Bùi-Tuần 1701: Một dịp để nhìn về Hội Thánh Việt Nam hôm nay
Sắp đến lễ Quốc Khánh (02/9/2006). Sau đó hai ngày là Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám Bùi-Tuần 1701
Sắp đến lễ Quốc Khánh (02/9/2006). Sau đó hai ngày là Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ diễn ra tại Huế, từ ngày 04 đến 08 tháng 9, 2006. Những dịp trọng đại này đã kéo lòng trí tôi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam. Một Hội Thánh được lãnh đạo bởi Hội đồng Giám mục. Một Hội Thánh đang sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc. Cái nhìn của tôi sẽ rất hạn chế. Chỉ xin nêu lên vài nét chung, gợi ý chút ít về hình ảnh Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Một Hội Thánh phát triển rất mạnh về xây dựng và tổ chức Xây dựng những cơ sở mới, trùng tu những cơ sở cũ, đó là một trong những yếu tố làm cho Hội Thánh Việt Nam mang một bộ mặt mới. Thực ra, nhu cầu nói chung là chính đáng. Nhưng không thiếu người lại xem đó là dấu chỉ của một Hội Thánh giàu, hoặc phí phạm. Thiết tưởng, đánh giá như thế là không đúng sự thực. Bởi vì không phải tất cả Hội Thánh Việt Nam hôm nay đâu đâu đều như thế cả. Hơn nữa, những người chủ trương làm đẹp Hội Thánh bằng việc xây dựng những cơ sở đẹp, thường cũng nhắm vào mục đích phục vụ lợi ích chung, hoặc cho nhu cầu hiện tại, hoặc cho nhu cầu tương lai. Dầu sao, việc phát triển Hội Thánh bằng xây dựng những cơ sở vật chất đòi rất nhiều cân nhắc. Nên làm và nhiều trường hợp phải làm. Nhưng luôn cần được hướng dẫn bởi Phúc Âm và những người chuyên môn. Cùng với việc phát triển cơ sở tôn giáo bằng cách nâng cấp theo đòi hỏi hiện-đại-hóa, Hội Thánh Việt Nam cũng đang phát triển về mặt tổ chức. Trong lãnh vực này, việc tổ chức các chương trình từ thiện xã hội và lễ lạy là một điểm nóng. Nhiều lễ lạy được tổ chức rất long trọng và sốt sắng. Nhưng nhiều lễ lạy lại được pha trộn một phần tinh thần và hình thức lễ hội. Bầu khí tĩnh lặng, nơi chốn hồi tâm, điều kiện thuận lợi để con người hiện diện trước Chúa, những giúp đỡ để lắng nghe Chúa và đón nhận ơn Chúa, đó là những giá trị thiêng liêng, mà nhiều người kiếm tìm trong thánh lễ, nhưng không luôn tìm được. Mà nếu chính họ không tìm, thì đáng lẽ ra, thánh lễ phải được thực hiện thế nào, để có sức cải hóa con người hôm nay đang bị lôi kéo rất mạnh về những khát vọng thế tục. Những thực tế nhiều khi lại khác. Các thứ tổ chức phát sinh hiện nay khá nhiều, nhưng không thay thế được thánh lễ và bác ái. Trên đây là lãnh vực phát triển cơ sở và tổ chức. Cùng với phát triển đó, có một phát triển khác cũng rất đáng để ý. Ðó là phát triển trong lãnh vực nhân sự. Một Hội Thánh phát triển khá mạnh về nhân sự Nhân sự trước hết được hiểu rộng về mọi thành phần Hội Thánh. Rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người lớn xin chịu phép rửa có tăng. Nơi tăng ít, nơi tăng nhiều. Cũng rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người trước đây bỏ đạo nay trở lại cũng đã tăng nhiều. Càng rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người xin vào chủng viện và các dòng cũng tăng đáng kể. Càng rất mừng là số các linh mục trẻ và giám mục trẻ cũng tăng. Riêng các linh mục trẻ mỗi năm mỗi tràn ra hầu khắp các giáo điểm, từ thành thị tới thôn quê, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên số linh mục cần có vẫn chưa đủ. Rất mừng là số giáo dân tham gia việc chung Hội Thánh luôn tăng. Trong xã hội Việt Nam hôm nay, nhân sự của Hội Thánh phải rất tỉnh táo trong bổn phận làm chứng mình thuộc về Hội Thánh. Theo tôi, thì cách tốt nhất để thuộc về Hội Thánh là một sự hiện diện có tính cách làm chứng cho các giá trị căn bản của đạo làm người, đạo làm người Việt Nam, và lòng tin mến Chúa trên hết mọi sự. Một sự hiện diện làm chứng như thế đang được áp dụng tốt tại Việt Nam hôm nay. Nhưng, không vì thế mà chúng ta chủ quan cho rằng: Mọi sự trong hiện tại và tương lai đang và sẽ trôi chảy tốt đẹp như ta mong muốn. Hiện tại cũng có một số bỏ đạo đấy. Số người chểnh mảng và giữ đạo kiểu hình thức xem ra cũng không phải ít đâu. Theo tôi, trong tương lai cũng sẽ có những chuyển biến và những bất ngờ như trong dĩ vãng. Hiện thời, xã hội đang chuyển mình. Tâm lý con người cũng đang chuyển biến theo một bậc thang giá trị khác xưa. Trong Hội Thánh toàn cầu, nhiều nơi, đạo công giáo đang trở nên tốt hơn, nhưng nhiều nơi đang biến chất một cách thê thảm. Giữa dòng chảy mãnh liệt đó, nhân sự Hội Thánh Việt Nam sẽ ứng phó thế nào? Liệu có đủ mạnh để làm chứng cho đời sống người môn đệ Chúa phải: “Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa” không? (Mt 16,24). Phải nói thật là: Xã hội hôm nay khuyến khích hưởng thụ. Hưởng thụ đang đi vào nếp sống người có đạo, cả đến đời sống tu trì. Ta có đủ sức và dám bơi ngược dòng văn hoá hưởng thụ không? Người tu có thực sự nêu gương khó nghèo, cầu nguyện và dấn thân không? Vì thế mà việc đào tạo đang trở thành khẩn thiết hơn bao giờ hết. Nói đến đào tạo, tôi liên tưởng tới những ơn cần cho một Hội Thánh địa phương, đó là những đặc sủng khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban cho những nhân sự khác nhau. Một Hội Thánh phát triển không rõ lắm về các đặc sủng Về vấn đề đặc sủng, chúng ta nên dựa vào lời giảng của thánh Phaolô. Ngài viết: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí... Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi khác, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy. Người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin. Kẻ thì cũng được Thần Khí ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ. Người thì được ơn nói tiên tri. Kẻ thì được ơn phân định thần khí, kẻ khác thì được ơn nói tiếng lạ, kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12,4-10). Ðọc kỹ các đặc sủng, mà thánh Phaolô vừa kể, rồi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay, tôi xin thú nhận rằng: Tôi khó nhận ra từng đặc sủng đó nơi những cá nhân thường. Nên tôi có cảm tưởng: Có lẽ tất cả các vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đều có đủ các đặc sủng đó, không nhiều thì ít. Nếu đúng thế, thì sẽ rất nặng cho các ngài biết bao. Gánh nặng đó là một vinh dự cao cả. Dù sao, đây cũng là một hy vọng lớn mà dân Chúa đặt vào Hội đồng Giám mục Việt Nam nói chung và từng vị Giám mục nói riêng. *** Chia sẻ trên đây của tôi là cái nhìn chủ quan của riêng tôi. Thực tế khách quan có thể khác. Dầu sao, đây cũng là một chút gợi ý của một người con Hội Thánh đã trải qua nhiều chuyển biến của lịch sử Ðất Nước và Hội Thánh. Những chuyển biến mang rất nhiều hy vọng và cũng rất nhiều lo âu. Nhưng trong mọi chuyển biến, Hội Thánh Việt Nam ta vốn giữ trọn được lòng trung tín, nhờ ơn Chúa giàu lòng xót thương. Long Xuyên, ngày 14 tháng 8 năm 2006
Chấn hưng đạo đức là vấn đề đã được Ðạo Ðời nhắc đi nhắc lại từ lâu. Nhưng từ mấy tháng nay Bùi-Tuần 1702
Chấn hưng đạo đức là vấn đề đã được Ðạo Ðời nhắc đi nhắc lại từ lâu. Nhưng từ mấy tháng nay, vấn đề đã trở nên nóng bỏng. Một trong những lý do là vì đạo đức đang xuống dốc mạnh, ở nhiều cá nhân, gia đình, cộng đoàn, cơ chế. Hiện tượng suy đạo đức đang làm nhức nhối nhiều lương tâm. Vì thế vấn đề chấn hưng đạo đức đang được nhiều thiện chí hưởng ứng sôi nổi. Nhưng, khi bắt tay vào công việc cụ thể, xem ra ai cũng cảm thấy lãnh vực đạo đức là mênh mông, chẳng biết việc chấn hưng đạo đức phải bắt đầu từ đâu? Nhiều ý kiến lắm. Ở đây, tôi xin nêu lên một gợi ý. Gợi ý này rất đơn sơ. Nó dựa trên nền tảng chắc chắn. Nền tảng đó là Kinh Thánh. Muốn vắn tắt rõ ràng, chúng ta nên đọc thư của thánh Gioan tông đồ.
1/ Hãy bắt đầu bằng việc nhận biết mình tội lỗi nên phải sám hối Khi bàn đến việc chấn hưng đạo đức, rất nhiều người thích vào đề bằng những lời phiền trách, phê bình, kết án đối tượng nọ đối tượng kia. Còn Kinh Thánh nói chung và thánh Gioan tông đồ nói riêng, thì vào đề bằng gợi ý: Mỗi người nên bắt đầu từ chính bản thân mình. Bởi vì chẳng ai vô tội, chẳng ai là hoàn toàn đạo đức. Thánh Gioan viết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình. Và sự thực không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Liền sau đó, thánh Gioan còn nói mạnh hơn. “Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Chúa là kẻ nói dối, và lời của Chúa không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,10). Cùng với việc nhận mình tội lỗi, thánh Gioan khuyên chúng ta làm ngay một việc khác. Việc đó là sám hối, xin Chúa tha tội. “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Ðấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta khỏi mọi điều bất chính” (1 Ga 1,9). Nhìn nhận bản thân mình tội lỗi và sám hối xin Chúa tha tội: Ðó là một khởi đầu tốt trên con đường chấn hưng đạo đức. Ðể rõ hơn nữa, thánh Gioan trình bày thế nào là tội. Theo Ngài, tội là nói mình biết Chúa mà không tuân giữ các điều Chúa dạy. Nói mình ở lại trong Chúa, mà không đi trên con đường Ðức Kitô đã đi (x. 1 Ga 2,3-7).
2/ Quyết tâm cách riêng sống bác ái hơn Nói thế kể như khá rõ ràng. Nhưng thánh Gioan còn muốn dạy ta cụ thể hơn nữa, để ta đi sâu vào việc chấn hưng đạo đức. Theo Ngài, đi sâu vào việc chấn hưng đạo đức, là đi sâu vào bác ái. Ngài viết: “Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau. Kẻ không yêu thương, thì ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì. Ðó là Ðức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian, và thấy anh em mình lâm cảnh túng nghèo, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được. Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,14-18). “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1 Ga 4,20). Ðến đây, chúng ta có thể thấy được phần nào chiều sâu của việc chấn hưng đạo đức. Chiều sâu này cũng là chiều rộng của việc canh tân đời sống đạo. Thực tế cho thấy cuộc sống đạo hôm nay nhiều nơi đề cao việc thờ phượng Chúa bằng những tuyên xưng đức tin dưới nhiều hình thức, nhưng lại coi nhẹ việc thực thi bác ái đối với con người và Ðất Nước. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa ích kỷ, chủ nghĩa tự do phóng khoáng, chủ nghĩa trục lợi, chủ nghĩa tục hoá đang gây ra nhiều nguy cơ biến chất đạo làm người, huống hồ đạo làm con Chúa. Nguy cơ lớn nhất là nhiều ghen ghét, nghi kỵ, nói hành, bỏ vạ, phá hoại nhau lại được bình thường hoá, hoặc được tôn vinh như những việc lành, dưới chiêu bài “làm sáng danh Chúa các đạo binh”. Thời sự hằng ngày hiện nay cho thấy động cơ tôn giáo trong các cuộc chiến và tranh chấp gay gắt có thể luôn bùng lên những cuộc thù hận dữ dội lâu dài. Ðó là những sự kiện có thật, nhiều khi được khuyến khích bởi các người xấu, mà thánh Gioan gọi là các kẻ phản Kitô.
3/ Ðừng tin những kẻ phản Kitô Ðừng tin những kẻ phản Kitô cũng là một việc cần để ý trong chương trình chấn hưng đạo đức. Về điểm này, thánh Gioan viết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đây là giờ cuối cùng. Anh em đã nghe biết là tên phản Kitô sẽ đến. Thế mà giờ đây nhiều tên phản Kitô đã xuất hiện. (...) Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta...” (1 Ga 2,18-19). Ðặc điểm của những kẻ phản Kitô là gieo rắc gian dối, hận thù, ghen ghét và các thứ tội nghịch đức bác ái. Xếp ai vào loại phản Kitô là việc rất tế nhị. Thiết tưởng việc tế nhị này nên dành cho những vị có thẩm quyền. Còn chúng ta, việc nên làm và có thể làm là tránh những người xấu. Nhất là những người chuyên phản bác ái Phúc Âm và xuyên tạc sự thực. *** Mới rồi, Ðức Thánh Cha đã công bố thông điệp: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiết tưởng đây cũng là một tài liệu nhắm vào việc chấn hưng đạo đức.
Ðề tài này cũng trích từ thư của thánh Gioan tông đồ (1 Ga 4,8). Nó mang tính cách thời sự. Thiên Chúa là tình yêu. Mỗi người công giáo chúng ta hãy sống chân lý đó và làm chứng cho chân lý đó. Ðược như vậy, chúng ta sẽ góp phần không nhỏ vào việc chấn hưng đạo đức giữa thế giới hôm nay. Niềm vui lớn Chúa dành cho ta là chính bản thân ta sẽ được Chúa đổi mới trong tình Chúa xót thương vô vàn. Long Xuyên, ngày 20 tháng 8 năm 2006
Tại Việt Nam hôm nay, lễ Quốc Khánh vẫn là lễ thuần tuý chính trị, với rừng cờ đỏ, với từng Bùi-Tuần 1703
Tại Việt Nam hôm nay, lễ Quốc Khánh vẫn là lễ thuần tuý chính trị, với rừng cờ đỏ, với từng ngàn con số về ngày tháng năm chiến thắng, với từng trăm cung bậc nghi thức và thành tích trong những biểu dương hào hùng. Cùng với những yếu tố chính trị đó, tôi thấy xuất hiện một yếu tố khác. Yếu tố này trước đây vốn có, nhưng nay mạnh hơn trước. Ðây là yếu tố nặng về tâm linh. Ðó là hiện tượng cầu nguyện. Thực vậy, hiện tượng cầu nguyện phát sinh từ lâu trong ngày Quốc Khánh. Nhưng nay, cầu nguyện trở thành một việc linh thiêng phát triển đều khắp trong ngày lễ chính trị này. Ngày Quốc Khánh, người ta cầu nguyện khắp nơi: Trong các nhà thờ, chùa chiền, thánh thất, nghĩa trang, nhà hội, nhà tư. Mỗi người, mỗi nhóm cầu nguyện với những hình thức và tâm trạng khác nhau. Năm nay, ngày Quốc Khánh, tôi cầu nguyện hơn những năm trước. Nội dung lời cầu của tôi có một phần dính vào thời sự của Ðất Nước. Vì thế, tôi thiết nghĩ việc chia sẻ nội dung đó cũng có thể được coi như một góp phần vào lợi ích chung. Nội dung này được diễn tả vắn gọn trong ba việc: Tạ ơn, Tạ lỗi, Tạ từ. Trước hết xin trình bày việc tạ ơn. Tạ ơn Ðiều mà tôi để ý nhiều hơn cả trong việc tạ ơn Chúa ngày Quốc Khánh, không phải chỉ là sự kiện tuyên bố độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1945. Thú thực là như thế. Ðiều làm tôi hứng thú nhất chính là biến cố ngày đó đã trở thành điểm xuất phát cho một cuộc xuất hành không ngơi nghỉ đối với rất nhiều đồng bào. Nền độc lập chỉ là một bến bờ của dòng lịch sử. Nếu coi đó là đích điểm, để an hưởng, an vui, an toạ, thì sẽ lùi. Nhưng nếu coi đó là một cái mốc lịch sử, để xuất hành tiếp tục và liên tục, thì sẽ tiến. Dòng lịch sử cũng ví như dòng sông địa lý. Có nước đục, có nước trong. Nông sâu tuỳ mùa. Rộng hẹp tuỳ khúc. Ai xuất hành trên dòng sông địa lý, thì phải khôn khéo. Dù trong hoàn cảnh nào, cũng phải phấn đấu tiến về phía trước. Nay nhìn vào dòng lịch sử của Ðất Nước, tôi có lý do để mừng. Một là vì nhiều người vẫn xuất hành, chứ không tự mãn tự phụ dừng lại một chỗ. Hai là vì họ luôn xuất hành theo đúng hướng, luôn tìm công ích, theo một trật tự có những chọn lựa đúng. Ba là vì họ luôn dùng những phương tiện tốt. Không đưa mục đích tốt ra để biện minh cho phương tiện xấu. Cái nhìn trên đây khiến tôi tạ ơn Chúa. Tuy nhiên, bên cạnh những xuất hành đáng khen ngợi đó, tôi không tránh khỏi những cái nhìn đáng buồn. Phải tạ lỗi. Tạ lỗi Nhìn vào quá khứ và hiện tại, nhiều người không khỏi ngạc nhiên thấy một ít nơi từ ngày đó đến giờ vẫn mãi như xưa. Có thay đổi về nhiều cái bề ngoài, nhưng cái quan trọng nhất là lãnh vực tư tưởng thì vẫn nghèo, vẫn bệnh hoạn. Nói chung, đó là dòng tư tưởng không xuất hành. Nó không vào được những tương quan mới của thực tế dòng lịch sử. Nhất là không có sáng tạo suy tư, để suy tư sáng tạo biến thành hành động mới có sức đổi mới cuộc đời. Thế mà lại tự mãn. Ðó là điều rất đáng buồn. Tuy nhiên, người ta cũng thấy có nhiều xuất hành mới. Nhưng chẳng may xuất hành lại sai hướng, do động cơ khởi hành xấu. Kinh Thánh gọi những động cơ xấu đó là thế gian, xác thịt và ma quỷ. Vì thế, nhiều xuất hành đã dẫn tới những điểm hẹn tội lỗi. Phúc Âm giúp ta hiểu rõ điều đó, khi gẫm suy sự xuất hành của người con phung phá. Cậu ta đòi có tự do, độc lập. Cha cậu cho cậu như cậu muốn. Nhưng khi được tự do độc lập, cậu ấy xuất hành “trẩy đi phương xa. Ở đó cậu sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (Lc 15,13). Thực tế hôm nay của Ðất Nước tuy tương đối tốt, nhưng không phải là không có gì cần phải cương quyết sửa. Có những điều từng cá nhân phải sửa. Có những điều chung cả một cộng đoàn phải sửa. Có những điều toàn thể cơ chế phải sửa. Sửa sai là một xuất hành đòi sáng suốt, khiêm tốn và can đảm kiên trì. Nếu ít ra chúng ta sám hối chung cùng với tất cả mọi người trên quê hương ta về những thiếu sót mà mỗi người có phần trách nhiệm, thì việc lành tạ tội sẽ kéo được ơn đổi mới từ Trời xuống cho cuộc sống hôm nay và mai sau. Ở đây, tôi lại nghĩ xa tới đời sau của những người đã hy sinh cho nền độc lập. Vì thế, trong lời cầu ngày Quốc Khánh của tôi có một phần nội dung về tạ từ. Tạ từ Tạ từ của tôi hôm nay là tạ ơn và từ biệt những người đã góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập Ðất Nước. Dù họ là ai, dù ở đâu, dù ở phía nào, nhưng một khi hy sinh cho việc xây dựng và bảo vệ Quê Hương Việt Nam này, thì họ đã xuất hành cho một tiếng gọi linh thiêng tha thiết. Con đường dẫn đến độc lập đã bắt đầu từ rất xa. Chặng nào cũng đầy gian khổ và tình yêu nước của biết bao người tốt, người hùng. Họ đã sống khổ và chết khổ vì lý tưởng đạo đức. Tạ từ họ là nhìn về họ trong cõi đời sau. Cõi đời sau không hoàn toàn tách biệt khỏi cõi đời này. Nên cầu xin cho họ cũng là cầu xin cho ta. Ðể họ và ta cùng biết xuất hành trên một con đường dẫn về những giá trị thiêng liêng cao cả. Họ mất tất cả, chỉ trừ sự gì họ đã cho đi vì tình yêu trung tín. Tôi nghe sự thinh lặng của họ dưới lòng đất. Sự thinh lặng đó vẫn là một cảnh báo và là một lời cầu. Ðể cho những ai còn sống tránh được nguy cơ về tình trạng lương tâm chết. Ðể trên đường phát triển, mọi lương tâm trên đất nước này vẫn giữ được vẻ trong sáng, biết cùng nhau xây dựng những con người đạo đức và trung thành với văn hoá tâm linh Việt Nam. *** Nội dung lời cầu trên đây của tôi ngày Quốc Khánh phản ánh một cảm nghiệm nội tâm nhờ đức tin. Cảm nghiệm này khát tìm một tâm tình hiếu thảo thầm lặng được trải rộng ra trong các tương quan. Mong rằng lễ Quốc Khánh năm nay sẽ trở thành một cuộc xuất hành mới hướng về những điểm hẹn vừa gần gũi mà cũng vừa cao thượng, vừa hữu hình mà cũng vừa vô hình linh thiêng vĩnh cửu. Ðó là hy vọng tha thiết của tôi, một kẻ tội lỗi đang xuất hành đi về một điểm hẹn, không dừng lại Quốc Khánh, mà là tới mãi Thiên Quốc, với niềm tin ở lòng thương xót Chúa. Long Xuyên, ngày 25 tháng 8 năm 2006
Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 1572 cuối tháng 8 vừa qua đã loan một tin vui. Tin vui đó Bùi-Tuần 1704
Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 1572 cuối tháng 8 vừa qua đã loan một tin vui. Tin vui đó là: “Hồ sơ phong thánh cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I sẽ được đệ trình tại Toà Thánh”. Nhiều người công giáo Việt Nam khi đọc tin này, đã rất xúc động. Bởi vì Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I đã gây một ấn tượng khó quên, khi Ngài được bầu chọn (26-8-1978) và nhất là khi Ngài từ trần (28-9-1978). Hồi đó Hội Thánh Việt Nam đang sống những năm đầu của chế độ mới. Vì thế, cái chết của Ngài là đề tài để tôi suy niệm. Tôi coi đó là một lời Chúa nhắn gởi tôi, để tôi biết làm mục vụ trong hoàn cảnh mới. Qua 28 năm, tôi vẫn đi trên con đường, mà cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I, đã thầm vạch ra cho tôi. Ðể gọi là một chút tỏ lòng biết ơn Ngài, hôm nay tôi xin được chia sẻ bài giảng của tôi, trong lễ cầu cho Ngài nay đã thuộc về quá khứ khá xa xôi. Những điều tôi nói hôm ấy xem ra vẫn cón giá trị cho mục vụ hôm nay. Dưới đây, xin ghi lại nguyên văn: Cái chết bất ngờ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I đã gây bàng hoàng trên khắp thế giới. Cái chết quá sớm và quá đột ngột của Ngài đã làm xúc động Giáo Hội toàn cầu hơn mọi bài diễn văn, hơn mọi thông điệp của các Ðức Giáo Hoàng. Người ta có thể nhìn cái chết đó theo những quan điểm khác nhau. Còn tôi, theo quan điểm mục vụ, tôi nhìn cái chết đó, như một dấu chỉ quan trọng của thời đại. Nghĩa là chúng ta có thể coi cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I như một dấu chỉ, mà Chúa muốn dùng để nhắn bảo chúng ta một hướng đi cần thiết cho đời sống đạo thời nay. Dấu chỉ thứ nhất trong cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolô, là lời mời gọi ta sống phó thác Ðức Thánh Cha là người được coi như sống đầy đủ tất cả, nhưng đã chết thiếu tất cả. Ngài ra đi nghèo nàn. Bởi vì Ngài đã chết không được ai cấp cứu, không được một chút thuốc men. Ðó là một cái chết nghèo nàn tức tưởi. Ngài ra đi nghèo nàn. Bởi vì Ngài đã chết không được một ai từ biệt, và chính Ngài cũng không nói được với ai một lời trăn trối. Ðó là một cái chết cô đơn bi đát. Ngài ra đi nghèo nàn. Bởi vì Ngài đã chết không được chịu phép Xức Dầu, không được xưng tội lần cuối, không được rước Mình Thánh Chúa như của ăn đàng. Ðối với người có đạo, đó là một cái chết nghèo nàn thê thảm. Ngài ra đi nghèo nàn. Bởi vì Ngài đã chết chưa kịp làm gì đáng kể. Bao hy vọng vừa nhen nhúm đã bị tắt đi. Bao dự định còn đang suy tính đã bị dập vùi. Ðối với lịch sử, thì triều đại Gioan Phaolô I là một sự nghèo nàn rất đáng tiếc. Nhưng chính sự ra đi nghèo nàn như thế của Ðức Thánh Cha lại là dấu chỉ một sự nghèo nàn mà nhiều người đang rơi vào và sẽ rơi vào. Nếu có cuộc đời nào nghèo nàn đến nỗi không sao gặp được bí tích, hay dù có gặp được, thì cũng hãy nhìn vào cái chết của Ðức Giáo Hoàng để nhớ rằng: Sau cùng, chỉ có niềm tin mến và phó thác nơi tình thương Chúa mới là hành trang cần thiết nhất. Rồi nếu có cuộc đời nào nghèo nàn, đến nỗi không còn ai để hy vọng, hay dù vẫn có người để hy vọng, thì cũng hãy nhìn vào cái chết của Ðức Gioan Phaolô I, để nhớ rằng: Sau cùng, Chúa vẫn là nơi nương tựa cần thiết nhất, người ta phải bám chặt lấy với lòng phó thác. Dù giữa trăm triệu bạn bè, người ta vẫn có thể cô đơn trơ trụi, nhưng trong trơ trụi bao giờ cũng có thể tìm được Chúa. Rồi nếu có cuộc đời nào được bảo đảm tối đa, đến nỗi xem ra không thể nào bị ngã xuống đất bất ngờ, thì cũng hãy nhìn vào cái chết của Ðức Gioan Phaolô I, để nhớ rằng: Con người vốn mong manh, kiếp người vốn vắn vỏi, thân phận con người vốn nghèo nàn. Bảo đảm nào cũng chỉ là tương đối. Bởi vì bất cứ ai cũng có thể trở nên nghèo nàn trơ trụi một cách dễ dàng đột ngột trong mọi phương diện. Như thế, sự ra đi nghèo nàn của Ðức Thánh Cha vừa là sự chia sẻ với những kẻ chết nghèo, vừa là dấu chỉ hướng đi khó nghèo phó thác, nhắn gởi con người hôm nay. Dấu chỉ thứ hai trong cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolô I, là mời gọi ta sống đạo và truyền đạo bằng chính bản thân Thực vậy, trong 32 ngày làm Giáo Hoàng Ðức Gioan-Phaolô chỉ mới bắt đầu tập sự và làm quen với một chức vụ quá cao, quá lạ, mà Ngài không bao giờ nghĩ tới. Vỏn vẹn chỉ 32 ngày, thì tất nhiên chẳng làm được nhiều, chẳng nói được nhiều. Nhưng ảnh hưởng của Ngài trên thế giới lại không nhỏ. Ngài đã chinh phục được thiện cảm của dân chúng và của các Giáo Hội bạn một cách mau lẹ. Có lẽ còn hơn nhiều vị Giáo Hoàng tiền nhiệm. Nhờ nụ cười hồn nhiên của Ngài, nhờ thái độ khiêm tốn hiền hậu cởi mở của Ngài. Tóm lại, nhờ chính bản thân Ngài. Chính bản thân dễ thương dễ mến của Ngài đã đem lòng con người đến gần Tin Mừng một cách nhẹ nhàng mau lẹ. Chính bản thân dễ thương dễ mến của Ngài đã chiếu giãi ánh sáng Chúa Kitô vào thế giới một cách trực tiếp và kỳ diệu. Chỉ từng ấy thôi cũng đã đủ để mở đường cho Giáo Hội của thời đại hôm nay. Trong một thời gian quá đặt nặng đạo đức vào lời nói và vào hoạt động, thì cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô I là một dấu chỉ muốn nói lên rằng: Giá trị bản thân còn trọng hơn giá trị hoạt động và lời nói. Trong một thời đại đang tìm kiếm xem phương pháp nào thích hợp hơn để truyền bá Tin Mừng cho con người hôm nay, thì cái chết của Ðức Gioan Phaolô I là một dấu chỉ muốn nói lên rằng: Phương pháp thích hợp nhất để truyền bá Tin Mừng cho con người hôm nay là chính bản thân người tông đồ. Người tông đồ nào dễ thương, dễ mến sẽ có sức mạnh hơn bất cứ tông đồ nào. Và thực sự, điều cần thiết nhất cho con người hôm nay là biết trở về với bản thân mình, biết ưu tư lo xây dựng bản thân mình nên đạo đức, làm sao để bản thân mình đúng là của mình, để mình có thể thương được mình và cũng được người khác yêu thương. Ngôi sao Sinh Nhật đã xuất hiện có một lần, trong thời gian rất vắn, rồi vội biến đi. Nó vội biến đi sau khi đã làm xong nhiệm vụ chỉ đường cho các người thiện chí đến Bêlem gặp Chúa Cứu Thế. Tương tự cũng thế, Ðức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô I cũng là một vì sao xuất hiện rất bất ngờ, rồi lại biến đi mau chóng. Ngài ra đi mau lẹ âm thầm như vì sao Sinh Nhật, sau khi đã làm xong nhiệm vụ chỉ đường cho các tâm hồn thiện chí tìm về với Chúa Kitô. Chúng ta cầu nguyện cho Ngài. Và xin Ngài cầu nguyện cho ta. Long Xuyên, ngày 4 tháng 9 năm 2006
Tháng 9 là tháng khai trường. Ðủ thứ trường dành cho mọi lứa tuổi. Còn tuổi già thì không có trường Bùi-Tuần 1705
Tháng 9 là tháng khai trường. Ðủ thứ trường dành cho mọi lứa tuổi. Còn tuổi già thì không có trường. Nhưng, chính tuổi già đã là một loại trường. Trường này đến với mọi người già yếu. Trường đến với người, chứ người không đi đến trường. Vì thế, trường này bao trùm không gian khắp nước. Với tuổi gần 80, tôi thuộc trường này đã khá lâu. Hôm nay, tôi xin chia sẻ một vài bài học, mà tôi tiếp thu được từ trường đặc biệt này. Những bài học mà tuổi già dạy tôi đã không viết bằng chữ, nhưng ngấm vào tâm hồn tôi thành những cảm nghiệm. Tôi nghĩ người già nào nhiều ít cũng vậy. Xin nêu lên vài thí dụ.
1/ Cảm nghiệm nơi chính mình về sự chuyển biến những giới hạn Ở tuổi nào, người ta cũng nhận thấy con người mình có nhiều giới hạn. Nhưng về già, người ta càng thấy rõ sự thật đó. Thấy rõ không phải chỉ bằng lý thuyết, nhưng nhất là bằng cảm nghiệm nơi bản thân mình. Thí dụ trong lãnh vực sức khoẻ, người già cảm thấy các giới hạn càng ngày càng nhiều và càng hẹp lại. Như thể mình trở về tuổi thơ. Nhưng khác một điều: Trẻ nhỏ luôn vượt giới hạn để vươn lên. Còn tuổi già thì luôn trượt giới hạn để rớt xuống. Ðến một giới hạn đáng thương là tự mình không còn tự lo cho mình được, kể cả những việc cá nhân cần thiết. Hiện tượng biến chuyển các giới hạn cũng xảy ra nơi người già trong nhiều lãnh vực khác, như lãnh vực tinh thần, thí dụ tinh thần cầu nguyện. Ở đây biến chuyển giới hạn không luôn luôn đồng nghĩa với suy tàn, mà là thay đổi. Giới hạn hướng ngoại sẽ hẹp lại, còn giới hạn đi vào nội tâm sẽ rộng hơn, sâu hơn. Nhờ vậy, người già thường dễ phân biệt cái gì là phù du, là ảo và cái gì là giá trị thực. Hiện tượng thay đổi giới hạn xuất hiện khá rõ trong lãnh vực tình cảm. Tuổi càng cao, sức khoẻ càng giảm, người ta thường thích thưởng thức trong nội tâm những hương vị nhẹ nhàng của tình nghĩa đơn sơ, yêu thương chân thành và hiếu thảo vị tha. Ðôi khi sợ những thứ quan hệ nặng nề hình thức lễ nghi, xã giao ồn ào. Rất nhạy bén trước thái độ tế nhị của xã hội đối với người già. Họ nhận thức sâu xa thân phận của mình mang nhiều giới hạn mong mọi người thông cảm.
2/ Cảm nghiệm nơi xã hội về sự phân hoá càng ngày càng tăng Những người già hôm nay là những người đã đồng hành với lịch sử Ðất Nước. Lịch sử khá dài, nhiều gian truân đầy kỷ niệm phấn đấu. Trong những chặng đường đó, người ta không có nhiều lựa chọn. Lựa chọn căn bản và phổ quát nhất là được sống ấm no trong trật tự kỷ cương. Còn hiện nay, bầu khí xã hội là hưởng thụ, tự do. Một bầu khí như thế sẽ tạo ra các thứ nhu cầu, các loại hạnh phúc. Có nhu cầu đúng và có nhu cầu giả. Có hạnh phúc tốt và có hạnh phúc xấu. Nhu cầu nọ đẻ ra nhu cầu kia. Hạnh phúc này đòi thêm hạnh phúc khác. Các thứ nhu cầu và các thứ hạnh phúc thực và giả đó đua nhau mời gọi người ta từ trước mắt cho đến trong trí nhớ, trí vẽ. Mời gọi với đủ mọi hình thức hấp dẫn tinh vi. Sống với bầu khí xã hội như thế, nếu con người ta không sáng suốt và can đảm để có những lựa chọn đúng, tìm những hạnh phúc thực, thì sẽ sinh ra thứ phân hoá đau lòng. Một gia đình chỉ gồm 4 người, mà mỗi người đều có những chọn lựa khác nhau, thì đã có cảnh phân hoá rồi. Phương chi một cộng đoàn, một miền, một nước. Nếu bầu khi xã hội lại biến thành cạnh tranh không lành mạnh, thì sự phân hoá sẽ rất nguy hiểm. Cạnh tranh không lành mạnh là cạnh tranh bằng những phương tiện xấu, và do động lực xấu. Những phương tiện xấu như thi đua tố cáo nhau, gièm pha bôi xấu nhau. Ðộng lực xấu như do ghen tương, trả thù, tư lợi, hạ người xuống để mình được lên.
3/ Cảm nghiệm nơi thế giới về khả năng xảy ra nhiều tai hoạ, nếu nhân loại tiếp tục đi sâu vào đàng tội. Người già, qua nhiều kinh nghiệm về lịch sử đạo đời, thường dễ cảm nghiệm thấy ý nghĩa của những dấu chỉ thời sự. Những cảm nghiệm như thế có nghĩa như một sự báo động, mà ơn trên ban cho họ. Họ linh cảm sự giao tranh giữa thiện ác sẽ rất khốc liệt. Nhưng đến một lúc nào đó, khi sự vô luân quá tung hoành, thắng thế, thì họ linh cảm hậu quả ghê gớm sẽ phải xảy ra, như một cảnh báo dọn đường cho một trật tự mới. Những linh cảm như thế có thể coi như một thứ cảm nghiệm kết tinh từ những kinh nghiệm lâu dài, mà họ đã trải qua trên con đường lịch sử pha trộn ánh sáng và bóng tối, nụ cười và nước mắt, bình an và đau khổ, thành công và thất bại.
4/ Cảm nghiệm nơi đời sống cộng đoàn về nguy cơ tự huỷ Cộng đoàn nói đây được hiểu về mọi thứ đời sống đoàn thể, như gia đình, hiệp hội, đảng phái, giáo đoàn. Những cộng đoàn này, cho dù mạnh tới đâu, vẫn có thể bị phá huỷ. Yếu tố phá huỷ có thể là từ ngoài, và cũng có thể là từ trong chính nội bộ. Trường hợp tự huỷ không phải là hiếm. Tự huỷ do đâu? Theo cảm nghiệm người già, thì yếu tố mạnh nhất đưa một cộng đồng đến tự huỷ là vô cảm và không còn tin nhau. Ai đau khổ mặc ai. Ai túng nghèo cũng kệ. Sống dửng dưng, vô cảm là thái độ sống ích kỷ, giết chết lương tâm. Mỗi người chỉ sống cho mình, chỉ tin vào mình. Nghi nhau, sợ nhau, xa tránh nhau. Bè phái. Mất niềm tin vào nhau là tự khoá cửa lòng. Có thể lỗi do mình, mà cũng do bao người khác. Những nếp sống vô cảm và mất niềm tin như thế sớm muộn sẽ phá đổ cộng đoàn. *** Trên đây là vài cảm nghiệm mà trường “tuổi già” đã in vào bản thân tôi. Tất nhiên cảm nghiệm thì có giá trị chủ quan và tương đối, mang tính thời sự đôi chút. Thiết tưởng đây cũng là một mảnh đời gởi lại những người đi sau. Càng về cuối đời, tôi càng cảm thấy rõ: Mình chẳng là gì, mình chẳng đáng gì. Nếu có gì tốt, thì đều do Chúa ban, như lời thánh Phaolô viết: “Con có gì mà con đã không nhận lãnh” (1 Cr 4,7). Trên đường về Nhà Cha, tôi cũng như nhiều vị già yếu khác, luôn xin được ơn tái sinh trong tình thương xót Chúa và trong tình liên đới nâng đỡ thứ tha của Hội Thánh và của mọi người. Long Xuyên, ngày 9 tháng 9 năm 2006
Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam vừa gởi các thành phần dân Chúa tại Việt Nam một thư mục vụ Bùi-Tuần 1706
Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam vừa gởi các thành phần dân Chúa tại Việt Nam một thư mục vụ. Thư mang tựa đề “Sống đạo hôm nay”. Nội dung thư rất súc tích, nhưng dễ hiểu. Ðối với riêng tôi, lá thư vắn gọn này đã gợi ý nhiều nhất do cụm từ “hôm nay” và do lời kêu gọi “dấn thân” gởi riêng các linh mục và tu sĩ. Tôi xin được phép chia sẻ ở đây vài loại dấn thân, mà tôi vui mừng nhận thấy nơi một số linh mục và tu sĩ đang thực hiện tại Ðất Nước ta.
