1. Thánh vịnh có một đoạn tôi rất thích. Thích từ lâu, nhưng lúc này càng thích hơn. Vì nó như đoạn riêng cho tuổi già của tôi. “Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, Con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài. Cả lúc con già nua, da mồi tóc bạc, Lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con, Để con tường thuật quyền năng của Chúa Cho thế hệ này được rõ, Và dũng lực của Ngài Cho thế hệ mai sau” (Tv 71,17-18). Khi cầu nguyện đoạn Thánh vịnh này, tôi nhìn xuyên suốt đời tôi. Thời còn trẻ, tôi được Chúa thương dạy dỗ. Lúc về già, tôi vẫn được Chúa dạy dỗ và được Chúa thương giúp nhớ lại. Để tôi rao truyền và tường thuật. Không phải rao truyền và tường thuật bất cứ sự gì. Nhưng chỉ những gì Chúa đã làm cho tôi. Mặc dầu thế, tôi cũng phải có lựa chọn. Lần này lựa chọn của tôi để rao truyền và tường thuật là một việc đạo đức rất nhỏ. 2. Việc rất nhỏ này là đọc một kinh bình dân, rất xưa. Đó là kinh “Lạy Nữ Vương”. Tôi thuộc kinh đó từ còn nhỏ. Tôi đọc kinh đó, mỗi ngày ít là một lần. Nhất là những lúc gặp khó khăn. Những lúc gặp khó khăn, tôi vừa đọc kinh ấy, vừa suy gẫm từng câu, từng lời. Suy gẫm đưa tới cảm nghiệm. Cảm nghiệm thiêng liêng này ví như những khám phá. Những khám phá này chính là những điều Chúa dạy dỗ trong nội tâm tôi. Có những dạy dỗ nhắm vào bản thân riêng tư. Có những dạy dỗ nhắm tới lợi ích chung. Những dạy dỗ loại này tính ra khá nhiều. Dù dạy dỗ thuộc loại nào, tôi cũng muốn rao truyền và tường thuật, như thánh vương Đavít đã gợi ý trong thánh vịnh. Tất nhiên việc tôi rao truyền và tường thuật ở đây sẽ vắn gọn trong một số giới hạn. 3. Ban đầu, tôi đọc lời “Lạy Nữ Vương” như đọc một lời thuộc lòng. Nhưng dần dần, tôi đọc với đôi chút thắc mắc ngây ngô. Tôi nghĩ vẩn vơ lời chào kính đó không do tôi tự phát. Nhưng là lời do Hội Thánh soạn ra. Như vậy, phải chăng đó chỉ là một công thức. Tôi lại nghĩ thêm: Tại sao tôi lại được phúc nói với một Nữ Vương? Nữ Vương là một nhân vật cao xa. Cùng lắm, mình được chào kính Ngài đã là quá đủ. Chứ làm sao Ngài có thể nghe được những khát vọng, những đau buồn, và những phấn đấu nội tâm của tôi. Những thắc mắc đó chỉ thoáng qua, phảng phất. Dần dần chúng biến tan. Tôi được trả lời. Người trả lời là chính Đức Mẹ. Mẹ trả lời không bằng lý lẽ, nhưng bằng tiếp cận. Những tiếp cận này đều vô hình, nhưng rất gần gũi. Tôi cảm được lời “Lạy Nữ Vương” của tôi như những lời chào hồn nhiên nói với Mẹ, Mẹ đến thăm tôi và ở bên tôi. Phải nói Đức Mẹ là Nữ Vương theo một nghĩa đặc biệt. Ngài là Nữ Vương của trái tim tôi. Trong trái tim tôi, Nữ Vương dịu hiền dạy tôi những điều kiện căn bản để tôi nên người, nên con Chúa, nên môn đệ Đức Kitô, nên mục tử được sai đi. Những điều kiện căn bản đó là: “Lắng nghe thánh ý Chúa, thực thi thánh ý Chúa”. Để có được những điều kiện như trên, Nữ Vương của trái tim tôi kêu gọi tôi quan tâm đến cầu nguyện và đón nhận ánh sáng của Chúa. Để có thể đọc được ý Chúa trong các biến cố, để biết phân định hành động nào sẽ dẫn đến Chúa, và hành động nào sẽ dẫn xa Chúa, để biết tính toán nào là do Chúa Thánh Thần soi sáng, tính toán nào không phải do Người, để biết nhận ra trách nhiệm của mình, và biết gánh mọi hậu quả của việc mình làm do ý thức trách nhiệm, để biết lựa chọn những quyết định mang tính cách cụ thể. 4. Như vậy, đối với tôi, Đức Mẹ Nữ Vương là Đấng dạy tôi con đường “Xin Vâng”. Trên con đường đó, tôi phải đi từng bước. Các bước đó là: Mỗi ngày Phải suy gẫm Phúc Âm, Phải ý thức rõ bổn phận của mình, Phải cầu nguyện Chúa Thánh Thần, Phải tham chiếu vào đặc sủng Chúa trao, Phải nắm bắt bề sâu thời sự, Phải noi gương Nữ Vương và các thánh. Xin phép đưa ra một ví dụ. Tôi chọn khẩu hiệu cho đời Giám mục của tôi là: “Điều răn mới”. Tức lời Chúa Giêsu trối lại: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau; các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Điều răn yêu thương luôn là yếu tố căn bản của đạo. Nhưng đối với thời cuộc sau 30/4/1975, nó được coi là một nhu cầu bức xúc. Đức Mẹ Nữ Vương dạy tôi chọn khẩu hiệu đó, như chọn một con đường sống Phúc Âm, khi lịch sử chiến tranh đầy hận thù vừa kết thúc. Đổi hận thù sang yêu thương, thực quá khó. Riêng nơi tôi, thao thức chất thêm cao mỗi ngày. Luôn luôn phải tỉnh thức để phân định. Mọi lựa chọn trên con đường yêu thương đều có thánh giá. 5. Nhưng Đức Mẹ Nữ Vương dạy tôi: Điều cần nhớ khi chọn con đường sống Phúc Âm hợp với thời cuộc khó khăn, không phải là chọn con đường dễ, mà là chọn con đường đúng. Rồi luôn phải can đảm đi trên đó, mặc dù gặp khó khăn này đến khó khăn khác. Qua những điều Nữ Vương Maria dạy dỗ, tôi hiểu Đức Maria là Nữ Vương các tâm hồn. Một Nữ Vương âm thầm trong một vương quốc âm thầm, rộng lớn bao la đầy thương yêu. Nữ Vương các tâm hồn giúp các tâm hồn thực thi ý Chúa, để mở rộng Nước Chúa, và để đi về với Chúa. Nữ Vương luôn dạy tôi là: Biết sống đạo, nhất là biết hướng dẫn sống đạo trong thời đại này, trên Đất Nước này, thì rất cần đức khôn ngoan. Đạo đức mà thôi không đủ. Trí thức mà thôi cũng không đủ. Nhưng phải đạo đức và thông hiểu trong tâm trí khôn ngoan. Xin nhấn mạnh, khôn ngoan nói đây là một nhân đức, một đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban, vì lợi ích chung. Lạy Nữ Vương, xin luôn dạy dỗ, uốn nắn con. Long Xuyên 17-09-2016
1. Ngày 13 tháng 10 năm 2016 này là kỷ niệm 99 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima lần cuối. Lần đầu Đức Mẹ hiện ra ở Fatima là ngày 13 tháng 5 năm 1917. Liên tiếp các tháng sau, cứ ngày 13, Đức Mẹ lại hiện ra ở đó. Ngày 13 tháng 10 cũng năm 1917, Đức Mariaẹ hiện ra, xưng mình là “Đức Mẹ Mân Côi”. 2. Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra là Lucia, Franciscô và Jacinta. Ba trẻ đã qua đời rồi. Sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima cũng đã qua rồi. Nhưng mấy ngày nay, tôi nghe Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy coi những gì Đức Mẹ đã nhắn nhủ ba trẻ ở Fatima cũng chính là những điều Đức Mẹ muốn nhắn nhủ tôi và chúng ta. Để rồi, ngày 13 tháng 10 năm nay, Đức Mẹ cũng gởi sứ điệp của Mẹ cho lịch sử hôm nay đầy những phức tạp và nguy hiểm. Tôi xin vắn gọn. 3. Đức Mẹ cảnh báo là: Nhân loại đang bị lôi cuốn vào đàng tội một cách khủng khiếp. Quá nhiều xúc phạm tới Chúa. Nhiều kẻ tội lỗi không ăn năn sẽ phải sa hoả ngục. Hoả ngục là ngục tù rất kinh khiếp. Những ai bị đốt trong đó sẽ rất đau đớn, kêu la và tuyệt vọng. Và trước đó, sẽ có chiến tranh và đói khát. Hội Thánh sẽ bị bắt bớ. Chết chóc tàn khốc sẽ xảy ra nhiều nơi. 4. Đức Mẹ khuyên nhủ là: Hãy hối cải, đền tội. Hãy cầu nguyện và hy sinh để cứu các linh hồn khỏi tội. Hãy lần chuỗi Mân Côi. Hãy tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ. 5. Tôi thấy những gì Đức Mẹ cảnh báo về tình hình lúc đó, thì cũng đang rất đúng cho tình hình hiện nay. 6. Tôi thấy cảnh xúc phạm đến Chúa hiện nay đang như một nhu cầu điên dại của nhiều người như đã mất tính người. 7. Tôi thấy cảnh hoả ngục không phải biển lửa còn xa, mà là rất gần, có thể là đang trong chính cuộc sống. Lửa hoả ngục là lửa kiêu căng, lửa ghen tương, lửa dâm ô, lửa ham hưởng thụ, lửa vị kỷ, lửa tham lam, lửa gian dối. Các thứ lửa đó thiêu đốt tâm hồn con người, để rồi hoả ngục là trong chính mình, hoả ngục là trong gia đình, hoả ngục là trong cộng đoàn. Con người bị thiêu trong các thứ hoả ngục đó sẽ rất khổ ngay ở đời này. 8. Ra khỏi các thứ hoả ngục đó không là việc dễ. Tôi có cảm tưởng này về tôi, đó là nếu tôi không được Hội Thánh và nhiều người cầu nguyện cho, chắc chắn tôi cũng sẽ rơi vào các thứ hoả ngục hãi hùng đó, và một khi đã rơi vào đó rồi, thì càng cần đến sự cầu nguyện và hy sinh của nhiều người, tôi mới được cứu thoát. 9. Nhận thức trên đây giúp tôi đón nhận những gì Đức Mẹ khuyên nhủ ở Fatima. Đó là hối cải, đền tội, lần chuỗi Mân Côi, tôn sùng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ, và cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn ăn năn trở về với Chúa. 10. Tôi đón nhận, thì việc đầu tiên của đón nhận là khiêm nhường xin Mẹ thương giúp tôi thực thi lời Mẹ dạy, từng bước, từng giây phút, từng hoàn cảnh. Hiện giờ, tôi quá yếu về sức khoẻ thân xác. Đang ngồi mà muốn đứng dậy, tôi phải cố gắng lắm, rất nhiều khi phải nhờ người đỡ vực. Cũng vậy, bước một bước là cả một công trình phải nhờ người khác dắt đi một cách tế nhị. Kinh nghiệm đó cho tôi thấy việc tôi đứng lên được và bước đi được trên đường đạo đức, không thể là chuyện của ý chí, mà chính là chuyện của ơn thánh. 11. Đón nhận ơn thánh và cộng tác vào ơn thánh là những việc của trái tim cầu nguyện. Trái tim cầu nguyện là trái tim hướng về Chúa, trong thái độ kết hợp lòng mình với Chúa Giêsu mà gặp gỡ Chúa Cha. Lúc đó Chúa Thánh Thần sẽ cho tôi phải cầu xin sự gì, cho hợp với ý Chúa Cha. 12. Ở Fatima, Đức Mẹ khuyên các con cái Mẹ hãy năng cầu nguyện kinh Mân Côi. Tôi đã làm như Mẹ dạy. Và đây là một kinh nghiệm của tôi. Tôi đọc kinh Mân Côi như Mẹ dạy, và tôi đọc kinh Mân Côi theo cách, cũng do Mẹ dạy tôi. Khi tôi đọc kinh Mân Côi, tôi dâng lên Mẹ những thánh giá của tôi, và tôi tin Mẹ hiện diện, Mẹ nghe và Mẹ thương tôi. Khi tôi đọc kinh Mân Côi, tôi cũng dâng lên Mẹ những khổ đau của Hội Thánh, của đất nước, của đồng bào, và tôi tin Mẹ sẽ xin Chúa ban cho họ những ủi an cần thiết và ơn cứu độ. Cách, mà Mẹ dạy tôi đọc kinh Mân Côi, như thế chính là một cách Mẹ đào tạo tôi, để tôi biết mến Chúa yêu người, theo gương của Mẹ, nhất là tôi được đào tạo về đức tin. 13. Ở Fatima, Đức Mẹ khuyên các con cái Mẹ hãy tôn sùng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ. Tôi đã làm như Mẹ dạy: Khi tôn sùng Trái tim vẹn sạch Mẹ, tôi được Mẹ dạy là trong mọi thử thách, Mẹ luôn luôn kết hợp với Chúa Giêsu, để trong đau khổ vẫn có ủi an, trong thất vọng vẫn có hy vọng, trong cô đơn vẫn có khích lệ, trong yếu đuối vẫn có sức mạnh, trong thánh giá vẫn có phục sinh. Tất cả đều nhờ có Chúa Giêsu ở cùng. 14. Như vậy, Mẹ dạy tôi là tôi được trở nên đẹp ý Chúa, không phải vì tôi là người tốt, nhưng chính vì Chúa là Đấng tốt lành. 15. Những gì Mẹ Maria đang gợi ý cho tôi về ngày 13 tháng 10 năm ấy và năm nay là một món quà quý, Mẹ ban cho tôi, đứa con bé nhỏ của Mẹ. Xin hết lòng cảm tạ Mẹ. Với món quà này, tôi nhìn những biến chuyển của thời sự trên đất nước và Hội Thánh dấu yêu một cách tin tưởng. Ơn cứu độ sẽ đến từ trên cao. Trái tim Mẹ sẽ thắng. Sự thắng thế của Trái tim người mẹ sẽ rất lạ lùng. Với món quà này, tôi cũng được Mẹ dạy là phải hết sức tỉnh thức, nhất là tỉnh thức trước mưu kế của quỷ dữ satan. Thánh Phêrô quả quyết: “Satan là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi căn xé” (1Pr 5,5). Những con cái Đức Mẹ sẽ bị satan như thú dữ mưu hại. Nhưng Mẹ Maria sẽ thắng nó (Kh 12,17). Tôi tin chắc như vậy. Long Xuyên, ngày 20.9.2016.
1. Trong kinh “Lạy Nữ Vương”, lời “Mẹ nhân lành” tự nhiên đưa hồn tôi vào một tư thế gần gũi thân mật. Chính vì vậy, mà tôi hay dừng lại, để kể lể. Thí dụ tôi hay tỉ tê: - Xưa, Mẹ đã sống giữa nhóm các môn đệ yếu đuối. Người thì chối Chúa. Người thì bán Chúa. Người thì bỏ Chúa để trốn thoát thân. Nhưng Mẹ đã rất nhân lành với họ. Nay, con và bao môn đệ còn yếu đuối hơn họ. Xin Mẹ nhân lành thương đến chúng con, nhất là con. - Xưa, Mẹ đã chứng kiến cảnh bao người tội lỗi đủ mọi giai cấp đạo đời, đã góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Nhưng Mẹ đã rất nhân lành lặng lẽ đau khổ đứng bên chân thánh giá, để lập công cứu họ khỏi án phạt đời đời. Nay, bao người đủ mọi giai cấp đạo đời cũng lỗi lầm không kém. Cả con nữa. Xin Mẹ nhân lành thương đến chúng con. - Xưa, Mẹ đã sống giữa những người nghèo hèn, cô đơn, túng thiếu. Mẹ đã tỏ ra rất nhân lành, bằng thương cảm và chia sẻ cuộc sống nghèo của họ. Nay, con cũng đang sống bên những người dân nghèo, bệnh nạn, cô đơn. Xin Mẹ nhân lành thương đến thăm họ. Xin giúp con và các người thiện chí biết theo gương Mẹ mà biết thương cảm và chia sẻ phần nào số phận của họ. - Xưa, Mẹ đã trải qua cảnh bị loại trừ, bị xua đuổi, phải trốn tránh. Nhưng Mẹ luôn giữ được tâm hồn nhân hậu và thái độ ôn tồn lặng lẽ. Nay, con và bao môn đệ Chúa nhiều khi bị loại trừ, bị nghi ngờ, phải nhục nhã. Xin Mẹ nhân lành thương giúp sức cho chúng con, kẻo chúng con vấp phạm. Tôi kể lể với Mẹ nhân lành, cho lòng mình vơi đi những trăn trở ưu sầu. 2. Một lúc nào đó, thường là bất ngờ, Mẹ nhân lành cho tôi nếm được chút tình yêu nhân lành của Mẹ. Khi sự nếm được đó đến độ cao, nó trở thành tình yêu toả sáng. Nhờ ánh sáng ấy, tôi thấy tình yêu nhân lành của Mẹ gồm ba yếu tố: Một là tình yêu của Chúa dành cho Mẹ. Hai là tình yêu của Mẹ dâng lên Chúa. Ba là tình yêu của Mẹ dành cho tôi và cho mỗi người. Cả ba yếu tố đó làm nên một thực tại. Thực tại này giống như một khối lửa tình yêu. Có phần mang tính chất tự nhiên. Có phần mang tính chất siêu nhiên. 3. Nhiều người cũng nhân lành. Nhưng nếu thiếu ơn siêu nhiên, họ không thể tha thứ được như Mẹ nhân lành. Tôi có chút kinh nghiệm đó, khi sự nhân lành đòi tha thứ và yêu thương những kẻ ác độc với mình. Với những kinh nghiệm như thế, tôi được Mẹ nhân lành cho thấy: Nhân lành như Mẹ nhân lành là một dấu chỉ dồi dào ơn Chúa. Đối với con người hôm nay, thái độ nhân lành như thế sẽ là một khí cụ truyền giáo. Dấu chỉ đó sẽ là một mời gọi dịu dàng hướng về Nước Trời. Nhân lành cũng sẽ được coi là quan trọng cho người mục tử, khi ý thức rằng Chúa Giêsu là mục tử nhân lành (x. Ga 10,14) làm chứng cho Thiên Chúa là Cha nhân lành giàu lòng thương xót (x. Ep 2,4). Chúa Giêsu cũng là con Đức Mẹ nhân lành. Người đề cao cách sống của người Samaria tốt lành (x. Lc 10,30-37). Tôi sẽ rất lạc lõng, nếu giả sử tôi có trí thức cao, quyền chức lớn, nhưng lại thiếu nhân lành. Nhân lành ví như một bản nhạc êm đềm. Một bản nhạc hay phải do nhiều yếu tố, như nhạc, lời, nhịp điệu, giọng hát, hồn nhạc. Người nhân lành cũng tương tự như thế. Nhân lành của họ gồm nhiều yếu tố: Tấm lòng, tư cách, việc làm, lời nói, giọng nói vv... Xin Mẹ dạy con biết sống nhân lành một cách xứng hợp, để làm chứng cho Chúa nhân lành.
Thú thực là, có những ngày thuộc tuổi thơ, khi đọc câu “Đức Mẹ làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, tôi chỉ nghĩ chung chung đến những gì làm cho mình được sống khoẻ mạnh, được vui vẻ, được hy vọng.
