Bùi-Tuần 1651: Dự báo về tương lai giáo sĩ tại Việt Nam
60 năm trước, năm Ất Dậu đối với tôi là năm kinh hoàng. Do nạn đói hãi hùng. Ảnh hưởng đáng Bùi-Tuần 1651
60 năm trước, năm Ất Dậu đối với tôi là năm kinh hoàng. Do nạn đói hãi hùng. Ảnh hưởng đáng sợ. Ấn tượng rất sâu. Hôm nay, với quá khứ xa xôi đó, tôi tự nhiên nhìn Ất Dậu này trong một trực giác lo âu. Tương lai là của Chúa. Nhưng mỗi người cũng được quyền dự báo. Riêng về tương lai giáo sĩ tại Việt Nam, dự báo của tôi hiện lên khá rõ. Xin phép được chia sẻ.
I. NHỮNG THÁCH ÐỐ LỚN SẼ ÐƯỢC ÐẶT RA 1/ Thách đố thứ nhất là sự phát triển công khai, mạnh và có hậu thuẫn lớn của một số tôn giáo bạn. - Có những tôn giáo không là Công giáo, nhưng thuộc hệ Thiên Chúa giáo, đang phát triển mạnh về phổ biến Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa, sống Lời Chúa, và về bác ái, nâng đỡ cuộc sống giữa những người cùng cộng đoàn. Hậu thuẫn lớn của các tôn giáo bạn đáng kính đó là mấy siêu cường. Có những tôn giáo thuộc hệ Phật giáo đang phát triển công khai, mạnh và đều khắp về việc từ thiện, chay tịnh, cầu nguyện, hiếu và hài hoà. Hậu thuẫn lớn của các tôn giáo đáng kính đó là xã hội Việt Nam và các nước Ðông Nam Á. Không thiếu dư luận cho rằng nhiều tín đồ của các tôn giáo bạn đang sống Phúc Âm khá hơn chúng ta.
2/ Thách đố thứ hai là sự phát triển âm thầm, nhưng khá mạnh của những phong trào nhắm vào việc thay đổi Hội Thánh và đi vào cuộc sống mới. Thí dụ: Phong trào đòi hợp lý. Người ta phân biệt con người tu và tư tưởng việc làm con người tu. Có những con người tu có thể được coi là dễ thương, đáng kính. Nhưng tư tưởng và việc làm của các ngài bị coi là không hợp lý. Lý theo Phúc Âm. Lý theo lương tri. Lý theo từng nhóm, từng gốc gác, từng tục lệ. Thời nay, điều phối những khác biệt là điều không dễ. Phong trào tự hào dân tộc. Người ta so sánh các tôn giáo tại Việt Nam, và xem: Công giáo tại Việt Nam có những đóng góp nào đáng kể trong việc dành độc lập, xây dựng bảo vệ Tổ Quốc, và chăm lo cho cuộc sống dân nghèo khổ? Công giáo tại Việt Nam có thực sự là một yếu tố cần cho việc phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh và tăng cường đoàn kết trong Nước nói chung và tại địa phương nói riêng không? Nhưng, cũng có những thiên kiến. Ðạt được một cái nhìn khách quan, đó là một thách đố không nhỏ. Phong trào mong chờ một sự thay đổi tốt nơi giáo sĩ. Nhiều người rất mong các giáo sĩ của họ sống đúng Tin Mừng của Chúa, chứ đừng sống Tin Mừng theo thói thế gian. Nhiều người mong các giáo sĩ của họ làm chứng cho Chúa bằng đời sống các ngài hơn là bằng những lời rao giảng suông. Ðời sống làm chứng cho Chúa là đời sống đã được Chúa Giêsu xác định: “Từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Chúa” (Lc 9,23). Biết những thách đố, để cố gắng giải quyết theo ơn Chúa Thánh Thần, đó là bổn phận người môn đệ Ðức Kitô.
II. NHỮNG THỬ THÁCH LỚN XẢY RA Có 4 cái giảm: - Có khả năng giảm bớt lòng kính trọng và tin tưởng đối với một số giáo sĩ. - Có khả năng giảm bớt sự nhiệt tình muốn đi tu để thành giáo sĩ. - Có khả năng giảm bớt uy tín hàng giáo sĩ. - Có khả năng giảm bớt tình nghĩa sâu xa rộng rãi trong nội bộ giáo sĩ, do nhiều khác biệt càng ngày càng tăng. Có 5 cái tăng: - Tăng nhiều phân tâm thế tục làm cho nhiều giáo sĩ có thể bớt dần sức sống nội tâm và tu thân. - Tăng bệnh tật, cô đơn, căng thẳng. - Tăng những cám dỗ, áp lực và cạm bẫy đón chờ giáo sĩ. - Tăng nhiều thứ phê phán nhắm vào giáo sĩ. - Tăng nhiều cơ hội trắc nghiệm trình độ trưởng thành thiêng liêng của giáo sĩ, nhất là về đức khiêm nhường, khó nghèo bác ái và vâng phục thánh ý Chúa trên đường thánh giá. Về thử thách: Tôi chỉ xin trích lời thánh tông đồ Giacôbê sau đây: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Ga 1,12).
III. THÁI ÐỘ DỰ KIẾN TRƯỚC MỘT TÌNH HÌNH DỰ BÁO NHƯ TRÊN 1/ Nên cương quyết giữ vững và tha thiết với cơ chế bên trong của tôn giáo ta. Cơ chế đó chính là Lời Chúa, các Bí tích, nhất là phép Thánh Thể. Ðừng quên Thánh Thể vốn đi liền với thánh giá và thánh ý. Coi Chúa Giêsu là trung tâm đời ta. Coi Chúa Thánh Thần là Ðấng dạy dỗ ta. Coi đời ta là chuyến đi phục vụ, khiêm nhường bác ái, để về với Chúa Cha. 2/ Nêu gương tinh thần bác ái, khó nghèo, đơn sơ, tiết độ, trong mọi chi tiết cơ cấu bên ngoài của đạo. Cơ chế bên ngoài là các việc xây cất, các tổ chức ban bệ, các hoạt động lễ lạy, các lo toan tìm kiếm những phương tiện tiền bạc, các chọn lựa nhân sự, các luật lệ tự đặt ra, các liên hệ xã hội. 3/ Nên chấp nhận khiêm nhường cách sống đạo của một tôn giáo thiểu số. Bắt chước gương Ðức Mẹ và thánh Giuse, Mẹ Têrêsa Calcutta. 4/ Nên tỉnh thức lắng nghe những cảnh báo xa gần, liên quan đến tình hình Công giáo đó đây. Tiện đây, tôi xin dựa một tin mới nhất có tính cách cảnh báo: - Cuối năm vừa qua, một linh mục học trò thân thiết của tôi đang coi xứ ở Ðức, đã cho hay: “Ðịa phận của Ngài, trước đây có 810 nhà thờ xứ. Bây giờ thu gọn lại chỉ còn 270 xứ thôi. Người công giáo ở đây ít lui tới nhà thờ, nhưng rất có lòng bác ái quảng đại”. *** Bất an, bất hoà, bất cần, bất ổn, bất chấp: Tất cả đều có thể xảy ra cho tương lai Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Cũng sẽ có những bất ngờ lớn. Trên đây chỉ là dự báo, theo một cái nhìn riêng tư. Hy vọng dự báo bé nhỏ này cũng góp được phần nào trong việc suy nghĩ về trách nhiệm liên đới của ta với hàng giáo sĩ của ta. Không có gì dễ cả, nhất là trong lãnh vực đạo đức. Nhưng “Ðối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Riêng đối với tôi, tôi vốn đặt niềm tin tưởng vào thánh Giuse. Ngài là đấng che chở Chúa Giêsu, Ðức Mẹ, Hội Thánh nói chung và các giáo sĩ có lòng bác ái, khiêm tốn, khó nghèo nói riêng. Ngày 17 tháng 01 năm 2005
Ðể mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh. Lộc Bùi-Tuần 1652
Ðể mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh. Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Ðó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới. Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20). Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta. Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này: Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Ðất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình. Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này. Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy: Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta. Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy. Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Ðức Cha Cố Micae và Ðức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa. Bài giảng Thánh lễ ngày Mồng Một Tết Ất Dậu tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên ngày 9 tháng 02 năm 2005
Ta đang sống trong Mùa Chay. Nghe nói đến Mùa Chay, nhiều người nghĩ ngay đến việc kiêng Bùi-Tuần 1653
Ta đang sống trong Mùa Chay. Nghe nói đến Mùa Chay, nhiều người nghĩ ngay đến việc kiêng ăn bớt uống. Nghĩ thế không sai. Nhưng không hẳn là đủ. Bởi vì kiêng ăn bớt uống chỉ là một việc đạo đức được nhắc tới trong Mùa Chay. Còn nhiều việc đạo đức khác nữa cần thực hiện những ngày này. Trong đó có việc thanh luyện tấm lòng, lời nói và việc làm.
Tấm lòng và lời nói Trước hết, tôi nhấn mạnh đến tấm lòng và lời nói, bởi vì Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến hai nguồn ấy. Chúa phán: “Lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các người hay: Ðến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì như lời nói của mình mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,34-37). Lời Chúa phán trên đây dạy ta phải coi chừng lời mình nói ra và những gì lòng mình chất chứa. Hậu quả của một lời nói không nhỏ đâu. Hậu quả của một tư tưởng cũng không nhẹ đâu. Nếu một tư tưởng hoặc một lời nói là một sai phạm đến sự thực, đến công bình, bác ái, thì hậu quả có thể sẽ rất trầm trọng. Tai hại xảy ra cho người khác sẽ là nỗi oan đau đớn. Tai hại xảy ra cho xã hội, cộng đoàn và tôn giáo sẽ nặng nề không dễ sửa lại. Tai hại xảy ra cho chính mình sẽ khó lường được ở đời này, nhất là ở đời sau. Tư tưởng xấu, lời nói xấu, việc làm xấu thì vô kể. Ở đây, tôi chỉ xin được nhắc tới vài loại xưa đã nhắm vào mục đích loại trừ Chúa Giêsu. Những loại đó nay cũng vô tình hay hữu ý đang làm hại Hội Thánh Chúa và nhiều người đang hết lòng phục vụ Hội Thánh của Người.
Do ghen tương Chúa Giêsu là Ðấng cực thánh. Nhưng Người đã bị các thượng tế tố cáo, trao nộp cho chính quyền và đòi phải kết tội bằng một bản án nặng nhất. Ðộng cơ chính là gì? Phúc Âm thánh Marcô viết: “Quan Philatô thừa biết, chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Chúa Giêsu”. Hơn nữa, cũng chỉ vì ghen tỵ, mà các thượng tế “sách động đám đông xin phóng thích tên cướp Baraba” và “hô lên yêu cầu đóng đinh Giêsu vào thập giá” (Mc 15,10-13). Ghen tương trong lòng, ghen tương ngoài miệng, ghen tương bằng hành động, là những chuyện xấu xa xảy ra khắp nơi, ở mọi giai cấp. Ông Giuse được ông Giacóp là cha đẻ thương yêu cách riêng. Ông đã bị chính các anh mình ghen tương, đem bán cho lái buôn Ai Cập. Ðavít là con rể vua Saulê. Người con rể trẻ trung này được dân mộ mến hoan hô. Saulê ghen tức, đã tìm cách thủ tiêu Ðavít. Chính vua Ðavít, vì quá thành công, đã có lúc rơi vào thân phận khổ sở, do xung quanh ghen tỵ. Ngài than với Chúa: “Con chẳng khác bồ nông miền sa mạc, Tựa như con cú chốn hoang tàn, Suốt năm canh trằn trọc. Phận như chim lạc đàn đậu mái hiên” (Tv 102,7-8). Ghen tương là thứ thuốc độc rất phổ thông. Ta phải cố gắng tránh luôn luôn, hơn việc kiêng ăn trong ngày chay. Do hẹp hòi và duy hình thức Ngoài ghen tương, còn có một động cơ khác cũng đã tố cáo và kết án Chúa Giêsu. Ðó là tinh thần hẹp hòi và duy hình thức. Phúc Âm thánh Gioan, đoạn thứ 5, thuật lại việc Chúa Giêsu chữa người bại liệt. Người này nằm liệt trên bờ hồ Bết-da-tha đã 38 năm. Chúa Giêsu thấy hoàn cảnh đáng thương ấy, đã làm phép lạ chữa anh. Nhưng hôm đó lại là ngày sabát. Theo luật đạo bấy giờ, ngày sabát là ngày kiêng việc. Vịn vào luật đó, nhiều người Pharisêu đã tỏ ra tức giận. Một đàng họ mắng trách, hạch sách người bại liệt được chữa lành. Một đàng, họ kết án Chúa Giêsu là người lỗi luật kiêng việc ngày sabát. Ðáng lẽ, một việc lành lạ lùng như thế phải được họ tạ ơn Thiên Chúa. Nhưng, việc lành đó lại làm họ tức tối. Lý do chỉ vì thói quen suy nghĩ hẹp hòi, trọng hình thức việc đạo hơn tinh thần việc đạo. Tính hẹp hòi và thói quen chỉ để ý đến hình thức là cái ổ vi trùng đẻ ra vô vàn tật xấu trong xã hội và trong đạo. Nguy hại nhất là quyền và tiền có cơ hội lẻn vào đạo để làm biến chất tinh thần Phúc Âm. Như thể Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa tình yêu. Như thể Người không có tự do mạc khải tình yêu của mình một cách tự do, bằng bất cứ cách nào Người muốn, với bất cứ ai Người chọn. Do đó, thiết tưởng, kiêng ăn kiêng uống, mà không kiêng tính hẹp hòi và duy hình thức thì mùa chay sẽ chẳng đi tới đâu. Do bị nhắc nhở khiển trách Ðoạn 8 Phúc Âm thánh Gioan cho chúng ta thấy một loại người khác đã quay ra chống Chúa Giêsu một cách quyết liệt, đó là loại người bị Chúa Giêsu khiển trách. “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói. Còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (Ga 8,46-47). Nghe vậy, nhiều người Do Thái đã phản ứng dữ dội. “Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” (Ga 8,48). Phản ứng kiểu như trên cũng đôi lúc xảy ra trong đạo. Khi ta được nhắc nhở về điều gì không tốt, ta lập tức xung lên. Không những chối phắt, mà còn tố ngược lại người nhắc nhở ta, cho dù người đó là bề trên ta hoặc bạn bè của ta, bất chấp lời tố đó là sai hoàn toàn. *** Nhìn qua ba tật xấu trên đây, chúng ta nên đặt câu hỏi với bản thân ta. Bản thân ta có phần nào như thế không? Nếu có, ta đã sửa mình thế nào và đến đâu? Tuổi nào, bậc nào, ta vẫn mang tiềm năng xấu bên cạnh tiềm năng tốt. Phải “bắt đầu lại mỗi ngày” trên đường phấn đấu đổi mới bản thân. Mở rộng cái nhìn như vậy, mới thực là sống tinh thần Mùa Chay. Nhất là trong Mùa Chay này, hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, biết kính trọng các bậc già cả bệnh tật. Ða số các ngài đang nêu gương sự từ bỏ mình, và cống hiến nhưng không những gì còn lại của đời mình. Nhiều vị đang sống tâm tình Mùa Chay một cách âm thầm, nhưng can đảm. Nhờ đó, hy vọng một Phục sinh sáng sủa là điều chắc chắn. Ngày 17 tháng 02 năm 2005
Toà Thánh vừa bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Tổng Giám Mục Hà Nội. Hầu như Bùi-Tuần 1654
Toà Thánh vừa bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Tổng Giám Mục Hà Nội. Hầu như ai cũng biết: Giữa Ðức Tân Tổng Giám Mục Hà Nội và Ðức Cha có liên hệ mật thiết đặc biệt. Vậy, xin Ðức Cha vui lòng cho biết cảm tưởng của Ðức Cha về biến cố mới này. ÐGM Bùi Tuần: Việc bổ nhiệm Ðức Cha Ngô Quang Kiệt làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo phận Thủ đô Hà Nội là việc của Toà Thánh. Nhưng, theo thiển ý của tôi, chức vụ đó xem ra không thích hợp lắm với Ðức Cha Kiệt. Hơn nữa, tôi thực sự rất lo cho vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. Giá Ðức Cha Kiệt được hiến thân trọn vẹn cho giáo phận Lạng Sơn thì có lẽ hay hơn. Tôi hiểu Ðức Cha Kiệt khá nhiều. Bởi vì tôi gần gũi Ngài nhiều năm. Từ khi Ngài còn là chủng sinh học trò của tôi, rồi làm linh mục thư ký của tôi. Tính Ngài vui sống âm thầm, ưa làm những việc bé mọn, thích địa vị thấp, hăng say dấn thân cho những người nghèo, vùng sâu, vùng xa. Tôi mong, khi Ngài vâng lời nhận chức Tổng, Ngài hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Chức càng cao thì thánh giá càng gây nhiều đau đớn. Các vị tiền nhiệm của Ngài đều rất đạo đức. Xin các Ðấng nâng đỡ Ngài. Xin Thánh Giuse, Quan thầy Tổng Giáo phận Thủ đô, và cũng là Bổn mạng của Ngài, phù hộ Ngài trên đường thực thi thánh ý Chúa. Tôi hy vọng giáo phận Lạng Sơn không vì biến cố này, mà bị giảm đi sự phấn khởi mới vừa vụt sáng chưa được bao lâu. Tình trạng “Giám quản” là tạm thời. Mong một giải pháp tốt sớm được đưa ra. Ngày 19 tháng 02 năm 2005
Thánh Giuse là Ðấng thánh rất quen thuộc. Ngài được Chúa chọn cách riêng. Mục đích để bảo Bùi-Tuần 1655
Thánh Giuse là Ðấng thánh rất quen thuộc. Ngài được Chúa chọn cách riêng. Mục đích để bảo vệ Ðức Mẹ Maria và Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế. Hội Thánh vẫn xin Ngài che chở mình. Riêng tại Việt Nam, thánh Giuse vốn được mộ mến. Ngài được tôn kính ở các nhà thờ, ở các gia đình, ở trong lòng mọi tín hữu. Riêng tôi, tôi sùng mộ Ngài cách riêng. Ngài đã giúp tôi rất nhiều trong việc thực thi thánh ý Chúa. Tôi cầu nguyện với Ngài mỗi ngày, nhất là khi gặp khốn khó. Trong các ơn tôi hay cầu xin với thánh Giuse, có ba ơn tôi năn nỉ cách riêng. Bởi vì ba ơn đó liên quan nhiều đến chức năng người đứng đầu cộng đoàn. Tôi xin phép chia sẻ.
1/ Tâm thức bén nhạy Thánh Giuse có một tâm thức bén nhạy lạ thường. Lương tâm Ngài rất tỉnh thức. Một gợi ý nhẹ cũng đủ Ngài hiểu ý Chúa. Hiểu rồi, Ngài vâng ngay tức khắc. Như việc Ngài đón nhận Maria làm người bạn đời. Như việc Ngài đưa mẹ con trốn sang Ai Cập. Như việc Ngài trở về quê cũ bằng con đường khác. Như việc Ngài cộng tác thực thi kế hoạch cứu độ của Chúa một cách kín đáo, khiêm tốn, khó nghèo, tế nhị. Việc Ngài làm, cách Ngài làm, tất cả đều đúng ý Chúa. Vì lương tâm Ngài rất bén, mau hiểu ý Chúa. Lương tâm nhạy bén như thế hiện nay rất cần. Nhưng thứ lương tâm đó đang trong nguy cơ suy giảm. Một dấu chỉ báo động về sự suy giảm, là sự xuất hiện tình hình bình thường hoá đời sống tội lỗi và sống thoải mái theo ý riêng. Người ta không còn bén nhạy với ý Chúa. Ý Chúa được nói trong Lời Chúa. Ý Chúa được nêu cao trong đời sống Chúa Giêsu, Ðức Mẹ, thánh Giuse và các thánh. Ý Chúa được nhắc nhở qua các việc xảy ra thường ngày, nhất là trong các biến cố lịch sử đạo đời. Nhưng nhiều người tỏ ra bất cần. Trái lại, người ta lại rất bén nhạy với các vấn đề xung quanh tiền bạc, chức quyền, danh vọng và các sáng kiến hưởng thụ, phô trương. Trong lòng thì bén nhạy, thao thức về hướng đó. Bên ngoài thì thực hành bằng hành động và cách sống cũng theo hướng đó. Mỗi ngày cứ như thế, mà lương tâm chẳng thấy cắn rứt gì, hơn nữa lại cảm thấy bình an. Dần dà cách sống buông thả đó trở thành thói quen bình thường. Thế là dẫn đến chỗ mất ý thức về tội và về việc sống theo ý Chúa. Không gì nguy hiểm cho sức khoẻ một người, khi người đó mắc bệnh tới mức trầm trọng, mà không cảm thấy dấu gì báo động. Cũng vậy, không gì nguy hiểm cho đời sống thiêng liêng của một người, khi người đó bị tội lỗi và ma quỷ thống trị, mà vẫn cảm thấy an vui. Từ đó cho đến việc bỏ thống hối, ăn năn chỉ còn là một bước rất nhỏ. Hiện tượng trên đây đã xuất hiện trong Hội Thánh Việt Nam. Vì thế, tôi sợ cho tôi, và cũng sợ cho mọi người tín hữu. Nên tôi xin thánh Giuse thương cầu bầu cho chúng ta được một tâm thức bén nhạy. Luôn biết nhận ra ý Chúa. Không những trong những gì phải tránh, phải làm, mà còn trong những gì nên làm, nên tránh. Ngoài ra, tôi cũng thường xin thánh Giuse ban cho chúng ta một ơn khác nữa. Ðó là cách bảo vệ Hội Thánh một cách khôn ngoan.
2/ Bảo vệ Hội Thánh một cách khôn ngoan Theo tính tự nhiên, thánh Giuse có thể nghĩ đến việc bảo vệ Ðức Mẹ và Chúa Giêsu kiểu khôn ngoan thế gian. Thí dụ: Rỉ tai với một số người về sự mình được Chúa chọn vào chức vụ đặc biệt. Chiêu mộ các người thiện chí chân thành để thành lập một lực lượng cảm tình viên vv... Nhưng, thực tế cho thấy, thứ khôn ngoan, mà thánh Giuse áp dụng trong việc bảo vệ Ðức Mẹ và Chúa Giêsu lại rất khác. Khôn ngoan đó của Ngài là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường, rất khó nghèo, rất kín đáo. Hơn nữa, khôn ngoan của Ngài còn nổi bật ở chỗ Ngài sinh sống như một người thuộc tầng lớp lao động bình thường. Ngài hoà mình vào họ. Ngài sống nghèo, liên đới với người nghèo, giúp đỡ người nghèo, chia sẻ cảnh nghèo của xóm nghèo quanh mình. Hầu như Ngài tự chôn vùi mình vào bóng tối, không muốn cho ai biết Ngài là ai. Xưa, thánh Giuse bảo vệ Ðức Mẹ và Chúa Giêsu theo cách khôn ngoan như vừa kể. Nay, cách khôn ngoan đó vẫn còn được áp dụng ở một số nơi. Nhưng nhiều nơi lại đang áp dụng một thứ khôn ngoan khác. Thứ khôn ngoan này đặt nặng phía phô trương quyền lực: Quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị, quyền lực xã hội và cạnh tranh uy tín. Tôi lo ngại cho Hội Thánh tại những nơi như thế. Vì thứ khôn ngoan họ áp dụng tuy hợp với thói thế gian, nhưng không hợp với Phúc Âm, nhất là không hợp với gương thánh Giuse. Còn một ơn nữa tôi vẫn cầu xin thường ngày cho tôi và cho những người đứng đầu các cộng đoàn đức tin. Ơn đó là ơn biết cầu nguyện.
3/ Ơn biết cầu nguyện Thánh Giuse là con người cầu nguyện. Ðời sống âm thầm của Ngài chính là đời sống chiêm niệm, cầu nguyện. Ngài cầu nguyện bằng sự hiện diện thường xuyên bên Chúa. Hiện diện thường xuyên bên Chúa là luôn luôn đặt mình trước thánh nhan Chúa, là luôn luôn nghĩ về Chúa, là luôn luôn thao thức về Chúa, là luôn luôn lắng nghe ý Chúa, là luôn luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự, là luôn luôn tạ ơn và thờ phượng Chúa, là luôn luôn sống và làm việc vì Chúa mà thôi. Cầu nguyện bằng sự hiện diện như thế là một cách cầu nguyện lý tưởng. Hiện nay, việc cầu nguyện vốn được coi là quan trọng. Nhưng trên thực tế, việc cầu nguyện bằng sự hiện diện như thánh Giuse xem ra chưa được coi trọng lắm. Cả trong các người lãnh đạo những cộng đoàn đức tin, cũng có sự chểnh mảng về cầu nguyện. Ðó là một điều đáng tiếc. Nếu sự hiện diện của chúng ta lại tản mác vào các thứ xa lạ và ngược lại Phúc Âm, thì sẽ là một tai hoạ không nhỏ cho Hội Thánh. *** Tình hình Công giáo đang biến chuyển rất nhiều. Có biến chuyển theo hướng tốt, và cũng có biến chuyển theo hướng xấu. Biến chuyển này xem ra khá mạnh. Mưu lược của Satan rất tinh vi. Nhưng cậy tin thánh Giuse, chúng ta có quyền hy vọng vào tương lai của Hội Thánh Việt Nam. Mong Hội Thánh ta để ý đến thống hối, khó nghèo, luôn cố gắng bắt chước gương sống Lời Chúa của thánh Giuse. Xin Ngài che chở ta và Hội Thánh lữ hành nhiều yếu đuối, đang phải chiến đấu về nhiều mặt, để trung thành với Phúc Âm. Ngày 23 tháng 02 năm 2005
Trong chỉ một ngày thôi, tôi phải chấp nhận biết bao điều đến với tôi. Như chấp nhận thời tiết Bùi-Tuần 1656
Trong chỉ một ngày thôi, tôi phải chấp nhận biết bao điều đến với tôi. Như chấp nhận thời tiết, chấp nhận các thứ thuốc phải uống, chấp nhận các thứ đồ phải ăn. Có những chấp nhận dễ dàng. Có những chấp nhận khó khăn. Suy đi nghĩ lại về các thứ chấp nhận hằng ngày, tôi thấy có một chấp nhận mà tôi không thể tránh, nhưng tôi cũng không được phép buông xuôi. Chấp nhận đó là chấp nhận chính mình. Chấp nhận chính mình là một vấn đề rộng. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên vài khía cạnh. Những khía cạnh này đã được đề cập trong Kinh Thánh. Kinh nghiệm đời tôi cũng đã cho tôi cảm thấy một phần. Chấp nhận chính mình với sự sáng suốt phân định Trong bản thân tôi có thiện và có ác. Tôi phải phân định đâu là thiện đâu là ác. Ðể rồi cố gắng làm thiện tránh ác. Thánh Phaolô đã không ngại phơi bày thực tế xung đột giữa thiện và ác trong con người của Ngài. “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm... “Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích Lề luật Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này! Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-26). Kinh nghiệm cho tôi thấy: Chính nhờ Ðức Giêsu Kitô, mà tôi nhận biết tôi là con người khốn nạn, phải luôn cảnh giác với chính mình. Trên thực tế, làn ranh giữa thiện và ác thường khó thấy, màu sắc của ác và thiện cũng khó phân biệt. Cũng vậy, trên thực tế, phấn đấu chống lại cái ác, đi theo điều thiện là điều không chút dễ dàng. Nhất là khi sự ác lại khoác màu sự thiện. Thí dụ, hiện nay, tinh thần tục hoá như ham danh vọng, thoải mái hưởng thụ, đang tràn vào Hội Thánh Việt Nam. Ðó là một thứ “sóng thần” ngầm phá hoại Hội Thánh. Trước sự kiện đó, có nơi tỉnh thức chặn lại được bằng lòng đạo đức, có nơi nông nổi đón nhận một cách hoan hỉ ồn ào, có nơi chịu đựng với lòng lo âu, có nơi dửng dưng, mặc kệ tình hình. Nguy cơ không phải nhỏ. Nhưng không thiếu người có ảnh hưởng lại rất tự hào. Họ tung ra đủ thứ mồi, để câu những người ngây thơ, kéo họ tin theo tinh thần tục hoá như “tin mừng cứu độ” kiểu mới. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo về một thời đầy nguy cơ như thế: “Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: Này, Ðấng Kitô ở đây! Kìa, Ðấng Kitô ở đó! Anh em đừng có tin. Thật vậy, sẽ có những kitô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. Phần anh em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em” (Mc 13,21-23). Với những lời trên đây, Chúa cảnh báo chúng ta: Hãy sáng suốt, hãy tỉnh thức cảnh giác cả với chính mình. Ngoài ra, hãy chấp nhận chính mình với sự quảng đại vác thánh giá kèm theo đời ta. Chấp nhận chính mình với sự quảng đại vác thánh giá Thánh giá của ta là những thử thách đủ thứ, là những đau đớn đủ loại không mấy khi rời ta. Như những bệnh nạn, những nết xấu, những hiểu lầm, những va chạm, những xúc phạm, những giới hạn về mọi phương diện, những mệt mỏi, những chán chường, vv... Tuổi càng cao, tôi càng có thêm kinh nghiệm về thánh giá. Cuộc đời thánh giá thường rất riêng tư. Có những đau khổ tôi có thể nói với những người có thể hiểu và thông cảm. Có những đớn đau tôi không thể nói với bất cứ ai, vì tôi chắc không ai sẽ hiểu và thông cảm được. Nhưng có một khích lệ lớn giúp tôi chấp nhận chính mình với những thánh giá Chúa gởi. Khích lệ đó là lời thánh Phaolô: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Sự gì còn thiếu nơi cuộc khổ nạn của Ðức Kitô vì thân xác Người là Hội Thánh, thì tôi xin góp phần để hoàn tất” (Cl 1,24). Chịu đau khổ để góp phần xây dựng Hội Thánh. Vác thánh giá để cứu các linh hồn. Chịu đóng đinh mình trên thánh giá để tỏ lòng hiệp thông với cuộc tử nạn của Chúa, với mục đích làm chứng cho tình yêu đối với Chúa và đối với các linh hồn. Ðó là những khích lệ lớn lao. Như vậy, chấp nhận những thánh giá không là chuyện thuộc đức tin cho bằng thuộc tấm lòng thương cảm. Cách đây mấy năm, tôi được hân hạnh đến chào Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại trại nghỉ mát của Ngài. Lúc từ biệt Ngài, tôi nói nhỏ với Ngài: “Ðức Thánh Cha đang đau bệnh và phải vác nhiều thánh giá. Con hứa dâng những đau khổ của con, để cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha”. Với vẻ xúc động, Ngài nắm tay tôi. Tôi có cảm tưởng Ngài chia sẻ cho tôi một phần đau đớn của Ngài. Cảm tưởng đó không phải chỉ vụt qua lúc ấy, mà vẫn tiếp tục sống động trong tôi, nhất là những thời gian tôi mang bệnh. Tôi có cảm giác như mang một thánh giá vừa là của tôi, vừa là của ai đó. Sau cùng, chấp nhận chính mình còn là chấp nhận trở về. Chấp nhận chính mình với quyết tâm trở về với lòng thương xót Chúa Tôi biết tôi chẳng có nhân đức nào. Nhưng tôi tin vào Lời Chúa. Chúa phán: “Thầy không đến cho những người khoẻ mạnh, nhưng cho những người đau yếu. Thầy không đến cho những người công chính, nhưng Thầy đến cho những người tội lỗi” (Lc 5,31-32). Vì thế, tôi chấp nhận tôi với lòng sám hối, tạ ơn và phó thác nơi tình yêu thương xót Chúa. Nhất là khi tôi nhớ lại một lời khác Chúa Giêsu đã phán: “Thầy nói thật cho anh em hay: Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7). Tôi xin Chúa ban cho tôi ơn trở về bằng thống hối, tạ ơn và phó thác. Tôi thống hối vì bao lần không sống đúng Lời Chúa và theo gương Chúa. Tôi tạ ơn không phải chỉ vì những ơn Chúa ban cho tôi, mà cả vì những ơn Chúa ban cho mọi người, nhất là cho những người yếu đuối bất toàn như tôi. Tôi phó thác mình trong tay Chúa một cách tuyệt đối, như trẻ thơ trong trái tim mẹ mình. *** Với sự chấp nhận chính mình như trên, tôi đi về tương lai. Ði một cách bình thản. Tương lai là chính Nước Thiên Chúa đã bắt đầu trong tôi từ hôm nay và từng ngày của đời tôi. Nước Thiên Chúa là tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Vì thế khi tôi từ bỏ cõi đời này chính là lúc Chúa sẽ chấp nhận tôi trong tình thương xót bao la của Người, mãi mãi cho đến muôn thuở muôn đời. Ngày 01 tháng 3 năm 2005
Cái đau, cái khổ là những người bạn trung thành của đời tôi. Ðau khổ như những sự kiện, thì qua Bùi-Tuần 1657
Cái đau, cái khổ là những người bạn trung thành của đời tôi. Ðau khổ như những sự kiện, thì qua đi. Nhưng đã đau đã khổ thì hậu quả của chúng không qua đi bao giờ. Càng về già, với những khổ đau đủ loại, tôi càng thấm thía với sự thực này: Ðau khổ là một mảng của cuộc đời. Một mảng vừa lớn, vừa rộng, vừa sâu. Nó sống động như một dòng chảy. Nó bắt đầu từ lúc tôi vừa vào đời, và sẽ chỉ chấm dứt khi tôi từ giã cuộc đời. Ðau khổ là cái gì tôi không thích. Nhưng nó cũng có giá trị giúp cho con người. Như thanh luyện, đào tạo, nhất là góp phần vào việc cứu rỗi. Khi sống với Chúa Giêsu trong Tuần Thánh, tôi thấy vai trò của đau khổ rất được đề cao trong việc cứu độ. Tôi không học được nhiều về chuyện đó. Tôi chỉ xin nêu lên mấy điểm, mà tôi nhận ra được trong hành trình đau khổ cứu độ. Những điểm đó sẽ giúp tôi. Ở đây, tôi xin chia sẻ vắn tắt.
1/ Cảm thấy đau khổ thực sự Ðau khổ của Chúa Giêsu không phải nằm trong lý thuyết, nhưng sống động trong bản thân Ngài. Ngài cảm thấy đau khổ trong thân xác. Ngài cảm thấy cô đơn, nhục nhã trong tâm hồn. Ngài cảm thấy bị khinh chê bởi một đám đông đã chịu ơn Ngài. Ngài cảm thấy bị hắt hủi bởi đoàn tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn, cất nhắc. Ngài cảm thấy bị bỏ rơi bởi chính Ðức Chúa Cha là Ðấng đã sai Ngài xuống thế. Ngài cảm thấy những đau khổ đó một cách sâu sắc. Ðến nỗi Ngài đổ mồ hôi máu ra (x. Lc 22,44). Ngài đi năn nỉ môn đệ hãy ráng thức bên Ngài. Và than: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt12,34). Như vậy đau khổ, mà Chúa Giêsu phải chịu thực là kinh khủng. Ngài cảm thấy nó hoành hành trong toàn thể con người của Ngài. Ngài than đau một cách rất nhân loại. Khi tôi nhận biết sự thực đó nơi Chúa Giêsu, tôi sẽ bớt đi nỗi kinh hoàng lúc tôi phải đau khổ. Nhất là tôi sẽ không lấy làm lạ, nếu tôi hay người khác than khổ, than khóc trong những trường hợp quá đau, quá khổ. Cử chỉ như thế là rất “người”, không gì phải xấu hổ cả. Trái lại nhiều khi cũng có thể coi đó là một yếu đuối mang tính cách liên đới gần gũi lại với những người yếu đuối. Từ cảm nghiệm đó, Chúa Giêsu đi lên một bước, đó là cầu nguyện.
2/ Cầu nguyện khi đau khổ Phúc Âm thánh Luca viết về lời Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện đến tăng sức cho Ngài” (Lc 22,42-43). Như vậy, Chúa Giêsu, khi quá đau khổ, Ngài đã than. Nhưng liền đó, Ngài đã cầu nguyện. Ngài cầu xin Chúa Cha cứu Ngài. Lời Ngài cầu toát ra một tâm tình khiêm tốn. Ðó là “Nếu Cha muốn. Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Ðây là gương sáng dạy tôi một điều hữu ích. Khi tôi gặp đau khổ, bất cứ vì lý do nào, tôi nên cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ là một chìa khoá mở lòng tôi đón nhận ánh sáng và sức mạnh của Chúa. Chúa sẽ cho tôi biết: Nếu đau khổ tôi chịu là do chính tôi gây nên, thì tôi hãy xin Chúa ban ơn cho tôi biết cách sửa. Nếu đau khổ tôi chịu là do người khác gây nên, thì tôi xin Chúa ban ơn điều chỉnh lại hoàn cảnh chúng tôi, nếu được. Nếu đau khổ tôi chịu là hoàn toàn không do tôi và cũng không do ai, nhưng tôi cứ phải chịu, thì xin Chúa vẫn thương cứu tôi, nếu đẹp ý Chúa. Bất cứ trong trường hợp nào, khi đau khổ, tôi vẫn cứ cầu nguyện. Tôi biết chẳng thiên thần nào sẽ hiện ra tăng sức chịu đựng cho tôi. Nhưng tôi chắc Chúa sẽ ban ơn trợ giúp. Tâm hồn tôi sẽ được bình an, khiêm nhường. Nhờ đó, tôi dần dần hiểu ý nghĩa sự đau khổ.
3/ Hiểu ý nghĩa sự đau khổ Thực vậy, kinh nghiệm cho tôi thấy thế này: Nhờ cầu nguyện, tôi cảm thấy Chúa đến bên tôi và cùng đau khổ với tôi. Nhiều trường hợp, Ngài không rút bớt đau khổ đi. Nhưng Ngài cho tôi biết đặt tên cho các đau khổ của tôi. Như đau khổ để đền tạ Trái Tim Chúa và Trái Tim Ðức Mẹ. Ðau khổ để cầu cho những người thân được ơn trở lại. Ðau khổ để cầu cho Ðức Thánh Cha, hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Ðau khổ để thanh luyện, đào tạo chính bản thân mình, vv... Một ý nghĩa của đau khổ, mà tôi hay để ý, đó là nhờ kinh nghiệm bản thân về đau khổ, như bệnh nạn, nhục nhã, cô đơn, thiếu thốn, tôi mới biết thương cảm với những người cùng hoàn cảnh. Một ý nghĩa nữa tôi hiểu là cách Chúa Giêsu chia sẻ thân phận con người đau khổ. Chia sẻ bằng cách trở nên giống họ. Sống nghèo như họ. Bị nhục như họ. Vất vả nhọc nhằn như họ. Những yếu tố này nơi cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu giúp tôi cũng hiểu phần nào những đau khổ của tôi. Tôi “hiểu phần nào” thôi, chứ không hiểu hết được. Như tối ngày 12 vừa qua, khi vừa được tin Bà Má của Ðức Tổng Kiệt chết, trên đường từ quê Cái Sắn đi Hà Nội, tôi xót xa thầm nghĩ: “Giá Bà Cố cứ ở nhà, đừng đi Hà Nội, thì đâu có xảy ra cái chết gây bao đau đớn thế này”. Tôi nghĩ thế vì thương. Nhưng biết đâu, Chúa muốn gởi vào cái chết bất ngờ của Bà Cố một ý nghĩa nào đó, mà tôi chưa hiểu được ngay lúc này.
4/ Chịu đau khổ trong ơn Chúa Trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, tôi thấy rõ Ngài chịu đau khổ một cách thánh thiện, với một thái độ khiêm nhường, nhưng không thiếu tinh thần trách nhiệm tuyên xưng sự thực. “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Lời nguyện cầu đó của Chúa Giêsu nói lên sự thật. Sự thật là Ngài vô tội, và sự thực là những kẻ giết Ngài có lỗi lầm. Tuy nhiên Ngài xin Chúa Cha tha cho họ. Lời nguyện đó nêu gương sáng cho ta. Hãy xin Chúa ban ơn cho ta biết chịu đau khổ trong tình mến Chúa yêu người. Trên thực tế, tôi thấy đau khổ, dù do bất cứ nguyên nhân nào, đều rất đáng sợ. Có những đau khổ, khi kéo dài, sẽ làm con người suy sụp. Thậm chí có khả năng đưa con người tới tự tử, tới chỗ mất niềm tin vào bạn bè, vào những người xung quanh. Nhiều người đau khổ đã mất cả niềm tin vào Chúa và Hội Thánh. Hãy tế nhị với người đau khổ. Nhất là đừng dễ dàng đổ tại “Chúa định”. Lịch sử cho thấy nhiều người đã chịu đau khổ cho Hội Thánh, nhưng những đau khổ đó thực sự cũng do Hội Thánh gây nên cho họ. Lịch sử Hội Thánh cũng đã có những trang làm ta đau đớn. Ở chỗ có những người, những nơi là nạn nhân bị bách hại thê thảm. Nhưng cũng có người, có nơi của Hội Thánh tự cho mình có quyền bách hại những ai không nghĩ như mình. Người có chức quyền trong đạo nhiều khi không tránh được nguy cơ biến chất. “Nhân danh Thiên Chúa”, đó là cạm bẫy mà Satan vẫn dùng, để xúi người ta làm bao nhiêu việc tưởng là tốt, nhưng thực ra rất xấu. Xưa chính các vị lãnh đạo tôn giáo đã chủ mưu sát hại Chúa Giêsu, chứ không phải những tín hữu thường. Hãy nhớ mọi người trong Hội Thánh của ta luôn rất cần được thanh luyện và đạo tạo trong lao khổ nhọc nhằn. Riêng tôi, tôi xin ơn được theo Chúa Giêsu, luôn tha thiết nói lên lời nguyện cầu sau hết: “Lạy Cha, con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Trong suốt đời tôi, qua mấy giai đoạn khác nhau của lịch sử, tôi chưa thấy bao giờ nhiều nơi trong Bùi-Tuần 1658
Trong suốt đời tôi, qua mấy giai đoạn khác nhau của lịch sử, tôi chưa thấy bao giờ nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam ta lại được nổi như hiện nay, về những mặt này: -Thao thức về tiền bạc được nâng cao trong nhiều lãnh vực đạo. - Lễ lạy được tổ chức linh đình vẻ tục hoá. - Chức thánh được tâng bốc y hệt theo kiểu thế gian. - Ðời sống tu được mô tả như pha màu hưởng thụ, sung sướng. - Lòng đạo được ru ngủ an tâm trong khuôn khổ lễ nghi và tổ chức bề ngoài. - Người góp nhiều tiền bạc được tôn vinh khác thường trong nhiều cộng đoàn tôn giáo. Nơi này làm. Nơi kia bắt chước. Như một phong trào đổi mới đạo. Có người cho rằng con đường thênh thang này sẽ giúp cho việc làm sáng danh Chúa, có lợi cho việc truyền giáo. Có người lại nghĩ con đường thênh thang đó là một cạm bẫy tinh vi để tục hoá tôn giáo dần dần. Tôi chẳng dám vội kết luận. Tôi chỉ xin phép được nói lên đôi chút kinh nghiệm của tôi, trong dịp Tuần Thánh, tưởng niệm Chúa Giêsu tử nạn và sự Ngài sống lại.