1/ Dấn thân phục vụ người nghèo Nhìn thoáng qua toàn thể các linh mục và tu sĩ tại Việt Nam hôm nay, người ta dễ thấy nét nổi bật nơi đời sống các ngài là phượng tự. Phượng tự nói đây được hiểu đơn giản là thực hiện một số bổn phận tôn giáo như cầu nguyện, chiêm niệm, rao giảng Lời Chúa, thánh lễ, tạ ơn... Ði liền với những việc đó là lo liệu để có các phương tiện cần thiết cho phượng tự, như đất đai xây cất nhà thờ, các cơ sở đào tạo, nhà xứ, nhà dòng. Tất nhiên nhà thì phải có thiết bị và các dụng cụ cần thiết. Cùng với việc phượng tự, các linh mục và tu sĩ tại Việt Nam hôm nay thường quan tâm dấn thân cho việc từ thiện bác ái. Qua việc dấn thân này, người ta có thể phân ra ba hình ảnh Hội Thánh nhỏ tại Việt Nam:
1. Hội Thánh cho người nghèo. Hội Thánh loại này coi gia sản của mình như một vốn liếng Chúa trao cho Hội Thánh quản lý, để lo cho dân nghèo. 2. Hội Thánh với người nghèo. Hội Thánh này thực hiện lời Công đồng Vaticăng II mời gọi các giáo sĩ: “Các ngài được mời gọi tình nguyện sống nghèo khó để nên giống Chúa Kitô một cách rõ ràng và cụ thể hơn với chức vụ thánh. Thực vậy, dù giàu có, Chúa Giêsu đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta, để nhờ sự nghèo khổ của Người mà chúng ta trở nên giàu có” (Sắc lệnh về Chức vụ và đời sống các linh mục. Chương III, số 16). 3. Hội Thánh giữa người nghèo. Hội Thánh này rất quan tâm đến hoàn cảnh gây nên sự người nghèo xa cách Hội Thánh, vì thấy Hội Thánh giàu sang. Như lời Công đồng Vaticăng II đã khuyên: “Các linh mục cũng như Giám mục, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Ngài là Ðấng đã xức dầu cho Chúa Cứu Thế và sai đi giảng Phúc Âm cho người nghèo khó. Các ngài phải tránh tất cả những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo khó... Các ngài phải loại bỏ mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở của mình thế nào để không ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để bất cứ ai dù nghèo khó đến đâu cũng không bao giờ dám lui tới” (Sắc lệnh về Chức vụ và đời sống linh mục. Chương III, số 17). Ba hình ảnh Hội Thánh trên đây đang có sức hấp dẫn lạ lùng đối với xã hội Việt Nam. Dấn thân phục vụ người nghèo là một hào quang toả sáng nơi nhiều linh mục tu sĩ trên Quê Hương Việt Nam hôm nay. Xin tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót. Ngoài việc dấn thân phục vụ người nghèo, còn có một dấn thân khác cũng đang giúp ích rất nhiều cho việc sống đạo hôm nay tại Việt Nam. Ðó là dấn thân theo dõi tình hình và cắt nghĩa các dấu chỉ thời sự.
2/ Dấn thân cứu xét cẩn thận các dấu chỉ thời sự Sống đạo là sống Phúc Âm giữa dòng thời sự phức tạp và đổi thay. Ðể biết thánh ý Chúa, chúng ta phải sống Phúc Âm một cách cụ thể, làm sao cho thích hợp và khôn ngoan theo các dấu chỉ. Về điểm này, Công đồng Vaticăng II đã nhắc nhở về ơn gọi của linh mục trong mục vụ: “Tiếng gọi đó phải được hiểu và nhận định qua những dấu chỉ mà hằng ngày Chúa dùng để tỏ ý Người cho các tín hữu khôn ngoan. Các linh mục phải cẩn thận cứu xét những dấu hiệu đó” (Sắc lệnh về Chức vụ và đời sống linh mục. Chương II, số 11). Ví dụ: Từ mấy năm nay, thế giới chứng kiến hiện tượng sức mạnh của đức tin Hồi giáo qua nhiều sự kiện chính trị, văn hoá và kinh tế. Nhưng từ mấy ngày nay, một hiện tượng rất đáng lo ngại đã xuất hiện. Ðó là những chỉ trích gay gắt từ thế giới Hồi giáo đã nhắm thẳng vào Ðức Giáo Hoàng Beneđictô XVI. Kèm theo những chỉ trích của các chính quyền Hồi giáo là làn sóng biểu tình sôi nổi giận dữ của quần chúng Hồi giáo tại các nước. Phong trào phản đối này đã bùng phát vì một vài lời Ðức Giáo Hoàng đã phát biểu tại Ðức. Ngài trích dẫn lời một vị hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ 14 đã đánh giá thô bạo vị sáng lập ra đạo Hồi. Ngài nhấn mạnh rõ là đánh giá đó không phải là ý kiến của Ngài. Phong trào đấu tranh nhằm vào Ðức Giáo Hoàng đang lan rộng và diễn biến càng ngày càng lớn theo chiều hướng xấu. Báo chí, các đài phát thanh và truyền hình trên khắp thế giới đã liên tục loan tin và bình luận. Toà Thánh đã giải thích thiện chí của Ðức Giáo Hoàng. Nhưng không được thế giới Hồi giáo chấp nhận. Tình hình căng thẳng chưa biết sẽ đi về đâu. Nếu tình hình căng thẳng này chỉ sẽ được kết thúc một cách bình an bằng một bản xin lỗi tự hạ của Ðức Giáo Hoàng, kèm theo một thái độ nào đó có ý nghĩa tuyên xưng những giá trị của Hồi giáo, như vài dư luận đòi hỏi, thì liệu mọi sự có được kết thúc tốt đẹp không? Còn tại Việt Nam, một sự kiện mới xảy ra có liên quan tới Công giáo Việt Nam, theo tôi cũng là một dấu chỉ đáng suy nghĩ. Ðó là sự thinh lặng của hầu hết báo chí trong nước trước việc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam họp tại Huế đầu tháng 9 vừa qua. Những sự kiện này gợi ý cho tôi nghĩ tới việc sống đạo nhất là tại Việt Nam hôm nay rất cần được soi sáng bởi những dấn thân sáng suốt của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Ðoàn chiên mong đợi những dự báo đúng đắn sẽ giúp cho họ tránh được cách sống đạo một cách ngây thơ, nhưng ý thức được khả năng xảy ra những bất ngờ nguy hại, để có những chọn lựa khôn ngoan. Thời sự đôi khi có những dấu chỉ hơi khác thường, nhưng không nên coi thường. *** Vài gợi ý trên đây, dù vắn tắt, cũng sẽ cho chúng ta thấy sống đạo hôm nay không phải là dễ. Sống đạo bao giờ cũng đòi nhiều phấn đấu và tỉnh thức. Hôm nay là thời sự rất phức tạp. Vì thế, sống đạo hôm nay đòi phải có cả cái tâm và cả cái trí. Với ý thức đó, chúng ta đón nhận thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam năm 2006 như một tài liệu quý. Mỗi người chúng ta nên suy nghĩ với nhiều đóng góp và hưởng ứng tích cực. Long Xuyên, ngày 17 tháng 9 năm 2006
Lâu nay, người ta nói “chống” hơi nhiều, như: Chống bão, chống lũ, chống lụt, Chống tham nhũng Bùi-Tuần 1707
Lâu nay, người ta nói “chống” hơi nhiều, như: Chống bão, chống lũ, chống lụt, Chống tham nhũng, chống lãng phí, vv... Tôi cũng “chống” như mọi người, trong trao đổi. Nhưng tôi còn “chống”, khi đi đứng. “Chống” này mang nghĩa khác. Ðó là chống gậy. Cái gậy tinh thần Cái gậy, đối với tôi, là một vật cần thiết. Nó nâng đỡ, khi tôi di chuyển. Từ cái gậy vật chất, tôi nghĩ đến cái gậy tinh thần. Tôi chống gậy này thường xuyên, nhưng nhất là trong những thời gian xác hồn suy thoái. Tôi rất cần nó. Nó đang ở bên tôi như người thân thiết. Hôm nay, tôi xin chia sẻ về cái gậy tinh thần đó. Ðối với kinh nghiệm riêng tôi, cái gậy tinh thần này gồm 2 yếu tố chính: Một phần thiêng liêng và một phần tâm lý. Yếu tố thiêng liêng Yếu tố này gồm nhiều chi tiết. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên 2 chi tiết quen thuộc nhất. a) Sống với Chúa Giêsu đau khổ và Ðức Mẹ sầu bi Những hình ảnh Chúa và Ðức Mẹ đỡ nâng chúng ta trong đời sống thì rất nhiều. Nhưng đối với tôi, hình ảnh Chúa Giêsu chịu đau đớn và Ðức Mẹ sầu bi đã nâng đỡ tôi nhiều nhất. Khi Chúa Giêsu và Ðức Mẹ thường xuyên ở bên tôi dưới hình ảnh thương khó, tôi dễ hiểu thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là khuyên tôi hãy đón nhận tình mến Chúa và yêu các linh hồn từ chính trái tim Chúa Giêsu và Ðức Mẹ. Trái tim Ðấng Cứu thế đã thể hiện sự hiến dâng mình qua những bậc thang hy sinh. Ðức Mẹ cũng vậy. Nay các môn đệ Chúa và con cái Ðức Mẹ cũng được mời gọi đón nhận lửa từ trái tim Chúa và Mẹ của Người. Một khi lửa ấy cháy lên trong tâm hồn ta, ta sẽ cảm thấy một sự nâng đỡ nhiệm mầu trong đời sống dâng hiến. Một đời sống thực sự là “Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa” (Mt 16,14). Nhiều người chuyên giúp các bệnh nhân đã kể cho tôi những mẩu chuyện lạ lùng về cây thánh giá. Rất nhiều người trong khi quằn quại với cơn đau, đã chỉ hôn cây thánh giá người ta đặt trên miệng họ. Từ cây thánh giá nhỏ, họ đã nhận được ơn thiêng cứu chuộc. Nhiều chuyển biến đã xảy ra trong tâm hồn họ. Từ đó, cây thánh giá được coi như cây gậy thiêng. Nhờ cây gậy thánh đó, họ bước những bước cuối cùng đời họ, để sang thế giới bên kia một cách bình an. Cùng với sự đồng hành nâng đỡ của Chúa Cứu thế, còn có những bài học đạo đức sống động, làm cho cây gậy thiêng dễ được trân trọng. b) Bài học nơi những người chịu đau khổ với niềm tin Tiếp xúc với những người đau khổ, tôi như nhận được nhiều làn sương mát. Mà sương thì chỉ rơi vào ban đêm. Ðêm của những người đau khổ là vô vàn cơ cực. Nhưng nhiều người trong họ đã trải qua những đêm dài, với niềm tin sâu sắc. Có niềm tin là do đức tin tôn giáo. Cuốn Tự Thuật của thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu cho ta thấy: Thánh nữ chịu đau khổ rất nhiều. Nhưng ngài tin đau khổ của ngài, khi kết hợp với sự đau khổ của Chúa Cứu thế, sẽ có giá trị cứu nhiều linh hồn. Tình yêu liên đới ấy là một yếu tố khích lệ ngài chịu đau khổ với thái độ phó thác đơn sơ tin tưởng. Nhưng cũng có những niềm tin không do đức tin. Bởi vì không thiếu những người ngoài công giáo, đã chịu đựng những thử thách đớn đau một cách cao thượng, nhờ họ tin rằng: Ðau khổ mà họ chịu, vẫn có một sức thiêng nào đó đỡ nâng những người họ thương yêu. Chính tôi đã được chứng kiến những cảnh đó nơi nhiều người ngoại, nhất là trường hợp họ lại túng nghèo, cô đơn. Họ rất đau đớn trong cảnh bệnh tật, túng bấn. Nhưng họ sống một cách cao thượng, vì nghĩ đến con cháu, gia đình, với tình yêu và với niềm tin đơn sơ tự nhiên. Tôi nghĩ niềm tin tự nhiên đó cũng do Chúa ban cho họ. Nhờ đó, đời họ trở thành có ý nghĩa, mở lối cho họ gặp được người Cha giàu tình yêu thương xót đối với mọi người. Trên đây là vắn tắt yếu tố thiêng liêng của cây gậy, mà tôi chống để đi trên con đường hẹp dẫn về trời. Ngoài yếu tố thiêng liêng, còn có yếu tố tự nhiên. Yếu tố tự nhiên Xin chỉ kể ra 2 chi tiết. a) Bầu khí tâm lý Bầu khí tâm lý xung quanh ta là một thứ rất hữu ích cho cuộc đời ta. Nhất là khi đời ta rơi vào những khủng hoảng, thì bầu khí tâm lý tốt lành càng trở nên cần thiết. Bầu khí tâm lý tốt lành là bầu khí bình an, ấm áp tình thương, tế nhị, vị tha, chân thành. Bầu khí tâm lý tốt lành đó nhiều khi chỉ cần một không gian nhỏ về vật lý và số ít nhân sự đơn sơ. Thà nhỏ và ít mà có sức nâng đỡ con người, còn hơn là lớn mà nhẹ về chất lượng. Vẫn có những người xung quanh ta biết tạo ra cho ta một bầu khí tâm lý tốt lành. Họ là những người chúng ta phải biết ơn. b) Những người có bề dày thương cảm Thời nay, những thăm viếng, liên lạc, trao đổi được coi như một phần của nền văn hoá. Những thứ đó cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm trạng con người. Nhiều nghiên cứu cho thấy: Những người có bề dày về thương cảm, về liên đới, về cọ sát với những cảnh đời khốn khổ, nhưng lại khiêm tốn, thường dễ đem lại cho người khác niềm hy vọng kín đáo. Với bề dày kinh nghiệm đó, họ đến với ta. Dù chỉ chốc lát, ta cũng cảm thấy lòng mình được nâng lên. *** Trên đây là vắn tắt hình ảnh cái gậy vô hình, mà tôi đang chống. Tôi chống cây gậy gỗ để di chuyển. Tôi chống cây gậy tinh thần để sống, nhất là trong những giai đoạn khó khăn. Tôi phải chống gậy. Nói thế, tôi nghĩ nhiều tới những người cũng đang phải chống gậy như tôi. Tôi có cảm tưởng là: Phần đông đồng bào ta tại Việt Nam hôm nay đều phải nương tựa vào nhau mà sống. Người nọ là cái gậy cho người kia chống. Nên coi đó là dấu chỉ của một tiềm năng đạo đức cần vun tưới. Xin Chúa trả ơn bội hậu cho những ai xa gần đang góp phần làm nên những cây gậy tình nghĩa, để những người yếu đuối, được chống mà đi trên đường đời. Ðời nay vẫn còn quá nhiều cảnh thương tâm đau xót. Long Xuyên, ngày 7 tháng 10 năm 2006
Long Xuyên, ngày 17 tháng 7 năm 2006 Kính gởi Anh Trần Bạch Ðằng, Thưa Anh thân mến,
Nhân lễ mừng thọ Anh, nhiều vị lãnh đạo Nhà nước và địa phương cùng với bạn bè khắp nơi đã Bùi-Tuần 1708
Nhân lễ mừng thọ Anh, nhiều vị lãnh đạo Nhà nước và địa phương cùng với bạn bè khắp nơi đã gởi Anh những tình cảm trân trọng. Tôi rất vui mừng coi sự kiện đó như một dấu chỉ của luồng gió đổi mới. Ðể nhớ Anh, tôi đọc lại “Tuyển tập Hưởng Triều” Anh đã gởi tặng tôi năm nào. Tôi thấy cái tâm của Anh luôn bồi hồi thao thức. Cho tới bây giờ, cái tâm ấy vẫn nuôi nhiều khát vọng đẹp cho Ðất Nước, mặc dù “Cái nghĩa nghìn năm đã trọn rồi”. Cũng như Anh, tôi thấy hiện tại của Ðất Nước còn nhiều điều chưa ổn. Ðất Nước mình đang thu hút được nhiều đầu tư, và nhiều người du lịch. Nhưng đến bao giờ, Nước ta mới có những trường Ðại học nổi tiếng có khả năng thu hút được nhiều sinh viên nước ngoài, kể cả từ các cường quốc, đến theo học và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của các giáo sư Việt Nam? Một tương lai như thế sẽ làm rạng danh Nước nhà. Chắc Anh đã nghĩ tới trong các nghiên cứu của Anh. Xin thân ái chúc Anh khoẻ mạnh, để tiếp tục cống hiến nhiều cho tương lai Ðất Nước. Thân ái
Việt Nam ta đang được giới thiệu là một nước trên đà phát triển mạnh. Tình hình này có nhiều Bùi-Tuần 1709
Việt Nam ta đang được giới thiệu là một nước trên đà phát triển mạnh. Tình hình này có nhiều cái đáng mừng và cũng có nhiều cái đáng lo. Trong lãnh vực đạo công giáo, tình hình phát triển nội bộ cần được phân định đúng. Có những phát triển giúp đời sống đạo thêm vững mạnh trong sáng. Cũng có những phát triển dần dà sẽ làm suy yếu tinh thần Phúc Âm. Nếu không tỉnh thức, tương lai đạo Chúa trên quê hương ta sẽ khó tránh được những hậu quả đáng buồn, như đã và đang xảy ra tại nhiều nước phát triển. Với ý thức đó, tôi xin chia sẻ tâm tư của tôi. Tâm tư này gồm 2 phần: 1/ Tâm niệm chân lý Phúc Âm. 2/ Thực hiện tâm niệm trong tình hình mới. Tâm niệm chân lý Phúc Âm Nhiều phát triển của Ðất Nước phải coi là quý giá, đáng mừng. Những phát triển đó mang hy vọng giúp con người, xã hội và cả tôn giáo đi lên. Tuy nhiên, người có đạo không nên ảo tưởng, coi mọi phát triển dễ chịu là những thần cứu độ, đem lại phần rỗi đời đời cho chúng ta. Ðể biết dùng những phát triển theo đúng hướng, đúng mức, chúng ta cần tâm niệm mọi Lời Chúa dạy. Riêng tôi, tôi không ngừng tâm niệm mấy lời Kinh Thánh sau đây: 1/ Chúa Giêsu phán: “Chính Thầy là Ðường, là Sự thực và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Qua Lời Chúa phán trên đây, chúng ta vững tin Ðức Giêsu Kitô chính là Ðấng Cứu độ của chúng ta. Không có lực lượng nào, dù phát triển tới đâu, sẽ thay thế được Ðấng Cứu thế của chúng ta. Ngài đã thương cứu chuộc ta bằng con đường nào, thì bây giờ ta đã rõ, qua lời Ngài phán và qua thực tế xảy ra. 2/ Chúa Giêsu phán rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9,22). Những Lời Chúa Giêsu đã nói trước trên đây với các tông đồ, sau này đã thực hiện với nhiều chi tiết rất đớn đau. Nhưng đó là con đường Chúa đã chọn để cứu nhân loại khỏi tội, đem lại phần rỗi cho những ai biết đón nhận. Chúa Cứu thế đã hy sinh mạng sống mình cho phần rỗi nhân loại, bằng con đường khổ nạn thánh giá. Còn các môn đệ Ngài thì sao? 3/ “Rồi Ðức Giêsu nói với mọi người: 'Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế gian mà phải mất chính mình, thì nào có lợi gì'“ (Lc 9,23-25). Chúa phán những lời trên đây một cách quả quyết, dứt khoát. Cho nên những người muốn theo Chúa Giêsu không nên tưởng mình có quyền sửa đổi Lời Chúa, hoặc cho mình có quyền được miễn trừ, được sống khác những Lời Chúa dạy. Khi những tâm niệm trên đây đã trở thành những xác tín sống động, vạch ra con đường cho cuộc sống, thì người môn đệ Chúa phải tìm cách thực hiện. Thực hiện tâm niệm trong tình hình mới Tiếp xúc với các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay, tôi học được nhiều cách thực hiện. Các môn đệ Chúa gồm nhiều loại người, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ. Họ sống trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Họ thực hiện những điều xác tín trên bằng nhiều cách. Trong nhiều cách đó, thiết tưởng nên để ý mấy điểm quan trọng sau đây: a) Chu toàn bổn phận với tinh thần cầu tiến, nhất là bổn phận dùng thời giờ Ở đây, xin đưa ví dụ riêng về hàng giáo sĩ. Người môn đệ Chúa trong hàng giáo sĩ phải tận dụng thời giờ Chúa ban, để thường xuyên đào tạo mình và những người thuộc về mình. Trong mục đích đó, ngài sẽ dành: - Thời giờ để cầu nguyện, suy gẫm, tìm học thêm các môn cần cho việc làm mới lại nơi ngài vốn liếng trí thức và phong cách người môn đệ Chúa hôm nay. - Thời giờ để giao tiếp, thăm viếng với mục đích mục vụ. - Thời giờ để hiện diện một cách nào đó có tính cách loan báo Tin Mừng giữa xã hội không công giáo tại Việt Nam hôm nay. - Thời giờ để dọn bài giảng và các đề tài để trao đổi, sao cho những người thiện chí xung quanh có thể nhận được từ ngài đôi chút tình người, đôi chút chân lý đạo đời hữu ích. - Thời giờ để tìm sức thiêng đặc biệt, hầu làm chứng cho Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. b) Trau dồi về nhân bản nơi bản thân mình Thời nay, người môn đệ Chúa nên để ý làm chứng cho Chúa qua nhân bản của mình. Cách làm chứng đó dễ gây được sức thuyết phục. Nhân bản có thể được thể hiện qua những thái độ này: - Nhạy bén với bất cứ sự thiện nào, dù sự thiện đó được thực hiện do bất cứ ai. - Mở lòng ra với việc thiện gồm cả chiều kích cá nhân lẫn chiều kích xã hội, thí dụ tính chính xác và liên đới. - Vượt khó, để đi từ việc thiện này đến việc thiện khác. Sống nhân bản như thế là sống đạo làm người. Nó không cần mang nhãn hiệu tôn giáo, mà vẫn dọn đường đi về Ðấng Tối Cao. c) Sáng suốt có những lựa chọn do tinh thần trách nhiệm đạo đức Khi có nhiều phương tiện của thời phát triển, như nhiều tự do, nhiều tiện nghi, nhiều dễ dãi, người môn đệ Chúa sẽ biết tự chế mình trong các lựa chọn, luôn luôn toả sáng tình yêu và hy sinh vì phần rỗi các linh hồn. d) Ðón nhận mọi thứ thánh giá Chúa gởi đến cho ta, với lòng khiêm tốn, dấn thân của người môn đệ chân thành. Ta muốn được Chúa nhận ta như của lễ toàn thiêu. Của lễ này làm nên hạnh phúc của ta. Hạnh phúc ấy sẽ không tuỳ thuộc ở thành công hay thất bại, nhưng ở sự ta chu toàn thánh ý Chúa với những bước đi nhỏ của hành trình ơn gọi. *** Tình hình phát triển đang và sẽ tạo ra cho đồng bào ta một cuộc sống khác xưa. Lòng đạo cũng sẽ bị ảnh hưởng không ít. Xin Ðức Mẹ thương cầu bầu cho chúng ta, để dù trong hoàn cảnh nào, mỗi người tín hữu chúng ta được trở thành một ngọn đèn Tin Mừng trên Quê Hương Việt Nam, mà chúng ta luôn gắn bó trung thành. Long Xuyên, ngày 21 tháng 10 năm 2006
Trong cuộc sống, suy tư phải đi trước hành động. Như muốn xây nhà, người ta phải suy nghĩ trước Bùi-Tuần 1710
Trong cuộc sống, suy tư phải đi trước hành động. Như muốn xây nhà, người ta phải suy nghĩ trước về cái nhà mình muốn xây. Sau đó mới đến hành động xây. Trong các cải cách tôn giáo, suy tư giữ vị trí cực kỳ quan trọng. Suy nghĩ chín chắn trước về mọi mặt, rồi mới bắt đầu thực thi cải cách. Trong các đổi mới chính trị, những suy tư về đổi mới phải được gieo trồng rộng rãi một thời gian dài trước, rồi hành động sẽ khởi sự từ từ sau. Suy tư giữ vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng bản thân, và các liên hệ xã hội. Suy tư cũng là thước đo, để đánh giá một nền văn hoá, những tiềm năng tiến triển của một giáo hội và một xã hội. Với vài nhận thức sơ sài như trên, tôi thành thực giãi bày ưu tư của tôi về tương lai đời đạo tại Việt Nam hôm nay. Ưu tư của tôi phát sinh từ cái nhìn về những truyền thống suy tư còn khá phổ biến ở nhiều nơi. Ðể phác hoạ những truyền thống đó thành những điển hình dễ hiểu, tôi mạn phép phân các cách suy tư đó thành ba loại.
1/ Suy tư nhất trí Ðặc điểm của loại suy tư này là mọi người đều suy tư giống nhau. Giống như kiểu trong một cuộc họp, mọi người đều mặc đồng phục như nhau, mọi người đều vỗ tay đúng kiểu như nhau, mọi người cùng hô các khẩu hiệu nhịp nhàng như nhau, mọi người cùng nhất trí hoàn toàn như nhau. Thực ra, mọi người đều ngoan ngoãn vâng lệnh một người. Ðộng lực gây nên sự nhất trí về suy tư nhiều khi là tình thương mến nhau, hoặc để dễ điều hành việc chung. Người hướng dẫn suy tư được coi là có thẩm quyền. Chính người được phong thần như thế cũng thầm mong muốn như vậy. Mình suy tư thay cho tất cả. Cảnh nhất trí này, khi đã thành một nếp sống, sẽ dễ làm cho các thành phần trong cộng đoàn trở nên thụ động, nghèo nàn, ấu trĩ về đời sống tinh thần. Họ không còn cảm thấy nhu cầu tự học hỏi, tìm tòi, khám phá, chọn lựa. Trước thói quen suy tư thụ động kể trên, chúng ta nên làm gì? Tôi xin mượn lời Chúa Giêsu phán xưa trước thi hài Ladarô: “Hãy cởi khăn và vải bọc xác anh, rồi để anh ấy đi” (Ga 11,44). Trong nhiều cộng đoàn, người ta cũng dùng những chiếc khăn và vải vô hình nào đó để trói buộc tinh thần người khác. Không phải vì ghét, nhưng tưởng như thế là để tỏ tình thương đối với họ, và nhất là để mưu ích cho cộng đoàn. Nhưng hãy cởi trói cho nhau. Ðể mỗi người con Chúa tập sống trưởng thành trong sự phát triển tiềm năng suy tư riêng một cách hợp lý. Lịch sử đang bước vào thời điểm đối thoại, cạnh tranh. Ai kém về suy tư sẽ thua thiệt. Bên cạnh loại hình suy tư tự động hoàn toàn nhất trí, là loại hình suy tư áp đặt.
2/ Suy tư áp đặt Cộng đoàn cần sống trong trật tự. Trật tự và quyền bính phải được coi là những nhân tố giáo dục về tự do và bác ái. Tất nhiên là phải có sự vâng lời. Nhưng vâng lời là một lựa chọn, dấu ấn của sự tự do của ta. Nó không chỉ là sự vâng giữ luật, nhưng sâu hơn nó diễn tả một cách sống của người môn đệ Chúa. Họ luôn lắng nghe Chúa và luôn giữ liên hệ mật thiết với Chúa giữa cộng đoàn và qua cộng đoàn bác ái. “Thầy không còn gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi chúng con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho chúng con biết” (Ga 15,15). Trong tinh thần đó, mọi suy tư, dù của ai trong cộng đoàn, đều không nên có tính cách áp đặt, hăm dọa, cưỡng bức, nhất là một cách thô bạo. Chúa Giêsu đã làm gương về thái độ đó. Ngay đối với Giuđa, kẻ phản bội bán Người, Người đã rất nhẹ lời khi cảnh cáo. Cũng như đối với thánh Phêrô, dù biết trước lỗi lầm ngài sẽ phạm, Chúa vẫn chỉ cảnh báo và khuyên ngài hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Những hình thức đe loi, nhục mạ, phỉ báng để áp đặt suy nghĩ riêng mình đang được xóa bỏ trong cộng đoàn xã hội văn minh. Phương chi trong cộng đoàn những người con Chúa. Sau cùng, cũng nên nói sơ qua về một loại hình nữa về suy tư cũng khá phổ biến hiện nay, đó là suy tư theo chiều gió.
3/ Suy tư theo chiều gió Hơn bao giờ hết, thời đại này đang sống với mọi thứ phong trào, như trong đủ thứ gió luôn xoay chiều. Suy tư này phản suy tư kia. Suy tư kia liên minh với suy tư nọ. Có những suy tư chẳng biết xuất phát từ đâu, nhưng người ta gọi nó chung chung là dư luận. Dư luận như một cơn gió, thổi qua đâu thì lại ôm theo mình những gì mình gặp. Tốt có, xấu có. Vô số người hằng ngày bị dư luận hướng dẫn về mọi mặt đạo đời. Ảnh hưởng của dư luận nhiều khi cũng đã biến đổi nhiều môn đệ Chúa. Họ vô tình có những chọn lựa, những cách nhìn, những phán đoán, chỉ để hợp với dư luận. Mạnh đâu theo đó. Trong một tình hình như thế, thiết tưởng chúng ta phải cương quyết nhận Chúa Giêsu là gương mẫu đời ta. “Phần Ta, Ta đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tôi vững tin lời trên đây. Chúa phán xưa và cũng đang phán hôm nay. Tôi cũng vững tin: Chúa đem lại sự sống dồi dào cho chúng ta, cho dù chúng ta “phải như hạt lúa gieo vào lòng đất, nếu nó không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). *** Ðể kết, tôi xin nói lên ưu tư sau cùng của tôi: Các vấn đề về phát triển Ðất nước và Giáo Hội tại Việt Nam hôm nay, đã và đang được ta suy tư như thế nào? Xin Chúa ban cho ta biết khiêm nhường đón nhận sự thật về thánh ý Chúa cho một kế hoạch lâu dài. Tương lai sẽ tuỳ thuộc một phần ở những suy tư của ta hôm nay. Long Xuyên, ngày 27 tháng 10 năm 2006
Ðất Nước Việt Nam đang bước vào một thời điểm mới. Thời điểm này được chính thức khởi đầu Bùi-Tuần 1711
Ðất Nước Việt Nam đang bước vào một thời điểm mới. Thời điểm này được chính thức khởi đầu bằng việc Việt Nam gia nhập WTO và chủ trì hội nghị Apec. Từ nay, người ta sẽ thấy một nước Việt Nam rộn ràng tiến bước trên mọi ngả đường phát triển kinh tế, đồng hành với thế giới, hợp tác chặt chẽ với khu vực Á châu Thái Bình Dương. Thời điểm mới này sẽ gây nên nhiều biến chuyển trong mọi lãnh vực. Một ví dụ về chuyển biến Trong lãnh vực tôn giáo đã bắt đầu có những hướng hợp tác mới. Ðiển hình là lễ nghi cầu nguyện tại nhà thờ Công giáo Cửa Bắc, ngày Chúa nhật 19/11/2006, dịp Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân tới dự. Ðây là lễ nghi cầu nguyện, chứ không phải thánh lễ. Giờ cầu nguyện được phối hợp giữa Công giáo và Tin Lành, kiểu tu viện Taizé bên Pháp. Ðọc Kinh Thánh, suy gẫm Kinh Thánh, cầu nguyện theo Kinh Thánh, hát theo Kinh Thánh. Chủ trì là linh mục và mục sư cùng cộng tác. Tham dự là tín hữu Công giáo sát cạnh bên tín hữu Tin Lành, trong đó có Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân. Ðức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã hiện diện như một dấu chỉ hiệp thông. Sự kiện này tiêu biểu cho hướng mở ra. Coi như đơn sơ, nhưng đòi phía Hội Thánh Việt Nam nhiều sáng kiến khôn ngoan. Tôi muốn dừng lại ở sự kiện cụ thể gây ấn tượng ấy, để từ đó nhìn chung về tình hình mới. Một tình hình đòi Hội Thánh Việt Nam chúng ta phải tiến về phía trước với những cố gắng mới. Tôi xin phép gợi ý về vài cố gắng, mà tôi cho là rất cần thiết.
1/ Cố gắng nâng cao trình độ trí thức Theo dõi tình hình thế giới, Ðất Nước và Hội Thánh khắp nơi, tôi thấy việc đối thoại và hợp tác đang là những vấn đề lớn đặt ra cho mọi phía. Ðể việc đối thoại và hợp tác của Hội Thánh ta được trân trọng, chúng ta cần phải có những hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực. Sự hiện diện và đóng góp của những nhà trí thức chuyên môn đã được chứng minh là yếu tố thực sự quan trọng trong các hội nghị chính thức và trong cuộc sống thường ngày của đối thoại và hợp tác. Tôi đã nhiều lần được có mặt trong các hội nghị quốc tế về đạo và đời. Tại mọi hội nghị, dù để bàn về một vấn đề nhỏ, trình độ trí thức được coi là yếu tố hết sức quan trọng. Ðời sống thường ngày với bao vấn đề luôn đặt ra cho con người, không thể sẽ tự nó giải quyết cho ta một cách nhàn nhã, cũ kỹ, nhưng đòi ta phải có một trình độ trí thức mới, để đi trên con đường mới của lịch sử. Hiện nay, trí thức Công giáo Việt Nam kể như khá hơn trước. Nhưng tôi thấy là chưa đủ đáp ứng cho thời điểm mới.
2/ Cố gắng nâng cao trình độ bén nhạy Thời nay, con người đối thoại và hợp tác cần có khả năng bén nhạy sâu sắc. Bén nhạy, để biết cách gây thiện cảm, tránh gây ác cảm vô ích. Bén nhạy, để biết có những phong cách tế nhị, lịch thiệp, nhã nhặn trong mọi ứng xử, cả trong những trường hợp xảy ra những bất ngờ rất trái ý ta. Bén nhạy, để biết nắm bắt những cơ hội hiếm hoi có khả năng đóng góp vào việc phát triển tương lai lâu dài cho Hội Thánh thiểu số tại Việt Nam ta. Theo dõi những hình ảnh của Apec được truyền đi qua tivi, tôi thấy sự bén nhạy là điều không thể thiếu nơi người tổ chức lẫn người tham dự. Có những hình thức mình cho là trang trọng, nhưng đối với người khác lại là hình thức nặng nề, không hợp tâm lý. Có những việc mình cho là phải thế mới đầy đủ, nhưng nhiều người khác lại nghĩ là nên vắn gọn mới hay. Có những lời người ta khen ngợi mà mình lại bám vào để tự đắc, nhưng thực ra đó chỉ là những lời khen xã giao, mà chỉ những tinh thần nhạy bén trình độ cao mới thấy được. Trong thời điểm mới này, chắc sẽ có nhiều ý kiến được thành hình trong Hội Thánh Việt Nam ta. Hãy bén nhạy, để biết lắng nghe và phân định.
3/ Cố gắng nâng cao trình độ trung thành với Lời Chúa Hơn bao giờ hết, Hội Thánh phải trung thành với Chúa, mặc dầu tình hình thay đổi. Trung thành với Lời Chúa nhất là trong những việc sau đây: a) Hãy chiến đấu để “đi qua cửa hẹp” (Lc 13,24). b) Sống trọn vẹn “Tám mối phúc” (Mt 5,3-12). c) Tăng cường sống “giới răn yêu thương” (Ga 14,34). d) Sống hợp tác với ơn Chúa một cách tuyệt đối. Vì Chúa phán “Không có Cha, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5). Tôi nghĩ là xã hội Việt Nam cần đổi mới một cách sâu sắc từ guồng máy xã hội cho tới cách suy nghĩ của từng người. Hội Thánh Việt Nam tất nhiên coi việc đổi mới mình là một bổn phận. Nhưng đổi mới bây giờ của chúng ta phải có sức thiêng, để có thể gây được ấn tượng và dấu ấn trong lịch sử dân tộc ta. Ấn tượng ấy, dấu ấn ấy sẽ xuất hiện, nếu chúng ta biết tỉnh thức và cầu nguyện, luôn sống theo thánh ý Chúa, cho dù đôi lúc chúng ta phải xuất hành cô đơn, như thánh Phaolô xưa (x. Cv 20,17-38). Cô đơn nhưng hợp thánh ý Chúa, nên ấn tượng và dấu ấn sẽ sâu đậm, đem lại tiềm năng Tin Mừng cho Ðất Nước Việt Nam ta đang quyết tâm tiến về phía trước. Long Xuyên, ngày 20 tháng 11 năm 2006
Lịch phụng vụ đề cao Mùa Vọng. Ngay từ đầu mùa Vọng, nhiều người đã hân hoan đón chờ lễ Bùi-Tuần 1712
Lịch phụng vụ đề cao Mùa Vọng. Ngay từ đầu mùa Vọng, nhiều người đã hân hoan đón chờ lễ Chúa giáng sinh. Hiện nay, nhiều nơi, mùa Vọng vẫn giới thiệu được màu sắc tâm linh, gây được nhiều gợi ý nội tâm sâu sắc. Nhưng có nơi Mùa Vọng đã trở thành một dịp chuẩn bị cho niềm vui lễ hội, nhắm mục đích thương mại, cổ võ giải trí từ lành mạnh đến suy đồi. Với nhận thức như trên, các tín hữu công giáo nói chung và mọi linh mục tu sĩ của Chúa nói riêng sẽ rất muốn và phải muốn mừng kỷ niệm Chúa giáng sinh với một niềm vui thực sự lành mạnh, thực sự trưởng thành. Mục đích là để ca tụng Chúa một cách xứng đáng. Ðồng thời cũng để chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh. Ðể được như thế, chúng ta quyết tâm sống một mùa Vọng có định hướng rõ ràng, như những chuẩn bị cần thiết. Dưới đây là vài gợi ý:
1/ Sống với Chúa Giêsu một cách hết sức thân mật Ðể diễn tả cuộc sống thân mật với Chúa Giêsu, nhiều vị thánh đã nói lên cảm nghiệm của mình một cách rất sống động gần gũi. Ở đây, tôi chọn cách diễn tả của thánh Gioan tông đồ. Ngài mở đầu lá thư thứ nhất thế này: “Ðiều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận maét, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời hằng sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, Chúng tôi đã thấy và làm chứng, Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: Sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha, Và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi” (1 Ga 1,1-2). Qua tâm sự trên đây, thánh Gioan cho ta thấy: Cuộc sống của Ngài với Chúa Giêsu là tình yêu hết sức gắn bó, gần gũi, thân thiết và tự nhiên. Ngài đã nghe Chúa Giêsu nói, Ngài đã tận mắt thấy Chúa Giêsu nhãn tiền, Ngài đã chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, Ngài đã chạm đến Chúa Giêsu. Qua những tiếp cận đó, thánh Gioan gọi Chúa Giêsu là Lời hằng sống và là chính sự sống. Ðối với Ngài, một nét rất đặc biệt của hình ảnh Chúa Giêsu là luôn hướng về Chúa Cha. Thánh Gioan đã sống với Chúa Giêsu như vậy. Chúng ta có sống được phần nào như vậy không? Thiết tưởng nhiều người đã có đời sống đức tin rất mạnh. Thêm vào đó là những cảm nghiệm rất sống động. Như nghe được, như thấy được, như chiêm ngưỡng được, như chạm đến được chính Ðức Giêsu. Nhờ vậy, mà họ tin và thấy Chúa Giêsu là sự sống của họ, một cuộc sống luôn thực hiện ý Chúa Cha, luôn đi về với Chúa Cha. Mỗi người chúng ta nên xét mình về liên hệ của ta với Chúa Giêsu. Chắc chắn liên hệ đó không sai đức tin. Nhưng liên hệ đó có mặn mà, tràn sâu vào mọi tầng lớp nội tâm ta, để ta cảm nghiệm được phần nào sự ngọt ngào và sự thánh thiện sống động thường xuyên về Chúa Giêsu không? Người thời nay không quan tâm đến lý thuyết khô cứng. Nếu đức tin của ta chỉ là lý thuyết, thì đức tin đó khó có sức lôi kéo con người. Vì thế, trong mùa Vọng này, chúng ta nên tăng cường đời sống đức tin, cách riêng trong liên hệ thường xuyên với Chúa Giêsu. Ðể khi chúng ta nói về đạo của ta, nhất là dịp Noel, chúng ta không giới thiệu một hệ thống lý thuyết, giáo điều, nhưng là kể về một Ðấng thiêng liêng sống động, mà ta luôn gần gũi và đã có kinh nghiệm bản thân rất sâu sắc từ lâu. Ngoài định hướng kể trên, chúng ta còn một việc khác, nên đem ra thực hành, để dọn mình mừng Chúa giáng sinh. Việc đó là sự từ bỏ mình, theo gương Chúa Giêsu.
