính họ phải phục vụ chứ không được bắt người khác phục vụ mình.
(c.48) Ai được cho nhiều, và ai được giao phó nhiều thì phải sống đúng với chức năng của mình. Luca đã nhìn trước đến cách tổ chức trong Giáo Hội.
Một Điểm Chính
Người có quyền là người phải phục vụ kẻ khác. Những người có chức vụ trong Giáo Hội được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Suy Niệm
Thiên Chúa đã trao phó cho tôi nhiệm vụ gì? Tôi đang thi hành thế nào?
Chúa Giêsu muốn cảnh giác tôi điều gì qua đoạn Phúc Âm hôm nay? Điều gì đang là vấn đề khó khăn của tôi?
---------------------------------
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ. Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya. Chắc chắn: TN 19-C4
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ.
Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya. Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giờ nào. Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi. Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về.
Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ. Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình, nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên, mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng. Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ. Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ. Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ. Đức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai. Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ. Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức. Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Đức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm, nhưng Ngài không phải là Đấng thích gieo tai ương. Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ.
Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình, sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian, Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà. Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành. Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ.
Người quản gia được cử làm đại diện cho ông để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Đức Kitô.
Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa, nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Đánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về: đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
"Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?"
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt.
Tông đồ là người đã biết ý chủ nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc.
Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ.
Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu!
Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những cái chết được báo trước và được chuẩn bị kỹ càng. Nhưng cũng có nhiều cái chết bất ngờ, gây bàng hoàng cho mọi người. Theo ý bạn, có nên chuẩn bị cho cái chết của mình không? Tại sao?
Đức Giêsu cho thấy khuôn mặt một Thiên Chúa cúi xuống phục vụ như tôi tớ. Bạn ao ước gì nơi vị lãnh đạo Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
---------------------------------
- Lm. Jos. Nguyễn hưng Lợi
Tỉnh thức vẫn là thái độ quan trọng của mỗi người trong cuộc đời. Tỉnh thức để khỏi mất trộm: TN 19-C5
Tỉnh thức vẫn là thái độ quan trọng của mỗi người trong cuộc đời. Tỉnh thức để khỏi mất trộm, khỏi bị té ngã, khỏi mắc nạn vv…Đó là thái độ cần có của những con người khôn ngoan, biết đắn đo, suy nghĩ trong đời sống của mình. Thánh Luca trưng ra hai dụ ngôn trích đọc trong Chúa Nhật XIX thường niên, năm C, mang hình ảnh rất thực tế, gần gũi với cuộc sống của mỗi người chúng ta: hình ảnh của người đi dự tiệc cưới và kẻ trộm đào ngạch, khoét vách, chỉ ra tính bất ngờ mà mọi người không hề hay biết trước ngày giờ Thiên Chúa đến kêu gọi con người. Đối đầu với sự bất ngờ này, Chúa nhắc nhở mọi người phải tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức cần có theo đòi hỏi của Tin Mừng là” Hãy về bán hết của cải đang có mà bố thí, vì kho tàng anh em ở đâu thì lòng trí anh em cũng ở đó”.
ANH EM HÃY THẮT LƯNG CHO GỌN, THẮP ĐÈN CHO SÁNG:
Trong đời sống hằng ngày, con người vẫn lấn cấn trong việc kiếm miếng cơm manh áo, làm ra của cải vật chất cho nhiều, thu tích lợi tức cho đầy kho, đầy bồ. Con người dễ bị ru ngủ bởi của cải vật chất, bởi tiền tài, danh vọng, bởi phù hoa, phú quí. Con người làm ra một lại muốn hai, rồi ba, rồi bốn…Quả lòng tham của con người thì không có đáy. Có của, có tiền nhiều, đi đâu con người cũng không yên trí, vì của cải ở đâu thì lòng trí con người ở đó. Lời của Chúa quả thực không sai:” Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng “ hoặc “ Anh em không thể làm tôi hai chủ hoặc yêu này thì ghét chủ khác". Làm ra của cải nhiều là điều quí hóa, nhưng phải biết xử dụng sao cho phù hợp mới là điều quan trọng.
Coi của cải là phù vân, là mau qua dễ gây bi quan cho con người. Tuy nhiên, tỉnh thức để xử dụng của cải đúng nghĩa, sẽ giúp cho con người vui tươi và hạnh phúc, sẽ làm ích cho nhiều người nghèo, những trẻ em mồ côi, những người già nua, neo đơn và bất hạnh. Vâng, có lẽ nhiều người rất tỉnh thức trong kinh nguyện, trong các nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại rất mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Nếu, con người biết tỉnh thức, biết lưu tâm đến những nhu cầu của người khác thì xã hội chung quanh ta đã khác đi nhiều rồi. Một sự quan tâm đến nhu cầu của người nghèo: một số tiền nhỏ đối với hoàn cảnh của một người nghèo có thể biến đổi cuộc sống của họ và gia đình họ khi họ chỉ cần một số tiền nhỏ để làm vốn. Đạo Kitô giáo không phải là đạo mê hoặc, ru ngủ người khác mà luôn thức tỉnh con người. Nếu con người trên thế giới luôn biết tỉnh thức, luôn biết quan tâm đến người khác thì hai phần ba nhân loại không phải rơi vào tình trạng nghèo nàn. Chúa mời gọi con người tỉnh thức để nhận ra Nước Trời đang đến trong từng phút giây. Hãy sống công bình, bác ái và chia sẻ. Hãy làm những công việc tỏa sáng để ánh sáng đức tin được chiếu tỏa nơi nhiều người.
CHÚA MỜI GỌI NHÂN LOẠI, MỜI GỌI CON NGƯỜI:
Chúa cảnh tỉnh con người phải thức tỉnh, phải tỉnh táo để nhận ra những dấu chỉ của thời đại. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu là phục vụ. Phục vụ sẽ giúp con người tìm được hạnh phúc và bình an. Như một Phanxicô khó khăn, đã sống nghèo để phục vụ con người và nên giống Chúa, như một Têrêsa Calcutta đã sống cho tha nhân, đã phục vụ hết mình cho những người đau khổ. Mẹ đã viết, đã dậy và đã sống những tâm niệm thật thiết thực: ”Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện. Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là đức ái. Hoa trái của đức ái là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an “.
Rõ ràng Mẹ Têrêsa và các nữ tu bác ái của Mẹ đã không cho người ta tiền nhưng sự phục vụ trong yêu thương của Mẹ và của các nữ tu bác ái đã làm cho nhiều người nghèo nhận ra Nước Trời. Tiền của cần thật nhưng nó chỉ là phương tiện, chứ không phải là mục đích, là cứu cánh của con người. Biết xử dụng của cải không phải cho riêng mình mà cho nhu cầu của người khác. Thực hiện được như vậy, con người sẽ thoát ra được sự kiềm tỏa của vật chất và mau mắn sắm cho mình túi tiền chẳng bao giờ hư nát, chẳng bao giờ tàn lụi, đó là kho tàng vô cùng quí giá ở trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết luôn tỉnh thức để nhận ra dấu chỉ của Nước Trời.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tỉnh thức là gì ?
2.Tại sao bạn phải tỉnh thức ?
3.Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu là gì ?
---------------------------------
- Lm. Bùi quang Tuấn
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay" (Lc 12:35).
Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có: TN 19-C6
Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai... Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát. Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra như vụ nổ bom toà đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya, vụ tàn sát tập thể tại Nam Tư, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt tại Trung quốc, sóng thần tại New Guinea, đất động tại Ấn độ.
Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian. Nhưng thử hỏi: "Rời thế gian để đi đâu?" Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm? Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác? Hay chết là hết?
Nếu nói chết rồi sẽ đi đầu thai kiếp khác thì e rằng người ta chẳng cần phải quan tâm lo lắng về đời sống ăn ngay ở lành làm gì. Vì có kẻ cho rằng: "Tại sao không ăn chơi hưởng thụ cho thoải mái để bù lấp những ngày cơ cực. Nếu không may sau này có bị đầu thai làm kiếp trâu bò lừa ngựa, thì cũng không thành vấn đề, bởi vì hiện nay cũng từng phải vất vả quần quật, ‘cày bừa’ tối ngày nên có kinh nghiệm rồi." Có người còn tâm sự: Ở Việt nam còn được sinh ra trong tuổi con rồng, con gà hay con rắn..., chứ qua bên Mỹ, dường như ai cũng cầm tinh giống nhau: tinh con trâu. Vì ai cũng phải đi cày tối ngày. Thế nên nếu có đầu thai làm kiếp trâu bò, tưởng cũng không đáng ngại ngùng.
Thành ra nếu chết rồi đi đầu thai kiếp khác thì không công bằng và đáp ứng xứng hợp với nhân phẩm cao cả của con người chút nào. Với lại thú vật thì đâu có tri thức để phân biệt đúng sai, lành dữ, và như thế làm sao chúng có dịp chọn lựa hay từ khước, lập công hay phạm tội? Làm sao có cơ may để đi đến một kiếp tốt hơn hay xấu hơn?
Còn nếu nói chết là hết thì càng bất công và xúc phạm đến phẩm giá con người cách khủng khiếp. Chính chủ nghĩa vô thần, những triết thuyết cộng sản và chủ nghĩa hưởng thụ đã đưa con người đến với khái niệm chết là hết đầy bất nhân kia.
Nếu chết là tận tuyệt thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái? Nếu chết là hết thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật cho vất vả?
Nếu chết là hết thì đúng là con người đang sống trước một ngõ cụt vô cùng bất công. Bởi vì rồi đây người lành kẻ ác cũng như nhau, người dấn thân phục vụ yêu thương nhân loại cũng chẳng hơn gì kẻ gây tang thương khốn khổ cho bao người.
Nếu chết là hết thì tôi phải tỉnh thức làm chi, ngày Chúa đến hay không nào có quan hệ gì.
Nhưng không. Ngàn lần không! Chết không phải là hết. Niềm tin Kitô giáo xác quyết chết là bước vào một cuộc sống mới và đời đời. Trong cuộc sống đó tôi sẽ khổ đau ngàn thu hay hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào cung cách sống niềm tin hiện nay của tôi. Như thế tôi cần phải tự vấn: niềm tin của mình đang ngủ vùi, chìm đắm, hay tỉnh thức hoạt động? Nó đang sống hay đã chết tiệt rồi?
Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.
Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.
Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.
Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: "Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết".
Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: "Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi khi nào thì các ngón tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’" Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: "Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi."
Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: "Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta."
Tôi tự hỏi: Do đâu mà một chàng thanh niên đầy bất hạnh lại có thể nói lên được những lời đầy khích lệ, yêu thương và tha thứ như vậy? Nhờ đâu mà cha mẹ anh Joe có thể can đảm cảm thông và gánh vác nổi đau khổ của đời mình và đời con như vậy? Tựa vào đâu mà họ có được sức mạnh để yêu thương và duy trì sự sống chứ không tận diệt hay khước từ như vậy?
Câu trả lời duy nhất chính là nhờ vào đức tin—một đức tin tỉnh thức và sống động, một đức tin được tôi luyện qua năm tháng và những bước thăng trầm trong cuộc đời. Những câu nói của ba con người trên kia đã xác quyết điều đó.
Thế giới, gia đình và lương tâm của nhiều người đang ngủ vùi trong hận thù, chôn sâu trong chiến tranh, sa đoạ trong các đam mê hưởng thụ trần tục. Chính vì sự hưởng thụ thiếu ý thức và vô trách nhiệm của người tài xế kia đã gây nên bao khổ đau cho người khác, nhưng chính nhờ niềm tin vào chân lý yêu thương mà người ta đã tồn tại để xoa dịu bao nhiêu u sầu và đem lại hạnh phúc cho nhiều tâm hồn.
Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức như vậy chắc chắn không bị chấm dứt với cái chết, không bị đi vào hư không trống rỗng, cũng chẳng phải đầu thai kiếp này hay kiếp khác, nhưng sẽ tồn tại đến muôn đời trong tình yêu cua Thiên Chúa.
---------------------------------
- Lm. Bênađô Nguyễn tiến Huân
"Các con hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Lc 12, 40).
Đó là lời Chúa Giêsu khuyên dạy và cảnh tỉnh chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Thiên Chúa: TN 19-C7
Đó là lời Chúa Giêsu khuyên dạy và cảnh tỉnh chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Thiên Chúa như một ông chủ đã sắm sẵn cho chúng ta, những tôi tớ Người, một gia sản rất lớn mua bằng giá Máu Cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô: "Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con" (Lc 12,32). Chúng ta sẽ hưởng gia tài đó hay sẽ bị mất: điều đó sẽ được định đoạt dứt khoát vào giờ chúng ta chết. Sự định đoạt này lại hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống lành thánh hay bê tha của chúng ta hãy lo làm việc lành phúc đức: hãy lo sắm cho mình những kho tàng trên trời", "hãy lo thắt lưng" hãy biết hy sinh chịu khó tuân giữ luật Chúa, "hãy cầm đèn sáng", hãy giơ cao ngọn nến Đức Tin ấy chiếu sáng và chỉ lối cho mọi hành động của cuộc sống. Sau hết, điều quan trọng nhất là hãy cứ sống như vậy trong tư thế sẵn sàng "chờ ngày Chúa đến" vì: "phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức... chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình" (Lc 12, 36-44). Cái hồi hộp, cái nguy cơ là chúng ta không biết "Chúa đến lúc nào?" Canh hai hay canh ba? vào giờ chúng ta không ngờ". Vậy luôn luôn phải sẵn sàng như sách Gương Phúc dạy: "Trong mọi hành động, mọi ý nghĩ bạn hãy xử sự như thể bạn sẽ chết hôm nay. Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không? Sáng thức dậy, bạn nên nghĩ, bạn sẽ không sống đến sáng mai. Vậy hãy sẵn sàng luôn, hãy sống thế nào để giờ chết khỏi đến lúc bạn chưa sẵn sàng. Hạnh phúc người luôn để giờ chết trước mặt và ngày dọn mình sẵn sàng luôn" (Gp 23)
Những chân lý ai trong chúng ta cũng đã biết và nó còn được chứng minh cụ thể bằng những cái chết bất ưng của nhiều người quanh chúng ta trên báo chí, trên tin tức TV hàng ngày. Bây giờ thì đến lượt chúng ta hãy nghĩ tới chính mình kẻo có thể là đã quá trễ.
Lạy Chúa, tuần này con quyết dành ít giây phút tối sớm để xét mình sẵn sàng như Chúa dạy chưa? và nếu chưa thì con phải làm gì để sẵn sàng?
---------------------------------
TN 19-C8. CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN, NĂM C
(Kn 18:6-9; Tv 33:1-22; Dt 11:1--19; Lc 12:32-48)
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bày tỏ tình âu yếm với các môn đệ bằng: TN 19-C8
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bày tỏ tình âu yếm với các môn đệ bằng sự an ủi và lời nhắn nhủ các ông. Ngài đã vạch ra những đường hướng hết sức thực tế trong đời sống của người Kitô hữu là phải biết sử dụng của cải cho chính đáng và phải biết thể hiện đức ái giúp đỡ tha nhân, phải lo chu toàn trách nhiệm và bổn phận được trao phó, và phải ý thức một điều: đã được lãnh nhận nhiều thì phải trả nhiều.
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu bày tỏ niềm an ủi và nhắn nhủ các môn đệ, vì các ngài thực sự nhỏ bé cả về số lượng, cả về tài năng. Nhưng Ngài đã khích lệ và an ủi các ông đừng sợ vì luôn luôn có Ngài ở bên, và Ngài bảo các môn đệ phải biết sống bác ái yêu thương những người gặp khó khăn hoạn nạn, vì của cải là những thứ Chúa gửi, Chúa tặng chứ không phải là của riêng mỗi người. Mỗi người phải biết sử dụng của cải cho chính đáng và quảng đại, đừng khư khư giữ lý cho riêng mình, mà phải biết chia sẻ với anh em, nhất là những người nghèo khó, những người gặp tai ương hoạn nạn.
Tiếp theo lời nhắn nhủ các môn đệ phải biết sống bác ái, Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ phải luôn luôn tỉnh thức đợi chờ chủ trở về và phải biết canh phòng gian phi để bảo vệ của cải cho chủ nhà. Thái độ tỉnh thức là nhìn nhận, là yêu mến, nên khi chủ về nhà mà thấy như vậy chủ sẽ khen thưởng và gây được lòng tin tưởng nơi chủ.
Xuyên suốt cuộc hành trình đức tin trong cuộc sống, chúng ta là những người đầy tớ mà Chúa Giêsu nói tới trong dụ ngôn hôm nay. Ngài khuyên dạy chúng ta hãy tỉnh thức và cầm đèn cháy sáng trong tay và hãy sẵn sàng khi chủ đi dự tiệc cưới trở về: “Hãy sẵn sàng mở cửa ngay khi ông chủ gõ cửa”. Nhưng chúng ta chuẩn bị thế nào và tỉnh thức thế nào? Đức tin chính là điều quan trọng nhất trong việc chuẩn bị này. Chúng ta xác tín rằng Chúa sẽ trở lại như thư gửi tín hữu Do Thái đoạn 11 câu 1 nhắc nhở chúng ta rằng: “Đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng những điều bí ẩn”. Với đức tin, chúng ta được trang bị để bắt đầu việc chuẩn bị. Với đức tin, chúng ta nên can đảm trong lúc đón chờ lời hứa và lòng trung tín của Thiên Chúa.
Với đức tin, chúng ta cũng được dẫn tới việc kết hiệp với Thiên Chúa là Đấng chúng ta đang mong đợi. Việc khiêm tốn cầu nguyện hằng ngày cũng giúp chúng ta hướng về Thiên Chúa và đến gần Ngài. Chính lòng khao khát này sẽ đưa chúng ta đến với Ngài và mỗi ngày trở nên giống hình ảnh Ngài hơn. Hơn nữa, lòng khao khát nên giống Ngài hơn sẽ trở thành hiện thực qua việc đón nhận Mình và máu Ngài nơi bí tích Thánh Thể.
Dĩ nhiên sự chuẩn bị mà chúng ta đang thực hiện đòi hỏi nhiều hy sinh. Nếu một người lực sĩ trong khi luyện tập phải hy sinh nhiều thời gian và phải đổ nhiều công sức cho ý nguyện của mình thế nào, thì chúng ta cúng phải hy sinh trọn vẹn trong cuộc sống cho việc chuẩn bị như vậy. Tất cả những điều chúng ta làm đều quy hướng về Thiên Chúa và dĩ nhiên trong nguồn ân sủng phong phú của Ngài. Nguồn ân sủng ấy sẽ giữ ngọn đèn của chúng ta được thắp sáng luôn mãi.
Nếu chúng ta nhìn lại mình một cách chân thành và khiêm tốn, sẽ dễ dàng nhận ra rằng chúng ta không thể làm gì được trong việc chuẩn bị này. Hãy cậy dựa vào ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Nguồn ân sủng và tình yêu đó sẽ thắp sáng, hướng dẫn, ban sức mạnh và thánh hoá tâm hồn chúng ta, để chúng ta được tràn đầy hy vọng vào lời hứa của Đức Giêsu, Đấng sẽ đến và gặp gỡ mỗi người trong niềm vui ơn cứu độ.
LM. Antôn Trần Duy Lương
---------------------------------
- Lm. Đỗ bá Công
Người ta kể rằng, khi thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương: TN 19-C9
Người ta kể rằng, khi thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương khó của Chúa Giêsu, và được nghe nói rằng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã trải qua cuộc khổ nạn ấy. Têrêxa đâm đầu chạy, cứ chạy mà không biết mình chạy đi đâu. Chạy được một quảng đường xa, thì gặp một cậu bé trai cùng tuổi chận lại. Cậu ấy hỏi Têrêxa:
- Cô đi tìm ai? Và cô là ai?
- Tôi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Và Têrêxa hỏi ngay lại rằng:
- Còn cậu, cậu là ai mà lại hỏi tên tôi?
- Ta là Giêsu Hài Đồng của Têrêxa.
Thì ra, khi Têrêxa đi tìm Chúa, chính Chúa lại đến tìm Têrêxa.
Cuộc đời của người tín hữu chúng ta là cuộc đời lên đường đến với Chúa. Thật vậy, ít nữa là trên nguyên tắc, thế nên:
1- Người tín hữu cần phải tìm kiếm Thiên Chúa.
2- Và phải ý thức rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ.
Chúng ta cần phải đi tìm kiếm Thiên Chúa: Cũng như Abraham trong bài đọc II và thánh nữ Têrêxa trong câu chuyện kể trên, họ đã lên đường “ra đi mà không biết mình đi đâu”, nhưng cả hai đều biết “vì ai mà mình đã ra đi”. Như thế, tương tự Abraham và Têrêxa, chúng ta biết, chúng ta đang đi tìm Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài vừa là một con người vừa là một vị Thiên Chúa, đến thế gian để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Không có Ngài thì không có ơn cứu rỗi.
Charles de Foucauld đã đi tìm Chúa trong sa mạc Sahara và qua những cuộc thám hiểm rừng núi ở Phi châu, một cuộc tìm kiếm khắc khoải và bồn chồn, nhưng những quanh cảnh bao la hùng vĩ ấy lại nói cho ngài có Thiên Chúa, và ngài quyết đi tìm, và ngài đã tìm được Chúa trong cảnh bao la hùng vĩ ấy. Và sự kiện ấy bắt đầu ngài phải dấn thân. Ngài đã thốt lên câu nói lịch sử đáng ghi nhớ: “Thà tôi không biết Thiên Chúa thì thôi, nhưng một khi tôi đã biết và tôi đã tin, tôi đã yêu, thì tôi không thể không sống cho Ngài.”
Bài Tin Mừng cho chúng ta hay: Người biết ý chủ mình mà không chịu làm theo ý chủ, thì khi gặp chủ, những người ấy phải bị trận đòn khủng khiếp. Còn những người không biết ý chủ mà làm những điều xằng bậy, khi chủ về sẽ lãnh những trận đòn ít thôi (x Lc 12: 47-48).
Đến đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm: chúng ta biết Chúa, chúng ta đã tìm Chúa và đã gặp Chúa. Gặp Ngài ta mới ngồi trước mặt Ngài đây. Nhưng thử hỏi chúng ta đã dấn thân chưa, như một Charles de Foucauld, một Têrêxa vừa mới nêu trên?
Thiên Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ: Đúng vậy, Thiên Chúa đang đi tìm ta. Chúng ta đừng tưởng Chúa ngồi một nơi nào đó rồi chờ đón chúng ta đến với Ngài. Không. Chính Ngài đã đi tìm chúng ta. Câu chuyện của thánh nữ Têrêxa trong phần mở đầu làm chứng điều ấy: “Chính Thiên Chúa đã kêu gọi Abraham, chính Thiên Chúa thúc giục Môisen, rồi chính Thiên Chúa đến với chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Lời của Ngài, tức là chính Ngài, vẫn đang trên đường đến với tâm hồn chúng ta”. Đành rằng lắm khi chúng ta đã dựng lên biết bao rào chắn ngăn cách, chẳng hạn những bận rộn, những nỗi lo âu, những chuyện lo lắng vu vơ, những thú vui luôn thay đổi, tiền tài danh vọng... Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm kiếm tâm hồn chúng ta. Ngài đến tìm chúng ta qua làn gió nhẹ, qua tiếng chuông chiều thánh thót, qua giọt sương mai, và có khi qua những tiếng gió bão bùng, như tiếng quở trách của chủ nhà về lúc đêm khuya trên các tôi tớ đắc tội. “Mỗi hoàn cảnh, mỗi cuộc gặp gỡ là mỗi dịp Chúa đến với chúng ta. Ngài đến với chúng ta mang theo những băn khoăn gieo vào lòng chúng ta, cùng với những đòi hỏi đặt ra cho chúng ta”. Vậy, chúng ta đi tìm Chúa qua những công trình vĩ đại Ngài làm chung quanh chúng ta, qua những biến cố tay Ngài tạo ra để cảnh tỉnh, đánh thức chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy nêu lên chính hình ảnh chúng ta trên con đường đi về nhà Chúa: đôi mắt chúng ta hãy nhìn thẳng trước mặt, đôi chân ta phải bước thoăn thoắt, và đôi tay ta, một bên ngả ra để đón nhận từng hồng ân phải đón nhận, và tay kia biết nắm lại để khước từ từng cám dỗ phải từ khước và vừa đi vừa tin vững chắc rằng từ phía bên kia Thiên Chúa đang đến đón ta.
---------------------------------
- Lm. Đaminh Cao tấn Tĩnh
Bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 12 cho Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh hôm: TN 19-C10
Bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 12 cho Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh hôm nay chính thức chỉ có 5 câu, từ 35 đến 40. Tuy nhiên, nếu muốn, Giáo Hội cũng cho phép đọc bài Phúc Âm dài hơn, gồm 16 câu, từ câu 32 đến 48. Tất nhiên, ý tưởng chính của bài Phúc Âm sẽ nằm ở trong 5 câu buộc phải đọc cho Chúa Nhật hôm nay. Như tuần trước đã đề cập đến, ý nghĩa phụng vụ của bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh tuần này chính là lời Chúa Kitô khuyên dạy nằm ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Thế nhưng, “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì? Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? Thành phần nào cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
1. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì?
Trước hết, nếu để ý chúng ta thấy rằng, Chúa Giêsu không khuyên dạy chỉ “thắt lưng” hay chỉ “thắp đèn lên”, mà là cả hai, “thắt lưng” trước và “thắp đèn lên” sau. Vậy ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên này cũng liên quan đến cả thứ tự của lời khuyên nhất cử lưỡng động này. Theo tôi, một trong những ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” đây là “hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, như Người đã nói thẳng ra cho các môn đệ biết trong vườn Cây Dầu ngay trước giây phút Người tự trao nộp cho giáo quyền Do Thái, một lời nói đã được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 26 câu 41. Theo thứ tự “tỉnh thức” trước và “cầu nguyện” sau này, “tỉnh thức” là điều kiện tiên quyết và tối cần để có thể “cầu nguyện”, hay ngược lại, muốn “cầu nguyện” cần phải hoàn toàn “tỉnh thức”, bằng không, không thể nào cầu nguyện được, điển hình nhất là trường hợp của ba vị tông đồ thân cận của Chúa Giêsu, theo đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu trên đây thuật lại, buồn ngủ đến nỗi Vị Thày đang “buồn sầu đến nỗi chết được” của các vị đã phải lắc đầu than lên: “Các con không thể thức nổi với Thày dù chỉ một giờ đồng hồ hay sao?”.
Thật thế, về phương diện thể lý, một khi con người ăn no thường dễ buồn ngủ và khó tỉnh táo thế nào, thì về phương diện tâm linh cũng vậy, một khi con người không “giữ mình khỏi mọi tham lam” theo lời Chúa Kitô khuyên dạy ở bài Phúc Âm tuần trước, nghĩa là chỉ biết sống hưởng thụ, họ cũng rất dễ bị mù tối như vậy, nhất là mù tối trước những cùng quẫn của anh em mình, như trường hợp Chúa Giêsu nêu lên ở dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 16, câu 19-20, một tình trạng mù tối về phương diện tâm linh đến nỗi, theo lời Chúa Giêsu diễn tả, “có một người ăn xin tên Lazarô mình đầy ghẻ lở nằm ngay trước cổng nhà mình” mà “nhà phú hộ ăn mặc lụa là và yến tiệc linh đình hằng ngày” cũng không hay biết gì cho đến khi cả hai qua đi. Giá người phú hộ này biết “thắt lưng” buộc bụng, nghĩa là biết “giữ mình khỏi mọi tham lam”, thì cây đèn đức tin đầy dầu đức cậy của ông đã sáng lên đức mến rồi vậy, nhờ việc ông biết “thắp đèn lên”, một tác động biểu hiệu cho đời sống liên lỉ “cầu nguyện” của ông,
2. Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”?
Lý do tại sao Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, theo cùng bài Phúc Âm cho biết đó là vì sự vắng mặt của chủ, ở chỗ, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm cho biết là “chủ đi ăn cưới”. Nếu vậy thì khi chủ có mặt thì chẳng lẽ những người trong nhà không phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” hay sao? Đúng thế, vì, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 15, khi trả lời cho các môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô khi họ hạch Người về vấn đề chay tịnh của môn đệ Người, chính Chúa Giêsu đã đích thân xác quyết rằng: “Làm sao các khách dự tiệc cưới lại ưu buồn trong khi chàng rể còn ở với họ chứ. Đến ngày nào chàng rể bị mang đi khỏi họ bấy giờ họ mới chay tịnh”. Chàng rễ đây là ai, nếu không phải là chính Chúa Giêsu, “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14). Tình trạng không cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” chẳng những ở vào thời gian Chúa Giêsu còn tại thế, mà cả vào thời điểm cánh chung nữa, như Sách Khải Huyền diễn tả ở đoạn 21 câu 23: “Thành không cần mặt trời hay mặt trăng, vì vinh quang của Thiên Chúa chiếu soi nó, và đèn của nó là Con Chiên”.
Như thế, sau thời gian Chúa Giêsu không còn trên thế gian như “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm Người ở cùng Giáo Hội, “Tân Đô Giêrusalem là Thành Thánh từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống”, như Thánh Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền ở đoạn 21 câu 2, thì chính là thời gian vắng mặt chủ hay thời gian chủ đi vắng, do đó, cũng là thời gian Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Đó là lý do, để trả lời cho câu tông đồ Phêrô hỏi trong bài Phúc Âm hôm nay trong phần không buộc đọc: “Lạy Chúa, Chúa ám chỉ dụ ngôn này vào chúng con hay Thày có ý nói cho cả thế giới nữa”, Chúa Giêsu đã gợi ý để vị trưởng tông đồ tự nghĩ về bản thân của mình và chức phận của mình như sau: “Theo ý con thì ai là người quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình để phân phát phần lúa thóc cho họ”. Qua câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được thêm một ý nghĩa nữa về hành động “thắt lưng” và “thắp đèn lên” nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô là biểu hiệu cho thái độ của họ cần phải “trung thành” và “khôn ngoan”, một nhất cử lưỡng động liên quan đến chức phận “quản lý” là để phục vụ nhau, như những gì đã được chia sẻ ở cuối vấn đề thứ hai trên đây về dụ ngôn người phú hộ và Lazarô.
3. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
Nếu lý do cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” là vì chủ vắng nhà, thì mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động này là, như Chúa Giêsu đã rõ ràng nói đến trong bài Phúc Âm: “Để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nghĩa là, làm gì thì làm, lúc nào cũng thế, thành phần “quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình” đều làm với mục đích để sửa soạn mọi sự cho chủ, để trông mong chủ về. Ở đây chúng ta thấy có hai điều rất lạ như sau: thứ nhất là việc chủ mà không có chìa khóa để tự động mở cửa vô nhà của mình, đến nỗi cần phải gõ cửa để viên quản lý của mình mở cửa cho mới vô được; và thứ hai là việc chủ mà lại “thắt lưng, đặt họ vào bàn mà hầu hạ họ” khi “chủ về thấy họ còn tỉnh thức”.
Trước hết, cái lạ đầu tiên là việc chủ mà không có chìa khóa để có thể tự động vô nhà trong dụ ngôn này không phải là vì ông bỏ quên chìa khóa ở nhà, mà là vì ông đã hoàn toàn tin tưởng và tuyệt đối tín nhiệm thành phần “quản lý” của mình, đến nỗi, như Chúa Giêsu phán cùng tông đồ Phêrô trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 16 câu 19 như sau: “Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời. Những gì con tuyên bố cầm buộc dưới thế cũng bị cầm buộc trên trời; những gì con tuyên bố tháo cởi dưới đất cũng được tháo cởi trên trời”. Nếu dưới đất cầm buộc hay tháo cởi thì trên trời cũng cầm buộc hay tháo cởi như thế, thì không phải là chỉ có một quyền bính tối thượng, một chìa khóa duy nhất đã được trao vào tay vị đại diện của Người trên thế gian này sao? Và chiếc chìa khóa quyền linh này còn được các vị thừa tác viên thánh chức của Người dùng để mở cửa chuồng chiên là Chúa Kitô ra mà nuôi dưỡng chiên của Người (xem Jn 10:7, 9), bằng các phép bí tích Người lập.
Sau nữa, cái lạ thứ hai là việc chủ trở thành đầy tớ để hầu hạ thành phần gia nhân đã cố gắng tỉnh thức chờ ông về, không phải là vì ông cảm thấy nợ nần họ, ở chỗ, trong khi ông đi ăn cưới vui vẻ thì họ phải vất vả thay ông coi nhà, hay ông cần phải nịnh bợ họ, để lần sau họ tiếp tục giữ nhà cho ông một cách “trung thành” và “khôn ngoan”, kẻo ông bị thiệt hại cách nào. Trái lại, ông “thắt lưng” phục vụ họ hoàn toàn là vì yêu thương trọng kính họ và muốn họ cũng được dự phần làm chủ với ông, như Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ của Người trước Bữa Tiệc Ly trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 13, từ câu 3 đến câu 5: “Biết rằng mình đã từ Thiên Chúa mà đến và phải trở về cùng Thiên Chúa là Cha, Đấng đã trao ban mọi sự cho mình, Chúa Giêsu chỗi dậy khỏi bàn ăn và cởi áo choàng của mình ra. Người lấy tấm khăn quấn quanh mình. Đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn quấn bên mình mà lau chân cho họ”.
Như thế, mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động “thắt lưng” và “thắp đèn lên”, của thành phần môn đệ Chúa Kitô nói chung và của các vị thừa tác viên thay mặt Người nói riêng, còn là để nhờ đó họ được Người làm cho họ xứng đáng hiệp thông với Người, như Người dứt khoát với riêng tông đồ Phêrô trước khi rửa chân cho ngài: “Nếu Thày không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thày”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Ý nghĩa câu “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, như Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay, có thể được hiểu theo hai ý nghĩa: thứ nhất, đó là hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”, và thứ hai, đó là hãy “trung thành và khôn ngoan”. Tuy nhiên, dầu sao hai ý nghĩa thực hành này cũng mới chỉ là nguyên tắc hướng dẫn mà thôi. Tức là, Kitô hữu chúng ta phải làm sao biết áp dụng hai ý nghĩa của nguyên tắc hướng dẫn này vào đời sống hằng ngày của chúng ta nữa mới được. Chẳng hạn, là một người chồng và cha, hay là một người vợ và mẹ, hoặc là một người con và cháu, hay là một tu sĩ, giáo sĩ, hoặc là một sinh viên, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, cán sự xã hội, chuyên viên tâm lý v.v. chúng ta cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” như thế nào?
---------------------------------
Giả sử như bây giờ, có mấy chục ngàn đồng trong túi, tôi có thể rủ bè bạn vào tiệm ăn, làm một: TN 19-C11
Giả sử như bây giờ, có mấy chục ngàn đồng trong túi, tôi có thể rủ bè bạn vào tiệm ăn, làm một chầu nhậu. Giả sử như được cha mẹ để lại một số tiền lớn, tôi có thể mua nhà và mua xe, sắm TV và sắm tủ lạnh, để rồi sẽ sống một cuộc sống tiện nghi và an nhàn.
Chính vì thế, người xưa đã bảo:
- Có tiền mua tiên cũng được.
Còn ngày nay, người ta thường nói:
- Tiền là tiên là phật.
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Đúng thế, tiền bạc không phải chỉ mua được cơm ăn và áo mặc, mà trong rất nhiều trường hợp, nó còn mua được cả tình nghĩa và bè bạn, cả công lý và lẽ phải, cả danh vọng và địa vị, như tục ngữ cũng đã bảo:
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
- Hạt tiêu nó bé nó cay,
Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền.
- Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Bởi đó, thiên hạ thường ra sức tìm tiền kiếm bạc, ngày cũng như đêm, với ước mơ được giàu sang phú quí. Người thì tìm kiếm một cách chính đáng bằng sức lao động của mình. Kẻ thì tìm kiếm một cách bất chính bằng gian tham lừa đảo, chẳng hạn như ăn trộm, ăn cắp, ăn hối lộ…miễn sao vơ vét vào cho đầy cái túi tham của mình.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy làm giàu về phương diện vật chất, tuy cần thiết, nhưng lại không quan trọng, bởi vì đứng trước cái chết, tất cả chúng ta chỉ là những lữ khách cô đơn mà thôi, vì chúng ta không thể đem bất cứ của cải hay tiền bạc nào sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Vì thế, điều cần thiết đó là phải biết làm giàu về phương diện thiêng liêng, phải biết sắm sẵn cho mình một kho tàng, không bị ai cướp mất và có thể chuyển về đời sau.
Cách thức làm giàu về phương diện thiêng liêng, theo tôi nghĩ, không gì bằng là ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo túng. Sự giúp đỡ ấy có thể là tiền bạc vật chất, có thể là một lời nói ủi an, một ánh mắt khích lệ hay một nụ cười cảm thông. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể và phải làm được.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy đây cũng là điều kiện Chúa đòi buộc những người muốn bước theo Ngài:
- Con hãy về, bán hết tài sản, làm phúc bố thí cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Sở dĩ những hành động bác ái yêu thương có được một giá trị to lớn vì khi làm những hành động ấy cho người khác là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
Vào một ngày mùa đông giá rét, thánh Martinô, bấy giờ còn là một sĩ quan, thấy một người ăn xin đang run rẩy bên vệ đường. Xúc động trước cảnh tượng ấy, thánh nhân liền dừng ngựa và nói:
- Tiền bạc tôi không có.
Nói đoạn, thánh nhân tuốt gươm, xẻ dọc chiếc áo choàng ra làm hai và cho người ăn xin một nửa.
Ban đêm,trong một giấc mơ, thánh nhân thấy Chúa Giêsu hiện ra, mặc một nửa tấm áo choàng và ngỏ lời cám ơn thánh nhân.
Hẳn chúng ta còn nhớ về hoạt cảnh ngày phán xét, Chúa Giêsu đã nói với những người lành như sau:
- Hãy vào hưởng niềm hạnh phúc đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và rồi Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Bởi đó, ngay từ giờ chúng ta hãy ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì đó là cách thức chúng ta tích lũy cho mình một kho tàng quí giá chẳng hề mục nát, đó là cách thức chúng ta làm giàu về phương diện thiêng liêng trước mặt Chúa và đó cũng là cách thức chuyển tài sản của mình về đời sau.
Chúng ta nên nhớ rằng: những gì chúng ta tích lũy hôm nay thì ngày mai sẽ thuộc về người khác, những gì chúng ta mua sắm hôm nay thì ngày mai người khác sẽ hưởng dùng, chỉ những gì chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng ta mãi mãi mà thôi.
---------------------------------
Tin mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một vài nét đặc biệt về cuộc sống đức tin của người: TN 19-C12
Tin mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một vài nét đặc biệt về cuộc sống đức tin của người Kitô. Người Kitô là kẻ sống trên trần gian này, sống với và giữa những thực tại trần gian, nhưng với một tâm hồn tỉnh thức lúc nào cũng hướng về trời, về sự sống đời đời, bên kia cuộc sống trần gian tạm bợ này, vừa đồng thời dấn thân trọn vẹn, chu toàn những sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó cho.
Nữ tu Angelica, người hiện nổi tiếng trong dư luận Hoa Kỳ và Quốc Tế, vì đã thành công trong việc thiết lập hệ thống truyền thanh và truyền hình để phổ biến Lời Chúa. Một hôm, bất ngờ nữ tu gặp một luật sư giàu có, được hưởng mọi tiện nghi vật chất trên đời, có gia đình , con cái hoàn toàn sum họp và vị luật sư này khoe với nữ Angelica là không có gì trên đời này mà ông không hưởng được, nếu ông muốn, vì phương tiện vật chất, tiền của không bao giờ thiếu với ông. Nhưng nữ tu Angelica chỉ hỏi lại ông có một câu:
Ông có sống hạnh phúc hoàn toàn không?
Câu hỏi bất ngờ này đánh động đúng vào niềm thao thức sâu xa của ông, ông thú thật với nữ tu Angelica là tuy có đầy đủ mọi tiện nghi vật chất, nhưng ông không cảm thấy được an vui hạnh phúc thực sự trong tâm hồn, vì lúc nào tâm hồn ông cũng cảm thấy trống rỗng. Ông hỏi nữ tu Angelica bí quyết để sống hạnh phúc thật.
Câu trả lời của nữ tu Angelica cho vị luật sư giàu có này lặp lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa phải làm sao để được sống đời đời. Nữ tu Angelica khuyên ông ta: “Sống đừng chỉ nghĩ đến sự sống siêu việt thần thiêng, hãy nghĩ đến sự sống đời đời, hãy lo tích trữ cho mình những sự đời đời”.
“con hãy về bán tất cả mọi gia tài con có, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Đó là bí quyết được Chúa Giêsu mạc khải cho chàng thanh niên giàu có, và cách nào đó không ngừng được thông truyền qua các thế hệ cho những người tin Chúa. Người Kitô sống đức tin của mình không nên chỉ nghĩ đến của cải vật chất trên trần gian, mà còn và nhất là phải nghĩ đến của cải thiêng liêng trên trời. Tâm hồn người Kitô sống giữa trần gian nhưng phải luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn hướng về trời, hướng về ngày Chúa đến gặp ta. Và để hướng về trời dễ dàng thì phải chấp nhận bán đi những của cải: “Của cải chúng con ở đâu thì lòng trí chúng con ở đó”.
Người Kitô hướng về trời nhưng không sống thụ động giữa những bổn phận trần gian. Sự tỉnh thức đợi chờ Thiên Chúa ngự đến không phải là cớ để người Kitô, để người đồ đệ của Chúa ngồi không, sống một cách thụ động. Cần phải có một thái độ chờ đợi tích cực với hết sức dấn thân, chu toàn công việc mà Thiên Chúa muốn chúng ta chu toàn trên trần gian này, như những người tôi tớ được Chúa Giêsu kể lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
Trong khi chờ đợi chủ mình về, những người tôi tớ đó phải chu toàn những bổn phận được chủ trao phó cho. Những người tôi tớ trong dụ ngôn chờ đợi ông chủ về trong tư thế làm việc, ăn mặc gọn ghẽ, cầm đèn cháy sáng trong tay. Họ chờ đợi trong khi chu toàn việc bổn phận họ phải làm, chứ không ở trong tư thế ngủ để mà chờ.
Chi tiết cầm đèn cháy sáng trong tay nhắc chúng ta nhớ đến dụ ngôn Chúa Giêsu nói về các cô khờ dại và các cô khôn ngoan. Các cô khôn ngoan đến với Chúa Giêsu với đèn cháy sáng trên tay, với những công việc tốt lành đã thực hiện. Các đầy tớ đợi chờ chủ về với đèn cháy sáng trong tay, với những công việc chu toàn đúng theo ý chủ. Người Kitô chúng ta cũng phải chờ đợi Chúa đến với những công việc tốt lành để phục vụ cho những nhu cầu của anh chị em xung quanh
Hơn nữa, một khi có tâm hồn luôn hướng về trời, hướng về Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải sử dụng những của cải trần gian Thiên Chúa ban cho như thế nào để phục vụ anh chị em, để chờ đợi Chúa đến. Ai có thể tin rằng, chúng ta sống hướng tâm hồn về Chúa, chờ đợi Chúa đến, nếu chúng ta ngày đêm chỉ lo nghĩ đến của cải, chỉ bám víu với những của cải vật chất và đóng kín tâm hồn trước những người anh chị em cần được trợ giúp.
---------------------------------
Bài Tin Mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần trước chúng ta được nghe Chúa Giêsu nhắc nhở: TN 19-C13
Bài Tin Mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần trước chúng ta được nghe Chúa Giêsu nhắc nhở là đừng quá lo lắng thu tích của cải vật chất, nhưng phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Bài tin mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần này Chúa Giêsu lại nói đến “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”. Xem ra Chúa Giêsu cho chúng ta đi dần đến viễn cảnh đích thực của đời sống Kitô hữu, đó là Nước Trời vĩnh cửu mai sau.
Mặc dầu đời này là cuộc lữ hành để ta tiến đến nước trời vĩnh cửu đó, nhưng là một cuộc đời đã được chúc phúc và đầy ân sủng. Vì đã được Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đến ở cùng chúng ta và đồng hành với chúng ta, một cuộc đời đẹp đẽ biết bao, đáng sống biết bao. Tuy nhiên, nó chỉ là cuộc lữ hành, chúng ta cần phải nhắm tới phía trước và thẳng tiến.
Tỉnh thức và sẵn sàng, đó là thái độ tích cực để mỗi người hoàn tất cái hiện tại tiến đến tương lai trong bình an. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay vừa nói đến giờ Chúa đến bất ngờ, vừa nói sự thưởng phạt công minh. Ai cũng thấy ngờ ngợ lo lắng và chúng ta cũng có ít là một lần kinh nghiệm bàng hoàng khi nghe tin một người thân qua đời đột ngột
Tôi cũng vậy, cách đây khoảng một tháng tôi nghe tin người quen đã từng lái xe chở tôi đi đây đó đã bị bắn chết mới 24 tuổi; thật không ngờ. Cách đây hai tuần, một em theo mẹ đi lễ, tung tăng vui vẻ cuối nhà thờ, gặp tôi em còn lễ phép cúi chào, vậy mà tối về đã trượt cầu thang, té từ trên lầu xuống, bị chấn thương sọ não và đã chết trên đường đến bệnh viện cấp cứu, em mới có 5 tuổi; thật không ngờ. Và cách đây mấy ngày, một cha già mới viết thư cho tôi vào lễ thánh Đaminh (mồng 8 tháng 8) thì ngày hôm sau (9.8) tôi đã nghe tin ngài qua đời đột ngột vì một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 74 tuổi; thật không ngờ.
Những cái không ngờ đó giúp chúng ta sống tỉnh thức hơn, nhưng cuộc sống của chúng ta không phải là bi quan, thụ động để ngồi chờ cái chết. Chắc chắn không ai muốn điều đó, nhưng cũng không phải vô tư để hưởng thụ cho tận kiệt cái sống đời này, mặc kệ tương lai.
Trái lại, chúng ta ý thức cuộc sống là một hồng ân Chúa ban, nên nó thật quí giá, thật đáng sống. Vì thế chúng ta sống và hưởng dùng như một người quản lý trung tín và khôn ngoan. Chúng ta sống trọn ý nghĩa đời này là một con người, con người Kitô hữu có niềm tin và hy vọng.
Lời của một bài hát nào đó cách đây 20 năm mà bất cứ một người trẻ thanh niên xung phong nào cũng biết, đó là: “Đời ta chỉ sống có một lần thôi, cho nên cuộc sống quí giá vô cùng. Phải sống sao cho xứng để chết đi không còn oán than gì. Chỉ thấy sung sướng khi đời mình cống hiến cho anh em”. Lời nhạc đã nói lên một thái độ biết sống, sống tích cực và sống khôn ngoan.
Tỉnh thức và sẵn sàng mà bài tin Mừng đề cập đã được làm rõ nghĩa khi bài đọc I sách Khôn Ngoan nói đến đến mà Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với dân Do Thái. Và càng làm rõ nghĩa hơn nữa trong bài đọc II thư Do Thái khi nói một kinh nghiệm hành trình đức tin của tổ phụ Abraham, đó cũng chính là cuộc hành trình của một đời chúng ta đang sống hiện tại và đang tiến về tương lại.
Cuộc hành trình trong đức tin Kitô hữu, một hành trình mà mỗi người chúng ta đang tiến về, nhưng đức tin sẽ không cứu sống chúng ta, nếu chúng ta không sống đức tin đó. Thánh Giacôbê đã chứng minh điều này trong thơ của ngài khi nói đến đức tin phải có hành động, nếu không chỉ là đức tin chết và ngài còn nói rõ chính tổ phụ Abraham đã trở nên công chính là vì đức tin của ông có hành động. Vì thế, nhờ Đức tin cho phép chúng ta sống tích cực hơn, sống yêu đời hơn, đồng thời cũng nhờ đức tin chúng ta sống có hy vọng hơn vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Chính đức tin đó mà giờ đây mỗi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng .
---------------------------------
“Hãy nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà thôi”.
Nhà thơ Du Tử Lê đã suy tư về một chân lý ngàn đời vẫn tái diễn chung quanh chúng ta, đó là: TN 19-C14
Nhà thơ Du Tử Lê đã suy tư về một chân lý ngàn đời vẫn tái diễn chung quanh chúng ta, đó là một chân lý về thân phận tro bụi của con người, mọi người cùng có một mẫu số chung: có sinh có tử, tro bụi trở về tro bụi. Và trong Tin Mừng hôm nay thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta chuẩn bị, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến đưa vào sự sống vĩnh cửu.
Có thể nói với các bạn đầu tư cho một tương lai sau cái chết khi tuổi các bạn còn trẻ, sức khỏe tràn đầy, có lẽ các bạn cho rằng: nói chuyện không thực tế, sao không đầu tư cuộc sống này để được hạnh phúc, được giầu có, được danh vọng… mà lại đầu tư cho vĩnh cửu xa vời.
Vâng, cuộc sống hiện tại lo cho cuộc sống hiện tại là điều dĩ nhiên, thế nhưng các bạn vẫn biết cuộc sống này không bền lâu, như ngay sự sống con người, ai cũng luôn chăm sóc, bảo vệ cho mình, thậm chí dùng cả gia tài để đổi lấy mạng sống. Vậy mà, con người rồi ai cũng phải chết, chết một cách bất ngờ, huống chi vật chất, một đời ta ba đời nó. “ Rồi sẽ có một ngày giã từ cuộc sống, nhan sắc là gì, danh vọng, tiền tài là chi, sẽ lấy được gì ngoài chiếc sọ khô”.
Ngay trong cuộc sống, khi nói đến cái chết ai cũng sợ hãi, không thích ai hăm dọa mình phải chết. Một bệnh nhân đứng trước cơn bệnh nguy hiểm đến tánh mạng, thì họ luôn lo lắng, cầu xin cho được gặp được thầy gặp thuốc, chạy đến bác sĩ này bác sĩ nọ mong cho thoát cái chết. Ngay cả chúng ta đây ngày nào cũng trau chuốt sắc đẹp để mong trẻ đẹp mãi, hay khi phát hiện trên đầu có vài cọng tóc bạc thì lo lắng, than rằng tôi già rồi. Đó là cái gì ? Có phải khi nói đến già là xấu đi, già là sẽ chết phải không ? Đó chính là các bạn đang mong muốn cho mình sự vĩnh cửu, sống mãi trường sinh bất tử. Vậy sự sống vĩnh cửu luôn có giá trị, và nó là niềm hạnh phúc, là điều các bạn mong ước.
Nếu các bạn hay tất cả mọi người ai cũng nghiêm chỉnh tự đặt cho mình những câu hỏi: Con người bởi đâu mà có ? Con người sống đạo đức, thánh thiện,… ở đời này để làm gì ? Đâu là hạnh phúc đích thực mà con người luôn khao khát tìm kiếm ? Rồi tại sao những người giàu có họ cũng phải khóc ? Và cuối cùng con người sẽ đi về đâu sau cái chết ? Thì chắc chắn rằng ai cũng đặt niềm tin vào sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa vào Chúa Giêsu, và sẵn sàng tích lũy kho tàng trên trời để chờ đợi ngày Chúa đến. Như Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống một tình yêu thương phục vụ tha nhân, luôn đem hạnh phúc cho những con người nghèo, con người bất hạnh, và mẹ đã được hàng ngàn trái tim bạn trẻ trên toàn thế giới yêu mến, và xem mẹ là một bậc vĩ nhân, một vị thánh sống.
Chính vì thế, Kitô hữu chúng ta tin rằng chết không phải là một dấu chấm hết, nhưng là một cuộc đi đường xa nay trở về với mái ấm gia đình, nơi đây được bình an, thoải mái, hạnh phúc, không có cô đơn, không có thăng trầm của thời gian, mà chỉ có yêu thương, một tình yêu mạnh hơn sự chết, mà chính Thiên Chúa là Cha đã ban cho chúng ta tình yêu này, và đồng thời tình yêu này làm người chết được sống lại và sống lại với Ngài ở trên trời. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Hỡi các bạn trẻ, đừng sợ, vì Cha các bạn đã vui lòng ban Nước Trời cho các bạn” ; như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với cô marta nhân cái chết của Lagiarô: “Chính Thầy là sự sống lại ; ai tin vào Thầy dù đã chết cũng được sống lại”. Và Tin Mừng thánh Gioan cũng cho chúng ta thấy Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại sau ba ngày đã chết, để cho chúng ta hiểu rằng Ngài là ai đối với con người và Ngài có được điều quí giá nhất mà con người mơ ước: đó là sự sống, sự sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin ở đây là một sự kiện hết sức nghiêm chỉnh, hết sức quan trọng, vì niềm tin là điểm tựa cho đời sống các bạn, là nền tảng vững chắc cho đầu tư vào vĩnh cửu.
Thật vậy, không có thành công nào mà lại thiếu hay chẳng có niềm tin, cũng như: học sinh, sinh viên muốn mình học giỏi thi đậu mà lại không đặt niềm tin thầy cô của mình, hay một bệnh nhân muốn hết bệnh thì phải theo sự hướng dẫn của bác sĩ, hay trong bài đọc I sách Khởi Nguyên – cho chúng ta thấy dân Do thái đặt niềm tin vào Giavê Thiên Chúa cứu họ khỏi vòng nô lệ Ai cập, và Giavê Thiên Chúa đã giải phóng cho họ khỏi ách nô lệ trong đêm vượt qua ; và bài đọc II cho thấy ông Nôe thoát chết trong trận Đại Hồng thủy, vì ông có niềm tin, và lòng kính sợ Thiên Chúa.
Vẫn biết cuộc sống vĩnh cửu có giá trị. Vậy mà vẫn có một số bạn trẻ Kitô hữu đang sống trong xã hội ngày nay vì miếng cơm manh áo họ có thể chà đạp phẩm giá của mình, có thể tối mặt, chối bỏ luân thường đạo lý, dám làm tất cả dù trái lương tâm mình, và họ chối bỏ cả giáo lý của Chúa: công bằng, bác ái, yêu thương, không còn biết quên mình để nâng đỡ, chia sẻ cho những ai đang sống trong túng thiếu, nghèo khó, đang sống trong đau khổ của bệnh tật. Còn khi không thành công được trong tìm kiếm miếng cơm manh áo, thì họ xem đó như là một định mệnh của Thiên Chúa giáng xuống trên đầu họ, họ oán trách Thiên Chúa, và như thế họ chấp nhận sống trong bóng tối của tội lỗi, trong tuyệt vọng.
Còn một số bạn khác cho rằng tôi còn trẻ, đời còn dài thôi hưởng thụ cái đã, kẻo phải hoang phí tuổi trẻ, mai mốt về già ăn chay cầu nguyện cũng còn kịp chán, người trộm lành còn hốt được nước trời vào phút chót huống chi là tôi.
Những suy nghĩ này trong Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu đã quở trách: “Đồ ngốc nội đêm nay người ta sẽ lấy mạng ngươi”. Và chắc hẳn các bạn từng nghe, từng chứng kiến những cái của người già người trẻ, giàu nghèo, hiền ác, cái chết đã không buông tha ai như có câu thơ: “Lá vàng đeo đẳng trên cây. Lá xanh rụng xuống trời chăng hay trời”. Cái chết đến thật bất ngờ. Niềm tin như thế có đầu tư được cái gì cho vĩnh cửu hay không ?
Trong kinh doanh người ta thường nói đầu tư càng nhiều thì thu lợi nhuận càng nhiều, và thánh Phaolô cũng đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Chính vì thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức dùng cuộc sống đời này làm vốn đầu tư cho vĩnh cửu: “Hãy bán của cải của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy kho tàng trên trời”, đồng thời: “Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để biết nhạy cảm nhanh lẹ, sang suốt khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho cuộc sống chúng ta, để chúng ta can đảm, nghị lực để khi mưu cầu chén cơm manh áo, chúng ta có đủ khả năng biết khước từ mọi hành động bất chính, mọi sự lừa đảo gian trá, vượt qua những cám dỗ tình thương của con người, từ đó biết vươn lên khỏi miếng cơm manh áo: đó là tình thương, lòng bác ái, khoan dung, tha thứ phục vụ người khác.
Nhờ đó chúng ta mới có thể chôn vùi những sự ích kỷ, nhỏ nhen, mở rộng trái tim với đôi bàn tay, để chia sẻ với mọi người, nhất là những người đau khổ vì miếng cơm manh áo…, chúng ta xem đó như là một cuộc tập dượt, luyện tập để dành được kho tàng Nước trời. “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ”. Như abraham trong bài đọc II, Thánh Phaolô xem là tấm gương: Abraham tin vào lời hứa của Thiên Chúa ban cho ông một vùng đất chảy đầy mật, sữa, và một dòng dõi tuyển chọn đông như sao trên trời, mà ông dấn thân nhập cuộc với Thiên Chúa là từ bỏ cuộc sống sung sướng ở quê hương, sống tình trạng bấp bênh đi tìm đất hứa, và dâng hiến cho Chúa người con duy nhất khi tuổi ông và vợ ông đã già, mặc dù Chúa chỉ thử lòng ông, và như người đầy tớ trung tín trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc đến.
---------------------------------
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa: TN 19-C15
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi ?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà ?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không ?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu ?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, không vì mắt chủ mà vì trách nhiệm, Ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng. Thái độ của ông thực là thái độ Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có khi làm việc cho Ngài. Trong huấn dụ về sự tỉnh thức Chúa đã dạy chúng ta trong bài Tin Mừng: “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Nếu canh hai canh ba chủ trở về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho các đầy tớ ấy”.
Lời dạy của Chúa chúng ta đã nghe nhiều, nghe đi nghe lại, nhưng có lẽ nó chưa rơi vào óc, chưa thấm vào tim chúng ta. Chúa bảo chúng ta cầm đèn cháy sáng, nhưng đèn chúng ta lại không dầu, chúng ta lại ngủ vùi trong đam mê. Chúa bảo chúng ta đợi Ngài, nhưng chúng ta lại đợi những gì khác Ngài… Vậy nếu canh hai canh ba Ngài về thì phúc cho chúng ta hay họa cho chúng ta ? Linh hồn và thân xác chúng ta là tòa lâu đài Chúa trao, vườn hoa chính là nhân đức Chúa đã gieo trồng, rồi ủy thác cho chúng ta chăm sóc. Hôm nay nhìn lại, tòa lâu đài còn xứng đáng với danh xưng của nó hay đã biến thành nhà hoang, nhà điếm hoặc hang trộm cướp ? Vườn hoa nhân đức giờ này còn khởi sắc hay chỉ phơi bày sự úa tàn ? Trong hoàn cảnh này, nếu Chúa trở về, Ngài sẽ buồn hay vui ? Vui buồn của Ngài cũng là quyết định cho khổ đau hay hạnh phúc của chúng ta.
Suy nghĩ và nhận ra những thiếu sót của mình, chúng ta hãy tức thời tu sửa . Thời gian của vũ trụ thì con dài, nhưng thời gian của đời mình thì thật ngắn ngủi. Sự chấm dứt chẳng biết lúc nào. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Ông Lã Phụng Tiên kể một câu chuyện ngụ ngôn: có một cụ già kia đang cuốc đất trồng cây, có ba chàng thanh niên tình cờ đi qua, thấy vậy các cậu nói: “Cụ ơi, cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây. Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa”. Cụ già vui vẻ ân cần trả lời: “Chắc gì lão chết trước. Chắc gì các cháu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rày có phân biệt trẻ hay già đâu. Trẻ hay già có khác chi nhau về phương diện đó. Các cháu cứ lo làm cho đàng hoàng công việc của các cháu đi”. Một thời gian sau, cụ già lần lượt được tin ba chàng thanh niên, vì công việc đều chết cả: người thì chết vì tai nạn xe hơi, người thì chết trận, người thì bị đắm tàu trong một chuyến kinh doanh. Cụ già được tin buồn, khóc thương ba chàng trai trẻ đó.
Giả sử chúng ta cho là mình còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn lâu mới chết cũng được đi. Nhưng Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải quan tâm và chấp hành nghiêm chỉnh. Tỉnh thức không phải là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tránh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hàng ngày, vẫn liên đới với mọi người… sống và làm việc cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng là chúng ta đang sống thế nào ? Đang tỉnh thức hay ngủ mê ? Nếu chúng ta đang sống tốt đẹp, chúng ta cứ vui sống. Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm, một số trẻ em đang vui chơi, một giáo sư đi tới hỏi các em: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các con sẽ làm gì ?”. Nghe hỏi thế, em thì nói: “Con vào nhà thờ cầu nguyện”. Em khác thưa: “Con đi xưng tội”. Có một em hồn hiên trả lời: “Phần con vẫn vui chơi như thường”. Vị giáo sư hỏi: “Tại sao con lại vui chơi như thường ?”. Em trả lời: “Vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có gì phải lo sợ”. Em bé đó chính là thánh trẻ Bec-man.
Khi đời chúng ta luôn sẵn sàng, khi lương tâm chúng ta không trách cứ chúng ta điều gì, khi mọi nợ nần của chúng ta với Chúa và anh em đều sòng phẳng, chúng ta không có gì phải lo sợ, chúng ta cứ vui sống.
---------------------------------
Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay: TN 19-C16
Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng – nó theo sát chúng ta trong gang tấc. Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.
Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại. Một ngày nọ, một tu sĩ đang quét sàn nhà trong tu viện thì có người hỏi ông, ông sẽ làm gì nếu ông sẽ chết trong vòng một giờ nữa. “Tôi sẽ tiếp tục công việc quét nhà”, ông đáp. Nói cách khác, ông muốn tiếp tục đi theo bổn phận của mình trong lúc đó.
Nhiều người tin rằng hạnh phúc gắn liền với việc không có sự gì để cam kết, không có người nào để đáp lại và không bao giờ để cho nhu cầu hoặc những vấn đề của người khác trói buộc mình. Nhưng không phải thế. Thật ra, trái lại mới đúng. Hạnh phúc và sự viên mãn của một con người không nằm trong tự do, nhưng trong sự chấp nhận bổn phận. Người ta chấp nhận bổn phận này không phải một cách khắc nghiệt nhưng với lòng yêu thương.
Bất cứ ai chỉ làm tròn bổn phận của mình, thì không làm hết bổn phận ấy. Chúng ta càng hiến dâng tình yêu cho nhiệm vụ khó khăn hơn, thì nó cũng làm cho chúng ta cao quí hơn. An sủng cao cả nhất, tự do cao cả nhất trong đời sống là khi điều chúng ta phải làm cũng chính là điều chúng ta thích làm. “Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và thấy đời sống là bổn phận. Tôi hành động và thấy bổn phận là niềm vui”.(Tagore)
Khi ông Dag Hammarkjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thụy Điển: “Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn sẽ nhỏ ?”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông: “Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với một bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
Đẹp biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề là không phải chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai họa mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Mấy năm trước đây ở Mỹ, có một tu sĩ dòng Phanxicô hoạt động giúp đỡ các trẻ em mồ côi, ông tham gia vào một cuộc chạy đua xe đạp để gây quỹ bảo trợ. Trong lúc chạy ông đã bị một xe hơi đâm vào và kết quả là ông đã chết. Đúng là một cái chết không đẹp. Tuy nhiên từ một quan điểm Kitô giáo đó là một cái chết rất đẹp. Ông Chết trong lúc làm việc cho Chúa. Ông giống như người đầy tớ trung tín mà Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng.
Đời sống rất quí giá, nhưng chúng ta không vui hưởng thế gian này mãi mãi. Phúc cho những người có ý thức về bổn phận. Sự cao cả của họ gắn liền với ý thức trách nhiệm. Mẹ Têrêxa nói: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chỉ để sống trung thành”.
---------------------------------
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên: TN 19-C17
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100/o, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng. Vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời ?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì ?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Làm việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: “Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không ?” Và chính ông trả lời: “Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi”. Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui”.
Cách đây vài năm, một thày dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình.
---------------------------------
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên: TN 19-C18 FB
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì ?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
-------------------------------------------
Chiếc quan tài nhỏ
Ở Tô Châu có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Để răn mình và cảnh giác những khách đến viếng Chùa, ông cho làm một chiếc quan tài nhỏ xíu dài 3 tấc có nắp đậy và mở ra được, rồi để trên bàn ở phòng tiếp khách. Khách đến viếng chùa người nào cũng xem và tò mò hỏi. Nhà sư giải thích: “Có sống tất phải có chết, rồi ai cũng phải chui vào cái hòm này. Nhưng trong thực tế thiên hạ ít ai nghĩ tới, chỉ ham mê mải miết bận bịu với danh vọng, tiền của, nhan sắc... là những thứ chẳng bao lâu sẽ biến thành mây khói. Phần tôi, mỗi khi bị thế tục ám ảnh và lôi cuốn, khi nhìn vào quan tài nhỏ này, tôi cảm thấy một sức mạnh lạ lùng đủ chặn đứng mọi cám dỗ và tâm hồn lại được nhẹ nhàng thảnh thơi.
Thánh Kinh cũng ghi: Hãy năng nhớ đến sự chết thì con sẽ không phạm tội.
----------------------------------------
Tại chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là tu hành đắc đạo. FB
Nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có một cái nắp đậy, mở được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: "Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi nhìn ngắm quan tài, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn trong tâm hồn ngay".
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp lên nhau là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng. Khi tử thần xuất hiện, thì con người không thể mang theo bất cứ một tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với trần thế này. Trái lại, được ôm ấp suy gẫm mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành một người bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích là cái chết để sống thanh thoát hơn với cuộc sống hiện tại.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta “hãy tỉnh thức” qua dụ ngôn “đợi chủ trở về”. Sự đợi chờ này mang ý nghĩa: chờ đợi việc Chúa quang lâm, chờ đợi ngày chết của mỗi người và chờ đợi những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa ân cần phục vụ họ mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Chúa. Tỉnh thức qua việc luôn sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức để nói không với tội. Tỉnh thức để luôn trung thành với bổn phận của mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn trung thành với sứ vụ được trao để xứng đáng được Chúa thưởng công. Amen
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là cây nho. Chúng con là cành. Xin cho chúng con luôn gắn bó với Chúa qua việc siêng năng rước Chúa mỗi ngày. Xin giúp chúng con luôn biết tỉnh thức sẵn sàng, để dầu chúng con đang phải sống giữa trần gian, nhưng vẫn luôn một lòng gắn bó với Chúa trong lời cầu nguyện hằng ngày.
Lạy Chúa, sống giữa cuộc đời chúng con phải lo lắng sắm sửa cho mình rất nhiều thứ. Có những thứ cần dùng. Có những thứ để tích luỹ. Đó là kẻ khôn ngoan. Nhưng Chúa ơi, sao chúng con lại quá dại khờ với những giá trị Nước Trời. Chúng con chưa chuẩn bị gì cho ngày chúng con định cư vĩnh viễn nơi quê trời. Chúng con quá bon chen cuộc sống vật chất mà quên đi chuẩn bị hành trang cho Nước trời mai sau. Xin giúp chúng con biết tích luỹ công đức trước mặt Chúa bằng những hy sinh sống theo thánh ý Chúa, những từ bỏ đam mê tật xấu để hoàn thiện mỗi ngày thánh thiện hơn.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa yêu chúng con vô ngần. Xin giúp chúng con tỉnh thức trước những cám dỗ mời mọc chúng con xa Chúa. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, ngõ hầu biết trung thành với Chúa luôn. Amen
---------------------------------
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng: TN 19-C19
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những người khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuộc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc.
---------------------------------
Qua đoạn tin mừng vừa nghe, tôi muốn dừng lại và chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh: TN 19-C1
Qua đoạn tin mừng vừa nghe, tôi muốn dừng lại và chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh câu hỏi:
- Thế nào là một người đầy tớ khôn ngoan ?
Tôi xin thừa:
- Người đầy tớ khôn ngoan là người đầy tớ biết tận dụng thời gian để chu toàn công việc của mình. Người ấy phải ý thức rằng mỗi phút mỗi giây phải được dùng để tăng thêm phúc lộc cho chủ. Thời giờ của người ấy là để phục vụ chứ không phải là để hoang phí.
Người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông. Có nghĩa là thời giờ đã qua đi thì không bao giờ trở lại.
- Trong tuổi thanh niên thời giờ là vàng, sau đó là bạc, và khi trở về già là đồng.
Hay như tục ngữ Việt Nam cũng nói:
- Thời giờ thấm thoát thoi đưa,
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai.
Ở đời có ba điều đáng tiếc đáng tiếc: một là hôm nay bỏ đi, hai là đời này chẳng học, ba là thân này lỡ hư. Thời giờ chính là một bảo vật quí giá nhất mà chúng ta có thể sử dụng.
Thực vậy, thời giờ chính là một giòng sông chảy xiết không bao giờ đứng yêm ở một chỗ. Mỗi phút qua đi thì không thể nào trở lại. Thế nhưng biết bao nhiêu người để thời gian bay qua cửa sổ đang khi trong tay có nhiều công việc phải làm. Trái lại có những người ôm đôm quá nhiều việc để rồi cuối cùng không việc nào được làm xong cả. Có những người luôn vội vàng thế mà lúc nào cũng trễ. Trái lại có những người không vội vàng mà cũng không chậm trễ. Họ là những người biết xử dụng thời giờ một cách khôn ngoan. Có bốn nguyên tắc giúp chúng ta trong vấn đề này.
Nguyên tắc thứ nhất là đúng giờ đúng lúc.
Thực vậy, giờ nào việc nấy. Mỗi công việc có thời gian riêng của nó. Phải biết sắp xếp cho mỗi công việc một thời gian nhất định. Rồi khi làm việc, chúng ta hãy làm cho đúng giờ. Có một lời khuyên như sau:
- Muốn đúng giờ thì hãy đến trước lúc ấn định.
Nếu không tập đúng giờ đúng lúc, chúng ta không thể nào tránh được sự trễ nải hay gọi là giờ cao su. Cứ một mét giây cao su có thể kéo dài thành chín mét. Với thói quen xử dụng giờ cao su như vậy, chúng ta đã để cho thời giờ trở thành tro than thay vì là vàng ngọc. Chúng ta để cho thời giờ giết chúng ta đồng thời chúng ta cũng giết thời giờ một cách vô ích.
Nguyên tắc thứ hai là hãy làm ngay khi có thể.
Thực vậy, ai cũng có nhiều việc phải làm nhất là những người đầy tớ có tinh thần phục vụ và trách nhiệm. Cho nên khi có phương tiện và thời gian, hãy làm ngay, đừng chần chừ, đừng chờ lúc khác. Tục ngữ Anh đã bảo:
- Công việc hôm nay chớ để ngày mai vì ngày mai là ngày chưa chắc.
Thực ra càng để dồn công việc chừng nào chúng ta càng cảm thấy ngao ngán chừng ấy và thường chúng ta chẳng làm được gì cả. Bí quyết của người đầy tớ khôn ngoan là hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, không cần chờ thời chờ hứng, vì nhiều khi hội đủ những điều kiện thì kẻ khác đã làm mất rồi.
Nguyên tắc thứ ba là hãy sắp xếp công việc.
Công việc thì ai cũng có, nhưng biết sắp xếp thì không hẳn ai cũng có thể. Vì vậy, người đầy tớ khôn ngoan phải biết từ chối khi công việc chưa cần và bằng lòng làm khi cần phải làm chứ đừng ôm đồm lãnh hết mọi việc khi mình không đủ sức. Phải biết đặt giá trị lên trên việc làm. Việc nào quan trọng hơn thì làm trước. Việc nào ít quan trọng hơn thì làm sau. Người đầy tớ khôn ngoan là một người làm việc gương mẫu và chỉ huy được công việc của mình.
Nguyên tắc thứ bốn là biết ngưng công việc để giải trí vì đó là cách làm cho tinh thần được nghỉ ngơi sảng khoái, và thể xác được lấy đà hăng hái hơn.