1/ Kinh nghiệm về nhiệm vụ linh mục Tôi nhận chức vụ linh mục trong hoàn cảnh liền sau biến cố Ðất Nước chia đôi. Trong thánh lễ, khi quỳ nghe Ðức Giám Mục đọc lời truyền chức, tôi cảm thấy như có một khối rất nặng vô hình đặt trên tôi. Tôi sợ hãi, kinh hoàng. Cảm giác đó khiến tôi chẳng bao giờ dám coi chức linh mục là một bậc cao, quyền lớn. Tôi chỉ coi mình là kẻ được Chúa sai đi để làm chứng theo lời Chúa Giêsu dạy: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân... Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội... Chính anh em là chứng nhân của những điều đó” (Lc 24,47-48). Lời Chúa và cảm giác trong ngày chịu chức linh mục khiến tôi xác tín rằng: Tôi làm linh mục là để làm nhân chứng. Phải làm chứng về sự thống hối để được ơn tha tội. Trong 50 năm linh mục, tôi rút ra kinh nghiệm này: Làm chứng về sự thống hối để được ơn tha tội là việc rất khó. Tôi phải dựa vào Lời Chúa được thần học dẫn giải, rồi chính tôi phải làm gương, nhất là tôi phải giúp người ta được ơn biết mình có tội và ơn nhận ra tình yêu thương xót Chúa. Nhưng, mấy điều đó có dễ gì đâu! Nhất là thời buổi này. Chỉ dễ, khi tôi đi theo con đường thênh thang, bỏ ý thức về tội và lạm dụng lòng thương xót Chúa. Nhưng cái dễ đó là một nguy cơ chắc chắn dẫn tới diệt vong.
2/ Kinh nghiệm về nhiệm vụ Giám mục Tôi chịu chức Giám mục trong biến cố chiến tranh tại Việt Nam vừa chấm dứt. Trong thánh lễ truyền chức, khi vị chủ tế đọc lời truyền chức, tôi cảm thấy một sự rụng rời xâm chiếm bản thân tôi. Tôi như đang đứng trên một chiếc cầu tre, bỗng phải nhảy xuống một chiếc xuồng nhỏ. Chiếc xuồng này đang trôi giữa dòng sông lớn không biết chảy về đâu. Tôi sợ hãi quá sức. Sự sợ hãi này cho tôi một xác tín riêng: Làm Giám mục không phải là lên chức cao, được nhiều quyền. Mà chỉ là người được sai đi để làm nhân chứng. Tôi làm chứng về giới răn mới của Chúa Giêsu: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34). Nơi tôi được đến, và quãng lịch sử tôi được sai vào đang rất cần nhân chứng đó. Trong 30 năm làm Giám mục để làm nhân chứng cho giới luật yêu thương, tôi cảm thấy nhiều khi điêu đứng phũ phàng, nhất là cô đơn. Bởi vì Chúa bảo phải yêu thương như Chúa yêu thương. Mà tình yêu cứu chuộc của Chúa là tình yêu bước xuống. Bước xuống thế trần, bước xuống mặc lấy thân phận con người nghèo, bước vào cuộc sống lầm than của người dân lao động, bước tận tới số phận kẻ bị loại trừ, bước xuống tận án chết trên thánh giá giữa hai người trộm cắp. Chúa Giêsu bước xuống, vì tình yêu cứu chuộc. Còn tôi, nếu bị coi như bước lên, vì chức vì quyền, vì cuộc sống cao. Và nếu đúng sự thực là như vậy, thì còn đâu là trách nhiệm nhân chứng cho tình yêu cứu chuộc!
3/ Kinh nghiệm về Thánh Thể Hằng ngày, khi dâng thánh lễ, hoặc chầu Thánh Thể, tôi luôn nghe Chúa Giêsu gọi tôi âm thầm tha thiết: Con hãy là nhân chứng của những lời truyền phép: “Ðây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con. “Ðây là Máu Thầy, Máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chứng nhân về Thánh Thể là chứng nhân của tình yêu, một tình yêu trao nộp, một tình yêu hiến tế, một tình yêu im lặng, một tình yêu khiêm tốn. Thực sự có như vậy. Khi tôi gặp Chúa Giêsu trong Thánh Thể, tôi cũng góp phần mình vào tình yêu hiến tế đó. Kết quả là tôi được biến đổi, được vơi đi bao lo âu phiền muộn, tôi nhận được sức thiêng của Người để phục vụ người khác. Nhất là trong những việc bé nhỏ và cho những người bé mọn. Một cách nhẹ nhàng, kín đáo. Như tấm bánh nhỏ. Dù rất nhỏ, nhưng vẫn có thể bẻ nhỏ ra thành nhiều phần nhỏ rất nhỏ hơn. Tôi thấy: Làm chứng mình tham gia thực sự vào tình yêu hiến tế của Chúa Giêsu, là điều quá khó. Không phải sức tôi làm được việc đó, nhưng là nhờ sức của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Cả ba kinh nghiệm trên đây đều cho tôi xác tín: Tôi và những ai cùng trách vụ như tôi hãy là nhân chứng, chứ đừng là người mang chức nắm quyền. Trách vụ chúng ta chủ yếu là làm chứng. Làm chứng về sự gì? Thưa làm chứng về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu. Mà Ðức Giêsu nói đây là Ðấng chịu đóng đinh mình trên thánh giá, để làm chứng cho tình yêu đền tội thay nhân loại. Làm chứng cách nào? Thưa làm chứng bằng chính đời sống của ta. Một đời sống mà đặc điểm là: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Ðức Giêsu, như những điều kiện chính Chúa Giêsu đã đòi hỏi (x. Mt 16,24). Ðể chính mình được tham dự vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Khi hiểu sơ qua như thế rồi, chúng ta có thể suy đoán được phần nào tương lai của những nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam đang được lãnh đạo bởi tinh thần xa dần đời sống nội tâm, khó nghèo, bác ái, khổ hạnh, khiêm nhường. Nhân chứng là những máng chở ơn thánh. Trở thành thứ máng đó là điều rất khó. Muốn mà thôi không đủ. Học tập nhiều cũng không đủ. Phải rất khiêm tốn nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Về nhiệm vụ nhân chứng, tôi chẳng có gì để tự hào. Tôi xin phó thác cho lòng thương xót Chúa với hy vọng sẽ được phục sinh với Ngài. Chia sẻ trên đây của tôi là một tuyên xưng, một lời thống hối, một lời tạ ơn, một lời cầu nguyện tha thiết, trước những giã từ. Ngày 11 tháng 3 năm 2005
Thánh lễ đêm, mừng Chúa Phục sinh, vốn dài, vì thêm nhiều nghi thức riêng. Thời tiết lúc này Bùi-Tuần 1659
Thánh lễ đêm, mừng Chúa Phục sinh, vốn dài, vì thêm nhiều nghi thức riêng. Thời tiết lúc này lại nóng. Nên bài giảng của tôi sẽ rất vắn gọn. Tôi sẽ chỉ tập trung vào mấy nhân vật đầu tiên được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng Chúa Phục sinh. Bốn Phúc Âm khi thuật lại, đã có vài chi tiết khác nhau. Nhưng tất cả bốn Phúc Âm đều nhất trí đề cao mấy người phụ nữ, nhất là bà Maria Madalena. Vậy, các bà là ai và đã làm gì? Thánh sử Marcô viết: “Ðức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Madalena, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ” (Mc 16,9). Thế có nghĩa là Maria Madalena là người đã có một quá khứ xấu. Bà là người được ơn trở lại. Thánh sử Luca cho biết: Maria Madalena cùng mấy bà đi ra mộ Chúa, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn, để xức xác Chúa (x. Lc 24,1). Thánh sử Gioan thêm chi tiết này: “Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc” (Ga 20,11). Khi các bà nhận ra Chúa đã sống lại, Chúa bảo các bà: “Hãy đi báo tin cho anh em Thầy là: Họ phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Thầy” (Mt 28,10). Qua mấy nét tả lại như trên, chúng ta có thể hình dung những người đầu tiên được Chúa Phục sinh hiện ra gặp họ, và được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh. Hình dung họ đại khái thế này: Họ là những tín hữu bình thường, không có chức quyền gì trong đạo ngoài đời. Hơn nữa, họ thuộc nữ giới. Một người trong họ là người tân tòng. Nhưng cái làm nên đặc điểm của họ là họ khát khao đi tìm Chúa, bất chấp mọi khó khăn, cho dù trong thất vọng vì chắc Người đã chết rồi. Họ có một trái tim đầy lửa mến thương. Một thứ lửa cảm thấy được trong nước mắt họ và cả trong những bước đi tìm kiếm của họ. Họ là những người bình thường, nhưng trái tim họ khác thường, vì có niềm thao thức Chúa bừng bừng bốc cháy, vì có niềm biết ơn Chúa thôi thúc dạt dào. Họ âm thầm bước đi. Họ âm thầm loan báo Tin Mừng. Họ khiêm nhường, loan báo Tin Mừng bằng trái tim và những hy sinh hơn bằng lời nói và cung cách ồn ào, kiểu cách. Mấy người phụ nữ được Chúa chọn sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh có những nét đẹp dễ thương như thế. Bây giờ, tôi đi tới những kết luận. Kết luận thứ nhất là: Chúng ta hãy khiêm tốn cảm tạ Chúa vì: Xưa cũng như nay, trong việc loan báo Tin Mừng, Chúa chọn và sai đi những người đã từng gặp Chúa, đã từng được Chúa cứu, đã từng khát khao và đi tìm Chúa. Họ âm thầm nhưng đầy nhiệt huyết. Họ vẫn được Chúa sai vào lịch sử hiện nay của Ðất Nước ta. Xin cảm tạ Chúa Phục sinh. Kết luận thứ hai là: Chúng ta hãy khiêm tốn nài xin Chúa ban cho chính chúng ta được biết loan báo Tin Mừng Phục sinh trong nơi chúng ta đang sống. Loan báo bằng đời sống và những phương tiện thường của cuộc sống, nhưng phát xuất từ trái tim bừng cháy lửa mến Chúa thương người. Kết luận thứ ba là: Chúng ta nên khiêm tốn nhìn nhận tình hình đạo tại Việt Nam ta nói chung, và tại địa phương ta nói riêng đang có những điểm đáng mừng, nhưng cũng không thiếu những điểm đáng lo, đáng buồn. Nhận biết đúng tình hình, để thêm lòng khiêm tốn cậy tin vào Chúa. Vì lòng khiêm nhường cậy tin Chúa là cách rất quan trọng để dọn lòng đón nhận ơn Chúa Phục sinh. Chính Người sẽ phục sinh tình hình chúng ta. Chứ chúng ta rất yếu đuối, tự sức mình, không tự phục sinh được đâu. Với vài tư tưởng đơn sơ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Phục sinh và một mùa Phục sinh đầy ơn phục sinh của Chúa Phục sinh. Bài giảng thánh lễ Vọng Phục Sinh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 26 tháng 3 năm 2005
Lịch sử tôn giáo trên thế giới có nhiều vấn đề phức tạp. Một trong những vấn đề rất phức tạp là vấn Bùi-Tuần 1660
Lịch sử tôn giáo trên thế giới có nhiều vấn đề phức tạp. Một trong những vấn đề rất phức tạp là vấn đề nhân sự. Vấn đề khó hiểu Riêng trong các tôn giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa, vấn đề nhân sự tới nay vẫn là vấn đề khó hiểu. Hội Thánh Công giáo xác tín rằng: Những vị lãnh đạo của mình là những người được Chúa tuyển chọn. Hội Thánh Do Thái, Hội Thánh Chính Thống, Hội Thánh Anh giáo, các Hội Thánh Tin Lành cũng xác tín không kém: Những người lãnh đạo của mình là những người được Chúa tuyển chọn. Nhưng, trên thực tế, đã từ lâu cho tới bây giờ, những vị lãnh đạo này của các Hội Thánh, tuy cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, nhưng vẫn chia rẽ nhau, không thể làm thành một Hội Thánh duy nhất. Thực tế đó thực đau buồn. Ngay chính trong Hội Thánh Công giáo cũng đã có thời lủng củng về nhân sự. Có thời Hội Thánh được cai trị bởi ba vị Giáo hoàng cùng lúc. Vị nào cũng tự coi mình là người Chúa tuyển chọn. Ðó là thời đầu thế kỷ 15, với Ðức Benedictô XIII, Ðức Gioan XXIII, Ðức Gregoriô XII. Ðể chấm dứt tình hình nhiễu nhương đó, Ðức Gioan XXIII bị hạ bệ (29/5/1415). Ðức Benedictô XIII cũng vậy (29/7/1417). Ðức Gregoriô XII tự ý xin từ chức (4/7/1415). Có một thời, vị đứng đầu Hội Thánh đã rất yếu đuối, chịu quyền lực gia đình Borgia điều khiển, thao túng, gây nên bao gương mù đồi truỵ. Vị đó là Ðức Alexandrô VI (1492-1503). Ngài cũng tự coi là người được Chúa tuyển chọn. Thế mới khốn khổ cho Hội Thánh chứ. Tại Việt Nam hiện nay, vấn đề truyền chức và bổ nhiệm các linh mục, giám mục, phải được chính quyền chấp thuận. Yếu tố đó là quan trọng, không thể thiếu. Vì thế, có nơi có thời, ta nên coi việc nhân sự được Chúa chọn là một vấn đề hết sức tế nhị. Ðể tránh những lạm dụng và hiểu lầm. Vấn đề đang chuyển biến Tôi thấy, tại Việt Nam hôm nay, con người giáo sĩ, tu sĩ, và các tông đồ giáo dân đang bước vào những luồng ảnh hưởng lớn. Những luồng ảnh hưởng này một phần do cách sống của xã hội mới, một phần do bầu khí tôn giáo không tỉnh thức, bị lôi kéo vào cơn lốc tục hoá rất mạnh, một phần do não trạng mới của con người thời đại mới. Những luồng ảnh hưởng lớn này đang thay đổi con người môn đệ Ðức Kitô một cách nhẹ nhàng tinh vi, nhưng sâu xa. Ðể phân định, xếp loại, tôi lấy lời Chúa Giêsu phán sau đây làm tiêu chuẩn: “Thầy là cây nho, các con là cành nho” (Ga 15,5). Theo tiêu chuẩn Lời Chúa trên đây, tôi thấy ba loại người môn đệ Chúa đang sống tại Việt Nam hôm nay. Một loại là những ai gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Họ như cành nho gắn chặt vào thân cây nho. Gắn bó một cách tuyệt đối. Một loại là những ai có phần nào gắn bó với Chúa Giêsu, nhưng hời hợt, không tuyệt đối. Họ giống như cành cây đang gẫy từ từ. Một loại là những ai đã thực sự lìa xa Chúa Giêsu. Họ như cành đã khô héo, bị cắt đi, hoặc tự rơi rụng xuống. Ðiều đáng ngại là ba loại này thường không hiện rõ bản chất thực ra bề ngoài. Bề ngoài có vẻ còn mang hình thức đạo đức hơn kém, như nhau. Nhưng bên trong lại rất khác nhau. Chính điều đó có khả năng lừa dối người khác, và cũng có khả năng lừa dối chính mình. Trong một tình hình, mà vấn đề người Chúa chọn đang chuyển biến mau lẹ, tôi rất được an ủi , khi nhìn vào Ðức Mẹ ngày Truyền tin. Ðức Mẹ Maria được Chúa chọn Phúc Âm thánh Luca thuật lại vắn tắt biến cố Chúa chọn Ðức Mẹ Maria làm Mẹ Ðấng Cứu thế (x. Lc 1,26-38). Qua tường thuật này, tôi thấy mấy chi tiết sau đây: 1/ Ðức Mẹ nhận thức một cách chắc chắn mình là người được Chúa chọn, do sự Ðức Mẹ được thấy Tổng Lãnh thiên thần Gabriel hiện ra với mình. Mắt Ðức Mẹ nhìn thấy rõ. Tai Ðức Mẹ nghe thấy rõ. Nội dung Chúa gởi tới Ðức Mẹ cũng thực rõ.
2/ Ðức Mẹ Maria đón nhận sự Chúa chọn mình với lòng lo sợ, và tâm thức hoàn toàn bất ngờ. 3/ Ðức Mẹ được trấn an bởi lời Tổng Lãnh thiên thần quả quyết là: Thiên Chúa ở cùng Mẹ, và phép lạ Chúa Thánh Thần sẽ phủ xuống Mẹ. 4/ Ðức Mẹ nói lời “Xin vâng” với tất cả lòng khiêm nhường phó thác, chỉ vì tin vào lời Chúa, chứ đâu có biết tương lai sẽ ra sao, mình phải hoạch định chương trình cho ơn gọi thế nào. 5/ Ðức Mẹ rất kín đáo, âm thầm, coi chức năng làm Mẹ Ðấng Cứu thế như một trách nhiệm. Thánh Giuse cũng không được Ðức Mẹ tiết lộ cho biết ơn Chúa dành cho Mẹ. Nếu bà Isave không lên tiếng trước, thì chắc Ðức Mẹ cũng giữ kín ơn đặc biệt đó trong cõi lòng khiêm cung của mình. 6/ Thái độ kín đáo, âm thầm, khiêm tốn rất ăn hợp với đường lối cứu độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu từ giây phút xuống thai trong lòng Ðức Mẹ cho tới khi phục sinh, lên trời, luôn đi theo con đường khiêm tốn, âm thầm, kín đáo. Chính qua con đường đó, Ðức Kitô và Ðức Mẹ đã mạc khải tình yêu hiến tế, luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, chứ không theo ý riêng mình chút nào.
Nhìn vào xa Khi nhận thấy con đường cứu độ là như thế, nhất là khi thấy Chúa Giêsu và Ðức Mẹ đã cứu nhân loại theo con đường đó, tôi nghĩ rằng: Hội Thánh ta trong hiện tại và tương lai chắc cũng phải được cứu độ bằng con đường như thế, và nhờ những nhân vật theo gương Chúa Giêsu và Ðức Mẹ như thế. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, dù sẽ còn sống được lâu, dù sẽ qua đời trong một ngày không xa, thì tình hình Hội Thánh sẽ không phải là không thêm nhiều lo ngại. Vì thế, tôi tha thiết ước mong mọi người trong Hội Thánh Việt Nam, nhân dịp lễ Ðức Mẹ truyền tin, thêm lời cầu cho Hội Thánh, để Hội Thánh toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói riêng, luôn luôn được phục vụ, hướng dẫn bởi những người được chính Chúa tuyển chọn thực sự và rất trung tín với ơn được tuyển chọn. Tình hình đang có nhiều chuyển biến phức tạp và bất ngờ. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết cách bảo vệ Hội Thánh. Ngày 24 tháng 3 năm 2005
Theo tin từ Toà Thánh, anh Charles de Foucauld sẽ được phong Chân phước nội trong năm 2005 Bùi-Tuần 1661
Theo tin từ Toà Thánh, anh Charles de Foucauld sẽ được phong Chân phước nội trong năm 2005 này. Tôi gọi Anh Charles bằng Anh, vì khi còn tại thế, Anh đã mong muốn được mọi người gọi Anh bằng anh, bằng em và được mọi người coi Anh là người anh em thân thương của mình. Ðược tin Anh được phong Chân phước, tôi tự nghĩ thầm rằng: Khi Ðức Giáo Hoàng phong Chân phước cho Anh, thì có ý tôn vinh công trình Chúa làm nơi Anh. Công trình nơi Anh là sự Anh đi về với Chúa một cách độc đáo. Tôi biết đôi chút về Anh qua những trung gian. Hiện nay tinh thần tu đức của Anh Charles đang hướng dẫn 11 hội dòng và 7 hội đoàn khác nhau. Họ làm thành một gia đình thiêng liêng nhiều ngành linh động xung quanh Anh Charles. Anh không là người sáng lập dòng. Anh chỉ hiện diện. Riêng tôi, nhớ về Anh là nhớ qua những kỷ niệm gặp gỡ gia đình thiêng liêng ấy. Những gặp gỡ như thế thì khá nhiều. Trong đó có vài trường hợp đặc biệt đã để lại trong tôi ảnh hưởng rất đậm.
1/ Gặp gỡ ở Paris Cách đây khá lâu, cuối tháng 10, nhân tiện đang ở Paris, tôi được mời tham dự cuộc họp thân mật của đại gia đình Anh Charles. Ðịa điểm họp là nhà thờ thánh Augustinh. Thời gian họp là tối 30 tháng 10, kỷ niệm ngày Anh Charles được ơn trở lại. Thời tiết cuối tháng 10 tại Paris khá lạnh đối với tôi. Nhưng nhà thờ trở nên ấp áp do số người đến cầu nguyện rất đông. Sau giờ cầu nguyện, là những phút nhắc nhớ lại kỷ niệm Anh Charles trở lại. Hồi đó, Anh Charles đã 23 tuổi. Bấy giờ Anh nổi tiếng do thời làm sĩ quan quân đội Pháp và sau đó làm người thám hiểm và viết sử. Càng nổi tiếng, Anh càng sống đời buông thả. Tới một thời, Anh trở thành người không còn tin đạo. Nhưng, là người thuộc loại trí thức, Anh tìm hiểu về Chúa qua nhiều sách. Có một lúc, Anh cảm thấy lòng quá bất an, Anh nói: “Nếu thực sự có Chúa, thì xin Chúa cho con nhận biết Ngài”. Rồi một hôm, theo gợi ý của bà chị họ, Anh tới nhà thờ thánh Augustinh. Vào đó, Anh gặp được cha Huvelin. Cha là linh mục đạo đức. Anh Charles tỏ ý bàn cãi với cha vài vấn đề tôn giáo. Cha dịu dàng trả lời: Ðức tin không đến qua cửa bàn cãi lý nọ lẽ kia, mà qua cửa khiêm nhường. Xin anh vui lòng quỳ xuống, sám hối để nhận ơn tha tội. Anh Charles bối rối, ngỡ ngàng. Nhưng sau cũng vâng lời. Anh quỳ trước toà giải tội. Ðược cha hướng dẫn, Anh xưng tội với hết lòng thành thật. Sau phút giây được giải tội, Anh cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm. Anh coi mình như người con hoang đàng được ơn trở về. Trở về từ khi lòng cảm thấy đói khát, và bỏ được sự kiêu căng. Anh hoàn toàn thuộc về Chúa, tự nguyện sống chiêm niệm và cảnh nghèo, bắt chước Chúa Giêsu Nadarét xưa. Anh vào dòng khổ tu Trappe. Ðược ít lâu, Anh được phép bỏ dòng. Sau đó, Anh được nhận làm người giúp việc cho các nữ tu Claristes. Không lâu sau, Anh được cha linh hướng khuyên tiếp tục đời khổ tu. Anh chịu chức Linh mục ngày 9/6/1901. Anh được phép trở về vùng đất nghèo của Phi châu, sống đời ẩn tu rất nghèo và chiêm niệm, trong sa mạc giữa những thổ dân nghèo mà Anh thương mến. Cuộc gặp gỡ ở Paris năm đó đã gieo vào lòng tôi những hạt giống tinh thần Anh Charles. Những hạt giống ấy dần dần mọc lên nhờ những gặp gỡ khác, đặc biệt là những gặp gỡ ở Rôma.
2/ Gặp gỡ ở Rôma Mỗi lần đến Rôma, tôi thường tìm dịp đến thăm nhà các chị tiểu muội. Nhà này ở Tre Fontane. Các chị sống tiếp nối tinh thần Anh Charles. Sức thu hút tôi đến nhà này là giá trị thiêng liêng. Ðó là đời sống nội tâm, cảnh nghèo và tình nghĩa. Cảnh nghèo ấy, tình nghĩa ấy, và đời sống nội tâm ấy ví như thứ hương thơm lạ, bốc ra từ những giờ chầu Thánh Thể, từ sự nhìn ngắm các di tích của Anh Charles, và từ những chia sẻ của các nhân chứng khắp nơi trở về. Chị nào cũng mang tu phục nghèo, với huy hiệu thánh giá đâm qua trái tim. Tôi không chuyên môn. Nhưng nhìn qua các chị, tôi có cảm tưởng tinh thần Anh Charles là bắt chước Chúa Giêsu: Yêu thương bằng tất cả trái tim, và yêu thương chấp nhận thánh giá, để làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mọi người, nhất là đối với lớp người nghèo khổ vùng sâu vùng xa, hiểu theo mọi nghĩa. Sống trong bầu khí đó, tôi nghĩ về Anh Charles. Anh đã sống cho tình yêu dâng hiến, và đã chết cho tình yêu tận hiến. Anh như con chiên hiền lành, mà tiên tri Isaia đã tiên báo xưa (x. Is 53,7), để có thể minh chứng hùng hồn Thiên Chúa là tình yêu. Anh như hạt lúa chấp nhận thối đi, để có thể sinh ra những sự sống mới. Không biết có phải vì cái nhìn đó không, mà tôi đã gặp được mùa xuân thiêng liêng rất cần cho tôi ở những vị tu lớn tuổi tại Tre Fontane, như Chị Magdeleine, Cha Voillaume. Chị Magdeleine ở đó thường xuyên. Cha Voillaume thỉnh thoảng tới đó. Những vị tu lớn tuổi này là những người của sa mạc. Sa mạc thổi ra luồng gió cầu nguyện và tình thương. Tôi tiếp tục nhận được luồng gió ấy từ những gặp gỡ nhỏ.
3/ Gặp gỡ ở biên giới Ðức Chiều hôm đó, một xe hơi chở tôi tới sân bay Mulhouse. Ðây là sân bay biên giới Ðức, cạnh biên giới Pháp và giáp ranh Thuỵ Sĩ. Tôi được người ta dành cho một phòng nhỏ hạng rẻ nhất của một khách sạn của sân bay. Vài giờ sau, một Giám Mục Pháp, bạn tôi, từ Paris tới bằng xe lửa. Ngài ở phòng cạnh phòng tôi. Sáng sớm hôm sau, một Ðức Ông người Ðức từ Freiburg Ðức cũng tới. Chúng tôi ba người, vốn là bạn thân, cùng muốn sống tinh thần Charles giữa đời hôm nay. Ðây là một nhóm rất nhỏ, nhưng đầy tình nghĩa. Nội dung trao đổi lần này là giúp nhau sống mầu nhiệm thánh giá. Ba anh em, ai cũng mang trách nhiệm nặng nề trong Hội Thánh. Chúng tôi nhìn vào thánh giá được vẽ trên trái tim trong ảnh Anh Charles. Riêng tôi, khi nhìn thánh giá ấy, tôi nghĩ đến câu giới thiệu trong lễ nghi thứ sáu tuần thánh. “Ðây là cây thánh giá, nơi treo Ðấng Cứu độ trần gian”. Theo tinh thần Anh Charles, chúng tôi chia sẻ cho nhau thánh giá, mà mình bị treo lên với Chúa Giêsu. Ðó là những vất vả, những phiền muộn, những đớn đau, những bệnh tật, những dư luận chỉ trích, vv... Mỗi người chúng tôi đều đã cảm được những đớn đau cách này, cách khác. Chúng tôi nhớ đến cái chết đau đớn âm thầm đầy can đảm của Anh Charles. Anh bị cướp bắn ngày 01/12/1916 tại Tamarasset (Hoggar), Algérie. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sống thế nào trong những trường hợp bị treo lên? Trước hết, chúng tôi nâng đỡ nhau bằng tình nghĩa chân thành. Thêm vào đó, chúng tôi sống tinh thần phó thác nơi Chúa tình yêu. Chúng tôi đọc đi đọc lại kinh Phó Thác của Anh Charles. “Lạy Cha, con phó thác mình con cho Cha, xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm chi mặc lòng, con cũng cảm ơn Cha...”. Tôi ngậm ngùi nhìn thánh giá của đời tôi, của các anh em tôi. Bị treo lên những thánh giá đó, chúng tôi không cô đơn. Tôi tin đó là nguồn suối chảy ra ơn cứu độ. *** Qua những gặp gỡ như vừa kể, tôi nhận được phần nào tinh thần tu đức của Anh Charles de Foucauld. Thực ra, tinh thần đó chỉ là đi theo những bước chân của Chúa Giêsu: Luôn hiện diện trước Chúa, luôn hiện diện gần gũi với con người, luôn hiện diện với nơi mình ở và với lịch sử nơi đó. Nhất là đừng quên hiện diện đối với những người trong cảnh nghèo khổ, bệnh nạn, cô đơn, bị bỏ rơi và thất vọng. Hiện diện với cảm thương, yêu thương, nhớ thương và đau thương chân thành tế nhị. Nguồn sức sống thiêng liêng là Thánh Thể, tình nghĩa giữa anh chị em, và phục vụ trong âm thầm. Anh Charles de Foucauld sống một đời nhiều chuyển biến. Ðời Anh kéo dài từ 15/9/1858 tới 1/12/1916. Phần lớn đời anh là ẩn dật, chôn vùi, nhưng rất gần gũi. Nay, khi anh được phong Chân phước, Chúa sẽ nhân lên ngàn vạn lần những người muốn sống như Anh. Họ đang rất cần cho Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Thiết tưởng việc phong Chân Phước cho Anh Charles chính là một tiếng Chúa gọi chúng ta. Ngày 27 tháng 3 năm 2005
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày lễ lớn đối với lịch sử dân tộc. Riêng đối với tôi, ngày đó ghi Bùi-Tuần 1662
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày lễ lớn đối với lịch sử dân tộc. Riêng đối với tôi, ngày đó ghi lại một kỷ niệm nhỏ, nhưng rất sâu đậm. Cho tới hôm nay, và mãi mãi, kỷ niệm ấy vẫn là một luồng gió thiêng thổi vào tu đức, mục vụ và truyền giáo đời tôi. Xin được phép chia sẻ. Kỷ niệm nhỏ nói đây là lễ tôi thụ phong Giám mục. Tôi được Toà Thánh chỉ định làm Giám mục phó giáo phận Long Xuyên. Tin đó tới Toà Giám mục Long Xuyên ngày 17/4/1975. Tình hình lúc đó rất sôi động. Nên Ðức Cha Micae, Giám Mục giáo phận, định tổ chức lễ thụ phong sớm, tức 01/5/1975. Sáng 30/4/1975, chiến tranh chính thức chấm dứt. Nhưng tình hình ở đây vẫn rối reng. Chẳng còn ai nghĩ tới lễ này. Ngài quyết định cử hành lễ thụ phong càng sớm càng tốt. Nên ngay sau trưa 30/4/1975 lễ thụ phong được cử hành.
1/ Nhận ra hình thức quy tụ nhỏ, đơn sơ, tập trung vào nội tâm Thánh lễ được cử hành tại nhà nguyện chủng viện thánh Tôma. Nhà nguyện vốn đã nhỏ, nhưng số người dự lễ càng nhỏ hơn. Chỉ chừng vài chục người. Rất âm thầm. Ðơn sơ tối đa. Nhưng sốt sắng vô chừng. Hình ảnh quy tụ này trở thành mô hình quy tụ cho đời mục vụ và truyền giáo của tôi. Quy tụ nhỏ, đơn sơ, nhẹ nhàng, thân mật, tập trung vào nội tâm. Chúng tôi gặp gỡ Chúa với hết tâm hồn. Những quy tụ nhỏ như thế sau này thường rất linh động. Quy tụ bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, dưới bất cứ hình thức nào. Di động, linh động và sống động. Giống thời Giáo Hội sơ khai, đầy ơn Chúa Thánh Thần. Quy tụ của thánh lễ ngày 30/4/1975 vẫn mãi là một lời nhắn nhủ tốt cho tôi. Nhờ đó, tôi nghĩ rằng: Ðạo từ nay phải nhẹ nhàng hơn, đi vào nội tâm nhiều hơn.
2/ Nhận ra trách nhiệm đi làm nhân chứng Những ngày trước lễ, 30/4, trong lễ và sau lễ, tôi chẳng bao giờ nghĩ: Mình thụ phong Giám mục là lên chức, nhưng đúng thực chỉ là nhận một trách nhiệm mới rất nặng. Trách nhiệm đi làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu trong chế độ mới. Xem ra cái gì cũng mới. Ðiều tôi cho là Tin Mừng và muốn làm chứng, thì thời điểm mới không cho đó là Tin Mừng. Tuy nhiên, khi Chúa sai tôi đi làm chứng cho Chúa Tình Yêu, thì Chúa cũng âm thầm cùng đi với tôi. Trong thánh lễ thụ phong, tôi xác tín điều đó. Những tháng ngày sau 30/4/1975, cho tới hôm nay, xác tín ấy càng thêm vững mạnh. Làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu là một nhu cầu, một trách nhiệm giữa xã hội Việt Nam mới. Tôi tin nhiều người cũng đã được Chúa sai đi như tôi. Mỗi người mỗi cách. Dù trong hoàn cảnh nào, Tin Mừng vẫn đang âm thầm đi vào lòng người. Bởi vì Chúa đồng hành với các nhân chứng của Người. Hơn nữa, chính nhân chứng phải thực sự có Chúa là Tin Mừng trong chính mình.
3/ Nhận ra việc cầu nguyện bằng đời sống Trong thánh lễ thụ phong âm thầm, tôi sớm nhận ra rằng: Từ nay, lời tôi nói, việc tôi làm, sẽ ít đi. Nhưng quan trọng nhất sẽ ở chỗ: Sự tôi là. Tôi phải là người có lửa yêu thương. Tôi phải là muối đất. Tôi phải là người có những cái nhìn thương xót. Tôi phải là người có nhạy cảm, biết khám phá ra những giá trị tốt nơi mọi người tôi gặp, dù người đó là ai, công giáo hay không công giáo, hữu thần hay vô thần. Tôi phải là người phản ánh phần nào hạnh phúc đã gặp được Chúa, mà tôi tôn thờ. Sự tôi là như thế chính là cầu nguyện bằng đời sống. Mà cầu nguyện bằng đời sống thì không nhất thiết phải trong nhà thờ, mà ở bất cứ đâu, ngay trong môi trường nghịch đạo.
4/ Nhận ra bổn phận phải hiện diện tích cực trong lịch sử của dân tộc Trong lễ thụ phong, một ý thức rất rõ đã hiện ra trong tôi. Ðó là từ nay, tôi phải hiện diện tích cực trong lịch sử dân tộc. Trong ý thức đó, tôi nghĩ tới 2 điều này cách riêng: Một là biết trân trọng những lương tâm tốt lành cao thượng đã là nguồn sức sống thiêng liêng, thúc đẩy những dấn thân cao quý, đem lại cho Quê Hương Việt Nam những giá trị cao cả. Hai là biết sống tám mối phúc, nhất là mối phúc thứ nhất đề cao sự sống khó nghèo. Sự sống khó nghèo nói đây sẽ để ý nhiều hơn đến sự chia sẻ số phận người nghèo, và cùng họ phấn đấu vượt qua từng bước những khổ đau của cuộc sống lo âu mất mát. Từ hai tư tưởng trên đây, đã phát sinh ra nhiều ý kiến khác dựa theo Phúc Âm. Nhất là ý kiến: Ðừng để mình và hàng giáo sĩ mình trở thành một giai cấp cai trị giữa đám dân nghèo. Những cảnh khổ nghèo của dân về mọi mặt vẫn mãi mãi nung nấu hồn tôi cho tới bây giờ. Cũng trong thánh lễ này, hoàn cảnh cụ thể cho tôi thấy một điều khác nữa.
5/ Nhận ra cách làm những việc lành nhỏ, nhưng với tình yêu tối đa Tình yêu tối đa phải đốt lên niềm hy vọng và ánh lửa Phục sinh. Việc lành nhỏ phải mặc áo khiêm tốn, tế nhị. Nếu không tỉnh thức, thì nhiều trường hợp, việc tôn giáo lại mang hình thức đề cao môn đệ Chúa một cách rầm rộ, còn Chúa thì bị che đi, mờ nhạt đi, quên hẳn đi. Mọi hình thức tự phô trương hay thích được tung hô sẽ tự đánh chìm con thuyền truyền giáo ra khơi. Những hình thức đó vốn không hợp ý Chúa. Chúng càng không hợp với thời điểm mới của xã hội Việt Nam, mà tôi đang bước vào. Tôi nhận ra những điều trên đây khá rõ ràng trong lễ thụ phong. Hôm đó thánh lễ rất khó nghèo, để nội bật lên niềm tin yêu tuyệt đối vào Thiên Chúa mà thôi. Sau cùng, tôi nhận ra một cách sâu sắc sự thực về tôi.
6/ Nhận ra mình rất yếu đuối Tôi rất yếu đuối về mọi mặt. Nên chỉ còn cách là phó thác nơi Chúa, cậy trông Ðức Mẹ, thánh cả Giuse và nhờ cậy mọi người xung quanh. Sự yếu đuối của tôi chính là một gánh nặng cho tôi. Tôi rất biết sự thực đau đớn đó. Vì thế, tôi hết sức bám chặt vào Chúa, như trẻ thơ tật nguyền, cô đơn, sợ hãi bám vào người mẹ. Tôi xin ơn đổi mới chính mình. Chúa không bỏ tôi. Tôi tạ ơn Người. Tôi yêu mến Người. Tôi bước theo Ðức Kitô, xin Người đổi mới tôi hằng ngày, để tôi trở về với Chúa Cha giàu lòng thương xót. Tôi luôn xin Chúa xoá tội cho tôi. Tôi luôn mong chờ sự tha thứ của mọi người sẽ dành cho tôi. Vì tôi rất yếu đuối, tội lỗi. *** Những nhận ra trên đây càng ngày càng trở nên xác tín nhờ những kinh nghiệm của từng ngày. Nay, hoàn cảnh đã đổi thay, nhiều lễ tôn giáo đã rất tưng bừng, long trọng, màu mè, thoải mái cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó nhiều hướng suy nghĩ mới đã phát sinh rộng rãi trong tu đức, mục vụ và truyền giáo. Cầu xin cho những chuyển biến đó được hợp ý Chúa. Thú thực là tôi chưa quen với những hướng mới ấy. Riêng đối với tôi, những “nhận ra” của tôi ngày thụ phong giám mục, 30/4/1975, vẫn mãi sống động trong tôi. Sau này, khi thấy Ðức Hồng Y Joseph Ratzinger nhấn mạnh đến sự mình hãy là chút muối bé nhỏ, và hãy có khả năng yêu thương thực nhiều, tôi càng xác tín những “nhận ra” ngày ấy là ơn Chúa. Tôi vẫn coi đó là những kỷ niệm của một thời để nhớ và để gẫm suy. Ðời Giám mục của tôi vẫn mãi là lễ thụ phong thuở ấy kéo dài. Ngày 01 tháng 4 năm 2005
Suốt chiều mồng 2 tháng 4 vừa qua, tôi bị một cơn đau khác thường. Lúc đó, tôi có cảm tưởng là Bùi-Tuần 1663
Suốt chiều mồng 2 tháng 4 vừa qua, tôi bị một cơn đau khác thường. Lúc đó, tôi có cảm tưởng là Chúa nhắc nhở hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Giáo Hoàng đang hấp hối. Bây giờ, Ngài đã ra đi. Bầu khí Hội Thánh ảm đạm, với những nỗi buồn, những nỗi lo và những nước mắt. Tôi nhớ về Ngài. Tôi cảm thấy có bổn phận phải nói đôi chút về Ngài. Tôi may mắn được gặp gỡ Ngài nhiều lần. Nhiều lần đồng tế với Ngài tại nhà nguyện riêng của Ngài. Nhiều lần yết kiến Ngài tại thư viện của Ngài. Nhiều lần được dùng bữa với Ngài tại bàn ăn của Ngài. Trong các gặp gỡ, tôi được nghe Ngài, và Ngài cũng lắng nghe tôi. Ở đây, tôi sẽ không kể những gì tôi đã nói với Ngài và những gì Ngài đã nói với tôi. Tôi chỉ xin phép bày tỏ vài cảm tưởng riêng tư của tôi về Ngài. Cảm tưởng của tôi sẽ chỉ hạn chế vào những công trình đổi mới của Ngài.