Cả đến thời thanh niên, ý nghĩa chung chung đó vẫn tồn tại. Nhưng, khi đã làm linh mục, tôi hay suy gẫm Phúc Âm về Lời Chúa kêu gọi hãy trở về. Trở về mới thực sự được sống, được vui, được cậy. Tôi dần dần cảm thấy: Trở về mà Chúa muốn nhất là trở về với Đức Kitô. Vì “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). 5. Những lần dâng lễ ở hang Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, tôi tự nhiên được lôi cuốn đến nội dùng bài lễ dành cho các cuộc hành hương Lộ Đức. Nội dung đó chất chứa tâm tình cầu xin ơn trở về. Ơn trở về, mà tôi cảm nhận được trong những thánh lễ đó là: Chính Đức Mẹ cầu bầu, mà tôi được ơn trở về với Đức Kitô. Đức Kitô làm cho tôi được sống, được vui, được cậy. Tôi được dẫn đến Đức Kitô nhờ Đức Mẹ. Theo ý nghĩa đó, Đức Mẹ đang là Đấng làm cho tôi được sống, được vui, được cậy. Với ơn trở về đó, tôi được sống ơn gọi người môn đệ Chúa một cách trưởng thành hơn. Người ở bên tôi. Hay nói đúng hơn, Người ở trong tôi. Người cho tôi được sự tự do. Nhưng Người ban ơn, để tôi biết dùng sự tự do của tôi, để cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Người. Càng ngày, tôi càng kinh nghiệm thấy Người là Đấng ban cho tôi sự sống dồi dào, mặc dù trong những hoàn cảnh xem như đã cạn sự sống. Càng ngày, tôi càng kinh nghiệm thấy Người là Đấng đem lại cho tôi nguồn vui thiêng liêng, mặc dầu trong những trường hợp đầy thử thách. Càng ngày, tôi càng kinh nghiệm thấy Người là Đấng đem lại cho tôi nguồn hy vọng, mặc dầu mọi phía đều như những ngõ cụt u tối hãi hùng. 6. Hôm nay, những ngày cuối đời, khi nhìn lại đời mình, tôi thấy Đức Kitô, mà Đức Mẹ đã dẫn tôi đến, chính là Đấng cứu độ của tôi. Người đã cứu sự sống của tôi. Người đã cứu các niềm vui của tôi. Người đã cứu các hy vọng của tôi. Nhờ đó, tôi khỏi đi lạc. Mà nếu đi lạc, thì biết trở về. Để luôn biết sống trọn vẹn Tin Mừng là chính Đức Kitô, trong hiện tại hôm nay và giây phút bây giờ. Sự sống, sự vui, sự cậy nhiều khi không đến với tôi vội vã ồn ào, nhưng đến một cách bất ngờ, ngay cả qua những người nghèo khổ, bệnh tật, vô danh. Sự sống, sự vui, sự cậy cũng nhiều khi ở lại trong tôi, khi tôi bắt chước Đức Mẹ biết âm thầm giữ kỹ các kỷ niệm trong lòng để suy gẫm (x. Lc 2,51). Lạy Mẹ, xin cho con biết sống, biết vui, biết hy vọng theo gương Mẹ. Sống một cách bình thường mà không tầm thường. Vì luôn có Chúa Giêsu ở cùng con. Long Xuyên, 25/09/2016
Ðịa phương ta coi như ổn định, nhưng đang chuyển biến. Bởi vì đang có đụng chạm giữa hai Bùi-Tuần 1404
Ðịa phương ta coi như ổn định, nhưng đang chuyển biến. Bởi vì đang có đụng chạm giữa hai nền văn minh. Một bên là nền văn minh nông nghiệp và một bên là nền văn minh công nghiệp. Cũng đang có đụng chạm giữa hai hệ thống thế giá. Một bên là thế giá dựa trên chức vị và một bên là thế giá căn cứ trên khả năng chuyên môn. Cũng đang có đụng chạm giữa hai loại tiêu chuẩn. Một bên là những tiêu chuẩn dân gian, quốc gia và một bên là những tiêu chuẩn khoa học, quốc tế. Cũng đang có đụng chạm giữa hai loại đổi mới. Một bên là những đòi hỏi của quan niệm đời và một bên là đòi hỏi của quan niệm các tôn giáo khác nhau. Cũng đang có đụng chạm giữa hai khuynh hướng đạo đức. Một bên là khuynh hướng đạo đức nhấn mạnh đến kỷ cương nề nếp tập thể và một bên là khuynh hướng đạo đức đề cao sự lựa chọn tự do của mỗi cá nhân. Còn nhiều đụng chạm khác nữa. Tất cả những đụng chạm ấy có thể được gọi là đụng chạm giữa các giá trị. Khủng hoảng về các giá trị đạo đức Các giá trị cũ mới đụng độ nhau, cạnh tranh nhau, có nơi hoà hợp được, có nơi lấn phá nhau, trong từng cá nhân, trong từng gia đình, trong từng địa phương. Có những dấu hiệu cho phép tiên đoán: Trong tương lai không xa, nếu không biết đề phòng, sẽ nổ ra một cuộc khủng hoảng lớn về các giá trị đạo đức trên một qui mô rộng. Khủng hoảng có nghĩa là sẽ có thái độ dửng dưng, thái độ nghi ngờ, thái độ bất cần, thái độ tương-đối-hoá đối với mọi giá trị đạo đức. Có nhiều lý do gây nên khủng hoảng. Xin nêu lên vài lý do dễ thấy. Một cuộc sống nhắm lý tưởng làm giàu hơn lý tưởng làm người sẽ dần dà tạo nên một não trạng thực dụng. Suy nghĩ thực dụng và hành động thực dụng. Thực dụng là chọn cái gì có lợi trước mắt. Cái lợi trước mắt đối với chủ nghĩa cuộc sống là tiền của, danh vọng, những gì đem lại hạnh phúc chủ quan. Lúc đó người ta sẽ quý trọng những cách sống có thu nhập cao, chứ không để ý đến những cách sống có đạo đức cao. Tiền của sẽ là giá trị cao nhất. Ðịa vị, danh vọng, tư lợi cũng sẽ là những giá trị gây nhiều thao thức hơn là những nhân đức khó nghèo, khiêm tốn, công bình, bác ái. Trong một tình hình như vậy, nếu chẳng may các người giảng dạy đạo đức cũng thực dụng, cũng bị kẹt vào các chuyện hưởng thụ, ham mê tiền bạc, chạy theo giới giàu, tranh giành quyền lợi, lạm dụng địa vị, thì các bài đạo đức sẽ mất đi sức mạnh thuyết phục. Quần chúng sẽ giảm bớt đi niềm tin vào các điểm tựa đạo đức. Ngoài ra, kinh tế thị trường với những cạnh tranh cũng mở ra một chân trời mới. Từ trước tới giờ, đa số dân chúng, vì ít được biết những gì xảy ra trên thế giới, nên cứ tưởng mình là khá tốt lành. Nay nhờ thấy nhiều, đọc nhiều, nghe nhiều, tiếp xúc nhiều, họ nhận ra không ít cuộc sống rất khác mình, văn minh khác mình, đạo đức khác mình. Họ so sánh, và thường có cảm tình với lối sống có giá hơn theo họ nghĩ. Họ bị giằng co giữa lối sống cũ và những lối sống mới. Cũng trong đà tiến của lịch sử, càng ngày tự do càng được công nhận là yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên nhân phẩm và đạo đức. Khi điều đó được phổ biến rộng, hầu hết mọi người, nhất là giới trẻ, sẽ khó chấp nhận một thứ đạo đức gò bó, cứng nhắc, rập khuôn, ưa ổn định, nặng về cấm kỵ, không cởi mở. Họ muốn sống đạo đức, nhưng là đạo đức theo lối sống mà họ tự chọn theo xác tín của mình. Hơn nữa, với sự phát triển của trào lưu dân chủ và khoa học, óc phê phán cũng sẽ mạnh lên. Thích phê phán và thích nghe phê phán. Có những phê phán đúng và cũng có những phê phán không đúng. Có những phê phán để làm rõ chân lý và cũng có những phê phán chỉ nhắm bôi lọ người khác. Ðáng ngại là khi trình độ văn hoá còn thấp, thói quen phê phán sẽ dễ ngả sang hướng tiêu cực, ưa bới móc, thích đưa mình lên và hạ kẻ khác xuống. Phê phán đạo đức bằng những cách không đạo đức. Chỉ mấy tình hình trên đây tưởng cũng đủ cho thấy khủng hoảng về các giá trị đạo đức đang được hình thành. Nó xuất phát một phần do sự xuất hiện nhiều giá trị khác biệt cạnh tranh nhau, và một phần do sự giảm bớt niềm tin đối với những người và những cơ chế giảng dạy đạo đức. Theo tôi, lý do giảm bớt niềm tin phải kể là quan trọng hơn. Nhận định này sẽ giúp chúng ta biết phải làm gì để đối phó với cuộc khủng khoảng về các giá trị đạo đức.
Bầu khí tin cậy Thiết tưởng việc nên làm trước tiên, là xây dựng bầu khí tin cậy, trong gia đình, trong lối xóm, trong cộng đoàn, trong các lớp giảng dạy đạo lý, trong các cuộc hội họp và tiếp xúc. Bầu khí tin cậy là bầu khí có sức khơi dậy niềm tin đối với người dạy đạo đức và có sức lôi kéo lòng người đặt tin tưởng vào các giá trị đạo đức. Bầu khí tin cậy sẽ được xây dựng thế nào? Thưa trước hết bằng chính niềm tin của ta. Ta cần xác tín rằng: Mọi người đều được Chúa tạo dựng, đều được Chúa yêu thương, Chúa muốn mọi người đều được cứu độ. Sự cứu độ là việc của ơn Chúa. Ơn Chúa mạnh không thể lường. Kẻ nào càng yếu đuối lỗi lầm, càng đáng thương. Ơn cứu độ của Chúa sẽ được chứng minh hùng hồn nhất, khi thực hiện việc đổi mới nơi những con người khó nhất và trong những hoàn cảnh khó nhất. Ta tin vào con người, là vì ta tin vào ơn Chúa cứu độ. Ta tin vào con người, bởi vì Chúa đã tin và thương ta là những người đầy bất xứng. Niềm tin của ta đặt vào người khác tất nhiên phải đi đôi với sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh, và nhất là phải phát xuất từ lòng khiêm nhường bác ái hiệp thông với trái tim Chúa Giêsu, Ðấng đã thương chúng ta trước khi chúng ta yêu mến Người, Ðấng đã hy sinh cho ta, khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi. Một niềm tin yêu như thế sẽ là một giá trị đạo đức rất lớn. Nó có khả năng góp phần tích cực vào việc xây dựng bầu khí tin cậy. Không phải vì nó là sức mạnh tâm lý, mà vì nó mang sự sống Thiên Chúa Tình Yêu. Khi một người nghĩ rằng họ bị ta khinh, họ bị ta nghi, họ bị ta ghen ghét, thì đủ để họ không dám tin cậy vào giá trị đạo đức của ta, dù ta có tỏ vẻ đạo đức về nhiều mặt khác. Một yếu tố khác không kém quan trọng trong việc xây dựng bầu khí tin cậy, đó là tinh thần tôn trọng sự thực. Bất cứ sự thực nào, từ bất cứ đâu, của bất cứ ai, cũng cần được tôn trọng, chỉ vì nó là sự thực. Không thể nào gọi được là đạo đức, nếu người ta kiêu căng tự mãn hẹp hòi và thiên kiến trong lãnh vực sự thực. Chẳng hạn sự thực này được tôn trọng, vì nó là của mình. Còn sự thực kia không được tôn trọng, vì nó là của người khác. Thiếu công bình bác ái như thế thì còn đâu là đạo đức. Nhiều người, nhất là giới trí thức và giới trẻ hôm nay, dễ nghi ngờ uy tín các người phê phán và giảng dạy đạo đức, nếu thấy không ít các vị ấy là những người không thực. Sự thực gần gũi nhất, dễ thấy nhất, đó là sự thực về chính bản thân ta, với những yếu đuối, thiếu sót, lầm lỗi. Nếu ta không nhìn thấy sự thực hiển nhiên đó thì làm sao người ta tin ta được, khi ta nói về các sự thực xa vời, mãi tận trời cao, cũng như khi ta nói là ta nhìn thấy sự thực này nọ trong tâm hồn kẻ khác. Một điều nữa phải rất thực, để gây bầu khí tin cậy, đó là thái độ đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa là tuyệt đối. Thái độ thờ phượng của ta đối với Người phải rất thực. Thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Ðừng bôi bác, đừng giả hình, đừng tục hoá các mầu nhiệm thánh và Lời Thiên Chúa. Nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ Hội Thánh, chứ không bỏ Chúa, chỉ vì nhà thờ, và Hội Thánh ở đó bị tục hoá. Trái lại, nhiều người đã đến nhà thờ, trở về Hội Thánh, vì họ tìm được ở đó bầu khí tin cậy, do thái độ thờ phượng sốt sắng có chiều sâu nội tâm và đức ái chan hoà. Ðó là những giá trị đạo đức sống động có sức cảm hoá lòng người.
Ðổi mới chính mình Những suy nghĩ trên đây đưa ta tới một việc làm có tính cách quyết định, đó là mỗi người chúng ta phải thường xuyên đổi mới chính mình, để nên tốt hơn. Nói một cách khác, người Kitô hữu chúng ta phải trở về với Ðức Kitô mỗi ngày. Ðó là việc làm có giá trị đạo đức hết sức quan trọng, để đối phó với cơn khủng hoảng về các giá trị đạo đức. Trở về với Ðức Kitô là trở về tuân giữ các lời Người dạy, là trở về chia sẻ cuộc đời mà Người đã sống, là trở về bắt chước gương sáng các việc mà Người đã làm. Trở về với Ðức Kitô là gắn bó với Người, mật thiết như cành với cây. Trở về với Ðức Kitô là sống mầu nhiệm nhập thể của Người, là sống mầu nhiệm thánh giá của Người, là sống mầu nhiệm phục sinh của Người chính trong cuộc đời của ta hôm nay tại đây. Trở về với Ðức Kitô là đón nhận những cái nhìn của Người về Thiên Chúa Cha, về Chúa Thánh Linh, về Hội Thánh, về nhân loại, về Quê Hương Việt Nam ta. Cái nhìn của Ðức Kitô là cái nhìn của tình yêu thương, của hy vọng, và của an bình. Theo các văn thư của Ðức Innocentê II để lại, thì thời đại của Ngài, tức thế kỷ XII, có thể gọi là thời kỳ Hội thánh suy thoái trầm trọng về đức tin và về luân lý. Tệ đoan tràn khắp. Các phe phái quá khích nổi dậy. Nhiều chỉ trích nhắm vào các đấng các bậc. Bởi vì xem ra các ngài đã quá xa mô hình Ðức Kitô. Lúc đó Phanxicô xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, Ngài cho rằng kẻ phải ăn năn trở về trước hết chính là Ngài. Ðang khi nhiều người khác hung hăng tung lưỡi kiếm phê phán về phía kẻ nọ người kia, thì Phanxicô quay lưỡi kiếm phê phán đó về chính bản thân mình. Khi thấy tệ nạn phô trương, tiền bạc, danh vọng, ghen tương, gian dối hoành hành trong Hội Thánh, Phanxicô cố gắng sống sao cho thực sốt sắng, cho thực khó nghèo, cho thực khiêm tốn, cho thực bác ái bao dung, thành thực từ bỏ chính mình. Kết quả thực là tuyệt vời. Nhờ mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội, sự thánh thiện của Phanxicô đã được chia sẻ sang các thành phần khác. Hội Thánh được hồi sinh. Nhiều tâm hồn được đổi mới. Mùa xuân thiêng liêng được nở rộ trong nhiều thế kỷ. Chuyện trên đây của thánh Phanxicô là một soi dẫn cho ta. Rồi đây, trong việc đổi mới chính mình và Hội Thánh, ta sẽ không ngạc nhiên, khi Ðức Kitô gọi ta chia sẻ cuộc sống xưa của Người. Với những giờ cầu nguyện âm thầm xin tuân phục ý Chúa Cha. Với những tháng năm chôn vùi mình vào cuộc đời khiêm nhường ẩn dật làm men làm muối tại Nagiarét. Với những năm tháng dấn thân phục vụ người nghèo, đi tìm chiên lạc, băng bó vết thương các tâm hồn, khắp các vùng được sai đi. Với những ngày lặng lẽ vác thánh giá đời mình, và hiến dâng bản thân mình làm hy lễ trên núi Sọ. Với những cuộc sống lại được giấu ẩn trong đêm phục sinh. Sức mạnh đổi mới sẽ không ồn ào. Những gì ồn ào thường là không tốt cho môi sinh thể xác lẫn tâm hồn. Sự sống đổi mới chính là Ðức Kitô. Ngài là Tin Mừng Cứu Ðộ. Ðón nhận Người, trở về với Người, sống theo gương Người, thiết tưởng đó là cách giải quyết có giá trị nhất mà người Kitô hữu nên thực hiện, khi các giá trị đạo đức bị khủng hoảng trong gia đình, trong Hội Thánh và trong xã hội. Sống theo mẫu gương Ðức Kitô, thiết tưởng đó cũng là cách làm chứng cho địa phương ta thấy Hội Thánh ta xứng đáng là một điểm tựa đạo đức, có lợi cho Tổ Quốc Việt Nam. Long Xuyên, tháng 6/1994
Tại Việt Nam hôm nay, ngày mồng 1 tháng 10 hằng năm được dành riêng để tôn vinh những người cao tuổi. Dịp này, nhiều người hỏi tôi về cảm nghiệm của tôi, khi sống tuổi 90 hiện giờ. Với tâm tình cảm ta, tôi xin chia sẻ ba cảm nghiệm sau đây: Cảm nghiệm thứ nhất là cảm nghiệm về cõi đời đời. Tôi cảm nghiệm một cách rất rõ rất mạnh là tôi đang đi về cõi đời đời. Nơi đó là cuộc sống vĩnh cửu, mà hạnh phúc là tình yêu hoàn hảo, do Chúa là tình yêu vô cùng ban ra. Cõi đời đời chính là điểm hẹn, là quê hương của tôi. Cảm nghiệm thứ hai là hành trình về cõi đời đời luôn có nhiều khó khăn, trắc trở, khổ đau. Tôi phải sẵn sàng phấn đấu và cầu nguyện để nên đạo đức. Cảm nghiệm thứ ba là mọi khó khăn sẽ được vượt qua nhờ sức thiêng được ban dồi dào cho kẻ phấn đấu và cầu nguyện. Sức thiêng là ơn thương xót được Chúa ban cho một cách dồi dào và cụ thể để nhận ra mình được Chúa thương yêu. Sức thiêng là ơn lôi cuốn được Chúa ban cho một cách mạnh mẽ, để được thu hút về Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Đời tôi đang thay đổi mạnh theo hướng được kết hợp với Chúa và được nên giống Chúa. Chúa là tình yêu. Chúa yêu thương mọi người thiện chí. Với tình yêu và đức tin, tôi đang bước vào cõi đời đời. Xin hết lòng và mãi mãi cảm tạ Chúa về cõi đời đời. Nhờ vậy tôi biết sống tốt ngay cõi đời này. Long Xuyên, ngày 30.9.2016
Trong đời sống thiêng liêng, nhiều khi không phải tôi đi tìm Chúa, mà là chính Chúa đi tìm tôi. Trong những trường hợp như vậy, nếu tôi còn đeo mặt nạ đạo đức, thì chính tôi sẽ cản việc Chúa tìm kiếm tôi. 1. Thân lạy Mẹ, Chúng con, con cháu Eva ở chốn khách đày, kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi khóc lóc, Than thở kêu khấn Bà thương. Trong kinh “Lạy Nữ Vương”, những lời trên đây đã gợi ý cho tôi rất nhiều. Gợi ý quan trọng nhất là nhìn vào hoàn cảnh của chính mình. Gợi ý đó lại càng sâu, khi Đức Mẹ thương soi sáng. Theo Kinh Thánh, tôi cũng như mọi người đều xuất thân từ tổ tiên Eva, một người phụ nữ mang tội và bị kết án. Thế gian chung cho mọi người là chốn khách đày, nơi khóc lóc. Đó là sự thực chung. 2. Nơi tôi, ngoài sự thực chung đáng buồn đó còn nhiều cảnh lưu đày, và nơi khóc lóc khác, đó là những sự thực cho riêng tôi. Có nhiều loại cảnh lưu đày. Có nhiều loại nơi khóc lóc. Đức Mẹ thương kéo tôi quan tâm đến một loại cách riêng. Loại đó là tình trạng tha hoá. Tha hoá nói đây là mất đi căn tính người môn đệ Chúa. Theo bề ngoài, một người vẫn được coi là mang chức thánh này, tước đạo đức kia. Nhưng bên trong, họ đã đánh mất căn tính đó rồi. Lòng họ đã tục hoá. Họ sống trong cảnh như bị Chúa lưu đày. Tình trạng của họ là nơi họ đáng phải khóc lóc, mà họ không biết. Cái tôi của họ không có sự thực. Cái tôi đó đúc kết nhặt nhạnh từ những lời xã giao. Cái tôi đó cũng có thể tạo nên do những hoang tưởng về mình. Cái tôi đeo mặt nạ. Mặt nạ vay mượn vẻ đẹp ở những y phục, lễ nghi. Cái tôi nói là thuộc Phúc Âm, nhưng lại sống xa Phúc Âm. 3. Đức Mẹ rất buồn với cảnh tha hoá đó. Buồn nhất là cảnh lưu đày đó lại được bình thường hoá và cơ chế hoá. Để sống an tâm giả. Đối với người khác và đối với lòng mình. Nhưng tôi thấy, một khi chúng ta biết mình đang bị đày vào cảnh tha hoá, rồi biết khiêm tốn kêu cầu Đức Mẹ, thì Đức Mẹ sẽ cứu ta. Sự cứu này thường không dễ. Vì việc tha hoá, khi đã trở thành một thói quen, một nếp sống, một tình trạng, thì bao giờ nó cũng bị kéo níu bởi nhiều người cùng tha hoá như mình, và bao giờ nó cũng được hỗ trợ bởi thế gian và ma quỷ. Vì thế, phải cầu nguyện nhiều, phấn đấu nhiều và hy vọng nhiều vào ơn phục sinh. Nhất quyết bỏ đi các thứ mặt nạ. Có những mặt nạ đẹp, gây được nhiều lời khen, nhưng sẽ phải trả giá bằng nhiều tai hoạ. Nếu tôi tha hoá, tôi thất bại về đường đạo đức, thì tôi phải khiêm tốn nhận lỗi. Tôi không đẩy trách nhiệm sang ai. Tôi nhận tội mình. Tôi dâng những nước mắt ăn năn sám hối cho Chúa, qua Đức Mẹ. 4. Điều quan trọng tôi nên nhớ ở đây là: Khi đi tìm Chúa, tôi đừng bao giờ mang mặt nạ đạo đức. Trong đời sống thiêng liêng, nhiều khi không phải tôi đi tìm Chúa, mà là chính Chúa đi tìm tôi. Trong những trường hợp như vậy, nếu tôi còn đeo mặt nạ đạo đức, thì chính tôi sẽ cản việc Chúa tìm kiếm tôi. Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi gỡ ra khỏi mặt tôi hết các thứ mặt nạ, làm tôi tha hoá. Tôi sẽ quỳ xuống đất, với con người thực của tôi, với đúng mặt thực của tôi. Tâm hồn tôi nghèo khó. Mặt tôi xấu xa. Nhưng chính vì tôi trình diện tôi với những sự thực đó, nên tôi tin Chúa thương sẽ nhận tôi như một của lễ thờ phượng, của lễ đền tội. Lạy Mẹ, xin cho con tránh được mọi thứ làm cho con tha hoá. Kể cả thứ tha hoá về đạo đức vì không có thực chất, không được Chúa nhìn nhận. 5. Tôi cảm tạ Mẹ đã giúp tôi khám phá về tôi. Khi đọc: Hỡi ơi, Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con. Tôi lại được Mẹ giúp tôi khám phá về kẻ khác. Những lời “chúng con” tôi đọc, khi cầu nguyện ở đây, thường trải rộng sang mọi người, không phân biệt tôn giáo nào, không phân biệt có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng. Dần dần, Đức Mẹ chữa đời sống nội tâm của tôi. Trước hết là chữa về mặt tâm lý. Tôi ý thức mình đã có một số cái nhìn hẹp hòi, bất công về những người ngoài đạo công giáo. Tôi phải sửa lại. Tiếp đó là ý thức mình đôi lúc đã để những cảm xúc lạnh lùng dâng trào lên, theo những cái nhìn sai trái đó. Tôi phải sửa lại. Có được hai ý thức đó là bước đầu để đi vào những cái nhìn hài hoà và những tình cảm hài hoà. Nhưng bước đầu đó cũng đã khó, càng bước thêm càng thấy khó. Nhưng Đức Mẹ cầu bầu với Chúa Thánh Thần cho tôi được nghị lực vượt khó. Đức Mẹ ghé mặt thương xem những người ấy. Xem với tình thương. Tôi cũng làm như vậy. 6. Dần dần, tôi nhận ra nơi họ nhiều đức tính tốt, nhiều việc tốt. Không những thế, tôi nhận ra nhiều người trong họ tốt hơn nhiều người đạo tôi, tốt hơn cả tôi. Còn nữa. Tôi gặp một số người trong họ đã tích cực giúp tôi trên đường truyền giáo. Đến một lúc, tôi bừng tỉnh, thấy mình đã có sai phạm. Nhìn đen tối về người khác là sai. Càng lớn tuổi, nhất là càng có nhiều tiếp xúc với đồng bào, tôi mới thấy tôi không bao giờ cô đơn. Trong những lúc tối tăm, Mẹ vẫn ở bên tôi. Mẹ gởi đến tôi những người tôi không ngờ. Họ ngoài công giáo. Họ âm thầm nâng đỡ tôi. Họ không làm thay tôi. Đức Mẹ cũng không làm thay tôi. Nhưng có những người ngoài công giáo cùng làm với tôi. Đôi lúc, họ làm thay tôi. Do những kinh nghiệm như thế, nhiều khi tôi cảm nghĩ nhiều người ngoài công giáo đã thuộc về Nước Trời. Họ có niềm tin, lòng từ thiện và đời sống lương thiện đáng nêu gương. Xưa, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần khen người ngoại đạo về những việc tốt của họ. Nay, trên thực tế cuộc sống của tôi, tôi cũng đã và đang thấy những lời Chúa Giêsu khen xưa vẫn còn ứng nghiệm. Riêng đối với Đức Mẹ, phải nói rằng: Rất nhiều người ngoài công giáo có lòng tin mến Đức Mẹ. Họ đã được Đức Mẹ ban ơn vô kể. Tôi gọi họ là con Đức Mẹ. Quả không sai. Long Xuyên, ngày 3 tháng 10 năm 2016
Trong một buổi chia sẻ giữa những người tĩnh tâm, một bà đứng lên kể một câu chuyện nhỏ mới Bùi-Tuần 1407
Trong một buổi chia sẻ giữa những người tĩnh tâm, một bà đứng lên kể một câu chuyện nhỏ mới xảy ra tại họ đạo của bà. Ðại khái như sau: Hôm đó, lớp giáo lý khá đông. Mấy chục em nhỏ lắng nghe cha phó giảng bài. Cha nói về thiên đàng với nhiều hình ảnh hấp dẫn. Cha đang hùng hồn nâng hồn trí lên cao, thì một em nhỏ giơ tay hỏi: "Thưa cha, cha có lên thiên đàng chưa, và cha có xem thấy những điều cha đang kể không?" Mọi người đều cười. Tôi có mặt trong buổi chia sẻ đó. Tại Cộng Hoà Liên Bang Ðức. Một người ngoại quốc ngồi bên cạnh tôi, ghé vào tai tôi khẽ nói: "Giới trẻ bên này thích nghe những chứng nhân hơn những người giảng dạy". Trên đây là một mẩu chuyện nhỏ, nhưng chứa đựng một bài học lớn. Khi trao đổi với những nhà truyền giáo, tôi được các ngài cho biết: Chứng từ là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc Phúc-Âm-hoá con người thời nay. Người loan báo Tin Mừng có uy tín là người biết làm chứng về Tin Mừng bằng chính con người của mình, với những kinh nghiệm mình đã trải qua.
