1. Mới rồi, dịp Linh mục đoàn Long Xuyên tĩnh tâm năm, tôi cảm thấy trong tôi nhiều nỗi đau, nỗi sợ về nhiều phương diện 2. Được thấy Linh mục đoàn tăng nhanh về số lượng, đáng lẽ tôi phải mừng. Nhưng tự nhiên tôi sợ. Không phải tôi sợ cảnh ồn ào do đông người. Mà tôi sợ cảnh ồn ào do đông quyền chức. Đang khi đạo đức xuống dốc, sự kiện tăng nhanh tăng mạnh về số linh mục đời mới, có phải là một cơ may cho Hội Thánh, hay là một nguy cơ? Nỗi sợ của tôi có phải là một lỗi lầm không” Tôi sợ. 3. Được nghe những tiếng hát to, những cầu kinh lớn tiếng, đáng lý tôi phải phấn khởi. Nhưng tự nhiện tôi bị căng thẳng, do quá khao khát một bầu khí thiêng liêng giàu tĩnh lặng. Phản ứng của tôi có chính đáng không? Tôi sợ. 4. Được chia sẻ về những thành tích oai hùng, những thành công to lớn, những công trình lẫy lừng, đáng lý tôi phải phấn khởi. Nhưng tự nhiên tôi cảm thấy mệt mỏi, xa vắng. Bởi vì tôi tự thấy mình nghèo nàn, bé mọn, như thuộc về một thế giới bần cùng, không đủ khả năng nếm được hương vị của thế giới mới đang lên. Cảm nghĩ của tôi có đúng không? Tôi sợ. 5. Được thông báo về chuyển biến sẽ dẫn đến một tương lai huy hoàng cho linh mục, như linh mục sẽ là đèn sáng soi khắp trần gian, linh mục đang tiến dâng lên Chúa xác hồn trắng tinh, như ánh trăng rạng ngời, đáng lý tôi phải tự hào. Nhưng tự nhiên tôi sợ và xấu hổ, bởi vì tôi biết mình quá tội lỗi. Đó có phải là một mặc cảm xấu không? Tôi sợ. 6. Với những tâm trạng như trên, tôi thấy mình như đang vỡ vụn, như đang tan nát. Tôi xin Chúa thương xót tôi. 7. Chúa thương tôi, Người đưa tâm hồn tôi đến hang đá Bêlem. Tôi gặp được Chúa Hài Nhi. Chúa Giêsu Hài Đồng cùng với Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đều rất nghèo. Các Đấng đón tôi ân cần, thân mật. Tôi chỉ có một tấm lòng tan nát dâng lên Chúa Hài Đồng. Tôi nghèo hèn đến như thế, thế mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã rất thương tôi. Nhất là Chúa Hài Đồng đã tỏ ra rất gần gũi với tôi. 8. Tôi cảm được một cái gì đó rất linh thiêng toát ra từ thái độ yêu thương khiêm nhường và khổ chế nơi Chúa Cứu thế. Chính thái độ yêu thương khiêm nhường, khổ chế của Chúa đã băng bó các vết thương lòng tôi, đã chữa lành các tội lỗi trong tôi, đã đem lại cho tôi sự bình an và hạnh phúc. 9. Chúa cho tôi thấy cuộc đời con người là một cuộc chiến giữa thiện và ác. Để là con người của sự thiện, tôi luôn phải tựa nương vào Chúa. Tựa nương vào Chúa thì phải khiêm nhường và yêu thương, khổ chế. Trước hết ở việc sám hối, cầu nguyện. Những phản ứng của tôi trước thời cuộc cũng phải rất khiêm nhường và yêu thương, khổ chế, theo gương Hài Nhi Giêsu tại hang đá Bêlem. 10. Với khiêm nhường và yêu thương, khổ chế, Chúa Giêsu đã dâng chính mình làm của lễ đền tội cho nhân loại, cứu những người tội lỗi khỏi rơi vào án phạt đời đời. Tôi cũng được Chúa kêu gọi hãy là của lễ như vậy. Khiêm nhường và yêu thương, khổ chế phải hiện diện đều khắp nơi của lễ. Không phải chỉ ở những việc thuần túy tôn giáo như rao giảng Lời Chúa, tham dự thanh lễ, mà còn phải hiện diện ở mọi việc thuộc về thuần túy nhân bản, như trong mọi hình thức lãnh nhận và cho đi. 11. Lãnh nhận với khiêm nhường và yêu thương, khổ chế được thể hiện ở sự biết ơn, tế nhị và hy sinh. Cho đi với khiêm nhường và yêu thương, khổ chế được thể hiện bằng sự nhã nhặn, biết ơn những người nghèo túng, bệnh tật, cô đơn mà mình được phục vụ. Khiêm nhường và yêu thương khổ chế như thế đòi hỏi một cái tâm tỉnh thức và rất chân thành. 12. Cái tâm chân thành và tỉnh thức vừa chú trọng đến cái lý vừa chú trọng đến cái tình. Chúa Giêsu đã làm như vậy. Tôi cố gắng sống như vậy. Sống như Chúa Giêsu yêu thương và khiêm nhường khổ chế là phải phấn đấu rất nhiều. Để biết từ bỏ mình, biết sống hy sinh, biết sống trong kỷ luật, biết sống kính trọng người khác và đặt ích chung lên trên tư lợi. 13. Trong tiếp xúc, nhiều người tự nhiên biết phân biệt được ai có một vẻ đẹp thiêng liêng, ai không có. Người sống từ bỏ mình, khiêm nhường yêu thương có nét đẹp thiêng liêng. Người sống tự do, hưởng thụ, thiếu khiêm nhường yêu thương không có nét đẹp thiêng liêng. Nếu người ta không tìm được nơi tôi vẻ đẹp thiêng liêng, thì sao? Con người Việt Nam hôm nay rất khát mong gặp được những nét đẹp thiêng liêng ấy nơi người linh mục, tu sĩ, và nơi những môi trường nhà tu. 14. Lịch sử đang biến chuyển rất mau theo chiều hướng phức tạp. Tình hình không những có những phức tạp lớn, mà cũng có những nguy hiểm trầm trọng. Trước viễn cảnh đó, các môn đệ Chúa phải dứt khoát thuộc trọn về Chúa bằng đời sống khiêm nhường và yêu thương, khổ chế. Cho dù phải phấn đấu cam go, hãy dấn thân theo Chúa. Tôi thấy Chúa luôn là hạnh phúc của tôi và của chúng ta. 15. Trên đây là vắn tắt những gì Chúa đã thương ban cho tôi, nhân dịp tĩnh tâm Linh mục đoàn Long Xuyên được tổ chức giữa tháng 11-2014 mới rồi. Linh mục đoàn đã góp phần không nhỏ vào cuộc tĩnh tâm của riêng tôi. Xin tận tình cảm ơn. Xin anh em thương đến tôi. Lạy Chúa, con xin hết lòng cảm tạ Chúa. Dù con già yếu bệnh nạn, con vẫn được tĩnh tâm, Chúa đã đến với con. Chúa cho con nhìn thấy Chúa bằng đức tin. Chúa dẫn con đi. Chúa chữa lành con. Chúa an ủi dạy dỗ con. Chúa cho con được trở thành của lễ góp phần vào công trình cứu độ của Chúa. Lạy Mẹ Maria, con xin Mẹ dâng con cho Chúa. Lúc này, con cảm thấy xác hồn con đầy đau đớn. Còn về yêu thương, khiêm nhường, từ bỏ, thì thú thực là con không cảm thấy gì trong con. Nhưng con tin Mẹ đang bù đắp cho con bằng chính khiêm nhường của Mẹ, yêu thương của Mẹ, từ bỏ của Mẹ. Nhờ vậy, con sẽ là của lễ đẹp lòng Chúa. Con nằm trong tình Mẹ, Mẹ của con. Long Xuyên 22.11.2014
1. Từ ít lâu nay, mỗi tối, khi lên giường ngủ, tôi lại tự nghĩ: không biết sáng mai mình còn thức dậy không? Tôi đã nghĩ như vậy, là vì sức khỏe của tôi rất bất ổn, cho nên mọi thứ bất ngờ thuộc về sự chết đều có thể xảy ra cho tôi.Tôi không bi quan, nhưng tôi chuẩn bị cho những bất ngờ một cách bĩnh tĩnh bằng đức tin. Kinh nghiệm sống động trên đây của bản thân giúp tôi nhìn lịch sử một cách tỉnh thức hơn. 2. Ở đâu,cuộc sống con người có những bất ổn nặng nề kéo dài về nhiều mặt, do đó lòng người cũng bất an dưới nhiều hình thức và nhiều mức độ, thì những bất ngờ sẽ xảy ra. Thường những bất ngờ đó sẽ gây nên tang tóc. Đó là về mặt xã hội. 3. Ở đâu, cuộc sống có vẻ ổn định theo cái nhìn của nhiều người, nhưng trước mặt Chúa lại là rất bất ổn, do tội lỗi lộng hành, thì những bất ngờ sẽ xảy ra. Những bất ngờ đó thường là những sụp đổ, những tàn phá, như những hình phạt, gây nên đau đớn kinh hoàng. Chúa đã báo trước, nhưng người ta không tin. Nên kết quả sẽ rất thảm hại.
Ở đây, suy nghĩ của tôi xin được giới hạn trong lĩnh vực đức tin.
Về những hình phạt khủng khiếp sẽ xảy ra bất ngờ ngay tại đời này cho những người theo đạo Chúa, thì tôi thường suy gẫm hai đoạn Phúc âm sau đây. 5. Đoạn Phúc âm thứ nhất là của Thánh Luca: Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! "Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm".(Lc 19, 41-44) 6. Đoạn Phúc âm thứ hai là của Thánh Matthêu: "Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. (38) Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. (39) Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay, từ nay các ngươi sẽ không thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa!"(Mt 23, 37-39) 7. Trong cả hai đoạn Phúc âm trên đây, Chúa Giêsu đều nói đến hình phạt nặng nề sẽ xảy ra cho Giêrusalem ngay ở đời này, vì tội thành này đã phạm tới các tiên tri, phạm đến chính Chúa Giêsu và không biết đón nhận ơn Chúa. - Nghĩa là những bất ổn do tội lỗi trước mặt Chúa đã xảy ra trước. Sau đó sẽ là những hình phạt đổ xuống bất ngờ một cách khủng khiếp.
Những gì Chúa Giêsu đã nói về thành Giêrusalem đều đã xảy ra. Từ đó, tôi nghĩ về Hội Thánh tại Việt Nam nói chung và từng giáo phận, giáo xứ tại Việt Nam nói riêng. - Tôi thấy tình hình bất ổn do tội lỗi đang là một sự thực hiển nhiên ở nhiều nơi. Cũng có những ổn định, nhưng là ổn định giả tạo. Có những trấn an: “ mọi sự đều tốt đẹp, không sao đâu”. Nhưng đó là những trấn an ru ngủ trên những thành công giả tạo, mà trong Phúc âm, Chúa đã khẳng định: “chúng bay đã được thưởng công rồi” (Mt 6, 2.5.16), hoặc: “ Ta không biết các ngươi” (Ga 7,23).
9. Nếu phải nêu lên những gì đang gây nên bất ổn nguy hiểm trong Hội Thánh, làm nên tội lỗi, thì tôi xin được nêu lên hai ý kiến sau đây. 10. Ý kiến thứ nhất là của Đức Hồng Y Roger Etchegary. Theo ngài, thì có ba bất ổn lớn hiện nay, đó là ba ưu tiên xấu sau đây trong Hội Thánh: Ham tiền bạc,
Ham thành công,
Ham thỏa hiệp với các vị thần có quyền lực và giàu có.
(Xem L’homme, à quel prix. 2012) 11. Ý kiến thứ hai là của Đức Cha Michel Dubost. Ngài dựa trên Công đồng Vatican II. Theo ngài, thì có hai bất ổn rất lớn trong Hội Thánh hiện nay. Một là thiếu thiện chí và thiếu khả năng chia sẻ trong tình liên đới những gì đang xảy ra trong lòng những người nghèo khổ, cùng với niềm vui và hy vọng của họ. Hai là thiếu sự cố gắng đổi mới trái tim con người là nơi không những xảy ra những buồn vui và hy vọng, mà cũng có những dấu vết của tiếng Chúa gọi. (Xem Une foi qui agit. 2013). 12. Chỉ dựa vào những ý kiến có thế giá trên đây mà thôi, để nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hiện giờ, tôi cũng thấy tình hình đó đây rõ ràng là bất ổn. Những bất ổn đó đang làm biến chất đạo Chúa. Biến chất càng trở thành trầm trọng, khi thấy các phong trào xấu đang mạnh lên, tràn vào Hội Thánh, như phong trào tục hóa, phong trào hưởng thụ, phong trào tự do quá trớn, phong trào phản kháng cực đoan, vv. Vậy, nếu những bất ổn hiện nay trong Hội Thánh Việt Nam đang trở nên nặng nề và nguy hiểm, không dừng lại được, thì sẽ có những bất ngờ xảy ra. Tôi nghĩ tới những biến cố đớn đau. 13. Hình như biến cố đớn đau đã bát đầu rồi, đó là sự cứng lòng và mù quáng đang xảy ra nơi nhiều người, kể cả nơi một số người có trách nhiệm trong Hội Thánh Việt Nam lúc này. Đó chỉ là khởi đầu.Vì thế, mà tôi lo sợ. 14. Tuy tôi lo sợ, nhưng vẫn tin tưởng vững vàng ở Chúa. Chúa hứa: “Cha sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tôi xin làm chứng về điều hứa trên đây của Chúa Giêsu. Tôi thực sự được Chúa ở với tôi mọi ngày, mọi giờ, mọi phút. Tôi được Chúa chia sẻ, được Chúa cứu, được Chúa yêu thương, được Chúa đỡ nâng dắt dìu trong mọi hoàn cảnh. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. Cảm tạ của tôi ở trong sự khiêm nhường dấn thân của Đức Mẹ. Cảm tạ của tôi ở trong sự tỉnh thức sâu thẳm của Thánh Giuse. Lạy Chúa, bất ngờ lớn nhất đối với con là tình yêu thương xót Chúa. Long Xuyên 27.11.2014
1. Tôi ở Long Xuyên, trong Tòa Giám Mục, đã hơn 40 năm rồi. Nhưng khi về già, nhiều lúc tôi cảm thấy rất thấm thía một lời Kinh Thánh nói về thân phận con người sống đức tin. Lời đó là: “Tôi xưng mình là ngoại kiều và là lữ khách trên mặt đất này” (Dt 11,13). 2. Tôi cảm thấy mình là ngoại kiều và là lữ khách trên mặt đất. Vì tôi, cũng như ông Apraham, vâng lời Chúa mà ra đi, đến một nơi sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, đó là thiên đàng. Nhưng hiện giờ tôi chưa tới đó. Nên tôi sống trên mặt đất này, nhìn về đó, như một ngoại kiều và lữ khách trên đường còn dài. Với kiểu nói như trên, tôi xác tín rằng: Theo đức tin, một đàng tôi phải dấn thân cho Quê Hương tôi trên trái đất này, nhưng một đàng, tôi vẫn phải hướng về Quê Hương trên trời là đích điểm sau cùng của đời tôi. Vì thế, tôi phải biết sống trên trái đất này, như một ngoại kiều và như một lữ khách hướng về Quê Hương Chúa hứa. 3. Ngoài ra, tôi còn cảm thấy mình là ngoại kiều và là lữ khách theo một phương diện khác. Đó là, mặc dầu tôi chỉ ở một chỗ qua bằng ấy năm, nhưng cuộc sống luôn chuyển biến. Nhà cửa thay đổi, nhân sự thay đổi, các liên hệ thay đổi, thời tiết thay đổi. Trong dòng đời có vô vàn thay đổi, còn tôi thì muốn ổn định, nên có lúc tôi không tránh được cảm nghĩ mình là ngoại kiều và là lữ khách ngay tại chính nơi tôi đang sống. Cảm nghĩ đó sinh ra trong tôi một sự bất an nào đó, một sự cô đơn nào đó. 4. Từ những kinh nghiệm riêng tư vừa kể, tôi nghĩ tới tương lai của giáo phận nói chung và của từng cộng đoàn nói riêng. Tình hình cho phép tôi nghĩ rằng: Nhiều bất ổn sẽ xảy ra khắp nơi. Có chỗ hiện giờ bầu khí đạo coi như sốt sắng, nhưng rồi sẽ ra nguội lạnh. Có chỗ hiện giờ số người công giáo là đa số nhiệt tình, nhưng rồi ở đó đa số sẽ lại là người ngoài công giáo. Rất có thể chính nơi thờ phượng hôm nay sẽ có ngày không còn là nơi thờ phượng nữa, hoặc sẽ trở thành hoang vu. 5. Khi những bất ổn như thế xảy ra, mỗi cộng đoàn công giáo và từng người công giáo sẽ cảm thấy mình như là ngoại kiều và như là lữ khách ngay trên chỗ ở của mình. 6. Lúc đó, phải sống đức tin thế nào đây? Thưa, phải cởi mở. Thiên Chúa không phải là Đấng chúng ta có thể đóng kín trong một giáo lý, trong một cơ chế, trong một nhà thờ. Nhưng Thiên Chúa là Đấng chúng ta có thể gặp Người, lúc và nơi mà chúng ta không chờ đợi. Người đến một cách bất ngờ. Người là Đấng tạo dựng những gì mà con người không hề dám hy vọng. 7. Tôi nghĩ là: Xưa Do Thái đã xây tháp Babel, biểu tượng cho ý chí muốn ổn định tại nơi đó. Nhưng Chúa đã phá ý định ấy. Nay, nhiều khi chúng ta cũng bắt chước họ, xây dựng những công trình và cơ chế có tính ổn định, để sống khép kín đức tin trong đó. Nhưng rồi Chúa lại đến phá vỡ những tháp Babel ấy. 8. Chúa Giêsu thành Nagiarét xưa đã không đóng kín mình trong một ngôi nhà. Người nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ. Nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu cũng đã sống như vậy. 9. Thánh Phêrô khuyên giáo dân: “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và là lữ khách, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn. Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi bị người ta vu khống, coi anh em như là người gian ác, người ta cũng thấy các việc anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa, trong ngày Người đến viếng thăm” (1 Pr 1,11-12). Bằng những lời trên đây, thánh Phêrô muốn chúng ta cứ hãy sống giữa những người không công giáo, như những chứng nhân về đời sống đạo đức, nhất là về nhân bản. 10. Hiện giờ, Chúa Thánh Thần đang mở ra một kỷ nguyên mới về truyền giáo, đó là kẻ nghèo loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo. Thánh Phanxicô Assisi đã làm như thế. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng hô hào làm như vậy. Nghĩa là: Người truyền giáo hãy sống khó nghèo, ưu tiên lo cho những người nghèo. Nếu thế, thì chúng ta nên nhìn tương lai với đôi mắt đức tin của người không quá lệ thuộc vào những ổn định của cơ chế, và thói quen, nhưng hãy luôn luôn là kẻ lên đường hướng về trung tâm là Chúa. 11. Không ai trong chúng ta dám nói là mình không cần đến cơ chế tôn giáo. Nhưng chúng ta phải biết nhìn cơ chế mở ra về các biến cố, nhất là các biến cố bất ngờ. Chính Chúa là Đấng sẽ “làm nên mọi sự nên mới” (Kh 21,5). Với những suy nghĩ trên đây, tôi bước sang Năm Mới, như một người lên đường, sẵn sàng cho những bất ngờ. Tôi sống như lữ khách và ngoại kiều hướng về Tương Lai Trời mới Đất mới do Chúa làm chủ. Long Xuyên, ngày 8.12.2014.
Tôi mới đi Âu Châu, qua Ðức, Ý, Pháp. Từ ngày 10/09/1993 đến ngày 17/10/1993. Thời gian vội vã. Hình ảnh qua mau. Nhưng vẫn còn lại trong tôi vài kỷ niệm để nhớ để thương. Tôi nhớ thương những gì là vẻ đẹp Lời Chúa mà tôi đã gặp. Những vẻ đẹp ấy đang biến đổi lòng tôi. Tôi xin chia sẻ.
Một lời tạ ơn cảm động Ðối với tôi, một lời tạ ơn của Ðức Kitô mà tôi đã cảm nghiệm được một cách sâu sắc nhất trong chuyến đi vừa qua, đó là “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã giấu những mầu nhiệm Nước Trời cho những người thông thái, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Mt. 11,25). Thực vậy, tôi đã gặp rất nhiều người bé mọn đang sống Tin Mừng Nước Trời. Họ bé mọn do thái độ tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Họ làm chứng đức tin trong đời thường. Thấy họ, tôi có cảm tưởng gặp được nụ cười của Ðức Kitô, một nụ cười trao tặng bình an và niềm trông cậy. Trao đổi với họ, tôi có cảm tưởng bắt gặp cái nhìn của Ðức Kitô, một cái nhìn thân thương đầy sức mạnh đổi mới tâm hồn. Ðặc điểm của họ là luôn sống thân phận người con bé nhỏ đối với Cha trên trời, tuyệt đối tin vào tình yêu Cha, luôn sống theo mẫu gương duy nhất là Ðức Kitô. Họ thuộc đủ mọi thành phần. Có những người âm thầm như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Có những người khó nghèo như thánh Phanxicô Assisi. Có những người ẩn mình như cha Charles Foucauld. Có những người đơn sơ như Ðức Thánh Cha Gioan XXIII. Một hôm, tại Ðức, tôi đang trò chuyện giữa đám đông, thì một phụ nữ tới chào tôi. Chỉ sau một phút, chúng tôi đã vào đề “phong trào canh tân cầu nguyện”. Tôi hỏi cô: "Nghe như hoàng hậu Fabiola cũng thuộc phong trào đó, phải không?" Cô thưa: "Ðúng. Hoàng gia hay tới sinh hoạt trong nhóm của cháu." Ba ngày sau, tại Ý, tôi gặp lại một ông bạn cũ người Ðức. Trong cuộc đàm luận về dung mạo Hội Thánh hôm nay, ông cho biết: Cách đây hai năm, ông đi tĩnh tâm chung với một nhóm 10 người trong một tu viện trên núi. Qua trò chuyện, ông phát giác ra một người trong nhóm chính là vua Baudouin, hoàng đế vương quốc Bỉ. Hai người trở thành bạn thân. Ông đã được nghe nhà vua chia sẻ những kinh nghiệm về đức tin trong đời sống gia đình, văn hoá và xã hội. Trong thế giới Tây phương hôm nay đang bị tục hoá, tôi vẫn nhìn thấy vô số những đốm sáng Tin Mừng qua các tâm hồn phúc âm như thế. Có lúc tôi tưởng rằng giữa nền văn minh đa dạng hôm nay và đức tin truyền thống có một vực thẳm phân cách không sao nối liền được. Nhưng nay tôi đã gặp được những chiếc cầu bắc qua vực thẳm ấy. Ðó là những tâm hồn đơn sơ, sống say mê tinh thần của Ðức Kitô. Họ lắng nghe tiếng Chúa, dễ phân biệt được tiếng Chúa gọi họ, để rồi mau mắn đáp ứng bằng hành động cụ thể. Gặp họ, tôi có cảm tưởng gặp được Tin Mừng. Và cùng với họ, tôi nghe Ðức Kitô hôm nay đang tiếp tục tạ ơn Chúa Cha vì đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho các tâm hồn nghèo khó, đơn sơ khiêm tốn.
Một lời gọi tha thiết xót xa Ðức Kitô, mà tôi gặp được trên chuyến đi này, cũng còn là Ðức Kitô trong vườn Cây Dầu đêm xưa, thứ năm tuần thánh. Ðêm đó, Ngài lo âu khắc khoải cho phần rỗi các linh hồn. Ngài cầu nguyện với trái tim ngột ngạt mùi cay đắng hãi hùng của tội lỗi nhân loại. Trong cô đơn, Ngài bước tới các môn đệ thân tín nhất, và hỏi họ: “Các con ngủ sao?" (Mc 14,37). Lời gọi ấy nhỏ nhẹ, tha thiết nhưng xót xa vô vàn. Lời gọi ấy vẫn văng vẳng bên tai tôi trên chuyến đi vừa qua. Nghe lời gọi ấy tôi hiểu Ðức Kitô muốn nói gì với tôi và các môn đệ Ngài. Các con ngủ sao, đang khi những lực lượng bắt Chúa đã tới gần. Tôi thấy lực lượng đó rất đông, rất mạnh. Ðó là những khuynh hướng xấu đang nổi dậy khắp nơi, như tự do hưởng thụ, tự do ích kỷ, tự do hận thù, tự do tục hoá, tự do tranh giành quyền lực. Các con ngủ sao, đang khi bao người xung quanh bị đẩy vào cảnh cô đơn, thất vọng, giống như cảnh Ðức Kitô xưa lo buồn đến đổ mồ hôi máu ra, lo buồn, đến độ có thể chết được. Tôi thấy hiện nay những người đau khổ đã tăng hơn nhiều, nếu so với những chuyến đi trước đây của tôi. Các con vẫn ngủ sao, đang khi Ðức Kitô hấp hối cầu nguyện cho nhân loại. Tôi thấy hiện tượng xa rời Hội Thánh vẫn tiếp tục tăng, hiện tượng nghi kỵ nhau đang nổi dậy mạnh. Một buổi sáng nọ, tại Pháp, tôi đang từ sân chủng viện đi vào nhà, thì thấy một người ngoại quốc đàng xa vội vã bước tới. Tôi mở cửa, nhường cho người đó vào trước. Gặp tôi, người lạ niềm nở chào và hỏi: "Thưa, có phải đây là Ðức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần không?" Tôi thưa: "Phải, tại sao biết tôi?" Họ đáp: "Chiều qua, con thấy ảnh Cha treo ở một cộng đoàn tại Paris này, con đã cầu nguyện cho Cha, và mong ước gặp được Cha. Con thuộc Cộng Ðoàn Tám Mối Phúc. Con nghĩ rằng cuộc gặp gỡ này là do Chúa sắp xếp." Thế là chúng tôi bắt đầu trao đổi. Qua trao đổi, tôi thấy những cộng đoàn như thế này đúng là những người tỉnh thức và cầu nguyện. Họ đã nghe Lời Chúa tâm sự: Các con ngủ sao. Và họ đang quảng đại đáp lại. Họ cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung. Cầu nguyện rất nhiều trước Mình Thánh Chúa, và cầu nguyện rất nhiều bằng sự suy gẫm Lời Chúa. Họ tỉnh thức, nên nắm bắt được những đòi hỏi khẩn cấp Phúc Âm của từng nơi và của từng thời điểm. Họ tỉnh thức, nên có những sáng kiến riêng và biết học hỏi những sáng kiến đó đây, để đáp ứng kịp thời và đúng đắn những yêu cầu khẩn cấp của sứ mạng cứu rỗi các linh hồn trong thế giới hôm nay. Một hôm, trên công trường thánh Phêrô, Vaticăng, tôi thấy rải rác những thanh niên thiếu nữ đang phân phát báo và trò truyện vui vẻ với khách du lịch. Gặp họ, tôi biết họ thuộc một phong trào mang tên “Những con đường của Chúa”. Tôi có cảm tưởng nhóm này không những cầu nguyện và tỉnh thức, mà còn đi đánh thức những tâm hồn còn ngủ. Họ đánh thức bằng nhiều cách hấp dẫn. Chính bản thân con người họ, với vẻ lịch sự vui tươi, cũng đã là một mùi hương thơm có sức đánh thức một số tâm hồn. Gặp họ, tôi có cảm tưởng gặp được hình ảnh Ðức Kitô hiền hoà, khiêm tốn, năng động, đi tìm gặp con người, để phục vụ họ.
Một chọn lựa tiên tri Ðức Kitô mà tôi gặp trong chuyến đi vừa qua cũng còn là Ðức Kitô xưa đã chọn các tông đồ: “Các con sẽ là những người đánh cá các tâm hồn" (Mt. 4,19). Ðức Kitô là thợ mộc, nhưng không chọn những người thợ mộc. Ngài sống giữa miền đồng ruộng, nhưng không chọn những người làm nghề nông. Trái lại Ngài chọn một số người làm nghề cá. Vì những người này thường dễ có tâm thức mênh mông như biển cả, có một cái nhìn bát ngát tới tận chân trời. Những người như thế cũng đang có mặt trên thế giới, mà tôi đã đi qua. Tại các nơi tôi nghỉ lại, tôi thường tìm đến các tiệm sách. Liếc qua các tên sách và mục lục các sách, tôi thấy được phần nào một loại tông đồ thời nay có tâm hồn rất bao la với những cái nhìn rất rộng rất xa. Một buổi tối nọ, tôi dùng bữa tại một gia đình người Pháp. Bà chủ đã trình bày với tôi về ba chương trình truyền giáo có tầm cỡ quốc tế hướng về Việt Nam. Trên xe chở tôi về, bà đã tâm sự với tôi về những lo âu của bà trước tình hình Hội Thánh Việt Nam đang và sẽ phải đối phó với những thách thức mới của thời kinh tế xã hội mở ra. Những người mang thao thức như vậy không phải là ít. Họ là những thầy thuốc, những giáo sư, những nhà kinh doanh. Họ thuộc loại người truyền giáo không biên giới. Tâm hồn họ như những người đánh cá trên biển khơi, không bị giới hạn vào những mặt bằng chật hẹp như thửa ruộng của nhà nông, cũng không bị đóng chặt vào những công trình khô cứng như chiếc ghế chiếc bàn của thợ mộc. Nhìn vào các thứ lưới, mà loại tông đồ này đang dùng để đánh cá các tâm hồn, tôi thấy có thứ là những chân lý, có thứ là những tâm lý. Họ lợi dụng mọi cách, nhất là sách báo và giao thiệp để truyền giáo. Họ loan báo chân lý qua con người của họ hiền lành, khiêm nhường, bao dung, thương xót.. Loại tông đồ đánh cá thường đơn sơ như chim bồ câu, nhưng trong nghề, họ cũng thường khôn ngoan như con rắn. Họ biết cá nào thích mồi nào, cá nào đi ăn vào giờ nào, cá nào hay tập trung ở vùng nào. Họ rất bén nhạy với những thay đổi của biển khơi và thời tiết. Nếu họ không khôn ngoan như thế, để biết linh động, thì không những không bắt được cá, mà còn thiệt hại cả đến ghe thuyền, và chính bản thân. Tại Ðức, tôi thấy nhiều con đường mang tên các loài hoa, nhiều phố mang tên các nhạc sĩ, bác sĩ. Ði trên các đường phố đó, tôi nghĩ tới các đường lối truyền giáo của Hội Thánh tôi. Ước chi các đường lối ấy cũng toả ra được mùi thơm vẻ đẹp của Tin Mừng như những vườn hoa. Ước chi các đường lối ấy cũng gieo được vào lòng người bài ca Tin Mừng như những tiếng hát truyền cảm. Ước chi các đường lối ấy cũng đem lại cho con người những liều thuốc Tin Mừng như những thầy thuốc giỏi. Một hôm, tại một nhà ga Paris, tôi gặp một chị nhân công đang dọn sân ga. Do tình cờ, tôi biết chị là thành viên của một nhóm truyền giáo. Chị là con một gia đình giàu có trí thức, chị đã là giáo sư trường trung học cấp ba. Nay chị từ bỏ hết, hiến thân cho việc tông đồ. Nhóm của chị chọn cách truyền giáo bằng sự có mặt của mình giữa những người lao động, những người nghèo, để phục vụ họ, nhất là để chia sẻ đời sống của họ. Thấy các chị này vui vẻ sống nghèo, giữa các xóm nghèo, tôi nghe lòng mình nao nao nhớ lại lời Chúa: “Thầy sẽ ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28,20). Ðúng là Chúa đang ở giữa nhân loại qua những tông đồ âm thầm như thế đó. Sáng ngày 05/10/1993, tôi được đồng tế với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại nhà nguyện riêng của Ngài. Ðây là dịp giúp tôi càng xác tín Ðức Thánh Cha là vị tông đồ hết sứ quan trọng, có nhiều khả năng đánh cá các tâm hồn, và chính qua con người của Ngài, mà Chúa đang ở giữa chúng ta. Ngày 10/10/1993, tôi chủ sự thánh lễ Chúa nhật lúc 9 giờ tại Lộ Ðức. Thánh lễ Chúa nhật vào giờ này tại Lộ Ðức vẫn được gọi là thánh lễ quốc tế, vì thường có đông người tham dự, và họ thuộc nhiều nước khác nhau. Hôm đó số linh mục đồng tế vào khoảng 50, và số người tham dự thánh lễ vào khoảng 5 ngàn. Trong khi chủ sự thánh lễ, tôi có cảm tưởng tôi đang bị một chiếc lưới vô hình của Chúa vây bắt tôi. Chiếc lưới đó là vô vàn ánh mắt, vô vàn trái tim, vô vàn lời nguyện, đang nâng đỡ tôi, đang khích lệ tôi. Và tôi cảm nghiệm được thế nào là sự hiệp thông trong Hội thánh. Chính sự hiệp thông này là một chiếc lưới Chúa đang dùng để tái-Phúc-Âm-hoá các tông đồ của Chúa hôm nay, và cũng là chiếc lưới Chúa muốn các tông đồ dùng để kêu gọi thực hiện Lời Chúa: “Thầy là cây nho, các con là ngành" (Ga 15,5). *** Thế là chấm dứt một chuyến đi dài trong một thời gian vắn. Giờ đây, tôi nhìn về phía trước. Tương lai cũng là một chuyến đi. Trong chuyến đi này, vấn đề lớn nhất của tôi vẫn là luôn luôn trở về với Ðức Kitô và giới răn của Ngài : “Thầy cho các con một giới răn mới là các con thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 15,12). Long Xuyên, tháng 11/1993
1. Mỗi năm, lúc gần tới lễ Noel, tôi lại suy nghĩ cách riêng về ý nghĩa lễ trọng đại đó. Năm nay, suy nghĩ của tôi suy giảm nhiều, do tình hình xuống cấp toàn diện nơi tôi. Nhưng trong bầu khí gia đình, tôi cũng đành có gì tặng đó. Xin vui lòng nhận tấm lòng của tôi. 2. Ý nghĩa của lễ Noel là gì? Thánh Tông đồ Gioan viết: “Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,9-10)…“Chính tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến, làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga, 14). Nhờ lời dạy trên đây của thánh Gioan tồng đồ, tôi xác tín: Chúa Giêsu sinh vào thế gian tại hang đá Belem, chính là Con Thiên Chúa. Người đến, để biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, bằng việc dâng mình làm của lễ đền tội cho chúng ta, hầu cứu độ chúng ta. 3. Như vậy, Hài Nhi tại hang đá Belem âm thầm nói với tôi và nhân loại một sự thực. Chúng ta là kẻ tội lỗi, cần được cứu. Đấng cứu chúng ta là Chúa Giêsu. Người cứu chúng ta bằng cách dâng chính mình làm của lễ đền tội. 4. Khi tôi ra sức tìm hiểu của lễ chính mình mà Chúa Giêsu đã thực hiện, để đền tội và cứu tôi cũng như loài người, thì Chúa trả lời là: Hãy đọc lại thánh Phaolô về sự bước xuống của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu Kitô, vỗn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi vui lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8). Những lời trên đây của thánh Phaolô giúp tôi nhận ra hai nét đặc điểm của Hài Nhi Giêsu tại Belem, chứng tỏ Người là Đấng Cứu độ. Hai nét đặc điểm đó là vâng phục và khiêm nhường. Với hai nét đó, Chúa Giêsu tại Belem trở nên bé nhỏ và gần gũi. Tôi gặp Người một cách dễ dàng. Rất nhiều người không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, quốc tịnh, cũng đã gặp Người một cách rất tự nhiên. 5. Nhờ được gặp Người và ở lại với Người khá lâu, tôi được Người cho biết còn một đặc điễm nữa nơi Người, khiến Người trở nên Đấng Cứu độ, đặc điểm đó là Tình Yêu. Tình Yêu đó vượt trên mọi sự tốt lành. Thánh Phaolô diễn tả tình yêu đó như sau: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh là phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp của tôi mà bố thí, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Giả như tôi có nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,1-7). 6. Tình yêu tuyệt vời trên đây nơi Chúa Giêsu là do sự Người luôn kết hợp với Chúa Cha, Đấng sai Người. Tình yêu tuyệt vời ấy đã làm cho sự vâng phục và khiêm nhường của Người trở thành giá trị cứu rỗi. 7. Cứu rỗi như thế của Chúa Giêsu chính là một sự đổi mới, mà Người làm cho Hội Thánh và cho toàn thế giới. Đó là gương cho mọi đổi mới sau này trong Hội Thánh. Chúa cho tôi nhìn Hội Thánh hiện tại đang được đổi mới. Tất cả các vị được Chúa chọn, để tiếp tục cuộc đổi mới của Chúa Cứu thế hiện nay đều rất vâng phục, khiêm nhường và có lửa mến nội tâm nồng nàn tha thiết. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất tha thiết với việc cứu những người tội lỗi. Mẹ Têrêsa Calcutta rất tha thiết với việc cứu những người nghèo khó, bệnh tật, cô đơn. Đức thánh Cha Phanxicô rất tha thiết với việc cứu các cơ cấu đời đạo khỏi những gì trái với bác ái và công bình. Tất cả ba vị đổi mới trên đây đều rất khiêm nhường, vâng phục và sống nội tâm sâu sắc với đức mến nồng nàn. 8. Những gì tôi vừa chia sẻ không phải chỉ là những suy nghĩ, mà còn là những cảm nghĩ. Do vậy, nếu cần có một lời chúc dịp Noel này, thì tôi xin chúc mọi người xa gần gặp được Hài Nhi Giêsu trong hang đá, để rồi biết cộng tác với Người trong chương trình cứu độ, cứu mình và cứu người khác. Cứu hiện tại đang xuống dốc đã là điều khó. Cứu tương lai sắp chạm đáy vực thẳm cũng là điều quá khó. Nhưng tôi tin Chúa Giêsu vẫn là hy vọng của chúng ta. Chính niềm hy vọng ấy cho phép chúng ta vui đặt nơi Chúa giàu lòng thương xót. Xin mọi người cũng thương cầu nguyện cho tôi. Long Xuyên, ngày 11 tháng 11 năm 2014
1. Nhiều lúc, tôi cảm thấy mình như tụt dốc trầm trọng. Đau đớn, mỏi mệt, chán nản, buồn lo, sợ hãi, tất cả như những đợt sóng thay nhau đổ vào hồn tôi. Tôi phải phấn đấu với chính mình để đi nốt quãng đời còn lại. Tôi cầu nguyện không ngừng. Tôi vững tin vào lời Chúa hứa: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). 2. Lời Chúa không sai. Chúa đã bồi dưỡng cho tôi và cho tôi được nghỉ ngơi, bằng cách Người ban cho tôi được một niềm vui thiêng liêng. Niềm vui đó là được gặp Chúa những khi nhận được và những khi cho đi các việc từ thiện. Niềm vui này rút ra từ Phúc Âm, trong đoạn Chúa nói về ngày phán xét chung. Ngày ấy, Chúa sẽ nói với những người được xếp bên hữu Chúa những lời sau đây: “Nào, những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống. Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước. Ta trần truồng, các con đã cho mặc. Ta đau yếu, các con đã thăm nom. Ta ngồi tù, các con đã đến thăm. Bấy giờ, những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu. Để đáp lại, Chúa sẽ bảo họ rằng: Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40). 3. Với niềm tin vào Lời Chúa trên đây, tôi nhìn tất cả những ai đã làm cho tôi bất cứ việc từ thiện nào đều sẽ được Chúa xót thương. Họ sẽ được gặp Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương, đời sau và ngay cả ở đời này. Họ được Chúa yêu thương, đó là một niềm vui lớn lao tôi được cảm nhận rất rõ. Cảm nhận đó càng rất an ủi tôi, khi tôi thấy có những người đã sống từ thiện một cách âm thầm, tế nhị, như lời Chúa dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. Vậy, khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được thưởng công rồi. Còn anh em, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh em bố thí được kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,1-4). 4. Số người bố thí cho tôi một cách tế nhị, kín đáo, như Chúa dạy trên đây, không phải là ít. Họ thuộc đủ mọi thành phần, trong Công giáo và ngoài Công giáo. Tôi thấy Chúa trong họ. Điều đó đem lại cho tôi niềm vui thiêng liêng, giúp cho cuộc sống của tôi được triển nở. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. Đó là niềm vui, khi nhận được các việc từ thiện. 5. Còn khi cho đi các việc từ thiện thì sao? Thưa, trong hoàn cảnh già nua, bệnh tật, bị giới hạn bởi những yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn cố gắng cho đi những việc từ thiện. Nhỏ bé thôi, bằng nhiều cách. Dầu vậy, tôi vẫn gặp được Chúa. Đó là niềm vui thực sự sâu thẳm, Chúa ban cho tôi. 6. Tôi có cảm tưởng là Chúa đợi tôi nơi những người già nua, bệnh tật, nghèo túng, khổ đau. Họ là những địa chỉ có Chúa đợi chờ. Tất nhiên, nhà thờ vẫn là một địa chỉ của Chúa. Nhưng địa chỉ đó không miễn trừ cho tôi khỏi tìm đến địa chỉ những người đau khổ. 7. Xưa, trong đêm Chúa giáng sinh, các thiên thần đã báo tin mừng cho các mục đồng đang chăn chiên. Các thiên thần đã bảo họ đến tìm Đấng Cứu Thế mới giáng sinh ở một địa chỉ rất nghèo, đó là một hang bò lừa giữa cánh động lạnh lẽo. Tương tự cũng vậy, đôi lúc tôi cũng được thôi thúc trong lòng hãy đi tìm Chúa ở những địa chỉ nghèo khổ. Tôi đã vâng, và tôi đã gặp được Chúa ở những địa chỉ đó. Tại những địa chỉ đó, Chúa đã dạy tôi là hãy bắt chước Chúa, mà chia sẻ thân phận những người nghèo khó, bệnh tật, già yếu, khổ đau. Chúa sẽ như một tình yêu trao tặng nhưng không, mà không tìm được đền đáp. Tôi vâng làm như vậy. Và tôi cảm thấy rất vui, một niềm vui mênh mông sâu thẳm dạt dào. 8. Những gì tôi chia sẻ trên đây không phải chỉ thuộc riêng tôi. Tôi tin chắc nhiều người tại Việt Nam hôm nay cũng đã và đang cảm thấy niềm vui được gặp Chúa, những khi nhận được và những khi cho đi các việc từ thiện một cách khiêm nhường, tế nhị, cho dù kín đáo. Tôi nói là rất nhiều người tại Việt Nam hôm nay đang được Chúa ban cho niềm vui cao quý ấy. Tôi xác tín là họ, dù trong đạo hay ngoài đạo, sẽ là những người cộng tác với Chúa để đưa dân tộc Việt Nam đến bình an và hạnh phúc thật. Tình hình đang diễn biến phức tạp, có thể là nguy hiểm. Vì thế, bênh cạnh những biện pháp về an ninh, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và các biện pháp thuộc sức tự nhiên, tôi nghĩ là chúng ta không nên quên tựa nương vào sức thiêng liêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới cứu được chúng ta. 9. Đức Thánh Cha Phanxicô mới phát biểu dịp lễ Giáng sinh năm nay, 2014. : “Quá nhiều nước mắt đã rơi trong lễ Giáng sinh”. Ngài có ý nói về những khổ đau gây nên tại nhiều nước do hận thù, ngay trong chính lễ Giáng sinh, Thánh lễ nhiều, nhưng thiếu tình yêu thương với nhau, thì còn gì là bình an cho người thiện tâm. Cái tâm thiếu yêu thương là cái tâm không thiện. Cái tâm không thiện thì không đem lại bình an, thậm chí cũng không thể đón nhận được bình an. Do đó, niềm vui đích thực phải khởi đi từ việc từ thiện, theo lời Chúa và theo gương Chúa. Nếu đất nước và con người có phát triển về của cải để hưởng thụ, mà không phát triển về cái tâm hướng về yêu thương lo từ thiện, thì hòa bình sẽ rất mong manh, hạnh phúc sẽ rất giới hạn. Vì thế, niềm vui của tôi được Chúa ban cho là một mời gọi tôi đến trách nhiệm phải đào tạo cái tâm, theo mô hình trái tim Đức mẹ Maria. Lạy Mẹ, xin Mẹ thương xót con. Long Xuyên ngày 27-12-2014
Tôi như thấy Chúa. Tôi như cảm được Chúa ở bên tôi và ở trong tôi. Chúa hiện diện như một nguồn sáng đầy tình yêu. Chúa hiện diện như một Đấng thiêng liêng mang bản chất người cha. Chúa hiện diện như một sức mạnh quyền năng đầy mầu nhiệm, nhưng lại rất gần gũi. 1. Chết là một biến cố tất nhiên phải tới. Biến cố tất nhiên đó đang rất gần tôi. Tuổi tác và bệnh tật báo tin đó cho tôi. Mỗi ngày tôi lại cảm thấy rõ hơn biên giới sự chết. Đúng thực là lúc này tôi đang ở biên giới sự chết. Bằng ánh sáng đức tin, tôi đang thấy gì? Dưới đây xin được chia sẻ đôi chút tâm tư chân thành của một người chuẩn bị ra đi. 2.