1/ Công trình đại kết Ðức Gioan Phaolô II rất thiết tha với việc đưa các Giáo Hội cùng tôn thờ Thiên Chúa gần lại với nhau. Các Giáo Hội này đã có thời loại trừ nhau kịch liệt. Bầu khí kình địch bớt dần, nhưng vẫn lạnh lùng tẻ nhạt trong những quan hệ đối với nhau. Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới là: Hướng đại kết. Ðức Gioan Phaolô II đã rất tích cực với hướng mới này. Hai văn kiện nổi tiếng của Ngài là “Xin cho mọi người nên một” ra ngày 25/5/1995, và “Ngàn năm thứ ba đang tới” ra ngày 10/11/1994 đã đánh thức nhiều lương tâm. Từ đó đã gây nên được nhiều dấn thân từ mọi phía. Thực sự, công trình của Ðức Gioan Phaolô II đã có phần nào kết quả. Nhưng đến nay nó vẫn còn là một công trình vĩ đại còn dang dở.
2/ Công trình tân Phúc-Âm-hoá Ðối với Ðức Gioan Phaolô II, có vẻ như: “Người ta sinh ra chưa là người. Người ta chỉ trở nên người nhờ được tân Phúc-Âm-hoá”. Những văn kiện về tân Phúc-Âm-hoá khá nhiều, khá rõ. Như “Hãy vào trong hy vọng”, “Mười tiêu chuẩn cho năm 2000”, “Phúc Âm của sự sống”. Ðức Gioan Phaolô II rất hăng say với công trình tân Phúc-Âm-hoá. Bằng những phương tiện mới, nhất là bằng nhiệt tình mới. Nhưng đang khi đó, lại xuất hiện nhiều giáo phái cũng hăng say không kém. Thêm vào đó, số người công giáo bước vào khối dửng dưng, bất cần đến Hội Thánh, cũng vẫn đông đảo, đến mức báo động. Phong trào tục hoá cũng đang cản mạnh việc tân Phúc-Âm-hoá. Vì thế công trình tân Phúc-Âm-hoá của Ðức Gioan Phaolô II cũng là một công trình vĩ đại, nhưng dang dở đậm màu xót xa.
3/ Công trình hiện diện Nhiều nước trước đây đa số dân còn theo đạo và giữ đạo sốt sắng, nay số đó chỉ còn mang tên đạo, mà không giữ đạo. Trong khi đó, nhiều tôn giáo khác, như Hồi giáo, Phật giáo, Tin Lành, Chính Thống, lại trở nên hấp dẫn hơn trong nhiều nước. Trước tình hình đó, Ðức Gioan Phaolô II muốn tăng cường sự hiện diện của Công giáo, bất cứ nơi nào có thể, bằng bất cứ phương tiện nào được phép. Như báo chí, đài phát thanh, việc thiết lập ngoại giao, các chuyến đi thăm của Ðức Giáo Hoàng, việc can thiệp của Toà Thánh vào các vấn đề xã hội, như vấn đề hoà bình, vấn đề hoà giải các nước, vấn đề nạn đói, vấn đề chống bất công vv... Công trình hiện diện này kể như khá thành công. Nhưng không thiếu những khó khăn. Như trường hợp nhiều người trí thức công giáo thời nay không dễ nhất trí với những gì Toà Thánh dạy trong lãnh vực luân lý. Trường hợp những phương tiện truyền thông hiện nay tiến rất mau, với những chương trình rất hấp dẫn, lôi kéo quần chúng một cách mạnh mẽ hơn đạo rất nhiều. Ngay cả việc từ thiện của Công giáo tại nhiều nơi cũng không dễ sánh kịp với việc từ thiện của những đạo khác. Vì thế công trình hiện diện của đạo Công giáo do Ðức Gioan Phaolô II chủ trương cũng là một công trình vĩ đại, nhưng còn dang dở.
4/ Công trình liên đới Công đồng Vatican II đã khơi mào cho việc mở rộng các dây liên đới về điều hành Hội Thánh. Những văn kiện “Ánh sáng muôn dân” và “Ðức Kitô” đã có những gợi ý khá rõ ràng. Sau đó, là những thượng Hội đồng các Giám mục từng châu lục, các Hội đồng giáo phận và các ban ngành được thành lập. Thêm vào đó là nhiều nhân sự của nhiều nước nhỏ nước nghèo cũng được mời vào giáo triều giữ những địa vị quan trọng. Ðó là những liên đới có tính cách dân chủ. Tuy nhiên, tích cách liên đới và dân chủ, nếu chỉ có thế, thì vẫn còn quá hẹp. Thực tế cho thấy: Nhiều nơi, thể chế được áp dụng vẫn là giáo sĩ trị. Phương trào giáo dân vẫn mong manh, và chưa được quan tâm đủ. Vì thế, có thể nói, công trình liên đới là một công trình cũng rất vĩ đại, nhưng còn dang dở.
5/ Công trình quan hệ với Việt Nam Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam là một ước mong mục vụ lớn của Ðức Gioan Phaolô II. Ðã có những tiến triển qua từng bước nhỏ. Càng ngày càng thấy những khó khăn được vượt qua dần dần. Nhiều dấu chỉ cho phép đoán được một tương lai tốt đẹp là điều sẽ tới. Công trình quan hệ này tuy thế vẫn còn dang dở.
Những dang dở trên đây có thể đã làm Ðức Thánh Cha đau đớn, không nhiều thì ít. *** Giờ đây, trong giây phút ngậm ngùi thương tiếc một người Cha, mà tôi được diễm phúc đón nhận rất nhiều, tôi chỉ nhắc qua vài nét đời Ngài. Chắc là còn rất thiếu. Nhưng hy vọng cũng nói lên được phần nào lòng hiếu thảo của một người bé mọn đau bệnh đang sống tận phương trời xa xôi. Những công trình vĩ đại còn dang dở chắc sẽ được tiếp nối, có thể bằng cách như trước, và rất có thể bằng cách khác, tuỳ Ðấng kế vị sắp được chọn. Toàn thể Hội Thánh sẽ cầu nguyện cho việc bầu chọn rất quan trọng này trong những ngày sắp tới. Hội Thánh đang đứng trước nhiều thách đố và nguy cơ mới. Nhưng đồng thời cũng đang có những thuận lợi mới. Xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta biết góp phần vào lịch sử Hội Thánh, bằng cách đổi mới chính mình trong Chúa Thánh Linh. Ngày 3 tháng 4 năm 2005
Cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một biến cố toàn cầu. Riêng đối với tôi, cái chết Bùi-Tuần 1664
Cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một biến cố toàn cầu. Riêng đối với tôi, cái chết của Ngài là một đánh thức. Thực vậy, cái chết của Ðức Gioan Phaolô II đã đánh thức trí nhớ tôi. Tôi nhớ lại những lần gặp gỡ Ngài. Những lần gặp gỡ đó đã để lại trong tôi những tâm tình phong phú. Hôm nay, khi nhớ lại kho tàng tâm tình đó, tôi thấy thế này: Ngài mang tên Gioan Phaolô, là tên hai thánh tông đồ. Nhưng không phải Ngài chỉ mang tên hai thánh tông đồ, mà thực sự Ngài cũng mang tâm tình của hai thánh tông đồ nổi tiếng. Xưa, hai thánh tông đồ Gioan và Phaolô đã có một số tâm tình của người môn đệ Chúa Giêsu. Ðức Gioan Phaolô II cũng có những tâm tình đó. Rồi Ngài lại chia sẻ cho tôi phần nào. Vậy, những tâm tình đó là gì? Tôi xin tóm gọn vào 3 tâm tình. Tâm tình thứ nhất là tạ ơn Chúa Xưa hai thánh tông đồ Gioan và Phaolô rất hay nói lên tâm tình tạ ơn Chúa. Ðức Gioan Phaolô II cũng vậy. Mỗi lần tôi trình bày với Ngài về tình hình giữ đạo và truyền giáo của địa phận Long Xuyên, Ðức Thánh Cha thường đón nhận bằng lời: Xin cảm tạ Chúa. Ngài tạ ơn Chúa, khi nghe tôi kể những êm xuôi bình thường. Ngài càng tạ ơn Chúa, khi nghe tôi kể những may mắn khác thường. Ngài rất tạ ơn Chúa, khi tôi kể những khó khăn mà Hội Thánh địa phương vẫn kiên trì và âm thầm vượt qua để làm chứng cho Tin Mừng trong yêu thương. Tâm tình tạ ơn Chúa là điều tôi học được từ nguồn hai thánh tông đồ qua Phúc Âm và qua Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Tâm tình thứ hai là lo âu về giáo đoàn Xưa, hai thánh tông đồ Gioan và Phaolô đã rất lo âu về các giáo đoàn của mình. Ðức Gioan Phaolô II cũng lo âu như vậy. Khi tôi giãi bày những lo âu của tôi về giáo phận Long Xuyên, về Hội Thánh tại Việt Nam, thì Ðức Giáo Hoàng tỏ ra rất đồng cảm. Ngài lắng nghe rất chăm chú những lo âu của tôi, nhất là những lo âu về cuộc sống dân nghèo và biết sống tốt với các tôn giáo bạn. Sự đồng cảm và sự chăm chú lắng nghe của Ðức Thánh Cha về những lo âu của tôi cho phép tôi nghĩ rằng: Ngài rất trân trọng những thao thức của người đứng đầu giáo đoàn. Ngài như học hỏi những tình hình có khó khăn, nhất là những khó khăn, mà bản thân Ngài chưa có kinh nghiệm. Như vậy, tâm tình lo âu về giáo đoàn là điều tôi cũng học được nhiều từ nguồn hai thánh tông đồ Gioan và Phaolô trong Phúc Âm và qua Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Tâm tình thứ ba là hy vọng Xưa, hai thánh tông đồ Gioan và Phaolô đã gởi đến những người và những nơi lo âu một sứ điệp lạc quan, đó là hãy hy vọng vào Ðức Giêsu Kitô. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng vậy. Tôi trình với Ngài về sự giáo phận Long Xuyên rất để ý đến phép Thánh Thể, đến việc học và suy niệm Lời Chúa, đến việc tập trung vào việc noi gương Ðức Kitô, sống khiêm nhường, yêu thương, hài hoà, luôn tìm thực thi thánh ý Chúa Cha. Nghe vậy, Ðức Thánh Cha hỏi: Kết quả ra sao? Tôi thưa: Kết quả là có sự đổi mới cá nhân và đổi mới tập thể. Ðức Thánh Cha rất vui mừng. Bởi vì Ngài rất tha thiết với việc Hội Thánh ngày nay cần phải trở về gắn bó với Ðức Kitô, là Ðấng cứu độ loài người. *** Ba tâm tình trên đây mà tôi vừa chia sẻ - Tạ ơn - Lo âu - Hy vọng vào Ðức Kitô Tôi đã nhận được rất nhiều từ Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Từ Ngài và từ Phúc Âm, tôi trở về tận nguồn các tông đồ xưa. Tôi nghĩ Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô là một đài tiếp vận trung thành sứ điệp các tông đồ. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta có một vị Giáo Hoàng hăng say truyền đạt truyền thống các tông đồ. Chúng ta cầu nguyện, để mỗi người chúng ta, tuỳ theo chức vụ và hoàn cảnh, cũng hãy là những đài tiếp vận trung thực của sứ điệp Phúc Âm tại địa phương này, mà chúng ta gắn bó, mến thương và phục vụ. Kinh nghiệm cho thấy: Khi truyền thống các tông đồ được chuyển đạt bởi những người ngồi trong một cơ chế quyền lực, thì dễ gì truyền thống đó không bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cơ chế. Nhất là, khi cơ chế đã là một bộ máy nặng nề phức tạp, thì nguy cơ biến chất đe doạ truyền thống Phúc Âm sẽ không nhỏ. Tôi thiết nghĩ: Bất cứ ai, khi ngồi vào ghế người lãnh đạo giáo đoàn, cũng sẽ làm việc trong một bộ máy có sẵn. Nên các ngài phải có một bản lãnh mạnh do Chúa Thánh Thần mới giữ được sự tự do truyền đạt chân lý trong sáng của Phúc Âm, giữa những khuynh hướng và áp lực khác nhau cũng như giữa những ý đồ lợi dụng khác nhau. Truyền đạt bằng lời nói thì dễ, nhưng truyền đạt bằng chính đời sống của mình là điều không dễ. Ngày 7 tháng 4 năm 2005
Hôm nay là kỷ niệm 30 Giám mục của tôi. Lễ kỷ niệm này được Ðức Cha Giuse, Giám mục giáo Bùi-Tuần 1665
Hôm nay là kỷ niệm 30 Giám mục của tôi. Lễ kỷ niệm này được Ðức Cha Giuse, Giám mục giáo phận, tổ chức trong bầu khí gia đình thân mật. Cảnh đơn sơ này cũng là ý nguyện của tôi. Nhân dịp này, tôi xin được phép tuyên xưng niềm tin của tôi. Tuyên xưng này cũng có thể được coi là tâm tình của một người đi trước, xin gởi lại những chủ chăn đi sau.
1/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm làm người canh gác vườn nho Chúa. Trách nhiệm này rất nặng. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn tỉnh thức. Các ngài hãy biết đón nhận và cộng tác vào ơn đó với lương tâm thao thức và khiêm nhường cầu nguyện.
2/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm làm người đầy tớ cung cấp lương thực cho tất cả mọi thành phần dân Chúa. Trách nhiệm này rất khó khăn. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn lo liệu. Các ngài hãy biết đón nhận và cộng tác vào ơn đó với tấm lòng thương xót đoàn chiên và cầu nguyện đầy tình phó thác.
3/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm người lái tàu dẫn những người thiện chí về bến thiên đàng. Trách nhiệm này rất hệ trọng. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn khôn ngoan. Các ngài hãy biết đón nhận và cộng tác vào ơn đó bằng ý chí tìm hiểu ý Chúa và cầu nguyện trong tâm hồn nghèo khó.
4/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm người làm chứng cho Chúa Giêsu là Tin Mừng cứu độ. Trách nhiệm này rất khẩn thiết. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn sáng suốt. Các ngài hãy biết đón nhận và cộng tác vào ơn đó bằng sự luôn đổi mới chính mình và tha thiết cầu nguyện.
5/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm ra khơi thả lưới. Trách nhiệm này rất thời sự. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn biết thời, biết người, biết cách. Các ngài hãy biết đón nhận và cộng tác vào ơn đó bằng những dấn thân và cầu nguyện kiên trì.
6/ Tôi tin rằng: Chúa trao cho các giám mục và linh mục trách nhiệm nêu gương sáng về sự đón nhận và cộng tác với ơn Chúa. Trách nhiệm này rất căn bản. Nhưng Chúa sẽ ban cho các ngài ơn biết mình và ơn thống hối. Nếu các ngài cầu nguyện với sự từ bỏ mình, thì không có gì mà không có thể điều chỉnh lại được. *** Trên đây là tuyên xưng niềm tin của tôi, một người rất yếu đuối. Niềm tin này nhấn mạnh đến sự đón nhận và cộng tác. Niềm tin này đúc kết từ nhiều kinh nghiệm. Tôi đã đi một quãng đường dài đầy gian nan, nhưng cũng đầy ơn Chúa. Xin gởi lại những kinh nghiệm đó cho lớp người đi sau. Tuyên xưng niềm tin trên đây là để cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Cùng với tâm tình biết ơn tất cả những ai đã nâng đỡ tôi trong suốt cuộc đời ơn gọi có rất nhiều bất ngờ. Rồi đời tôi sẽ kết thúc bằng bất ngờ sau cùng là niềm tin được ở bên Chúa mãi mãi đời đời sẽ thành sự thực một cách bất ngờ. Amen. Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 30 năm Giám Mục (30/4/2005)
Tin Ðức Hồng Y Ratzinger được bầu làm Giáo Hoàng không làm tôi ngạc nhiên. Ðiều làm tôi Bùi-Tuần 1666
Tin Ðức Hồng Y Ratzinger được bầu làm Giáo Hoàng không làm tôi ngạc nhiên. Ðiều làm tôi ngạc nhiên là Ðức Tân Giáo Hoàng lấy tên là Benedictô XVI. Ngạc nhiên này cho phép tôi suy đoán về đường lối Ðức Tân Giáo Hoàng sẽ áp dụng, để hướng dẫn Hội Thánh Chúa Kitô. Suy toán của tôi dựa trên những sách của Ngài, mà tôi đã đọc, và cũng dựa trên những trao đổi vắn tắt giữa Ngài với tôi trước đây. Ðường lối, mà tôi thấy Ngài hay tỏ bày rất rõ là: - Hội Thánh phải đi vào nội tâm nhiều hơn. - Hội thánh phải có tâm hồn bác ái nhiều hơn. - Hội Thánh phải nhẹ nhàng hơn. - Hội Thánh phải chú ý nhiều hơn đến tinh thần phụng vụ. Nhất là thánh lễ phải là nơi gặp gỡ Chúa Kitô, chứ không phải nơi để ý đến chủ lễ hay các lễ nghi bề ngoài. - Hội Thánh sẽ không được đổi mới bởi những cuộc hội nghị, ban bệ, mà bởi những người thực sự xác tín về đức tin và sống cuộc đời thánh thiện. - Hội Thánh không nên lấy làm lạ, nếu mình là thiểu số. Nhưng cần Hội Thánh hãy là muối cho đời. Ngoài ra, các Ðức Giáo Hoàng mang tên Benedictô đều rất để ý đến đời sống nội tâm và cởi mở. Hơn nữa, chính Thánh Benedictô càng là gương mẫu về đời tu. Ngài chủ trương đời hoạt động phải được hỗ trợ bằng đời cầu nguyện sâu sắc, chan hoà, bác ái. Với những gì tôi biết vắn tắt trên đây, tôi thiết nghĩ: Ðức Tân Giáo Hoàng sẽ chú trọng rất nhiều đến việc chỉnh đốn nội bộ Giáo Hội. Ngài chỉnh đốn theo truyền thống các tông đồ. Ngài sẽ chỉnh đốn một cách khiêm nhường, nhưng quyết đoán. Xin cầu cho Ngài. Ngày 19 tháng 4 năm 2005
Chúa dạy chúng ta nhiều bài học đạo đức. Một trong những bài học phải được coi là hết sức Bùi-Tuần 1667
Chúa dạy chúng ta nhiều bài học đạo đức. Một trong những bài học phải được coi là hết sức quan trọng cho chúng ta, đó là vâng theo ý Chúa. Vâng theo ý Chúa vốn là điều kiện căn bản của sự thánh thiện. Nên ta cần xem lại điều kiện đó nơi bản thân ta. Tháng Hoa kính Ðức Mẹ là một dịp thuận tiện. Ta xin Ðức Mẹ dạy ta biết coi việc vâng theo ý Chúa là một việc dâng hoa đẹp nhất, mà Chúa và Ðức Mẹ rất muốn ta thực hiện. Hơn nữa, việc vâng phục thánh ý Chúa đang rơi vào khủng hoảng, như Ðức Tân Giáo Hoàng Benedictô XVI đã cho thấy trong những băn khoăn lớn nhất của Ngài. Vì thế, ta càng có thêm lý do nhìn lại yếu tố đó nơi ta trong những giờ phút tĩnh tâm quý báu.
1/ Những lời vâng phục ý Chúa trong đời Ðức Mẹ Ðầu tiên, chính Ðức Mẹ nói lời “xin vâng” trong biến cố truyền tin. Phúc Âm thánh Luca kể: “Bấy giờ bà Maria nói: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chúa muốn Ðức Mẹ đón nhận Ngôi Lời vào lòng Mẹ. Nhưng Chúa không áp đặt ý muốn đó. Chúa đợi sự vâng phục tự do của Ðức Mẹ. Và Ðức Mẹ đã tự do nói lên sự vâng phục. Trong một biến cố khác có vẻ không vui, đó là biến cố Hài nhi Giêsu ở lại trong đền thờ, mà cha mẹ không biết. Khi tìm thấy Chúa, chính Ngài lại nhắc lại sự vâng phục thánh ý Chúa Cha là ưu tiên. Cũng Phúc Âm thánh Luca thuật lại lời đó: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận vâng lời Cha con sao?” (Lc 2,49). Một trường hợp khác có vẻ hơi căng, Chúa Giêsu cũng lại nhắc cho Ðức Mẹ vâng phục ý Chúa Cha theo một hướng khác rộng hơn. Phúc Âm thánh Matthêu kể: “Chúa Giêsu còn đang nói với đám đông, thì có Mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: Thưa Thầy, có Mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy. Người liền đáp lại: Ai là mẹ tôi? ai là anh em tôi?. Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành thánh ý Cha tôi, Ðấng ngự trên trời, thì người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,46-50). Diễn tiến ba trường hợp trên đây cho phép ta nghĩ rằng: Ban đầu, Ðức Mẹ nói lời xin vâng một cách đơn sơ. Nhưng dần dần Chúa cho Ðức Mẹ thấy: Xin vâng ý Chúa là điều không dễ. Ý Chúa nhiều khi rất khác ý loài người. Thánh ý đó không những rất khác ý loài người, mà có khi còn trái ngược lại. Thấy được ý Chúa là điều khó. Thấy rồi mới là một bước. Còn thực thi ý Chúa, mà mình đã thấy, lại là một bước đòi nhiều từ bỏ đớn đau. Tình hình khó khăn đó mới được Ðức Thánh Cha Benedictô XVI mô tả vắn tắt.
2/ Ðức Giáo Hoàng và thánh ý Chúa hiện nay Khi khai mạc Cơ mật viện, Ðức Hồng Y Ratzinger, nay là Ðức Giáo Hoàng Benedictô XVI, đã nhìn thấy thánh ý Chúa hiện nay dành cho những ai có trách nhiệm hướng dẫn Hội Thánh. Thánh ý Chúa là các ngài phải nhìn rõ và phải nói rõ cảnh bi đát hiện nay về đạo đức và cách giải cứu. Bởi vì con tàu này đang bị tấn công bởi nhiều loại sóng phản thánh ý Chúa. a) Cảnh bi đát Ngài nói: “Con thuyền nhỏ tư duy của nhiều Kitô hữu đã thường bị đánh bởi những đợt sóng này - trôi dạt từ thái cực này sang thái cực khác: từ Mác-xít tới chủ nghĩa tự do, tới mức chủ nghĩa tự do phóng túng; từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân; từ chủ nghĩa vô thần tới chủ nghĩa duy huyền bí tôn giáo mơ hồ; từ chủ nghĩa vô tín đến chủ nghĩa hỗn tạp và vv... Nhiều giáo phái mới được đẻ ra mỗi ngày và xảy ra điều mà thánh Phaolô đã nói về sự lường gạt con người và sự tinh quái nhắm lôi kéo con người đến chỗ lầm lạc (x. Ep 4,14). Có một đức tin rõ ràng, theo kinh Tin Kính của Giáo Hội, lại bị gán cho nhãn hiệu cuồng tín. Trong khi chủ nghĩa tương đối, nghĩa là để chính mình 'bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý' dường như lại là cách thức hành xử duy nhất thức thời. Người ta đang thành lập một chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối, nó không nhìn nhận điều gì là chung kết và để cho cái tôi và ý muốn của mình là mẫu mực duy nhất”. Nhìn thấy cảnh bi đát đó rồi, Ðức Thánh Cha đưa ra cách giải cứu, đó là trở về với Ðức Kitô. b) Cách giải cứu Ngài nói: “Chúng ta có một mẫu mực khác, đó là Con Thiên Chúa, là người thật. Ngài là thước đo của chủ nghĩa nhân bản đích thật. Ðức tin 'trưởng thành' không phải là một đức tin trôi theo những làn sóng thời thượng hay mốt mới. Ðức tin với vóc dáng đầy đủ và trưởng thành là một đức tin ăn rễ sâu xa nơi tình bằng hữu với Chúa Kitô. Ðó là tình bằng hữu mở lòng chúng ta cho tất cả những gì là thiện hảo và cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân biệt giữa đúng và sai, giữa giả trá và chân thật. Chúng ta phải đạt đến mức trưởng thành trong đức tin chín chắn này và chúng ta phải hướng dẫn đàn chiên Chúa đến với đức tin này. Và đó là đức tin - và chỉ có đức tin ấy kiến tạo sự hiệp nhất được thực hiện trong đức bác ái. Về vấn đề này, thánh Phaolô mang lại cho chúng ta những lời thật đẹp trái với những lời vòng vo lên xuống của những kẻ như trẻ thơ bị vùi dập theo làn sóng. Ngài nói hãy thực thi chân lý trong tình bác ái, vì đó là công thức căn bản cho sự hiện hữu Kitô giáo. Chân lý và yêu thương đồng quy nơi Ðức Kitô. Chân lý và bác ái đồng nhất với nhau tuỳ theo mức độ gần gũi của chúng ta với Chúa Kitô trong cuộc sống của chúng ta. Tình yêu mà không có chân lý chỉ là tình yêu mù quáng; chân lý mà không có yêu thương chỉ là 'não bạt phèng la' mà thôi” (1 Cr 13,1). 3/ Áp dụng bài học vâng ý Chúa Những dòng trên đây về sự vâng phục ý Chúa là rất thời sự. Chúng ta ý thức điều đó. Ðiều cần thiết liền sau là thực thi áp dụng. Về thực thi áp dụng, tôi xin nêu lên hai gợi ý sau đây: 1) Ðể tập trung vào Ðức Kitô, trước hết chúng ta nên để ý hết sức vào 3 việc: Dâng thánh lễ, suy niệm Thánh ngôn, đi đàng thánh giá. - Hãy dâng thánh lễ thực sốt sắng. - Hãy suy niệm Lời Chúa và giảng Lời Chúa một cách nghiêm túc. - Hãy sống mầu nhiệm thánh giá bằng sự từ bỏ mình và thực thi những việc hãm mình hằng ngày, nhất là trong lãnh vực bác ái. 2) Chúng ta gắn liền việc tôn sùng Ðức Mẹ vào việc cùng với Mẹ đi theo Ðức Kitô. Luôn nuôi dưỡng đời sống nội tâm bằng sự sống Chúa Giêsu. Bởi vì “Người là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Người là thân cây nho, chúng ta là cành” (Ga 15,5). Phải yêu mến Ðức Mẹ với đức tin trưởng thành là: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi” (Gl 2,20). Như vậy, ta hy vọng sẽ sống trong nguồn chân lý và yêu thương, để nếp sống đạo của ta sẽ là một niềm vui và sẽ là một loan báo Tin Mừng cho người xung quanh. Ngày 20 tháng 4 năm 2005
Ðức Tân Giáo Hoàng được nhiều người biết đến. Ngài trí thức, đạo đức. Phần đông an tâm về Bùi-Tuần 1668
Ðức Tân Giáo Hoàng được nhiều người biết đến. Ngài trí thức, đạo đức. Phần đông an tâm về Ngài. Một phần không nhỏ lo lắng cho Ngài. An tâm cũng có lý do. Lo lắng càng có lý do. Riêng Ngài thì chọn con đường thánh ý Chúa: Lắng nghe ý Chúa, làm theo ý Chúa. Ðược thế, thì sẽ an tâm. Nhưng tôi thiết nghĩ, luôn nghe được ý Chúa, và luôn làm đúng ý Chúa là điều Ngài cũng phải lo lắng rất nhiều. Tôi nghĩ vậy, một phần vì có kinh nghiệm bản thân, một phần vì thấy những dấu tích còn để lại trong lịch sử các vị lãnh đạo Hội Thánh, nhưng nhất là vì nhìn vào thánh tông đồ Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi. Thánh Phêrô là đấng rất thánh. Không phải Ngài thánh vì lúc nào cũng hiểu được ý Chúa và lúc nào cũng thi hành đúng ý Chúa. Nhưng Ngài thánh, vì khiêm tốn nhận mình yếu đuối, có những sai lầm, nên thống hối với tất cả lòng yêu Chúa thiết tha. Kinh Thánh không giấu giếm những lỗi lầm của Ngài. Tôi xin lướt qua, để cho thấy chính thánh Phêrô dạy ta: Hiểu được ý Chúa là điều không dễ, làm theo ý Chúa càng là điều không dễ.
1/ Thánh Phêrô lầm, khi cản Thầy mình chọn con đường thương khó Phúc Âm thánh Matthêu kể: “Từ lúc đó, Ðức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra ngoài và bắt đầu can trách Người: ‘Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy phải gặp chuyện ấy’. Nhưng Ðức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: ‘Satan! Hãy lui lại đàng sau Thầy. Con cản lối Thầy. Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,21-23). Ta thấy đó. Tư tưởng của thánh Phêrô đâu có gì là tội lỗi đâu! Thế mà Chúa Giêsu đã bác bỏ một cách nghiêm khắc. Chỉ vì tư tưởng đó không hợp với ý Chúa. Từ chuyện trên đây ta có thể đoán được rằng: Ðã có những tư tưởng, lời nói và việc làm của cá nhân ta, hoặc của tập thể ta, tưởng rằng đẹp ý Chúa, nhưng thực sự lại bị Chúa bác bỏ. Thánh ý Chúa nhiều khi rất khác ý ta.
2/ Thánh Phêrô lầm, khi chủ quan cho mình là mạnh Phúc Âm thánh Marcô kể: “Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông: ‘Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em’. Ông Phêrô liền thưa: ‘Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không’. Ðức Giêsu nói với ông rằng: ‘Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy 2 lần, thì chính con, con sẽ chối Thầy đến 3 lần’. Nhưng ông Phêrô lại quả quyết hơn: ‘Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14,26-31). Qua những lời thánh Phêrô quả quyết, ta thấy lòng Ngài rất yêu mến Thầy mình. Nhưng Ngài chủ quan tưởng rằng tình mến đó không gì lay chuyển nổi. Chúa Giêsu cảnh báo. Nhưng Phêrô vẫn giữ nguyên ý định tự hào của mình. Ngài cũng có vẻ cho rằng: ý định tự hào đó là đẹp ý Chúa, làm sáng danh Chúa. Nhưng Ngài đã sai lầm thê thảm. Trong lịch sử đời ta và đời Hội Thánh, cũng có những tư tưởng, lời nói, việc làm tự đắc, tự hào, tưởng chắc là đẹp ý Chúa. Nhưng sau đã sụp đổ tan tành. Sụp đổ rồi mới nhận ra sự dại dột của mình thì đã quá muộn.
3/ Thánh Phêrô lầm, khi không tỉnh thức Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rằng: Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ xuống đất cầu nguyện, lòng đầy xao xuyến, hãi hùng. Ngài bảo Phêrô và những môn đệ đi theo chịu khó canh thức với Ngài. “Khi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, Người liền nói với Phêrô: Simon, con ngủ sao? Con không thức nổi một giờ sao? Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,37-38). Tôi nghĩ rằng: Chúa Giêsu biết, cho dù buồn ngủ, người ta vẫn có thể thức, khi biết cảm thông với Ngài đang đau khổ, và khi đoán được một biến cố cực kỳ bi đát sắp xảy ra. Nhưng thánh Phêrô đã không như thế. Mặc dầu không có ác ý, nhưng sự thiếu tỉnh thức của Ngài cũng đã là điều sai ý Chúa, gây nên gương mù cho các thế hệ đi sau. Trong đời người môn đệ Chúa của ta và lịch sử Hội Thánh của ta, sự thiếu tỉnh thức là một thiếu sót dễ xảy ra. Có thiếu sót gây tai hoạ nhỏ. Có thiếu sót gây tai hoạ lớn. Ngay hiện nay, sự tỉnh thức nghe được ý Chúa trong thời sự, và phân biệt được ý Chúa trong các kế hoạch coi như đạo đức, vẫn là điều chẳng dễ.