Làm chứng về sự mình đã gặp gỡ Ðức Kitô Ðọc Phúc Âm, tôi thấy Ðức Kitô hay mời gọi người ta đến gặp gỡ Người. “Hãy đến mà xem” (Ga1,39), Người chú trọng đến việc gặp gỡ. Các trẻ em, khi gặp được Ðức Kitô, thấy Người dễ thương, chúng đã mến Người, đã tin vào Người, đã nhớ nhung Người, đã kể lại cho bao kẻ khác hình ảnh dễ mến của Người. Mặc dù lúc đó chúng chưa hiểu gì về đạo lý của Người. Cô Madalena, người phụ nữ tội lỗi công khai, khi gặp được Ðức Kitô, thấy Người cao thượng bao dung đầy tình thương cứu độ, cô đã ăn năn trở lại, làm lại cuộc đời. Mặc dù lúc đó cô chưa đi vào những buổi giáo huấn của Người. Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Ðức Kitô, khi nhận ra Ðức Kitô là người lành thánh bị chết oan, đầy khiêm tốn, nhịn nhục, hiền từ, yêu thương vô vàn, ông đã tự hối, xin ơn thương xót. Mặc dù lúc đó ông rất dốt về giáo lý Phúc Âm. Ông Saolô trên đường Ðamas, khi gặp được Ðức Kitô, thấy Người rất khác với hình ảnh mình đã có về Người, thấy Người thực là Ðấng cứu độ giầu tình yêu thương xót, ông đã được đổi mới, quyết tâm đi theo Người. Mặc dù lúc đó ông chưa rõ hết những gì Ðức Kitô đã làm và đã giảng dạy.
Bao người cũng đã và đang như vậy. Yếu tố chính lôi kéo họ tin vào Ðức Kitô không phải đạo lý của Người, cho bằng chính bản thân Người. Họ đã được gặp Người, nên họ tin Người. Ðối với họ, đức tin không phải chỉ là chấp nhận những giáo điều, mà cốt yếu là tin vào chính Ðức Kitô. Tin không phải chỉ là tin có Chúa, mà là tin vào Chúa. Niềm tin như thế là một gặp gỡ. Một cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô sống động, gần gũi, riêng tư. Ðức Kitô trở thành trung tâm đời họ. Chính nhờ Người, với Người, trong Người, và cho Người mà họ sống và hoạt động. Ðức Kitô lôi cuốn họ, nhưng vẫn để họ tự do đầy đủ. Làm gì, nghĩ gì, họ cũng quy chiếu về Người. Người là mẫu gương, nhưng họ rập theo mẫu gương đó bằng cả sự tự do của mình, với những sáng kiến đầy trách nhiệm. Ði theo Ðức Kitô, họ không nghĩ đến thành công hay thất bại. Họ chỉ lo duy nhất một điều là làm sao hợp với thánh ý Chúa. Ðức Kitô là động lực thúc đẩy hiện tại, là hy vọng mời gọi của tương lai. Không có động lực nào khác. Không có hy vọng nào khác. Bởi vì trong đức tin, họ đã gặp được Người là Ðấng cứu độ của họ, là Chúa của họ. Bằng những gì họ đã có kinh nghiệm, đã trải qua, họ làm chứng về cuộc gặp gỡ của họ với Ðức Kitô. Ðơn sơ thế thôi. Làm chứng về sự mình đang cùng Ðức Kitô yêu thương con người Con người, đó là địa chỉ mà Chúa Cha đã sai Ðức Kitô đến. Ðến địa chỉ đó, không phải để luận phạt, nhưng để đồng hành, để chia sẻ, để cứu độ. Nói tắt là để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu bao la cao cả đã yêu thương con người, đang khi con người còn chìm trong tội lỗi. Con người, đó cũng chính là địa chỉ của mọi kẻ truyền giáo, rao giảng Tin Mừng. Họ phải làm chứng rõ ràng dứt khoát điều đó. Nhất là họ phải làm chứng rằng: Họ đến với con người, chỉ để yêu thương con người, phục vụ con người, chứ không phải để lo cho quyền lợi riêng tư nào bất cứ, hoặc của bản thân, hoặc của cộng đoàn mình. Mặc dù có rất nhiều giới hạn, họ cố gắng hết sức mình, để bằng thái độ và việc làm, họ làm chứng là họ có thể cùng với Ðức Kitô nói lại lời xưa: “Hãy đến với tôi, hỡi tất cả những ai đang vất vả vì gánh nặng cuộc đời. Tôi sẽ bổ sức cho” (Mt 11,28). Mặc dù rất dốt nát và bé mọn, họ cố gắng hết sức mình, để qua cách sống, họ làm chứng là họ có thể cùng với tiên tri Isaia nói lại lời xưa: “Mỗi sáng, Chúa đã đánh thức tai tôi, để tôi biết lắng nghe, như những người môn đệ Chúa” (Is 50,4). Lắng nghe ở đây là lắng nghe những khổ đau, thổn thức của đồng bào, nhất là của những người bị cuộc sống loại bỏ. Mặc dù rất nghèo khó và vụng về, họ cố gắng hết sức mình, để qua những việc làm thường ngày khiêm tốn, họ làm chứng là họ có thể cùng với thánh Phaolô nói lại lời xưa: “Chúc tụng Chúa là Cha mọi tình thương xót, là Chúa mọi niềm an ủi, Người đã an ủi chúng tôi trong mọi cơn khốn khó, và đã giúp chúng tôi có khả năng an ủi những ai đang cơn khốn khó” (2 Cr 1,3). Trong việc yêu thương con người, điều căn bản là tình thương chân thành. Biết bao lần những cái nhìn thinh lặng, đầy thông cảm, tuy chỉ là một giây, một phút, đã trao gởi được sức mạnh nâng đỡ cho suốt cả cuộc đời. Trong một thế giới nhan nhản những nghi kỵ, tranh chấp, thành kiến, hận thù, kẻ loan báo Tin Mừng được mời gọi làm chứng cho sự hoà giải và tha thứ theo lời Phúc Âm và gương mẫu Ðức Kitô. Cũng như họ được mời gọi làm chứng cho Lời Chúa dạy: “Ðừng xét đoán kẻo bị xét đoán” (Mt 7,1). Sự trở về với Chúa ngự trên trời sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, nếu không được làm chứng bằng sự trở về với con người, địa chỉ gắn bó của Ðức Kitô. Làm chứng về sự mình nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đã có những chọn lựa ưu tiên trong thực tế cuộc sống Thực tế cuộc sống gồm biết bao nhu cầu như cái ăn, cái mặc, cái ở, tình gia đình, tình bè bạn, tình yêu, công ăn việc làm, học vấn, tiền bạc, chính trị, tôn giáo v.v... Mỗi nhu cầu đều đòi được giải quyết một cách cụ thể bằng những giải pháp cụ thể. Thí dụ nhu cầu phát triển, một đề tài lớn đang được đặt ra cho thế giới nói chung, cho các nước đang mở mang nói riêng, và đặc biệt cho mọi gia đình Việt Nam hiện nay. Muốn phát triển, tất nhiên phải để ý đến nhiều vấn đề, như nhân số, môi trường sinh thái, nghề nghiệp, tiền vốn, khoa học chuyên môn, lương tâm trách nhiệm, các mối dây liên đới, độc lập tổ quốc, văn hoá dân tộc, đạo đức cá nhân và tập thể vv... Những vấn đề này cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc trên cơ sở khao học, tâm lý, xã hội và luân lý. Còn nhiều nhu cầu khẩn cấp khác của thực tế cuộc sống đang trở thành những thách đố hàng đầu đặt ra cho đức tin người công giáo Việt Nam. Họ có muốn giải quyết những nhu cầu khẩn cấp đó không? Giải quyết cách nào? và đâu là chọn lựa ưu tiên? Ðó là điều họ phải làm chứng một cách cụ thể. Quan sát tình hình Giáo Hội tại các địa phương, tôi thấy nhiều người đã có những chọn lựa ưu tiên, sát thực tế và hữu hiệu. Chứng tỏ họ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Ơn hiểu biết và ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần đã được ban cho họ, qua tinh thần cởi mở của họ trong cầu nguyện, trong việc tôn trọng học hỏi các chân lý đạo đời, và trong việc xây dựng các liên đới tình thương. “Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định” (Cv 15,28). Xưa các thánh tông đồ đã nói như thế với các giáo đoàn. Nay nhiều người cũng có thể nói như thế với Hội Thánh về những lựa chọn ưu tiên của họ. Lời họ nói được làm chứng bằng chính con người của họ, khiêm tốn học hỏi, vị tha sẵn sàng từ bỏ ý riêng mình, chỉ thao thức tìm thực thi ý Chúa trong thái độ cởi mở, lặng lẽ đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. *** Tới đây, thiết tưởng đã khá rõ: Người làm chứng cho Chúa cần đặt nặng chứng từ hơn là lý lẽ. Các tông đồ thời xưa đã là những người như thế. Ước chi các tông đồ thời nay cũng là những người như vậy! Long Xuyên, tháng 9/1994
Tôi tin: Vừa ra khỏi đời này, tôi lập tức được thấy Đức Chúa Giêsu, con lòng Mẹ Maria, đầy phúc lạ. Mẹ sẽ giới thiệu tôi với Chúa: Đây là người con rất yếu đuối, nhưng rất phó thác cậy trông.
Trong kinh Lạy Nữ Vương, có câu:
Đến sau khỏi đày, Xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ. Lời kinh “Đến sau khỏi đày” gợi cho tôi nghĩ đến cái chết. Nhưng trước giờ chết, tôi còn một thời gian dẫn tôi tới gần phút sau cùng ấy. Tôi không biết thời gian đó dài bao lâu. Nhưng càng thêm tuổi, tôi càng nghĩ đến cái mình là hơn là cái mình làm. Tôi là môn đệ Chúa Giêsu. Điều kiện để nên môn đệ Chúa Giêsu đã được chính Người phán tỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Xét mình chỉ sơ sơ, tôi đã thấy tôi không thực hiện điều kiện đó một cách thường xuyên. Tôi thực sự yếu đuối.
Tôi có rất nhiều thiếu sót. Trong đó có những thiếu sót được coi là di căn của những lỗi lầm xa xưa.
Tôi có phần nào chu toàn bổn phận. Nhưng đó là kết quả chung, do sự cộng tác và đỡ nâng của bao người gần xa. Tôi có làm một số việc lành. Nhưng ai dám nói rằng tất cả những việc lành đó đã hoàn toàn không pha bụi bặm. Tôi có nhiều cố gắng vượt khó. Nhưng bao lần tôi vẫn mang nuối tiếc một vài hành trang cần vứt bỏ. Tôi đã có thể tốt hơn mà nhiều khi vẫn đứng tại chỗ. Tôi nhiều lần bất lực trước những vật cản chẳng đến nỗi nào. Tôi thực sự mỏng manh. Tôi đã có nhiều dịp để phục vụ Hội Thánh, Quê Hương và người khác một cách tốt hơn. Nhưng tôi đã không tỉnh thức đủ. Tôi đã có một số thời gian, để trau dồi kiến thức đạo đời, để suy gẫm và cầu nguyện. Nhưng tôi đã lơ là, bỏ lỡ. Tôi nhận mình bất toàn, với bao nhiêu giới hạn. 3. Lịch sử viết về thánh Gioan Thánh giá có đoạn nói lên lòng nhiệt thành độc đáo của người môn đệ Chúa. Một hôm, Chúa Giêsu hỏi Gioan: “Này Gioan, con hãy xin Ta điều con muốn, vì Ta sẽ ban điều ấy cho con, để đáp lại một đời con đã phục vụ Ta”. Chúa Giêsu đã phải lặp lại câu hỏi đó 3 lần, bởi vì Gioan, do luôn cảnh giác trước thị kiến, đã không vội trả lời. Nhưng rồi ngài thưa: “Lạy Chúa, con muốn xin Chúa cho con được đau khổ vì Chúa, cho con bị khinh chê và bị người ta coi con không ra gì”. Thú thực là tôi không dám bắt chước thánh Gioan mà xin như vậy. Vì tôi yếu đuối. Đến khi, Chúa ban cho tôi được nếm đôi chút những điều mà thánh Gioan xin, tôi thấy quá sợ. Lúc đó, tự nhiên tôi có cảm tưởng mình trở thành gánh nặng cho người khác. Cảm tưởng đó giúp tôi khám phá thấy sự yếu đuối của mình là một thế giới quạnh hiu, có khả năng dụ dỗ mình sa vào những yếu đuối khác. Qua những kinh nghiệm trên và nhiều kinh nghiệm khác, tôi nhận biết mình là gì? Thưa tôi nhận mình là kẻ rất yếu đuối, rất bất xứng, rất mỏng manh.
Với nhận thức đó, tôi thấy mình chẳng là gì, chẳng đáng gì.
Khi Chúa đòi tôi dâng của lễ. Tôi nghe Đức Mẹ bảo tôi cứ khiêm tốn dâng cho Chúa những vất vả, đau đớn, sám hối, tình yêu và cả những yếu đuối của tôi. Tôi dâng của lễ kỳ lạ đó, và nhớ lại lời Chúa gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 12,28). Thực sự, Chúa Giêsu đã nhận của lễ tôi dâng. Tôi cảm nhận được sự kiện đó, nhờ thấy lòng mình thêm cậy trông phó thác. Tôi như trẻ thơ dại khờ, yếu đuối về mọi mặt, với hai bàn tay trống không. Chỉ biết mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi, tuyệt đối cậy tin vào Chúa cứu chuộc. Người đã tuyên bố: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Càng tới gần ngày ra khỏi đời này, tôi càng được Đức Mẹ thương ẵm ôm dắt dìu người con yếu đuối hèn mọn này trên đường về với Cha.
Tôi tin: Vừa ra khỏi đời này, tôi lập tức được thấy Đức Chúa Giêsu, con lòng Mẹ Maria, đầy phúc lạ. Mẹ sẽ giới thiệu tôi với Chúa: Đây là người con rất yếu đuối, nhưng rất phó thác cậy trông. Thế là tôi sẽ được nhận vào Nước Chúa, nơi dành cho những ai trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3). Với tinh thần trẻ thơ, hằng ngày và mãi mãi, đời đời, tôi sẽ ca tụng Mẹ, chỉ đơn sơ bằng những từ “Khoan hậu, nhân từ, hiều dịu”. 6. Sống kinh “Lạy Nữ Vương” như vừa chia sẻ, tôi nhìn về Hội Thánh tương lai. Tôi thấy: Hội Thánh tương lai sẽ là Hội Thánh nhỏ, nhưng sẽ mạnh, nếu theo gương Đức Mẹ biết: - bác ái nhiều hơn - nội tâm nhiều hơn - giản đơn nhiều hơn. Tôi cầu nguyện: Các môn đệ Đức Kitô sẽ là những ngọn lửa thắp sáng lên niềm hy vọng. Ngọn lửa nội tâm sẽ là một sự phục sinh trong chính đời thường, nhờ sức mạnh tình yêu của Thánh Linh. Mọi người, không phân biệt ai, sẽ nhìn Đức Mẹ là Mẹ của mình. Mẹ nhân lành, khoan dung, nhân từ, hiền dịu. Mẹ sẽ đưa mọi người thiện chí về Nước Trời, gặp Cha chung giàu lòng thương xót. Trên đây là tâm tình tha thiết tạ ơn của tôi sau một đời dài cầu nguyện bằng kinh. “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành”. Long Xuyên, ngày 10.10.2016
ĐỨC CỐ HỒNG Y PHANXICÔ NGUYỄN VĂN THUẬN + GB. Bùi Tuần 1.