2/ Từ bỏ mình, để hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha Tu đức luôn nhắc đến một điều kiện rất cần để nên môn đệ Chúa Giêsu. Ðiều kiện đó là cố gắng sống theo gương Chúa Giêsu. Gương Chúa Giêsu đã được thánh Phaolô tóm tắt lại bằng mấy dòng trong thư gởi giáo đoàn Philiphê: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngàng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Ðọc đoạn thư trên đây, chúng ta thấy gương sáng nổi bật nơi Ðấng Cứu thế là sự từ bỏ mình, khiêm nhường, và tự nguyện hy sinh, để cứu chuộc loài người. Những đức tính trên đây đang được nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam thực hiện. Nhiều người đã than phiền rằng: Trước đây, khi hoàn cảnh tại Việt Nam còn nhiều khó khăn, thì các môn đệ Chúa tại đây đã là những chứng nhân sáng lạn về đức tin, đức ái, đức khiêm nhường, đức khó nghèo, đức vâng lời và sự từ bỏ mình. Chính đời sống họ nhắc nhở về Noel xưa của Chúa Cứu thế. Còn bây giờ hoàn cảnh được thông thoáng, thì lại xảy ra nhiều dấu chỉ về tình trạng đạo đức xuống dốc. Chính đời sống nhiều kitô hữu đã và đang làm lu mờ hình ảnh Ðấng Cứu thế. Nghe mà thấy buồn và lo âu. Vì thế mùa Vọng này, chúng ta nên cầu nguyện, hồi tâm và sám hối nhiều hơn. *** Với nhận thức mình yếu đuối tội lỗi, chúng ta cùng Ðức Mẹ sống thân mật với Chúa Giêsu, trong tinh thần xin vâng và thanh luyện. Chúng ta tin tưởng: Chúa Giêsu sẽ đến với ta như một Ðấng Cứu thế nhân hậu, đem lại niềm vui thiêng liêng đầy tình yêu thương xót. Không những chỉ trong mùa Vọng, mà là suốt cả cuộc sống ta, đời này và đời sau vô cùng, vô tận. Long Xuyên, ngày 24 tháng 11 năm 2006
Ðể mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta thường tăng cường cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và Bùi-Tuần 1713
Ðể mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta thường tăng cường cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn. Ðó là những việc chung chung. Nhưng khi muốn việc cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn dễ sinh hiệu quả tốt, chúng ta nên tập trung vào một vài điểm cụ thể. Ðiểm cụ thể nên chọn lúc này là gì? Thưa tuỳ cái nhìn của mỗi người. Riêng tôi, tôi chọn vấn đề ơn gọi được sai đi. Lý do chọn là vì:
1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần. 2/ Ơn gọi được sai đi hiện nay đang được sống nhiều cách tại Việt Nam để làm chứng cho mầu nhiệm giáng sinh. Tôi xin phép chia sẻ vắn tắt từng điểm. 1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần Chúa Giêsu xuống trần, là do Chúa Cha sai đi với mục đích rõ ràng. Tác giả thư gởi dân Do Thái đã ghi lại âm vang lời Chúa Giêsu thưa cùng Ðức Chúa Cha: “Ðức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề luật. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,8). Ðoạn thư trên đề cao sự Ðức Giêsu xin vâng thánh ý Chúa Cha sai Người xuống thế. Trong tinh thần vâng phục của kẻ được sai đi, Chúa Giêsu suốt cuộc đời dưới thế đã chỉ thi hành ý Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Ðấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì” (Ga 12,49). Không phải chỉ mọi lời Ðức Kitô nói ra đều do Chúa Cha sai Người phải nói, mà cả đến việc nạp mình chịu tử nạn cũng do chính Chúa Cha muốn Người thực hiện. Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Như vậy, suốt cuộc đời trần thế của Ðức Giêsu từ khi sinh ra cho đến chết đều tóm gọn lại một lời: Chúa Cha đã sai con, và con đã hoàn toàn vâng phục thực thi thánh ý Chúa Cha. Nhân vật quan trọng thứ hai trong biến cố Chúa giáng sinh là Ðức Mẹ Maria. Cuộc sống của Ðức Mẹ cũng đã được tóm gọn lại trong lời “xin vâng” trong ngày thiên thần truyền tin cho Ðức Mẹ. Nhân vật thứ ba ta thấy trong hang đá Belem là thánh Giuse. Ðời Ngài là một gương sáng về sự vâng phục thánh ý Chúa một cách mau lẹ, khiêm tốn, âm thầm. Ðức Mẹ và thánh Giuse đều là những người được Chúa gọi và được Chúa sai đi cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa Cứu thế. Chúa gọi và sai các Ngài bằng nhiều cách khác nhau. Như bằng sự thiên thần hiện ra với Ðức Mẹ, bằng cách báo mộng cho thánh Giuse, bằng cách Chúa gợi ý cho Ðức Mẹ đi thăm bà Isave. Nhưng Chúa cũng gọi bằng những biến cố thời sự, như lệnh vua truyền kiểm tra dân số, sự kiện dân làng Belem không còn chỗ trọ cho việc trọng đại Chúa Trời giáng sinh. Nhiều chi tiết chỉ là thời sự chung, nhưng trong đó có thánh ý Chúa. Ðức Mẹ và thánh Giuse đã đọc được ơn gọi mà thánh ý Chúa gởi cho mình trong thời sự lịch sử. Các Ngài đã nhận ra các chi tiết về ơn gọi của mình nhờ ơn Chúa Thánh Thần và nhờ quy chiếu các sự kiện xảy ra vào những lời Chúa đã ghi trong Kinh Thánh, nhất là qua các tiên tri đã nói trước về hình ảnh và cuộc đời Ðấng cứu thế sẽ đến. Ðấng đó sẽ hoà mình với những khổ đau của lớp người bị loại trừ, với mục đích đổi mới tâm hồn con người. Mong họ biết tìm về hạnh phúc được chung hưởng niềm hoan lạc bất tận bên người Cha đầy tình yêu thương xót. Như thế, cả ba nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa giáng sinh đều là những Ðấng đã sống ơn gọi được sai đi một cách triệt để. Còn hiện nay thế nào?
2/ Hiện nay tại Việt Nam ơn gọi sai đi để làm chứng cho mầu nhiệm Chúa giáng sinh được nhận thấy dưới nhiều hình thức a) Hình thức thứ nhất là đời sống đạo đức nơi những con người sống động. Họ giới thiệu mầu nhiệm giáng sinh bằng chính đời sống của họ. Ðó là đời sống luôn vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa về họ được họ nhận ra từ Lời Chúa, từ Hội Thánh, từ thời sự, từ những biến cố riêng tư xảy ra cho họ, từ những cái nhìn sâu sắc về tình hình hiện tại và tương lai, từ trách nhiệm luôn đi liền với ơn được làm con Chúa. Lãnh vực mà người ta dễ nhận ra sự đạo đức của họ là lãnh vực bác ái, dấn thân phục vụ, chia sẻ cuộc sống người nghèo khổ. b) Hình thức thứ hai là sự kính trọng đối với Hội Thánh và những người được Chúa gọi và sai đi để làm chứng cho Chúa trong mọi lãnh vực đạo đời. Giáo Hội Việt Nam vốn có thói quen kính trọng và thảo hiếu đối với các người được Chúa gọi và sai đi. Thói quen đó đã trở thành truyền thống. Các người mà truyền thống lòng đạo ở Việt Nam dành cho sự kính trọng và hiếu thảo cách riêng thường là các vị được chọn bởi chính Ðức Giáo Hoàng là vị đại diện Chúa ở trần gian. Các ngài vẫn mang những giới hạn của con người yếu đuối, nhưng khi được Chúa thương gọi và sai đi, các ngài nên được chúng ta nhìn một cách tế nhị và thương cảm, với những lời cầu nguyện và hy sinh dâng lên Ðấng đã gọi và sai các ngài. c) Hình thức thứ ba là thiện chí làm những việc lành nhỏ, để dâng cho Chúa Hài Ðồng.
Tôi thấy thời nay, rất nhiều người Việt Nam đang đi tìm nơi, tìm người, tìm đạo, để đặt hy vọng. Họ đi tìm bằng những việc lành nhỏ, những lời cầu nhỏ, những khát vọng nhỏ. Tôi có cảm nghĩ là họ cũng được ơn gọi và được sai đi qua một động lực âm thầm của Chúa. Sự kiện đó ứng nghiệm lời Chúa phán xưa là: Có nhiều điều “Chúa chỉ mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21). *** Ðể kết, tôi muốn nói lên ở đây một cảm tưởng rất chân thành của tôi. Cảm tưởng đó là: Nước Chúa tình yêu vẫn tiếp tục được nhiều tâm hồn Việt Nam đón nhận. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là mọi sự diễn ra dễ dàng. Xưa các Ðấng được sai đi tại Belem để cứu đời, đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, chia sẻ cuộc sống những người nghèo khổ. Nay mọi người đều mong tất cả các môn đệ Chúa được sai đi cứu đời tại Việt Nam này cũng tiếp tục đi con đường đó, theo hoàn cảnh của mình. Xin cầu nguyện cho nhau và xin nâng đỡ nhau trong ơn gọi được sai đi, nhất là trong thời buổi khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Ðặc biệt là hãy tỉnh thức. Bởi vì Noel năm nay loan báo một tương lai không phải sẽ nhiều bình an, mà là sẽ nhiều lo âu trăn trở cho mọi người thiện chí thiện tâm. Long Xuyên, ngày 30 tháng 11 năm 2006
Trước hết, tôi xin thân ái cảm ơn Ðức Cha Trần Xuân Tiếu. Ngài đã có sáng kiến đưa vào cuộc Bùi-Tuần 1714
Trước hết, tôi xin thân ái cảm ơn Ðức Cha Trần Xuân Tiếu. Ngài đã có sáng kiến đưa vào cuộc gặp gỡ thân mật dịp Noel này nhiều ý nghĩa tốt đẹp đạo đời. Cùng với Ngài, tôi xin cảm ơn và chúc mừng Quý vị Ðại diện chính quyền các cấp trong giáo phận Long Xuyên. Nhân dịp này, tôi xin phép chia sẻ vắn gọn suy nghĩ của tôi về 02 Huân Chương, mà Cụ Chủ Tịch Nước đã trao tặng cho hai chức sắc giáo phận Long Xuyên, trong đó một vị đã qua đời. Ðại đoàn kết dân tộc, mà 02 Huân chương này tôn vinh là một giá trị rất quý giá. Tôi thiết nghĩ: Ðại đoàn kết dân tộc ghi trên 02 Huân chương này là công trình không phải của riêng chúng tôi. Nhưng đây là của chung bao người tại địa phương chúng ta, gồm cả Ðời cả Ðạo, thuộc các tôn giáo bạn và trong các giới đồng bào. Chúng ta, dù mỗi người có cái tâm và cái tầm khác nhau. Nhưng vì công ích, chúng ta đã cùng nhau đồng hành với dân tộc nhất là trong những giai đoạn khó khăn của lịch sử. Riêng hai tấm Huân chương này còn âm thầm ghi nhận nhiều phấn đấu tế nhị của không ít người công giáo. Họ vừa ý thức và vừa kinh nghiệm: việc sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc không phải luôn dễ dàng. Nhưng, nhờ ơn Chúa, hiệu quả đã rất tốt: Tình hình xã hội được ổn định, Ðạo được phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Tôi hy vọng: Hai Huân chương này không phải chỉ là dấu ấn của một quá khứ tốt đẹp, mà còn là một kêu gọi hướng về tương lai có nhiều cơ may và nhiều thách đố mới. Tương lai này sẽ phát triển tốt, nếu được lãnh đạo bởi những bản lãnh sáng suốt, giàu tính Ðại đoàn kết dân tộc. Sau cùng, tôi xin Quý vị chính quyền An Giang làm ơn kính chuyển tới Cụ Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lời tôi cảm ơn trân trọng và lời chúc mừng dịp lễ Noel và năm mới, với những tình cảm thân thiết nhất của tôi. Toà Giám Mục Long Xuyên, ngày 21 tháng 12 năm 2006
Cứ cuối năm dương lịch,tôi lại bước vào ba năm mới: Một là năm mới Phụng vụ. Năm mới này Bùi-Tuần 1715
Cứ cuối năm dương lịch,tôi lại bước vào ba năm mới: Một là năm mới Phụng vụ. Năm mới này bắt đầu từ mùa Vọng, trước lễ Giáng sinh. Hai là năm mới Dương lịch. Năm mới này bắt đầu ít ngày sau lễ Giáng sinh. Ba là Năm mới Âm lịch. Năm mới này bắt đầu một thời gian sau tết Dương lịch. Mỗi khi bước vào những năm mới đó, tôi thấy mình cũng có cái gì mới. Riêng những năm mới hiện nay, cái mới nhất đang đến với tôi là tuổi già sức yếu. Cái mới đó là một biến chuyển nhất định. Càng ngày tôi càng biến chuyển thêm theo hướng đi xuống. Tôi cảm nghiệm sự thực đó rõ ràng. Nhận thức sâu sắc về “sự phải đến sẽ đến”, tôi muốn tâm sự với các độc giả thân yêu những gì tôi cho là quan trọng nhất. Tôi ráng làm, khi tôi còn sức chia sẻ. Ðề tài tôi xin chia sẻ hôm nay là phiên dịch đức tin. Lý do chọn vấn đề Hiện nay, đâu đâu trong Hội Thánh Việt Nam cũng nói về vấn đề đức tin, như: Sống đức tin, học hỏi về đức tin, rao giảng đức tin, làm chứng cho đức tin, cộng đoàn đức tin. Nêu vấn đề đức tin trong hoàn cảnh này là rất cần. Nhưng một câu hỏi sẽ được đặt ra liền đó là: Ðức tin phải thế nào? Vì tầm quan trọng của câu hỏi, nhiều người đã trả lời. Hôm nay, tôi chỉ xin góp phần nhỏ. Hy vọng phần nhỏ này cũng được coi là một thiện chí. Một trả lời Ðức tin phải được phiên dịch ra hành động. Rất nhiều nơi Kinh Thánh đã dạy: Ðức tin nơi mỗi người cần phải được phiên dịch ra hành động. Thánh Giacôbê tông đồ rất dứt khoát về điều đó. Ngài viết: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Ðức tin có thể cứu người ấy được chăng?... Ðức tin không có hành động thì quả là đức tin chết... Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi... Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,14-26). Như vậy, dựa vào Kinh Thánh, chúng ta nhìn nhận và xác tín vững vàng: Chỉ tin suông, dù tin đúng và tin đủ hệ thống giáo lý, cũng sẽ không cứu rỗi được ta đâu. Nhưng tin phải đi đôi với hành động. Nói cách khác, đức tin phải được phiên dịch ra hành động, mới là đức tin cứu rỗi. Tới đây, xuất hiện một lý do rút ra từ thời sự, khiến ta phải suy nghĩ thêm. Lý do đó là hiện nay hiện tượng chọn lựa hành động, để phiên dịch đức tin, càng ngày càng mang tính chất đa dạng, tự chọn và buông lỏng. Xin vắn tắt nêu lên một ít ví dụ: Nếu Hội Thánh Việt Nam được ví như một đoàn tàu nhỏ được lệnh ra khơi, thì tôi thấy: - Có tàu vẫn cắm neo tại chỗ. - Có tàu đi rất chậm. - Có tàu bị lắc lư giữa sóng gió. - Có tàu bị thủng. - Có tàu muốn quay trở lại. Cắt nghĩa tại sao, thì người ta đưa ra rất nhiều lý do: Tại thuyền trưởng, tại các người trong tàu, tại ngoại cảnh. Nếu Hội Thánh Việt Nam được ví như đoàn dân Chúa lên đường, thì tôi thấy: - Có nhóm đi về hướng đền thờ. - Có nhóm đi về hướng vùng sâu vùng xa. - Có nhóm thích dừng lại ở xóm giàu. - Có nhóm tự nguyện sống giữa xóm nghèo, chia sẻ cuộc sống nghèo. - Có nhóm dấn thân vào các ngóc ngách của xã hội, để hiện diện với nhiều tình yêu và hy sinh. - Có nhóm đi giữa đời thường với lương tâm trách nhiệm. - Có nhóm hoà mình vào lớp người hưởng thụ, khoác lác, quậy phá. - Có nhóm nhởn nhơ, lười biếng, chậm chạp, không phấn đấu. Hỏi lý do tại sao, thì người ta cũng đưa ra nhiều trả lời khác nhau, như: Tại người đứng đầu, tại cộng đoàn, tại ngoại cảnh. Trước một tình hình như trên, việc chọn lựa hành động để làm chứng cho đức tin, hay để phiên dịch đức tin, chúng ta cần cảnh giác và khôn ngoan bằng ơn Chúa. Nếu không, tôi sợ Ðạo thời khó thì dễ chọn lựa, còn Ðạo thời dễ thì lại khó lựa chọn. Hiệu quả sẽ rất nghiêm trọng cho phần rỗi ta và tương lai Hội Thánh. Một cách giải quyết vấn đề Vấn đề phiên dịch đức tin ra hành động là vấn đề không phải chỉ đặt ra trong những trường hợp đặc biệt, mà là vấn đề của đức tin đời thường. Vì thế tôi xin phép trình bày một cách giải quyết nhẹ nhàng dễ nhớ. Giải quyết này tất nhiên dựa trên Kinh Thánh.
1/ Cuộc đời ta là một hành trình cùng với Ðức Kitô “đi về với Chúa Cha” (Ga 14,12). Hành trình này được thực hiện bằng những tâm tư của ta hướng về Chúa, lòng ta lắng nghe thánh ý Chúa, trót bản thân ta và trọn đời ta thực thi thánh ý Chúa, mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. 2/ Thánh ý Chúa rõ ràng nhất là: Ta tin “Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Nên ta sẽ đi về với Chúa bằng những bước tình yêu, bác ái. 3/ Tình yêu, bác ái là điều răn mới cực kỳ quan trọng Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Chúa (x. Ga 14,34). Tình yêu, bác ái là đặc điểm của người môn đệ Chúa (x. Ga 14,35). 4/ Tình yêu, bác ái là nhân đức trọng nhất. Hãy đọc lại bài ca bác ái do thánh Phaolô viết: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có tất cả đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3). Khi ta phiên dịch đức tin của ta ra đức ái, ta chắc chắn sẽ được an tâm, ơn Chúa sẽ ở trong ta và đến với các tâm hồn. Giải quyết cách khác có thể sẽ mắc mưu ma quỷ, xác thịt và thế gian. Thiết nghĩ cách giải quyết trên đây cần được nắm vững trong việc đào tạo mình và tín hữu hôm nay. Tôi rất được khích lệ, khi nhìn vào gương nhiều vị giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân sống bác ái, để làm chứng cho đức tin của mình. Cho dù hành động đức ái nơi các chứng nhân ấy nhiều khi chỉ là sống trong đau khổ, cả phần xác lẫn phần hồn. Gương sáng của các chứng nhân đó gợi cho tôi nhớ lại lời Ðức Giêsu đã phán xưa: “Thật, Thầy bảo thật với các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó thối đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Bị chôn vùi, bị thối đi, nhưng vẫn yêu thương. Yêu thương trong đau khổ là một cách phục vụ Tin Mừng, một thánh lễ sống động, một bài ca ngợi khen Thiên Chúa, một giá trị thiêng liêng xây dựng hoà bình. Những tư tưởng trên đây đang đưa tôi vào năm mới, và sẽ hướng dẫn tôi trên quãng đời còn lại. Tôi tin sau cùng tôi sẽ gặp được Cha giàu tình yêu thương xót đang đợi tôi ở cuối đường. Cũng với niềm tin đó, tôi luôn hiệp thông với mọi người con Chúa, đưa lòng mình vào bài kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Năm mới, xin cầu chúc Hội Thánh Việt Nam tiếp tục ra khơi, tiếp tục lên đường với đức tin được phiên dịch ra bác ái. Long Xuyên, ngày 31 tháng 12 năm 2006
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Bùi-Tuần 1716
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở. Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu? Tất nhiên là nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu, nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn sáng suốt. Bây giờ, Ðạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo. Ðó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy hiểm cho Ðạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong thời cạnh tranh giữa các giá trị. Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng. Mù quáng trong sống đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy.
1/ Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các kinh sư và Pharisêu: “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành tín... Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,23-24). Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những giá trị phụ.Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm, khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam.
2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập mình thường xuyên Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn, Ngài đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu hữu hình xung quanh ta. Ðó là những thứ văn hoá đồi truỵ, những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích huỷ hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng. Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỷ dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả. Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà còn nhởn nhơ hoà nhập và tích cực cộng tác vào những cái xấu của chúng.
3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải” (Lc 12,56-57). Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa muốn ta làm: Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta. Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta xót thương người khác, như Chúa thương xót ta. Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi họ trong thời đại này.
4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch sử nhân loại Phúc Âm thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón Người” (Ga 1,10-11). Ðọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích, qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và thất bại của ta, qua các nền văn hoá chất lượng, qua các sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể, trong và ngoài Ðạo ta. Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai hoạ kinh khủng. *** Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Ðạo Chúa thời khó thì chất lượng phát triển. Ðạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy thoái. Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hoá dân tộc là văn hoá một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất nhiên văn hoá đó và tôn giáo đó không phải là công giáo. Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất cần cầu nguyện. Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với những nghiên cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước, khu vực và thế giới, đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ. Long Xuyên, ngày 8 tháng 01 năm 2007
Mỗi tín hữu có thể và phải làm chứng cho đức tin của mình. Có nhiều cách làm chứng. Cách làm Bùi-Tuần 1717
Mỗi tín hữu có thể và phải làm chứng cho đức tin của mình. Có nhiều cách làm chứng. Cách làm chứng tốt nhất và chắc chắn đẹp lòng Chúa nhất là làm chứng bằng hành động bác ái. Hành động bác ái cũng gồm nhiều thứ. Giáo lý công giáo diễn tả bác ái bằng kinh 14 mối thương xót. Thương linh hồn 7 mối, thương xác 7 mối. Ðó là một liệt kê khá chi tiết. Năng đọc kinh đó là một thói quen tốt. Ðức ái mang đức tin sẽ thấm dần vào tâm thức chúng ta. Nhờ đó suốt đời sống đức tin của ta sẽ toả hương bác ái, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Riêng trong hoàn cảnh bệnh tật, già yếu, nhất là vừa già yếu vừa bệnh tật, người tín hữu thường thực hiện hành động bác ái nào, để làm chứng cho đức tin của mình? Thưa hành động phổ biến luôn cao cả và luôn có thể thực hiện được, đó là cầu nguyện. Kinh nghiệm cho thấy: Hoạt động cầu nguyện nơi nhiều người già yếu bệnh tật là một bài học sống động cho chúng ta. Bài học sống động đó đã dạy chúng ta những gì? Dạy nhiều lắm. Riêng đối với tôi, mấy điều tôi học được sau đây trong cầu nguyện của người già yếu đau bệnh được tôi kể là rất quý giá. Hôm nay tôi xin chia sẻ vắn tắt.
1/ Cầu nguyện an ủi Tôi thường theo gương các người bệnh tật già yếu mà cầu nguyện. Hiệu quả là tôi được nhiều an ủi . Lý do đơn giản tôi cảm được là tôi nhận thức sâu sắc: Tôi thuộc về Chúa. Thánh Phaolô viết: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho mình, cũng như không ai chết cho mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8). “Thuộc về Chúa”, đó là một ơn huệ lớn lao, một hạnh phúc sâu thẳm. Ơn huệ đó, hạnh phúc đó, tôi vẫn tin từ nhỏ, và càng tin trong suốt thời trẻ trung hăng say hoạt động. Nhưng khi về già, khi mà bệnh tật mỗi ngày mỗi thu hẹp lại sức sống của tôi, tôi cảm nhận được ơn huệ đó, hạnh phúc đó rõ ràng hơn. Tôi tin mình thuộc về Chúa nhiều hơn và đang gần tới nhà Chúa hơn. Thành ra, cầu nguyện trong yếu đau đã trở thành một nguồn hạnh phúc mới cho tôi. Tôi mong và cầu cho mọi người, nhất là những người thân, để họ cũng cảm nhận được nguồn hạnh phúc “mình thuộc về Thiên Chúa tình yêu”.
2/ Cầu nguyện cứu độ Khi còn trẻ, đôi khi tôi sống đạo, làm mục vụ và truyền giáo theo những hướng đạo đức khác nhau, tuỳ theo sự phán đoán dựa trên thời thế và trào lưu. Nhưng khi cầu nguyện trong những hoàn cảnh bệnh tật có phần nào giống cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây Dầu và trên thánh giá, tôi thấy rõ con đường làm sáng danh Chúa nhất, có sức góp phần vào công trình cứu thế của Chúa Giêsu, chính là rao giảng Tin Mừng bằng đời sống đau đớn, từ bỏ chính mình, vì mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô viết: “Hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Ðức Kitô, mà là Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,2). Chính vì nhận thức được chân lý đó, nên, khi cầu nguyện lúc tuổi già đau yếu, tôi được bình an hơn, đôi lúc thêm phấn khởi, vì thấy mình được Chúa thương chọn cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Ðó là một hành động bác ái âm thầm, như một lễ vật của tình yêu hy sinh.
3/ Cầu nguyện soi sáng Ðôi khi, lúc còn trẻ, khi may mắn gặt hái được vài thành công, tôi phải đấu tranh với mình, để đừng tự mãn. Nhưng khi cầu nguyện trong những yếu đau của tuổi già mệt mỏi, tôi dễ nhận được ơn Chúa soi sáng, để biết rõ sự thực về mình: Mình rất yếu đuối, mình chẳng là gì, mình chẳng đáng gì, mình chẳng có gì đáng tự hào. Tôi dễ đón nhận ơn Chúa soi sáng qua lời thánh Phaolô dạy: “Tôi xin nói với từng người trong anh em: Ðừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm 12,3). Theo đức tin, mà Chúa đã ban cho tôi, thì tôi không làm được điều gì tốt, nếu không nhờ Chúa. Vì Chúa phán: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Chính lời Chúa phán trên đây cũng dạy tôi về sự biết đầu tư vào kho tàng ơn cứu độ, lúc tuổi già sức yếu. Ðầu tư đó hệ tại biết làm mọi việc lớn nhỏ trong tuổi già với lòng mến hết sức trọn vẹn, biết chịu mọi đớn đau lớn nhỏ trong suốt thời gian già yếu, dù dài dù vắn, với lòng khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa. Như vậy, cầu nguyện trong đau đớn sẽ trở thành một cách nhận lãnh ánh sáng của Chúa cho mình và cho nhiều người trên đường về quê trời.
4/ Cầu nguyện đổi mới Trước đây và ngay hiện nay, chúng ta thường nghe nhiều từ “đổi mới”. Trên thực tế, chúng ta cũng thường thấy nhiều đổi mới ở nhiều lãnh vực. Trong các chương trình đời đạo, chúng ta cũng được lôi kéo đến nhiều kế hoạch đổi mới. Tất nhiên, mọi đổi mới đều có cái hay của nó. Nhưng, khi đến tuổi già, bị bệnh tật xâm chiếm, người ta sẽ nhìn rõ nội dung đổi mới. Càng cầu nguyện, càng thấy rõ. Theo kinh nghiệm của tôi, thì những người già yếu bệnh hoạn nếu năng cầu nguyện, sẽ được Chúa Thánh Thần soi sáng cho thấy: Cái cần đổi mới nhất chính là bản thân mình và cách sống của bao người. Ðổi mới mình và nhiều người là: Tất cả hãy biết lãnh nhận ơn được trở nên con cái Chúa, với ơn cứu độ, với ơn được thông hiệp vào sự sống của Chúa, với ơn biết thương yêu nhau, với ơn được về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót, với ơn biết ở lại trong tình thương của Chúa nhân lành. Ðó là ý nghĩa lời nguyện xưa của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23). Như vậy, cầu nguyện của người già yếu bệnh tật có giá trị truyền giáo và xây dựng Hội Thánh. *** Nếu ai thấy bài chia sẻ này còn quá thiếu, hoặc ít hợp thời, thì xin tha thứ cho tôi. Nhưng cũng xin tin rằng: Ðây là một chia sẻ rất chân tình, chỉ do động lực hiệp thông và với hy vọng gởi gắm cho nhau một kinh nghiệm nhỏ của người đi trước. Người già yếu vẫn hoạt động bác ái bằng việc cầu nguyện. Tôi xác tín: Cầu nguyện là sinh hoạt chính của mọi người con Chúa, và phải là sinh hoạt thường xuyên của người già yếu, mặc dầu việc cầu nguyện của người già yếu thường rất đơn sơ. Xin cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta biết lãnh nhận và sống ơn cầu nguyện, một ơn rất quan trọng cho Hội Thánh Việt Nam lúc này. Long Xuyên, ngày 12 tháng 01 năm 2007
Thưa Cụ, xin Cụ có thể nói rõ về mục đích, ý nghĩa và nội dung của chủ đề “Sống đạo hôm nay” Bùi-Tuần 1718
1/ Thưa Cụ, xin Cụ có thể nói rõ về mục đích, ý nghĩa và nội dung của chủ đề “Sống đạo hôm nay” theo tinh thần Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Những ưu tư của Cụ về vấn đề này là gì? GM. BÙI TUẦN: Tôi đã được về hưu nhiều năm. Nên tôi xin trả lời theo giới hạn hiểu biết và thẩm quyền của người hưu. Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam đưa ra chủ đề “Sống đạo hôm nay”. Nội dung nhấn mạnh đến yêu thương phục vụ. Tôi thấy nội dung này rất căn bản Phúc Âm và cũng rất hợp thời. Nếu tôi có ưu tư về vấn đề này, thì không về nội dung, nhưng về áp dụng. Thí dụ: Nếu tôi áp dụng “yêu thương phục vụ” một cách vụng về, nghiêng về phía người giàu hơn phía người nghèo, thì tôi sẽ vô tình chia rẽ nội bộ. Nếu tôi áp dụng “yêu thương phục vụ” một cách hẹp hòi, tập trung vào nội bộ Công giáo, quên phía ngoài Công giáo, thì tôi sẽ vô tình chia rẽ tôn giáo. Nếu tôi áp dụng “yêu thương phục vụ” một cách hồn nhiên, hợp tác với chính quyền, để giải quyết hài hoà các vấn đề tranh chấp trong dân, thì tôi có thể sẽ rơi vào nguy cơ bị một số người kết án tôi là thân cộng, theo nghĩa chia rẽ chính trị. Tôi mong “yêu thương phục vụ” sẽ không chỉ thuộc về tôn giáo, mà cũng thuộc về văn hoá dân tộc Việt Nam. Hình thành được như thế sẽ đòi nhiều cố gắng của mọi người và của mọi giai đoạn lịch sử.
2/ Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế một cách mạnh mẽ, sâu sắc, vấn đề này tác động như thế nào đến đời sống tôn giáo nói chung và đời sống của đồng bào Công giáo ở Việt Nam nói riêng? GM. BÙI TUẦN: Theo thiển ý của tôi, việc hội nhập quốc tế có mặt hữu nghị và cũng có mặt kể như xâm lăng. Xâm lăng về mặt văn hoá là điều tôi lo là có thể xảy ra. Nên phải rất thận trọng.
3/ Cụ đánh giá như thế nào về chính sách tự do, tín ngưỡng của Nhà Nước ta, nhất là sau khi Nhà Nước ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo? GM. BÙI TUẦN: Tôi mong Nhà Nước đối xử với mọi tôn giáo một cách đồng đều. Tôi rất mong các tôn giáo cũng tự biết sống với nhau trong tinh thần tương thân tương ái. Ðiều đó đòi phải có những tế nhị sâu sắc. Thí dụ: Giáo phận Long Xuyên của tôi nằm ở trong miền đất đa số dân theo đạo Phật giáo Hoà Hảo. Bên phía chúng tôi thì mở mang cơ sở, tổ chức lễ lạy, rao giảng giáo lý, một cách khá rầm rộ. Còn phía tôn giáo bạn thì âm thầm. Tôi sợ tình hình như thế có thể gây nên những khoảng cách và thắc mắc đối với một số người không nhỏ.
4/ Trước thềm năm Ðinh Hợi và trước sự kiện Thủ tướng nước ta sắp sang thăm và làm việc tại Toà Thánh Vatican, Cụ giám mục có điều gì chia sẻ, nhắn gởi tới cộng đồng tín hữu Công giáo Việt Nam? GM. BÙI TUẦN: Việc Thủ tướng Nước ta thăm Toà Thánh Vatican, nếu được thực hiện, thì sẽ cho thấy chính sách tôn giáo của Nhà Nước ta không giống của Trung Quốc. Chính sách tôn giáo của Nhà Nước ta là chính sách của một nước độc lập. Tôi nghĩ đây là một sự kiện cần được chuẩn bị rất kỹ về mọi mặt. Vì đây là sự kiện vừa chính trị vừa tôn giáo. Việt Nam có nhiều tôn giáo, cho nên sự kiện này trở nên dễ nhạy cảm. Ngoài ra có thể Toà Thánh sẽ nhắc đến nhân quyền. Còn Việt Nam có thể sẽ nhấn mạnh đến chủ quyền. Do đó chuyến thăm cấp cao này có thể sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ xã giao thông thường. Long Xuyên, ngày 20 tháng 01 năm 2007
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mở ra và cạnh tranh. Nhiều người hoan hỉ. Nhiều người lo âu Bùi-Tuần 1719
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mở ra và cạnh tranh. Nhiều người hoan hỉ. Nhiều người lo âu. Nhiều người dửng dưng. Còn tôi, mới sống cảnh này chưa nhiều, chưa lâu, tôi đã thấy xuất hiện trong tôi những cảm tưởng trái ngược. Có lúc tôi có cảm tưởng như Quê Hương tôi, Hội Thánh tôi đang chào đón những làn gió hữu nghị êm dịu thổi vào từ nhiều biên cương tốt lành. Có lúc tôi lại có cảm nghĩ như Ðất Nước tôi, Giáo Hội tôi đang bị áp lực bởi những đợt sóng xâm lăng tinh vi tràn vào từ các khối trục lợi. Ðiều tôi lo âu nhất là về lãnh vực văn hoá, đạo đức. Tôi thiết nghĩ: Lo âu như vậy không phải là xấu. Ðiều quan trọng là giải quyết lo âu. Tôi giải quyết cho riêng tôi bằng ánh sáng tu đức. Hướng giải quyết sẽ dựa theo Lời Chúa Giêsu đã phán xưa.
1/ Lời Chúa cảnh báo “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: 'Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi cũng bị như vậy” (Mt 12,43-45). Tôi gẫm suy lời Chúa cảnh báo trên đây, để áp dụng vào chính mình và những cộng đoàn công giáo. Tôi thấy có 3 điều trong Lời Chúa trên đây nên để ý đặc biệt. a) Quỷ “thấy nhà để trống” “Nhà” nói đây có thể hiểu về nếp sống mỗi người tín hữu và của mỗi cộng đoàn. Nhà đó bề ngoài vẫn là nhà đạo. Nghĩa là vẫn khoác hình thức đạo. Nhưng bên trong nhà thì trống. Trống nói đây là trống vắng Nước Trời, trống vắng sự sống của Chúa, trống vắng những thao thức về thánh ý Chúa. b) Quỷ “liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó”. Bảy thần khác dữ hơn nó là bảy thần nào? Thưa câu trả lời được tìm thấy trong kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”. Ðó là: quỷ kiêu ngạo, quỷ hà tiện, quỷ dâm dục, quỷ hờn giận, quỷ mê ăn uống, quỷ ghen ghét, quỷ lười biếng. Ðiều đáng ngại ở đây là bảy thần dữ đó được đón vào nhà và chúng ở lại, để ung dung thống trị.
c) “Rốt cuộc, tình trạng của người đó còn tệ hơn trước” Tệ hơn trước vì nhiều lý do dễ thấy. Thí dụ: Bề ngoài, thì ngôi nhà đó vẫn mang tên nhà đạo. Nhưng bên trong thì kinh khủng. Bảy thần dữ tự do tung hoành. Rồi từ đó bốc ra những chất độc hại là tinh thần xấu, lời nói xấu, việc làm xấu. Các chất độc hại này làm ô nhiễm môi trường đạo từ từ, nhè nhẹ, không quá lộ liễu. Nên nhiều người xung quanh bị nhiễm độc mà không hay biết. Ðâm ra mù quáng. Cuối cùng thì lòng đạo sụp đổ. Những gì Chúa Giêsu đã cảnh báo đều đang xảy ra nơi người này, tổ chức nọ. Vậy chúng ta phải làm gì?