4/ Thánh Phêrô lầm, khi nhẹ dạ dấn thân vào môi trường đầy nguy hiểm Phúc Âm thánh Luca kể: “Họ bắt Ðức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và ngồi quanh với nhau. Ông Phêrô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: ‘Cả bác này nữa cũng đã ở bên ông ấy đấy’. Phêrô liền chối: ‘Tôi không biết ông ấy đâu’. Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: ‘Cả bác này nữa, bác cũng thuộc bọn chúng’. Ông Phêrô đáp: ‘Này anh, không phải đâu’. Chừng một giờ sau có người khác lại quả quyết: ‘Ðúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê’. Nhưng ông Phêrô trả lời: ‘Này anh, tôi không biết anh nói gì’. Ngay lúc Phêrô còn đang nói, thì gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Thầy đã bảo ông: ‘Hôm nay, khi gà chưa kịp gáy, thì con đã chối Thầy 3 lần’. Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Lc 22,54-62). Mẩu đời trên đây của thánh Phêrô là một bài học cho chúng ta. Ngài cứ chủ quan, dấn thân vào một môi trường nguy hiểm, với ảo tưởng việc mình làm là tốt, sẽ an ủi Chúa Giêsu. Nhưng rõ ràng ý Ngài không hợp với ý Chúa. Nên kết quả rất bẽ bàng. May mà Ngài đã thống hối. Thống hối ăn năn mới chính là việc hợp thánh ý Chúa. *** Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi là người rất mến Chúa Giêsu và rất quyết tâm đi theo Chúa Giêsu. Nhưng không vì thế mà Ngài đã tránh được những yếu đuối và những sai lầm. Thiết tưởng, đây cũng là một bài học cho những người được Chúa trao trọng trách kế vị thánh Phêrô, hoặc chia sẻ phần nào trọng trách đó. Xin hãy cầu nguyện rất nhiều cho Ðức Giáo Hoàng. Xin cũng đừng quên cầu nguyện cho các Ðức Giám Mục và các linh mục là những người cộng tác với Ngài. Nên luôn nhớ rằng: Tình hình trong đạo ngoài đời hiện nay rất phức tạp. Phải cầu nguyện nhiều và luôn tỉnh thức, mới trông được ơn sống theo ý Chúa. Ngày 6 tháng 5 năm 2005
Một trong những điều tôi thường xuyên mong muốn là được bình an. Mọi thứ bình an đều quý Bùi-Tuần 1669
Một trong những điều tôi thường xuyên mong muốn là được bình an. Mọi thứ bình an đều quý. Nhưng đối với tôi, thứ bình an quý nhất là thứ bình an do chính Chúa Giêsu ban. Xưa Chúa Giêsu đã chúc bình an cho các môn đệ, mỗi khi Người hiện ra. Tôi tin những người Chúa yêu đều được Chúa chúc như vậy. Chúa chúc bình an là Chúa ban bình an. Tôi nghĩ mọi người chúng ta đã có phần nào cảm nghiệm về sự bình an đó trong chính mình. Ðể dễ nhận ra ơn bình an Chúa ban, hôm nay tôi xin tạm diễn tả vài đặc điểm. Ðặc điểm thứ nhất là ta thấy mình được thúc đẩy sám hối, và tin vào Chúa Giêsu nhiều hơn Dựa theo sách Tông đồ Công vụ, tôi có cảm tưởng này: Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phêrô ra giảng cho dân. Họ như nhận được một sự bình an mới lạ. Vì Lời Chúa là nguồn bình an. Họ hỏi thánh Phêrô: Chúng tôi phải làm gì? Ngài thưa: “Anh chị em hãy thống hối, chịu phép rửa nhân danh Chúa Kitô” (Cv 2,38). Vâng lời thánh Phêrô, họ thống hối và tin vào Chúa Giêsu. Kết quả là họ cảm thấy sự bình an tâm hồn họ tăng lên, như đắm chìm trong Chúa bình an. Ðây là hiện tượng tôi đã gặp thấy trong tôi và trong nhiều người. Bình an đầu tiên của Chúa là kêu gọi chúng ta sám hối và tin vào Chúa. Nếu chúng ta đáp lại bằng sự thực thi những điều đó, thì sự bình an của Chúa sẽ tràn ngập lòng ta. Ta sẽ nhận ra mình bé nhỏ, yếu đuối. Ta sẽ nhận ra Chúa là tình yêu thương xót vô bờ vô bến. Nhờ nhận ra như vậy, nếu ta bệnh nạn, hèn yếu, ta càng sẽ được đi vào sự bình an sâu thẳm. Ðặc điểm thứ hai là ta thấy mình được thúc đẩy yêu thương người khác một cách quảng đại hơn và cụ thể hơn Kinh Thánh có kể một chuyện nhỏ khiến tôi thường hay suy nghĩ. Chuyện kể rằng: Một hôm, Chúa Giêsu vào thăm nhà một người thu thuế tên là Dakêu. Chúa ở lại đó dùng bữa chung với gia đình ông. Cử chỉ của Chúa được kể là một sự chúc bình an cho gia đình ông. Ðược ơn bình an đó, ông Dakêu tự nhiên không những cảm mến Chúa, mà còn cảm thấy có trách nhiệm yêu thương đồng bào mình. Ðể cụ thể hoá lòng thương yêu đó, ông thưa với Chúa rằng: “Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi xin phân phát cho người nghèo. Và nếu tôi đã làm hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Câu chuyện trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Khi người ta được ơn bình an thực sự của Chúa, người ta sẽ nhận ra trách nhiệm phải thương người như Chúa đã thương yêu mình. Thương một cách quảng đại. Thương một cách cụ thể. Ðiều tôi nghĩ như thế đã thấy xảy ra nơi nhiều người xung quanh tôi. Nhờ nhận được sự bình an của Chúa, họ có những tình cảm thấm thía đối với đồng bào. Họ có những việc làm cụ thể chân tình đối với những người nghèo túng. Họ cho đi thực sự. Họ chia sẻ thực sự. Cho du họ già cả, bệnh tật, nhiều khi họ lại có khả năng cho đi nhiều hy sinh, phục vụ và chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu hơn những người trẻ và mạnh khoẻ. Ðặc điểm thứ ba là họ cảm thấy mình được thúc đẩy mạnh mẽ tìm về hạnh phúc sau cùng Theo Kinh Thánh, tôi thấy rằng: Trên núi Calvariô, người bị đóng đinh bên hữu Chúa Giêsu, khi vừa được Chúa ban ơn bình an, anh đã vội cầu xin được về với Chúa. Anh cho đó là ơn cần thiết nhất, ơn quý nhất. Chúa Giêsu lập tức đã hứa ban cho anh ơn đó: “Chính hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43). Ta thấy đó, anh trộm lành đã biết đón nhận ơn bình an của Chúa. Anh đã sử dụng ơn đó một cách rất khôn ngoan. Anh chỉ xin ơn sau này được ở bên Chúa. Anh coi ơn đó là hạnh phúc quý trọng nhất. Chúa Giêsu đã ban cho anh như lời anh xin. Biết bao người cũng đã có phán đoán khôn ngoan như anh trộm lành. Họ đã biết dùng những phút bình an trong đau khổ, để tìm về với Chúa một cách dứt khoát, vững bền. *** Xem qua 3 đặc điểm trên đây, chúng ta có thể nhận ra mình có sự bình an của Chúa không. Ơn bình an của Chúa là một tiếng gọi. Tiếng gọi hãy sám hối và tin tưởng vào Chúa. Tiếng gọi hãy dấn thân phục vụ con người. Tiếng gọi hãy nhắm tìm hạnh phúc sau cùng được ở bên Chúa. Tôi muốn nhấn mạnh đến 3 đặc điểm đó, để chúng ta dễ phân biệt sự bình an của Chúa với những thứ bình an khác. Bởi vì có những bình an mong manh, giả tạo, phù du. Chúng thúc đẩy người ta đi vào những cái xấu. Ðó là sự thực phũ phàng, mà nhiều người đã từng cảm nhận. Riêng những vị lão thành, những người bệnh tật, yếu đau lâu ngày, thường đã có một cảm nghiệm khác. Họ đã phần nào nếm được hạnh phúc của sự bình an Chúa ban cho họ. Ðó là hạnh phúc được Chúa thương yêu, hạnh phúc được Chúa chọn để dâng đời mình làm của lễ góp phần vào chương trình cứu độ, hạnh phúc được theo Chúa Giêsu vượt qua cuộc thương khó, để được phục sinh vinh hiển. Chúng ta hãy cầu nguyện để biết đón nhận ơn bình an của Chúa do Lời Chúa, do các bí tích, do các người đạo đức, nhất là do việc ta tận tuỵ chăm sóc thương yêu những người bệnh nạn, già yếu, khổ cực. Hãy tin rằng: Chăm sóc họ chính là chứng từ ta mến Chúa.. Ngày 11 tháng 5 năm 2005
Nhà thờ chúng ta hôm nay mang những vẻ đẹp khác thường. Vẻ đẹp khác thường đó là có Bùi-Tuần 1670
Nhà thờ chúng ta hôm nay mang những vẻ đẹp khác thường. Vẻ đẹp khác thường đó là có rất đông cụ ông cụ bà, có rất đông bệnh nhân, đến tham dự thánh lễ. Thêm vào vẻ đẹp trên đây, còn có vẻ đẹp khác. Ðó là sự hiện diện thân tình của lớp người trẻ, và lớp con cháu, đến chăm sóc các bệnh nhân và các vị già cả. Tôi có cảm tưởng: Ðây là một gia đình cầu nguyện trong bầu khí yêu thương, chan hoà. Chúa Thánh Thần đang ngự xuống trên chúng ta. Chúng ta khiêm tốn đón nhận Ngài. Trong tinh thần tin mến, chúng ta hãy xin Ngài những gì chúng ta cần cho cuộc sống hôm nay. Tất nhiên chúng ta cần nhiều sự. Nhưng thiết tưởng, sự chúng ta cần hơn cả là sự bình an. Có nhiều thứ bình an. Nhưng thứ bình an quý giá nhất và quan trọng nhất, chính là thứ bình an của Chúa. Bình an của Chúa hệ tại sự gì? Thưa hệ tại sự ta thi hành thánh ý Chúa. Thi hành trong tư tưởng, trong tình cảm, trong ý muốn, trong lời nói, trong thái độ, trong việc làm. Nhiều trường hợp, khi thi hành thánh ý Chúa như vậy, chúng ta sẽ phải hứng chịu đủ thứ đớn đau gây nên cho ta do nhiều phía. Tôi thí dụ: Cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là cái chết quá đớn đau nhục nhã. Ðám tang của Chúa Giêsu là một đám tang quá cô đơn, âm thầm, thê thảm. Nhưng, vì Chúa Giêsu đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, khi chọn cho mình cái chết ấy và đám tang ấy, nên Người đã đem lại sự bình an cứu độ cho ta và cho bao người. Tôi vừa nói: Sự bình an Chúa Giêsu ban cho ta là sự bình an cứu độ. Sự bình an cứu độ là sự bình an cứu ta khỏi xa Chúa, khỏi mất Chúa, nhưng đem ta lại gắn bó với Chúa là hạnh phúc của ta, là mục đích đời ta. Sự bình an cứu độ là sự bình an cứu ta khỏi sự an nhàn ích kỷ và giả tạo, để đưa ta dấn thân vào những việc phục vụ người khác một cách chân thành với nhiều sáng kiến. Sự bình an cứu độ là sự bình an cứu ta khỏi hoả ngục, nhưng đưa ta vào thiên đàng. Hằng ngày, tôi có thói quen liếc nhìn sơ qua tình hình đời đạo tại Việt Nam nói chung và tại địa phương ta nói riêng. Tôi thấy có hai loại phát triển: Một là loại phát triển tích cực. Hai là loại phát triển tiêu cực. So sánh hai loại phát triển đó, nhiều khi tôi thấy loại phát triển tiêu cực là khá mạnh. Do đó, tôi rất lo âu cho sự bình an của Ðất Nước Việt Nam và của Hội Thánh Việt Nam. Nhưng, tôi vẫn hy vọng. Bởi vì chúng ta có sự bình an của Chúa. Trong sự bình an của Chúa, mọi người chúng ta, dù trẻ hay già, dù khoẻ mạnh hay bệnh tật, chúng ta ai cũng đều là những người có ích. Riêng những bậc cao tuổi và những người yếu đau bệnh tật, các ngài vẫn có thể dùng sự bình an của Chúa, để làm ích cho Hội Thánh. Nhiều khi kết quả còn hơn nơi những người trẻ và khoẻ mạnh. Kinh nghiệm lịch sử vẫn làm chứng điều đó. Với hết lòng tin tưởng, chúng ta cầu xin và đón nhận sự bình an cứu độ từ Chúa Thánh Thần. Bài giảng thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống dành cho các bệnh nhân và già cả tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 15/5/2005
Ít lâu nay, tại nhiều nơi, đạo đức xuống, tệ nạn tăng. Nhiều lý do được đưa ra để cắt nghĩa thảm trạng Bùi-Tuần 1671
Ít lâu nay, tại nhiều nơi, đạo đức xuống, tệ nạn tăng. Nhiều lý do được đưa ra để cắt nghĩa thảm trạng này. Một trong những lý do thường được nhắc tới, đó là nhiều người nay không còn biết sợ. Không sợ tội, không sợ lương tâm. Không sợ luật pháp. Không sợ bất cứ ai. Không sợ có thưởng phạt đời sau. Cũng có người lạm dụng một lời Chúa Giêsu trấn an các môn đệ của Người xưa: “Ðừng sợ”. Họ chủ trương: “Chính Chúa cũng dạy đừng sợ Chúa, thế thì còn gì phải sợ”. Tất nhiên đó là nguỵ biện. Trên đây tôi chỉ lướt qua một tình hình mà tôi cho là đáng sợ, vì sẽ dẫn tới những xáo trộn, mang tiềm năng bùng nổ mọi thứ tự do phá hoại. Riêng trong lãnh vực đạo đức Phúc Âm, tôi thấy phải biết sợ Chúa. Ðó là điều cần được giáo dục. Biết sợ Chúa là điều cần được giáo dục Khi tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi thường dạy tôi: “Con hãy luôn nhớ Chúa trước mặt”. Giáo dục của bà mẹ quê chỉ đơn sơ thế thôi. Nhưng đã ảnh hưởng sâu đậm suốt cuộc đời tôi. Sau này, khi được học Kinh Thánh, tôi thấy nhiều chỗ đã nhấn mạnh rất nhiều đến điều mẹ tôi đã dạy. Chẳng hạn những lời sau đây: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 110,10). “Kính sợ Chúa sẽ được an toàn kiên vững, Người là nơi ẩn náu cho con cái Người. Kính sợ Chúa là nguồn sự sống, Giúp ta tránh được cạm bẫy tử thần” (Cn 14,26-27). “Con hãy sống công chính và kính sợ, và hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách” (Hc, Sir 2,1-13). Cùng với Kinh Thánh, sách Giáo Lý Hội Thánh cũng dạy sự kính sợ Chúa là một ơn của Chúa Thánh Thần. Từ ơn đó đã nảy sinh ra bổn phận kính trọng và vâng lời cha mẹ (Sách GLCG số 2217). Hiện giờ, đối với tôi, càng thêm tuổi và càng thêm đau yếu, tôi càng cảm thấy sự kính sợ Chúa là một ơn Chúa ban, để tôi sống Tin Mừng một cách rộng mở trong một khung cảnh như mỗi ngày mỗi thêm khép lại. Xin diễn tả mộc mạc vắn tắt. Không gian tuổi già với ơn kính sợ Chúa Trước đây, không gian của tôi kể được là bao la. Tôi có thể di chuyển khắp giáo phận, khắp nước và hầu như khắp thế giới. Bây giờ không gian ấy co lại dần dần. Ðến mức chỉ còn căn phòng mình là chính. Cái hè, cái sân cùng chỉ là không gian phụ. Một vài họ đạo cách vài cây số đã trở thành quá xa. Không gian hẹp dần lại. Tất nhiên hậu quả tâm lý nơi tôi cũng sẽ hẹp lại. Ðến mức cô đơn được cảm nhận như quê hương bắt buộc của mình. Nhưng, nhờ kính sợ Chúa, tôi đón nhận thánh ý Chúa một cách bình an. Nhất là khi sự kính sợ Chúa được cảm nghiệm như một tình cảm kính yêu lẫn với kính sợ. Không gian vật chất hẹp lại, nhưng không gian tâm lý mở rộng ra. Bớt tiếp xúc với không gian vật chất là một dịp thuận lợi để thêm tiếp xúc với Chúa hiện diện bên mình. Tiếp xúc với Chúa trong cầu nguyện, chiêm niệm, tôi thấy Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng cao sang, còn mình thì vô cùng tội lỗi, vô vàn bất xứng, hèn mọn. Nhận thức đó càng ngày càng sâu. Cảm thức kính sợ Chúa cũng càng ngày càng chân thực. Nhưng, khi ơn kính sợ Chúa giúp con người trở nên bé nhỏ, thơ ấu, thì sự kính sợ trở thành kính yêu. Nó làm cho mình chỉ sợ một điều này hơn nhất, đó là sợ xa Chúa, sợ mất Chúa. Vì đối với mình, chỉ Chúa là hạnh phúc và cùng đích sau cùng của mình mà thôi. Sau yếu tố không gian là yếu tố thời gian. Thời gian tuổi già với ơn kính sợ Chúa Trước đây, đối với tôi, thời gian rất thay đổi. Thay đổi do công việc đổi thay. Ngày trước khác ngày sau. Tháng sau khác tháng trước. Công việc tiếp nối, dồn dập, với nhịp sống vươn lên. Bây giờ, thời gian như mòn mỏi. Sự sống như lá úa chờ rụng xuống. Công việc quan trọng nhất mỗi ngày xem ra chỉ là nhớ uống thuốc. Giờ này phải uống những thứ thuốc nào, giờ kia phải dùng những món thuốc kia. Thời gian như dòng chảy cô đơn. Nó hay đưa người già trở về quá khứ. Trở về quá khứ, thì khám phá ra nhiều cái phù du, đôi khi trùm phủ những ảo ảnh. Nếu nghĩ về tương lai, thì thấy khá rõ những chấm dứt là một sự thực đang đến gần. Yếu tố thời gian chi phối người già và bệnh. Nếu không biết dùng thời gian đó, người ta sẽ cảm thấy trống vắng, và cũng dễ sa vào những giải trí tầm thường, và tai hại. Nhưng, nhờ ơn biết kính sợ Chúa, người già và bệnh sẽ biết dùng thời gian còn lại coi như cằn cỗi, để tăng thêm sự sống thiêng liêng cho mình. Tôi tin Chúa đang đến. Có thể nói: Người đã đến rồi. Tôi sẽ phải trả lời Người về những gì Người đã ban trao cho tôi. Tôi thấy mình không thể trả lẽ quanh co được. Bởi vì Người đã ban cho tôi những yếu tố cần tương đối, để tôi có thể biết phân định lành dữ, đâu là thánh ý Chúa phải thực hiện, đâu chỉ là ý thế gian, ý riêng tôi, ý ma quỷ tôi phải xa tránh. Ơn kính sợ Chúa đánh thức lương tâm tôi. Nhờ đó, tôi sẽ nhận ra mình có nhiều lầm lỗi để biết khiêm nhường thống hối, xin Chúa giàu lòng thương xót xoá tội cho tôi. Lúc đó, lòng kính sợ sẽ trở thành lòng kính yêu gắn bó thiết tha. Như vậy, thời gian của người già cả đau yếu, liệt lào có giá trị thanh luyện cả một cuộc đời. Hơn nữa, thời gian đó có nhiều khả năng kéo được vô số ơn lành xuống cho bao người khác, mặc dù bằng một cách không như người đời quen nghĩ. Mới rồi, trong thanh vắng, tôi nghĩ về cái chết quá đau đớn nhục nhã với đám tang quá cô đơn thê thảm của Chúa Giêsu. Tôi thấy cái chết đó và đám tang đó không có một chút vinh quang nào, so với cái chết và đám tang của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thế mà, chính cái chết và đám tang của Ðức Kitô lại có giá trị cứu độ nhân loại một cách vô cùng phong phú. Sự thực trên đây khiến lòng kính sợ Thiên Chúa nơi tôi trở thành lòng cảm mến chúc tụng Chúa. Sự thực ấy là nguồn an ủi cho những người vâng phục thánh ý Chúa trong cảnh nghèo hèn, bệnh tật, cô đơn, bị loại trừ. Với ơn kính sợ Chúa, tôi xin hiệp ý với thánh Phaolô mà nói: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu. Ðường lối của Người, ai theo dõi được... Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen.” (Rm 11,33-36). Ngày 17 tháng 5 năm 2005
Từ ít tháng nay, tin tức về tôn giáo được phổ biến khá rộng. Qua nhiều phương tiện, như báo chí Bùi-Tuần 1672
Từ ít tháng nay, tin tức về tôn giáo được phổ biến khá rộng. Qua nhiều phương tiện, như báo chí, đài truyền thanh, đài truyền hình, sách công khai, sách nội bộ, dư luận, trên mạng, trên miệng vv... Nội dung và hình thức về các tin tức tôn giáo rất phong phú. Như: - Tin tức về nhân sự tôn giáo. - Tin tức về xung đột tôn giáo. - Tin tức về báng bổ tôn giáo. - Tin tức về cạnh tranh tôn giáo. - Tin tức về phát triển tôn giáo. - Tin tức về sinh hoạt tôn giáo. - Tin tức về biến chất tôn giáo. - Tin tức về tự do tôn giáo. - Tin tức về các hội nghị tôn giáo. - Tin tức về dự đoán tôn giáo vv... Nhiều tin tôn giáo trong nước. Nhiều tin tôn giáo ngoài nước. Số lượng nay khá nhiều. Do tinh thần liên đới, tôi không thể không quan tâm đến các tin tức tôn giáo. Tôi càng không thể không suy nghĩ nhiều đến hiện tình Công giáo tại Quê Hương tôi. Biết rằng suy nghĩ của tôi có thể không được nhiều người quan tâm, nhưng tôi vẫn xin trình bày đôi chút, để ít ra tôi cũng được nhẹ nhàng phần nào lương tâm trách nhiệm liên đới. Ðiều tôi muốn chia sẻ ở đây là cần khôn ngoan trong đời sống tôn giáo. Cần khôn ngoan Chúng ta thừa biết: Không đức tính nào quan trọng cho đời sống bằng đức tính khôn ngoan. Ðời sống bình thường vẫn luôn cần phải khôn ngoan. Nếu đi vào các lãnh vực riêng, như đời sống gia đình, đời sống lối xóm, đời sống nghề nghiệp, đời sống làm ăn, thì đâu đâu cũng cần khôn ngoan. Dại dột, khờ khạo, ngu xuẩn, chủ quan là tự hại. Phương chi trong đời sống tôn giáo. Nhất là khi tôn giáo mình lại sống trong những môi trường xã hội có một truyền thống tôn giáo khác. Ðặc biệt là khi xã hội không đợi chờ gì nhiều điều tốt nơi tôn giáo ta. Khôn ngoan của tôn giáo là một ơn của Chúa Thánh Thần. Nhưng không vì thế mà Chúa Thánh Thần miễn cho chúng ta khỏi vận dụng trật tự tự nhiên Chúa đã trao ban sẵn. Thánh Tôma Aquinô, khi đề cập đến đức khôn ngoan, đã vạch ra một hành trình đơn giản, nhưng không thiếu vất vả. Hành trình này gồm 3 chặng. Chặng thứ nhất là biết nhìn xem. Xin đưa ra một ví dụ cụ thể. Biết nhìn xem Tôi làm mục vụ ở một vùng quê. Dân vùng này sống theo nhiều tín ngưỡng không phải công giáo. Ða số chú trọng đến cách sống đạo âm thầm. Làm việc từ thiện rất nhiều, nhưng kín đáo. Ăn chay hằng tháng, nhưng lặng lẽ. Cầu nguyện tại gia hằng ngày, nhưng bình lặng. Hầu như mọi người đều tránh chuyện phô trương. Mọi người đều thực thi tinh thần liên đới. Hễ nghe ai, thấy ai lâm cảnh khổ, thì lập tức ra tay cứu đỡ. Tôi nhìn xem một tình hình như thế và trân trọng. Tôi như nhìn thấy Chúa đang hoạt động nơi đây, mặc dầu nơi đây không công giáo. Nhìn xem cái thấy được bằng mắt, và nhìn xem cái chỉ thấy được bằng sự sáng của đức tin. Cách nhìn xem như thế là chặng đầu giúp tôi phán đoán về tinh thần sống của đồng bào, mà tôi được sai đến để phục vụ. Chặng thứ hai là phán đoán. Biết phán đoán Một phán đoán tốt trên một tình hình bao giờ cũng phải dựa vào một số nguyên tắc. Ðối với chúng ta, nguyên tắc căn bản là Phúc Âm. Phúc Âm rất trọng việc cầu nguyện, việc ăn chay và việc từ thiện. Ở đây, có một trùng hợp may mắn. Nếu tôi cũng nhấn mạnh đến 3 việc đạo đức đó như tôn giáo bạn, thì hay biết mấy. Nhưng, nếu chẳng may, tôi lơ là với 3 việc đó, thì đời sống đạo của tôi sẽ khó làm chứng được giá trị của đạo tôi . Thêm vào đó, nếu tôi lại không tự kiềm chế trong những tốn phí nổi nang, chỉ có lợi cho thiểu số nội bộ tôn giáo mình, mà xem ra chẳng phục vụ gì cho dân chúng và xã hội, thì khó tránh được những dị ứng bất lợi. Vì thế, trong phán đoán, tôi phải cố gắng tránh những áp lực của những chủ trương đắc thắng, phô trương và coi thường hàng xóm và xã hội. Tại Việt Nam hôm nay nói chung và tại nhiều địa phương nói riêng, mọi phán đoán có liên hệ đến tôn giáo đừng quên cân nhắc kỹ những khoảng cách này: - Khoảng cách giữa giàu và nghèo. - Khoảng cách giữa các tôn giáo. - Khoảng cách giữa Công giáo và Ðất Nước. - Khoảng cách giữa nói và làm. Những khoảng cách trên đây đã có thời làm nên những vết thương tâm lý, đến nay vẫn chưa lành. Sau khi cân nhắc các yếu tố tình hình một cách cẩn thận, tôi phải quyết định. Biết chọn quyết định Cũng có nhiều giải pháp có thể chọn. Sự khôn ngoan khuyên nên chọn một quyết định vừa hợp Phúc Âm, vừa hợp tình thế, vừa hợp tầm tay. Thánh Augustinô, thời làm Giám mục, phải đương đầu với nhiều khó khăn trong ngoài. Ngài đối phó, chống chọi. Sau khi xem xét tình hình, phán đoán các khía cạnh, Ngài đã quyết định chọn lựa mấy điều sau đây: - Chọn một người kế vị có khả năng. - Lưu lại những gì Ngài đã viết. - Vạch rõ đường lối sống đạo trong tình hình lúc đó. Ðó là yêu thương. Trong cả 3 chặng đường suy tính, Ngài không ngừng cầu nguyện. Cầu nguyện không miễn suy tính. Suy tính không miễn cầu nguyện. Thêm vào đó là bàn hỏi và lắng nghe những người chín chắn, am hiểu tình hình, nhìn xa thấy rộng, có lòng mến mộ Hội Thánh và Dân Tộc một cách nồng nàn vô vị lợi. Ngài không lo để lại của cải, đền đài, chỉ lo để lại có 3 điều như trên. Thực là khôn ngoan. *** Hiện nay tình hình Công giáo tại Việt Nam nói chung xem ra phấn khởi. Nhưng đừng vội kết luận, kẻo đi vào ảo ảnh. Vì những phát triển thoải mái bên ngoài chưa chắc đã bảo đảm có sự phát triển đúng đắn căn bản của đạo bên trong lòng người. Biết đâu những cái bề ngoài dễ dãi và bận rộn kia lại đang làm lệch hướng cái căn bản bên trong. Khôn ngoan nào cũng cần tỉnh thức. Khôn ngoan về tôn giáo càng cần tỉnh thức và cầu nguyện một cách khiêm nhường và bền bỉ. Ngày 24 tháng 5 năm 2005
Ðời tôi không dài, nhưng cũng mang một chuỗi dài những chứng tích của lịch sử đổi thay. Ở đây Bùi-Tuần 1673
Ðời tôi không dài, nhưng cũng mang một chuỗi dài những chứng tích của lịch sử đổi thay. Ở đây, tôi xin nói sơ qua về đổi thay trong lãnh vực giảng Tin Mừng trên Ðất Nước chúng ta. Thời gian được giới hạn là trong đời tôi.
1/ Giai đoạn sát Phúc Âm thuở ban đầu Phúc Âm thánh Luca kể rằng: “Ðức Giêsu tập họp nhóm 12 lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa lành các bệnh. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: 'Các con đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. Khi các con vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó, và từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp các con, thì khi ra khỏi thành, các con hãy giũ bụi chân, để tỏ ý phản đối họ'. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc, loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi” (Lc 9,1-6). Ðoạn Phúc Âm trên đây cho thấy những môn đệ Chúa sai đi thuở ban đầu được Chúa khuyên phải sống hết sức đơn sơ: - Hành trang nhẹ nhàng. - Công việc được trao cũng rất rõ: a) Giảng về Nước Thiên Chúa, b) Xua quỷ dữ và giúp người ta tránh tội lỗi, c) Bác ái đối với các bệnh nhân. - Môn đệ không ăn rễ sâu vào một nơi. - Số người được sai đi chỉ là nhóm nhỏ. Tôi nhớ, hồi còn bé, tôi thấy các đấng bậc Công giáo, tuy không đúng hẳn là bản sao các môn đệ Chúa như trên, nhưng cũng mang nhiều nét đẹp. Ðể có thể được chọn làm linh mục, các ứng viên phải qua nhiều chặng đào tạo, thử thách cam go. Khi đã được chọn và được sai đi phục vụ các họ đạo, các linh mục rất được dân chúng mến yêu, vâng phục. Linh mục đúng là người cha thiêng liêng của mọi người. Ðạo được rao giảng qua các kinh, sách bổn, bài giảng và gương sáng của các cha. Xem ra thao thức lớn của đạo trong giai đoạn này là giữ đạo hơn là bênh đạo và mở đạo.
2/ Giai đoạn chiến tranh Khi chiến tranh bùng nổ, đạo tất nhiên chuyển biến. Trong đạo, vâng lời bề trên là một yếu tố quan trọng. Vì thế, khi những bề trên cấp trung ương dạy phải đề phòng với các chủ thuyết phá đạo, thì việc giảng Tin Mừng đã mang một nhiệm vụ mới. Trong nhiều năm, nhiệm vụ mới này nhấn mạnh đến bổn phận bênh đạo và bảo vệ đạo. Tuy trong hoàn cảnh chiến tranh, các ứng viên làm linh mục cũng vẫn được đào tạo theo một chương trình nghiêm túc. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng là việc đào tạo linh mục thời đó còn chặt chẽ và luyện lọc hơn trước nhiều. Khi được sai đi phục vụ các cộng đoàn, các linh mục chia sẻ cuộc sống cam khổ của dân. Các ngài được dân che chở, gắn bó. Các ngài được coi như nguồn an ủi lớn và nguồn đạo đức chân thực cho cộng đoàn. Phong trào sùng kính Ðức Maria Fatima được lan rộng, với ước nguyện cầu xin cho hoà bình mau trở lại trên quê hương.
3/ Giai đoạn hội nhập vào thế giới mới Sau chiến tranh, đạo đi vào một hoàn cảnh mới. Ðến lúc này, việc giảng Tin Mừng mang hướng mở đạo. Nhưng hoàn cảnh coi dễ, mà lại khó. Nội dung Tin Mừng trước đây được ta hiểu là Ðức Kitô. Nay, đối với nhiều người, kể cả nhiều người công giáo, tin mừng là tiền của, chức quyền, đời sống hưởng thụ, và các thành công. Người rao giảng Tin Mừng trước đây được hiểu là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, và những người cộng tác với các ngài. Nay người rao giảng tin mừng của họ còn là các người trí thức, các nhà khoa học, các người làm kinh tế, các nhà sản xuất, các “ngôi sao” và nhất là dư luận quần chúng. Nơi rao giảng Tin Mừng trước đây là nhà thờ. Nay các loại tin mừng khác nhau được truyền bá rộng rãi trên các sách báo, trên các đài phát thanh, các đài truyền hình, các điểm hội tụ đủ thứ. Người nghe Tin Mừng trước đây là số nhỏ những tâm hồn đi tìm ơn cứu độ. Nay số người tìm tin mừng của họ là đại đa số dân chúng thao thức với những gì là thực dụng. Các biến chuyển xã hội đang diễn tiến mau lẹ và đa dạng. Có thể nói, các biến chuyển đó đang là những thách đố. Trước những biến chuyển xã hội càng ngày càng lôi cuốn con người theo hướng tự do lựa chọn những gì mình thích, Công giáo ta nhiều nơi đang có những sáng kiến, cả trong việc đào tạo nhân sự. Có loại sáng kiến nhắm mở rộng các hoạt động bề ngoài, như xây cất cơ sở mới đẹp đẽ, tổ chức lễ lạy với những nét rầm rộ linh đình, chiều chuộng người muốn đi tu, tung hô người có chức, có quyền, có tước trong đạo Có loại sáng kiến nhắm đi sâu vào đời sống nội tâm, như siêng năng cầu nguyện, chầu Thánh Thể, dự thánh lễ, ăn chay vv... Có loại sáng kiến nhắm vào việc phục vụ đồng bào, nhất là các đối tượng nghèo, bệnh, già yếu, cô đơn.
4/ Thiển ý của tôi Hiện nay, có nơi đạo đang lên. Nhưng có nơi đang khủng hoảng. Vì thế, những ai được sai phục vụ Hội Thánh nên được đào tạo kỹ. Hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần, để biết có những trả lời đúng ý Chúa. Trả lời bằng những sáng kiến tốt, những dấn thân, và xả thân cho con người, đặc biệt là cho những đối tượng khổ đau. Tất cả do động lực là lửa Phúc Âm. Sự hiện diện tích cực của các giáo dân có tài đức trong các lãnh vực xã hội là một bài giảng rất quan trọng trong tình hình hiện nay. Một trả lời nay cần nhắc lại cho các môn đệ Chúa là hãy giữ vững nếp sống tu thân, nhất là cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Chúa. Ðừng để tiền của chức quyền và tính vô cảm làm hư hỏng mình. Hãy luôn khiêm nhường thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn: “Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). *** Ðể kết, tôi xin phép kể một kỷ niệm nhỏ. Cách đây mấy năm, một buổi tối, tôi đang làm việc ở bàn giấy trong phòng tôi tại Long Xuyên. Chuông điện thoại reo lên. Tôi nhắc máy. Ðầu dây, người gọi là Ðức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận ở Rôma. Ngài cho tôi biết: Ngài được mời giảng trước một hội nghị gồm các nhà chính trị cao cấp. Rồi ngài đọc bản nháp cho tôi nghe. Xong, Ngài hỏi: “Chú thấy có được không?”. Tôi thưa: “Hay lắm. Nội dung rất Phúc Âm. Còn về hình thức, thì chú khéo tạo ra một cái khung thời sự gợi ý. Chú vốn vậy”. Ít ngày sau, Ngài báo tin: “Kết quả không tồi. Tổng thống Italia sai người đến xin tôi bài giảng tôi đã đọc trước cho chú nghe đó”. Tôi nghĩ thành công của bài giảng đó của Ðức Cố Hồng Y ngoài nội dung tốt, hình thức tốt, còn có một phần do trình độ nhân bản, văn hoá, trí thức và đạo đức của Ðức Cố Hồng Y Phanxicô đáng mến của chúng ta. Chuyện này đã dạy tôi rất nhiều về vai trò người rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay. Ngày 14 tháng 6 năm 2005
Thánh Gioan Baotixita là con người độc đáo. Nhiều nét độc đáo của Ngài, tuy đã rất xưa, nhưng Bùi-Tuần 1674
Thánh Gioan Baotixita là con người độc đáo. Nhiều nét độc đáo của Ngài, tuy đã rất xưa, nhưng vẫn rất cần cho những người của Chúa hôm nay. Theo tôi, một nét độc đáo của Ngài vẫn mang tính cách thời đại, đó là báo động và đánh thức lương tâm.
I. Trước hết, chúng ta hãy ngắm nhìn Ngài báo động và đánh thức lương tâm trong vài trường hợp. Thí dụ: - Ðang khi hầu như tất cả những người tin thờ Thiên Chúa bấy giờ đang an tâm, tưởng mình đạo đức, thì thánh Gioan Baotixita báo động và đánh thức lương tâm họ: Hãy nhận biết mình đầy tội lỗi, cần phải thống hối. - Ðang khi các vị lãnh đạo tôn giáo bấy giờ đang an tâm chắc chắn còn lâu Ðấng Cứu thế mới tới, thì thánh Gioan Baotixita báo động và đánh thức lương tâm họ: Hãy tỉnh thức đón Ðấng Cứu thế, vì Người đang ở giữa họ. - Ðang khi nhà vua an tâm với cuộc sống lăng loàn gây gương xấu, thì thánh Gioan Baotixita báo động và đánh thức lương tâm vua: Sống như thế là trái luân thường đạo lý. Việc thánh Gioan Baotixita báo động và đánh thức lương tâm như thế là việc rất độc đáo. Bởi chưng chẳng ai làm. Hoặc vì không thấy gì sai trái phải lên tiếng, hoặc không dám làm, hoặc không muốn làm.
II. Suy nghĩ về nét độc đáo trên đây của thánh Gioan Baotixita, tôi thấy đây là một tiếng gọi gởi tới mọi thành phần dân Chúa, nhất là các linh mục, giám mục Việt Nam chúng tôi hôm nay. Tôi nghe tiếng gọi đó thế này: - Hãy báo động và đánh thức lương tâm mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam: Nên tỉnh táo hơn về ý nghĩa đời mình. Vì giá trị của đời sống mỗi người không tuỳ theo sự mình an tâm nhận nhiều, hưởng nhiều, nhưng tuỳ theo sự mình phấn đấu phục vụ nhiều và hy sinh nhiều cho người khác. - Hãy báo động và đánh thức lương tâm các môn đệ Chúa: Nên tỉnh táo dùng các ơn Chúa ban, để nên muối, nên men, nên đèn sáng cho dân. Chứ đừng an tâm dùng các ơn Chúa ban theo ý riêng mình và theo thói thế gian. - Hãy báo động và đánh thức lương tâm xã hội xung quanh ta: Nên tỉnh táo trước các phong trào đang lôi cuốn con người Việt Nam đi vào những lối sống có hại cho nền đạo đức của cá nhân, gia đình và cộng đoàn. Còn nhiều điều nữa cần phải báo động và đánh thức lương tâm con người Việt Nam hôm nay.
III. Hôm nay, nhân mừng lễ thánh Gioan Baotixita, Ðức Cha Giuse và giáo phận có nhã ý mừng 50 năm linh mục của tôi. Tôi xin tận tình cảm ơn. Tôi xin mượn dịp này, để cảm tạ Chúa đã báo động và đánh thức tôi trong suốt đời linh mục. Tôi cũng nhân dịp này, xin cám ơn tất cả mọi người gần xa đã báo động và đánh thức lương tâm tôi. Nhờ những báo động và đánh thức lương tâm này, cuộc đời linh mục của tôi bớt đi được nhiều sai sót. Hôm nay nhiều lỗi lầm vẫn còn trong tôi. Tôi tin tình yêu thương xót Chúa sẽ vẫn gọi tôi và dắt tôi đến giờ phút sau cùng được ở bên Chúa đời đời. Tôi thiết tha cầu nguyện cho các Ðức Cha, các cha, các tu sĩ nam nữ, các anh chị em giáo dân, đặc biệt là các ứng viên sắp được thụ phong linh mục. Xin Chúa ban cho anh chị được ơn biết báo động và đánh thức lương tâm người khác, nhất là được ơn biết đón nhận sự báo động và đánh thức Chúa gởi cho mình qua nhiều cách khác nhau. Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta. Amen. Bài giảng thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 24/6/2005
Tôi được thụ phong linh mục ngày 02/7/1955. Nên năm nay, tuổi linh mục của tôi là 50. Nửa thế Bùi-Tuần 1675
Tôi được thụ phong linh mục ngày 02/7/1955. Nên năm nay, tuổi linh mục của tôi là 50. Nửa thế kỷ sống đời linh mục đã dạy tôi rất nhiều bài học. Bài học đã thấm sâu nhất vào bản thân tôi là bài dạy hướng đi của đời linh mục. Từ rất lâu trước khi được thụ phong linh mục, tôi vẫn tâm niệm rằng: Sứ vụ linh mục phải chia sẻ sứ vụ của Hội Thánh và của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó có thể diễn tả như một hành hương đi về cùng Chúa Cha (x. Ga 14,12). Linh mục sẽ không đi một mình, mà phải đi với Hội Thánh, mang theo nhiều người, mà Chúa gởi đến linh mục. Bước theo Chúa Giêsu, linh mục sẽ thực hiện cuộc hành hương này bằng việc căn bản sau đây: - Nhiệt tình rao giảng Nước Trời, - Phấn đấu quyết liệt với ác thần, - Hiến tế trọn vẹn mình trên thánh giá. Thực hiện các việc trên đây chỉ để vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng sai linh mục cộng tác một cách đặc biệt vào công trình cứu độ của Chúa. Hôm nay, sau 50 năm linh mục, tôi nhìn về cuộc hành hương linh mục của tôi một cách bình thản của ơn phó thác. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút cái nhìn đó đặc biệt là trong lãnh vực tu đức.
1/ Rao giảng về Nước Trời Ðối với tôi, Nước Trời là chính Ðức Giêsu Kitô. Ðời của Người đã sống, lời Người đã giảng, đường Người đã đi. Nhất là tình yêu cứu độ của Người đối với nhân loại, sự vâng phục tuyệt đối của Người đối với Chúa Cha, tinh thần của Người trong Chúa Thánh Linh. Hiểu như thế, tôi thấy việc rao giảng Nước Trời không chủ yếu là trình bày một hệ thống giáo lý, mà là giới thiệu một Ðấng sống động. Ðấng sống động ấy là Ðấng tôi đã gặp gỡ, là Ðấng tôi đã tin, và tôi đã cảm nghiệm được tình thương vô biên của Người. Người đến với tôi không phải chỉ qua đức tin và các bí tích, mà còn qua những dấu chỉ mang ẩn số tình yêu của Người. Những dấu chỉ như thế có thể là những con người tôi gặp, cũng có thể là những biến cố rất thường. Tôi có cảm tưởng là tất cả những gì xảy ra cho tôi, dù tối tăm đến đâu, vẫn có một cái khe nho nhỏ, đủ để tôi nhìn vào trong. Nhờ đó, tôi thấy ít là mờ mờ một chút sự điệp tình yêu Chúa nhắn gởi tôi. Khi đã gặp Chúa, thì việc rao giảng Nước Trời sẽ mang một sự sống linh thiêng và gần gũi. Lúc đó, lời tôi nói, chữ tôi viết về Chúa, chỉ là những phương tiện hữu hình bên ngoài. Còn bên trong sẽ là một Ðấng vô hình linh thiêng. Chính Ðấng ấy, khi được người ta đón nhận, sẽ đi vào tâm hồn. Người sẽ đưa các tầng lớp tâm hồn vào tinh thần vâng phục ơn Chúa. Cứ như thế, con người sẽ được biến đổi, đi theo hướng Chúa Thánh Thần dẫn dắt. Nước Trời sẽ dần dần ngự trong họ. Họ sẽ đồng hành với Chúa Giêsu để về với Chúa Cha. Tư tưởng trên đây về rao giảng Nước Trời là một thứ lửa. Lửa đó đốt lòng tôi. Vì thế, tôi coi việc rao giảng Nước Trời là một niềm vui. Niềm vui đó thúc đẩy tôi lợi dụng mọi dịp để rao giảng. Viết báo cũng là để thực hiện mục đích ấy. Tuy nhiên, trong việc rao giảng Nước Trời, tôi đã có nhiều lỗi phạm. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi. Ngoài việc rao giảng Nước Trời, tôi coi việc phấn đấu với các ác thần là một bổn phận quan trọng của ơn gọi linh mục.
2/ Phấn đấu với ác thần Ðọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu đã phấn đấu rất nhiều với đủ loại ác thần. Các ác thần đã tìm cách hại Người và công trình cứu độ của Người. Cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ, tôi thấy các ác thần luôn là những kẻ thù tôi phải đối phó. Các ác thần hiện nay ít hiện hình. Chúng ẩn mình trong các tính mê nết xấu, các tệ đoan, các phong trào xấu. Quỷ quyệt hơn thế, chúng hiện nay còn mặc lốt đạo đức giả để lừa dối con người. Ðể thắng chúng, chỉ có cách là vâng lời Chúa Giêsu dạy. Ðó là: Cầu nguyện, chay tịnh và khiêm nhường tỉnh thức (x. Mc 14,38). Tôi cũng coi việc báo động và đánh thức các lương tâm là một việc nên làm. Tôi có cảm tưởng: Các bẫy Satan thích đưa ra, để bắt các linh mục làm tôi nó chính là tiền của, danh vọng, địa vị, hưởng thụ, nhất là tự mãn, an phận, an nhàn. Hiện nay, tại Việt Nam, tình hình không còn là bắt bớ, nhưng là vuốt ve. Muốn hưởng thụ, thì người ta giúp cho hưởng thụ. Chính vì thế, mà sự phấn đấu sẽ ở trong nội tâm. Phấn đấu với chính mình là việc rất khó đối với những ai thích đi trên con đường thênh thang. Nếu phấn đấu với chính mình chỉ còn là một vấn đề lý thuyết của linh mục, thì một tương lai Hội Thánh suy tàn sớm muộn sẽ tới. Có thể sẽ xảy đến rất sớm hơn ta tưởng. Riêng tôi, việc phấn đấu với chính mình là thường xuyên. Nó đòi tôi rất nhiều cố gắng. Phải luôn bám vào Chúa. Nhất là chớ bao giờ kiêu ngạo. Những yếu đuối vẫn còn. Những vấp ngã vẫn có thể xảy ra. Nhưng, Chúa sẽ cứu các linh hồn hèn mọn như tôi, luôn tin cậy Chúa với tâm tình thống hối, cầu nguyện. Ngoài việc rao giảng Nước Trời và phấn đấu với ác thần, linh mục còn cần hiến tế chính mình trên thánh giá.
3/ Hiến tế chính mình trên thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá là một lễ tế. Người thực hiện bước sau cùng cuộc hành hương của Người bằng lễ tế đó, để về cùng Chúa Cha. Nhìn gương Chúa Giêsu đã làm như thế, tôi nghĩ về tôi. Tôi là linh mục được đi theo Chúa, nên tôi cũng sẽ hiến tế chính mình trong cuộc hành hương của tôi, để về cùng Chúa Cha. Lễ tế, mà tôi thực hiện trên bàn thờ không thay thế được lễ tế chính bản thân tôi trong cuộc đời. Tôi coi lễ tế cuộc đời tôi là một vinh dự, khi lễ tế đó được kết hợp với lễ tế của Chúa Giêsu trên thánh giá. Ðã gọi là lễ tế thì phải có đớn đau, từ bỏ, hy sinh cộng với rất nhiều tình yêu. Nói một cách cụ thể, lễ tế đời tôi là cố gắng phục vụ tối đa trong tinh thần khiêm tốn xin vâng của Ðức Mẹ và tinh thần yêu thương đền tay của Chúa Giêsu Thánh Thể. Vì thế mà tôi không bi quan. Trái lại, tôi cảm thấy bình an sâu thẳm như pha trộn niềm hy vọng ngọt ngào, mặc dầu việc hiến tế của tôi vẫn còn quá non yếu. Linh mục Việt Nam hôm nay đang trong cơn lốc tự do có phần không lành mạnh. Cơn lốc tự do này sẽ cuốn linh mục xa dần thánh giá. Nhiều nơi, thánh giá chỉ còn là biểu tượng, chứ không còn là bàn thờ để môn đệ Chúa hiến tế chính mình. Nếu chẳng may đúng là như vậy, thì đời linh mục có thể sẽ huy hoàng bên ngoài, nhưng lại hết sức thê thảm bên trong trước mặt Chúa. *** Trên đây là vài suy nghĩ của tôi, khi nhìn lại 50 năm linh mục của mình. Những suy nghĩ này sẽ giúp tôi nhận ra mình: Mình chẳng là gì. Mình chẳng có gì. Mình chẳng đáng gì. Nhận thức này sẽ giúp tôi gắn bó hơn với Chúa Giêsu “Người là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống” của tôi (Ga 14,6). Cùng với Người, tôi mong sớm được về cùng Cha của Người cũng là cha của chúng ta (x. Ga 20,17). Ngày 26 tháng 6 năm 2005
Tôi đi chợ. Chợ có nhiều chỗ buôn bán lớn nhỏ, bày bán đủ loại hàng, với đủ thứ giá. Tôi phải Bùi-Tuần 1676
Tôi đi chợ. Chợ có nhiều chỗ buôn bán lớn nhỏ, bày bán đủ loại hàng, với đủ thứ giá. Tôi phải biết lựa chọn. Sao cho đúng nhu cầu. Sao cho đúng khả năng. Sao cho hợp với khu xóm, địa phương. Tôi sống giữa đời. Ðời ví như cái chợ bao la. Tôi phải biết chọn người để tin, biết chọn nghề để sống, biết chọn những nơi để xây dựng liên quan, biết chọn lời để nói, biết chọn thời để làm. Chọn lựa nào cũng đòi phải đắn đo. Ðể biết đắn đo, tôi phải có một trí óc biết suy nghĩ trên những dữ kiện cần thiết. Từ cuộc sống đời thường đến cuộc sống đạo, và cuộc sống tu trì, mục vụ, truyền giáo, việc biết chọn lựa phải tiến cao hơn mãi về thông minh và hợp thánh ý Chúa. Trên đường tiến về thông minh và hợp thánh ý Chúa cho các lựa chọn, tôi rất cần một yếu tố. Yếu tố đó là ánh sáng của Chúa. Hay nói một cách chặt chẽ hơn, ánh sáng đó chính là Chúa Giêsu. Người đã phán: “Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại không bóng tối” (Ga 12,46). Cuộc đời của tôi được soi sáng bởi Lời Chúa phán trên đây. Nhưng không phải vì thế mà tôi đã luôn tránh được những bóng tối. Trái lại, bóng tối vẫn chen vào cuộc đời tôi. Xung đột giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra thường xuyên gay gắt. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút về các thứ bóng tối mà tôi phải đối phó. Chia sẻ của tôi dựa vào kinh nghiệm bản thân nhiều hơn là lý thuyết. Có ba loại bóng tối đáng để ý thường ảnh hưởng đến đời sống đạo.
1/ Bóng tối cá nhân Bóng tối nói đây gồm mọi thứ tiêu cực trong mỗi người. Như tính hẹp hòi, thiếu hiểu biết về Lời Chúa, thiếu học hỏi về lịch sử Hội Thánh, lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới. Thiếu cái nhìn đầy đủ về thời sự. Thiếu nghiên cứu đúng đắn về những môn khoa có liên quan đến đạo. Thiếu khách quan trong những phán đoán. Nhất là đầy định kiến, thiếu khát khao đi tìm sự thực đạo đức. Mới rồi, tôi nghe người ta thuật lại phát biểu của một tín hữu: “Làng tao có hai thằng đã được phong thánh. Ai dám coi thường quê tao là sẽ đụng đến tính anh hùng truyền thống của quê tao. Sẽ có chết đấy”. Tôi nghe mà rợn tóc gáy, vì nhìn thấy bóng tối cá nhân đó đáng ghê sợ, có khả năng làm méo mó sự thánh thiện của các thánh trong đạo chúng ta. Trên thực tế, không thiếu người có đạo đã có những chọn lựa, phán đoán và hiểu biết sai lầm, do những bóng tối cá nhân của mình che khuất sự thực và thánh ý Chúa. Phúc Âm kể nhiều trường hợp như thế. Thí dụ khi các ông Pharisêu trách Chúa Giêsu đã để các môn đệ Người bứt lúa mà ăn cho đỡ đói, Chúa Giêsu đã trả lời: “Tôi muốn lòng nhân từ chứ đâu cần của lễ” (Mt 12,7). Với lời đó, Chúa Giêsu đã vạch rõ định kiến của giới Pharisêu, tuy có vẻ đạo đức, nhưng thực sự đó là bóng tối.