Sự tôi thấy rõ nhất là sự Chúa hiện diện. Hiện diện của Chúa không phải chỉ là một niềm tin, mà còn là một cảm nghiệm. Tôi như thấy Chúa. Tôi như cảm được Chúa ở bên tôi và ở trong tôi. Chúa hiện diện như một nguồn sáng đầy tình yêu. Chúa hiện diện như một Đấng thiêng liêng mang bản chất người cha. Chúa hiện diện như một sức mạnh quyền năng đầy mầu nhiệm, nhưng lại rất gần gũi. 3.
Sự tôi cũng thấy rất rõ là Chúa hiện diện đặt ra cho tôi câu hỏi này: “Con đã dùng đời con để làm gì?”. Với câu hỏi đó, Chúa muốn tôi nhìn lại suốt cả đời tôi, từ quá khứ cho đến bây giờ. Với ơn Chúa, tôi thoáng nhìn lại đời mình. Trong thoáng nhìn đó tôi thấy Chúa cho tôi nhận ra rất rõ: Đời tôi có giá trị hay không có giá trị, hoặc nhiều hoặc ít, là do từ Chúa thẩm định, chứ không do từ tôi tự xét. Chính Chúa phán xét, chính Chúa thẩm định. Chứ không do tôi có quyền tự định đoạt giá trị cho mình. Khi Chúa xét, thì Chúa không quan tâm đến việc tôi làm là việc lớn hay việc nhỏ, mà Chúa để ý đến giá trị của những việc đó. 4.
Giá trị quan trọng nhất mà Chúa xét nơi các việc tôi làm là các việc đó có hợp theo thánh ý Chúa không. Chúa dạy tôi điều đó trong lần Chúa nói về người môn đệ chân chính. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). Lời Chúa trên đây chỉ trong chốc lát đã cho tôi nhận ra phần nào giá trị các việc tôi làm suốt những năm qua. Những việc tôn giáo như lễ lạy linh đình, tổ chức hoành tráng, xây cất lộng lẫy, con số tăng cao về ơn gọi, về bác ái, về hành hương vv... Tôi cho là tất cả đều nhân danh Chúa, nhưng thực sự Chúa có nhận tất cả đều là đúng ý Chúa không. Tôi được thanh luyện nhờ sám hối chân thành. 5.
Sự tôi cũng thấy rõ là tôi phải tránh tìm cho mình những lợi ích riêng tư, khi tôi dấn thân làm các việc đạo đức. “Khi làm các việc đạo đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1). Rồi Chúa áp dụng lời đó cho việc từ thiện (Mt 6,2-4); việc cầu nguyện (Mt 6,5-6), việc ăn chay (Mt 6,16-18). Phô trương đang được tôi nhìn thấy là một thứ nọc độc, mà trước đây tôi ít nhận ra. Đúng là ở biên giới sự chết, tôi được ơn nhận ra sự thật cứu rỗi tôi. 6. Sự thực cứu rỗi tôi còn là tôi phải tỉnh thức với những tư tưởng, ước muốn trong tâm hồn tôi. Nếu không tỉnh thức, để khám phá đúng và đưa vào trật tự các tư tưởng, ước muốn, xúc động trong trái tim, thì các thứ đó sẽ tạo nên một môi trường tâm linh xấu trong tôi và xung quanh tôi. Chính môi trường xấu đó sẽ là áp lực chống lại tình yêu Thiên Chúa (x. Mc 7,20-23). 7. Chống lại tình yêu Thiên Chúa là một xúc phạm tầy trời đến Thiên Chúa. Tội đó thường nẩy sinh ở những thái độ thông thường, như thái độ vô cảm, thái độ dửng dưng, thái độ bất cần, thái độ tự mãn, trong các thói quen sống đạo nặng về hình thức. 8. Sự tôi thấy rõ lúc này ở biên giới sự chết, đó là sự cần thiết tôi sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Nghỉ yên trong Chúa, không có nghĩa là được an nghỉ trong các việc lành tôi làm, mà chính là trong tình yêu của Chúa, một tình yêu được ban cho tôi một cách nhưng không, như một quà tặng, như một chia sẻ tấm lòng xót thương của Chúa. Sự nghỉ yên trong Chúa mà tôi ước mong và cầu nguyện như thế, đang làm cho tôi trở nên như trẻ thơ, khó nghèo và phó thác. Sự nghỉ yên trong Chúa cũng đang thôi thúc tôi hướng lòng lên với Chúa, để gặp gỡ thân mật với Chúa trong mọi tình huống, dù khi thức, dù khi ngủ. Sự nghỉ yên trong Chúa cũng đang là niềm tin: Tôi sẽ luôn luôn được ở trong tình yêu Chúa. Như lời thánh Phaolô quả quyết: “Tôi tin chắc rằng: Cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay quỷ dữ, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). 9. Tôi đang ở biên giới sự chết, nên tôi cảm thấy rất gần những linh hồn các người đã qua đời. Họ đang sống trong cõi đời sau. Họ có những nhắn gởi thân thương gởi về những người còn sống trên cõi đời này. Nhắn gởi quan trọng nhất là “Hãy dùng đời mình để” yêu thương như Chúa đã yêu thương (Ga 13,34). Tức là yêu thương đúng theo thánh ý Chúa. 10. Những gì tôi chia sẻ trên đây đang là động lực thiêng liêng mạnh mẽ giúp tôi biết sống vui, cho dù phải vác thánh giá. Thánh giá chính là hy vọng của Phục sinh. Ở biên giới sự chết, tôi ôm lấy thánh giá mà nói: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 25,45). +GB Bùi Tuần Long Xuyên, ngày 04.10.2014
1. Đời tôi là quãng thời gian tương đối dài. Bước sang năm 2015, tôi được 89 tuổi. Trong dòng đời với nhiều chuyển biến ấy, có 60 năm là giáo sĩ mang chức linh mục, rồi mang thêm chức giám mục tới nay được 40 năm. Như vậy quãng 60 năm qua là mảnh đời quan trọng nhất đối với tôi. 2. Hôm nay, nhìn lại dòng đời quan trọng đó để tạ ơn Chúa, tôi thấy có một nỗi lo lớn đã đồng hành với tôi một cách khăng khít. Chúa dạy tôi là đừng ngại nói ra cho mọi người biết nỗi lo đó. Xin nói ngay nỗi lo đó là làm sao luôn sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nỗi lo ấy rất sống động. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút về sức sống thăng trầm của nỗi lo ấy trong một quá khứ không thiếu đủ thứ chuyển biến. 3. Tôi thụ phong linh mục ngày 02.7.1955 tại nhà nguyện các cha dòng Đaminh ở HongKong. Chính khuya đêm mồng một trước lễ truyền chức, tôi đã âm thầm xin được gặp cha linh hồn, tức cha Valderama Xuyên. Tôi xin ngài cho phép tôi được rút lui, khỏi bước lên nhận chức linh mục. Lý do là tôi quá lo, vì thấy mình bất xứng bất tài. Lúc đó, tình hình đất nước còn ngổn ngang những hận thù. Chúa cho tôi thấy: Làm linh mục cho Việt Nam lúc ấy là phải làm chứng cho tình yêu Chúa. Tôi sẽ làm chứng thế nào đây. Tôi thấy mình quá yếu đuối, sợ không thể làm gì được đúng theo ý Chúa. Vì thế, tôi xin phép được rút lui. Cha linh hồn nghe hết nỗi lo của tôi. Rồi ngài bình tĩnh trấn an tôi. Sau cùng, ngài nói như trao một quyết định là hãy phó thác cho Chúa, mà vâng nhận chức linh mục. Lễ phong chức linh mục được tổ chức một cách âm thầm, đơn sơ, rất sốt sắng. 4. Sau đó, tôi được trở về miền Nam Việt Nam. Thánh lễ đầu tiên của tôi được tổ chức tại nhà thờ Long Phước Thôn, Thủ Đức, thuộc trại di cư khó nghèo, ngày 11.7.1955. Nửa giờ trước thánh lễ, tôi xin xưng tội với Cha Minh Đăng ngay tại phòng áo cung thánh. Ngài gợi ý cho tôi là làm chứng cho tình yêu Chúa trong tình hình cụ thể tại Việt Nam lúc này là hãy ưu tiên sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong tâm tình đầy yêu thương, ngài khuyên tôi hãy luôn đánh thức lương tâm các linh mục Việt Nam, để các ngài coi việc sống mật thiết với Chúa Giêsu là việc không gì thay thế được. Nếu cần đánh thức một cách quyết liệt, thì chính ngài và tôi hãy sẵn sàng được chết một cách đau đớn theo ý Chúa. Trong thánh lễ đầu tiên, tôi dâng mình cho Chúa với quyết tâm sống mật thiết với Chúa Giêsu, như một của lễ. 5. Ngày 30.4.1975, tôi thụ phong Giám mục lúc tình hình thay đổi khó lường. Khi Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ an ủi tôi hãy vâng phục ý Chúa mà lãnh nhận trọng trách Giám mục, tôi không vui chút nào. Nỗi lo dâng trào. Tôi nhìn rõ tôi sẽ chẳng làm được gì cho giới răn yêu thương, nếu không sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nhưng tôi quyết tâm như một trẻ thơ. 6. Quyết tâm đó là một niềm vui, nhưng cũng là một nỗi lo. Càng ngày, tôi càng thấy sống mật thiết với Chúa Giêsu không phải là điều dễ. Chúa Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). Tôi hiểu Chúa muốn tôi phải sống mật thiết với Chúa như vậy. Phải luôn luôn như vậy, để mọi việc tôi làm mới sinh được kết quả đích thực mà Chúa muốn. Lời Chúa trên đây thực rõ ràng, thực dứt khoát. Thế mà, Lời Chúa đầy tha thiết đó đã nhiều khi chỉ là một lý thuyết suông đối với nhiều người, kể cả những người đi tu, thậm chí kể cả những người muốn làm linh mục hay đã là linh mục. 7. Cho rằng lý thuyết ấy đã có lúc thâm nhập vào con người muốn theo Chúa một cách đặc biệt, nhưng trên thực tế, sự thâm nhập vào con người mà thôi, đâu đã đủ để thành sự sống thân mật với Chúa Giêsu. Bởi vì sự sống thân mật với Chúa Giêsu là một ơn đặc biệt Chúa ban. Ơn ấy biến đổi con người nên gần gũi với Chúa, biết vâng phục ý Chúa, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Con người ấy cần biết đón nhận ơn cao quý đó, và cần biết cộng tác vào ơn đặc biệt đó. 8. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Nếu thiếu đời sống cầu nguyện, suy gẫm, không quen tự chế, từ bỏ mình và khiêm tốn, thì không thể nào có thể đón nhận được ơn sống thân mật với Chúa, và không thể nào cộng tác với ơn sống mật thiết với Chúa được. 9. Tôi được hạnh phúc gặp Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần. Điều đã gây ấn tượng nhất nơi tôi những khi gặp Ngài là thấy Ngài sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong thánh lễ, ở bàn giấy, cả tại bàn ăn, Ngài luôn luôn toả ra một sức thu hút lạ lùng, do sự Ngài luôn sống thân mật với Chúa Giêsu. Ngài không hề khuyên dạy tôi điều gì, mặc dầu tôi đã gặp riêng Ngài nhiều lần. Nhưng, Ngài đã dạy tôi rất nhiều, do sự thu hút từ đời sống thân mật của Ngài với Chúa Giêsu. 10. Mấy ngày nay, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ rất nhiều. Tôi đọc kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi rất vui, vì Đức Mẹ đã nhìn đến thân phận tội lỗi của tôi. Mẹ đã cầu bầu với Chúa cho tôi. Tôi hiểu điều đó, khi Mẹ dạy tôi là: “Lúc này, trong tình hình này, sống mật thiết với Chúa Giêsu, là hãy ở bên Chúa trong vườn Cây Dầu, hãy bước theo Chúa trên đường Chúa vác thập giá, hãy đứng dưới chân thánh giá khi Người chịu đóng đinh và hấp hối trên thánh giá. Có sống mật thiết như thế với Chúa Giêsu, thì mới thực sự cộng tác với Người để cứu nhân loại nói chung, và đồng bào Việt Nam nói riêng đang hết sức lâm nguy”. 11. Khi được Đức Mẹ dạy tôi điều trên đây, tôi mới thấy là những người muốn theo Chúa phải rất tỉnh thức khiêm nhường, để can đảm sống mật thiết với Chúa đang chịu thương khó trong lịch sử hôm nay. Như vậy thì phải can đảm điều chỉnh lại mọi thứ hoành tráng, phô trương, đắc thắng, hưởng thụ, sang trọng, lộng lẫy, vẻ vang, an nhàn. 12. Bây giờ, khi được chia sẻ một chút như trên, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Bởi vì nỗi lo lớn nhất đời tôi nay trở thành một lời mời gọi gửi tới mọi người, đặc biệt là gửi tới các linh mục và các người đi tu: “ Hãy sống mật thiết với Chúa Giêsu”. Tình hình 2015 sẽ rất khó khăn, đầy thử thách và bất ngờ. Chỉ sống mật thiết với Chúa Giêsu mới có thể gọi là những môn đệ đích thực cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Chia sẻ hôm nay cũng là đón nhận niềm vui sẽ được ơn tha thứ từ Chúa, từ Hội Thánh, từ bao người, bởi vì tôi nhận biết mình đã có những lỗi lầm, thiếu sót trong bổn phận làm chứng cho tình yêu Chúa bằng sự sống mật thiết với Người. Long Xuyên ngày 01.1.2015
1. Trong mấy ngày nay, tôi được hạnh phúc sống thân mật với Chúa Giêsu một cách hơn thường. Chính nhờ Người, với Người và trong Người. Tôi xin cảm tạ Người đã đến với tôi, trong hoàn cảnh tôi cảm thấy mình rất tồi tệ. Trong những khoảnh khắc thân mật ấy, tôi đã gọi Chúa Giêsu bằng nhiều tước hiệu khác nhau, như Ngôi Hai nhập thể, Chúa chiên lành, Vua vũ trụ, vv... Nhưng sau đó, Chúa Giêsu dạy tôi là Người muốn tôi cứ gọi Người là Đấng Cứu Thế. 2. Từ tên gọi đó, Chúa Giêsu đã dạy tôi điều này: Sống thân mật với Người, thì hãy cùng với Người lo cứu thế gian. Cứu thế gian là công việc quá lớn. Tôi rất yếu đuối. Nhất là lúc này, yếu đuối của tôi đang trở thành nỗi nguy. Tôi trình bày với Chúa như vậy. Nhưng Chúa trấn an tôi, bằng cách Người bảo tôi hãy nhìn vào thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tôi xin vâng. Ngay cạnh tôi là mấy cuốn sách ghi lại tư tưởng và cuộc sống người nữ tu dòng Kín thành Lisieux. Tôi đọc lại. Tôi thấy người nữ tu trẻ ấy đã dạy tôi cách cứu thếgian ngay trong cuộc sống âm thầm thường ngày với đời tu nhiệm nhặt. Tôi xin ghi lại vài nét chính rất gợi ý cho tôi. 3. Thánh nữ đưa ra một chuyện biến ngôn. Có một vị lãnh chúa muốn xây một thánh đường nguy nga dâng kính Thiên Chúa. Ông ra sắc lệnh, kêu gọi những ai có của phải góp phần vào. Từ khắp nơi, đoàn ngựa kế tiếp nhau chở vật tư đến nơi xây cất. Các chủ vật tư đều là những người giàu có. Đang khi đó, một người đàn bà rất nghèo cũng muốn dâng cúng. Nhưng bà chỉ đủ tiền mua một sọt cỏ. Bà đưa cỏ cho mấy con ngựa chở vật tư ăn. Khi thánh đường được xây cất xong, vị lãnh chúa truyền ghi trên tấm bảng tên của mình và của các ân nhân, được gắn vào tường thánh đường. Nhưng, qua một đêm, trên tấm bảng đó các tên đã ghi đều bị xoá, và thay vào đó là tên một người đàn bà vô danh. Vị lãnh chúa phẫn nộ, truyền làm lại tấm bảng. Nhưng đêm sau, các tên trên bảng lại bị xoá, và lại ghi tên một người đàn bà vô danh. Ông liền điều tra. Sau cùng, ông được gặp người đàn bà nghèo đó. Bà nói thật bà chỉ cho ngựa ăn mớ cỏ, mà bà đã bỏ hết tiền của bà ra để mua. Vị lãnh chúa hiểu trước mặt Chúa bà là người có nhiều công nhất. Từ chuyện biến ngôn trên đây, thánh nữ Têrêsa nghĩ về chính mình. Trong việc xây dựng Hội Thánh, ngài sẽ chỉ làm những việc bé nhỏ, âm thầm, nhưng tin chắc Chúa sẽ căn cứvào tình yêu hơn là việc làm. Bài học trên đây rất dễ hiểu. Tôi áp dụng cho tôi. Tôi sẽ chỉ đủ sức làm những việc nhỏ. Nhưng tôi đem tất cả tình yêu của tôi vào những việc nhỏ đó. Chúa sẽ thương nhận, để góp phần xây dựng Hội Thánh, và cứu các linh hồn. Xin hết lòng tạ ơn Chúa đã ban cho tôi một trái tim biết yêu thương. 4. Về việc cứu các linh hồn, thì thánh nữ Têrêsa đã cho tôi một bài học cũng dễ hiểu. Có lần ngài đã nói với các em đệ tử của ngài: “Nếu chị phải ở luyện tội cho đến tận thế, để cầu nguyện, chỉ để cứu lấy một linh hồn mà thôi, thì hãy để mặc chị”. Qua lời nói trên đây, thánh nữ cho thấy ngài rất quên mình để cứu các linh hồn. Yêu thương và hy sinh chịu đau khổ, để cứu các linh hồn, đó là niềm vui ngài muốn dâng lên Chúa. Một nữ tu trẻ dòng Kín có được một khao khát cứu các linh hồn như thế, quả là một tiếng Chúa đánh thức lương tâm tôi. Tôi có nhiều cách để tránh né tiếng gọi đó. Nhưng nếu làm thế, tôi sẽ chỉ chuốc khổ vào thân. Tôi sẽ chẳng cứu được ai, và cũng chẳng cứu được chính mình. Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi nghị lực để dấn thân cứu các linh hồn bằng cầu nguyện và hy sinh âm thầm trong chính hoàn cảnh già yếu hiện giờ của tôi. 5. Trong một lá thư gởi chi Céline, thánh nữ Têrêsa đã viết: “Chúng ta hãy sống cho các linh hồn nhất là hãy cứu linh hồn các linh mục. Bởi vì có những linh mục xấu. Hãy chịu hy sinh cho các ngài. Đến ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ biết ơn chúng ta về việc đó”. Đọc đoạn thư trên đây, tôi rất xúc động. Tôi nghĩ là đã có nhiều người cầu nguyện cho tôi được trở nên đạo đức theo thánh ý Chúa. Riêng tôi rất xác tín là việc quên mình để cứu các linh mục là điều quan trọng và khẩn thiết. Chúa chờ đợi mỗi người chúng ta. Có những linh mục xấu, nữ tu Têrêsa dám nói như thế, chỉ vì thương, chứ không vì khinh. 6. Càng về cuối đời, thánh nữ Têrêsa càng nói nhiều tới sự phải từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính mình, để yêu thương và hy sinh cho các linh hồn. Ngài không ngại tỏ lộ các thứ khổ đau ngài phải chịu. 7. Tuy nhiên, có một điều tôi lấy làm lạ, đó là thánh nữ xem ra khắc khổ, nhưng lại rất dễ thương. Chính vì ngài sống theo tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Khi hành hương ởLisieux, tôi cảm thấy rất rõ vẻ đẹp dễ thương của thánh nữ toả ra khắp nơi. Tôi sực nhớ lại đoạn Phúc Âm sau đây của thánh Luca: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: 'Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha'” (Lc 10,21). 8. Một thoáng nhìn trên đây về thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đã đưa tôi đến kết luận này: Nhiều người bé mọn đã cứu được các linh hồn một cách hiệu quả. Chính các linh mục cũng cần đến những người bé mọn, để có thể trở về với Chúa. Chính tôi cũng đã được họ cứu. Tôi xin tận tình cảm ơn họ. 9. Tôi xin Chúa cho tôi luôn biết sống bé mọn, và luôn biết cậy nhờ đến những kẻ bé mọn. Đó là cách cứu các linh hồn, rất hợp với tôi, nhất là lúc này, trong hoàn cảnh tuổi già sức yếu. Thiết tưởng, đó cũng là cách, chính Chúa nhắn gởi tất cả những môn đệ Chúa, bất cứ họ là ai đang sống trên Quê Hương Việt Nam lúc này. Truyền giáo trên đất nước Việt Nam này trong hoàn cảnh hiện nay không thể coi thường mô hình thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Tôi tin chắc như vậy. Tòa Thánh cũng đang nhắc cho tôi điều đó. Lạy Chúa, con xin hết lòng cảm tạ Chúa đã dạy con bổn phận và cách cứu các linh hồn. Xin Chúa thương giúp con biết kiên trì thực hiện những điều Chúa đã dạy con. Long Xuyên, ngày 6.1.2015.
1. Nhân dịp Tết mới, tôi xin thân ái cầu chúc cho mọi người nhận được món quà, mà tôi cho là rất quí, đó là được gặp Chúa Cứu Thế, để cuộc sống của mình được nên tốt đẹp, như lời Người đã phán xưa: “Ta đến, để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10). 2. Sở dĩ, tôi chúc như vậy, bởi vì tôi tin: Ai gặp được Chúa Giêsu, kẻ ấy sẽ nhờ Người mà có được cuộc sống tốt. Không những tôi tin như thế, mà thực sự tôi đã trải qua một cuộc đời được kinh nghiệm như thế. Ở đây, tôi xin phép được chia sẻ đôi chút về những kinh nghiệm đó. Trên suốt cuộc đời dài, nhiều lần tôi đã gặp được Chúa Giêsu một cách rất rõ, gây ấn tượng mạnh. Có thể tóm tắt những gặp gỡ đó vào hai loại: 3. Một là được gặp Chúa trong cảnh huy hoàng, siêu thoát, như ba môn đệ đã gặp trên ngọn núi cao, ở đó Chúa biến hình. Ba môn đệ đã rất vui. (x. Mc 9,2-12) 4. Hai là được gặp Chúa trong cảnh đớn đau như ba môn đệ đã thấy, trong vườn Cây Dầu, khi Người chiến đấu trước cái chết khổ nhục. Tôi cũng như ba môn đệ kể trên đã rất sợ hãi, kinh hoàng. (x. Mc 14, 33-42) Tôi nghĩ chính vì yêu thương thân mật, Chúa Giêsu mới cho tôi được nếm đôi chút những giờ phút đặc biệt nhất của cuộc đời Chúa. Nhờ đó, tôi được Chúa dạy tôi hãy sống thân mật với Người. Sống thân mật với Người là phải gắn bó với Người một cách kiên trì trong mọi hoàn cảnh, dù sáng sủa, dù tối tăm, mà tôi phải trải qua. 5. Tôi đã được gặp Chúa Giêsu như thế trong những dịp nào? Thưa thường xuyên tôi gặp Người bằng đức tin. Bằng đức tin, tôi gặp Chúa. Sự gặp gỡ này được thực hiện do ơn Phép Rửa tội. Ngoài ra, tôi còn được gặp Chúa, như một người được Chúa gọi hãy làm chứng cách riêng cho sự sống thân mật với Chúa. Nhưng gặp gỡ thân mật với Chúa Giêsu mà tôi cảm nhận được thường không kéo dài lâu. Nhưng ảnh hưởng của nó thường nuôi sống linh hồn tôi một cách sâu xa lâu dài. 6. Nơi đầu tiên tôi được gặp Chúa một cách thân mật, là nội tâm thinh lặng. Không phải lúc nào tôi cũng nếm được sự ngọt ngào do ở bên Chúa. Bởi vì rất nhiều khi, tôi cảm thấy nguội lạnh, tối tăm. Nếu có lúc, tôi nói được như vua Đavít xưa: “Tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16,9), thì lúc đó, chính là khi tôi sống nội tâm thinh lặng, trút bỏ những bận tâm của nếp sống hoạt động ồn ào, hướng ngoại, để dành thời giờ cho Chúa. Trong nội tâm thinh lặng, tôi cầu nguyện, đọc Lời Chúa. Được gặp Chúa lúc đó có thể chỉ như một tia sáng lạ thường, nhưng tôi cảm thấy rất rõ sự hiện diện của Chúa thực là dịu dàng, đem lại cho tôi hạnh phúc và một sức sống lạ lùng khôn tả. 7. Nơi thứ hai tôi gặp Chúa một cách thân mật, là lúc tôi xưng tội và trở về với Chúa. Tôi xưng tội hàng tháng, nhiều khi hàng tuần. Mỗi lần xưng tội là mỗi lần tôi nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, xin ơn tha thứ của Chúa, qua các vị của Hội Thánh được Chúa trao quyền. Bao giờ cũng vậy, lúc đó, tôi được gặp Chúa một cách rất thân mật, rất riêng tư. Người là Đấng cứu thế vô cùng nhân hậu của tôi. 8. Nơi thứ ba tôi thường gặp được Chúa là việc tôi phục vụ kẻ khốn khó nghèo hèn. Tôi phục vụ họ bằng nhiều cách thích hợp với khả năng nhỏ bé của tôi. Thí dụ đã từ lâu tôi viết bài chia sẻ. Khi làm việc đó, tôi không dám nghĩ là tôi phục vụ những người đạo đức, những người đầy đủ, nhưng tôi nghĩ tới những người túng nghèo, khổ đau về phần linh hồn. Tôi tự nghĩ rằng tôi cần phải có chút can đảm để đi ra khỏi cái thế giới của giáo sĩ thường có nhiều tiện nghi, để dìm mình vào những vấn đề nóng bỏng của người nghèo khổ hôm nay. Tôi cần khiêm tốn và cậy trông, mở rộng đức tin ra để cho mọi thứ người nghèo khổ xung quanh tôi có thể nhận ra cái giá mà Chúa Giêsu đã vui chịu, để cứu họ, đem họ tới hạnh phúc thật sự. Khi làm như vậy, nhiều lần tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Tôi như rụng rời, không phải thấy Chúa uy nghi quyền phép, nhưng thấy Chúa khiêm tốn, hạ mình, dấn thân vào con đường thánh giá một cách nhục nhã, chỉ vì yêu thương, muốn cứu chuộc loài người. Từ đó, tôi hiểu rõ hơn những lời Chúa Giêsu phán trong ngày phán xét chung: “Mỗi lần con làm việc tốt cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là con làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45). 9. Nơi thứ bốn tôi thường gặp được Chúa là những gì xảy ra, đã đụng tới tôi một cách đặc biệt và riêng tư. Thí dụ một cảnh trời đẹp, một người dễ thương, một tác phẩm hay, một cơn bệnh, một biến cố lịch sử. Tôi như cảm được lời Chúa xưa đang thực hiện nơi tôi: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Trong chốc lát, tôi đã nhận ra Chúa gõ cửa lòng tôi qua những gì xảy ra đó. Tôi đã mở cửa đón Chúa vào. 10. Qua những lần gặp gỡ Chúa Giêsu, tôi xác tín đạo Công giáo của tôi là một mời gọi đi xa, vượt quá những gì chúng ta có thể tưởng tượng, rất hơn cuộc sống thế trần này. Tôi càng xác tín là con người đi tu, hiến thân cho Chúa, phải thuộc trọn về Chúa, để cùng với Chúa, đưa con người tới một sự sống thực, một sự sống dồi dào bình an và hạnh phúc đời đời. Hôm nay, những ngày sắp Tết, tôi gói gọn những kinh nghiệm và niềm tin của tôi vào một lời chúc chân thành: Gặp gỡ Chúa Giêsu Tôi nghĩ là nhiều người đã gặp được Chúa Giêsu, người cách này, người cách khác. Chúng ta giúp nhau gặp gỡ Chúa Giêsu, đó cũng chính là hạnh phúc muốn được chia sẻ trong ngày đầu năm Ất Mùi này. Giúp nhau như vậy chính là yêu thương nhau, trân trọng nhau và tin vào nhau. Chớ gì được như vậy, để mùa xuân Quê Hương dưới đất sẽ là phản ánh được phần nào mùa xuân Quê Hương trên trời. Long Xuyên 12-01-2015 + GB. Bùi Tuần
1. Tôi đã về hưu. Nhưng tôi vẫn có bổn phận đối với Hội Thánh để lo cho các linh hồn. Trong tôi, mọi khả năng càng ngày càng yếu đi. Chính vì vậy, càng ngày tôi càng cảm thấy mình cần phải gần gũi với Chúa Giêsu, xin Người ban cho tôi niềm vui và hy vọng, để có thể lo được chút gì cho các linh hồn, dù chỉ là một chút rất bé nhỏ. 2. Mỗi buổi sáng, tôi thường hôn tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tôi nói với Người: Này con đây. Chúa muốn con làm gì? Bao giờ cũng thế, tôi được nghe Chúa nhắc lại trong lòng tôi lời Chúa phán xưa: “Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11.16.17.18). 3. Cùng với lời đó, Chúa đốt lên trong lòng tôi niềm khao cứu các linh hồn bằng thánh giá tượng trưng cho tình yêu và hy sinh. Niềm khao khát đó được đốt lên rất mạnh trong thời gian tôi chịu bí tích Thánh Thể. 4. Thế rồi, Chúa sai tôi đi. Tôi không đi được bằng chân, bởi vì tôi cũng như bị đóng đinh vào một chỗ, do bệnh tật già yếu. Nhưng tôi đi bằng tâm hồn, qua thời sự. 5. Tâm hồn tôi đi gần, tới xa. Đâu đâu tôi cũng thấy những cảnh đau lòng. Nhiều cảnh rất đau lòng xảy ra trong đời sống vật chất, trong đời sống tinh thần, trong đời sống tâm linh. Những cuộc sống như thế cần được cứu. Tôi nhận ra Chúa Giêsu đang cứu họ qua những người Chúa chọn. 6. Chúa cho thấy đặc điểm của những người được Chúa chọn đang cộng tác với Chúa trong việc cứu các linh hồn tại Việt Nam hiện nay là: - Họ khao khát cứu các linh hồn. - Họ yêu thương và hy sinh. 7. Về đặc điểm thứ nhất là khao khát cứu các linh hồn, thì tôi được một chút kinh nghiệm như sau: Khi hôn Chúa Giêsu chịu đóng đinh, tôi được Chúa Giêsu chia sẻ cho sự khao khát, mà Người kêu lên trên thánh giá xưa: “Tôi khát” (Ga 19,28). Người khát các linh hồn. Nỗi khao khát đó chính là một thương tích sâu sắc nhất trong trái tim Người. Trong chốc lát, tôi hiểu khao khát các linh hồn là “muốn cho mọi người được cứu độ và biết chân lý” (1 Tm 2,3). Muốn cứu độ, tôi xác tín là phải cứu con người khỏi mọi lầm than, đặc biệt là cứu khỏi tội, khỏi lửa hoả ngục, để họ được phúc thiên đàng đời đời. Một khao khát như trên chỉ do Chúa chia sẻ cho từ trái tim của Người, chứ không do lý luận, thảo luận. Chúa chia sẻ cho những kẻ bé mọn. Tôi thấy những kẻ bé mọn được Chúa chia sẻ cho nỗi khao khát của Chúa đang sống rải rác khắp nơi trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Tôi học được rất nhiều ở họ. 8. Về đặc điểm thứ hai là yêu thương và hy sinh, thì tôi cũng được một chút kinh nghiệm như sau: Yêu thương và hy sinh mà Chúa Giêsu chia sẻ cho tôi, được tôi cảm nghiệm như là một sự tôi được Chúa thu hút về với tình yêu Chúa trong sự vâng phục thánh ý Chúa. Thu hút đó là một sự hiện diện dịu dàng của Chúa tình yêu, là một việc làm chọn lựa của Chúa tình yêu. Tôi nhận được sự Chúa thu hút, đó chính là yêu thương, mà tôi cảm nhận. Yêu thương như vậy, đòi vâng phục thánh ý Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Vâng phục ý Chúa sẽ phải từ bỏ ý riêng mình, và đó chính là hy sinh, một thứ hy sinh cũng đem lại niềm vui như yêu thương. Tôi đang thấy đặc điểm yêu thương và hy sinh, như vừa tả, nơi nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Họ âm thầm. Họ có mặt trong mọi giới. Tôi học được rất nhiều điều nơi họ. Một điều rất quý, tôi học được nơi họ là sự tế nhị. Sự tế nhị là kết quả của yêu thương và hy sinh. 9. Mỗi tối, trước khi ngủ, tôi lại hôn tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tôi thưa với Người: “Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì?”. Hầu như lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu lại âu yếm nói với tôi: “Con hãy bắt đầu lại”. Với lời đó Chúa dạy tôi một sự thực rất cần cho tôi, đó là tôi còn rất bất toàn, còn rất nhiều điều phải học. Với sự thực đó, tôi nhận ra điều này, đó là: Con đường tôi đi sẽ không luôn luôn suôn sẻ. Chính tôi cũng không luôn luôn an ổn. Tôi cần phải bám chặt vào Chúa. Sẽ có lúc, tôi sẽ như đi trong đêm, trên đầu là núi, dưới chân là vực thẳm, trước mắt là sông lớn. Sẽ chẳng còn nhìn thấy ai. Tôi sẽ rất cô đơn. Tôi không tránh được sợ hãi. Một điều, và chỉ một điều tôi cần phải có trong hoàn cảnh như thế, đó là cậy tin phó thác vào Chúa. Một cách tuyệt đối. Một cách triệt để. Một cách kiên trì. 10. Một phút trước khi ngủ, tôi lại hôn tượng Chúa chịu đóng đinh. Tôi nói với Người: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Thế rồi, tôi ngủ trong tâm hồn phó thác. Khi ngủ, tôi thường gặp Chúa Giêsu trong tiềm thức và vô thức. Như vậy, có thể nói: Chúa Giêsu là Đấng tôi gặp suốt ngày suốt đêm. Nhờ vậy, tôi được cùng với Người, góp phần vào việc lo cứu các linh hồn theo khả năng bé mọn của tôi. 11. Dần dần, tôi khám phá thấy Tin Mừng là chính Chúa Giêsu. Người cứu tôi, và dùng tôi để cứu người khác. Trong suốt con đường cứu chuộc, Người đã bước xuống, đã cúi xuống, đã quỳ xuống. Tình yêu của Người là những hy sinh tự hạ dành cho những kẻ yếu hèn tội lỗi. Suốt đời này và mãi mãi đời sau, tôi sẽ ca tụng Người, và làm chứng về Người, dù chỉ được vài người nghe và tin vào những gì tôi làm chứng về Người, tôi vẫn cho đó là một niềm vui và một niềm hy vọng. Bởi vì chính Chúa Giêsu thực là hy vọng và là niềm vui của tôi. Chính Người là: “Đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà tôi yêu thương đồng bào của tôi, phục vụ Đất Nước của tôi, gắn bóvới Hội Thánh của tôi. 12. Qua những gặp gỡ với Chúa Giêsu, tôi được Người cho thấy là Hội Thánh đang đi vào một giai đoạn rất khó khăn, cuộc chiến giữa thiện và ác sẽ rất khốc liệt, lực lượng Satan sẽ rất lộng hành, lôi kéo các linh hồn xuống hoả ngục một cách dã man và dễ dàng, đạo đức sẽ xuống dốc trầm trọng. Vì thế, hãy mau trở về với Chúa, bằng con đường Tin Mừng là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người là “cửa chuồng chiên” (Ga 10,7). Không qua cửa đó mà vào chuồng chiên chính là trộm cướp (x. Ga 10,1). Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con. Long Xuyên 15-01-2015
Chúa mãi mãi thương gọi tôi. Một trong những Lời Chúa gọi đang trở thành khẩn thiết cho tôi lúc này, đó là: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúa gọi âm thầm, nhưng da diết. Cùng với Lời gọi đó, Chúa ban cho tôi hai ơn này: Một là lòng khao khát muốn nên hiền lành và khiêm nhường thực sự. Hai là khao khát học hiền lành và khiêm nhường nơi Chúa Giêsu là Đấng thương gọi tôi. 2. Xin thú thực là tôi chỉ hiểu được một phần rất nhỏ những gì Chúa dạy tôi, và tôi chỉ thực hiện được cũng một phần rất nhỏ những gì tôi đã hiểu. Tôi yếu đuối lắm. “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm” (Rm 7,19) Tuy nhiên, với lòng cảm tạ Chúa và trong tình liên đới cộng đoàn, tôi xin được phép chia sẻ chút ít những gì rất ít đó. Xin tóm tắt như sau: Chúa dạy tôi qua thánh giá của Chúa trong tôi. Chúa dạy tôi qua sự tế nhị Chúa dành cho tôi. Chúa dạy tôi qua phục vụ kẻ nghèo khổ mà Chúa cùng làm với tôi. Chúa dạy tôi qua những phức tạp bất ngờ xảy ra cho tôi. 3. Chúa dạy tôi qua thánh giá của Chúa trong tôi. Xưa, Chúa Giêsu đã chịu thử thách bằng đủ mọi đau khổ. “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Kitô đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện, nài xin Đấng có quyền năng cứu Người... Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục...” (Dt 5,7-8). Chúa Giêsu đã vâng chịu đủ mọi khổ đau vì mục đích gì? Thưa, để cứu chuộc loài người. Thánh Phêrô quả quyết: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Kitô” (1 Pr 1,19). Nay, Chúa dạy tôi cũng hãy góp một phần nhỏ vào việc cứu chuộc loài người, cũng bằng khổ đau. Tôi hiểu như vậy. Nên những khi chịu đau khổ, tôi luôn nghĩ là Chúa Giêsu đang chịu đau khổ trong tôi, để cứu các linh hồn. Niềm tin ấy giúp tôi nhìn rõ hơn bổn phận tôi phải sống hiền lành và khiêm nhường theo gương Chúa. Tất nhiên hiền lành và khiêm nhường trong mọi khổ đau chính là vì tình yêu. Và như thế, khi được sai đi rao giảng, tôi phải luôn luôn nhớ mình là của lễ đền tội cho đoàn chiên. Tôi sẽ là của lễ có giá trị đền tội, khi tôi vác thập giá và chịu đóng đinh vào thập giá, với tình yêu chấp nhận khiêm tốn và hiền lành như Chúa Giêsu. Làm được gì thì cũng làm với tấm thân là của lễ. Không làm được gì, thì thân mình vẫn là của lễ hiền lành khiêm tốn. Chúa dạy tôi như vậy. 4. Thêm vào đó, Chúa còn dạy tôi hãy học hiền lành và khiêm nhường ở sự tế nhị của Chúa Giêsu. Sự tế nhị của Chúa Giêsu được tiên tri Isaia báo trước: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy. Tim đèn còn leo lét khói, Người chẳng nỡ tắt đi”. Lời đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu (Mt 12,20). Tôi thấy Chúa Giêsu đã rất tế nhị như thế đối với tôi. Bao lần, tôi như cây lau bị giập, nhưng Chúa không đành bẻ gẫy. Chúa vẫn nâng niu, để tôi được lành. Bao lần, tôi như cây đèn chỉ còn leo lét khói, nhưng Chúa vẫn che chắn, không những để không tắt, mà còn cho lửa lại bùng lên. Đúng thực, Chúa hiền lành và khiêm nhường. Tôi cảm nhận được điều đó một cách sâu sắc. 5. Có một nơi hiện nay Chúa hay dạy tôi về hiền lành và khiêm nhường, đó là phục vụ những kẻ nghèo hèn khổ đau. Chúa luôn nhắc cho tôi nhớ lại lời Chúa quả quyết: “Mỗi lần các con làm việc tốt cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các con làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Chúa còn dạy tôi: Phục vụ là cho đi, từng cái nhìn, từng cách suy nghĩ, từng lời nói, từng giọng nói, từng cử chỉ thái độ, từng việc làm, tất cả phải hướng về niềm tin là Chúa có mặt nơi kẻ nghèo khó, để đón nhận bất cứ sự gì tôi dành cho họ. Niềm tin đó an ủi tôi rất nhiều. Nhiều người hiện nay cũng đang được niềm tin ấy khích lệ, và họ rất vui, khi gần lại những kẻ khổ đau, nghèo hèn. Chính tôi cũng đang được thừa hưởng niềm tin đó của nhiều người, khi họ nâng đỡ tôi. Bởi vì họ tin rằng: Họ làm việc lành cho tôi đang bệnh tật đau đớn, là làm cho chính Chúa. Họ thực là hiền lành và khiêm nhường. 6. Hiền lành và khiêm nhường là thái độ không luôn dễ. Nên, nhiều khi Chúa dạy tôi điều đó một cách quyết liệt hơn. Đó là Chúa để cho tôi gặp phải những bất ngờ phức tạp gây đau đớn. Thí dụ tôi định sẽ là thế này, sẽ phải thế nọ. Nhưng không ngờ, thực tế lại xảy ra khác. Tôi phải khiêm nhường hiền từ để vâng phục ý Chúa. Ý Chúa nhiều khi rất khác ý của loài người chúng ta. Nhưng, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng, vâng phục ý Chúa, thì mới là thực sự thờ phượng Chúa. Thờ phượng Chúa với bao nhiêu việc lành, mà thiếu khiêm nhường, thì Chúa cũng không nhận. 7. Chúa Giêsu nói rất rõ về điều kiện khiêm tốn, trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người Pharisêu đứng riêng một mình, gần bàn thờ và cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác; tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi bảo thật cho các ông biết: Người này khi trở xuống mà trở về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14). Tạ ơn Chúa cũng có thể kiêu căng. 8. Còn thánh Phêrô thì dứt khoát trong chỉ một câu: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Giả sử, giờ đây, tôi cảm tạ Chúa vì đã ban cho tôi được ơn khiêm nhường hơn những kẻ khác, thì tôi lại quá kiêu ngạo mất rồi. Vì thế, để khiêm nhường, tôi cần tỉnh thức, sẵn sàng chiến đấu với chính mình và quỷ hoả ngục. Chiến đấu bằng chính sự hiền lành và khiêm nhường, mà Chúa ban cho những kẻ bé mọn tin cậy nơi Người. 9. Tôi xin Chúa Giêsu ban ơn cho tôi luôn sống bé mọn, một thứ bé mọn mà Người muốn, để được vào số những người mà Người ám chỉ, khi Người cảm tạ Chúa Cha. “Ngay bấy giờ, được Thánh Thần tác động, Đức Giê su hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. (Lc 10,21). Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin thương xót con. Xin cứu con thoát khỏi tính kiêu căng và vô cảm trước tình hình nguy hiểm hiện nay. Long Xuyên ngày 21.01.2015
1. Với những kinh nghiệm của đời mình, tôi thường sống Mùa Chay với tinh thần sám hối và tin vào Chúa, một cách sống động hơn, nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cụ thể là tôi sống với bốn xác tín sau đây: 2. Tôi xác tín mình là kẻ tội lỗi rất cần được ơn tha thứ. Tôi thực sự là kẻ rất yếu đuối tội lỗi. Thánh Phaolô viết về chính mình thế này: “Tôi mang tính xác thịt, bí bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì thì tôi cũng chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,14-15). Lời thú tội trên đây của thánh Phaolô khích lệ tôi hãy nói lên sự thực về tôi, tôi cũng là như thế, và còn hơn thế rất nhiều. Khi tôi thú nhận mình tội lỗi, tôi không quá nhấn mạnh đến sự hư đốn của tôi, nhưng tôi nhấn mạnh hơn đến sự tôi được Chúa tha thứ. Tôi thực sự đã cảm nhận những lời Chúa phán xưa về tình yêu Chúa dành cho kẻ tội lỗi, như: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). “Con Người đến, để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11). “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để 99 con kia trên núi, mà đi tìm một con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là 99 con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,12-14). 3. Tôi không thể hiểu được, làm sao tôi có thể sống, nếu không được tha thứ. Tôi càng không dám gánh trách nhiệm nào, nếu tôi không tin rằng Chúa sẽ tha thứ cho những yếu đuối tôi. Tôi được ơn tha thứ. Nên tôi rao giảng về sự tha thứ. Tôi làm chứng đạo Chúa có đặc điểm là tha thứ. 4. Tôi xác tín mình là kẻ có rất nhiều giới hạn trong mọi lãnh vực, rất cần khiêm tốn tìm hiểu, lắng nghe và cộng tác với nhiều người. Kinh nghiệm cho tôi thấy: không gì hại cho tôi bằng sự tôi nghĩ mình phải làm đủ mọi sự, và có thể làm được mọi sự. Kinh nghiệm cũng cho tôi thấy là: Không gì dại khờ cho tôi bằng sự tôi cho rằng mình phải làm được điều gì đặc biệt, khác với các Giám mục, và linh mục tại Việt Nam hôm nay. 5. Tôi vững tin rằng: Chúa chỉ đòi tôi một điều là: Hãy kết hợp mật thiết với Chúa, rồi ơn Chúa sẽ dẫn đưa tôi làm những gì Chúa muốn, theo khả năng bé nhỏ của tôi. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa quả, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). 6. Tôi xác tín mình được gọi tham dự vào thánh giá Chúa, để góp phần vào việc cứu các linh hồn. Rất nhiều khi, tôi đã nghĩ rằng: Đau khổ tôi chịu là do tội lỗi của tôi, và là con đường giúp tôi nên thánh. Nhưng dần dần, tôi xác tín: Đau khổ là một ơn gọi Chúa dành cho tôi, để tôi được góp phần vào việc cứu các linh hồn. 7. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mc 19,45). “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15). 8. Càng ngày, những lời Chúa phán trên đây càng làm cho tôi xác tín về sự tôi chịu đau khổ là để đáp lại ơn gọi Chúa dành cho tôi. Đau khổ gắn liền với mục vụ, đau khổ là một cách cứu độ, đau khổ là để hiệp thông với thánh giá Chúa. Đau khổ là một ơn gọi, là đau khổ ấy đến từ nhiều phía. Rất có thể đến từ phía cộng đoàn của tôi, do những chống đối, những xa cách, những hiểu lầm, những ghen tương, vv... Tôi phải sẵn sàng đón nhận. Rất có thể đau khổ đến từ những chuyển biến bất ngờ đòi tôi phải từ bỏ chương trình có sẵn, để bắt đầu lại. Rất có thể đau khổ đến từ phía những văn hoá mới có vẻ bình thường hoá những tội lỗi và căn cứ vào ý kiến số đông như thước đo đạo đức. Những trường hợp như thế, tôi sẽ rất cô đơn và đau khổ. Rất có thể đau khổ của tôi lại là những đau khổ của người khác. Khổ cái khổ của đồng bào tôi. Đau cái đau của Hội Thánh tôi. 9. Tôi xác tín là cuộc sống của tôi rất mong manh, tôi ra đi bất cứ lúc nào, tôi phải sẵn sàng ra trước mặt Chúa với niềm phó thác tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa. Thánh Têrêsa thành Lisieux nói về mình: “Tôi sẽ hiện diện trước Chúa với bàn tay không”. Ngài nhận mình chẳng là gì, chẳng đáng gì, chẳng có gì gọi là công phúc. Ngài chỉ là đứa con bé nhỏ, chỉ tin vào tình yêu Chúa mà thôi. Tôi sẽ không nói được như thánh nữ. Nhưng tôi sẽ nói với Chúa: Con là kẻ tội lỗi, mang theo nhiều dấu ấn của tội lỗi. Nhưng con tin ở lòng thương xót Chúa. vì Chúa là Chúa của con. 10. Với bốn xác tín trên đây, tôi sống mùa Chay năm nay một cách bình an. Tôi biết sống như thế chính là một sự hoán cải nội tâm, đòi tôi phải rất khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa. Sự vâng phục khiêm nhường đó nhiều khi vượt quá tính cách hợp lý theo cách suy nghĩ của thế gian. Nhưng Chúa Giêsu đã làm. Tôi cũng làm như Chúa Giêsu. Như thế, tôi mới góp phần vào việc cứu nhân loại. Nhân loại hiện nay đang rất cần được cứu. Chỉ Chúa mới cứu được mà thôi. Long Xuyên 29-01-2015
1 Những ngày tết, tôi thường phải bận rộn với các thứ mong ước. Trong lúc rối bời, tôi đến bên Đức Mẹ Maria. Như một trẻ thơ, tôi hỏi Mẹ: “Mẹ ơi, con nên mong ước điều gì nhất?”. Tôi lắng nghe. Mẹ cho tôi nhớ lại giây phút Truyền tin. Mẹ được Tổng lãnh thiên thần Gabriel chào chúc: “Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Rồi Mẹ bảo tôi: “Điều con nên mong ước nhất, chính là “được Chúa ở cùng con”. 2 Tin vào lời Mẹ, tôi lui vào nội tâm sâu thẳm, tôi cầu xin Chúa thương đến với tôi. Tôi đợi chờ và khao khát với tất cả tấm lòng nghèo khó khiêm cung. Trong giây phút không ngờ, Chúa đến với tôi. Tôi đã được gặp Chúa. Đúng là Chúa, Đấng hằng sống, Đấng uy quyền và giàu xót thương, Người đem tôi vào một sự sống mới. Sự sống mới đó chính là sự sống của Người. 3. Tôi nhận ra Chúa đã yêu thương tôi. Chúa đã cứu tôi. Chúa đã ban ơn cho tôi. Chúa đã gọi tôi. Chính Chúa là hy vọng của tôi. Chúa là cùng đích của tôi. Chúa là Cha tôi.