2/ Cách đối phó Thiết tưởng, trước hết chúng ta phải đối phó bằng thực hiện Lời Chúa dạy. Chúa phán: “Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Hãy tỉnh thức, và phải tỉnh thức luôn luôn. Tỉnh thức bằng sự hồi tâm, xét mình hằng ngày, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Ðừng chủ quan, đừng dễ dãi với bất cứ thần dữ nào trong bảy quỷ đầu mối tội. Bởi vì bất cứ sự coi thường nào đối với một tên thần dữ cũng sẽ đưa ta vào bẫy. Bị sập bẫy của một quỷ dữ sẽ mở đường cho một chuỗi sập bẫy tiếp theo. Thí dụ khi ai đã sập vào bẫy của quỷ kiêu ngạo, thì các quỷ khác sẽ dễ dàng xâm chiếm tâm hồn kẻ đó. Dần dần toàn thể cuộc đời người đó sẽ bị lôi vào đủ thứ tệ hại. Ðiều tệ hại nhất là rất khó thức tỉnh, sám hối và trở về đàng lành. Ngoài việc tỉnh thức bằng cầu nguyện, chúng ta cũng cần để ý mở rộng tầm nhìn bằng việc học hành. Học hành sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong tư tưởng và cách sống. Thêm vào sự tỉnh thức bằng cầu nguyện và học hành, tôi nghĩ cũng cần biết dè dặt, thận trọng, cân nhắc, vì tình hình chẳng bao giờ đơn giản. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Mọi sụp đổ không bao giờ xảy ra đột ngột. Nó đã có những nứt nẻ, nghiêng lún to nhỏ trước rồi. Có chỗ dễ thấy được. Có chỗ khó thấy được. Sụp đổ về đạo đức cũng vậy. Cá nhân hay cộng đoàn sụp đổ về đạo đức là kết quả của một tiến trình lâu dài. Không tỉnh thức, không cầu nguyện, không học hành, không thận trọng, ta sẽ tụt hậu và yếu dần. Ta sẽ không đối phó nổi các phong trào tư tưởng và lối sống hưởng thụ, thực dụng, đắc thắng và ghen ghét. *** Những gì tôi chia sẻ trên đây có thể sẽ không làm hài lòng một số người nhìn thời mở ra và cạnh tranh như một cơ hội tự hào về những thành công duy vật chất. Nhưng tôi tin rằng số người tìm về chiều sâu tâm hồn vẫn đông. Nhất là Hội Thánh Việt Nam, với “Năm sống đạo hôm nay” của Thư chung mục vụ Hội Ðồng Giám mục Việt Nam, sẽ không bỏ qua bất cứ một thiện chí nào. Hy vọng tương lai sẽ không tệ hơn trước, trái lại sẽ tốt đẹp hơn trước về nhiều mặt, cả vật chất lẫn tinh thần, cả đời lẫn đạo. Thực ra, kết quả sẽ tốt hay xấu, phần lớn là do mỗi người biết dùng hoàn cảnh một cách khôn ngoan hay không. Riêng đối với tôi, khôn ngoan gồm cả phương tiện tự nhiên lẫn siêu nhiên. Thái độ khôn ngoan, tôi vừa nói, giúp tôi liên tưởng đến một sự kiện thời sự. Xin chia sẻ như một tâm tình để kết luận. Tâm tình tôi hướng về việc Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm Toà Thánh Vatican cuối tháng này. Sự kiện lịch sử này vừa là chính trị, vừa là tôn giáo. Tại Việt Nam có nhiều chính kiến, nên sự kiện này đang trở thành vấn đề nhạy cảm. Tại Việt Nam có nhiều tôn giáo, nên sự kiện này cũng là vấn đề rất nhạy cảm. Vì thế, người công giáo Việt Nam chúng ta nên đề cập đến sự kiện này một cách tế nhị và khôn ngoan hợp thánh ý Chúa. Mọi sự phía trước đều là hy vọng. Mà hy vọng vẫn là hy vọng. Thiên Chúa giàu lòng thương xót là chủ mọi hy vọng. Chúng ta khiêm tốn cậy trông nơi Người. Long Xuyên, ngày 18 tháng 01 năm 2007
Những ngày cuối năm, người ta thường sửa sang, dọn dẹp con đường trước nhà mình, sao cho Bùi-Tuần 1720
Những ngày cuối năm, người ta thường sửa sang, dọn dẹp con đường trước nhà mình, sao cho sạch đẹp. Ðó là con đường địa lý, con đường vật chất, con đường hữu hình. Còn có một con đường khác thuộc về tâm hồn, ẩn khuất trong cõi vô hình. Nó càng cần được ta xem lại, sửa sang lại. Bởi vì chính con đường đó sẽ đón ơn Chúa ngày đầu Xuân. Có nhiều cách dọn dẹp con đường thiêng liêng đó. Như cầu nguyện, tĩnh tâm, sám hối, làm việc từ thiện, thực thi các việc hiếu thảo, tình nghĩa trong các tương quan mà mình có bổn phận. Ở đây, tôi xin nhắc đến một việc thiết tưởng rất nên làm. Ðó là nhân dịp cuối năm, ta hãy nhìn kỹ xem: Ðời ta đang đi trên con đường nào? Trên thực tế, có nhiều con đường đang thu hút các cuộc đời. Còn chúng ta, những người sống Lời Chúa phải đi con đường nào? Thưa: Con đường Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là đường Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Ðặc tính của con đường Chúa Giêsu là: - Vâng phục thực thi thánh ý Chúa Cha một cách khiêm nhường. - Yêu thương phục vụ nhân loại một cách khiêm nhường. Khiêm nhường nói đây là chấp nhận nhiều thứ khổ đau suốt đời, để minh chứng cho tình yêu cứu độ dẫn tới phục sinh. Chúa Giêsu đã báo trước về chính Người: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9,22). Lời Chúa Giêsu nói trên đây về chính mình chỉ là một chi tiết về cuộc đời của Người. Còn toàn thể cuộc đời ấy là một chuỗi dài những hy sinh cao cả. Hãy liếc qua chuỗi dài yêu thương phục vụ trọn đời Người. Từ hang đá Belem nghèo khổ, cuộc đi trốn âm thầm sang Ai Cập, 30 năm lam lũ ở Nagiarét, 3 năm đi rao giảng với bao cực nhọc, sau cùng đến Núi Sọ, để bị treo lên thập giá một cách nhục nhã. Tất cả đều vì vâng phục ý Chúa Cha. Tất cả đều để minh chứng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tất cả đều để cứu rỗi nhân loại. Cuộc đời đó của Chúa Cứu thế chính là con đường, mà Người dạy các môn đệ Người hãy bước vào, hãy cùng đi. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. “Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì” (Lc 9,23-25). Các tông đồ đi theo con đường Chúa Giêsu Những đòi hỏi trên đây rất rõ ràng. Các môn đệ Chúa đã đi vào con đường đó không? Thưa các ngài đã đi đến tận cùng. Chúng ta có thể nhìn thấy cuộc hành trình yêu thương phục vụ của các ngài qua bài ca bác ái dưới đây của thánh Phaolô tông đồ: “Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. ... Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,4-13). Các tông đồ của Chúa Giêsu xưa đã đi trên con đường yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu như thế đó. Hội Thánh mọi thời đi theo con đường Chúa Giêsu Còn sau thời các tông đồ thì sao? Thưa, tuy nhiều nơi lòng đạo ngả mạnh về phía đền thờ hơn về phía con người. Nhưng nói chung, các tín hữu vẫn cố gắng sống tinh thần yêu thương phục vụ một cách tin tưởng, theo kinh Tám mối phúc Chúa đã dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, Vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, Vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, Vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, Vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, Vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phúc thay ai xây dựng hoà bình, Vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, Vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3-10). Trên đây là những nét lớn của con đường Chúa Giêsu, mà ngày đầu Xuân hay nhắc tới. Hiện nay, nhiều người vẫn trung thành với nội dung của con đường đó. Ðang khi nhiều người chỉ theo con đường đó một cách hình thức. Tại Việt Nam hôm nay Còn người công giáo tại Việt Nam hôm nay thì sao? Mong mỗi người hãy tự xét mình xem: Lúc này mình đang thực sự đi trên con đường nào? Tôi thấy các phong trào văn minh đủ thứ đang phân hoá đồng bào. Bên cạnh một số người còn giữ được tâm lý quân bình, tôi thấy đang xuất hiện ba loại người sau đây: Loại người rất gắn bó với quá khứ, nghi ngờ hiện tại và tương lai. Loại người sống hết mình với hiện tại, dứt lìa quá khứ, bất cần tương lai. Loại người sống như ảo tưởng với tương lai đầy hứa hẹn, quên hẳn quá khứ, hững hờ với hiện tại. Nếu trong Hội Thánh cũng như thế, thì quả là đáng buồn. Bởi vì Con Ðường Chúa Giêsu phải được liên tục từ quá khứ, với hiện tại và hướng về tương lai. Tất cả đều mang dấu ấn yêu thương phục vụ một cách khiêm nhường. Mong dấu ấn ấy được toả sáng từ chính bản thân người môn đệ Chúa. Mẩu tin vắn sau đây là một chứng từ thuyết phục: Sau sự kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm Toà Thánh Vatican, tôi được may mắn gặp Thủ Tướng qua điện đàm trực tiếp. Trong cuộc điện đàm, tôi được biết: Ðức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã để lại nơi Thủ Tướng một cảm tình thiêng liêng tốt đẹp, do con người của Ðức Giáo Hoàng toát ra một vẻ đẹp đạo đức, nhã nhặn, hiền từ, chân tu, cao thượng. Tôi coi đây là một chứng từ rất đáng suy nghĩ về con đường Chúa Giêsu. Ðức Giáo Hoàng đã giới thiệu con đường đó bằng thái độ, cách sống của Ngài hơn là bằng lý thuyết. Còn chúng ta thì sao? Long Xuyên, ngày 28 tháng 01 năm 2007
Theo TTXVN và các hãng thông tấn nước ngoài AP, Reuters, phái đoàn cao cấp Toà Thánh Vatican Bùi-Tuần 1721
Theo TTXVN và các hãng thông tấn nước ngoài AP, Reuters, phái đoàn cao cấp Toà Thánh Vatican đã tới Hà Nội, bắt đầu đàm phán với các quan chức Việt Nam từ ngày 6/3. Tin này đang được các giới công giáo Việt Nam đón nhận với nhiều hy vọng. Ðể nói lên phần nào tình cảm tích cực đối với cuộc đàm phán này, chúng tôi đã phỏng vấn chớp nhoáng một số nhân vật, độc giả. Dưới đây là những cảm tưởng được ghi lại: 1/ ÐGM. BT: Ðiều tôi mong đợi nhất ở cuộc đàm phán này là vấn đề giám mục được giải quyết tốt và sớm cho những nơi còn thiếu. Danh sách đề cử được thiết lập kỹ do các Ðấng Bản quyền. Toà Thánh điều tra và chọn. Nhà nước thoả thuận, sau khi xem xét về mặt tư cách xã hội. Tình hình Ðất Nước và Giáo Hội đang chuyển biến. Theo tôi, nhân sự Giáo Hội cần phải có đủ khả năng đáp ứng. Thí dụ khả năng đổi mới nếp sống đạo, để đức tin được vừa sâu vừa cởi mở, khả năng góp phần xây dựng sự hợp nhất trong nội bộ, đoàn kết với các tôn giáo bạn, và giúp xã hội thăng tiến. Nhất là khả năng đào tạo các nhân sự nòng cốt trong giáo phận. Ưu tiên, các ngài phải là những chứng tá Phúc Âm giữa một xã hội đang và sẽ bị các trào lưu văn minh thế tục rủ rê và quyến rũ. Hiện nay còn một số giáo phận chưa có giám mục, một số giáo phận gần tới ngày giám mục của mình về hưu, một số giáo phận cần giám mục phó hoặc phụ tá. Kinh nghiệm cho thấy: Tình hình Ðạo của một giáo phận sẽ tuỳ thuộc khá nhiều ở các vị chủ chăn, nhất là Ðấng Bản quyền. Tôi rất mong cuộc đàm phán này sẽ sớm giải quyết vấn đề nhân sự. Còn vấn đề bang giao thì nên giải quyết từng bước. Tôi không muốn bàn tới vấn đề đó. Long Xuyên, ngày 7 tháng 3 năm 2007
Trong tuần Phục sinh và trong mùa Phục sinh, chúng ta có nhiều đề tài để suy niệm về Chúa Phục Bùi-Tuần 1722
Trong tuần Phục sinh và trong mùa Phục sinh, chúng ta có nhiều đề tài để suy niệm về Chúa Phục sinh. Có đề tài do các bài Sách Thánh gợi lên. Có đề tài do hoàn cảnh xã hội đặt ra. Có đề tài do cuộc sống bản thân đưa tới. Có đề tài do Chúa gởi vào lương tâm ta. Riêng đối với tôi, đề tài tôi đang suy niệm là đổi mới. Ðề tài này đến với tôi một cách tự nhiên. Tôi không muốn tìm hiểu nó từ đâu tới. Chỉ biết rằng: Ðổi mới, đối với tôi, vừa là suy tư, vừa là cảm nghiệm. Nó giúp tôi rất nhiều trong việc sống đạo theo hoàn cảnh của tôi, tại Việt Nam hôm nay. Với tâm tình phục vụ, tôi xin chia sẻ vắn gọn.
1/ Ðổi mới cái nhìn về Chúa Giêsu Càng thêm tuổi, tôi càng cảm thấy Chúa Giêsu đến với con người một cách linh động. Linh động về nơi hiện ra, linh động về hình dáng hiện ra, linh động về thời giờ hiện ra, linh động về những người Chúa muốn chọn để hiện ra thăm hỏi. Thực vậy, trong Phúc Âm, đã có những bất ngờ về việc Chúa hiện ra. Như: Hiện ra tảng sáng với bà Maria ở vườn Cây Dầu, nơi có mộ chôn xác Chúa (x. Ga 20,14). Hiện ra ban tối với nhiều môn đệ đang sợ hãi trong phòng đóng kín (x. Ga 20,19). Hiện ra buổi rạng đông với mấy môn đệ đánh cá ở hồ Tiberia (x. Ga 21,4). Hiện ra ban chiều với hai môn đệ đang trên đường đi Emmau (x. Lc 24,13-35). Nơi Chúa hiện ra đều bất ngờ. Thời giờ Người đến cũng bất ngờ. Hình dáng Người tỏ hiện cũng bất ngờ. Những người được gặp Chúa cũng bất ngờ. Ðiều bất ngờ nhất trong mọi bất ngờ là Chúa phục sinh đến như một Ðấng Cứu thế, giàu tình yêu thương xót, đồng hành với những người đang sống trong lo buồn, sợ hãi, chán nản, băn khoăn, bế tắc. Người không tự đóng khung. Chỉ cần bằng cách nào đó họ gọi Người, tìm Người, đợi chờ Người, lắng nghe Người. Người hiện ra bất ngờ, rồi lại biến đi bất ngờ. Những kẻ được Chúa hiện đến viếng thăm phải sống với Người bằng niềm tin. Tin tuyệt đối vào tình yêu thương xót của Người. Tin như thế là phó thác cậy trông không bờ bến. Mùa Phục sinh đã đổi mới cái nhìn như thế về Chúa Giêsu nơi nhiều người, trong đó có tôi. Cùng với sự đổi mới trên đây, mùa Phục sinh đã đổi mới cái nhìn của tôi về thánh giá.
2/ Ðổi mới cái nhìn về thánh giá Tôi gọi thánh giá là cây thập tự, mà Chúa Giêsu đã bị đóng đinh vào, dựng cao lên nơi công chúng, chính trên đó Người đã tắt thở vì đau đớn thể xác và đau khổ tâm hồn. Cái chết của Chúa Giêsu là như thế. Ðâu có chút gì giống những cái chết lẫy lừng vang dội của bao người quyền chức trên thế giới. Trước đó, Chúa Giêsu đã chịu biết bao đau khổ trong cuộc đời. Tất cả những đau khổ ấy cũng gọi được là thánh giá. Thực quá khó hiểu. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với hai môn đệ trên đường Emmau rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thực là chậm tin vào lời các ngôn sứ: Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,25-26). Ðược Chúa Giêsu giải thích và được ơn Chúa đổi mới tâm hồn, các môn đệ Chúa đã có một cái nhìn mới về đau khổ. Ai muốn được chia sẻ vinh quang của Chúa phục sinh sẽ phải vượt qua một số khổ đau xác hồn. Hiểu như thế, con người sẽ thấy nhiều khổ đau mình chịu có một ý nghĩa thiêng liêng cao quý. Sự hiểu biết thấu đáo chân lý đó sẽ được thực hiện không phải chỉ qua các lý thuyết, nhưng phải qua các kinh nghiệm thực tế của đời mình. Ðau khổ là một trường đào tạo. Những đau khổ biết vượt qua vì tình yêu cao cả sẽ gặp được Chúa phục sinh. Do đó, đổi mới cái nhìn về thánh giá luôn đi kèm với việc đổi mới đời mình. Ðời ta phải là cuộc phấn đấu sống theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh được sai đi.
3/ Ðổi mới cái nhìn về sứ mạng được sai đi Khi Chúa phục sinh hiện đến với các môn đệ, Người phán: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Bấy giờ, các môn đệ hiểu sự Chúa Giêsu sai các ngài đi là một sứ mạng vinh quang. Bởi vì sứ mạng được sai đi của các ngài gắn liền với sứ mạng của Chúa Giêsu, và bắt nguồn từ chính Chúa Cha. Hơn nữa sứ mạng đó được hỗ trợ bởi chính Chúa Thánh Thần: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Các ngài được sai đi, để làm gì? Chúa Giêsu xác định: “Phải nhân danh Ðức Kitô mà rao giảng cho mọi người sự sám hối để họ được ơn tha tội” (Lc 24,47). Rao giảng trước hết bằng chính mình khiêm nhường sám hối. Gương sám hối của thánh Phêrô là một bài giảng thuyết phục. Những lời Chúa phục sinh nói với các môn đệ đã đổi mới cái nhìn về sứ mạng được sai đi của bao người chúng ta. Khi hiểu đúng sứ mạng đó, chúng ta sẽ có nhiều sáng kiến do Chúa Thánh Thần soi dẫn, để đi vào dân. Dân gần chúng ta, dân xa chúng ta. Chúng ta không được Chúa hứa sẽ nhìn thấy kết quả của sứ mạng Chúa sai chúng ta. Nhưng chúng ta được Chúa hứa là: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). *** Với sự đổi mới cái nhìn về Chúa Giêsu, về thánh giá, về sứ mạng được sai đi, biết bao môn đệ Chúa đang được Chúa phục sinh đồng hành tại quê hương Việt Nam. Ðiều đáng mừng nhất là họ đổi mới sâu sắc chính mình thực sự. Dù âm thầm, họ vẫn là hy vọng cho một Giáo Hội đang phục vụ trong tình yêu và chân lý cứu độ. Do đó, đổi mới trong phục vụ đang trở thành một vấn đề nhạy cảm cho việc sống đạo tại Việt Nam hôm nay. Long Xuyên, ngày 7 tháng 4 năm 2007
Ðất nước Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn này được gọi là hiện đại hoá. Hiện đại Bùi-Tuần 1723
Ðất nước Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn này được gọi là hiện đại hoá. Hiện đại hoá ví như ngọn gió làm tươi mát đồng bào. Giáo Hội Công giáo trên đất nước Việt Nam cũng theo đó mà hiện đại hoá. Có nhiều dấu chỉ cho thấy hiện tượng hiện đại hoá trong Giáo Hội Việt Nam như: - Nâng cao vẻ đẹp của các cơ sở tôn giáo. - Nâng cao trình độ văn minh của các nhân sự tôn giáo. - Nâng cao các tổ chức tôn giáo lên tầng cao mới. - Nâng cao các phương tiện phượng tự lên những giá trị nghệ thuật hiện đại. Những đổi mới đó giúp cho bộ mặt Hội Thánh tại Việt Nam có một chỗ đứng đáng nể trong giai đoạn mới này. Nhưng, nếu chỉ nhắm duy mục đích đó, thì chưa đáp ứng nhu cầu sứ mạng thiêng liêng của mình. Ðể nhắc nhở về sứ mạng thiêng liêng Chúa trao cho, thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhấn mạnh đến phục vụ. Có thể hiểu là mọi việc của hiện đại hoá đều phải nhắm vào mục tiêu phục vụ. Phục vụ nói đây phải thế nào? Thưa phải thực hiện trong yêu thương. Ðây không phải là một dạy bảo mới. Nó chỉ là một nhắc nhở cần để ý cách riêng trong việc sống đạo thời hiện đại hoá này. Suy gẫm nhắc nhở trên đây theo lý thuyết và kinh nghiệm, tôi có vài nhận định sau đây:
1/ Yêu thương trong phục vụ cần luôn trở về với những gì tuyệt đối Hiện đại hoá là một giai đoạn khám phá. Thực tế cho thấy người ta nỗ lực khám phá đủ mọi giá trị. Như: - Giá trị kinh tế. - Giá trị khoa học. - Giá trị nghệ thuật. - Giá trị văn hoá. - Giá trị luân lý. - Giá trị trí thức... Tất cả những khám phá đó đều tương đối. Chính các giá trị đó cũng là tương đối. Nhưng có một thực tại luôn tuyệt đối, đó là Thiên Chúa. Người không phải là một giá trị, mà là một hiện diện giữa mọi giá trị. Khi khám phá các giá trị, để hiện đại hoá cuộc sống, người ta thường nhìn ra ngoài. Còn khi tìm sự hiện diện của Chúa giữa các giá trị, người ta cần có cái nhìn hướng vào nội tâm. Chúa hiện hữu ở đó với sự tuyệt đối đời đời. Người không là một lý tưởng của hiện đại hoá, mà là một sự sống đời đời kêu gọi ta tham dự. Ai gặp được Người, Người sẽ giúp cho mọi việc hiện đại hoá của họ có những giá trị mang sự sống thực. Trong giai đoạn hiện đại hoá của xã hội, Hội Thánh phải nêu gương trung thành với Thiên Chúa tuyệt đối của mọi tạo vật.
2/ Yêu thương trong phục vụ cần biết lựa chọn nền văn hoá sự sống Có những hiện đại hoá mang đến sự chết, bởi vì nó bị cuốn hút vào những mê hoặc dẫn con người đến tội lỗi. Thực tế cho thấy có những con đường hiện đại hoá, tuy có phần nào tốt cho nền văn minh vật chất, nhưng lại tàn phá nếp sống đạo đức. Con người trở nên truỵ lạc. Xã hội từng bước trở về nếp sống vô luân. Còn tệ hơn là thời mọi rợ. Hiện nay, cảnh buôn người, phá thai, khủng bố, đề cao hận thù, cạnh tranh bất chính, đó là một báo động về một nền văn minh sự chết. Xem như một thời mọi rợ kiểu mới đang hình thành. Nhận thức như thế, việc hiện đại hoá đất nước và Hội Thánh đòi một tinh thần cảnh giác cao. Nhất là đừng quên việc hiện đại hoá đòi một thái độ sáng suốt can đảm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác, giữa sự sống và sự chết.
3/ Yêu thương trong phục vụ cần thấy rõ bậc thang giá trị và biết chọn những ưu tiên đúng Khi được hỏi về ưu tiên nên chọn để đáp ứng nhu cầu mục vụ trong giai đoạn hiện đại hoá này, nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam đã có những chọn lựa khác nhau. - Người thì chọn việc xây cất các cơ sở tôn giáo sao cho đẹp. - Người thì chọn việc các giáo sĩ phải học tiếng Anh sao cho giỏi. - Người thì chọn việc quy tụ giáo dân sao cho đông. - Người thì chọn việc dấn thân vào các sinh hoạt xã hội, sao cho Hội Thánh có mặt và phục vụ rộng rãi. - Người thì chọn việc đào tạo nhân sự, sao cho có đức có tài. Tôi nghĩ việc chọn ưu tiên sẽ tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi nơi và mỗi lúc. Nhưng trong bất cứ hình thức nào, việc phục vụ vẫn phải chuyển tải tình yêu, bình an và sự thực. Nhờ vậy, người phục vụ luôn là người của Chúa, luôn phục vụ do động lực mến Chúa yêu người. Thời nay, con người được đánh giá ở các tương quan của họ. Ai xây dựng được những tương quan tình yêu, sự thực và bình an, sẽ được gọi là người phục vụ có giá trị. Những người tin theo Chúa, muốn đời mình trở nên có ý nghĩa nhờ phục vụ, nên chọn những ưu tiên có khả năng diễn tả tình yêu, bình an và sự thực trong đời sống của mình. Họ sẽ được Chúa chúc phúc và đồng hành.
4/ Yêu thương trong phục vụ cần mở rộng số người phục vụ, lãnh vực phục vụ, việc phục vụ và cách phục vụ. Trong giai đoạn hiện đại hoá của Việt Nam hôm nay, Hội Thánh tại Việt Nam có thể đóng góp nhiều cho quê hương. Cần có những người làm được và được làm. Không phải mọi người công giáo chúng ta đều là thế. Nên những ai làm được và được làm đáng được chúng ta khuyến khích và trân trọng. Họ sẽ khôn ngoan mở rộng phục vụ. Họ sẽ vui mừng được thấy Hội Thánh có nhiều người dấn thân phục vụ. Nhiều người phục vụ, với nhiều cách khác nhau, trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đạo cũng như ngoài đời. Vì thế, tinh thần phe phái, cục bộ, thành kiến cần phải dẹp bỏ. Trái lại, tinh thần hiệp thông, cởi mở, bao dung, hợp tác rộng rãi rất cần được quan tâm khuyến khích. *** Chia sẻ trên đây của tôi là một tâm sự rất chân thành. Nó rút ra phần lớn từ nhiều kinh nghiệm của tháng 4/1975. Tháng Tư ấy với những chuyển biến của Ðất Nước, với những chuyển mình của Giáo Hội, với những thao thức của riêng tôi. Lịch sử tháng 4/1975 là một bài học lớn cho việc đổi mới phục vụ. Nhờ đó mà tôi nghĩ tới việc đổi mới phục vụ trong giai đoạn hiện đại hoá này. Một đổi mới quan trọng nhờ ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần. Long Xuyên, ngày 12 tháng 4 năm 2007
Sự gì phải đến sẽ đến. Sự thinh lặng là điều tất nhiên phải đến với bất cứ ai. Tôi đón chờ nó. Thánh Bùi-Tuần 1724
Sự gì phải đến sẽ đến. Sự thinh lặng là điều tất nhiên phải đến với bất cứ ai. Tôi đón chờ nó. Thánh ý Chúa muốn vậy. Tôi đón chờ bằng tâm tình tạ ơn. Tôi tạ ơn Chúa về mọi ơn lành Chúa đã ban cho tôi. Một trong những ơn tôi phải tạ ơn đặc biệt, đó là ơn sống đức tin. Ðức tin mà tôi đã lãnh nhận cũng giống đức tin Chúa ban cho mọi con cái Chúa. Nhưng tôi sống đức tin ấy trong nhiều tình tiết khó khăn. Những khó khăn ấy xem ra nhiều tín hữu cũng đã trải qua. Nhưng họ không nói ra. Nếu hôm nay, tôi nói ra đôi chút, thì thiết tưởng đó cũng là tiếng nói chung của sự thinh lặng. Sự thinh lặng như một hiện diện làm chứng và hiệp thông của tôi và của nhiều người. Nhìn lại con đường sống đức tin trong lòng Quê Hương và Hội Thánh, tôi thấy đức tin của tôi và của nhiều người đã mang mấy dấu ấn sau đây:
1/ Một đức tin mang dấu ấn sự sợ hãi Sự sợ hãi trong đời sống đức tin của nhiều người chúng tôi là một sự thật nên nói ra. Bởi vì tin trong sợ hãi là điều không xấu. Ta hãy nhớ lại sự sợ hãi của tiên tri Êlia. Vì sợ bà hoàng hậu Ideven, tiên tri Êlia đã đi trốn. Ban đầu ông trốn vào sa mạc, rồi đi suốt 40 ngày đêm cho tới núi Khôrep. Lúc thì ông ngủ dưới gốc cây, lúc thì ông ngủ trong hang (x. 1 V 19,3-9). Êlia là tiên tri, mà còn sợ hãi đến mức đó. Nếu cần thêm một minh chứng nữa về sự sợ hãi trong đức tin, chúng ta có thể nhìn lại các tông đồ Chúa Giêsu. Ở vườn cây dầu, khi thấy Thầy mình bị bắt, các ngài quá sợ, đã chạy thoát thân (x. Mc 14,50). Sau khi Chúa phục sinh, các tông đồ vẫn còn sợ. Họ họp nhau trong phòng đóng kín cửa (x. Ga 20,19). Còn chúng tôi, khi gặp nhiều trường hợp khó khăn, có người như cảm thấy mất hết các điểm tựa quen thuộc. Ðức tin bấy giờ như một chiếc xuồng nhỏ trôi giữa biển cả sóng cao gió mạnh. Trong sợ hãi, đức tin chúng tôi đã chỉ còn biết tìm về một mình Chúa mà thôi. Và Chúa đã đến như Ðấng Cứu độ đầy tình thương xót.
2/ Một đức tin mang dấu ấn sự đau khổ Ðức tin của chúng tôi không những đã trải qua nhiều sợ hãi, mà cũng đã nếm nhiều đau khổ. Những đau khổ lớn nhất là do thử thách về sự vâng phục ý Chúa. Ðể dễ hiểu khía cạnh này, chúng ta có thể nhắc đến trường hợp ông Abraham. Ngài được Chúa dạy phải sát tế con mình là Isaac (x. St 22,1-19). Một gương vâng lời nữa gây nhiều đau khổ là trường hợp Ðức Mẹ Maria. Mẹ vâng lời Chúa, nhưng vâng lời đó sẽ là một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ (x. Lc 2,35). Vâng lời của nhiều người chúng tôi cũng đã gây nên những mất mát. Chúng tôi vâng lời, mà không biết sự gì sẽ xảy ra, và mình sẽ được lợi gì. Phép lành của Chúa không được hứa hẹn. Cái hợp lý không xuất hiện với những lý luận tự nhiên. Sự vâng lời như dồn mình tới tận cùng giới hạn sự am hiểu, mà mình cho là sáng suốt. Nhưng khi đức tin chịu vâng phục ý Chúa với sự chấp nhận hy sinh, thì con người chúng tôi đã khám phá ra rằng: Ðời sống đức tin không thể tách rời khỏi sự vâng phục ý Chúa. Ðó là một mầu nhiệm. Chính ở điểm đó mà nhiều người chúng tôi mới trở thành chứng nhân âm thầm của đức tin.
3/ Một đức tin mang dấu ấn sự cô đơn Ngoài đau khổ và sợ hãi, đức tin của chúng tôi còn mang dấu ấn của sự cô đơn. Hình ảnh sống động nhất về cô đơn là hình ảnh Chúa Giêsu trên thánh giá. Lời Người kêu thảm thiết: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34) diễn tả một sự cô đơn khủng khiếp. Trong các người tin theo Chúa, không thiếu người đã trải qua những trường hợp cô đơn ghê sợ. Hoài nghi tiếp nối hoài nghi. Nhưng hoài nghi lại nuôi đức tin. Rồi đức tin lại nở sinh những hoài nghi mới. Con người sống đức tin như bị rơi vào con đường hầm tăm tối. Họ cầu nguyện, nhưng cảm thấy quá khô khan. Họ tìm Chúa, nhưng cảm thấy như Chúa tránh mặt. Họ nhìn xung quanh xem có ai tin được, nhưng hình như mọi người đều dửng dưng xa tránh. Nếu ai hỏi họ tại sao đức tin họ lại cô đơn, thì họ không cắt nghĩa được. Và đó là cảnh cô đơn mênh mông rùng rợn. Nếu hỏi họ cô đơn nào nguy hiểm nhất? Thì đôi khi họ chỉ nói trống là: Từ nội bộ. Và đó là sự nghịch lý chua chát, mà thánh Gioan đã nói ngay ở đầu Phúc Âm của Ngài (x. Ga 1,11). Xã hội và Giáo Hội là chiến trường giữa thiện và ác. Khi não trạng coi trọng của cải danh vọng hơn đức tin đức ái phát triển mạnh ở đó, thì những ai đi ngược lại sẽ bị cô dơn. Sự cô đơn của đức tin thường hay bén nhạy. Nó cũng dễ đưa con người tới những suy tư về ý nghĩa cuộc đời và các biến cố. Những suy tư như thế là cửa mở ra về cõi đời đời. *** Với “Tiếng nói của sự thinh lặng” trên đây, tôi muốn nói lên cảm tưởng này của tôi là: Ðức tin ví được như một viên ngọc quý Chúa ban. Viên ngọc quý này sẽ phải được giữ gìn, và sẽ được sáng lên nhờ những thử thách. Có nhiều thử thách, nhưng nên để ý nhiều hơn đến sợ hãi đau khổ và cô đơn. Vì thế, việc mà Chúa muốn chúng ta thực hiện không phải là tránh được những thử thách, mà là vượt qua được những thử thách đó. Hành trình sống đức tin như thế sẽ phác hoạ lại lời thánh tông đồ Phaolô xưa: “Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang trong thân mình cuộc thương khó của Ðức Giêsu, để sự sống cũng biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,7-10). Với nhận thức như trên, tôi xin tạ ơn Chúa vì hành trình đức tin. Dù trong thinh lặng, hành trình ấy chính là những vượt qua, nhờ cuộc thương khó của Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Người luôn ở trong đời sống chúng ta. Xin âm thầm tạ ơn Chúa trong cõi thinh lặng. Xin âm thầm tạ ơn Chúa với những người thinh lặng. Long Xuyên, ngày 19 tháng 4 năm 2007
Lúc này, tôi có cảm tưởng: Phòng họp Toà Giám mục Long Xuyên chúng tôi đây đang là một Bùi-Tuần 1725
Lúc này, tôi có cảm tưởng: Phòng họp Toà Giám mục Long Xuyên chúng tôi đây đang là một không gian văn hoá. Ðây là văn hoá các tương quan. Văn hoá các tương quan là một thứ văn hoá đang phát triển mạnh: Văn hoá các tương quan gồm nhiều thứ, như
1/ Tương quan giữa đời và đạo, 2/ Tương quan giữa sách báo và não trạng quần chúng, 3/ Tương quan giữa tình yêu và chân lý, 4/ Tương quan giữa tư tưởng và hành động, 5/ Tương quan giữa tâm linh và những chọn lựa cuộc sống, 6/ Tương quan giữa tiềm thức, môi trường và giáo dục, 7/ Tương quan giữa thầy và trò, giữa già và trẻ, giữa gia đình và xã hội, Còn nhiều tương quan khác nữa. Trong phòng họp này, chúng ta thấy văn hoá tương quan là một hiện tượng sống động rất rõ, rất đẹp. Cách đây 2 ngày, tức 28/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có điện thoại cho tôi. Thủ tướng chia sẻ với tôi đôi chút về: - Tương quan giữa Việt Nam và Toà Thánh Vatican, - Tương quan giữa Nhà Nước Việt Nam và Giáo Hội Việt Nam, - Tương quan giữa ổn định chính trị và phát triển đời sống đồng bào, - Tương quan giữa chính trị và tín ngưỡng, - Tương quan giữa hiện tượng đang xảy ra ở Ðài Ðức Mẹ Tân Hiệp với tình hình địa phương. Tôi thấy xây dựng văn hoá các tương quan đòi hỏi cố gắng của nhiều cái trí và của nhiều cái tâm. Bộ “Thao Thức” là một công việc rất nhỏ, trong đó có thao thức về các tương quan. Tôi biết công việc của tối rất giới hạn. Thủ tưởng tỏ nhã ý muốn có một bộ. Với tất cả tâm tình khiêm tốn, tôi xin cảm ơn Ðức Cha Giuse, Ban tổ chức, các Quý vị và tất cả Anh Chị Em. Long Xuyên ngày 30/4/2007
Tháng Năm là tháng dâng hoa. Các cộng đoàn công giáo Việt Nam có thói quen thực hiện lễ Bùi-Tuần 1726
Tháng Năm là tháng dâng hoa. Các cộng đoàn công giáo Việt Nam có thói quen thực hiện lễ nghi dâng hoa kính Ðức Mẹ. Lễ nghi bình dân này gây nên bầu khí đạo đức tươi vui. Ðoàn con xung quanh Mẹ. Mẹ âu yếm phủ tình mẹ trên đoàn con. Nhìn cảnh đầm ấm này, tôi nghĩ về tôi. Tôi không có hoa. Tôi không là hoa. Nhưng tôi muốn dâng Mẹ cái gì thành thực nhất của tôi. Một thoáng tìm tòi, tôi tự thấy mình là một mảnh vườn bé nhỏ. Có thể là vườn sắp có hoa. Có thể là vườn đợi có trái. Cũng có thể là vườn chỉ rau với cỏ. Nhưng để là vườn có hoa, có trái, có rau, hầu dâng kính Mẹ và phục vụ cộng đoàn, tôi phải chăm sóc mảnh vườn là bản thân mình. Chăm sóc thế nào, đó là chuyện thiết tưởng ai cũng biết. Nhưng tôi xin phép chia sẻ đôi chút. Biết đâu chia sẻ cũng là một cách cùng nhau quây quần bên Mẹ. Chăm sóc mảnh vườn tâm hồn cũng giống như chăm sóc mảnh vườn trồng cây.
1/ Phải dọn đất và chọn giống Về việc dọn đất, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã có lần đề cập tới. Trong dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu phân ra mấy loại đất sau đây: Ðất vệ đường, đất pha đá sỏi, đất bụi gai, đất tốt (x. Mt 13,4-9). Kinh nghiệm cho thấy: Tâm hồn người ta xét về khả năng đón nhận cũng có thể phân loại như thế. Nhưng chẳng may, người ta ít quan tâm đến điều đó. Chúng ta đoán thế này thế nọ về tâm hồn người khác. Nhưng chính chúng ta lại không để ý về tâm hồn mình. Hoặc có để ý, nhưng lại nhận xét sai. Tâm hồn rất gai góc, sỏi đá, mà vẫn cứ tự hào là đất tốt. Muốn tâm hồn mình là mảnh vườn tốt, chúng ta phải khiêm tốn nhận mình chưa tốt. Với khiêm tốn cầu nguyện, khiêm tốn hồi tâm, khiêm tốn để Chúa đào xới cho sâu, chúng ta mới có khả năng đón nhận các hạt giống gieo vào. Hạt giống cũng cần được chọn lựa. Chỉ nhận những hạt giống chắc chắn là tốt mà thôi. Sở dĩ tôi nói như vậy, là vì hiện nay có quá nhiều hạt giống gieo vào lòng người, mà không phân biệt tốt xấu. Ngay về nhân bản cũng đáng bi quan. Những hạt giống tốt như lễ độ, trách nhiệm, lương tâm, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, xem ra dần dần trở nên hiếm. Ðang khi đó, những hạt giống xấu như vô lễ, bất hiếu, gian dối, ích kỷ, ghen tương thù ghét sao mà nhiều thế! Sao chúng được gieo vào tâm hồn người ta dễ dàng và được đón nhận dễ dàng đến thế! Việc dọn đất và chọn giống tốt là điều phải thực hiện đầu tiên cho mảnh vườn tâm hồn. Tiếp theo là việc chăm sóc.