2/ Bóng tối tập thể Bóng tối chung của tập thể thường thấy ở các dư luận và lối sống của những tập thể, những nhóm, những giai cấp, những địa phương. Một ví dụ rất biểu tượng, đó là những lời kết án Chúa Giêsu của tập thể dân chúng trước quan Philatô. Phúc Âm kể: “Ông Philatô hỏi: Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái? Họ liền la lên: Ðóng đinh nó vào thập giá! Ông Philatô lại hỏi: Nhưng ông ấy có làm điều gì gian ác đâu. Họ càng la to: Ðóng đinh nó vào thập giá” (Mc 15,12-14). Lời kết án đó đúng là một bóng tối dày đặc che phủ tập thể. Bóng tối đó được tạo nên do kích động bởi các tư tế. Tôi thấy dư luận và ý kiến tập thể có nhiều điều tốt, nhưng, như trường hợp trên đây, nó cũng có nhiều sai trái. Hiện nay, bóng tối tập thể trong đạo đang phát triển mạnh. Có những nước công giáo trước đây đã nêu gương tốt về giữ đạo và truyền giáo. Nay bóng tối đã phủ khắp. Có vùng việc bỏ lễ Chúa nhật, việc ly dị, trở thành bình thường. Có những tổ chức tu trì xưa nêu gương sáng về đức khó nghèo, nay bóng tối đã dày đặc. Khó nghèo trở thành khó mà nghèo.
3/ Bóng tối cơ chế Bóng tối cơ chế là những xuống cấp do chính luật của cơ chế, hoặc do những lệnh và gương xấu của những bề trên cơ chế. Chúa Giêsu nhiều lần đã nói tới bóng tối trong cơ chế hồi đó. Thí dụ lời Người nói sau đây: “Anh em biết: Những người được coi là thủ lĩnh các dân, thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,42-45). Trên đây là cơ chế, mà Chúa Giêsu muốn được thiết lập trong đạo của Người. Ý muốn đó của Chúa đã và đang được thực hiện tại nhiều nơi trong Hội Thánh. Tuy nhiên, cũng phải thành thực nhìn nhận có những cơ chế không còn toả sáng nữa, nhưng đã trở thành mù mịt bởi nhiều bóng tối. Trong một số cơ chế đạo, những người đứng đầu đã trở thành một thứ vua chúa, nắm quyền lực, hãnh diện vì được phục vụ và hưởng thụ còn hơn là người đứng đầu cơ chế thế gian. *** Trên đây là một thoáng nhìn về những bóng tối trong cuộc sống đạo. Những bóng tối ấy đang ảnh hưởng mạnh đến các lựa chọn của chúng ta giữa chợ đời. Ai sẽ cứu chúng ta khỏi sự thống trị của các bóng tối ác nghiệt đó? Ai sẽ giúp chúng ta chiến đấu với những bóng tối quỷ quyệt và hung dữ đó? Thưa: Chúa Giêsu. Hãy tin vào lời Người hứa: “Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46). Tất nhiên, tin vào Chúa Giêsu luôn đi kèm với việc thực thi những gì Chúa Giêsu dạy. Tình hình đời đạo càng ngày càng diễn tiến phức tạp. Có người, có nơi thích chọn lựa lối sống đạo và phát triển đạo theo ánh sáng thế gian. Có người, có nơi vẫn duy trì lối sống đạo và phát triển đạo theo ánh sáng Phúc Âm. Lựa chọn cái này là bỏ cái kia. Nghĩa là lựa chọn nói lên sự tự do của mỗi người. Mỗi người vì thế phải chịu trách nhiệm về những gì mình lựa chọn. Ðời ta có nhiều bóng tối. Nhưng vẫn có Ánh Sáng cứu độ giúp ta biết chọn lựa con đường phải đi, các việc phải làm. Hơn bao giờ hết, lúc này là lúc phải đi theo Ánh Sáng cứu độ. Kẻo các bóng tối sẽ dần dần đẩy ta xuống dốc, sẽ nhận chìm ta vào hố diệt vong. Lúc đó mới thức tỉnh thì sẽ quá muộn. Ngày 15 tháng 7 năm 2005
Càng thêm tuổi và càng thêm đau yếu, tôi càng thêm kinh nghiệm về sống đạo. Kinh nghiệm sống Bùi-Tuần 1677
Càng thêm tuổi và càng thêm đau yếu, tôi càng thêm kinh nghiệm về sống đạo. Kinh nghiệm sống đạo của tôi tới giờ này gồm một điều tôi không thích và một điều tôi yêu thích. Ðiều tôi không thích là: Nhìn việc sống đạo như phải khép mình sống trong một guồng máy lớn luôn xoay vần khắt khe, với vô vàn luật lệ tỉ mỉ và vô số tín điều khó hiểu. Ðiều tôi thích là: Nhìn việc sống đạo như được sống gắn bó với một Ðấng thiêng liêng, mà tôi gọi là Tin Mừng của tôi. Vì Người yêu thương tôi, vì Người cứu độ tôi, vì Người cho tôi khám phá thấy dần dần kho tàng lòng thương xót vô biên của Người. Việc sống đạo, mà tôi ưa thích, như vừa mô tả là rất cụ thể. Hôm nay tôi xin phép chia sẻ đôi chút về việc sống đạo của tôi mỗi ngày.
1/ Ðón nhận Mỗi sáng, tôi cầu xin Chúa giúp tôi biết đón nhận Chúa và thánh ý Chúa về tôi trong ngày đó. Việc cầu nguyện là cần thiết. Vì cách Chúa đến không phải luôn luôn như tôi tưởng. Trước hết, tôi đón Chúa qua phép Thánh Thể và qua Lời Chúa. Phải đón nhận Chúa với tinh thần thơ ấu (x. Mc 10,15). Nếu không, thì tôi sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Thí dụ: Tôi đón Chúa với những thiên kiến, rồi ngang nhiên gán cho Chúa một hình ảnh không phải thực là của Chúa, nhất là gán cho Chúa những ý tưởng không phải của Chúa, mà là của riêng tôi. Chúa bị người ta đổ oan nhiều thứ lắm đó. Sau con đường Thánh Thể và Lời Chúa, Chúa còn đến với tôi mỗi ngày qua các bài suy niệm đạo đức. Những bài suy niệm đạo đức đáng tin cậy không phải được viết ra do bất cứ ai. Ưu tiên tôi chọn tác giả là các thánh. Những bài suy niệm đạo đức đúng đắn hiện nay tại Việt Nam không đến nỗi thiếu. Ngoài những bài suy niệm, tôi thấy Chúa đến với tôi qua những con người. Rất nhiều lần Chúa đến với tôi qua những người rất thường. Họ đến trong đời sống khiêm nhường. Khi tiếp xúc với đời, tôi cần tỉnh táo, kẻo nghe theo những xúi dại, vịn vào danh Chúa. Thêm vào đó, Chúa còn đến với tôi qua các biến cố lớn nhỏ. Những biến cố ấy có thể là những vui buồn xảy đến cho tôi, hoặc cho người khác, hoặc cho một phần Hội Thánh, hoặc cho một phần nhân loại. Nói chung, dù đến cách nào, Chúa vẫn không đến ngoài những gì Người đã dạy và nêu gương trong Phúc Âm. Nghĩa là Người đến, để dẫn tôi vào con đường vâng phục thánh ý Chúa một cách cụ thể trong thực tế đời tôi. Phải coi chừng ảo tưởng.
2/ Làm theo ý Chúa Ngày nào, tôi cũng xin ơn để biết làm theo ý Chúa. Làm nói đây không phải là làm bằng tay chân, nhưng là làm bằng trái tim. Làm bằng trái tim là hết sức mến Chúa, hết lòng thương yêu phục vụ người khác. Mến Chúa và yêu người như vậy sẽ được thực hiện qua việc chu toàn việc bổn phận hằng ngày một cách tốt nhất, trong đó việc nâng quê hương Việt Nam lên những giá trị cao đẹp là một bức xúc thường xuyên. Mến Chúa và yêu người như vậy càng sẽ đòi hỏi tôi phải trở nên con người mới. Tái sinh là bổn phận mỗi ngày. Khi làm như thế, tôi cảm thấy rõ việc thống hối, ăn năn, phó thác, luôn trở về với Chúa mỗi ngày là một nhu cầu thiêng liêng không được coi thường. Tôi nhấn mạnh đến việc thống hối, ăn năn, phó thác, trở về với Chúa mỗi ngày, vì tôi thấy mình rất yếu đuối, dễ lỗi lầm, hay vấp ngã. Nhất là về đức yêu thương. Biết bao lần tôi đã vô tình làm cho người khác đau lòng. Biết bao lần tôi đã không nhạy bén đủ trong các giao tế, ứng xử. Biết bao lần tôi đã không tế nhị đủ với các tôn giáo bạn. Biết bao lần tôi đã lãng phí với những phục vụ không đúng, không cần. Ngoài việc thống hối, ăn năn và phục vụ, việc làm hằng ngày mà Chúa muốn tôi làm, còn là vác thánh giá. Vác thánh giá là chịu những đau đớn khác nhau về phần xác và chịu những đau đớn đủ thứ về tinh thần. Có những đau đớn do tôi làm cớ xảy ra. Có những đau đớn do người khác gây ra. Có những đau đớn do Chúa gởi đến để thanh luyện tôi. Thí dụ đau đớn do khả năng phục vụ càng ngàng càng suy yếu. Không thể tiếp chuyện lâu. Nói, nghe, chỉ vài phút là đã cảm thấy mệt. Gắng thêm một chút là dễ đi vào nguy cơ nan trị. Chịu đau đớn mà được thông cảm sẽ thấy bớt khổ. Nhưng chịu đau đớn mà như bị chìm trong thất vọng tối tăm sẽ thấy rất khổ. Những lúc đó, việc làm của tôi sẽ rất cần ơn Chúa. Nói chung, tôi phải luôn cộng tác với Chúa mới có thể sinh hoa kết quả.
3/ Cộng tác với ơn Chúa Tôi cộng tác với ơn Chúa bằng việc cầu nguyện. Nhất là xin ơn biết phân định và khôn ngoan. Tôi cầu xin Chúa luôn hiện diện bên tôi như người Cha tha thứ, như người Cha nhân từ đi tìm con chiên lạc, như người Cha dâng mình, chịu chết đau đớn trên thánh giá, để đền tội cho nhân loại, và để làm chứng cho tình yêu xót thương của Cha trên trời. Hiện nay, sự cộng tác của tôi với ơn Chúa được nhấn mạnh đến việc cộng tác với Hội Thánh. Ðức đương kim Giáo Hoàng đang phải đối phó với nhiều thách đố lớn. Có lẽ thách đố lớn nhất đặt ra cho Ngài là tình trạng suy thoái của Thiên Chúa giáo tại Âu châu và tại nhiều nước. Tình trạng này đã bắt đầu từ nhiều năm nay. Chính Ngài đã nhìn thấy trước tình trạng đau buồn đó. Khi Ngài còn là Hồng Y, Ngài đã nói lên cái nhìn đó của Ngài. Lúc ấy, nhận định của Ngài bị nhiều người đánh giá là bi quan. Nay thì ai cũng thấy, không phải là bi quan mà là sự thực. Sự thực đáng buồn đó sẽ có thể xảy ra cho Hội Thánh tại Việt Nam không? Tôi cầu xin Chúa cho việc sống đạo của chúng ta tại Việt Nam hôm nay biết nhìn xa, nhìn rộng. Hãy biết cộng tác với Chúa, để sự suy thoái đừng xảy ra cho bất cứ đâu, nhất lại tại quê hương Việt Nam yêu quý này. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại: Ðừng ảo tưởng, đừng tự mãn, đừng ngây thơ nông nổi. *** Một chút chia sẻ trên đây của tôi chỉ là riêng tư. Hy vọng nó cũng được coi là một tâm sự chân thành của một người đang sống thời gian sau cùng của đời mình. Sống mệt mỏi, yếu đau, nhưng không ngừng thao thức về sống đạo nơi bản thân mình và nơi mọi người tin theo Chúa. Rất mong tâm sự này cũng sẽ là một gợi nhớ cho một thời đầy biến chuyển, mà chỉ những ai đã qua mới cảm được sống đạo là phải tỉnh thức và phấn đấu cam go với chính mình, để biết đón nhận ý Chúa và cộng tác với Chúa, chỉ vì danh Chúa mà thôi. Ngày 18 tháng 7 năm 2005
Ði đường, người ta hay gặp những dấu chỉ. Có những dấu chỉ viết sẵn. Thí dụ các tấm bảng chỉ Bùi-Tuần 1678
Ði đường, người ta hay gặp những dấu chỉ. Có những dấu chỉ viết sẵn. Thí dụ các tấm bảng chỉ đường: Bảng này chỉ tới tỉnh nọ, bảng nọ chỉ tới phố kia. Có những dấu chỉ không viết sẵn, nhưng mang dấu hiệu gì đó. Người đi phải dự đoán, hoặc hỏi người quen. Cuộc sống cũng như một chuyến đi. Thường gặp nhiều dấu chỉ đa nghĩa. Thí dụ: Béo mập là một hiện tượng. Dấu chỉ đó có thể báo hiệu một sức khoẻ tốt. Nhưng cũng có thể báo hiệu một chứng bệnh nguy hiểm. Một cuộc thi toàn quốc vào Ðại Học có đa số thí sinh kém về môn sử. Hiện tượng đó là một dấu chỉ. Dấu chỉ đó có một ý nghĩa, mà người thông minh tìm hiểu một cách khách quan, mới nhận ra. Tại Hội Thánh Việt Nam chỉ từ vài năm nay, đã xảy ra nhiều hiện tượng lạ thường. Những hiện tượng này có tính cách dấu chỉ. Xin phép kể ra mấy hiện tượng quan trọng:
1/ Việc xây cất nổi lên tưng bừng Nhiều nhà thờ mới rộng lớn huy hoàng. Nhiều cơ sở tu trì nguy nga vượt xa nhà ở của hầu hết dân thường.
2/ Biến cố nhân sự nổi lên khác thường + Nhiều vị từ Nam ra dạy học tại chủng viện ngoài Bắc. + Bốn vị từ Nam ra được đặt làm Giám mục cai quản 5 giáo phận Bắc. Tức Hà Nội, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Bùi Chu, Thanh Hoá. + Trong 4 vị đó, một vị trẻ được nâng lên hàng Tổng Giám Mục lãnh đạo chính giáo phận thủ đô Hà Nội, và đứng đầu giáo tỉnh Bắc. + Một vị trong Nam được tôn phong lên tước Hồng Y.
3/ Dự kiến có việc Nhà Nước Việt Nam thiết lập bang giao với Toà Thánh Vatican.
4/ Hiện tượng tục hoá lễ lạy, đền thờ, đời tu được đón nhận và phổ biến khá rộng rãi mau lẹ. Bốn hiện tượng trên được coi là những dấu chỉ. Những dấu chỉ này mang ý nghĩa nào? Có dư luận hiểu theo ý nghĩa “mở ra”. Có dư luận tỏ ra dè dặt, ái ngại. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng: + Hiện tượng nào cũng có thể mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa khách quan và ý nghĩa chủ quan. + Việc tốt nào cũng có thể trở nên xấu, nếu không biết thực hiện bởi người tốt, với cách thức tốt, trong thời điểm tốt và với mục đích tốt. + Việc tục hoá các sinh hoạt và tinh thần tôn giáo là một cơn lũ đã phá nát nhiều nơi trong Hội Thánh toàn cầu. + Một việc mà con người tưởng là tốt, nhưng có thể lại không được Chúa chấp nhận là tốt. Tôi xin phép khai triển ý vừa nêu, bằng việc đưa ra hai sự kiện sau đây được kể trong Phúc Âm.
1. Sự kiện thứ nhất là sau việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng khắp nơi nghe tin dó đã tìm đến Chúa Giêsu. Thấy vậy, Chúa Giêsu không mừng. Ngài còn nói: “Thật, tôi bảo anh em, anh em đi tìm tôi không phải vì anh em đã thấy dấu lạ, nhưng vì các anh em đã được ăn bánh no nê. Anh em hãy ra công làm việc, không phải lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 16,26-27). Với lời Chúa phán trên đây, chúng ta được biết: Việc Chúa làm cho bánh ra nhiều là một dấu chỉ. Nhưng đừng dừng lại dấu chỉ đó. Hãy vịn vào dấu chỉ đó mà hiểu xa hơn. Nếu dừng lại dấu chỉ, để phục vụ cho cách sống thực dụng, lạm dụng và lợi dụng, thì không đẹp lòng Chúa đâu. Chúa biết rõ tâm trạng từng người. Cả khi họ hiểu sai ý nghĩa dấu chỉ của Chúa, như sự kiện sau đây:
2. Sự kiện thứ hai là ngay khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng hiểu đó là dấu chỉ Chúa Giêsu đúng là một vị cứu tinh kiểu vua chúa. Thánh Gioan kể: “Dân chúng thấy dấu lạ Ðức Giêsu làm, thì nói: 'Hẳn ông này là vị tiên tri, Ðấng phải đến thế gian'. Nhưng Ðức Giêsu biết họ sắp đến đem mình đi mà tôn làm vua, nên Người lại tránh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,14-16). Với việc Chúa tránh mặt lúc đó, chúng ta hiểu: Chúa không chấp nhận những lối hiểu sai về dấu chỉ Người làm. Mặc dầu dân chúng không gán cho phép lạ Chúa một ý nghĩa xấu. Họ chỉ gán cho Người một ý nghĩa về quyền lực trần thế. Họ tưởng ý nghĩa đó là một vinh dự dành cho Người. Nhưng Người đã khước từ. Vinh dự họ muốn dâng tặng Người là điều không hợp ý Người. Những suy gẫm trên đây của tôi được kèm theo một số kinh nghiệm rút ra từ lịch sử quá khứ của Hội Thánh toàn cầu nói chung và của Hội Thánh Việt Nam nói riêng. Tất cả những hiểu biết đó đã làm cho lòng tôi lắng xuống. Riêng đời tôi, tuy chỉ là một thời gian rất vắn đối với lịch sử Hội Thánh và Ðất Nước, nhưng nó đã cho tôi nếm được nhiều vị cay đắng với những thăng trầm hãi hùng khủng khiếp. Cũng đã có những niềm vui, những biến cố đẹp đẽ, nhưng chúng đã mau qua như pháo bông vụt sáng màu mè trong chốc lát. Vì thế, tôi không có kết luận nào. Nhưng chỉ tập trung vào việc cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được luôn luôn đúng là Hội Thánh của Chúa Giêsu, trong bất cứ tình huống nào, dù được huy hoàng, dù gặp khó khăn, dù đụng vào cạm bẫy. Nếu cần đưa ra một kết luận nào riêng tư lúc này, thì kết luận đó là: Từ nay tôi sẽ phục vụ Hội Thánh của tôi bằng những việc bé mọn âm thầm hơn là những bài báo. Tình hình sức khoẻ của tôi tiếp tục xấu dần là một dấu chỉ không phải là không có ý nghĩa. Một người già vốn đau bệnh này, đang rất cần tập trung vào lòng thương xót Chúa. Ngày 10 tháng 8 năm 2005
Họ đạo Chi Lăng là một cộng đoàn vùng xa, vùng cao. Nhà thờ nay hoàn toàn mới. Lòng đạo cũng Bùi-Tuần 1679
Họ đạo Chi Lăng là một cộng đoàn vùng xa, vùng cao. Nhà thờ nay hoàn toàn mới. Lòng đạo cũng đã có nhiều bước tiến mới. Có thể coi cộng đoàn Chi Lăng này là một ngọn đèn nhỏ dễ thương, giữa vùng núi bao la, phía Nam nước Việt sát gần biên giới nước bạn Campuchia. Họ đạo vùng xa, vùng cao này đã sống trong tôi từ rất xưa. Thời còn là giáo sư chủng viện Châu Ðốc, tôi đã nhiều lần viếng thăm họ đạo Chi Lăng. Lúc đó rất khác. Từ khi giữ nhiệm vụ Giám mục, tôi càng lưu tâm đến những cố gắng nhiệt thành bền chí của cộng đoàn đáng yêu này. Nhiều yếu tố của họ đạo đã gây cho tôi những xúc động cao đẹp thân thương. Yếu tố đáng kể nhất là Bổn Mạng họ đạo, tức Ðức Mẹ lên trời. Những khi cầu nguyện, tôi cảm nghiệm thấy rõ: Ðức Mẹ ở giữa anh chị em như người mẹ đồng cảm xót thương, chia sẻ cuộc đời lẻ loi của anh chị em. Vì thế, hôm nay, nhân lễ mừng Bổn Mạng họ đạo, tuy không đến được, tôi cũng thân ái gởi anh chị em vài suy nghĩ. Ðể cùng anh chị em mừng Ðức Mẹ.
1/ Suy nghĩ thứ nhất của tôi là: Chúng ta nên nhìn Ðức Mẹ là người mẹ đầy đồng cảm xót thương. Vì đó là điều rất đẹp lòng Ðức Mẹ Thực Ðức Mẹ đáng là như vậy. Dù mang tước hiệu nào, Ðức Mẹ vốn đã sống trọn vẹn ơn gọi đồng cảm xót thương. Ðức Mẹ đồng cảm xót thương đối với Chúa Giêsu, con Mẹ. Ðức Mẹ đồng cảm xót thương đối với những ai, mà Chúa Giêsu đã yêu thương đến nỗi dám chết để đền tội cho họ. Ðức Mẹ đồng cảm xót thương đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bé mọn, yếu đuối, như chính Chúa đã làm gương. Tất cả các thánh đều nhận rằng: Vinh quang của Ðức Mẹ là ở sự Ðức Mẹ có lòng đồng cảm xót thương lớn lao tha thiết. Thao thức lớn lao của Ðức Mẹ là làm sao tất cả các con cái Mẹ cũng hãy biết theo gương Mẹ, mà đồng cảm xót thương đối với mọi người, nhất là đối với những người khổ đau, túng nghèo. 2/ Suy nghĩ thứ hai của tôi là: Việc sống đạo của chúng ta nên nhấn mạnh đến việc đồng cảm xót thương Tất nhiên, sống đạo là tin, xin, chịu, giữ nhiều điều. Nhưng, nếu tin, xin, chịu, giữ cách đặc biệt điều Ðức Mẹ muốn là biết đồng cảm xót thương, thì sống đạo sẽ sống động hơn, cụ thể hơn. Thí dụ: Tôi tin Chúa và Ðức Mẹ giàu lòng thương xót. Tôi xin Chúa và Ðức Mẹ giúp tôi biết xót thương người khác. Tôi chịu mọi đau khổ để làm chứng lòng đạo của tôi là xót thương đồng bào. Tôi giữ mọi điều Chúa và Ðức Mẹ dạy trong lãnh vực yêu thương. Nếu tin, xin, chịu, giữ như vậy, thì quả là một cách sống đạo rất thiết thực, rất sống động, rất có sức thuyết phục giữa đời. Tôi cũng dám quả quyết rằng: Cách sống đạo đề cao lòng xót thương đồng cảm sẽ là cách phục vụ Ðất Nước một cách hữu hiệu. Ðó cũng là cách xây dựng bầu khí thân thiện, gắn bó giữa xóm làng. Ðó cũng là cách chúng ta cộng tác đắc lực với các tôn giáo bạn, để làm cho tính chất tôn giáo được sáng, được đẹp, được bảo vệ hữu hiệu giá trị thiêng liêng của tôn giáo. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng: + Chính nhờ phát triển tình đồng cảm xót thương mà đức tin, đức cậy, đức mến của ta được lớn mạnh thêm mỗi ngày. + Chính nhờ có tình đồng cảm xót thương sống động, mà lòng tôn sùng phép Thánh Thể của ta mới góp phần tuôn đổ được vào cuộc sống nơi đây một dòng ơn thánh có sức đổi mới cuộc đời. + Chính nhờ có tình đồng cảm xót thương mà tình người, tình đạo có sức truyền cảm đối với con người Việt Nam hôm nay. Tôi hy vọng Cha Sở Phêrô Lê Trọng Hải của anh chị em và họ đạo Chi Lăng, cũng có kinh nghiệm về những gì tôi vừa chia sẻ. Thưa anh chị em thân mến, Hội Thánh hiện nay đang gặp nhiều thử thách. Nhân loại hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, tai hoạ. Chính vì thế, chúng ta phải tỉnh thức nghe lời Ðức Mẹ và theo gương Ðức Mẹ. Xin luôn nhớ: Hãy cầu xin Mẹ giúp ta có một trái tim giống trái tim Mẹ, biết sống đồng cảm xót thương như Mẹ. Tôi nghĩ: Vinh quang của ta là ở đó. Niềm vui của ta là ở đó. Ðường lên trời của ta là chính đó. Lễ hôm nay là lễ kêu gọi tình đồng cảm xót thương. Bài chia sẻ gởi họ đạo Chi Lăng, nhân lễ Bổn Mạng 14/8/2005
Năm nay, ngày Quốc Khánh được tổ chức trọng thể khác thường. Dịp này, các phát biểu trên toàn Bùi-Tuần 1680
Năm nay, ngày Quốc Khánh được tổ chức trọng thể khác thường. Dịp này, các phát biểu trên toàn quốc đều đồng loạt nhắc về quá khứ. Một quá khứ kéo dài đầy những khó khăn. Nhưng nhân dân ta đã anh dũng vượt qua. Riêng đối với Ðức Cha, quá khứ của Ðức Cha trong lịch sử Ðất Nước chắc cũng trải qua nhiều khó khăn. Ðức Cha có thể chia sẻ phần nào? + ÐGM. Bùi Tuần: Phải thành thực nói rằng: Tôi đã sống trong nhiều khó khăn và với nhiều khó khăn. Có nhiều thứ khó khăn cùng loại với mọi người. Có những khó khăn là của riêng tôi. Trong số những khó khăn riêng, tôi phải kể đến một khó khăn thuộc về lương tâm. Ðó là: Một đàng, độc lập và hoà hợp dân tộc luôn là lý tưởng tôi khao khát. Một đàng, chống Cộng lại là một mệnh lệnh thiêng liêng của Bề trên trong đạo, mà tôi phải vâng. Khó khăn lớn nhất là ở chỗ: Thời điểm lịch sử tập trung vào việc giành độc lập và xây dựng đoàn kết chống ngoại xâm lại do Ðảng Cộng Sản lãnh đạo. Có những lúc, lương tâm cảm thấy diễn ra những xung đột gay gắt. Xung đột có chiều sâu thăm thẳm và có chiều rộng mênh mông. Xung đột lại kéo dài từ năm này sang năm khác. Vì thế, xin thú thực là quá khứ của tôi trong quá khứ của Ðất Nước có nhiều nỗi nặng nề và đau đớn riêng khó tả. NTL: Những khó khăn mà Ðức Cha vừa nói quả là lớn lao. Ðức Cha có thể cho biết Ðức Cha giải quyết thế nào? + ÐGM. BT: Tôi phải giải quyết và đã giải quyết. Nhất là khi tôi là linh mục, rồi làm Giám mục. Cách giải quyết của tôi thực rõ ràng. Tôi vừa vận dụng những khả năng tự nhiên, như trí khôn với trình độ trí thức, kinh nghiệm lịch sử với sự khôn ngoan. Và vừa đón nhận những khả năng siêu nhiên như các ơn Chúa Thánh Thần. Tôi rất để ý đến việc cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa Thánh Thần không phải là các nhân đức, nhưng là một thứ khả năng giúp tôi biết đón nhận các ơn trên. Thí dụ: Khả năng đón nhận ánh sáng siêu nhiên giúp trí khôn tôi nhìn xa thấy rộng, nhất là nhận ra thánh ý Chúa. Thí dụ: Khả năng đón nhận hứng thú siêu nhiên, giúp ý chí tôi khát khao điều thiện và hăng say thực thi điều Chúa muốn. Và thí dụ: Khả năng phân định thiêng liêng, giúp cho sự tự do của tôi biết có những chọn lựa khôn ngoan. Thế là tôi có những cái nhìn mới. Nhưng đồng thời cũng có những thánh giá mới. NTL: Với cách giải quyết như trên, chắc Ðức Cha đã đạt được nhiều kết quả tốt? + ÐGM. BT: Ðó chỉ hy vọng. Còn kết quả chắc chắn thế nào, thì tôi không dám xác định. Tuy nhiên, tôi cũng được an ủi về phía những xác định của các Bề trên. Mới rồi, một lá thư của Bộ Truyền Giáo đề ngày 12/8/2005, với nội dụng mừng 50 năm linh mục của tôi, đã đưa ra 3 điểm cụ thể. Nguyên văn như sau: 1/ “Trong nửa thế kỷ qua, với lòng quảng đại và trung tín, Ðức Cha đã không tiếc sức mình để hoàn thành sứ vụ linh mục của Ðức Cha. Ðức Cha đã làm chứng một Ðức Kitô khiêm tốn, đơn sơ, khó nghèo và thương xót qua đời sống của Ðức Cha”. 2/ “Bài giảng và bài viết của Ðức Cha rất nhiều, chứng tỏ rõ Ðức Cha coi việc truyền bá Tin Mừng chính là nhiệm vụ nền tảng đời mục tử của Ðức Cha”. 3/ “Như vị tông đồ dân ngoại, Ðức Cha đã đào tạo không những người kế vị Ðức Cha trong nhiệm vụ cai quản Giáo Hội địa phương của Ðức Cha, mà còn đào tạo nhiều Giám mục giá trị đã dâng hiến cho Giáo Hội Việt Nam”. NTL: Nhiều người đã coi thư trên đây của Toà Thánh là một bản tuyên dương. Còn Ðức Cha tiếp nhận thế nào? + ÐGM. BT: Tôi tiếp nhận như một chỉ dẫn. - Chỉ dẫn thứ nhất là: Dù tình hình có những khó khăn, các môn đệ Chúa vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. - Chỉ dẫn thứ hai là mọi cách làm chứng cho Chúa phải hợp với gương mẫu của Chúa Giêsu, của các tông đồ Chúa và của Phúc Âm. NTL: Những chỉ dẫn trên, nếu được các người tin Chúa thực hiện trên quê hương Việt Nam hôm nay, thì có thể coi đó là những đóng góp thiết thực vào việc giữ gìn nền độc lập và hạnh phúc của đồng bào không? + ÐGM. BT: Ðược lắm chứ. Tôi vẫn xác tín điều này: Hạnh phúc của một cá nhân, một tập thể, một dân tộc tuỳ thuộc rất nhiều vào những giá trị thiêng liêng. Một sự phát triển phong phú đáp ứng hoàn toàn cho hoài vọng hưởng thụ, mà thiếu phát triển đạo đức, sẽ dễ sinh ra các tệ nạn, các tội lỗi. NTL: Theo Ðức Cha, tình hình hiện nay có còn khó khăn không? + ÐGM. BT: Còn nhiều chứ. Báo chí hằng ngày nói nhiều đến các thứ tiêu cực như lãng phí, tham nhũng, hình thức, trì trệ, hưởng thụ, đua đòi, gian lận, giảm lòng tin, cá nhân chủ nghĩa, mất phẩm chất. Các thứ tiêu cực đó trong xã hội là những khó khăn không nhỏ cho sự bảo vệ và phát triển Ðất Nước. Riêng trong đạo cũng đang phát sinh một số khó khăn, như nhiều người chọn những đường lối sống không phù hợp với Phúc Âm, tìm tư lợi và uy tín cá nhân dưới danh nghĩa Hội Thánh Chúa, để quyền và tiền điều khiển đưa con người xa dần đức tin. Tôi thấy thời nào cũng có những khó khăn của thời đó. Theo tôi, xem ra những khó khăn nguy hiểm nhất hiện nay đang âm ỉ rình phá Ðất Nước và Hội Thánh là các thứ ngòi xung đột: Xung đột giai cấp, Xung đột quyền lợi, Xung đột tôn giáo, Xung đột cũ mới, Xung đột thiện ác, Xung đột khát vọng, Xung đột giàu nghèo. Chẳng có chiến thắng nào dễ cả. Quốc Khánh hẳn là vui. Nhưng vui, mà đừng quên cảnh giác, và đừng rơi vào ảo tưởng. Ngày 20 tháng 8 năm 2005
Tháng 9 là thời gian khai trường. Trường nhỏ, trường lớn đều tấp nập. Trường đời, trường đạo đều Bùi-Tuần 1681
Tháng 9 là thời gian khai trường. Trường nhỏ, trường lớn đều tấp nập. Trường đời, trường đạo đều rộn ràng. Cảnh nhập học đưa Ðất Nước vào cảnh gieo trồng: Gieo văn hoá, trồng con người. Ðối với tôi, cảnh đẹp khai trường trên Ðất Nước gợi trong tôi một hình ảnh quan trọng được Chúa Giêsu nhiều lần nói tới. Ðó là Hình ảnh gieo trồng Tin Mừng. Trên thực tế, gieo trồng Tin Mừng là một thao thức lớn của các chủ chăn. Nên việc đào tạo những người đi gieo trồng Tin Mừng là một việc của các trường chuyên môn cũng thường khai giảng vào tháng 9. Hơn nữa, đây còn là một việc của các khoá, các lớp được tổ chức quanh năm một cách thường xuyên. Tầm quan trọng của người gieo trồng Tin Mừng trong thời điểm này tại Việt Nam là rất lớn. Vì thế, tôi có vài suy nghĩ, xin được chia sẻ vắn tắt sau đây:
1/ Chủ cánh đồng truyền giáo Chủ cánh đồng truyền giáo là chính Chúa, các người gieo trồng phải do Chúa sai đi. Phúc Âm thánh Matthêu chép: “Ðức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,36-38). Việc sai đi là do Chúa. Ðiều này được Chúa Giêsu nhắc lại trong Phúc Âm thánh Gioan: “Thầy sai các con đi gặt” (Ga 4,38). Lời Chúa phán trên đây đáng được nhắc nhở lại rõ ràng trong thời điểm này. Sở dĩ tôi nói như vậy, là vì tôi thấy có một số trường hợp, việc đi tu nhất là việc chịu chức thánh, và nhận chức vụ thánh, đã không do Chúa, mà do những lý do khác, động lực khác, chủ quyền khác. Vì không được chính Chúa sai đi, nên người nhận việc trên cánh đồng của Chúa rất dễ rơi vào tình trạng thiếu những ơn cần thiết cho việc gieo trồng Tin Mừng.
2/ Người được Chúa sai đi nên nhớ mình chỉ giữ một vai trò khiêm tốn Phúc Âm thánh Gioan ghi lại lời Chúa Giêsu phán với các môn đệ: “Thầy sai các con đi gặt những gì chính các con đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả. Còn các con, các con được hưởng công lao của họ” (Ga 4,38). Với lời Chúa căn dặn trên đây, Chúa muốn mọi người chúng ta hãy biết ơn những người đi trước. Nhiều khi, tôi nhớ lại những thời đầy khó khăn, các người truyền giáo trước tôi đã sống túng nghèo, chịu vô vàn khổ cực trong cảnh lo âu. Nhận thức như vậy, tôi mới thấy được phần nào công ơn các ngài. Ðúng là tôi hưởng những gì người đi trước đã gieo. Chứ công lao của tôi chẳng sánh được chút nào với công lao của các người đi trước, dù các công lao của các vị đã rất âm thầm. Chính bản thân tôi hôm nay cũng là kết quả của những chuỗi dài những hy sinh của bao vị tiền nhân. Trong các vị đó, có những tên tuổi được biết đến, nhưng có vô số những tên tuổi cố ý chìm lặng trong sự quên mình.
3/ Người được Chúa sai đi phải hết sức mình để gieo hạt giống tốt Phúc Âm thánh Matthêu ghi rõ ràng lời Chúa Giêsu phán sau đây: “Hạt giống tốt là con cái Nước Trời” (Mt 13,38). Con cái Nước Trời là những kẻ nuôi dưỡng mình bằng việc thi hành thánh ý Chúa, theo gương Chúa Giêsu. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Biết được thánh ý Chúa và thi hành đúng thánh ý Chúa là những việc không dễ, nhưng luôn khả thi, nếu chúng ta thực sự gắn bó với Chúa Giêsu và Phúc Âm của Người.
4/ Người truyền giáo phải chuẩn bị đất kỹ càng, để việc gieo trồng được kết quả Phúc Âm thánh Matthêu ghi lại khá tỉ mỉ nhiều trường hợp, Chúa cho là nông nổi trong việc gieo trồng. Những trường hợp nông nổi đó như là “gieo bên vệ đường”, “gieo trên sỏi đá”, “gieo vào bụi gai” (Mt 13,18-22). Nông nổi có thể do đất được gieo, và cũng có thể do sự thiếu chuẩn bị của người gieo trồng. Bởi vì chính lòng chúng ta, khi đi gieo trồng, cũng đã nguội lạnh, cứng cỏi, gai góc sẵn.
5/ Người được sai đi phải hết sức tỉnh thức, để ngăn chặn cỏ lùng khỏi lẫn lộn vào mảnh đất của ta Phúc Âm thánh Matthêu kể lại lời Chúa phán: “Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất” (Mt 13,26). Cỏ lùng ám chỉ các tính hư tật xấu, các khuynh hướng gian tà, các tội lỗi, các người xấu. Việc gieo cỏ lùng vào giữa lúa là thời sự hằng ngày. Do các phong trào xấu, não trạng xấu, lối sống xấu. Chúng ta thường đổ tội cho ma quỷ, thế gian đã gieo cỏ lùng vào các linh hồn thuộc trách nhiệm của ta. Nhưng nếu khiêm tốn xét mình, chúng ta sẽ thấy: Kẻ gieo cỏ lùng nhiều khi chính là chúng ta. Chúng ta không đến nỗi quá tệ như lớp người Pharisêu thuở xưa bị Chúa gọi bằng những tên đạo đức giả. Nhưng, nếu tự mãn, chính chúng ta sẽ bị nguy hơn họ, khi chúng ta gieo cỏ lùng vào cánh đồng truyền giáo của mình, mà Chúa cứ làm ngơ. Sự Chúa cứ để mặc ta chìm xuống hố sai lầm, đó là một hình phạt kinh khủng, Chúa dành cho những người mang thói quen khinh thường tiếng Chúa dạy bảo. *** Vài suy nghĩ trên đây về kẻ gieo trồng rút ra từ Phúc Âm chỉ là một gợi ý yếu ớt. Chính Chúa Thánh Thần sẽ mở lòng trí ta, nếu ta khiêm tốn bước vào trường Phúc Âm. Dù ở bậc nào, tuổi nào, chúng ta vẫn mãi cần được nhập học. Có nhiều điều chúng ta chỉ học được bởi Chúa, khi chúng ta trở nên bé nhỏ (x. Lc 10,21). Người ta nói rằng: Nhiều đấng bậc đi gieo trồng tại Việt Nam hiện nay đang đứng trước “cơ may” không còn bị quỷ cám dỗ, như các thánh thuở xưa nữa. Lý do đơn giản là vì cám dỗ đã trở thành dư thừa đối với các ngài. Nếu đúng là như vậy, thì tình hình đạo đức Phúc Âm sẽ ra sao, cho dù bề ngoài vẫn hào nhoáng ồn ào? Ngày 24 tháng 8 năm 2005
Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam mới gởi một thư chung mục vụ 2005 cho toàn thể mọi thành phần Bùi-Tuần 1682
Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam mới gởi một thư chung mục vụ 2005 cho toàn thể mọi thành phần Dân Chúa. Khi soi đời tôi vào thư đó, tôi như đọc thấy Lời Chúa viết trong đời mình. Có thể nói, Lời Chúa thực sự đã viết trong tôi. Viết trong trí khôn, trí nhớ, trí sáng tạo. Có những Lời đã viết sâu tận tiềm thức, vô thức. Bình thường tưởng như những Lời ấy đã bị quên, nhưng thực sự chúng đã biến thành sự sống. Lời Chúa được viết trong tôi và đã trở thành một sự sống hoán cải tôi. Bởi vì những Lời ấy không do người nào đã viết, nhưng do chính Chúa đã pha trộn vào sự sống của tôi. Lời Chúa là một sự sống. Sự sống ấy gieo vào sự sống của tôi những tiềm năng sự thiện. Những tiềm năng sự thiện ấy đã lớn lên dần dần trong tôi theo tuổi đời tôi. Nếu muốn đưa ra cái nhìn về vài ích lợi trong muôn vàn của Lời Chúa trong đời tôi, thì tôi xin chia sẻ đôi chút như sau:
1/ Lời Chúa hướng dẫn tôi đi tìm và phát triển sự thiện Tôi vẫn quan niệm rằng: Sự sống của tôi phải hướng về sự thiện và phát triển sự thiện. Sự thiện cho bản thân tôi và sự thiện cho mọi người, ưu tiên là cho những ai tôi có liên đới và trách nhiệm. Ðể biết cái gì là sự thiện, tôi có thể hỏi lương tri, giáo dục, tập quán xã hội và dư luận. Nhưng mọi ngả ấy đều có thể cung cấp những chỉ dẫn sai lạc. Ðể biết chắc đâu là thiện, tôi tìm đến Chúa. Chúa trả lời tôi bằng Lời Chúa. Có một điều tôi muốn nêu lên ở đây, đó là Lời Chúa giúp tôi yêu mến sự thiện, khát khao sự thiện, đi tìm sự thiện. Nhất là khi sự thiện tôi khao khát đi tìm với hết sức mình là chính Nước Trời. Có lần Chúa Giêsu đã phán: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy “Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có để mua lấy viên ngọc ấy” (Mt 13,44-45). Khi tôi được gọi làm giám mục, tình hình đời đạo trên quê hương Việt Nam đang diễn tiến phức tạp trong khói lửa mịt mù. Lúc đó, tôi chọn cho đời mục tử của tôi Lời Chúa sau đây: “Ðiều răn mới”. Ðó là lời vắn tắt trích từ một lời dài Chúa Giêsu đã trối trong bữa tiệc ly: “Thầy trao cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 14,34). Lời Chúa trên đây đã là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho tôi, và là nguồn sống thiêng liêng nuôi dưỡng tôi. Nhờ đó, tôi thấy rõ hướng tôi sẽ đi để phát triển cho dân tộc, cho địa phương, cho Giáo Hội, nhất là cho những người nghèo khổ. Cũng nhờ Lời Chúa đã trở thành đường đi của đời tôi, nên tôi đã biết chống lại sự ác một cách có hiệu quả.