Nếu công việc nhàm chán buồn tẻ thì hãy thay đổi lề lối làm việc. Thỉnh thoảng nên nghỉ ngơi đôi chút đó là điều bổ ích cho tinh thần cũng như thể xác. Không gì làm cho con người chóng già bằng sự căng thẳng, mệt mỏi và bực tức.
Thời giờ giống như tiền bạc nhưng là thứ tiền bạc được phân phát đồng đều cho mọi người: lớn cũng như nhỏ, giàu cũng như nghèo, giỏi cũng như dốt. Ai cũng có 24 tiếng đồng hồ trong một ngày để sống. Thực ra thời giờ không đến với chúng ta một lần 24 tiếng ngay đâu, nhưng đến từng khoảng khắc.
Cuộc đời của người đầy tớ là kết quả những gì làm được trong những khoảng khắc đó. Vì thế người khôn ngoan là người phải lãm ngay những việc làm được vì hiện tại đang nằm trong tay và đang thuộc về chúng ta. Còn quá khứ thì đã qua rồi và tương lại thì chưa đến. Người đầy tớ khôn ngoan là người tận dụng được thời gian và công việc.
Và sau cùng trên phạm vi siêu nhiên, người đầy tớ khôn ngoan là người biết tận dụng thời giờ Chúa ban để phục vụ Chúa và anh em, bởi vì mỗi việc chúng ta làm hôm nay là một góp phần cho vinh quang nước trời ngày mai.
---------------------------------
Có thể chúng ta đã có, đã mua sắm được nhiều thứ cho cuộc sống hiện tại của mình như nhà cửa, xe cộ, máy móc, quyền cao chức trọng, vợ đẹp con khôn. Có thể chúng ta cũng đã được hưởng thụ nhiều niềm vui của cõi đời tục lụy này. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn còn thiếu nhiều thứ cần thiết hơn cho đời sống làm người của mình. Chẳng hạn:
- Chúng ta còn thiếu niềm tin: Vì thiếu niềm tin nên ta không dám liều như ông Abraham để sống và đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Vì thiếu niềm tin nên ta đã không dám hy sinh như ông Abraham đã hy sinh điều quý giá nhất đời ông là đứa con trai duy nhất, đứa con mà Thiên Chúa đã ban, để nhờ nó màgiòng giống của ông sẽ phát triển như sao trên trời, như cát bãi biển theo như lời hứa của Thiên Chúa. Vì thiếu niềm tin nên ta không dám dứt bỏ những ham muốn tội lỗi, những đam mê bất chính, những khát vọng tầm thường. Vì thiếu niềm tin nên ta không dám cắt đứt những hành vi ám muội, cắt đứt lối sống trụy lạc mà ta từng theo đuổi.
- Chúng ta còn thiếu lòng yêu mến đối với Thiên Chúa: Vì thiếu lòng yêu mến Chúa nên ta luôn dửng dưng với Người, luôn hững hờ với những bổn phận của một người con Chúa. Vì thiếu lòng yêu mến Chúa nên ta sẵn sàng chà đạp lên lề luật của Người. Vì thiếu lòng yêu mến Chúa nên ta luôn đóng chặt cửa lòng, luôn bịt chặt tai, luôn nhắm chặt mắt để không còn nghe, để không còn thấy, để không còn cảm nhận được tình Chúa yêu thương ta đến độ nào.
- Chúng ta còn thiếu lòng nhân nghĩa đối với anh chị em mình: Vì thiếu lòng nhân nghĩa nên ta không biết đến ai khác ngoài bản thân mình. Mọi sự ta đều quy về cho mình. Ta muốn người khác giúp đỡ ta, nhưng không bao giờ ta nghĩ đến việc giúp đỡ người khác. Ta muốn mọi người phục vụ ta, nhưng không bao giờ ta quan tâm tới bất cứ ai. Vì thiếu lòng nhân nghĩa nên ta sẵn sàng đạp người khác xuống để mình có thể leo lên đỉnh cao danh vọng. Vì thiếu lòng nhân nghĩa nên ta nhẫn tâm phá vỡ hạnh phúc của người khác để thỏa mãn những khát vọng thấp hèn của mình. Vì thiếu lòng nhân nghĩa nên ta đang tâm giết chết người khác chỉ vì một chút lợi lộc chẳng đáng la già.
- Chúng ta còn thiếu sự thức tỉnh trước cuộc sống mong manh của thân phận mình: Vì thiếu tỉnh thức nên ta không nhận ra những cạm bẫy của cuộc đời. Vì thiếu tỉnh thức nên ta không nghe được tiếng gọi của Trời Cao. Vì thiếu tỉnh thức nên nhiều lúc ta quên rằng mình là con người có phẩm giá cao quý chứ không phải là con vật tầm thường. Vì thiếu tỉnh thức nên ta cứ mãi ngủ vùi trong những giá trị của đời tạm gửi này mà không biết rằng còn có cả một cuộc sống bất tận ở bên kia sự chết.
- Chúng ta còn thiếu sự chuẩn bị sẵn sàng để ra đi về với Chúa là cội nguồn của mình. Ta biết chắc chắn rằng một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ đến đưa chúng ta ra khỏi cuộc đời này để bước vào đời sau vĩnh cửu, nhưng ta vẫn né tránh không nghĩ tới điều đó. Né tránh không nghĩ tới để ta có thể an tâm vui hưởng mọi sự, kể cả những niềm vui bất chính.
Còn rất nhiều thứ khác mà ta đang thiếu. Và những thứ còn thiếu này lại là gia sản rất cần thiết cho ngày mai vĩnh cửu. Đó cũng là một thứ giấy thông hành mà nhờ nó ta mới có thể bước qua cửa Trời. Nếu không biết chuẩn bị, không biết sắm sẵn cho mình những gia sản, những thứ giấy tờ cần thiết ấy, sợ rằng khi kết thúc cuộc đời này, chúng ta sẽ không có chỗ trên quê hương Nước Trời.
Lời Chúa vẫn vang lên như một tiếng gọi khẩn cấp: “Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm sẵn cho mình những túi tiền không bao giờ cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên Trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.”
---------------------------------
Một người có ba người bạn. Lúc bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba thì giao tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa án xử tội. Ông liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối viện cớ bận việc không đi được. người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dù không được ông ta yêu quí lắm, lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.
Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng: người bạn thứ nhất của con người là tiền của vì lúc còn sống ai cũng o bế, tìm mọi cách để kết thân với nó, nhưng khi ta chết nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng bố thí cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi dù họ có thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là các công việc lành, bố thí vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh thường nó, đôi khi la mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó kiên quyết theo ta đến tận tòa phán xét để bênh vực và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên đàng.
Có lẽ, không ai trong chúng ta mê muội đến nỗi không chịu nhận ra một sự thật mà đã mang lại nhiều hậu quả trái ngược nhau, ảnh hưởng suốt cả đời. Đó là tiền bạc, của cải liên hệ rất lớn đối với con người. Nói khác đi, nó có thể vừa là một nguyên nhân làm cho ta mất sự sống đời đời, cũng vừa là một bạn đường rất tốt giúp ta chiếm đoạt được Nước trời.
Vì thế, bài Phúc Âm tuần trước cũng như hôm nay, Chúa và Giáo hội lại muốn suy nghĩ thật kỹ về tầm ảnh hưởng sâu rộng của tiền của để có một mãnh lực kinh khủng, dễ dàng đưa đẩy con người vào những mê lầm tai hại, xấu xa đến độ quên mất Thiên Chúa, bất xét tình thương đồng loại, từ bỏ sự sống đời đời. Do đó, khi đề cập đến nguy hiểm của tiền bạc, Chúa luôn luôn cảnh tỉnh con người phải biết khôn ngoan sáng suốt làm chủ nó, đừng để nó mê hoặc mà quên cái chết kề bên.
Tuy nhiên, bên cạnh cái tiêu cực của nó, tiền bạc cũng có khía cạnh tích cực to lớn chẳng những nó đem lại cho con người nhiều công dụng hữu ích đời này, mà còn giúp con người làm giàu công phúc trước mặt Chúa bằng các việc từ thiện bố thí, giúp đỡ anh em nghèo nàn túng thiếu cách thiết thực. Nhưng trong tâm thức cũng như trong hành động, chúng ta chỉ biết sử dụng tiền bạc cho những mục đích mưu cầu lợi ích cá nhân, gia đình hơn là quan tâm đến làm phúc bố thí. Do đó, người bạn ít thân trong câu chuyện đã tố giác chúng ta về ích kỷ bần tiện, sự tiếc tiền tham của đến độ làm mất những năng lực hữu ích nhất của tiền bạc là mua lấy Nước Trời.
Như thế, rõ ràng của cải cũng là những ân huệ Chúa gởi cho ta sinh lợi. Ai quản lý tốt sẽ được ân thưởng, ai quản lý tồi chắc chắn bị trừng phạt. Có nhiều thì trách nhiệm nhiều, có ít thì trách nhiệm nhẹ hơn, nhưng ai cũng phải biết cách sử dụng của cải thật tốt cho mình và tha nhân nữa.
---------------------------------
Qua đoạn Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta có thể rút ra một vài nét đặc biệt cho cuộc sống đức tin của mình. Có kẻ nói rằng: “Người Kitô hữu là những kẻ sống những thực tại ở giữa trần gian nhưng với một tâm hồn luôn hướng về trời, luôn hướng về sự sống đời đời, hướng về một cuộc sống mai hậu”. Người Kitô hữu không lơ là với những bổn phận mỗi ngày của mình, nhưng dấn thân trọn vẹn để chu toàn những gì Thiên Chúa muốn cho chúng thực hiện trong cuộc sống này.
Mở đầu đoạn Phúc âm chúng ta nghe lại lời Chúa Giêsu nhắn nhủ cho các đồ đệ của Ngài: “Của cải chúng con ở đâu thì lòng trí chúng con ở đó”. Của cải không phải chỉ là của cải vật chất mà thôi mà chúng ta có thể nói: “Kho tàng của chúng ta ở đâu, hay sự giàu có của chúng ta ở đâu thì lòng trí chúng ta ở đó”. Đối với người Kitô hữu thì sự giàu có không phải là sự giàu có về của cải vật chất không, nhưng là giàu có sự sống đời đời, giàu có những sự tốt lành, giàu có những ơn lành của Thiên Chúa ban cho.
Nữ tu Angelica là người đang nổi tiếng trong dư luận Hoa Kỳ và Quốc Tế, vì đã thành công trong việc thiết lập một hệ thống truyền thanh và truyền hình để phổ biến Lời Chúa. Một hôm, nữ tu gặp một luật sư giàu có, hưởng thụ mọi tiện nghi vật chất trên đời.
Vị luật sư này khoe với nữ tu Angelica rằng: Không có gì trên đời này mà tôi không thể hưởng thụ được nếu tôi muốn, vì phương tiện vật chất, tiền của không bao giờ thiếu với tôi.
Nhưng nữ tu Angelic chỉ hỏi lại ông có một câu: Ông có thực sự sống hạnh phúc hoàn toàn không ?
Câu hỏi bất ngờ này đánh động vào trúng thao thức sâu xa của luật sư và ông đã thú thực với nữ tu Angelica rằng: Tuy tôi có đủ mọi tiện nghi vật chất trên đời này nhưng tôi không cảm thấy được an vui hạnh phúc thực sự trong tâm hồn. Lúc nào tôi cũng cảm thấy trống rỗng. Ông đã hỏi nữ tu Angelica rằng: Xin nữ tu chỉ cho tôi biết bí quyết sống hạnh phúc thực sự.
Câu trả lời của nữ tu Angelica cho vị luật sư giàu có lập lại câu trả lời của Chúa Giêsu đã nói với chàng thanh niên giàu có trong đoạn Phúc âm khi anh ta đến hỏi Ngài: “Phải làm gì để được sống đời đời”. Nữ tu Angelica khuyên ông ta: “Sống đừng nghĩ đến những điều vật chất, nhưng hãy nghĩ đến những cuộc sống siêu việt, hãy nghĩ đến sự sống đời đời, hãy lo tích trữ cho mình những sự đời đời”.
Như lời Chúa Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Con hãy về bán hết gia tài con có và phân phát cho người nghèo rồi hãy đến theo Ta”. Đó là bí quyết được Chúa Giêsu mạc khải cho chàng thanh niên giàu có và cách nào đó lời ấy không ngừng được thông truyền cho các thế hệ, cho những ai tin tưởng vào lời mời gọi của Chúa.
Người Kitô hữu chúng ta sống đức tin của mình không nên chỉ nghĩ đến những điều vật chất trên trần gian này, mà còn phải nghĩ đến những sự giàu có của cải thiêng liêng trên trời. Tâm hồn người Kitô sống giữa trần gian nhưng phải được hướng về trời. Và để hướng về trời dễ dàng thì phải chấp nhận bán đi của cải để phân phát cho những người anh chị em đang đau khổ, đang cần được sống và đang cần được yêu thương. Người Kitô hữu cần phải sống từ bỏ, sống không bám víu vào của cải: “Của cải chúng con ở đâu thì lòng trí chúng con ở đó”.
Người Kitô hữu hướng về trời nhưng không sống một cách thụ động giữa những bổn phận trần gian. Sự tỉnh thức đợi chờ Thiên Chúa ngự đến không phải là cớ để người Kitô hữu khoanh tay ngồi không sống một cách thụ động, mà cần phải có một thái độ đợi chờ tích cực với sự dấn thân thu toàn công việc hằng ngày mà Thiên Chúa trao phó như những người tôi tớ trung tín trong dụ ngôn mà chúng ta mới nghe. Trong khi chờ đợi chủ mình về, những người tôi tớ đó đã chu toàn bổn phận là tỉnh thức chờ đợi ông chủ về trong tư thế làm việc, ăn mặc gọn ghẽ và cầm đèn cháy sáng trong tay. Họ chờ đợi khi chu toàn công việc, bổn phận hằng ngày của họ chứ không phải trong tư thế ngủ để chờ đợi.
Khi chết, cầm đèn sáng trong tay nhắc chúng ta dụ ngôn khác Chúa Giêsu đã nói: “Những cô khờ dại và những cô khôn ngoan”. Nhưng cô khôn ngoan đến với Chúa Giêsu hay chờ Chúa đến với đèn sáng trong tay, đó là những công việc tốt lành mà họ đã thực hiện. Những đầy tớ chờ đợi chủ về với đèn cháy sáng trong tay, tức là đợi chủ về với những công việc họ đang chu toàn đúng theo nghĩa chủ muốn.
Người Kitô hữu chúng ta cũng phải chờ đợi Chúa đến với những công việc tốt lành, phục vụ các nhu cầu của anh chị em xung quanh. Một khi tâm hồn luôn hướng về trời, hướng về Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ biết cách xử dụng những gì Chúa ban cho trên trần gian này, để phục vụ anh chị em, để chờ đợi Chúa đến với đèn sáng trong tay, với những việc tốt lành của chúng ta thực hiện cho anh chị em. Ai có thể tin rằng chúng ta sống hướng tâm hồn về Chúa, chờ đợi Chúa đến nếu ngày đêm chúng ta chỉ lo nghĩ bám víu những của cải vật chất và sống đóng kín tâm hồn mình trước những nhu cầu của anh em xung quanh.
Chúng ta sắp mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời vào ngày 15-8 tới đây, chúng ta hướng về Mẹ, xin Mẹ giúp chúng ta sống hướng về Chúa như Mẹ đã sống. Xin Chúa giúp chúng ta được ơn chu toàn những công việc, những bổn phận của mình hằng ngày để có những cây đèn cháy sáng trong tay, đó là những việc tốt lành để chuẩn bị đón Chúa đến. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà chúng ta tuyên xưng qua kinh Tin kính.
---------------------------------
Có người bảo: “Con người là con vật biết nói” đúng không ? - Thưa đúng. Con người ở đâu cũng có tiếng nói. Nhờ tiếng nói con người diễn đạt tư tưởng và ước muốn của mình. Nhưng con người là con vật biết nói thì chưa hẳn là đúng. Con yểng, con sáo, con khiếu cũng là những con vật biết nói nhưng chúng không phải là con người.
Có người bảo: “Con người là con vật có tình cảm” đúng không ? – Thưa đúng. Trong con người ai cũng có thất tình: hỉ (mừng), nộ (giận), ai (thương), lạc (vui), ái (yêu), ố (ghét), dục (muốn). Nhưng con người là con vật có tình cảm thì chưa đúng. Con chó xem ra nó cũng có tình cảm, nhưng nó không phải là con người.
Có người bảo: “Con người là con vật có trí khôn” đúng không ? - Thưa đúng. Vì nhờ có trí khôn, con người trổi vượt hơn muôn loài, và làm chủ muôn vật trên vũ trụ. Nhờ có trí khôn, con người trở thành “nhân linh ư vạn vật”. Nhưng con người là con vật có trí khôn cũng chưa hẳn là đúng. Con voi, con khỉ, cá heo là những con vật rất khôn ngoan, xem ra chúng có trí khôn, nhưng chúng không phải là con người.
Vậy con người hay loài người là loài nào ? - Thưa loài người là loài có linh hồn và xác, Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người, để nhận biết và thờ phượng kính mến Thiên Chúa là Chúa chúng ta, và thương yêu mọi người như anh em, cùng anh em xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời. Như thế, chỉ có Giáo Hội Công giáo mới có câu trả lời đúng đắn nhất về con người. Đoạn Phúc âm hôm nay đề cập đến hạnh phúc trường tồn của con người. Để đạt được hạnh phúc trường tồn, con người phải thi hành những điều sau:
Thứ nhất, hãy sắm cho mình kho tàng không bao giờ hao mòn trên trời. Như thế, phải nhìn tất cả dưới khía cạnh vĩnh viễn và không tiêu biến. Tất cả được đưa vào trạng thái vững bền hoặc trạng thái đời đời của Thiên Chúa. Thánh Phaolô khuyên: “Để đạt hạnh phúc trường tồn, anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời, chứ đừng tìm kiếm những sự dưới đất”.
Tiếp đến, để diễn đạt hạnh phúc trường tồn, người ta phải sẵn sàng và tỉnh thức. “Hãy làm như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”. Người môn đệ của Chúa phải tỉnh thức luôn, đồng thời hy vọng ngày Chúa sẽ đến đưa họ về đời sau.
Sau cùng, người tín hữu luôn luôn phải xác tín là Thiên Chúa yêu thương họ: Tấm lòng yêu thương này được biểu lột qua việc Ngài ban rất nhiều ơn lành hồn xác cho họ và nhất là Ngài còn ban Nước Trời cho họ, ban hạnh phúc tồn tại muôn đời cho họ.
Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta những nguyên tắc sống để đạt được hạnh phúc đời này và đời sau, đồng thời cũng đưa ra những tiêu chuẩn để đánh giá đúng mức các thực tại trần gian.
---------------------------------
Trong bài giảng nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm được bầu vào chức vụ chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ, Đức Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội, đó là Ngài đã khiêm tốn làm một trong vấn lương tâm trước mặt mọi người. Ngài nói như sau:
“Sau hai mươi năm phục vụ trên quan tòa Phêrô, hôm nay tôi không thể không tự đặt ra cho mình một số câu hỏi:
1. Ngươi có làm tròn sứ vụ được giao phó không ?
2. Ngươi có chuyên cần và tỉnh thức trong chức vụ thầy dạy đức tin của Giáo Hội không ?
3. Ngươi có cố gắng đưa con người ngày nay đến gần công cuộc vĩ đại của Công đồng Vaticano II không ?
4. Ngươi có quan tâm đến những chờ đời của các tín hữu trong Giáo Hội, cũng như nỗi khát khao chân lý trong thế giới bên ngoài Giáo Hội không ?”
Một cách nào đó, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm đối với người anh em của mình. Đây là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh của một người quản gia để nói lên sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin mừng hôn nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh của một người quản gia để nói lên sự tỉnh thức của người môn đệ. Người quản gia không chỉ chịu trách nhiệm đối với gia chủ. Người quản gia trung tín và khôn ngoan không chỉ biết làm lợi cho gia chủ, mà còn biết cư xử có tình có nghĩa với kẻ ăn người ở trong nhà. Chè chén xay sưa và đánh đập tôi tớ trong nhà là biểu hiện của một thái độ khinh thường đối với chủ.
Hình ảnh người quản gia biết thể hiện lòng trung tín đối với chủ qua việc phục vụ người trong nhà, gợi lên cho chúng ta hai giới răn nền tảng của đạo đức Chúa Giêsu nối kết thành một,đó là mến Chúa và yêu người. Lòng mến Chúa thiết tha được thể hiện qua tình yêu người. Như vậy, tình thức đối với người môn đệ chính là luôn nhận biết và yêu mến Chúa trong tha nhân.
Ước gì mối quan hệ và trách nhiệm đối với tha nhân luôn là điểm xét mình hàng ngày của chúng ta. ” Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn”, lời này của thánh Phaolô nắn nhớ rằng chúng ta chỉ thực sự nhận được bình an của Chúa, khi biết sống yêu thương mọi người.
---------------------------------
- Lm. Augustine, SJ.
Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó.
Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thày bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người." Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thày bảo thật anh em, ông ta sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng "chủ ta còn lâu mới về" và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa. Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn."
Các môn đệ phải trở nên như quản gia
Một bà cụ tuổi trên 80 nằm liệt giường, chỉ còn một tay cử động được. Cậu sinh viên Hùng thuộc nhóm sinh viên đến thăm trại T.B, dừng lại hỏi han bệnh nhân liệt giường. Người sinh viên một cách tự nhiên nói tới hai chữ khổ đau khiến bà cụ khóc nức nở. Hình như khách đến thăm đã vô tình đụng tới một vết thương sâu kín trong lòng bệnh nhân, cậu sinh viên kể lại:
"Sau một hồi thổn thức, cụ nắm chặt đôi bàn tay tôi và kể về hoàn cảnh của mình. Cụ có chồng mà coi như không có. Ông đã bỏ cụ và ba người con. Rồi ba người con cũng mất đi, để lại một mình cụ với cuộc đời vất vả ngược xuôi. Về già, cụ được đưa vào trại này. Bệnh tật lần lượt giảm thiểu khả năng cử động. Cụ ăn cũng phải nằm và chỉ còn một bàn tay cử động được để đưa đồ ăn lên miệng. Mọi sinh hoạt khác cụ đều nhờ vào sự giúp đỡ của những người mà từ nơi họ cụ phải hấng lấy biết bao cử chỉ khó chịu, hằn học và xúc phạm. Cụ cảm thấy sự sống mà cụ đang sống là điều thừa thãi, bị khinh rẻ và chẳng mang lại lợi ích cho ai. Cụ lại thổn thức khóc, đưa bàn tay còn lại che khuôn mặt nhăn nheo vì tuổi tác và chịu khổ đau quá nhiều. Cụ nói rằng cụ là người đau khổ nhất và tủi nhất."
Cậu sinh viên ngồi nghe mà lòng tan nát. Cậu thầm nguyện xin Chúa Giêsu giúp cậu bày tỏ được điều mà mỗi sáng cậu hằng nguyện xin là trải rộng được tình thương của Chúa đến với những người cậu gặp gỡ. Người sinh viên ấy kể tiếp:
"Giờ đây, trước một con người trong hoàn cảnh thật đau lòng, tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Sau thời gian ngồi nghe cụ trong thinh lặng, tôi hỏi cụ quí danh là gì. Cụ nói tên cụ là Hạ nhưng tôi nghe không được rõ vì giọng cụ khó nghe nên tôi nghe trại ra là Hà. Sau nhiều lần cố gắng chỉnh lại cụ mới phát âm được tên cụ là Hạ. Lúc ấy cụ lại thổn thức khóc ròng và nói: "cậu thấy đó, đến tên mình mà tôi còn không nói lên được". Cụ muốn chứng minh cụ là người thật sự đau khổ nhất đời.
Khi biết cụ là một Phật tử và có thời gian đã làm công quả trong chùa, tôi gợi lại niềm tin sẵn có của cụ nơi Đức Phật và Quan Âm Bồ Tát. Đó là những vị đã từng hy sinh, từng bỏ địa vị giàu sang mở ra đường cứu nhân độ thế, giúp con người thoát khỏi bệ khổ. Tôi gợi ý để cụ nhận ra lòng từ bi của các vị ấy đối với hoàn cảnh riêng của cụ với những lời chúc lành các vị dành cho cụ.
Người quản gia trung tín cấp phát thóc gạo đúng giờ
Phản ứng của cụ về những điều tôi vừa chia sẻ vẫn là: "Tôi khổ lắm cậu ơi! Sao khổ quá vậy. Trời ơi!" Tôi liền hướng về Đức Giêsu là Đấng đã chịu bao khổ đau và đã chịu chết để loài người được hạnh phúc thật. Nhưng liệu cụ có hiểu được chăng nếu tôi nói về Đức Giêsu Đấng hoàn toàn xa lạ với tín ngưỡng của cụ? Khi ấy tôi cảm thấy một sức mạnh thúc đẩy tôi cứ nói. Vậy tôi phải bắt đầu từ đâu? Dĩ nhiên từ Bể Khổ là hoàn cảnh của cụ. Thế là tôi nói với cụ về một người đau khổ hơn cụ gấp bội. Cụ ngạc nhiên vì không tin rằng trên đời này còn có người đau khổ hơn mình nên cụ hỏi tôi ai vậy? Thế là tôi được dịp nói về Đức Giêsu. Tôi nói về ông Giêsu là Con của Thượng Đế, con của Ông Trời. Khi thấy loài người quá đau khổ vì bệnh tật, vì tuổi già, vì bị hất hủi, bị đối xử bất công, bị coi khinh..., trong đó có cụ và tôi, nên vì yêu thương, ông đã xuống trần gian làm người, cùng sống kiếp người để chia sẻ cuộc sống lầm than mà con người phải gánh chịu. Ông dạy dỗ, chúc lành và đem đến cho con người niềm an ủi ngay qua hoàn cảnh nghèo khó, đói khát, bệnh tật, chịu đối xử bất công. Là con Thượng Đế nên ông hứa ban sự sống và hạnh phúc dành cho những ai tin vào Thượng Đế. Ngay ở đời này họ đã có sức mạnh vượt trên những hoàn cảnh khổ đau, phương chi ở kiếp sau hạnh phúc đó sẽ tràn đầy nơi Thượng Đế là CHA.
Nhưng ông Giêsu ấy đã bị học trò của mình phản bội, bán cho những kẻ vì ghen ghét mà tìm cách giết ông; số học trò còn lại bỏ rơi ông; thậm chí có kẻ công khai chối bỏ ông. Thế là ông đã bị bắt, bị đánh đập cách tàn ác, bị lăng nhục, nhạo cười, bị nhổ nước miếng vào mặt... Cuối cùng ông bị người ta đem đi đóng đinh trên hai đẵn cây gắn lại với nhau như hình chữ thập. Ông bị treo trên đó trần truồng thật là nhục nhã, thân mình đầy những vết bầm khó mà nhận ra đó là ông Giêsu làng Nadarét. Ông đã chết để cho loài người được sống nhờ tình thương và sự hy sinh lớn lao ông mang lại cho mỗi một người. Trên cây thập tự, ông tắt thở sau khi xin Thượng Đế tha cho những người đã giết ông khi nói: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." Cậu Hùng còn nói tiếp:
"Thế rồi tôi nói cụ còn có thể làm nhiều điều hữu ích cho người khác được hạnh phúc. Nhiều người coi bộ sung sướng bên ngoài mà bên trong bất hạnh. Chắc gì họ sẽ được hạnh phúc đời sau nhất là nếu họ chỉ biết sống ích kỷ bất kể tới những khổ đau chính họ gây nên cho người khác. Riêng cụ và tôi mà biết nhìn gương ông Giêsu để biết yêu thương và tha thứ giữa cảnh khổ đau, thì có thể cầu nguyện cho họ được ơn sám hối và được hạnh phúc đời sau. Đó là hạnh phúc mà ông Giêsu đã hứa ban cho tất cả những ai tin vào ông như chính bà cụ ngay bây giờ có thể đặt hết niềm tin vào ông để được hạnh phúc bất diệt."
Thái độ bà cụ đã phần nào thay đổi khi nói: "Bắt chước ông Giêsu khó quá, chắc tôi bắt chước không nổi. Nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức thôi."
Vậy cậu sinh viên Hùng nhỏ nhẹ nói thêm: "Ông Giêsu đã bị bao khổ đau vùi dập và đã bị giết chết mà ổng còn tha thứ cho những người hành hạ ông. Bà cháu mình thôi thì cũng bắt chước ông tha thứ cho những ai nói xúc phạm, coi khinh hoặc la mắng để rồi mình được sung sướng hạnh phúc kiếp sau cụ nhé." Bà cụ được vơi hẳn nỗi buồn phiền nên đã quả quyết nói: "Thôi bây giờ ai muốn nói gì thì nói, tôi không để ý gì nữa."
Khi cậu sinh viên từ biệt, cụ còn hứa sẽ cầu nguyện cho cậu và nhắc cậu nhớ tới thăm cụ.
Vị lãnh đạo tối cao thúc dục mọi Kitô hữu góp phần mở mang Nước Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng hoàn cảnh riêng của bà cụ trong câu chuyện vừa kể. Tác giả Luca ở chương 12 đặt ta trong bối cảnh Đức Giêsu nói với các môn đệ về Nước Thiên Chúa tuy cũng có đám đông hàng vạn người chen lấn nhau để được gần gũi Đức Giêsu. Cho nên lời Người giảng dạy các môn đệ bị cách quãng do sự can thiệp của những người khác nữa trong đám dân chúng.
Các môn đệ được Đức Giêsu khuyến cáo hãy nói công khai sứ điệp được giao và đừng sợ (12,1-12). Điều chắc phải an ủi bà cụ nhiều khi bà cụ nhận ra mình có giá trị trước mặt Thượng Đế (c.7). Đó mới là điều quan trọng. Tất cả những gì khác đều qua đi.
Bài Tin Mừng hôm nay khởi sự với một lời hết sức thân thương: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em (c.32). Ở đây Thượng Đế được Đức Giêsu giới thiệu là CHA. Đức Giêsu là Con Thượng Đế, được phái tới như mục tử tốt lành đi tìm từng con chiên lạc mà vác lên vai đưa về... để có một đoàn và một mục tử (Ga 10,16).
Nhiệm vụ quan trọng Đức Giêsu giao cho các môn đệ là phải trở nên như người quản gia trung tín và khôn ngoan để làm gì? Để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c.42). Nhiệm vụ ấy Đức Giêsu giao cho Phêrô và các tông đồ nhưng người vẫn là Vị Lãnh Đạo tối cao thúc dục mọi Kitô hữu góp phần mở mang Nước Chúa nhất là giữa những người nghèo như bà cụ trong câu chuyện kể trên.
---------------------------------
- Lm. VIKINI
Từ năm 1945 cho đến nay, cứ vào ngày 06 tháng 08, hàng trăm ngàn người đã đến tượng đài Hòa Bình ở Nagazaki đứng chờ đúng 11 giờ 30 từng hồi chuông đổ ngân vang trên khắp nước Nhật, nhắc nhở thế giới mặc niệm hơn 147.000 người của hai thành phố Nagazaki và Hiroshima đã bị thiêu hủy dưới sức tàn phá của hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Suốt 45 năm thế giới luôn luôn nơm nớp lo sợ trong chiến tranh lạnh dưới sức đe dọa khủng khiếp của hàng triệu triệu tấn bom nguyên tử trong kho vũ khí các cường quốc có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mãi cho tới năm 1990, thế giới mới có tin mừng ; chiến tranh lạnh chấm dứt, vũ khí hạch nhân đang bị loại bỏ.
Các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để tưởng niệm lễ Vượt qua của dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Nhưng nghe Thầy tiên báo Thầy phải vượt qua một khổ nạn sắp tới, các ông linh cảm thấy một sức mạnh ghê gớm đe dọa làm các ông lo sợ. Thực vậy, các ông chỉ là đoàn chiên bé nhỏ có mười hai người quê mùa, kém cỏi, đi theo một mục tử hiền hòa, nhân hậu, làm sao đương đầu được với một lực lượng đầy quyền thế hùng hậu của thủ đô và một đoàn quân dũng mãnh của đế quốc Rôma. Trước những lo ngại ấy, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, anh em đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em”.
Nước Trời mới thực là Tin Mừng muôn thuở. Đời sống anh em được Cha trên trời bảo đảm vững chắc, không một sức mạnh thế gian nào dám xâm phạm tới, không quân dữ nào dám nhào tới, anh em không còn sợ bị chết nữa, không còn sợ bất cứ chiến tranh, bom đạn nào nữa. Không còn sợ đau khổ, hận thù, cực hình nào nữa. Không còn sợ bất kỳ đói khát, bệnh tật, bất công, bất nhân nào nữa. Vì thế ngay đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu đã nói với các ông:
“Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy” (Lc. 12, 4-5).
Đấng ấy là Cha trên trời đã ban cho anh em nước trời rồi, anh em đâu còn sợ chi nữa ! Nước trời là hạnh phúc vô biên cho anh em rồi. Nước trời là Tin Mừng mang lại cho anh em cuộc sống vinh quang, toàn thiện, toàn mỹ trong tình thương bao la của Thiên Chúa rồi. Không còn đâu vui mừng hạnh phúc cho anh em hơn nước trời nữa.
Vậy để được hưởng nước trời, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ và chúng ta phải cố gắng thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất: phải quyết tâm đạt được nước trời với bất cứ giá nào, dù phải bán hết của cải đem đi bố thí, cũng sẵn sàng vui lòng, vì nước trời là “túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, là kho tàng vô giá chẳng bao giờ thiếu hụt, là kho tàng trên trời, nơi không có trộm cướp bén mảng, không có mối mọt đục phá”.
Thứ hai: Phải thắt lưng làm việc như tôi tớ, như bồi bàn, như Thầy đã thắt lưng rửa chân cho các môn đệ, đã dọn tiệc bằng Thịt Máu Thầy cho các môn đệ ăn. Đến lượt các ông cũng làm như Thầy, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến !
Thứ ba: Phải luôn luôn là những người quản gia, quản lý trung tín và khôn ngoan như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn luôn tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa như Abraham dầu phải vác con lên núi, sát tế, ông sẵn sàng hy sinh mạng sống con mình và cả mạng sống mình để thực thi ý Chúa (Bài đọc II)
Sau nữa: Phải trông cậy kiên trì vào lời Thầy: “Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em” như dân Chúa xưa “các ngài đã kiên trì trông đợi đêm vượt qua …, để các Ngài được phấn khởi hân hoan, vì biết chắc về những lời thề hứa của Chúa mà các ngài đã tin tưởng” (Bài I)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì tin tưởng và trông đợi lời hứa không bao giờ lay chuyển của Chúa, để luôn luôn tỉnh thức chu toàn mọi công việc Chúa trao như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, cho tới khi Chúa đến gõ cửa, chúng con được vui mừng ra đón rước Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
---------------------------------
- Lm. Trọng Hương
A. HẠT GIỐNG ...
Từ chìa khóa của đoạn Tin Mừng này là “Tỉnh thức”. Đức Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức:
1. Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở do thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy “thắt lưng cho gọn” (tư thế sẵn sàng làm việc), và “thắp đền cho sẵn” (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thi dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
- Tỉnh thức để làm gì ? Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến ; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người ; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
2. Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ “quản lý” để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16,1.3.8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người đó sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
B. ... NẨY MẦM.
1. 1 Pr 1,13-16: Thánh Phêrô giải thích thế nào là tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đề nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”.
2. “Lời Chúa được ngỏ với con người xuyên qua cuộc sống mỗi ngày, nên cũng luôn mang tính bất ngờ. Chính trong những cái thường nhật, nhỏ bé, độc điệu mỗi ngày, con người được mời gọi để nhận ra lời ngỏ của Chúa. Chính trong những cái bất ngờ của cuộc sống mà con người được mời gọi để nhận ra tiếng Ngài... Xin Ngài cho chúng ta luôn có đôi mắt rộng mở để nhìn thấy Ngài trong từng biến cố cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta đôi tai tinh tường để biết lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài trong từng phút giây cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta quả tim và đôi tay rộng mở để biết chia sẻ cho tha nhân là hiện thân của Ngài” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. “Thái độ cơ bản của người kitô hữu, đó là tỉnh thức. Người kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. Tỉnh thức là luôn luôn ở trong tình trạng đang làm nhiệm vụ. Lời của một bản thánh ca: “Con Linh mục, con muốn chết ở bên bàn thờ”.
5. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, hãy thắp đèn cho sẵn”. (Lc 12,35)
Nghe ai đó quảng cáo “Nấm tróc ăn ngon lắm”, bạn tôi liền trổ tài đầu bếp. Trong ngày sinh nhật của nó, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon. Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố: sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chi Duyên ơi, con chó nó chết rồi”. Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lạy Chúa, nếu mỗi người chúng con đều biết tỉnh thức để sắm sẵn cho mình sự sống đời đời, chắc hẳn thế giới này đã tươi đẹp hơn. (Hosanna)
6. Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Vesuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
7. Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
8. “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40)
Con mưa chiều 28-7 đã làm cho cây me cổ thụ trước nhà số 100A đường Nguyễn thị Minh khai, quận 1 tróc gốc ngã đè ba xe gắn máy. Em Hà chí Thanh, 17 tuổi, học sinh, nhà ở số 444/20 đường cách mạng tháng 8 quận 3, đi xe Kawasaki Neo Max chết ngay tại chỗ. Bảy người khác bị thương phải chở đi cấp cứu. Theo kỹ sư Phạm Thanh Sơn. phó giám đốc Công ty Công viên cây xanh thành phố, cây me trên đã được tỉa cành, ngọn khống chế chiều cao và... đã có giấy phép đốn hạ vào ngày 29-7-96. Trước tình trạng cây cổ thụ ngã hàng loạt trong mùa mưa có gió mạnh này, ông Sơn cho biết công ty sẽ huy động toàn lực lượng nhanh chóng đốn hạ khoảng 80 cây cổ thụ đã có giấy phép xin đốn bỏ. Em Thanh đâu có ngờ, chiều hôm ấy mình là nạn nhân. Ông Sơn đâu có ngờ, cây đổ trước môt ngày có giấy phép đốn hạ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa, khi Người đi ngang qua đời con và cất tiếng gọi mời. (Hosanna)
---------------------------------
1. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…
Đức Giê-su khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Từ nhỏ tôi đã nghe cha linh hướng của tôi kể câu chuyện về ông thánh còn rất trẻ tuổi Đaminh Saviô. Đó là câu chuyện tôi rất thích và ảnh hưởng đến đời sống của tôi rất nhiều. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Bốscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi:
– «Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?»
– «Con vẫn tiếp tục chơi!»
– «Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?»
– «Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!» …
Khi kể câu chuyện ấy xong, cha linh hướng bảo rằng: «Nếu vào giờ chơi luật tu viện buộc phải chơi, mà các con vào nhà thờ cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Chúa đâu! Vả lại, chính khi các con chơi để đẹp lòng Chúa, vì Chúa muốn giờ đó các con chơi, thì lúc ấy chơi chính là cầu nguyện, mặc dù các con chẳng có vẻ gì là cầu nguyện, hay chẳng có ý hướng cầu nguyện gì lúc ấy cả». Từ khi nghe cha linh hướng nói như thế, tôi bắt đầu có ý nghĩ đến hình thức cầu nguyện bằng hành động hay bằng việc làm, và làm việc trong cầu nguyện.
2. Tỉnh thức theo kiểu … cầu nguyện bằng hành động
Tỉnh thức kiểu của Saviô trên có vẻ như không tỉnh thức, nhưng đích thực là luôn luôn tỉnh thức, có vẻ như không cầu nguyện, nhưng đích thực là luôn luôn cầu nguyện.
Tôi cũng thích câu chuyện 2 người ghiền hút thuốc hỏi cha linh hướng. Một người hỏi: «Thưa cha, vừa cầu nguyện vừa hút thuốc có được không?» Cha nói: «Không được!». Còn người kia hỏi: «Vừa hút thuốc vừa cầu nguyện có nên chăng?» Cha đáp: «Tốt lắm! Nên lắm!» Hai câu trả lời ấy rất đúng nhưng lại làm cho hai người có hai thái độ cầu nguyện khác nhau: một người bỏ hút thuốc để cầu nguyện, và một người vẫn cứ hút, nhưng có thói quen hễ bắt đầu hút thuốc là bắt đầu cầu nguyện.
Thì ra không nên làm gì khác trong khi cầu nguyện, nhưng lại có thể cầu nguyện khi làm bất cứ điều gì. Thế là từ đấy về sau, nhất là trong đời sống giáo dân của tôi vốn không thể dành nhiều giờ để cầu nguyện, tôi thường tập cầu nguyện và kết hiệp với Chúa khi làm bất cứ điều gì. Vì thế, công việc tôi làm thường được chìm trong ý hướng tỉnh thức và cầu nguyện. Nhờ đó, tôi dễ làm tốt đẹp công việc của mình, với ý hướng siêu nhiên. Và khẩu hiệu của tôi là «biến mọi hành động, mọi công việc thành cầu nguyện». Đời sống nội tâm của tôi nhờ thế phát triển hơn, mà có vẻ như rất ít khi cầu nguyện.
Tuy nhiên, tôi vẫn dành ra mỗi ngày vài lần, mỗi lần ít phút để cầu nguyện «nghiêm túc», nghĩa là trong những phút cầu nguyện ấy tôi không làm gì khác. Chính nhờ những giây phút «cầu nguyện kiểu thuần túy» ấy, tôi mới trung thành được với thói quen vừa làm mọi việc vừa cầu nguyện.
3. Cầu nguyện bằng hành động cũng là cách cầu nguyện tuyệt vời
Cầu nguyện là nói với Chúa. Nhưng quả thật, trong đời sống con người, lời nói không phải luôn luôn đi đôi với hành động. Biết bao người khi cầu nguyện, họ nói với Chúa một đằng, còn trong đời sống thực tế họ lại hành động một đằng khác. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn «hai người con» trong Tin Mừng (Mt 21,28-32): nói rất hay mà làm rất dở. Đây cũng là một căn bệnh của thời đại, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên, có những người không nói, hoặc nói ít, nhưng hành động thật sự. Họ không nói hay tuyên bố là họ yêu ai cả, nhưng hành động và cách xử sự của họ chứng tỏ họ yêu thương mọi người thật sự.
Xét điều ấy, ta thấy hành động cũng là một cách nói rất có giá trị. Nói tôi yêu bạn, hoặc biểu lộ tình yêu bằng hy sinh thật sự cho bạn, thì cách nào nói lên tình yêu nhiều hơn và chân thật hơn? Nếu hy sinh thật sự có giá trị hơn lời nói, thì cầu nguyện bằng hành động là một cách cầu nguyện tuyệt vời, chắc chắn có giá trị hơn hẳn trước mặt Thiên Chúa. Đó cũng là kết hợp với Chúa qua ý chí và hành động. Nếu chỉ cầu nguyện bằng lời nói xuông, không có hành động kèm theo bảo chứng cho những lời nói ấy, thì hóa ra lời cầu nguyện của ta chỉ toàn là nói «sạo», hoặc hứa hão với Chúa! Đức Giê-su cũng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi» (Mt 7,21). Như vậy, những Ki-tô hữu nào không thể dành nhiều thì giờ để «cầu nguyện kiểu thuần túy», vẫn có thể cầu nguyện khi làm tất cả mọi việc, hoặc biến tất cả mọi việc ấy thành cầu nguyện. Thiết tưởng đó là một cách tỉnh thức rất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lúc nào con cũng có thể hành động trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha, và làm theo cách Cha mong muốn con làm. Nghĩa là con phải làm cách nào hoàn chỉnh nhất, hợp lý nhất, đem lại ích lợi và hạnh phúc cho nhiều người nhất. Con muốn hiệp nhất ý của con với ý của Cha trong từng hành động một. Và con nghĩ đó là cách cầu nguyện bằng hành động, hay biến hành động thành cầu nguyện. Xin cho con đủ tình yêu để thực hiện được điều ấy. Amen.
---------------------------------
- Lm Trần Cao Tường
Đối với người Tây phương, số 13 là số xui, đáng sợ. Chả vậy mà đã có hàng loạt phim "Thứ Sáu Ngày 13" nói về những ghê rợn bị giết bất ngờ với hồn ma lởn vởn! Và các nơi công cộng có ghi số như khách sạn, không bao giờ để số phòng là 13 cả, vì sẽ chẳng ai dám thuê.
Vậy mà lần này thì con số 13 lại hên quá, trúng số 295 triệu Mỹ kim, cao nhất từ xưa tới nay. Trong một hãng làm máy ở gần Columbus bang Ohio, một nhóm 13 anh thợ tiện rủ nhau lập thành một cái băng rất ngược đời, lấy tên là "Băng 13 Hên" (The Lucky 13). Họ đã bắt đầu mua xổ số chung với nhau để thử thời vận. Tuần cuối tháng 7 vừa qua khi độc đắc lên tới gần 300 triệu, mỗi người trong băng đã bỏ ra 10 đồng để mua chung 130 vé số. Vì bang Ohio không bán xổ số loại "powerball" nên họ phải lái xe mất 100 dặm sang mãi bên Indiana mới mua được vé. Và họ cứ nhằm số "powerball" 13 mà mua. Thế là băng 13 mua số 13 đã xả được cái xui "truyền kiếp" trong máu người Âu Mỹ, chia nhau mỗi người được gần 13 triệu mà bất chợt thành 13 nhà triệu phú.
CỤC KIM CƯƠNG HAY NỤ CƯỜI MONA LISA?
Ngay hôm sau ngày băng 13 trúng số 13, báo chí vung vít nhiều đề tài phiếm luận thật hào hứng. Chẳng hạn có mục gãi vào chính nỗi khát của mọi người, rằng "nếu bạn trúng số bạn sẽ làm gì?". Thôi thì mất gì của nhà mà không mơ. Người thì mơ được đi chơi thăm Chị Hằng, vì cơ quan Không Gian của Mỹ sắp lập tuyến du lịch bằng phi thuyền lên mặt trăng với chỗ đi giới hạn, mỗi vé chỉ có trên 40 ngàn đồng Mỹ. Người khác lại mơ mua được cục kim cương của cô Rose mà Winslet đeo trong phim Titanic mới được bán đấu giá tới 2 triệu 2 vào tháng 3 vừa qua. Riêng anh chàng John Jarrell, một trong 13 người trúng số kỳ này, thì mong mua cho vợ một chiếc xe "bình bịch" hiệu Harley-Davidson như anh đang có để đi rong chơi ngao du sông núi.
Trong một lớp học dịp sôi động sổ xố này, cô giáo cũng đưa đề tài hỏi các học sinh: nếu trúng độc đắc thì em sẽ làm gì?
Cả lớp học xốn xang. Có đứa trả lời là em sẽ mua xe hơi loại thể thao "xì po" chạy cho đã. Đứa khác nói em sẽ đi chơi một vòng thế giới... Chỉ có mình bé Tý ngồi yên khoanh tay nhắm mắt ngủ một cách ngon lành. Cô giáo ngạc nhiên hỏi:
-"Tý, sao em không hào hứng gì à? Hay là em không biết sẽ làm gì khi em trúng số phải không?"
Tý mở mắt ra, chậm rãi trả lời:
-"Dạ thưa cô, em đang thực tập... em mà trúng số em sẽ nghỉ ngơi như em đang ngủ vậy đó...!!!"
Câu trả lời của bé Tý có thể đúng quá chứ. Vì nó đã từng học kinh nghiệm của ba má nó. Má thì mỗi lần đi đâu phải bỏ vài giờ để kham khổ sửa soạn quét dọn mặt mũi và thích đeo hột soàn rất ư lỉnh kỉnh, làm sao mà so được với miếng Burger King của nó. Còn ba thì nó càng thấy rõ là trước khi đưa cả nhà đi nghỉ hè thì đã phải để ra mấy ngày "ngủ để lấy sức nghỉ"; rồi sau khi đi chơi về lại phải ngủ bù để lấy lại sức! Vì mỗi lần đi du lịch là mệt lắm, tốn hầu bao và hao tổn chân khí nữa! Rốt cục thì bé Tý đã phát hiện ra một chân lý: nghỉ ngơi kiểu của nó là chắc ăn nhất và tỏ ra giầu có nhất.
Có lần tôi sinh lòng dại dột mà bỏ tiền ra mua vé rồi xếp hàng vào thăm bức tranh nổi tiếng thế giới của họa sĩ Leonardo da Vinci trong bảo tàng viện Louvre ở Paris. Đó là bức Mona Lisa với nụ cười đáng giá nhiều triệu Mỹ kim. Mọi người nhìn tới ngó lui, tấm tắc thán phục tài danh nhà hội họa và cũng là nhà khoa học người Ý này. Riêng tôi thì chỉ thấy mệt bở hơi tai. Mona Lisa mà cười như vậy làm sao so được với nụ cười có âm thanh dòn dã reo vui của đứa cháu tôi?! Leonardo da Vinci vẽ giỏi là vì vẽ giống thật quá. Vậy tại sao không thưởng thức nụ cười thật mà phải xếp hàng tốn tiền đi xem tranh vẽ?!
CON MẮT NHÌN RA CÁCH LÀM GIẦU
Trong cuộc chạy đua chiếm được 295 triệu trên, một anh chàng từ bang Florida sang tận New Orleans, kéo ra trong bóp 10 tờ giấy 100 mua một lúc 1000 tấm vé số. Chắc chắn là anh chàng này đã "trướt nồi". Mấy bà cụ tôi quen cũng trở thành những nhà triệu phú trượt, nhưng cũng tự an ủi: "May đấy, chứ nếu trúng số thì cũntg phiền lắm; người ta sẽ ngày đêm tìm gặp quấy rầy cho đến chết cũng không tha; mà bỏ đi ở riêng cho xa cách thì thà xin vào ở nhà tù cho chắc ăn".
Vậy ra khoảng cách giữa trúng số và không trúng số cũng mong manh lắm. Sở dĩ bức tranh Mona Lisa mắc tiền là vì đã cho thấy được một nụ cười thật đáng giá biết chừng nào, và người nào biết cười và biết thưởng thức được nụ cười là một nhà triệu phú thứ thiệt. Ngược lại, nhiều người có cả triệu triệu mà vẫn không giầu, cũng vẫn là những nhà triệu phú trượt. Mẹ Têrêsa đã thấy được như vậy: "Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy hết được một nụ cười quí giá biết chừng nào. Chiêm niệm là nhìn thấy được mặt Chúa trong mọi sự, mọi người, mọi nơi, mọi lúc, và nhìn thấy được tay Chúa trong mọi chuyện xảy ra".
Đây cũng là phương pháp linh thao của thánh I-Nhã, thấy được Chúa là nguồn mọi giầu có qua mọi sự: "Nhìn thấy Chúa hiện diện trong tạo vật như thế nào: trong mọi vật bằng cách ban cho được hiện hữu, trong thảo mộc bằng cách ban cho được sức sống, trong thú vật bằng cách ban cho được cảm giác, trong loài người bằng cách ban cho được suy nghĩ; và Chúa cũng ngự như vậy trong tôi bằng cách ban cho được hiện hữu, sức sống, cảm giác, trí khôn. Cũng vậy, hãy nhìn xem Chúa đã làm cho tôi nên đền thờ của Ngài như thế nào, vì Ngài đã tạo dựng nên tôi giống Ngài và theo hình ảnh Ngài"
Một câu truyện kể về một nhà ẩn sĩ sống trên miền núi. Một ngày kia có một người vất vả tìm đến hỏi cho biết thế nào là Đạo? Nhà ẩn sĩ liền chỉ ra cảnh phía trước mà đáp một cách hút hồn:
"Núi này đẹp quá!".
Người tầm đạo liền kính cẩn:
"Dạ thưa ngài, con không có ý hỏi về núi, mà chỉ xin được học biết về Đạo!"
Nhà ẩn sĩ cười hiền và đáp:
"Con chưa nhìn được núi thì làm sao thấy được Đạo?"
TIN VUI GỬI NHÀ TRIỆU PHÚ TRƯỢT
Trúng số hay trở thành những nhà triệu phú trượt như vậy là tùy thuộc con mắt nhìn. Một nụ cười, một cảnh núi, một bình cây, một cành hoa, hay ngay cả con số 13 xui... cũng chứa đựng biết bao nhiêu triệu, nếu biết nhìn trúng. Và khi nhìn được như thế rồi thì những đồng tiền mà con người đang bon chen chộp giật bỗng dưng trở thành nhỏ nhen. Nhận ra mình đang được cha mình là Chúa trời đất vui lòng ban cho mình tất cả mọi sự giầu sang của vũ trụ, thì cho đi vài chục ngàn có nhằm nhò chi. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói rõ: "Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước của Người cho các con. Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá được" (Luca 12:32-33)
Đúng vậy, Chúa là kho tàng vẫn có đó, bày biện sẵn sàng qua mọi sự. "Nước Chúa ở giữa anh em" (Luca 17:21), có phải leo núi tìm mãi đâu xa. Cảm nhận được như vậy thì trở nên giầu có biết bao. Xin cho con được con mắt giầu sang của thi hào Tagore, cảm nhận được tình Chúa ấp ủ ngày đêm khi chiêm ngắm một tổ chim, một buổi mặt trời lên, mặt trời lặn, khi nhìn trời mây bát ngát:
"Người là bầu trời và Người là tổ ấm. Ôi, Người đẹp vô ngần! Kìa trong tổ ấm, chính tình yêu của Người ấp ủ hồn tôi bằng mầu sắc, âm thanh và hương thơm ngào ngạt.
Kìa ban mai đang đến, tay phải bưng chiếc thúng vàng đựng vòng hoa tuyệt mỹ, âm thầm đội triều thiên cho trái đất.
Và kìa qua lối mòn hoang vu, chiều xuống dần trên đồng cỏ quạnh hiu, vắng bóng trâu bò, mang vò nước an bình từ đại dương yên nghỉ phương tây.
Nhưng kìa, bầu trời giang rộng bao la cho hồn bay bổng vào trong, tỏa hào quang tinh nguyên ngự trị. Ở đấy, không còn ngày còn đêm, không còn hình danh sắc tướng, và chẳng hề, chẳng hề cần nói một lời" (Lời Dâng #67).
---------------------------------
- Lm Augustine S.J
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Tin Mừng hôm nay loan báo điều hết sức lớn lao, đó là: "Cha của anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em." (c.32). Thiên Chúa mời gọi ta sống với Người, trở nên những chi thể của gia đình Người. Thật là điều hạnh phúc khiến cho mọi sự khác đều chẳng đáng kể. Chỉ có một điều duy nhất để làm: đó là yêu thương! Yêu thương là con đường duy nhất đưa ta đến với Cha. Trong bài Tin Mừng hôm nay, yêu thương có hai dung mạo đó là hiến dâng và tỉnh thức.
1. -"Hãy bán của cải mình đi mà bố thí". -Nguồn phú túc duy nhất là tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa Cha. Tất cả những điều khác chỉ có ý nghĩa khi chúng là phương tiện để yêu thương. Vậy ta sở hữu không phải để giữ lại nhưng là để cho đi. Hãy nghe kinh nghiệm sống do chị Liễu chia sẻ.
Quà Hài Nhi Giêsu tặng
Đó là ngày 20 tháng 12. Lời Chúa trong thánh lễ là "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại" (Lc 6,38). Tôi đi dự lễ tại nhà thờ Chánh tòa. Ở cửa vào, một cô gái 13-14 tuổi xin của bố thí. Tôi cho cô bé chút tiền nhưng cô bé ấy nói: "Thưa Bà, Bà có thể kiếm cho cháu một đôi giầy không, vì chân cháu lạnh cứng với đôi giầy này?" Tôi hứa với cô bé rằng tôi sẽ cố gắng theo khả năng để kiếm cho cô một đôi giầy ngày 24 tháng 12, khi tôi đi dự lễ cùng giờ và cùng nơi tôi gặp cô bé. Đúng hẹn, cô bé vừa thấy tôi liền hỏi: "Bà có nhớ kiếm giầy cho cháu không?" "Chúa ơi, tôi quên tiệt mất rồi! Xin lỗi cháu." Tôi nói cho xong chuyện rồi vào nhà thờ. Hãy con chút thời giờ trước khi thánh lễ bắt đầu. Tôi ngồi ở hàng ghế sát bàn thờ. Nhưng tôi không được an lòng vì có tiếng nội tâm trách móc tôi:
"Ngươi đã quyết tâm yêu thương mọi người, thế mà ngươi quên đi những cơ hội cụ thể để yêu thương." Tôi không thể ngồi yên được vì tôi cảm được thế nào là lạnh ở hai bàn chân. Tôi liền bước ra khỏi nhà thờ để nói với cô bé: "Này cháu, tôi có thể tặng cho cháu đôi giầy của tôi được không?" Tôi thực sự gắn bó với đôi giầy ống của tôi vì đó là đôi giầy ống xinh xắn và ấm chân. Tôi ưa đi đôi giầy này. Tôi nói với cô bé: "Hãy trao đổi để tôi cho cháu đôi giầy của tôi, và cháu sẽ cho tôi đôi giầy của cháu." Cô bé trố mắt nhìn tôi… Cô ta lưỡng lự một hồi, trước khi chấp nhận điều tôi đề nghị. Chúng tôi đã trao đổi cho nhau đôi giầy mình đang đi. Cô bé đi giầy số 37, còn tôi số 38. Vậy nên đôi giầy tôi mới xỏ vào hơi cức khiến chân tôi hơi đau. Tôi đã tham dự thánh lễ và ra về với đôi chân thật lạnh cứng. Khi ra về, tôi nghĩ tôi phải mua một đôi giầy ấm áp hơn. Ngày 25 tháng 12 tôi có hẹn phải vắng nhà nhiều ngày nên sợ bị cóng chân. Nhưng tôi không thể bỏ ra hơn 50 mỹ kim để mua giầy, thế mà đôi giầy nào cũng đắt hơn số tiền đó. Mãi tới trưa tôi mới mua được một đôi giầy khá đẹp với giá 49 mỹ kim. Mua xong, tôi vội chạy lại trả cô bé đôi giầy xem ra còn mới nên có thể dùng vào mùa hè. Cô bé vui vẻ nói với tôi: "Đó chính là món quà đẹp nhất mà Hài Nhi Giêsu tặng cho em!" Hai chúng tôi chào biệt và tôi trở về nhà.
Về trước cửa nhà tôi ở, tình cờ một người đàn ông tiến đến bắt tay tôi. Đó là người con của một bệnh nhân tôi từng săn sóc nơi bệnh viện. Khi bắt tay mừng Noen, ông ấy đặt nơi tay tôi tờ 50 mỹ kim và nói: "Đây là món quà tượng trưng để tỏ lòng biết ơn chị đã săn sóc cho mẹ tôi!" Tôi mừng rỡ vì một lần nữa lại được thấy Lời Chúa nói là lời chân thật: "Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại." (Lc 6,38).
Nền kinh tế của Thiên Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy lý luận của Thiên Chúa ngược lại với lý luận của loài người thường rất hay ích kỷ. Nói chung, người ta có chiều hướng sở hữu càng thêm nhiều càng tốt, cũng như có chiều hướng tích trữ và thâu lượm báu vật. Cả trong đời sống thiêng liêng, người ta cũng muốn được nên giầu có thêm. Nhưng Chúa Giêsu nói: "Hãy tặng người khác, hãy chia sẽ với anh em về điều bạn có. Nền kinh tế loài người được đặt cơ sở trên việc tích trữ: càng tích trữ càng trở nên giàu. Nhưng nền kinh tế của Thiên Chúa được đặt cơ sở trên nguyên tắc khác hẳn: càng cho đi ta càng trở nên giàu có; càng chia sẻ, ta càng có thêm; thực ra điều ta cho đi chính là cái ta giữ lại được cho mình nơi Chúa.
Chia sẻ cái hiện là của anh
Nói chung, người ta có chiều hướng sống theo cá nhân, chỉ nghĩ đến mình trước đã, chỉ lo đáp ứng những nhu cầu riêng về vật chất cũng như tinh thần. Chẳng hạn, ta có khuynh hướng chạy đến với Chúa vì cá nhân mình mà thôi. Nhưng Thiên Chúa có cái nhìn khác hẳn, bởi lẽ Thiên Chúa luôn sống sự sống liên vị giữa Ba Ngôi: Mọi sự đều là của chung giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng: "Hãy chia sẻ tất cả cái hiện là của anh cũng như tất cả những điều anh có." Hãy chia sẻ cả những của cải thiêng liêng anh có, tức là những ơn mà Thiên Chúa ban cho anh. Ngay việc trao đổi để biết nhau một cách thâm sâu, đó là tạo nên sự hiệp nhất. Đó là cách sống thần linh, cách của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tất cả những điều vừa nói đòi ta phải có lòng yêu thương. Cần phải tập luyện nghiêm chỉnh. Nhưng đó là ơn gọi Kitô hữu chúng ta. Ta được mời gọi để sống sự sống trên trời. Và phải chuẩn bị cho sự sống đó.
2. -Hãy tỉnh thức: "Hãy thắt lưng… thắp đèn cho sẵn sàng để khi chủ về tới gõ cửa là mở ngay"
Cần mở cửa ngay cho chủ khi ông về tới nhà, đó là điều quan trọng. Chúa Giêsu nhắc nhở tới ba lần việc phải tỉnh thức. Lý do vì với Chúa Giêsu, tỉnh thức nói đây có nghĩa là thể hiện mục đích cơ bản của đời ta. Theo não trạng của người đời, ta sinh ra là để hưởng lấy sự sống, để sống một đời đầy đủ tiện nghi, để thành công trên đường đời, để trở nên giàu có và có uy quyền trên người khác: nói tóm lại, để sống qui về mình nhằm lợi ích cho mình.
Nếu người đầy tớ nghĩ bụng "chủ ta còn lâu mới về và bắt đầu đánh đập tớ trai tớ gái và chè chén say sưa" (c.45): Chúa Giêsu không chấp nhận lối sống đó. Với Chúa, sống như vậy là thất bại: "Ông chủ sẽ loại hắn ra."(c.46). Với Chúa Giêsu, mục đích đời người là gia nhập Nước Thiên Chúa, để được đồng bàn cùng Thiên Chúa và được Thiên Chúa phục vụ: "Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ" (c.37). Đó là hình ảnh Nước Thiên Chúa, tức là: được ở bên Chúa, được ngồi ăn với Người. Đó là hạnh phúc và là mục đích của đời người. Để đạt được hạnh phúc đó ta phải:
a) Cầu nguyện: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện" (Lc 21,36).
b) Làm mọi việc theo ý Chúa: ý muốn của Thiên Chúa là ta phải yêu thương (x. Rm 13,8-10). Ai yêu thương, người đó tỉnh thức. Cách tốt nhất để tỉnh thức là biết yêu thương và cho đi. Con tim rạo rực yêu thương không thể ngủ được. "Tôi đang ngủ nhưng hồn sực tỉnh. Tôi nghe người yêu tôi khẽ gọi: mở cửa cho anh, em của anh" (Diệu ca 5,2).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về hành vi yêu thương của chị Liễu trong câu chuyện nói trên? Hành vi ấy là hành vi ngoại thường hay bình thường trong đời sống người Kitô hữu? Nhưng làm sao có thể yêu thương như vậy được trong đời sống thường ngày?
2. Bạn hiểu thế nào về việc tỉnh thức như Chúa dạy trong Lc 14,7-14, để được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại? Tỉnh thức kiểu đó có đi ngược lại với não trạng người đời chăng?
---------------------------------
Chúa Nhật 19 Thường Niên Năm C
(Sách Khôn ngoan 18,6-9; Thư Hipri 11,1-2.8-19; Tin Mừng Luca 12,32-48)
Phúc Âm: Lc 12, 32-48
"Các con hãy sẵn sàng".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Suy Niệm:
Hẳn chúng ta còn nhớ giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước. Các bài Thánh Kinh hôm: TN 19-C32
Hẳn chúng ta còn nhớ giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước. Các bài Thánh Kinh hôm đó nhắc nhở chúng ta đang khi sinh sống ở trần gian đừng quên nghĩ đến tương lai và định mệnh cuối cùng của mình. Như vậy Lời Chúa hôm nay rõ ràng muốn tiếp tục giáo huấn chúng ta theo phương hướng ấy.
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta thấy con cái Israel vì đã được báo trước về tương lai nên đã bình tĩnh xử sự trong hiện tại như thế nào? Và thư Hipri nêu cao gương sáng của Abraham khi đã tin vào tương lai thì vững vàng tiến bước trên đường trần gian làm sao? Cuối cùng trong bài Tin Mừng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải làm gì đang khi chờ đợi ngày Chúa trở lại? Nếu chúng ta muốn tìm hiểu lại các bài Kinh Thánh hôm nay theo diễn tiến thời gian, thì chúng ta hãy bắt đầu với thư Hipri, rồi đến bài sách Khôn ngoan, và sau hết chúng ta sẽ đọc lại bài Tin Mừng.
1. Bài Thư Hipri
Chúng ta biết thư Hipri là một bản văn đầy tính cách an ủi. Tác giả muốn khuyến khích các tín hữu của Chúa đang gặp khủng hoảng về đức tin. Chương 11 mà hôm nay chúng ta trích đọc một đoạn về Abraham, trình bày gương sáng đức tin của các tổ phụ, để có "cả đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả ta nữa ta hãy... nắm lấy kiên nhẫn, chạy vào trận tuyến chờ ta, đăm nhìn lên Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin là Ðức Giêsu" (12,1-2).
Nhưng trước hết tác giả đã muốn định nghĩa đức tin là gì và khẳng định đó là nhân đức chung của mọi tổ phụ. Hơn nữa các người được vinh quang như ngày nay, hoàn toàn nhờ ở đức tin.
Vậy "tin là cách chiếm hữu điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy". Các tổ phụ tin khi họ chắc chắn rằng các điều Chúa đã hứa cho họ về tương lai sẽ xảy đến cho họ và các điều vô hình Người nói với họ đều có thực.
Abraham là người đầu tiên có một đức tin như vậy. Chúa nói với ông ở đất Haran: "Hãy đi khỏi xứ sở ngươi... đến đất Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn". Abraham tin vào lời đó và đã ra đi, chẳng hiểu sẽ đi đến chỗ nào, nhưng chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn mình đến đất sẽ trở thành quê hương xứ sở của mình và mình sẽ có con đàn cháu đống ở đó. Chính niềm tin đã đưa ông lên đường; và cũng chính niềm tin đã khiến ông không dừng lại lấy nơi nào làm quê hương không phải là nơi Chúa sẽ chỉ cho. Do đó, ở đâu và qua chỗ nào, ông cũng luôn sống trong lều vải, cũng như Isaac và Giacóp con cháu ông sau này, luôn luôn đợi ngày được xây đô thị cư ngụ vĩnh viễn theo ý Chúa sắp đặt.
Ðang khi ấy từ ngày này qua ngày khác, tháng trước qua tháng sau, năm cũ qua năm mới, Abraham bình tĩnh nhưng không khỏi nóng ruột muốn biết Chúa sẽ thực hiện Lời Chúa thế nào để ông có con đàn cháu đống làm nên một dân đông nhiều như sao trên trời như cát ngoài biển. Lời hứa này có lẽ còn khó tin hơn cả lời hứa về đất đai, vì cả Sara bạn ông và chính ông đều đã già nua tuổi tác. Dù vậy Abraham vẫn tin. Ông vẫn một mực tin vào Lời Chúa, cả khi Người bảo đem Isaac vừa lớn lên giết đi để tế lễ Người. Ông giơ tay sẵn sàng đem giết đứa con độc nhất đang khi vẫn ý thức một cách chắc chắn rằng miêu duệ mình sẽ không sức nào đếm nổi. Lòng tin thật lạ lùng. Nó là động lực của những hành động phi thường không thể nào hiểu thấu. Nó là bình an vững bền cho tâm hồn con người đang lữ hành trần gian. Nó mở cửa đời sau cho người ta bước vào một cách bình thản.
Tác giả thư Hipri hôm nay viết: "Thể theo lòng tin, các người ấy đã chết hết thảy mà không lĩnh được các điều đã hứa, nhưng chỉ nhìn xa xa và với chào". Các người ấy ở đây không những là Abraham và Sara, mà còn là Isaac và Giacóp, là Môsê và hết thảy các tổ phụ. Sách Ðệ Nhị Luật kể, Chúa đã đưa Môsê lên núi Nêbô. Người chỉ cho ông thấy tất cả đất hứa ở đằng xa. Con cái Israel sẽ vào, nhưng chính ông sẽ không được đến đất ấy (34,1-4).
Abraham và hết thảy các tổ phụ một cách nào đó cũng như Môsê. Họ chỉ được thấy đất hứa và tương lai dân tộc ở đàng xa, tức là trong niềm tin. Nhưng như vậy cũng đã đủ là lẽ sống cho họ. Họ tin vào Lời Chúa và lời hứa của Người. Họ từ bỏ mọi sự khác để sống phù hợp với niềm tin ấy. Nếu họ đã nản chí thì họ đã trở về quê hương cũ, nơi họ xuất phát và khởi hành. Nhưng vì tin và tiếp tục tin, họ luôn coi mình là lữ khách và kiều dân ở mọi nơi chưa phải là đất hứa. Và họ coi tất cả mọi sự không thuộc về Lời Hứa đều không quan trọng.
Thái độ này là điều mà phụng vụ muốn khuyên chúng ta hôm nay, chúng ta hãy đi trên đường đời như Abraham và các tổ phụ. Hãy nhìn Lời Hứa ở đàng xa và với chào. Hãy để cho tương lai và định mệnh ấy đưa chúng ta lên đường và cất bước không nao núng trong khi vui cũng như lúc âu sầu. Ðức tin đã cho chúng ta một hướng đi, thì trong những ngày u tối nhất chúng ta vẫn thấy sáng sủa; và khi gặp những cản trở to lớn, chúng ta vẫn không sờn lòng. Ðang khi ấy chúng ta đừng quên có "cả một đám mây nhân chứng lớn lao ở quanh ta" và có thể nói đang cùng ta tiến bước. Ðó không phải chỉ là gương sáng của tiền nhân mà còn là Hội Thánh. Dân Chúa đang cuốn ta cùng đi. Bài sách Khôn ngoan có thể giúp chúng ta suy nghĩ thêm về điểm này.
2. Bài Sách Khôn Ngoan
Những chương cuối cùng của tác phẩm này suy nghĩ về các biến cố trong việc xuất hành của con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Và đoạn chúng ta đọc hôm nay ngẫm suy về chính đêm lịch sử đã giải thoát người Do Thái. Ðêm này, các tổ phụ đã được biết trước. Không những Chúa đã báo trước cho Abraham (Khởi nguyên 15,13-14) mà chính Môsê mới đây cũng bảo cho con cái Israel biết (Xh 12,21-28). Họ chỉ biết, nếu họ có niềm tin. Họ có tin vào Chúa và lời của Người, họ mới chờ đợi cái đêm hôm ấy. Niềm tin đây là niềm tin của tất cả cộng đồng, chứ không phải là niềm tin của từng cá nhân nữa. Tất cả cộng đồng con cái Israel đêm nay sống một niềm tin chung. Toàn thể dân Chúa chờ đợi đêm nay để thấy các thánh được cứu độ và thù địch bị diệt vong. Thế nên, họ hội họp nhau, dâng lễ vật vượt qua, thi hành các thánh chỉ, nhất trí một lòng cùng chung phúc may và hiểm họa, biểu hiện niềm tin duy nhất bằng cách cất tiếng hát.
Thực ra tác giả Khôn ngoan đã không hoàn toàn chỉ mô tả chính đêm Vượt qua. Ông đã nhìn vào lễ nghi Vượt qua ở thời ông để diễn lại đêm lịch sử nguyên thủy. Các ông đọc lại lịch sử càng cho chúng ta thấy ý nghĩa phong phú cứu độ của biến cố Xuất hành. Và chúng ta sung sướng ghi nhận những suy nghĩ của ông.