4. Chúa gọi tôi hãy đến với Người để Người được vui trong tôi, và để tôi được vui trong Người. Ở trong Chúa, tôi được Người gắn vào bản tính tự nhiên của tôi một cảm quan thiêng liêng, để tôi có thể nghe được tiếng Chúa, và nhận ra được sự hiện diện của Chúa. 5 Việc đầu tiên tôi làm sau đó là cùng với Đức Mẹ, ca tụng và tạ ơn Chúa. Tôi nhận thấy mình bất xứng. Ơn Chúa ban là ơn nhưng không. 6. Bỗng chốc, tôi cảm thấy đời tôi có một chiều kích hướng thượng rất cao, tới Chúa là nguồn mọi sự sống, mọi hy vọng, mọi hạnh phúc. 7 Lúc đó, tôi tin Chúa, tức là tôi gắn bó với Chúa, tôi vâng phục Chúa, tôi đi về với Chúa. Chứ không phải chỉ là chấp nhận một hệ thống giáo lý. 8. Tôi đi về với Chúa, qua đời sống yêu thương phục vụ con người. Tôi yêu thương phục vụ, như Chúa đã dạy và đã yêu thương phục vụ. Do vậy, mọi tình yêu của tôi dành cho người khác đều khởi đi từ nguồn vô tận là tình yêu Chúa. Nếu làm được gì tốt cho ai, tôi sẽ qui chiếu về Chúa, như lời Chúa phán: “Thầy là Cây nho, anh em là cành, ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh được nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
9. Một thoáng chia sẻ trên đây cũng là những gì tôi vốn đã được cảm nhận ít nhiều suốt đời tôi, từ nhỏ đến giờ. Vì thế, hôm nay khi được Đức Mẹ nhắn nhủ: Sự được Chúa ở cùng là điều nên mong ước nhất, tôi lại thêm xác tín tôi luôn cần được Đức Mẹ dạy dỗ, đào tạo vì tôi rất yếu đuối, dễ quên và ngại thực hiện. 10. Với hết lòng khiêm nhường, tôi xin Chúa và Đức Mẹ thương tha tội cho tội. Cảm tạ và xin lỗi là những việc cần làm chung với nhau, nhất là dịp Tết. Điều tôi xin lỗi cách riêng ở đây là không dùng ơn Chúa ở cùng, để làm tốt bổn phận của tôi. 11. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải phấn đấu hết sức để thi hành việc bổn phận một cách tốt nhất. Thí dụ bài giảng của tôi, dù với hình thức nào, cũng phải làm chứng là có Chúa ở cùng, được Chúa đóng dấu vào. Nhưng biết bao lần, thực tế đã không luôn được như vậy. Tôi xin sám hối, cầu xin Chúa thứ tha. 12. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải có ý thức về thời gian như Chúa. Thí dụ, khi làm mục vụ, đáng lẽ tôi phải khiêm tốn đợi chờ kết quả một cách kiên trì, như Chúa vẫn làm. Nhưng tôi thì nóng vội, cái gì cũng muốn phải có kết quả ngay. Đó là điều sai lầm của tôi. Tôi xin sám hối. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi.
13. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải quên đi cái tôi của tôi, nhưng bao lần cái tôi của tôi vẫn hiện diện trong các việc tôi làm, kể cả các việc đạo đức. Đó là điều yếu đuối của tôi. Tôi xin sám hối. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải tỉnh thức chiến đấu với quỉ satan, nó luôn tìm cách phá vỡ bất cứ chương trình nào có tính cách cứu độ của Chúa. Nhưng nhiều khi tôi đã chủ quan, không nghĩ tới kẻ thù vô hình đó. Tôi xin sám hối. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi. 14. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải coi đau khổ là điều kiện cần vốn đi liền với thánh giá cứu chuộc. Nhưng bao lần tôi đã tránh xa và có khi phản bội thánh giá. Tôi xin sám hối. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi. 15. Khi được Chúa ở cùng, đáng lẽ tôi phải rao giảng sự hòa giải, sự tha thứ. Nhưng bao lần, tôi đã không làm đủ, làm đúng. Tôi xin sám hối. Xin Chúa thương tha thứ cho tôi. 16. Để kết, tôi xin phép nói thêm điều này: Với ơn được Chúa ở cùng, tôi thường nhìn mọi người đến với tôi, như một bức thư Chúa gửi cho tôi. Dù là ai, họ đều là một bức thư Chúa gửi cho tôi. Tôi đọc thư đó được viết trong tâm hồn họ, trên trái tim họ. Chúa viết. Và tôi đã hiểu tình Chúa mênh mông, giàu xót thương và nhân ái. Đó là cái Tết thánh hóa đời tu của tôi. Xin thân ái kính chúc anh chị em “được Chúa ở cùng anh chị em”. Tết Ất Mùi, Long Xuyên 09.02.2015
1. Hiện nay, tình hình đang chuyển biến một cách phức tạp và nguy hiểm, tôi rất lo cho đất nước và Hội Thánh. Tôi cầu nguyện rất nhiều. Xin Chúa thương cứu độ. Chúa dạy tôi hãy cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, một cách quảng đại hơn. Tôi xin vâng. Xin vâng của tôi được diễn tả bằng một sự khao khát hiểu biết ý Chúa và thực thi ý Chúa. Khao khát chân thành, khao khát nồng nàn, khao khát với tất cả sự sẵn sàng và chờ đợi. 2. Thế rồi, Chúa giúp tôi dọn tâm hồn để được Chúa đào tạo trở thành người cộng tác với Chúa. Dọn tâm hồn là điều kiện cần thiết. Việc dọn tâm hồn được Chúa dạy có thể tóm tắt thế này: 3. Tôi nhận thấy mình rất nghèo nàn về đời sống thiêng liêng, rất dốt nát trong lĩnh vực hiểu biết thánh ý Chúa. Tôi không tự mình lo cho mình những sự quá sức mình như vậy được. Tôi xin Chúa thương giúp. Ơn Chúa giúp là nhưng không, chứ chẳng phải do tôi xứng đáng được giúp. 4. Dọn tâm hồn còn là tin vào tình yêu Chúa. Tôi được Chúa dạy là Chúa yêu thương tôi một cách lạ lùng. “Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu thương con như vậy” (Ga 15,9). Tình yêu như thế, khi cảm nhận được đôi chút, đã đổi mới tôi rất nhiều. Tôi lạc quan về tôi rất nhiều, lạc quan trong khiêm nhường và cảm tạ. 5. Dọn tâm hồn còn là xin vâng phục ý Chúa. “Con sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, nếu con vâng giữ các điều Thầy dạy” (Ga 15,10). Mến yêu và vâng phục trong niềm tin vững vàng khi tâm hồn đã trở nên nghèo khó, đó là thái độ mà Chúa muốn, để tôi có thể đón nhận được nội dung Chúa dạy. 6. Nội dung Chúa dạy tôi là “Hãy đi vào cửa tình thương và con đường cứu độ”. Cửa đó và con đường đó là chính Chúa Giêsu “Thầy là con đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Suốt đời Chúa Giêsu là yêu thương hy sinh và Người kết thúc đời mình bằng hy sinh chính mạng sống mình vì yêu thương. “Thầy hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”(Ga 10,15). Chúa Giêsu đã hy sinh như thế, để vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa Cha muốn Người là của lễ đền tội cho loài người, và để làm chứng Thiên Chúa chính là tình yêu. Tình yêu ấy chiến thắng mọi sự. Vì vậy, khi vào trần gian, Ðức Kitô nói: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con”. (Dt 10, 5-7). Chính Người sẽ là của lễ hy sinh. 7. Con đường hy sinh được biểu dương bằng cây thánh giá chính là một cách làm vinh danh Chúa. “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con tôn vinh Cha”(Ga 17,19). Chúa Cứu Thế đã cầu nguyện như thế trước giờ tử nạn. 8. Chúa dạy tôi là hãy cộng tác với Chúa, bằng cách cùng với Người cứu nhân loại bằng tình yêu và trong tình yêu. Chúa muốn tôi đi tới tận cùng con đường tình yêu. “Chúa yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Yêu thương là phải hy sinh. 9. Có lúc, tôi sợ con đường hy sinh theo Chúa Cưu Thế, lúc đó Người như khích lệ tôi. Người quả quyết tôi được Chúa chọn để sống theo Chúa. “Không phải con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn con” (Ga 15,16). 10. Trên đây là những gì Chúa Giêsu đang đào tạo tôi trong sâu thẳm tâm hồn tôi. Thực tế luôn phức tạp, nhất là trong lúc này. Cho dù tôi có sẵn lửa mến, giúp đi tới cùng con đường tình yêu như Chúa Giêsu. Nhưng để áp dụng vào thực tế, tôi phải thấu hiểu thực tế theo ánh sáng của Chúa, rồi tôi cần phải khôn ngoan trong việc thực thi ý Chúa theo hoàn cảnh mình sống như ý Chúa muốn. Chúa dạy tôi rằng: Làm thực tốt bổn phận hằng ngày, đó chính là của lễ mang tình yêu và hy sinh. 11. Chia sẻ trên đây của tôi là hết sức thành thật, mang tính cách gởi gắm, xin anh chị em thương yêu cầu nguyện cho tôi rất nhiều. Vì tôi rất yếu đuối. Tôi tin Chúa cũng đang đào tạo rất nhiều con cái Chúa đang sống trên quê hương Việt Nam này. Cũng có thể Người đang đào tạo họ theo cùng một cách như Người đang đào tạo tôi. Nhưng có thể Người đang dùng cách khác để đào tạo họ. Dù với cách nào, Chúa vẫn coi việc đào tạo là cần thiết. Tình hình lúc này đang chờ đợi được cứu, cũng nhờ những con người được đào tạo theo thánh ý Chúa. Họ được Chúa dùng để cộng tác với Chúa. Chúa muốn như vậy. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy vâng nghe với tâm tình cảm tạ. Đừng chậm trễ, kẻo sẽ quá muộn. Long Xuyên 31.01.2015
1. Từ còn rất nhỏ, tôi đã có lòng kính thánh Giuse. Trải qua nhiều thử thách, cuộc sống của tôi được như hôm nay, cũng nhờ ơn thánh Giuse. Thánh Giuse đã dạy tôi rất nhiều. Ở đây, tôi xin được chia sẻ vắn tắt mấy ơn đặc biệt Ngài ban khi uốn nắn và đào tạo tôi. 2. Ơn thứ nhất là thánh Giuse dạy tôi hãy tin vào Lời Chúa một cách tuyệt đối và đơn sơ. Xưa thánh Giuse đã được Chúa dạy làm những điều rất khó hiểu, như nhận Trinh Nữ Maria nghèo làm bạn đời, như đem thánh gia nghèo trốn sang Ai Cập, như đưa Mẹ Con nghèo trở về Israel qua con đường kín đáo để sống âm thầm tại Nadarét. Thánh Giuse biết đó là những việc khó hiểu và khó thực thi. Nhưng Ngài tin vào Lời Chúa một cách đơn sơ và tuyệt đối. Tin khiêm nhường. Tin phó thác. 3. Tôi cũng được Chúa dạy nhiều điều khó hiểu và khó làm trong bổn phận đối với người nghèo. Công đồng Vatican II dạy: “Khi sử dụng của cải, con người phải coi tài sản mình đang sở hữu cách chính đáng, không chỉ là của riêng mình, nhưng còn là của chung, trong ý nghĩa là của cải có thể sinh ích không những cho riêng mình, mà còn cho nhiều người khác. Đàng khác, mọi người đều có quyền nhận được phần của cải đủ nuôi sống bản thân và gia đình mình. Đó là điều các Giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo Hội đã nghĩ đến khi dạy mọi người hiểu về bổn phận phải giúp đỡ người nghèo, vì không phải chỉ giúp bằng của dư thừa... Trước con số quá lớn những người đói khổ trên thế giới, Thánh Công đồng tha thiết kêu gọi mọi người hãy nhớ đến lời sau đây của các Giáo phụ: Hãy cho kẻ sắp chết đói ăn, vì nếu không cho họ ăn là đã giết họ” (Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 68). 4. Tôi khó hiểu và khó thực thi những lời sau đây: “Tài sản của tôi không là của riêng tôi, nhưng cũng là của chung. “Tôi có bổn phậnn phải giúp đỡ kẻ nghèo, không phải chỉ bằng của dư thừa. “Không cho kẻ sắp chết đói ăn, tức là đã giết họ”. Thú thực là nhiều khi tôi chỉ đọc lướt qua những câu nói trên của Công đồng, bởi vì tôi như không muốn hiểu, để khỏi phải thực hành. Nhưng thánh Giuse không ngừng dạy tôi là phải vâng ý Chúa mà sống tốt với kẻ nghèo, như xưa Ngài đã thực hiện. Tạ ơn thánh Giuse, tôi đã vâng ý Ngài. Dần dần tôi cảm thấy mình phải tin vào Lời Chúa và phải sống tốt hơn với kẻ nghèo. Cho dù tôi chỉ làm được rất ít cho họ. Nhưng phần rất ít đó là rất quan trọng cho lương tâm tôi. 5. Ơn thứ hai là thánh Giuse dạy tôi hãy coi chức vụ Chúa trao để mà phục vụ, và phục vụ thì phải khiêm nhường và tỉnh thức. Xưa, thánh Giuse được Chúa chọn làm bạn trăm năm của Đức Mẹ Maria, là làm cha nuôi của Chúa Giêsu. Đó là những chức cao quyền trọng. Nhưng thánh Giuse chỉ coi những chức quyền ấy như những bổn phận phục vụ. Phục vụ của Ngài được thực hiện một cách khiêm nhường. Ngài chôn vùi mình vào cuộc sống âm thầm. Nhiệt tình mà kín đáo. Tỉnh thức mà lặng lẽ. Vất vả nhọc nhằn mà thinh lặng. Ngài phục vụ với tất cả tấm lòng yêu thương. Phục vụ của Ngài là rất thiết thực: Làm đúng việc, đáp ứng đúng nhu cầu, vào đúng lúc, với đúng cách. Phục vụ tế nhị của Ngài tạo nên một bầu khí ấm áp bao trùm thánh gia, xây dựng được các liên đới tốt với những người xung quanh. 6. Thánh Giuse dạy tôi hãy sống cuộc đời phục vụ như Ngài. Tôi thực tình rất muốn theo gương Ngài. Nhưng thực tế không dễ dàng chút nào. Thói đời, thói đạo thường tạo ra vô số những hào quang giả, để gắn vào chân dung các người có quyền chức. Những người có quyền chưc nếu không tỉnh thức, cũng lại dễ hãnh diện với những hào quang đó. Thế là phục vụ cua họ sẽ rơi vào phô trương, nhiều khi tới mức ghê tởm mà không hay biết. 7. Tôi xin thánh Giuse thương giúp tôi trong phục vụ. Ngài giúp tôi. Nhưng Ngài đòi tôi phải phấn đấu không ngừng. Vì thế, cho đến hôm nay, tôi vẫn phải phấn đấu rất nhiều. Trong phấn đấu có những lúc phải bắt đầu lại, với sám hối và cầu nguyện thiết tha. Tôi vững tin vào Chúa. 8. Ơn thứ ba là thánh Giuse dạy tôi bất cứ việc gì tôi làm đều hãy được đóng dấu: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Xưa, khi sứ thần Thiên Chúa báo tin cho thánh Giuse biết: Đức Maria sẽ hạ sinh con trai, thì sứ thần lại truyền lệnh cho Ngài là “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Nay, thánh Giuse cũng theo hướng đó. Ngài dạy tôi làm gì cũng hãy gắn chặt vào danh Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. 9. Khi thực hành lời dạy trên đây của thánh Giuse, tôi hay bị lạc vào những thứ danh không phải là Đức Giêsu, mà là danh các thần khác. Nếu là danh Đức Mẹ, thánh Giuse và các thánh thì vẫn khá. Nhưng khốn nỗi, nhiều khi danh, mà tôi nêu lên và dựa vào lại là các cơ sở, cơ chế, công trình, tổ chức này nọ. Vô tình những danh đó lại là những bức cản hình ảnh Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. 10. Hiện nay, các thứ danh đang đua nhau dựng lên khắp Hội Thánh tại Việt Nam. Nhiều nơi, các danh đó đã quá nhiều, quá lớn, đến nỗi làm cho danh Chúa Giêsu bị trở nên lu mờ. Phải nói: đây là một phát triển đạo một cách không lành mạnh. Thánh Giuse dạy tôi hãy vâng lời Công đồng Vatican II mà trở về tập trung vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chỉ có Chúa Giêsu mới thắng được ma quỷ. Chỉ có Chúa Giêsu mới cứu được con người khỏi tội. Chỉ có Chúa Giêsu mới là của lễ đền tội có sức cứu được con người khỏi lửa hoả ngục. 11. Mấy chia sẻ trên đây đang giúp tôi trở nên người con đích thực của thánh Giuse. Thời nay, lãnh vực nào cũng có cái thực cái giả. Trong lãnh vực đạo, rất nhiều người xưng mình là con thánh Giuse. Nhưng con đích thực mới thực sự đáng quý. Cúi xin thánh Giuse thương giúp tôi luôn biết phấn đấu trở về, để là con đích thực của vị thánh khiêm nhường, đấng bảo vệ Hội Thánh của Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Long Xuyên, 28.2.2015
1. Mùa Chay kêu gọi tôi suy gẫm cách riêng về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Suy gẫm của tôi từ đầu mùa Chay năm nay đến bây giờ tự nhiên hướng về một nét đặc biệt của cuộc Thương khó Chúa, đó là đau khổ của Chúa Giêsu đã được báo trước. 2. Đau khổ của Chúa Giêsu đã được báo trước thế nào? Để rồi, đau khổ của môn đệ Chúa Giêsu cũng được báo trước ra sao? Sống với những báo trước quan trọng ấy, chính là nét sống tu đức của tôi hôm nay. Dưới đây, tôi xin được chia sẻ vắn tắt đôi chút kinh nghiệm của tôi. 3. Bình thường, tôi quen sống đức tin bằng sự gặp gỡ thân mật với Chúa Giêsu, tôi để ý nhiều đến tính cách thân mật trong cuộc sống bình thường. Nhưng khi suy gẫm về cuộc thương khó Chúa, tự nhiên tôi gặp gỡ Chúa trong một hoàn cảnh rất khác, đó là hoàn cảnh Người chịu đau khổ, nhục nhã, nghèo hèn. 4. Do thân mật, tôi nói với Chúa: “Chúa bị khinh, bị chối bỏ, bị kết án, bị giết như thế, thì còn gì là thu hút đối với những ai muốn theo Chúa?”. Cũng trong thân mật, Chúa trả lời tôi: “Con Người phải chịu khổ đau như thế, để đưa nhân loại vào Nước Thiên Chúa. Cái thu hút không phải là đau khổ, mà là hy sinh cho tình yêu. Chính vì thế, mà đau khổ Cha chịu đã được Cha báo trước”. 5. Thế rồi, Chúa cho tôi nhớ lại những lời chính Chúa đã báo trước về cuộc thương khó của Người. Thánh sử Marcô thuật lại ba lần chính Chúa báo trước: Phải qua đau khổ, mới tới Phục sinh. 6. Lần thứ nhất: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Lần thứ hai: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người. Và Người bị giết chết. Rồi sau ba ngày, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người, và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,33-34). 7. Chúa Giêsu đã thấy trước, và đã báo trước cuộc thương khó của Người. Có nghĩa là Chúa coi cuộc thương khó là con đường tốt nhất Người chọn, để làm chứng cho tình yêu, để đưa loài người vào Nước Thiên Chúa. Thú thực là tôi tin hơn là tôi hiểu. Niềm tin ấy cũng là do ơn Chúa. Tôi đón nhận ơn đó, tôi cộng tác vào ơn đó với tất cả tấm lòng khiêm tốn của tôi. 8. Rồi, cũng trong thân mật, Chúa Giêsu âu yếm nói với tôi những lời xưa Người đã nói với các môn đệ của Người. Đại khái là: con đường Người đã đi sẽ là con đường tôi phải đi. Chúa phán: “Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Cha” (Mc 8,34). 9. Đem Lời Chúa trên đây soi vào cuộc đời mình, tôi thấy đúng là chỗ nào cũng không tránh được đau khổ. “Phải từ bỏ mình” đâu có dễ. Cái tôi xấu không hẳn chỉ gồm những thói hư nết xấu, mà cũng gồm cả những tư tưởng, việc làm, lời nói mà tôi tưởng là đạo đức, nhưng thực sự lại không hợp ý Chúa, nên bị Chúa ruồng bỏ. Thánh Phêrô xưa, khi nghe thầy mình báo về cuộc thương khó Người sẽ phải chịu, đã phát biểu một cách đầy đạo đức: “Xin Thiên Chúa thương Thầy, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Nhưng Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô: Satan, hãy lui lại đàng sau Thầy, tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23). Tôi nay nhiều lúc cũng vậy. Từ bỏ mình luôn có khổ đau. 10. “Vác thập giá mình” cũng đâu là chuyện nhởn nhơ. Nếu thập giá của tôi là những giới hạn của tôi, là bệnh tật của tôi, là gánh nặng tuổi tác của tôi, là những nghịch cảnh luôn có trong cuộc đời, vv... thì đau khổ tất nhiên sẽ đồng hành chặt chẽ với tôi. Nói lên thực tế đó chính là một điều lương thiện. 11. “Mà theo Chúa”, đó mới chính là chuyện chắc chắn phải khổ. Theo Chúa, để ở bên Chúa, để cùng chia sẻ với Chúa, đâu là chuyện lúc nào cũng vui. Khi Chúa bị đánh đòn, bị khạc nhổ vào mặt, bị vác thập giá, bị đóng đinh vào đó, bị xỉ vả, chế nhạo. Lúc đó, Chúa bảo: Con hãy cùng theo Chúa mà chia sẻ thân phận như thế của Chúa. Tôi xin thú thực là tôi không luôn sẵn sàng. Nếu có sẵn sàng, thì cũng phải nhận rằng mình phải thực sự đau đớn, như Chúa đã thực sự đau đớn. Đó mới là theo Chúa thực sự. 12. Với những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, tôi xin đưa tới một cảm nghiệm đau đớn, mà chính tôi đã trải qua, đó là: Đôi khi những đau đớn coi như quá tàn nhẫn cứ mãi đổ trên mình một cách vô lý, tôi thấy đời mình như đi vào thất bại. Một đàng tôi cảm thấy mình như đã trở thành gánh nặng cho người khác, một gánh nặng họ muốn loại trừ. Một đàng tôi như mất niềm tin vào lòng khoan dung của người khác. Đó là một nỗi đau lớn, gây nên thương tích trong lòng tôi. Nó ảnh hưởng nhiều đến cái nhìn của tôi về chủ nghĩa thực dụng đang tràn vào Hội Thánh tại Việt Nam. Nhưng Chúa vẫn thương tôi. Chúa dạy tôi hãy cứ khiêm nhường cầu nguyện. Và kết quả là cho đến bây giờ tôi vẫn tin vững vàng vào Lời Chúa: “Phải qua đau khổ mới tới được Phục sinh”. Đau khổ là cái giá phải trả để cứu chuộc các linh hồn khỏi lửa hoả ngục.Đau khổ có nhiều thứ và nhiều mức độ, Chúa không thử thách ai quá sức của họ. 13. Đau khổ đã và đang được báo trước cho các môn đệ Chúa, trong đó có tôi. Tôi không biết những gì sẽ xảy ra cho chúng ta. Riêng tôi, tôi vẫn chuẩn bị trong tâm hồn mình bằng những ước mong là được theo Chúa và ở bên Chúa, trên con đường thương khó của Chúa. Tôi chuẩn bị như vậy. Còn thực tế cuộc đời tôi luôn ở trong tay Chúa. Tôi coi đây là điểm rất quan trọng trong việc đào tạo sống chân lý Tin Mừng đích thực. Cho dù đau khổ trăm bề, tôi tin tôi vẫn hạnh phúc, vì được ở bên Chúa. Người vẫn thương tôi. Tuy nhiên phải thú thực điều này: Rất nhiều khi, tôi đã xin Chúa đừng bắt tôi uống chén đắng. Rất nhiều khi, tôi đã vác thánh giá, mà ngã quỵ xuống đất. Rất nhiều khi, người khác đã vác thánh giá thay tôi. Rất nhiều khi, tôi đã thốt lên những lời than cô đơn, khi bị treo lên thánh giá. Vì tôi quá yếu đuối. Lạy Chúa, xin xót thương con. Con tin đau khổ là trường đào tạo con. Con cảm tạ Chúa đang đào tạo con bằng đường thánh giá. Long Xuyên 08.3.2015
1. Trong vườn Cây Dầu, tối thứ Năm Tuần thánh, Chúa Giêsu đã trải qua một cơn buồn sầu xao xuyến rất kinh hoàng. “Người sấp mặt xuống đất, cầu nguyện rằng: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). 2. Chén, mà Chúa Giêsu xin Chúa Cha đừng bắt Ngài uống, chính là cuộc khổ nạn sắp tới. Chúa Giêsu sợ cuộc khổ nạn mà Ngài biết trước là rất đớn đau. Ngài muốn thoát khỏi. Chứng tỏ rằng cuộc khổ nạn là một thực tế gây những đau đớn khôn lường. Ngài kêu xin Chúa Cha, đó là nguồn an ủi và sức mạnh. 3. Những gì đã xảy ra cho Chúa Giêsu xưa, cũng đã và đang xảy ra cho tôi. Khổ nạn của tôi là rất nhỏ. Nhưng đối với sức của tôi, nó thực là lớn. Tôi sợ hãi. Tôi kêu lên với Chúa. Tôi kêu than, tôi kêu cầu, tôi kêu rên, tất cả đều có nghĩa là tôi hy vọng vào Chúa. Tôi như con người ở dưới đáy vực sâu kêu lên Chúa. Sau cùng, tôi đã gặp được Chúa. Đó là điều tôi xin được chia sẻ, như một nhân chứng hèn mọn. 4. Từ vực sâu của những người tội lỗi, tôi kêu lên Chúa. Chỗ ở của những người tội lỗi là vực thẳm tối tăm. Tôi ở chung với họ, tận đáy vực thẳm. Từ đó, tôi kêu Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tôi kêu thảm thiết. Và Chúa đã trả lời tôi. Người đã bước xuống. Ngài đã cứu tôi. Tôi nghe Người nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17). Tôi cũng nhớ lại lời thánh Phêrô: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chúa vẹn toàn, vô tì tích là Đức Kitô” (1Pr 1,19). Trong đáy vực sâu, Chúa đã gọi tên tôi, Chúa đã lấy máu của Người, mà xoá tội cho tôi. Tôi xin làm chứng điều đó. 5. Là kẻ tội lỗi, tôi cũng còn là kẻ nghèo túng Từ vực sâu của những người nghèo túng, tôi kêu lên Chúa. Nghèo túng trong tôi gồm đủ mọi thứ thiếu thốn như nghèo sức khoẻ, nghèo tài đức, nghèo uy tín. Những người nghèo cũng ở trong một vực thẳm. Tôi ở chung với họ. Từ đáy vực thẳm đầy thê thảm ấy, tôi kêu lên Chúa những lời van xin thống thiết. Chúa đã nhậm lời tôi. Người đã bước xuống. Người đã ôm lấy tôi. Tôi được nghe lại những lời Người đã nói xưa: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5-6). Tôi là người tội lỗi, tôi là người bần cùng. Với những tư cách đó, tôi đã gặp được Chúa từ những vực thẳm. Thêm vào đó, tôi còn là kẻ bé mọn. 6. Từ vực sâu của những kẻ bé mọn, tôi kêu lên Chúa. Kẻ bé mọn được hiểu là những kẻ bị đẩy ra lề xã hội. Tôi đứng chung giữa họ. Chúng tôi như rơi vào vực thẳm. Từ vực sâu ấy, tôi kêu lên Chúa. Chúa đã bước xuống. Người đã ôm lấy tôi. Tôi được nghe lại lời Người đã phán xưa: “Mỗi lần các ngươi làm điều tốt cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tôi cảm thấy tôi được thuộc về Chúa, chính vì tôi hèn mọn đã kêu cầu Chúa. Kinh nghiệm về sự kêu cầu từ ba vực sâu kể trên đã giúp tôi kêu cầu từ một vực sâu khác, đó là vực sâu của những người cầu nguyện và ăn chay đích thực trong âm thầm khiêm tốn. 7. Từ vực sâu của những người cầu nguyện và ăn chay, tôi kêu lên Chúa. Họ là những người cầu nguyện và ăn chay một cách âm thầm theo như Chúa dạy (x. Mt 6,5-6. 16-18). Khi cùng với họ cầu nguyện và ăn chay, như xưa Chúa Cứu Thế đã làm trong hoang địa, tôi cảm thấy mình như đứng dưới đáy vực thẳm vô hình. Từ đó tôi nhìn lên Chúa. Và Chúa cho tôi thấy Satan là ác thần rất dữ tợn. Tôi kêu cầu Chúa. Chúa bước xuống. Người bảo vệ tôi. Tôi nghe Người quả quyết: “Giống quỷ này không chịu rút lui, nếu người ta không ăn chay và cầu nguyện” (Mt 17,21). 8. Tất cả những gì tôi vừa diễn tả trên đây cho phép tôi nhận rar ơn Chúa đã và đang ban cho tôi là rất lớn lao. Chúa dẫn đưa tôi về Nước Trời qua hướng phục vụ cộng đoàn. Tôi phục vụ cộng đoàn bằng cách tôi đồng hành với những người tội lỗi, bần cùng, bên lề xã hội, và cùng với những người cầu nguyện và ăn chay. Tôi phục vụ họ không phải chỉ là đồng hành, mà còn là đi vào sâu những vực thẳm cuộc đời của họ. Tôi phục vụ họ còn là cầu nguyện và ăn chay¸ để cùng với họ phó thác mình theo bước Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chỉ có Người là Đấng cứu chúng ta khỏi ác thần. Chỉ có Người là Đấng cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chỉ có Người là Đấng cứu chúng ta khỏi mọi cản trở, để đưa chúng ta vào được Nước Trời. 9. Hướng đi của cuộc đời tôi đã được rõ nét. Hướng đó không dễ dàng chút nào. Tôi phải tỉnh thức và phấn đấu không ngừng, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Điều này chứng tỏ việc tăng cường đời sống nội tâm là một nhu cầu quan trọng và cấp bách. Tăng cường đời sống nội tâm đôi khi là phải xây dựng lại đời sống nội tâm. Xây dựng lại đời sống nội tâm cũng chính là xây dựng lại toàn thể con người của tôi về mọi mặt, để tôi trở thành một dụng cụ ngoan ngoãn của Chúa, và là một của lễ dâng lên Chúa. 10. Trong việc xây dựng lại con người của tôi, Chúa cho tôi thấy là tôi sẽ phải từ bỏ rất nhiều, để cùng đi với Chúa trên con đường, mà nhiều khi tôi chẳng muốn. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô: “Thực, Thầy bảo cho con biết: Lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng khi về già, con sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng cho, và dẫn con đến nơi con chẳng muốn” (Ga 21,14). Lạy Chúa, từ vực sâu con kêu lên Chúa, và Chúa đã nhậm lời con. Long Xuyên, ngày 13.3.2015.