2/ Phải để ý chăm sóc và kiên trì Bầu khí thiên nhiên ô nhiễm hại cho vườn rau hoa trái thế nào, thì bầu khí tâm lý ô nhiễm cũng hại cho mảnh vườn tâm hồn như vậy. Bầu khí tâm lý là những gì mắt ưa nhìn, tai thích nghe, miệng hay nói. Nếu những thứ đó tốt, thì chúng sẽ tạo ra bầu khí tâm lý tốt. Nếu những thứ đó không tốt, thì chúng sẽ tạo ra bầu khí tâm lý xấu. Bầu khí tâm lý tốt hay không tốt sẽ ảnh hưởng đến những hạt giống mọc lên trong mảnh vườn tâm hồn. Nhiều thứ cỏ xấu cũng sẽ mọc lên trong trí vẽ, trí nhớ, trí khôn, lòng muốn. Nếu chúng ta quen hướng ngoại, thì sẽ rất ngại hướng nội, để xem xét bầu khí tâm lý và nhổ cỏ dại trong mảnh vườn tâm hồn mình. Việc tưới mát cho cây cũng chẳng còn để ý. Trong tình trạng như thế, mảnh vườn tâm hồn sẽ xuống cấp về mọi mặt. Sau cùng, vườn hoa mà không có hoa, vườn trái mà không có trái, vườn rau mà không có rau. Một số người chúng ta biết trước điều đó, nên muốn mảnh vườn tâm hồn mình phải phát triển theo ý mình, không đợi thời gian. Ðó là chủ thuyết duy ý chí. Chủ thuyết này không thể áp dụng trong lãnh vực trồng trọt, dù là trồng trọt hoa trái, rau cỏ, dù là trồng trọt các nhân đức. Sau cùng, người chăm sóc mảnh vườn tâm hồn cần tỉnh thức khôn ngoan.
3/ Phải tỉnh thức khôn ngoan Người làm vườn trồng hoa trái rau thường biết khôn ngoan và tỉnh thức. Họ biết là ánh sáng dù pha bóng tối cũng cần cho vườn. Họ cũng biết đối phó với gió bão để bảo vệ vườn. Họ cũng biết không phải cỏ nào cũng hại cho vườn. Sự tỉnh thức và khôn ngoan của người làm vườn trồng hoa trái rau cũng là những bài học cho những ai làm vườn tâm hồn. Cả hai loại người cũng phải trải qua những thử thách, có khi cả những thất bại. Nhưng chính nhờ vậy mà vườn của họ lại là những bài học, và chính họ là những người được dạy dỗ. Với những suy nghĩ như trên, loại người tuổi tác như tôi thấy mình được an ủi, khi dâng cho Mẹ mảnh vườn tâm hồn mình. Tâm hồn tôi chỉ là một mảnh vườn rất bé nhỏ. Chính Chúa đã gieo trồng trước. Rồi đến lượt cha mẹ và các bậc thầy. Sau cùng Chúa trao trách nhiệm cho tôi. Cuối đời, tôi thấy mình chẳng có công gì. Lại còn nhiều thiếu sót. Nhưng niềm vui lớn nhất của tôi là suốt đời chỉ cố gắng tìm hiểu ý Chúa và thực thi ý Chúa. Mẹ đã bên cạnh tôi. Xin Mẹ thương làm cho vườn này được mãi mãi thuộc về Chúa. Xin Mẹ cho nó luôn trong nguồn tưới mát của tình yêu thương xót Chúa. Xin Mẹ cho nó nên giống mảnh vườn cây Dầu xưa, nơi dâng lên lời cầu phó thác: “Cha ơi! Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mọi đàng” (Mc 14,36). Xin Mẹ giúp con tạ ơn Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 6 tháng 5 năm 2007
Hiện nay, sống đạo đang được đặt thành vấn đề thời sự quan trọng. Ít là trong Giáo Hội Việt Nam Bùi-Tuần 1727
Hiện nay, sống đạo đang được đặt thành vấn đề thời sự quan trọng. Ít là trong Giáo Hội Việt Nam. Vấn đề này đã và đang được suy nghĩ, bàn bạc và dẫn tới những chọn lựa để thực hành. Sao cho đạo Công giáo tại đất nước này được trở về nguồn và phát triển theo đúng hướng Phúc Âm. Với mục đích đó, tôi xin vắn tắt trình bày suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Ðức Mẹ Maria. Theo tôi, điểm nổi bật nhất trong đời sống đạo của Mẹ Maria là vâng phục ý Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường. Xin phép nêu lên vài chi tiết mà thôi.
1/ “Nhậm chức” và khấn hứa một cách đơn sơ khiêm nhường Việc Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Gabriel đến báo cho Ðức Maria tin Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Ðấng Cứu thế là một biến cố kỳ diệu cao cả. Có thể coi đây là một “lễ truyền chức”. Nếu gọi đó là một “lễ truyền chức”, thì lễ truyền chức này cao trọng hơn mọi lễ truyền chức khác. Thế mà, “lễ truyền chức” này đã được thực hiện một cách hết sức âm thầm. Vẻ đẹp của nó được nhận ra ở thái độ Ðức Mẹ tỏ ra bối rối ngỡ ngàng sợ hãi. Mẹ nhận mình chỉ là người đầy tớ Chúa (x. Lc 1,38). Chức cao quyền trọng Chúa trao là ơn hoàn toàn nhưng không. Mẹ chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Tâm hồn Mẹ đơn sơ khiêm tốn như một đoá hoa quý ẩn mình trong một đời thường bình dị. Mẹ đón nhận lời truyền tin với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Rồi Mẹ trả lời Tổng lãnh thiên thần cũng với tâm hồn khiêm tốn đơn sơ trong sáng: “Xin vâng”. “Xin vâng” là một lời khấn hứa. Mẹ “xin vâng” với tất cả tâm tình phó thác, hoàn toàn sẵn sàng để Chúa dùng mình vào bất cứ chương trình nào. Thế là “lễ truyền chức” và khấn hứa đã xong. Rất đơn sơ, rất khiêm nhường. Nhưng lại rất đẹp lòng Chúa. Từ đây một kỷ nguyên mới đã mở ra.
2/ Tạ ơn Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường Sau khi được mang chức làm mẹ Ðấng Cứu thế, Ðức Mẹ đã đi thăm viếng bà Isave. Mẹ lên đường một mình cách đơn sơ khiêm tốn. Vừa thấy Ðức Mẹ, bà Isave được ơn Chúa soi sáng, đã cất tiếng chào Ðức Mẹ và khen ngợi Ðức Mẹ vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Ðức Mẹ. Ðức Mẹ rất xúc động. Ðức Mẹ đã tạ ơn Chúa bằng những lời tán tụng rất đơn sơ khiêm nhường. “Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới...” (Lc 1,46-48). Ðức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến. Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Ðức Mẹ chỉ biết vâng phục, chỉ biết làm những gì Chúa sai bảo, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa. Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi hẹp hòi của mình, Ðức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Nếu gọi biến cố Ðức Mẹ đi viếng bà Isave là một dịp Ðức Mẹ tạ ơn Chúa, thì lễ tạ ơn này đã rất đơn sơ, đã rất khiêm nhường. Sau việc tạ ơn này, Ðức Mẹ lại tiếp tục sống ơn gọi một cách đơn sơ khiêm nhường với cuộc sống ẩn dật giữa các phong trào đời đạo đầy ồn ào và phức tạp.
3/ Ði đàng thánh giá một cách đơn sơ khiêm nhường Khi Ðức Mẹ dâng Chúa Hài Ðồng trong đền thờ, tiên tri Simeon đã nói: “Thiên Chúa đã đặt hài nhi này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Hài nhi này còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34-35). Những lời tiên tri trên đây đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu, con Mẹ, đã chịu bao đau khổ xác hồn. Ðau khổ của con cũng là khổ đau của mẹ. Ba mươi năm hoà mình vào đời sống nghèo ở Nagiarét. Ba năm công khai giảng dạy bị công kích bởi chính nội bộ. Sau cùng là con đường vác thập giá lên núi Sọ và bị đóng đinh vào nhục hình cho đến tắt thở. Nếu đời Chúa Giêsu là một đời thánh giá, thì Ðức Mẹ đã chia sẻ cuộc đời ấy một cách rất đơn sơ khiêm nhường. Ðức Mẹ ý thức thánh giá là một chọn lựa, mà Chúa muốn, Chúa chọn để chứng tỏ tình yêu vô biên của Người muốn cho đi tới cùng để cứu nhân loại. Vì thế, Ðức Mẹ coi chọn lựa đó của Chúa cũng là chọn lựa của Mẹ. Ðã chọn lựa, thì không kêu ca trách móc, phản kháng om sòm. Ðã chọn lựa thánh giá để cùng với Chúa cứu đời, thì coi thánh giá là một ân huệ. Ðơn sơ khiêm nhường là như thế. *** Trên đây là mấy suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Ðức Mẹ. Thiết tưởng sống đạo của Ðức Mẹ Maria vẫn là một mời gọi gởi tới mỗi người chúng ta. Tất nhiên, thời này xã hội đã đổi thay nhiều. Nhưng chính vì những đổi thay đó đang đẩy rất nhiều người xa rời Phúc Âm, nên việc trở về với gương mẫu đơn sơ khiêm nhường, vâng phục ý Chúa nơi Ðức Mẹ phải kể như một giải pháp đúng đắn cần noi theo. Hợp thời, nhưng vẫn theo tinh thần Mẹ Maria. Nhân dịp Ðức Thánh Cha Bênêdictô XVI thăm Nam Mỹ, báo chí khắp thế giới loan báo về tình hình Công giáo tại đây. Số người công giáo bỏ Hội Thánh Công giáo để sang các giáo phái mỗi năm mỗi nhiều. Ðang khi ở Âu châu, số người dửng dưng với đức tin càng ngày càng tăng. Cảnh hướng ngoại và băng hoại không còn hiếm trong Giáo Hội. Thói quen sống theo ý mình hơn theo ý Chúa là một cách hưởng thụ. Nó đang trở nên bình thường. Truyền bá cách sống đó là một cách phá đạo, nhưng xem ra vẫn phổ biến. Nhìn người mà nghĩ đến mình. Mỗi người chúng ta nên hết sức lo cho đời sống đức tin của mình. Ðức Mẹ ở Fatima đã thiết tha nhắc nhở. Sống theo gương Ðức Mẹ được có Chúa ở cùng, chúng ta hy vọng chắc chắn sẽ được lên trời với Chúa. Long Xuyên, ngày 12 tháng 5 năm 2007
Một niềm vui tôi định giấu, nhưng Chúa dạy tôi là nên nói ra, đó là sự kiện Chúa phục sinh đến Bùi-Tuần 1728
Một niềm vui tôi định giấu, nhưng Chúa dạy tôi là nên nói ra, đó là sự kiện Chúa phục sinh đến với tôi. Ngài không hiện hình. Nhưng tôi nhận ra Ngài. Tôi như nhìn thấy Ngài, chạm tới Ngài, nghe tiếng Ngài. 2. Đặc điểm làm cho tôi nhận ra Chúa phục sinh đến với tôi, là sự bình an. Xưa, mỗi lần Chúa phục sinh hiện ra với các tông đồ, Chúa đều chào chúc bình an. Nay, mỗi lần Chúa phục sinh đến với tôi, Ngài đều đem lại cho tôi sự bình an. Sự bình an, mà Chúa phục sinh ban tặng cho tôi, được tôi cảm nghiệm thế này: 3. Chúa cho tôi thấy rõ có một sự sống mới ở cõi đời sau. Sự sống mới đó là được ở trên thiên đàng, đời đời mãi mãi. Chính Ngài dẫn tôi tới đó, bằng con đường Ngài đã đi trên cõi đời này. 4. Trên cõi đời này, Ngài đã sống khiêm nhường, hiền lành, yêu thương, hy sinh, để cứu nhân loại khỏi những khổ đau. Nay Ngài đến với tôi cũng để dẫn tôi đi theo con đường đó. Được biết như vậy, tôi cảm thấy bình an tràn trề. 5. Bình an, mà tôi được cảm nghiệm hệ tại ở sự tôi bước theo Chúa, và ở sự chính Chúa sẽ định đoạt số phận đời đời cho tôi. 6. Do vậy, tôi sẽ tuyệt đối tránh xa sai lầm coi bình an là hệ tại ở sự mình được chức nọ quyền kia do Chúa ban cho. 7. Sở dĩ tôi nhấn mạnh đến điều đó, là vì không thiếu trường hợp, tôi cũng như nhiều môn đệ Chúa quá đề cao chức quyền của mình, muốn bắt buộc mọi người vâng phục mình, coi đó là sự bình an mà Chúa muốn. Sai lầm đó đưa đến nhiều tai hại khôn lường. 8. Tình hình hiện nay cũng đang cho tôi thấy là không thiếu người lầm tưởng mình sẽ thoát khỏi sự phán xét của Chúa ở đời sau, mình sẽ định đoạt được số phận cho mình ở đời sau. Lầm tưởng đó là quá tai hại. Chính Chúa phục sinh sẽ phán xét từng người. Vì thế, mà phong trào cầu khấn Chúa xem ra đang khởi động dưới nhiều hình thức. 9. Hơn bao giờ hết, tại Việt Nam hôm nay, phong trào cầu khấn với một Đấng thiêng liêng đang nở rộ như một mùa xuân thiêng liêng. Nếu được hướng dẫn, phong trào đó sẽ trở thành một yếu tố quan trọng giúp phát triển đất nước về mặt đạo đức. 10. Ai sẽ hướng dẫn? Riêng tôi, tôi xin Chúa phục sinh thương hướng dẫn tôi, từng giờ, từng phút, từng giây. Tôi sẽ chỉ làm được những việc nhỏ, đem lại sự bình an nhỏ cho một số nhỏ. Và đó là mơ ước lớn của tôi. 11. Tôi tin chắc chắn: Chúa phục sinh đang nhìn thấy rất rõ mọi sự trong tôi, Ngài cũng đánh giá rất đúng từng lựa chọn của tôi. Nên tôi tìm sự bình an nơi lòng thương xót Chúa. Tôi đã gặp Ngài, Ngài đang dắt tôi đi trong tình thương của Ngài. 12. Tôi hết lòng cầu khẩn, xin Chúa phục sinh cũng thương hướng dẫn Hội thánh tại Việt Nam này. Tình hình đang chuyển biến phức tạp, khó thấy được đúng sai, càng khó quyết được đâu là thánh ý Chúa. Bất ổn chồng chất. Xin cho chúng ta gặp được Chúa phục sinh. 13. Có những điều cần sửa, Có những điều cần giữ, Có những điều cần cảnh giác. Nhưng ai sẽ đứng ra chỉ bảo một cách có uy tín để có sự bình an đích thực. Lạy Chúa phục sinh, xin xót thương chúng con. 14. Xã hội cũng đang rối bời. Xin Chúa phục sinh thương ban cho xã hội sự bình an của Chúa. 15. Xưa, Chúa đã phán: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27). Xin Chúa thương giúp chúng con biết đón nhận bình an của Chúa. Long xuyên, ngày 16.04.2019
Tình hình mấy ngày vừa qua được tôi cảm nhận một cách không ổn. Không bi quan, mà cũng Bùi-Tuần 1729
Tình hình mấy ngày vừa qua được tôi cảm nhận một cách không ổn. Không bi quan, mà cũng chẳng lạc quan. 2. Tôi đi tìm bình an, nhưng xem ra khắp nơi đều rối. 3. Tôi đi tìm niềm tin, nhưng xem ra chỗ nào cũng có nghi ngờ. 4. Tôi đi tìm yêu thương, nhưng xem ra yêu thương nào cũng bị tổn thương 5. Tôi thao thức hỏi Chúa, xin Chúa dạy tôi phải làm gì? 6. Chúa dạy tôi hãy theo Chúa đi tìm những đốm sáng hy vọng. Tôi đang đi, và tôi đang thấy mấy đốm sáng hy vọng sau đây: 7. Đốm sáng thứ nhất là những người hết lòng tìm gặp gỡ Chúa Kitô, hết lòng kết hợp mật thiết với Người, hết lòng thuộc về Người, hết lòng vâng phục Người. 8. Dù bận rộn muôn việc, họ vẫn ưu tiên sống với Chúa Kitô. 9. Dù bị áp lực từ khắp phía, họ vẫn cầu nguyện và tỉnh thức trong Chúa Kitô. 10. Dù bị lôi cuốn bởi dòng thác ý kiến này ý kiến nọ, họ vẫn một mực coi thánh ý Chúa là gia nghiệp của mình. 11. Họ nhận biết mình yếu đuối, hèn hạ, nên chỉ tìm nương tựa ở Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc giàu lòng thương xót. 12. Những nhóm nhỏ này không ồn ào, nhưng thích lặng lẽ như những kẻ bé mọn, yếu đuối, hèn hạ. 13. Điểm sáng thứ hai là những nhóm người hết lòng sống đời xin vâng của Đức Mẹ Maria. 14. Xin vâng của Đức Mẹ là vững tin vào Chúa. 15. Xin vâng của Đức Mẹ là khiêm nhường, kín đáo. 16. Xin vâng của Đức Mẹ là dấn thân lên đường phục vụ kẻ khác. 17. Xin vâng của Đức Mẹ là biết thương cảm những kẻ thiếu thốn. 18. Xin vâng của Đức Mẹ là nâng đỡ các môn đệ Chúa một cách khiêm nhường, tế nhị. 19. Xin vâng của Đức Mẹ là cầu nguyện và hy sinh trong âm thầm. 20. Xin vâng của Đức Mẹ là là nhận biết mình chỉ là một nữ tỳ, được Chúa đoái nhìn một cách đặc biệt mà thôi. 21. Xin vâng của Đức Mẹ là không dám kết án ai, không dám loại trừ ai, không dám chống phá ai, không có thành kiến xấu về ai, không gieo rắc tiếng xấu cho ai. 22. Tôi thấy những nhóm nhỏ sống đời xin vâng của Đức Mẹ như vừa tả đang hoạt động mạnh mẽ dưới sự hưỡng dẫn của Chúa Thánh Thần. 23. Tuy nhiên, trong một tình hình mà sự xấu nổi lên như một đêm tăm tối trùm phủ khắp nơi, thì hai điểm sáng trên đây chỉ được coi như những đốm sáng nhỏ, cho dù mang hy vọng lớn. Đúng là như vậy, nhưng khi hy vọng được hiểu đúng nghĩa, thì những đóm sáng nhỏ hy vọng đó cũng là nguồn an ủi vô giá đối với chúng ta. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô (Pape Francois Lexique, Espérance (135-141)), thì hy vọng thực của Chúa Kitô có những đặc điểm sau đây: 24. Thứ nhất, đó là một ơn Chúa ban. Nó dựa trên lời hứa của Chúa. Nó thường vượt qua những đợi chờ của chúng ta. 25. Thứ hai, đó là một quà riêng Chúa dành cho những kẻ nghèo hèn, những kẻ bị đuổi ra ngoài lề, những kẻ khổ đau, những kẻ khóc lóc, những kẻ đã trải qua những thất bại. Nghĩa là đó là một quà tặng Chúa ban cho những kẻ khiêm nhường. 26. Thứ ba, đó là một quà tặng mà Chúa đòi chúng ta phải đợi chờ. Để chúng ta có dịp ôm vào lòng mình những kẻ khổ đau. 27. Riêng tôi, sắp tới nhân ngày kỷ niệm thụ phong Giám mục của tôi (30.4.1975 - 30.4.2019) tôi sẽ cảm tạ Chúa vì những đốm sáng hy vọng Chúa đã cho tôi. Cho dù còn nhiều đau khổ, tôi cũng thấy vui vì những đốm sáng hy vọng bên tôi và xung quanh tôi trong Hội thánh tại Việt Nam này, để tôi vững bước đi về phía trước, một phía trước sẽ không thiếu những bất ngờ đáng ngại. Long xuyên, ngày 23.4.2019
THỤ PHONG GIÁM MỤC (30.4.2019) + GB. Bùi Tuần Anh chị em thân mến. 1.
Thế là đúng 44 năm. Cũng ngày 30 tháng 4, cũng trong nhà nguyện nhỏ bé của Tòa Giám mục Long Bùi-Tuần 1730
Thế là đúng 44 năm. Cũng ngày 30 tháng 4, cũng trong nhà nguyện nhỏ bé của Tòa Giám mục Long Xuyên này, cũng tại chỗ này, trong thánh lễ đơn giản, tôi đã quỳ xuống, để được Đức Cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ đặt tay, trao chức Giám mục phó giáo phận Long Xuyên, theo chỉ thị của Tòa Thánh. 2. Giờ phút đó, tôi tập trung vào Chúa cách tuyệt đối và đơn sơ. Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Con hãy ra khơi, mà thả lưới” (Lc 5, 4). Lời đó, Chúa đã nói với thánh Phêrô xưa trong một tình hình coi như thất vọng. Nay Chúa cũng nói lời đó với tôi. Cũng như thánh Phêrô xưa, tôi cũng trả lời Chúa: “Vâng lời Chúa, con xin ra đi thả lưới” (Lc 5, 5). 3. Chúa cho tôi nhìn thấy địa chỉ Chúa sai tôi đến thực là rộng, như biển khơi bao la. Chúa cho tôi thấy lưới mà Chúa muốn tôi thả xuống nơi đó, chính là tình yêu thương. Không phải là tình yêu thương của tôi, mà là tình yêu thương của Chúa. 4. Nghe vậy, tôi nói với Chúa là con cảm thấy sợ, Chúa trả lời tôi: “Điều đáng sợ là hãy sợ chính mình ở chỗ cứng lòng tin”. 5. Tôi cảm tạ Chúa hết lòng vì những giây phút linh thiêng đã xảy ra cho tôi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hôm nay, nhân kỷ niệm ngày lịch sử đó của tôi, tôi xin chia sẻ thêm đôi chút về việc tôi ra khơi, thả lưới suốt 44 năm qua. Xin tóm gọn vào mấy điều sau đây: 6. Điều thứ nhất, tôi coi việc kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là cực kỳ quan trọng. Tôi luôn gặp gỡ Chúa, tôi luôn ở lại trong Chúa, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, tôi vẫn xin Chúa dắt dìu tôi. Chúa dắt dìu tôi, để cứu tôi, để tha thứ cho tôi, để tôi biết cậy tin nơi Chúa, để tôi biết cùng với Chúa mà yêu thương mọi người, như Chúa yêu thương. Tôi thuộc về Chúa, đó là ơn Chúa ban. Nhưng Chúa không miễn cho tôi khỏi phải chiến đấu. Thực sự chiến đấu của tôi là cam go đau đớn. 7. Điểm thứ hai, tôi được liên kết mật thiết với cộng đoàn. Sự cảm thương, sự tận tâm và sự tha thứ, mà cộng đoàn dành cho tôi, được tôi cảm nhận như một nguồn an ủi cao quí và cần thiết cho tôi. Cộng đoàn là những người thân thương, trong đó, tôi nhớ cách riêng Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu và Đức cha Giuse Trần Văn Toản, cộng đoàn là Tòa thánh, cộng đoàn là Hội thánh tại Việt Nam, cộng đoàn là địa phương yêu dấu, cộng đoàn là tất cả mọi người Chúa sai đến với tôi, để giúp tôi chu toàn trách nhiệm Chúa trao. 8. Điểm thứ ba, tôi nhìn thấy nhiều người cũng được Chúa sai đi thả lưới tình yêu như tôi. Nhiều người trong họ là người công giáo. Nhiều người trong họ là ngoài công giáo. Họ thả lưới tình yêu dưới nhiều hình thức. Tôi trân trọng họ. Yêu thương là một cách dấn thân cứu người. Vì thế, tôi cùng với họ mà dấn thân, cho dù dấn thân của tôi chỉ là những việc lành nhỏ. 9. Điều thứ tư, việc thả lưới tình yêu là điều tôi không thể đưa ra những con số để đo lường. Tôi thấy Chúa là tình yêu đích thực đã đến gặp tôi trong những mạc khải lạ lùng quá sức tưởng tượng. Tôi cũng thấy Chúa làm như vậy đối với nhiều người. Cắt nghĩa tình yêu đó bằng những con số là không đúng. 10. Giờ phút này, tôi xin nói lên một điều chắc chắn nhất nơi tôi, sau 44 năm ra khơi thả lưới, một lời mà thánh Phaolô xưa đã nói, đó là tôi gắn bó mật thiết và tuyệt đối với Chúa Giêsu, Đấng đã sai tôi ra khơi, để thả lưới. “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma quỷ, hiện tai hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loại thụ tạo nào khác, không có gì tách rời tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thẻ hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 38). 11. Xin anh chị em thương tiếp tục cầu nguyện cho tôi, và nâng đỡ tôi. Lúc này, hơn lúc nào hết, tôi rất cần sự đỡ nâng của cộng đoàn, để được trở thành một của lễ. 12. Nhưng nếu cần, thì tôi sẵn sàng được quên đi, để giáo phận tập trung vào Đấng Bản Quyền kính yêu, là Đức cha Giuse Trần Văn Toản. Chúng ta hãy nâng đỡ ngài. 13. Để kết thúc, tôi xin nhắc tới ở đây, tình thương của Đức Mẹ Maria đã dành cho tôi một cách đặc biệt mỗi khi tôi lên đường và suốt mọi chặng đường đi thả lưới. Tôi đã phải phấn đấu rất nhiều, nhưng nhờ Mẹ mà tôi mới có hôm nay. Tôi sẽ ra đi, dù ở đâu, dù lúc nào, tôi hy vọng cũng sẽ được Mẹ ở bên. 14. Xin nói thêm. Mấy ngày nay, tự nhiên tôi có cảm tưởng này: Chính Chúa Giêsu là người thả lưới, trong lưới đó có anh chị em và có tôi. Chúng ta tất cả đều cảm tạ Chúa. Và như thế ngày hôm nay là ngày của tất cả, và của riêng từng người. Hạnh phúc của chúng ta là được ở trong lưới của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa Giêsu đang ban phép lành cho Hội thánh Việt Nam và cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Long xuyên, ngày 30.4.2019
Hằng năm vào dịp tháng Năm, tôi lại nhớ tới phong trào dâng hoa cho Đức Mẹ, được phổ biến Bùi-Tuần 1731
Hằng năm vào dịp tháng Năm, tôi lại nhớ tới phong trào dâng hoa cho Đức Mẹ, được phổ biến tại một số giáo phận ở Việt Nam. 2. Năm nay, vừa tới tháng Năm, tự nhiên tôi thao thức về việc tôi sẽ dâng hoa cho Đức Mẹ. Hình như chính Đức Mẹ đánh thức lương tâm tôi. Tôi hỏi Đức Mẹ: “Mẹ muốn con dâng cho Mẹ thứ hoa gì?” Mẹ trả lời: “Hãy dâng cho Mẹ hoa yêu thương khiêm nhường”. 3. Tôi không hiểu thứ hoa mà Mẹ muốn đó là thế nào, thì Mẹ cho tôi thoáng nhìn thấy nó qua mấy tài liệu đạo đức sau đây. 4. Tài liệu thứ nhất là những lời cảnh cáo của Đức Thánh Cha Phanxicô liên quan đến điều tiêu cực cần tránh hiện nay trong lãnh vực yêu thương. 5. Đức Phanxicô rất dứt khoát về một thói xấu khá phổ biến hiện nay ngay trong Hội thánh, đó là thói hay nói hành nói xấu kẻ khác. Ngài gọi thói xấu đó là nguồn gây chia rẽ, là dụng cụ của quỷ Satan, là một thứ khủng bố, là một loại bom độc hại ném vào Hội thánh. Nói hành nói xấu là nói bậy không suy nghĩ, là viết bậy mà không rõ từ nguồn nào, là làm một việc chỉ để tìm khoái chí xấu xa. 6. Trong cuốn “Lexique, Pape Francois, đoạn về Médisances, suốt năm trang, Đức Phanxicô khuyên mọi người trong Hội thánh hãy triệt để tránh xa thói quen nói hành nói xấu kẻ khác. 7. Tôi thấy Đức Phanxicô dạy tôi một điều rất cần cho yêu thương khiêm nhường. Yêu thương thì phải khiêm nhường. Mà nói xấu kẻ khác thì đâu còn là yêu thương, và đâu còn là khiêm nhường. 8. Tài liệu thứ hai gồm một số sách về những nhân vật thánh thời nay nổi tiếng về yêu thương, như: + Mẹ thánh Têrêxa calculta. + Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thành Lisieux. + Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. + Cha Charles de Foucauld. + Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Đọc những tài liệu trên đây, tôi học được không phải chỉ những điều tiêu cực nên tránh, mà còn là những điều tích cực phải thực hiện trong yêu thương. 9. Một điều tích cực quan trọng nhất, mà các vi thánh căn dặn là khiêm nhường Khiêm nhường là phải cầu nguyện rất nhiều. Khiêm nhường là hãy nhìn người khác bằng cái nhìn của trái tim Chúa. Khiêm nhường là hãy lo cho những người nghèo túng, khổ đau. Khiêm nhường là hãy chia sẻ thân phận những người cô đơn bị bỏ rơi. Khiêm nhường là sẵn sàng hy sinh mạng sống, chết thay, để cứu kẻ khác. Qua các tài liệu trên, tôi thấy yêu thương khiêm nhường đang trở thành một đòi hỏi cấp bách cho tu đức hiện nay. 10. Tài liệu thứ ba là Phúc âm. Phúc âm là tài liệu cao quí nhất và đầy đủ nhất về yêu thương khiêm nhường. Riêng với tôi, khiêm nhường mà tôi cảm nghiệm một cách thấm thía nhất là lời thánh Phaolô đã nói về sự yếu đuối của mình. “Tôi rất vui mừng và tự hào, vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2Cr 12, 10). “Ơn của Chúa đã đủ cho tôi, vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trong sự yếu đuối”. (2Cr 12, 9). 11. Vì thế, nếu bị quên đi, nếu bị chôn vùi, nếu bị chê trách, mà vẫn một mực mến Chúa yêu người, thì đó mới là yêu thương trong khiêm nhường thực sự. Và đó chính là thứ hoa, mà tôi dâng lên Đức Mẹ, ngay từ đầu tháng Năm này. 12. Theo lý thuyết, tôi xác tín điều này: Chính nhờ ơn Chúa, tôi mới có thể được là bông hoa yêu thương khiêm nhường. Chính Chúa làm nảy nở bông hoa đó trong tôi một cách thân mật, còn tôi thì phó thác mình trọn vẹn cho tình yêu Chúa. 13. Còn trên thực tế, lúc này tôi lại thấy rất rõ: Tôi vẫn chưa yêu thương đúng và đủ. Tôi vẫn chưa khiêm nhường đủ và đúng. Tôi hết lòng xin Chúa tha thứ cho tôi. 14. Hoa tôi dâng lên Mẹ lúc này là như thế. Xin Mẹ thương đoái nhận. Tôi tin tưởng Mẹ không chê chối, vì Mẹ là Mẹ yêu dấu của những đứa con yếu đuối hèn mọn, trong đó có kẻ hèn này. Long xuyên, ngày 01.5.2019
Đang sống mệt mỏi trong tuổi già yếu, mà được một lớp học trò cũ ngỏ ý muốn tới thăm, tôi rất Bùi-Tuần 1732
Đang sống mệt mỏi trong tuổi già yếu, mà được một lớp học trò cũ ngỏ ý muốn tới thăm, tôi rất vui. Niềm vui được tăng thêm, khi lớp học trò cũ này lại muốn tôi, nhân dịp này, dạy thêm điều gì, mà thầy cho là mới. 2. Để đáp ứng, tôi sẽ không dạy, mà chỉ tâm sự. Tôi chia sẻ những gì Chúa đã và đang làm cho tôi. Những gì đó được tôi cảm nhận là rất mới. 3. Những cảm nhận rất mới đó được tóm tắt vào hai điểm sau đây: Điểm thứ nhất là: Tôi nhận ra mình là kẻ hay sợ hãi. Điểm thứ hai là: Tôi nhận ra mình là kẻ rất cậy tin vào lòng thương xót Chúa. Tôi xin vắn gọn. 4. Trước hết, tôi thú nhận thành thực tôi có tính hay sợ hãi. Sợ hãi nhiều thứ, nhưng sợ hãi nhất là sợ chết dữ, và sợ phải sa hỏa ngục. Ngay từ nhỏ, tôi đã được dạy phải biết sợ chết dữ và sợ phải sa hỏa ngục. Lớn lên, càng học nhiều, càng đi nhiều nơi, nhiều nước, và càng tiếp xúc với đủ hạng người, tôi càng nhận thấy phát triển trong tôi sự sợ chết dữ và sợ phải sa hỏa ngục. 5. Hai nỗi sợ đó có nền tảng từ Kinh thánh. Lại được nhắc tới trên thực tế cuộc đời. 6. Trên thực tế cuộc đời, tôi đã chứng kiến những cái chết dữ và những cảnh phải sa xuống hỏa ngục một cách thê thảm kinh hoàng. Bởi vì những người đó chú ý dấn thân vào con đường chết dữ và xuống hỏa ngục. Chú ý dấn thân vào, cố ý dấn thân vào, nhất định dấn thân vào, thì kết quả sẽ phải lãnh đủ. 7. Do vậy, khi tôi thấy mình biết sợ chết dữ và sợ phải sa hỏa ngục, thì tôi coi đó là một ơn Chúa ban, để mà xa tránh mọi thứ dấn thân liều lĩnh. Phải biết sợ những gì đáng sợ và phải sợ. Nếu không sẽ khốn khổ vô cùng. 8. Khủng hoảng lớn nhất hiện nay tại nhiều nơi là tình trạng không biết sợ chết dữ và sa hỏa ngục. Khủng hoảng đó càng trở nên nghiêm trọng, khi chính những người có trách nhiệm giáo dục, ngay trong Hội thánh, lại cũng khuyến khích người ta đừng nên sợ gì cả. Biết sợ, đó là điểm thứ nhất, tôi cho là rất mới, rất cần cho tôi. 9. Điểm thứ hai là: Tôi nhận ra mình là kẻ hết lòng cậy tin vào lòng thương xót Chúa. Tôi cậy tin vào lòng thương xót Chúa, bởi vì tôi biết mình trong tình trạng nguy hiểm, cần được Chúa cứu từng phút, từng giây. 10. Lòng thương xót Chúa là điều tôi không thấy. Nhưng tôi nhận ra lòng thương xót Chúa, mỗi khi Chúa cắt đứt những gì tôi cho là điểm tựa hữu hình của tôi. Những điểm tựa hữu hình thì nhiều như cơ sở, tổ chức, tiền bạc, Chúa cắt đứt từng cái một, tôi trở nên bơ vơ, để chỉ còn tìm nương tựa ở Chúa mà thôi. 11. Vì thế, mà đã có những đêm tăm tối lạnh lùng trên con đường về với Chúa, tôi đã trải qua. Những lúc đó, chỉ còn bám vào lòng thương xót Chúa mà thôi. 12. Bám vào lòng thương xót Chúa là một sự cậy tin được thử thách trong những thất vọng, những khổ đau, những cơn hấp hối thiêng liêng. Kinh khủng lắm, mới hiểu được sự bám vào lòng thương xót Chúa không phải điều dễ dàng, mình muốn là được đâu. 13. Do vậy, mà chúng ta phải coi sự bám vào lòng thương xót Chúa là một ơn Chúa ban. 14. Phong trào lòng thương xót Chúa đang được phổ biến rộng rãi hiện nay. Nhưng hãy ý tứ, kẻo bị Satan nhảy vào quấy phá cho mục đích ác độc của nó. 15. Tới đây, tôi thấy mình được hạnh phúc vì những gì Chúa đã ban tôi như vừa chia sẻ. Hạnh phúc đó lại được tăng thêm, do lớp học trò cũ muốn tới thăm tôi, mang tên lớp: “Đức Mẹ vô nhiễm”. Xin Mẹ vô nhiễm luôn dắt dìu chúng ta trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay. Hoàn cảnh hiện nay là rất phức tạp, cả ngoài đời lẫn trong đạo. 16. Phần tôi, tôi không có chương trình nào cho chính mình, chỉ biết cậy tin vào Chúa mà thôi. Xin gửi lớp “Vô nhiễm” chia sẻ trên đây, như một lời trăng trối. Xin cầu nguyện nhiều cho người thầy 92 tuổi đang rất mệt mỏi với gánh nặng là chính những tội lỗi yếu đuối của mình. Long xuyên, ngày 06.5.2019
Càng ngày tôi càng cảm thấy mình cạn kiệt về sức khỏe, khắp người đều đau, luôn luôn mệt mỏi Bùi-Tuần 1733
1. Càng ngày tôi càng cảm thấy mình cạn kiệt về sức khỏe, khắp người đều đau, luôn luôn mệt mỏi. Tình hình đó chỉ riêng mình mới hiểu được. Càng hiểu, tôi càng thêm cầu nguyện. 2. Chúa thương dạy tôi. Cạn kiệt về sức khỏe là không thể tránh, nhưng cần tránh những cạn kiệt về trí khôn và về trái tim, cụ thể là tình mến Chúa yêu người thì dứt khoát đừng để cạn kiệt. 3. Cùng với lời khuyên đó trong nội tâm sâu thẳm, Chúa đã cho tôi thoáng nhìn thấy thực tế hiện nay về cảnh cạn kiệt đạo đức trong nhiều lãnh vực đời đạo. 4. Đạo đức là mến Chúa yêu người, xét về mặt đó, thì cạn kiệt là quá rõ. Có những con người cạn kiệt. Có những lễ lạy cạn kiệt. Có những hội nghị cạn kiệt. Chỉ còn hình thức đạo đức. Còn nội dung đạo đức là mến Chúa yêu người thì trống rỗng. 5. Tuy nhiên, Chúa lại cho tôi nhận ra trên thực tế hôm nay sự phong phú về đạo đức cũng đang phát triển dưới nhiều hình thức. Ngay tại địa phương này, các hình thức từ thiện là rất nhiều, các hình thức cầu nguyện được coi là rất ấn tượng. Trong công giáo có, ngoài công giáo có, âm thầm thôi. Nhưng đó là những đốm sáng hy vọng. 6. Thấy vậy, tôi nhận ra rằng: Những cạn kiệt cần tránh, đang được nhiều người tránh một cách mạnh mẽ mà không chút phô trương. 7. Những thoáng nhìn trên đây được lặp đi lặp lại trong tôi mỗi ngày. Nhờ vậy, tôi nay xác tín về sự cạn kiệt đạo đức phải là nguy cơ tôi phải hết sức tránh. 8. Đối với tôi, sẽ là quá ngu dại, nếu tôi coi sự cạn kiệt đạo đức trong tôi là điều chẳng phải quan tâm. 9. Cũng là quá ngu dại, nếu tôi coi sự cạn kiệt đạo đức trong tôi là điều dễ tránh được, chẳng khó khăn gì. 10. Cũng là quá ngu dại, nếu tôi coi sự cạn kiệt đạo đức không ảnh hưởng nhiều đến sự tồn vong của Đất nước và của Hội thánh tại Việt Nam. 11. Để tránh cảnh cạn kiệt đạo đức, tôi trở về nguồn đạo đức, nguồn đạo đức là Chúa. Tôi tìm về Chúa. Tôi ở lại trong Chúa. Tôi gắn bó với Chúa. Tôi để Chúa dắt dìu tôi. Tôi cậy tin Chúa từng giờ, từng phút, từng giây. Chúa ở bên tôi. 12. Chúa lại thương cho tôi gặp được những dấu chỉ hữu hình, để nhờ những dấu chỉ đó mà tôi kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. 13. Chúa cũng cho tôi thấy vai trò của tiềm thức đạo đức. Càng ngày tôi càng thấy tiềm thức đạo đức là rất cần, nếu cạn kiệt thì sẽ rất khổ. Tiềm thức ví như sóng ngầm trong nội tâm. Tiềm thức đạo đức là những hình ảnh đạo đức tưởng như quên rồi nhưng lại chìm sâu trong nội tâm. Nó âm thầm gây nên những thao thức đạo đức. Người có tiềm thức đạo đức, hễ thấy ai khổ thì tự nhiên đau, muốn cứu, hễ thấy Chúa bị bỏ rơi, thì tự nhiên buồn, muốn an ủi Chúa. Đau buồn của họ là những phản ứng mạnh, nhưng hồn nhiên. Xem như tiềm thức đạo đức hiện nay có phần đang suy giảm. 14. Một điều hết sức quan trọng tôi muốn nói lên ở đây, đó là đừng bao giờ để mình cạn kiệt về lòng tin vào Chúa. Cho dù tình hình của mình, của môi trường đời đạo, có bi đát đến đâu, chúng ta hãy cứ vững tin vào Chúa. Tình yêu của Chúa không bao giờ cạn kiệt. 15. Riêng tôi, tôi còn để ý thêm về sự cạn kiệt niềm vui. Tôi sẽ cố gắng không để cạn kiệt trong tôi niềm vui được thuộc về Chúa, và được thuộc về Đất Nước Việt Nam này. 16. Tôi sẽ cố gắng không để cạn kiệt về tình yêu trong tôi. Tình yêu không bao giờ được cạn kiệt. Tình yêu là thương cảm, là cho đi, là tha thứ, là khiêm nhường dấn thân, là thăng tiến, và cũng là biết đón nhận một cách trân trọng và biết ơn. 17. Tôi cũng sẽ cố gắng không để cạn kiệt trong tôi về kiến thức. Tôi sẽ cố gắng dành thời gian để đọc sách. Tất nhiên là những sách được chọn lọc, như sách của các thánh. Không chịu đọc những tài liệu thánh, sẽ dễ cạn kiệt về kiến thức đạo đức. 18. Tôi cũng sẽ cố gắng không để cạn kiệt trong tôi về sự sống mới. Vì thế, tôi cầu nguyện rất nhiều. Có thể nói: Lúc nào tôi cũng cầu nguyện. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, là đón nhận sự sống của Chúa. Như thể, cạn kiệt mà không cạn kiệt. Xin Đức Mẹ luôn bao bọc lấy đứa con yếu đuối này. Long xuyên, ngày 18.5.2019
Ðời sống thiêng liêng, tức đời sống đạo đức, về căn bản, vẫn là một trong bất cứ thời nào. Nhưng Bùi-Tuần 1734
Ðời sống thiêng liêng, tức đời sống đạo đức, về căn bản, vẫn là một trong bất cứ thời nào. Nhưng không vì thế mà không có vài đặc điểm riêng của từng giai đoạn lịch sử. Thời nay được gọi là thời toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là dấu ấn của các phát triển khoa học, kinh tế, văn hoá, kể cả chính trị. Còn trong lãnh vực thiêng liêng thì sao? Suy nghĩ của tôi hạn hẹp, chỉ nhận ra được vài nét. Tôi tạm coi đây là mấy đặc điểm làm nên khuôn mặt thiêng liêng của Công giáo thời nay.