Với ông chúng ta thấy rằng con cái Israel đã được giải thoát nhờ niềm tin, một niềm tin vững vàng căn cứ nguyên vào Lời Chúa. Niềm tin này toàn dân phải sống. Hết thảy phải hội họp nhau trong đêm ấy, phải chắc chắn hành động cứu độ sắp xảy đến. Phải thi hành mọi chỉ thị của Chúa, phải nhất trí đồng hội đồng thuyền sẵn sàng chịu chung phúc họa.
Niềm tin này thật ra trong đêm lịch sử đầu tiên đã không được hoàn toàn như vậy. Hôm ấy con cái Israel chưa có kinh nghiệm và chưa thấy cánh tay mạnh mẽ của Chúa... Chính từ ngày thấy Chúa giải thoát dân bằng cánh tay hùng mạnh, người ta mới có kinh nghiệm và khuyến khích để tin vào những lần giải cứu khác mà Chúa nói là sẽ còn kỳ diệu hơn nữa. Tác giả sách Khôn ngoan là một trong những người tin mạnh mẽ vào hành động cứu độ của Chúa trong tương lai. Ông viết lại đêm xuất hành thời Môsê, tô điểm cho nó bằng niềm tin của ông, để khuyến khích con cái Israel mỗi khi ăn lễ Vượt qua và mỗi khi trông chờ ơn cứu độ, phải có niềm tin vững vàng, niềm tin tập thể, niềm tin Chúa sẽ cứu cộng đồng trong đó có mình.
Do đó nếu bài thư Hípri lấy gương Abraham để khuyến khích mỗi người chúng ta luôn luôn tiến bước về tương lai với niềm tin vững chắc, thì với bài sách Khôn ngoan này, phụng vụ muốn nhắc nhở chúng ta đặt niềm tin tương lai vào sự gắn bó với tập thể là Hội Thánh.
Dân Chúa hãy cử hành các buổi lễ Vượt qua là mầu nhiệm thánh thể trong một niềm tin chung. Dân Chúa mỗi khi gặp nhau, hãy một lòng một ý tiến về tương lai. Niềm tin tập thể đã giải cứu con cái Israel thế nào thì sẽ giúp dân mới vượt qua huy hoàng hơn nữa. Chúng ta không tiến về tương lai một mình, nhưng cùng với toàn thể nhân loại được cứu độ. Chúng ta phải cất cao bài hát của các tổ phụ, tức là nói lên niềm tin vững vàng phấn khởi vào Thiên Chúa và Lời Hứa của Người.
Nhưng nói như vậy có lẽ vẫn chưa cụ thể. Bài Tin Mừng Luca hôm nay truyền lại cho chúng ta giáo huấn rõ ràng hơn của Chúa.
3. Bài Tin Mừng Luca
Thoạt đầu Chúa nói với tất cả các môn đệ, tức là với hết thảy mọi người tin Chúa. Về sau Chúa nói riêng với các tông đồ tức là với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh.
Với tất cả mọi người, Ðức Giêsu có một lời khích lệ âu yếm, Người nói: "Ðừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé, vì Cha các ngươi đã khấng ban nước Trời cho các ngươi". Lời nói vắn tắt nhưng rất thâm thúy. Nó có sức an ủi vì khêu lên niềm tin vững vàng. Nó cho chúng ta thấy rõ Chúa thấu suốt hoàn cảnh hiện tại của chúng ta..., nhưng Người cũng khẳng định thân phận của chúng ta rất tốt đẹp.
Hiện tại chúng ta là những con chiên nhỏ, vừa nhỏ vừa ít ỏi, vừa nhỏ vì yếu thế. Hội Thánh luôn luôn như vậy vừa ít số vừa không có thế lực. Thường khi chỉ là con thuyền nhỏ trong cơn bão táp trần gian. Nhưng Chúa bảo đừng sợ vì Chúa Cha đã khấng ban Nước Trời cho chúng ta.
Hơn nữa, Hội Thánh đang là chính Nước Trời ấy có sự sống phong phú của Thiên Chúa và nắm vững mọi phương tiện cứu rỗi. Những ai tin như vậy sẽ thấy bình an và vững vàng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tuy nhiên đức tin không phải chỉ là cái nhìn bình an. Nó là khởi điểm và là động lực. Nó đã làm cho Abraham lên đường và giúp ông luôn luôn cất bước cho đến hết cuộc đời. Nó đã khiến con cái Israel tập họp trong đêm xuất hành để vượt qua. Nó cũng phải đưa chúng ta vào hành động.
Vì thế Chúa nói với tất cả các môn đệ: Các ngươi hãy xắn áo đai lưng và đèn chong sáng, tức là cả đêm ngày luôn ở tư thế làm việc và sẵn sàng. Người Do Thái mặc áo dài lụng thụng, nên khi làm việc vừa phải sắn lên, vừa phải đai lại.
Ðó cũng còn là thái độ Chúa đòi khi họ ăn lễ Vượt qua (12,11). Nó nói lên ý nghĩa sẵn sàng. Còn khi nói phải chong đèn sáng, dĩ nhiên có ý tưởng bảo phải tỉnh thức và cảnh giác; nhưng cũng có ý nói: Tất cả chúng ta đã là con cái sự sáng, con cái của ban ngày, nên luôn luôn phải làm việc và làm việc trong sáng. Chúng ta cũng có thể nhớ lại lễ nghi rửa tội trong đó có việc trao nến sáng để nhắc nhở con cái Chúa phải nên như ánh sáng thế gian và phải giữ đèn sáng đi đón Chúa.
Ở đây, Chúa cũng gợi lên ý tưởng này. Người tự ví mình như người chủ đi ăn cưới chẳng biết lúc nào về. Phúc cho đầy tớ nào còn thức để mở cửa ngay cho chủ khi ông vừa về tới nhà. Nhưng Chúa không phải là người chủ thường...
Chẳng người chủ nào làm như Người đã làm và sẽ làm. Người sẽ cho đầy tớ Người là chúng ta ngồi vào bàn ăn và Người sẽ đi dọn bữa cho chúng ta. Với bất cứ người nào sẵn sàng mở cửa khi Chúa gõ, Người cũng sẽ đi vào nhà linh hồn người ấy, ban máu thịt, ân sủng và Lời Người cho họ làm lương thực và Người cũng sẽ dùng bữa ăn tại nhà người ấy.
Và không những được thêm ơn, những tâm hồn sẵn sàng đón Chúa như vậy còn được đảm bảo chẳng khi nào mất ơn. Kẻ trộm vào nhà sao được khi người trong nhà tỉnh thức? Chúa dùng toàn kiểu nói và hình ảnh thông thường để chúng ta dễ hiểu ý Người. Nhưng chúng ta không được dừng lại ở hình ảnh và kiểu nói. Còn phải đi xa hơn để thấy thái độ tỉnh thức mà Chúa căn dặn ở đây chính là sự cởi mở, nhậy cảm và là một thứ linh tính và giác quan và những điều có hệ đến Nước Trời, tức là đến Chúa và Hội Thánh, đến ơn cứu độ của Người hằng muốn ùa vào trong đời sống của chúng ta qua các biến cố to nhỏ hằng ngày. Chỉ khi nào người ta giữ tâm hồn cởi mở và nhạy cảm đối với những gì có thể làm tăng ơn Chúa và mở rộng Nước Người, lúc đó họ mới là con người sắn áo đai lưng và chong đèn sáng, họ mới có tư thế con người làm việc và sẵn sàng.
Một đức tin như vậy mới sống động và tích cực. Nó mới giống đức tin của Abraham và của cộng đồng dân Chúa nói trong các bài Kinh Thánh nói hôm nay.
Riêng đối với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh Chúa muốn căn dặn qua câu trả lời cho Phêrô. Họ phải tỏ ra quản lý trung thực và khôn ngoan. Không những phải tỉnh thức và sẵn sàng đón chủ trở về, mà trong khi chờ đợi còn phải phục vụ gia nhân cho tươm tất đầy đủ; xả kỷ, yêu thương chứ không trục lợi, gắt gỏng, tàn ác. Kẻ biết rõ ý chủ mà không thi hành sẽ bị loại bỏ và coi như phường bất tín, tức là ra khỏi sản nghiệp dành cho những người có niềm tin. Còn ai hiểu biết ý chủ ít hơn, sẽ không bị phạt nặng bằng.
Thiết tưởng Chúa nói như vậy cũng đã đủ cho chúng ta suy nghĩ. Người luôn trung tín giữ mọi điều Người đã hứa. Không lời hứa nào đầy đủ hạnh phúc hơn Lời Người đã nói với chúng ta trong đức tin. Chính khi gọi chúng ta tin Người, Người đã hứa ban cho chúng ta mọi sự. Abraham đã nhận thấy như vậy và đã tin. Và vì tin ông đã có một đời sống tích cực như thế. Con cái Israel cũng đã tin lời Chúa như thế và đã thi hành chỉ thị của Người. Họ đã được Người đưa vào hứa địa, nơi chảy sữa và mật.
Ðến lượt chúng ta có cả một đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy chạy vào trận tuyến chờ ta...! Và lời thư Hípri nói tiếp: "Chúng ta hãy đăm đăm nhìn lên Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin".
Chúng ta hãy nhìn lên Người trong mầu nhiệm Thánh Thể này, Người chứng tỏ một niềm tin lớn lao dường nào khi ra đi chịu chết. Người làm lễ vượt qua của Người với đầy lòng tin, hoàn thành niềm tin của Abraham khi ra đi và của con cái Israel khi xuất hành... Người khơi đức tin lên nơi chúng ta để dự lễ rồi chúng ta sống đạo, sống đức tin, nhạy cảm với mọi sự có hệ đến phần rỗi của mọi người và tìm phục vụ trong yêu thương chứ không tìm ích kỷ trong hại người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
---------------------------------
– Lm Carolo
"Anh em hãy sẵn sàng" (Lc 12 40)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Trong đêm Vượt qua, Chúa đã giải phóng dân do thái khỏi ách nô lệ Ai cập.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ về.
- Bài đọc II: Tổ phụ Abraham tin tưởng vào lời Chúa hứa và ra đi nhưng không biết sẽ tới đâu.
Minh họa
- Mille images 97 B
- "Anh em hãy sẵn sàng" (Lc 12 40)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì ? Bài Tin Mừng hôm nay: TN 19-C33
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì ? Bài Tin Mừng hôm nay nói "để
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì ? Bài Tin Mừng hôm nay nói "để đợi chủ về". Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến ; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người ; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ sốt sắng và xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức.
II. Gợi ý sám hối
- Nếu Chúa bảo chúng ta phải chết ngay hôm nay thì chắc chúng ta không kịp chuẩn bị, và do đó số phận đời đời của chúng ta rất đáng sợ.
- Nếu bây giờ Chúa như vị Thanh tra đến kiểm tra những việc bổn phận của chúng ta, Ngài có hài lòng không ?
- Chúa Giêsu đã dạy: "Hãy bán tài sản đời này để sắm lấy kho tàng không bao giơ hư nát trên trời". Chúng ta có làm theo Lời Chúa không ?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 18,6-9)
Việc được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập luôn là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người do thái mọi thời và mọi nơi. Bởi vậy người do thái sống ở diaspora vào thế kỷ I trước công nguyên vẫn luôn tưởng nhớ đêm giải phóng ấy. Trong đoạn trích này, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy luôn sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách luôn tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này thuộc loại Tv minh triết, ca tụng sự quan phòng và những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong quá khứ.
3. Tin Mừng (Lc 12,32-48)
Từ chìa khóa của đoạn Tin Mừng này là "Tỉnh thức". Đức Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức:
a/ Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở do thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy "thắt lưng cho gọn" (tư thế sẵn sàng làm việc), và "thắp đền cho sẵn" (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thi dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
- Tỉnh thức để làm gì ? Dụ ngôn nói "để đợi chủ về". Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến ; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người ; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
b/ Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ "quản lý" để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16,1.3.8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người đó sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
4. Bài đọc II (Dt 11,1-2.8-19)
Trong đoạn trích này, tác giả thư do thái ca tụng đức tin của tổ phụ Abraham: do tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê hương xứ sở ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu ; do đức tin, ông đã dám đem đứa con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già để giết làm lễ vật dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Sống với sự bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chi dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100 %, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời ?
2. Chuẩn bị thế nào ?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi "Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì ?" Vị tu sĩ trả lời "Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong".
Làm tốt việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: "Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không ?" Và chính ông trả lời: "Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi". Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: "Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui".
Cách đây vài năm, một thầy dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, Thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho Thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng Thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Sẵn sàng chết
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì ?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
4. Chuyện minh họa
a/ Được chọn cách chết
Một tên hề kia chuyên làm trò cho nhà vua vui. Nhưng một hôm hắn lở nói một câu xúc phạm khiến nhà vua nổi giận truyền xử tử hắn. Tuy nhiên vì những công lao bấy lâu nay của hắn nên nhà vua cho hắn được chọn cách chết. Sau một hồi suy nghĩ, hắn tâu: "Xin cho hạ thần được chết già !"
Lời bàn: Tên hề này là một người may mắn vì được chọn cách chết và lúc chết của mình. Chúng ta không được may mắn như hắn đâu. Cho nên phải luôn sẵn sàng.
b/ Ở với con
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ: "Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé !" Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện: "Lạy Chúa, xin giúp son sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời: "Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé !"
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc những lời "Xin Cha tha nợ chúng con", chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội chúng ta không chu toàn bổn phận hằng ngày như một người đầy tớ trung thành.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ tệ hại là chết khi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đàng sống được bình an…"
VI. Giải tán
Cuộc đời chúng ta đầy những bổn phận: bổn phận với Chúa, bổn phận với Giáo Hội, bổn phận với xã hội, bổn phận với gia đình v.v. Trong tuần này chúng ta hãy cố gắng chu toàn tất cả mọi bổn phận ấy một cách vui vẻ và trong tâm tình yêu mến.
---------------------------------
SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ
Lc 12,32-48
Trong dụ ngôn người đày tớ tỉnh thức, nếu để sang một bên c.37b người ta sẽ có một câu chuyện: TN 19-C34
1. Trong dụ ngôn người đày tớ tỉnh thức, nếu để sang một bên c.37b người ta sẽ có một câu chuyện thuần nhất. Quá nửa đêm chủ trở về nhà. Nhưng ở đây, không phải chỉ mình ông gác cổng thức nhưng mọi đầy tớ đều đợi chủ mình. Họ đứng trong sân, giữa cửa lớn bên ngoài nhà. Họ phải vén áo lên để mở cửa cho nhanh khi chũ gõ và còn cầm đèn để dọi lối đi cho chủ. Chắc chắn chủ không đòi hỏi, nhưng những điều ấy nói lên sự kính trọng và lòng tận tụy yêu mến. Và chủ nhận biết lòng trung thành và sẽ tưởng thưởng.
Nhưng một chi tiết của dụ ngôn đã làm người ta chú ý và quay về lối chú giải ẩn dụ (interprétation). Để đón chủ về có cần đem tất cả gia nhân ra đón không ? Chủ nhân phải chăng là một nhân vật quan trọng ? Dù là một nhân vật lớn, chỉ cần một vài tha nhân phục vụ không đủ sao ? Người ta sẽ nghĩ gì về ông chủ đòi một toán đầy tớ phải có mặt ở đó, áo quần chỉnh tề, khi ông về chỉ để mở cửa cho ông ? (dụ ngôn tương tự với Mc 13,33-37 nhưng chỉ có một người gác cổng thôi).
Chỉ có một giải pháp cho vấn nạn ấy: dụ ngôn đi quá thực tại. Bức tranh mà dụ ngôn đưa ra không phải là một trang sử, đó chỉ là một ẩn dụ một cảnh trong thế giới bên kia. Mọi tôi tớ đều phải có mặt lúc chủ về, vì mọi Kitô hữu, mọi người, đều được triệu tập một cách công khai khi Con Người quang lâm.
Nhưng câu 37b còn đi xa hơn: “Quả thật, tôi nói cho các ông, chủ sẽ thắt lưng, đặt họ ngồi bàn tiệc và đi lại hầu hạ họ”. Câu này không phải là một diễn từ bằng ngụ ngôn, không dựa trên một sự kiện có thực, nhưng trên sự kiện có thể xảy ra. Đàng khác CGS mô tả ông chủ, dù là người công bình, đã cư xử thế nào với tôi tớ mình trong cuộc sống thường ngày: “Ai trong các anh, có tên đày tớ cày ruộng về mà nói với nó rằng: mau lại đây ngồi xuống dùng bữa đi ?” (Lc 17,7-8). Ở đây ông chủ làm trái lại: mời các gia nhân ngồi bàn và chính ông phục dịch họ. Hình ảnh thật là mâu thuẫn, nó phát sinh từ một văn mạch riêng và không ăn khớp gì với dụ ngôn cả. Nó là một câu trong phần tuyển tập các lời CGS nói để mạc khải mầu nhiệm đời Ngài, mầu nhiệm sẽ được biểu lộ trong cái chết của Ngài.
Lc đã đặt câu sau đây trong khung cảnh bữa tiệc ly để soi sáng ý nghĩa bữa tiệc ly: “Ai là người lớn nhất: người ngồi bàn hay kẻ hầu hạ ? Phải chăng là người ngồi bàn ? Nhưng tôi, tôi ở giữa các anh như là người hầu hạ” (Lc 22,27). Trong những câu CGS nói mà Lc đã ghi lại, câu CGS nói hầu hạ các tông đồ, đi trước câu Ngài đi hứa cho các môn đệ được ăn uống nơi bàn tiệc Ngài, khi Nước TC đến và vương quốc thiên sai được thành lập (22,30; 22,18). Đó là cách trình bày bữa tiệc cánh chung (Mt 8,11) được cụ thể hóa trong bàn tiệc mà Chúa vinh hiển sẽ cùng ăn với các gia nhân Ngài.
Từ những yếu tố đó, hình thức và ý nghĩa lời nói trong dụ ngôn sẽ dễ hiểu hơn. Ông chủ trở về nhà, cho các gia nhân ngồi bàn và sẽ phục vụ họ. Dĩ nhiên, diễn tiến câu chuyện lại trục trặc vì câu ấy. Chủ nhà đã ăn tiệc; lại tổ chức một bữa tiệc khác vào nửa đêm, như vậy thật là thiếu mạch lạc. Nhưng những điều đó không trở ngại gì, vì câu chuyện đã trong hiểu theo lối ẩn dụ; và hướng đến các giá trị thiêng liêng.
2. Các nhà chú giải hơi lúng túng, khi cắt nghĩa chi tiết dụ ngôn người ăn trộm (c.39-40). Một vài tác giả (Jéremias, Dodd, BJ) có một vài vụ trộm cắp xảy ra mới đây mà cả làng còn nói đến, và CGS dùng biến cố hấp dẫn ấy để dạy cử tọa về tai họa ghê gớm (quang lâm) sắp đến. Lối chú giải ấy dựa trên một động từ ở thì conditionnelle irréelle. Ý nghĩa dụ ngôn bấy giờ sẽ là: nếu chủ nhà biết..., ông đã không để trộm vào nhà. Điều kiện không thực ấy (cette condition irréelle) giả thiết rằng, chủ nhà thực sự không biết nhà mình sẽ bị trộm và như thế ông không phòng gì cả. Nhưng cách chú giải ấy liền vấp phải câu kết sau: “Các anh cũng vậy, các anh hãy sẵn sàng...” Người ta không hiểu tại sao câu hết này áp dụng cho dụ ngôn vì câu này giả thiết chủ nhà đã không tỉnh thức.
Một lối chú giải khác cho rằng dụ ngôn cũng như lời tuyên bố một luật chung nào đó, bao trùm cả hiện tại lẫn tương lai. Nếu chủ nhà biết...ông sẽ tỉnh thức. Nhưng kiểu chú giải kia vẫn làm cho dụ ngôn không thể tránh khỏi khó khăn mà câu kết nêu lên. Cả các môn đệ, họ cũng không biết khi nào Con Người đến. Nhưng trái với chủ nhà là không tỉnh thức, vì ông biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, còn các môn đệ lại phải tỉnh thức. Đây là điểm gợi ý để giải đáp các khó khăn trên: không những chủ nhà không biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, nhưng ông cũng không biết kẻ trộm có đến không ? Chính vì điều đó mà lập trường các môn đệ khác nhau. Nếu họ không biết thời gian đích xác Con Người đến, thì ít nhất là ngay bây giờ họ xác tín là Ngài sẽ đến. Vì các môn đệ biết, nên phải tỉnh thức (hình như đó là ý nghĩa của “cả cho các anh nữa” cũng như ông chủ nhà sẽ thức, nếu ông biết, thì các anh, các anh phải tỉnh thức, vì các anh đã biết). Nhưng phải thú nhận rằng lối chú giải này gây phiền phức cho bản văn lắm, bản văn nhấn mạnh lúc kẻ trộm đến (hay là quang lâm) hơn là sự bất ngờ. Vì chưa có một lối chú giải nào hay hơn, nên tạm thời tôi chấp nhận lối chú giải này.
Nhưng có một điều chắc chắn là khi nghe dụ ngôn, đừng ẩn dụ hóa câu chuyện. Tên trộm là lối ẩn dụ không mấy xứng hợp với TC. Vì thế dụ ngôn không ví TC như là người ăn trộm, nhưng so sánh sự xuất hiện ấy đều bất ngờ, đó là điểm tương tự duy nhất giữa hai người.
Dụ ngôn thứ 3 là dụ ngôn về người quản lý trung thành và người quản lý bất trung (c.42-48), dĩ nhiên trong thực tế, người đày tớ ấy không thể vừa trung thành, nhận phần thưởng làm quản lý tất cả tài sản của chủ, rồi liền sau đó được coi như một đày tớ bất trung và chịu hình phạt. Vậy có hai bức tranh khác nhau, nhưng liên hệ với nhau rất đậm đà nên nhà dụ ngôn chỉ nói đến một tên đầy tớ thôi.
Trong trường hợp thứ nhất, những hình ảnh không đi ra ngoài bình diện tự nhiên. Người đầy tớ trung toàn bổn phận mình đối với đồng bạn và nhận nơi chủ một chức vụ cao cả hơn ở trần gian này.
Trường hợp thứ hai, nhà dụ ngôn đem chúng ta đi quá bình diện tự nhiên. Tên đầy tớ thất thường bị truất phế và bị xếp hàng “bất trung” “không tin”.
Chúng ta đang đứng trước một dụ ngôn giải ca (casuistique) trình bày một nhân vật tưởng tượng, có thể đặt trong trường hợp này hoặc trường hợp kia và có thể gánh lấy họa phúc này hay họa phúc kia.
Dụ ngôn dạy ta một bài học rõ ràng; do vấn nạn CGS đặt ra (c.41), dĩ nhiên mọi dụ ngôn đều có tính cách ẩn dụ (allégorique), và áp dụng cách chính xác cho các vị thủ lãnh cộng đoàn Kitô hữu. Môn đệ coi sóc các linh hồn và TC thình lình đến mà thấy ông kiện toàn bổn phận của mình, thì sẽ được trọng thưởng. Kẻ nào có nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn, mà lợi dụng quyền thế và trác táng, quên mất sự phán xét của TC có thể đến cách bất chợt, sẽ bị bắt quả tang và đày xuống hỏa ngục.
KẾT LUẬN
Thái độ căn bản của người Kitô hữu khi đợi TC đến vào giờ cuối cùng (thời cuối cùng có thể đến thình lình vào bất cứ giờ nào trong ngày hay đêm) là phải tỉnh thức và trung thành. Người mà TC thấy trong thái độ ấy sẽ được trọng thưởng, bằng không sẽ bị phạt. Số phận đời đời của ta đã định sẵn do quyết định của ta rồi: chúng ta là những người đày tớ biết tỉnh thức hay là những tên quản lý trung thành ?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Con tim của con người thường gắn liền với những cái họ liều lĩnh. Ai sống cho TC thì gắn liền với TC; ai từ chối nhiều sự vì Nước TC thì sẽ được nước ấy. Kẻ nào có kho tàng và của cải trên trời, thì con tim và mọi ước muốn đều hướng về trời. Kẻ nào tạo dựng kho tàng trên trời bằng cách bố thí, Nước TC sẽ ở trong cuộc đời của họ.
2. Nghi thức cột áo của người Do thái trong lễ vượt qua (Xac 12,11), phù hợp với quan niệm Thánh kinh nói về sự cứu rỗi mà TC đã thực hiện: TC khởi xướng công cuộc cứu độ, nhưng luôn đòi con người tiếp tục, vì sự cứu độ là làm con người trở nên khác và sống điều TC dạy. CGS cũng lưu tâm đến trực giác căn bản này: Ngài bảo ban đêm cũng phải bận y phục như ban ngày, nghĩa là tươm tất, sẵn sàng hoạt động, đèn thắp sáng để thấy rõ. Bóng tối bao trùm các người khác và họ ngủ mê. Còn chúng ta là môn đệ Ngài, phải luôn tỉnh thức. Ánh sáng đã được thắp lên, chúng ta phải giữ nó để sống trong những giờ đen tối nhất của cuộc đời chúng ta.
3. Thi hành xong sứ mệnh, CGS ra đi, để chúng ta sống tự do. Ngài từ chối đánh thức ta dậy, Ngài để chúng ta lãnh lấy trách nhiệm. Ngài gây niềm tin cho ta. Chúng ta không được ngã lòng, không được ngã lòng, không được đánh lừa chính mình. Vì Ngài sẽ đến, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng mở cửa khi Ngài gõ.
4. Dĩ nhiên việc Đức Kitô trở lại phù hợp với việc phán xét cuối cùng của chúng ta và của toàn thể nhân loại, nhưng cũng phù hợp với mỗi một giây phút của cuộc sống chúng ta, cuộc sống ấy sẽ cho thấy chúng ta trung thành hay bất tín, trưởng thành hay còn ấu trĩ đối với TC cũng như đối với chính mình. Thánh Phaolô mô tả ở thì hiện tại: “người ta gieo gì thì gặt nấy” (Gal 6,7), và CGS còn khẳng định ở chỗ khác: “Mọi cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu” (Mt 7,17-18). Khi Đức Kitô trở lại là để mỗi người chúng ta cụ thể hóa chân lý đó. Hãy hiểu rằng chúng ta không bao giờ biết giờ Ngài trở lại: chính chúng ta không được quyền xét xử chúng ta, việc tốt cũng như việc xấu (1Cor 4,3-5) và chỉ mình TC mới có quyền phán xét. Chúng ta chỉ có thể làm việc này là trung thành vô điều kiện trong việc tỉnh thức, chu toàn những trách nhiệm của người đày tớ.
5. Nếu Đức Kitô cho chúng ta dấn thân trong việc phục vụ Ngài, không phải là biến chúng ta trở nên những tên nô lệ. Trái lại khi đảo lộn các mưu đồ và giai cấp của chúng ta, Ngài đã trở nên người đầu tiên phục vụ chúng ta. “Tôi ở giữa các anh như là người phục dịch” (Lc 22,27). Sau khi mạc khải sự cao cả hay hạnh phúc của việc phục vụ, người ta không ngạc nhiên vào giờ Ngài trở lại, vì Ngài thật là Chúa và Chủ (Gio 13,14), Ngài thắt lưng và phục dịch chúng ta như đã làm trước khi thụ nạn (Gio 13,4-5). Đã phục vụ, đã được phục vụ và yêu nhau theo gương Ngài, chúng ta đạt tới phẩm giá và hạnh phúc của Ngài. Khoảng cách trước đây giữa chủ và đày tớ giờ đây đã xóa tan, vì chính Ngài đã quyết như thế: “Các anh là bạn hữu, nếu các anh đã làm những gì tôi đòi hỏi các anh. Tôi không gọi các anh là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm; tôi gọi các anh là bạn hữu, vì tất cả những gì tôi đã học biết nơi Cha tôi, tôi đã dạy lại cho các anh” (Gio 15,14-15). Thật là hạnh phúc cho chúng ta khi việc chúng ta phục vụ đưa đến tình bạn, và tình bạn đưa đến vâng lời, và vâng lời là mối thông giao trực tiếp với TC.
---------------------------------
- Mark Link S.J.
Chủ đề: Chúng ta sẽ ra sao trong tương lai, điều đó chúng ta có thể biết trước bằng cách nhìn sâu sát cách chúng ta đang sống trong hiện tại. (x. CN 12 TN - C )
Trong quyển sách tựa đề Unfinished Business (Công việc dở dang), Halford Luccok có mô tả lại cuốn: TN 19-C35
Trong quyển sách tựa đề Unfinished Business (Công việc dở dang), Halford Luccok có mô tả lại cuốn tiểu thuyết, nhan đề: The man who lost himself (người đã đánh mất chính mình) của Osbert Sibwell.
Một màn trong cuốn tiểu thuyết này mô tả cảnh nhân vật chính truy tìm dấu vết một người đàn ông tại Balê. Chàng ta nghĩ mình biết gã đàn ông ấy đang ở tại khách sạn nào, nhưng không biết đích xác lắm. Vì thế chàng bèn dự định một kế hoạch tìm cho ra gã ấy, nhưng không để ai nghi ngờ gì. Chàng quyết định sẽ đưa tên của mình cho nhân viên quản lý phòng và sẽ hỏi ông ấy xem có người đàn ông nào tên như thế trong khách sạn không, để rồi thừa cơ người nhân viên ấy đang lui cui dò sổ xem thì chàng sẽ lén nhìn qua vai ông ta để tìm ra tên và số phòng của gã nọ.
Nghĩ thế, chàng liền đi đến khách sạn và đưa cho viên quản lý phòng tên của chàng. Nhưng lạ thay ông ta lại chẳng thèm dò sổ xem mà chỉ đơn giản bảo chàng: “Có, ông ấy đang ở tại phòng số 40 và đang chờ anh. Tôi sẽ bảo người bồi phòng dẫn anh đến phòng ông ấy”. Chàng nhân vật chính của chúng ta càng hết sức sững sờ. Nhưng chẳng còn biết chọn lựa cách nào khi chàng ta gõ cửa và cánh cửa phòng được mở ra, thì chàng không thể nào tin vào mắt mình được nữa. Ngay trước mắt chàng là gã đàn ông giống chàng y hệt, không khác tí nào, chỉ trừ ông ta vui hơn, to con hơn, và già hơn chàng độ 20 tuổi. Người đàn ông ấy không ai khác hơn là chính chàng trong 20 năm tới!
***
Đây chỉ là câu chuyện thuộc dạng khoa học giả tưởng, nhưng nó hàm chứa một chân lý quan trọng mà bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến, đó là có một người đang đứng chờ mỗi người chúng ta trong tương lai. Người đó không ai khác hơn là chính chúng ta trong 10 hoặc 20 năm tới.
Và bài Phúc Âm hôm nay đặt cho chúng ta câu hỏi này: “Vào lúc đó, chúng ta sẽ là loại người nào? Liệu chúng ta có phải là người mà gia đình chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện không? Liệu chúng ta có phải là người mà chính chúng ta có thể lấy làm hãnh diện không?”
Đáng ngạc nhiên thay, câu trả lời cho vấn nạn trên sẽ không khó như chúng ta tưởng. Chẳng hạn ngay bây giờ đời sống chúng ta đang nhắm về hướng nào? Nói cụ thể hơn, ngày hôm nay chúng ta có ít lương thiện hơn lúc cách đây một năm hoặc năm năm không? Ngày hôm nay chúng ta có ít hiểu biết hơn cách đây một năm hoặc 5 năm không? Ngày hôm nay chúng ta có ít chăm chú cầu nguyện hơn cách đây một năm hoặc 5 năm không?
Nhưng câu trả lời cho các câu hỏi trên là mấu chốt giúp chúng ta biết được con người của chúng ta 20 năm tới. Có câu ngạn ngữ nói rằng: “Cành cong thế nào, cây mọc thế ấy”. Nói cách khác, hiện giờ chúng ta đang hướng đời sống mình về hướng nào thì chắc hẳn nó sẽ cứ theo hướng đó mà đi tới. Chẳng hạn nếu mỗi năm qua đi mà chúng ta mỗi kém lương thiện hơn, thì chắc hẳn 20 năm nữa chúng ta cũng sẽ khó mà lương thiện. Nếu mỗi năm qua đi mà chúng ta càng ít hiểu biết hơn thì đương nhiên 20 năm tới chúng ta cũng sẽ không phải là người hiểu biết. Và nếu mỗi năm chúng ta mỗi bớt siêng năng cầu nguyện đi, chắc hẳn 20 năm sau, không thể nào chúng ta lại siêng năng cầu nguyện được.
Và điều này lại đặt ra cho chúng ta một câu hỏi quan trọng; Nếu lỡ chúng ta thấy mình đang ngày càng ít lương thiện, ít hiểu biết và ít siêng năng cầu nguyện thì chúng ta phải làm sao để ngăn cản đà dốc này? Và làm thế nào chuyển đổi lai hướng đi của cuộc đời chúng ta?
Bước đầu tiên phải làm là thẳng thắn nhìn nhận chúng ta đang xuống dốc trong một lĩnh vực nào đó. Chẳng hạn chúng ta có thể nhìn nhận ngày hôm nay mình không còn siêng năng cầu nguyện như trước kia nữa. Nhìn nhận điều này không những là bước đầu tiên mà còn là bước khó nhất và quan trọng nhất, bởi vì không dễ gì thú nhận những sai lầm và khuyết đỉêm của mình đâu.
Bước thứ hai là cầu xin Chúa tha thứ cho những khiếm khuyết của chúng ta. Chúng ta có thể làm điều này trong lời cầu nguyện, hoặc lý tưởng hơn nữa là trong Bí tích giải tội. Bí tích này là một trong những quà tặng to tát nhất của đức tin công giáo chúng ta. Và thật là đáng khích lệ khi thấy nhiều người càng ngày càng trở lại với Bí tích này.
Bước thứ ba là chúng ta khởi sự tiến hành một chương trình cụ thể nhằm thay đổi hướng sống của chúng ta. Chẳng hạn, nếu chúng ta không siêng năng cầu nguyện như trước nữa, thì giờ đây mỗi đêm chúng ta hãy dành riêng ít phút để cầu nguyện. Nếu chúng ta quyết định làm điều này thì chúng ta nên cầm nơi tay một quyển Kinh Thánh hay một quyển sách kinh. Thánh Têrêsa Avila luôn luôn bắt đầu lời cầu nguyện bằng một lời kinh trong sách. Những loại sách thích hợp đều thấy có tại một tiệm sách hoặc tại một thư viện. Hoặc nếu gặp trường hợp khiến chúng ta nóng nảy tức giận thì chúng ta nên ngồi xuống và cố gắng xác định xem những tình huống nào đặc biệt đã khiến chúng ta nổi giận. Và như thế mỗi đêm chúng ta phải xét lại xem mình đã làm cách nào chế ngự cơn tức giận của mình trong ngày. Và hơn thế nữa, nếu lỡ có thất bại, chúng ta phải xác định xem lý do khiến chúng ta thất bại và lo sửa chữa ngay.
Phải nhận rằng chuyển đổi hướng sống của chúng ta không phải là điều dễ dàng. Nhưng nỗ lực của chúng ta kèm theo ơn Chúa trợ giúp, chúng ta sẽ làm được giống như nhiều người đi trước chúng ta đã làm.
Vậy tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn xem: Liệu chúng ta có ít lương thiện, có ít hiểu biết, có ít siêng năng cầu nguyện hơn một năm hoặc 5 năm trước đây không? Nếu có, thì chúng ta phải lo sửa chữa lại đà dốc ấy ngay bằng cách thực hành những bước sau:
Trước hết là nhìn nhận chúng ta yếu đuối
Thứ đến, chúng ta cầu xin Chúa thứ tha cho chúng ta về điều này.