Mấy ngày nay, nhất là đêm rồi, tôi nhớ về người bạn rất thân của tôi, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận Bùi-Tuần 1409
Mấy ngày nay, nhất là đêm rồi, tôi nhớ về người bạn rất thân của tôi, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một cách đặc biệt. Giữa ngài với tôi, có nhiều chuyện để nhớ lắm. Nhưng có một lời ngài nói với tôi đã lâu lắm rồi, mà nay chợt như sống lại, để an ủi tôi, vì tôi đang rất cần. 2. Ngài nói: “Chú Tuần ơi, sau này hai chúng mình cùng về hưu. Lúc đó, hai chúng mình sẽ ở chung một nhà. Cùng nhau đón tiếp những ai muốn gặp Chúa”. 3. Đêm rồi, tôi nhắc lại lời đó với người đã nói với tôi lời đó. Tôi nói: “Chú Thuận ơi, chú đang hưu ở trên trời, còn tôi đang hưu ở dưới đất. Cả hai cùng đang trong một nhà, đó là nhà tình thương Chúa. Chú có phần hơn tôi, vì đang được hưởng phúc ở trong tình yêu Chúa một cách thực sự. Còn tôi cũng đang ở trong tình thương Chúa nhưng nhờ đức tin. Xin chú đừng quên tôi”. 4. Bạn tôi đã trả lời tôi. Ngài nhẹ nhàng nhắc cho tôi hiểu tình thương Chúa dành cho ngài và cho tôi là rất ngọt ngào. Thí dụ vài chi tiết sau đây: 5. Tình thương Chúa cốt ở sự Chúa cứu độ. Chúa cứu cho khỏi lửa hỏa ngục ở đời sau, và cũng cứu cho khỏi mọi khổ đau ở đời này, khi cần cứu. 6. Tình thương của Chúa được thực hiện một cách cụ thể, bằng những việc cụ thể, chứ không phải chỉ bằng những lý thuyết, bằng lời nói suông, bằng những lễ nghi, bằng những phong trào. 7. Tình thương của Chúa được thực hiện một cách nhưng không. Như thái độ người cha đón đứa con phung phá trở về. Chứ không thực hiện một cách so đo tính toán. Bạn tôi nhắc cho tôi hai điều, mà ngài cho là rất cần cho tôi lúc này: 8. Thứ nhất, tình thương của Chúa là rất nhiệm mầu. Vì thế đừng bao giờ nên chủ quan cho mình là nắm được tình hình để đặt ra các chương trình này nọ một cách dứt khoát, như thể tình thương của Chúa phải theo đó mà cứu độ nhân loại và Hội thánh trong lịch sử hiện nay. Do đó, phải rất khiêm tốn luôn cầu nguyện và tỉnh thức. Thái độ khôn ngoan là hãy tập trung vào Chúa Giêsu, chỉ Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Đừng bao giờ dại dột đề cao chính mình. Bởi vì chính mình cần được Chúa cứu, chứ không phải chính mình là kẻ đi cứu. 9. Thứ hai, tình thương của Chúa là rất bao la. Có những kẻ bị mọi người cho là không đáng cứu, thế mà đã được Chúa cứu. Vì thế, chúng ta phải rất khiêm nhường, để chính chúng ta, cho dù không đáng được cứu như mọi người tưởng, nhưng sau cùng lại được Chúa thương cứu độ. 10. Một thoảng gặp gỡ người bạn thân yêu, Đức Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, như tôi vừa kể, đã đọng lại trong tôi niềm vui thiêng liêng, như một động lực để sống trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay. Hoàn cảnh lúc này xem ra đang chuyển biến một cách nguy hiểm. Tôi chỉ có một con đường nên chọn để sống, đó là nhìn vào Chúa, với chỉ một lời cầu vắn tắt: “Lạy Chúa, xin xót thương con”. 11. Hậu quả là Chúa đốt lên trong tôi ngọn lửa tình thương của Chúa. Khi được lửa tình thương Chúa cháy lên trong lòng, tôi thấy tình thương của Chúa mới là hạnh phúc thực của tôi. 12. Cảm nghiệm được tình thương của Chúa, đó là một ân huệ vô cùng quí giá Chúa dành cho những kẻ Chúa thương. 13. Bạn tôi, Đức cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận cho tôi biết là số người tại Việt Nam hôm nay được Chúa thương cho cảm nghiệm được tình thương của Chúa đang xuất hiện đó đây một cách lạ lùng. Họ không biết lý luận. Họ chỉ cảm thấy. Và đó là một hiện tượng về nội tâm, mà chúng ta cần để ý. 14. Riêng tôi, tôi luôn nhận biết mình là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, bất xứng, chỉ biết tin cậy vào tình thương của Chúa mà thôi. 15. Và cũng từ sự nhận biết mình như vậy, tôi sẽ không kết án ai, và sẽ không áp đặt những trừng phạt nào trên ai. 16. Lời chào từ giã, mà bạn tôi, Đức Cố Hồng Y Thuận, thường nói với tôi một cách tha thiết, đó là: Chú Tuần ơi, chúng ta hãy yêu thương trong khiêm nhường. Và đây cũng là lời chào từ biệt, tôi xin gửi tới mỗi người anh chị em. Long xuyên, ngày 02.04.2019
(sớm quá chưa gởii cho ai) 1. Trong đêm Chúa giáng sinh, muôn vàn thiên thần trên trời đã hát câu này: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Hội Thánh đã nhắc lại câu ca đó trong phụng vụ thánh lễ, qua bao thế kỷ và trên khắp hoàn cầu. Với tâm tình hân hoan và khiêm tốn, tôi đón nhận câu ca đó như một món quà thiêng liêng, Chúa ban tặng cho tôi. 2. Điều mà tôi cảm nhận là rất cao quý cho tôi trong lời ca đó, chính là sự bình an, mà Chúa hứa ban cho người thiện tâm ở thế gian này. Hiện giờ, tôi rất cần sự bình an, tôi rất khao khát sự bình an. Tôi tha thiết cầu xin Chúa ban cho tôi sự bình an. Chúa thường trả lời tôi: “con hãy có thiện tâm, như các thiên thần đã cầu chúc trong đêm sinh nhật”. 3. Tự nhiên, tôi thấy thiện tâm là điều không dễ. Tôi cần phải xin Chúa dạy dỗ tôi một cách cụ thể, để tôi biết thế nào là sống thiện tâm ngay trong lúc này. Chúa đã thương dạy tôi. Tôi xin chia sẻ đôi chút sau đây. 4. Lúc này, tôi đang bước sâu vào tuổi già và bệnh tật, thì cụ thể thiện tâm của tôi là hãy sống hợp với thánh ý Chúa nơi tuổi già và bệnh tật của một giáo sĩ về hưu. Thánh ý Chúa là tôi hãy bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xưa thế nào, thì nay tôi cũng hãy như vậy. Đó là thiện tâm, mà Chúa muốn. 5. Xưa, trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã trải qua giờ phút hãi hùng sợ hãi, đến đổ mồ hôi máu ra. Người đã xin Chúa Cha, nếu được, thì cho Người khỏi uống chén đắng. Nhưng xin đừng theo ý Người, mà chỉ vâng ý Chúa Cha mà thôi (x. Mc 14,32-35). Nay, có những lúc tôi cũng rơi vào hoàn cảnh làm tôi sợ hãi. Tôi cũng xin Chúa cho tôi được thoát khỏi. Nhưng vẫn sẵn sàng từ bỏ ý riêng, để vâng phục ý Chúa. Đó là thiện chí, để được sự bình an của Chúa. 6. Xưa, Chúa Giêsu đã có những giờ phút cảm thấy mình bị cô đơn khủng khiếp. Các môn đệ trốn bỏ Người. Dân chúng xung quanh thi nhau kết án Người. Người bị đánh đập, bị khạc nhổ vào mặt. Nhưng Người chịu tất cả khổ đau đó, để đền tội thay cho loài người tội lỗi, và để cứu chính tôi. Nay, có những lúc tôi cũng rơi vào hoàn cảnh cô đơn đau đớn. Tuy chưa đến nỗi như Chúa Giêsu. Nhưng phải nói là có những xa vắng, có những vô tâm, thậm chí có cả những đau bệnh và yếu đuối, đã làm tôi cảm thấy mình như dư thừa và gánh nặng. Nếu tôi biết theo gương Chúa Giêsu, chịu những sự đó, như hạt lúa gieo vào lòng đất, để mình bị thối đi, với hy vọng sẽ trổ sinh được nhiều hạt khác (x. Ga 12,24) thì đó là thiện tâm, để đón nhận sự bình an của Chúa. 7. Xưa, trên cây thánh giá, Chúa Giêsu, với toàn thân trở thành khổ nhục, đau đớn đến cùng độ, đã nói với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin dâng phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,45). Người trở về với Chúa Cha, như một của lễ tình yêu. Nay, có những lúc tôi cũng cảm thấy như mình chịu treo trên thánh giá. Lúc đó, tôi cố gắng phó thác mình cho Chúa bằng chính sự phó thác xưa của Chúa Giêsu trên thánh giá. Và Chúa cho tôi thấy: Đó chính là thiện tâm, để đón nhận sự bình an của Chúa, không những cho riêng tôi, mà còn cho nhiều người, cho Hội Thánh của tôi, cho Quê Hương của tôi. 8. Sự bình an, mà Chúa ban cho những người thiện tâm, được tôi cảm nhận như một hy vọng chắc chắn và một vui mừng vô biên mình sẽ được gặp Chúa Giêsu phục sinh. Chính Người là Đấng Cứu Độ. 9. Tôi có cảm tưởng là tiên tri Simeon xưa, khi ẵm hài nhi Giêsu, đã vui và hy vọng như thế (Lc 2,32-35). Tôi cũng cảm thấy là Đức Mẹ Maria xưa, khi cảm tạ Chúa trong bài kinh Tạ Ơn, cũng đã vui và hy vọng như thế (Lc 1,46-55). 10. Lúc này, tôi được cảm thấy sự bình an, mà Chúa ban tặng người thiện tâm, chính là niềm hy vọng và niềm vui được gặp Chúa. Chúa là Đấng tôi đã thấy, nhưng chưa thấy trọn hảo. Chúa là Đấng tôi đã gặp, nhưng chưa gặp một cách trọn hảo. Tôi đi về phía trước, với sự bình an, vì tin là sẽ thấy Người và sẽ gặp Người một cách trọn hảo và sẽ ở bên Người mãi mãi đời đời. 11. Tôi thấy xa gần vẫn có những người thiện tâm hợp thánh ý Chúa, họ đang được hưởng sự bình an, mà tôi vừa tả. Họ là thiểu số bé nhỏ. Nhưng cũng như Đức Mẹ Maria và tiên tri Simeon xưa chỉ là một thiểu số rất nhỏ, âm thầm, lặng lẽ, họ nay cũng vậy. Họ cảm tạ ngợi khen Chúa. Tôi có cảm tưởng là những người thiện tâm được hưởng sự bình an của Chúa tại Việt Nam hôm nay đang là một thiểu số đáng trân trọng. 12. Tới đây, tôi sực nhớ tới Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, người cha yêu quý của tôi và của giáo phận Long Xuyên. Ngài đã dạy tôi rất nhiều về thiện tâm. Theo ngài, thiện tâm luôn có nghĩa là muốn tìm thánh ý Chúa, là luôn cố gắng từ bỏ ý riêng, là hết sức bước theo Đức Kitô. Khẩu hiệu của ngài là “Đức Kitô trong anh em”. Đức Cha Cố Micae đã có nhiều sáng kiến về mục vụ và truyền giáo. Nhưng những biến chuyển lịch sử đã nhiều lần làm cho những sáng kiến đó của ngài phải ngưng lại, hoặc phải thay đổi. Trong những trường hợp như thế, Đức Cha Cố đã nhận ra thánh ý Chúa khác với ý ngài. Ngài đã vâng phục ý Chúa. Nhờ thế, ngài được bình an của Chúa. Một thời gian dài về cuối đời, ngài sống ẩn dật trong khiêm tốn và khó nghèo, chuyên cần cầu nguyện, hãm mình hy sinh và hay xót thương những ai đến với ngài. Ngài toả sáng từ cuộc đời vâng phục thánh ý Chúa và sống bình an trong Chúa. Tôi học được nơi ngài con đường đón nhận lời chúc của đêm Giáng sinh: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. 13. Giờ đây, nhìn về phía trước, tôi thấybình an thực đang rất mờ trong bầu trời bất an, bất ổn. Nhìn về phía trước, tôi thấy thiện tâm thực chất đang bị khủng hoảng giữa mặt đất đầy những diễn tiến phức tạp. Vì thế, lời chúc của tôi xin gởi anh chị em hôm nay là: “Bình an thực của Chúa và thiện tâm thực theo ý Chúa”. 14. Phần tôi, có điều này không biết có nên nói không, đó là tôi hay nghĩ đến sự chết, nhất là thời gian cảm thấy mình già nua, bệnh tật, yếu đuối. Nhưng chính tư tưởng về sự chết lại đang trở thành tư tưởng về một sinh nhật thứ hai của tôi: tôi sẽ được sinh vào cuộc sống mới một cách bền vững, ở cõi sau, trên thiên đàng. Xin anh chị em thương cầu nguyện cho tôi được biết dùng những tháng ngày còn lại cho chương trình xây dựng sự bình an và thiện tâm trong phạm vi nhỏ bé của tôi. Chúng ta tha thiết cầu chúc cho Hội Thánh và Quê Hương chúng ta được bình an dành cho những thiện tâm, như các thiên thần đã cầu chúc trong đêm Noel xưa: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Long Xuyên, Noel 2016.
Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Trước đây, tôi đọc lời Chúa cảnh báo đó rất nhiều lần, mà không quan tâm đủ. Nhưng thời gian này, Chúa dạy tôi hãy nhờ đức tin mà đón nhận lời cảnh báo đó của Chúa. Tôi xin Chúa thêm đức tin cho tôi. Nhờ vậy, tôi nhận ra lời Chúa cảnh báo trên đây là rất nghiêm trọng. Tôi xin chia sẻ vắn tắt. 2. Trước hết, tôi thoáng nhìn thấy những điều sắp xảy đến là rất đáng sợ. Những điều đáng sợ đó đã bắt đầu rồi. Tôi thấy ba hình ảnh sau đây: 3. Hình ảnh thứ nhất là một thác máu đang đổ trên trần gian. Chúa cho tôi hiểu đó là máu của hàng trăm ngàn thai nhi đổ ra hằng ngày do nạn phá thai. Đó là máu của bao người chết trên đường do nạn giao thông. Đó là máu của bao người bị bọn xấu chém giết mỗi ngày. 4. Hình ảnh thứ hai là một thác những chất dơ bẩn hôi thối đang tràn trên lịch sử. Chúa cho tôi hiểu đó là những gian dối, những bất trung, bất tín đủ loại, những ích kỷ cá nhân và tập thể, những phản bội đủ thú, những hưởng thụ sa đà vào rượu chè, cờ bạc, dâm ô. 5. Hình ảnh thứ ba là một thác bùn đang chảy sâu vào cuộc sống. Chúa cho tôi hiểu đó là những thứ bận rộn vô bổ, những luật lệ chỉ cốt phô trương, những thói quen vô cảm. Tất cả những thứ đó như bùn, làm cho người ta lún vào mà không bước đi được. Khi nhìn thấy ba dòng thác trên đây, tôi rất sợ. Chúa bảo tôi: Đây mới chỉ là khởi đầu của một chuỗi dài những điều sẽ xảy đến. 6. Tôi phải làm gì đây? Chúa trả lời: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Để tỉnh thức và cầu nguyện, tôi nhờ đức tin. Tôi tin vào Lời Chúa. Tôi dần dần nhận ra một điều hết sức quan trọng: Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Người đang cứu tôi. Người sẽ cứu tôi. Người sẽ cứu tất cả những ai tin ở Người. Nếu không tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, tôi sẽ nhìn mà không thấy. Nếu có thấy mà cũng chẳng biết sợ. 7. Nhiều sự việc quá nguy mà không thấy sự nguy hiểm, đó là điều chính tôi đã từng có kinh nghiệm. Mới rồi, tôi đang bước đi rất chậm. Tay chống gậy. Mắt nhìn xuống đất chăm chú. Nhưng trong tích tắc, tôi té ngã, đập đầu xuống sân ximăng, máu đầu chảy ra. Đúng là tôi có nhìn, mà không thấy chỗ đó quá rong rêu, dễ trượt, đầy nguy hiểm cho người già yếu. Bài học đó dạy tôi là trên con đường đời, có những chỗ nguy hiểm, nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, thì tôi sẽ nhìn mà không thấy. 8. Tỉnh thức và cầu nguyện là phải hết sức tin vào Chúa. Tin vào Chúa là Đấng quyền năng và giàu thương xót. Chính Người cứu tôi. 9. Tới đây, tôi nhớ lại đoạn Phúc Âm kể lại phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù tại Giêrikhô. “Khi Đức Giêsu gần đến Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ bảo cho anh biết là Đức Giêsu Nazarét đang đi qua đó. Anh liền kêu lên rằng: ‘Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi’. Những người đi qua quát nạt, bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh ta đã đến gần, Người hỏi: ‘Anh muốn tôi làm gì cho anh?’ Anh ta đáp: Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy. Đức Giêsu nói: ‘Anh hãy thấy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh’. Lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người” (Lc 18,35-43). 10. Đọc đoạn Phúc Âm vừa rồi, tôi có cảm tưởng tôi cũng là một thứ người mù. Chúa Giêsu đã mở mắt tôi ra, để tôi thấy bao nguy hiểm quanh tôi, nhưng tôi được chính Người cứu tôi. Được như vậy, là nhờ đức tin. Đức tin là một món quà quý Chúa trao ban cho những ai khiêm nhường. 11. Sau khi đã mở mắt tôi ra, để tôi thấy ba thác nguy hiểm trên đây, đồng thời nhận thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, thì Chúa lại mở mắt thêm cho tôi, để tôi thấy thêm sự thực về tôi. Tôi thấy tôi nghèo đói về mọi mặt: - Về sức khoẻ. - Về nhân cách. - Về trí thức. - Về đạo đức. - Về khôn ngoan. - Về đức tin. 12. Nghèo đói nào của tôi cũng rất nghiêm trọng. Từ tình trạng nghèo đói nghiêm trọng đó, tôi nhìn lên Chúa Giêsu. Người hiện lên trước mặt tôi như một tình yêu cứu độ. Người hứa cứu tôi, không để cho những nghèo đói đó thành cớ đưa tôi vào thảm hoạ tội lỗi, để sau cùng là thảm hoạ hoả ngục đời đời. Trái lại, Người hứa sẽ làm cho những nghèo đói đó của tôi thành cơ hội để gặp được Chúa. Chúa đã thực hiện điều hứa đó. Từ vực sâu nghèo đói thiêng liêng, tôi giơ tay lên, và Chúa đã nắm lấy tay tôi. Chúa đã cứu tôi thực sự. 13. Giờ đây, tôi hiểu được phần nào lời Chúa phán: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”. Điều sẽ xảy đến thực rất khủng khiếp. Ngay một sự mình mù, mà lại không nhận biết mình mù, mình trong vực thẳm hư vong mà lại cứ cho là mình ở trong cõi bình an hạnh phúc. Ngay chỉ thế cũng đã là khủng khiếp lắm rồi. Nếu, hơn nữa, người mù lại dắt người mù, từng đoàn như vậy, thì khủng khiếp biết bao. Để thoát khỏi cảnh khủng khiếp hãi hùng đó, Chúa dạy tôi là hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. 14. Tôi thấy mình chưa tỉnh thức đủ, chưa cầu nguyện đủ. Tôi xin Đức Mẹ, các thánh trên trời và trong luyện tội thương giúp tôi. Dần dần, trong tôi bừng lên niềm vui và hy vọng. Tôi thấy mình được đỡ nâng, an ủi. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu là Đấng cứu độ luôn ở bên tôi. Tôi đi về phía trước, với hy vọng chắc chắn mình sẽ được vào cõi sống đời đời đầy bình an hạnh phúc. Hy vọng đó là niềm vui lớn lao. Chia sẻ niềm vui và hy vọng đó cũng sẽ là bài ca tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót đã ban đức tin cho tôi. Hy vọng chia sẻ này cũng sẽ giúp tôi và nhiều người biết sống lời cảnh báo của Chúa một cách nghiêm túc, nhất là trong tình hình hiện nay có nhiều bất ngờ đáng sợ. Long Xuyên, ngày 5.11.2016.
1. Đã từ lâu rồi, nhưng nhất là lúc này, tôi thường tha thiết cầu nguyện với Chúa. Tôi cầu nguyện chỉ bằng một câu: “Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa”. Lời cầu đó tóm tắt tâm tình của tôi. Tôi khao khát Chúa, một đàng vì nhận thấy mình quá khốn khổ, một đàng vì tin chỉ Chúa mới là Đấng cứu độ của tôi. 2. Cảm tạ Chúa. Chúa đã cho tôi được gặp Chúa. Tôi không nhìn thấy Chúa. Nhưng tôi cảm nhận rất rõ Chúa đến với tôi. Người nói với tôi trong tận đáy lòng tôi: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Như vậy, tôi chính là kẻ đã mất, nhưng được Chúa tìm và được Chúa cứu. 3. Nghe vậy, tôi càng tin tôi là kẻ tội lỗi, kẻ khốn khổ, được Chúa đoái thương. Niềm tin đó đem lại cho tôi sự bình an. 4. Sự bình an đó cứu tôi khỏi ảo tưởng cho mình là người công chính, người đạo đức, nên được Chúa đến thăm. Tôi nhận ra sự Chúa cứu tôi như thế chính là một ơn trọng Chúa ban, giúp tôi sống Lời Chúa: “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,7). 5. Đó là bước đầu Chúa cứu tôi. Sau bước đầu đó là một chuỗi dài những bước đi được Chúa cứu. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ về một lãnh vực, mà Chúa đã và đang cứu tôi. Lãnh vực đó là lãnh vực cái nhìn. 6. Chúa dạy tôi là đừng nhìn quá gần, mà hãy biết nhìn xa. Đang khi hầu hết nhân loại tìm sự cứu độ ở quyền lực do địa vị, tiền của, chức tước, uy quyền, thì Chúa cứu nhân loại bằng con đường khiêm tốn khó nghèo, vâng phục ý Chúa Cha. Như thánh Phaolô đã tả rất rõ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-7). Tôi cũng đã có nhiều lúc sai lầm ở những cái nhìn về việc cứu độ trong thế giới hôm nay. Sai lầm là vì tôi nhìn quá gần. Cứ tưởng hoành tráng, long trọng, vinh quang, bước lên bậc thang danh dự, là con đường mở Nước Chúa, cứu các linh hồn. Nhưng Chúa dạy tôi hãy bỏ những cái nhìn thiển cận đó, mà nhìn xa. Nhìn xa mới thấy sức mạnh cứu độ là ở sự khiêm nhường, như Chúa Giêsu đã làm gương. 7. Chúa dạy tôi là đừng nhìn chỉ bề mặt, mà hãy biết nhìn sâu. Đang khi hầu hết các cộng đoàn tín hữu thi nhau cầu nguyện, ăn chay, làm việc từ thiện, coi những việc đó là những việc đạo đức có sức cứu độ, thì Chúa Giêsu lại nhìn sâu vào các việc đó, mà cảnh báo: “Khi làm các việc đạo đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1). Biết nhìn sâu, mới thấy được cách giữ đạo của tôi và của nhiều nơi, có nhiều thứ vẩn đục. Bề ngoài thì dòng sông coi như phẳng lặng, nhưng vẫn có những sóng ngầm nguy hiểm, mà chỉ tầm nhìn sâu mới khám phá được. 8. Chúa dạy tôi là đừng nhìn hẹp, mà hãy có một tầm nhìn rộng. Đang khi rất nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam coi việc cử hành thánh lễ bàn thờ sao cho long trọng, sao cho đông đảo, sao cho thường xuyên là một việc chính của mục vụ và truyền giáo, thì Chúa dạy tôi là hãy nhìn rộng ra đến tận cùng những địa chỉ mà Chúa đợi chờ. Những địa chỉ đó là những kẻ nghèo, là những gặp gỡ, là những hội nhập vào văn hoá địa phương, là những vui buồn của lịch sử đất nước. Thánh nữ Têrêsa Calcutta đã đi đến những người nghèo khổ. Đức Thánh Cha Phanxicô hiện nay rất quan tâm đến những gặp gỡ, tiếp xúc, nhất là với những người có trách nhiệm trong xã hội. Đức Thánh Cha Bênêđictô hiện giờ tập trung vào cầu nguyện, nhưng cũng không ngừng viết sách. Tầm nhìn rộng đã giúp tôi thấy nhiều trường hợp, mình đi vòng lối khác, như Thánh Giuse xưa đã đem Hài Nhi Giêsu sang Ai Cập, lại là cách cứu được đạo Chúa. 9. Chúa dạy tôi là đừng nhìn theo dư luận coi đó là đúng, mà hãy nhìn đúng là đúng theo ý Chúa. Đang khi mọi người theo Chúa Giêsu đều muốn tìm còn đường cứu độ ở những ngả đường dễ dãi, chính các môn đệ gần gũi Chúa Giêsu cũng muốn như vậy, thì Chúa Giêsu lại được Chúa Cha sai vào cuộc khổ nạn. Chính Người cũng muốn tránh. Nhưng Người đã xin với Chúa Cha: “Nếu được, xin Cha cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha mà thôi” (Mc 14,36). 10. Hiện giờ, tôi cũng đang nhìn thấy những khủng khiếp sắp xảy đến cho thế giới, tôi xin Chúa đừng để cảnh đó xảy ra, nhưng khi Chúa cho tôi thấy ý Chúa là cảnh khủng khiếp đó phải xảy ra, để cảnh báo nhân loại, thì tôi chỉ còn một cách là phó thác mình cho Chúa mà thôi. 11. Do vậy, nhìn đúng ý Chúa đòi tôi phải từ bỏ mình, để tin rằng ý Chúa bao giờ cũng dẫn kẻ tin Chúa đến hy vọng cứu rỗi. Điều quan trọng là luôn biết đón nhận những điều Chúa dạy. 12. “Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa”. Được gặp Chúa rồi, tôi xác tín chỉ Chúa mới là Đấng cứu độ. Người cứu mọi kẻ tin vào quyền năng và lòng thương xót của Người. Tôi bỏ đi mọi tư tưởng lo lắng, sợ hãi về tương lai. Rồi tôi tin vào Cha trên trời. Tôi tin vào lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Hãy ngắm xem hoa ngoài đồng. Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thê mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Salomon, dù vinh quang tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng bông hoa ấy. Vậy, nếu hoa ngoài đồng, nay còn mai mất, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi, những kẻ kém lòng tin” (Mt 6,28-30). Tôi vững tin vào Chúa, dù tôi tội lỗi. Tôi tin vào Chúa, dù phía trước là rất đen tối. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con. Long Xuyên, ngày 9.11.2016.