2/ Lời Chúa hướng dẫn tôi chống lại sự ác bằng sự thiện Trong cuộc sống, sự ác là một thứ đồng hành không tránh được. Có muôn vàn thứ ác. Chúng mạnh và xuất hiện dưới nhiều hình thức. Ðể sống tốt, tôi phải chống lại chúng. Tôi có thể chống ác bằng sự ác. Nhưng cách đó sẽ đưa tới tồi tệ. Nên, theo Lời Chúa hướng dẫn, tôi luôn chống ác bằng sự thiện. Nhưng để sự thiện có sức thắng sự ác, tôi cần sống Lời Chúa một cách sâu xa. Nhờ vậy, tôi sẽ biết dùng sự thiện để đối phó với sự ác cách nào, lúc nào và mức nào. Nhờ Lời Chúa dạy, đôi khi do sự thinh lặng, tôi đã thắng được một sự ác lớn, chứ không do tranh cãi ồn ào. Nhờ Lời Chúa dạy, nhiều khi do sự cầu nguyện âm thầm, tôi đánh bại sự ác nguy hiểm, chứ không do những tranh đấu rầm rộ. Trong mọi trường hợp đấu tranh với sự ác, tôi luôn nhớ Lời Chúa dạy qua thánh Phaolô: “Hãy đứng vững, lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an. Hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho là Lời Thiên Chúa” (Ep 6,14-17). Dùng sự thiện để chống lại sự ác. Lời Chúa dạy như vậy đã luôn ứng nghiệm trong đời tôi. Ngoài ra,
3/ Lời Chúa còn giúp tôi hiểu rõ ý nghĩa đời tôi Xin thú thực là: Ðiều làm sung sướng nhất trong đời, chính là tôi được làm con Chúa. Ngoài ra, điều làm tôi coi mình được vinh dự nhất, chính là được phần nào nên giống Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu, mà thánh Phaolô đã ca tụng bằng những bước xuống vì yêu thương loài người: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không dành cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2,6-11). Trên đây là tấm bảng chỉ cho tôi thấy ý nghĩa đời tôi. Tôi càng đi sâu vào hướng đó, tôi sẽ càng thấy mình được là cành của thân cây nho là Chúa Giêsu (x. Ga 15,1-5). Ðời tôi cũng như đời mỗi người đều có hai chiều kích: Một là chiều kích bề ngang, hai là chiều kích bề cao. Chiều kích bề ngang là những quan hệ với các loại người, với môi trường, với vũ trụ. Chiều kích bề cao là quan hệ với Chúa. Tôi được may mắn dùng những thời gian của tuổi già, để làm cho chiều kích bề cao mỗi ngày mỗi nên giống Chúa Kitô hơn. Thế là ý nghĩa đời tôi đã được xác định rõ. Dù với vô vàn giới hạn, đời tôi như một dòng tình yêu chảy về Biển Cả vô biên là Thiên Chúa Tình Yêu. *** Trên đây là một thoáng nhìn về kinh nghiệm của tôi sống Lời Chúa. Kinh nghiệm diễn tả được vẫn nghèo so với kinh nghiệm không sao diễn tả được. Hành trình tôi Sống Lời Chúa đã được thực hiện giữa một giai đoạn lịch sử Việt Nam không thiếu thử thách. Hành trình này rất ẩn dật, khó nghèo, nhưng được Chúa cho cộng tác phần nào vào công trình cứu độ của Chúa. Xin tạ ơn Chúa đến muôn đời. Ngày 16 tháng 9 năm 2005
Rao giảng Tin Mừng là một hoạt động tôn giáo. Việc đạo đức này được gọi bằng nhiều tên, như Bùi-Tuần 1683
Rao giảng Tin Mừng là một hoạt động tôn giáo. Việc đạo đức này được gọi bằng nhiều tên, như: Rao giảng Phúc Âm, truyền bá Tin Mừng, làm chứng cho Chúa, giới thiệu Nước Trời. Việc đạo đức này vốn được Hội Thánh đề cao, với nhiều nhân sự nhất, với nhiều tiền bạc nhất, với nhiều vất vả nhất. Việc đạo đức này được thực hiện bằng nhiều cách. Như học giáo lý, đọc kinh, tham dự thánh lễ, chịu các bí tích, gia nhập đoàn hội, làm việc bác ái, xây cất nhà thờ và các cơ sở, tổ chức ban bệ, quy tụ đào tạo, hành hương, tiếp xúc, phát hành sách báo, hội nhập văn hoá, đưa đạo vào đời qua việc phục vụ xã hội, vv... Như vậy, hoạt động truyền giáo rất bao la. Vì rất bao la, nên sự khôn ngoan khuyên ta nên chọn đâu là điểm khởi hành, đâu là điểm căn bản luôn phải bám chặt, đâu là dấu chỉ của tất cả mọi hình thức hoạt động. Nhân dịp tháng mười có lễ Truyền giáo, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ của tôi về mấy điểm kể trên.
Ðiểm khởi hành Trong việc truyền giáo, tôi nghĩ điểm khởi hành bao giờ cũng là cầu nguyện. Chúa Giêsu phán: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37-38). Trong Hội Thánh Việt Nam ta, hầu như mọi nơi đều đã quen hát lời Chúa trên đây trong các dịp liên quan đến truyền giáo. Thói quen đó là rất tốt. Nhưng, cũng nên để ý đến điều này là: Ta nên cầu xin Chúa thêm phẩm chất cho thợ gặt cũng như thêm số lượng thợ gặt. Việc truyền giáo sẽ sinh nhiều kết quả tốt một phần khá lớn nhờ sự đạo đức thánh thiện của người truyền giáo. Dù số ít mà thánh thiện thì vẫn hơn là số nhiều mà tầm thường hoặc kém phẩm chất, gây gương mù gương xấu. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Rõ ràng anh em là bức thư của Ðức Kitô được trao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2 Cr 3,3). Nếu người truyền giáo là bức thư của Chúa, thì chính họ sẽ toả ra những gì Chúa muốn gởi đến xã hội. Muốn thế, đời sống của họ, việc làm của họ, lời nói của họ sẽ phải ăn khớp với nhau trong Tin Mừng. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: Ðể một người truyền giáo được trở thành bức thư sống động của Chúa, thì bức thư đó phải do Chúa Thánh Thần viết ra. Nghĩa là người truyền giáo phải là tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Những khoá học, những trường lớp, những bài giảng, những giáo huấn, tất cả đều cần cho họ, nhưng nếu thiếu sự đào tạo của Chúa Thánh Thần, thì phẩm chất họ kể là rất non yếu.
Ðiểm căn bản phải bám vào Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian như vậy” (Ga 17,18). Lời nguyện trên đây của Chúa Giêsu luôn nhắc nhở các nhà truyền giáo phải biết mình được Chúa sai đi. Ơn sai đi của chúng ta phát xuất từ việc Chúa Cha sai Chúa Con vào thế gian. Mục đích việc sai đi ấy là để cứu chuộc nhân loại và để làm chứng cho tình yêu xót thương của Thiên Chúa. Hiểu như vậy, chúng ta mới dễ đón nhận được tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người nói về mình và cũng để nói cho mỗi người chúng ta: “Thầy bảo thật các con: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Sự thực trên đây đã được mọi người truyền giáo đích thực bám vào một cách cụ thể. Nghĩa là họ phải chết đi một cách nào đó. Cái chết của họ luôn âm thầm như cái chết của hạt lúa. Cái chết của họ luôn kết hợp chặt chẽ vào sự hy sinh vâng phục của Ðức Kitô, Ðấng được Chúa Cha sai vào thế gian, để cứu chuộc nhân loại. Có như vậy, nhà truyền giáo mới có thể nếm được niềm vui thiêng liêng, khi nói được lời thánh Phaolô xưa: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20). Tình hình trên thế giới hiện nay nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang như dòng thác lôi cuốn con người vào hưởng thụ. Nhà truyền giáo sẽ phải phấn đấu rất nhiều, để kết hợp với Chúa Giêsu hy sinh trên thánh giá. Ta sẽ phải khổ vì Chúa, nhưng cái khổ đó mới là dấu ấn đích thực của người truyền giáo. Nhờ đó, sự ác mới chịu lùi, sự thiện sẽ biến đổi thế giới.
Ðiểm dấu chỉ Thời xưa cũng như thời nay, việc truyền giáo bao giờ cũng phải có sẵn những dấu chỉ. Những dấu chỉ này sẽ gợi ý cho con người nâng tâm hồn lên. Vì thế, để một việc có thể trở thành dấu chỉ cho việc truyền giáo, việc đó cần mang chiều kích thiêng liêng. Xưa, Chúa Giêsu đã dùng các phép lạ và đời sống thánh thiện như dấu chỉ, để kéo con người suy nghĩ về Chúa. Các tông đồ cũng đã làm một số phép lạ và cách sống đạo đức mang tính cách dấu chỉ. Nhờ đó đám đông đã quan tâm đến Tin Mừng, mà các ngài rao giảng. Thời nay, dấu chỉ được mở rộng ra một số hiện tượng nhất định. Ngoài các phép lạ không phải lúc nào muốn là có liền, hiện nay người ta thường coi trọng những sự kiện sau đây được coi là dấu chỉ của Tin Mừng. + Dấu chỉ thứ nhất là sự yêu thương nhau trong cộng đoàn những môn đệ Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã phán: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). + Dấu chỉ thứ hai là đời sống tu trì, mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ của Người: “Ai muốn theo Thầy, thì phải từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo” (M6 16,24). + Dấu chỉ thứ ba là sự hiền lành và khiêm nhường theo gương của Người. Như lời Chúa Giêsu đã phán: “Hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Kinh nghiệm cho thấy: Khi người ta gặp thấy các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân nào có những đức tính trên, tự nhiên người ta cảm thấy có một cảm tình mang chiều kích thiêng liêng. Từ đó, người ta sẽ dễ dàng được hướng dẫn dần dần đến những bước gặp được chính Chúa là Tin Mừng cứu độ. *** Trên đây là vắn tắt vài suy nghĩ về truyền giáo. Vài suy nghĩ này sẽ đưa chúng ta vào một thế giới gần Chúa và cần Chúa. Nhờ đó, mà việc truyền giáo đi vào thực chất. Hiện nay, nhiều nơi đạo Công giáo chúng ta đang bị lôi cuốn đi về hướng hình thức, tổ chức, quyền lực và chức tước. Nếu không tỉnh thức, mau trở về với những điều Chúa dạy, tôi e ngại một tương lai không sáng sủa sẽ xảy đến, cho dù số lượng người truyền giáo có thể sẽ tăng. Nhưng phẩm chất lại giảm dần dần. Lạy Chúa, xin cho chúng con có được nhiều người rao giảng Tin Mừng như lòng Chúa ước mong. Xin cho chính con cũng được trở nên một chứng nhân bé mọn của Tin Mừng trong môi trường con đang sống, dù con yếu đuối và thấp kém hèn hạ. Ngày 3 tháng 10 năm 2005
Thời sự là những sự xảy ra trong một thời gian. Thời gian đó thường được hiểu là hiện tại của Bùi-Tuần 1684
Thời sự là những sự xảy ra trong một thời gian. Thời gian đó thường được hiểu là hiện tại của cuộc sống. Hiện tại ấy có thể rất rộng và gồm nhiều yếu tố. Thời sự của nhiều ngày tiếp nối nhau làm nên dòng thời sự. Dòng thời sự ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống, dù người ta muốn hay không muốn. Vì thế, tôi quen nhìn: 1. Dòng thời sự này nọ có gì được coi như một sứ điệp đáng phải quan tâm không? 2. Phúc Âm có giúp tôi hiểu thêm sứ điệp đó không? 1/ Sứ điệp của dòng thời sự hiện nay Thời sự ít lâu nay có nhiều yếu tố gây vui buồn. Ðối với tôi, yếu tố kéo chú ý nhiều nhất là tính cách bất ngờ. Xin phép đưa ra một số dẫn chứng: Những giây phút khủng khiếp bất ngờ của những trận động đất xảy ra ở nhiều nơi. Những tàn phá bất ngờ của những trận bão lụt và hạn hán trên thế giới. Những chết chóc lây lan bất ngờ của dịch cúm gia cầm đang đe doạ khắp năm châu. Những nạn đói ghê gớm kéo dài bất ngờ tại nhiều giai cấp trong nhân loại. Những thứ bệnh cực kỳ nguy hiểm như Sida có nhiều hướng lan mạnh bất ngờ trong nhiều dân tộc. Những tội ác rùng rợn, như buôn người, khủng bố, đâm chém, kỳ thị là những giây xích thời sự đen khống chế bất ngờ nhiều nền văn minh hiện đại. Tinh thần hưởng thụ cùng với chủ nghĩa cá nhân cấu kết với nhau một cách bất ngờ đang cố tràn vào các não trạng, kể cả trong giới có nhiệm vụ nêu gương đạo đức. Lương tâm xuống cấp một cách bất ngờ đang trở thành tình trạng bình thường rất đáng lo ngại. Những sụp đổ bất ngờ, những cái chết bất ngờ không còn là thời sự hiếm hoi. Ðang khi những bất ngờ trên đây dường như có vẻ thắng thế, thì những bất ngờ của những yếu tố mang tính cách xây dựng, phát triển, cứu độ nhân loại cũng xuất hiện. Những xuất hiện này tuy nhiều, nhưng vẫn âm thầm, mạnh mẽ, gây được những hiệu quả sâu xa bền vững một cách bất ngờ. Thời sự hiện nay đầy những bất ngờ. Mỗi người có thể ứng phó theo cái nhìn riêng của mình. Cái nhìn tỉnh thức vẫn là một lời khuyên khôn ngoan. Ðó là sứ điệp khẩn cấp. Cái nhìn riêng đó của tôi được hỗ trợ rất nhiều bởi ánh sáng Phúc Âm. Nhờ vậy, mà tính cách bất ngờ trong thời sự trở thành một sứ điệp thiêng liêng cho tôi.
2/ Phúc Âm loan báo vô số bất ngờ Ðọc Phúc Âm, tôi gặp hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chỉ xin nêu lên vài loại bất ngờ. Trước hết là bất ngờ về cuộc sống nghèo mà Chúa Giêsu đã chọn cho mình và thánh gia. Tiếp đến là bất ngờ về những phương tiện khiêm tốn Chúa Giêsu đã chọn, để huấn luyện các môn đệ Người. Thêm vào đó là những cảnh báo bất ngờ về tương lai. Tương lai sẽ bất ngờ xanh tươi nhờ những người hy sinh âm thầm khiêm tốn, như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, như chút muối giữa đồ ăn, như chút men trộn vào bột. Nhưng tương lai cũng sẽ có nhiều bất ngờ đau đớn. Xin đọc lại Phúc Âm. + Ðang khi tình hình tôn giáo lúc đó xem ra êm đẹp, thì Chúa Giêsu chỉ vào đền thờ nguy nga ở Giêrusalem mà báo trước: “Thầy bảo thật anh em, tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Tất cả sẽ bị phá đổ” (Mt 24,2). Ðó là một cảnh báo về một bất ngờ khủng khiếp. Bất ngờ đó đã được thực hiện. + Ðang khi Chúa Giêsu được dân chúng tôn vinh ái mộ, thì Người đã nhìn vào tương lai mà nói: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Mt 17,22-23). Ðó là một hé mở cho một sự bất ngờ không thể tưởng tượng được. Thế rồi, sự bất ngờ đó đã xảy ra. Còn một bất ngờ khác đáng ta suy nghĩ cho chính mình ta. Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Có kẻ hỏi Chúa Giêsu rằng: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? Người trả lời: Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào, Thầy nói cho anh em biết: Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Rồi Chúa Giêsu nói về ông chủ, ám chỉ chính Người: “Ngày ấy nhiều người sẽ nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng ông chủ sẽ trả lời: Ta không biết các anh từ đâu tới. Hãy cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính. Ở đó, các anh sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Issaac và Giacop cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa. Còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Ðang khi thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa, có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,22-30). Những lời Chúa phán trên đây chứa đựng nhiều bất ngờ đau đớn. Căn cứ vào đó, biết đâu có những người tưởng mình ngoan đạo lại bị loại, và có những vị lãnh đạo đang đứng đầu cộng đoàn lại sẽ bị Chúa đẩy xuống chỗ cuối cùng. Trên đây là vài điển hình về bất ngờ thuần tuý tôn giáo, mà Chúa đã nói trước. Còn về những bất ngờ trong đạo đức đời thường, thì Chúa cũng nhiều lần nhắc tới. Như có người phú hộ sống rất giàu sang, nhưng bất ngờ phải chết. Và chết rồi phải khổ hình suốt đời trong hoả ngục (x. Lc 16,19-31). Hoặc như người thu tích của cải, tưởng rằng sẽ được sống lâu để an hưởng. Nhưng đột nhiên, theo lệnh Chúa, ông phải chết bất ngờ (x. Lc 12,12-21). Hoặc như người ngoại đạo Samaria, vì biết thương người lâm nạn, nên được Chúa khen hơn các thầy tư tế và những người mang danh đạo đức trong đạo Chúa (x. Lc 10,29-37). *** Trên đây là một thoáng nhìn về tính cách bất ngờ trong dòng thời sự và đã được Chúa cảnh báo trong Phúc Âm. Tính cách bất ngờ là một sự thực quan trọng. Ðứng trước sự thực quan trọng này, thiết tưởng chúng ta cần: + Khiêm tốn nhận mình có những giới hạn, hạnh phúc mình rất mong manh. Vì thế, xin tạ ơn Chúa đã thức tỉnh ta nhờ những bất ngờ đau đớn. + Khiêm tốn mở lòng ra tìm hiểu và đón nhận thánh ý Chúa trong mọi bất ngờ xảy đến cho bản thân ta, cho dân tộc ta, cho Hội Thánh chúng ta. + Khiêm tốn xem xét lại những quan điểm của ta, trong trường hợp có những phê phán bất ngờ nhắm vào ta. + Khiêm tốn nhìn nhận chân lý này: Thánh ý Chúa thường rất khác với ý riêng của ta. Nếu bất ngờ đó có gây nên đau đớn cho ta, thì xin Chúa cho ta được biết sớm đón nhận những bất ngờ đau đớn đó để kịp sửa mình. + Khiêm tốn chia sẻ những vết thương của những người khác, khi họ bị những bất ngờ đau đớn bởi các biến cố cuộc đời. Xin Chúa giàu lòng thương xót giúp chúng ta biết nhận ra những sứ điệp Chúa gởi cho ta trong những biến cố bất ngờ. Biến cố bất ngờ quan trọng nhất thiết tưởng sẽ là số phận đời đời dành cho ta, sau khi ta chết. Vì thế, sứ điệp đàng sau mọi bất ngờ sẽ là: Hãy cầu nguyện và tỉnh thức trong Chúa Thánh Thần, để nhờ ơn Chúa, ta bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi, đó là qua khổ nạn thánh giá để vào phục sinh. Ta biết trên quãng đường khổ nạn của ta, ta sẽ không tránh được những bất ngờ ít nhiều đau đớn, nhưng đó là ơn cứu độ Chúa thương ban. Ngày 17 tháng 10 năm 2005
Mỗi sáng, khi vừa thức dậy, nhiều người tín hữu thường có thói quen thực hiện một việc thờ phượng Bùi-Tuần 1685
Mỗi sáng, khi vừa thức dậy, nhiều người tín hữu thường có thói quen thực hiện một việc thờ phượng vắn tắt. Việc thờ phượng rất tự do. Như: Làm dấu thánh giá trên mình, dâng lên Chúa đôi lời cảm tạ và phó thác. Với tâm tình hướng về Chúa, tôi cũng vẫn thường làm như vậy. Nhưng, có một sáng, không biết vì sao, khi vừa thức giấc, tôi buột miệng: “Lạy Chúa, con đây”. Ðây là lời xửa xưa cậu bé Samuen đã thưa với Chúa, khi Chúa gọi cậu giữa đêm, thời cậu đang phục vụ Chúa trong đền thờ dưới quyền thầy cả Êli (1 Sam 3).
Lắng nghe “Lạy Chúa, con đây”. Thế là khởi đầu một thói quen mới nơi tôi. Thói quen ấy nhấn mạnh đến việc lắng nghe Chúa hơn là nói với Chúa. Cậu bé Samuen thưa: “Lạy Chúa, con đây, xin Chúa phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1 Sam 3,10). Tôi không được diễm phúc nghe Chúa phán bằng lời, nhưng Chúa luôn nhắc lại những gì đã ghi trong Kinh Thánh. Không phải tất cả, cũng không phải chung chung. Nhưng Chúa phán với tôi bằng cách kéo tâm hồn tôi nhìn thấy một lời nào đó trong Kinh Thánh bỗng sáng rực lên, như một chỉ dẫn cho thời sự cụ thể đang xảy ra. Lời Kinh Thánh đó bừng sáng như ngọn đèn. Hiện tượng ấy làm tôi nhớ lại lời thánh vương Ðavid xưa: “Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,29). Thực tế đúng là như vậy. Có nhiều lúc, đời tôi thực tăm tối mịt mù. Xung quanh tôi như thể đang dần dần thực hiện lời Chúa Giêsu xưa đã nói với các môn đệ của Người trong bữa tiệc ly: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng: Họ đã ghét Thầy trước. Giả như các con thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích các con như những gì thuộc về họ. Nhưng vì các con không thuộc về thế gian. Và vì Thầy đã chọn, đã tách các con ra khỏi thế gian. Nên thế gian ghét các con. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,18-20). Thế gian nói đây được hiểu chung về mọi người cố tình sống theo ý mình, quy chiếu vào xác thịt, trần thế, như mẫu gương đời sống. Càng nhận thức tình hình là thế, tôi càng thêm ước nguyện Chúa sẽ thương đến Hội Thánh ta bằng cách thúc giục mọi người trong Hội Thánh hãy sống theo ý Chúa và thuộc về Chúa. Ðã từ lâu và nhất là hiện nay, tôi chia sẻ tâm thức của thánh vương Ðavid: “Ngay từ sớm, Ngài đã nghe tiếng con, ngay từ sớm, con tỏ bày ước nguyện, rồi chăm chú đợi trông” (Tv 5,4).
Ðợi trông Thực vậy, tôi rất đợi trông Chúa, khi nói: “Lạy Chúa, con đây”. Tạ ơn Chúa, Chúa vẫn đến với lòng đợi trông của tôi. Người đến bằng Thánh Thần của Người - qua lời Kinh Thánh, - qua kinh nghiệm quá khứ của lịch sử tôn giáo, - và qua chính những biến cố đời tôi. Qua những ngả đường đó, Chúa luôn nhắn nhủ tôi là hãy sám hối ăn năn về mọi lỗi lầm, hãy luôn trở về với Chúa và Phúc Âm của Người. Người nhắc đặc biệt đến việc phải sống điều răn mới, mà Chúa đã trối lại trong bữa tiệc ly, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Ðiều Chúa nhấn mạnh nhiều trong lời trối này là: “Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương”. Nghĩa là yêu thương với hy sinh, khôn ngoan, nhất là với sự cầu nguyện tha thiết cho những người tội lỗi và biết chia sẻ tích cực với những người nghèo khổ. Không những Chúa nhắc lại cho tôi điều răn yêu thương, phải coi điều răn đó là rất quan trọng, mà Chúa còn cho tôi cảm thấy tính cách của điều răn yêu thương là rất khẩn thiết cho tình hình hiện nay.
Khẩn thiết Tôi cảm thấy rõ: Thực sự yêu thương như Chúa yêu thương sẽ là thuốc thần cứu độ. Không thực hiện điều đó sẽ là tai hoạ khủng khiếp. Tôi nói lời trên đây dựa theo cơ sở: Một đàng tôi nhìn thấy lửa hận thù ghen ghét và lòng nghi ngờ hiềm khích ích kỷ hiện nay đang lan rộng trên toàn cầu. Những đám lửa loại đó, mà người ta nhìn thấy được, đang càng ngày càng lớn. Còn những đám lửa loại đó, mà người ta không nhìn thấy được, cũng đang ngấm ngầm âm ỷ một cách không kiểm soát nổi dưới nhiều hình thức. Ngoài ra, tôi nhìn lại quá khứ lịch sử, những năm tháng mà sự loại trừ nhau được coi là bình thường trong bầu khí tôn giáo và xã hội . Ðã có thời, người ta công khai khinh miệt những người khác đạo, khác giai cấp, khác sắc tộc, khác quan điểm. Ðã có thời người ta quyết liệt không đội trời chung giữa hữu thần và vô thần. Quyết liệt trong chủ trương và triệt để trong hành động. Khi nhớ về những cảnh đau thương, mà chính tôi đã chứng kiến, tôi rất buồn. Buồn nhất là thấy những việc thời nay cho là ác độc, thì thời đó lại coi là đạo đức. Từ lâu nay não trạng quá khích đã dần dần dịu đi trong đạo ngoài đời tại Việt Nam ta. Tuy nhiên, những kỷ niệm đau buồn xưa vẫn làm tôi lo sợ cho hiện tại và tương lai. Bởi vì đạo đức đang xuống dần trong nhiều lãnh vực một cách ngang nhiên, bình thường. Với tâm thức đó, tôi xin mượn lời thánh vương Ðavid mà cầu xin Chúa.
Cầu xin “Lạy Chúa, xin dạy con cho biết: Ðời sống con chung cuộc thế nào. Ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế” (Tv 38,5). Chúa như trả lời tôi: Ðời sống mỗi người chung cuộc sẽ tốt, ngày tháng mỗi người sẽ đếm bằng thiện chí, kiếp phù du sẽ được bước sang cõi hạnh phúc đời đời, miễn là người ta biết khiêm nhường sám hối trở về với Chúa và giới răn yêu thương của Người. Phải thực hiện ngay, kẻo sẽ quá muộn. Vì ngày Chúa đến sẽ rất bất ngờ. Chúa nhắc lại lời dặn dò xưa: “Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con. Vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát được mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,34-36). Trong tinh thần đó, tôi xin Chúa cho tôi và mọi người được luôn sẵn sàng đón Chúa với lòng sám hối khiêm nhường và chân thành yêu thương vị tha quảng đại. “Lạy Chúa, con đây, xin thương xót con”. Ngày 25 tháng 10 năm 2005
Người hấp hối là người cảm thấy sức sống mình đang bị nguy cơ chấm dứt. Trong tình trạng đó Bùi-Tuần 1686
Người hấp hối là người cảm thấy sức sống mình đang bị nguy cơ chấm dứt. Trong tình trạng đó, người hấp hối sống những giây phút sau cùng một cách hết sức riêng tư, hết sức quan trọng. Nếu chúng ta biết được tâm hồn người hấp hối đã sống thế nào trong thời gian đặc biệt tế nhị đó, hẳn chúng ta sẽ biết thương họ. Ðồng thời chúng ta cũng sẽ biết lo cho chính mình, bởi vì sớm muộn chúng ta cũng đến lúc phải hấp hối, để đi vào cõi chết. Tôi đã nhiều lần tiễn đưa người hấp hối. Chính tôi cũng đôi lần hấp hối, mặc dầu sau đó cơn hấp hối đã qua đi. Vì thế tôi có một chút kinh nghiệm, muốn được chia sẻ, nhân tháng kỳ hồn. Có thể những kinh nghiệm tôi kể ra đây sẽ khác những kinh nghiệm nơi người khác. Khác về thứ tự các diễn biến, khác về tầm quan trọng chủ quan của mỗi diễn biến nơi mỗi người hấp hối do hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, tôi hầu chắc rằng có nhiều điều giống nhau về căn bản. Người hấp hối cảm thấy những gì xuất hiện tự nhiên trong lòng mình, khi nhận thấy mình gần chết? Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm về mục vụ và về bản thân tôi.
1/ Rất mong được đón nhận những cho đi cần thiết Người hấp hối nhận biết mình là người cực kỳ nghèo nàn yếu đuối. Họ không tự mình làm gì cho chính mình được. Họ thấy mình mỏng manh về mọi phương diện. Vì thế, họ mong đón nhận những gì mà họ thấy là hữu ích cho họ. Những gì hữu ích cho họ trong tình trạng hấp hối là những phương tiện hay những người có khả năng bớt cơn đau đớn của họ. Ðồng thời họ rất mong gặp những ai biết chia sẻ nỗi lòng vật vã cô đơn của họ. Phải nói thực là: Những người đến với người hấp hối trước cảnh nghiêm trọng đó, cũng phải nhận thức những giới hạn của mình. Chính họ cũng cảm thấy mình nghèo nàn bất lực trước sự đau đớn bao la của người hấp hối. Tuy nhiên, họ có thể cho người hấp hối rất nhiều an ủi, nếu họ biết yêu thương và tế nhị. Yêu thương và tế nhị nói đây gồm nhiều chi tiết vừa thuộc nội tâm vừa về thái độ bên ngoài. Ở đây chỉ xin nêu lên đôi hình ảnh trong Phúc Âm. Trước hết là hình ảnh Chúa Giêsu, khi đến gần nhà ông Ladarô mới chết. “Chúa Giêsu đã khóc. Thấy vậy những người Do Thái cùng đi nói với nhau rằng: Hãy xem Ngài thương Ladarô đến thế” (Ga 11,35-36). Tình yêu bên trong và thái độ bên ngoài của Chúa Giêsu là những cho đi quý giá. Sự quý giá này dưới những hình thức khác nhau đôi khi có sức cho người hấp hối những đỡ nâng rất hữu ích, lúc họ gần kề sự chết. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh bà goá dâng hai đồng xu vào đền thờ. Phúc Âm thánh Marcô kể: “Ðức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma. Ðức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: Thầy bảo thật các con: Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào đó. Còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,41-44). Hình ảnh trên đây giúp tôi hiểu rằng: Khi tôi giúp đỡ người hấp hối, tôi nên cho đi những gì mà Chúa cho là có giá trị nhất. Trước mặt Chúa, những gì có nhiều giá trị giúp đỡ người hấp hối là những tình yêu chân thành kèm với lời cầu nguyện sốt sắng và hy sinh âm thầm. Cũng từ tình yêu chân thành sẽ nảy sinh sáng kiến cho đi lời nói và cử chỉ tế nhị. Tránh cho những giúp đỡ thăm hỏi của ta trở thành hình thức, vô bổ, vô duyên, thậm chí còn gây khó chịu, bực bội cho người hấp hối.
2/ Rất mong nhìn thấy hy vọng đầy an ủi đàng sau cõi chết Trong giờ hấp hối, người ta sẽ nhìn về quá khứ đời mình. Họ sẽ nghe một câu hỏi của lương tâm: Tôi đã dùng cuộc sống tôi thế nào? Họ sẽ dễ nhận thấy tội phúc khá rõ ràng. Sau đó, người hấp hối rất mong tìm được một hy vọng an ủi đàng sau cõi chết. Ðó là một cảm nghiệm, mà hầu như mọi người hấp hối đều thấy xuất hiện từ thẳm sâu tâm hồn mình. Nó xuất hiện như một mong ước. Mong ước đó đặt thành câu hỏi. Câu hỏi đó đợi tìm một trả lời. Trả lời đó sẽ hé mở một chân trời mới đàng sau cõi chết. Chính vì thế, xin những ai nghĩ đến việc giúp người hấp hối, hãy coi mong đợi trên đây của họ là một việc mình nên đón nhận, cần đoán ra, và có nhiệm vụ phải góp phần giải quyết.
Làm thế nào? Ðối với tôi, việc làm được coi là tốt nhất đem lại hy vọng cho người hấp hối, là tìm cách giúp họ biết đón nhận Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót Chúa là một món quà tặng mỗi người chúng ta. Dù đời sống chúng ta chẳng may đầy tội lỗi, đáng ta phải ném vào cõi chết chịu hình phạt muôn đời. Nhưng, Chúa là Ðấng cứu độ, là sự sống và là sự sống lại. Người sẵn sàng ban tặng chúng ta ơn tha thứ và đưa chúng ta vào cõi trường sinh rạng ngời hạnh phúc. Ðó là quà tặng. Không do chúng ta xứng đáng được lãnh nhận, nhờ công phúc của ta, mà chỉ do lòng thương xót Chúa. Nhưng với một việc phải có. Ðó là ta đón nhận ơn đó với lòng sám hối khiêm cung về mọi lỗi lầm và tin vào tình Chúa xót thương. Những lời tôi vừa nói coi như đơn giản. Nhưng thực tế cho thấy đơn giản chỉ ở chỗ không nhiều đòi hỏi, chứ đòi hỏi, tuy ít, mà vẫn khó thực hiện. Bởi vì lòng người hấp hối thường bộn bề mệt mỏi và bị ma quỷ cám dỗ rất căng. Tôi thấy: Phải cầu nguyện rất nhiều cho họ. Nhất là chính chúng ta, đang khi giúp người hấp hối, ta phải đổi lòng ta trước đã, đặc biệt là biết đến với người đau khổ bằng trái tim của Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhường và phó thác. Nếu ta tưởng rằng đổi được lòng người là do công phúc và nhờ khả năng của ta, thì ta sẽ rất lầm. Phải nhờ ơn Chúa mới giúp người hấp hối gặp được Chúa. Và cũng phải nhờ ơn Chúa, ta mới trở thành những người biết đem tình thương và hy vọng cứu độ cho những người hấp hối. Khi tôi nói về người hấp hối, tôi cũng muốn hiểu rộng sang những người đau bệnh nặng. Với cái nhìn đó, số người đợi chết, mà chúng ta có nhiệm vụ quan tâm giúp đỡ, sẽ rất đông và đa dạng. Họ không xa ta. Việc ta làm cho họ là việc đang được coi là rất cần để làm chứng cho Chúa của chúng ta trong thế giới hôm nay. Việc đó có ích cho đạo, và rất có ích cho chính mình ta. Thực ra, chuyện hấp hối cũng là chuyện của từng người chúng ta. Cái gì phải đến, sẽ đến. Sẽ đến lúc nào, cách nào, ở đâu, chỉ Chúa biết. Vì thế, chúng ta nên gẫm suy sự kiện hấp hối trước mặt Chúa, khi ta còn thời giờ và khả năng gẫm suy. Rồi hãy phó thác thân phận ta cho Chúa với tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Ngày 01 tháng 11 năm 2005
Từ mấy tuần nay, khắp nơi đều chuẩn bị đón Noel bằng nhiều thứ mới mẻ. Thiệp mừng mới, hang Bùi-Tuần 1687
Từ mấy tuần nay, khắp nơi đều chuẩn bị đón Noel bằng nhiều thứ mới mẻ. Thiệp mừng mới, hang đá mới, quà tặng mới, lời chúc mới. Noel còn được đón chờ với nhiều tâm tình mới. Niềm vui mới và nỗi buồn mới, thoả mãn mới và khắc khoải mới, thành công mới và thất bại mới, hy vọng mới và thất vọng mới. Thời sự đời đạo trước Noel được coi là rất mới. Tôi theo dõi, gẫm suy, nhưng không dừng ở đó, để đón Noel. Lòng tôi vẫn thích trở lại thời xa xưa, để bước theo thánh Gioan Baotixita, đấng chuẩn bị cho Ðấng Cứu thế giáng trần. Cách Ngài chuẩn bị rất độc đáo. Tôi tạm gọi cách Ngài chuẩn bị là đánh động lương tâm. Xin kể vài việc gây ấn tượng nhất.
1/ Ðánh động lương tâm bằng đời sống khắc khổ và khiêm tốn Các tượng ảnh thánh Gioan Tiền Hô xưa rày đều chung một kiểu: Một người khoác mảnh da thú, đầu trần, đi chân không, dáng vẻ xuất thân từ rừng núi. Thánh Gioan Tiền Hô đúng là như vậy. Phúc Âm thánh Matthêu viết: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3,4). hấy một người đạo đức khắc khổ khác thường như thế, nhiều người rất thắc mắc. Thắc mắc của họ được Phúc Âm thánh Gioan tả lại như sau: “Khi người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông tuyên bố thẳng thắn rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ lại hỏi: Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? Ông trả lời: “Không phải”. Vậy ông có phải là một ngôn sứ không? Ông đáp: “Không”. Họ liền nói với ông: Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến đây. Ông nói gì về chính ông. Ông nói: Tôi là tiếng hô trong hoang địa. Hãy sửa đường cho thẳng, để Ðức Chúa đi” (Ga 19,23). Thực là những câu trả lời rất khiêm tốn. Phúc Âm thánh Marcô còn thêm một chi tiết khiêm nhường khác. Thánh Gioan Tiền Hô nói: “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Khiêm tốn và khổ hạnh là những dụng cụ thánh Gioan Tiền Hô đã dùng để đánh động lương tâm con người. Ngoài ra, Ngài còn dùng thêm một dụng cụ khác nữa, đó là những lời giảng thẳng thắn.
2/ Ðánh động lương tâm bằng nhìn nhận thẳng thắn tình trạng sa sút Thánh Gioan Tiền Hô không có thói tâng bốc, nịnh bợ những người cầm quyền đời đạo và những ai sống đạo đức giả hình. Phúc Âm thánh Matthêu kể: “Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?... Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Thánh Gioan là người Chúa chọn. Ngài không là dụng cụ của bất cứ quyền lực thế tục nào. Ngài nói sự thật chỉ vì lương tâm ngay chính. Những lời cảnh báo chân thành và thẳng thắn nhiều khi rất cần để đánh động lương tâm. Dùng cách nói đó không phải để doạ nạt, nhưng để cứu chữa. Nhận cách nói đó với lòng khiêm tốn cũng là nhận sự cứu chữa. Rất nhiều khi, người ta sống ngày này sang ngày khác với một lương tâm bình lặng kéo dài, nhưng thực tế mỗi ngày mình sống đều thay đổi. Có ngày thì trong sáng. Có ngày thì nguội lạnh. Có ngày thì tội lỗi. Sự thực về tình trạng linh hồn rất thay đổi, nhưng khi đã quen sống với những thay đổi đó, người ta không còn bén nhạy với tội phúc. Vực thẳm tội lỗi gồm tội cá nhân, tội tập thể, tội cơ chế. Mình chìm trong đó mà không hay. Nhưng, nếu được ai đó nói thực cho biết mình đang trong nguy cơ trầm trọng, biết đâu lương tâm mình sẽ thức tỉnh, để đi tìm một giải cứu. Thánh Gioan Tiền Hô đã là con người biết và dám dùng cách cảnh báo, để dọn lòng người đón nhận Chúa. Sau hết, thánh Gioan Tiền Hô còn dùng một cách nữa, để đánh động lương tâm con người. Cách đó là sám hối và làm chứng cho sám hối.
3/ Ðánh động lương tâm bằng cách làm phép rửa Phúc Âm thánh Marcô ghi lời thánh Gioan Baotixita nói về phép rửa của Ngài như sau: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Còn Ðấng đến sau tôi sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Thánh Gioan Tiền Hô dùng nước đổ trên những người ăn năn sám hối. Phép rửa đó tự nó không tha tội, nhưng là một dấu bề ngoài làm chứng cho sự ăn năn sám hối. Trong thời buổi nào, với nền văn hoá nào, sự ăn năn sám hối cũng vẫn cần được diễn tả bằng một dấu chỉ bề ngoài. Dấu chỉ của sự ăn năn sám hối vừa có tính cách đạo đức cá nhân, vừa mang tính cách xã hội. Dấu chỉ bề ngoài của sự sám hối thường dễ được nhận thấy ở sự tiết độ khó nghèo khiêm nhường trong cách sống, ở những cố gắng dấn thân trong phục vụ, và ở ý chí phấn đấu, chấp nhận những đau khổ âm thầm để trưởng thành và hiệp thông vào mầu nhiệm thánh giá. Tóm lại là phải nêu gương sáng bằng chính đời sống của mình. *** Khi suy nghĩ về đường lối đánh động lương tâm trên đây, tôi thấy thánh Gioan đã không dùng những cách ca ngợi vẻ đẹp này hương thơm nọ của các thứ mùa xuân ảo ảnh, nhưng Ngài đi thẳng vào mùa thu lá rụng, mùa đông khắc nghiệt của đời sống tâm linh để trở về với Chúa. Chính cách sống của Ngài là chứng tá. Thiết tưởng cách đó là cách, mà sau này Chúa Giêsu cũng đã hay dùng, để đánh động lương tâm con người trong kế hoạch cứu độ.