Cuối cùng là chúng ta phải khởi sự một chương trình sống hằng ngày nhằm sửa lại hoặc thay đổi bất cứ điều gì phải sửa đổi.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhìn rõ đời sống chúng con như Chúa đang nhìn, và như chúng con sẽ thấy được lĩnh vực trong đời sống chúng con cần được cải tiến hoặc thay đổi. Xin giúp chúng con biết thực hiện những bước cần thiết để làm cho đời sống chúng con phù hợp với ý định của Chúa khi Ngài tạo dựng nên chúng con.
---------------------------------
- Gm. Arthur Tonne
Thiếu uý hải quan Neal Scott là con của một vị mục sư ở Goldboro, Bắc Carolina. Năm 1940: TN 19-C36
Thiếu uý hải quan Neal Scott là con của một vị mục sư ở Goldboro, Bắc Carolina. Năm 1940 anh tốt nghiệp hạng danh dự cao đẳng Davidson, anh đăng ký học trường quản trị kinh doanh Harvard và khi thế chiến thứ hai bùng nổ, anh gia nhập Hải quân.
Trong trận hải chiến gần đảo Salomon, một máy bay ném bom cảm tử của Nhật nhào ngay trên boong tàu của Thiếu uý Scott, bị thương nặng, Scott ra lệnh cho đồng đội tiếp tục bắn. Rồi anh gởi lời từ biệt cha anh với lời sau cùng này: “Có cha và mẹ trong hai mươi bốn năm qua là tất cả những gì con mơ ước ở thế gian này”.
Con cái bạn có thể nói như thế về bạn nếu bạn ghi tạc trong tim lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thiên Chúa nhận chúng ta là đầy tớ trung thành và khôn ngoan biết chăm sóc các gia nhân mình. Ngày nay chúng ta ít có hoàn cảnh như thời đại Chúa Kitô, trong đó một người chịu trách nhiệm về một số gia nhân đông đảo. Vậy lời Chúa, ngày nay áp dụng cho chúng ta thế nào?
Thiên Chúa đã trao trách nhiệm cho các cha, mẹ đối với một số con em; giáo dục, nuôi nấng, hướng dẫn, sửa dạy và chịu trách nhiệm về chúng. Bài Tin mừng hôm nay là một lời cảnh cáo những cha mẹ bê trễ, và là một sự khích lệ cho cha mẹ tận tâm.
Tôi xin đề nghị một vài gợi ý để các bạn chu toàn được trách nhiệm rất nặng nề, khó khăn làm cha làm mẹ. một cha mẹ khôn ngoan phải:
1. Biết lắng nghe: Hãy cho con trai, con gái bạn có dịp trình bày hoàn cảnh của chúng. Những câu: “Đồ khùng, đồ câm” nên tránh.
2. Biết sẵn sàng nghĩa là dành một vài khi để con cái chuyện vãn với bạn.
Cùng làm với con cái: Hãy hy sinh chú ý tới những cái con cái thích. Hãy đọc kinh với chúng ngay từ khi chúng còn nhỏ.
3. Tán thưởng con cái bạn một cách chân thành nhưng bộc lộ mỗi khi chúng làm được những việc hữu ích.
4. Phải thức thời, đáng tiếc có một số cha mẹ không am hiểu những tệ nạn của thời đại: như ma tuý, yêu đương trước tuổi…. Nếu bạn không biết, bạn phải tìm hiểu, tìm thời giờ để đọc sách báo, tìm tòi, Cha sở, thày cô giáo có thể giúp bạn nhiều, nếu bạn hỏi các ngài.
5. Trên hết, bạn hãy làm gương cho chúng cũng như chỉ dạy chúng. Hãy tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các bí tích Tôn kính danh Thánh Chúa. Đừng say sưa, tránh cãi vã, và những truyện đồi trụy. Thường con em sẽ theo vết chân bạn.
Vì nhiệm vụ cao cả và nặng nề này, các bạn là cha là mẹ cần sự trợ giúp siêu phàm mà chỉ có Chúa Kitô có thể ban cho bạn. Để làm một người cha, người mẹ được các con kính nhớ như Thiếu uý Scott đã nhớ cha mẹ mình. Bạn phải biết hy sinh. Khi tái diễn lễ hy sinh của Chúa Kitô trên bàn thờ này. Bạn hãy xin Người giúp bạn tham dự vào lễ hy sinh của Người bằng một cố gắng làm người cha, người mẹ khôn ngoan và biết hy sinh.
Xin Chúa chúc lành bạn.
---------------------------------
Tin mừng: Lc 12, 35-40.
Anh chị em thân mến,
Hãy sẵn sàng” như là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu truyền cho chúng ta: “sẵn sàng” tức là đã chuẩn: TN 19-C37
“Hãy sẵn sàng” như là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu truyền cho chúng ta: “sẵn sàng” tức là đã chuẩn bị xong rồi và đang đợi giờ lên đường, giờ hành động…
“Sẵn sàng” là câu châm ngôn của các hướng đạo sinh. Mệnh lệnh “hãy sẵn sàng” của Chúa Giêsu cũng là một châm ngôn của người Kitô hữu, nhưng với ý nghĩa khác hơn, đó là sẵn sàng để chờ đợi Thiên Chúa đến như người đầy tớ đợi chủ đi xa về, bất chợt vào ban đêm hay ban ngày.
Ngày mai đi du lịch hôm nay đã chuẩn bị sẵn sàng; ngày mai đón khách phương xa đến nhà, hôm nay tất cả đã sẵn sàng để khách đến; ngày mai giờ xổ số độc đắc sắp đến, hôm nay đợi chờ trong hy vọng…
Con người ta ai cũng sống trong đợi chờ, đợi chờ kỳ tích đến để đổi mới cuộc đời, đợi chờ tin vui đến để đời thêm vui…
Mọi người ai cũng chờ đợi, nhưng rất ít người chờ đợi tin vui trọng đại: Thiên Chúa đến kêu gọi chúng ta đi về nhà Ngài.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nhắc nhở chúng ta: hãy sẵn sàng để chờ đợi Ngài đến. Ngài đến bất chợt như kẻ trộm, nhưng không tàn khốc như kẻ trộm cho những người đã chuẩn bị sẵn sàng, bởi vì Ngài đã vì yêu thương mà báo trước cho chúng ta: hãy sẵn sàng. Nhưng nó sẽ tàn khốc cho những ai nghe mà không tuân giữ lời Ngài nói, bởi vì “thật vô phúc cho đầy tớ nào khi chủ về mà vẫn còn mê ngủ”, mê ngủ tức là chưa chuẩn bị và không sẵn sàng…
Anh chị em thân mến,
Người biết chờ đợi là người có tâm hồn an vui tự tại bởi vì họ đã sẵn sàng.
Chúng ta thường cảm thấy hụt hẫng khi nghe tin người này người nọ mới hôm qua hôm kia đang cùng chúng ta ngồi uống rượu trong tiệc cưới giờ đã chết, cũng có lúc chúng ta cảm thấy bồn chồn trong lòng khi tiễn đưa người bạn thân đến nơi an nghỉ cuối cùng. Bồn chồn hụt hẫng là vì tâm hồn chúng ta chưa chuẩn bị sẵn sàng và cảm thấy bi ai trước sự ra đi của người anh em.
Chúa Giêsu ra lệnh cho chúng ta “hãy sẵn sàng” như vị tướng quân ra lệnh cho quân đội sẵn sàng lâm trận, trận chiến mà chúng ta phải đối đầu là trận địa cám dỗ của ma quỷ và của tội lỗi, trận chiến này tàn khốc hơn bất cứ trận chiến nào ở trần gian, bởi vì chỉ cần mê ngủ không tỉnh thức sẵn sàng thì chúng ta vĩnh viễn chết trầm luân trong hoả ngục, đó là cái giá phải trả nếu chúng ta không nghe lời Chúa Giêsu mà sẵn sàng…
Ân sủng và quyền năng của Chúa Giêsu vẫn ở cùng chúng ta luôn mãi, chỉ cần chúng ta “sẵn sàng” trong cương vị của người Kitô hữu: tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 19 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb
---------------------------------
1. ĐỪNG MẢI MÊ THU GOM NHỮNG CỦA CẢI TRẦN GIAN
Một bé gái 5 tuổi quí con búp-bê của em vô cùng, đến nỗi khi ngủ, em đòi phải cho búp-bê ngủ: TN 19-C38
Một bé gái 5 tuổi quí con búp-bê của em vô cùng, đến nỗi khi ngủ, em đòi phải cho búp-bê ngủ với mình. Có lần bị mất búp-bê, em buồn bã khóc lóc cả ngày khiến cha mẹ em phải mua ngay con khác thay thế. Nhưng em vẫn thương tiếc con búp-bê cũ. Nhiều người thử phản ứng của em, đề nghị em đổi búp-bê lấy đồng hồ, tivi, xe gắn máy, xe hơi – toàn là những thứ giá trị gấp 100, gấp 1000, thậm chí gấp 100.000 lần búp-bê – nhưng em nhất quyết không đổi. Đối với em, búp-bê là tài sản quý giá nhất, không gì đổi được. Nhưng đến năm 10 tuổi, em coi búp-bê không ra gì nữa, em bắt đầu thích những đồ chơi điện tử... Đến năm 20 tuổi, em đã trưởng thành, tất cả những thứ mà từ trước đến giờ em cho là vô giá, đều trở nên vô giá trị. Bây giờ em mới bắt đầu thích tiền, vàng bạc, là những thứ trước kia em không thèm, vì hiện nay em đã biết tiêu tiền: em nhận ra nhờ tiền, vàng bạc, em có thể mua tất cả mọi thứ em thích.
Khi còn là em bé, em chưa hiểu và cũng chưa quan niệm được giá trị của đồng tiền, của vàng bạc, chưa có nhu cầu sử dụng tiền bạc. Đối với em, chỉ có con búp-bê là có giá trị, vì nó có khả năng thỏa mãn những nhu cầu rất ít ỏi của em: làm bạn với em, an ủi em, thỏa mãn tình cảm đơn sơ của em. Nhưng khi lớn lên, hiểu được giá trị của tiền bạc, em thấy việc em không chịu đổi búp-bê lấy những của quí giá hơn quả là một sự khờ dại. Cũng vậy, hiện nay, nhiều người suốt đời say mê tìm kiếm những của cải chóng qua, nay còn mai mất, mà không hề biết hay màng đến những thứ của cải lâu bền không bao giờ mất đi được, giá trị gấp triệu lần những của cải họ đang mải mê tìm kiếm. Tại sao ? Chỉ vì họ chưa có một quan niệm, chưa hiểu gì về giá trị của thứ của cải lâu bền ấy. Nhìn bằng con mắt tâm linh, cho dẫu đã 4,5 chục tuổi, họ vẫn chỉ là những “em bé lớn tuổi”, trí óc họ chẳng khác gì một em bé. Họ đâu biết rằng sau khi chết, khi bước vào đời sống vĩnh cửu, tất cả những của cải họ thu gom suốt cả đời mà họ tưởng rằng rất có giá trị, bỗng trở nên hoàn toàn vô giá trị trong cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đó, họ mới thấy họ hoàn toàn trắng tay và nghèo hơn ai hết, vì họ đã không hề tích trữ những của cải cần thiết cho cuộc sống vĩnh cửu.
2. HÃY CHUẨN BỊ CỦA CẢI CHO CUỘC SỐNG MAI SAU
Sống ở trần gian này ta không thể không cần đến những của cải thích hợp cho cuộc sống tại đây. Nhưng cuộc sống ở trần gian này chỉ kéo dài nhiều lắm là 100 năm. Người Kitô hữu tin rằng sau cuộc sống ngắn ngủi được kết thúc bằng cái chết này, con người bước vào một cuộc sống khác lâu dài hơn rất nhiều, với cách hiện hữu hoàn toàn khác. Lúc đó, con người cần một loại của cải hoàn toàn khác với thứ của cải trần gian. Của cải trần gian dù đã gom góp được nhiều đến đâu, khi ấy, đều trở nên vô dụng. Vì thế, thật là dại dột khi ở trần gian này con người dành hết thì giờ mình có để gom góp thứ của cải vốn chỉ sử dụng được ở trần gian này, mà không biết tìm kiếm những của cải cần thiết cho cuộc sống vĩnh cửu.
Hãy xem những người đang dự tính trong tương lai sẽ định cư lâu dài ở một nước khác: họ coi cuộc sống hiện nay ở trong nước họ đang sống chỉ là tạm bợ. Vì thế, họ không màng tìm danh vọng, địa vị hay mua sắm nhà cửa gì trong nước hiện tại, mà họ chuẩn bị cho cuộc sống tương lai ở nước ngoài. Để chuẩn bị cho tương lai lâu dài ở nước ngoài, nhiều khi họ phải từ chối những việc làm béo bở, những địa vị hái ra tiền, những căn nhà khang trang… trong hiện tại, chỉ vì chúng có thể gây cản trở cho việc ra đi của họ. Nhiều người lo kiếm tiền để gửi ngân hàng ở quốc gia nơi họ sắp đến định cư, để khi đến quốc gia ấy, họ đã có sẵn tài sản cần thiết để xây dựng cuộc sống của họ. – Đó là sự khôn ngoan thường tình mà ai cũng biết. Thế nhưng rất nhiều người lại không hề biết áp dụng sự khôn ngoan ấy để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của mình trên trời. Bài Tin Mừng cảnh báo chúng ta về sự dại dột ấy và khuyên chúng ta hãy khôn ngoan dùng thì giờ ở trần gian để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Đó mới là cuộc sống đích thực của chúng ta.
3. CHUẨN BỊ THẾ NÀO CHO CUỘC SỐNG VĨNH CỬU MAI SAU ?
Cuộc sống vĩnh cửu mai sau là cuộc sống trong vương quốc của tình yêu. Chỉ những người có tình yêu đích thực – nghĩa là những người giống như Thiên Chúa ( mà bản chất là tình yêu ) – mới có thể nhập vào vương quốc ấy. Vì thế, tình yêu vừa là “vé” vào cửa, là “visa” để nhập cảnh, vừa là tài sản để sử dụng trong vương quốc ấy. Do đó, muốn chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, điều quan trọng và tối cần thiết phải làm ở đời này là phải có được tình yêu đích thực. Tình yêu đích thực khác với tình yêu giả tạo, mặc dù tình yêu giả tạo cũng có vẻ là tình yêu. Tình yêu đích thực chỉ có được khi con người biết ra khỏi chính mình, biết từ bỏ mình, biết quan tâm đến vinh quang của Thiên Chúa và hy sinh cho nhu cầu của tha nhân.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đề nghị một việc làm cụ thể để có được tình yêu đích thực: ”Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên Trời”. Khi “bố thí” – ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và hy sinh cho họ – thì ta sắm được “những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên Trời”. Có lần Đức Giê-su nói rất rõ: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời” ( Mt 19, 21 ). Kho tàng ở trên Trời ấy chính là tình yêu đích thực ta “sắm” được ở đời này. Nếu ta không chuẩn bị cho mình những gì cần thiết để vào Nước của Thiên Chúa, làm sao ta có thể vào đó được ?
4. KHI NÀO TA MỚI CHUẨN BỊ CHO CUỘC SỐNG VĨNH CỬU ?
Phần cuối của bài Tin Mừng nhắc nhở rằng Thiên Chúa có thể gọi ta về bên kia thế giới bất kỳ lúc nào. Có thể hàng mấy chục năm nữa, nhưng cũng có thể là năm sau, tháng sau, mà cũng rất có thể là ngày mai hay chỉ một tiếng đồng hồ nữa. Không ai biết được ngày giờ nào mình phải ra đi ! Nếu chúng ta không chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay từ bây giờ, thì chúng ta sẽ có khuynh hướng dời sự chuẩn bị ấy cho đến lúc chết, để cuối cùng chúng ta ra đi mà chẳng chuẩn bị gì. Điều gì phải làm ngay kẻo trễ thì người ta làm được vì người ta ấn định ngày giờ làm. Điều gì người ta nghĩ còn có nhiều thì giờ để làm, hay lúc nào làm cũng được, thì cuối cùng người ta chẳng bao giờ làm cả. Đúng như câu châm ngôn: “Now or never” ( không bây giờ thì sẽ chẳng bao giờ ). Vì thế, kẻ biết chuẩn bị cho đời sau thì sẽ chuẩn bị ngay từ bây giờ. Còn kẻ không chuẩn bị bây giờ thì dù họ có sống hết cả trăm năm, cuối cùng đến lúc chết họ cũng chưa hề chuẩn bị. Và như thế thì thật là... bất hạnh !
Lạy Cha, ra đi và nhất là đi xa, đi lâu, mà không hề chuẩn bị gì thì thật là dại dột ! Xin giúp con biết chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng để bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Một cuộc ra đi vô cùng quan trọng ! Xin giúp con biết chuẩn bị ngay từ bây giờ hành trang cần thiết cho cuộc ra đi vĩnh viễn ấy. Hành trang ấy chính là tình yêu đích thực mà con phải thường xuyên thể hiện ngay bây giờ với những người đang sống chung quanh con. Xin đừng để con chuẩn bị quá muộn màng...
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT
---------------------------------
Qua bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở, dạy bảo mỗi người chúng: TN 19-C39
Qua bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở, dạy bảo mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị hành trang cho cuộc sống đời sau. Chúng ta phải làm gì để được Nước Trời là phần thưởng mà Thiên Chúa Cha đã vui lòng ban cho chúng ta như lời Chúa Giê-su đã nói khi Người động viên, an ủi “đoàn chiên nhỏ bé” của Người là các môn đệ và tất cả những ai theo Chúa, chọn Chúa làm gia nghiệp muôn đời.
Xin được chia sẻ với cộng đoàn hai ý tưởng sau:
1. HÃY BÁN CỦA CẢI MÌNH ĐI MÀ BỐ THÍ
Đọc Tin Mừng, chúng ta luôn được Chúa Giê-su mời gọi sống bác ái, yêu thương bằng cách này hay cách khác, bằng tinh thần hay vật chất đối với bất cứ ai: những người thân quen gần gủi, những người xa lạ chỉ mới một lần gặp mặt, hoặc ngay cả với những kẻ gọi là thù với ta, có dã tâm hành khổ, bách hại ta. Tin Mừng theo Thánh Lu-ca hôm nay, Chúa Giê-su lại chọn cách thể hiện khá cụ thể của lòng bác ái, yêu thương chính là việc bố thí giúp đỡ người nghèo để giáo huấn chúng ta. Bố thí cho người nghèo cũng là cách chúng ta cất giữ của cải của chúng ta, “đồng tiền liền với khúc ruột” của chúng ta ở đời này trên Nước Trời hầu chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, chúng ta sẽ luôn được gần kề bên Chúa , được Chúa làm gia nghiệp, là nguồn hạnh phúc muôn đời.
Minh họa cho ý tưởng này, Linh Mục Đỗ Văn Thiêm, Giáo Phận Long Xuyên, có kể câu chuyện vui sau đây, xin đọc lại để chúng ta cùng suy gẫm.
Một chiếc xe Mercedes thắng kít, và đậu lại trước cửa Thiên Đàng. Từ trong xe, một mệnh phụ, bệ vệ bước ra. Trên người đeo đầy những đồ trang sức đắt tiền. Thánh Phê-rô từ từ mở cổng. Bà trình Ngài cuốn hộ chiếu có visa vào thiên đàng. Thánh Phê-rô hỏi: “Chỗ ở của bà phải không ?” – “Đúng, thưa Ngài”. – “Ngôi nhà lụp xụp phía kia. Người đàn bà sụ nét mặt”.
Người tài xế cũng vừa bước ra khỏi xe... Thánh Phê-rô, tay cầm visa của người tài xế, Ngài nói: “Visa vào thiên đàng của anh đây rồi. Còn chỗ ở của anh chứ gì ? Ngôi biệt thự thật xinh đàng kia”. Người đàn bà bất mãn lên tiếng: “Thưa Ngài, bất công. Là chủ sao tôi lại ở nhà chòi ? Còn tài xế thì được lại bước vào biệt thự ! Ôn tồn, Thánh Phê-rô đáp: “Biết làm sao được ? Bởi lúc sống, vật liệu của lòng bác ái, yêu thương bà gửi lên chỉ có thế, chỉ đủ dựng được một túp lều...”
2. PHẢI SẴN SÀNG CHỜ CHỦ TRỞ VỀ
Ý tưởng này được Chúa Giê-su trình bày qua ba dụ ngôn:
Dụ ngôn thứ nhất: Tỉnh thức như đầy tớ đợi chủ về.
Nếu để sang một bên câu 37b: “Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ”, thì câu chuyện sẽ có tính duy nhất.
Quá nửa đêm ông chủ về nhà. Ở đây, không phải chỉ một mình người gác cổng thức, nhưng mọi đầy tớ trong nhà đều thức để đợi chủ mình. Có thể họ đứng trong sân, giữa cửa lớn bên ngoài nhà. Họ phải vén tay áo lên để mở cửa cho nhanh khi chủ gõ cửa, và còn cầm đèn để rọi lối đi cho chủ. Chắc chắn chủ không đòi hỏi như thế, nhưng những điều ấy nói lên sự kính trọng và lòng tận tụy, yêu mến đối với chủ. Chủ sẽ nhận biết lòng trung thành của họ và sẽ tưởng thưởng.
Quả thực câu chuyện mà dụ ngôn này trình bày thật hiếm thấy trong thực tại nếu không nói là quá thực tại nghĩa là chẳng bao giờ xảy ra; vì để đón chủ về, có cần đem tất cả gia nhân ra đón không ? Thực ra, bức tranh mà dụ ngôn đưa ra chỉ nhằm diễn tả một cảnh trong thế giới bên kia sau khi con người trở về bụi đất. Mọi tôi tớ đều phải có mặt lúc chủ về. Mọi Ki-tô hữu, mọi người, mọi dân tộc đều được triệu tập một cách công khai khi Con Người quang lâm, khi Con Người đến lại trong ngày sau hết, mà ta vẫn gọi rất bình dân là ngày tận thế, ngày mà Chúa Giê-su đến lại để phán xét thế gian gồm cả người lành lẫn kẻ dữ. Lúc bấy giờ, muôn dân thiên hạ tất cả đều phải triệu tập trước Nhan Thánh của Người.
Dụ ngôn thứ hai: Tỉnh táo như với việc canh phòng kẻ trộm ( Lc 12, 39 – 40 ). Chúa Giê-su trình bày dụ ngôn này chỉ trong hai câu: Câu 39: “...Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu”. Và câu 40: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Khi đưa ra dụ ngôn này, Chúa Giê-su không hàm ý so sánh tên trộm là Thiên Chúa, vì lối so sánh ấy bất xứng, không phù hợp. Nhưng nhằm nói lên ý tưởng là: Sự xuất hiện bất ngờ. Đó là điểm tương tự duy nhất giữa hai người. Vì yếu tố bất ngờ không báo trước này mà mỗi chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Thời gian của vũ trụ thì còn dài, nhưng thời gian của đời người thì thật ngắn ngủi. Đời người chấm dứt chẳng biết lúc nào. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp: “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Chúng ta vẫn thường thấy người khác ra đi qua những đám tang, nhưng mấy ai thấy được mình sẽ cũng như thế một ngày nào đó trong cuộc đời. Vậy, thái độ khôn ngoan nhất vẫn là tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi giờ chết của mình trong từng giây phút hiện tại.
Dụ ngôn thứ ba: Người quản gia trung tín luôn trung thành với nhiệm vụ. Hình ảnh của dụ ngôn rất phù hợp với bình diện tự nhiên. Người đầy tớ trung tín chu toàn bổn phận mình: “Coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Như vậy, người quản gia ấy sẽ được chủ tín nhiệm và giao cho một chức vụ cao hơn ở trần gian này: “Được coi sóc tất cả tài sản của ông chủ”.
Chúng ta được Chúa giao cho mỗi người một nhiệm vụ: Linh Mục thì chăm sóc các linh hồn; cha mẹ thì chăm sóc gia đình, con cái; thầy cô giáo thì chăm sóc học sinh; y bác sĩ thì chăm sóc bệnh nhân; phu quét đường thì có bổn phận làm sạch đẹp đường phố v.v... Nhân đây, chúng ta tự xét xem mình đã trung thành với nhiệm vụ của mình chưa và trung thành ở mức độ nào ?
Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa vì Chúa đã dạy chúng con bài học bố thí của cải mình có cho người nghèo, và bài học luôn tỉnh thức để chúng con tỉnh táo hơn việc dùng của cải và nhất là với việc Chúa sẽ đến đột ngột trong đời mỗi người chúng con. Xin Chúa thương tha thứ và ban ơn thanh tẩy, ban ơn khôn ngoan, ban ơn trung thành để mỗi người chúng con biết ý Chúa, hiểu nhu cầu của tha nhân và chu toàn nhiệm vụ của mình trong tinh thần phục vụ vì lợi ích Giáo Hội, vì lợi ích Nước Trời để lòng chúng con tràn đầy niềm vui khi nhận được phần thưởng Chúa hứa ban. Amen.
Gs. PHẠM VĂN LƯỢNG, Nhóm Tông Đồ Thánh Kinh
---------------------------------
Lu-ca 12, 32-48
"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước trời của Người cho anh em.
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hục ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó.
"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người ?" Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc ? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng:'chủ ta còn lâu mới về', và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
"Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
***
Qua dụ ngôn phú nông khờ dại Chúa cảnh cáo các môn đệ đừng để cho tâm trí bận bịu với việc: TN 19-C40
Qua dụ ngôn phú nông khờ dại Chúa cảnh cáo các môn đệ đừng để cho tâm trí bận bịu với việc lo làm giàu cách ích kỷ, rồi phải đặt niềm tin nơi Chúa quan phòng mà quên di lo âu về cơm ăn áo mặc hàng ngày, nhưng phải quan tâm hết sức về Nước Thiên Chúa sẽ hiện ra khi gặp Ngài trở lại.
Về những biến cố trước khi Ngài trở lại, cùng những tình hình và hậu quả của sự trở lại ấy, Ngài sẽ dậy họ rõ ràng hơn trước khi Ngài qua đời ; ở đây Ngài chỉ dạy họ giữ thái độ canh thức, ngụ ý rằng nếu lúc nào tâm trí họ cũng hướng về sự trở lại của Chúa, thì họ sẽ ở ngoài vòng cương tỏa của trần thế, của lo âu, để cần mẫn phục vụ Ngài.
Ngài minh họa thái độ canh thức ấy bằng dụ ngôn ông chủ trở về và kẻ trộm đến. Trong dụ ngôn đầu: ông chủ đi dự tiệc cưới, tôi tớ ở nhà ăn mặc tươm tất, chong đèn thức đợi, sẵn sàng đón ông chủ trở về. Về đến nhà, ông hân hoan thấy họ kiên tâm như vậy, ông biểu lộ niềm vui bằng cách cho họ đồng bàn trong bữa tiệc họ đã dọn cho ông
Dụ ngôn thứ hai biểu lộ chân lý việc đến bất ngờ của kẻ trộm. Trộm đến không bao giờ báo trước, nên chỉ còn một cách là lúc nào cũng rình chờ hắn đến. Chúa thêm: "Cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
Tại đây cũng như nhiều chỗ khác, Chúa cho biết còn lâu nữa Ngài mới trở lại. Thời gian Ngài vắng mặt sẽ như một đêm dài, còn nhiều điều cần phải được biểu lộ, còn nhiều điều cần thiết trước khi Ngài trở lại. Thế nhưng họ không phải chờ đợi trong bồn chồn lo âu, hoặc ngày Ngài đến đã gần kề, nhưng chỉ cần họ đứng tại vị trí của bổn phận, trung thành thi hành công việc đã được trao phó cho.
Chúng ta có thể dựa vào thái độ canh thức, chú tâm đến sự trở lại của Chúa, mà đón định tư cách của các giáo sư và những người lãnh đạo Giáo Hội. Đó là động lực khiến Phê-rô đưa ra câu hỏi. Ông hỏi rằng mọi người sẽ cùng hưởng phước hạnh về sự của Chúa ngang nhau hay những người như các tông đồ, đã phục vụ Chúa nhiều hơn sẽ lãnh phần thưởng lớn hơn. Chúa trả lời cho thấy đặc quyền lớn bao nhiêu thì thử thách lớn về trách nhiệm nặng hơn.
Như vậy đoạn Kinh Thánh này có hai ý nghĩa: nghĩa hẹp chỉ sự trở lại của Chúa vào ngày thế mạt, nghĩa rộng chỉ về thời điểm mà mỗi người chúng ta được gọi trình diện Thiên Chúa. Có lời khen ngợi là dành cho người đầy tớ biết sẵn sàng. Chiếc áo dài lướt thướt của Đông phương gây trở ngại khi làm việc. Vì thế để làm việc, người ta vén áo cao lên, buộc vào thắt lưng để hoạt động thoải mái. Chiếc đèn ở Đông phương chỉ là một sợi tim (bấc) thả trên một đĩa dầu. Tim đèn phải luôn luôn được cắt tỉa và đèn phải luôn luôn đầy dầu, nếu không đèn sẽ tắt. Không ai có thể nói ngày giờ nào cõi đời đời sẽ xâm nhập vào thời gian và khi nào tiếng gọi của Chúa sẽ đến.
Vậy chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta trong tình trạng thế nào ?
Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta lúc đã chu toàn bổn phận của mình.
Biết bao người trong chúng ta có đời sống dở dang, có những việc chưa làm và những việc mới làm một nửa. Có những việc bỏ bê và có những việc chưa bắt đầu. Các bậc vĩ nhân bao giờ cũng nghĩ đến bổn phận phải làm trọn. Chính Chúa Giê-su đã nói: "Con đã làm xong công việc mà Cha đã trao cho con." (Ga 17,4). Không ai được coi thường, bỏ bê công tác mà mình phải chu toàn, hay có thể hoàn tất trước khi đêm đến.
Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang sống hòa thuận cùng mọi người.
Thật đáng sợ nếu ta lìa khỏi thế gian này mà lòng còn cay đắng với một người nào. Không ai được để cho mặt trời lặn trên cơn giận của mình (Ep 4, 26), nhất là khi mặt trời lặn lần cuối cùng trong đời mình, và ai có thể biết được ngày nào mình nhìn thấy mặt trời lặn lần cuối.
Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang bình an với chính Ngài.
Trong giờ cuối cùng, chúng ta cảm thấy mình sắp phải gặp một người xa lạ, một kẻ thù, hay sắp dược nằm yên trong vòng tay êm ái của Cha lành, đó là tất cả sự khác biệt.
Trong phần thứ hai của đoạn Kinh Thánh này, Chúa Giê-su cho biết thế nào là người quản gia khôn ngoan và không khôn ngoan. Bên Đông phương, người quản gia có quyền hạn rất rộng. Bản thân là nô lệ, nhưng anh ta có quyền điều khiển các nô lệ khác. Một quản gia tín nhiệm được coi sóc mọi việc trong nhà và điều hành gia tài của chủ mình. người quản gia không khôn ngoan đã phạm hai lỗi lầm:
Anh ta nói: "Ta sẽ làm theo ý thích của ta trong khi chủ ta đi vắng", vì anh ta quên rằng ngày tính sổ phải đến. Chúng ta thường chia đời sống ra nhiều phần. Trong phần này của đời sống thì chúng ta nhớ Chúa hiện diện, trong phần khác thì chúng ta chẳng nghĩ đến Chúa chút nào. Chúng ta có khuynh hướng vạch một đường ranh giới giữa những hoạt động thiêng liêng và những hoạt động thế tục. Nhưng nếu hiểu rõ Ki-tô giáo là gì ? Chúng ta hẳn biết rằng không có phần nào trong đời sống chúng ta khuất mắt của Chúa được. chúng ta đang làm việc và sống động mãi dưới cái nhìn thấu suốt của Chủ Lớn của chúng ta.
Anh ta nói: "Ta có đủ thời giờ sắp xếp mọi công việc trước khi chủ đến." Không có gì nguy hiểm cho bằng cảm tưởng là chúng ta có đủ thời giờ. Chính Chúa Giê-su phán: "Ta phải làm công việc của Đấng đã sai Ta đang khi còn ban ngày, đêm đến thì không ai còn làm việc được nữa." (Ga 9,4). Một trong những chữ rất nguy hiểm trong đời sống con người là chữ "ngày mai".
Đoạn Kinh Thánh chấm dứt với lời cảnh cáo rằng sự nguy hiểu biết và đặc ân bao giờ cũng mang theo trách nhiệm. Tội trở nên nặng gấp đôi cho người nào hiểu biết mà cứ phạm. Thất bại sẽ đáng trách gấp đôi cho người nào có điều kiện để thành công mà lại không chịu lợi dụng các điều kiện ấy.
---------------------------------
Giáo huấn Chúa nhật tuần trước đã kết án tên phú hộ tin tưởng vào thế lực của kho báu vật chất: TN 19-C41
Giáo huấn Chúa nhật tuần trước đã kết án tên phú hộ tin tưởng vào thế lực của kho báu vật chất như Chúa hắn thờ! Chúa nhật này là kết án kẻ: “Lấy cái bụng làm Chúa” (Pl.3,19), nên tối ngày chỉ chè chén say sưa, sinh ẩu đả!
Chúa Giêsu mới là đường dẫn dắt người ta biết cách dùng của cải vật chất, để làm hoàn tất mọi điều Chúa hứa cho hết những ai chỉ muốn chọn Ngài làm gia nghiệp. Đường của Chúa dẫn ta đi được thể hiện qua các bài đọc:
(a) Dòng giống Abra (b) Vượt qua biển đỏ (c)Tử nạn + Phục Sinh
Trọn lời hứa chọn |
|
Để trở thành |
(c') Thiên Đàng (b) Vượt qua thế gian (c) Đầy tớ biết chia
Khai tưởng con đường của Chúa theo lược đồ trên:
Bài đọc 1: (Kn.18,6-8)
(a) “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng tôi” (c.16a).
-“Đêm ấy” là đêm Mosê dẫn dân Do Thái vượt qua biển đỏ.
-“Đã được báo trước cho cha ông chúng tôi”: Chúa đã hứa cho Abraham sau khi ông ra đi theo tiếng gọi của Ngài, bỏ lại tất cả những gì ông có cho người khác, Abraham ra đi trong mạo hiểm, vì không biết mình đi đâu ? Đi để làm gì? Được gì ? Rõ ràng như “thả mồi bắt bóng”. Để trấn an ông, Chúa hứa: Ngươi hãy biết rõ điều này: dòng giống ngươi sẽ ngụ nhờ nơi thửa đất không thuộc về chúng. Người ta sẽ bắt chúng làm tôi và hành hạ chúng 400 năm: Những dân mà chúng phải làm tôi, ta sẽ xét xử, và sau đó chúng sẽ ra đi vơi nhiều của cải” (xem St 15,13-14).
(b) Môsê dẫn dân Do Thái vượt qua biển Đỏ thoát nô lệ, và đem theo vô vàn của cải (xem Xh .12, 35t).
Như vậy, cuộc vượt qua Biển Đỏ là Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho Abraham: “Kẻ đức nghĩa (Do thái) được cứu thoát; kẻ thù (Ai Cập) bị diệt trừ vì bởi một sự việc, Ngài giáng hình phạt xuống đối phương, và Ngài lại cho chúng tôi (dòng giống Abraham) được vinh quang” (Kn.18,7-8). Cụ thể là được thoát kiếp nô lệ và được mang theo muôn vàn của cải vật chất.
(c) Nhưng cuộc vượt qua Biển Đỏ chưa phải là hoàn tất lời Chúa hứa cho Abraham, vì còn dừng lại trên bình diện trần thế.
Đức Giêsu -Môsê mới- chính Ngài mới thực hiện cuộc vượt qua đích thực nhờ Tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc vượt qua này không triệt kẻ ác, mà là triệt ác, không nhằm cứu độ “kẻ lương thiện”, mà nhằm cứu độ “kẻ có đức tin như Abraham”, không chỉ đem lại lợi ích trên bình diện trần thế, mà nhất là đem lại giá trị tinh thần cho cả hồn lẫn xác, đời này và đời sau, không phải chỉ cho dòng máu khí huyết của Abraham, mà là cho hết mọi dân tộc được thừa hưởng đức tin của Abraham.