Càng gần Tuần Thánh, các cộng đoàn đức tin càng tích cực chuẩn bị cho lễ kỷ niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu. Tĩnh tâm, viếng đàng thánh giá, tập các nghi thức, sửa soạn đèn nến, tập các thánh ca, bác ái mùa Chay, hành hương vv... 2. Phần tôi, vì hoàn cảnh già yếu bệnh tật, tuy cũng chuẩn bị, nhưng bằng một cách khác. Một cách, mà Chúa khuyên, đơn sơ chỉ có hai điều, tập trung vào trái tim: Hãy xót thương Chúa Giêsu nhiều hơn. Hãy xót thương những người đau khổ nhiều hơn. Để có lòng xót thương thực sự, Chúa dạy tôi hãy mở lòng tôi ra bằng những việc sau đây: 3. Việc thứ nhất Chúa dạy tôi làm là hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu. Chiêm ngắm Chúa Giêsu không phải là đọc kinh nhiều, ở lâu trong nhà thờ, suy gẫm theo lý luận, làm những việc đạo đức theo chương trình hoạch định sẵn, phác hoạ những kế hoạch này nọ cho sinh hoạt cơ chế cộng đoàn. Nhưng, chiêm ngắm Chúa Giêsu là gặp gỡ Chúa Giêsu, nhất là trước Mình và thánh giá. Gặp gỡ đó là rất thân mật, rất tư riêng, rất sống động. Gặp gỡ đó dần dần đi tới việc dâng hiến mình cho Chúa Giêsu, hoàn toàn vì yêu và vì tin, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 4. Đến một lúc, tôi khám phá thấy mình đã nhiều khi không thực sự sống và hoạt động cho Người, vì Người và cho Người. Tôi thấy Người đã quá khổ vì tôi. Tôi xót thương Chúa. Tôi hiểu Người đã tự nguyện chịu muôn vàn đau khổ, để cứu tôi, để đền tội thay cho tôi, để tôi được sống và được sống lại. 5. Tôi xót thương Chúa Giêsu của tôi. Xót thương ấy gắn chặt tôi vào cuộc đời của Người. Tôi bước theo Người qua mọi gian nan thử thách, một cách hết sức tin tưởng, để cùng với Người, tôi góp phần nhỏ mọn vào chương trình cứu độ của Người. 6. Việc thứ hai Chúa dạy tôi làm là hãy gần gũi với những người đau khổ. Chính Chúa giúp tôi gần gũi với những người đau khổ bằng cách Chúa để tôi trở thành một người đau khổ. Từ lâu rồi, nhưng nhất là từ ít tháng nay, tôi bị các thứ cơn đau xâm chiếm một cách khác thường. Thân xác đau. Tâm hồn đau. Có những lúc tôi đau yếu, đến nỗi không còn sức cầu nguyện như thường. Chỉ còn biết kêu: Lạy Chúa, xin xót thương con. Con xin dâng cho Chúa mọi đau khổ con chịu để Chúa cứu các linh hồn. Chính trong những tình trạng đau đớn như thế, tôi cảm thấy mình thực sự gần gũi với những người đau khổ. Tôi đau khổ, nên cảm thấy thấm thía giá trị của sự xót thương. Xót thương của Chúa, xót thương của bất cứ ai, khi tôi nhận được, đều được tôi cảm nghiệm như một quà tặng hết sức quý giá. 7. Xót thương lúc đó như một sứ điệp thiêng liêng gởi đến cho tôi. Tôi nhận ra rất dễ. Tôi đọc được rất mau. Tôi hiểu được rất sâu. Dù xót thương chỉ trong cái nhìn, chỉ trong một lời nói, một thái độ, cũng có sức an ủi và nâng đỡ tôi. 8. Và cũng trong tình trạng đau khổ luôn đợi chờ sự xót thương, tôi mới hiểu sự vô tâm, dửng dưng, sự xa tránh, sự bôi bác, và máy móc của các tương quan, đều có thể đẩy con người đã đau khổ vào tình trạng xấu hơn. 9. Từ kinh nghiệm đó, tôi hiểu đức tin của tôi, nếu không được phiên dịch ra tình yêu dạt dào xót thương, thì không đúng ý Chúa. Cái đã và đang thu hút được tôi đến với tôn giáo này, tín ngưỡng nọ, không phải là niềm tin sắt đá của những tín đồ của họ, mà là tình yêu đầy xót thương nơi họ diễn tả ra từ đức tin của họ. Một số người Hồi giáo cực đoan hiện nay đang thực hiện những cuộc tàn sát dã man, nói là để làm chứng cho đức tin của mình, thì thực là một cách phỉ báng cho đức tin của mình. 10. Nhìn người, mà sợ cho chính mình. Nếu không tỉnh thức, tôi cũng có thể đi vào cách sống đức tin xa rời và phản lại đức ái, mà vẫn tự phụ cho mình là chứng nhân của đức tin. Cảnh tra tấn những người bị nghi là phá đạo, cảnh đốt phá những làng bị kết án là chống đạo, cảnh sát hại những người đồng đạo không chịu theo đường lối cực đoan. Tất cả những cách đó cũng đã xảy ra đó đây trong lịch sử Công giáo. Vì thế, tôi cần sửa lại và tránh xa bằng sự tăng cường lòng thương xót. 11. Tôi rất mừng gặp được nhiều gương sáng về lòng xót thương tại Việt Nam hôm nay. Xót thương công khai thấy được cũng nhiều. Xót thương âm thầm không thấy được lại nhiều hơn. Xin hết lòng tạ ơn Chúa. 12. Tuy nhiên, tôi không được phép chủ quan, coi những xót thương hiện giờ sẽ phát triển đúng hướng mãi mãi và đều khắp. Satan đang và sẽ phá lòng xót thương bằng nhiều cách tinh vi. Một trong những cách xấu đang được Satan dùng là xúi chúng ta, thay vì xót thương những con người, thì lại tập trung lòng xót thương vào các công trình đạo, các cơ chế đạo. Nếu không tỉnh thức, lương tâm tông đồ nơi chúng ta vì thế sẽ trở nên mù quáng, coi những xót thương đó là việc ưu tiên, để rồi xót thương con người sẽ bị lu mờ dần. 13. Đức Thánh Cha Phanxicô rất quan tâm đến việc xót thương con người, nhất là đối với những người già yếu, bệnh tật nghèo túng và các trẻ em. Ngài chủ trương xót thương thì phải cụ thể và quảng đại. Cụ thể và quảng đại là thế nào? Tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Người trả lời tôi: “Cụ thể và quảng đại là như Cha trên thánh giá. Rất yêu thương và rất hy sinh đến thế để cứu con và cứu đời. Con cũng hãy làm như vậy”. Tôi hiểu, để yêu thương và hy sinh như Chúa đã làm gương, tôi phải phấn đấu rất nhiều. Tôi phải đặt lại vấn đề đào tạo chính mình và những người muốn là môn đệ Chúa, để làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay. Lạy Chúa, xin xót thương con, xin giúp con biết xót thương như Chúa đã xót thương. Long Xuyên, ngày 23.3.2015.
Mới rồi, một biến cố đã xảy đến cho tôi. Biến cố riêng tư, tuy nhỏ, nhưng đang ảnh hưởng lớn đến đời tôi. Tôi xin được phép chia sẻ. Sau một ngày được đọc và được nghe kể về những cuộc lễ tạ ơn trọng thể đó đây, trong đó đề cao những thành tích lẫy lừng nhiều mặt, tôi cảm thấy như có một sự giới thiệu về Ơn Phục Sinh tại những nơi ấy. Đêm đến, tôi lên giường, muốn ngủ mà không ngủ được. Tôi cầu nguyện. Thế rồi, tôi đi vào một giấc mơ. Tôi thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đến với tôi. Một cảm giác rất mạnh bừng lên trong tôi, làm tôi sung sướng và bình an lạ thường, đó là thấy Chúa Phục Sinh rất hiền lành, rất khiêm nhường, rất xót thương. Người nhìn tôi, mà không nói gì. Tôi nhìn Người, cũng không nói được gì. Đột nhiên, tôi bật khóc và tôi thức. 2. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy lòng tôi tràn trề niềm vui. Tôi thấy cái nhìn của Chúa Phục Sinh đã đổi mới tôi một cách sâu xa và mạnh mẽ. Tôi chỉ xin kể ra đây vắn tắt bốn soi sáng tôi nhận được. Soi sáng nào cũng là chân lý cứu độ tôi. Soi sáng nào cũng làm cho tôi được phục sinh. 3. Soi sáng thứ nhất mở lòng trí tôi ra, là để tôi nhận biết tôi là kẻ tội lỗi. Trong giây lát, cái nhìn của Chúa Phục Sinh cho tôi thấy quá khứ của tôi đầy những tội lỗi, hiện tại của tôi đầy những yếu đuối, tương lai của tôi đầy những điều phải đổi mới. Tôi nhớ lại dụ ngôn “Người Pharisêu và người thu thuế” (Lc 18,9-14). Người Pharisêu khi cầu nguyện, đã hết lòng cảm tạ Chúa về bao việc đạo đức mình đã làm. Còn người thu thuế, khi cầu nguyện, thì hết lòng xin Chúa thương xót, vì nhận mình chỉ là kẻ tội lỗi. Chúa Phục Sinh soi sáng cho tôi thấy: Tôi hãy nhận mình là kẻ tội lỗi. Đó là sự thực. Tôi nhận rõ sự thực đó. Tôi sám hối. Tôi nhìn Chúa đang nhìn tôi. Tự nhiên tôi bật khóc. 4. Soi sáng thứ hai mở lòng trí tôi ra, là để tôi nhận biết bất cứ tội nào của tôi cũng đều gây đau đớn cho chính Chúa Giêsu. Cái nhìn của Chúa Phục Sinh đưa lòng trí tôi đến thánh giá. Tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó. Người mang hình ảnh khủng khiếp của một tội nhân. Người chịu như vậy vì tội lỗi của tôi và của muôn người. Tội lỗi của tôi đã làm cho Người phải khổ. Tôi nhớ lại những lúc trước đây tôi dửng dưng trước đau khổ của Chúa Giêsu trên thánh giá. Người quá đau khổ vì tội lỗi tôi. Tôi nhận ra là sự dửng dưng đó của tôi đã làm cho Chúa bị đau khổ thêm. Tôi hối hận vô vàn. Tôi khóc. 5. Soi sáng thứ ba mở lòng trí tôi ra, là để tôi nhận biết sự tha thứ Chúa dành cho tôi là do lòng thương xót Chúa. Tôi nhớ lại dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Lc 15,11-32). Người cha này đã đối xử với người con phung phá trở về một cách xót thương quá sức tưởng tượng. Người cha ấy đã tha thứ, đã ôm lấy con, chỉ vì tình yêu xót thương. Hình ảnh người cha tha thứ đó dạy tôi, khi sám hối, phải nhìn vào Chúa là Cha, để đón nhận sự thứ tha. Chứ đừng đón nhận ơn tha thứ, chỉ từ các nghi thức. Các nghi thức sám hối, để ban ơn tha thứ, nếu chỉ nhấn mạnh đến hình thức bên ngoài, sẽ dễ tạo nên một sự thứ tha máy móc. Hãy gặp mặt chính Chúa là Cha, để trở về với Cha. 6. Soi sáng thứ bốn mở lòng trí tôi ra là để tôi chọn Chúa Giêsu một cách tuyệt đối và dứt khoát. Tôi đã chọn Chúa Giêsu. Sự lựa chọn đó của tôi là tuyệt đối. Tôi dám nói về sự lựa chọn đó bằng những lời của thánh Phaolô: “Tôi tin chắc rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được tôi ra khỏi tình yêu cua Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Tôi chọn Chúa Giêsu là cũng chọn thánh giá của Người: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thánh giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14). Vì thế “Tôi luôn mang nơi thân xác mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Kitô cũng được biểu lộ nơi thân mình tôi” (2Cr 4,10). Tóm lại, “Tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người” (2Cr 5,9). 7. Những gì trên đây đã xảy đến cho tôi từ cái nhìn của Chúa Phục Sinh thực là tuyệt vời. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa. Tôi nghĩ Chúa Phục Sinh đã đến với nhiều người, có thể cũng một cách như đã đến với tôi, và có thể bằng những cách khác. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta cần phải tỉnh thức và nhạy bén. Bởi vì Chúa Phục Sinh đến cách bất ngờ, lúc bất ngờ, và ở nơi bất ngờ. Nếu chúng ta tưởng Chúa Phục Sinh sẽ đến theo chương trình chúng ta đã sắp đặt trước, thì ta tự lừa dối mình. 8. Kinh nghiệm của riêng tôi cho tôi thấy: Chúa Phục Sinh thường hay đến với tôi bằng một cái nhìn thân thương của Người. Người gởi cho tôi cái nhìn thân thương ấy của Người qua nhiều phương tiện. Qua cầu nguyện, qua một số người, một số thời sự, một số bài báo, một số trang sách, một số biến cố vv... Tôi đã bắt chợt được những cái nhìn thân thương của Chúa. Chính nhờ ơn Chúa. Tôi đón nhận sứ điệp gói trong những cái nhìn đó, để rồi tôi gặp được chính Chúa Phục Sinh. 9. Không phải sứ điệp nào trong những cái nhìn của Chúa đều làm tôi vui. Bởi vì không thiếu trường hợp, sứ điệp đó lại là những cảnh báo rất đáng sợ. Xưa: “Khi đến gần Giêrusalem và nhìn thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: ‘Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi. Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái ngươi đang ở giữa ngươi và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,41-44). Chúa nhìn thành và đã khóc. Tôi đang thấy cảnh đó tái diễn. Người cảnh báo về một sự sụp đổ tang thương nào đó. Và tôi lo sợ. Lo sợ của tôi giúp tôi thêm khiêm nhường và bớt chủ quan để thêm cậy tin vào Chúa Phục Sinh. 10. “Xin đừng làm theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). Tôi luôn cùng với Chúa Phục Sinh nói lên lời phó thác đó, để thánh ý Chúa Cha được nên trọn nơi tôi. Tôi xác tín tôi được sai đi để làm chứng cho Chúa qua sự từ bỏ mình, để vâng phục trọn vẹn nơi Chúa Phục Sinh. Long Xuyên 28-3-2015
1. Ngày 30 tháng 4 năm nay là một kỷ niệm lớn. Để mừng kỷ niệm trọng đại đó, tôi nhìn Hội Thánh Việt Nam, cách riêng là tại miền Nam, và đặc biệt là tại giáo phận Long Xuyên của tôi. Đúng là có nhiều nhà thờ mới, nhiều giáo điểm mới, nhiều cơ sở mới, nhiều nhân sự mới. Tôi hỏi Chúa xem tôi nên vui hơn cả về yếu tố nào, Chúa trả lời tôi là: Hãy vui vì đã và đang có nhiều hạt lúa được gieo vào lòng đất. Tôi nhớ lại lời Chúa phán xưa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). 2. Lời Chúa trên đây giúp tôi nhận ra những ai đã và đang là loại hạt lúa được Chúa chôn vùi vào lòng Đất Quê Hương Việt Nam này, để hy sinh của họ nẩy sinh ra được nhiều người tốt. Cảm tạ Chúa, tôi cũng phần nào được ơn là một hạt lúa như vậy. Nên tôi xin nói đôi chút về tôi, như một chứng nhân của ơn gọi là hạt lúa gieo vào lòng đất.
3. Điều thứ nhất Chúa thường căn dặn tôi là hãy khiêm tốn và phó thác để Chúa chôn vùi tôi. Càng ngày tôi càng hiểu tôi được chôn vùi, chứ không phải bị chôn vùi. Nghĩa là tôi coi sự chôn vùi là một ơn Chúa ban. Chôn vùi không phải chỉ là sự không đi tìm nổi nang, mà còn là để cho những khổ đau, những nhục nhã, những nhọc nhằn chôn vùi mình. Tự nhiên phản ứng là rất khó chịu. Nhưng với ơn Chúa, tôi đón nhận sự chôn vùi như thế. Tôi đón nhận, vì như thế là bước theo Chúa Giêsu, là được cùng khổ với Người, là được cùng với Người cứu các linh hồn, đưa họ về với Cha trên trời. 4. Những cuộc đời được chôn vùi như thế, thực ra là được chôn vùi mình trong Chúa Kitô. Nhờ vậy, họ xác tín: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Để sống chôn vùi như một ơn gọi, Chúa dạy tôi là phải luôn luôn cảnh giác. Ngay thời Chúa Giêsu, ma quỷ, thế gian, xác thịt đã xúi giục nhiều người coi phô trương các việc đạo là làm sáng danh Chúa. Chúng đã thành công. Vì thế, Chúa cảnh báo: Phô trương như vậy là đã được thưởng công rồi (x. Mt 6,1-6.16-17). 5. Trong hoang địa, Satan cũng đã cám dỗ Chúa Giêsu hãy làm những việc phô trương, để chứng minh mình là Con Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ (x. Mt 4,1-10). Chứng tỏ rằng: Thời nào và đâu đâu, phô trương cũng vẫn là chước cám dỗ có sức phá đạo. Thời nay cũng vậy. Vì thế, ơn gọi sống như hạt lúa được chôn vùi đòi nhiều tỉnh thức. Tỉnh thức nói đây là tỉnh thức Phúc Âm, chứ không phải tỉnh thức theo sự khôn ngoan thế gian. Tỉnh thứcPhúc Âm là một lựa chọn mang nhiều đau đớn. 6. Điều thứ hai Chúa thường nhắc nhủ tôi là hãy sáng suốt nhận ra thực tế của mảnh đất, mà Chúa muốn chôn vùi tôi. Như một ví dụ, Chúa bảo tôi đọc lại những gì, thánh Gioan đã viết cho bảy giáo đoàn trong sách Khải Huyền (x. Kh 2-3). Giáo đoàn nào cũng có điều tốt, nhưng cũng có điều xấu. Gioan cảnh báo: “Ai có tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh” (Kh 2,7). Chúa dạy tôi cũng hãy làm như vậy, với môi trường mình chôn vùi. Tôi sẽ phải vâng theo Chúa Thánh Thần soi sáng, mà tìm cách thích hợp nói lên ý Chúa, sau khi được Chúa cho thấy điều không tốt nơi họ, và điều đó là rất nguy hiểm cho họ. 7. Kinh nghiệm cho tôi thấy môi trường nào cũng mang vài thực tế xấu, mà Chúa có nói trong dụ ngôn “Người gieo giống” (Mt 13,3-9). Nơi thì đất bị gai góc phủ, nơi thì bị sỏi đá pha trộn, nơi thì bị côn trùng làm tổ, nơi thì bị khô cứng lâu năm. 8. Là hạt lúa được chôn vùi vào đâu, tôi phải có trách nhiệm với môi trường đó. Trách nhiệm nói lên ý Chúa gởi cho họ. Kinh nghiệm cho tôi thấy, nói lên ý Chúa gởi cho cộng đoàn không phải là việc dễ. Rất nhiều cộng đoàn, dù được tiếng đạo đức, vẫn thích an phận với nếp sống đã quen. Do vậy, họ trở thành vô cảm, xơ cứng. Và đó chính là một nỗi đau lớn của thân phận hạt lúa gieo vào lòng đất. 9. Điều thứ ba Chúa luôn dạy tôi là chính bản thân tôi hãy luôn là hạt lúa tốt. Thế nào là hạt lúa tốt? Tôi nhớ tới lời Chúa dạy: “Thầy là cây nho thật, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Và không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Với lời Chúa phán trên đây, tôi hiểu, tôi sẽ là hạt lúa tốt, khi tôi kết hiệp mật thiết với Chúa, như cành với cây. Kết hợp mật thiết với Chúa là cả một sự cải hoá nội tâm sâu xa, lâu dài, thường xuyên, một cách kiên trì, trong khiêm tốn cầu nguyện và phấn đấu không ngừng. 10. Như vậy, hạt lúa được chôn vùi vào lòng đất, thối đi và sinh nhiều trái, là một ơn gọi. Ơn gọi đó là một hành trình. Một hành trình đẹp, đang thu hút nhiều con người Việt Nam hôm nay. 11. Riêng tôi, khi cầu nguyện xin ơn thánh hoá các linh mục, tôi hay thầm nói với Chúa rằng: Mừng cho những ai sẽ là ánh sáng soi khắp trần gian. Còn con, xin Chúa cho con chỉ là một hạt lúa được chôn vùi vào lòng đất, nó sẽ thối đi, để nếu nhờ đó nó chỉ sinh ra được vài hạt lúa tốt cho Chúa, thì con vẫn coi đó là một hồng ân Chúa ban, mà con sẽ cảm tạ Chúa đến muôn đời. 12. Giờ đây, thời gian cuối đời, tôi đi gần về với Cha. Tôi không đi một mình, mà đang đi với muôn người, họ cũng là những hạt lúa âm thầm, họ còn được chôn vùi hơn tôi. Chúng tôi tin tưởng những hạt lúa âm thầm này được chôn vào lòng dân tộc, sẽ làm nên một mùa lúa mới đẹp thơm báo hiệu Nước Thiên Chúa là tình yêu vĩnh cửu đang gần đến. Long Xuyên 8-4-2015
1. Chỉ còn ít ngày nữa là chẵn 40 năm, 30/4/1975 - 30/4/2015. Đây là một chặng đường lịch sử đặc biệt của Đất Nước Việt Nam. Đối với nhiều người, chặng đường đặc biệt này là một lịch sử rất mới. Họ có nhiều lựa chọn. 2. Tôi có những lựa chọn của riêng tôi. Những lựa chọn này luôn nhắm vào lợi ích chung, và luôn luôn được thực hiện trong ánh sáng của đức tin. Các lựa chọn đó có thể gom vào hai thứ sau đây: Thao thức và tỉnh thức. Để gọi là một chút làm chứng cho đức tin, dịp kỷ niệm 40 năm lịch sử này, tôi xin được chia sẻ vắn tắt. 3. Thao thức lớn nhất và thường xuyên nhất của tôi ngay từ đầu giai đoạn lịch sử này là làm sao cho giai đoạn lịch sử mới này trở thành cơ hội để Quê Hương Việt Nam được hoà bình thực sự, hạnh phúc thực sự, nhờ yếu tố ưu tiên và quan trọng nhất, đó là mọi đồng bào biết yêu thương nhau thực sự, theo lời Chúa dạy. Thao thức trên đây của tôi là một chọn lựa theo đức tin. Tôi coi chọn lựa đó chính là cách tôi bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình, mà theo Thầy” (Mt 16,24). 4. Khi tôi thao thức dấn thân vào công việc xây dựng yêu thương, đúng là tôi phải từ bỏ mình nhiều lắm. Không phải chỉ là phải từ bỏ tội lỗi, mà còn là phải từ bỏ những lựa chọn không thích hợp. Vì yêu thương, tôi nhìn thấy không phải bất cứ sự thực nào cũng nên nói, không phải bất cứ cái gì tốt đều nên làm, không phải bất cứ điều gì được phép làm đều nên thực hiện, không phải bất cứ điều gì luật không cấm, đều cứ tha hồ làm. 5. Khi tôi dấn thân vào công việc yêu thương, đúng là tôi phải vác thập giá mình một cách sáng suốt. Một cách sáng suốt, nghĩa là tôi phải nhờ ơn Chúa mà nhận ra những gì là thứ thập giá, mà Chúa muốn tôi vác. Riêng đối với tôi, thập giá, mà Chúa muốn tôi vác hằng ngày trong giai đoạn mới này, không phải chỉ là những bệnh tật, những nhọc nhằn, mà là nếp sống có kỷ luật theo tu đức và sự thường xuyên trau dồi trình độ văn hoá đạo đời một cách trung tín và sâu rộng. Kinh nghiệm cho thấy: nhờ nếp sống có kỷ luật, và lối sống hăng say mở rộng trình độ kiến thức tốt đẹp, người môn đệ Chúa mới dễ trở thành dụng cụ của Chúa để gieo vãi hạt giống yêu thương vào lòng con người thời nay. 6. Khi tôi dấn thân vào công việc yêu thương, đúng là tôi phải bước theo Chúa Giêsu một cách mạnh dạn. Tôi thấy Chúa Giêsu thường bước tới những lớp người nghèo túng, đau khổ, hèn yếu. Tôi phải bước theo Người với tâm tình của Người. Muốn được như vậy, tôi phải mạnh dạn. Bởi vì nếu thiếu mạnh dạn, tôi sẽ có nhiều sáng kiến, để cũng gọi là bước theo Chúa đi vào lớp người đau khổ nghèo túng, nhưng bước theo xa xa, với khoảng cách từng nhiều cây số! 7. Thao thức của tôi là thế. Vừa là do động lực nội tâm quyết theo Chúa Giêsu, vừa cũng là do động lực nội tâm tha thiết phục vụ Quê Hương Việt Nam. Chúa Giêsu là của tôi. Việt Nam là của tôi. 8. Thao thức đó là chọn lựa thứ nhất của tôi. Thêm vào đó là chọn lựa thứ hai của tôi, đó là Tỉnh thức. Tỉnh thức của tôi luôn đi liền với cầu nguyện. Vì thế, tỉnh thức đó là một chọn lựa của đức tin: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 26,41). 9. Với tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới dễ nắm bắt được những cơ hội để xây dựng yêu thương trên mảnh đất Chúa trao cho tôi phục vụ. Mảnh đất này có dòng lịch sử phong phú những giá trị đạo đức riêng. Dòng lịch sử ấy lại như chiếc đò có những chỗ dừng lại khoảnh khắc đợi chờ, rồi lại lên đường tiếp tục đi. Nếu tôi tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ gặp Chúa trong dòng lịch sử của dân tộc tôi. 10. Với tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới dễ nhận ra những nguy cơ khiến nhiều người trẽ vào những con đường xa rời yêu thương Chúa và yêu thương Quê Hương. Những nguy cơ đó là rất nhiều và thường dấu mặt. Đó là những phong trào đạo đức pha trộn những thứ nọc độc tinh vi, đưa tới các lối sống xa rời Phúc Âm. Để rồi, tự hào là đạo Phúc Âm, nhưng thực chất lại là những hình thức nặng về phô trương, hiếu thắng, phục vụ cho một giai cấp, đi tìm hưởng thụ. 11. Với tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới dễ nhận ra hạnh phúc thực của tôi trong giai đoạn lịch sử mới đầy phức tạp này, chính là tôi được có Chúa ở trong tôi, mặc dầu tôi phải rất khổ. 12. Với tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới dễ nhạn ra hạnh phúc của tôi cũng chính là nhận thấy Chúa đang làm nhiều sự lạ lùng nơi rất nhiều đồng bào của tôi tại Việt Nam hôm nay. Rất nhiều người đang được Chúa cải hoá từ trong sâu thẳm nội tâm. Họ xác tín không ai sẽ cứu được họ, không ai sẽ đưa họ được về một đời sau hạnh phúc yêu thương tràn trề. Chỉ có Chúa mà thôi. 13. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây là rất chân thành. Thao thức và tỉnh thức là dấu ấn hành trình của tôi suốt 40 năm qua. Đã có 40 năm xưa của Moisen và dân Do Thái trong sa mạc đầy thử thách. Đã có 40 ngày đêm xưa, Chúa Giêsu sống trong hoang địa, và bị thử thách. Cả hai con số 40 xưa ấy đã dạy tôi rất nhiều về thao thức và tỉnh thức. Tôi đã sống được phần nào thao thức và tỉnh thức xưa trong 40 năm hiện nay của tôi có nhiều thử thách. Xin hết lòng cảm tạ Chúa, Đấng đã sai tôi vào con số 40 này, như một nhân chứng hèn mọn về đức tin. Long Xuyên 05-4-2015
1. Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi. Hồng ân lớn lao, vì qua lễ thụ phong giám mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt. Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu. Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện. 2. Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp. 3. Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi. Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể. 4. Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi. Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi. Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi. 5. Tôi đã lo nhận ra ý Chúa. Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy. 6. Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới. Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa 7. Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó. 8. Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ. Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót. 9. Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ. Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng. 10. Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi. 11. Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng. 12. Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân. Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ. Xin Chúa thương xót chúng con. Amen. Long Xuyên, ngày 30.4.2015.
1. Cách đây 40 năm, tại nhà nguyện bé nhỏ này, và chính ngay tại chỗ này, tôi đã quỳ, cúi đầu nhận lãnh tác vụ Giám Mục. Lúc đó chính quyền miền Nam vừa mới đầu hàng. Do vậy, sắc phong Giám Mục mà Toà Thánh gởi cho tôi trước đó, biến lễ tấn phong Giám Mục của tôi trùng đúng vào ngày lịch sử 30 tháng 4 năm 1975. 2. Tôi trở thành Giám Mục của giai đoạn mới. Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ trao trọn trách nhiệm cho tôi. Tôi mang vào mình bao nỗi lo sợ của đàn chiên. 3. Ngày từ giờ phút đó, tôi bắt đầu được Chúa ban cho những ơn cần thiết để gánh vác nhiệm vụ, mà ai cũng biết là rất khó khăn. Ở đây, tôi xin được kể ra mấy ơn sau đây: 4. Ơn thứ nhất Chúa ban, là cho tôi nhận ra tầm quan trọng của các người phục vụ theo ơn sủng, mà thánh Phaolô đã nêu lên. Thánh Phaolô viết: “Chính Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người chăn chiên và người dạy dỗ” (Ep 4,11). Với cái nhìn mới này, thú thực là tôi nhìn các linh mục của tôi không như trước. Trước đó, tôi nhìn mỗi vị theo địa vị và chuyên môn học vị như ngài là cha Quản hạt, có bằng cử nhân Anh văn vv... Nhưng bây giờ tôi lại tử họi: Ngài có là tông đồ, là ngôn sứ, là người rao giảng Phúc Âm, là chủ chăn, người dạy dỗ do ân sủng thực sự của Chúa không? Tôi thấy tình hình mới rất mực khó khăn. Nó đòi các linh mục phục vụ phải là các người mang các sứ vụ nền tảng, như thánh Phaolô đã nêu. Thông thường, chúng ta quen coi linh mục là chủ chăn. Nhưng tình hình mới đòi chủ chăn cũng cần có phần nào là người tông đồ, là người tiên tri, là người có khả năng dạy dỗ. 5. Ơn thứ hai Chúa ban, là cho tôi nhận ra giá trị của những gian truân khốn khó. Thánh Phaolô viết: “Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng, ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên, ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta” (Rm 5,3-5). Kinh nghiệm trên đây của thánh Phaolô đã giúp tôi rất nhiều khi gặp phải những gian truân khốn khó trong tình hình mới. Phải nói là tình hình mới có nhiều khó khăn làm tôi phải khổ. Nhưng chính chuỗi dài những khổ đau ấy lại được báo trước là sẽ dẫn tôi tới hy vọng gặp được tình yêu Thiên Chúa. Và kết quả là tôi đã gặp được tình yêu Chúa. Người vẫn ở với tôi mọi ngày, để tôi được trở thành của lễ. 6. Ơn thứ ba Chúa ban là, cho tôi nhận ra Nước Thiên Chúa sẽ dễ đi vào lòng dân tội Việt Nam qua những người biết yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Từ lúc quỳ xuống cúi đầu lãnh tác vụ Giám Mục, tôi thường được nghe Chúa hỏi tôi cũng một lời xưa Chúa đã hỏi thánh Phêrô: “Con có yêu mến THầy không?” (Ga 21,15-17). Tôi luôn trả lời: “Con yêu mến Chúa”. Những đối thoại thường xuyên về yêu thương đó đã in sâu vào lòng tôi giới răn mới của Chúa Giêsu: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34). “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Càng ngày tôi càng cảm thấy “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Để rồi, tôi ở lại trong Người, Người ở lại trong tôi. Và tôi đi vào lòng dân tộc chỉ bằng tình yêu. Một tình yêu chấp nhận nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ. 7. Ơn sau cùng Chúa ban là, cho tôi nhận biết mình chỉ là một dụng cụ yếu đuối hèn mọn. Thánh Phaolô đã viết về mình rằng: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năn phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải là từ chúng tôi” (2Cr 4,7). Đúng là như vậy, nếu tôi nói về tôi. Tôi chỉ là chiếc bình sành, mong manh, dễ vỡ, hèn mọn. Tôi tội lỗi lắm. Tôi yếu đuối lắm. Nhưng giữa giàu lòng thương xót vẫn thương tha thứ, vẫn thương chọn tôi. Để vinh quang của Chúa được thể hiện nơi một dụng cụ yếu hèn nhất. Xin anh chị em tạ ơn Chúa thay tôi. Và cũng xin tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm, nhất là xin thương cầu nguyện nhiều cho tôi, đừng bao giờ trở thành gánh nặng cho cộng đoàn. Lời cuối cùng xin phép nói là: Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Chúa vì muôn vàn ơn Chúa đã ban cho giáo phận sau 40 năm qua. Ơn nhiều lắm. Ơn lớn lắm. Ơn đặc biệt lắm.
1. Trong 12 tháng, thì tháng Năm được Hội Thánh Việt Nam gọi là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Hoa dâng kính Đức Mẹ thường được hiểu là hoa tự nhiên trồng ở vườn, mua từ chợ. Bên canh hoa tự nhiên mang nhiều màu sắc và hương thơm, chúng ta còn dâng lên Mẹ những hoa thiêng liêng trồng ở tấm lòng riêng tư của mỗi người chúng ta. Riêng đối với tôi, những hoa quan trọng nhất tôi dâng lên Mẹ, đều là những hoa thiêng liêng. Nói cho đúng, những hoa thiêng liêng này đều do chính Đức Mẹ đã giúp tôi trồng trong trái tim tôi, để rồi tôi lại hái dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa. 2. Hôm nay, tôi ôm vào lòng một bông hoa tôi cho là rất quý, mà chính Mẹ giúp tôi trồng trong sâu thẳm hồn tôi. Mẹ bảo tôi hãy dâng hoa đó lên Chúa nhân lành. Chúa đã thương nhận. Người dạy tôi hãy kể ra cho cộng đoàn biết chút ít về bông hoa đó, vì nó là công trình của Mẹ. Tên bông hoa đó là niềm tin vào tình yêu đầy xót thương của Thiên Chúa. 3. Tôi xin vắn tắt. Ngay từ rất nhỏ, tôi đã được cha mẹ dâng tôi cho Đức Mẹ. Đọc kinh Mân Côi đã sớm trở thành thói quen tôi dùng để gặp gỡ Đức Mẹ. Mỗi ngày nhiều lần, sự gặp gỡ Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi đã gieo vào lòng tôi những tâm tình về đức tin. Tôi tin Chúa theo kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh. Dần dần, tôi nhận ra Chúa là tình yêu. Rồi, đến một lúc, tôi nhận ra tình yêu Chúa là tình yêu đầy lòng thương xót. Phải nói là, Đức Mẹ cho tôi nhận ra trước, rồi sau đó là tin tất cả những gì về tình yêu Chúa giàu lòng xót thương. 4. Tôi nhận ra Chúa thương yêu tôi, qua những gì đã xảy ra trong đời tôi. Đời tôi là một hành trình. Chuyến đi đời tôi gặp nhiều trắc trở. Có những trường hợp tưởng là chắc chắn tôi sẽ rơi xuống hố diệt vong. Nhưng đến phút chót, tôi đã được Chúa cứu. Tôi nhận ra tôi được cứu hoàn toàn nhờ Chúa và do Chúa. Do vậy, tôi nhận ra Chúa là tình yêu cứu độ. Tình yêu ấy Chúa dành cho tôi một cách nhưng không, một cách bất ngờ, một cách quá sức tưởng tượng. Tôi chỉ biết gọi Chúa là tình yêu, đúng như thánh Gioan tông đồ đã viết: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). 5. Chúa yêu tôi, trước khi tôi yêu Chúa. Không những thế, Chúa còn yêu tôi, khi tôi còn trong tội lỗi, hư hỏng, đê hèn, đáng phải trừng phạt. Qua đó, tôi nhận ra Chúa giàu lòng thương xót. Nhận ra qua những bằng chứng sống động. Cảm thấy bằng những xúc cảm không thể nào quên. Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, là điều bản thân tôi đã nhận ra, đã cảm nghiệm, là điều đã đóng ấn sâu trên đời tôi. Tôi đã nhận ra và đã tin. Như thánh Gioan đã viết: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người, mà chúng ta được sống. “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yemé Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,9-10). “Chúng ta đã nhận biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và chúng ta đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). 6. Tôi đã nhận ra và đã tin Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Sự nhận ra và sự tin như thế đã nâng đỡ tôi rất nhiều trong chức vụ linh mục và Giám mục. Nhất là khi mọi lãnh nhận các chức vụ trong Hội Thánh đều hoàn toàn do được sai đi, chứ không do tự mình tôi chọn lấy cho mình. Được Chúa sai đi, và nhận lãnh sự sai đi chỉ vì vâng phục ý Chúa, nhất là trong những tình hình phức tạp khó khăn, đó là tâm trạng đòi nhiều phó thác. Sự phó thác đó nơi tôi đã được đỡ nâng bằng sự nhận ra và tin mình được Chúa yêu thương đầy thương xót. 7. Khi được nhận ra và được tin vào tình yêu đầy xót thương của Chúa, tôi tự nhiên ham thích cầu nguyện. Tôi theo gương Mẹ. Có thể nói: Sự ham thích cầu nguyện nơi tôi là do ơn Chúa. Chính Chúa làm cho linh hồn tôi ngoan ngoãn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để cầu nguyện với Chúa một cách khiêm nhường và cậy trông. Cầu nguyện nơi tôi là sự gặp gỡ với Chúa, là sự trao đổi giữa tình yêu Chúa và sự hèn hạ khốn khổ của tôi. Cầu nguyện nơi tôi không hệ tại ở sự suy nghĩ nhiều, mà ở tại sự yêu mến nhiều. Cầu nguyện nơi tôi là một việc đơn sơ, hồn nhiên. Bắt đầu cầu nguyện, tôi hay nhìn Chúa Giêsu và học ở Người điều mà chính Người đã phán: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Rồi tôi nhận được sự bình an, như Người đã hứa: “Tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29). 8. Khi cầu nguyện, tôi xác tín mình rất hèn mọn, khó nghèo, tội lỗi, xấu xa, rất cần đến lòng thương xót Chúa. Tôi tin Chúa xót thương tôi, chính vì tôi là như thế. Và vì tôi chính là kẻ khó nghèo, tội lỗi, nên tôi tự nhiên không dám mơ ước đến những sự lớn lao, như hãm mình khắc khổ lớn, trở thành ánh sáng lớn, làm những việc lành lớn. 9. Trở thành bé nhỏ, đó là một cách tôi thuộc về Chúa Giêsu. Đấng mà tôi tin luôn yêu tôi với tình xót thương vô bờ. Trở thành bé nhỏ như thế luôn đi kèm với sự cậy trông. Chính ở đây tôi hiểu lời thphl đã nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). 10. Những gì tôi vừa vắn tắt chia sẻ trên đây là rất chân thành. Đó là bông hoa thiêng tôi dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ, dâng lên Chúa. Tôi tin rằng: Tại Việt Nam hôm nay đang có nhiều bông hoa thiêng liêng dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa. Những bông hoa thiêng liêng đó có thể khác nhau. Nhưng tất cả đều muốn làm chứng về Thiên Chúa. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, người thời nay cảm thấy mình được thu hút bởi dung mạo Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, hơn là bởi bất cứ dung mạo nào. Do vậy, mà việc làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót rất cần được thực hiện do chính ơn Chúa, một cách khiêm nhường vâng phục, để có sức dấn thân phục vụ theo đúng ý Chúa. Long Xuyên, ngày 3.5.2015.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Ai có 100 con chiên, mà có một con đi lạc, lại không để 99 con kia trên núi, mà đi tìm con chiên lạc đó sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên lạc đó, hơn là vì 99 con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,12-14). Qua lời Chúa phán trên đây, tôi hiểu được phần nào sự vui mừng của Chúa khi tìm được một người trở về với Chúa. Sự vui mừng đó được diễn tả một cách tỉ mỉ trong Phúc Âm thánh Luca. Con chiên lạc được Chúa vác trên vai, đưa về nhà, khoe với hàng xóm rồi ăn mừng. Đặc biệt là toàn thể trên trời đều vui mừng hớn hở đón tiếp con chiên đó (x. Lc 15,5-7). 2. Riêng Cha trên trời đã rất vui mừng dành cho người con trở về những ưu ái đặc biệt. Chúa Giêsu diễn tả cảnh đó trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Lc 15,11-24). 3. Khi suy gẫm những cảnh đón tiếp trên đây đầy yêu thương dành cho kẻ tội lỗi trở về, tôi thấy mình được an ủi hết sức, vì tôi chính là kẻ tội lỗi đang trở về với Chúa. Tôi xin Đức Mẹ “cầu cho tôi là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Đức Mẹ đã gọi tôi là bông hoa trở về. Tôi là bông hoa vì đang trở về. 4. Trở về là một bông hoa, khi biết mình tội lỗi cần trở về. Trở về là một bông hoa, khi biết cầu xin ơn trở về, vì nhận biết trở về là việc không dễ. Trở về là một bông hoa, khi người tội lỗi khiêm tốn, để Mẹ dắt dìu từng bước, trên con đường trở về đầy trắc trở. 5. Hôm nay, khi dâng lên Mẹ bông hoa trở về là bản thân tôi, để Mẹ dâng nó cho Chúa, tôi chỉ xin chia sẻ chút ít về hai việc mà Mẹ hằng ngày dạy tôi trên đường trở về với Chúa. Việc thứ nhất là sự từ bỏ. 6. Mọi từ bỏ, mà Mẹ dạy tôi, đều nhấn mạnh đến tình yêu. Từ bỏ mình, từ bỏ những tội lỗi, những tư lợi vv... Chỉ vì yêu Chúa. Vì tình yêu, cho tình yêu và nhờ tình yêu, mà tôi từ bỏ. Do vậy, mà khi từ bỏ, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Ách của Ta thì dễ chịu, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Tôi từ bỏ, để chứng tỏ tôi yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa chính là động lực để tôi từ bỏ. Chính vì thế, mà dù từ bỏ đòi phấn đấu, nó vẫn sản sinh ra một sự ngọt ngào riêng của tình yêu.