1/ Người công giáo đang cùng với xã hội xây dựng văn hoá tình yêu liên đới Công đồng Vatican II dạy: “Với lòng biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng mình đã được nhiều người thuộc mọi giai cấp và hoàn cảnh giúp đỡ nhiều cách cho chính cộng đoàn cũng như cho từng cá nhân con cái mình”. (...) “Trong việc mở rộng tương quan với thế giới, Giáo Hội phải biết mình luôn trưởng thành nhờ kinh nghiệm của các thời kỳ. Ðược Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ Giáo Hội không ngừng khuyên giục con cái mình thanh tẩy và canh tân, để dấu chỉ của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên khuôn mặt Giáo Hội” (Gaudium et Spes, ch. IV,43). “Bổn phận của toàn thể dân Chúa, đặc biệt của các chủ chăn và các nhà thần học là: Nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân biệt và giải thích tiếng nói của thời đại, rồi phán đoán dưới ánh sáng lời Chúa, để chân lý Phúc Âm mạc khải luôn được thấu triệt, được hiểu rõ và trình bày cách thích hợp hơn” ((Gaudium et Spes, ch. IV,44). Những lời dạy trên đây của Công đồng cho thấy: Tương quan giữa đời và đạo là một thực tế. Chúng ta thấy hiện nay nó đang rất cụ thể. Khi phân tích các tín hiệu trong những biến cố thời đại hiện nay tại Việt Nam, hầu như mọi người công giáo chúng ta, nhất là các đấng bậc, đều nghe thấy một tiếng gọi chung: Hãy yêu thương nhau. Yêu thương là việc thiện cao quý nhất. Thực sự, trong xã hội và cả trong Giáo Hội hiện nay, vẫn có giao tranh giữa hận thù, ghen ghét và yêu thương liên đới. Xem ra cái ác đang có vẻ rất mạnh. Chính vì để thắng sức mạnh của hận thù ghen ghét, Chúa muốn Giáo Hội phải kết hợp mật thiết với Thiên Chúa tình yêu. Trong chuyến thăm Nam Mỹ mới rồi, Ðức Thánh Cha Benedicto XVI đã nhấn mạnh điều đó. Thiên Chúa tình yêu đang hoạt động trong nhiều tâm hồn thiện chí khắp xã hội. Nếu biết tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp được họ. Họ và ta sẽ được Chúa tình yêu dẫn dắt, để đổi mới xã hội. Ðổi mới bằng nhiều cách, nhưng nhất là bằng văn hoá tình yêu. Văn hoá này sẽ đẩy lùi bóng tối hận thù, ghen tương, ích kỷ, kiêu căng đang thống trị trong lòng nhiều người, trong nếp sống bao tập thể. Trong việc xây dựng văn hoá tình yêu, Giáo Hội sẽ giữ một vai trò khiêm tốn. Ta luôn cùng với. Chứ không lẻ loi một mình. Ðể được như vậy, Giáo Hội hôm nay đang chú trọng đặc biệt đến việc đào tạo những nhân sự làm mục vụ, truyền giáo và làm chứng cho tình yêu Chúa giữa trần thế, một trần thế không bao giờ vắng quỷ ghen ghét, hận thù. Khi sống văn hoá tình yêu, Hội Thánh công giáo sẽ đặc biệt chú tâm lo cho người nghèo khổ.
2/ Người công giáo đang cùng những người thiện chí quan tâm đặc biệt đến những người đau khổ Những người đau khổ nói đây là lớp người nghèo, những người bệnh nạn tật nguyền, già yếu, neo đơn, thất học, thất nghiệp, bơ vơ giữa đời. Nếu để ý quan sát, ta thấy: Những chính quyền nào thực sự lo cho lớp người đau khổ bao giờ cũng được lòng dân. Những tôn giáo nào đặt ưu tiên quan hệ yêu thương với những người nghèo khổ sẽ luôn có sức thu hút lòng người. Không phải bất cứ ai cũng thích và biết dấn thân vào hướng phục vụ người đau khổ. Tất nhiên cũng có những người tự nhiên có bản năng đó. Nhưng hầu hết phải được đào tạo. Ðào tạo tốt nhất là theo gương Ðức Giêsu thành Nadarét. Người yêu thương bằng cách từ bỏ mình. Như bước xuống thân phận người nghèo, sống với họ, chia sẻ cuộc đời của họ. Chính những người được đào tạo như vậy và kiên trì dấn thân như Chúa Giêsu, ít là một cách tương đối không trái ngược, sẽ giúp cho khuôn mặt thiêng liêng của Giáo Hội có một nét đẹp khác thường. Thực tế hôm nay cho thấy: Họ không cô đơn. Họ vẫn cùng với nhiều môn đệ âm thầm của Chúa Giêsu đang dấn thân như vậy. Khuôn mặt thiêng liêng thời nay của các cộng đoàn còn một nét đẹp nữa, đó là mến yêu Giáo Hội.
3/ Người công giáo đang cùng với Ðức Maria yêu thương tha thiết Hội Thánh Chúa Thực vậy, kính yêu Hội Thánh vốn là một bổn phận quan trọng của lương tâm mọi người con Hội Thánh. Hội Thánh là một thứ bí tích cứu độ do Chúa Giêsu lập nên. Hội Thánh luôn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn bằng nhiều cách. Có cách người ta thấy và hiểu được. Có cách người ta không thấy và không hiểu được. Hội Thánh là mẹ thiêng liêng sản sinh và nuôi dưỡng những người được chọn, để về nhà Cha. Hội Thánh được trao cho các thánh tông đồ và các đấng kế vị các ngài, để đức tin được vững vàng trong sáng. Hội Thánh luôn được Mẹ Maria yêu thương bảo trợ. Riêng tôi, tôi luôn cảm tạ Chúa, vì được Hội Thánh Chúa chở che, giáo dục và thánh hoá hằng ngày. Vì đã quen sống trong tình yêu Hội Thánh, nên tôi coi những ai kính yêu hiếu thảo đối với Hội Thánh là những người sống trong ơn nghĩa Chúa, như một bảo đảm cho phần rỗi. Cho dù Hội Thánh có lúc như người mẹ già bệnh tật, tôi vẫn kính yêu và càng phải kính yêu hơn. *** Trên đây tôi vừa trình bày ba nét đẹp thiêng liêng của người đạo Chúa hôm nay: - Một là: Cùng với xã hội xây dựng văn hoá tình yêu. - Hai là: Cùng với những người thiện chí quan tâm lo cho những người nghèo khổ. - Ba là: Cùng với Ðức Mẹ yêu thương Hội Thánh đủ các thành phần.. Cả ba đặc điểm đó tất nhiên phải xây dựng trên nền tảng đức tin, khiêm nhường và cởi mở, liên đới. Với tinh thần sám hối, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có được một bộ mặt thiêng liêng tốt đẹp. Thiết tưởng đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Long Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2007
Tháng 6 hằng năm được phụng vụ dành riêng cho việc kính thờ trái tim Chúa Giêsu. Tháng này Bùi-Tuần 1735
Tháng 6 hằng năm được phụng vụ dành riêng cho việc kính thờ trái tim Chúa Giêsu. Tháng này, một bầu khí thiêng liêng khác thường bao phủ các cộng đoàn công giáo. Trong Hội Thánh Việt Nam, bầu khí đạo đức này được diễn tả như một cuộc trao đổi giữa trái tim tín hữu với trái tim Chúa, và giữa các trái tim tín hữu với cuộc đời. Những trao đổi thân thương ấy có sức cải hoá nhiều tâm hồn. Tôi đã được tham dự bầu khí đạo đức đó. Rất nhiều cảm nghiệm. Ở đây tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút trong lãnh vực niềm vui thiêng liêng.
1/ Vui vì mình được Chúa nhận làm con Xưa Chúa Giêsu đã mời gọi: “Ai khát, hãy đến với Ta. Ai tin vào Ta, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37-38). Lời mời gọi tha thiết ấy gây âm vang trong linh hồn tôi. Tôi đang khát hạnh phúc. Tin vào lời Chúa, tôi đến với trái tim Người. Tại đây, tôi nhận được dòng chảy yêu thương lạ lùng. Càng đón nhận, với lòng khiêm tốn, tôi càng cảm thấy mình thuộc về Chúa. Ðến một lúc không ngờ, tôi cảm nhận được rõ ràng chắc chắn mình được Chúa nhận làm con. Tất cả đều xảy ra đúng như lời thánh Phaolô dạy: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: 'Apba! Cha ơi'“ (Rm 8,14-15). Biết mình được là con Chúa, đó đã là một hạnh phúc lớn. Nhưng cảm nghiệm được thế nào là người con Chúa mới lại là một hạnh phúc khó tả. Trong cảm nghiệm đó có sự nhận biết Chúa là Cha vô cùng thương xót. Ðây là một ơn Chúa ban cho nhưng không. Ơn xót thương của tình Cha luôn chảy vào hồn tôi, để hồn tôi được hiệp thông với sự sống Chúa. Nhờ đó, tôi đón nhận được phần nào ơn biết mình bé nhỏ, khó nghèo, yếu đuối. Bên cạnh niềm vui được làm con Chúa, tôi còn tìm được một niềm vui khác, khi ở lại trong trái tim Chúa. Niềm vui đó là được góp phần vào lễ tế của Chúa Giêsu.
2/ Vui vì được góp phần vào lễ tế của Chúa Giêsu Nhiều khi, chúng ta thường nghĩ rằng: Lễ vật làm vui lòng Chúa là những đắc thắng hoặc hy sinh theo ý của ta, hoặc theo dư luận quần chúng. Nhưng không phải thế. Ðoạn văn sau đây của tác giả thư gởi Do Thái nói rõ thế này: “Khi vào trần gian, Ðức Kitô nói: 'Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thiết lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài như Kinh Thánh đã chép về con'“ (Dt 10,5-6). Như vậy, lễ tế mà Chúa muốn chính là con người của ta khi thực thi thánh ý Chúa. Con người của tôi, khi thực thi thánh ý Chúa, sẽ ẩn mình vào trái tim Chúa Giêsu. Một đàng phấn đấu thắng vượt những ý hướng chiều theo xác thịt, thế gian, ma quỷ, một đàng sống theo những chọn lựa hợp thánh ý Chúa. Kinh nghiệm cho thấy: Thắng vượt được những ý hướng xấu là việc không dễ. Ngay việc nhận ra ý hướng nào là xấu về mặt đạo đức cũng đã khó thực hiện. Huống hồ là phấn đấu thắng vượt chúng, khi đã nhận ra chúng rồi. Hơn nữa, trong đàng thiêng liêng, thắng tội chưa phải là đủ, mà còn phải công chính hoá con người của mình bằng sự dấn thân vào con đường Chúa muốn ta đi. Nhận ra con đường thánh ý Chúa và dấn thân bước mãi không ngừng trên con đường ấy. Ðó chính là một lễ tế đẹp lòng Chúa. Lễ đó xảy ra ở thân xác ta và tâm hồn ta. Phải yêu thực nhiều và phải hy sinh rất nhiều. Có đau khổ tâm hồn và có đau đớn phần xác. Mọi sự đều nội-tâm-hoá. Phải nói là lễ tế như vậy không dễ dàng gì đâu. Nhưng khi ta ở lại trong trái tim Chúa, khiêm tốn để trái tim Người đào tạo, thì bản thân ta và đời ta sẽ trở thành lễ tế. Lễ tế của ta trong trái tim Chúa sẽ là một niềm vui cho ta. Một niềm vui âm thầm, vì ta được tham dự vào lễ tế của Chúa Giêsu. Khi nói đến niềm vui âm thầm, tôi lại nhớ tới một niềm vui khác, mà tôi được cảm nghiệm, khi ở lại trong trái tim Chúa. Ðó là niềm vui được biết yêu thương.
3/ Vui vì mình được Chúa dạy cho biết yêu thương Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết được nhiều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì. “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. “Ðức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù...” (1 Cr 13,1-5). Tất cả những gì thánh Phaolô nói trên đây đều được dạy ở trường trái tim Chúa. Kinh nghiệm tu đức, mục vụ và truyền giáo cho thấy: Tình yêu nhân bản là một giá trị cao quý, nhưng tình yêu phát xuất từ trái tim Chúa mới là tình yêu cứu độ và thánh hoá. Nhờ ơn Chúa, trái tim ta được cải đổi, để biết sống bé nhỏ trong lửa tình yêu trái tim Chúa. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được rằng: Yêu người như Chúa yêu ta là việc phải tập luyện lâu dài, suốt đời. Không phải cứ học biết lý thuyết và sinh hoạt phong trào là đủ. Nhưng phải gặp gỡ sống động với trái tim Chúa. Gặp gỡ trong bầu khí thinh lặng, hồi tâm, cầu nguyện, với niềm tin: Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, Người yêu ta trong Thánh Thần, Người đến để dẫn ta về với Chúa Cha. *** Với mấy chia sẻ trên đây, tôi tha thiết cầu mong tháng kính Trái Tim Chúa Giêsu năm nay sẽ đem lại cho mỗi người chúng ta nhiều niềm vui thiêng liêng hữu ích cho mình và cho Hội Thánh Việt Nam. Những niềm vui thiêng liêng ấy sẽ giúp cho chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Nước Tình yêu Chúa đang phát triển, đồng thời cũng giúp cho chúng ta phân định được những mưu mô Satan đang toan tính phá hoại Nước Chúa tình yêu. Long Xuyên, ngày 23 tháng 5 năm 2007
Xét mình để sửa mình là một bổn phận quan trọng của người công giáo. Bổn phận này càng trở Bùi-Tuần 1736
Xét mình để sửa mình là một bổn phận quan trọng của người công giáo. Bổn phận này càng trở thành đòi hỏi bức xúc nơi người tu trì. Có nhiều cách xét mình. Ở đây tôi xin đề cập đến một cách, mà nhiều nhà tu đức đã dạy. Kinh nghiệm cho thấy: Ai thực hiện đúng sẽ khám phá ra nhiều sự thực cứu độ. Cách xét mình này có yếu tố chung của mọi việc xét mình, đó là đi vào bầu khí thinh lặng nội tâm. Còn yếu tố riêng của nó là nhờ ngọn lửa trái tim Chúa, để soi tìm một lãnh vực, mà tôi gọi là “đàng sau”. Như: Ðàng sau những cái nhìn. Ðàng sau những khát vọng. Ðàng sau những phấn đấu. Tôi xin vắn tắt triển khai mấy ví dụ trên.
1/ Ðàng sau những cái nhìn Nhìn là việc bình thường. Nhưng cái nhìn của ta thường kèm theo lượng giá. Trong mỗi cái nhìn đều có chút phán đoán của lý trí và chút gần xa của trái tim. Những cái nhìn đó chi phối cách sống và đối xử. Chính vì thế mà ta cần xét mình về những cái nhìn của ta. Khi việc xét mình đó được thực hiện trong lửa trái tim Chúa Giêsu, ta sẽ được thấy: Ðàng sau mọi cái nhìn của ta cần có ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Chúa Thánh Thần sẽ giúp ta phân định con đường nào Người đang hướng dẫn lịch sử Hội Thánh và nhân loại. Con đường đó là Tình yêu đi về Thiên Chúa tình yêu. Tình yêu đang được Chúa gieo trồng khắp nơi dưới nhiều hình thức, bằng nhiều người thiện chí. Thí dụ: - Những người phục vụ trong vị tha yêu thương. - Những người xây dựng sự hiệp thông, hiệp nhất. - Những người dấn thân cho người nghèo. - Những người nối kết an hoà các biên cương. - Những tôn giáo gắn bó với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. - Những người sống trút bỏ cái tôi ích kỷ. Nhờ ánh sáng Chúa Thánh Thần đàng sau những cái nhìn thời sự hiện nay, chúng ta có thể đoán được số phận của ta trong tương lai đất nước. Nếu con đường lịch sử đang đi về tương lai là dòng tình yêu với những hình thức tiến triển, mà nếu ta cứ mãi tự mãn dưới đáy giếng khô cạn của cái tôi kiêu ngạo, thì ta sẽ tự mình đào thải mình. Hơn nữa, ta sẽ mắc tội với Chúa tình yêu.
2/ Ðàng sau những khát vọng Khát vọng đang là một làn sóng thần tràn vào các tâm hồn. Có khát vọng tốt và rất tốt. Có khát vọng xấu và cực kỳ xấu. Trong đạo, vô số tín hữu bình thường đang chạy theo nhiều khát vọng mới có vẻ như làm sáng danh đạo mình. Nhiều chốn tu trì cũng đang đua nở các thứ khát vọng mới mang nhãn hiệu như phát triển đạo Chúa. Bao lần tôi đã bị cuốn hút vào những làn sóng khát vọng đó, vì tôi tưởng tất cả đều hoàn toàn do Chúa, và vì Chúa. Nhưng, trong những ngày tĩnh tâm thinh lặng, khi lửa trái tim Chúa soi lại đàng sau những khát vọng sôi động đó, tôi mới thấy có một khát vọng căn bản cần hơn mọi khát vọng. Ðó là khát vọng vâng phục thánh ý Chúa. Mà muốn biết vâng phục thánh ý Chúa, thì phải cầu nguyện và tỉnh thức. Tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện tại vườn Cây Dầu: “Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36). Rồi Chúa Giêsu nói với mấy môn đệ ở đó: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Kinh nghiệm cho tôi thấy: Trong rất nhiều toan tính, thánh ý Chúa khác hẳn ý riêng ta, mà ta không nhận ra và cũng không muốn nhận. Trong rất nhiều trường hợp, ta như tưởng rằng: Có được những phương tiện trần thế là thắng được ma quỷ và các chước cám dỗ của chúng. Ðó là một sai lần đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho Nước Chúa tình yêu.
3/ Ðàng sau những phấn đấu Hiện nay, con người được kính trọng và đáng kính trọng là con người phấn đấu cho hạnh phúc của con người và sự trưởng thành của chính mình. Phấn đấu không ngừng. Phấn đấu không bao giờ tự cho là đủ. Có nhiều cách phấn đấu. Nhưng cách phấn đấu nào được tu đức căn dặn nhiều nhất? Thưa là cách phấn đấu không để cái tôi của ta bị bất cứ sự ác nào cai trị, khống chế, lôi kéo. Ðó là một nhận thức quý giá, mà lửa trái tim Chúa soi cho ta đàng sau các phấn đấu hằng ngày. Ðây là một phấn đấu cực kỳ khó khăn. Thánh Phaolô đã từng tâm sự: “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại làm... Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,19-25). Tôi thấy: Nhiều người trong chúng ta đã rất phấn đấu để có tiền bạc và những phương tiện tốt, hầu cho các sinh hoạt tôn giáo và đời sống đồng bào được khả quan hơn, đồng thời để chính mình được phát triển. Nhưng, khi lửa trái tim Chúa soi vào đàng sau những phấn đấu đó, ta thấy con người phấn đấu của ta nhiều khi lại chẳng may bị thua ê chề. Bởi vì chính bản thân ta không biết nương tựa vào Chúa Giêsu. Nên mục đích phấn đấu không hoàn toàn trong sạch. Cách phấn đấu mang quá nhiều tính duy trần tục. Thành quả phấn đấu có phần gây hại cho Tin Mừng. *** Trên đây là một chia sẻ được giới hạn trong việc sửa mình. Hãy để lửa Thánh tâm soi vào đàng sau những cái nhìn, những khát vọng, những phấn đấu của ta. Khi thực hiện đúng những điều kiện trên, ta sẽ nhận ra vô số điều cần sám hối và đền tạ. Hãy sám hối và đền tạ trong lửa Thánh tâm. Ðiều quan trọng là ta tin Chúa Giêsu vốn ở bên ta. Người giàu lòng thương xót. Người nhìn ta. Người đang nói với ta: “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Dù ta nghèo hèn về mọi mặt, nhưng nếu ta khiêm nhường dâng lên Chúa tất cả tấm lòng chân thành của ta, như một của lễ, thì chắc chắn Chúa sẽ thương đoái nhận. Người đã làm như thế đối với bà goá nghèo xưa chỉ dâng hai đồng xu cho nhà thờ (x. Mc 12,41-44). Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2007
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ trọng. Lễ trọng này được phụng vụ đặt thêm một tên là ngày Bùi-Tuần 1737
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ trọng. Lễ trọng này được phụng vụ đặt thêm một tên là ngày cầu xin ơn thánh hoá các linh mục. Hội Thánh Việt Nam vốn nhiệt tình với lời nhắc nhở thân thương ấy. Khắp nơi đều cầu nguyện. Cầu nguyện theo tự nguyện và cầu nguyện theo tổ chức. Thánh hoá linh mục là vấn đề bao la. Riêng tôi nghĩ thế này: Nếu chọn ngày lễ Thánh Tâm để cầu xin ơn thánh hoá linh mục, thì chính việc chọn đó đã coi Thánh Tâm là nguồn thánh hoá linh mục. Với nhận thức như thế, tôi nhìn linh mục muốn được Thánh Tâm thánh hoá trong hình dung người dựa đầu vào trái tim Chúa Giêsu. Thánh Gioan tông đồ trong bữa tiệc ly đã để lại hình ảnh rất đẹp (x. Ga 13,23). Ngài là linh mục của Thánh Tâm. Theo gương thánh Gioan, nhiều linh mục đã dựa lòng mình vào trái tim Chúa Giêsu. Cử chỉ thân mật đó chủ yếu là để đón nhận. Những ơn mà các ngài đón nhận từ Thánh Tâm đều rất phong phú và luôn mới mẻ. Ở đây, tôi chỉ xin nói vắn tắt về ba ơn hay được nhắc tới xưa rầy.
1/ Ðón nhận ơn sống mật thiết với Chúa Sống mật thiết với Chúa Giêsu là điều Người đã căn dặn các môn đệ rất kỹ: “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong chúng con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, chúng con cũng vậy, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, chúng con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, chúng con chẳng làm được gì” (Ga 15,4-5). Sống mật thiết với Chúa hệ tại ở việc ta đón nhận sự sống của Chúa. Sự sống mới này chảy vào mọi ngóc ngách của hồn ta. Khắp nơi đều được đổi mới. Trí khôn, lòng muốn, tình cảm, và mọi tài năng của ta đều được sự sống Chúa kết hợp lại và nối vào trung tâm là Chúa Giêsu hiện diện trong ta. Những linh mục biết đón nhận ơn sống mật thiết với Chúa sẽ cảm thấy lòng mình như luôn xuất hành đi về với Chúa, cho dù phải lặn lội với bao công việc thuộc bổn phận của mình.
2/ Ðón nhận ơn bình an của Chúa Linh mục hằng ngày chào chúc cộng đoàn: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”. Thứ bình an của Chúa, mà linh mục chào chúc, được hiểu thế nào? Có nhiều cách hiểu. Nhưng những linh mục nào thường xuyên dựa lòng mình vào trái tim Chúa Giêsu sẽ trả lời theo thực tế, mà các ngài nhận được từ trái tim Chúa. Bình an đó hệ tại ở sự mình được gặp gỡ sống động với Chúa Cha trong Ðức Kitô. Sự gặp gỡ đó được cảm nhận như một khởi sự đi vào cõi sống đời đời. Xưa Chúa Giêsu đã phán: “Sự sống đời đời, đó là người ta nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Sự hiểu biết và đi vào cuộc sống đời đời như thế là do đức tin, chứ không phải do các bài học thần học, giáo lý, hoặc do những tình cảm chủ quan. Khi nếm được chút sự sống đời đời, người ta sẽ cảm thấy mình bước vào một cõi bình an sâu thẳm. Nhờ sự bình an thiêng liêng đó, ta tin mình được Chúa Cha yêu thương, cũng như được Chúa Giêsu âu yếm. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Thật, chính Chúa Cha yêu thương các con, vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Chúa Cha mà đến” (Ga 16,27). Xác tín mình được Chúa yêu thương, đó là nguồn bình an vô tận. Từ đó, con người linh mục sẽ không bị chao đảo, cho dù nhiều lúc lòng mình như bị bão gió tràn vào với bao thứ bóng tối hãi hùng. Cũng từ đó, con người linh mục sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa. Ngài xây dựng sự bình an theo kế hoạch bình an của Chúa, trong các tâm hồn, trong các cộng đoàn Hội Thánh và xã hội.
3/ Ðón nhận ơn sống hiện diện trước Chúa Ai càng dựa lòng mình vào trái tim Chúa Giêsu càng sẽ cảm thấy mình trở nên bé nhỏ hèn mọn. Với ý thức đó, họ sẽ rất vui mừng được nói với Chúa: “Này con đây”. Nghĩa là: Con luôn ở trước mặt Chúa. Con luôn sẵn sàng làm và chịu mọi sự theo thánh ý Chúa, đặc biệt là con sẽ hết lòng chu toàn bổn phận. Tâm tình trên đây là một thừa hưởng tâm tình khiêm tốn vâng phục của Mẹ Maria. Xưa Mẹ đã nói với Chúa: “Con xin vâng”. “Vì phận nữ tỳ hèn mọn này, Chúa đã thương đoái nhìn” (Lc 1,48). Nay, các linh mục của Thánh Tâm cũng nói những lời tương tự. Khi các ngài nói thế, thì lòng các ngài chăm chú lắng nghe ý Chúa. Ý Chúa không được mạc khải một lúc, mà được tỏ ra dần dần. Chính vì thế, mà các linh mục quen dựa lòng mình vào trái tim Chúa đã dễ dàng cùng với Hội Thánh nghĩ tới nhiều việc cần làm để giúp thánh hoá mình và các linh mục thời nay, như canh tân các hình thức đào tạo, lối sống, cách suy nghĩ về chức vụ linh mục. *** Khi chia sẻ mấy điều trên đây, tôi vui mừng, vì thấy trong Hội Thánh Việt Nam, vấn đề thánh hoá các linh mục đang trở thành một quan tâm tha thiết đối với mọi tín hữu thuộc đủ mọi tầng lớp và trong mọi hoàn cảnh. Tất cả các tín hữu đều mong ước có những linh mục đạo đức thánh thiện. Chính các linh mục càng rất khao khát được nên những môn đệ sống đời thánh thiện. Thánh hoá là việc của Chúa. Nhưng Chúa đòi chúng ta cộng tác vào. Phần cộng tác quan trọng là phải thực sự khát khao được thánh hoá. Tiếp theo là phải khiêm nhường đón nhận các ơn Chúa muốn trao ban để thánh hoá. Rồi phải luôn dấn thân đổi mới mình. Linh mục cần có kinh nghiệm đạo đức. Khi ngài có kinh nghiệm bản thân về sự sống mật thiết với Chúa, về ơn bình an tâm hồn và về lối sống hiện diện trước Chúa, thì ngài mới dễ là chứng nhân cho Chúa tình yêu. Nên nhớ rằng: Món quà quý nhất Chúa ban cho một cộng đoàn là cộng đoàn có được một hay những linh mục đạo đức thánh thiện. Long Xuyên, ngày 4 tháng 6 năm 2007
Kính gởi Cha Nguyễn Thái Hợp Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình
Tương lai Hội Thánh Việt Nam sẽ khác bây giờ. Cái khác đó sẽ tuỳ thuộc vào những biến chuyển Bùi-Tuần 1738
Tương lai Hội Thánh Việt Nam sẽ khác bây giờ. Cái khác đó sẽ tuỳ thuộc vào những biến chuyển. Có những biến chuyển xảy đến tự động. Có những biến chuyển do ta chủ động. Một thoáng nhìn đến những biến chuyển đó là bước đầu cho một lộ trình xây dựng tương lai. Chia sẻ của tôi sẽ rất vắn tắt.
1/ Những biến chuyển đang tự động xảy tới cho Hội Thánh Việt Nam a) Biến chuyển về cái nhìn đối với phẩm trật Hội Thánh. Não trạng thần thánh hoá giáo sĩ đang lung lay. Giáo dân dần dần khám phá ra những yếu đuối và giới hạn của các ngài. Kết quả là nhiều người bớt lòng kính trọng hàng giáo sĩ. Họ vẫn tin vào Thiên Chúa của Hội Thánh. Nhưng họ bớt tin vào Hội Thánh của Thiên Chúa. Phản ứng trước biến chuyển này mang nhiều điểm khác nhau. - Có giáo sĩ biết vậy với nỗi buồn. - Có giáo sĩ lại tăng cường giáo lý và quyền bính để khẳng định sự thần thánh của bậc giáo sĩ. - Có giáo sĩ chấp nhận chuyển biến một cách bình tĩnh và cố gắng canh tân mình theo chân lý.
b) Biến chuyển về sự phát sinh và phát triển các tôn giáo khác. Biến chuyển này vừa được quần chúng quan tâm, vừa được các phương tiện truyền thông đề cao. Phản ứng trước biến chuyển này cũng đa dạng. - Có nơi công giáo rất mờ mịt về biến chuyển đó. - Có nơi công giáo vẫn khép kín trong sự tự đắc truyền thống tự tạo. Họ vẫn coi thường các tôn giáo khác. - Có nơi công giáo theo dõi biến chuyển này, để biết người biết ta, và từ đó có những sáng kiến củng cố đức tin và cởi mở đối thoại.
c) Biến chuyển về hiện tượng các trào lưu tự do đang tràn vào Ðất Nước và Hội Thánh. Các trào lưu tự do đang tràn mạnh như: Tự do hưởng thụ. Tự do lương tâm không quy chiếu vào luật lệ đạo đức nào. Tự do ngôn luận không còn biết tôn trọng sự thật và văn hoá đối xử. Phản ứng trước biến chuyển này cũng khá rõ: - Có người công giáo đón nhận và hưởng ứng. - Có người công giáo không cảnh giác, tới đâu hay đó. - Có người công giáo tăng cường cầu nguyện và tỉnh thức.
2/ Những biến chuyển thiết tưởng ta cần chủ động a) Mở rộng cái nhìn về Nước Trời hơn là chỉ nhìn về Hội Thánh. Nước Trời rộng hơn Hội Thánh. b) Quan tâm nhiều đến vai trò cộng đoàn hơn là đến vai trò hàng giáo phẩm trong việc truyền giáo. Thời Giáo Hội sơ khai, quan tâm như thế rất được đề cao. c) Quan tâm đến việc làm chứng cho Chúa bằng hướng đi vào đời phục vụ con người, đồng thời với hướng đi vào nhà thờ, tham dự lễ nghi thờ phượng Thiên Chúa. d) Bảo vệ những nét đẹp của đời tu nơi mọi tín hữu, đặc biệt là nơi bậc giáo sĩ, tu sĩ. Tại Việt Nam, hầu hết dân chúng còn giữ thói quen quý trọng nét đẹp đời tu, như đời sống nghèo, chiêm niệm, từ bỏ mình và khiêm nhường, bác ái. *** Viết tới đây, tôi cảm thấy đầu óc quá mệt. Sức khoẻ của tôi thường xuyên vốn yếu. Tuổi già thêm bệnh càng làm yếu thêm. Dù sao, sự kiện nhiều anh chị em vẫn chờ đợi ý kiến đóng góp của những người già yếu cũng được coi là một biến chuyển đẹp trong Hội Thánh Việt Nam, đang khi phần đông vẫn quả quyết một cách đơn giản gọn ghẽ là: Tương lai thuộc về giới trẻ. Long Xuyên, ngày 6 tháng 6 năm 2007
Ðức Cha Giuse muốn tôi giảng trong thánh lễ này. Tôi xin vâng chia sẻ chút ít, vừa với khả năng Bùi-Tuần 1739
Ðức Cha Giuse muốn tôi giảng trong thánh lễ này. Tôi xin vâng chia sẻ chút ít, vừa với khả năng của tôi. Ðiều tôi muốn chia sẻ là: Thánh Gioan Baotixita đã dùng cách nào để dọn đường cho Ðấng Cứu thế.
I. Thực vậy, theo suy nghĩ của thánh Gioan Baotixita, thì việc dọn đường đón Chúa chủ yếu là bỏ đàng tội, sám hối trở về đàng lành. Với suy nghĩ đó, Ngài đã dùng cách nào? Thưa, Ngài nhấn mạnh đến 2 cách rao giảng.
1/ Cách thứ nhất là Ngài rao giảng bằng chính cuộc sống của Ngài. Cuộc sống của Ngài nói chung là cuộc sống khắc khổ và sa mạc. Khắc khổ là hãm mình ép xác, tránh phạm tội, dù là tội nhẹ. Sa mạc là chiêm niệm trong thinh lặng và khiêm tốn.
2/ Cách thứ hai là Ngài rao giảng bằng lời nói. Nội dung rao giảng bằng lời nói của Ngài có 3 điểm nghiêm khắc. a) Nghiêm khắc thứ nhất là Ngài đòi hỏi người tội lỗi phải trở về, nên người thực tốt. Ngài không chấp nhận loại trở về nửa vời, Ngài quả quyết: “Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa... Thóc mẩy thì thu vào kho” (Mt 9,10-12). Nghĩa là thóc không mẩy, trái không tốt đều bị bỏ đi. b) Nghiêm khắc thứ hai là Ngài răn đe: Giờ Chúa phạt đã gần kề: “Cái rìu đã kề sẵn bên gốc cây xấu” (Mt 9,10). Nghĩa là tai hoạ đang tới. c) Nghiêm khắc thứ ba là Ngài cảnh cáo mọi hoang tưởng đạo đức, muốn tránh bị phạt. “Chúng tôi đã có tổ phụ Abraham...” (Mt 9,9). Nghĩa là con cái Abraham hoặc bất cứ ai nếu có tội, cũng đừng hòng tránh được hình phạt. Với những đặc điểm kể trên, thánh Gioan Baotixita là một mẫu gương rao giảng rất thực tế, rất thẳng thắn, do lửa nội tâm.