1. Tại Việt Nam, lúc này hơn bao giờ hết, vấn đề suy thoái đạo đức và chấn hưng đạo đức đang được đặt ra một cách khẩn thiết. Trong xã hội, tính cách khẩn thiết đó được thực hiện qua những nhận xét của nhiều nhà lãnh đạo và của nhiều người có trách nhiệm. Trong Hội Thánh, tính cách khẩn thiết đó được nhấn mạnh qua các văn kiện của các vị chủ chăn, các bài giảng, các chia sẻ và những sinh hoạt tôn giáo. 2. Riêng tôi, ngoài những gì nhận được từ các nguồn trên đây, tôi còn có thêm những kinh nghiệm bản thân. Những kinh nghiệm này đều do ánh sáng Phúc Âm. Tôi áp dụng ưu tiên những kinh nghiệm này cho chính bản thân tôi, nhất là trong ba lãnh vực sau đây: 3. Lãnh vực thứ nhất là lãnh vực thương cảm. Phúc Âm thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói vê kẻ bị cướp trấn lột và đánh trọng thương nằm ở vệ đường. Nhìn thấy cảnh đó, thầy tư tế và thầy Lêvi tránh né. Một người Samaria vừa nhìn thấy nạn nhân, thì dừng lại chăm sóc chu đáo (Lc 10). Suy thoái đạo đức là đừng như thầy tư tế và thầy Lêvi. Chấn hưng đạo đức là bắt chước người Samaria. 4. Nhìn lại mình, tôi thấy tôi rất cần trung thực trong lãnh vực thương cảm. Trung thực dưới ánh sáng Phúc Âm. Có nhiều lý do tôi có thể coi là chính đáng để biện minh cho nhiều trường hợp né tránh. Nhìn thánh nữ Têrêsa Calcutta, tôi thấy động lực nội tâm đầy tình yêu Chúa sẽ giúp tôi chấn hưng đạo đức bằng sự dám làm những việc thương cảm như thánh Têrêsa Calcutta. Có thể là chỉ bằng những việc nhỏ. Nhưng việc nhỏ và âm thầm thương cảm vẫn là khởi động sự chấn hưng đạo đức. 5. Lãnh vực thứ hai là lãnh vực khiêm nhường. Phúc Âm thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra để dạy về sự khiêm nhường, là rất quan trọng. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con’. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí còn chẳng dám ngước mắt nhìn lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’. Tôi nói thật cho các ông biết: Người này, khi trở xuống, mà về nhà thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14). 6. Nhìn vào bản thân mình, tôi thấy tôi sợ cho tôi. Cũng may là tôi chưa kiêu căng một cách lộ liễu và thô bạo như người Pharisêu đó. Nhưng kiêu căng một cách tinh vi trong chính những việc đạo đức là điều có thể dễ xảy ra. Vui vì làm được những việc lành là niềm vui tốt. Nhưng khi niềm vui đó trở thành tự mãn, tự đắc, tự kiêu, thì đó là suy thoái đạo đức. Nhất là khi sự tự mãn của mình làm cho mình khinh khi người khác, coi họ là thua kém, tội lỗi, đáng phải tố cáo và kết án, thì suy thoái đạo đức của người coi mình là đạo đức đã trở nên trầm trọng. 7. Nhận thức như vậy, tôi xin Chúa thương luôn chấn chỉnh đạo đức nơi tôi, trong lãnh vực khiêm nhường. Chúa đã thương tôi. Việc Chúa chấn chỉnh nơi tôi được tôi cảm nhận là nhẹ nhàng mà mạnh mẽ. Cho đến lúc này, việc chấn chỉnh lòng khiêm nhường nơi tôi vẫn được Chúa Giêsu tiếp tục. Tôi nhận ra chính Người là Đấng hiền lành và khiêm nhường (Lc 11,29). Hãy cộng tác vào công việc chấn chỉnh của Người. 8. Lãnh vực thứ ba là lãnh vực tỉnh thức và cầu nguyện. Phúc Âm kể lại nhiều lần sự Chúa coi việc tỉnh thức và cầu nguyện là việc rất quan trọng. Coi nhẹ tỉnh thức và cầu nguyện là dấu chỉ suy thoái đạo đức. Chấn hưng đạo đức thì phải chấn hưng việc tỉnh thức và cầu nguyện. 9. Riêng tôi, ngoài việc tỉnh thức và cầu nguyện để có được những lợi ích thông thường, thì tôi đã được Chúa dẫn tôi vào hai việc sau đây: 10. Một là tôi nhìn thấy rất rõ phía trước trên đường về với Chúa, có nhiều trắc trở đáng sợ, như những sườn dốc sâu, những vực thẳm, những thác nước mạnh, những con sông lớn phải vượt qua, những vùng đất xa lạ phải đi vào. 11. Hai là tôi gặp được những người đáng tin sẵn sàng giúp tôi vượt qua khó khăn. Họ ở trong Hội Thánh. Họ ở ngoài Hội Thánh. Họ đồng hành với tôi trên những quãng đường nguy hiểm. Họ cho tôi thấy những điểm tựa cần thiết, để phục vụ Hội Thánh và Quê Hương. Họ chia sẻ với tôi những nỗi đau và những hy vọng trên đường về với Chúa. Tôi ngạc nhiên ở sự những người đó đã rất âm thầm. Như ông Simon xưa đã vác thánh giá đỡ Chúa Giêsu trên đường lên núi Calve, như bà Veronica xưa đã trao khăn cho Chúa Giêsu lau mặt đầy mồ hôi và máu, giữa dòng người sỉ vả Chúa. Tỉnh thức và cầu nguyện, tôi đã gặp được những người tốt, mà Chúa sai đến, để cứu tôi, và cũng để cứu Hội Thánh. Ở đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của người bạn tôi là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Ngài khuyên tôi là hãy tỉnh thức và cầu nguyện với trái tim yêu thương, khiêm nhường, cùng với cái nhìn xa của Trái Tim Chúa. 12. Tôi hiểu là tôi cần có cái tâm, và cũng cần có cái tầm. Cái tầm là tầm nhìn xa. Tỉnh thức và cầu nguyện như thế là điều Chúa đang dạy tôi lúc này, một cách khẩn thiết. 13. Như vậy, đối với tôi, suy thoái đạo đức đã được nhận diện, chấn hưng đạo đức cũng đã được nhận diện. Tất cả đều nhờ ánh sáng đức tin, mà Chúa thương ban cho tôi. Tôi không dám nghĩ những gì đó Chúa làm nơi tôi là cách duy nhất Chúa cũng sẽ làm nơi những người khác. Trái lại, tôi nghĩ Chúa đang chấn hưng đạo đức nơi nhiều người khác nhau, với nhiều cách khác nhau. 14. Tôi cảm tạ Chúa. Tôi đi về phía trước trong niềm vui và hy vọng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Niềm vui và hy vọng ấy không miễn cho tôi khỏi phải phấn đấu. Thực sự, tôi phải phấn đấu từng ngày, hàng giờ, hàng phút. Phấn đấu cam go, nhưng trong hồng ân Chúa. Long Xuyên, ngày 15.11.2016.
1. Từ lúc được tin ngày 23 tháng 11 này, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tiếp Chủ tịch nước Trần Đại Quang tại Vatican, tôi đã cầu nguyện rất nhiều. Ý nguyện của tôi rất đơn giản. Tôi xin Chúa làm cho những phút vắn vỏi đơn sơ đó mở ra được về những giá trị đời đời. Đúng là cuộc hội kiến sẽ vắn và đơn giản. Nhưng thời gian vắn và đơn giản đó sẽ sinh được hậu quả tốt đẹp lâu dài. 2. Khi cầu nguyện, tôi nhìn thấy những hậu quả tốt đẹp lâu dài mở ra về những giá trị đời đời, tuy âm thầm, nhưng rất phong phú. Tôi xin được chia sẻ cái nhìn của tôi một cách vắn tắt. 3. Trước hết, tôi nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ lịch sử này có sức mạnh của đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm của hai con người lịch sử này là chắc chắn khác nhau. Nhưng cả hai đều có một điểm giống nhau hơn kém ít nhiều. Điểm giống nhau đó là sức mạnh nội tâm giúp cho mình không những làm chủ được mình, mà còn làm cho từng lời nói của mình, từng cử chỉ của mình, biểu lộ ra được những nhân đức tốt đẹp, nói lên cái tâm và cái tầm của mình. Chính đời sống nội tâm đó sẽ làm cho hai bên kính trọng nhau. Chính đời sống nội tâm đó sẽ làm cho cuộc gặp gỡ có bầu khí linh thiêng, như thể có sự hiện diện của một Đấng linh thiêng giữa hai người. 4. Đời sống nội tâm nơi nhiều người ngoài công giáo được chứng minh là rất phong phú. Phong phú ở chỗ bao dung và tế nhị. Những nét đẹp này được nhận thấy rõ hơn nơi những tôn giáo truyền thống chuyên về tu thân, từ thiện tại Việt Nam chúng ta. 5. Ngoài ra, tôi cũng nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ lịch sử này có sức mạnh của lòng khao khát đi về phía trước. Phía sau, tuy có nhiều lấn cấn trong lịch sử, nhưng bao dung khép lại, sẽ cùng nhau nhìn về phía trước. Phía trước sẽ có nhiều phân hoá, nhiều xung đột, nhiều loại trừ nhau, nhiều suy thoái về đạo đức. Việt Nam và Toà Thánh có thể cùng nhau đi về phía trước đầy khó khăn đó với những hy vọng chính đáng. 6. Cùng nhau mang hy vọng vào tương lai. Hy vọng đó là niềm tin, là tình yêu, là đồng hành trên con đường xây dựng hoà bình trong chân lý. Phía trước của đất nước Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn trắc trở. Phía trước của Hội Thánh Việt Nam cũng sẽ có nhiều thách đố khó lường. Toà Thánh biết thế. Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng biết thế. Do vậy, mà cả hai bên sẽ cùng nhau chia sẻ trách nhiệm về việc xây dựng bình an và hạnh phúc. 7. Riêng phần tôi, với cái nhìn trên đây, tôi không dám nghĩ là mình sẽ làm được những gì lớn lao. Tôi chỉ mong làm được những việc nhỏ, thậm chí là rất nhỏ, nhưng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 8. Nói cách khác, tôi muốn hưởng ứng những gì là tốt đẹp trong cuộc gặp gỡ lịch sử ngày 23 tháng 11 này, như một cách tôi làm chứng cho Chúa giữa Việt Nam hôm nay. 9. Để là một chứng nhân giữa Việt Nam hôm nay, tôi cần là con người biết tìm tòi. Tôi tìm tòi để hiểu biết khả năng làm chứng cho Chúa, và hiểu biết tình trạng đồng bào tôi có quan tâm đến cuộc gặp gỡ lịch sử này hay không, hoặc có quan tâm một cách đúng đắn không. Tôi không được chủ quan trong việc tìm tòi quan trọng vừa nói. 10. Tôi tìm tòi và cầu nguyện, sau cùng tôi đã gặp được điều Chúa muốn gởi đến cho tôi. Điều đó là niềm vui và hy vọng. Nhìn cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và Chủ tịch nước ngày 23 tháng 11 này, tôi nhận thấy niềm vui và hy vọng từ đó bay lên. Bay lên như một ngọn lửa thiêng. Ngọn lửa thiêng đó xuất hiện giữa một bầu trời có nhiều mây đen và gió bão. Ngọn lửa thiêng đó báo cho mọi người biết ơn cứu độ đến từ trên và từ những con người tốt. Họ tốt ở sự họ chân thật, yêu thương và tin vào Đấng thiêng liêng. Ngọn lửa thiêng đó là do Chúa làm nên từ những con người khiêm tốn, chân thật, chan hoà yêu thương và tin vào các giá trị thiêng liêng đời đời. Ngọn lửa thiêng đó mở ra về phía cõi sống đời đời. 11. Ngọn lửa thiêng đó được thắp lên cho lịch sử đất nước. Rồi từ ngọn lửa thiêng đó, tôi nhìn thấy nhiều ngọn lửa khác, bé nhỏ hơn, được thắp lên cho từng vùng, từng làng, từng xóm. Tất cả những ngọn lửa thiêng đó chính là những nhóm nhỏ tốt lành, được Chúa dùng, để trở thành lửa mang niềm vui và hy vọng cho môi trường xung quanh. 12. Nhìn thấy những ngọn lửa thiêng đó, tôi tự hỏi mình: Tôi có được là một người tốt, được Chúa dùng, để góp phần làm nên ngọn lửa thiêng nào không? Trong chốc lát, tôi nhận ra một điều quan trọng: Có lửa hay không có lửa, tôi có ý nói về lửa thiêng. Khủng hoảng của nền giáo dục hiện nay là không quan tâm đào tạo nên những con người có lửa thiêng liêng trong mình. 13. Những suy nghĩ trên đây đang giúp tôi cầu nguyện nhiều cho cuộc gặp gỡ lịch sử của hai nhà lãnh đạo mà tôi kính trọng. Ngày 23 tháng 11 năm 2016 là một ngày sẽ nói lên rất nhiều cho những ai biết tìm tòi và biết lắng nghe. 14. Phía trước, sẽ là một cuộc chiến ác liệt giữa thiện và ác. Chúng ta rất cần ơn cứu độ. Ơn cứu độ đã được giới thiệu rồi. Phải lấy thiện mà thắng ác. Chúa dạy tôi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Long Xuyên, ngày 19.11.2016.
1. Để kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh năm nay. Hội Thánh dạy chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn một cách sốt sắng. Thời gian chuẩn bị kéo dài bốn tuần lễ. Thời gian đó quen gọi là mùa vọng. Suốt Mùa Vọng, tôi cầu nguyện và làm những việc mà Phụng Vụ chỉ dẫn. Kinh nghiệm trong Ơn Chúa Thánh Thần, tôi nhấn mạnh nhiều hơn đến mấy việc sau đây. Xin phép được chia sẻ vắn tắt.
Việc thứ nhất là tăng cường những liên đới thương cảm. Phúc âm thánh Gioan dạy: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Tôi hiểu: vì thương yêu tôi, nên Chúa giáng trần. Tôi tin Chúa giáng trần, là để cứu tôi. Tôi đón nhận Người bằng sự tôi tin vào tình yêu của Người, và bằng sự tôi thương người khác, như Người đã phán: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). 3. Theo kinh nghiệm, tôi thấy những việc yêu thương nhau giữa chúng ta, nếu muốn được là “như Chúa yêu thương chúng ta”, thì chúng ta phải có lửa yêu thương thực sự do Chúa chia sẻ cho.Lửa yêu thương đó được tôi gọi là thương cảm.
Thương cảm là một tình yêu cho đi. Nó như lửa. Vui vì được hi sinh cho người khác. Cho đó là ý nghĩa đời mình.
Tới đây, tôi nhớ tới những thương cảm, mà tôi đã nhận được từ bao người dành cho tôi. Những thương cảm đó rất sống động, tuy rất âm thầm, rất kín đáo, và rất bé nhỏ. Những thương cảm chân thành đó đã cứu tôi, đã giúp tôi nhận ra Chúa, đã đưa tôi về với Chúa, một Chúa là tình yêu hi sinh trên thánh giá. Cũng chính những thương cảm đó đã mở rộng lòng tôi ra, để tôi biết nhìn mọi người bằng cái nhìn yêu thương của Chúa. Phải nhận sự thực này là: đối với những người nghèo khổ bệnh tật, cô đơn, chúng ta tuy có giữ liên đới, nhưng thường vẫn thiếu thương cảm thực sự.
Việc thứ hai là tăng cường những thứ tha, lấy yêu thương xoá bỏ hận thù. Tôi tin lời Chúa phán: “Thiên Chúa sai Con Một Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17). Tôi tin như thế. niềm tin của tôi được thể hiện bằng sự chính tôi cũng biết bắt chước Chúa, mà tha thứ, mà không lên án. 7. Tôi sẽ xin với Chúa Cha cũng một lời cầu của Chúa Giêsu xưa trên thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ , Vì họ làm nhưng không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Suốt cuộc đời dài của tôi, tôi đã gặp được không ít những tấm lòng thứ tha quảng đại. Những tấm lòng đó đã giúp tôi sống nhẹ nhàng, chỉ có yêu thương, chứ không nặng nề với những hận thù và kết án.Những tấm lòng đó là những hạt giống Tin Mừng đang được gieo vào lịch sử Đất Nước tôi. Cần phải có thời gian, để những hạt giống đó nảy sinh ra cánh đồng an bình yêu thương. 9. Nhưng cũng rất cần tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa vào những cám dỗ xa lìa những cơ hội để tha thứ. Nếu tôi cứ khăng khăng quả quyết: chính họ phải xin lỗi chúng ta, thì chúng ta sẽ rất lầm, và dễ dánh mất cơ hội để hoà giải. 10. Việc thứ ba là cùng với Mẹ Maria tăng cường những khám phá ra những tiềm năng tốt trong lịch sử mình đang sống và nơi những người xung quanh mình. Tôi luôn nhớ tới lời Chúa Giêsu nói từ trên thánh giá với môn đệ Gioan: “Đây là mẹ của con” (Ga 19,27). Chỉ một tiếng: “Mẹ của con” đã giúp tôi khám phá biết bao tiềm năng tốt trong lịch sử mà tôi đã và đang trải qua. 11. “Mẹ” là cảm xúc gần gũi và ngọt ngào. Suốt đời tôi, nhất là trong mùa vọng, Mẹ Maria là tình yêu bao la đã và đang giúp tôi khám phá. Khám phá mà Mẹ giúp tôi thực hiện, thường kín đáo. Khám phá những sự lạ lùng Chúa làm trong thế giới các tâm hồn. Ngay tại Việt Nam hôm, vẫn có rất nhiều tâm hồn được Chúa ban cho những ơn rất trọng đại. Họ là những tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường. Với Mẹ Maria, tôi nhìn thấy nơi nhiều đồng bào những điểm tốt, nhất là về nhân bản, nhân đạo, nhân cách.
Sống mùa vọng, như tôi vừa chia sẻ trên đây, sẽ không ồn ào và hoành tráng. Giống như Mẹ Maria xưa, khi mang thai Chúa Cứu Thế, nhiều tâm hồn sống mùa vọng đã và đang âm thầm tỉnh thức và cầu nguyện. 13. Nếu tôi thực sự cảm thấy mình còn xa những gì Chúa dạy tôi như trên, cái mình có vẫn còn quá ít, thì chính nhận thức đó sẽ giúp tôi nhận ra sự nghèo nàn của tôi, để càng tăng thêm hối cải và tin vào lòng thương xót Chúa. 14. Hiện tình Việt Nam là rất phức tạp. Hiện tình thế giới là rất căng thẳng. Chính vì vậy, mà mùa vọng này đang là một mời gọi Chúa gửi đến chúng ta. Chúng ta cần trân trọng đón nhận lời mời gọi tha thiết của này của Chúa. Tôi có cảm tưởng là: thế giới đang bước vào thời kỳ mà quỷ Satan được phép lộng hành. Chỉ Chúa mới trị được nó mà thôi. 15. Năm 2017 sắp tới sẽ là kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Nhân kỷ niệm này, chúng ta nên nhớ lại những cảnh báo, mà Đức Mẹ đã nói ở Fatima. Cảnh báo về một tình hình khủng khiếp sẽ xảy ra cho thế giới và cho Hội Thánh. Chỉ Chúa mới cứu được thôi. Sống mùa Vọng này với kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ Fatima, chúng ta sẽ có một cái nhìn phải đổi mới chính mình và Hội Thánh mình trên Quê Hương Việt Nam. Đổi mới. Phải đổi mới ngay từ bây giờ. Kẻo sẽ quá muộn. Khiêm nhường biết mình cần đổi mới là bước đầu tốt. Tự mãn coi mình không cần đổi mới, là tự sa chìm xuống vực thẳm hư vong. 16. Riêng tôi, tôi vui mừng cảm tạ Chúa, vì Chúa ban mùa Vọng này cho tôi, như một cơ hội chứa chan niềm vui và hi vọng. Niềm vui và hi vọng này sẽ được chia sẻ rộng rãi trên khắp Quê Hương Việt Nam yêu dấu. Niềm vui và hi vọng này cần có một cái nhìn sáng suốt và một tinh thần trách nhiệm cao. Niềm vui và hi vọng này là của chung mọi đồng bào thân yêu, không phân biệt ai, không loại trừ ai. Mùa Vọng là của mọi người. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 24.11.2016.