Tôi cầu mong cho tôi và mọi người biết đón Chúa theo gương thánh Gioan Tiền Hô tuỳ mức độ có thể. Cho dù các việc chúng ta làm là rất âm thầm, hèn mọn, trong phạm vi bé nhỏ. Nhất là cho dù máng cỏ trong lòng ta để đón Chúa chỉ kết bằng những khổ đau xác hồn chen giữa tình mến Chúa yêu người thiết tha thinh lặng khiêm tốn. Ngày 30 tháng 11 năm 2005
Năm 2005 coi như kết thúc. Năm 2006 đang bước vào đời ta. Ai cũng hy vọng: Năm tới sẽ mang Bùi-Tuần 1688
Năm 2005 coi như kết thúc. Năm 2006 đang bước vào đời ta. Ai cũng hy vọng: Năm tới sẽ mang đến nhiều ngày tốt mới. Nhưng kinh nghiệm cho thấy: Trên đời, nhiều điều mình tưởng là tốt lại không đến, trái lại nhiều cái mình muốn tránh lại cứ xảy ra. Nên coi đời như thế là một trường huấn luyện. Cũng nên coi đời như thế là một cuộc thi, để chọn người và loại người. Người nói đây gồm mọi người, trong đó có mỗi người chúng ta. Vì thế, đối với tôi, một thứ hành trang tôi cho là cần thiết, để đi vào năm mới là khả năng nhận thức đời mình sẽ không ngừng gặp thử thách, cần biết phấn đấu để luôn sống tốt trong mọi loại thử thách. Vấn đề này rất mênh mông. Ở đây, chỉ xin nhắc qua về ba loại thử thách mà Kinh Thánh hay nhắc tới và kinh nghiệm cuộc đời cũng phơi bày nhan nhản.
Thử thách đắng cay Loại thử thách này vốn mang tính chất gây đau đớn. Ðối với người này thì đau đớn ít. Ðối với người khác thì đau đớn nhiều. Nhưng đối với tất cả, thì đau đớn là thử thách lớn. Có thể nói: Mọi người đều bị thử thách đau đớn tấn công, cách này cách khác. Có người thắng. Có người thua. Ở đây, tôi xin nêu lên một nhân vật nổi tiếng trong Kinh Thánh. Ðó là thánh Gióp. Kinh Thánh chứng thực: “Ông Gióp là con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và tránh xa điều ác. Ông sinh được 7 con trai và 3 con gái. Ông có một đoàn gia súc gồm 7000 con dê, 3000 con lạc đà, 500 đôi bò, 500 lừa cái. Còn đầy tớ thì rất đông...”. Một người như thế đã bị thử thách đắng cay tấn công dồn dập. Vắn tắt 7 đợt liên tiếp: - Dân Sơva xông vào cướp của giết người của ông. - Lửa từ trời đổ xuống đốt một số gia súc và những người của ông còn lại. - Dân Canđê chia thành 3 toán đã cướp hết lạc đà và giết hết người chăn. - Con trai, con gái của ông đang ăn tiệc trong nhà người anh cả đã bị cuồng phong cuốn đi với nhà cửa. - Chính ông Gióp bị chứng ung nhọt mọc đầy mình từ bàn chân tới đỉnh đầu. - Vợ ông trách móc ông đã quá tin vào Chúa. - Một số bạn bè thấy ông thất thế đã chế nhạo ông (x. G 1,1-13). Cơn thử thách thực dữ dằn. Ban đầu, ông Gióp đã than phiền, kêu trách cho số phận mình quá khổ đau. Nhưng sau cùng, nhờ ơn Chúa, ông đã hối hận. Ông nói: “Ðiều đã trót nói, con xin rút lại, Trên tro bụi, con sắp mình thống hối ăn năn” (G 42,6). Chúa đã thử thách ông. Khi thấy ông một mực trung tín, Chúa đã cất đi khỏi ông mọi ưu phiền và trả lại cho ông sự bình an hạnh phúc suốt cuộc đời còn lại. Tôi có cảm tưởng là không thiếu người trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ bị thử thách theo con đường ông Gióp. Tuy không đến nỗi khủng khiếp như trường hợp ông Gióp, nhưng dù với mức độ nào, chúng ta hãy khiêm tốn cậy tin. Càng bị thử thách đớn đau, càng tăng cường cầu nguyện phó thác. Ngoài loại thử thách đắng cay đau đớn, Kinh Thánh lại nêu lên loại thử thách khác. Tôi tạm gọi là thử thách ngọt ngào.
Thử thách ngọt ngào Thử thách ngọt ngào gồm những thứ dễ chịu, có sức lôi kéo người ta sa vào bẫy phản bội và biến chất. Thí dụ sự tự đắc, phô trương, tiền bạc, chức quyền, danh vọng, những lời tâng bốc, nịnh bợ, những thoả mãn xác thịt. Kinh Thánh kể ra nhiều nơi chốn, nhiều cá nhân, nhiều giai cấp đã trở nên hư đốn vì những thử thách ngọt ngào. Dưới đây là vài ví dụ: - Chính đền thờ Giêrusalem, nơi thờ phượng Chúa, đã trở thành nơi mua bán. Thấy thế, Chúa Giêsu đã nổi giận, gọi nơi đó là một thứ “sào huyệt của bọn cướp” (x. Mc 11,17). Các thượng tế nghe vậy, chẳng những không đồng ý với Chúa Giêsu, họ còn phẫn nộ, “tìm cách giết Người” (x. Mc 11,18). Bởi vì các vị lãnh đạo tôn giáo coi sóc đền thờ cũng được chia chác tiền bạc do bọn buôn bán tại đó dành cho. - Kinh Thánh đã thẳng thắn nêu tên một cá nhân vì tiền mà bán chính thầy mình. Ðó là Giuđa Iscariot. Hắn bán Chúa Giêsu với giá rẻ mạt. Chỉ với “30 đồng bạc” (x. Mt 26,14). - Danh vọng, chức quyền là những thử thách ngọt ngào đã quy tụ được một số người không nhỏ, làm thành một giai cấp trong đạo. Họ thích phô trương mình là những người đạo đức. Thời Chúa Giêsu, giai cấp đó được trọng vọng. Nhưng Chúa Giêsu không sợ nói sự thực về họ. Người nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Maisen mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm. Vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào họ ở những nơi công cộng và thích được người ta gọi họ là rabbi” (Mt 23,2-7). Dùng đạo đức giả để đạt được chức quyền, danh vọng, đó là những thử thách ngọt ngào sinh hiệu quả tai hại. Nhưng xã hội nhiều nơi vẫn bị lừa, vẫn chấp nhận, hơn nữa vẫn còn trân trọng. Chính vì thế mà Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh báo. Cảnh báo của Ngài cô đơn. Ngài bị các giai cấp quyền lực đạo đức giả tìm cách tiêu diệt Ngài. Thử thách ngọt ngào vẫn tồn tại. Thử thách đắng cay vẫn còn có giá. Thêm vào hai loại thử thách đó, còn một loại nữa. Tôi tạm gọi là thử thách vô cảm.
Thử thách vô cảm Tôi hiểu thử thách vô cảm là những mưu ma chước quỷ biến đổi lòng dạ con người thành lạnh lùng, vô cảm trước những khổ đau của Ðất Nước, của Hội Thánh, của đồng bào. Tôi xin phép rút vài thí dụ từ Phúc Âm:
- Thứ nhất là người phú hộ sống phủ phê, vô cảm trước thân phận người ăn xin Ladarô (x. Lc 16,19-31). - Thứ hai là thầy tư tế và thầy Lêvi gặp người bị nạn nằm bên đường. Họ nhìn với cặp mắt vô cảm rồi tiếp tục đi (x. Lc 10,29-32). - Thứ ba là thành Giêrusalem. Chúa Giêsu nhìn thành với hai dòng nước mắt. Vì thành này đã tỏ ra vô cảm trước bao nhiêu ơn đặc biệt Chúa ban cho (x. Mt 23,37-39). Vô cảm đưa tới chủ trương vô trách nhiệm liên đới. *** Ba loại thử thách mà tôi vừa nhắc qua, sẽ xuất hiện trong năm mới này không? Tôi nghĩ là sẽ xuất hiện khắp nơi dưới nhiều hình thức. Tôi có cảm tưởng: Trong đạo ngoài đời, loại thử thách ngọt ngào và loại thử thách vô cảm sẽ phát sinh mạnh. Chúng sẽ đưa nhiều người vào các cạm bẫy mới. Xin Chúa thương ban ơn cho mọi người chúng ta biết vượt qua mọi cạm bẫy, luôn trung thành với mọi bổn phận mến Chúa yêu người. Ngày 22 tháng 12 năm 2005
Cách đây 3 ngày, tức sáng ngày 27/12 vừa qua, tại nhà thờ Cần Xây này, một thánh lễ đã được Bùi-Tuần 1689
Cách đây 3 ngày, tức sáng ngày 27/12 vừa qua, tại nhà thờ Cần Xây này, một thánh lễ đã được cử hành long trọng, ấm cúng. Mục đích để cộng đoàn tín hữu xa gần tỏ lòng hiếu thảo đối với các chủ chăn về hưu. Hôm đó, Cha Hypôlytô đã được coi như nhân vật đặc biệt. Hôm nay, Cha Hypôlytô đang thực sự là nhân vật đặc biệt. Ðặc biệt trong tư cách của một người vĩnh biệt. Ðặc biệt trong bầu khí thân mật của cộng đoàn đông đảo tiễn đưa Ngài về nơi an nghỉ. Riêng đối với tôi, Cha Hypôlytô Nguyễn Trường Sanh còn là một nhân vật đặc biệt ở sự Ngài là một linh mục đi hưu lâu nhất, mang bệnh lâu nhất, trong cảnh cô đơn lâu nhất. Tôi được tiếp xúc với Cha nhiều lần. Mỗi lần tiếp xúc, chúng tôi bao giờ cũng trao đổi với nhau đôi chút về tình trạng bệnh tật. Ngài bệnh tật. Tôi bệnh tật. Bệnh tật nan y. Bệnh tật kéo dài. Bệnh tật được cảm nghiệm thường xuyên. Vì thế, bệnh tật trở thành con đường thiêng liêng cho Ngài, cũng như cho tôi. Giờ đây, trong thánh lễ tiễn biệt Ngài, tôi xin chia sẻ đôi chút về con đường thiêng liêng này. Chia sẻ như một lời trối, như một chúc thư. Kính thưa anh chị em, Tình trạng bệnh tật nan trị, và thường xuyên nơi Cha Sanh có thể được diễn tả bằng những điểm sau đây: Ðiểm thứ nhất, đó là Cha Hypôlytô mang thứ bệnh rất khó chịu. Nhưng Ngài không cầu xin Chúa cất bệnh cho Ngài. Ngài chỉ xin Chúa ban ơn cho Ngài được chịu khó cho nên những bệnh tật với mọi hậu quả của nó. Bệnh tật phát sinh đau đớn. Ðau đớn tạo nên cô đơn. Cô đơn gây nên sợ hãi. Sợ hãi tạo nên chán nản. Ðó là những thứ gai quấn lấy sự sống người bệnh. Ai bệnh lâu dài mới cảm được vòng gai đó là một nguồn khổ. Tôi biết Cha Sanh đã cảm thấy rất rõ. Tuy nhiên, Ngài không xin Chúa cất bệnh cho Ngài. Ngài chỉ xin ơn chịu bệnh cho nên. Chúa đã thương nghe lời Ngài bằng cách ban ơn cho Ngài. Và đây là điểm thứ hai của Cha trong tình trạng mang bệnh lâu dài. Ðiểm thứ hai, đó là Chúa hiện diện trong những đớn đau của Ngài. Chúa hiện diện trong những đau đớn của Ngài. Chúa giúp Ngài kết hợp những đau đớn của mình vào những đau đớn của Ðấng Cứu thế. Sự kết hợp đó được thực hiện một cách tự do với tinh thần vâng phục thánh ý Chúa. Lúc ấy, người bệnh không còn là chịu đựng đau khổ một cách miễn cưỡng, nhưng là chấp nhận đau khổ một cách hiến dâng. Người hiến dâng sẽ cảm thấy đời mình, bản thân mình, bệnh tật mình như một thánh lễ sống động trong thánh lễ của Ðấng Cứu thế. Nhờ vậy, họ biết thông cảm với những người đau khổ. Trong ý thức đó, người bệnh sẽ được Chúa dẫn đi xa hơn nữa. Ðó là điểm thứ ba. Ðiểm thứ ba, đó là bệnh tật sẽ được cảm nghiệm như một con đường dẫn tới sự sống mới. Sự sống mới này được chia sẻ từ ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Chính người đau bệnh được ơn phục sinh. Ơn phục sinh này cũng góp phần vào sự cứu rỗi các linh hồn, mở rộng Nước Chúa và thanh luyện Hội Thánh. Dù đau bệnh, Cha vẫn giúp Cha Sở trong mọi khả năng cho phép. Thưa anh chị em thân mến, Thánh Phaolô đã nói: “Nếu được tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11,30). Qua những gì tôi đã biết về Cha Sanh, tôi thấy lời thánh Phaolô nói trên đây là một an ủi lớn cho Cha. Cha đã cảm nghiệm được sự thực đó một cách thấm thía. Trong thánh lễ an táng này, Cha Hypôlytô Nguyễn Trường Sanh đang được Chúa cho phép nói lại với chúng ta lời đó. Cha ra đi. Nhưng đời Cha với bao nhiêu yếu đuối vẫn là một tấm gương cho những người yếu đuối, trong đó có tôi và có anh chị em. Xin tạ ơn Chúa nhân lành, Xin cảm ơn Cha Hypôlytô , Xin vĩnh biệt Cha, với hy vọng sẽ gặp lại Cha bên Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đến muôn thuở, muôn đời. Amen. Bài giảng thánh lễ An Táng Cha Hypôlytô Nguyễn Trường Sanh, tại nhà thờ Cần Xây ngày 29 tháng 12 năm 2005
Cuộc sống là một chuyến đi. Chuyến đi này gồm nhiều chặng, tuỳ cuộc sống dài hay vắn. Các Bùi-Tuần 1690
Cuộc sống là một chuyến đi. Chuyến đi này gồm nhiều chặng, tuỳ cuộc sống dài hay vắn. Các quãng đời không luôn giống nhau. Cuộc đời mỗi người cũng mỗi khác. Nhưng nhìn chung tất cả đều mang một dấu ấn chung. Thánh vương Ðavít tả cuộc đời bằng cách nhấn mạnh đến dấu ấn đó. Ngài nói: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, Mạnh giỏi chăng là được tám mươi Mà phần lớn là gian lao khốn khổ Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,10). Nơi khác, Ngài than: “Xin nhớ rằng, đời con là một kiếp phù du, Loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi” (Tv 89,48). Như vậy, từ mấy ngàn năm trước đây, vua Ðavít đã nhấn mạnh đến dấu ấn cuộc đời là: Phù du mỏng manh mà gian lao khốn khổ. Càng ngày, tôi càng thấy nhận xét của thánh vương Ðavít là sâu sắc. Riêng chặng cuối đời của tôi lại càng là dịp để tôi cảm được thấm thía nhận định đó là sự thực quý giá. Ở đây, tôi xin được chia sẻ chỉ vài cảm nghiệm quan trọng có liên quan đến sứ mạng kẻ được sai đi.
1/ Cảm thấy suy yếu khả năng thích nghi Là người truyền giáo được sai đi, tôi phải gắn bó với một dân tộc nhất định, một mảnh đất nhất định, một lịch sử nhất định. Sự gắn bó của tôi là yêu thương, phục vụ, thăng tiến cuộc sống người dân, đặc biệt về phương diện đạo đức. Cụ thể là làm cho họ biết Tin Mừng: Thiên Chúa là Cha yêu thương họ. Trước đây, tôi cố gắng làm cho họ nhận biết Tin Mừng bằng những cách Chúa Giêsu và các tông đồ xưa đã thực hiện. Ðó là nhờ ơn Thánh Linh qua đời sống thực thi Tám Mối phúc, nhất là đời sống cầu nguyện và tu đức, sống khiêm nhường như muối, như men. Kết quả là Tin Mừng được gieo trồng, nhiều tâm hồn được đổi mới, nhiều tình hình được cải thiện. Nhưng, từ ít năm nay, khi phong trào duy vật thực tế tràn vào đất nước với những đổi mới đề cao tiền bạc và hưởng thụ, thì phương cách rao giảng Tin Mừng tại nhiều nơi cũng tự đổi. Ðời sống quyền chức xem như thay thế đời sống tu đức. Ðời sống hoạt động bề ngoài xem như thay thế đời sống cầu nguyện. Ðời sống hưởng thụ xem như thay thế đời sống Tám Mối phúc. Bộ mặt quyền lực kinh tế xem như thay thế bộ mặt mầu nhiệm thánh giá. Rõ ràng là đạo thích nghi với đời. Một số quan điểm cho rằng đó là thích nghi tốt, có lợi cho việc truyền giáo. Ðến lúc này, sự thích nghi đó chưa có kết luận rõ ràng chính xác. Riêng đối với tôi, tôi không muốn thích nghi như thế. Hay nói cách khác, tôi không đủ thuyết phục để thực hiện những thích nghi ấy. Lương tâm bị giằng co giữa những áp lực, đó là một nỗi khổ âm thầm của người được sai đi. Trong những nỗi đau buồn như thế, tôi hay cầu nguyện, dựa theo lời thánh Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa. Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). Ngoài sự suy yếu khả năng thích nghi, tôi còn cảm thấy một suy yếu khác:
2/ Cảm thấy suy yếu khả năng tự vệ Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói trước về cảnh những môn đệ Chúa bị ghen ghét: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. “Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: Tôi tớ không trọng hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18-20). Trước kia, khi bị bắt bớ cách này cách khác, tôi thấy mình có sức tự vệ, cũng bằng cách này hay cách khác. Nhưng càng về già, sức tự vệ dần dần suy yếu. Cho đến lúc này, tôi chỉ còn biết bám vào một mình Chúa mà thôi. Tôi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán xưa với thánh Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết: Lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn con đến chỗ con chẳng muốn” (Ga 21,18). Lời Chúa trên đây cũng đang được ứng nghiệm nơi nhiều môn đệ Chúa, trong đó có tôi. Tuổi càng cao, bệnh càng nhiều, thì những nghĩ ngợi càng thấm. Nhưng tôi tìm được sự an ủi nơi Lời Chúa: “Lạy Cha, con xin phó dâng hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Tôi thấy Chúa không cất khỏi tôi những đau khổ xác hồn. Nhưng Chúa hiện diện trong những đau đớn lặng lẽ của tôi, để tôi phần nào góp phần của kẻ được sai đi vào công việc cứu chuộc của Ðấng đã sai mình. *** Càng thêm tuổi và càng bị thử thách, tôi thấy cuộc đời vẫn là một hành trình mang hy vọng. Ai cũng phải chịu trách nhiệm về đời mình. Ai cũng có quyền dùng tự do của mình để hoàn thành trách nhiệm hay trốn tránh trách nhiệm. Trách nhiệm của người môn đệ được sai đi bao giờ cũng kèm theo thử thách. Chúa Giêsu đã bị thử thách ở vườn cây Dầu, và cơn thử thách đã đè nặng trên Người như một cơn hấp hối. Người môn đệ Chúa nhiều khi cũng vậy. Nhưng chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu. Dù có toát mồ hôi máu ra, chúng ta vẫn hay cầu nguyện: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22,42). Cuộc đời là phù du mong manh, mà nhiều gian lao khổ sở, như thánh vương Ðavít nói về mọi người. Còn đối với người môn đệ Chúa sai đi, thì cuộc đời là “từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa” (Lc 14,26-27). Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa chước cám dỗ. Long Xuyên, ngày 6 tháng 01 năm 2006
Ai cũng đi tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc cụ thể là gì? Ðó là vấn đề rất phức tạp. Người này quan Bùi-Tuần 1691
Ai cũng đi tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc cụ thể là gì? Ðó là vấn đề rất phức tạp. Người này quan niệm thế này. Người nọ chọn lựa thế kia. Trước cảnh xô bồ đó, Chúa Giêsu cho biết rõ giáo lý của Ngài. Phúc Âm thánh Luca thuật lại rằng: “Khi Ðức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: Ðúng hơn, phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,27-28). Theo lời Chúa dạy trên đây, thì kẻ có phúc là kẻ lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa. Ðó là giáo lý cực kỳ quan trọng. Giáo lý đó là chân lý cứu độ. Tôi khẳng định chân lý đó, với kinh nghiệm dài của tuổi đời, tuổi tu và tuổi mục vụ. Lắng nghe Lời Chúa là việc không dễ. Thực thi Lời Chúa càng là việc không dễ. Những ai muốn nghe được Lời Chúa và muốn tuân giữ Lời Chúa, cần thực thi nhiều điều kiện. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc sơ một điều kiện, mà tôi thấy đang bị nhiều nơi coi thường. Ðiều kiện đó là phải canh chừng kẻo sa vào cạm bẫy quỷ Satan. Bởi vì Satan luôn tìm cách làm cho chúng ta không nghe Lời Chúa và không tuân giữ Lời Chúa. Xin chỉ kể đây vài cách Satan thường hay thực hiện, mà sách Tông Ðồ Công Vụ đã nêu lên: Satan xâm chiếm lòng người Sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng: “Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý với vợ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các tông đồ. Thánh Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất?...” (Cv 5,1-3). Ðể Satan xâm chiếm tâm hồn, đó là trường hợp không phải chỉ xảy ra cho Khanania, mà cũng thường xảy ra cho bất cứ ai hay nuôi dưỡng trong lòng mình những tư tưởng xấu, mặc dầu vẫn được che giấu dưới cái vỏ một cuộc sống bình thường. Chúa Giêsu có lần đã vạch rõ nguồn gốc các lời lẽ tội lỗi và việc làm tội lỗi chính là bên trong lòng người. Chúa phán: “Từ bên trong lòng người, phát xuất ra những ý định xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, tội ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,21-23). Kinh nghiệm cho thấy: Một khi lòng ai thường xuyên để các tư tưởng xấu phát triển, thì lòng người đó cũng có thể coi là đã bị Satan xâm chiếm. Trong tình hình như vậy, Satan sẽ dễ cản ngăn người ấy nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa. Lời Chúa vừa chạm đến tai thì lập tức loại người đó cảm thấy buồn chán, muốn nghĩ sang chuyện khác. Họ không muốn nghe Lời Chúa, lại càng không thấy hứng thú tuân theo Lời Chúa. Nói rằng: “Lòng họ bị Satan cai trị” quả không là quá đáng. Ngoài chuyện vừa kể trên, sách Tông Ðồ Công Vụ lại kể thêm một chuyện nữa, về việc Satan làm, để cản trở việc nghe Lời Chúa và tuân theo Lời Chúa. Việc đó là bẻ cong con đường ngay thẳng của Chúa. Satan bẻ cong con đường của Chúa Sách Tông Ðồ Công Vụ kể: Khi hai thánh Phaolô và Banaba đến Paphô. “Ở đây các ngài gặp một người phù thuỷ, mạo xưng là ngôn sứ. Ông này là người Do Thái, tên là Bagiêsu. Ông ta ở với thống đốc Xécghiô Phaolô, một người thông minh. Thống đốc cho mời ông Banaba và Saolô đến và ước ao được nghe Lời Thiên Chúa. Nhưng người phù thuỷ ấy, tên Hy Lạp là Êlyma, chống lại hai ông và tìm cách ngăn cản thống đốc tin Chúa. Bấy giờ ông Saolô cũng gọi là Phaolô, được đầy Thánh Thần, nhìn thẳng vào người phù thuỷ mà nói: Hỡi kẻ đầy mọi thứ mưu mô và mọi trò xảo trá, hỡi con cái Satan và kẻ thù của tất cả những gì là công chính, người không bỏ thói bẻ cong những đường lối ngay thẳng của Chúa sao?” (Cv 13,6-10). Thánh Phaolô gọi tên phù thuỷ đó là con cái Satan, có thói quen bẻ cong đường ngay thẳng của Chúa. Bẻ cong đường ngay thẳng của Chúa, đó là một cách Satan hay xúi người ta làm. Nếu không cảnh giác, biết đâu chúng ta, những người tin theo Chúa, cũng có lúc rơi vào cạm bẫy đó. Vâng phục ý Chúa, chu toàn bổn phận, cầu nguyện, sám hối, sống bác ái, khó nghèo khiêm tốn, chịu các bí tích, sống Lời Chúa, tất cả những việc đó là những con đường ngay thẳng đưa ta đến với Chúa. Ðó là những con đường ngay chính đưa ơn Chúa xuống cho ta. Nhưng biết bao lần, Satan bẻ cong những con đường đó. Hoặc bằng cách xúi ta coi thường những con đường đó. Hoặc bằng cách giục ta thay thế những con đường đó bằng những con đường thế tục, xa lạ với Phúc Âm. Hoặc bằng cách dụ dỗ ta đi theo những con đường đó một cách hình thức, với mục đích phô trương, tìm tư lợi thế tục nào đó, chứ không vì Chúa và vì phần rỗi. Bẻ cong đường ngay thẳng của Chúa, đó là điều chỉ những linh hồn cầu nguyện, tỉnh thức trong ơn Chúa, mới nhận thấy trong thế giới hiện nay.
Chiến đấu chống Satan Thế giới hiện nay là một thế giới phát triển. Có phát triển tốt, mà cũng có phát triển xấu. Nếu chúng ta biết phân định tốt xấu theo ơn Chúa, thì chúng ta không khỏi sợ cho thế giới, cho Hội Thánh và cho chính mình ta. Bởi vì quyền lực của Satan đang phát triển mạnh. Phát triển mạnh của nó sẽ là cản trở lớn cho việc rao giảng Lời Chúa và thực thi Lời Chúa. Những trường hợp “quỷ ám” kể trong Phúc Âm cũng vẫn tiếp diễn hiện nay dưới nhiều hình thức. Nhiều người do đó mà mất linh hồn. Nhất là trong những tình hình khinh thường đời sống nội tâm. Vì thế, những người tin theo Chúa cần nhận thức rằng: Ðể sống Lời Chúa và để thực thi Lời Chúa, thì phải kiên trì chiến đấu chống Satan. Chiến đấu bằng những khí giới chính Chúa đã chỉ bảo. Chúa Giêsu nói rõ: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ” (Mt 26,41). Xin nhớ: Tỉnh thức bên Chúa và cầu nguyện với Chúa. Chứ đừng tỉnh thức bên các tinh thần thế tục phản Chúa và đừng cầu cứu với các thứ tinh thần xa rời Phúc Âm. Quyết tâm chiến đấu như thế là một điều kiện cần thiết, để đón nhận hạnh phúc thực sự vững bền do Chúa giàu lòng thương xót ban cho. Long Xuyên, ngày 8 tháng 01 năm 2006
Ðất Nước Việt Nam chúng ta vừa bước sang năm Bính Tuất. Năm Mới này sẽ ra sao? Nói thiệt Bùi-Tuần 1692
Ðất Nước Việt Nam chúng ta vừa bước sang năm Bính Tuất. Năm Mới này sẽ ra sao? Nói thiệt là: Ngay ngày mai, chúng ta cũng không dám chắc sẽ thế nào. Phương chi tương lai một năm dài, ai mà biết được chắc chắn những gì sẽ xảy tới. Tuy nhiên, Kinh Thánh và kinh nghiệm cho phép ta dự đoán trong Năm Mới này sẽ xảy ra những sự sau đây tại quê hương ta và trên thế giới. Dự đoán thứ nhất là: Trong năm mới này sẽ xảy ra nhiều bất ngờ. Có những bất ngờ dễ chịu và có những bất ngờ khó chịu. Nhưng tất cả mọi bất ngờ xảy ra đều sẽ gây bàng hoàng. Kinh Thánh quyển Giảng Viên đã đưa ra 4 hình ảnh sau đây để gợi ý: - Một dây bạc bị đứt đột ngột. - Một bình vàng bị vỡ đột ngột. - Một thùng kín nước bị bể đột ngột. - Một cuộn dây kéo nước bị hư đột ngột (x. Gv 12,6). Những hình ảnh trên đây ám chỉ những sụp đổ bất ngờ, những xung đột bất ngờ, những tai nạn bất ngờ, những mâu thuẫn bất ngờ. Những biến cố đó tự nó không nói. Nhưng khi những bất ngờ như thế xảy ra, thì Chúa nói trong những biến cố đó. Lời Chúa nói âm thầm, nhưng có thể dự đoán là Chúa kêu gọi người ta hãy cầu nguyện với Chúa, hãy hồi tâm sám hối trở về đàng lành. Nhất là hãy tỉnh thức. Như lời Chúa phán xưa: “Các con hãy canh thức, vì các con không biết ngày nào Chúa các con sẽ đến” (Mt 24,42). Hậu quả những bất ngờ gây nên cho ta sẽ tuỳ vào sự ta có nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa nhắn gởi hay không? Hậu quả ấy có thể sẽ rất lớn lao, liên hệ đến hạnh phúc đời này, nhất là đến số phận đời sau. Dự đoán thứ hai là: Trong năm mới này sẽ bùng nổ một lối sống hướng mạnh về phô trương hình thức, chạy theo dư luận hồ đồ và hướng mạnh về cạnh tranh giữa các giá trị vật chất, để hưởng thụ bất chính. Trong xã hội, trào lưu đó sẽ pha trộn tốt xấu. Trong đạo, nhiều người sẽ bị ảnh hưởng. Và nếu không cảnh giác, tinh thần đạo sẽ dần dần rời xa Phúc Âm. Trước viễn tượng này, chúng ta nên nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã dạy xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Theo lời Chúa trên đây, chúng ta phải nắm chắc điều căn bản để được vào Nước Trời. Ðiều đó là vâng theo ý Chúa Cha, thi hành ý Chúa Cha. Vì thế, bất cứ việc gì của ta, bất cứ lời nào của ta, bất cứ tư tưởng nào của ta, đều phải được xem xét dưới ánh sáng Lời Chúa, xem có hợp ý Chúa Cha không. Nếu hợp thì hãy thi hành. Nếu không hợp thì dứt khoát phải bỏ đi. Ðiều rất đáng ngại, đó là nơi một số người chúng ta, tình mến Chúa yêu người không tan biến hẳn một lúc, nhưng mỗi ngày biến chất đi một chút. Cứ đà đó, lương tâm trở thành quen với thói xấu, không còn bén nhạy nhận ra mình đi sai. Ðến lúc sụp đổ, thì đã quá muộn. Dự đoán thứ ba là: Trong năm mới này sẽ khơi động trong nhiều tâm hồn tâm tình ca ngợi lòng thương xót Chúa. Tuy sự ác sẽ mạnh làm cho lòng đạo nhiều người và nhiều cộng đoàn trở nên sa sút, nhưng những ai khiêm tốn sẽ được Chúa đào tạo, thanh luyện để trở thành công trình của lòng thương xót Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ sẽ luôn tỏ ra mình là người con bé nhỏ của Chúa. Trong khi khoẻ mạnh hay được may mắn, cũng như khi đau ốm hay gặp khó khăn, họ vẫn nhận ra tình Chúa yêu thương họ, họ vẫn đọc được tín hiệu của trái tim Chúa gởi cho họ. Họ vẫn để Chúa dắt đi, cho dù phải qua những đoạn đường hiểm nguy tăm tối, khổ đau. Họ vẫn nhận mình khiếm khuyến yếu hèn, để sám hối trong tin cậy. Riêng đối với tôi, tôi vẫn mượn hình ảnh trong Thánh Vịnh sau đây của vua Ðavít mà chúc tụng Chúa: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, Tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm, Tội ta phạm, Chúa cũng ném thật xa. Như người Cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103,11-13). *** Ðể kết bài chia sẻ vắn tắt đầu năm Bính Tuất, tôi xin cùng với tất cả đại gia đình chúng ta, hết lòng phó thác năm mới này cho Chúa. Một năm sẽ có những bất ngờ, một năm sẽ có nhiều thử thách, nhưng cũng sẽ là một năm chúng ta được Chúa thôi thúc: - luôn cậy trông Chúa. - luôn tuân phục ý Chúa. - luôn phấn đấu thuộc về Chúa. - luôn đi về với Chúa. - luôn gắn bó với Chúa. - luôn tín thác nơi Chúa. - luôn là nhân chứng của tình thương Chúa qua phục vụ và tha thứ. Và như thế, cuộc đời ta năm nay sẽ là một đóng góp âm thầm vào việc phát triển Nước Trời và Quê Hương ta. Ðóng góp ấy sẽ là một ca khúc nội tâm tán tụng lòng thương xót Chúa muôn đời. Long Xuyên, ngày 24 tháng 01 năm 2006
Ðức Thánh Cha Benedictô XVI mới gởi thông điệp đầu tiên của triều đại Ngài cho toàn thể Hội Bùi-Tuần 1693
Ðức Thánh Cha Benedictô XVI mới gởi thông điệp đầu tiên của triều đại Ngài cho toàn thể Hội Thánh. Thông điệp mang tựa đề: “Thiên Chúa là tình yêu”. Ðây là một lời Chúa trích từ thư thánh Gioan tông đồ (1 Ga 4,8). Thông điệp này đã mang lại cho tôi một niềm vui lớn lao. Tôi xin được chia sẻ đôi chút, với tâm tình cảm tạ Chúa và biết ơn Ðức Thánh Cha.
1/ Xác định rõ cội nguồn hạnh phúc Cuộc sống hôm nay càng ngày càng đón nhận nhiều thứ mời gọi. Như: Mời gọi của tiền bạc, của địa vị, của tình yêu, của hưởng thụ, của quyền chức, của các thứ sang trọng, vv... Các thứ mời gọi này tạo nên trong phần đông một tin tưởng nào đó rằng chính các thứ ấy là cội nguồn hạnh phúc. Hãy đi theo hướng đó. Hãy giao ước với sức mạnh ấy. Hãy trầm mình vào dòng văn minh đang lôi cuốn lịch sử. Mặc dù các thứ như thế chỉ là những hệ thống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá mong manh, nhưng không thiếu người vẫn đua nhau chạy theo. Kết quả là cuộc sống nơi nhiều người đang trở nên trống vắng. Họ thiếu chiều kích thiêng liêng. Hơn nữa một hiện tại quay cuồng đang đẩy con người mù quáng xuống vực thẳm tương lai vô đạo đức, phá hoại phẩm giá con người, lật đổ trật tự xã hội lành mạnh. Chính trong hoàn cảnh này, Ðức Thánh Cha đã đánh thức nhân loại bằng một lời Chúa mang sức cứu độ, “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa tình yêu mới chính là cội nguồn của hạnh phúc thực sự vững bền. Hãy đi về hướng Thiên Chúa là tình yêu. Hãy ở lại với Người. Hãy sống với một giao ước mới. Từ đó, sẽ thành hình một nền văn minh tình yêu. Và từ đó, người ta có thể cảm nhận được phần nào về Nước Thiên Chúa. Nước ấy đang khởi sự ngay ở trần gian này và trong thời gian này. Trong Nước Trời ấy, mọi người sẽ là anh em, được gọi Thiên Chúa là Cha của mình. Khi xác tín đó thực sự được nội tâm hoá và thực sự sống động, thì chắc sẽ giảm bớt được rất nhiều những ghen tương, tranh chấp tại nhiều nơi theo đạo. Thậm chí cũng có thể đã không xảy ra một số cuộc chiến tranh thảm khốc đáng tiếc trong quá khứ do xung đột đức tin.
2/ Xác định tiêu chuẩn phục vụ của cuộc sống Khi tôi được phép gọi Thiên Chúa là Cha, mà là Cha tình yêu, thì tất nhiên mọi tư tưởng, lời nói và hành động của tôi đều phải dựa theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa tình yêu. Những tiêu chuẩn ấy đã được Chúa Giêsu truyền dạy và nêu gương. Nhưng, muốn hiểu đúng các tiêu chuẩn ấy, tôi phải biết lắng nghe Chúa Thánh Thần. Thế nhưng phương tiện quan trọng đó xem ra đang bị lãng quên tại nhiều nơi trong Hội Thánh. Chúng ta đang chứng kiến đây đó một cảnh mị dân, chiều theo dư luận ồn ào, xa Phúc Âm. Chúng ta đang chứng kiến đó đây cảnh xông hương cho các thần tượng thù địch với Tin Mừng. Chúng ta đang chứng kiến nơi này chỗ nọ cảnh tự tôn tự phụ đề cao ý riêng mình, trong cả các lãnh vực tu đức, sống đạo và truyền giáo. Trước nguy cơ trên đây, Ðức Thánh Cha nhắc nhở: “Thiên Chúa là tình yêu”. Chúa không cho phép ai muốn sống sao thì sống, nhưng phải sống theo tình yêu. Tình yêu chân chính có luật riêng của nó. Tình yêu Thiên Chúa có đường lối, tiêu chuẩn được thể hiện nơi Ðức Kitô. Ðoạn thư thánh Gioan dưới đây cho thấy phần nào: “Tình yêu Chúa đối với chúng ta được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10). Xin đọc tiếp câu sau rất quan trọng: “Anh em rất thân mến, nếu Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy” (1 Ga 4,11). Như vậy, tiêu chuẩn các liên đới trong đời sống của chúng ta là yêu thương nhau, như Chúa đã yêu thương ta. Ðó là một tình yêu phục vụ, dấn thân, hy sinh, quên mình. Mới rồi, nhân ngày thầy thuốc 27/2/2006, báo Thanh Niên số 58 (3719) thứ Hai, trong mục “Chào buổi sáng”, chuyện tử tế, tác giả Xuân Hoà mở bài như sau: “Cách đây hơn hai chục năm, tại khu điều trị phong ở Quy Hoà, Quy Nhơn, đoàn làm phim chuyện tử tế gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và hỏi: “Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi? - “Các bà Soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà Soeurs...”. Ðọc mấy dòng trên, tôi rất vui mừng. Niềm vui của tôi là thấy các thầy thuốc và đồng bào ở trại phong Quy Hoà đã nhận định các nữ tu phục vụ tại đó theo một tiêu chuẩn đạo đức rất đáng mến mộ. Tiêu chuẩn đó là yêu thương dấn thân hy sinh cho những bệnh nhân đau khổ.
3/ Xác tín hướng sống đạo Tôi thấy con người thời nay rất coi trọng những cuộc đời dấn thân như thế. Ðức ái là một dấu ấn trở thành tiêu chuẩn để tôn vinh con người phục vụ. Mẩu tin trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới việc sống đức tin tại Việt Nam hôm nay. Nếu đức tin không được phiên dịch sang đức ái mang thánh giá hy sinh, thì sẽ khó làm chứng được cho một nền văn minh tình yêu nơi những người con của Thiên Chúa là tình yêu. Thông điệp của Ðức Thánh Cha đang thúc đẩy chúng ta đi sâu hơn vào cội nguồn hạnh phúc và đi sát hơn với phương tiện phục vụ của đời ta. Cội nguồn đó là Thiên Chúa tình yêu. Phương tiện phục vụ đó là tình yêu hy sinh quên mình. Việc đi sâu, đi sát trên đây sẽ không dễ, nếu thiếu sự gắn bó với Chúa và nếu thiếu sự khiêm nhường cậy nhờ vào ơn Chúa. Càng đi sâu, đi sát, chúng ta càng thấy giá trị thực của mỗi người tuỳ thuộc phần lớn vào cái tâm. Vì thế, việc dạy đạo, việc sống đạo, việc truyền đạo sẽ phải chú ý nhiều hơn đến cái tâm. Một cái trí thông minh, lạnh lùng sẽ không bằng một cái tâm nhạy bén, thương cảm, dấn thân. Trong huấn luyện cần phát triển cân đối cái trí đồng thời với cái tâm. Với vài xác tín như trên, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa vì thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”. Ðồng thời cũng xin ca ngợi việc làm sáng suốt của Ðức Thánh Cha. Người đã biết cộng tác khôn ngoan với Thiên Chúa tình yêu trong việc lãnh đạo Hội Thánh giữa thời buổi phức tạp đầy khó khăn này. Rất mong mọi người chúng ta sẽ áp dụng thông điệp này vào đời sống. Long Xuyên, ngày 28 tháng 02 năm 2006
Tuần báo Công giáo và Dân tộc số vừa rồi (1556) đã dự đoán “sẽ có cải cách phụng vụ”. Dự đoán Bùi-Tuần 1694
Tuần báo Công giáo và Dân tộc số vừa rồi (1556) đã dự đoán “sẽ có cải cách phụng vụ”. Dự đoán này dựa trên một cuốn sách của linh mục người Anh Uwe Michael Lang mới phát hành ngày 26-4-2006. Trong cuốn sách này, linh mục Lang loan báo một số quan điểm riêng của Ðức đương kim Giáo Hoàng về phụng vụ khi Ngài còn là Hồng Y Joseph Ratzinger. Thực sự, khi còn là Hồng Y Tổng trưởng Bộ Ðức Tin, Ðức Benedictô XVI đã thẳng thắn và sốt sắng trình bày một số quan điểm riêng của Ngài về phụng vụ. Tôi có trong tay cuốn tiếng Pháp “L'esprit de la Liturgie” (Tinh thần Phụng vụ) của Ðức Hồng Y Ratzinger, dịch từ nguyên bản tiếng Ðức “Der Geist der Liturgie” do nhà xuất bản Herder Verlag phát hành năm 2000. Cuốn này là một nghiên cứu sâu rộng, cộng thêm tinh thần đạo đức nồng nàn. Ðức Thánh Cha sẽ cải cách phụng vụ hay không. Ðiều này chưa biết được. Nhưng tôi thấy những quan điểm của Ngài rất hay. Tuy nhiên, sẽ là một việc rất tế nhị, nếu những quan điểm đó của Ngài trở thành nền tảng để đi tới một cải cách rộng lớn. Ở đây, chỉ với mục đích thông tin, tôi xin nêu lên hai điều: 1- Những vấn đề Ðức Thánh Cha đã đề cập đến trong cuốn sách của Ngài. 2- Những chọn lựa của Ngài rất đáng quan tâm. 1/ Những vấn đề phụng vụ được nêu lên Những vấn đề này, tuy cũ, nhưng được Ðức Thánh Cha suy nghĩ với những quan điểm mới. Ðể có một cái nhìn tổng quát, tôi xin giới thiệu mục lục. Sách gồm 04 phần: + PHẦN I mang đầu đề: Căn bản của phụng vụ. Chương một: Vai trò của phụng vụ trong cuộc sống con người. Chương hai: Phụng vụ, vũ trụ và lịch sử. Chương ba: Hình thức căn bản của phụng vụ công giáo. + PHẦN II mang đầu đề: Thời gian và không gian trong phụng vụ. Chương một: Thời gian và không gian trong phụng vụ. Chương hai: Nơi thánh và ý nghĩa của nhà thờ. Chương ba: Bàn thờ và phương hướng việc cầu nguyện phụng vụ. Chương bốn: Nơi để Mình Thánh. Chương năm: Thời gian thánh. + PHẦN III bàn về nghệ thuật và phụng vụ. Chương một: Tượng ảnh và phụng vụ. Chương hai: Ca nhạc và phụng vụ. + PHẦN IV bàn về hình thức của phụng vụ. Chương một: Các nghi thức. Chương hai: Thân xác trong phụng vụ.