*TIN MỪNG: (Lc 12,32-48) và (Dt 11,1-2.8-19) .
(a') Những người được thừa hưởng đức tin của Abraham, nhờ cuộc Tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, họ được giải phóng khỏi ác thần và được lãnh nhận gia tài nước trời (và giá trị hữu hình và vô hình ). Đã là giống nòi của Abraham, họ phải luôn lên đường theo tiếng gọi của Chúa và chia sẻ như bà Sara làm bánh đãi khách (xem St 18), nhất là hiến dâng như Abraham hiến tế con một của mình (xem St 22).
Sự chia sẻ và dâng hiến ấy trong Tin Mừng Chúa mô tả dòng giống Abraham mới, họ là những đầy tớ trung tín biết phân phát lương thực đúng lúc và phải thời.
(b’) Họ phải luôn chia sẻ để chuyển về đời sau, vì họ không biết “giờ ra đi” (giờ chết) của họ, đó là cuộc vượt qua đích thực xảy ra hết sức bất ngờ, như kẻ trộm đến nhà, điều này xảy ra cho hết mọi người, không trừ ai (Lc 12, 39t).
Cuộc vượt qua này còn trở nên phiên tòa Chúa xét xử: “Đầy tớ nào biết ý chủ, mà không làm theo ý chủ sẽ bị ăn đòn nhiều hơn… Bởi vì kẻ được cho nhiều cũng sẽ bị đòi hỏi nhiều, và ngược lại”.
Người công giáo được Chúa cho nhiều hơn lương dân. “Nhiều” ở đây chính là Thánh Thể. Nên người công giáo cần phải chia Chúa cho người khác(Lc12, 47-48).
(c’) Cuối cùng, chỉ những đầy tớ trung tín khôn ngoan luôn luôn biết phục vụ theo ý chủ: “Ao xắn đai lưng cầm đèn cháy sáng, luôn tỉnh thức đợi chủ về mở cửa ngay. Phúc cho những đầy tớ ấy: Chủ sẽ tự thắt lưng, đặt đầy tớ vào bàn tiệc để chủ hầu hạ nó” (Lc 12,35-38). Điều này được hiểu cụ thể nơi bàn tiệc Thánh Thể Chúa cử hành (Ga 13, 4-5).
Như thế họ chính là đoàn chiên nhỏ bé, mà cha trên trời đã khấng ban nước trời cho, có chi mà phải sợ, khi họ đã chia sẻ hết! (xem LC 12, 32).
Chặng đường Chúa dẫn ta đi tới đây (c’), Ngài mới thực hiện trọn vẹn lời hứa cho Abraham.
Nhìn lại con đường của Chúa thực hiện lời hứa cho kẻ Ngài kêu gọi (từ a—b—c, rồi từ a’—b’—c’ dựa trên các bài đọc trong phục vụ hôm nay. Thánh Phaolô trong bài đọc II còn giúp chúng ta thêm xác tín vào hành động sống đức tin của mình.
“Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy”.(Dt 11, 1).
“Thể theo lòng tin, các lời Chúa hứa về ơn cứu độ, người công giáo còn đứng ở đàng xa với chào, tức là ơn cứu độ vẫn còn nằm ở hướng trước mặt!”(Dt 11,13).
Thực vậy, vào thời Abraham còn sống trên trái đất này làm sao ông hiểu được tất cả giá trị lời Chúa hứa? Cùng lắm là ông chiếm hữu “điều trong hy vọng, thực tại ông không thấy”. Nhưng từ đó mọi người mới nhận ra rằng: Sống trên trái đất mình chỉ là khách lạ qua đường, đang đi tìm một quê hương hoàn hảo, tức là quê trời mà chính Chúa Giêsu hứa ban cho, và Ngài giúp kẻ tin cách chiếm hữu quê hương và kho tàng trên trời.
Phần ta hôm nay, ta hãy sống như gia đình Abraham:
Sẵn sàng lên đường đi theo tiếng gọi của Chúa.(Dt 11,8-10).
Sẵn sàng phục vụ như bà Sara để sự sống của mình được kéo dài qua con cháu Chúa ban cho (Dt 11,11-12).
Sẵn sàng dâng hiến cả gì cao quý nhất như Abraham dâng hiến con một của mình (Dt 11, 17-19).
Lúc này đây ta đang chuẩn bị cùng hiệp dâng thánh lễ với Chúa Giêsu, hơn của Abraham xưa dâng. Ta tin rằng nếu ta biết sống nối dài và mở rộng đức tin của Abra+Sara, chắc chắn Chúa sẽ thực hiện cho ta mọi điều Chúa đã hứa với ta(xem Lc 1, 38).
---------------------------------
Dẫn vào Thánh lễ và sám hối
Chúng ta là những người phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Nhưng thử hỏi, chúng ta thuộc loại: TN 19-C42
Chúng ta là những người phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Nhưng thử hỏi, chúng ta thuộc loại đầy tớ nào ? Giờ đây chúng ta nài xin Chúa tha thứ cho những tội lỗi biếng nhác và cẩu thả trong khi chúng ta phục vụ Thiên Chúa và anh chị em chúng ta.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Kn 18,6-9
Cũng như Thiên Chúa đã đến giải thoát dân Do thái ra khỏi Ai cập, thì Người cũng sẽ cứu những ai biết đặt niềm tin cậy nơi Người.
Bài đọc 2 : Dt 11,1-2.8-19
Chúng ta được kêu gọi noi gương bắt chước gương mẫu đức tin của các tổ phụ, đặc biệt nơi tổ phụ Abraham, "cha chúng ta trong đức tin".
Tin Mừng: Lc 12,32-48
Dụ ngôn về những đầy tớ chờ đợi chủ về nhấn mạnh thái độ luôn tỉnh thức và trung thành.
SỐNG TRONG SỰ BẤP BÊNH
Ngày nay, nhiều người đã từng đi máy bay. Trước khi máy bay cất cánh, tiếp viên hàng không sẽ nhắc nhở hành khách như sau: "Xin quý khách chú ý, chúng tôi xin hướng dẫn những nguyên tắc an toàn trên chuyến bay này …". Sau đó người tiếp viên sẽ chỉ cho bạn cách gài dây an toàn và khuyên bạn nên gài trong suốt chuyến bay. Bạn cũng sẽ được chỉ dẫn vị trí những lối thoát hiểm. Trong trường hợp đột ngột mất trọng lực trong khoang máy bay, mặt nạ cá nhân khí oxy sẽ tự động hạ xuống trước mặt bạn. Bạn sẽ được cho biết rằng dưới ghế ngồi của bạn có một áo phao để sử dụng trong trường hợp máy bay đâm xuống biển.
Những hiểu biết cơ bản đằng sau tất cả những hướng dẫn này nhằm giúp hành khách được trang bị sẵn sàng khi trường hợp bất trắc xảy ra. Nhưng tiếc rằng chỉ có một số ít người chú ý đến những hướng dẫn mà người tiếp viên nhắc nhở. Nếu có vấn đề xảy ra thì những hướng dẫn an toàn này giúp cho người ta vượt qua khỏi sự mất bình tĩnh hoảng sợ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta những lời chỉ dẫn trong hành trình cuộc sống, một hành trình mà tất cả chúng ta đều phải trải qua. Người dạy ta phải chuẩn bị cho một sự kiện bất ngờ. Giống như những đầy tớ trung thành, chúng ta phải chuẩn bị cho bản thân mình luôn trong tình trạng sẵn sàng. Không sợ hãi, nhưng luôn tin tưởng và hy vọng.
Mỗi ngày chúng ta càng ý thức được cuộc sống trôi qua nhanh như thế nào, và sự bấp bênh của nó. Chúng ta không được dựng nên bằng đá mà ngược lại là thứ rất mỏng manh dễ vỡ. Cuộc sống của chúng ta có thể bị lấy đi mất chỉ trong chớp mắt. Tuy nhiên, sự ngắn ngủi và mỏng manh của kiếp sống con người lại làm cho chúng ta cảm nhận được sự quý giá của mạng sống mình trên trần gian này.
Chúa Giêsu đã biết tính bất định của cuộc sống này. Dụ ngôn chúng ta nghe hôm nay nhấn mạnh rằng sự chết có thể đến bất kỳ lúc nào. Phải chăng Chúa sẽ thử thách, lấy đi mạng sống của ta cách bất ngờ giống như những kẻ trộm đột nhập vào nhà. Điều đó chúng ta không thể hình dung ra được. Tử thần là kẻ trộm sẽ cướp đi mạng sống của ta, chứ không phải là Thiên Chúa.
Cuộc sống đầy thay đổi không ngăn cản chúng ta tận hưởng cuộc sống hiện tại. Ai trong chúng ta cũng đều muốn cuộc sống của mình kết thúc khi những kế hoạch mình đã đạt được và mọi công việc đã hoàn thành. Nhưng không ai biết được liệu mình có cơ hội đó hay không. Cơ hội mà chúng ta có được là trung thành với trách nhiệm và bổn phận mỗi ngày, như những người đầy tớ mà Chúa Giêsu đã nói đến. Rồi chúng ta có thể bước đi tới một nơi mà ta hoàn toàn không biết, như tổ phụ Abraham đã trải qua trong niềm tin tưởng vào lòng nhân từ và tình yêu thương của Chúa.
Ngày xưa, có một anh hề, kẻ đã từng mua vui cho đức vua và hoàng cung. Nhưng sau đó vì lỡ lời mà anh bị khép vào tội chết. Trước khi lệnh hành quyết được thi hành, đức vua cho triệu anh ta đến và nói: "Xét thấy vì những trò vui mà ngươi đã đem đến cho ta trong bao năm qua, nay ta cho phép ngươi được chọn lấy cái chết theo cách mà ngươi muốn."
Anh hề suy nghĩ trong giây lát và trả lời: "Tâu đức vua, nếu người chấp thuận thì tôi xin được chết vì tuổi già."
Đức vua vô cùng thích thú vì câu trả lời của anh ta và đã cho anh được toại nguyện. Đa số chúng ta cũng muốn được chọn lựa theo cách này, nhưng chúng ta không biết là mình có được cơ hội này hay không.
Chúng ta là người phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Phúc cho những đầy tớ nào biết trung thành và có trách nhiệm. Người đầy tớ trung thành không lo sợ ngày chủ trở về. Trái lại, anh ta vui mừng về điều đó.
Bất kỳ lúc nào cũng đều bất lợi cho người đầy tớ bất trung. Và bất kỳ lúc nào cũng đều là thời điểm tốt lành cho người đầy tớ trung thành. "Chúng ta không được gọi để trở nên người thành công, mà được gọi chỉ để làm người trung thành" (Mẹ Têrêsa).
-----------------------------------
Kho tàng làm nảy sinh trong tâm trí một cực thu hút. Tất cả những khuynh hướng nội tâm la: TN 19-C43
Kho tàng làm nảy sinh trong tâm trí một cực thu hút. Tất cả những khuynh hướng nội tâm là ý nghĩ, ước vọng, hoạt-động-tính, tự nhiên đều xoay vào điều gì lợi nhất cho mình. Đức Kitô phán: Chớ đặt quyền lợi các ngươi trong những sự gì thuộc về thế gian chóng hư nát, mà phải đặt trong những thực tại siêu nhiên lâu bền. Có những quyền lợi vật chất thật sự xấu, gây bất công, hoặc làm cho tâm hồn sa đọa, chúng không tránh được sự trừng phạt của Thiên Chúa. Một số quyền lợi vất chất khác thật sự tốt, là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Chúng được chúng ta nêu trong kinh nguyện: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Tuy nhiên không được vì lo lắng những quyền lợi vật chất chính đáng nhất mà sao lãng mối quan tâm trước tiên về định mệnh siêu nhiên của mình. Ở điểm này, Phúc Âm nêu ra cả một tập hợp những câu hỏi không thể giải đáp ngoài phạm vi những viễn ảnh đức tin sống động. Muốn có giải đáp theo chủ trương Đức Kitô, phải thật sự dốc lòng tin vào Đức Kitô. Chúng ta có thể áp dụng Lời Chúa cho xã hội, cho chính chúng ta.
1) Xã hội không tin mấy vào Đức Kitô, vậy mà Chúa nói với chính xã hội, với bất cứ cá nhân nào. Chúng ta quan sát cái xã hội mệnh danh là xã hội tiêu thụ. Người ta rất quan tâm đến của cải vật chất, lợi nhuận, đầu tư, đến những kho tàng, theo Lời Chúa, dễ bị trộm cắp lai vãng, dễ bị tiêu tan. Người ta chú tâm nhiều vào việc khéo xoay sở để khỏi phải nhịn mua sắm mà vẫn thăng bằng được ngân sách gia đình hàng tháng. Kho tàng ở đâu, lòng người ở đó - ở chiếc xe hơi lộng lẫy, ở thời trang tối tân, v.v… Trong cái xã hội hưởng thụ ấy, Kitô hữu phải có thái độ nào? Kitô hữu sử dụng của cải thế gian mà không tham lam vô độ, biết đặt lên trên hết những giá trị nhân bản và siêu nhiên là sự công bằng, sự thờ phụng Thiên Chúa, tình liên kết với anh em vì yêu mến Thiên Chúa, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tình cảm.
2) Lời Đức Kitô áp dụng cho Kitô hữu như cho kẻ tôi tớ, sống giữa thế gian mà luôn thức tỉnh về phạm vi siêu nhiên. Trong cộng đồng nhân loại, Kitô hữu được Thầy cắt cử làm ‘quản lý’, có nghĩa vụ sinh lợi những thực tại siêu nhiên. Kitô hữu nào ngủ mệt, nghĩa là đua đòi mọi người chạy theo vật chất, mải mê lo việc đời này, kẻ ấy lúc tỉnh dậy dễ gặp nguy hiểm khủng khiếp. Kẻ tôi tớ nào ham mê ăn uống say sưa, ông chủ sẽ tới vào ngày giờ kẻ ấy không ngờ, ông chủ nghiêm trị, đuổi đi. Trái lại, kẻ tôi tới tỉnh thức sẽ được khen thưởng. Kitô hữu nhận được nhiều do ân huệ đức tin, cho nên sẽ bị đòi nhiều. Lại có giời Kitô hữu nhận được nhiều hơn nữa vì được ơn gọi sống làm chứng cho Phúc âm bằng thiên chức mình. Giới được ưu đãi này sẽ bị đòi nhiều hơn nữa. Dẫu sao, bất cứ Kitô hữu nào cũng phải cảnh giác để trả lời một câu hỏi hai vế: Trong đời sống nghề nghiệp chức vụ, tức là trong phạm vi sản xuất – trong đời sống bình thường, tức là trong phạm vi tiêu thụ, mình có triệt để thực thi san sẻ bắt buộc phải làm vì đức công bằng, vì lòng mến Chúa không?
-----------------------------------
“Các con hãy sẵn sàng”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta về một điều kiện cần thiết để được vào Nước: TN 19-C44
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta về một điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời: ấy là phải luôn luôn sẵn sàng. Sẵn sàng như người đầy tớ trung tín đợi chủ, như người khôn ngoan trông chừng tên đạo tặc, như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Như vậy, bài Phúc Âm được nối kết bởi một dụ ngôn riêng rẽ (theo Mátthêu và Marcô), nhưng được gom góp lại dưới một chủ đề theo lối văn pháp thường quen của Luca.
Muốn vào Nước Trời “hãy tỉnh thức và sẵn sàng”.
Xưa nay, nhiều cuộc thất bại đắng cay trong lịch sử cá nhân, gia đình, xã hội đều do một nguyên do là không chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng.
Đại tướng Mac Arthur sau đệ nhị thế chiến có nói: Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể gồm tóm trong hai chữ: ‘quá muộn’. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Trong phạm vi thiêng liêng, đi chinh phục Nước Trời, ơn cứu rỗi cũng vậy. Để giải thích, Chúa đưa ra ba dụ ngôn. Dụ ngôn người giúp việc luôn tỉnh thức đợi chủ về. “Thầy bảo thật, chủ sẽ thắt lưng đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng”.
Dụ ngôn về tên ăn trộm, ăn trộm thì có bao giờ báo trước. Vậy hãy tỉnh thức, “giờ nào các ông không ngờ thì Con Người sẽ đến”.
Dụ ngôn người quản lý trung tín luôn làm theo ý chủ, chủ tín nhiệm trao cho quyền trông coi tất cả gia sản.
Tóm lại, muốn được cứu rỗi, phải luôn luôn sẵn sàng: Tỉnh thức, cầu nguyện, hành động và chiến đấu với ma quỷ, với chước cám dỗ.
Một nhà văn hào kể một câu chuyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận về phương thức chiếm đoạt các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỷ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỷ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: ‘Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!’
Bao nhiêu linh hồn hư mất không sẵn sàng.
Lạy Chúa, xin cho con biết luôn cầm đèn sáng trong tay.
-----------------------------------
Maranatha có nghĩa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến!” Đây là từ cuối cùng của Thánh Kinh, đây: TN 19-C45
“Maranatha” có nghĩa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến!” Đây là từ cuối cùng của Thánh Kinh, đây là lời nguyện tha thiết của những Kitô hữu đầu tiên. Từ này lại trở nên lời nguyện của một số Kitô hữu ngày nay, nhất là trong những cộng đoàn đặc sủng. Lời này đáng được suy niệm.
Maranatha kêu gọi ngày tận thế, cái ngày kinh khủng là ngày mà Chúa Kitô xuất hiện trong vinh quang khởi đầu cuộc sống mới của con người tràn đầy sinh khí của Chúa. Bởi vì như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta chính Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta vào hưởng sự vui vẻ của Ngài: “Ngài sẽ cho các ngươi ngồi vào bàn và lần lượt phục vụ các ngươi.”
Nhưng mặc dầu kỳ diệu và tràn đầy tình yêu đến thế, cái kết cục vĩ đại này có lẽ không ngày đêm ám ảnh chúng ta lắm. Chúng ta ít hiểu điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm khi nói với chúng ta: “Hãy sống như những người đang chờ đợi”. Và khi chúng ta ngoan ngoãn lặp lại theo Ngài: “Lạy Cha, xin cho Nước Cha trị đến”. Điều này không làm lòng chúng ta hướng về ngày cánh chung, trong khi đó ý nghĩa đầy đủ là: “Xin cho thế giới chung cuộc nơi mà Cha sẽ trị vì mau đến”.
Thế giới đó đã đến. Chúng ta đi đến sự viên mãn nhưng thế giới đó đến trong sự khởi đầu của chúng ta. Thời kỳ cánh chung (nghĩa là những mục tiêu cuối cùng) là một bình minh xa xăm soi sáng sự tiến triển của nhân loại (tổng kết, như một nhà chính trị nổi tiếng đã nói, đó là một sự tiến triển) hướng về các mặt trời vĩnh cửu.
Cho nên sự chờ đợi Kitô giáo không có tính cách tĩnh tại và giải phóng. Nó là ý thức (có thể không sống động lắm) về một sự sản sinh vĩ đại.
Nền linh đạo chắc chắn nhất mà người ta luôn dạy chúng ta thì rõ ràng: phải sống tràn đầy ngày hôm nay. Nhưng đó là “ngày hôm nay của Chúa, tràn đầy Chúa và tràn đầy sự chờ đợi Ngài.
Liều lượng giữa hoạt động tức thì và sự chờ đợi thì rất tế nhị. Nó thay đổi theo các thời đại hoặc thậm chí theo mỗi tâm trạng. Sẽ có cho tới cùng những người miệt mài với thế gian và những người mơ ước trời cao. Tuy vậy, nói đến liều lượng tức phải có cả hai, và có nơi mỗi người trong lòng chúng ta: sự chờ đợi, vâng, nhưng trong một sự nhẫn nại rất tích cực. Biện chứng giữa ngày hôm nay và ngày mai là luôn luôn phải tỉnh thức. Biện chứng này suýt bị sai lệch ngày từ khi Kitô giáo mới ra đời. Các tín hữu Thessalonica của thánh Phaolô bị Maranatha tác động đến nỗi họ không còn làm gì nữa cả. Thánh Phaolô phải nói với họ: “Không, ngày của Chúa chưa đến! Phải sống, phải làm việc” (2Ts)
Chúng ta đã ghi nhận rất tốt bài học bởi vì ngày hôm nay của chúng ta hết sức bận dịu đến độ không tin vào thời kì cánh chung. “Những mục tiêu cuối cùng sao? Để rồi xem!” Ngay cả nơi những người Kitô hữu, người ta nhượng bộ hai cách sống (thường chỉ là hai gian đoạn của một cuộc sống) dưới trần thế này vì Maranatha: cái tôi bất cần và cái lịch sống cuồng sống vội.
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta có cuộc sống tỉnh thức: “Hãy là những người đang chờ đợi”, hãy ý thức việc ngày tháng qua đi và chấm dứt. Nhưng “theo kiểu người quản lý trung thành và khôn ngoan”. Một người quản lý “bận bịu” lắng nghe trong tiếng động của những ngày đang đi qua tiếng của Ngày tận thế đang tới.
Cho nên Maranatha không phải là một lời nguyện giả hình, kêu xin Chúa cho ngày tận thế “đến” mà không muốn Ngài đến. Chúng ta có thể nói với Ngài “Xin hãy đến” bởi vì Ngài đang đến và để Ngài đến nhiều hơn nữa, ngày từ bây giờ, thấm nhuần những ngày hôm nay của chúng ta những giá trị cho ngày mai.
Maranatha thông truyền cái vĩ đại vào trong điều gì có nguy cơ nhỏ nhặt, tẻ nhạt hoặc lệch lạc. Đó là những ngày lê thê hoặc chạy theo thời gian, những ngày khổ hình bị giết chết bằng những liều thuốc an thần. Nếu trong tất cả những điều đó tôi mất đi sự chờ đợi cơ bản của tôi, Maranatha của tôi, thì tôi chỉ còn là một kẻ chia nhỏ thời gian mà thôi, tôi không xây dựng gì cả, tôi không tự chuẩn bị cho gì cả.
Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin hãy thâm nhập những ngày cuối cùng. Qua việc Ngài đến dần dần, xin hãy chuẩn bị việc Ngài đến tràn đầy nơi chúng con và nơi thế giới. Ánh sáng Mừng vui, Ánh sáng vĩnh cửu của Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô Thánh thiện và Hạnh phúc.
-----------------------------------
- Fr Jude Siciliano
Khó mà tìm ra quan điểm thống nhất cho các bài đọc hôm nay. Chúng gom lại những lời giảng: TN 19-C46
Khó mà tìm ra quan điểm thống nhất cho các bài đọc hôm nay. Chúng gom lại những lời giảng lặt vặt của Chúa Giêsu về của cải, về tỉnh thức, về mục tiêu Nước Trời,… cho nên quý vị được tự do lựa chọn đề tài. Có thể là từ Thánh thơ, Tin Mừng hay bài đọc Cựu ước. Nếu chọn Cựu ước thì đây là chuyện khó khăn nhất, bởi bài đọc làm nhiều người bối rối. Sách Khôn ngoan đã khó, đoạn trích hôm nay còn khó hơn. Tác giả đang nói đến hậu quả của việc thờ ngẫu tượng: Hình phạt thứ 10, các con đầu lòng Ai Cập bị giết chết. Sau đó dân Israel được giải phóng: “Lạy Chúa, đêm vượt qua đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời nào, thì các ngài thêm can đảm. Dân Chúa trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ thù địch”. Rõ ràng bài đọc nhấn mạnh sự kiện Thiên Chúa bênh vực Israel, kẻ thờ phượng Ngài. Họ đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và sẵn sàng bước ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập tiến tới tự do của miền đất hứa. Đây là đề tài chủ yếu của Kinh Thánh, nghĩa vật chất cũng như thiêng liêng: Thoát cảnh nô lệ tội lỗi tiến đến tự do đích thực của con cái của Thiên Chúa. Nhiều lần chúng ta đọc sách thánh nhưng không lưu tâm điểm này, thành thử đời sống thiêng liêng ít được cải thiện. Thiên Chúa của người tín hữu luôn là Thiên Chúa giải phóng. Ngài cứu giúp và dẫn dắt chúng ta khỏi mọi thứ kìm kẹp. Suốt các thế hệ, người Do Thái luôn dễ dàng nhớ lại Thiên Chúa đã giơ tay uy quyền giải thoát cha ông họ khỏi các khó khăn. Hiện tại Ngài vẫn thực hiện và trong tương lai họ có thể hoàn toàn cậy trông vào sự trung tín của Thiên Chúa. Cho nên họ có bổn phận làm cuộc lữ hành tới tự do, bất chấp mọi gian khổ.
Thiên Chúa của Xuất Hành, của Vượt Qua cũng chính là Thiên Chúa của các tín hữu ngày nay. Trước bàn thờ Thánh Thể chúng ta cũng dâng lên Thiên Chúa ấy lời tạ ơn, vì đã giải thoát khỏi mọi ràng buộc qua Đức Kitô Giêsu. Tuy nhiên con đường dẫn đến tự do hoàn toàn, vẫn còn dài, thật dài. Quá trình thoát khỏi các gông cùm còn trải rộng trước mắt. Gông cùm tội lỗi, tính hư, nết xấu, tham lam, dâm dục, giả hình. Chúng ta tưởng mình tránh xa việc tôn thờ ngẫu tượng, nhưng thực tế không phải vậy. Còn rất nhiều ngẫu tượng trong mỗi người. Liệu chúng ta có khao khát tự do khỏi những đam mê đó? Liệu chúng ta có ước ao canh tân đời sống để tiếp tục con đường hành hương về với Thiên Chúa? Con đường thánh thiện hàng ngày với những công tác nhỏ bé nhưng quan trọng, những thử thách cám dỗ, những hy sinh hãm mình? Câu trả lời xem ra khó khăn, bởi đã quen sống nhung lụa. Rất ít linh hồn còn giữ được lương tâm ngay chính, nghe theo lời chỉ bảo của Chúa Thánh Linh. Ở nước Thục có một giống đười ươi, mặt như mặt người, biết nói, biết cười. Máu nó dùng để nhuộm vải, xương cốt nấu cao, thịt ăn rất bổ, nên người ta ưa bắt nó. Tính đười ươi thích uống rượu, đi guốc. Người ta biết thế nên mang rượu, guốc ra bày la liệt ở khoảng đồng không rồi đi nấp. Đười ươi thấy rượu, guốc, biết rằng thiên hạ nhử mình bèn chửi rủa người đánh bẫy, nói thậm tệ cả đến tổ tông người ấy, rồi bảo nhau đi, lẩm bẩm khuyên mình chớ mắc mưu loài người khốn nạn, chực hại mình. Được một quãng ngoảnh lại, bảo nhau nếm thử, hại gì đâu? Tay chấm, miệng mút, bén mùi thử mãi thành say sưa quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu vẫn giữ. Chếnh choáng, ngả nghiêng, cười nói, đưa chân vào guốc thất thểu đi. Người nấp đổ ra bắt sạch, không sót con nào! (Diêu Dung). Đó là hình ảnh của chúng ta trong cuộc sống hiện nay với văn minh vật chất! Đố ai tránh khỏi cám dỗ của những tiện nghi vật chất!
Chuyển sang bài thánh thư. Tôi nhớ lại thời kỳ còn là học sinh. Chúng tôi có vô số thần tượng, đa phần là những cầu thủ bóng chày quanh vùng New York. Chúng tôi chẳng biết chi về đời tư của họ. Có lẽ cũng không khác mọi người. Nhưng bởi vì họ danh tiếng cho nên chúng tôi thu thập các hình ảnh, thuộc lòng các thông số ghi bàn, những sai lầm và thất bại của họ. Chúng tôi ước mong nếu cố gắng đủ, sẽ được nổi tiếng như họ, bắt mọi người phải ngưỡng mộ mình. Lớn lên, biết nhiều về họ, những thói xấu, những đam mê làm chúng tôi thất vọng và canh chừng các ngôi sao khác. Nhưng làm thế nào tìm ra những thần tượng nam nữ khác, để giúp mình bay lên tận trời xanh? Trong buổi cử hành phụng vụ hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ mình thuộc dân tộc Thánh Kinh. Chúng ta có những nhân chứng chân thật về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta ngưỡng mộ và hy vọng bắt chứơc họ. Bởi lẽ như dân tộc Israel trong cuộc hành trình về đất hứa, con đường đức tin của chúng ta còn dài và nhiều chông gai, chúng ta cần nhiều hy vọng và khích lệ. Cuộc đời của họ là những ngọn đuốc sáng, bày tỏ lòng trung tín và những ơn huệ Thiên Chúa ban cho linh hồn nỗ lực nên thánh thiện.
Tác giả thư Do Thái viết cho các tín hữu tân tòng gốc Israel. Những người đang bị áp lực từ bỏ đức tin. Họ sống trong lo âu và căng thẳng. Vì thế trong đoạn trích hôm nay chúng ta được nghe kể: “Đức tin là hiện thực của những điều chúng ta hy vọng…” Đúng vậy, với lòng tin kính, ngay bây giờ chúng ta có thể kinh nghiệm những gì Thiên Chúa hứa ban và những thực tại chúng ta chờ đợi: Bình an, hoà giải, chữa lành, hạnh phúc, hoan lạc trong Thánh Thần. Tác giả lá thơ là một nhà giảng thuyết lớn. Ông không đưa ra định nghĩa suông của đức tin mà là bằng chứng cụ thể kiểm nghiệm được. Ông trưng gương tổ phụ Abraham và Sara. Các ngài đã trông thấy hiện thực đức tin của mình trong người con tương lai là Isaac, rồi cả một dòng giống đông đúc cư ngụ trên đất hứa. Với cái nhìn này các ngài đã nghe theo lời Thiên Chúa, ra đi mà không biết mình đi đâu. Họ cư ngụ tại đất hứa như đất khách quê người, trông đợi một “thành trì có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng”.
Phụng vụ hôm nay đặt trước mắt tín hữu gương sáng đức tin của hai tổ phụ Abraham và Sara để trợ giúp tinh thần chúng ta trong những phút khó khăn. Đồng thời nhắc nhớ chúng ta liên tưởng đến những nhân chứng hiện tại: Cha mẹ, anh em, bạn bè, láng giềng tốt, nhất là cộng đồng giáo xứ và Hội Thánh toàn cầu. Họ cũng ra đi trong đức tin vào lời Thiên Chúa mà xây dựng xã hội tươi đẹp hơn. Cụ thể, họ xây dựng nơi cư trú cho những người vô gia cư, thăm viếng bệnh nhân già cả, mẹ goá con côi. Họ làm việc trong các đoàn thể giáo xứ, dạy giáo lý trẻ em người lớn, phục vụ ca đoàn nhà thờ. Hoặc xông pha ngoài xã hội, biểu tình chống chiến tranh, bất công, cứu giúp thiên tai bão lụt và trăm ngàn công việc khác. Dù lớn nhỏ công việc của họ đều thể hiện tiếng gọi nội tâm của Chúa Thánh Thần. Họ chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ bị áp bức bóc lột. Họ thuộc thành phần Giáo Hội nghèo trên thực tế chứ không phải giấy tờ, thông cáo. Hành trình của họ lấy Chúa làm mục tiêu và trách nhiệm đức tin đối với người xung quanh. Một thành viên tu hội đời sau nhiều năm lăn lộn với xã hội trần thế, đã tỏ lộ tâm tình: “Hy vọng khi thiên hạ nhìn thấy chúng tôi, hoàn toàn như họ, sẽ được khích lệ sống đời Kitô hữu nghiêm chỉnh hơn. Người ta sẽ chẳng biết chúng tôi và sẽ chẳng bao giờ biết. Nhưng sẽ cảm thấy rằng sống Phúc Âm không phải là việc khó”. Tuy nhiên xin tưởng tượng những lôi kéo, những cám dỗ họ phải đối mặt mỗi ngày khi “hiện thực” đức tin của mình. Mặc dù họ không diễn tả được như tác giả thơ Do Thái, nhưng họ nhìn về phía trước để thấy “thành trì được Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng”. Hình ảnh đẹp đẽ biết bao! Trong một thế giới chóng qua với bao nhiêu xáo trộn tác giả khuyên nhủ nhìn xa hơn để thấy thành trì được Thiên Chúa xây cất trên nền tảng vững chắc. Những ai đặt hy vọng vào đó sẽ không bao giờ lung lay đức tin và với tương lai huy hoàng trước mắt chúng ta vui mừng tiến bước về những điều “không trông thấy”.
Có lẽ thánh sử Luca cũng đã viết Tin Mừng hôm nay cho những tín hữu đang sống trong lo âu, căng thẳng: Một hôm, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em…” Giọng điệu giống như của người cha, người mẹ an ủi con thơ đang trong tình trạng sợ sệt vì bóng tối ban đêm. Ngài khích lệ chúng ta tin cậy vào Ngài hơn là tích trữ giàu sang, hoặc bất cứ thứ gì không có nền tảng bền vững trên cuộc đời dương thế này. Chúng ta có lạc quan quá không? Thế giới chung quanh toàn là những lo toan làm giàu vật chất. Các đại công ty, các xí nghiệp, các tiệm buôn, tổ hợp thương mại làm việc ngày đêm, quanh năm suốt tháng. Người ta lập kế hoạch công trình từ nhiều chục năm để làm giàu. Người tín hữu chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Có mộng mị lắm không? Xin thưa không đúng như vậy. Bởi lẽ chúng ta là một cộng đoàn, chúng ta không sống riêng lẻ, chúng ta liên kết với nhau trong mối dây bác ái. Do đó, những người giàu có phải giúp đỡ những kẻ đói nghèo, những nơi dư dật phải san sẻ cho nơi thiếu thốn. Mọi người được no đủ. Chỉ khi có ai đó ích kỷ, người khác mới chịu cảnh đói khổ. Thiên Chúa giúp đỡ những gia đình nghèo đói qua tay các nhà hảo tâm. Chúng ta làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng lòng rỗng rãi. Còn tính toán của các công ty, tổ hợp cuối cùng chỉ dẫn đến đổ nát và tiêu vong. Bởi nền tảng của họ không do Thiên Chúa xây dựng! Chúa sẽ trở lại, đó là bảo đảm vững chắc cho những kẻ tin kính, như ông chủ trở về sau tiệc cưới. Ở xứ Palestine thời xưa, người ta ăn cưới vào ban đêm, phỏng từ 6 - 11 giờ, khách tan từ 9 - 12 giờ. Đầy tớ phải đợi từ nửa đêm cho đến ba giờ sáng. Cho nên họ phải luôn tỉnh thức.
Giống như trong dụ ngôn, trước bàn thờ Thánh Thể chúng ta phải là những đầy tớ trung thành, mở cửa ngay khi Chúa ngự đến. Khi ấy sẽ được mời vào dự tiệc, nghỉ ngơi khỏi những công việc nặng nhọc và dựa mình lãnh nhận lương thực hằng sống. Chính Chúa Giêsu sẽ nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Máu thịt Ngài. Chung quanh bàn tiệc, chúng ta sẽ được xem thấy những đầy tớ khác của Chúa, tức anh chị em mình, cũng được nghỉ ngơi khỏi lao động đồng áng hay nhà máy, để chung lời ca khen Thiên Chúa. Bữa tiệc Thánh Thể là dấu chỉ vững chắc hạnh phúc thiên đàng khi những nhọc nhằn, vật lộn, cám dỗ của cuộc sống gian trần đã thành quá khứ. Nói cách khác Thánh Thể là bữa tiệc “hiện thực” những điều Chúa Giêsu hứa trong sứ vụ rao giảng của Ngài.