1. Ngày mồng 8 tháng 12 là lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Dịp này, Chúa thôi thúc tôi hãy dâng mình và phó thác mình cho Đức Mẹ một cách khẩn thiết và sốt sắng, trong tâm tình hiệp thông với toàn thể Hội Thánh toàn cầu nói chung và Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng. 2. Lý do là tại nhiều nơi, tình hình đang lâm nguy, hoặc sắp lâm nguy. Lâm nguy đó sẽ lan rộng. Cứu tình hình đó là cứu chính mình. Trước viễn cảnh đó, Đức Mẹ được Chúa giới thiệu là Đấng mà mọi con cái Chúa có thể và nên phó thác. 3. Dâng mình cho Đức Mẹ là một cách phó thác mình cho Đức Mẹ. Khi phó thác mình cho Đức Mẹ, tôi có thể trình bày nỗi lòng mình cho Mẹ. Tôi nói với Mẹ, như để vơi đi nỗi lòng người con thơ dại, nhưng sau cùng là để Mẹ ủi an và dẫn dắt theo như Mẹ muốn. 4. Đức mẹ luôn muốn những gì Chúa muốn .Thánh ý Chúa lại thường rất khác ý muốn của con người chúng ta. Chính vì thế, mà phó thác mình cho Mẹ đòi tôi phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng mình, để vâng phục thánh ý Chúa. 5. Theo kinh nghiệm đời tu, tôi thấy việc phó thác nhấn mạnh đến từ bỏ cái tôi, để thuận theo ý Chúa, luôn là một cuộc chiến nội tâm gay gắt. 6. Thường thì tôi cũng như nhiều người phó thác, chẳng bao giờ dám có ý chống lại thánh ý Chúa. Nhưng chỉ tìm cách dối mình, coi ý mình cũng hợp ý Chúa.Dối mình bằng những ảo tưởng khoác áo đạo đức bề ngoài, nhưng bên trong vẫn nặng cái tôi ích kỷ. Đôi khi cái tôi đó cũng không đến nỗi phải gọi là ích kỷ, nhưng thiếu thận trọng. Ở đây, tôi nhớ lại lời khuyên chân thành mà cha linh hồn của Charles de Foucauld đã gửi cho Charles: “Hãy coi chừng lòng nhiệt thành của Cha, hãy rất thận trọng”. Đúng là lòng nhiệt thành, khi không được thận trọng dưới ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, sẽ trở thành kẻ phá phách chương trình cứu độ của Chúa. 7. Để việc phó thác được thực hiện đúng hướng, tôi thường cầu nguyện. Chúa dạy tôi hãy nhìn vào gương Đức Mẹ và gương Chúa Giêsu. 8. Gương Đức Mẹ phó thác được nổi bật ở biến cố Mẹ được báo tin Chúa chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ thưa: “Này con là nữ tỳ của Chúa, con Xin Vâng” (Lc 1,38). Với lời Xin Vâng đó, Mẹ đã phó thác mình trọn vẹn cho Chúa suốt đời. Phó thác của Mẹ là để chìm mình trong khiêm nhường tuyệt đối, âm thầm ca ngợi Chúa. Và chôn vùi mình vào thinh lặng, nghèo khó để lắng nghe Chúa trên đường phục vụ. Phó thác của Mẹ là chia sẻ con đường thương khó của Chúa Giêsu. Phó thác của Mẹ là khiêm tốn ở lại bên môn đệ Gioan, để lặng lẽ chia sẻ với Hội Thánh sơ khai. Nhìn gương phó thác của Mẹ Maria, tôi thấy khiêm nhường cùng với niềm tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa chính là những điều quan trọng làm nên phó thác. 9. Gương phó thác của Chúa Giêsu được nổi bật ở giờ phút Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 13,16). Chúa Giêsu phó thác mình trong tay Chúa Cha, ở giờ phút thê thảm nhất. Bị sỉ nhục, bị đau đớn, bị loại trừ, bị kết án, chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, Chúa Giêsu nói lên lời phó thác nơi Chúa Cha. Chứng tỏ rằng: Phó thác đẹp nhất là ở chỗ: Cho dù tất cả đều đổ vỡ, lòng tin vào Thiên Chúa vẫn vững bền. 10. Gương phó thác của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria đã giúp tôi rất nhiều. Chúa dùng hai gương sáng để đào tạo tôi. Việc đào tạo Chúa dành cho tôi về phó thác là thường xuyên, từng ngày, từng giờ. Rất nhiều khi, việc đào tạo đó được tôi cảm nghiệm như còn dài, còn mãi, chẳng bao giờ cùng. Ngay trong những ngày này, tôi thấy mình mệt mỏi, cạn kiệt về sức khỏe thể xác và tâm hồn, tôi chỉ còn phó thác và xin ơn phó thác. 11. Tôi xin ơn phó thác. Bởi vì tôi sợ tôi không biết phó thác. Tôi xin ơn phó thác một cách rất đơn sơ. Tôi chỉ lập đi lặp lại lời cầu: “Con đuối lắm rồi. Con xin phó thác con trong tình yêu của Cha, vì Cha là cha của con”. Thế thôi. 12. Thế rồi, kết quả là tuyệt vời. Chúa dẫn đưa tôi vào con đường mà thánh ý Chúa muốn. Chứ không phải con đường, mà tôi muốn. Chúa dẫn đưa một cách mạnh mẽ, nhưng nhẹ nhàng. tôi cảm được điều đó. 13. Với kinh nghiệm trên đây về phó thác, tôi có một lời khuyên tha thiết gửi đến anh chị em, đó là hãy phó thác mình cho Chúa luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh. Đừng bao giờ phó thác mình cho quỷ Satan, cho dù chỉ một phút một giây. 14. Tôi nói như vậy, vì tôi biết đang có phong trào thờ quỷ Satan, và phó thác mình cho quỷ Satan, để nhờ quỷ Satan mà được của cải, địa vị, thắng thế về những lợi ích trần gian. Hồi tôi còn học ở Cộng Hòa Liên Bang Đức, một vị giám mục tại đó đã nói với tôi về phong trào thờ Satan, dâng mình cho Satan, nhờ Satan mà kiếm lợi. Phong trào đó hoạt động ngay trong giáo phận của Ngài, với những lễ nghi và cam kết trước mặt Satan hiện hình. Phong trào đó đã lan rộng ra nhiều nơi dưới nhiều hình thức. 15. Trước đây, khi còn tại chức, mỗi năm tôi thường được gặp Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Lần nào cũng vậy, Đức Thánh Giáo Hoàng đều chúc tôi một lời: “Hãy can đảm”, đồng thời ban tặng tôi một tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi. Tôi hiểu Ngài muốn tôi hãy phó thác mình cho Đức Mẹ, qua việc lần chuỗi mân côi. Tôi vẫn thực thi lời dạy của Ngài. Thực thi lời dạy của Đức Thánh Giáo Hoàng, lòng tôi mở ra về bổn phận phải đổi mới chính mình, bắt đầu ngay từ việc dâng mình và phó thác mình cho Đức Mẹ và Chúa mỗi ngày. 16. Xét mình về phó thác, nhiều khi tôi thấy tôi cần bỏ đi nhiều ảo tưởng và nhiều tham vọng, mà tôi tự coi là đạo đức, đó là những hành trang làm cho hành trình ơn gọi trở thành nặng nề. Tôi cần tập trung nhiều hơn vào niềm tin ở Đức Mẹ và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Được dâng mình và phó thác mình cho Đức Mẹ và cho Thiên Chúa, tôi cảm thấy mình được hạnh phúc lạ lùng. Hạnh phúc lạ lùng này đang uốn nắn hồn tôi, theo lời khuyên của thánh Gioan Tiền Hô. Với hạnh phúc đó, tôi nhớ về mọi đồng bào yêu dấu của tôi. Long Xuyên, ngày 29.11.2016.
1. Tôi tin Noel là kỷ niệm việc Thiên Chúa giáng sinh làm người, để cứu nhân loại. Nhưng Noel năm nay đã là Noel thứ 2016 .Thế mà xem như nhân loại hôm nay vẫn tội lỗi, vẫn bất ổn. Chính bản thân tôi cũng vẫn yếu đuối với biết bao sai phạm. 2. Tôi tha thiết hỏi Chúa tại sao như vậy. Chúa đã thương trả lời tôi . Vắn tắt là: Trong nhân loại, vẫn có nhiều người được cứu. Còn những người không được cứu, thì lỗi tại họ, chứ không do Chúa. Cụ thể, họ là những ai? Điều đó thuộc quyền Chúa. Đừng ai cho mình được quyền xét đoán, kẻo sẽ kiêu ngạo, gây hại cho chính mình. 3. Chúa cứu là Chúa giới thiệu con đường dẫn vào Nước Chúa. Con đường đó và Nước Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Phải ở bên Đức Giêsu Kitô. Và phải ở trong Đức Giêsu Kitô, thì sẽ được cứu. Để được gọi là ở bên và ở trong Đức Giêsu Kitô, thì phải hiểu đúng hoàn cảnh cuộc sống của Người và phải dám bước vào cuộc sống của Người. Không chịu hiểu đúng và không dám bước vào cuộc sống của Đức Giêsu Kitô, thì không được cứu. Những ai như vậy thì phải chịu trách nhiệm về sự mình không được cứu. 4. Không chịu hiểu đúng cuộc sống mà Đức Giêsu Kitô chọn để thực hiện công cuộc cứu độ, là một thói quen rất thường nơi tôi và nơi rất nhiều người. Cuộc sống của Đức Giêsu Kitô đã chọn, để thực hiện công cuộc cứu độ, là khiêm nhường, khó nghèo, bác ái, kiên trì. Hãy nhìn ngắm Người nơi hang đá Bêlem. Hãy nhớ lại dụ ngôn hạt cải bé nhỏ chôn vùi dưới đất. Thế nhưng, nhiều lúc tôi cũng như nhiều người theo Chúa, lại hiểu cuộc sống theo Chúa Giêsu qua một cái nhìn khác. Như theo Chúa, để tìm quyền chức, địa vị, thành công trước mắt. Như theo Chúa, để xây dựng cho riêng mình những hào quang đạo đức giả. 5. Không chịu hiểu đúng, không muốn hiểu đúng là một hiện trạng đã thành thói quen trong lịch sử Hội Thánh tại nhiều nơi, xưa cũng như nay. 6. Thêm vào thói quen đó, lại còn thói quen, cho dù hiểu đúng, nhưng lại không dám bước vào con đường Nước Chúa. Bởi vì để bước vào, thì phải dám hy sinh. Hy sinh của cải, hy sinh mọi sự, hy sinh đến cả sự sống của mình. 7. Chúa dạy tôi hãy nhìn Chúa Giêsu ở hang đá Bêlem và hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu trên núi Calve. Rồi hãy nhớ lại lời Thánh Phaolô sau đây: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá.” (Pl 2, 6-8) Phải dám bước vào Nước Chúa bằng những hy sinh trên đây, đó là điều tôi và rất nhiều người đã thường thực sự không dám. 8. Nhận biết mình đã không hiểu đúng và đã không dám bước vào con đường theo Đức Kitô, đó là bước đầu cần thiết, mà Chúa dạy tôi hãy thực hiện, để đón ơn Chúa Giáng Sinh năm nay. Ơn Chúa thực là phong phú là bao la. Nhưng Chúa không ép buộc. Chúa để tự do. Tôi cần biết đón nhận. 9. Tôi đón nhận Chúa bằng sự đón nhận những sự thực về tôi. Sự thực về tôi có phần là ánh sáng, có phần là bóng tối. Cũng như sự thực về Hội Thánh của tôi, sự thực về thế giới của tôi, cũng có điều tốt, cũng có điều xấu. 10. Tôi đón nhận những sự thực đó với lòng khiêm nhường sám hối, tạ ơn và phó thác. Tôi tin Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót, sẽ cứu tôi và mọi người muốn đón nhận Chúa. 11. Niềm tin của tôi đòi tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi phải cầu nguyện rất nhiều và phải tỉnh thức rất nhiều. Bời vì tình hình hiện giờ đang diễn tiến rất phức tạp. Cho dù tình hình sẽ rất phức tạp và nguy hiểm đến đâu, tôi vẫn tin vào Chúa. Cho dù chính tôi là rất yếu đuối, rất hèn hạ, rất tội lỗi, tôi vẫn tin vào Chúa. Tôi tin Chúa có cách để cứu tôi và cứu tình hình, một cách nào đó, mà tôi không dám ngờ. 12. Niềm tin của tôi luôn là trong lĩnh vực đức tin. Nhưng rất nhiều khi, niềm tin do đức tin cũng đã được hỗ trợ bởi những kinh nghiệm, mà tôi cảm được. Cảm nghiệm về Chúa là những cảm xúc như được nhìn thấy, như được sờ thấy, như được nghe thấy, như được gặp gỡ thân mật. 13. Cảm nghiệm chung nhất của tôi về Chúa là sự tôi cảm thấy Chúa rất gần gũi và rất ngọt ngào. Không phải thường xuyên, nhưng rất nhiều trường hợp, đặc biệt là những trường hợp bị thử thách, tôi đã thấy Chúa rất gần bên tôi. 14. Những trường hợp bị thử thách nên nói hơn cả, là những trường hợp tôi phải chiến đấu với chính mình và với những áp lực của Satan và thế gian xấu. Chiến đấu để trung thành với Chúa luôn là niềm vui đối với tôi, nhưng niềm vui ấy cũng luôn đòi phải chấp nhận đớn đau. 15. Với những chia sẻ trên đây, tôi chỉ mong nói lên được một chút rất nhỏ niềm vui và niềm hy vọng của tôi trong ngày lễ Noel năm nay, khi tuổi đời tôi đã tương đối dài, với 90 lần được Noel gửi gắm vào lòng thương xót Chúa. Lòng thương xót Chúa dạy tôi một điều quan trọng, để được cứu mình và để cứu người khác. Điều đó là hãy yêu thương một cách khiêm nhường. Nhìn vào hang đá Belem, tôi thấy Chúa Cứu Thế đã yêu thương một cách rất khiêm nhường. Ở sự Người trở nên bé nhỏ, khó nghèo, và như con chiên dâng mình chịu sát tế, để đền tội thay cho nhân loại. Yêu thương như thế là điều khó. Khiêm nhường như thế là điều quá khó. Tuy rất khó, tôi tin Chúa sẽ giúp tôi được phần nào theo gương của Người. Xưa, Đức Mẹ và thánh Giuse đã noi gương Chúa Cứu Thế, mà yêu thương một cách khiêm nhường. Xin Hai Đấng giúp tôi được một chút như các Ngài. Trong niềm tin và hy vọng, tôi ngợi khen và cảm tạ Chúa là Đấng Cứu Độ đang đến tìm tôi là kẻ tội lỗi. Long Xuyên, ngày 6.12.2016
1. Mấy tháng nay, nhất là trong thánh lễ sẽ được tổ chức tại Tòa Giám Mục Long Xuyên, dịp tôi 90 tuổi (19-01-2017), tôi tập trung tâm hồn vào việc cảm tạ Chúa, về mọi ơn Chúa đã ban cho tôi. Cách riêng, tôi cảm tạ Chúa về những ơn gọi Chúa đã dành cho tôi. Tôi đã nhận được nhiều ơn gọi, như: Ơn gọi làm người trong hoàn cảnh đất nước không ngừng chuyển biến. Ơn gọi làm tín hữu trong giai đoạn Hội Thánh có những khó khăn. Ơn gọi làm môn đệ Chúa trong những tình hình rất phức tạp, và nhiều ơn gọi khác. 2. Trong các ơn gọi, tôi nhận thấy có một ơn gọi rất quan trọng và cũng rất khó thực hiện, nhưng tới lúc này, tôi thấy nhiều người đã thực hiện tốt, còn tôi vẫn chưa thực hiện được nhiều. Giờ đây, tôi xin phép chia sẻ đôi chút về ơn gọi đó. Đó là ơn gọi tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. 3. Từ khi được biết Chúa, tôi đã nhiều lần như nghe được tiếng Chúa gọi: Hãy tham dự vào cuộc thương khó Chúa. Chúa gọi nhiều cách. Tôi không hiểu rõ. 4. Nhưng khi được gọi làm môn đệ Chúa, tôi nghe điều đó rõ hơn. Tôi hiểu rõ hơn. Tôi nhận ra đó là một ơn gọi quan trọng. Tôi hiểu một cách đơn sơ: Được tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu là được nên giống Chúa Giêsu, là được thông công vào công việc cứu độ của Chúa Cứu Thế. Chúa muốn tôi như vậy. Đó là một ơn gọi. Ơn gọi đó được gửi vào lòng tôi qua ơn gọi làm môn đệ Chúa. 5. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Muốn sống tốt ơn gọi làm môn đệ Chúa, tôi không thể không sống tốt ơn gọi tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thì phải chấp nhận những đớn đau. Đớn đau về phần xác, đau đớn về phần hồn. Những đau đớn đó là rất nhiều. Tôi không chọn cho tôi đau đớn nào. Nhưng Chúa đã chọn cho tôi. 6. Đau đớn lớn nhất, mà Chúa chọn cho tôi là đau đớn của sám hối. Sám hối trước hết là về tội lỗi của mình, và tiếp đó là sám hối về tội lỗi của những kẻ thuộc về mình, họ ở gần và họ ở xa. Đau đớn của sám hối là điều rất khó. Phải có ơn Chúa thì đau đớn mới trở thành sám hối được. 7. Bởi vì đau đớn tự nó không phải là của lễ cứu độ. Chỉ những đau đớn trong khiêm nhường vâng phục ý Chúa, mới là đau đớn có giá trị tham gia vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Chính những đau đớn như vậy mới làm cho người môn đệ Chúa trở thành của lễ đền tội cho mình và cho người khác. 8. Tôi rất sợ đau, nhất là đau tâm hồn vì thấy mình còn xa Chúa, đôi khi lại là gánh nặng cho bao người xung quanh, rồi đau những cái đau của Hội Thánh, của Quê Hương và của bao người khổ đau rên xiết. Những khi đau, tôi thường cầu xin Đức Mẹ. Đức Mẹ là Đấng đã tham gia tích cực vào cuộc thương khó Chúa. Mẹ đã giúp tôi chịu đau bằng sự Mẹ luôn ở bên tôi. Bên Mẹ, tôi hiểu sống lời “Xin Vâng” trước những khổ đau đòi một thái độ nội tâm luôn ngoan ngoãn với ơn Chúa Thánh Thần. Tất cả đều không dễ. 9. Xét mình về ơn gọi tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tôi xin nói về tôi như thánh Phaolô: “Tôi có gì mà tôi đã không nhận lãnh. Nếu đã nhận lãnh, thì sao có thể khoe mình như đã không nhận lãnh” (1Cv 4,7). Nghĩa là nếu hôm nay tôi có được phần nào tốt trong ơn gọi tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thì chính là do Chúa ban ơn. Tôi đã nhận lãnh, chứ không do tôi. 10. Thêm vào đó, tôi cũng xin nói về tôi, như thánh Phaolô: “Tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ, tôi không xứng đáng được gọi là tông đồ” (1Cv 15,9). Tôi không xứng đáng, đó là lời chân thành tôi xin nói trước Chúa, trước Hội Thánh, trước mọi người, và trước anh chị em. Tôi nói lời đó, với tất cả tấm lòng tạ ơn và tạ tội. 11. Dịp 90 tuổi, tôi rất vui mừng, vì được nhớ lại những ơn gọi Chúa dành cho tôi suốt cuộc đời dài, trong dòng lịch sử đầy sóng gió. Dịp 90 tuổi, cũng là dịp Chúa lại gọi tôi, qua cộng đoàn thân yêu, một cộng đoàn luôn thông cảm, đỡ nâng, nhất là luôn cầu nguyện cho tôi. Chúa đã cho tôi được gắn bó với giáo phận Long Xuyên này như một gia đình thiêng liêng, một cộng đoàn nhỏ giữa một địa phương phong phú về tín ngưỡng, một công đoàn được Chúa gọi và được sai đi trong những hoàn cảnh khó khăn vô vàn tế nhị. Tôi rất ý thức điều đó, để đồng hành, chia sẻ, góp phần bé mọn vào ơn gọi của giáo phận mến thương. 12. Theo tôi, sống ơn gọi là một hành trình. Hành trình của niềm tin. Tin một cách khiêm nhường, kiên trì, tuyệt đối. Nếu niềm tin đó được đóng dấu bằng khổ đau, hy sinh chính mình, thì đó là vinh dự. “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”. Thập giá là đền thờ của niềm tin cứu độ. Người sống ơn gọi phải ở lại trong đó, để cầu nguyện. Họ sẽ được thấy vui mừng và hy vọng của ơn gọi là luôn luôn mới. 13. Lời tâm huyết rất nồng nàn giờ đây tôi xin phép nói lên, đó là tôi tin vào Đấng đã gọi tôi. Tôi tin như một trẻ thơ, bởi Chúa có lần đã nói với tôi: “Cho dù có người mẹ nào đã bỏ con mình, thì Cha, Cha sẽ chẳng bao giờ bỏ con. Cha vẫn thương con. Cha vẫn gọi con. Cha vẫn tìm con”. Tôi tin và tôi cầu nguyện thực nhiều, nhất là lúc này, tôi cảm thấy rất rõ gánh nặng lớn nhất của tôi là chính tôi. 14. Sau cùng, tôi tha thiết xin anh chị em hãy tin vào Chúa, và cầu nguyện với Chúa là Đấng gọi anh chị em. Với thái độ đó, chúng ta hãy nhìn mọi người và hãy gặp mọi người trong yêu thương, để cùng nhau tham gia vào công cuộc cứu độ của Chúa. Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót. Tình hình càng phức tạp, chúng ta càng phải tin vào Chúa và càng phải cầu xin với Chúa. Chỉ Chúa mới cứu được chúng ta. 15. Tin Chúa và cầu xin Chúa, đó là ơn gọi của chúng ta. Vững vàng tin Chúa, vững vàng cầu xin Chúa, cho dù trong đau đớn, cho dù có lúc không còn làm được gì khác, cho dù ơn gọi của chúng ta chỉ là thế thôi. Với tất cả lòng khiêm tốn, chúng ta hãy phó thác mình cho Chúa một cách trọn vẹn, nhờ Mẹ Maria yêu dấu của chúng ta. Long Xuyên, 27.12.2016
Chết là một biến cố tất nhiên phải tới. Biến cố tất nhiên đó đang rất gần tôi. Tuổi tác và bệnh tật báo tin đó cho tôi. Mỗi ngày tôi lại cảm thấy rõ hơn biên giới sự chết. Đúng thực là lúc này tôi đang ở biên giới sự chết. Bằng ánh sáng đức tin, tôi đang thấy gì ? Dưới đây xin được chia sẻ đôi chút tâm tư chân thành của một người chuẩn bị ra đi. 2. Sự tôi thấy rõ nhất là sự Chúa hiện diện. Hiện diện của Chúa không phải chỉ là một niềm tin, mà còn là một cảm nghiệm. Tôi như thấy Chúa. Tôi như cảm được Chúa ở bên tôi và ở trong tôi. Chúa hiện diện như một nguồn sáng đầy tình yêu. Chúa hiện diện như một Đấng thiêng liêng mang bản chất người cha. Chúa hiện diện như một sức mạnh quyền năng đầy mặc nhiên, nhưng lại rất gần gũi. 3. Sự tôi cũng thấy rất rõ là Chúa hiện diện đặt ra cho tôi câu hỏi này : “Con đã dùng đời con để làm gì ?”. Với câu hỏi đó, Chúa muốn tôi nhìn lại suốt cả đời tôi, từ quá khứ cho đến bây giờ. Với ơn Chúa, tôi thoáng nhìn lại đời mình. Trong thoáng nhìn đó tôi thấy Chúa cho tôi nhận ra rất rõ : Đời tôi có giá trị hay không có giá trị, hoặc nhiều hoặc ít, là do từ Chúa thẩm định, chứ không do từ tôi tự xét. Chính phán xét, chính Chúa thẩm định. Chứ không do tôi có quyền tự định đoạt cho mình. Khi Chúa xét, thì Chúa không quan tâm đến việc tôi làm là việc lớn hay việc nhỏ, mà Chúa để ý đến giá trị của những việc đó. 4. Giá trị quan trọng nhất mà Chúa xét nơi các việc tôi làm là các việc đó có hợp theo thánh ý Chúa không. Chúa dạy tôi điều đó trong lần Chúa nói về người môn đệ chân chính. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng : Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao ? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). Lời Chúa trên đây chỉ trong chốc lát đã cho tôi nhận ra phần nào giá trị các việc tôi làm suốt những năm qua. Những việc tôn giáo như lễ lạy linh đình, tổ chức hoành tráng, xây cất lộng lẫy, con số tăng cao về ơn gọi, về bác ái, về hành hương vv... Tôi cho là tất cả đều nhân danh Chúa, nhưng thực sự Chúa có nhận tất cả đều là đúng ý Chúa không. Tôi được thanh luyện nhờ sám hối chân thành. 5. Sự tôi cũng thấy rõ là tôi phải tránh tìm cho mình những lợi ích riêng tư, khi tôi dấn thân làm các việc đạo đức. “Khi làm các việc đạo đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1). Rồi Chúa áp dụng cho việc từ thiện (Mt 6,2-4); việc cầu nguyện (Mt 6,5-6), việc ăn chay (Mt 6,16-18). Phô trương đang được tôi nhìn thấy là một thứ nọc độc, mà trước đây tôi ít nhận ra. Đúng là ở biên giới sự chết, tôi được ơn nhận ra sự thật cứu rỗi tôi. 6. Sự thực cứu rỗi tôi còn là tôi phải tỉnh thức với những tư tưởng, ước muốn trong tâm hồn tôi. Nếu không tỉnh thức, để khám phá đúng và đưa vào trật tự các tư tưởng, ước muốn, xúc động trong trái tim, thì các thứ đó sẽ tạo nên một môi trường tâm linh xấu trong tôi và xung quanh tôi. Chính môi trường xấu đó sẽ là áp lực chống lại tình yêu Thiên Chúa (x. Mc 7,20-23). 7. Chống lại tình yêu Thiên Chúa là một xúc phạm tầy trời đến Thiên Chúa. Tội đó thường nẩy sinh ở những thái độ thông thường, như thái độ vô cảm, thái độ dửng dưng, thái độ bất cần, thái độ tự mãn, trong các thói quen sống đạo nặng về hình thức. 8. Sự tôi thấy rõ lúc này ở biên giới sự chết, đó là sự cần thiết tôi sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Nghỉ yên trong Chúa, không có nghĩa là được an nghỉ trong các việc lành tôi làm, mà chính là trong tình yêu của Chúa, một tình yêu được ban cho tôi một cách nhưng không, như một quà tặng, như một chia sẻ tấm lòng xót thương của Chúa. Sự nghỉ yên trong Chúa mà tôi ước mong và cầu nguyện như thế, đang làm cho tôi trở nên như trẻ thơ, khó nghèo và phó thác. Sự nghỉ yên trong Chúa cũng đang thôi thúc tôi hướng lòng lên với Chúa, để gặp gỡ thân mật với Chúa trong mọi tình huống, dù khi thức, dù khi ngủ. Sự nghỉ yên trong Chúa cũng đang là niềm tin : Tôi sẽ luôn luôn được ở trong tình yêu Chúa. Như lời thánh Phaolô quả quyết : “Tôi tin chắc rằng : Cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay quỷ dữ, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). 9. Tôi đang ở biên giới sự chết, nên tôi cảm thấy rất gần những linh hồn các người đã qua đời. Họ đang sống trong cõi đời sau. Họ có những nhắn nhủ thân thương gởi về những người còn sống trên cõi đời này. Nhắn gởi quan trọng nhất là “Hãy dùng đời mình để” yêu thương như Chúa đã yêu thương (Ga 13,34). Tức là yêu thương đúng theo thánh ý Chúa. 10. Những gì tôi chia sẻ trên đây đang là động lực thiêng liêng mạnh mẽ giúp tôi biết sống vui, cho dù phải vác thập giá. Thánh giá chính là hy vọng của Phục sinh. Ở biên giới sự chết, tôi ôm lấy thánh giá mà nói: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 25,45).