7. Do vậy, tôi dần dần ưa thích thực hiện sự từ bỏ trong mọi giờ phút, ở bất cứ cơ hội nào, cho dù rất nhỏ. Hy sinh nhỏ, hãm mình nhỏ đều là những dịp từ bỏ đốt nóng lên lửa yêu mến trong tôi. Từ bỏ như thế là không sống cho mình, mà là sống cho Chúa. Sống cho Chúa bằng những hy sinh nhỏ thường ngày. Làm những việc nhỏ nhưng với lòng yêu mến lớn. 8. Từ bỏ vì tình yêu, đó là một thái độ nội tâm không nặng lòng tìm chút gì cho mình, không coi mình là trung tâm, không quan tâm tìm thoả mãn những sở thích riêng, nhưng chỉ nhìn về phía Chúa, với mong muốn yêu mến Người hết lòng hết sức mà thôi. 9. Cùng với việc từ bỏ vừa diễn tả vắn tắt trên đây, Mẹ còn dạy tôi một việc thứ hai, mà tôi phải làm, việc đó là biết thương xót. Mẹ nhắc lại cho tôi một lời Chúa Giêsu phán xưa. Lời đó ảnh hưởng lớn đến việc tôi trở về với Chúa. Lời đó là: “Khi nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu động lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36). Cùng với việc đưa tôi vào Lời Chúa Giêsu trên đây, Mẹ cũng đưa tôi nhìn vào thực tế đám đông hôm nay. Họ là những kẻ tội lỗi, những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị bỏ rơi, những kẻ sống ngoài lề xã hội. Mẹ dạy tôi hãy biết xót thương họ. Xót thương họ, đó là một cách tôi trở về với Chúa. 10. Có nghĩa là tôi là kẻ được Chúa sai đi, để sống liên đới với đồng bào tôi, ưu tiên là để chia sẻ với những người khổ đau. Tôi được mời gọi chia sẻ bằng cách hạ mình xuống, theo gương Chúa Giêsu. “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” (Pl 2,5-8). 11. Chúa Giêsu đã xót thương nhân loại bằng cách hạ mình xuống, chia sẻ thân phận những người khổ đau, hy sinh cho họ, cứu họ. Chúa Giêsu đã xót thương cụ thể là như thế. Để rồi Người trở về với Chúa Cha, với những thành tích cũng chính là thương tích do tình yêu. Mẹ dạy tôi hãy bước theo Chúa Giêsu. Con đường trở về với Chúa cũng phải là con đường xót thương cứu độ. 12. Hãy biết từ bỏ mình và hãy biết xót thương, để trở thành bông hoa “trở về” đẹp thơm. Mẹ dạy tôi như vậy, để Mẹ được vui, dâng tôi lên Chúa. Tôi hết lòng cảm ơn Mẹ đã dạy tôi, và đã dắt tôi đi từng bước trên đường trở về. Mỗi ngày của tôi đều là những bước tôi trở về với Chúa. Bước từ bỏ và bước xót thương bên Mẹ nhân lành. Tôi bước đi bằng những bước nhỏ. Mẹ cầm tay tôi. Tôi dựa mình bên Mẹ. Tôi nghe Mẹ giới thiệu với Chúa: Đây là bông hoa trở về. Xin Cha thương nhận. Mẹ ơi, con xin cảm tạ Mẹ. Xin Mẹ mãi ở bên con. Long Xuyên, ngày 7.5.2015
Tôi hay nói với Đức Mẹ một lời, mà Đức Mẹ đã thưa với Chúa ngày Truyền Tin. Lời đó là “Xin vâng”. Đức Mẹ thương đáp lại. Rất nhiều lần và bằng nhiều cách, Đức Mẹ dạy tôi về một điều “xin vâng”, mà Đức Mẹ muốn nhiều nhất nơi tôi, đó là: “Hãy luôn luôn sống tỉnh thức”. Tỉnh thức để nghe Chúa. Không phải để nghe Chúa dạy chỉ về các nguyên tắc đạo đức. Nhưng nhất là nghe Chúa dạy về cách áp dụng các nguyên tắc đạo đức vào thực tế của cuộc sống cụ thể. 2. Vâng lời Mẹ, tôi đã tỉnh thức như Mẹ dạy. Tuy tỉnh thức của tôi vẫn còn non kém, nó vẫn được Mẹ khích lệ coi như một bông hoa nhỏ hãy dâng lên Chúa. Khi dâng bông hoa nhỏ này lên Chúa, tôi cũng xin được chia sẻ với cộng đoàn.
3. “Tỉnh thức” thứ nhất mà Chúa luôn muốn thực hiện nơi tôi, đó là Người muốn mở lòng tôi ra, để Người đổ vào đó ơn làm cho tôi ham thích trở nên nhỏ bé hèn mọn, giống tâm tình Mẹ Maria. Tôi phải tỉnh thức đón nhận ơn đó. Tôi phải tỉnh thức cảm tạ Chúa về ơn đó. Tôi phải tỉnh thức dùng ơn đó trong mọi tương quan đối với Chúa và đối với mọi người. Đức Mẹ nhận mình chỉ là người nữ tỳ hèn mọn. Chúa chọn Mẹ, chỉ do lòng Chúa thương đoái nhìn. Nhận được ơn Chúa trao ban, Mẹ vẫn khiêm nhường, muốn được chôn vùi. Thú thực là khi bắt chước Mẹ Maria trong việc trở nên hèn mọn, tôi đã gặp nhiều trắc trở. Trắc trở lớn nhất là tính xấu nơi chính bản thân tôi. Nhưng Chúa thương ban ơn cho tôi biết cộng tác với Chúa bằng sự nhận thấy mình tội lỗi, chỉ biết xin Chúa xót thương mà thôi. Chân thành chỉ là thế. Mà thực Chúa đã xót thương tôi. Sự cảm nhận được ơn Chúa xót thương đó đã giúp tôi rất nhiều trong việc tránh xa những loại hoang tưởng về mình. 4. Gọi là bệnh hoang tưởng về mình, khi do bệnh mà tự coi mình là đạo đức hơn người, là thông thái giỏi giang hơn người. Nếu đó thực sự chỉ là do bệnh, thì còn dễ tha thứ, chứ đó lại là một chọn lựa tự do của mình, thì sẽ là một sa sút đạo đức mang tính chất tội lỗi, đưa tới hậu quả tai hại. Tai hại đáng sợ nhất là chính mình tự nộp mình cho quỷ dữ Satan. Ở đây, tôi nhớ lại một lời thánh tông đồ Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Thực tế, Satan chỉ cắn xé và nuốt được những kẻ kiêu ngạo. Bởi vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5).
5. Cùng với sự tỉnh thức để đón nhận ơn trở nên bé nhỏ hèn mọn theo gương Mẹ, Chúa còn nhắc nhở cho tôi một “sự tỉnh thức” thứ hai theo gương Mẹ, đó là tỉnh thức lo mang Chúa đến cho mọi người. Xưa Mẹ đến thăm bà Êlisabét, là để đưa Chúa Cứu Thế đến thánh hoá hài nhi Gioan trong lòng bà. Kinh Thánh viết: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng Cô Maria chào, thì đứa con trong bụng bà liền nhảy mừng. Bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người con mà em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng tôi đã nhảy lên vui mừng. Em thực có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,41-45). 6. Nay, Chúa cũng thường nhắc bảo tôi là: Hãy biết tỉnh thức đem Chúa đến cho những người khác. Mẹ đã đem Chúa Cứu Thế đến cho mẹ con bà Êlisabét một cách âm thầm khiêm tốn đầy bác ái. Tôi có tỉnh thức đem Chúa vào các tương quan của tôi với những người khác như vậy không? Để có thể làm được điều đó, tôi phải có Chúa trong lòng tôi. Chúa ở trong tôi, tôi ở trong Chúa. Tôi phải sống thân mật gắn bó với Chúa, như cành nho gắn liền với cây nho (x. Ga 15,1-17). 7. Tôi có thể nhận biết được là tôi có thực sự thuộc về Chúa, có thực sự ở trong Chúa và thực sự có Chúa ở trong tôi không, nếu tôi thực sự có dấu chỉ này: Tâm hồn tôi chỉ có một hướng đi, đó là khát khao yêu mến Chúa và làm đẹp lòng Chúa. Thú thực, là tôi chưa thấy rõ dấu chỉ đó trong tôi. Nên tôi hết lòng xin Chúa xót thương tha thứ cho tôi. Xin Chúa giúp tôi luôn biết tỉnh thức đem Chúa đến cho mọi người, bằng sự chính tôi luôn được ở trong Chúa, và luôn được thuộc về Chúa. Như Đức Mẹ, và nhờ Đức Mẹ. 8. Còn một “sự tỉnh thức” thứ ba rất quan trọng, mà Mẹ hay nhắc cho tôi, đó là theo gương Mẹ góp phần vào việc cứu các linh hồn. Xưa, Mẹ đã góp phần vào chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu bằng những hy sinh đầy yêu thương. Mẹ bước theo Chúa trên đường vác thánh giá. Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Mẹ ủi an các tông đồ trong những giờ phút họ cô đơn nhất. Mẹ hiện diện trong Hội Thánh trong những ngày đầu đầy gian khổ. Mẹ muốn tôi cũng hãy biết tỉnh thức, khi Chúa đưa tôi vào những hoàn cảnh cần cộng tác với Chúa, để cứu các linh hồn. Có khi chỉ để cứu một linh hồn mà thôi, Chúa cũng muốn tôi phải tỉnh thức một cách quảng đại. Nếu làm được chỉ một việc đó, tôi thiết nghĩ đây cũng đã là một ơn gọi quý giá Chúa dành cho tôi. 9. Những chia sẻ trên đây của tôi không nhắm mục đích nào, ngoài mục đích ca tụng tình yêu thương xót Chúa, nhờ Mẹ Maria yêu dấu của tôi. Chính Mẹ đã làm cho tôi được sống, được vui, được cậy, như kinh Lạy Nữ Vương đã dạy. 10. Tình hình hiện nay đang diễn biến phức tạp. Chúa muốn chúng ta hãy theo gương Mẹ, mà tỉnh thức, ít là trong ba lãnh vực vừa nêu trên. Kinh nghiệm của tôi cho phép tôi quả quyết điều này: Nếu chúng ta tỉnh thức theo như Chúa dạy, và theo gương Đức Mẹ, chúng ta sẽ gặp được rất nhiều mầm hy vọng phục sinh ngay giữa những đổ nát do tội lỗi gây ra. Tôi tin vững vàng ở tình yêu thương xót Chúa. Tôi tin một cách rất đơn sơ nhưng tuyệt đối ở Mẹ Maria yêu dấu của tôi. Long Xuyên 15-5-2015
Từ khi được Chúa sai vào lịch sử của Quê Hương Việt Nam yêu dấu, tôi vẫn thường cầu xin Đức Mẹ Maria thương dắt dìu tôi trong việc làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. 2. Thực sự, Mẹ đã dắt dìu tôi bằng nhiều cách, như soi sáng cho tôi phải đi vào đường hẹp, như cảnh giác cho tôi phải xa tránh những lối sống dẫn vào mô hình đạo đức giả. Một lần nọ, trong lúc tôi đang quằn quại do những cơn đau đớn ập đến trong tâm hồn, thì chính lúc cô đơn khủng khiếp đó, Mẹ đã đến với tôi. Mẹ chỉ vào Trái Tim Mẹ, và nói với tôi: Trái Tim Mẹ đã rất đau đớn, như bị lưỡi đòng đâm thâu qua, đúng lời tiên tri Simêon đã báo trước (Lc 2,35). Mẹ đã làm chứng cho tình yêu Chúa bằng một trái tim như vậy. Mẹ mong con cũng hãy đi theo Mẹ. 3. Tôi đã “xin vâng”. Chắc là xin vâng của tôi vẫn có nhiều giới hạn do những yếu đuối của tôi, nhưng tôi cũng xin chia sẻ đôi chút về vai trò của trái tim bị đâm trong ơn gọi làm chứng cho tình yêu Chúa tại Việt Nam hôm nay. 4. Gọi là trái tim bị đâm, để nhắc đến lời tiên tri Simêon đã nói xưa về Đức Mẹ, chứ trên thực tế, theo ý của tiên tri Simêon cũng như theo cảm nghiệm của Mẹ và của các con cái Mẹ, thì trái tim bị đâm chính là những đau đớn xảy ra trong lòng mình. 5. Theo kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi, những đau đớn xảy ra trong lòng tôi, mà Mẹ đã báo cho tôi là có tính cách làm chứng cho tình yêu Chúa, sẽ không phải bất cứ đau đớn nào, nhưng phải là những đau đớn thực sự đạo đức. Những đau đớn thực sự đạo đức nói đây là đau đớn vì mến Chúa yêu người, đau đớn trong hiền lành, khiêm nhường, tế nhị. Để diễn tả những đau đớn đạo đức như thế, nhiều người đã chỉ biết khóc. Ở La Salette, Đức Mẹ cũng đã hiện ra dưới hình một phụ nữ ngồi ôm mặt khóc. Do vậy, tôi cũng xin dùng “nước mắt”, như một biểu tượng. 6. Nước mắt, mà tôi coi như một bông hoa, tôi nhờ Mẹ dâng lên Chúa hôm nay, chính là những đau đớn mang âm vang những đau đớn của Mẹ: Đau và khóc, vì thấy Chúa bị xúc phạm, bị từ chối, bị chống phá. Đau và khóc, vì Hội Thánh Chúa, tuy được thánh hoá, nhưng vẫn có những sai phạm, cần phải sám hối và cần xin tha thứ, không phải chỉ đối với Chúa, mà cũng đối với nhiều đối tượng trên trần thế trong lịch sử xưa và nay. Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xin tha thứ như vậy một cách khiêm tốn và can đảm. Đau và khóc, vì bao người trên Quê Hương tôi hằng ngày vẫn còn rất khổ, do thiếu đạo đức, thiếu tình yêu, thiếu cả đến những gì tối thiểu nhất để sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Bao người bệnh tật, già yếu, khổ cực. Bao trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi và lạm dụng. Bao người lớn nhỏ sa vào đàng tội lỗi. Bao người hấp hối trong thất vọng, cô đơn. Đau và khóc, vì rất có thể sẽ có những thảm hoạ xảy đến cho bao nhiêu đồng bào thân yêu. Tôi nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ khóc thương Người trên đường vác thập giá lên Núi Sọ: “Xin đừng khóc thương tôi. Hãy khóc thương cho chính mình và cho con cháu các bà” (Lc 23,28). Rồi Chúa báo trước cho các bà biết sẽ xảy ra những thảm hoạ ghê gớm gây nên những đau đớn chưa từng có (x. Lc 23,29-32). 7. Đau và khóc của tôi, nếu phải hiền lành, khiêm nhường và tế nhị, theo gương Mẹ, sẽ phải rất cần ơn Chúa. Để biết đón nhận ơn Chúa, tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều. Nhờ vậy, mà đau và khóc của tôi mới có sức trở thành một của lễ đền tội có khả năng làm chứng cho tình yêu Chúa giữa Quê Hương Việt Nam của tôi hôm nay. 8. Trên Quê Hương Việt Nam của tôi hôm nay, rất nhiều đồng bào có một cái tâm nhạy bén. Họ dễ nhận ra những ai là người thực sự thương họ. Người thương họ thực sự là những người như Đức Mẹ, biết đau và khóc vì chia sẻ và lo lắng cho họ. Loại người vô tâm, vô cảm, không biết đau không biết khóc cho họ, sớm muộn sẽ bị loại trừ. Biết đau và khóc vì mến Chúa yêu người, sẽ là những bông hoa thơm đẹp, vì nó sẽ đưa tới niềm vui phục sinh, như lời Chúa đã hứa: “Các con sẽ đau buồn, nhưng nỗi đau buồn của các con sẽ trở thành niềm vui” (Ga 20). 9. Tới đây, tôi được Mẹ đưa trí khôn tôi nhìn vào một thực tế đau lòng đang xảy ra ở một vài nơi tại Việt Nam hôm nay: Đang khi nhiều người đau khổ khát mong đợi chờ những tấm lòng từ thiện, biết đau cái đau của họ, biết khóc với tiếng khóc của họ, thì những người mang danh nghĩa là con cái Chúa đã tìm cách tránh né, trái lại, có những người gọi là ngoại đạo lại dừng lại để chăm sóc họ. Hiện tượng đó là một cảnh báo, mà Chúa Giêsu đã nói xưa trong “dụ ngôn người Samari tốt lành” (Lc 10,29-37). Cảnh báo đó vẫn là rất thời sự cho Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. 10. Chính bản thân tôi cũng rất nhiều lần muốn tìm cách tránh trực diện với những người khổ đau, hoặc tìm cách tránh mọi trách nhiệm đối với thực tế đau khổ của những người mình đang sống với, sống gần. Kinh nghiệm đó dạy tôi là phải tỉnh thức thường xuyên sống mật thiết với Chúa, để chính Chúa trong tôi sẽ giúp tôi nhìn người khổ đau bằng chính Trái Tim Chúa. 11. Mới rồi, ngày 13.5.2015, kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, tôi đã ở bên Mẹ rất lâu. Tôi xin Mẹ một ơn, đó là “Trái Tim Mẹ bị lưỡi gươm đâu thâu hãy là trường đào tạo cho tôi, đặc biệt là trong thời điểm lịch sử hiện nay”. Tự nhiên, tôi cảm thấy những cơn đau khác thường trào lên trong hồn tôi. Tôi sung sướng nhận thấy mình được gắn kết với Mẹ một cách sống động hơn. Và từ đó, tôi được cùng với Mẹ, dâng lên Chúa những đau đớn của tôi, như những bông hoa “nước mắt”, góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa. Có những nước mắt đang chảy ra. Có những nước mắt đã khô. Có những nước mắt chảy ngược vào hồn. 12. Đến đây, tôi nghĩ đến việc đào tạo tu đức tại Việt Nam hôm nay. Tôi nghĩ đào tạo cái trí là điều cần, nhưng đào tạo cái tâm là điều cần hơn. Nếu cái tâm của ta được đào tạo theo mô hình trái tim Đức Mẹ Maria, thì đó sẽ là lựa chọn bảo đảm nhất. Cái tâm xơ cúng, cái tâm mù, cái tâm điếc, cái tâm không có lửa mến, đó là điều đang làm cho Đức Mẹ đau và khóc, khi Mẹ nhìn vào đám đông hiện nay. Xin Trái Tim Mẹ thương cứu chúng con. Chúng con tin ở Mẹ. Long Xuyên, ngày 15.5.2015
Có những ngày, hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình khốn khổ khác thường. Thân xác đau, tâm hồn đau. Những cơn đau dài đẩy tôi vào một cõi cô đơn, sợ hãi, tối tăm, như hấp hối bên bờ vực thẳm. Tôi chạy đến bên Đức Mẹ. Mẹ nhân lành dắt tôi đến Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Mẹ dạy tôi hãy đặt những nỗi đau của tôi dưới chân thánh giá Chúa. Tôi xin vâng. Trong tĩnh lặng, tôi cảm thấy những nỗi đau của tôi dần dần biến thành một sự khao khát Chúa. Đến một lúc bất ngờ, sự tôi khao khát Chúa đã mở lòng tôi ra. 2. Tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu đã kêu lên xưa trên thánh giá: “Cha khát”. Tôi hiểu Chúa khát tôi hãy đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa Cha, qua sự Người đang vâng phục Chúa Cha mà hy sinh mình trên thánh giá, để cứu nhân loại. Với nhận thức sâu xa về sự bần cùng của mình, tôi mở lòng ra để đón nhận tình yêu cứu độ ấy của Chúa dành cho tôi. 3. Một hậu quả rất rõ ràng sinh ra trong tôi, khi tình yêu cứu độ Chúa tràn vào lòng tôi, đó là tôi cảm thấy sự khát khao Chúa trở nên mỗi lúc mỗi mạnh hơn, nhất là trở nên mỗi lúc mỗi cụ thể hơn ở sự khao khát tình yêu Chúa: Yêu mến Chúa là lẽ sống đời tôi. 4. Khi tình yêu Chúa như ngấm sâu vào tôi, tôi được Chúa cho thấy tôi phải cố gắng thực thi hai điều này: Một là hãy bắt chước Chúa Giêsu, luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hai là hãy bắt chước Chúa Giêsu luôn sẵn sàng hy sinh để cứu các linh hồn. 5. Vâng phục thánh ý Chúa Cha một cách tuyệt đối, đó là điều Chúa Giêsu luôn nhắc cho tôi. Tôi nhớ lại lời Kinh Thánh viết: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). 6. “Này con xin đến, để thực thi ý Cha”. Mà ý Cha là Ngài phải chịu nhiều hy sinh. Hy sinh của Chúa Giêsu là vượt qua biên giới vinh quang của Thiên Chúa, mà xuống làm người: “Đức Giêsu Kitô, Vốn dĩ là Thiên Chúa, Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Hy sinh của Chúa Giêsu còn là vượt qua biên giới được tự do sống, mà bước xuống thân phận kẻ bị tử hình: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). 7. Xin thú thức là luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha và luôn luôn hy sinh, đó là một thực tế cam go trong đời tôi. Đời tôi do vậy đã trở thành một cuộc hành hương trong chiến đấu không ngừng. Chiến đấu nhất là trong chính nội tâm mình. Chiến đấu không đổ máu, nhưng là một từ bỏ có khi còn hơn là đổ máu. Nhưng, tôi tin sự tôi chịu hy sinh để vâng thánh ý Chúa Cha, hầu góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn, sẽ là con đường dẫn tôi về hưởng vinh quang của Chúa Giêsu. “Nào, Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). 8. Tới đây Chúa cho tôi nhìn vào Hội Thánh Chúa tại Việt Nam hôm nay. Tôi đang nhận ra rất nhiều người con Chúa đang đi vào vinh quang của Chúa Giêsu, từ những hy sinh họ chịu do vâng phục thánh ý Chúa. Một trong lãnh vực thực tế mà họ chịu hy sinh thường ngày nhiều nất là lãnh vực phục vụ người nghèo. Lãnh vực thực tế đó hiện nay rất rộng và rất phức tạp. 9. Theo tinh thần Công đồng Vatican II, họ nhận mình có trách nhiệm với lịch sử Đất Nước; nhất là với những anh chị em nghèo khổ của họ trên Quê Hương này. Trách nhiệm của họ đối với những người anh chị em nghèo khổ cũng sẽ là trách nhiệm ngăn cản sự sụp đổ của Đất Nước họ. Không phải chỉ tiền bạc, đất đai, của cải là những phần họ phải nghĩ đến khi lo cho người nghèo, mà còn là văn hoá chứa đựng những chân lý và các giá trị thiêng liêng có sức cứu độ họ. 10. Hơn mọi ngày thường, họ nghe được tiếng “Cha khát” của Thánh Tâm Chúa Giêsu đang ưu tiên hướng về những người nghèo khổ. Chúa khát khao có được những người dấn thân đem tình yêu cứu độ của Chúa đến cho những người nghèo khổ. 11. Chúa khát khao các nơi đào tạo những người truyền giáo hãy mạnh dạn và khiêm tốn coi việc lo cho người nghèo khổ là một trách nhiệm ưu tiên Chúa trao cho mình. Thực hiện tốt trách nhiệm đó chính là tân Phúc Âm hoá, rất cần cho thời điểm này tại Việt Nam hôm nay. 12. Chúa khát khao mọi người thờ phượng Chúa hãy ưu tiên coi việc lo cho người nghèo khổ được cứu độ chính là cách “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và trong chân lý” (Ga 4,24). Lạy Chúa Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã thương cho con nghe được tiếng “Cha khát” từ Trái Tim Chúa. Xin tiếp tục thương giúp con biết đáp lại tiếng Chúa gọi, bằng việc làm tốt mọi việc thường ngày, dù rất nhỏ và rất âm thầm.
Hằng ngày tôi đọc báo, xem truyền hình và có nhiều tiếp xúc. Nhờ vậy tôi được biết là hiện nay những người đau khổ chiếm một số đáng kể. Trên thế giới họ đang là một vấn đề lớn. Tại Việt Nam họ đang là một tiếng gọi khẩn thiết. 2. Rất may là vấn đề lớn đó cũng như tiếng gọi khẩn thiết đó đã và đang đánh thức được nhiều lương tâm. Bác ái từ thiện được khơi dậy và thực hiện đều khắp dưới nhiều hình thức. Nhà nước làm, tôn giáo làm, đoàn thể làm, cá nhân làm. 3. Nhưng những đau khổ cũ chưa tan, thì những đau khổ mới lại bùng lên. Cảnh đó làm tôi rất buồn. Nhờ đức tin, lòng tôi càng buồn, thì càng gần lại bên Chúa Giêsu. 4. Trong thinh lặng âu yếm, Chúa Giêsu dạy tôi hãy nhìn vào trái tim Người, một trái tim đã bị lưỡi đòng đâm thâu qua. Người nhắc lại cho tôi nhớ lời xưa Người đã nói: “Cha chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Trong giây lát, Người cho tôi hiểu: Dù làm việc thiện nào cho người đau khổ, tôi cũng hãy mang tình yêu của trái tim Chúa đến cho họ. Tôi xin vâng. Nhưng, làm thế nào để mang tình yêu của Trái Tim Chúa đến cho người đau khổ trong mọi việc tôi làm cho họ? 5. Thú thực là để thực hiện điều đó, tôi luôn phải nhờ đến ơn Chúa. Chúa ban ơn đó cho tôi, nhưng Người bảo tôi phải cầu nguyện, chiêm niệm. Như thể ơn Chúa ban là rất cao quý, tôi phải có chút phần nào cộng tác vào đó, bằng sự mở lòng tôi ra một cách khiêm nhường, nghèo khó. Tôi nhận mình hèn yếu, nhưng vững tin vào tình yêu của Trái Tim Chúa đã hy sinh vì tôi và vì mọi người. 6. Dần dần, khi cầu nguyện như thế, tình yêu Trái Tim Chúa đã đi vào lòng tôi. Tình yêu ấy như làm cho lòng tôi, dù đang nặng nỗi đau buồn, lại nở ra hoa, một thứ hoa có yêu thương và vui mừng. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái và niềm vui” (Gl 5,22). 7. Từ kinh nghiệm nội tâm trên đây, tôi có một cái nhìn riêng về tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu dành cho những người đau khổ. Tôi thấy tình yêu cao quý ấy có ba đặc điểm này: Yêu thương, hy sinh và vui vẻ phục vụ. Với cái nhìn đó, tôi dễ nhận ra những ai đến với tôi mà thực sự mang tình yêu của Trái Tim Chúa đến cho tôi. Với cái nhìn đó, tôi cũng dễ nhận ra khi tôi phục vụ, nhất là những người đau khổ, tôi có mang tình yêu của Thánh Tâm Chúa đến cho họ thực không? 8. Tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu có một dấu chỉ sống động và hùng hồn, đó là vết thương do bị lưỡi đòng đâm thâu qua. Với dấu chỉ đó, tôi hiểu thấm thía tình yêu luôn cần được minh chứng bằng hy sinh. Tình yêu không hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh không yêu thương là yêu thương thừa. Yêu thương thực bao giờ cũng đẹp nhờ biết hy sinh. 9. Nếu tôi yêu thương đoàn chiên của tôi, nhất là những người đau khổ, thì yêu thương của tôi cần phải được minh chứng bằng một dấu chỉ chắc chắn, đó là hy sinh. “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Hy sinh, mà các mục tử đã và đang làm gương cho tôi, gồm rất nhiều thứ xảy ra thường ngày. Hy sinh về thân xác thì dễ thấy. Hy sinh trong tâm hồn thì khó thấy, nhưng lại rất nhiều. 10. Một trong những hy sinh trong tâm hồn, mà tôi học được nơi các ngài là sự tỉnh thức, khi làm từ thiện bác ái, phục vụ người đau khổ. Tỉnh thức tránh sự phô trương. Các ngài nhớ lời Chúa phán: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chưng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy, khi bố thí, đừng cho khua chiêng đáng trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thật, Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,1-2). Tỉnh thức tránh sự lừa dối. Các ngài luôn rất minh bạch về tiền của dâng cúng. Thái độ minh bạch của các ngài làm tôi nhớ lại chuyện ông Khanania và vợ là Xaphira xưa đã gian lận, lừa dối các tông đồ trong việc dâng cúng của cải, và họ đã bị Chúa phạt chết tươi (x. Cv 5,1-11). Tỉnh thức tránh cho việc từ thiện khỏi bị lợi dụng để kết thành những nhóm lợi ích riêng (x. Ga 2,18-19). Tỉnh thức tránh thiếu tế nhị trong việc làm từ thiện và phục vụ. Làm cho người đau khổ là làm cho chính Chúa Giêsu. 11. Dù tỉnh thức đến đâu, tôi vẫn thấy mình còn rất xa tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu, nên hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, tôi chỉ biết kêu cầu Chúa một lời vắn tắt này: Lạy Chúa, xin thương xót con. Tôi kêu cầu với lòng tin tuyệt đối. 12. Rồi, dù như bị đóng đinh vào thánh giá là bệnh tật, già yếu, tôi vẫn ra đi, đến những người đau khổ bằng nhiều cách có thể. 13. Cho dù thân phận mong manh, tôi vẫn mang đến cho họ chút tình yêu của Trái Tim Chúa. Tôi yêu thương họ, tôi hy sinh cho họ, tôi vui lòng được phục vụ họ. Và như vậy, tôi sẽ là của lễ, hiệp cùng của lễ Chúa Giêsu dâng chính mình trên thánh giá xưa. Kết quả là sẽ góp phần vào công việc cứu độ những người đau khổ, mà Chúa Giêsu thực hiện. 14. Trên đây là một chia sẻ rất chân thành. Nếu đó là một chứng từ nói lên kinh nghiệm về tình yêu của Trái Tim Chúa nơi một con người hèn yếu như tôi, thì thiết nghĩ đây là một đóng góp vào Tin Mừng cho tình hình phức tạp tại Quê Hương Việt Nam yêu dấu hôm nay. Nói lên kinh nghiệm về tình yêu Thánh Tâm Chúa, chứ không nói về lý thuyết, đó là điều tôi mạo muội làm. Xin Chúa thương nhận và ban phép lành cho những ai quan tâm đến kinh nghiệm nhỏ bé của tôi, và cầu nguyện cho tôi. Hy vọng như thế đang là một niềm vui giúp tôi càng tin vào tình yêu thương xót Chúa. Xin hết lòng tạ ơn Chúa. Long Xuyên 4.6.2015
Từ ít lâu nay, thỉnh thoảng tôi nghe được một bài ca lạ. Tôi nghe không bằng tai, nhưng bằng trái tim. Bài ca rất dịu dàng, rất nhẹ nhàng, rất ngọt ngào. Bài ca không lời, nhưng làm rung động tâm hồn, nâng lòng tôi lên với Chúa.