II. Khi đem mẫu gương đó soi vào đời tôi, tôi xin thú thực là tôi còn rất xa mẫu gương đó. Tôi nhìn nhận khuyết điểm đó với lòng sám hối. Với tuổi nào, tôi vẫn thấy mình cần bắt đầu lại. Còn, khi đem mẫu gương đó soi vào đời các giám mục, linh mục, tôi thấy một số các ngài đã áp dụng mẫu gương đó tốt, không phải một cách máy móc, nhưng một cách khôn ngoan, khéo léo, tuỳ người, tuỳ lúc, tuỳ hoàn cảnh. Xin cảm tạ Chúa. Tôi thiết nghĩ mẫu gương của thánh Gioan Baotixita vẫn mãi được uy tín cho mọi thời. Nhưng, tôi xin có vài lời khuyên:
a) Lời khuyên đầu tiên là nên áp dụng một cách thông minh theo ơn Chúa Thánh Thần. Cố gắng tránh kiểu nói bị hiểu là ta có dụng ý xấu, muốn dùng lời giảng, để gièm pha, hạ giá, chửi xéo người khác. Khi giảng, thì luôn ý thức mình được Chúa sai giảng cho ai, vì mục đích gì. b) Lời khuyên tiếp theo là lúc này, khi thúc giục người ta bỏ đàng tội, sám hối trở về đàng lành, chúng ta cũng nên giới thiệu Chúa Giêsu giàu lòng thương xót. Bởi vì thời nay là thời điểm Chúa muốn mạc khải lòng thương xót Chúa. Xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha Giuse, các cha và mọi người. Xin vui lòng cầu nguyện cho nhau được biết luôn trung thành với ơn gọi dọn đường cho Chúa, đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra bất ngờ. Amen. Bài chia sẻ trong thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita tại nhà nguyện Toà Giám Mục Long Xuyên ngày 15/6/2007
Tôi đang rất mệt mỏi, thì nghe thấy từ trái tim Chúa Giêsu một tiếng nói nhỏ nhẹ, nhắc lại lời Bùi-Tuần 1740
Tôi đang rất mệt mỏi, thì nghe thấy từ trái tim Chúa Giêsu một tiếng nói nhỏ nhẹ, nhắc lại lời xưa Chúa đã nói: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi thì êm ái, và gánh của tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-30). 2. Tôi hiểu là những lời trên đây được gửi riêng cho tôi, và nhắn riêng về sự cần học đức hiền lành và khiêm nhường nơi trái tim Chúa Giêsu. Được nghỉ ngơi, được bồi dưỡng, là nhờ học được sự hiền lành và khiêm nhường nơi trái tim Chúa. 3. Tôi rất cảm tạ Chúa, vì lời nhắn nhủ riêng tư thân mật trên đây. Tôi quyết tâm tìm học sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu. 4. Tôi tìm và được Chúa chỉ cho thấy Chúa đang dạy hiền lành và khiêm nhường không qua trường lớp nào cả, mà qua những gương sáng đó đây xa gần xung quang tôi. Đúng là như vậy. Tôi đã và đang thấy nhiều người sống hiền lành và khiêm nhường trong lời nói, bài viết, những tiếp xúc và những việc làm. 5. Hiền lành và khiêm nhường của họ không chút nào phô trương, đắc thắng và tìm tư lợi. Nhưng tất cả đều tỏa ra một sức thiêng kêu mời những người xung quanh hãy nâng tâm hồn mình lên với Chúa. 6. Tuy nhiên, có ít người đã cảnh giác tôi về những hiền lành và khiêm nhường giả. Tôi nghĩ là trong một thế giới, mà thiện và ác lẫn lộn vào nhau, đạo đức thực và đạo đức giả cùng hoạt động bên nhau, thì hiền lành khiêm nhường thực giả cũng dễ lẫn lộn vào nhau, đâu có gì lạ. 7. Nhưng điều quan trọng đối với tôi là chính mình tôi có hiền lành và khiêm nhường thực không? 8. Xét mình kỹ, tôi chỉ có thể nói rằng: Hiền lành và khiêm nhường là những giá trị tôi phải học mãi, từng ngày, từng giờ, từng phút. Tôi còn thiếu rất nhiều. 9. Tới lúc này, tôi vẫn thấy mình chưa học được bao nhiêu. Nếu đây chỉ là vì yếu đuối, thì Chúa vẫn thương. Nếu chẳng may, cái hiền lành và khiêm nhường đó lại là thứ giả, do Satan ngụy tạo ra, và tôi đồng ý, thì sẽ khốn cho tôi, và cũng khổ cho đạo Chúa. Lúc này, tôi dám chắc là tôi không đồng ý. Nhưng tôi phải cậy trông vào Chúa hết lòng, để mãi mãi là như vậy. 10. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy: Đã có những người càng gần sự chết, thì Satan càng làm cho họ càng thêm dữ tợn, càng thêm kiêu ngạo, để rồi chết dữ trong tay Satan. 11. Thấy như vậy, tôi hết lòng cầu xin với trái tim Chúa thương dạy tôi về hiền lành và khiêm nhường một cách nào hiệu nghiệm nhất. Chúa dạy tôi là hãy chạy lại bên Mẹ Maria. Mẹ ôm tôi vào lòng, và chỉ dạy tôi hai chữ “Xin vâng”. Hãy xin vâng, hãy tập xin vâng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Rồi sẽ thấy hiền lành và khiêm nhường không phải là chuyện dễ, mà cần phải có nhiều phấn đấu công tác vào ơn Chúa. 12. Mà đúng là như vậy. Khi tôi xin vâng như Mẹ dạy, với những phấn đấu cam go được Mẹ đỡ nâng, tôi thấy tôi được nghỉ ngơi và được bồ dưỡng trong trái tim Chúa Giêsu. 13. Theo tôi, xin vâng của Đức Mẹ là vâng ý Chúa dạy, là Mẹ không bao giờ kết án đích danh ai. Vì Mẹ biết mình không có nhiệm vụ đó. Trong Phúc âm, nếu có kết án, thì Đức Mẹ chỉ nói chung về những tính xấu, chứ không vạch mặt chỉ tên đích danh ai. Trong những lần hiện ra ở nơi nọ nơi kia trên khắp thế giới, Đức Mẹ cũng đã tế nhị như thế. Đức Mẹ không hề nóng vội, không hề ra tay kết án. Thay vào đó, Đức Mẹ luôn giữ thái độ hiền lành và khiêm nhường. Để được như vậy, Đức Mẹ đã phải phấn đấu rất nhiều trong nội tâm, chống lại biết bao áp lực. 14. Tôi xin Đức Mẹ thương giúp tôi và các con cái Mẹ biết theo gương Mẹ mà hiền lành khiêm nhường như Mẹ. 15. Hiện nay, phong trào kết án nhau, bất cần nhau và loại trừ nhau xem ra đang lan rộng. Không gian tâm lý để chia sẻ cho nhau lòng tín nhiệm càng ngày càng hẹp lại thê thảm. Đó là một thảm họa cho Hội thánh nói chung và cho từng cộng đoàn nói riêng. 16. Cũng sẽ là thảm họa cho Hội thánh, khi muốn đổi mới cộng đoàn một cách nóng vội, quá tựa vào quyền lực mà thiếu hiền lành khiêm nhường cần thiết. 17. Càng sẽ là thảm họa, nếu ai trong Hội thánh dám quả quyết mình có đủ sự hiền lành và khiêm nhường, xác hồn trong sáng. Rồi tự hào, khoe khoang, tự cho mình là có sứ mạng cải cách cộng đoàn. 18. Hơn bao giờ hết, tôi thấy mọi con cái Chúa lúc này nên bám chặt vào Mẹ hiền lành và khiêm nhường để biết học với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Bởi vì, hiền lành và khiêm nhường là bài học rất cần mà lại rất khó. Tháng kính trái tim Chúa là dịp thuận lợi để chúng ta đi sâu vào bài học đó. Xin tạm kết thúc bài chia sẻ này bằng việc hân hoan cảm tạ Chúa. Biết cảm tạ Chúa, đó là một việc không thể nào thiếu cho cuộc sống hiền lành và khiêm nhường. Long xuyên, ngày 23.5.2019
Bùi-Tuần 1741: Rao giảng của thánh Gioan Baotixita
Bài chia sẻ của tôi sẽ rất vắn. Sẽ đề cập tới việc rao giảng bằng đời sống, dựa trên thời sự. Thưa Bùi-Tuần 1741
Bài chia sẻ của tôi sẽ rất vắn. Sẽ đề cập tới việc rao giảng bằng đời sống, dựa trên thời sự. Thưa anh em, Chưa bao giờ việc giảng bằng đời sống như thánh Gioan Baotixita lại được coi là một khát vọng tha thiết của Hội Thánh, và cũng là một vấn đề đang gây nhức nhối như bây giờ. Tối thứ Hai vừa rồi, đài truyền hình An Giang chiếu Hội nghị toàn quốc của Phật giáo Hoà Hảo. Hội nghị rất nhấn mạnh đến việc từ thiện, nhưng nhất là đề cao việc tu thân. Tôi tự hỏi: Tôn giáo bạn là thế. Còn ta thì sao? Có đề cao việc tu thân không? Hôm qua, chúng tôi nhận được một lá thư từ ngoài Bắc do một nhóm tu sĩ và chủng sinh gởi. Nội dung là những lời phàn nàn thảm thiết, và những lời tố cáo nặng nề về lối sống thiếu tu thân nghiêm trọng nơi một đấng bậc cao tại Việt Nam. Chúng tôi không dễ tin. Nhưng chúng tôi coi đây là một báo động. Mấy tuần nay, tôi nghe không ít chuyện xuống dốc về tu thân trong Hội Thánh Việt Nam. Giáo phận Long Xuyên cũng rất cần cảnh giác. Bởi vì cũng đang âm ỉ nhiều bất ổn, nhắm vào đời tu các đấng bậc nơi này nơi nọ. Những bất ổn đó sẽ là dịp gây nên những bất kính, và bớt tín nhiệm của giáo dân và xã hội đối với Hội Thánh. Nói thực là những tin tức như thế làm chúng ta, nhất là những người có trách nhiệm phải rất suy nghĩ. Vì thế, nếu cần nhắn gởi anh em một lời thân thiết nhất dịp này, thì lời đó là: Hãy theo gương thánh Gioan Baotixita, mà giảng về Ðức Kitô bằng đời sống tu thân của ta, một đời tu thân chặt chẽ hơn, sâu sắc hơn, nêu gương sáng hơn, một đời tu thân có một chút khổ chế, một chút sa mạc. Ðó là ý Chúa. Ðó là nguyện ước của giáo phận. Ðó là trách nhiệm của ta. Chúng ta là những người yếu đuối. Xin Chúa thương đến chúng ta. Xin Chúa đổi mới chúng ta. Amen. Bài chia sẻ trong tuần Thường huấn các linh mục giáo phận Long Xuyên ngày 15/6/2007
Thời buổi này, mọi nhận xét tình hình đều nên để ý. Theo nhận xét của nhiều người, thì từ Bùi-Tuần 1742
Thời buổi này, mọi nhận xét tình hình đều nên để ý. Theo nhận xét của nhiều người, thì từ nhiều tháng nay, tại Hội Thánh Việt Nam đang hình thành 3 con đường mang tên sống đạo.
I. Một thoáng nhìn về tình hình đạo Một là con đường sống đạo chủ yếu tập trung vào yêu thương phục vụ đích thực, xuất phát từ đời sống nội tâm phong phú. Hai là con đường sống đạo nổi về đấu tranh gay gắt nhân danh Chúa. Thắng cho mình, chống bên nọ, bôi lọ bên đó, triệt hạ bên kia. Ba là con đường sống đạo dồn sức vào việc bung ra các hình thức phát triển mới, trong đó có phát triển các lối sống nặng về cá nhân chủ nghĩa, hình thức, hướng ngoại và hiếu động. Con đường nào cũng có người theo. Mỗi người khi theo con đường nào đều có lý do biện minh cho lựa chọn của mình. Theo tôi, lý do thầm kín nhất trong chọn lựa bao giờ cũng là niềm khát vọng. Riêng những người tin theo Chúa thực sự, thì khát vọng chính đáng của hành trình cuộc đời là được về với Cha trên trời. Suốt hành trình cuộc đời của họ đều được chi phối bởi khát vọng về với Cha. Ðể đạt được niềm khao khát đó, họ phải đi đúng đường. Ðường chắc chắn đúng là con đường nào? Thưa là khao khát việc mến Chúa thương người theo thánh ý Chúa. Hôm nay, tôi xin chia sẻ đôi chút về khát vọng của những người như thế, trong đó có tôi. Ðiều tôi muốn nhấn mạnh là khát vọng đó rất quan trọng, cần phải tỉnh thức canh chừng.
II. Tầm quan trọng của khát vọng mến Chúa thương người a) Trước hết, Phúc Âm dạy Phúc Âm thánh Matthêu viết: “Ðức Giêsu dạy: Ngươi phải mến yêu Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Ðó là điều răn thứ nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39). Ai là người thân cận, thì Chúa Giêsu đã giải thích bằng dụ ngôn người Samaritanô tốt lành. Theo đó, người thân cận là người cần đến lòng thương xót của ta. Ta thương họ, là ta trở thành thân cận với họ (x. Lc 10,29-37). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã tha thiết trối lại điều răn yêu thương: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau. Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 13,34-35). Trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Còn bao nhiêu lời khác trong Phúc Âm dạy ta phải coi khát vọng sống đức ái là khát vọng quan trọng ưu tiên. Một đức ái trong sáng, chứ không bị lợi dụng, hoặc chỉ là hình thức. Tiếp sức với Phúc Âm là các huấn dụ của giáo quyền về sống đạo hôm nay.
b) Giáo quyền khuyên Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi Hội Thánh hôm nay tăng cường niềm tin vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót và làm chứng cho niềm tin ấy. Ðức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI hay nhắn nhủ mọi người hãy trở về với tình yêu thương xót Chúa. Hội đồng Giám mục Việt Nam đã vạch rõ con đường sống đạo hôm nay là “yêu thương và phục vụ”. Cùng với những lời truyền của Phúc Âm và những lời khuyên của giáo quyền, chúng ta đang chứng kiến một sùng kính mới trong Hội Thánh Việt Nam, đó là sùng kính Chúa Giêsu giàu lòng thương xót.
c) Lòng sùng kính mới mời gọi Tôi thấy lòng sùng kính Chúa Giêsu giàu lòng thương xót đang lặng lẽ đi vào các gia đình một cách mau lẹ. Lòng sùng kính này đốt lên trong nhiều người ngọn lửa tin yêu phó thác vào Chúa. Ngọn lửa ấy đã biến đổi nhiều người nên những tạo vật mới. Họ rất mong mọi người nếm được sự ngọt ngào của tình yêu Chúa, như họ đã từng cảm nghiệm. Họ đã chia sẻ kinh nghiệm nội tâm của họ cho nhiều người chưa biết Chúa. Kết quả là những người này đã tình nguyện nhận Chúa là Cha. Rồi đến lượt những người này, họ lại đi kể lại cho nhiều người những gì Chúa đã làm cho họ. Qua kinh nghiệm và xác tín, tôi coi khát vọng yêu thương chân chính là quan trọng nhất. Yêu thương làm nên chân dung con người. Yêu thương làm nên đẳng cấp của con người trong bậc thang giá trị. Ðể khát khao mến Chúa thương người trở thành một con đường tu đức chắc chắn dẫn về với Cha, chúng ta cần cảnh giác. Tôi chỉ xin nhắc sơ qua vài điều.
III. Vài cảnh giác về khao khát mến Chúa thương người Ðiều thiết tưởng nên cảnh giác đầu tiên là: a) Khát khao đó trong ta phải là ngọn lửa muốn luôn nóng thêm, luôn sáng thêm, luôn mạnh thêm, luôn chiếu xa về phía trước. Yêu thương thêm mãi, yêu thương xa mãi, đó là khát vọng âm thầm, do Trái tim Chúa Giêsu chia sẻ. Chính Trái tim Chúa bị thương tích vì yêu đã dạy ta. Ta sẽ vâng lời, đốt khát vọng đó trong ta theo gương Chúa, để khôn ngoan điều chỉnh lối sống của ta. Cũng nên nhớ rằng: Yêu thương phục vụ vì Chúa nhiều khi được trả đáp bằng những vô ơn và hiểu lầm. Xin Chúa cho ta biết chấp nhận đau đớn ấy, theo gương Ðấng Cứu thế. b) Khát vọng mến Chúa thương người trong ta còn cần năng được kiểm tra dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần. Chúng ta yếu đuối lắm, dễ có những thiếu sót lỗi lầm trong đời sống đạo, nhất là trong bổn phận yêu thương phục vụ. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn cầu nguyện và biết quý trọng mọi đỡ nâng Chúa gởi cho, bất cứ từ trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh. Xưa, chính Ðấng Cứu thế cũng đã vui mừng đón nhận biết bao nâng đỡ đến từ “dân ngoại” và từ những thân phận hèn mọn nhất trong đạo. c) Còn một cảnh giác thiết tưởng nên nói ra, đó là, trong khát vọng mến Chúa thương người, đừng bao giờ để lửa kiêu căng, hận thù, ghen tương, chia rẽ pha vào. Rất nhiều trường hợp, thành công của người này lại là một xúc phạm đến người kia. Não trạng đó rất độc ác, đê tiện, nhưng lại được che giấu tinh vi. *** Chia sẻ trên đây nhắc nhở cho ta thấy: Vai trò của những khát vọng là rất quan trọng, cần phải chọn lựa, kiểm tra, cảnh giác. Ai rồi cũng phải chết. Chúa sẽ phán xét ta về những khát vọng. Trong lúc bất ngờ, Chúa sẽ đến. Người sẽ hỏi ta: “Ðời con được chi phối bởi khát vọng nào mạnh nhất?” Ta sẽ trả lời ra sao? Có chắc là ta dám trả lời: “Bởi khát vọng mến Chúa thương người theo thánh ý Chúa” không? Ta không lừa dối được Chúa đâu. Nói đúng ra, bản quyết định thưởng phạt là do chính mỗi người viết và ký vào, chính khi mình còn sống. Long Xuyên, ngày 19 tháng 6 năm 2007
Tôi không tách rời việc tôi viết báo khỏi trách nhiệm tôi phải chia sẻ Tin Mừng. Tuần báo “Công Bùi-Tuần 1743
Tôi không tách rời việc tôi viết báo khỏi trách nhiệm tôi phải chia sẻ Tin Mừng. Tuần báo “Công Giáo và Dân Tộc” này có nhiều bài của tôi. Rải rác bao nhiêu bài, tôi không nhớ. Nhân dịp tuần báo bé nhỏ này mừng 32 tuổi, tôi xin giãi bày đôi chút tâm tình của tôi về viết báo đạo. Xin nói ngay điều này: Mỗi khi viết một bài báo, bao giờ tôi cũng đắn đo. Ðắn đo bằng suy tư nhiều, nhất là bằng cầu nguyện rất nhiều, với hy vọng bài báo nếu không có nhiều chất lượng tốt, thì ít ra cũng vang vọng “tiếng kêu trong sa mạc” một cách nào đó. Sau nhiều năm như thế, tôi cảm nghiệm trong tôi những tâm tình nào? Thưa bốn tâm tình dưới đây được coi là sống động nhất: - Niềm vui. - Nỗi đau. - Nỗi lo. - Hy vọng. Niềm vui Niềm vui đến từ những khám phá do ảnh hưởng bài báo. Lợi ích lớn nhất của tôi khi viết báo là mang lại lợi ích cho người khác. Lợi ích mang lại cho người khác thực rất đơn sơ. Ðơn sơ ở chỗ bài báo chỉ là một hiện diện thân thương. Nhiều người, khi đọc bài báo, đã tự tìm ra chính mình. Từ đó, bài báo và họ trở nên những bạn đồng hành, thêm hy vọng cho nhau. Họ được an bình hơn trong chính không gian của họ. Tất nhiên không gian đó có ánh sáng riêng và bóng tối riêng. Nhưng với bài báo hiện diện, họ nhận được sức mạnh mới từ Ðấng thiêng liêng mà họ tin là yêu thương họ. Những gì tôi vừa nói là có thực và có nhiều. Trong những lợi ích như thế, tôi gặp được rất nhiều bạn đọc luôn đợi chờ những phục vụ bé nhỏ của tôi, dù họ biết tôi có nhiều giới hạn. Hơn nữa, những bài trên “Công giáo và Dân tộc” này đã là cầu nối để tôi gặp được không ít người ngoài Công giáo. Chính họ chia sẻ với tôi về các giá trị đạo đức, như đạo Hiếu, vấn đề tu thân, việc làm từ thiện, tinh thần gắn bó với dân tộc, cái tâm trăn trở về những tiêu cực phá hoại văn hoá truyền thống. Tôi coi đây là một lợi ích lớn. Thêm vào lợi ích đó, cũng nên kể ra một lợi ích khác, đó là trong thời gian dài viết báo, tôi khám phá ra trong chính tôi nhiều ơn riêng Chúa đã ban cho. Như thế, niềm vui là đặc biệt. Nhưng bên cạnh nó, có nỗi đau. Nỗi đau Nỗi đau tôi thường gặp trong đời viết báo là cảm nhận được nhiều thứ nỗi đau của đủ hạng người. Từ trong nước và từ nước ngoài, tôi nhận được những tiếng gọi của không biết bao hoàn cảnh đáng thương. Hoàn cảnh đáng thương gồm nhiều loại: Loại khổ về tinh thần, loại khổ về thể xác, loại khổ về bất công xã hội, loại khổ về bất ổn gia đình, vv... Nhưng, cái khổ mà tôi nhận được nhiều nhất là cái khổ do đói tình thương và các lương thực đạo đức. Nỗi khổ của họ trở thành nỗi khổ của tôi. Nỗi khổ của tôi là cái khổ của những đồng bào thiếu thốn, cộng thêm những giới hạn của tôi. Tôi hết sức thông cảm và rất muốn đỡ nâng, chia sớt, nhưng lực bất tòng tâm. Tôi chỉ đáp lại được phần nào những tiếng gọi khổ đau xa gần. Khi tôi buồn đau về thực trạng đó, thì thỉnh thoảng tôi lại gặp những cảnh đau xót khác. Ðó là có một số người đi về phía trước với nhiều phương tiện truyền thông phong phú. Những phương tiện này chất nặng hận thù định kiến và tinh thần thế tục. Họ xả chất độc vào những người tốt, cả trong Hội Thánh. Sự kiện đó làm cớ cho Hội Thánh dễ bị mất uy tín. Ðể rồi, sự lựa chọn của đồng bào có thể sẽ xa dần Công giáo, để đặt tín nhiệm vào những nơi khác. Ðiều đó không còn chỉ là nỗi lo, mà xem ra đang trở thành hiện thực. Nỗi lo Sau nhiều năm phục vụ Tin Mừng trong một giai đoạn không thiếu khó khăn, tôi luôn nhấn mạnh đến 3 nhiệm vụ này: - Tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa tình yêu. - Cử hành phượng tự thờ Thiên Chúa tình yêu. - Phục vụ đồng bào, theo lời truyền của Thiên Chúa tình yêu. Việc tôi viết báo nằm trong những nhiệm vụ đó. Khi viết báo, mà đã ý thức rõ: Mình viết cho ai, vì mục đích gì, thì tôi luôn đề cao Thiên Chúa tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là rất khiêm nhường, rất hy sinh (x. Pl 2,6-11). Tôi thấy rằng: Chính Thiên Chúa tình yêu đang thay đổi lòng người và tình hình, một cách âm thầm. Các phương tiện truyền thông công giáo hãy tích cực cộng tác với Người. Ði theo hướng ngược lại, vâng nghe tiếng gọi của lợi ích riêng, dưới danh nghĩa “mở Nước Chúa” sẽ là một sai lầm và hoang tưởng. Nhất là khi lại góp phần vào phong trào bất trung, bất hiếu, bất kính, vô ơn, vu khống đối với Hội Thánh. Tôi hay lo. Nên tôi càng lo cho tờ “Công giáo và Dân tộc” và cho chính tôi. Xin Chúa gìn giữ chúng tôi, đừng bao giờ để mắc mưu độc dữ. Nhưng nỗi lo của tôi được vơi đi nhờ thực tế và hy vọng. Thực tế là nhiều người tại Việt Nam càng ngày càng khao khát tình thương và chân lý của Chúa, cũng như mong được biết tình hình Hội Thánh, ngay từ tờ tuần báo khiêm tốn này. Hy vọng là tương lai báo đạo sẽ phát triển cả lượng lẫn phẩm. Hy vọng Tôi coi tôi như người viết báo bất đắc dĩ. Tôi hy vọng: Trong tương lai, sẽ có nhiều người được chuẩn bị hơn, để dấn thân vào các phương tiện truyền thông. Chuẩn bị bằng vốn học. Chuẩn bị bằng vốn sống. Ðặc biệt là chuẩn bị bằng tinh thần đạo đức với chất lượng cao, nhất là giàu tình thương, biết công bằng trong thông tin và sáng suốt trong bình luận. Những chuẩn bị này không phải chỉ do cá nhân, mà còn do cộng đoàn; không phải đợi đến tương lai, mà phải ngay từ bây giờ. Tháng sáu vừa qua, tôi nhận được thư của Ðức Thánh Cha Bênêdictô XVI. Trong thư, Ngài trích lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ trước khi Người lên trời: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tôi luôn tin lời Chúa hứa. Nhờ vậy, dù bây giờ còn hoạt động được đôi chút, dù sau này, khi phải đi vào thầm lặng vì sức khoẻ quá suy tàn, tôi vẫn hy vọng Chúa ở với tôi, và ở với chúng ta. Xin tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót. Xin cảm ơn tất cả mọi độc giả thân mến xa gần. Long Xuyên, ngày 21 tháng 6 năm 2007
Ngày 26 tháng 7 là lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna. Theo truyền thuyết, hai vị thánh này Bùi-Tuần 1744
Ngày 26 tháng 7 là lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna. Theo truyền thuyết, hai vị thánh này là cha mẹ của Ðức Maria. Mừng kính cha mẹ của Ðức Maria, Hội Thánh tạ ơn Chúa đã ban cho hai đấng được ơn đặc biệt là sinh hạ một người con, mà Chúa chọn cách rất đặc biệt. Ði đôi với việc tạ ơn Chúa, nhiều cộng đoàn ca ngợi hai thánh đã nhiệt tình cộng tác với Chúa trong việc giáo dục con yêu các Ngài. Chắc chắn là thánh Gioakim và thánh Anna đã hết sức để ý đến việc giáo dục con mình. Giáo dục này dựa theo đức tin. Hai thánh đã giáo dục con mình theo đức tin thế nào? Ðiều đó thực sự ta không rõ. Nhưng, nếu nhân dịp lễ này, mỗi người chúng ta kể cho người khác nghe chính mình đã nghĩ gì về việc giáo dục theo đức tin, và đã thực hiện thế nào đối với mình và những người mình có nhiệm vụ giáo dục, thì thiết tưởng chia sẻ như thế sẽ là đóng góp thân tình vào cuộc lễ. Với ý nghĩa đó, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm của tôi. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Giáo dục theo đức tin phải bắt đầu từ cái nhìn đúng đắn về con người. Con người được gọi đi vào con đường “thiện tâm” Mỗi người, dù ở tuổi nào, vẫn phải nhớ mình là bất toàn. Vì thế, mỗi người đều được mời gọi phải mỗi ngày mỗi tấn tới trên con đường hoàn thiện chính mình. Càng tiến bước trên con đường đó, người ta càng thấy mình còn xa lý tưởng toàn thiện. Có nghĩa là, từ lúc sinh ra cho đến cuối đời, con người không ngừng được kêu gọi phải tiến lên mãi trên các bậc thang giá trị. Tiến lên bằng việc không ngừng được giáo dục và tự giáo dục. Giáo dục này chủ yếu giúp con người phân định được điều gì là đúng, điều gì là sai, điều gì là xấu phải tránh, điều gì là thiện nên làm. Hơn thế nữa, giáo dục đó còn đưa con người tới chỗ nhận định được cấp bậc của các sự thiện, để biết bỏ sự thiện thấp mà chọn sự thiện cao hơn. Việc phân định nội tâm như thế đòi sự phấn đấu nội tâm. Phấn đấu này nhiều khi gay gắt. Bởi vì bỏ cái này, chọn cái kia, thường là điều chẳng dễ chút nào. Chính vì thế mà phấn đấu nội tâm là một yếu tố của cuộc giải thoát lương tri. Lương tri được giải thoát khỏi biết bao áp lực xấu. Việc giải thoát này sẽ rất cam go, nhưng nó đem lại cho lương tri sự tự do đích thực của những con người được gọi sống trong chân lý. Tôi vừa nói về ba việc: Phân định tốt xấu, phấn đấu nội tâm và giải thoát lương tri. Ba việc này cần được hướng dẫn tốt. Chúng là ba đòi hỏi của thiện tâm. Thực hiện đúng ba đòi hỏi này sẽ kể được là sống theo thiện tâm. Chỉ nhìn qua con đường thiện tâm, chúng ta cũng thoáng thấy những ai đi trên đường đó, phải được tập luyện và biết đón nhận nâng đỡ của những hướng dẫn có thẩm quyền. Nhưng giáo dục theo đức tin không dừng lại trên con đường thiện tâm, mà phải đi xa hơn, tức là phải đi vào con đường thánh ý Chúa. Con người được gọi đi vào con đường “thánh ý Chúa” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc “sống theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa không luôn giống ý ta, cho dù ý ta là do thiện tâm. Hơn thế nữa, thánh ý Chúa nhiều khi khác hẳn ý riêng ta. Ðể biết thánh ý Chúa trong những trường hợp cụ thể, chúng ta phải cầu nguyện, học hỏi, gẫm suy Lời Chúa. Thêm vào đó, phải có một nhạy bén do ơn Chúa Thánh Thần, để biết đọc được ý Chúa trong các dấu chỉ thời đại. Một cách rèn luyện mình thông thường, để dễ nhận ra ý Chúa, và dễ thực thi ý Chúa là: Giáo dục mình biết dùng thời giờ, biết dùng sức khoẻ và mọi hoàn cảnh. Làm sao hằng ngày, ta vẫn thực thi được những từ bỏ nho nhỏ, và dâng lên Chúa được những phục vụ bé mọn, để mỗi ngày ta thuộc về Chúa nhiều hơn. Như thế, “sống theo ý Chúa” là con đường của đức tin nặng về tu đức. Tu đức trong từng giây phút hiện tại. Tu đức trong lãnh vực lý trí, ý chí, đam mê, tình cảm, nhất là trong lãnh vực cộng tác với ơn Chúa. Con người được gọi đi vào con đường “làm chứng” Kinh nghiệm cho tôi thấy rõ: Những ai được giáo dục và tự giáo dục đi trên con đường thánh ý Chúa sẽ cảm thấy mình được gọi phải đi sâu vào con đường làm chứng. Làm chứng cho sự gì? Theo tôi, câu trả lời ngắn gọn là: Làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu của ta. Tình yêu của ta rất bé nhỏ. Nhưng nhờ được giáo dục và tự giáo dục theo đức tin, nó trở nên như một cơ chế đón nhận tình yêu Thiên Chúa và diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu khiêm tốn ẩn dật phản ánh tình yêu ẩn dật của Ðức Giêsu Kitô. Suốt đời Ðấng Cứu thế là tình yêu giấu mình trong thân phận con người, để chia sẻ những thao thức của con người. Một tình yêu phục vụ phản ảnh tình yêu phục vụ của Ðức Kitô. Từ Belem đến Calvariô, Ðức Kitô luôn phục vụ con người, nhất là những con người lầm than, bé mọn, khổ đau. Một tình yêu cứu độ phản chiếu tình yêu cứu độ. Con người của Ðức Kitô, cuộc đời của Ðức Kitô là một quà tặng cứu độ nhưng không, Chúa Cha ban cho loài người. Một tình yêu hy sinh phản ảnh tình yêu hy sinh của Ðức Kitô. Thánh giá là biểu tượng tình yêu hy sinh đến tột độ của Ðức Kitô. Một tình yêu phục sinh phản ảnh tình yêu phục sinh của Ðức Kitô. Ðức Kitô đã chết và đã sống lại. Ðó là kế hoạch của tình yêu dẫn con người từ cõi chết đi vào cõi phúc đời đời. Làm chứng như thế đòi mỗi người chúng ta phải hết sức ngoan ngoãn trước sự đào tạo thường xuyên mà Chúa Giêsu dành cho từng người. *** Chia sẻ trên đây tất nhiên có nhiều thiếu sót. Nhưng vẫn là một niềm vui, lòng biết ơn và niềm hy vọng. Vui, vì đây là dịp được lại gần Ðức Mẹ và hai ông bà thân sinh của Người. Biết ơn, vì đây là dịp ta nhớ lại sâu sắc công ơn những vị đã giáo dục ta theo dức tin. Hy vọng, vì đây là dịp để những người thiện chí nâng đỡ lẫn nhau. Ta nâng đỡ nhau, để được Chúa đỡ nâng. Càng nâng đỡ nhau và càng được Chúa đỡ nâng, ta càng dễ nghiệm ra rằng: Giáo dục theo đức tin là chuỗi dài những nâng đỡ và được đỡ nâng, để trong mọi sự, ta luôn đi theo định hướng đúng, với ý chí mạnh, cùng những khát vọng trong sáng, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, tới mức ta được đổi mới, sẽ có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nhờ vậy, với bao yếu đuối, ta vẫn tiếp tục hành hương yêu thương sám hối trên cuộc đời khó tránh được lầm lỗi. Cho dù cuộc sống đôi khi gặp phải những bất ngờ đau đớn, nhưng đức tin giúp ta luôn nhìn lên Chúa, luôn thuộc về Chúa. Người mãi thương ta. Người sẽ đến gọi ta về. Nơi đó, ta sẽ được an nghỉ trong tình yêu thương xót của Người đến muôn thuở muôn đời. Long Xuyên, ngày 10 tháng 7 năm 2007
Ðức Mẹ từ trời xuống đất. Ðó là sự kiện Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917. Năm nay, 2007, nhiều Bùi-Tuần 1745
Ðức Mẹ từ trời xuống đất. Ðó là sự kiện Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917. Năm nay, 2007, nhiều nơi mừng 90 năm sự kiện lịch sử đó. Mừng kỷ niệm này, tôi nhìn lại những tác động của sứ điệp Fatima trong đời tôi. Tới nay, những tác động ấy vẫn mạnh, đi vào chiều sâu. Chúng làm nên một thứ tu đức, mà tôi tạm gọi là tu đức từ Fatima. Tu đức từ Fatima được hình thành dần dần từ sự gắn bó mật thiết với Ðức Mẹ Fatima. Nó mang mấy đặc điểm sau đây:
1/ Một tu đức luôn nhắc đến lòng khiêm nhường và sám hối Tôi thấy bước đầu để đi vào con đường sứ điệp Fatima là thực hiện một chuỗi dài những việc khiêm nhường. Thực vậy, tôi phải khiêm nhường tin rằng: Chúa đã dùng ba trẻ quê mùa ở Fatima như những dụng cụ khiêm tốn để loan báo sứ điệp. Tôi phải khiêm tốn nhận rằng: Sứ điệp quan trọng nhất ở Fatima là việc sám hối. Sám hối bao giờ cũng khởi đi từ sự khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi. Tôi phải khiêm tốn nhìn lên Ðức Mẹ ở Fatima. Người tỏ mình ra một cách khiêm tốn, như người nữ tỳ của Chúa, như người Mẹ dạt dào tình thương đối với mọi người, không phân biệt ai. Tôi phải khiêm tốn xác tín rằng: Vinh quang của Thiên Chúa ở Fatima là Chúa dùng những phương tiện hèn mọn, và đưa ra giải pháp hèn mọn hợp với bất cứ ai, để họ được cứu khỏi các tai hoạ thảm khốc đời này, nhất là khỏi hoả ngục đời sau. Tôi phải khiêm tốn vâng theo sứ điệp Fatima mà tu thân sám hối. Sứ điệp này phản ánh sứ điệp sám hối đã do thánh Gioan Baotixita rao giảng xưa. Sứ điệp này tiếp nối sứ điệp sám hối mà chính Chúa Giêsu gởi đến nhân loại xưa, trong mầu nhiệm thánh giá. Khi thực thi chuỗi dài những việc khiêm tốn trên đây trong ý thức, tôi sẽ được đưa tới việc khiêm tốn cầu nguyện với Chúa. Việc cầu nguyện này là một đối thoại giữa Chúa và tôi. Ðối tượng là về cái tâm. Tôi nghe Chúa phán với tôi cũng những lời trong sách tiên tri Giôen: “Ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta. Hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van. Ðừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2,12-13). Tôi cũng đã nghe Chúa nói với tôi những lời, như xưa đã ghi trong tiên tri Êdêkien: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban cho các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Tôi hiểu quả tim bằng đá là cái tâm chai đá, còn quả tim bằng thịt là cái tâm nhạy cảm, khiêm nhường. Khi hiểu Chúa muốn dạy gì, tôi sẽ nói với Chúa lời xưa của vua Ðavít: “Lạy Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tấm lòng tan nát. Một tấm lòng tan nát, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 52,19). Chỉ khi tôi thực sự dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung và sám hối, tôi mới thực sự thi hành sứ điệp khiêm nhường và sám hối, mà Ðức Mẹ đã nhắn nhủ ở Fatima. Cùng với lòng khiêm nhường và sám hối, tôi đã được sứ điệp Fatima chỉ cho thấy nguồn gốc sâu xa của nguy cơ lớn nhất hiện nay.
2/ Một tu đức luôn chỉ cho thấy nguồn gốc của nguy cơ hiện nay Theo sứ điệp Fatima, thì nguy cơ lớn nhất là con người tự đi xuống diệt vong, nguồn gốc sâu xa của nguy cơ đó là vì con người: - Mất ý thức về tội, - Chối từ Thiên Chúa, - Không cầu nguyện, - Không tin có hoả ngục. Thực vậy, ở Fatima, Ðức Mẹ đã dạy vắn tắt thế này: - Hãy sám hối bỏ đàng tội, - Hãy cầu nguyện trở về với Chúa, - Kẻo sẽ phải sa xuống hoả ngục. Lời khuyên vắn tắt của Mẹ ở Fatima đã phác hoạ thực trạng loài người lúc đó và hiện nay. Nhìn lại tình hình năm 1917, người ta thấy: Lúc đó, đã phát sinh phong trào mất ý thức về tội, coi nhẹ niềm tin có hoả ngục, và cách sống dửng dưng đối với Thiên Chúa. Nay, ba phong trào đó xem ra mạnh hơn và lan rộng hơn. Sự phát triển ba phong trào này có nguồn gốc: Một đàng ở sự người ta bớt cầu nguyện và bớt gắn bó với Chúa, một đàng người ta gắn bó hơn với cách sống thực dụng, hưởng thụ và tự mãn kiêu căng. Nhận thức trên đây tất nhiên phải đi tới những cố gắng rõ rệt về tu đức. Ðó là: Rút ánh sáng từ Phúc Âm ra, để nhận định đúng về tội, về hoả ngục, về sự chối từ Chúa qua sự chối từ những điều Chúa truyền và Hội Thánh dạy. Một cách đón nhận ánh sáng Phúc Âm là năng cầu nguyện kinh Mân Côi và tôn sùng Trái tim Ðức Mẹ. Ánh sáng Phúc Âm ta nhận được qua những sùng kính đó sẽ cho ta gặp được Chúa. Một Chúa sống động, một Chúa gần gũi, một Chúa là tình yêu thương xót. Sự gặp gỡ này sẽ mở tâm hồn ta ra, để Chúa biến đổi lòng ta nên mới. Lòng ta nên mới, nhất là ở sự ta nhìn Ðức Mẹ đúng là người mẹ đầy xót thương. Mẹ chỉ muốn cho tính mạng của các con cái Mẹ được an toàn. Chúng ta hãy là con thảo của Mẹ. Con thảo thì tin vào Mẹ, con thảo thì vâng lời Mẹ. Theo bài giảng của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Fatima ngày 13/5/1982, thì sứ điệp của Ðức Mẹ ở Fatima là một cảnh báo quyết đoán và nghiêm khắc. Không ai được coi thường. Nhận thức trên đây đang trở thành một động lực cho việc sống đạo tại Việt Nam hôm nay. Bỏ đàng tội, đổi mới nếp sống, xin ơn trở về với Thiên Chúa tình yêu, đó là trọng tâm mục vụ của nhiều môn đệ Chúa trên đất nước thân thương này. *** Chia sẻ trên đây là một chút dư âm của sự kiện Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima. Dư âm này sẽ rất âm thầm, nhưng là một của lễ bé mọn dâng kính Mẹ. Tôi tin nó sẽ được ở bên nhiều của lễ khác đang đặt xung quanh Mẹ nhân lành. Thiết tưởng của lễ đẹp nhất chính là những người đang biến chính bản thân mình thành của lễ, như lời thánh Phaolô dạy: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1-2). Long Xuyên, ngày 17 tháng 7 năm 2007
Thưa anh em, tôi không muốn để anh...”. Những lời trên đây của thánh Phaolô gợi ý cho tôi thấy Bùi-Tuần 1746
“Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều được vượt qua Biển Ðỏ. Tất cả đều được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Maisen. Tất cả cùng ăn một thức ăn thiêng liêng, tất cả cùng uống một thức uống thiêng liêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Ðức Kitô. “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc... “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,1-5.12). Những lời trên đây của thánh Phaolô gợi ý cho tôi thấy: Cuộc đời là một hành trình. Vì thế, giáo dục đi theo con người cũng là một hành trình. Thánh Phaolô chỉ cho thấy một điều rất quan trọng, đó là: Mọi người đều có thể nhận được một nền giáo dục chung như nhau. Thế nhưng, phần đông đã sống mất lòng Chúa, họ đã quỵ ngã, họ đã dừng lại giữa đường, họ đã không được vào cõi phúc. Do đó, thánh Phaolô cảnh báo: Lúc này, ai tưởng mình đứng vững, thì đừng dám chắc mình sẽ đi tới cùng. Cảnh báo của thánh Phaolô thực là đáng sợ. Cảnh báo này sẽ hướng dẫn hành trình suy tư của tôi trong bài này. Tôi xin phép nói về kinh nghiệm đời tôi như một chia sẻ.