Những ngày này, tôi nhận được khá nhiều lời chúc Tết. Tôi đón nhận tất cả với lòng trân trọng biết ơn. Đến lượt tôi, tôi cũng muốn chúc Tết chính mình. Suy nghĩ và cầu nguyện xong, tôi nói với chính mình một lời chúc đơn sơ : “Xin cầu chúc cho chính mình được khôn ngoan như Chúa muốn”. Khi cầu chúc cho chính mình được ơn khôn ngoan, như Chúa muốn, tôi nhìn đời tôi như chiếc thuyền nhỏ giữa dòng lịch sử. 2. Dòng lịch sử đang chuyển biến phức tạp. Tôi không được Chúa dạy hãy bỏ dòng lịch sử đó mà đi nơi khác. Lịch sử ví như dòng sông lớn. Tôi không được Chúa sai đi uốn nắn dòng sông đó theo hình hài khác. Nhưng Chúa sai tôi vào dòng lịch sử đó, để sống Tin Mừng giữa những phức tạp của nó. Khôn ngoan là như thế. 3. Trôi giữa dòng lịch sử phức tạp đó, tôi không khẳng định mình là một quyền lực, cũng không là một người dạy dỗ áp đặt, nhưng tôi hãy chỉ là một tia sáng tình yêu, phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa. “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con. Ở điểm này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13, 14-15). Tôi xác tín : yêu thương là cách khôn ngoan để làm chứng cho Chúa. Khôn ngoan như thế đòi tôi phải khiêm nhường và tế nhị trong thái độ sống với các liên đới gần xa. 4. Cách đây đã mấy chục năm, tôi nói với một ông cán bộ thế này : “Nếu các anh bắt tôi, rồi lên án giết tôi, thì trước khi bắn tôi, xin cho tôi hai phút để nói lời sau cùng”. Ông cán bộ hỏi : “Lời sau cùng đó là gì ? Tôi thưa : đó là lời : Tôi vẫn thương các anh. Tôi không thù ghét gì các anh”. Nói xong, tôi hiểu Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho tôi, để nói lên điều chân thành đó từ đáy lòng mình, chính là một cách khôn ngoan về Tin Mừng giữa dòng lịch sử phức tạp hôm nay. 5. Muốn sống khôn ngoan giữa dòng đời phức tạp, để gieo rắc Tin Mừng, là điều không dễ. Rất nhiều khi, tôi đã cảm thấy chán nản, tối tăm, cô đơn, đau đớn. Thú thực là, có lần tôi đã than với Chúa cũng bằng chính lời Chúa Giêsu đã thốt lên xưa trên thánh giá : “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 16, 34). Nhưng, chính lúc đó, tôi như mở được lòng mình ra, để sự thất vọng ra đi, và đón nhận được tình yêu Thiên Chúa. Chúa cho tôi thấy sự hy sinh tôi chịu vẫn được Chúa đón nhận, để tình yêu trở thành của lễ có sức cứu độ. 6. Sự khôn ngoan trong nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng giữa dòng lịch sử phức tạp đòi người mục tử phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường đối với người khác, như thánh Phaolô nói : “Hãy coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12,16). Khiêm nhường trước mặt Chúa, cũng như thánh Phaolô dạy : “Bạn có gì mà bạn không nhận lãnh ? Nếu đã nhận lãnh, thì tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh” (1Cv 4,7). Khiêm nhường đối với chính mình : “Tôi là người không xứng đáng mang danh là tông đồ” (1Cv 9). Nói tắt là : có khiêm nhường mới biết sống khôn ngoan trong việc làm chứng cho Tin Mừng giữa lịch sử hôm nay. 7. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dạy cách làm sáng danh Chúa một cách chắc chắn nhất và cao cả nhất, đó là từ bỏ ý riêng, để vâng phục thánh ý Chúa Cha, dâng mình hy sinh chính mình làm của lễ đền tội cho nhân loại : “Lạy Cha, đã đến giờ. Xin Cha làm vinh danh Con Cha để Con Cha làm vinh danh Cha” (Ga 17,1). Điều Chúa Giêsu dạy trên đây thực là thiết thực và cao quý. Tôi thấy khôn ngoan làm chứng cho Tin Mừng giữa dòng lịch sử phức tạp tại Việt Nam hôm nay là phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Chúa, nhất là trong những trường hợp từ bỏ ý riêng là điều rất khó. 8. Kinh nghiệm nhiều năm sống tu đức cho phép tôi có nhận định này: từ bỏ ý riêng, từ bỏ cái tôi, là điều rất khó. Nếu không có ơn Chúa, tôi không thể vượt qua được cái khó đó, mà nếu cái tôi và ý riêng vẫn được nâng niu, thì sẽ mất khôn, để rồi làm chứng cho Tin Mừng giữa Việt Nam hôm nay có nguy cơ sẽ là phản chứng. 9. Vậy, phải làm thế nào để ta có được sự khôn ngoan, như Chúa muốn. Nói một cách đơn giản, thì để có sự khôn ngoan như Chúa muốn, chúng ta cần được Chúa biến đổi, để biết sống tự do đích thực của người con Chúa. Thánh Phaolô viết : “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có sự tự do. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cùng một hình ảnh đó, ngày càng rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3, 17-18). 10. Vài suy nghĩ trên đây về điều chúc Tết cho chính mình cũng sẽ là điều tôi định tâm thực hiện cho mùa Chay đang tới. Tình hình đang rất bất ổn. Chúng ta cần phải khôn ngoan. Khôn ngoan sau cùng, mà Chúa Giêsu dạy là : “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Long Xuyên 09.01.2017
Thánh lễ tạ ơn này đang được cử hành trong bầu khí gia đình. Tôi xin thân ái cảm ơn hai Đức cha giáo phận Long Xuyên. Tôi cũng thân ái cảm ơn tất cả mọi người gần xa đang nhớ về tôi. Tôi tin thánh lễ này đang được nhiều Đấng thiêng liêng trên trời tham dự. Đây là dịp rất đặc biệt, để tôi làm chứng về Chúa, là Đấng đã cứu tôi. 2. Thưa anh chị em thân mến, Nếu cần phải giới thiệu mình, thì tôi xin nói về tôi như sau: Thánh Phaolô đã ví mình như chiếc bình sành, mỏng giòn dễ vỡ (2Cr 4,7), thì tôi cũng như thế và còn hơn thế. Thánh Phêrô đã ví mình như một thứ mồi, mà quỷ Satan hùng hổ dữ tợn tìm cắn xé (1Pr 5,8), thì tôi cũng vậy. Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ là những kẻ mê ngủ, xác thịt nặng nề (Mc 14,37-38), thì tôi cũng như thế một cách kinh khủng. Trên đây, chỉ là vài nét của thân phận con người của tôi. Chứ nói sao cho hết được những bóng tối nơi tôi. Như bao nhiêu tiềm năng xấu, bao nhiêu khiếm khuyết, bao nhiêu nỗi đau khổ xác hồn. 3. Nhận thức mình là yếu hèn tội lỗi, đời mình là một chuyến đi đầy gian nan trắc trở, phải chiến đấu với nhiều cám dỗ và áp lực, tôi thấy mình cần được cứu, tôi khao khát được cứu. Chính trong tình trạng đó, tôi đã được ơn Chúa soi sáng là hãy cầu xin với Chúa. Cầu xin Chúa, cầu cứu với Chúa, đó là việc tôi thực hiện thường ngày một cách tự nhiên, từ đáy lòng mình, với niềm tin và khó nghèo chân thực. 4. Thế rồi, tôi đã gặp được Chúa. Chúa đã đến với tôi, những lúc tôi không ngờ. Người cứu tôi, theo cách của Người. Người cứu tôi theo như ý của Người, chứ không theo ý của tôi. Người cứu tôi qua Hội Thánh, qua Giáo phận, qua biết bao người giầu thiện tâm thiện chí, qua chính những anh chị em thân yêu đang hiện diện trong tôi. Người cứu tôi, nhất là bằng những tha thứ đầy yêu thương. Người cứu tôi bằng những nguồn ơn thiêng giầu bồi dưỡng ủi an. Chúa đã cứu tôi, đó là tóm tắt Tin Mừng, mà tôi loan báo. 5. Dù được cứu cho khỏi bệnh tật hay khỏi sự khốn khó nào khác, tôi vẫn cảm thấy sự cứu độ, mà Chúa muốn thực hiện nhất nơi tôi, vẫn là cứu tôi cho khỏi tội lỗi, khỏi đi lạc đường, khỏi mọi sự dữ mà Chúa đã dạy trong kinh Lạy Cha. 6. Do vậy, nếu biết nhờ Chúa mà tỉnh thức và cầu nguyện, tôi thường đón nhận được nhiều cái mới Chúa ban cho để cứu tôi. Như sự sống mới, tình yêu mới, chân lý mới, ơn sám hối mới. Chúa ban cho tôi từng giọt sự sống ấy, từng giọt tình yêu ấy, từng giọt chân lý ấy, từng giọt sám hối ấy, để những cái mới đó thấm dần vào con người của tôi. Nhờ vậy, mỗi ngày, tôi được cảm thấy mình thuộc về Chúa hơn. Thuộc về Chúa là một cuộc chiến đấu cam go. Thế gian, ma quỷ, xác thịt luôn tìm cách kéo tôi xa Chúa, nhất là bằng những hình thức đạo đức không thực sự có căn bản Phúc Âm. Nhưng Chúa đã cứu tôi bằng nhiều cách lạ lùng. 7. Trong khi tôi được Chúa cứu như vậy, tôi lại được Chúa sai đi, để cùng với Chúa, tham gia vào chương trình cứu độ của Chúa trong lịch sử hôm nay. Chúa dạy tôi cách tham gia tốt nhất để cứu người khác, là hãy bắt chước Chúa Giêsu, mà không tìm kết án, nhưng là tìm tha thứ và đền tội thay. 8. Dù được sai đi làm gì, và được sai đi đâu, tôi vẫn coi việc sống thân mật với Chúa là cần thiết nhất. Như lời Đức Kitô đã dạy: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Chính nhờ sống thân mật này, mà tôi được thấy rõ Lời Chúa phán xưa: “Không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). 9. Trên đây là một thoáng nhìn về cuộc đời 90 năm của tôi. Trong quá khứ, Chúa đã là Đấng cứu độ của tôi. Trong hiện tại, Chúa đang là Đấng cứu độ của tôi. Trong tương lai, Chúa vẫn sẽ là Đấng cứu độ của tôi. 10. Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Tôi làm chứng sự thực đó qua kinh nghiệm sống của tôi. Chúa sai tôi đi, nói lên sự thực đó với tất cả tấm lòng cảm tạ khiêm cung. Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Sự thực đó tôi cũng đã được nhận thấy một cách sâu sắc nơi anh chị em, trong Hội Thánh và trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu. Nhiều người trong anh chị em cũng là chứng nhân cho sự thực đó. Sự thực đó sẽ là bí quyết cần thiết cho những năm tới đầy thử thách có tính cách sống còn. 11. Tôi có cảm tưởng là những năm tới đây, sẽ xảy ra một thứ đại hồng thủy vô hình sẽ tàn phá nhiều trật tự ở những quy mô lớn. Tình hình bất ổn. Vàng thau lẫn lộn. Nhưng Chúa sẽ cứu những người được Chúa xót thương. 12. Với cái nhìn đó, tôi xin phó thác mình tôi và anh chị em cho Chúa, qua tay Mẹ Maria nhân lành, để an tâm, lên đường phục vụ ý Chúa, mong đời mình sẽ luôn được là của lễ mọn hèn cảm tạ Chúa cứu độ giàu lòng thương xót. Của lễ mọn hèn này sẽ như một hạt lúa chôn vùi xuống đất để được chết đi cho nhiều người khác (Ga 12,24). 13. Xin Chúa xót thương tất cả chúng ta, giúp chúng ta biết nhìn nhận thánh ý Chúa mới chính là mùa Xuân đích thực. Năm mới này, nếu đời tôi không còn điều kiện để hoạt động được gì, mà chỉ còn là của lễ âm thầm trên thánh giá, thì thiết tưởng đó cũng chính là phục vụ rất hợp ý Chúa. Xin cầu nguyện cho tôi. Long Xuyên, 19.1.2017
1. Những ngày cuối năm và đầu năm, tôi nghĩ về Chúa rất nhiều. Việc đầu tiên tôi làm đối với Chúa là cảm tạ Chúa. Cảm tạ Chúa là việc làm tốt. Thế mà Chúa đã cảnh giác tôi. 2. Hôm rồi, có một lúc không ngờ, đang lúc tôi sốt sắng cảm tạ Chúa vì nhiều ơn Chúa đã ban cho tôi trong những tháng ngày vừa qua, thì Chúa đưa trí khôn tôi nhớ lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về hai người cầu nguyện. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế, thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, vì con tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14). 3. Nhớ lại bài dụ ngôn trên đây, tôi được Chúa nhắc nhở một điều quan trọng, đó là: khi tạ ơn Chúa, nhất là khi tổ chức lễ tạ ơn một cách trọng thể, tôi cần phải rất thận trọng. Bởi vì, người ta dễ lợi dụng dịp đó, để mà khoe khoang, tìm tư lợi, thậm chí còn coi mình là đạo đức hơn người khác, để khinh chê, vạch mặt và kết án người khác. 4. Thái độ kiêu ngạo của nhà đạo đức Pharisêu, mà Chúa tả trong dụ ngôn trên đây, vẫn là chuyện thời sự của mọi thời. Thời nay vẫn thế. Do vậy, mà kiêu ngạo đã và đang bình thản ung dung đi vào nhiều nơi trong Hội Thánh. 5. Hậu quả xảy ra đúng như thánh Phêrô quả quyết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, là không ban cho họ được ơn cứu rỗi, hơn nữa, còn để cho họ bị quỷ Satan sai khiến, dùng các hình thức đạo đức, để thực hiện ý đồ gian dối, ác độc. 6. Vậy, tôi phải làm gì, khi tạ ơn Chúa? Thưa, khi tạ ơn Chúa, tôi cần tạ ơn Chúa, nhất là vì ơn Chúa ban cho tôi được nhận biết mình tội lỗi yếu đuối, cần được Chúa xót thương. Nhận biết mình là kẻ tội lỗi yếu đuối trước mặt Chúa là điều khó, cần có ơn Chúa. Nhận biết mình là kẻ tội lỗi yếu đuối trước mặt cộng đoàn, xã hội là điều càng khó, cần có ơn Chúa. 7. Đến đây, tôi nhơ lại những điều Đức Mẹ Maria đã nhắn gửi ở Fatima, trước đây 100 năm. Một trong những nhắn gửi rất quan trọng, mà Mẹ tha thiết nhất, đó là hãy khiêm nhường sám hối. Để sám hối, thì cần nhận biết mình tội lỗi yếu đuối. Mất ý thức về tội, nhất là về tội kiêu ngạo, đó là thảm họa khủng khiếp hiện nay. Mà kiêu ngạo lại chính là đầu mối mọi thứ tội đã làm hư tổ tông loài người và một phần không nhỏ các thiên thần xưa. 8. Càng ngày tôi càng xác tín, mọi người bất cứ ở bậc nào và trong cương vị nào, vấn đề quan trọng đặt ra cho mình chính là tu thân. Và trong tu thân thì khiêm nhường phải là căn bản. Khốn nỗi là hiện nay, vấn đề tu thân dần như không còn được đề cao, khiêm nhường vì thế cũng không còn được coi là một giá trị làm nên phẩm giá con người. 9. Chính vì thế, mà để cứu mình và cứu đời, tôi thấy rất cần trở về với vấn đề tu thân và khiêm nhường, mà Chúa Giêsu đã dạy trong Phúc Âm. Trở về ngay chính hôm nay, lúc này, dịp đầu năm mới. Bởi vì, năm mới này sẽ có những thử thách, chỉ có thể vượt qua được, nhờ tu thân và khiêm nhường. 10. Hôm nay, tôi xin Chúa thương giúp tôi trở về với tu thân và khiêm nhường. Một lúc bất ngờ, Chúa dạy tôi hãy học điều đó ở Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 8, về chuyện các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ đòi phải theo luật mà ném đá người phụ nữ đó. 11. Chúa Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Nghe vậy, họ hiểu họ cũng là những kẻ tội lỗi, nên rút lui hết. Sự kiện này dạy tôi là đừng mượn danh luật đạo, mà đòi ném đá ai. Nhận mình cũng là kẻ tội lỗi, để không dám lên mặt kết án những kẻ yếu đuối, đó chính là tu thân và khiêm nhường. 12. Chúa Giêsu lại nói với người phụ nữ: “Thôi, từ nay, con đừng phạm tội nữa. Thầy không kết án con, con hãy về bình an”. Với lời nói trên đây, Chúa cho thấy tu thân và khiêm nhường, mà Chúa muốn là hãy nhìn và tin vào lòng thương xót Chúa. Đối với riêng tôi, chính lòng thương xót Chúa đã cảm hóa tôi. Nhận mình tội lỗi yếu đuối, nhưng tin vào lòng thương xót Chúa để có sức trở về. Đó là tu thân và khiêm nhường đã an ủi và nâng đỡ tôi rất nhiều trên đường trở về với Chúa. 13. Tu thân và khiêm nhường của tôi không phải là chỉ lo cho kẻ nghèo, mà còn phải lo cho người tội lỗi yếu đuối. Lo cho người tội lỗi vì yếu đuối là không nhân danh đạo đức mà ném đá họ nhưng hãy thương họ, bằng sự tin vào tình yêu thương xót của Chúa. 14. Với chính chia sẻ trên đây, tôi xin gửi đến mọi người bằng chứng về ơn Chúa ban cho tôi trong ngày đầu năm. Ơn này sẽ giúp tôi có một cái nhìn mới đối với những kẻ tội lỗi do yếu đuối. Chính tôi là kẻ tội lỗi do yếu đuối, nhưng được Chúa thương cứu độ, không nhờ công phúc của tôi, nhưng nhờ tình yêu hy sinh khiêm nhường của Đấng Cứu Thế. Long Xuyên, chiều giáp Tết Đinh Dậu
(27-01-2017)
1. Tình hình xã hội đang diễn biến phức tạp. Tình hình Hội Thánh đang chuyển biến khó lường. Tình hình của bản thân tôi cũng đang thay đổi cả phần hồn lẫn phần xác một cách đáng sợ. Trước những tình hình này, tôi phải làm gì, để cứu mình và góp phần cứu những người khác? Tôi cầu nguyện tha thiết. Và Chúa dạy tôi: “Hãy làm mới lại đời sống nội tâm”. 2. Đời sống nội tâm là đời sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. “Người là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đời sống nội tâm là đời sống có Chúa Giêsu ngự trong lòng mình, như thánh Phaolô quả quyết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). 3. Đã từ lâu lắm rồi, tôi sống nội tâm. Chúa Giêsu trong tôi đã nói với tôi lời Người đã nói xưa với các môn đệ của Người, trước giờ Người tự nguyện bước vào cuộc thương khó: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). 4. Nhưng, từ ít ngày nay, Chúa Giêsu đã nói đi nói lại lời đó với tôi cách tha thiết hơn. Tôi nghe được tiếng của Người. Đôi lúc tôi như được nhìn thấy Người. Rất mừng là nhiều lúc tôi nhận được cảm tình nồng ấm của Người kèm theo lời Người và hình ảnh của Người. 5. Hơn nữa, một lúc bất ngờ, tôi thấy Người quỳ gối xuống rửa chân cho tôi. Qua việc làm đầy khiêm tốn đó, tôi hiểu tình yêu mà Chúa đang cho tôi có đặc điểm là khiêm nhường hiền lành, đúng như lời Người đã phán xưa: “Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). 6. Một thoáng nhìn lại đời mình, tôi thấy Chúa đã không biết bao lần hiền từ và khiêm tốn rửa các tội lỗi tôi, với cư xử như quỳ xuống rửa chân cho tôi. Hãy yêu thương, như Chúa yêu thương, là phải như thế đó. 7. Với tất cả những gì tôi được nghe thấy, được nhìn thấy, được cảm thấy trong nội tâm tôi mấy ngày nay, tôi hiểu sự làm mới nội tâm là rất cần thiết, nhất là cần thiết để được yêu thương như Chúa yêu thương. 8. Yêu thương lúc này đang bị khủng hoảng khắp nơi, dưới nhiều hình thức. Đạo công giáo là đạo yêu thương cũng không tránh được những khủng hoảng phức tạp. Nhiều nơi, khủng hoảng về yêu thương đã trở thành trầm trọng, khi đời sống nội tâm bị phá sản một cách thê thảm, mà không chút gì là có dấu hiệu ăn năn. 9. Nói thế không có nghĩa là nói về tất cả mọi nơi và mọi người công giáo. Bởi vì cũng có nhiều người đang nói được về mình như thánh Phaolô xưa: “Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người đau yếu. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để cho tất cả mọi người được cứu rỗi” (1Cr 9,22-23). Làm được như vậy, sẽ phải rất giàu tình yêu thương khiêm nhường hiền lành. Nhưng kết quả sẽ rất tốt, vì thu hút được kẻ yếu đuối, đem lại cho họ cơ hội được cứu rỗi. 10. Chính tôi đã có kinh nghiệm đó. Bởi vì tôi đã nhiều lần được cứu, nhờ được thu hút bởi những người đã ăn ở như người đau yếu như tôi. Họ tỏ ra đau đớn như tôi, yếu đuối như tôi, cô đơn như tôi, để với tư cách như thế mà đến với tôi, mà yêu thương tôi. Tôi nhận ra Chúa nơi họ. 11. Tôi chợt nhớ lại lời thánh Phaolô nói về gương Chúa Giêsu đã rất khiêm nhường trong yêu thương, để cứu con người. “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá” (Pl 2, 6-8). Yêu thương một cách rất khiêm nhường như Chúa Giêsu Kitô, đó là điều đang đặt ra cho đời sống nội tâm của tôi. 12. Tôi không có quyền lựa chọn khác. Lựa chọn khác đang là cơn cám dỗ rất mạnh. Cám dỗ rất mạnh và rất nhiều trong từng ngày và trong mọi lúc, hầu phá vỡ đời sống nội tâm, để nội tâm trở nên vắng Chúa, và do đó không còn yêu thương như Chúa yêu thương. Tôi có kinh nghiệm về những cám dỗ như thế. 13. Để đối phó, tôi được Chúa dạy vắn tắt những điều sau đây:
Hãy nghĩ về cõi đời đời,
Để trong cõi đời đời, tôi được hạnh phúc, thì ở đời này tôi phải biết yêu thương.