2. Bài ca nhiệm mầu ấy cho tôi được cảm thấy tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu, một tình yêu khiêm nhường, một tình yêu hy sinh, một tình yêu cứu độ. Khi được cảm nhận tình yêu ấy, tôi coi đó là dấu chỉ Chúa Giêsu đang hiện diện trong tôi. Người đang giúp tôi cảm tạ Chúa Cha. Người đang giúp tôi hợp với ca đoàn các thiên thần trên trời, để ca ngợi Chúa Cha. 4. Qua cảm nghiệm trên đây, tôi như có một cảm quan riêng, để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi người này, người nọ. Nếu gặp họ, tôi cũng nghe được từ họ, như phát ra một bài ca thiêng liêng nhiệm mầu mà tôi đã từng được nghe trong tôi, thì tôi tự nhiên như tin chắc họ đang có Chúa hiện diện. Chúa hiện diện trong họ chính là Chúa Giêsu với trái tim đầy yêu thương, đầy hy sinh, đầy sự sống cứu độ. 5. Cảm quan, mà tôi vừa nói, là một cảm quan thiêng liêng, do Chúa ban. Cảm quan thiêng liêng này không thay thế vai trò của lý trí, nhưng giúp cho lý trí trong nhiều trường hợp. Riêng đối với tôi, cảm quan thiêng liêng ấy giúp cho tôi thấy rõ hơn mấy sự thực sau đây. 6. Sự thực thứ nhất là yêu thương của tôi, nếu muốn là yêu thương như Chúa yêu thương, thì nhiều lúc phải vượt qua ranh giới hợp lý, mà lý trí thường đưa ra. Đúng lý thì người đó không đáng thương. Đúng lý thì người nọ không đáng được cứu. Nhưng cảm quan thiêng liêng cho tôi thấy Trái Tim Chúa đã không đối xử theo sự hợp lý của lý trí tôi. Yêu thương của Trái Tim Chúa đã vượt qua cái lý luận của lý trí loài người. Nhờ vậy, mà chính tôi cũng đã được cứu. 7. Sự thực thứ hai là hy sinh của tôi, nếu muốn là hy sinh theo gương Chúa, thì cũng phải vượt qua ranh giới của quan niệm quần chúng, mà nhiều người thườngvịn vào để tránh hy sinh, đau khổ. Bao lần, người ta quả quyết là phải loại trừ mọi đau khổ, mới là hạnh phúc, phải xa tránh mọi hy sinh mới là khôn ngoan. Nhưng cảm quan thiêng liêng cho tôi nhận ra hy sinh và đau khổ giữ một vai trò cần thiết trong việc cứu mình và cứu người khác, theo chương trình của Chúa. 8. Sự thực thứ ba là yêu thương và hy sinh của tôi, nếu muốn theo gương Chúa Giêsu, thì phải sẵn sàng đón nhận những bất ngờ xảy ra. Theo thói thường, ai cũng muốn ổn định. Chương trình mục vụ là phải thế này. Kế hoạch truyền giáo là phải thế kia. Nếu xảy ra sự gì khác với hoạch định, thì coi như thất bại. Thế nhưng, cảm quan thiêng liêng lại cho tôi thấy, nếu có những bất ngờ xảy ra, phá vỡ những gì coi như sẽ tồn tại vững bền, thì nhiều khi nên coi đó là ý Chúa. Sự kiện đó dạy tôi về sự mong manh của các công trình loài người, để phải khiêm nhường cậy tin vào Chúa. 9. Nhờ những gì tôi vừa chia sẻ như trên, tôi thấy cảm quan thiêng liêng tại Việt Nam hôm nay đang xuất hiện một cách đáng mừng. Những người được Chúa ban cảm quan thiêng liêng đó thuộc mọi thành phần. Tôi nhận ra họ, nhờ một dấu chỉ, mà tôi gọi là chữ ký của Chúa nơi họ. Dấu chỉ đó là thái độ khiêm nhường trong yêu thương và hy sinh nơi họ. 10. Tới đây, tôi lại nhớ về bài ca thiêng liêng nhiệm mầu, mà tôi được nghe thỉnh thoảng trong lòng tôi. Bài ca ấy giúp tôi đọc lại lời Kinh Thánh viết xưa về Chúa Giêsu. “Vào lúc ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 10,25-26). Tôi tạ ơn Chúa đã thương coi tôi là một kẻ bé mọn. Tôi tạ ơn Chúa đã cho Đất Nước Việt Nam của tôi có được nhiều kẻ bé mọn. Tôi nhận ra những người bé mọn ấy đang được Chúa thương yêu một cách đặc biệt. Chúa cho họ một thứ cảm quan thiêng liêng, giúp họ tìm về Chúa và thuộc về Chúa. 11. Trong một tình hình rất phức tạp như hiện nay, những kẻ bé mọn ấy đang là những chứng nhân về Chúa, đem lại hy vọng và niềm vui cho nhiều người, trong đó có tôi. Họ mang trong mình bài ca của Trái Tim Chúa. Họ nhận ra được bài ca của Trái Tim Chúa nơi nhiều người khác. Họ sống như một bài ca của Trái Tim Chúa ca tụng Chúa Cha. Họ giới thiệu Nước Chúa đang lan rộng một cách âm thầm qua bài ca của tình yêu Thánh Tâm Chúa. Đúng là Nước Chúa ở trong lòng con người, ở ngay giữa chúng ta (x. Lc 17,20-25). 12. Bài ca ấy đang chìm sâu vào tiềm thức của tôi, nhờ đó, tôi luôn nói với Chúa Cha một lời Chúa Giêsu đã than thở xưa trên thánh giá: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). 13. Phó thác là có thực. Nhưng không có nghĩa là tôi không có bổn phận phải tỉnh thức. Tỉnh thức, đừng từ chối và đánh mất cảm quan Chúa thương ban, vì không còn muốn mình là bé mọn luôn phải làm theo ý Chúa, mà lại muốn coi mình là tự do làm bất cứ gì mình thích. Tỉnh thức, luôn sẵn sàng để Chúa sử dụng tôi, để Người dâng lễ hy sinh cứu các linh hồn, làm chứng cho tình yêu của Người như Người đã phán: “Không tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu người liều mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Tỉnh thức, luôn ý thức mình được Chúa sai đi, như lời Chúa Giêsu đã phán: “Như Cha đã sai con đi, thì con cũng sai họ đi” (Ga 17,18). Tôi được sai đi trong Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu. Tôi được sai đi, ưu tiên đến với những tâm hồn hèn mọn khổ đau, như Chúa muốn. 14. Như vậy, có một bài ca trong trái tim tôi. Bài ca đến từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bài ca giúp tôi hiệp thông sâu sắc với Hội Thánh Chúa. Bài ca cho tôi nếm được phần nào sức mạnh thánh hoá của Chúa Thánh Thần. Bài ca dẫn tôi trên đường đời đầy trắc trở. Bài ca đưa tôi tới những con người muôn dạng. Bài ca dắt tôi lên với Chúa Cha giàu lòng thương xót. Bài ca giúp tôi xác tín có một Đấng thiêng liêng sẽ phán xét mọi người. Xin tạ ơn Chúa đến muôn thuở muôn đời. Long Xuyên, ngày 8.6.2015
1. Trên chiếc bàn nhỏ kê ở đầu giường tôi, có một cây thánh giá nhỏ bằng nhôm rất nhẹ. Nhưng đối với tôi, đó là một kỷ vật rất nặng về ý nghĩa, rất nặng về nhắc nhở, rất nặng về niềm tin và hy vọng. Cây thánh giá nhỏ đó đã để trên giường Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ nhiều năm. Chúa Giêsu trên cây thánh giá đã luôn ở bên Đức Cha Cố. Người là nguồn sức mạnh thiêng liêng cho Đức Cha Cố, nhất là những năm cuối đời đầy thử thách của Ngài. Người nữ tu chăm sóc cho Đức Cha Cố đã đem cây thánh giá ấy đến cho tôi, khi Đức Cha Cố vừa qua đời. Tạ ơn Chúa vì kỷ vật này. 2. Tôi thường nhìn vào kỷ vật này, để sống ơn gọi. Tôi nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, rồi nhìn Đức Cha Cố Micae. Khi nhìn vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, tôi thường được Người nhắc cho tôi nhớ lại những lời xưa Người đã nói về tình yêu nơi Người. Dưới đây là mấy lời quan trọng của Người đã và đang dẫn đưa tôi sống ơn gọi theo Người. Đức Cha Cố cũng âm thầm khuyên tôi. 3. Lời thứ nhất là: “Thầy là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Cùng với lời đó, Chúa Giêsu cho tôi nhận ra dung mạo của Chúa Giêsu đang ở bên tôi. Dung mạo đó là: mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình vì chiên. Dung mạo đó được in vào lòng tôi. Chúa Giêsu với dung mạo đó đang ở trong tôi. Người biến đổi tôi nên một chút nào đó giống như Người. Tự nhiên, tôi cảm nhận được điều Chúa Giêsu muốn nơi tôi, đó là tôi cũng hãy chia sẻ với Người chức vụ mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi hỏi Chúa, thế nào là nhân lành, và thế nào là hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, như Chúa đã làm và muốn tôi chia sẻ. Thì Chúa trả lời là hãy cầu nguyện và chiêm niệm mới rõ được, chứ lý thuyết trên sách và căn cứ vào các hội thảo sẽ không đảm bảo. Rồi, Chúa cho tôi nhớ lại gương Đức Cha Cố Micae. Ngài quan tâm nhiều đến cầu nguyện và chiêm niệm, nên Ngài sống rất yêu thương và hy sinh cho đoàn chiên với những chi tiết nhỏ thường ngày. 4. Lời thứ hai là: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu thương các con như vậy” (Ga 15,9). Với lời đó, Chúa Giêsu cho tôi hiểu: Người yêu thương đến hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, chính là vâng phục Chúa Cha. Yêu thương với hy sinh của Người có giá trị cứu rỗi các linh hồn là do vâng phục ý Chúa Cha. Vâng phục là yếu tố rất cần trong ơn gọi mục tử. Rồi, Chúa cho tôi nhìn vào đời sống mục tử của Đức Cha Cố Micae. Ngài luôn vâng phục ý Chúa. Ngài luôn vâng phục các đấng bề trên thay mặt Chúa. Đời sống mục tử của Ngài có một chiều hướng bước xuống, đó là yêu thương đoàn chiên đến hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình. Cùng một lúc, đời sống mục tử của Ngài có một chiều hướng đi lên, đó là vâng phục ý Chúa, một cách tuyệt đối. 6. Lời thứ ba là: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Với lời đó, Chúa dạy tôi là khi được sai đến thế gian, Chúa Giêsu đã có những chọn lựa nhất định¸đólà: Cuộc sống nghèo và lo cho người nghèo, cuộc sống tám mối phúc thật, cuộc sống cứu người ta khỏi đàng tội, để họ được lên thiên đàng với Chúa Cha. Đức Cha Cố Micae cũng đã có những lựa chọn như vậy, khi ý thức mình được Chúa sai đi. Ngài ra đi sống những lựa chọn đó, nhưng đồng thời vẫn giữ tinh thần cầu nguyện, để luôn “ở lại trong tình yêu của Chúa” (Ga 15,9), và kết hợp với Chúa, như “cành nho gắn liền với thân cây nho” (Ga 15,5). 7. Lời thứ bốn là: “Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Với lời đó, Chúa Giêsu dạy tôi hãy hoàn toàn phó thác đời sống ơn gọi của tôi cho Chúa. Dù là một đời sống yêu thương hy sinh, dù là một đời sống vâng phục, dù là một cái chết đau khổ. Nhưng tất cả cuộc sống và cái chết của tôi đều sẽ là của lễ dâng hiến âm thầm, kín đáo. Chúa Giêsu đã là như thế. Đức Cha Cố Micae cũng đã phần nào như vậy. Tôi vui, vì được phó thác tất cả trong tay Chúa. 8. Tuy nhiên, xin thú thực là tính tôi hay lo, nên tuy phó thác, mà cũng nhiều lúc rất lo hết chuyện này đến chuyện khác. Chúa thương tôi. Ngài đã cứu tôi. Cũng từ cây thánh giá, Chúa nhắc cho tôi nhớ lại lời Người đã phán xưa, khi còn tại thế: “Hãy nhìn các con chim. Chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý hơn loài chim biết bao! Hãy nhìn hoa ngoài đồng. Chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà ngay cả vua Salomon, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa ngoài đồng, nay còn mai mất, mà Chúa còn cho mặc đẹp như thế, huống hồ là anh em” (Lc 12,24-28). 9. Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã dạy tôi thêm về điều đo, khi Người nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Với lời đó, Chúa Giêsu dạy tôi là Người đã chu toàn việc mà Chúa Cha trao cho Người, chứ không phải là Người đã hoàn tất hết mọi việc, mà Chúa Cha còn dành cho những người khác. Đức Cha Cố Micae cũng đã có lần nhắc nhở cho tôi nhớ là: Theo ý Chúa, ơn gọi của tôi có những giới hạn do lòng thương xót Chúa. Tôi hiểu là tôi không nên ôm đồm, nóng vội. Tất nhiên là phải biết lo. Nhưng hãy tập trung làm thực tốt những gì trong phạm vi có giới hạn của mình. 10. Bây giờ, tôi nhìn cây thánh giá nhỏ, và nhận thấy rằng: Không phải những gì lớn lao đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi, mà là những kỷ vật nhỏ, như cây thánh giá nhỏ của Đức Cha Cố Micae thân yêu. Tự nhiên, tôi cầm lấy chuỗi tràng hạt, để cùng với Đức Cha Cố, đọc kinh tạ ơn Đức Mẹ, cầu cho Hội Thánh, cho Quê Hương Việt Nam, cho giáo phận Long Xuyên và cho chính bản thân tôi. Long Xuyên, ngày 10.6.2015
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tôi thấy có nhiều cái mốc quan trọng. Chúng cần được coi là dấu ấn. Trong những cái mốc “dấu ấn” đó, phải kể đến Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980. Tôi được may mắn có mặt trong quá trình soạn thảo, bàn bạc và quyết định văn kiện lịch sử đó. Sự hiện diện của tôi thực là bé nhỏ. Năm 1980, tôi là một trong những, giám mục mới và trẻ nhất của HĐGMVN. Tôi xin chia sẻ đôi chút về tâm trạng của tôi lúc ấy. Thư chung 1980 hoàn toàn nhắm mục đích đổi mới mục vụ. Không có chút nào gọi là đối phó. Từ đầu đến cuối thư, chỗ nào cũng toát ra một đức tin vững bền và một tinh thần yêu thương thanh thản. Tôi xin kể ra sau đây một số điểm chính yếu: Mục vụ trong thời kỳ mới có tính cách giới thiệu Thiên Chúa và Giáo Hội. Giới thiệu, chứ không áp đặt. Giới thiệu một cách khiêm nhường qua cách sống của mọi thành phần Giáo Hội. Cuộc sống của họ là một sự tuyên xưng và làm chứng cho “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8) theo đức tin từ Phúc Âm do Hội Thánh dạy. Một cuộc sống như vậy cần phải được nung nấu trong Lời Chúa, bí tích và phục vụ. Đức tin lúc ấy sẽ là một gặp gỡ với Chúa Giêsu. Một gặp gỡ sống động, riêng tư. Trong gặp gỡ ấy, họ nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Từ Thiên Chúa là tình yêu, người tín hữu sẽ làm chứng cho Chúa bằng một đức mến cao đẹp phát xuất từ một đức tin siêu nhiên nhận được từ Chúa. Khi được gặp các Đức Giám mục từ khắp nơi trên đất nước Việt Nam quy tụ về thủ đô lần đầu, tôi được nghe các ngài kể ra những hoàn cảnh phức tạp và những trường hợp đầy khó khăn, mà các ngài đã và đang gặp. Tôi ngạc nhiên và cảm động, thấy tất cả các ngài đều có những phản ứng bình tĩnh. Một sự bình tĩnh của đức mến, một đức mến đầy chế ngự, khao khát được thấy xã hội và Giáo Hội mình đổi mới theo ơn Chúa. Thái độ của các ngài nói lên đức tính khôn ngoan và can đảm của đức tin dấn thân. Tiếp xúc với những vị chủ chiên phong phú tinh thần chế ngự tu đức Phúc Âm, tôi nhớ tới Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Hai Đấng đã bảo vệ Chúa Giêsu bằng những chọn lựa khiêm tốn, khó nghèo và đầy chịu đựng, chế ngự. Hội Thánh của Chúa cũng được tiếp tục bảo vệ và phát triển nhờ những chọn lựa như thế. Hiệu quả sau cùng là những mùa gặt thiêng liêng phong phú. Soạn một Thư Chung bao giờ cũng phải cân nhắc, suy nghĩ, tra cứu, bàn hỏi, cầu nguyện. Thư Chung năm 1980 càng phải thế. Thêm vào đó là tinh thần tỉnh thức. Tỉnh thức là biết lắng nghe Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần nói qua nhiều ngả, như qua các dấu chỉ thời đại, qua các kinh nghiệm, qua những đóng góp. Nơi mà người ta phải đợi, nghe Chúa Thánh Thần nhiều nhất, chính là nơi cầu nguyện và yêu thương. Các Đức Giám mục của chúng ta năm 1980 đã sống trong bầu không khí cầu nguyện và yêu thương. Các vị rất khác nhau về tuổi tác, về trình độ, về hoàn cảnh, về kinh nghiệm, nhưng tất cả đều kính trọng nhau, nương tựa vào nhau. Bầu khí ấy giống như bầu khí đã trùm phủ các tông đồ xưa ngày lễ Ngũ Tuần. Chính trong bầu khí cầu nguyện và yêu thương đó, cùng với sự nâng đỡ của toàn Hội Thánh Việt Nam, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các giám mục hình thành một bức Thư Chung rất quan trọng. Thư Chung ấy đã đem lại sự an tâm cho người Công giáo tại Việt Nam, cho dù còn gặp nhiều khó khăn. Sự an tâm ban đầu ấy đã mở đường cho một lối sống cởi mở. Thư Chung ấy cũng đã làm cho những người trước đây ác cảm với Công giáo dần dần có thiện cảm với đạo ta. Thư Chung ấy cũng là một cái mốc lịch sử, đổi mới tình hình. Chính Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI cũng đã nhắc lại cái mốc ấy trong bài diễn văn đọc trong buổi triều yết ngày 27-6-2009 tại Vatican dành cho các Đức Giám mục Việt Nam đi Ad limina. Tôi vui mừng nhận thấy Hội Thánh Việt Nam càng ngày càng có những dấn thân tế nhị và can đảm, dưới sự hướng dẫn của đức tin và đức mến. Hai nhân đức ấy là nguồn ánh sáng và là nguồn sức mạnh của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có những dấn thân sáng tạo, nhưng luôn kết hợp chặt chẽ với Toà Thánh, luôn hiệp thông với nhau, cũng như luôn tha thiết phục vụ trong lòng dân tộc. Vừa biết cho đi và vừa biết lãnh nhận. Do vậy, tôi thiết nghĩ Thư Chung 1980 là một cái mốc quan trọng, hữu ích, cần thiết, đúng lúc, đánh dấu một chặng đường lịch sử. Tuy nhiên nó không có tham vọng nói thay cho tất cả lịch sử. Hiện tại và tương lai của lịch sử có những phức tạp và gay gắt mới. Tôi hy vọng Hội Thánh Việt Nam chúng ta, sẽ biết nhờ ơn Chúa, để có những bước đi mới cần thiết, có sức xây dựng niềm tin cho giai đoạn khó khăn khó lường của lịch sử đang tới. Xin cảm tạ Chúa.
Thánh Gioan Baotixita là người được Chúa chọn và được Chúa sai đi. Cách Chúa chọn và sai Ngài đi là rất khác thường, từ khi Ngài còn là bào thai. Tuy nhiên, Ngài vẫn được đào tạo. Hôm nay, tôi xin chia sẻ đôi chút về sự Chúa đào tạo Gioan là người Chúa chọn và sai đi. 2. Đào tạo của Gioan khởi đầu bằng sự người cha thân sinh của Gioan là thầy cả Giacaria nói cho Gioan biết: Con được Chúa chọn. “Này đây, con ơi, con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao. Con sẽ ra đi trước mặt Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76). Chứng tỏ ơn gọi không do mình thích và tự chọn, mà do Chúa cho mình biết ý Chúa qua người thay mặt Chúa. 3. Sau đó, đào tạo của Gioan được tiếp tục bằng sự Chúa Thánh Thần đưa Gioan vào sa mạc. Tại đó, Gioan sống chay tịnh, cầu nguyện, suy niệm, từ bỏ mình. Chúa uốn nắn Gioan vào một lối sống của kẻ được Chúa chọn và sai đi. Lối sống đó là vững mạnh trong thái độ để Chúa sử dụng mình. Ngài không tìm thành công nào, mà chỉ tìm vâng phục ý Chúa. 4. Tiếp đó, đào tạo của Gioan đi vào giai đoạn thực hành ý Chúa một cách cụ thể. Đó là gặp Chúa Giêsu, giới thiệu Chúa Giêsu, rao giảng sự sám hối để được Chúa Giêsu giải cứu. Trong giai đoạn này, Gioan vẫn còn được đào tạo bằng sự Ngài luôn được mời gọi sống tỉnh thức, bén nhạy, khiêm nhường, chôn vùi, từ bỏ. “Người phải nổi bật lên, còn tôi thì phải lu mờ đi” (Ga 3,30). 5. Những đào tạo trên đây Chúa dành cho thánh Gioan Baotixita xưa, nay cũng được Chúa dành cho các người Chúa chọn và sai đi. Trong đó có tôi. Tôi có đôi chút kinh nghiệm. Nếu không được đào tạo kĩ, các người hoạt động công giáo sẽ dễ trở thành phản chứng trong những chuyển biến phúc tạp hiện nay. Cho đến hôm nay, Chúa vẫn còn đào tạo tôi, để tôi vẫn là người phục vụ Tin Mừng cho Hội Thánh, cho Quê hương. Cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa đào tạo, đang làm cho tôi được bình an và hạnh phúc. Trong sự bình an và hạnh phúc ấy, tôi xin nói lên hai sự thực này, mà thánh Phaolô đã nói xưa: 6. Sự thực thứ nhất là tôi chỉ là tôi tớ của anh chị em, “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa. Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4,5). Sự thực thứ hai là tôi chỉ là chiếc bình sành, “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4,7). “Chiếc bình sành, người tôi tớ”, đó là hình ảnh đúng thực mà chính tôi nghĩ về chính mình, với tâm tình cảm tạ Chúa. 7. Giờ đây, để đào tạo tôi, Chúa Giêsu đang nói thêm với tôi những lời mà xưa Người đã nói với tông đồ Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết, lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra, cho người khác thắt lưng, và dẫn con đến nơi con chẳng muốn”. Rồi, Chúa kết thúc: “Con hãy theo Thầy” (Ga 21,18). Thú thực là đôi khi tình hình đó làm cho tôi sợ tôi là gánh nặng cho cộng đoàn. Nhưng, tôi xin theo Chúa đến cùng, bằng phó thác tuyệt đối. Bởi vì tôi biết tôi phó thác nơi Đấng mà tôi tin, tôi mến hết lòng. 8. Với những gì tôi vừa chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi xin cộng đoàn thương cầu nguyện cho tôi, cho hai Đức Cha Giuse, cho cha Tổng Đại diện, cho tất cả linh mục chúng ta. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện nhiều cho việc đào tạo ơn gọi trong tình hình phức tạp hiện nay. Một tình hình đòi người sai đi phải có một đời sống nội tâm phong phú do chính Chúa đào tạo. Xin thánh Gioan Baotixita thương cầu nguyện cho tất cả chúng ta. Long Xuyên, ngày 24.6.2015.
1. Mấy ngày nay, Chúa thôi thúc tôi hãy bắt chước thánh Gioan Baotixita một cách sát thực tế và sát Phúc Âm hơn. Rồi Chúa dạy cách đó là: Xưa thánh Gioan Baotixita vừa giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng cứu thế gánh tội và đền tội cho trần gian. Ngài cũng vừa dấn thân chịu khổ cùng với Chúa Giêsu, để gánh tội và đền tội cho đoàn chiên. Nay các môn đệ Chúa, nhất là các Giám mục, linh mục, , tu sĩ cũng hãy làm như vậy. 2. Những gì Chúa dạy trên đây đã cho tôi một dung mạo, mà Chúa tha thiết muốn về các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Dung mạo này có 2 nét: Một là hãy rao giảng và giới thiệu Đức Kitô là Chúa Cứu Thế. Hai là hãy gánh tội, đền tội cho người khác bằng cuộc đời dâng hiến đầy yêu thương và hy sinh, cho dù chết đau đớn như Chúa Giêsu và như thánh Gioan Baotixita. Với chân dung có hai nét đẹp đó, tôi tự đánh giá mình và cũng đáng giá các môn đệ Chúa xung quanh tôi. Tôi thấy chân dung đó nơi chúng ta còn khá mờ nhạt, do đó giá trị của chúng ta trước mặt Chúa là rất tương đối, có thể là rất thấp. 3. Sự thực đó giúp chúng ta nên khiêm tốn hơn, để xin Chúa thương giúp chúng ta trở thành người môn đệ Chúa có thực chất theo chân dung, mà Chúa muốn. Biết giới thiệu Chúa Cứu Thế bằng đời sống là điều khó, biết gánh tội và đền tội cho đoàn chiên là điều càng rất khó. Biết thế để mà khiêm tốn. 4. Điều kiện để Chúa thương giúp chúng ta về vấn đề này, là chúng ta phải thực sự khao khát trở thành môn đệ Chúa, theo như Chúa muốn. Khao khát được thuộc trọn về Chúa. Khao khát được Chúa đổi mới bản thân ta. Khao khát được Chúa dạy phải giới thiệu Đức Kitô thế nào. Khao khát được Chúa dạy phải gánh tội và đền tội cho người khác thế nào. Khao khát sẵn sàng vâng phục. Rồi phó thác với lòng khiêm tốn, hèn mọn. 5. Tôi thấy cái cản trở lớn nhất khiến chúng ta không được trở thành môn đệ Chúa đích thực chính là sự chúng ta không khao khát điều đó. Chúa gọi ta, nhưng chúng ta dửng dưng. Tệ hơn nữa, chúng ta còn lợi dụng ơn Chúa gọi để tìm cho mình những tư lợi phục vụ không cho Nước Chúa, mà cho chính mình. 6. Một lần nữa, tôi tự nhủ mình: Hãy rao giảng, hãy giới thiệu, hãy làm chứng cho Đức Kitô bằng chính đời sống của mình, như thánh Gioan Baotixita đã làm. Hãy cùng với Đức Kitô, gánh tội cho người khác, đền tội thay cho người khác. Thánh Gioan Baotixita đã làm như vậy. Nếu không, sẽ không tránh được hậu quả xấu. 7. Đức Mẹ, ở Fatima đã cảnh báo sẽ có những biến cố khủng khiếp xảy ra, nếu nhân loại không sám hối. Tôi thiết nghĩ, ít là chúng ta, những môn đệ Chúa, hãy sám hối bằng cách làm 2 việc như trên, mà thánh Gioan Baotixita đã thực hiện, thì hy vọng Đất Nước và Hội Thánh chúng ta sẽ được cứu. Chính chúng ta cũng sẽ nhờ đó mà được cứu. Dân chúng sẽ tin vào chúng ta nhiều hơn. Hội Thánh sẽ hi vọng vào chúng ta nhiều hơn. Chúa sẽ sử dụng chúng ta nhiều hơn. Trong sám hối, chúng ta không nên quên là chúng ta phải rất khiêm tốn, rất khó nghèo, rất ý thức về thời gian ra trước Chúa không thuộc về quyền chúng ta, có thể sẽ rất bất ngờ. Thời giờ Chúa chờ đợi không do chúng ta muốn và định đoạt. Tôi thiết nghĩ, sám hối không chỉ là bổn phận của cá nhân, mà cũng còn là bổn phận của cộng đoàn, và của cả cơ chế. Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã đến thăm thánh Gioan Baotixita, nhờ đó, thánh Gioan Baotixita đã trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Nay, xin Mẹ cũng thương đến thăm chúng con, để chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, mà trở thành người môn đệ Chúa, như lòng Chúa mong muốn. Long Xuyên, 24.06.2015
1. Từ nhiều ngày nay, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ Maria một cách tha thiết khác thường. Tôi nói với Đức Mẹ đại ý thế này: Thánh Gioan Baotixita là món quà quý Chúa tặng cho loài người. Nên Chúa đã nhờ Mẹ chăm sóc Gioan Baotixita cách riêng. Chúa sinh ra, thì Gioan Baotixita đã được Mẹ đến thăm. Khi sinh ra, thì Gioan Baotixita đã được Mẹ ẵm vào lòng. Vậy, khi con cảm tạ Chúa vì thánh Gioan Baotixita, thì con nên để ý điều gì cách riêng nơi Ngài? 2. Đức Mẹ đã chia sẻ cho tôi nhiều điều. Nhưng có một điều Mẹ muốn tôi để ý cách riêng nơi thánh Gioan Baotixita, điều đó là sự Gioan Baotixita có một cảm quan thiêng liêng rất bén nhạy. Nghĩa là Gioan Baotixita nhận ra một cách chính xác và mau lẹ những gì Chúa muốn cho ngài góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa. 3. Thực vậy, khi còn là bào thai trong lòng mẹ, Gioan Baotixita đã nhảy mừng, nhận ra Chúa Cứu Thế đến qua Đức Mẹ đến thăm (x. Lc 1,41). 4. Khi đang giảng, thấy một người giữa đám đông tiến lại, Gioan Baotixita nhận ra ngay người đó là Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). 5. Khi thấy mấy người Pharisêu đến bên ngài, Gioan Baotixita liền nhận ra ngay họ là loại người nguy hiểm. Ngài nói thẳng: “Các ông là loài rắn độc” (Mt 3,7). 6. Khi thấy tình hình phức tạp, Gioan Baotixita nhận ra ngay mình phải vắn gọn và tập trung. Ngài khuyên chỉ 2 điều: Sám hối và tin vào Chúa Giêsu. 7. Khi bị bắt, Gioan Baotixita nhận ra ngay sứ vụ cua mình sẽ mau chấm dứt. Ngài vâng phục ý Chúa mà ra đi, mặc dầu công việc còn dang dở. Như vậy, Gioan Baotixita phân định một cách chính xác và mau lẹ về con người, về việc làm và về tình hình. Nhờ ơn thông hiểu Chúa ban, mà tôi tạm gọi là một cảm quan thiêng liêng. Vâng lời Đức Mẹ, tôi xin cảm tạ và chúc tụng Chúa, vì cảm quan thiêng liêng đã ban cho Gioan Baotixita.
Tiếp đó, Đức Mẹ dạy tôi là cũng hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa cũng đã ban cho Hội Thánh được cảm quan thiêng liêng, qua một số người Chúa chọn. Điều Đức Mẹ dạy tôi cách riêng, là đừng để ý nhiều quá đến những nhân vật lớn và những việc lớn, để tìm ra ơn đó, mà hãy tìm ra ơn đó nơi những người bé mọn, bình thường, trong đời thường của họ.
Và đúng là như vậy. Tôi thấy nhiều người bé mọn lại có khả năng phân biệt được thiện ác, đúng sai một cách chính xác và mau lẹ. Người này thì có một trực giác đạo đức bén nhạy. Vừa thấy một sự kiện xảy ra, thì nhận ra ngay ý nghĩa đạo đức trong đó. Người nọ thì có một lương tri đạo đức để xúc động. Vừa gặp một tình huống, thì biết ngay mình phải có lựa chọn nào mới là đạo đức. Người kia thì có một cảm quan thiêng liêng sâu sắc, vừa gặp một người họ có thể nhận ra người đó có Chúa ngự trị, hay bị ma quỷ khống chế. 10. Một thoáng nhìn trên đây về những người có trực giác đạo đức tốt, có lương tri đạo đức tốt, có cảm quan thiêng liêng tốt đã cho tôi niềm vui và hy vọng. Tôi thấy tất cả họ đều là những người qudn sống kỷ luật, trung thực, biết sống phấn đấu, từ bỏ, nhất là biết sống trong bầu khí cầu nguyện. Họ phần nào giống thánh Gioan Baotixita trong đời thường. Riêng tôi, tôi nhận ra Đức Mẹ là bầu khí đạo đức, tôi nói với Mẹ của tôi: Như xưa, nhờ Đức Mẹ mà Gioan Baotixita mới được là như th6é, thì nay, nhờ Đức Mẹ, tôi mới có thể thành kẻ được sai đi như Chúa muốn. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đến thăm con. Xin Mẹ ở lại với con. Mẹ là bầu khí đạo đức của con. Long Xuyên 24-06-2015
Bùi-Tuần 1337: MỘT CHÚT TÂM SỰ VỀ ĐỜI LINH MỤC CỦA TÔI
Tôi được thụ phong linh mục ngày 2-7-1955 tại Hồng Kông. Nhìn lại 60 năm linh mục của tôi, tôi thấy Chúa đã thương tôi một cách đặc biệt. Một trong những dấu chỉ về tình thương rất đặc biệt đó là sự tôi luôn gắn bó mật thiết với Chúa, với Hội Thánh, với Quê Hương và với cộng đoàn. Sự gắn bó mật thiết ấy được nuôi dưỡng hằng ngày một cách đơn sơ. Tôi xin phép được tâm sự chân thành về cách đó. Thưa cách đơn sơ đó là sám hối với kinh cáo mình. Hiện nay đó là kinh “Tôi thú nhận”. Mỗi khi đọc kinh “Tôi thú nhận”, tôi cảm thấy mình trở thành bé nhỏ và yếu đuối bên cạnh Chúa, bé nhỏ và yếu đuối trong Hội Thánh, giữa gia đình xã hội và cộng đoàn. Tôi biết là mình cần được cứu. Chính sự cảm nhận mình nhỏ bé và yếu đuối ấy đã giúp tôi đón nhận thêm sự tha thứ, niềm tin và tình thương cũng như sự khiêm nhường và bao dung từ Chúa là Cha. Nhờ vậy tôi được bình an. Tôi cảm thấy sám hối là một hạnh phúc. Trong tâm tình đó, tôi thường thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây, con thú nhận con là kẻ tội lỗi yếu đuối, nhưng con xin vâng, vì Chúa đã gọi con và Chúa đã sai con đi. Con xin phó thác trọn vẹn nơi Chúa”. Vì thế, đời linh mục của tôi là một thánh lễ tạ ơn kéo dài, trong đó, kinh “Tôi thú nhận” đã góp một phần lớn, để tôi biết mến Chúa và biết yêu thương phục vụ mọi người. Tâm sự của tôi hôm nay chỉ vắn tắt nhìn vào sám hối. Kinh “Tôi thú nhận” luôn đổi mới tôi. Kinh “Tôi thú nhận” luôn giúp tôi trở về. Kinh “Tôi thú nhận” luôn giúp tôi nhận ra tình yêu thương xót Chúa. Xin anh chị em cùng tôi cảm tạ Chúa. Xin hết lòng cám ơn mọi người đã dạy tôi sám hối. Xin thương cầu nguyện cho tôi. Long Xuyên, 2-7-201 + GB. Bùi Tuần
Bùi-Tuần 1338: Chút kinh nghiệm về LOAN BÁO TIN MỪNG 07-07-2015
1. Đời tôi là một cuộc dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng. Việc loan báo Tin Mừng được Chúa gieo vào lòng tôi như một hạt giống tốt. Hạt giống tốt đó mang nhiều tiềm năng, nhưng đã phát triển dần dần với thời gian dài. 2. Dần dần, tôi nhận ra Tin Mừng là Đức Giêsu Kitô. Người là “Con đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Người là nguồn suối ơn cứu độ. Chính Người đã kêu gọi: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống’” (Ga 7,37-38). Từ những lời Chúa dạy trên đây, tôi dần dần đã có kinh nghiệm về những bước cụ thể đến với Chúa Giêsu là Nguồn nước hằng sống. 3. Bước thứ nhất là Chúa gợi lên trong tôi sự khát Chúa Giêsu. Tôi khát Chúa Giêsu. Cơn khát đó được cảm nghiệm như một sự khám phá thấy mình rất nghèo nàn, rất bất toàn, rất cần đến Chúa. Cơn khát đó cũng được cảm nghiệm như những chuỗi dài những thao thức và những tỉnh thức, đợi chờ Chúa. Tôi cảm thấy không gì có thể thay thế được Chúa Giêsu. Người là Đấng cứu độ duy nhất của tôi. 4. Bước thứ hai là Chúa gọi tôi hãy lên đường, hãy đến, hãy đi tìm Chúa là nguồn suối nước hằng sống. Tôi đến với Chúa bằng những bước đi đúng hướng, đó là cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, lui tới các bí tích, làm việc từ thiện. Chúa dạy tôi phải khiêm nhường, bước từng bước nhỏ. Không được vội, không được kiêu ngạo. Muốn đến với Chúa theo cách riêng mình, đó là cách đến sẽ không gặp được Chúa. Phải bước tới không ngừng 5. Bước thứ ba là hãy uống. Uống một sự sống mới. Uống một bầu khí thiêng. Uống một tình yêu cứu độ. Riêng tôi, khi uống nước hằng sống, mà tôi được cảm nghiệm như trên, tôi cảm thấy hạnh phúc.Tôi cảm thấy mình được đổi mới. Tôi thuộc về Chúa. 6. Bước thứ bốn là cảm thấy mình gặp được chính Chúa Giêsu. Tôi nhận ra Người ở sự Người rất hiền lành và khiêm nhường. Gặp Chúa Giêsu như thế, tôi tự nhiên ghê tởm mọi sự tự mãn trong tôi. Tôi thấy mình luôn phải bắt đầu lại. Và trong tinh thần khó nghèo đó, tôi được Chúa soi cho một lời hãy nói với Chúa: “Lạy Chúa, xin sử dụng con tuỳ ý Chúa. Con xin vâng. Con thuộc về Chúa trọn vẹn”. 7. Bước thứ năm là nghe được lời Chúa sai đi. Chúa sai tôi đi loan báo Tin Mừng trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúa cho biết, tôi sẽ gặp nhiều đau khổ. Đau khổ không phải của riêng tôi, mà còn là đau khổ của Hội Thánh, của biết bao linh hồn. Đau khổ nhất là thấy sự cứng lòng tự mãn của nhiều người. Đau khổ vì thấy sự hung dữ của Satan luôn tìm cách lôi kéo bao người xuống hoả ngục, mà họ vẫn theo chúng. Đau khổ, vì thấy đạo đức xuống mau và đều khắp, do đó khó tránh được những hình phạt khủng khiếp. 8. Khi Chúa sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho chặng đường lịch sử hôm nay, Chúa cũng cho tôi biết là, cho dù tôi sẽ gặp muôn vàn đau đớn, nhưng Chúa vẫn ở bên tôi. Và đó là hạnh phúc cao quý tuyệt vời. Chúa Giêsu trên thánh giá đang sai tôi đi. Người nói: “Ta là mục tử tốt lành. Ta hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga, 10,11). Tôi hiểu Chúa muốn tôi cũng hãy như vậy. 9. Tới đây, tôi xin cảm tạ Chúa đã ban cho tôi gặp được nhiều chứng nhân. Họ có mặt trong tất cả 5 bước đi của tôi. Chúa đã dùng họ, để nâng đỡ tôi trong từng bước đi. Đối với những chứng nhân đó, cuộc sống không là biểu diễn, nhưng cuộc sống là cho đi. Cho đi niềm hạnh phúc được có Chúa là Tin Mừng cứu độ. Sự sống của họ là cuộc phấn đấu cho sự thiện. Sự sống nơi họ còn là một sự đổi mới liên tục do ơn Chúa cứu độ. 10. Sự sống của họ cũng có nhiều nỗi sợ. Nỗi sợ lớn nhất của họ là sợ không biết dùng nên các ơn Chúa ban. Nỗi sợ thường xuyên nhất của họ là sợ sử dụng sai sự tự do của mình. Nỗi sợ đe đoạ họ đôi khi cũng là sợ sự cô đơn. Nhưng nỗi sợ cô đơn giúp họ phó thác mình hơn trong tay Chúa. Họ vẫn có tự do nhưng họ hoàn toàn vâng phục Chúa Thánh Thần. 11. Tôi vừa chia sẻ trên đây về kinh nghiệm bản thân của sự tôi được đón nhận Tin Mừng. Từ kinh nghiệm đó, tôi ra đi loan báo Tin Mừng cho những người khác. Kinh nghiệm đó cũng giúp tôi rất nhiều trong việc đào tạo những người được gọi loan báo Tin Mừng cho Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi hôm nay. Phải khát Chúa. Phải đến với Chúa. Phải uống nước hằng sống. Phải gặp Chúa. Phải được sai đi. 12. Càng loan báo Tin Mừng, tôi càng khám phá thấy những sự lạ lùng Chúa đang thực hiện trong nhiều người tại Việt Nam hôm nay. Họ khao khát Chúa. Họ đón nhận Chúa. Họ có những lựa chọn can đảm. Họ vừa làm chứng về Chúa, vừa làm chứng về những giá trị thiêng liêng của Quê Hương Việt Nam. Họ dám nói lời “xin vâng”, cho dù họ được sai vào những hoàn cảnh phức tạp, đầy khó khăn. Họ được ơn biết phân biệt cái gì là do Chúa, cái gì là do Satan. Họ như có một cảm quan thiêng liêng trong nội tâm, giúp họ nhận ra cái gì là tốt hơn, nên thực hiện trong một tình hình cụ thể. Họ rất khiêm nhường và sống nội tâm. Họ đang loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của họ với những nét đệp trên đây mang chiều kích của cõi đời đời. 13. Tắt một lời, kinh nghiệm về việc loan báo Tin Mừng, mà tôi đã và đang trải qua, được tôi coi chỉ là khởi đầu của một sự lạ lùng nhỏ, mà Chúa đang thực hiện trong chương trình cứu độ của Chúa. Tin Mừng là một Đấng thiêng liêng, chứ không phải là một giáo lý. Tôi đã gặp được Đấng thiêng liêng ấy. Xin hết lòng tạ ơn Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 7.7.2015.
1. Tôi đã già, sẽ ra đi bất cứ lúc nào. Tôi có gì nên nhắn nhủ những người ở lại không? Thưa có. Tôi đã nhắn nhủ nhiều rồi. Sợ rằng nhắn nhủ mãi sẽ nhàm chán. Thế nhưng, tôi sợ sẽ thiếu trách nhiệm, nếu hôm nay thấy điều nguy hiểm mới, mà không báo động. 2. Theo tôi, điều nguy hiểm mới là tính chủ quan có vẻ càng ngày càng phát triển mạnh. Thứ chủ quan nguy hiểm nhất hiện nay là những suy tính tự mãn dẫn tới diệt vong, mà không thấy, không sợ, không tin. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên ba thứ chủ quan đang thịnh hành hiện nay trong các xã hội. 3. Chủ quan thứ nhất là tưởng rằng: Thực tế sẽ luôn có sự ác, nhưng không tưởng rằng sự ác sẽ đi tới những hình thức dã man khủng khiếp không thể ngờ được. Trong thời chiến, những cảnh dã man khủng khiếp xảy ra đó đây còn để lại trong tôi những vết thương lòng không thể nào quên. Trong thời bình, tôi tưởng là không còn những cảnh đó nữa. Nhưng khi thấy đó đây vẫn xảy ra cảnh cướp của giết người một cách dã man, tôi mới thấy tôi không nên chủ quan. 4. Thực tế cho thấy: Con người, khi thiếu đạo đức, sẽ tự mình bước từng bước nhỏ, đi tới tình trạng dã man. Dã man có những mức độ. Dã man khủng khiếp là mức độ đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Thí dụ: Cảnh chặt đầu những người lành, cảnh buôn bán người, cảnh giết trẻ thơ, cảnh cướp của táo bạo đẫm máu, cảnh tự tử kinh hoàng, cảnh lừa đảo chuyên nghiệp đầy tội ác. Tôi không ngờ rằng: Nhiều người hiện nay như đã mất tính người. Có vẻ như Satan đang lộng hành một cách tự do tại nhiều nơi. 5. Thánh Phaolô xưa đã viết cho môn đệ Timôtê: “Sẽ đến lúc, một số người sẽ bỏ đức tin, mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ, đó là vì trò giả hình của những tên nói dối, mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1Tm 4,1-2). Như vậy, sẽ có nhiều người bỏ đức tin. Hiện tượng đó đang xảy ra đó đây rồi. Tôi không nên chủ quan, cho rằng sự ác đang tàn. Đúng ra, đạo đức đang xuống dốc một cách thảm thương, đó là một sự thực tôi phải nhìn thẳng vào, mà sám hối một cách khiêm nhường. 6. Chủ quan thứ hai là tưởng rằng: Tội ác và những cảnh khủng khiếp chỉ xảy ra ở những nước khác, chứ không bao giờ sẽ xảy ra tại Việt Nam của tôi. Đó là một thứ chủ quan rất nguy hiểm. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ai tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Thực vậy, Côrintô hồi đó là một giáo đoàn trẻ trung, sốt sắng nhiệt thành. Nhưng nay còn gì đâu! Phi châu, Trung Đông hồi xưa là một vùng công giáo phồn thịnh. Nay đã rất khác, với sự lớn mạnh của Hồi giáo. Nhiều giáo phận xưa coi như vững mạnh, nay chỉ còn tên! Do đó, mọi hình thức chủ quan tự mãn cho rằng cái xấu chỉ tồn tại và phát triển ở những nước khác, chứ không xảy ra tại Hội Thánh Việt Nam, đó là một thứ chủ quan tự mãn đi từng bước xuống vực thẳm. 7. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Đừng đi quá mức, khi đánh giá mình” (Rm 12,3). Lời khuyên đó nên được chúng ta áp dụng vào cá nhân chúng ta và cộng đoàn của chúng ta một cách khiêm tốn trước mặt Chúa. Ngay trước mặt loài người, chúng ta cũng không nên đi quá mức, khi đánh giá mình. Chỉ một chút quá mức cũng đáng ghê tởm đối với một người có văn hoá. Phương chi đối với một người có đạo đức theo Phúc Âm, đi theo Chúa Giêsu là Đấng rất khiêm nhường. 8. Chủ quan thứ ba là tưởng rằng: Những gì đã xảy ra xưa mang tính cách hình phạt ghê gớm, như hồng thuỷ thời ông Noe, và như nạn lửa thiêu đốt thành Sôđôma thời ông Lót, sẽ chẳng bao giờ xảy ra cho bất cứ đâu thời chúng ta. Tôi chẳng có lý do nào chính đáng để chủ quan như thế. Chỉ biết rằng: Kinh Thánh hay nói tới: “Những người còn sót lại” là một số rất ít. Số ít còn sót lại đó, không do họ muốn, mà do Chúa. “Chúa phán với ông Moisen: Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương” (Rm 9,15). 9. Phần chúng ta là hãy đề phòng, như lời Chúa Giêsu phán: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em. Vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,34-36). Tỉnh thức và cầu nguyện luôn trong tinh thần sám hối khiêm nhường, đó là điều Chúa dạy tôi làm, để xua đuổi ra khỏi mình ba thứ chủ quan nguy hiểm trên đây. 10. Các thứ chủ quan nguy hiểm trên đây có thể coi như chính chúng đã là một hình phạt đáng sợ, báo hiệu một hình phạt đáng sợ hơn sẽ tới. Với tinh thần sám hối, chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Mẹ nhắn nhủ ở Fatima ngay từ bây giờ, kẻo sẽ quá muộn. Đức Mẹ Maria là “nơi trú ẩn của những tội nhân”, chúng ta là những kẻ tội lỗi hãy đến với Mẹ. Bên Mẹ, chúng ta sẽ kêu lên với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Tôi đã được chính Chúa Giêsu trả lời: “Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính, mà để kêu gọi những ngươi tội lỗi, để họ trở về” (Lc 5, 32). Và ơn tôi được Chúa ban là biết chê ghét sự tự mãn kiêu căng, để có một trái tim tan nát vì sám hối. Long Xuyên, ngày 10.7.2015.