Tóm lại, các bài đọc hôm nay nghe như phụng vụ Mùa vọng. Chúng nhắc nhớ tín hữu kiên trì trong thử thách, nhẫn nại đợi chờ, hy vọng ngày Chúa trở lại. Nhưng xét cho cùng, tỉnh thức không phải là nhân đức bán thời gian, nó kéo dài suốt cuộc sống. Chúng ta phải tỉnh táo đợi chờ Thiên Chúa, không giây phút ngưng nghỉ, nản lòng, phải cố gắng phân định trách nhiệm đáp trả tiếng Ngài thúc giục trong nguyện cầu và phục vụ tha nhân. Chúa sẽ trở về gõ cửa vào những giây phút bất ngờ nhất và bằng đường lối khác thường nhất. Cho nên trong thánh lễ chúng ta xin Ngài ban cho một tinh thần nhạy cảm, không bao giờ ngủ mê trên tiền tài, sắc dục. Nhưng sẵn sàng đợi chờ Chúa viếng thăm bất cứ lúc nào Ngài thấy thuận tiện. Ước chi mọi tín hữu sẽ được Chúa rộng tay đón vào Nước Trời dự tiệc cưới muôn đời hạnh phúc. Amen.
-----------------------------------
[CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN NĂM C (12.08.2007)]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong đời sống đức tin có hai việc rất quan trọng mà người tín hữu lại dễ quên nhất: đó là tin tưởng: TN 19-C47
Trong đời sống đức tin có hai việc rất quan trọng mà người tín hữu lại dễ quên nhất: đó là tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và cảnh giác đề phòng trước những nguy cơ tai hại cho đời sống đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế mà Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước thường nhắc đi nhắc lại hai điều ấy. Chúng ta hãy mở tai, mở lòng, mở trí để đón nhận và nhớ cho thật kỹ, những lời nhắc nhở ân cần đầy yêu thương của Thiên Chúa và của Chúa Ki-tô Giê-su. Có thế chúng ta mới là những người khôn ngoan thật sự!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách Khôn Ngoan (Kn 18,6-9):
6 Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm. 7 Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù. 8 Quả vậy, Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương để làm cho chúng con được rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. 9 Con lành cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia. Và ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do cha ông truyền lại.
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Do Thái (Dt 11,1-2.8-19):
1 Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.
8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về.16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17 Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19 Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 12,32-48):
32"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. 33 "Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34 Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
35 "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. 36 Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37 Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38 Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. 39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?" 42 Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
47 "Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Kn 18,6-9) là trích đoạn của Sách Khôn Ngoan nhắc đến đêm cứu thoát, đêm mà toàn dân Ít-ra-en được Thiên Chúa cứu thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Nhận thức được ơn trọng đại của Thiên Chúa, con cái Ít-ra-en chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa và sống với nhau như những người anh em ruột thịt “có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia”.
Qua đoạn Sách Kn 18,6-9 trên chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng trung tín trong lời hứa và quyền năng trong hành động. Vậy thì tại sao chúng ta không tin tưởng, cậy trông và phó thác tất cả cho Ngài? Tại sao chúng ta không tán tụng, ngợi khen Thiên Chúa?
(2) Bài đọc 2 (Dt 11,1-2.8-19) là những lời trình bày của Thánh Phao-lô với những người Do Thái là đồng chủng và đồng hương của ngài về bài học lòng Tin của Tổ Phụ Áp-ra-ham và của Xa-ra, vợ ông. Nhờ lòng tin mạnh mẽ ấy của hai người mà Thiên Chúa thực hiện những điều kỳ diệu cho hai ông bà và cho dòng dõi của hai ông bà.
Trong đoạn thư gửi tín hữu Dt 1-2.8-19 trên chúng ta thấy Thiên Chúa không bao giờ nói xuông hay nói để đấy; Trái lại Thiên Chúa thực hiện lời Người nói và thực hiện trên mức mà con người có thể nghĩ ra. Điều ấy đúng trong trường hợp của Áp-ra-ham thì cũng đúng trong mọi trường hợp tương tự.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 12,32-48) là những lời căn dặn của Chúa Giê-su về sự tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và về sự cảnh giác trong cuộc sống. Tin tưởng phó thác để không bám víu, không tự cột chặt mình vào những thứ chóng qua và hư nát. Động lực để tin tưởng là Thiên Chúa đã ban Nước của Người cho chúng ta. Cảnh giác để lúc nào cũng sẵn sàng với Thiên Chúa, sẵn sàng trong giờ phút “gặp gỡ lịch sử” giữa Thiên Chúa và mỗi người. Động lực thúc đẩy ta cảnh giác là chắc chắn Chúa Ki-tô sẽ xuất hiện và Người xuất hiện đúng lúc người ra bất ngờ nhất!
Qua Bài Phúc Âm Lc 12,32-48 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng Công Minh Chính Đại. Nói cách bình dân là Chúa Giê-su rất fair-play, là Chúa Giê-su chơi rất đẹp với chúng ta. Chúa Giê-su nói rõ cho chúng ta biết về “đường đi nước bước” của Người. Chúa Giê-su cảnh báo là Người sẽ đến bất thình lình để chúng ta không bị bất ngờ nếu chúng ta coi trọng và lưu tâm đến lời dặn của Người. Chúa còn fair-play hơn nữa trong việc ban thưởng cho những người tỉnh thức: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ”.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được gói gọn trong hai lời này:
(1) “Anh em hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời" và
(2) "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Lời Chúa hôm nay mời tôi nhìn vào tâm hồn và cách sống của mình xem hằng ngày:
* tôi có sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời không?
* và tôi có luôn sống siêu thoát, khó nghèo và nhiệt thành, sốt sáng để nghênh đón Chúa Ki-tô không?
“Những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời” là những thứ có giá trị thật sự và lâu bền như tấm lòng và hành động hiếu thảo đối với Thiên Chúa; là tấm lòng và hành động yêu thương bác ái đối với tha nhân; là nếp sống trong sạch, thanh bần, hy sinh từ bỏ và dấn thân vì Nước Trời.
“Thắt lưng cho gọn” là sống siêu thoát (không vướng bận, không dính bén) đối với của cải, chức quyền, danh vọng, lạc thú trần gian.
“Thắp đèn cho sáng” là sống tỉnh thức, nhiệt thành, sốt sáng và sẵn sàng nghênh đón Chúa Ki-tô vào bất cứ thời điểm nào.
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã thương ban Nước Trời cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống tin cậy phó thác tuyệt đối vào Chúa để chúng con vững tin mà thực hiện những điều Chúa dậy.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 "Anh em hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”. Lạy Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Yêu Thương và Quyền Năng, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mời gọi chúng con sống cống hiến và cho đi. Xin Chúa ban cho chúng con một tâm hồn rộng mở và không đính bén của cải vật chất, chức quyền, danh vọng, lạc thú trần gian để chúng con sống như lời Chúa mời gọi.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Anh em hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể vũ trụ vạn vật, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã sắp đặt và ấn định các giá trị trong thế giới tạo dựng. Xin Chúa giúp chúng con hiểu thấu những gì có giá trị đích thực và trường cửu để chúng con tìm kiếm và tích lũy trong cuộc sống thường ngày của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”. Lạy Thiên Chúa là Đấng hành xử cách nhiệm mầu, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã báo trước và căn dặn chúng con là phải biết tỉnh thức và sẵn sàng nghênh đón Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống thanh thoát, đơn sơ và nhiệt thành sốt sáng để khi Chúa Ki-tô xuất hiện, chúng con được hạnh phúc nhập bàn tiệc thiên đình với Người trong Nước của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Fort Worth/Dallas (TX,USA) 31.07.2007.
-----------------------------------
- HÃY THỰC HÀNH BÁC ÁI TRONG KHIÊM TỐN NGUYỆN CẦU
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN C
(Lc 12,32-48)
Thưa quí vị,
Bài Tin Mừng hôm nay khá dài, gồm nhiều đoạn văn gom lại các lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, liên: TN 19-C48
Bài Tin Mừng hôm nay khá dài, gồm nhiều đoạn văn gom lại các lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, liên quan đến chủ đề tỉnh thức và trung tín. Cũng có bài ngắn từ câu 35 đến 40 về cùng một đề tài. Dĩ nhiên, không đầy đủ chi tiết như bài dài. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu đương nhiên là quí báu và hữu ích. Nếu chúng ta để tâm suy gẫm, chắc chắn sẽ sinh nhiều hoa trái trong linh hồn, và người khác cũng được hưởng nhờ. Nhưng sợ quí vị không đủ kiên nhẫn, nên tôi chọn phần ngắn.
Quả thực, giữa tháng Tám này mà giọng điệu Tin Mừng nghe như đầu Mùa Vọng hoặc giữa mùa Chay, vì những từ ngữ gợi nhớ việc tỉnh thức, canh tân, sửa sọan, thắp đèn cháy sáng, chuẩn bị đón tiếp ông chủ trở về… Liệu có mấy ai khi nghe đọc mà không tưởng mình đang ở giữa các mùa trên? Thực ra, Phụng vụ có nhiều mặt và mỗi mùa hội tụ vào một khía cạnh nào đó của cuộc sống tín hữu. Mùa Vọng mong chờ, hy vọng và khát khao. Mùa Chay sám hối, ăn năn, tha thứ. Tuy nhiên, không hẳn phải luôn như vậy. Chúng ta phải tỉnh thức, cầu nguyện, hãm mình, ăn chay, đền tội, thống hối, mong chờ ở mọi thời gian trong năm, chứ không riêng gì từng mùa. Chúng ta phải luôn dự phòng trước sự xâm nhập của vị “Đạo chích Thần linh” bất cứ lúc nào, chứ không riêng gì mùa Vọng. Chúng ta phải ý thức được tính “bấc ngờ” của cuộc đời như Phúc Am tuần trước, chứ mình không có quyền định đoạt thời điểm cho mọi biến cố. Điều chắc chắn là làm sao để đừng say sưa, chè chén khi Chúa đến.
Muốn có thái độ ấy thì suy nghĩ kỹ lời giáo huấn của Chúa hôm nay: “Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn, hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới sẽ gõ cửa là mở ngay.” Các thánh thường chỉ ra phương tiện hữu hiệu để có thái độ này là cầu nguyện. Nhưng đa phần tín hữu hiểu sai. Người ta tưởng rằng tổ chức lễ lậy, rước sách linh đình, đại hội nọ kia mới là cầu nguyện. Thực ra, nếu không có cầu nguyện riêng tư, chuẩn bị tâm hồn, sống thân mật với Chúa trước đã, thì những hoạt động như vậy chỉ là bề mặt, rỗng tuếch, mệt nhọc chứ chẳng hữu ích chi. Hội thánh thường chia cầu nguyện thành nhiều giai đọan, để duy trì được tính liên tục cầu nguyện như Chúa Giêsu dạy: Cầu nguyện phụng vụ, cố định như lễ qui, cầu nguyện tự do và tự phát do nhu cầu tâm linh, cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng tư. Mỗi loại cầu nguyện đều cần thiết và hữu ích, chúng hỗ tương cho nhau, chứ không bên trọng bên khinh. Ngòai ra, còn cầu nguyện tạ ơn, ngợi khen, xin ơn… nhiều vô kể. Điều quan trọng là phải có tâm hồn yêu mến. Trái tim các trẻ em dễ dàng nghiêng về tình yêu, cho nên luôn được cha mẹ quí chuộng, thứ tha và thương mến. Vậy thì điều chúng ta phải có là tình yêu và khiêm tốn trước tôn nhan Thiên Chúa. Người ta nói rằng, ở đâu có khiêm tốn và yêu thương thật, ở đấy có cộng đòan các thánh. Các cộng đòan tu trì cầu nguyện nhiều đấy nhưng chẳng phải là cộng đòan các thánh vì thiếu khiêm tốn và yêu thương chân thành, ngay chính.
Vậy thì muốn tỉnh thức, chúng ta phải biết cầu nguyện. Muốn cầu nguyện, chúng ta phải biết ăn chay, hãm mình, hy sinh, thực hành bác ái. Thiếu một yếu tố nào, đời sống thiêng liêng cũng bất thành, chỉ giả hình như Pharisêu ngày xưa. Nói cách tổng quát, có hai cách cầu nguyện quan trọng là chung và riêng; cầu nguyện công cộng, riêng tư. Cả hai đều cần thiết, nhưng riêng tư là linh hồn của công cộng. Không có riêng tư thì công cộng rỗng tuếch, chỉ là não bạt, thanh la phèng phèng vô nghĩa. Nhưng nếu đi song song, chúng trợ giúp lẫn nhau. Cả hai đều là hiệp thông với Thiên Chúa. Đấng nói với chúng ta qua Kinh Thánh và cộng đòan, chúng ta đáp trả lại bằng trái tim. Cầu nguyện cộng đòan như gia đình của Đức Kitô, Đấng chủ sự. Riêng tư là thành phần của gia đình đó, như con cái yêu mến cha mẹ, hiếu thảo và phụng thờ. Cho nên không thể thiếu yếu tố nào. Nội dung lời cầu nguyện thì vô kể không liệt kê hết được, tùy nhu cầu của linh hồn, Giáo hội và xã hội: ngợi khen, tạ ơn, van xin. Điều này thánh To-ma đã bàn kỹ trong Tổng luận Thần học của ông.
Nói thì quá dễ nhưng thực hành thì cả một vấn đề, thiếu sót phần này, thừa thải phần khác. Cho nên phải cầu xin Thánh Linh và tập tành cho được cầu nguyện nên. Lúc ấy mới có khả năng tỉnh thức thực sự. Chúa nói rõ với chúng ta điều này trong Tin Mừng hôm nay: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì con người sẽ đến.” Tuy nhiên, nếu chúng ta tỉnh thức thì phần thưởng quả là bội hậu: “Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”. Hơn thế nữa, Chúa còn thêm: “Hỡi đòan chiên bé nhỏ! Đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.” Vậy việc tỉnh thức cầu nguyện là quan trọng. Nhưng trong khi chúng ta vật lộn với những hòan cảnh khó khăn, làm sao chúng ta biết được Chúa trợ giúp mình. Bài đọc 2, trích thư gởi tín hữu Do Thái cho chúng ta câu trả lời: “Thưa anh em, đức tin là bảo đảm cho những điều chúng ta hy vọng, là chứng cớ cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám”. Vậy thì cầu nguyện, tỉnh thức cần có đức tin, không có đức tin chẳng thể cầu nguyện. Vì không tin Thiên Chúa, cầu nguyện với ai? Lá thư kêu mời chúng ta nhìn vào gương sáng của Cụ tổ Abraham. Cụ trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả trong hòan cảnh xem ra tuyệt vọng. Hai cụ đã già nua làm sao còn trông mong có con nối giòng? Vậy mà hại cụ vẫn tin tưởng, cậy trông. Cụ tổ Abraham chỉ dựa vào lời hứa và vào những gì lý lẽ của trí khôn chỉ bảo, tức quyền năng của Thiên Chúa, còn bền ngòai xem ra vô vọng. Ông có lý do mạnh mẽ để không thể tin cậy vào Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, lòng tin không nhượng bộ của ông khiến ông đứng vững. Ông có ngọn đèn đức tin soi dẫn qua mọi gian nan thử thách. Đó là đức tin mà Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Bằng những lời đầy an ủi này, xem ra Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn các Tông đồ, những người đang theo Ngài lên Giêrusalem với bao nhiêu thử thách. Chúng ta hôm nay, nhìn vào nhiễu nhương của cuộc sống và tự hỏi: làm sao đức tin của người tín hữu có thể đứng vững với ý kiến trái ngược nhau về luân lý, xã hội, kinh tế, chính trị? Quí vị lớn tuổi hẳn còn nhớ luận điệu mạt sát tư bản, ủng hộ chủ nghĩa xã hội, tưởng chừng như không còn lựa chọn nào khác. Vậy mà chỉ mấy chục năm sau, não trạng ấy đã thay đổi 180O: ủng hộ tư bản, tẩy chay chuyên chính độc quyền. Ai đúng, ai sai? Đó chỉ là một ví dụ nhỏ. Còn bao nhiêu vấn đề khác nặng nề hơn liên quan đến lương tâm, tội phúc, sức khỏe, tình yêu, phần rỗi? Làm sao kể cho hết những mối sợ hãi cá nhân, tập thể, giáo hội, gia đình? Cho nên, chúng ta phải tự mình quyết định, tự mình phấn đấu. Các luận điệu khác chỉ mang tính dối trá, lừa gạt.
May thay, Lời Chúa hôm nay, cho chúng ta phần an ủi: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Thì ra, chúng ta không phấn đấu một mình, đã có Chúa Giêsu trợ giúp, chỉ đạo. Bổn phận của mỗi người là lắng nghe tiếng Ngài, trong Kinh Thánh, lương tâm, trong lẽ phải. Kẻ viết bài này đã từng phải phấn đấu như vậy và đã từng bị hành xích rất nhiều từ những kẻ thừa quyền hợp pháp. Nhưng xin lắng nghe tiếng kêu gọi của Thầy chí thánh: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ” vì lẽ phải không bao giờ chết. Cho dù có bị trù dập như Chúa Giêsu thì cũng sẽ trổi dậy. Đúng vậy, Ngài là vị Mục tử nhân lành. Mặc dầu chúng ta có phải đi qua những thung lũng âm u, đầy tối tăm, sợ hãi, thì Ngài cũng hứa sẽ đem tới: “đồng cỏ xanh tươi, bên dòng suối trong lành” như thánh vịnh 23. Chúa Giêsu bảo đảm với môn đệ rằng: ân huệ Ngài ban vượt qua mọi kho tàng quí báu khác: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”.
Chắc chắn đó là một Tin mừng Ngài loan báo trước khi kêu gọi chúng ta từ bỏ tài sản vật chất, bán hết gia tài phân phát cho những người nghèo khó. Việc tiếp theo là phục vụ Chúa và hy vọng Ngài trở lại, dù việc trở lại không phải là nhanh chóng. Người môn đệ luôn cậy trông vào Thiên Chúa và cầm đèn cháy sáng trong tay. Tư thế đó, họ luôn sẵn sàng, chẳng phải bận tâm điều chi khác ngoài chu toàn ý Thiên Chúa.
Các môn đệ, cũng như chúng ta, cần lắng nghe lời Chúa Giêsu khuyên họ khi đang trên đường đi lên Giêrusalem, và chúng ta, trên con đường gồ ghề của thế gian. Chắc chắn, chúng ta sẽ gặp khó khăn, chống đối, thù ghét, bắt bớ. Lúc ấy, nếu không nhìn thẳng vào Lời Chúa mà tiến bước, chúng ta sẽ thay đổi lòng dạ, thay đổi ý kiến và sẽ chìm xuống biển cả như ông Phêrô thuở xưa. Sở dĩ, ông Phêrô chìm vì đã quay mặt nhìn sóng gió, thay vì nhìn vào chính Chúa. Đây là một kinh nghiệm để đời cho những người theo Chúa. Họ chú tâm vào thu tích của cải, tiện nghi. Trước sau rồi cũng sẽ sa ngã. Họ sẽ mất lòng tin vào Thần Khí Đức Kitô khi vướng mắc vào những lộn xộn của cuộc đời. Đó là lý do Chúa Giêsu khích lệ chúng ta bằng những lời dạy dỗ và với dụ ngôn ông chủ đi ăn cưới về. Môn đệ Chúa luôn phải cảnh giác, trung tín và tỉnh thức.
Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện khá gây ngạc nhiên. Đáng lý ông chủ phải ngồi vào bàn ăn và các đầy tớ phục dịch ông. Dầu sao ông vẫn là chủ, có quyền đòi hỏi như vậy. Nhưng Chúa kể ngược lại, chủ bảo đầy tớ ngồi ăn, còn ông hầu hạ? Nếu như ông chủ là Chúa Giêsu thì chúng ta chẳng còn phải sợ hãi chi, ông chủ chẳng giữ lại điều gì, kể cả quyền hành. Mà đúng như vậy, khi tới Giêrusalem, Chúa sẽ thí mạng sống cho nhân loại. Ngài bày tỏ tình yêu dịu dàng cho đến tận cùng. Cho nên lời an ủi của Ngài: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”, có cơ sở chân thật, chứ không phải bánh vẽ. Thiên Chúa Cha đã biết rõ những nhu cầu hàng ngày về thân xác và linh hồn mỗi người. Bổn phận chúng ta là kêu xin và tỏ lòng yêu mến, trông cậy, lệ thuộc vào Ngài.
Thiên Chúa xưa kia đã thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho tuyển dân Do Thái vì yêu thương. Ngày nay, Ngài không làm như vậy cho môn đệ Đức Kitô nữa sao? Ngài vẫn tự xưng là Mục tử tốt lành kia mà? Vậy cho dù những khốn khó của cuộc đời, cho dù những Giêrusalem khắp nơi, cho dù những chống đối, hận thù, bách hại, người tín hữu không có chi phải sợ: “Hỡi đàn chiên bé nhỏ, đừng sợ”. Điều phải chú ý là trong thánh lễ hôm nay, chúng ta chuyên tâm vào tỉnh thức và cầu nguyện, như con chim cú đi tìm mồi ban đêm. Chuyện kể rằng, một thày dòng to béo kia, muốn qua một con sông. Trưa hè, trời nắng, bến sông thưa người. Nhưng người lái đò vẫn nể lòng đưa thầy qua sông. Được một quãng, thầy hỏi: “Anh có biết tên đức vua của nước ta không?”, “Thưa thầy không”, anh lái đò trả lời, “nhà con nghèo, phải học chèo thuyền sớm, con chỉ biết đọc, biết viết và làm bốn con tính”. Thầy dòng thở dài than thở: “thế là anh bị thiệt mất phân nửa cuộc đời”. Được một lúc, buồn tình, thầy lại hỏi: “Anh có biết tính toán ngày tháng theo trăng sao không nhỉ?”. “Thưa thầy không, con chỉ biết Chúa dựng nên chúng và con hết lòng thờ phượng Ngài”. “Thế thì anh bị thiệt mất ba phần tư cuộc đời rồi”. Thuyền tới giữa dòng, sóng to gió lớn nổi lên, và lật chìm. Anh lái đò hỏi thầy dòng: “Thầy có biết bơi không?”. “Không, chưa bao giờ tôi học bơi cả!”. “Thế thì thầy phí uổng trọn cuộc đời rồi!”. Nghe xong, thầy dòng chìm xuống đáy sông. Anh lái đò bơi vào bờ một mình. Câu chuyện nhắc chúng ta phải biết lựa chọn những chi là căn bản và nghe theo lời khuyên của thánh Phao Lô: “Anh chị em chú tâm vào đấy là phải.” Xin Chúa cho chúng ta tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP.
-----------------------------------
Tin Mừng Chúa nhật thứ 19 thường niên, thánh Luca đã ghi ngay từ đầu, một trấn an: Đừng sợ: TN 19-C49
Tin Mừng Chúa nhật thứ 19 thường niên, thánh Luca đã ghi ngay từ đầu, một trấn an:
“Đừng sợ, hỡi chiên bày bé nhỏ, vì Cha đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.” ( Lc 12: 32 ).
Đó là chuyện xảy ra từ hơn hai ngàn năm trước. Nhưng vào thiên niên kỷ thứ ba hôm nay, có những vị chủ chăn không còn bé nhỏ ở quê nhà, nhưng vẫn biết sợ. Sợ ma? Sợ quỷ? Không rõ lắm. Nhưng, vị mục tử ấy đã trả lời phóng viên nước ngoài, khi được hỏi: ngài có kinh nghiệm gì không khi đấu tranh cho tự do tôn giáo ở nhà không? Thì cụ đã dũng cảm trả lời: “đó là sự sợ hãi.”
Về sợ hãi, chẳng riêng gì các chiên đàn bé nhỏ hay vị mục tử ở quê nhà, mới biết hoảng. Chừng như, nhiều đấng bậc trong “nhà Chúa” ở khắp nơi, cũng từng hoảng. Và từng sợ. Trong kinh thánh, khi được loan báo tin cao cả, rằng:
“Bà sẽ cưu Mang Đấng Cứu Độ loài người”, ( Lc 1: 30 ).
Đức Maria cũng đã rất sợ. Mẹ sợ đến độ thần sứ phải trấn an:
“Maria đừng sợ !” ( Lc 1: 30 ).
Phụ nữ như Mẹ, phải đối đầu với chuyện khủng khiếp cao cả, sợ là phải. Đằng này, đường đường một Đấng nam nhi như thánh Yu-se, vị phu quân nhân hiền của Mẹ, cũng hoảng hốt khi nghe tin vui “dấy động cả bầu trời” ấy, thánh cả đệ nhất nam nhân, cũng đã sợ. Và, thần sứ Chúa cũng phải khuyên:
“Hỡi Yuse, con của Đavít, chớ có sợ !” ( Mt 1: 20 ).
Giống như thánh cả, các thánh tông đồ mạnh dạn, cứng cỏi như các nhà lao động trên sông nước của Đức Chúa, cũng biết hãi. Chợt thấy bóng Vị Thầy Thân Yêu lại ngỡ là ma. Nên biết sợ. Khiến Thầy Nhân Hiền cũng phải trấn an:
“Anh em đừng sợ ! Chính Tôi đây.” ( Mt 14: 27 ).
Xem như thế, sợ là trạng thái thường tình xảy đến với nhiều vị. Nhiều người. Trạng huống này, có mặt cùng lúc với người đời và đời người, ngay khi xuất hiện trên đời, thời ban sơ. Và cứ thế, Sợ là đức tính kéo dài, đến hôm nay. Sợ là một trong các tình tự gắn liền với con người, từ lúc nào, không ai biết.
Nhưng, sợ là nghĩa lý làm sao ? Thực chất của sợ ra thế nào? Sợ có làm cho con người mất thứ gì không ? Thêm điều gì chăng ?
Sợ mang nhiều hình thái. Sợ có nhiều lý do. Hình thái và lý do đầu tiên có thể kể đến, là: sợ trước tiên là tình tự qua đó con người không muốn mất đi thứ gì: từ tình yêu, người thân đến tiền của, an bình lâu nay con người vẫn đang có. Sợ ở trạng thái này, là: sợ trộm, sợ cướp, sợ bệnh, sợ chết, vv. Sợ thế, là không muốn thiếu hụt, hoặc tỉa bỏ. Nhưng lại muốn có thêm. Thêm Phúc thêm Lộc, thêm sống đời tuổi Thọ, với dân gian.
Sợ, là trạng thái tâm linh của con người chẳng muốn thiếu. Dù chỉ thiếu thốn vật chất. Mất đi bản nhất Trời phú ban cho mình. Sợ thiếu vật chất là chuyện đã đành. Con người còn sợ thiếu thốn cả mặt tinh thần nữa. Đây mới là chuyện đáng ngại. Sợ ở đây là: sợ thiếu. Sợ mất. Có trường hợp không thiếu, không mất nhưng người người vẫn sợ. Sợ quá không muốn có thêm. Sợ vì không tin tưởng. Hoặc sợ vì vẫn chưa tin vào lời của người khác. Chưa tin, dù Lời ấy là từ một quyền năng/sức mạnh vượt trội trên mình. Nói tóm lại, sợ là tính chất của người không muốn sự thật nào đó diễn ra, trên thực tế.
Muốn diệt niềm hãi sợ này, chỉ có một cách duy nhất là tái tạo lại niềm tin. Bởi, một khi đã tin trở lại, nào ai có thể làm cho mình sợ sệt, được thêm nữa. Thử đảo mắt nhìn quanh, nhìn vào những giòng tâm sự trong Kinh thánh, ta cũng thấy ít nhiều về những nỗi hãi sợ vẫn diễn ra, từ ngàn trước. Chẳng hạn, những khẳng định của thời xưa:
- Trong thánh vịnh:
“Tôi tin tưởng vào Chúa và không còn hãi chi.” ( Tv 56 ).
“Tôi luôn vững lòng không sợ hãi và rốt cuộc coi khinh lũ địch thù.” ( Tv 112 ).
- Nơi sách Khôn ngoan:
“Lý do khiến Chúa nương tay, cũng không phải sợ hãi gì ai.” ( Kn 12 ).
“Dù chẳng có chi phải lo sợ, chúng cũng kinh hoàng vì sâu bọ đi hoang.” ( Kn 117 ).
- Và, ở sách Huấn ca:
”Nếu con lỡ nặng lời với bạn, đừng lo sợ; con có thể giải hòa.” ( Hc 22 ).
“Ai kính sợ Đức Chúa thì không sợ hãi gì” (Hc 34 )…
Và, với Thánh Kinh Tân Ước:
“Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc
thì đừng hãi sợ.
Vì những việc đó phải xảy ra,
nhưng chưa phải là chung cục.” ( Lc 21 ).
Và, nhất là:
“Thầy để lại bình an cho anh em, đừng xao xuyến, cũng đừng hãi sợ.” ( Yn 14 ).
Với những lời nhắn nhủ như thế, chắc hẳn người nghe đã thấy an tâm, ấm lòng. An tâm hơn, khi nhớ ra rằng: những gì mình không làm nổi, Thiên Chúa vẫn làm được. Không tin ư? Hãy theo dõi truyện tích thời vi tính dưới đây:
Nhiều người thời nay thường hỏi và vẫn hỏi: “Yêsu, Ngài là ai” ?
Và, đây là câu trả lời bắt gặp trên mạng:
Với ngành hóa chất, Ngài biến nước thành rượu.
Ở môi trường sinh học, Ngài sinh ra mà không phải tạo thành.
Nơi ngành vật lý, Ngài đả phá luật trọng lượng, khi về Trời.
Qua kinh bang tế thế, Ngài bác bỏ luật suy giảm lợi nhuận, khi bồi dưỡng những 5000 sinh linh con người chỉ bằng 2 con cá và 5 tấm bánh.
Bằng vào y học của riêng mình, Ngài chữa lành người đui kẻ què, chẳng cần gì thuốc.
Trong lịch sử, Ngài là Đầu hết và cũng là Cuối hết.
Về với thế quyền, Ngài là Ông Hoàng của hòa bình, chuyên tư vấn lời khuyên tuyệt diệu.
Tại nhà Đạo, Ngài cứ nhắn nhủ: không ai đến được với Cha mà không qua Ngài.
Ngài là thế đó. Yêsu Kitô, đích thực tên Ngài.
Chính vì vậy, hãy cùng nhau đến mà phủ phục, ngợi khen.
Bởi, nếu ở gần, không ai còn gì để sợ, nữa. Dù có mất mát, khó khăn. Dù đau khổ, hay buồn phiền, cứ nhớ rằng: Ngài là Đấng Ủi An. Bậc Vĩ Nhân của lịch sử loài người.
Xem tới đây, nếu người người vẫn còn sợ, thì cũng chỉ nên sợ kính, mỗi Đức Chúa Đấng Nhân Hiền rất mực, mà thôi. Phải thế không, hỡi bạn hữu khắp nơi ?
TRẦN NGỌC MƯỜI HAI, vẫn biết kính và biết sợ, như bao giờ
-----------------------------------
Một trong những chủ đề chính của Chúa Nhật hôm này là chủ đề về Ịức tin, tôi muốn chúng ta: TN 19-C50
Một trong những chủ đề chính của Chúa Nhật hôm này là chủ đề về Đức tin, tôi muốn chúng ta tập trung suy nghĩ về đề tài này.
Khi được rửa tội, chúng ta mang một danh hiệu mới rất đẹp đó là “người kitôhữu”, người tin vào Chúa Kitô, người theo Chúa Kitô. Chính vì thế khi bắt đầu nghi thức, giáo hội hỏi chúng ta là: chúng con xin gì, cha mẹ chúng ta thưa: Xin ơn Đức Tin.
Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo lý Công giáo có một đĩnh nghĩa rất vắn gọn: “Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình” (s. 26).
Quả thế, tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, một số tín điều..., nhưng tin chính là gắn bó, là gặp gỡ một Con Người, bước theo một Con Người, hiến mình cho một Con Người và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực, đâu là ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Con người đó có tên là Đức Giêsu Nazareth. Như thế tin là cuộc gặp gỡ, gắn bó với Đức Kitô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.
Những trở ngại của Đức tin
Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô đó trong bối cảnh của ngày hôm nay đang bị thử thách, đang gặp trở ngại. Trong cuốn The New World of Faith, Đức Hồng Y Every Dulles, một nhà thần học gia nỗi tiếng của nước Mỹ, nói tới ba trở ngại lớn: chủ nghĩa duy lịch sử, chủ nghĩa đa nguyên, và tâm thức thị trường tự do. Trước hết, chủ nghĩa duy lịch sử khiến cho con người không còn chấp nhận có chân lý nào là tuyệt đối, vì mọi sự đều thay đổi, kể cả những xác tín đã cắm rễ thật sâu, nay cũng bị đảo lộn, lật nhào. Kế đến, các phương tiến truyền thông cho phép người ta tiếp cận vô vàn những tư tưởng khác nhau, từ đó nghĩ rằng đức tin Kitô giáo cũng chỉ là một trong rất nhiều lựa chọn, do đó không mang tính tuyệt đối. Cuối cùng, thế giới hôm nay là thế giới của thị trường tự do. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình.
Sống trong một thế giới như thế tất cả chúng ta cũng đang bị cuốn hút vào cơn lốc và dòng chảy đó của cuộc sống. Đức tin của chúng ta như con thuyền bé nhỏ bấp bênh, bị đong đưa, trôi dạt bởi những làn sóng đó. Và thực tế đã có nhiều người đáng mất đức tin, con thuyền đã chìm vì không có định hướng.
Phải có một Đức Tin mang tính cá vị và tĩnh thức
Trước những thách đố mới đó, vậy đâu là sức mạnh để giúp chúng ta giữ vững đức tin? Đọc Tin mừng hôm nay, tôi tìm thấy câu trả lời cho vấn nạn đó. Đó là mỗi người chúng ta phải có một Đức Tin mang tính cá vị và tĩnh thức.
Trước hết, Đức Tin của chúng ta phải mang tính cá vị: có nghĩa là Đức Tin đó phải là một xác tín, là một chọn lựa riêng của mỗi người chúng ta. Như Abraham, được Chúa gọi ông lên đường, dù không biết mình sẽ đi về đâu, nhưng Ông vẫn xác tín và tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Cuộc sống ngày hôm này có bao nhiêu lối rẽ, bao bóng mát cuộc đời, bao cám dỗ mời mọc hấp dẫn, nhưng tôi xin chọn “Chúa là gia nghiệp của riêng mình” (Tv 32, 12b). Và tôi xác tín rằng chỉ có Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa của cuộc sống, ơn cứu độ, nước trời, sự sống đời đời như Chúa đã hứa (bài đọc II và bài Tin mừng). Với xác tín cá vị đó, dù môi trường, hoàn cảnh có thay đổi, dù thấy những mời mọc khác, nhưng tôi vẫn trung kiên theo Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, và chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước những thác đố mới của cuộc sống hôm nay.
Thứ đến, sống đức tin hôm nay, chúng ta cần phải tĩnh thức: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn sáng trong tay..., Các con hãy sẵn sàng vì giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Tĩnh thức có nghĩa là không có ngủ. Và nếu mắt có ngủ nhưng lòng vẫn thức. Theo một nghĩa tinh thần, tĩnh thức có nghĩa là nhạy bén nhận ra các giá trị và lời mời gọi của tin mừng, và nhận ra những nguy cơ và nguy hiểm của đức tin, nhận ra những điều nghịch với tin mừng.
Nhưng bản tín của Adong trong chúng ta, nhiều lúc chúng ta thích ngủ hơn là thức. Hơn thế nữa ngày hôm nay có những cám dỗ và lối sống rất ư ngọt ngào, êm ái như nệm mút vậy, thức làm gì cho nó mệt! Dại gì mà thức, mình hưởng tí chứ rồi mình đi xưng tội có sao đâu! Đấy, chúng ta vẫn cứ lý luận theo kiểu của nhưng đầy tớ bất tín trong Tin mừng... Phải chỗi dậy thôi, phải tĩnh thức thôi để biết mình là (to be, être), nhận ra mình đang ở đâu. Phải tĩnh thức để nhận ra những nguy cơ đang làm tổn hại tới Đức tin và đời sống của mình.
Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sống gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một Đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tĩnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho ngọn đèn Đức tin của chúng con luôn cháy sáng, luôn chờ đợi sự trở về của Chúa để cùng với Chúa vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen!
Lm. Phêrô Nguyễn Hương
-----------------------------------