I. Nền giáo dục chung cho mọi Kitô-hữu Ngay từ chặng đầu tiên của cuộc đời, tôi đã nhận được nền giáo dục Kitô-hữu. Nền giáo dục này được rút ra từ những sách giáo lý truyền thống. Nội dung được chia thành 4 phần: 1/ Tin: tức là những gì phải tin. 2/ Xin: tức là những gì phải xin. 3/ Chịu: tức là những gì phải chịu. 4/ Giữ : tức là những gì phải giữ. Tôi tin theo kinh Tinh Kính. Tôi xin theo kinh Lạy Cha. Tôi chịu theo bảy phép bí tích. Tôi giữ theo Mười Ðiều răn Chúa và Sáu Ðiều răn Hội Thánh. Lớn lên, tôi được dẫn vào chiều sâu giáo dục Kitô-hữu, qua việc học hỏi Phúc Âm. Tiếp theo là những lớp thần học: Thần học tín lý, thần học luân lý. Hạnh các thánh cũng là một yếu tố quan trọng của việc giáo dục Kitô-hữu. Những sách dạy, những lớp đào tạo đều chung cho mọi người. Thêm vào những yếu tố chung đó còn có những cái chung khác trong giáo dục Kitô-hữu đã tác động đến tôi, đó là bầu khí tôn giáo của Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng theo từng giai đoạn lịch sử. Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam trở thành những Kitô-hữu giống nhau không? Kinh nghiệm trả lời là “không”. Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam được rỗi linh hồn cả không? Cảnh báo của thánh Phaolô không cho phép ta trả lời “có” hay “không” một cách dễ dàng. Lý do là vì, mặc dù được hưởng một nền giáo dục chung, mỗi người vẫn có những yếu tố riêng.
II. Một số những yếu tố riêng của mỗi người trong hành trình giáo dục 1/ Cách tiếp thu Giáo dục Kitô-hữu có thể ví như việc gieo giống vào tâm hồn con người. Giống thì như nhau, tất cả đều tốt. Nhưng có thể người này tiếp nhận cách này, người khác có thể tiếp nhận cách khác, tuỳ lòng mỗi người. Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã đưa ra xưa giúp ta dễ hiểu: “Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá, chỗ đất không có nhiều, nó mọc ngay, vì đất không sâu. Nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chúc, hạt được ba chục” (Mt 13,3-9). Rồi chính Chúa Giêsu cắt nghĩa về lòng người. Lòng người có những khác biệt. Khác biệt về tính tình, về khát vọng, về thói quen, nên mỗi người sẽ tiếp thu nền giáo dục Kitô-hữu với những cách khác nhau. Khác nhau đến mức dẫn đưa đến những hậu quả tốt xấu rõ ràng. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó.
2/ Cách sử dụng Nền giáo dục Kitô-hữu cũng ví như một kho báu. Có thể là mọi người đều được một số nén bạc như nhau. Cũng có thể là mỗi người được Chúa tặng một số nén bạc khác nhau tuỳ khả năng. Nhưng với điều kiện là ai cũng phải dùng số vốn đó để sinh ra lời lãi. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông chủ giao phó tài sản của mình cho các đầy tớ. Sau một thời gian, ông đòi các đầy tớ tính sổ. Lúc đó mới thấy: Có người biết sử dụng tốt, có người sử dụng xấu. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó (x. Mt 25,14-30).
3/ Cách phấn đấu với những nghịch cảnh Trong hành trình cuộc sống, người Kitô-hữu không mãi được yên ổn. Cho dù nền giáo dục Kitô-hữu vẫn đồng hành với họ, nhưng mỗi người trong họ phải tự mình đối phó với những nghịch cảnh xảy tới. Các nghịch cảnh của Kitô-hữu được thánh Gioan tông đồ kể ra khá nhiều. Có thể xếp chúng thành 4 nhóm: - Nhóm những quỷ Satan, - Nhóm những phòng trào xấu của thế tục, - Nhóm những kẻ chống đối người tốt chỉ vì ghen tương và hẹp hòi, - Nhóm những người đạo đức hình thức. Họ bị khiển trách, nên tức mình muốn phản công lại. Bốn nhóm này tấn công người Kitô-hữu một cách ác liệt. Người bị nhiều, người bị ít. Sức mạnh lúc như vũ bảo, lúc tế nhị như làn gió nhẹ. Kết quả là có người chiến thắng, có người thất bại nhất thời, có người thất bại vĩnh viễn.
4/ Cách đối phó với những thử thách Hành trình cuộc sống không tránh được những thử thách. Có thử thách đoán trước được. Có thử thách rất bất ngờ. Tuổi già, sức yếu, là những thử thách tuy đoán trước được, nhưng chỉ khi xảy tới và ở lại trong tôi, tôi mới thấy đó là một thứ đêm dài giữa những ban ngày mau qua. Những chứng bệnh thể xác và tâm hồn, khi muốn chọn tôi làm quê hương, sẽ biến tôi thành bãi chiến trường giữa hy vọng và thất vọng. Những cảnh đời thê thảm, cứ mãi xảy ra hằng ngày xung quanh tôi, sẽ dễ ngấm vào tâm trạng tôi, khiến tôi bồn chồn, nặng nề, chìm lặng trong cõi cô đơn đau đớn. Thử thách nặng nề nhất là cảnh tối tăm của sự loại trừ, ruồng bỏ. Cảnh đó diễn lại cảnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối đời: Bị xa lánh, bị kết án, bị chối từ, cả đến Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi. “Lạy Thiên Chúa của con, sao Cha bỏ con” (Mc 15,24). Có rơi vào thử thách này, mới thấy mình rơi xuống đáy vực thẳm hãi hùng. Những vụng về, những yếu đuối, những lỗi lầm của tôi cũng là những thử thách, gợi lên trong tôi những câu hỏi không trả lời được về ý nghĩa cuộc đời. Còn bao nhiêu thứ thử thách nữa tôi phải đối phó. Hầu hết mọi thử thách đều rất riêng tư. Cách đối phó cũng riêng tư. Nền giáo dục Kitô-hữu vẫn soi sáng, nhưng không chia sẻ được nỗi đau riêng tư của người Kitô-hữu bị thử thách. Tới đây, chúng ta có thể thấy khá rõ: Cuộc đời mỗi người là một hành trình. Nền giáo dục Kitô-hữu cũng là một hành trình. Hành trình của mỗi người có những yếu tố chung và có những yếu tố riêng. Nền giáo dục Kitô-hữu rất phong phú, nhưng không chịu trách nhiệm về số phận của từng người. Mỗi người có trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Chính vì thế, mới có cảnh báo đáng sợ của thánh Phaolô: Một số người không đẹp lòng Chúa và không tới đích, một số người được đẹp lòng Chúa và tới đích. Bí quyết nào để hành trình của ta được tới đích?
III. Bí quyết tiềm ẩn trong nền giáo dục Kitô-hữu Câu trả lời vắn gọn của tôi là: Trong mọi sự, kể cả trong phấn đấu, tôi phải rất khiêm nhường, rất khó nghèo, và hoàn toàn phó tác nơi tình yêu thương xót Chúa. Rất khiêm nhường là chúng ta nhìn nhận tất cả những gì tốt trong ta, đều là quà tặng nhưng không của Chúa. Ta chẳng là gì, ta chẳng có gì, ta không đáng gì. Hơn nữa, ta là kẻ tội lỗi, cần sám hối, cần gắn bó với Chúa. Rất khó nghèo là: Chúng ta tuyệt đối chọn Chúa, chứ không chọn gì khác, kể cả những công việc coi như làm sáng danh Chúa. Ta hết sức phấn đấu phục vụ, nhưng ta sẵn sàng dứt bỏ mọi sự, không để mình bị ràng buộc vào bất cứ việc gì, sự gì. Lòng ta hoàn toàn khó nghèo, nhận mình chỉ là đầy tớ vô ích. Hoàn toàn phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót là: Ta tin tình yêu xót thương của Chúa vượt xa hẳn mọi tội lỗi của ta. Với sám hối, ta tin vào Chúa là Ðấng hay xót thương. Một tấm lòng cực kỳ nghèo khó, hết mực khiêm tốn, trọn vẹn mở ra gởi mình nơi Chúa tình yêu. Ðối với tôi, đó là bí quyết tôi tìm được trong nền giáo dục Kitô-hữu. Bí quyết này mỗi ngày mỗi biến đổi tôi, nhất là khi tôi tham dự thánh lễ. Nơi đây, tôi được gặp Ðức Kitô, được tập trung vào Người. Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà tôi được ơn tha thứ, được ơn biết yêu thương và sống theo thánh ý Chúa, được ơn biết phấn đấu trong tinh thần khiêm nhường, khó nghèo và phó thác. Từ Người, tôi được trở nên của lễ sống động, để thường xuyên ca tụng Chúa và cầu nguyện cho mọi người. Khi con người được Chúa biến đổi thành của lễ, thì tinh thần “của lễ” sẽ đồng hành suốt hành trình cuộc đời chúng ta. Tinh thần ấy cũng sẽ đồng hành với hành trình giáo dục, một giáo dục được mang tên là “Kitô-hữu”. Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin giúp con luôn thuộc về Chúa, luôn cùng với Chúa đi về Nhà Cha, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, và hiệp thông với Hội Thánh Chúa, một cách khiêm nhường, khó nghèo và phó thác không hề lay chuyển. Long Xuyên, ngày 19 tháng 7 năm 2007
Mỗi năm, đến lễ khai trường, tôi lại nhớ về những người đã đào tạo nên tôi. Riêng năm nay, khi Bùi-Tuần 1747
Mỗi năm, đến lễ khai trường, tôi lại nhớ về những người đã đào tạo nên tôi. Riêng năm nay, khi niên học mới nhấn mạnh đến đạo đức, tôi càng cung kính nhớ về những nhân tố đào tạo đời tôi, nhất là trong việc đào tạo lương tâm người con Chúa. Những nhân tố đó rất nhiều. Nhưng phải kể đặc biệt đến những nhân tố sau đây: - Cha mẹ, - Các Cha linh hướng, - Các cộng đoàn đạo đức và các bạn bè tốt, - Toà Thánh và các người của Hội Thánh. Mỗi nhân tố đã đóng góp phần của mình. Tất cả đều đã cộng tác với Chúa cách này hay cách khác. Kế hoạch đào tạo tôi về mặt “lương tâm người con Chúa” là cả một công trình. Kế hoạch này được rõ nét dần dần, tuỳ theo sự phát triển con người của tôi, và tuỳ theo những thăng trầm lịch sử. Theo kinh nghiệm của tôi, thì kế hoạch đào tạo này chủ yếu là giúp tôi nghe được tiếng Chúa gọi tôi và sai tôi đi. Có thể vắn gọn thế này:
1/ Chúa gọi tôi gắn bó với Chúa Chúa gọi tôi phải gắn bó mật thiết với Chúa. Như lời Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Tiếng Chúa gọi trên đây nhắm vào một trọng tâm, đó là phải trở về với Chúa. Trở về nội tâm, đổi mới nội tâm. Trở về hằng ngày, đổi mới mọi tầng lớp sâu thẳm con người. Các nhân tố đào tạo đã rất khẩn thiết giúp tôi nghe được tiếng Chúa gọi và biết đáp lại. Ðúng vậy, tôi đã nghe được tiếng Chúa gọi tôi bằng đích danh tôi, và tôi đã đáp lại. Một khao khát không ngừng hình thành trong tôi. Tôi khao khát được thuộc về Chúa. Tôi khao khát được luôn trở về với Chúa. Khao khát này giúp tôi cảm nhận được Chúa hiện diện trong tôi. Người hiện diện như một người Cha, như một tình yêu. Xưa Chúa đã phán: “Chính Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Chúa đã hiện diện trong tôi, đã gọi tôi theo khám phá đó. Người đã thanh luyện tôi phấn đấu trút bỏ những gì không phải là đường đi thực, không phải là chân lý thực, không phải là sự sống thực. Thanh luyện đó trở nên rất mạnh, khi việc tu thân đòi hỏi nếp sống khó nghèo, xa lìa hưởng thụ. Càng ngày quan hệ của tôi với Chúa càng trở nên đơn giản. Tôi thấy mình bé nhỏ. Quan hệ này là một yếu tố quan trọng làm nên lương tâm người con của Chúa. Ði liền với tiếng Chúa gọi gắn bó với Chúa là tiếng Chúa sai tôi đi.
2/ Chúa sai tôi đi Ngay từ rất nhỏ, tôi đã được nghe lời Chúa sai đi. Lời đó là “Chúc anh chị em ra đi bình an”. Linh mục chủ tế chúc các con cái Chúa “ra đi bình an”. Lời chúc đó là một lời sai đi. Thời gian đầu, lời sai đi đó được đón nhận như một nghi thức phụng vụ. Nhưng với thời gian, lời chúc đó đi vào lương tâm người con Chúa như một lời Chúa sai đi. Sau này, càng được huấn luyện bởi suy gẫm lời Chúa, các lớp học Thánh Kinh, các chỉ dẫn của các vị có thẩm quyền, lương tâm người con Chúa càng nhận ra rõ hơn nội dung lời Chúa sai đi. Nội dung đó là: “Hãy đi làm việc trong vườn nho Chúa” (Mt 20,4). Vườn nho Chúa rộng mênh mông. Tôi được sai vào đó, để chịu trách nhiệm về một mảnh nhỏ nhất định, trong một thời điểm nhất định. Từ lâu rồi, cụ thể, mảnh vườn nho Chúa sai tôi vào là địa phận này, là địa phương này, là đất nước này. Ðược sai vào đây, tôi phải làm việc không phải theo ý riêng tôi, nhưng theo thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là tôi phải yêu thương mảnh vườn này một cách chân thành. Bởi vì mọi người ở đây đều được Chúa tạo dựng, đều được Chúa giữ gìn, đều được Chúa muốn đưa về với Chúa. Thánh ý Chúa là tôi sẽ không làm gì lớn, nhưng sẽ làm những việc nhỏ mọn. Chính mình tôi sẽ phải bé mọn, như tấm men, như chút muối, như một hiện diện từ tốn, như một khuôn mặt sám hối, như một đức tin sống động. Thánh ý Chúa là tôi sẽ làm việc ở mảnh vườn này với tinh thần hiệp thông. Bởi vì tôi sẽ làm việc với nhiều người khác. Họ cũng được Chúa sai vào làm việc ở đây. Họ với tôi sẽ bổ túc cho nhau, sẽ nâng đỡ lẫn nhau. Thánh ý Chúa là tôi phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi vì có rất nhiều nguy cơ khiến tôi phản bội thánh ý Chúa. Nhất là những yếu đuối của tôi, những thói quen dễ gây lãng phí, lạm dụng ơn Chúa, và đi tìm sự gì khác ngoài vinh danh Chúa. Thánh ý Chúa là tôi phải biết chọn lựa những ưu tiên trong việc làm vườn nho Chúa. Thí dụ thương cảm với những khổ đau của con người, chia sẻ tình thương và chân lý cho những người nghèo tình thương và chân lý, giúp con người biết sám hối và nhận ra lòng thương xót Chúa. “Lương tâm người con Chúa” nơi tôi là như thế. Ðó là công một phần lớn của những nhà đào tạo.
3/ Hiếu thảo Hôm nay, nhìn về những nhà đào tạo đáng kính của tôi, tôi thấy hầu hết đã qua đời. Cái chết của các ngài là “cái chết đi về”. Các ngài đã được Chúa Giêsu đưa về với Chúa Cha. Gặp lại các ngài, tôi nghe mỗi vị đều nói lời xưa của Chúa Giêsu: “Tôi đi về với Chúa Cha” (Ga 17,13). Tôi kính cẩn cầu nguyện cho các ngài. Xin các ngài cầu nguyện cho chúng ta. Chúng ta rất cần những ân nhân quý giá ấy. Nhờ các ngài mà các người con Chúa có một lương tâm trách nhiệm, đúng đắn, biết mình, biết đi về với Chúa và biết đến với con người. Lương tâm ấy giúp họ bình thản sống giữa đời, dù với những thuận lợi hay với những nghịch cảnh. Lương tâm ấy đem lại cho họ niềm vui và hy vọng. Với lòng hiếu thảo, tôi xin mãi mãi tạ ơn, ghi ơn và biết ơn các ngài, những nhà đào tạo lương tâm. Long Xuyên, ngày 7 tháng 8 năm 2007
Tôi vừa được hân hạnh đọc qua cuốn sách “Chúa Giêsu thành Nadaret”. Tác giả sách là Ðức Bùi-Tuần 1748
Tôi vừa được hân hạnh đọc qua cuốn sách “Chúa Giêsu thành Nadaret”. Tác giả sách là Ðức Thánh Cha Benedictô XVI. Sách khổ lớn, dày hơn 400 trang. Một phần lớn sách này được viết trước khi tác giả lên ngôi Giáo Hoàng. Tôi đọc bản dịch bằng tiếng Pháp. Ðọc sách này, tôi phải rất tập trung, vất vả khơi lại trí nhớ, luôn vận động hứng thú đi tìm, và không ngừng nắm vững đường dây suy tư của tác giả. Thực tình, tôi chưa tiếp thu được hết kho tàng trí thức này. vì đây là một kho báu chất chứa nhiều quan niệm quý có liên hệ đến nhiều lãnh vực khác nhau. Nếu cần nói một vài cảm tưởng đơn sơ về dòng suy tư của Ðức Benedictô XVI trong sách này, thì tôi xin mạo muội diễn tả như sau:
1/ Một suy tư mang chiều sâu rất khác thường Cuốn sách này nói về Chúa Giêsu hơn là nói với Chúa Giêsu. Nghĩa là nói về Chúa Giêsu trong lịch sử và trong đức tin. Ðể “nói về Chúa Giêsu”, cuốn sách đã đào bới các tài liệu sâu xa từ Cựu Ước, đến Tân Ước, các nguồn thần học xa xưa, các chứng từ trong lịch sử các tôn giáo, các dấu vết trong phụng vụ và nghệ thuật thánh. Môn Giáo phụ được Ngài nghiên cứu đặc biệt. Tài liệu nào cũng được trích dẫn rõ ràng minh bạch, kèm theo những lượng giá chặt chẽ. Khi đi sâu vào các lãnh vực nghiên cứu, người đọc có thể bị choáng váng trước sự hiểu biết sâu sắc tinh vi của tác giả cuốn sách. Ngài ví như người chịu khó đi tìm sâu các luồng nước ngầm dẫn tới điểm hẹn là Ðức Kitô.
2/ Một suy tư mang chiều rộng đáng mến phục Cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề có liên hệ đến cuộc đời Chúa Giêsu, như: - Sự Chúa Giêsu chịu phép rửa, - Sự Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc, - Bài giảng của Chúa Giêsu trên núi, - Sự Chúa Giêsu cầu nguyện, - Sứ điệp của các dụ ngôn, - Những hình ảnh lớn mà Chúa Giêsu đã dùng, - Những gì Chúa Giêsu khẳng định về chính mình, - Những môn đệ của Chúa Giêsu. Mỗi vấn đề nêu lên đều được bàn rộng với các ý kiến khác nhau của nhiều tác phẩm đương thời và của các thế kỷ trước. Ðiều đó đòi phải đọc nhiều. Tôi thấy tác giả cuốn sách đã có một tầm hiểu biết rất rộng, qua việc Ngài phân tích nhiều tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều ngôn ngữ. Ngài ví như con ong biết bay xa, rút mật từ các thứ hoa quý của nhiều rừng văn học tôn giáo.
3/ Một suy tư mang chiều kích căn bản Vì nói về Chúa Giêsu, nên sách này dựa trên căn bản cốt yếu là Kinh Thánh. Thử đếm những chỗ trích dẫn Cựu Ước, người ta có thể ước chừng hơn 150. Thử đếm những chỗ trích dẫn Tân Ước, người ta thấy số lượng trên 600. Khi đọc cuốn sách có căn bản là Kinh Thánh, người ta dễ cảm thấy một môi trường linh thiêng lắng dịu. Hơn nữa, khi cuốn sách có những suy tư dựa trên Kinh Thánh, lại khéo đưa người ta đến nhận định bản tính của các nhân vật và các vấn đề, thì người đọc sẽ dễ được an lòng. Thí dụ: Chúa Giêsu là ai, các môn đệ là ai, hạnh phúc thực là gì, cái “là” ở đây rất quan trọng. Ðiều quan trọng đó được suy tư trên Kinh Thánh để trả lời. Các trường hợp như vậy, người đọc cảm thấy sung sướng vô vàn.
4/ Một suy tư mang sự sống thiêng liêng tìm gặp Chúa Cuốn sách này, tuy chủ yếu là “nói về Chúa”, nhưng suốt hành trình suy tư, người viết đã khéo gợi ý cho người đọc tự ý tìm Chúa và nói với Chúa. Vì Chúa Giêsu trong sách này mang dung mạo con người, mạc khải Chúa Cha giàu lòng thương xót. Người rất gần gũi, luôn kêu gọi, mãi mãi đợi chờ. Chúa Giêsu trong cuốn sách này đã, đang, và sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha. Chúa Giêsu trong cuốn sách này muốn tặng mọi người hạnh phúc thực. Người chia sẻ thân phận con người với mọi người. Người cùng với mọi người thiện chí biến đổi mọi sự thành lời cầu nguyện, kể cả những khổ đau. Chúa Giêsu trong cuốn sách này đã được nội tâm hoá trong tác giả một cách mật thiết phi thường.
5/ Một suy tư mang dấu ấn riêng của tác giả Sách “Chúa Giêsu thành Nadaret” có nhiều nét giống các sách khác bàn về Chúa Giêsu. Nhưng suy tư trong cuốn sách này vẫn có nét riêng của tác giả. Nét đó làm nên dấu ấn riêng tư độc đáo của tác giả. Dấu ấn riêng tư đó được nhận ra trong một thao thức của tác giả suốt hành trình suy tư. Thao thức đó là tìm ra chân lý và tình thương trong dung mạo của Chúa Giêsu. Ðó là dấu ấn về nội dung. Ngoài ra, người ta dễ dàng nhận ra một dấu ấn khác trong sách suy tư. Suy tư nói đây là một thứ phản tỉnh nội tâm. Tác giả không ngừng cảnh giác với mọi thứ chấp nhận ngây thơ. Trái lại, Ngài đặt vấn đề, tìm các nguồn tài liệu cần thiết, rồi phân tích, đối chiếu, phê bình, đôi khi phản tỉnh với chính mình một cách nghiêm khắc và khoa học. Ðọc sách này, người ta không thể lẫn lộn tác giả với các tác giả khác. Nội dung đúng là mang dấu ấn Joseph Ratzinger Benedictô XVI, cách suy tư cũng đúng là mang dấu ấn Joseph Ratzinger Benedictô XVI. *** Ðọc xong cuốn sách “Chúa Giêsu thành Nadaret”, tôi vui mừng cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh một vị Giáo hoàng như Ðức Thánh Cha Benedictô XVI. Với đạo đức cao sâu và với trí thức sâu rộng, Ngài là người Chúa chọn và sai vào vườn nho Chúa, để đáp ứng nhu cầu thời đại. Tuy với trình độ đạo đức và trí thức rất cao, tác giả cuốn sách luôn tỏ ra khiêm tốn bình dị. Sau cùng, tôi có cảm tưởng là: Ðức Thánh Cha, khi phát hành cuốn sách công phu này, chỉ có mục đích là giới thiệu Ðức Kitô và kêu mời mọi người: - Hãy đến với Chúa Giêsu. - Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. - Hãy cùng đi với Chúa Giêsu. Chúng ta hãy sốt sắng đáp lại lời Ngài mời gọi. Xin nhớ cầu nguyện cho Ngài, và cũng nên bắt chước cách làm việc của Ngài. Long Xuyên, ngày 20 tháng 8 năm 2007
Lễ Ðức Mẹ sầu bi (15-9) có thể gọi là lễ trở về. Con cái Ðức Mẹ khắp nơi trở về xum họp quanh Bùi-Tuần 1749
Lễ Ðức Mẹ sầu bi (15-9) có thể gọi là lễ trở về. Con cái Ðức Mẹ khắp nơi trở về xum họp quanh Ðức Mẹ của mình. Ðức Mẹ muốn vậy. Con cái Ðức Mẹ có nhiệm vụ đó. Bởi vì hôm nay Hội Thánh nhớ về Ðức Mẹ như người mẹ đau khổ. Trước hết, ta hãy nghe mấy lời Hội Thánh gợi ý trong ca tiếp liên của thánh lễ Ðức Mẹ sầu bi: - Mẹ sầu bi, tầm tã giọt châu, đang đứng bên cây thập giá, nơi Con Người đã bị treo lên. - Bà Mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh, mà đau lòng thổn thức tâm can ... - Tôi ao ước được cùng với Mẹ đứng bên cây thánh giá và hợp nhất cùng Mẹ trong tiếng khóc than. Từ gợi ý trên đây, chúng ta suy gẫm đôi chút về vai trò của đau khổ: Nơi Chúa Giêsu, Nơi Ðức Mẹ, Nơi những người con Ðức Mẹ.
1/ Vai trò của đau khổ nơi Chúa Giêsu Chúa Giêsu đã chịu nhiều đau khổ. Từ sinh ra nghèo khó ở Belem cho đến chết nhục nhã trên núi Calvariô. Ðể làm gì? Trước hết, để hiến dâng mình cho Chúa Cha, như một lễ tế nói lên sự vâng phục, nhờ đó nhân loại sẽ được cứu độ. “Dầu là con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu. Và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,8-9). Tác giả thư gởi Do Thái đã nối kết vâng phục, đau khổ, và cứu độ. Ðau khổ như dấu chỉ vâng phục, nhờ đó mà cứu độ. Trong thư gởi giáo đoàn Philiphê, thánh Phaolô cũng nhắc đến sự nối kết đó, nhưng lại thêm vào sự tự hạ: “Ðức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên cây thánh giá. “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt hơn mọi danh hiệu” (Pl 2,6-9). Như vậy, đau khổ, tự hạ diễn tả tâm hồn vâng phục, để cứu độ. Suy gẫm những nét đó trong con người Chúa Giêsu, chúng ta thấy những nét đó đã được đề cao, mang giá trị lớn. Ngoài ra, đau khổ, tự hạ không những diễn tả sự hiến dâng vâng phục, mà còn diễn tả một ý nghĩa khác nữa. Ðó là diễn tả tình yêu. Thánh Phaolô quả quyết: “Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Người thương yêu chúng ta” (Rm 5,8). Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Ðức Kitô chết cho chúng ta. “Chúa Cha đã không tha cho con mình, những đã phó con mình vì chúng ta” (Rm 8,32) Vì chúng ta, nghĩa là vì yêu chúng ta. Từ đây, chúng ta có thể xác tín điều này: Sự Ðức Kitô đã chịu đau khổ, đã tự hạ, đã vâng lời, đã chịu chết, tất cả đều để mạc khải tình yêu của Thiên Chúa. - Vì yêu ta, mà Chúa Giêsu vâng lời. - Vì yêu ta, mà Chúa Giêsu tự hạ. - Vì yêu ta, mà Chúa Giêsu chịu muôn vàn đau khổ. - Vì yêu ta, mà Chúa Giêsu chịu chết. Với lòng xác tín đó, chúng ta cúi mình cảm tạ Chúa. Bây giờ chúng ta nhìn sang vai trò của đau khổ nơi Ðức Mẹ.
2/ Vai trò của đau khổ nơi Ðức Mẹ Khi nói về Ðức Mẹ sầu bi, người ta hay nhắc đến bảy sự thương khó Ðức Mẹ. Cách nói đó hợp với lòng sùng kính bình dân. Còn trong Phúc Âm, sự đau khổ của Ðức Mẹ đã được diễn tả rõ nét qua hình ảnh lưỡi gươm đâm thâu qua trái tim Mẹ, như lời tiên tri Simeon đã nói (x. Lc 2,35), rồi qua hình ảnh Ðức Mẹ đi tìm con thất lạc (x. Lc 2,41-50), và qua hình ảnh Ðức Mẹ đứng dưới chân Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá (x. Ga 19,25-27). Nếu suy gẫm thêm, chúng ta có thể tóm tắt sự đau đớn của Ðức Mẹ qua hình ảnh hạt lúa trong lòng đất, mà chính Chúa Giêsu đã nêu lên: “Thật, Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Tôi thường hay mượn hình ảnh hạt lúa Chúa nói trên đây, để nhìn gặp Ðức Mẹ sầu bi. Tôi đã gặp Mẹ đau khổ rất tự hạ, rất khiêm nhường, rất âm thầm, rất kín đáo. Chính trong thái độ chôn vùi đó, mà tính cách người mẹ càng rất là mẹ. Nhất là thái độ ẩn dật chôn vùi đó đã phản ánh sự hiệp thông hữu hiệu của Mẹ với những đớn đau cứu độ của Chúa Giêsu. Sự hiệp thông lặng lẽ đó toả sáng tâm hồn cầu nguyện. Ðau khổ trở thành cầu nguyện. Ðau khổ trở thành tình yêu.
3/ Vai trò của đau khổ nơi những người con Ðức Mẹ Mấy suy gẫm trên đây dẫn dắt chúng ta đến việc suy gẫm vai trò của đau khổ nơi những người con Ðức Mẹ. Nói về đau khổ mà không có kinh nghiệm về đau khổ sẽ dễ sai lầm. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm về đau khổ đều hữu ích. Chỉ những kinh nghiệm về đau khổ được đạo đức hoá mới làm giàu nội tâm. Khi đau khổ của ta được thanh luyện, thánh hoá nhờ Mẹ sầu bi, nó sẽ diễn tả một chiến thắng của tình yêu trên tất cả những gì không là tình yêu. Lúc đó đau khổ mở rộng trái tim ta, cho nó một khả năng đón nhận những gì cao cả, mà những niềm vui trần thế không thể mang lại được. Lúc đó, sự Chúa sai ta đi sẽ được hoàn thành trên thánh giá. Nó sẽ là của lễ hiến dâng trọn vẹn. Chứng tỏ Chúa là tất cả cho ta. Như thế, Chúa sẽ cứu độ ta và cũng cứu độ bao người khác. Người con Mẹ đi theo Mẹ trên đường thánh giá, sẽ phải trải qua những cuộc chiến đấu quyết liệt. Những cuộc chiến này phần lớn thuộc nội tâm. Ngày lễ Ðức Mẹ sầu bi, họ sẽ cùng Mẹ hướng lòng về thánh giá Ðức Kitô, để dâng mình như của lễ vâng phục và tin yêu. Long Xuyên, ngày 21 tháng 8 năm 2007
Mỗi năm, đến lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micae (29-9), toàn thể giáo phận Long Xuyên lại đặc Bùi-Tuần 1750
Mỗi năm, đến lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micae (29-9), toàn thể giáo phận Long Xuyên lại đặc biệt hướng về Ðức Cha Nguyễn Khắc Ngữ mến yêu. Ngài là Giám mục tiên khởi của giáo phận Long Xuyên chúng tôi. Năm nay Ðức Cha Micae 98 tuổi. Với số tuổi này, Ngài thuộc lớp giám mục cao niên nhất còn hiện diện giữa Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Vì thế, mọi nơi, mọi người thuộc Giáo Hội Việt Nam hiện nay có quyền được biết về nhân vật rất đáng kính này. Có thể nói: Ðã lâu rồi, Ngài không còn là của riêng giáo phận Long Xuyên, nhưng là của chung Giáo Hội Việt Nam một cách nào đó. Dẫu sao, tôi vẫn coi Ngài là một ân huệ lớn lao, Chúa đã ban cho tôi, cho Ðức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu và cho giáo phận Long Xuyên này. Hôm nay, tôi sẽ chỉ thông tin về chân dung Ðức Cha Micae lúc này trong tuổi 98, dưới cái nhìn của tôi lúc này đang 80 tuổi. Chân dung Ngài mà tôi sắp gởi đi sẽ rất đơn sơ. Chỉ có ba nét rút ra từ Kinh Thánh:
1/ “Số nhỏ còn sót lại” Trong sách tiên tri Sophonia, Chúa phán: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo khó và bé nhỏ. Chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Ðức Chúa” (Xp 3,12). Lời Chúa phán trên đây dẫn tôi nhìn vào Ðức Cha Micae. Tôi thấy Ðức Cha Già của chúng tôi thuộc số nhỏ, Chúa cho còn sót lại giữa xã hội hôm nay. “Số nhỏ còn sót lại” này có những đặc điểm sau đây: - Nghèo khó, - Bé nhỏ, - Tìm ẩn mình trong Chúa. Những năm trước đây, Ðức Cha Micae vốn có những đặc điểm đó. Với năm tháng, những đặc điểm này càng rõ thêm. Bây giờ thì tình trạng già hưu càng làm cho những đặc điểm đó in sâu vào con người của Ngài. Chính cái nghèo khó, bé nhỏ và tìm ẩn mình trong Chúa nơi Ngài đã trở thành những giá trị thiêng liêng đầy sức thu hút. Hơn nữa, chính những giá trị thiêng liêng này đã trở nên chiếc máng vô hình, Chúa đang dùng, để chuyển ơn Chúa đến bao con người. Riêng tôi, những lần được gần gũi Ðức Cha Micae, tôi nhận được rõ ràng nguồn ơn thương xót Chúa. Cảm nhận đó làm tôi nhớ lại lời thánh vương Ðavid diễn tả: “Như người cha chạnh lòng thương con cái. Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người quá biết chúng ta được nhồi nắn bằng gì. Hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi... Một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình. Nhưng ân tình Chúa thiên thu vạn đại dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn” (Tv 103,13-17). Vâng, một thân phận quá mong manh, nhưng vì hết lòng kính tôn Chúa, chỉ biết nương tựa nơi Chúa, nên đã được Chúa xót thương. Mong manh, nên đã mang được Chúa đi qua nhiều biên giới. Mong manh, nên càng ngày càng trở nên nhẹ nhàng nâng được nhiều tâm hồn lên với Chúa.
2/ Chút bột và dầu còn sót lại Sách Các Vua, quyển 1, kể rằng tiên tri Elia được Chúa sai đến thành Xarepta. Thời đó đang khô cạn. Khi đến cổng thành, ông gặp một bà goá. Ông xin uống. Bà trả lời: Bà chỉ có một chút bột và dầu còn sót lại trong bình. Nhưng vì ông xin, bà đã dùng chút bột và dầu đó, để phục vụ ông. Chúa đã làm phép lạ cho chút bột và chút dầu đó, tuy dùng mỗi ngày mà vẫn không hết (x. 1 V 17,7-16). Ðọc chi tiết trên đây, tôi nghĩ tới Ðức Cha Già của tôi. Tôi có cảm tưởng: Về cuối đời, Ngài như vơi nghị lực. Chút nghị lực còn sót lại có thể ví như chút bột và chút dầu, mà bà goá thành Xarepta nói là còn sót lại trong bình. Nhưng, vì bác ái, Ðức Cha Già đã dùng những của khiêm tốn đó, để phục vụ. Khi người ta cho đi những gì cần thiết nhất cho cuộc sống mình, thì cử chỉ đó được kể như thánh. Lúc đó, cuộc đời là phục vụ, và cũng là phụng vụ. Vì thế, thường thường, trước khi vào nhà thờ tham dự thánh lễ, tôi tới phòng Ðức Cha Micae. Với những hy sinh triền miên do tuổi già sức yếu bệnh tật, Ngài là một thánh lễ sống động. Nhìn Ngài, tôi hiểu: Một việc phục vụ nhỏ, nhưng với tình yêu và tinh thần hy sinh lớn, sẽ có giá trị trước Chúa hơn nhiều việc lớn lao mà nghèo tình yêu và hy sinh.
3/ Với chút sự sống còn sót lại Phúc Âm thánh Gioan kể lại một lời báo trước Chúa Giêsu gởi thánh Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết: Lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn đến nơi con chẳng muốn” (Ga 21,18). Ðúng là như vậy. Khi tuổi càng già, sức càng giảm, bệnh càng nặng, thì chút sự sống còn lại sẽ rất yếu ớt. Lúc đó, việc gì hầu như cũng phải nhờ đến người khác, mọi lựa chọn hầu như cũng do người khác quyết định. Nhưng chính lúc đó, quyền năng của Chúa lại được tỏ hiện rõ ràng, ở chỗ đức tin cho người trong cuộc nhìn thấy rõ họ tin cậy vào ai. Niềm tin cậy là những kho tàng. Những kho tàng ấy được chứa đựng ở con người mà thánh Phaolô gọi là chiếc bình sành dễ vỡ. “Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). Tôi đang thấy như vậy nơi Ðức Cha Micae lúc này. Ngài như đang nói những lời thánh Phaolô nói xưa: “Dù con người của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2 Cr 4,16). “Quả thật, chúng ta biết rằng: Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh viễn ở trên trời, không do tay người thế làm ra” ( 2 Cr 5,1). Ðức Cha già yếu như nhấn mạnh qua tuổi già của mình một điểm quan trọng: Muốn được như vậy, thì phải vâng phục phó thác cậy tin. *** Trên đây là một phác hoạ chân dung Ðức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, người cha của tôi. Với những nét rút từ Kinh Thánh, chân dung Ngài sẽ là một bài ca cảm tạ Thiên Chúa, một chia sẻ thân tình kính gởi gia đình Hội Thánh, một chút giới thiệu Tin Mừng cho quê hương Việt Nam, một bông hoa hiếu thảo của đoàn con đặt vào bàn tay gầy ốm người cha đang ôm thánh giá như hồng ân cứu độ. Long Xuyên, 05-9-2007