Bùi-Tuần 1340: HÃY TIẾT ĐỘ VÀ TỈNH THỨC 01-08-2015
1. Nhiều người vốn ngại nói và nghe về ma quỉ. Nhưng nay, khi thấy tội ác gia tăng về mặt dã man và lan rộng trong nhiều lĩnh vực, nên đã quả quyết tình hình này đang bị quỷ dữ lộng hành. 2. Tôi nghĩ quả quyết như vậy là lành mạnh. Riêng đối với tôi, quả quyết đó giúp tôi suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn một lời cảnh báocủa Thánh Tông Đồ Phêrô. Ngài khuyên chúng ta hãy hết sức giữ mình cho khỏi ma quỷ làm hại. Thánh Tông Đồ viết thế này: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). 3. Thánh Tông Đồ Phêrô ví ma quỷ như sư tử đói, luôn chạy đó đây tìm mồi để cắn xé. Cái mà ma quỉ tìm cắn xé là những giá trị đạo đức nơi con người, và thay vào đó là những tội lỗi, những tính lừa dối, những thói kiêu ngạo, những mưu đồ độc ác, để sau cùng chúng kéo được những con người theo nó xuống hỏa ngục. 4. Thời nào, ma quỷ cũng vẫn là sư tử hoạt động như thế. Nhưng nay, có những dấu chỉ cho phép quả quyết là quỷ đang lộng hành dữ tợn một cách khác thường. Đạo đức xuống dốc. Nhiều giá trị đạo đức đang bị chối bỏ. Nhiều người tự phụ đi theo tội lỗi, bênh vực tội lỗi, truyền bá tội lỗi. Đúng là từng đoàn lũ ma quỷ đang như sư tử cắn xé nhiều người, dần dần lôi họ xuống hỏa ngục. Ta không thấy chúng, nhưng chúng có thực. 5. Trước tình hình này, tôi phải hết sức thận trọng. Cách để thắng ma quỷ, là vâng lời Thánh Tông Đồ Phêrô: Hãytỉnh thức và sống tiết độ. Tỉnh thức và sống tiết độlà những thái độ đạo đức bao gồm nhiều việc, phải thực hiện thường xuyên. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên vài trường hợp, mà ma quỷ quen lợi dụng để cắn xé những người đạo đức. 6. Trường hợp thứ nhất là tự phụ tự mãn về những thành công đạo đức của mình. Chúa Giêsu phán: “Trong những ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7, 22-23). Lỗi của họ là tự phụ về những thành công trong các hoạt động đạo đức của mình, lỗi của họ cũng còn là họ làm những việc đó theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa (x. Mt 7, 21). 7. Qua những lời Chúa phán trên đây, cộng thêm một số kinh nghiệm, tôi thấy ma quỷ thường hay xúi các người hoạt động tôn giáo thích thu gom những thành công, các việc lành, để rồi tự phụ tìm tư lợi theo ý riêng mình. Nếu không tỉnh thức và sống tiết độ, chiến đấu từ bỏ mình và siêng năng cầu nguyện, thì người hoạt động tôn giáo, cho dù có vẻ thành công lẫy lừng, cũng sẽ là mồi ngon cho ma quỷ. Trong các việc đạo đức nặng về phô trương, tôi vẫn nghe Chúa nói: “Chúng đã được thưởng công rồi” (Mt 6, 2, 5, 16). 8. Trường hợp thứ hai là tự phụ tự mãn về mình được Chúa chọn làm môn đệ Chúa. Đó là trường hợp Tông Đồ Giuđa. Ông được chính Chúa Giêsu chọn vào số mười hai Tông Đồ. Ông được chính Chúa chọn để lo công việc quản lý vật chất cho nhóm mười hai và cho chính Người. Ông được chính Chúa trao ban chức thánh và được chính Chúa rửa chân cho. Giuđa tự phụ tự mãn về những đặc ân đó. Nên tưởng rằng việc bán Thầy mình sẽ có lợi lớn, rồi cũng sẽ được thu xếp ổn thỏa với cộng đoàn và với chính Chúa Giêsu, vì Người là vị Thầy có dư sức tự cứu lấy mình. Ma quỷ ra sức làm cho Giuđa tự dối mình như vậy, để nhất định thực hiện ý riêng xấu xa đó. Thế là Giuđa đã trở thành mồi ngon cho quỷ cắn xé. 9. Suy nghĩ về trường hợp Tông Đồ Giuđa đã trở thành mồi cho quỉ cắn xé, tôi thấy mình phải biết tỉnh thức và sống tiết độ một cách khiêm nhường và hết sức chân thành. Tạ ơn Chúa vì ơn gọi làm Tông Đồ của Chúa, đó là việc đạo đức cần trong sáng và khiêm nhường. Nếu không tỉnh thức và sống tiết độ, tôi sẽ dễ bị ma quỉ xúi giục, lợi dụng chức thánh để tìm tư lợi và làm theo ý riêng, hoặc lại cả dám coi ý mình là ý Chúa. Dần dần, từng bước nhỏ, tôi có thể trở thành kẻ phản Chúa. 10. Thánh Gioan Tông Đồ cảnh báo: “Nhiều tên phản Kitô đã xuất hiện…Chúng xuất hiện từ hàng ngũ chúng ta” (1Ga 2,18). Cảnh báo trên đây cho thấy nguy cơ phản Chúa là trong chính nội bộ những người thuộc về Chúa. Nghe vậy, chúng ta thường nghĩ về người khác. Nhưng biết đâu kẻ phản Chúa lại chính là chúng ta?
11. Trường hợp thứ ba là tự hào tự phụ về những hình thức đạo đức bề ngoài để che giấu những tội lỗi và sự trống rỗng bên trong. Chúa Giêsu xưa đã không ngại nói những lời nghiêm khắc sau đây: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong chỉ đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy. Bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23, 27-28). 12. Lời Chúa phán trên đây khuyên tôi hãy biết đơn giản về những hình thức đạo đức bề ngoài, đừng sáng tạo, tự đặt, tự sướng, tự hào về các thứ hoành tráng, náo động, ồn ào. Những thứ đó nhiều khi chỉ là một thứ mồ mả tô vôi tốt đẹp, che giấu một nội tâm trống rỗng hoặc hôi thối. Lời Chúa cảnh báo rất rõ. Thế nhưng, ma quỷ vẫn dụ dỗ được nhiều người không chịu nghe lời cảnh báo đó. Họ vẫn ham những gì thuộc cách sống đạo đức giả hình. Sau cùng, họ trở thành mồi ngon cho quỷ cắn xé. Biết đâu, trong số họ cũng có tôi, nếu tôi không luôn tỉnh thức và sống tiết độ. Tôi rất sợ, có thể Chúa đang nói với chúng ta: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và pharisiêu giả hình”. 13. Thời nay, cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác đang trở thành gay gắt. Nói một cách cụ thể, cuộc chiến giữa Thiên Chúa và ma quỷ đang diễn tiến một cách rất phức tạp, rất quyết liệt, rất tinh vi. Hãy biết tỉnh thức và biết sống tiết độ trong đức tin bền đỗ đến cùng, ta sẽ nhờ Chúa thắng được quỷ dữ, để được Chúa dẫn vào thiên đàng. Lạy Chúa xin thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 1.8.2015
Bùi-Tuần 1341: Bước theo Mẹ trên đường lên trời 04-08-2015
Đức Maria đã lên trời. Tôi tin tưởng tôi cũng sẽ được lên trời. Đức Maria là mẹ tôi. Mẹ đã lên trời bằng con đường nào, thì tôi là con Mẹ, cũng sẽ lên trời bằng con đường đó. Con đường Mẹ lên trời là con đường “Xin Vâng”. - Xin vâng lắng nghe lời Chúa, - Xin vâng đón nhận Lời Chúa, - Xin vâng tin vào Lời Chúa, - Xin vâng thực thi Lời Chúa. Bốn việc đó đều diễn tiến một cách nhẹ nhàng, nhưng mạnh mẽ nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy Đức Mẹ trở thành một tạo vật mới ngay khi còn sống trên con đường về trời. 2. Đức Mẹ đã dạy tôi, đã dắt dìu tôi trên con đường đó. Hôm nay, tôi xin phép được chia sẻ đôi chút về những gì tôi đã trải qua trên con đường “Xin Vâng”. 3. Xin vâng lắng nghe lời Chúa. Đúng là phải lắng nghe trong cầu nguyện và hồi tâm, tôi mới nhận ra được việc Chúa đến với tôi. Xưa Chúa đã phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Chúa đã đến gõ cửa lòng tôi rất nhiều lần và bằng nhiều cách. Tôi đã nghe được tiếng gõ cửa lòng tôi, do Chúa thực hiện, như Đức Mẹ xưa. Nghĩa là, như Đức Mẹ xưa, tôi được Chúa giúp cầu nguyện, hồi tâm trong tư thế đợi chờ, khao khát Chúa. Bầu khí đó được hình thành với thời gian và với phấn đấu. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp tôi phân biệt được tiếng gõ cửa lòng tôi là do Chúa hay do quỷ, do xác thịt và do thế gian. Rất nhiều lần Chúa gõ cửa lòng tôi bằng cây thánh giá của Người. Phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tôi mới nhận ra được, đàng sau cây thánh giá đó, có chính Chúa Giêsu. Tôi tự nhủ: Chớ bao giờ để mình bị lừa về tiếng gõ cửa lòng. Bởi vì, không thiếu trường hợp, đúng là có tiếng gõ, nhưng không phải là Chúa gõ, mà là quỷ gõ, với nhiều hấp dẫn của đạo đức giả. 4. Xin vâng đón nhận Lời Chúa. Kinh nghiệm cho thấy: Mặc dầu biết rõ tiếng gõ của lương tâm mình là do Chúa, tôi vẫn có tự do mở cửa lòng mình ra, hay lại đóng kín lại hơn trước. Tôi vẫn có vô số lý do, để nguỵ biện cho sự cứng lòng của mình. Thời các tiên tri, đa số dân có đạo đã cứng lòng kinh khủng. Thời Chúa Giêsu, đa số dân có đạo cũng đã cứng lòng một cách khủng khiếp. Thời nay xem ra cũng đang có khuynh hướng diễn lại cảnh mù quáng dại dột đó. Tôi thấy đón nhận Lời Chúa là đón nhận ý Chúa. Đức Mẹ đã nhờ Chúa Thánh Thần để thực hiện việc đó. Ý Chúa rất khác ý loài người. Không những khác, mà nhiều khi còn ngược lại. Do vậy, mà tôi phải như Đức Mẹ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần để đón nhận ý Chúa, nhất là khi ý Chúa là tôi chỉ cứu được người khác bằng thánh giá của tôi. 5. Xin vâng tin vào Lời Chúa. Xưa, sứ thần Chúa đã nói với Đức Mẹ: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,38), và đã trấn an Đức Mẹ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Mẹ đã tin vào Lời Chúa. Mẹ đã xin vâng (Lc 1,38). Mẹ xin vâng trong sự phó thác tuyệt đối, mặc dầu Mẹ thấy con đường xin vâng sẽ đầy trắc trở. Bà thánh Isave đã khích lệ Mẹ: “Em có phúc, vì em đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Vững tin vào Chúa. Tin một cách tuyệt đối. Tin một cách vững bền. Niềm tin như thế cũng do Chúa Thánh Thần ban cho tôi. Những khi tôi thấy mình yếu đuối, bần cùng, tồi tệ, lại phải lo cho Hội Thánh và cho các linh hồn những việc quá khó, tôi luôn van nài Chúa Thánh Thần giúp tôi tin vào Chúa. Cả trong những trường hợp tôi vấp ngã, tôi cũng vẫn nhờ Chúa Thánh Thần thương cứu niềm tin của tôi, để niềm tin đó được vững vàng, chỉ bám vào Chúa mà thôi. Tin đơn sơ, như người con bé nhỏ. Tin khiêm nhường, như người con đi lạc. Tôi tin, chỉ vì Chúa là Cha của tôi. Người là tình yêu giàu lòng thương xót. 6. Xin vâng thực hiện Lời Chúa. Thực hiện Lời Chúa trên thực tế là làm trọn bổn phận của mình. Bổn phận mà tôi cho là rất quan trọng mà Chúa dạy tôi phải làm hằng ngày, chính là bổn phận yêu thương phục vụ. “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 14,34). Tôi thực hiện Lời Chúa trên đây với nhiều Lời khác nữa cũng do chính Chúa phán dạy: “Những gì con làm việc lành cho một những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là con làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Phúc ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Anh em đong đấu nào cho người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2). 7. Thú thực, xin vâng thực hiện những Lời Chúa dạy trên đây là cả một vấn đề hết sức khó khăn. Khó khăn từ nhận thức đến thực hiện. Do vậy, có thể nói, bác ái là lãnh vực khó nhất. Nhưng, dù khó đến đâu, xưa Đức Mẹ đã thực hiện Lời Chúa về bác ái đến mức trọn hảo một cách rất âm thầm đầy khiêm tốn, nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Nay nhiều con cái Mẹ cũng đã bước theo Mẹ, thực hiện bác ái trong hoàn cảnh hiện nay, với những việc làm cụ thể rất đáng ngợi khen. Tôi cũng cố gắng tham gia. Và tôi thấy, được thực hiện bác ái trong cảnh gian nan theo gương Mẹ, chính là niềm vui và danh dự. 8. Càng ngày tôi càng thấy thực hiện bác ái theo ý Chúa được kể như đã thực hiện con đường căn bản nhất để theo Mẹ lên trời. Thánh ý Chúa được ghi ngay trong cuộc sống. Tôi phải cậy vào Chúa Thánh Thần để đọc ý Chúa ngay trong chính cuộc sống hôm nay, nhờ ánh sáng đức tin. Cuộc sống hôm nay có rất nhiều bất ngờ gây đau đớn và lo âu, mang nhiều cảnh báo. Rất nhiều khi, tôi ví mình như con thuyền đang lênh đênh giữa biển khơi gió bão, có lúc thuyền bị vỡ mà không có mảnh thay thế, không ai cứu tôi được. Nhưng tôi tin có Chúa, và Chúa đã cứu tôi. Nên tôi chia sẻ kinh nghiệm đó cho những người khác. Và đó chính là điều tôi cố gắng làm, như việc bác ái quan trọng nhất. Tôi làm nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ. Tôi tin tưởng và hạnh phúc trên con đường “Xin Vâng” của Mẹ. Long Xuyên ngày 4.8.2015
Đang khi đạo tưng bừng chào mừng nhiều đại lễ, và đang khi đời hoan hô mừng nhiều đại hội, thì đó đây xảy ra nhiều đại hoạ. Nước mắt và tiếng khóc. Tàn phá và tan hoang. Mất của và trôi người. Đại hoạ bất ngờ. Đại hoạ lan rộng. Đó là những trận mưa lũ đánh chìm nhiều nơi tại miền Bắc nước ta. 2. Đại hoạ đó đánh thức lương tâm tôi. Tôi đau cái đau của biết bao đồng bào nạn nhân lũ lụt. Tôi lo cái lo của biết bao người có trách nhiệm đời đạo tại những nơi đó. 3. Đại hoạ đó là dịp để tôi nghĩ tới một đại hoạ khác đang đánh chìm nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Đại hoạ mà tôi muốn nói tới ở đây, đó là tinh thần thế tục, cũng gọi là tinh thần tục hóa. 4. Ngay từ thời các thánh tông đồ, tinh thần thế tục vốn đã là một nguy cơ lớn cho đạo. Nên thánh tông đồ Phaolô đã viết: “Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa. Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). 5. Theo lời dạy trên đây, tinh thần thế tục là sống theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa. Tinh thần thế tục là không nhận ra đâu là cái tốt thật, đâu là cái đẹp lòng Chúa thật, đâu là cái hoàn hảo thật, mà chỉ đánh giá theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa, rồi cho là đánh giá đúng. Xét mình sơ qua, tôi cũng đã thấy tinh thần thế tục đúng là một đại hoạ cho chính bản thân tôi. Thí dụ: 6. Khi cầu nguyện, ăn chay, bố thí hay làm các việc đạo đức khác, nếu tôi để cho mục đích phô trương lẻn vào lòng tôi, thì Chúa sẽ phán với tôi: “Con đã được thưởng công rồi” (Mt 6,18). Phô trương là một hình thức của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó. 7. Khi coi thường các điều kiện cuộc sống, như thời giờ, sức khoẻ, của cải, địa vị, hoặc lợi dụng chúng vào mục đích hưởng thụ, chớ không dùng chúng vào mục đích đổi mới bản thân mình để trở về với Chúa, thì Chúa sẽ phán về tôi, như xưa Người đã phán về thành Giêrusalem: “Sẽ có ngày thành này sẽ bị phá huỷ, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận ra thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,44). Dửng dưng với ơn Chúa và sống hưởng thụ, đó là một hình thức khá phổ biến của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó. 8. Khi đề cập đến những người hiện nay gây nên tội ác, như mất tính người, tôi thường đổ lỗi cho hoàn cảnh này nọ, mà không dám coi đó là dấu chỉ của quyền lực quỷ dữ hoành hành. Nhưng có lúc tôi được Chúa cho nhớ lại trường hợp một người bị quỷ ám đã trả lời với Chúa là “tôi là đạo binh”, nghĩa là trong người đó có rất đông quỷ dữ nhập vào (x. Lc 8,28-37). Không tin có quỷ, đó là một hình thức rất nguy hiểm của tinh thần thế tục, tạo môi trường tốt cho quỷ hoạt động. 9. Tinh thần thế tục gồm nhận thức sai trái và hành động sai trái, theo thói thế gian. Nhận thức sai trái đó thường mang tính lừa dối. Hành động sai trái đó thường mang tính cách phá hoại đạo đức. Nhận thức sai trái đó và hành động sai trái đó là những hình thức tai hại của tinh thần thế tục, đang và sẽ bị Chúa kết án nặng nề. 10. Hiện nay, tinh thần thế tục là cả một hệ thống xấu gồm những lừa dối, những độc ác nối kết với nhau. Cái xấu này tạo nên môi trường để phát sinh ra cái xấu kia. Hệ thống xấu đó đang hình thành trong đạo cũng như ngoài đời. 11. Để đối phó với đại hoạ trên đây, Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức thức cầu nguyện, và sống tiết độ (1Pr 5,8). Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến nhiều cảnh đối phó với tinh thần thế tục. Rất buồn là chính cảnh đối phó lại rất nặng tinh thần thế tục. Quỷ dữ do vậy mà thêm thắng thế. 12. Tôi tin, cách đối phó đúng nhất và cũng hữu hiệu nhất là tìm về chính nguồn. Nguồn đó là Chúa Giêsu. Tôi phải đến với Nguồn, phải uống nước từ Nguồn, phải để nước nguồn thấm sâu vào tôi, phải để nước nguồn nuôi dưỡng và đổi mới tôi. 13. Tôi làm những việc đó theo gương Đức Mẹ và những chứng nhân sống động trong lịch sử Hội Thánh. Một trong những chứng nhân có ảnh hưởng lớn với tôi, là thánh Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars. Ngài là con người cầu nguyện gắn kết mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngài là con người sống tiết độ trong mọi sự. Ngài là con người gắn bó với bổn phận mục vụ một cách trung tín. Ngài là con người tha thiết cứu các linh hồn. Ngài là con người, mà quỷ tìm cách tấn công bằng đủ mưu mô, nhưng ngài vẫn thoát khỏi tinh thần thế tục, mà quỷ muốn lôi ngài vào. Ngài là con người luôn khiêm tốn vâng phục Chúa Thánh Thần, để biết phân định, để biết chọn lựa, để biết sống tự do thực sự của người con Chúa. 14. Đại hoạ hiện nay là tinh thần thế tục, tinh thần tục hóa. Đại hoạ này đang có vẻ phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Nhận thức được sự thực trên đây là một khởi đầu tốt, để có những bắt đầu lại, theo Phúc Âm, trong niềm tin vào Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Rất mừng là tại Việt Nam hôm nay, nhiều người đã nhận thức được sự thực đó. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Long Xuyên, ngày 4.8.2015
Từ ít tháng nay, tôi hay nhớ tới Hội Thánh của tôi và Quê Hương của tôi. Nhớ và thương. Nhớ và lo. Thương lo một cách khác thường. Thương và lo của tôi đi giữa những hoành tráng và tưng bừng từ những đại lễ của đạo và của những đại hội của đời. Tất nhiên tôi cũng chia sẻ phần nào niềm vui đầy màu sắc đó. Tôi cầu nguyện rất nhiều cho đồng bào yêu dấu của tôi. 2. Nhưng lạ lùng! Mỗi lần cầu nguyện như thế, tôi lại nhìn thấy Chúa Giêsu. Người đội mạo gai, vác thập giá trên vai, đang bước đi, với vẻ rất đau đớn từ nơi này đến nơi khác. Với tất cả tấm lòng khiêm tốn, tôi xin Chúa soi sáng cho tôi hiểu ý Chúa muốn dạy tôi điều gì qua những gì tôi đã được thấy. 3. Chúa dạy tôi hai điều này: Một là: Hãy cùng với Chúa Giêsu lo cứu các linh hồn vì mến Chúa và vì thương con người. Hai là: Hãy lo cứu các linh hồn cũng bằng con đường mà Chúa Giêsu đã đi xưa, đó là con đường thánh giá. Tôi xin vâng. 4. Về điều thứ nhất, tôi thấy tôi thường rất thiếu. Trên thực tế, nếu không tỉnh thức, rất nhiều trường hợp, tôi lo cứu công trình nọ, cơ sở kia, mà không ưu tiên lo cứu các linh hồn. Lo ích riêng trái với ích chung là quá sai. Lo việc ngoài nghịch với việc bổn phận cũng là quá sai. Cũng trên thực tế, tình yêu của tôi đối với Chúa và đối với các linh hồn vẫn còn rất yếu. Tình yêu ấy nhiều khi chưa phải là lửa, mà chỉ là lý thuyết. 5. Về điều thứ hai, tôi thấy tôi cũng thường rất sai. Xưa, Chúa Giêsu đã cứu các linh hồn bằng thánh giá, nghĩa là bằng yêu thương được diễn tả bằng hy sinh. Còn tôi thì miệng vẫn thường tuyên xưng con đường mình đi là Thánh Giá, nhưng nếu không tỉnh thức, thì thực tế lại là tự do hưởng thụ, tự do thực dụng, tự do tục hoá dưới nhãn hiệu đạo đức giả và lừa dối. 6. Xét mình kỹ, tôi thấy ơn gọi của tôi là hãy bước theo Chúa Giêsu cứu các linh hồn bằng con đường thánh giá. Vấn đề căn bản của ơn gọi đó: là sự tự do của tôi phải ăn hợp với Chúa Thánh Thần. Kinh nghiệm cho thấy: sự tự do của tôi không thể tự mình chọn đúng như ý Chúa, trái lại, nó thường chọn theo ý riêng mình. 7. Chúa dạy tôi về sự thực đó. Sự thực đó cho tôi thấy sự yếu đuối của tôi. Nhưng Chúa thương cứu tôi. Người dạy tôi hãy cầu nguyện. Cầu nguyện, để sự tự do của tôi biết tha thiết thực sự với việc cứu các linh hồn. Cầu nguyện, để sự tự do của tôi biết thao thức thực sự với việc Chúa đốt lửa tình yêu Chúa cháy rực lên trong tôi. Cầu nguyện, để sự tự do của tôi biết xác tín con đường thánh giá, mà Chúa dẫn tôi vào, là một vinh dự, là một hạnh phúc. Cầu nguyện, để sự tự do của tôi bỏ được tính an phận, tự đắc, chủ quan, vô cảm. 8. Tôi nhấn mạnh đến việc cầu nguyện. Bởi vì tôi có khá nhiều kinh nghiệm về những phức tạp của sự tự do của người môn đệ Chúa. Chỉ xin kể một đôi chút ở đây. 9. Rất nhiều trường hợp, khi tôi nghe Chúa gọi tôi hãy chọn một việc lành nào theo Phúc Âm, thì lập tức, tôi cũng nghe thấy nhiều tiếng gọi khác. Chúng khuyên tôi hãy chọn điều nọ điều kia mà chúng cho là điều lành, nhưng thực chất là xấu. Có thể nói là có rất nhiều tiếng gọi. Tiếng do Chúa, tiếng do quỷ. Bởi vì thế gian này có vô số thần dữ. Chúng hoạt động rất mạnh, gieo rắc khắp nơi những ước mơ xấu. Chúng pha trộn cái xấu vào cái tốt. Chúng xếp cái xấu ngang hàng với cái tốt. Chúng làm nên những cơn bão mù mịt trong lãnh vực tinh thần. Trong hoàn cảnh như thế, con người rất cần được một Đấng thiêng liêng có quyền cho kẻ mù được thấy, cho bão gió được êm lặng. Đấng thiêng liêng ấy sẽ cứu những ai cầu nguyện với Người. Tôi có kinh nghiệm về sự thực đó. 10. Tôi cũng xin nói về một kinh nghiệm khác. Trước đây, khi nghe giảng về con đường thánh giá, tôi tin đó là con đường tôi nên theo. Khi thấy gương các thánh đã bước theo con đường thánh giá, tôi cũng muốn bước theo. Nhưng, khi Chúa Giêsu vác thánh giá thực sự đi vào đời tôi, Người muốn tôi chịu những đau khổ phần xác phần hồn, để cùng với Người cứu các linh hồn, thì thú thực là lúc đó tôi đụng vào một sự thực đau đớn, mà tôi không ngờ. Bởi vì đau đớn là rất ghê gớm. Lúc đó, chỉ sự cầu nguyện mới giúp tôi dám chọn điều Chúa muốn chọn cho tôi. Chỉ có sự cầu nguyện mới giúp sự tự do của tôi. Chỉ có sự cầu nguyện, mới giúp tôi biết biến đau khổ của tôi thành của lễ có giá trị cứu độ. 11. Kết quả của cầu nguyện là mặc dầu tôi không trở nên hoàn thiện như tôi muốn, nhưng tôi vững tin và phó thác vào Chúa. Nhờ đức tin ấy, tôi dâng tất cả những phấn đấu hằng ngày của tôi lên Chúa, như những lễ vật, mà sự tự do của tôi có được, để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Để rồi, chính sự yếu đuối của tôi lại thanh luyện tính kiêu căng của tôi. Sự nhận thức về sự yếu hèn của tôi lại là dịp tỏ hiện quyền năng của lòng Chúa xót thương. 12. Mới rồi, có lúc tôi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá bước ra khỏi một nơi đang sầm uất về những hoạt động tôn giáo hoành tráng kèm theo những tiệc tùng và vui nhộn. Tôi hỏi Chúa đi đâu vậy? Thì Chúa trả lời: Chúa ra đi. Vì nơi này không có chỗ cho Chúa. Hơn nữa, họ đuổi Chúa ra ngoài nhân danh vinh quang Chúa. Nghe vậy, tôi rất buồn. Nhưng Chúa nói thêm: Sự Chúa ra khỏi nơi này không phải là một sự chấm dứt. Chúa sẽ trở lại. Tôi chưa hiểu Chúa sẽ trở lại bao giờ và bằng cách nào. Chỉ biết rằng: Sự Chúa ra đi lúc này là một cảnh báo rất nghiêm trọng.
13. Phần tôi, tôi xác tín điều này. Chúa Giêsu sống trong tôi. Tôi đón nhận Người. Chính Người vác thánh giá trong tôi. Đó là một ơn Chúa ban, giúp tôi biết gắn kết sự tự do của tôi vào ơn thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, tôi sống sự tự do đích thực của người con Thiên Chúa. Lúc ấy, sự tự do của tôi là thoát được mọi xiềng xích của ma quỷ và tội lỗi, chỉ tìm một điều duy nhất là tình yêu Thiên Chúa, để tôi chỉ sống cho tình yêu đó mà thôi. Nhờ đó, tôi biết sống cho mọi người. Để có được một sự tự do như thế, tôi phải tập luyện, phải cầu nguyện và sống tiết độ hằng ngày mọi lúc. Tôi rất cám ơn cộng đoàn và tất cả những ai đã nâng đỡ tôi trong việc đào tạo tôi nên người tự do như thế. 14. Tới đây, tôi nghĩ tới Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, người con quê quán ở giáo phận Long Xuyên. Cha đã đón Chúa Giêsu vác thánh giá vào lòng mình. Cha đã tự do theo ý Chúa, tự nguyện gắn bó ở lại với đoàn chiên, khi đoàn chiên gặp khó. Cha đã thương đoàn chiên, dám chết thay cho đoàn chiên, để cứu đoàn chiên. Không đun đẩy, nhưng Cha tự ý và mau lẹ cứu người khác. Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một gương sáng cho tôi. Lúc này, Hội Thánh Việt Nam rất cần nhiều người như Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Long Xuyên, ngày 17.8.2015.
Bùi-Tuần 1344: VUI MỪNG ĐƯỢC HỌC YÊU THƯƠNG 22-08-2015
Mỗi năm có những ngày khai giảng năm học mới. Dịp đó tôi như trẻ lại. Bởi vì đối với tôi, được học là được một mùa Xuân thiêng liêng, ham học là thích đón nhận những giá trị luôn làm mới lại đời mình. 2. Xin nói ngay, điều tôi ham học nhất là yêu thương, trường mà tôi thích được nhập học nhất là trường dạy yêu thương. Yêu thương là ý nghĩa đời tôi. Yêu thương là con đường tôi đi để tới được bến hạnh phúc đời đời. 3. Trường dạy yêu thương là Thiên Chúa. Thầy dạy yêu thương là Thiên Chúa. Bài học yêu thương là Thiên Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Hôm nay, tôi xin chia sẻ đôi chút về những gì Chúa là tình yêu đang nhấn mạnh trong chương trình đào tạo tôi về yêu thương. 4. Điều thứ nhất Chúa đang nhấn mạnh là giúp tôi nhận thức đúng về thực trạng của tôi. Thực trạng của tôi là một kẻ lữ hành, đang khát khao tìm về suối nguồn sự sống, sự thực và tình yêu, nhờ đó tôi sẽ được hạnh phúc vô cùng. Càng ngày tôi càng cảm thấy lòng tôi khao khát nguồn suối chảy ra chân lý của tình yêu và của sự sống. Càng ngày đức tin càng làm cho tôi nhận ra nguồn suối đó chính là Thiên Chúa. Do vậy, mà tôi không ngừng thao thức, luôn luôn tỉnh thức, trên đường tiến về Thiên Chúa. Càng tiến về Chúa, tôi càng cảm nhận mình là rất nhỏ bé, nghèo nàn, nhưng lại được Chúa thương. Cảm nhận đó làm tôi khiêm tốn, hết lòng cảm tạ Chúa.
Tôi tin Chúa, tức là tôi gặp gỡ Chúa. Càng gặp gỡ, tôi càng cảm thấy mình khao khát Chúa. 5. Lòng khao khát Chúa giúp tôi có một hướng đi. Tôi đi về Chúa. Đi về Chúa là tìm được sự tự do đích thực, để tôi dấn thân cho tình yêu. 6. Điều thứ hai Chúa nhấn mạnh là giúp tôi biết gặp gỡ Chúa. Chúa dạy tôi hãy gặp gỡ Chúa ở những địa chỉ mà Chúa đã hẹn. Những địa chỉ đó là: Suy gẫm Lời Chúa, cầu nguyện với Chúa, đón Chúa trong phép Thánh Thể vào lòng, đến với người nghèo khổ. Hằng ngày tôi vẫn gặp Chúa tại những địa chỉ đó. Mỗi khi gặp Chúa, Chúa lại nhắc lại cho tôi những gì Người đã nói và những gì Người đã làm về yêu thương. 7. Những lời về yêu thương, được Người nhắc lại nhiều nhất cho tôi là: “Không có tình yêu này cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình thương” (Ga 14,13). “Cha là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Cha cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Cha đã yêu thương các con” (Ga 13,34). 8. Những việc mà Chúa nhắc lại nhiều nhất cho tôi về yêu thương là: Việc Chúa quỳ xuống rửa chân cho các đầy tớ (x. Ga 13,1-14). Việc Người lập phép Thánh Thể (x. Lc 22,19-20). Việc Người cầu nguyện tại vườn Cây Dầu (x. Mc 14,32-42). Việc người bị bắt và chịu chết (x. Mc 14,15). Những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm về yêu thương đã thấm dần vào hồn tôi. Tôi thấy tình yêu Chúa được tỏ hiện rõ ràng, chứng tỏ sự khôn ngoan lạ lùng của Thánh Giá. Tôi ca ngợi Chúa. 9. Nhưng, tôi nói với Chúa sự thực này của tôi, đó là tôi rất sợ, rất nhát trước những khổ đau. Tôi không dám tình nguyện chịu đóng đinh vào đầu, chịu đóng đinh chân tay vào thánh giá, chịu khổ nhục như Chúa đâu. Nói lên sự thực đó để tự xếp mình vào hàng ngũ kẻ yếu đuối, hầu đón nhận ơn Chúa cứu. Chúa thương trả lời tôi: “Cha không trao cho con thánh giá nào quá sức con đâu. Cha luôn ở bên con”. Tôi được an ủi, khi trở nên bé nhỏ, hèn mọn trong tình thương của Chúa. 10. Điều thứ ba Chúa đang nhấn mạnh, là giúp tôi thực hiện yêu thương bằng những việc cụ thể, hợp với nhu cầu của hoàn cảnh. Hoàn cảnh lúc này không những đang là phức tạp, mà còn là nguy hiểm. Do những phát triển mau lẹ của nhiều loại sự ác, như: - Phong trào tự do hưởng thụ.
- Phong trào thực dụng quá mức.
- Thói quen lừa dối thô bạo.
- Phong trào dám nghĩ dám làm những cuộc thảm sát tàn bạo.
- Phong trào tự hào về những cuộc cướp bóc và khủng bố man rợ.
- Phong trào bỏ đạo một cách quyết liệt và dữ tợn. Sự phát triển mạnh của những loại sự ác như hiện nay cho phép tôi nghĩ đó là dấu chỉ của sự lộng hành của quỷ dữ. 11. Do đó, những việc cụ thể Chúa muốn tôi thực hiện lúc này phải mang tính cách đối phó với chính quỷ dữ. Chúng rất đông. Chúng rất mạnh. Chúng rất ác độc. Quỷ dữ là loài vô hình, nhưng có thực. Để chống lại quỷ dữ, điều quan trọng nhất tôi phải có, là phải bám vào Chúa. Chúa là tình yêu, Người có sức giúp tôi chống lại sức mạnh ghen ghét của quỷ dữ. Chúa là nguồn khiêm nhường. Người có sức giúp tôi chống lại sự kiêu căng của quỷ dữ. Chúa là sự chân thật. Người có sức giúp tôi chống lại sự gian trá của quỷ dữ. 12. Thế nào là những việc cụ thể mang yêu thương thực, khiêm nhường thực và chân thành thực? Tôi hỏi Chúa như thế. Chúa trả lời tôi là những việc cụ thể như vậy luôn tìm được mỗi ngày, ngay trong cuộc sống thường ngày của tôi. Cuộc sống có những bổn phận và có những tương quan. Cuộc sống có những lãnh nhận và có những cho đi. Tôi hãy đặt vào đó yêu thương của tôi, khiêm nhường của tôi, chân thực của tôi. 13. Tôi đã và đang cố gắng làm như vậy, với nhiều phấn đấu và nhiều từ bỏ. Nhưng thú thực là tôi vẫn yếu đuối. Biết bao lần, sự tốt tôi muốn làm thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm. Tôi thú nhận sự thực đó với tất cả lòng khiêm nhường và sám hối, theo gương thánh Phaolô xưa (x. Rm 7,17-25). Và chính Chúa đã cứu tôi. 14. Cho đến hôm nay, cho tới lúc này, Chúa vẫn dạy tôi về yêu thương.
Càng học yêu thương của Chúa và do chính Chúa dạy, tôi càng cảm thấy mình bé mọn. Tôi thấy yêu thương của Chúa và do chính Chúa dạy luôn là sức sống mới đầy hấp dẫn. Vẫn có những bất ngờ xảy đến bất cứ dưới hình thức nào, nhưng tôi luôn gặp được nâng đỡ chở che của Chúa là tình yêu. Sống cho tình yêu như thế, tôi hy vọng góp phần nhỏ vào việc phục vụ đồng bào của tôi, Quê Hương của tôi, Hội Thánh của tôi. Long Xuyên 22.8.2015.
Bùi-Tuần 1345: Tiếng vọng từ những nội tâm 27-08-2015
Tôi yêu mến địa phương mà tôi đang sống. Địa phương này đã đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp, trong đó có tiếng vọng từ những nội tâm. Đây là những tiếng vọng đã an ủi tôi, đã nâng đỡ tôi, đã giúp tôi suy nghĩ thêm về ý nghĩa cuộc đời, đã khích lệ tôi diễn tả những tâm tư của mình một cách tin tưởng. 2. Tiếng vọng từ những nội tâm mà tôi trân trọng, chính là ảnh hưởng của những người sống thường ngày với một chiều kích thiêng liêng mãnh liệt. Hầu hết họ là ngoài Công Giáo. Họ gắn bó với một số giá trị thiêng liêng như hiếu thảo và cầu nguyện. Họ tin vào một cõi thiêng đàng sau thế trần này. Họ tin vào một Đấng thiêng liêng trên đầu họ. Họ kính sợ “Ông Trời”. Họ tin làm lành thì có luật thiêng thưởng, làm dữ thì có luật thiêng phạt. 3. Chiều kích thiêng liêng như thế ăn sâu vào cuộc sống họ, như một sức mạnh thiêng liêng. Họ diễn tả ra bằng những ứng xử đạo đức theo truyền thống từ xưa. Cầu nguyện, bố thí, ăn chay, hiếu thảo, cần cù, tình nghĩa và liên đới trách nhiệm, đề cao việc từ thiện. Đó là những ứng xử đạo đức, mà họ cho là phải phấn đấu mới bảo vệ được, để nội tâm mình được sáng. 4. Số người có nội tâm sáng tại địa phương này là khá đông. Họ thuộc đủ mọi giới. Mặc dù bị khủng hoảng, tình hình nội tâm tại đây nói chung vẫn tương đối tốt, nội tâm họ vẫn mạnh. Nội tâm đó làm nên một tiếng gọi thiêng liêng. Tôi nhận được tiếng gọi thiêng liêng đó, như một tiếng vọng. 5. Tiếng vọng từ những nội tâm ấy đã gặp nội tâm tôi. Gặp gỡ thân tình này gợi ý cho tôi hãy chia sẻ phần nào nội tâm tôi. Chia sẻ của tôi là một đáp lễ. Nội tâm tôi lúc này có mấy điểm sau đây nên nói. 6. Điểm thứ nhất là nhận thức rất rõ bản thân mình được Chúa gọi trở nên hoàn thiện theo gương Chúa Giêsu Kitô, nhưng thực tế bản thân mình lại quá yếu đuối, nên phải nhờ vào tình yêu thương xót Chúa cứu. Do vậy, nội tâm của tôi từ lâu đã tập trung vào niềm tin vào Chúa Giêsu. Người là Đấng Cứu Thế. Người tha tội cho tôi. Người kéo tôi ra khỏi tội lỗi. 7. Những gì Chúa Giêsu đã và đang cứu tôi cũng vẫn là những gì Chúa xưa đã quả quyết là rất trái với sự trong sáng của nội tâm. Như:
Cách sống bề ngoài thì phô trương lề luật và hình thức đạo đức, nhưng bên trong lại là tội lỗi. Đó là lối sống của giới Pharisiêu và Luật sĩ, mà Chúa gọi là bọn giả hình. (x. Mt 23, 13-32).
Cách sống bản thân thì muốn Chúa thương xót mình, nhưng mình lại tỏ ra khắt khe dữ tợn đối với người khác. (x. Mt 18, 23-35).
Cách sống tránh né để khỏi phải cứu giúp người đau khổ như thầy tư tế và thầy lêvi xưa. (x. Lc 10, 29-37).