1. Tham dự tích cực. 2. Dấu Thánh giá. 3. Bái quỳ và cúi đầu. 4. Ngồi và đứng. 5. Các cử chỉ. 6. Lời nói và thinh lặng. 7. Áo lễ. 8. Vật liệu của các bí tích. Ðọc qua mục lục trên, ta thấy Ðức Thánh Cha đã gẫm suy phụng vụ một cách tỉ mỉ. Nói chung, những mổ xẻ của Ngài dạy ta rất nhiều. Trong đó, có một số chọn lựa của Ngài rất đáng quan tâm.
2/ Những chọn lựa rất đáng quan tâm 1. Nhấn mạnh đến phía Ðông Ðức Thánh Cha nhắc đến sự kiện Kinh Thánh ví Chúa Cứu thế như mặt trời. Mặt trời luôn mọc lên từ chân trời phía Ðông. Thánh vịnh 19 nói: “Thái dương xuất hiện như tân lang rời khỏi loan phòng, và vui sướng lên đường, như tráng sĩ. Từ chân trời này, thái dương xuất hiện, rồi chuyển vần mãi đến chân trời kia, chẳng có chi tránh khỏi ánh dương nồng” (Tv 19,6-7). Trong Phúc Âm thánh Gioan, chính Chúa Giêsu cũng xưng mình là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì sẽ không ở trong bóng tối” (Ga 12,46). Sách Khải Huyền đã kết bằng lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Dựa trên tinh thần Kinh Thánh, rất nhiều người từ xưa tới nay vốn quen nhìn Chúa Cứu thế như Mặt trời công chính. Tất nhiên đây chỉ là một hình ảnh. Người đến để cứu nhân loại khỏi bóng tối tội lỗi. Ai đón nhận Người sẽ được cứu độ. Ðể nhắc nhở điều đó, Hội Thánh từ xưa vốn có thói quen xây các đền thờ hướng về phía đông. Ðể khi dân Chúa cầu nguyện, họ dễ nhớ đến sự mình đón Chúa. Chúa đã đến và sẽ lại đến như mặt trời cứu độ. Với những suy nghĩ như vậy, Ðức Thánh Cha cũng đã bàn tới vấn đề: Chủ tế nên quay mặt về phía cộng đoàn, hay cùng cộng đoàn quay về hướng chung. Xem ra Ngài không thích cảnh cộng đoàn quá chú trọng đến chủ tế hơn là đến Chúa.
2. Ðề cao bái gối Ðức Thánh Cha ca tụng việc bái gối trong phụng vụ. Ngài kể lại thói xưa coi việc phủ phục trước thánh nhan là việc đương nhiên. Tân Ước nói đến việc phủ phục 59 lần. Riêng trong sách Khải Huyền nhắc tới 24 lần. Phủ phục là thái độ tôn kính nên làm trước Thiên Chúa. Ðọc các Phúc Âm, người ta không khỏi ngạc nhiên, khi thấy thái độ của Chúa Giêsu hay quỳ gối cầu nguyện. Cảm động nhất là khi Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây Dầu. Không những Người quỳ gối, mà còn sấp mặt xuống đất, để gởi tâm tình phó thác nơi Chúa Cha.
3. Lưu ý nhiều hơn đến thinh lặng Nhiều mầu nhiệm vượt quá khỏi các thứ lời nói. Lúc ấy, người ta nên đón nhận mầu nhiệm bằng sự thinh lặng. Thinh lặng nói đây là sự hồi tâm đem lại bình an và sự thực căn bản cho ta. Những thời gian thinh lặng nên được thực hiện trong thánh lễ thì nhiều. Như trước và sau bài giảng, đang khi dâng lễ, sau truyền phép. Ngoài ra Ðức Thánh Cha rất muốn chủ tế đọc kinh nguyện Thánh Thể với giọng nhỏ nhẹ, với tinh thần suy niệm sâu thẳm. Sự thinh lặng nhiều khi ví được như một lời kêu van nài tha thiết, hiệp thông sâu sắc với Chúa Thánh Thần. *** Trên đây chỉ là vài thông tin về tinh thần phụng vụ nơi Ðức Thánh Cha Benedictô XVI. Nếu tôi không lầm, thì tinh thần phụng vụ này được khơi dậy và nhuần nhuyễn từ 04 nguồn sau đây: Kinh Thánh, Thần học, Tu đức và Truyền thống. Khi còn là Hồng Y, sắp bước vào tuổi già, Ngài đã chia sẻ tinh thần này với mục đích kơi động một sự kính trọng mới và một sự hiểu biết mới về phụng vụ. Dù sẽ có hay không một cải cách về phụng vụ, những chia sẻ của Ðức Thánh Cha về phụng vụ cũng đang là một luồng gió mới thổi vào Hội Thánh. Nhờ vậy, việc cử hành phụng vụ ở nhiều nơi đã được thực hiện một cách xứng đáng hơn. Không chỉ với những nghi thức bề ngoài có chất lượng, mà nhất là với những tâm tình nội tâm sốt sắng, được Chúa đổi mới mỗi ngày. Hy vọng những chia sẻ quý báu của Ngài được đón nhận rộng rãi, như một phần của chương trình đổi mới Hội Thánh. Long Xuyên, ngày 6 tháng 4 năm 2006
Trên cõi đời này, sự thiện và sự ác là hai thực tại phổ biến. Ở đây sự thiện và sự ác được hiểu về Bùi-Tuần 1695
Trên cõi đời này, sự thiện và sự ác là hai thực tại phổ biến. Ở đây sự thiện và sự ác được hiểu về hai nội dung giới hạn. Giới hạn của sự thiện gồm những gì là đạo đức. Giới hạn của sự ác bao trùm mọi thứ gì là tội lỗi. Có những đạo đức đã thay đổi cả một miền, một thế hệ. Cũng vậy, có những tội lỗi đã đổi thay bộ mặt và số phận của cả một dân tộc, một lịch sử. Chứng tỏ rằng đạo đức đã có thể thành một sức mạnh, và tội lỗi cũng có thể đã trở thành một thế lực. Cả hai đều tranh giành phần thắng. Thắng thua quan trọng là ở lòng người và trong cơ chế.
Trách nhiệm trước thiện ác Ðối với những người tin theo Chúa, cuộc chiến giữa thiện và ác là một vấn đề sống còn. Nó liên hệ mật thiết đến phần rỗi. Cuộc đời mỗi người là một cuộc chiến. Cuộc chiến này nhắm mục đích: Ðể biết phân biệt cái gì là tốt, cái gì là tội, và để biết làm điều lành, tránh điều ác. Ðó là vấn đề đặt ra cho mọi nơi mọi lúc. Nhất là cho những thời và những nơi xảy ra khủng hoảng về đạo đức. Hiện nay, khủng hoảng về đạo đức là một thời sự. Thời sự này như những dòng nước đang dâng cao, tràn vào khắp nơi. Nơi thì cảnh giác. Nơi thì đón nhận. Hơn bao giờ hết, Việt Nam đang sống trong giai đoạn đổi mới. Kinh nghiệm cho thấy trong quãng lịch sử này, tại Việt Nam đã bùng phát những ánh sáng mới, đồng thời với những bóng tối mới. Có những hy vọng mới và cũng không thiếu những lo âu mới. Nói chung, Hội Thánh Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc thắp sáng lên niềm hy vọng trong chương trình đổi mới Ðất Nước, bằng sự đổi mới chính mình. Ðổi mới chính mình, để góp phần đổi mới Ðất Nước được hiểu thế nào? Những cách nào đã giúp nhiều cộng đoàn đức tin phát triển sự thiện và đẩy lùi sự ác? Rút kinh nghiệm riêng tư, từ cộng đoàn của mình và từ nhiều cộng đoàn khác, tôi xin nêu lên mấy yếu tố đã gây được nhiều hiệu quả tốt trong sự đổi mới chính mình, để góp phần trong cuộc chiến phát triển sự thiện và đẩy lùi sự ác.
A- Ba trách nhiệm ưu tiên: Có nhiều trách nhiệm, nhưng có 3 trách nhiệm đã được nhiều nơi chọn là ưu tiên: 1/ Tăng cường và đổi mới việc loan báo đức tin. Bằng nhiều cách, như tiếp xúc, viết báo, phổ biến các tác phẩm đạo. Nhưng nhất là bằng cách hoạt động nhóm, và làm chứng cho Chúa bằng đời sống tốt, một đời sống được đổi mới bởi Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đổi mới họ hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua những người dạt dào lửa mến. 2/ Tăng cường và đổi mới việc cầu nguyện. Nhà thờ được coi là nhà cầu nguyện sống động. Lúc đông, lúc thưa. Lúc chung, lúc riêng. Lúc đọc kinh, lúc suy niệm âm thầm. Cầu nguyện trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn, được thực hiện bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Nội dung cầu nguyện thường tập trung vào Lời Chúa. Căn bản cầu nguyện là gặp gỡ Chúa Giêsu một cách sống động. Ðể đón nhận những tình cảm của Người trước những người đau khổ, hèn mọn. Ðể được Người chia sẻ cho những dự định của Người trước những tình hình giông bão tội lỗi. 3/ Tăng cường và đổi mới đời sống bác ái. Ai trong cộng đoàn cũng được nhận tình mến thương. Không ai bị loại trừ, bị ghen tương, hoặc bị kể như người vô ích. Những đối tượng được quan tâm nhiều hơn trong thái độ tế nhị yêu thương là bệnh nhân, những người già cả, những người neo đơn. Tình hiếu thảo rất được đề cao. Các tương quan xã hội với những người ngoài công giáo được xây dựng với tình thân thiện chân tình. Một bác ái đặc biệt nhất là cảm nhận được sự đau đớn của Chúa chiên lành trước cảnh tội lỗi, nguội lạnh từ chối ơn Chúa nơi bao người xung quanh. Song song với việc chu toàn ba trách nhiệm trên đây, có 3 bầu khí đạo đức luôn được để ý mở rộng.
B- Ba bầu khí đạo đức được mở rộng: 1/ Bầu khi tham gia trách nhiệm. Trong cộng đoàn, lớn bé, già trẻ, nam nữ, ai cũng cảm thấy mình có trách nhiệm với Hội Thánh và Ðất Nước. Bầu khí này gieo vào lòng mọi người niềm vui và tự hào lành thánh. Trách nhiệm cần nêu rõ là trách nhiệm dấn thân, xua đuổi ma quỷ bằng đời sống người môn đệ Chúa, đi theo Chúa, thuộc về Chúa. 2/ Bầu khí phục vụ. Phục vụ trước đây được thực hiện như một bầu khí thiện chí. Nay phục vụ được thực hiện như một sứ vụ của người được Chúa sai đi. Phục vụ nhân danh Chúa. Phục vụ với tinh thần đức tin, nghĩa là phục vụ Chúa trong mọi người. Phục vụ một cách tế nhị, khiêm nhường, dù mình là ai và họ là ai. Trong mọi phục vụ, luôn toả sáng tư tưởng và thái độ không để vật chất điều khiển mình. 3/ Bầu khí nội tâm. Bất cứ tín hữu nào đều cố sống lời Chúa Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, chúng con là ngành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Ðời sống nội tâm này trước đây thường chỉ được hàng giáo sĩ, tu sĩ quan tâm. Nhưng nay nó đã lan sang giáo dân một cách sâu rộng. Nó làm cho nhiều giáo dân nay có một cách suy nghĩ mới, một thái độ mới trong cuộc sống, một mơ ước mới trong việc thăng tiến con người và xã hội. *** Trên đây là một thoáng phác hoạ bộ mặt mới của một số giáo đoàn tại Việt Nam hôm nay. Với bộ mặt mới này, các cộng đoàn sẽ rất nhạy bén với những soi sáng của Chúa Thánh Linh. Với ơn đổi mới của Chúa Thánh Linh, các cộng đoàn của Hội Thánh sẽ không ngại thực hành những việc lành nhỏ, những khởi hành nhỏ, những sứ mạng nhỏ. Chính nhờ vậy mà trong hoàn cảnh Ðất Nước Việt Nam đang đổi mới, những người tin theo Chúa vẫn được chấp nhận như những men tốt, những muối tốt, cho dù men và muối vẫn hoạt động âm thầm nhưng mạnh mẽ. Mọi hình thức phô trương đều không có giá trị làm chứng cho mầu nhiệm thánh giá. Chúng cũng dễ gây nên những dị ứng bất lợi cho việc truyền giáo. Với niềm tin đó, tôi xin phép mượn lời thánh Phaolô để kết: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa. Ðó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Chúa. “Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy thay đổi con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1-2). Long Xuyên, ngày 21 tháng 5 năm 2006
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử. Mới về nhiều mặt. Nhưng cái mới đáng Bùi-Tuần 1696
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử. Mới về nhiều mặt. Nhưng cái mới đáng nói nhất lúc này là vấn đề nhân sự lãnh đạo. Ðất nước có những vị lãnh đạo mới, Hội Thánh có những vị đứng đầu mới ở một số đơn vị, như giáo phận, giáo xứ, nhà dòng. Nhân sự lãnh đạo, bất cứ ngoài Ðời hay trong Ðạo, đều rất cần đạo đức, mặc dầu mỗi bên đều có sứ mệnh riêng. Nhưng, nếu so sánh hai lãnh vực Ðạo Ðời, thì trong lãnh vực Ðạo, những vị đứng đầu cộng đoàn, dù to dù nhỏ, được coi như có ảnh hưởng rất lớn. Nhất là trong tình hình Việt Nam hôm nay, đạo đức của cộng đoàn tuỳ thuộc khá nhiều vào con người điều khiển cơ chế tôn giáo và cuộc sống tập thể. Với nhận định như trên, tôi nhìn những vị lãnh đạo như những người mang lại hy vọng đạo đức, tất nhiên với trách nhiệm ở mức độ khác nhau. Hy vọng đạo đức nói đây là hy vọng về liên đới đối với con người. Nói chung, tôi mong các vị lãnh đạo sẽ có những liên đới tốt đẹp tối đa đối với mọi đồng bào nói chung, và đối với những người thuộc trách nhiệm riêng của mình nói riêng. Nếu cần xác định rõ những hạng người nào đang đợi chờ những liên đới tốt đẹp khẩn cấp, thì tôi xin vịn vào Phúc Âm, để đưa ra một liệt kê ưu tiên.
1/ Liên đới với những người nghèo khó bệnh tật Phúc Âm Thánh Máthêu ghi nhận câu trả lời Chúa Giêsu gửi cho Thánh Gioan Baotixita như sau: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 4-5). Tại Việt Nam, số người nghèo hiện nay còn rất đông. Các người bệnh tật đâu đâu cũng có. Loại thất nghiệp mới đang xuất hiện. Những liên đới Ðời và Ðạo dành cho họ xem ra chưa đúng mức theo công bình, chứ chưa nói đến theo bác ái. Chúa Giêsu coi những liên đới tốt đối với loại người nghèo khổ bệnh tật là dấu chỉ của Tin Mừng. Quan điểm của Chúa Giêsu vẫn đúng ở mọi thời và ở mọi nơi. Quan điểm đó vốn luôn được trọng dụng trong việc đánh giá những người lãnh đạo. Hơn bao giờ hết, tại Việt Nam hôm nay, hầu hết người dân đang dùng quan điểm đó như thước đo, để đánh giá trình độ đạo đức của những người đứng đầu trong Ðạo cũng như ngoài Ðời. Liên đới tốt đối với loại người nghèo túng bệnh tật là một lãnh vực mênh mông. Quan tâm nhiều hơn đến lãnh vực đó là một đợi chờ chính đáng và sâu xa của biết bao người đau khổ. Thêm vào loại người nghèo túng bệnh tật, Phúc Âm còn kể đến một loại người khác, đó là loại người hèn mọn, bé nhỏ.
2/ Liên đới với những người hèn mọn, bé nhỏ Cũng trong Phúc Âm Thánh Máthêu, Chúa Giêsu đã phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm sự lành cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40) Những người hèn mọn bé nhhỏ, mà Chúa nói ở đây được hiểu về những người bị bỏ rơi, không có địa vị, bị khinh khi và phải lầm than trong những số phận đơn côi cô quạnh. Họ là những người bé nhỏ, thấp hèn, kém cỏi. Họ thuộc tầng lớp vô danh, không có tiếng nói. Những liên đới mà Ðạo và Ðời dành cho họ vốn là một vấn đề đòi nhiều tế nhị. Nhất là đối với những người lãnh đạo, vấn đề này không thể bị coi là bé nhỏ. Bởi vì đó là một vấn đề đạo đức, mà Chúa Giêsu sẽ đem ra xem xét một cách minh bạch. Hiện nay, vấn đề này cũng đang trở thành một đòi hỏi chính đáng đặt ra cho mọi người, đặc biệt là cho các nhà lãnh đạo tại các nước phát triển. Ngoài hai hạng người nói trên, Phúc Âm còn để ý đến một hạng người nữa rất cần được để ý.
3/ Liên đới với những người tội lỗi Phúc Âm Thánh Marcô ghi lại một lời Chúa Giêsu đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Ðức Giêsu phán với họ: người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Ta không đến kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 4) Người tội lỗi thường được hiểu là những phạm nhân tại toà án, trong tù, hoặc đang bị dư luận kết án. Nhưng thực ra, chẳng ai trong chúng ta là trong sạch hoàn toàn. Vì thế, việc khử trừ tội lỗi là việc ai cũng phải bắt đầu từ chính mình. Nếu mang trọng trách lãnh đạo, thì việc giáo dục, đào tạo đạo đức phải đặt ở ưu tiên hàng đầu. Hiện nay, các tệ đoan xã hội cũng như các tội và tật xấu cá nhân xem ra không giảm. Vì thế việc lấy đạo đức mà đẩy lùi tội lỗi đang là một tiếng gọi thúc bách đặt ra cho những nhà lãnh đạo, bất cứ trong Ðạo hay ngoài Ðời. *** Mấy tư tưởng trên đây rút từ Phúc Âm chỉ là những gợi ý. Những gợi ý này sẽ không trở thành vô ích, nếu chúng được đón nhận bằng thiện chí. Rất mong thiện chí nơi mọi người chúng ta càng ngày càng phát triển. Nhất là trong giai đoạn quan trọng này. Cần phát triển đời sống về mọi mặt. Trong đó vấn đề chấn hưng đạo đức nên được quan tâm đặc biệt. Long Xuyên, ngày 25 tháng 6 năm 2006
Trong xã hội Việt Nam, báo Công giáo và Dân tộc là một hiện diện rất bé nhỏ. Trong Hội Thánh Bùi-Tuần 1697
Trong xã hội Việt Nam, báo Công giáo và Dân tộc là một hiện diện rất bé nhỏ. Trong Hội Thánh Việt Nam, tờ báo bé nhỏ này là một thực tại rất non yếu. Tuy bé nhỏ và non yếu, tờ báo này cũng đã sống với những phục vụ đầy khiêm tốn. Nó phục vụ khiêm tốn, bởi vì công việc phục vụ của nó có những giới hạn nhất định, uy tín phục vụ của nó chỉ trong mức độ thấp. Tờ báo luôn ở tư thế có thể bị Ðời hành, Ðạo hạ.
Con đường bé nhỏ Có thể nói: Nó chỉ là một con đường nhỏ, chuyển tải những nội dung nhỏ. Tuy nhiên, trong một tình hình còn khó khăn về nhiều mặt, con đường nhỏ này nhiều khi cũng đã được Thiên Chúa giàu lòng thương xót đoái dùng. Nó đã chuyên chở được vào nhiều nơi một số điều tốt. Những điều tốt về Ðạo như Lời Chúa, suy niệm Phúc Âm, tu đức, huấn giáo của giáo quyền, tình hình đạo của các nơi, nhất là của Toà Thánh. Những điều tốt về Ðời như những sinh hoạt trong các lãnh vực xã hội, văn hoá, kinh tế, những góp ý xây dựng, những thao thức đó đây về cuộc sống đồng bào vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn nghèo khổ. Không biết ở các nơi khác thế nào, chứ tại địa phương tôi, con đường bé nhỏ Công giáo và Dân tộc không những đã đi vào nhiều gia đình công giáo, mà còn tới nhiều gia đình ngoài công giáo, vào các cơ quan Nhà Nước và vào nhiều cơ sở các tôn giáo bạn. Nhiều bài trong Công giáo và Dân tộc đã được sao chép lại bằng máy hoặc bằng tay, và chuyền tay nhau từ Nam ra Bắc.
Ảnh hưởng âm thầm Ảnh hưởng tốt phải công nhận là không nhỏ, nhất là khi tờ báo cố gắng khắc phục những yếu kém được nhận ra. Những hiệu quả, mà tôi biết chắc là có và đáng khích lệ nhất được ghi nhận như sau: - Nhiều lương tâm được thức tỉnh. - Một số người đã gặp được Chúa. - Nhiều người thấy được phần nào chiều kích thiêng liêng bao la của Hội Thánh toàn cầu và của Giáo Hội địa phương. - Nhiều người đã nghe được tiếng Chúa gọi dấn thân vào công việc loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh họ đang sống. Những hiệu quả vừa kể trên đây là những bước nhỏ của hành trình dài. Chắc chắn đó là việc của Chúa Thánh Thần. Những hiện tượng này cho thấy bao sự kỳ diệu trong thế giới các linh hồn. Rất nhiều tâm hồn đi tìm Chúa. Rất nhiều tâm hồn đợi chờ Chúa đến. Rất nhiều tâm hồn khát khao chân lý cứu độ. Thực tế cho thấy Chúa đã đến với họ qua những con đường bé nhỏ, như một bài báo đạo đức, một mẩu tin về bác ái yêu thương. Tôi biết có những trường hợp bất ngờ như Phaolô trên đường Damas. Trước đây, họ hăng say bắt bớ đạo Chúa. Nhưng, một bài báo đạo, một trang sách đạo đã khiến họ suy nghĩ. Họ cảm thấy như gặp được một Ðấng linh thiêng. Họ bỡ ngỡ hỏi: “Ông là ai?”. Ðấng đó trả lời: “Ta là Giêsu mà người ta đang lùng bắt”. Ông hỏi: “Vậy tôi phải làm gì?”. Và Ðấng thiêng liêng đáp: “Hãy đến với cộng đoàn công giáo, cộng đoàn đó sẽ nói cho biết phải làm gì”. Thế là họ đã đến với Hội Thánh Chúa. Họ đã trở về với Chúa. Họ được đổi mới hoàn toàn. Họ đã được sai đi (x. Cv 9). Tất nhiên, những bài báo, trang sách sinh được những hiệu quả tốt về đàng thiêng liêng như vậy đều mang Lời Chúa, tinh thần Phúc Âm, và được viết trong tâm hồn cầu nguyện, hy sinh. Nếu những nội dung đó không luôn làm vừa lòng mọi người, nhưng vẫn giúp được một số nhỏ tìm về với Chúa, thì cũng không nên vì thế mà loại trừ.
Mở ra Hiện nay, Hội Thánh Việt Nam có khá nhiều phương tiện truyền đạo. Như đài phát thanh Vatican, đài phát thanh Chân Lý Á Châu, báo Hiệp Thông của Hội đồng Giám mục Việt Nam, vô số ấn phẩm, nhiều nội san lưu hành nội bộ. Thêm vào đó, còn đang xây dựng thêm nhiều nhà thờ với các thánh lễ long trọng và các bài giảng đủ loại. Ðang khi đó, các chủng viện, các nhà dòng, các cơ sở và các lớp đào tạo vẫn sinh hoạt tấp nập tưng bừng. Nhân sự truyền giáo mỗi năm mỗi tăng. Tình hình này, tuy chưa phải là lý tưởng, nhưng đã là những cánh cửa mở. Nếu ta biết dùng một số tự do có được, thì hiệu quả sẽ tốt. Nếu ta không biết dùng, thì hiệu quả sẽ xấu. Biết dùng hay không biết dùng, đó là một vấn đề không đơn giản. Vấn đề đó cũng đặt ra cho tờ Công giáo và Dân tộc, mặc dù tờ báo nghèo này vẫn mãi chỉ là con đường bé nhỏ. Càng mở ra, các phương tiện truyền đạo càng phải nhắm đúng định hướng này là: Nỗ lực gúp con người xây dựng một đời sống thiêng liêng tối ưu vững mạnh và sáng suốt, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Long Xuyên, ngày 01 tháng 7 năm 2006
Từ nhiều năm nay và nhất là hiện giờ, người ta hay nói đến việc đổi mới. Ðổi mới đang trở thành Bùi-Tuần 1698
Từ nhiều năm nay và nhất là hiện giờ, người ta hay nói đến việc đổi mới. Ðổi mới đang trở thành một nhãn hiệu mang tính cách nâng giá trị. Một con người đổi mới được coi là con người có giá trị hơn người khác. Một nhà ở hay một đồ dùng đổi mới theo hướng cải tiến được coi là những thứ có giá trị hơn các thứ cùng loại. Ðổi mới là một thay đổi nhiều khi rất cần cho cuộc sống con người. Còn cuộc sống đạo thì sao? Ðổi mới trong cuộc sống đạo là một thực tế hiển nhiên. Thực tế này khá phức tạp. Phức tạp ở chỗ phải biết phân định và chọn lựa. Biết đổi mới nào là tốt và đổi mới nào là không tốt. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên vấn đề phức tạp đó một cách rất vắn gọn. Không được thay đổi Trước hết, phải nói ngay một điều không bao giờ được phép thay đổi trong đời sống đạo. Ðiều đó là định hướng chuyến đi cuộc đời. Ðời sống của tôi là một chuyến đi. Chuyến đi này có định hướng rõ. Ðó là đi theo Chúa Giêsu. Người là Ðường là Sự Thật và là Sự Sống (x. Ga 14,6). Tôi sống Lời Người dạy, theo gương đời Người đã sống. Người làm chứng Thiên Chúa là tình thương (x. 1 Ga 4,8). Làm chứng bằng sự tuyệt đối vâng phục Chúa Cha và hiến thân cứu chuộc nhân loại bằng cách chịu những đau khổ cùng cực nhất. Tôi sống như thế, là tôi theo Chúa Giêsu về với Cha trên trời (x. Ga 12,12). Ðể có sức thực hiện chuyến đi về trời, tôi phải dùng những phương tiện Chúa Giêsu đã chỉ, đó là Tin những điều Người dạy phải tin, Xin những điều Người dạy phải xin, Chịu những điều Người dạy phải chịu, Giữ những điều Người dạy phải giữ. Ði như thế là đi vào cửa hẹp (x. Lc 13,24). Nghĩa là vừa đi vừa phải từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa Giêsu (x. Mt 16,24). Ðồng thời cũng vừa đi vừa loan báo Tin Mừng cho mọi người, để họ sau cùng cũng cùng đi theo định hướng về với Cha trên trời. Nếu nhìn sâu một chút về định hướng chuyến đi cuộc đời và những phương tiện phải dùng cho chuyến đi đó, chúng ta sẽ thấy tất cả đều không dễ dàng. Phải nói là ta rất cần được trợ giúp bởi ơn thánh. Ơn thánh là tuyệt đối cần cho chuyến đi cuộc đời của ta. Tất cả đều không thay đổi. Nhưng nói thế không có nghĩa là chuyến đi cuộc đời của ta không bị chi phối bởi những yếu tố khác của cuộc đời. Những yếu tố này cũng rất phức tạp. Như những yếu tố trần thế làm nên con người và chi phối con người. Chúng dễ thay đổi. Ðôi khi chúng phải thay đổi.
Thay đổi được Những yếu tố làm nên mỗi người coi như giống nhau, nhưng lại rất khác nhau. Thử nhìn con người qua khoa học: Cấu trúc về thân xác với những dị biệt làm nên cá nhân này khác cá nhân kia. Cấu trúc về tính tình với những khác biệt tâm lý như vô thức, tiềm thức, ý thức chẳng ai hoàn toàn giống ai. Hoàn cảnh gia đình và thể chế xã hội luôn cọ sát từng người, tạo dần trong mỗi người những khát vọng khác nhau, những suy nghĩ khác nhau. Ðời sống như dòng sông chảy qua các nền văn hoá với những luật pháp, tục lệ, lối sống không ngừng dao động, đã khắc vào từng lớp người những dấu ấn riêng. Môi sinh, dân số, cách sử dụng thiên nhiên, giáo dục, công ăn việc làm càng ngày càng trở thành những yếu tố quan trọng khiến đời sống dễ thở hay ngộp thở. Những liên đới, những đối thoại, những liên minh, những thông tin, giao tế cũng đang là những chìa khoá mở ra cho cuộc sống hy vọng về cái nhìn minh triết. Nói tóm lại, thời nay hơn bao giờ hết, sự hiểu biết khoa học về con người và những bổn phận của con người đối với con người đang là những yếu tố làm thay đổi đời sống con người một cách sâu sắc. Những thay đổi này làm nên tình trạng sức khoẻ của con người, cả về mặt thân xác lẫn về mặt tinh thần. Vì thế, những thay đổi này đòi con người sống đạo và truyền giáo phải cởi mở một cách khôn ngoan sáng suốt. Sáng suốt và khôn ngoan Khi nói sáng suốt, tôi muốn nói tới cái nhìn về tình hình. Phải nhìn rõ, nhìn đúng, nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu. Nhìn cái này bên cái khác và trong cái khác. Khi nói khôn ngoan, tôi muốn nói tới việc phối hợp và chọn lựa. Phối hợp khôn khéo những gì không được thay đổi với những gì được thay đổi. Không để Phúc Âm bị tục hoá. Không để đời sống đạo chỉ còn là cái vỏ tôn giáo bề ngoài theo ý người ta, chứ không còn hợp thánh ý Chúa. Không làm chứng cho Chúa bằng những con đường thênh thang hưởng thụ. Không truyền giáo bằng những phương tiện không có sức kéo ơn thánh xuống đổi mới lòng người. Thế giới hôm nay đặt trọng tâm vào con người. Trong thao thức đó, chúng ta lo xây dựng con người như một ưu tiên tha thiết. Ta xây dựng những người của ta về mặt thiêng liêng với chiều sâu Phúc Âm, thực vững, để họ có thể là men là muối giữa đời, biết gieo hy vọng Tin Mừng khắp nơi, dù với những bước đi nhỏ và phương tiện nghèo. Sự sáng suốt và khôn ngoan nói trên đòi một trình độ trí thức tương đối đầy đủ, nhất là một trình độ tu đức nhiệt tình lành mạnh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. *** Cũng trong dòng suy nghĩ trên đây, tôi nhìn vào bản thân mình. Tôi thấy trong những yếu tố khiến mình thay đổi, có yếu tố sức khoẻ. Lúc khoẻ mạnh, lúc yếu đau. Yếu đau nhiều hơn khoẻ mạnh. Trong các chọn lựa, thường có những yếu tố không hề thay đổi, và có những yếu tố có thể đổi thay. Có những tạm biệt, rồi có những gặp lại. Gặp lại, để rồi lại phải tạm biệt. Tạm biệt và gặp lại là những khám phá về niềm tin, giúp cho chuyến đi cuộc đời của tôi tới một vĩnh biệt đầy phó thác và bình an. Long Xuyên, ngày 14 tháng 7 năm 2006
Cha rất cảm ơn chúng con đã đến thăm Cha. Cuộc viếng thăm đầy tình hiếu thảo này là một Bùi-Tuần 1699
Cha rất cảm ơn chúng con đã đến thăm Cha. Cuộc viếng thăm đầy tình hiếu thảo này là một món quà quý giá, Chúa gởi cho Cha. Cha xin tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót. Giờ phút như thế này thực hiếm hoi. Cha muốn dùng, để chia sẻ tâm sự của Cha, với hy vọng nó sẽ là một gợi ý cho đời sống đạo của chúng con. I. Nội dung tâm sự là những cảm nghiệm sống động của Cha, lúc tuổi vừa già vừa mang thêm bệnh. Cảm nghiệm thứ nhất là thấy mình càng ngày càng đi xuống. Sức khoẻ xuống, nghị lực xuống, khả năng làm việc xuống. Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình càng ngày càng trở nên túng nghèo. Nghèo về đạo đức, nghèo về chí khí, nghèo về kiến thức, nghèo về kinh nghiệm. Cảm nghiệm thứ ba là thấy mình càng ngày càng tạo ra cho mình một sự xa cách. Xa xách cảnh ồn ào vui nhộn, xa xách những hình thức lễ nghi, xa cách những đám đông quá hiếu động. Cha hiểu Chúa đang dùng những thực tế trên đây với nhiều cách khác để thanh luyện Cha.
II. Trong tình trạng thanh luyện này, Chúa đã đồng hành với Cha thế nào? Thưa Người đồng hành bằng sự nhắc nhở Cha hãy cầu nguyện nhiều hơn, hãy dâng hy sinh nhiều hơn, hãy tu thân nhiều hơn. Thêm vào đó, Người đồng hành bằng sự Người gởi đến cho Cha những nâng đỡ quý báu. Nâng đỡ quý nhất là những tấm lòng yêu thương quảng đại, tế nhị, chân thành.
III. Những cảm nghiệm trên đây của Cha đưa Cha nhìn vào Hội Thánh và Ðất Nước. Cha thấy trong Hội Thánh và Ðất Nước cũng đang có vô số cảnh đi xuống, vô số cảnh túng nghèo, vô số cảnh xa cách. Hãy nhìn sâu vào thực tế đó, để biết cầu nguyện hơn, dấn thân hơn và yêu thương hơn để nâng đỡ nhiều hơn những người đang sống xung quanh ta. Hy vọng chia sẻ trên đây là một gợi ý để chúng ta biết sống đạo trong thời buổi này. Một lần nữa, xin cảm ơn chúng con. Xin chúng con tiếp tục cầu nguyện cho Cha. Long Xuyên, ngày 16 tháng 7 năm 2006
Từ ít lâu nay, nhất là trong mấy ngày này, vấn đề giáo dục đạo đức đã bùng lên sôi nổi trong khắp Bùi-Tuần 1700
Từ ít lâu nay, nhất là trong mấy ngày này, vấn đề giáo dục đạo đức đã bùng lên sôi nổi trong khắp nước Việt Nam. Những người đánh thức lương tâm đang được báo chí nhiệt liệt mừng khen lúc này là những người không công giáo. Sự kiện này gợi ý cho nhiều người công giáo có tâm huyết nhìn vào nội bộ của mình. Họ tự hỏi: Ðạo đức trong Hội Thánh Việt Nam đang đi lên, hay đang xuống dốc? Việc giáo dục đạo đức hiện nay trong các gia đình, trong các giáo xứ, trong các chủng viện, trong các nhà dòng, trong các tổ chức, có đóng góp được phần nào đáng kể trong việc chấn hưng đạo đức cho xã hội Việt Nam không? Do nhận thức vấn đề giáo dục đạo đức đang được nhiều người công giáo đặt ra cho chính mình, tôi xin phép nêu lên một phương cách tự đào tạo mình. Nội dung phương cách này cốt yếu là cầu nguyện và làm một số việc theo định hướng Phúc Âm. Ðiều quan trọng mà phương cách này đòi hỏi là phải thực hiện thường xuyên. Nên dựa vào Kinh Thánh, để mỗi người chúng ta sống theo tiếng Chúa gọi mình.
1/ Chúa gọi ta nên người sám hối Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, (...), kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,46-47). Sám hối là một tiếng Chúa gọi tha thiết. Sám hối là một đặc điểm quan trọng của người sống đạo. Ta có nhiều cách để sám hối. Một cách rất tốt là sám hối bằng cầu nguyện theo Kinh Thánh, thí dụ những lời thánh vịnh sau đây: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con. Mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 50,3,4). Trong sám hối, cần tấm lòng hết sức khiêm nhường. Ðừng tự ái kiêu ngạo. Nhưng hãy khiêm tốn như vua Ðavít nhận mình mang mầm sự ác, ngay từ nhỏ, do đó phát sinh ra biết bao lỗi lầm thiếu sót như tội cá nhân, tội tập thể, tội cơ chế. “Xin Chúa thấy cho: Lúc chào đời, con đã vương tội lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51,7). Ám ảnh về tội không là đạo đức. Nhưng khiêm nhường nhìn nhận mình yếu đuối là điều không thể thiếu trong đạo đức Phúc Âm. Chẳng may ý thức về tội đang là một khủng hoảng lớn của thời buổi này. Nếu người có đạo cũng sống trong khủng hoảng đó, mà vẫn cảm thấy an tâm hạnh phúc, thì họ còn gì để góp phần vào việc chấn hưng đạo đức cho xã hội hôm nay? Hãy thành khẩn đáp lại tiếng Chúa gọi sám hối. Thêm vào đó, hãy nghe tiếng Chúa gọi yêu thương.
2/ Chúa gọi ta nên người yêu thương Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu trối lại một điều răn mới. Người phán: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Chúa Giêsu đã triển khai điều răn yêu thương theo nhiều chi tiết. Như về sự xét đoán: “Ðừng xét đoán nhau, để khỏi bị Chúa xét đoán. Các con xét đoán người khác thế nào, thì các con cũng bị Chúa xét đoán các con như vậy” (Mt 7,12). Như về việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa các con, thì phải là người phục vụ các con... Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,26-28). Như đừng dửng dưng trước cảnh khổ của người khác. Chúa nói rõ điều đó trong dụ ngôn người phú hộ. Người phú hộ sống phè phỡn hưởng thụ, dửng dưng bên cạnh người ăn mày Lagiarô, chết rồi ông bị Chúa ném xuống hoả ngục (x. Lc 16,19-31). Nhất là về cách Chúa phân biệt kẻ lành người dữ. Phúc Âm thánh Matthêu tả ngày phán xét chung theo một tiêu chuẩn đơn sơ, đó là bác ái. Bất cứ việc gì lành ta làm cho kẻ thiếu thốn sẽ được Chúa kể như ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25,31-46). Hiện nay, cảnh phân hoá giàu nghèo tại đất nước ta đang là một thực tế nhức nhối gây đau xót cho những người có cái tâm bén nhạy. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi sợ, nếu không để ý làm chứng cho Chúa bằng đời sống thương cảm và chia sẻ với tầng lớp người nghèo khổ đau, thì nhiều người đạo ta sẽ dần dần tự đứng ra ngoài lề xã hội, bởi vì Chúa không phù hộ những ai cố tình làm sai thánh ý Chúa. Ngoài ra, Chúa cũng đang gọi ta nên người ca tụng Chúa.
3/ Chúa gọi ta nên người ca tụng Chúa Ca tụng, cảm tạ Chúa với hết lòng mến tin là một việc Chúa luôn gọi con cái Người thực hiện. Cảm tạ vì muôn vàn ơn Chúa đã và đang ban cho ta. Không phải chỉ về những thuận lợi, mà cả về những thử thách đớn đau Chúa gởi đến cho ta, để ta được thanh luyện, lập công đền tội và được thông hiệp vào cuộc khổ nạn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Nhất là cảm tạ Chúa về ơn Chúa thương cứu ta khỏi bao nguy khốn. “Lạy Chúa, con xin tán dương Người vì đã thương cứu vớt con” (Tv 30,2). Mỗi lần nhìn vào mình, nhận thấy mình yếu hèn, tội lỗi, bất xứng, nhưng đã được tình xót thương Chúa tha thứ, chở che, dắt dìu qua bao nhiêu chặng đường lịch sử khó khăn, tôi lại nhớ lời thánh vịnh xưa: “Lạy Chúa, vì yêu thương, Người đã đặt con trên núi an toàn” (Tv 30,8). Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Chúa đã cho con bình phục” (Tv 30,3). Bình phục về nhiều mặt. Lòng biết ơn cảm tạ Chúa chính là nguồn ơn thánh giúp ta thực hiện bổn phận hiếu thảo đối với Ðất Nước, Hội Thánh và những người đã góp phần đào tạo giáo dục và nâng đỡ ta. Bài ca chúc tụng Chúa được coi là hay nhất chính là con người đạo đức của ta. *** Trên đây là một gợi ý nhỏ. Tôi mong sẽ có nhiều gợi ý khác, góp phần vào việc chấn hưng đạo đức trong nội bộ Hội Thánh Việt Nam ta. Dù gợi ý là to hay nhỏ, nó phải rút ra từ Phúc Âm, có sức kéo được ơn thánh vào các tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta nhìn rõ vấn đề và thấy được thánh ý Chúa trong việc giải quyết vấn đề. Long Xuyên, ngày 23 tháng 7 năm 2006