8. Nội tâm của tôi muốn sáng, muốn mạnh, thì không tránh được những cuộc chiến đấu gay go. Tôi phải khiêm tốn nhận mình yếu đuối, luôn cần đến Lòng Thương Xót Chúa cứu độ. Nội tâm như vậy luôn cần biết trở về với Chúa một cách khiêm tốn và phó thác. 9. Điều thứ hai là không những nội tâm tôi phải tránh tội lỗi, mà còn cần phải có lửa tình yêu Chúa cháy rực. Lửa tình yêu Chúa sẽ cháy lên trong nội tâm tôi, khi chính Chúa đốt lên trong tôi. Chúa sẽ chỉ đốt lên lửa đó trong những nội tâm cầu nguyện với tinh thần khó nghèo và phó thác. Chúa sẽ chỉ đốt lên lửa đó trong những nội tâm quyết bước theo Chúa trên con đường Thánh Giá, từ bỏ mình, để đi tìm những con chiên lạc, để chia sẻ nỗi khổ đau của người nghèo, để hy sinh cứu họ, dù phải mất cả mạng sống mình. Lửa tình yêu Chúa đang là một vấn đề lớn đói với những người muốn sống nội tâm tại Việt Nam hôm nay. 10. Điều thứ ba là nội tâm tôi phải thực sự chắc chắn mình được Chúa sai làm gì, để loan báo Tin Mừng, nhất là trong hoàn cảnh phức tạp. Thú thực là trong hoàn cảnh phức tạp như hiện nay, khi tôi muốn làm bất cứ việc gì có tính cách khác thường trong việc Loan Báo Tin Mừng, thì tôi luôn tự hỏi mình: Tôi có được Chúa sai đi làm việc đó không? Khi tôi chắc chắn là Chúa sai tôi làm, thì tôi xin vâng. Xin vâng của tôi tìm được sức mạnh và hứng thú từ nhận thức mình được Chúa sai làm việc đó. Tôi cậy vào Chúa, Đấng sai tôi đi. Chứ không tin vào những phương tiện và tài năng của tôi. 11. Tôi lên đường làm việc Chúa trao một cách đơn sơ. Chúa bảo các môn đệ được sai đi xưa “Đừng mang gì theo”. (Mc 6, 8). Nghĩa là tôi phải giữ tinh thần nghèo khó, khiêm nhường. Chúa dạy các môn đệ được sai đi xưa là “Hãy vào nhà người ta”. (Mc 6, 10). Nghĩa là Chúa dạy tôi hãy có những gặp gỡ nhỏ, thân mật. Chúa dạy các môn đệ được sai đi là “Hãy kêu gọi sám hối, và trừ quỷ”. (Mc 6, 12-13). Nghĩa là Chúa dạy tôi hãy ưu tiên giúp cho người ta biết tránh tội và các hình thức xấu. 12. Tôi thấy làm việc lành một cách đơn sơ như vừa tả theo lời Chúa dạy, có thể sẽ không hợp với cách suy nghĩ của một số phong trào hoạt động tôn giáo hướng ngoại, thích giàu sang, hoành tráng, ồn ào. Nhưng tôi vẫn tin làm theo Phúc Âm là làm đúng. Tin như thế có thể là đi ngược lại một số khuynh hướng. Do vậy mà nhiều khi sống nội tâm theo ý Chúa là một chọn lựa không luôn dễ. 13. Tới đây tôi tạm có kết luận này: Sự tôi gặp được tiếng vọng của những nội tâm ngoài Hội Thánh Công Giáo đã giúp tôi khám phá thấy những sự lạ lùng Chúa làm. Để rồi, tôi cùng với họ ra đi. Không như người trên, không như người xa cách, nhưng như người anh em cùng nhau đi tìm phục vụ, chia sẻ. 14. Đi đâu, tôi cũng nghe thấy tiếng vọng từ những nội tâm, đó là một món quà cao quý Chúa ban tặng. Tôi phải khiêm nhường tạ ơn Chúa. Nếu tôi không đón nhận, hoặc dửng dưng coi thường, để nội tâm của chính mình trở thành trống vắng, không có tiếng vọng, thì khốn cho tôi và hại cho Hội Thánh của tôi. Tôi tha thiết cầu xin Đức Mẹ Maria giúp chúng ta luôn có một nội tâm giống như nội tâm của Mẹ. Tôi tin những nội tâm ấy sẽ được Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ của Chúa tại Việt Nam hôm nay. Long Xuyên, 27.8.2015
Một trong những điều quan trọng Chúa luôn dạy tôi, là hãy nhận thức đúng về mình. Nhận thức đúng về mình là điều quá khó. Dù có thiện chí, tôi thường vẫn nhận thức sai về mình. Bởi vì đã là con người, thì ai cũng là một vũ trụ. Vũ trụ đó nhỏ, nhưng lại rất bao la. Vũ trụ đó coi như dễ thấy, nhưng thực sự rất sâu thẳm. Vũ trụ đó có vẻ như dò được, nhưng cũng có chiều kích thiêng liêng không thể nào khám phá nổi. Người nào cũng có những cái chung của con người. Người nào cũng có thêm những cái riêng của cá nhân mình. 2. Tôi được may mắn học nhiều về con người. Tôi học ở cuộc sống, ở văn hoá, ở khoa học, ở triết học, ở tôn giáo. Dầu vậy, thú thực là những điều tôi biết về con người đến nay vẫn rất giới hạn. Biết một mà chẳng biết mười. Ngay về chính con người của tôi, tôi cũng chỉ biết giới hạn. Trong giới hạn đó, tôi chắc chắn có những sự thực quan trọng. Bởi vì chính Chúa đã dạy tôi. Những sự thực đó đã và đang giúp tôi sống một cách có ý nghĩa trên đường phụng thờ Chúa và phục vụ Hội Thánh, Quê Hương, đồng bào của tôi. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ vài sự thực, mà tôi tha thiết gắn bó hơn cả.
3. Sự thực thứ nhất là tôi luôn phải phấn đấu và cần được Chúa cứu, vì tôi là kẻ tội lỗi, rất yếu đuối. Càng sống lâu, tôi càng cảm nghiệm thấy mình yếu đuối mong manh về mặt đạo đức. Tôi không ngừng chiến đấu trong nội tâm, để chọn sự thiện. Nhưng dù hết sức cố gắng, tôi thấy cuộc chiến nội tâm không luôn dễ dàng. Tôi cảm nghiệm thấm thía những lời sau đây, mà thánh tông đồ Phaolô đã viết về bản thân: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam cầm tôi trong luật của sự tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi. Tôi thấy tôi là một người khốn nạn. Ai giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,18-25). 4. Thánh Phaolô nói thế như nói thay tôi. Nhìn về mình, tôi thấy suốt đời tôi là cuộc chiến đấu kéo dài. Cuộc chiến đấu nội tâm trong tôi là ác liệt và luôn cam go. Nó không hề biến mất do tuổi tác, hoặc nhờ những phát triển của khoa học, kinh tế, chính trị, văn hoá và văn minh. Phấn đấu với những cơn đau không dễ chút nào. Tuy nhiên, nhờ những cuộc chiến đấu ấy, mà tôi nên người. Tôi không chiến đấu một mình, nhưng tôi chiến đấu cùng với Đức Giêsu Kitô. Được Đức Giêsu Kitô luôn ở trong tôi, để cứu tôi, đó là một hạnh phúc, mà tôi phải tỉnh thức đón nhận và cộng tác. 5. Nhận thức mình là kẻ tội lỗi, yếu đuối, phải phấn đấu và cần được Chúa cứu, đó là nhận thức đúng của kẻ sống đức tin. Nhận thức đó đã và đang giúp tôi luôn biết bắt đầu và bắt đầu lại từng ngày, từng giờ. 6. Sự thực thứ hai là tôi luôn phải tìm tòi cách tôi phải cộng tác với Chúa Giêsu trong việc nhập thể, để cứu nhân loại. Cuộc nhập thể là việc của Con Thiên Chúa. Nhập thể đó đã được thực hiện một cách hết sức khiêm nhường. Lời lẽ sau đây của thánh tông đồ Phaolô là một diễn tả rất cảm động: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,6-8). 7. Như vậy, nhập thể của Con Thiên Chúa là trở nên nô lệ và sau cùng là vâng lời chịu chết trên Thập Giá. Mục đích là để cứu chuộc loài người, vì thương xót loài người. Đó là sự thực. 8. Còn tôi, khi nói rằng mình bước theo Chúa Giêsu nhập thể để cứu đời, tôi có tìm cách thích hợp với sự thực đó không? Từ nhận thức đến hành động, từ chủ trương đến lối sống, nếu tôi tìm quyền lực, với hào quang chiến thắng, với địa vị ngồi trên của người cai trị, với thái độ xa cách đám dân nghèo khổ, với thói quen hưởng thụ, thì không chừng tôi là người phản Tin Mừng. Tôi phải hết sức tránh cảnh biến chất đó. 9. Hiện giờ, đang khi xuất hiện phong trào: “Sống nghèo, lo cho người nghèo”, như Chúa Cứu Thế xưa, thì lại phát triển phong trào “đấu tranh lấy lại và lấy thêm các thứ quyền lực cho cơ chế tôn giáo mình, theo hướng tục hoá tôn giáo” Tình hình đó khiến tôi phải tỉnh thức và khôn ngoan trong mọi chọn lựa mục vụ và truyền giáo. 10. Tới đây, tôi nhớ tới một phong trào mới xuất hiện, đó là phong trào kể lại. Phong trào này chủ yếu là khuyến khích các người theo đạo kể lại những gì đã khiến họ tìm đến Chúa. Hầu như tất cả đều kể lại là họ tìm về Chúa, nhờ được Chúa đã thương họ, đã gặp họ, đã gọi họ, đã cứu họ, qua những biến cố và qua những con người tốt đến với họ. 11. Qua những gì họ kể lại, tôi thấy đức tin không đến với họ qua những lớp giải thích đạo, mà qua những chứng nhân. Thời nay là thời của chứng nhân. 12. Cũng qua những gì họ kể lại, tôi thấy tôi phải rất tế nhị trong việc phán đoán và đánh giá những con người về phương diện đạo đức. Tôi thấy Chúa giàu lòng thương xót đang làm nhiều sự lạ lùng nơi những người, mà thiện chí chỉ còn như ngọn đèn leo lét, để họ có những bắt đầu tốt cho cuộc đời họ, ngay đời này và nhất là đời sau. 13. Hôm nay là ngày hạnh phúc của tôi. Bởi vì hôm nay Chúa đến thăm tôi, Chúa cho tôi nhìn rõ hơn hai sự thực quan trọng có sức dẫn đàng chỉ lối cho tôi. Ngay một sự tôi viết được bài chia sẻ này trong tình trạng đau yếu già nua, đã là một ơn cao quý Chúa ban cho tôi. Với chia sẻ này, tôi cũng là người kể lại. Kể lại của một người già vẫn mang tâm tình gởi gắm. Gởi gắm tha thiết nhất của tôi là hãy tìm về với Chúa, hãy trung thành vâng theo ý Chúa, hãy tuyệt đối tin Chúa là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót. Nhờ đó, chúng ta sẽ biết yêu thương phục vụ con người. Chúng ta sẽ mất rất nhiều, nếu chúng ta không vâng nghe Lời Chúa. Hãy khiêm nhường và khiêm nhường. Long Xuyên, ngày 4.9.2015
Bùi-Tuần 1347: Bên Mẹ Maria tôi gặp gỡ Chúa Giêsu 08-09-2015
Từ nhỏ đến bây giờ, suốt gần 90 năm, tôi vẫn có thói quen sống bên Mẹ Maria. Sống bên Mẹ, tôi cảm thấy an tâm, hạnh phúc. Tôi thường nói với Mẹ bằng Kinh Mân Côi. Đơn sơ thế thôi. Như trẻ thơ, tôi cũng thường kể cho Mẹ nghe những mong muốn của tôi. Mong muốn thì nhiều. Có những mong muốn ngây thơ. Đôi khi cũng có những mong muốn dại khờ. 2. Vì yêu thương, Mẹ giúp tôi dần dần biết khát khao điều đáng khát khao nhất, đó là khao khát gặp gỡ Chúa Giêsu. Khao khát ấy được tôi cảm nghiệm như những cơn đói, cơn khát, cơn bồi hồi, cơn xao xuyến. Tôi cảm thấy mình bần cùng, nghèo túng, mong manh. Tôi cảm thấy mình cô đơn, bơ vơ trong chuyến đi về cõi sau, một chuyến đi đầy trắc trở và có những bất ngờ nguy hiểm. Tôi cần được Chúa cứu. Tôi khao khát gặp Chúa Giêsu. Bởi vì tôi được Mẹ kể về Chúa Giêsu, qua các kinh đọc, qua Lời Chúa, qua các bậc Thánh. Khao khát của tôi trở thành cầu nguyện và đợi chờ. 3. Trong lúc không ngờ, Chúa Giêsu đã đến với tôi. Chúa Giêsu đến bằng nhiều cách khác nhau, trong những giờ phút khác nhau, dưới những hình thức khác nhau. Chúa đến và cho tôi biết Người đến chỉ vì tôi. 4. Chúa đến với tôi như một cái nhìn yêu thương, như một câu hỏi thăm âu yếm. Chúa muốn tôi trả lời Chúa. Câu trả lời tôi ưa thích nhất là: “Chúa là Đấng cứu thế. Chúa đến để cứu con”. Mẹ dạy tôi trả lời như thế. Nhìn Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, đã là tốt. Nhưng còn phải tin vững vàng như thế nữa. Tin vững vàng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế đã là rất tốt. Nhưng còn phải xin theo Chúa nữa. Tin Chúa Giêsu và xin theo Chúa Giêsu, đó là điều Mẹ Maria đã không ngừng giúp tôi. Dưới đây là vắn tắt điều Mẹ dạy tôi. 5. Tôi thấy tôi chỉ tin và theo Chúa Giêsu một cách chân thành, khi tôi thực sự thấy mình tội lỗi, phải cần được Chúa cứu, và khi tôi thực sự khao khát sự sống thánh thiện của Chúa, phải cần được Chúa chia sẻ cho. Thời Chúa Giêsu biết bao người Do Thái đã được nhìn thấy Chúa Giêsu, đã từng được ăn uống với Người. Nhưng họ đã không tin Người, đã không theo Người. Lý do là họ không nhìn nhận mình nghèo túng về đàng thiêng liêng. Nhất là vì thái độ kiêu căng của họ, nên họ không được Chúa Cha dẫn họ tới Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã có lần khẳng định sự tin vào Người là do ơn Chúa Cha ban cho. (x. Mt 16, 17). 6. Còn theo Chúa Giêsu lại là một việc không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu là bỏ lối sống cũ, mà theo lối sống mới. “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ chính mình, vác Thánh Giá mình mà theo”. (Mt 16, 24). 7. Để theo Chúa, Mẹ dạy tôi về tình hình hiện nay. Ngay lúc này, tôi nghe nhiều cuộc buôn súng, buôn người xảy ra một cách ghê gớm, nhiều tội ác bùng phát một cách dã man, nhiều cuộc tan vỡ tiếp nối nhau một cách thảm khốc trong nhiều gia đình, , những cuộc giết chóc, tự tử, lừa dối trở thành bình thường. Trước tình hình này, tôi được khuyên là nên tự ý từ bỏ vài điều tôi được quyền hưởng thụ, để xin Chúa thương cứu gỡ tình hình đen tối đó. Nhưng tôi đâu có từ bỏ một cách dễ dàng! Tôi yếu lắm. Lúc này, tôi đang trong cơn đau đớn do nhiều bệnh tật. Tôi được khuyên là nên vác Thánh Giá đó một cách vui vẻ, để đền tội thay cho nhiều người. Nhưng tôi đâu có vui vác Thánh Giá đó của tôi! Tôi yếu lắm. Lúc này, tôi bước theo Chúa Giêsu trong các hội nghị, trong các cuộc tĩnh tâm, trên lý thuyết tôi hợp ý với Người trong những đớn đau Người chịu. Nhưng khi Chúa bảo tôi hãy biến đời sống thường ngày của tôi thành của lễ có tình yêu và có hy sinh, thì tôi đâu có sẵn sàng bước theo Chúa! Tôi yếu lắm. 8. Mẹ cho tôi thấy: Tôi rất yếu đuối. Tôi cần được Chúa cứu. Sự yếu đuối của tôi giúp tôi tìm đến những người cũng yếu đuối như tôi, để cảm thông với họ. Tôi đứng chung với họ trong hàng ngũ những người kêu cầu Chúa đến cứu. Mẹ Maria ở bên tôi. 9. Trong một lúc không ngờ, Chúa Giê su đã đến với chúng tôi. Mẹ dạy tôi hãy tự xưng với Chúa là con chiên lạc. Chúa đã ôm lấy tôi. Tôi sực nhớ tới những lời Chúa phán xưa về con chiên lạc được Chúa tìm về với bao yêu thương. Tôi rất cảm động, nhớ lại lời Chúa phán: “Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. (Lc 15, 7). Tôi biết tôi được cứu nhờ Chúa Giêsu. Người đã chết để cứu tôi. 10. Mẹ cho tôi nhìn mình như người được mặc áo trắng, mà sách Khải Huyền đã nói tới: “Họ sẽ giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên”. (Kh 7, 14). Mẹ khẳng định: Tôi thuộc về loại người được cứu, mà Thánh Phêrô quả quyết là nhờ máu Chúa Giêsu: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô”. (1Pr 1, 29). 11. Tới đây, tôi thấy Mẹ Maria đã luôn ở bên tôi. Mẹ giúp tôi. Sự giúp đỡ của Mẹ không hệ tại ở lời Mẹ nói và việc Mẹ làm, mà hệ tại ở sự Mẹ hoạt động một cách sâu xa trong trái tim tôi, để tôi trở nên mềm mại, sẵn sàng đặt mình trong Chúa. Nhờ vậy, tôi hiện diện trước Chúa, nhìn lên Chúa, chăm chú và đợi chờ ở tình yêu Chúa. Tôi cảm thấy mình được yêu thương. Tình yêu của Chúa là cứu độ. Hạnh phúc của tôi là được vâng theo ý Chúa. Tôi cảm thấy nghèo hèn, tất cả những gì tôi nhận được đều do Chúa ban. Tôi không muốn làm gì cho Chúa, mà chỉ muốn để mình được Chúa làm theo Thánh Ý Người. “Này con là tôi tớ Chúa, con xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1, 38). Tôi hết lòng cảm tạ Chúa. 12. Để kết, tôi không thể không nói lên nỗi lòng của tôi về Mẹ, trước những gì đã xảy ra ở Fatima, ngày 13 tháng 10 năm 1917. Tháng 10 năm ấy, Mẹ Maria đã cảnh báo sẽ có thảm họa ghê gớm xảy ra cho Hội Thánh và thế giới, nếu không nghe lời Mẹ mà sám hối. Hôm nay, bên Mẹ Maria, tôi được nhắc nhở sứ điệp quan trọng đó. Chỉ Chúa mới cứu được chúng ta. Tình hình hiện nay là nghiêm trọng và nguy hiểm. Long Xuyên, ngày 8.9.2015
Bùi-Tuần 1348: Nguy cơ cực đoan đang đến gần 14-09-2015
“... Một trong những điều tôi lo cho tôi và Hội Thánh tại Việt Nam của tôi là đừng bao giờ cũng trở thành cực đoan, coi cực đoan là một cách bảo vệ đạo và truyền bá đạo...” 1. Có lần, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với tôi: “Nguy cơ lớn nhất là Hồi giáo cực đoan”. Ngài nói câu ấy đã gần 40 năm trước đây. Lúc đó, tôi thấy nguy cơ mà ngài nói tiên tri còn rất xa. Nhưng nay, tôi thấy nguy cơ đó đang đến gần rồi. 2. Trước đây nguy cơ đó đến bằng những bước nhỏ. Nay nguy cơ đó đến bằng nhiều bước lớn. 3. Mấy ngày nay, hầu như các nước Âu Châu đều đồng thanh nói lên nỗi sợ của mình trước làn sóng di cư ồ ạt từ nhiều nước Hồi Giáo đang lan tới. Nỗi sợ của họ được biểu lộ rõ trên những biểu ngữ chống Hồi Giáo cực đoan trà trộn vào làn sóng di cư. Nỗi sợ được nói rõ là Hồi giáo cực đoan sẽ giết chết Âu Châu. Nỗi sợ của họ không phải là không có nền tảng. Bởi vì họ đã được thông tin thường ngày về những gì mà nhóm Hồi giáo cực đoan tự xưng là Nhà nước Hồi giáo đã và đang thực hiện tại những nơi họ lấn chiếm. 4. Chuyện Hồi giáo cực đoan xem ra đang trở thành nỗi lo lớn cho nhiều nước và nhiều tôn giáo. Khó khăn xem ra càng ngày càng phức tạp, khó lường. 5. Riêng tôi, tôi nghĩ phản ứng của tôi phải hợp với Phúc âm. Nếu tôi vô cảm, thì phản ứng đó chắc chắn là sai bác ái và trách nhiệm liên đới. Nếu tôi giận dữ, báo thù, thì phản ứng đó cũng không hợp với Phúc âm. Nếu tôi chủ trương dùng căm ghét để chống lại căm ghét thì phản ứng đó cũng không được Chúa chúc lành. 6. Vậy phản ứng của tôi là gắn bó nhiều hơn với Chúa Giêsu. Tôi luôn luôn theo Chúa Giêsu. “Người là đường là sự thực và là sự sống” (Ga 14, 16). Chúa Giêsu của tôi đã đi con đường khiêm tốn, nghèo nàn, từ bỏ và hy sinh (x. Ga 10, 11-18). Tôi cũng phải vậy. Chúa Giêsu của tôi đã chọn khôn ngoan của thập giá. “Vinh dự của chúng ta là thập giá đức Kitô. Nơi người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (x. Gl 6, 14). Tôi cũng phải như vậy. 7. Tôi chọn hòa bình. Hòa bình mà tôi xây dựng là hòa bình của Chúa. Hòa bình đó được mô tả bằng những nét sau đây trong kinh hòa bình của thánh Phanxicô. Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục Ðem an hòa vào nơi tranh chấp, Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm. Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình. 8. Một trong những điều tôi lo cho tôi và Hội Thánh tại Việt Nam của tôi là đừng bao giờ cũng trở thành cực đoan, coi cực đoan là một cách bảo vệ đạo và truyền bá đạo. 9. Hiện giờ và mãi mãi sau này, tôi vâng lời thánh Phaolô mà luôn luôn cảm tạ Chúa (x. Eph 5, 20). Tôi cảm tạ Chúa, cả những lúc bị đau đớn, bởi vì cả trong những đau đớn nhất, tôi vẫn được Chúa ban cho đức tin, đức cậy, và đức ái luôn bền vững trong tôi. Đức tin ấy, đức cậy đó, đức mến đó là công trình của Đức Kitô trong tôi. (x 1Tx 1, 2-3). Đó là cách tôi góp phần cải tạo tình hình, bảo vệ Hội Thánh. 10. Hiện giờ và mãi mãi sau này, tôi sẽ không ngừng phục vụ yêu thương, cho dù phải vượt qua nhiều đau đớn khó khăn. Thiết tưởng đó là cũng cách tích cực tôi đối phó lại với lực lượng phá hoại hòa bình và đức tin. 11. Hiện giờ và mãi mãi, tôi tin vào Lời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.” (Ga 14, 27). Bình an mà tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, được tôi cảm thấy như một đời sống nội tâm sống động, để như dụng cụ bình an Chúa dùng, sẽ góp phần xây dựng Nước Chúa, làm chứng cho Chúa là tình yêu thương xót. 12. Hiện giờ hơn bao giờ hết, tôi sốt sắng vâng lời Đức Mẹ nhắn nhủ tại Fatima. Sám hối, tôn sùng Trái Tim Mẹ, cầu nguyện kinh Mân Côi, những việc đạo đức ấy sẽ góp phần tránh cho thế giới khỏi những đại họa khủng khiếp do tội lỗi gây nên. Tội đang lộng hành khắp nơi. 13. Hiện giờ hơn bao giờ hết, tôi tích cực hiệp thông với Đức Thánh Cha trong việc xây dựng hòa bình, hòa giải trên thế giới nói chung, và tại Việt Nam nói riêng. 14. Hiện giờ và hơn bao giờ hết, tôi phải vâng lời Chúa, mà tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Bởi vì tình hình là trầm trọng và nguy hiểm. Tội lỗi là từ mọi phía trên trái đất này, chứ không phải chỉ từ phía Hồi Giáo cực đoan. Tội hiện nay đang lộ hình quỷ dữ hết sức cực đoan. Long Xuyên, ngày 14.9.2015
Đức Hồng Y Bernadin Gantin, bộ trưởng Bộ Giám mục, khuyên tôi: “Cai quản thì cần thấy trước. Phục vụ cũng rất cần thấy trước”. Lời khuyên “Cần thấy trước” của Đức Hồng Y được tôi đón nhận trong ánh sáng của lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21, 36). 2. Tôi hết sức thực hiện lời khuyên “Cần thấy trước” trong những năm còn tại chức và cả trong thời gian về hưu hiện giờ. Tôi thấy việc thực hiện “Cần thấy trước” có ảnh hưởng nhiều đến mục vụ, nhất là đến việc truyền giáo. 3. Để góp phần nào vào việc truyền giáo nói chung và ngày cầu nguyện cho việc rao giảng Tin Mừng sắp tới nói riêng, hôm nay tôi xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm của tôi về “Cần thấy trước”. Tôi thấy trước những gì? 4. Khi tôi vâng lãnh nhận chức Giám mục, tôi nhận thức sâu sắc mình rất yếu đuối về mọi mặt, rất cần được Chúa cứu. Tôi cậy tin vào lòng thương xót Chúa. Tôi nâng tâm hồn lên với Chúa. Và thực Chúa đã cứu tôi. Tôi cảm thấy hạnh phúc. Từ kinh nghiệm bản thân đó, tôi nhìn thấy việc cần thiết tôi phải làm trong mục vụ và truyền giáo, đó là “Hãy nâng tâm hồn lên”. 5. “Hãy nâng tâm hồn lên”, lời kêu gọi ấy trong Phụng vụ Thánh lễ đã trở thành lời kêu gọi mà tôi nhắn gửi đến những người tôi gặp, tới đoàn chiên, tới mọi đồng bào thân yêu của tôi. Nhắn gửi và ra sức làm mọi cách để thực hiện lời mình nhắn gửi, là con đường mục vụ và truyền giáo của tôi. Nâng tâm hồn lên là vươn tới những giá trị bền vững, là muốn thoát khỏi những xiềng xích thói hư, tật xấu, là bay vào bầu trời vui mừng và hy vọng, là ước mong được làm con Chúa, là khao khát được Chúa chia sẻ cho sự sống của Chúa Tình yêu. 6. Tôi thấy trước việc nâng tâm hồn là như thế. Tôi cũng thấy trước việc nâng tâm hồn lên như thế sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Nếu tâm hồn tôi ví như con chim, mà chân bị trói, cánh bị buộc vào những khối đá, do biết bao áp lực xấu gây nên, thì nó không sao bay lên được. Tôi thấy trước rất rõ thảm cảnh đó. Tôi cũng thấy trước khả năng tâm hồn tôi cất cánh bay lên được tuy yếu, nhưng sẽ phát triển tốt, nhờ biết phấn đấu và cậy tin vào Chúa. Nhưng phấn đấu đâu là việc dễ. Tin cậy vào Chúa đâu là việc hễ muốn là được. 7. Nhờ những điều biết trước trên đây, tôi thấy tôi lo làm mục vụ và truyền giáo cho người khác thì hãy lo làm mục vụ và truyền giáo cho chính mình trước. Thấy trước việc quan trọng đó, tôi cầu xin Chúa giúp tôi thay đổi chính mình tôi. Chúa đã thương nhận lời, Người thay đổi tôi nhiều lắm. Nhất là Người làm mới lại hai khả năng sau đây trong tôi. 8. Khả năng thứ nhất là khả năng nhìn người khác một cách bao dung tích cực. Nhìn một người, dù họ là ai, tôi vẫn thấy họ là người có ơn gọi. Họ được Chúa gọi đi xa hơn, vươn lên cao hơn. Nhìn một người tội lỗi, tôi vẫn thấy họ là người cần được xót thương, và thật sự họ được Chúa tìm về với tất cả tình yêu thương. Nhìn một người khổ đau, tôi vẫn thấy Chúa Giêsu nơi họ. Chúa nơi họ gọi tôi hãy làm việc bác ái cho họ, vì làm cho họ là làm cho chính Chúa. 9. Khả năng thứ hai là khả năng phục vụ yêu thương. Phục vụ yêu thương, mà tôi cố gắng thực hiện, là làm cho con người biết nâng tâm hồn mình lên, một cách tự do và với tình yêu. Tự do và yêu thương là hai giá trị cao cả. Tự do không phải là đòi hỏi và tranh đấu cho mình, mà là cho người khác. Yêu thương không phải là hưởng thụ, mà là hy sinh cho người khác. Đã lâu rồi, tôi lâm bệnh nặng, bị giải phẫu tại một bệnh viện bên Đức. Đang lúc tôi đau đớn, mệt mỏi và cảm thấy cô đơn, thì một giáo dân người Đức đến thăm. Họ trao vào tay tôi một bông hồng và nói: “Cha ơi, hôm nay là ngày thứ sáu tuần thánh”. Chỉ thế thôi, tôi như được yêu thương, và được tự do nội tâm trong mình, để hướng về Chúa một cách lạc quan hạnh phúc. Kinh nghiệm bản thân đó đã giúp tôi nhiều trong mục vụ và truyền giáo. Người giáo dân đáng yêu đó đã làm gương cho tôi. Họ không nói nhiều. Họ ở bên tôi chỉ vài phút. Nhưng họ có khả năng truyền sang tôi tình yêu và sự tự do nội tâm của họ, để tôi tự mình nâng tâm hồn mình lên với Chúa. 10. Đến đây, tôi thấy trước một điều rất đáng sợ, đó là: Sự nâng tâm hồn lên của đoàn chiên và của đồng bào cũng phần nào tuỳ thuộc vào sự nâng tâm hồn lên nơi chính bản thân tôi. Nếu tôi nâng tâm hồn của chính mình lên, tôi sẽ thấy hoa trái đạo đức nảy sinh dần dần do Chúa Thánh Thần ban xuống. Hoa trái đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tin, hiền hoà, tiết độ” (Gal 5, 22-23). Với những hoa trái đó, tôi sẽ sống các mối tương quan một cách tốt nhất, nhờ vậy mà tôi giúp nâng tâm hồn người khác lên. 11. Hằng ngày, cho đến bây giờ tôi vẫn nhận được nhiều thông tin về sự nâng tâm hồn lên tại nhiều nơi trong nước và ngoài nước. Những thông tin đó cho tôi thấy phải rất kiên nhẫn và rất tế nhị trong việc nâng tâm hồn người khác lên. Đó là chặng đường dài, khởi sự từ những việc nhỏ, âm thầm. Như lời xin vâng khiêm tốn của Đức Mẹ xưa. Một vài việc nhỏ, đơn sơ, đầy tình thương, dù kín đáo, cũng sẽ là hạt giống tốt cho việc nâng tâm hồn lên. Đơn sơ, nhẹ nhàng mà có sức thu hút, hơn hoành tráng đầy nghi thức và hứa hẹn. Nhỏ bé mà đi sâu vào thực tế cuộc sống thì hơn là to lớn mà chỉ trên lý thuyết suông. Thực tế tại Việt Nam hôm nay khuyên chúng ta như vậy. Nên thấy trước. 12. Để tạm kết, tôi xin nói thêm điều này, đó là việc nâng tâm hồn của mình lên luôn phải đi liền với Thánh Giá. Chính vì Thánh Giá mà nhiều khi tôi sợ nâng tâm hồn mình lên. Nhưng được Chúa cho biết Thánh Giá là nơi thể hiện được một cách tốt nhất tình yêu xót thương cứu độ, nên tôi phó thác mình cho Chúa. Nâng tâm hồn lên với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, đó là vinh dự, là hạnh phúc và là ơn gọi của tôi. Xin hết lòng cảm tạ Chúa đã cho tôi được thấy trước ơn cao quý ấy. Xin thân ái cảm ơn những ai đã giúp đỡ tôi trong mọi việc thấy trước. Xin tiếp tục giúp tôi, nhất là để tôi được thấy trước những ngày cuối đời của tôi. Long Xuyên, ngày 19.9.2015
Trong đời sống đạo và truyền đạo, tôi thường đặt ra cho tôi những câu hỏi, giúp tôi có những nhận định rõ để tìm những hướng đi đúng. Thí dụ ba câu hỏi sau đây: Tôi mong chờ Ðức Kitô đến. Nhưng đâu là dấu chỉ sự Ngài đến, để tôi cộng tác vào dấu chỉ ấy. Tôi muốn đón nhận Ðức Kitô. Nhưng đâu là dấu chỉ khả năng đón nhận Ngài, để tôi chăm sóc dấu chỉ ấy. Tôi muốn làm vinh danh Chúa. Nhưng đâu là dấu chỉ vinh danh Ngài, để tôi phát huy dấu chỉ ấy. Những thao thức trên đây là của tôi, nhưng là do Chúa. Bởi vì chính từ hang đá Bêlem mà tôi đã nhận được cả những câu hỏi lẫn những câu trả lời. Dấu chỉ Chúa đến phải tìm nơi những kẻ bị loại trừ, những kẻ nghèo túng Ðức Mẹ và thánh Giuse thuộc đám dân nghèo, những ngày đó đã không được nhà nào vùng Bêlem đón nhận. Các Ngài như bị xã hội loại trừ. Thế nhưng, các kẻ bị loại trừ này lại được Chúa chọn, để nuôi dưỡng, bảo vệ Ðấng Cứu Thế, và cũng che giấu sự vinh quang chói chang của bản tính Thiên Chúa trong hài nhi Giêsu. Nhóm mục đồng đêm đó trong cánh đồng Bêlem là những kẻ nghèo, bị gắn liền cuộc sống mình với đoàn vật, phải xa bầu khí gia đình, nhà trường, đền thờ và xã hội. Họ như bị cuộc sống loại trừ. Thế nhưng, các kẻ bị loại trừ này lại được các thiên thần loan báo tin mừng Chúa giáng sinh. Họ đã gặp được Ðấng Cứu Thế, và đã trở thành những kẻ được sai đi gieo rắc hạt giống Phúc Âm trong dân Israel. Ba vua, đối với dân Israel, là những kẻ thuộc dân tộc khác, tôn giáo khác. Vì thế, họ bị pháp chế Israel loại trừ. Họ nghèo về quyền lợi, về tình liên đới. Thế nhưng, các kẻ bị loại trừ này đã nắm bắt được tín hiệu về Ðấng Cứu Thế, do ngôi sao lạ loan đi. Họ đã gặp được hài nhi Giêsu, và đã trở thành những tông đồ của Chúa giữa dân ngoại. Tin mừng của những kẻ nghèo và bị loại trừ này là họ thấy mình, tuy rất bất xứng, nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt, đã được gần gũi với một vị giáng sinh hiền từ, khiêm tốn, đơn sơ, đã được ơn bình an chan chứa trong tâm hồn. Tin mừng của họ là cảm nghiệm được một thứ hạnh phúc âm thầm sâu lắng có sức thăng tiến họ trong một cái nhìn mới về đời mình. Họ nhận ra đó là dấu chỉ của sự Chúa đến viếng thăm họ, và cứu độ họ. Có thể nói tình liên đới của Chúa với những kẻ nghèo, những kẻ bị loại trừ, là yếu tố nổi bật trong biến cố Chúa giáng sinh. Tình liên đới này sẽ được Ðức Kitô nêu cao một cách công khai chính thức như một dấu chỉ sự Ðấng Cứu Thế đến. Trong bài giảng tại hội đường Nagiarét, Ngài đọc lời tiên tri Isaia: “Chúa đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”, rồi Ngài quả quyết lời tiên tri ấy được ứng nghiệm nơi Ngài (Lc 4,16-21). Ðức Kitô cũng đã gợi ý cho Gioan Baotixita để ý đến tình liên đới của Ðức Kitô với những kẻ nghèo hèn, những kẻ bị loại trừ, để căn cứ vào dấu chỉ đó mà nhận biết Ðức Kitô chính là Ðấng Cứu Thế được sai đến (x. Mt 11,2-5). Ðể dấu chỉ này được chú ý nhiều hơn, Ðức Kitô đã có lần đồng hoá chính mình Ngài với kẻ nghèo khó (x. Mt 25,31-46). Tôi tin lời Chúa. Tôi tin việc Chúa, nên tôi nghĩ rằng: Nếu tôi cũng như cộng đoàn tín hữu của tôi muốn trở thành dấu chỉ sự Ðấng Cứu Thế đến với vùng đất này, thì chúng tôi phải thực hiện tốt tình liên đới với những kẻ nghèo túng, những kẻ bị loại trừ. Ðó là thứ ngôn ngữ Tin Mừng dễ hiểu, và cũng rất hợp với tinh thần Ðức Kitô. Nhưng để có thể thực hiện thực tốt tình liên đới đó, thiết tưởng tôi cần đón Chúa trong tôi. Có nghĩa là trước hết tôi cần có một khả năng đón nhận Ngài. Dấu chỉ khả năng đón nhận Chúa phải tìm nơi tinh thần thơ ấu Tôi nhận thấy điều đó nơi hài nhi Giêsu trong hang đá Bêlem. Hài nhi Giêsu thực sự bé bỏng, thực sự yếu đuối, thực sự nghèo túng. Trong thái độ hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Ðợi chờ mọi sự từ quyền năng Chúa Cha. Phó thác triệt để nơi tình yêu Chúa Cha. Tinh thần thơ ấu thiêng liêng này sẽ còn mãi mãi nơi Ðức Kitô, Ngài sống với tinh thần đó. Ðể rồi, tới một lúc, Ngài nêu cao tinh thần đó như một điều kiện để đón nhận Nước Trời. Ngài nói: “Thầy bảo thực các con, ai không đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước Trời” (Lc 18,17). “Quả thực Thầy bảo các con, nếu các con không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,2). Lời Chúa trên đây thực là kinh khủng. Ngài đưa ra một điều kiện coi quá dễ, nhưng thực rất khó. Thực tế cho thấy: Bao người rất quảng đại trong các hoạt động tôn giáo, rất sâu sắc trong các tư tưởng đạo đức, rất trung thành với các nguyên tắc giáo lý, giáo luật, nhưng lại không có thái độ nội tâm của trẻ nhỏ mà Chúa đòi hỏi. Chỉ thiếu điều đó thôi cũng sẽ là thiếu quá nhiều. Bởi vì, theo như Chúa quả quyết, họ không đón nhận được Nước Trời. Cái thiếu đó không do yếu tố nào áp đặt, cưỡng bức cả. Nó bắt nguồn từ tầng sâu nội tâm. Phải thanh luyện từ đó, để nên giống hài nhi Giêsu, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, hài nhi Giêsu đã mang trọn vẹn thân phận con người bé nhỏ khiêm nhu. Giới thiệu tình thương hơn là khẳng định quyền bính. Tỏ mình yếu đuối muốn được mọi người giúp đỡ hơn là phô trương sức mạnh tự mãn đòi mọi người phải cần đến mình. Bao dung hơn là trừng trị. Cởi mở hơn là khép kín. Trân trọng đối với bất cứ cử chỉ tốt của bất cứ ai. Tôi thấy, khi ai đã đón nhận được Nước Trời nhờ tinh thần thơ ấu theo tiếng gọi của Ðức Kitô, họ sẽ có tự do thực sự, một bản lĩnh mạnh, và khả năng sáng tạo tốt, phản ánh phần nào vẻ đẹp siêu việt của Nước Trời. Nếu tinh thần thơ ấu là dấu chỉ khả năng đón nhận Nước Trời, đón nhận chính Chúa, thì tôi rất lo ngại cho những lối sống đạo và truyền đạo thích phô trương, ưa tự mãn trái nghịch với tinh thần đó. Bởi vì, nếu thiếu tinh thần thơ ấu thiêng liêng, dù ta có được dư luận cho là đạo đức, ta vẫn không có khả năng đón nhận được Nước Trời. Lời Chúa không sai. Tôi tin như vậy. Và như thế ta khó có thể nhận ra cách làm vinh danh Chúa. Dấu chỉ của vinh danh Chúa phải tìm ở tinh thần hiến tế Ðức Kitô ngay từ hang đá Bêlem đã là Ðấng Cứu Thế. “Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhân loại” (Mc 10,49). Ngài hoàn toàn hướng về Chúa Cha và hoàn toàn hướng về nhân loại. Tình mến đối với Chúa Cha và tình thương đối với nhân loại khiến Ngài chấp nhận hy sinh. Ngài dâng mình làm của lễ toàn thiêu. Ngài hiến tế chính mình. Tinh thần hiến tế gồm tình yêu và hy sinh, từ bỏ chính mình, để nhờ đó, sự sống cứu độ thấm dần vào nhân loại. Tinh thần hiến tế ấy không tách rời khỏi sự hiểu biết sâu sắc về tình xót thương vô cùng của Thiên Chúa cũng như sự hiểu biết thấm thía về nỗi khốn khổ của thân phận con người. Những hiểu biết này không đơn thuần chỉ do lý trí, mà cũng do trái tim của Ðấng vừa là người vừa là Thiên Chúa. Với tinh thần hiến tế, ngay từ phút đầu tại hang đá Bêlem, Ngài đã là lời cầu nguyện lặng lẽ trước Thiên Chúa và là một chia sẻ âm thầm những khổ đau yếu đuối của nhân loại. Tên Ngài là Ðấng Cứu Thế. Bản thân Ngài là cứu thế. Bởi Ngài là cứu thế. Mọi việc làm, lời nói, mọi cử chỉ thái độ của Ngài đều nhắm mục đích cứu thế. Và khi nhờ công việc cứu thế của Ngài, nếu duy chỉ được một người ăn năn hối cải, thì cả thiên đàng cũng sẽ vui mừng (x. Lc 15,7). Vinh quang của Chúa là ở sự con người hối cải, trở nên mới. Khi hiểu như vậy, tôi thấy tôi sẽ có thể làm vinh danh Chúa một cách có ý nghĩa, khi tôi hiệp thông tích cực vào tinh thần hiến tế của Ðức Kitô, để góp phần vào công trình cứu thế. Và khi thấy rõ điều đó, tôi có thể lợi dụng được mọi sự xảy ra trong đời thường, kể cả một đời thường đầy những khó khăn, chán chường, đau khổ. Tôi tin rằng sự hiến tế của tôi chẳng đáng gì, nhưng hợp với giá trị hiến tế của Ðức Kitô, nó sẽ có sức cứu độ nơi các linh hồn, góp phần mở rộng vinh danh Thiên Chúa. *** Với những cái nhìn trên đây, hang đá Bêlem giúp trẻ-trung-hoá tâm hồn tôi, để tôi tiếp tục đi theo Ðức Kitô đang cứu độ con người trong lịch sử hôm nay, ngay tại chính nơi này. Long Xuyên, tháng 12/1993