Tôi sẽ bị Chúa phán xét đặc biệt về yêu thương,
- “Kẻ nói mình mến Chúa mà mình không nhìn thấy, nhưng lại không yêu thương chị em mình là kẻ mình nhìn thấy, thì đó là kẻ nói dối” (1 Ga 4,20). 14. Những người sống đúng những điều Chúa dạy trên đây cũng đang dạy tôi. Họ là những vị thánh đã được phong. Họ cũng là những vị thánh không được phong và đang ở xung quanh tôi đây. Họ đang được Chúa làm mới lại nội tâm của họ. Họ cộng tác với ơn Chúa một cách khiêm nhường và tỉnh thức. 15. Họ cộng tác với ơn Chúa một cách khiêm nhường và tỉnh thức bằng sự phát triển hằng ngày từ trên cao. Như là
Họ cầu nguyện và đọc lời Chúa.
Họ lãnh nhận các bí tích,
Họ đặt mình dưới cái nhìn của Chúa bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Họ phục vụ bằng những việc nhỏ, nhưng với tình yêu thực lớn với nhiều tế nhị.
Chính những người như thế đang làm nên một bầu khí thiêng liêng rất thuận lời cho việc mở rộng Nước Thiên Chúa giữa thế giới phức tạp hôm nay. 16. Họ làm tôi nhớ về Đức Mẹ Maria và thánh Giuse. Hai Đấng thánh này đã sống đời sống nội tâm một cách hoàn hảo. Tôi cầu xin hai Đấng giúp tôi là kẻ yếu đuối dại dột. Các Ngài đang giúp tôi. Long Xuyên, ngày 6.2.2017
1. Đời tôi tương đối đã khá dài. Suốt dọc chuyến đi dài đó trong lịch sử, tôi đã trải qua nhiều chặng đường tăm tối. Tăm tối như đêm. Đêm có nhiều sợ hãi khủng khiếp. Đêm có những cô đơn nặng nề. Đêm có những thao thức dằn vặt. Đêm có những trăn trở lăn mình vào thất vọng. Nhưng chính trong một số đêm tăm tối đó, Chúa đã gọi tôi. 2. Không phải chỉ có tôi được Chúa gọi. Số người được gọi là khá đông. Họ khích lệ tôi. Ở đây, tôi nhớ lại cách riêng một số nhỏ trường hợp Chúa gọi trong đêm đã được ghi trong Kinh Thánh, để tôi thêm vững tin vào Đấng đã gọi tôi. 3. Tôi nhớ tới Samuel. Hồi đó, Samuel còn nhỏ, giúp việc trong đền thờ cho thầy cả Êli. Một đêm, khi Samuel đang ngủ, thì Chúa gọi cậu. Cậu không thấy ai, chỉ nghe thấy tiếng. Tiếng gọi đến ba lần. Samuel được ơn gọi trong đêm ấy, để đi vào lịch sử với rất nhiều gian nan, nhưng luôn tin vào Chúa (x. 1Sm 3,1-18). 4. Tôi nhớ tới Thánh Giuse. Ngài được sứ thần Chúa đến với Ngài trong lúc Ngài ngủ ban đêm tăm tối, để yêu cầu Ngài an tâm nhận Maria làm bạn trăm năm (x. Mt 1,20). Thánh Giuse, một đêm tăm tối đang ngủ, thì được sứ thần Chúa đến, bảo Ngài hãy đem gia đình trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13). Thánh Giuse, cũng một đêm tăm tối đang ngủ, thì lại được sứ thần Chúa đến, bảo Ngài hãy đưa thánh gia trở về Israel (x. Mt 2,19). Thánh Giuse nhận được ơn gọi trong những đêm tăm tối, để đi vào lịch sử với rất nhiều gian nan, nhưng luôn tin vào Chúa. 5. Tôi nhớ tới Chúa Giêsu. Đêm thứ Năm, trước cuộc thương khó, Người đã cầu nguyện ở vườn Cây Dầu. Tại đây, Người đã trải qua một cơn xao xuyến, như một cơn hấp hối đau đớn tột độ. “Bấy giờ có thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Chúa Giêsu đã nhận được sức mạnh từ Chúa Cha, trong đêm hãi hùng đó, để bước vào cuộc thương khó đầy khổ đau, với niềm tin phó thác vào Chúa Cha. Cũng Chúa Giêsu, sau khi được an táng trong mồ đá, thì đêm đó là đêm đầy hãi hùng cho các môn đệ Chúa. Nhưng chính trong đêm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã sống lại, đúng như lời Chúa đã báo trước. Ơn gọi phục sinh cũng đã xảy ra trong một đêm đầy sợ hãi, buồn phiền, hầu như thất vọng. 6. Chúa đã gọi trong những đêm tăm tối. Chúa đã gọi trong những hoàn cảnh tối tăm như tăm tối hãi hùng. Đó là vấn đề đang làm tôi suy nghĩ, để sống ơn gọi hôm nay. 7. Một hôm, khi đang đi trong một xóm dân nghèo. Cảnh nghèo, cảnh khổ, cảnh lầm than của họ là hình ảnh một đêm tăm tối. Bỗng, tôi nhìn thấy mấy nữ tu đang ôm vào lòng những em bé nghèo, và đang âu yếm chăm sóc những người già yếu cô đơn. Tôi chợt nghe tiếng Chúa gọi tôi qua những nữ tu đó, trong cảnh nghèo như đêm tăm tối ấy. 8. Một hôm, khi tôi đang sống trong sự sợ hãi, như mất niềm tin đối với một số những người quen biết. Chính lúc đó tôi lại bị đau bệnh. Tình trạng trên đây đưa tôi vào một đêm tăm tối trong tâm hồn. Ngay hôm đó, một người đến thăm tôi. Họ đem đến cho tôi tình thương chân thành, khiêm tốn, tế nhị. Họ giúp tôi thoát khỏi đêm tăm tối trong tâm hồn. Tôi nhận ra Chúa nơi họ. Chúa gọi tôi qua họ. 9. Những kinh nghiệm trên đây cùng với những gì Chúa đã làm cho tiên tri Samuel, cho Thánh Giuse, cho Chúa Giêsu, qua những sứ thần của Chúa trong những đêm tăm tối xưa đã dạy tôi hai điều: 10. Điều thứ nhất là tôi phải hết lòng cảm tạ Chúa, vì ơn Người đã cứu tôi bao lần khỏi những cảnh tăm tối như đêm hãi hùng. Người đã sai một số người tốt đến với tôi. Tôi nhận ra họ là người của Chúa. Họ cứu tôi bằng tình thương tế nhị, khiêm nhường. Họ như những sứ giả được Chúa sai đến với tôi, để cứu tôi, chứ không để kết án tôi. 11. Điều thứ hai là tôi phải hết sức khôn ngoan, khi muốn cứu cá nhân nào hay cộng đoàn nào khỏi những cảnh tối tăm như đêm giữa ban ngày. Khôn ngoan là phải được Chúa sai đi. Khi đến nơi, thì phải đem tình thương của Chúa đến. Một tình thương khiêm tốn, chân thành, nhẹ nhàng, tế nhị. Nếu người ta đón nhận tình thương đó, thì rất tốt. Nếu người ta chối từ, thì tôi vẫn đợi chờ cũng bằng tình thương khiêm tốn kiên trì. 12. Khi thực hiện hai điều trên đây, tôi thấy tôi cần phải rất bé nhỏ. Bé nhỏ và trở nên bé nhỏ, đó là một điều Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ nhỏ” (Lc 18,16). Mấy ngày nay, khi nghĩ về lời Chúa trên đây, tôi liên tưởng đến ba trẻ nhỏ ở Fatima đã được xem thấy Đức Mẹ hiện ra, và đã được đón nhận các sứ điệp của Đức Mẹ Maria, để chuyển lại cho Đức Thánh Cha và cho toàn thế giới. Tôi muốn được trở nên bé nhỏ như ba trẻ nhỏ ở Fatima, nhưng mong muốn của tôi sẽ chỉ được thực hiện nhờ ơn Chúa và theo ý Chúa mà thôi. 13. Trở nên bé nhỏ như trẻ nhỏ đã là điều khó. Trở nên bé nhỏ như một chút men, lại càng khó. Thế mà Chúa Giêsu lại muốn tôi trở thành nắm mem, để vùi vào thùng bột. Chúa phán: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm mem bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,33). 14. Khi tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi được trở nên bé nhỏ, tôi cảm thấy bình an và hạnh phúc. Cũng lúc đó, tôi nhìn về tương lai Hội Thánh tại Việt Nam, tôi được Chúa cho thấy: Truyền giáo tại Quê Hương tôi sẽ rất thành công với những ai bé nhỏ như men âm thầm, và sẽ thất bại với những ai tỏ mình như một quyền lực cạnh tranh ồn ào. Đúng là Chúa đang gọi tôi trong đêm tối. Vâng lời Chúa, tôi lên đường. Chuyến đi sẽ gian nan. Nhưng tôi tin Chúa đồng hành với tôi. Tôi bé nhỏ phó thác mình cho Chúa. Đó là hạnh phúc của tôi. Ánh sáng trong đêm tối chính là Chúa. Long Xuyên, ngày 10.02.2017.
1. Từ rất nhỏ, tôi được nghe nhiều lần Bố tôi kể lại lời trối của Ông Nội tôi, đại khái như sau: Trong giờ hấp hối, Ông Nội gọi tất cả các con lại bên mình và trối rằng: Các con hãy yêu mến Thánh Giuse một cách đặc biệt. Thánh Giuse rất thương kẻ nghèo. Gia đình mình cũng nghèo. 2. Với lời trối đơn sơ đó của Ông Nội, tôi thường cầu nguyện với Thánh Giuse. Khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, tôi càng cầu nguyện với Ngài một cách tha thiết và gắn bó hơn. 3. Được gần gũi với Thánh Giuse, tôi hay được Ngài dạy bảo. Ngài dạy bảo tôi một cách nhẹ nhàng, có vẻ chậm rãi. Không có gì gọi được là áp đặt cả. Riêng trong lãnh vực tu đức, tôi xin diễn tả con đường Ngài dạy tôi vắn gọn như sau: 4. Hãy khiêm tốn quên mình. Xưa, khi được sứ thần Chúa báo cho Ngài biết ý Chúa là: Hãy hãy đón nhận trinh nữ Maria làm bạn trăm năm, để bảo vệ trinh nữ và hài nhi Giêsu, thì Thánh Giuse đã khiêm tốn quên mình. Ngài không nghĩ gì đến quyền của người gia trưởng, trái lại Ngài coi mình như người bảo vệ. 5. Rồi, khi được sứ thần Chúa báo cho Ngài: Hãy đem Maria và hài nhi trốn sang Ai Cập, Ngài đã khiêm tốn quên mình. Ngài không nghĩ gì đến quyền được mang nhiều tài sản theo mình, mà chỉ lên đường một cách rất nghèo, coi Hài Nhi và Mẹ Hài Nhi mới chính là tài sản, mà mình phải bảo vệ một cách khôn ngoan. Ngài cũng không nghĩ gì đến quyền được tỏ mình ra là một quyền lực thiêng liêng có thể đối đầu với bạo chúa Hêrôđê. Trái lại Ngài rất kín đáo quên mình, dấn thân mình vào chuyến đi dài đầy gian nan một cách khiêm nhường phó thác. 6. Thêm vào sự khiêm tốn quên mình là hãy khiêm tốn hoà mình. Xưa, ở Belem, ở ai Cập, cũng như ở Nadarét, Thánh Giuse đã luôn khiêm tốn hoà mình vào lớp người bình dân, nghèo khó. Sống giữa họ, sống như họ, sống nhờ họ, sống chia sẻ chan hoà với thân phận xóm nghèo. Khiêm tốn hoà mình nơi Thánh Giuse có thể ví như hình ảnh tấm men nhỏ được hoà trong thúng bột, mà Chúa Giêsu đã nói về hình ảnh Nước Trời (x. Mt 13,33). Kín đáo, âm thầm, nhưng hoà tan để biến đổi vô số lòng người. 7. Hơn nữa, hãy khiêm tốn chôn vùi mình. Xưa, trong suốt cuộc sống, Thánh Giuse đã vất vả, nhọc nhằn, với nhiều hy sinh thường ngày. Ngài đã chôn vùi mình vào những hy sinh đó, như một hạt lúa được chôn vùi để chịu chết đi, đúng như lời Chúa Giêsu đã phán: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). 8. Chôn vùi mình một cách khiêm tốn vào những hy sinh hằng ngày, mà chỉ mình Chúa thấy, đó là điều tu đức, mà Thánh Giuse luôn nhắc tôi, nhất là thời gian này tôi đang phải trải qua nhiều thử thách do tuổi già bệnh tật. 9. Ba điều trên đây về tu đức, mà thánh Giuse dạy tôi, thực rõ ràng. Thế mà tôi thực hiện chưa đi đến đâu. Tôi thường thú thực như thế với Thánh Giuse. Ngài an ủi tôi bằng nhiều cách. Ngài khuyên tôi đại khái là: Cứ chầm chậm, cứ nhẹ nhàng, cứ kiên trì. 10. Dần dần, tôi hiểu ý Thánh Giuse là muốn tôi hãy sống bé nhỏ. Bé nhỏ là luôn phải coi mình cần đến ơn Chúa. Bé nhỏ là luôn phải học tập. Bé nhỏ là luôn phải coi mình còn kém hơn những người khác. Tóm lại bé nhỏ là khiêm nhường. 11. Nếu đúng là thế, thì để sống bé nhỏ, tôi không nhìn vào tôi, cho bằng tôi nhìn vào Chúa Giêsu. Tôi nghĩ thánh Giuse xưa cũng đã nhìn vào Chúa Giêsu, để coi đó không những là gương để noi theo, mà còn là nguồn mạch ơn khiêm nhường để mà đón nhận những gì chỉ làm được nhờ ơn Chúa mà thôi. 12. Ơn khiêm nhường để sống bé nhỏ, đang được ban cho nhiều người tại Việt Nam hôm nay. Thánh Giuse chính là Đấng thánh đang âm thầm gieo những hạt giống khiêm nhường vào nhiều tâm hồn. Ngài gieo những hạt giống đó trong thinh lặng. Ngài gieo một cách kín đáo, chầm chậm, nhẹ nhàng, kiên nhẫn. Tôi đang thấy như vậy. 13. Và đó là niềm vui và hy vọng của tôi, trước một hình hình Hội Thánh và nhân loại đang hốt hoảng bởi sự xuất hiện nhiều thứ bạo chúa, bạo quyền, bạo lực, bạo ngôn, bạo hành, bạo loạn. Tất cả đều do kiêu ngạo. 14. Riêng tôi, tôi đang hân hoan được bước theo thánh Giuse. Tôi tập quên mình, tôi tập hòa mình, tôi tập chôn vùi mình. Bởi vì tôi tin vào Chúa. Tin vững vàng, tin tuyệt đối, tin với tất cả lòng khiêm tốn bé nhỏ. Cho dù tình hình có những chuyển biến phức tạp và nguy hiểm, tôi vẫn tin vào Chúa, nhờ lời cầu của thánh Giuse là Đấng luôn tin vào Chúa. Long Xuyên, 18.02.2017
1. Bước theo Thánh Giuse là cả một chuyến đi dài. Chuyến đi dài của tôi là cuộc đời đã 90 năm. 90 năm tôi bước theo Thánh Giuse. Càng về già, tôi càng thấy rõ hơn những gì là tốt đẹp nhất, mà tôi đã học được, khi bước theo Thánh Giuse. Thánh Giuse đã âm thầm dạy tôi sự khôn ngoan, mà Ngài đã nhận được từ Chúa Thánh Thần. Tôi xin phép chia sẻ phần nào, cách riêng trong lãnh vực tu đức và mục vụ. 2. Trước hết, Thánh Giuse luôn tỏ mình ra là con người của tình yêu. Ngài mến tin Thiên Chúa là Cha trên trời một cách tuyệt đối. Ngài yêu thương bạn trăm năm của Ngài là Đức Maria một cách nồng nàn khôn tả. Ngài tha thiết gắn bó với Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, được trao phó cho Ngài bảo vệ. Ngài xót thương các linh hồn, mà Chúa Giêsu muốn cứu, với tất cả tấm lòng sẵn sàng hy sinh. 3. Tất cả những tình yêu trên đây đều cháy bừng bừng trong trái tim Ngài. Lửa tình yêu ấy toả sáng. Người ta nhìn là thấy ánh sáng đó do tình yêu toả ra. Tôi nhìn, và đã thấy tình yêu của Thánh Giuse toả ra một thứ ánh sáng rất đẹp. Đẹp, vì ánh sáng đó có những màu sắc sau đây: Màu sắc thứ nhất là tinh thần khiêm tốn. 4. Yêu thương nào của Thánh Giuse cũng đều có màu khiêm tốn, nhã nhặn. Khiêm tốn nhã nhặn đó xuất phát từ trái tim Ngài. Trái tim Ngài có Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Đấng hiền lành, khiêm nhường (Mt 11,29). Sự khiêm nhường của tình yêu Chúa Giêsu được thánh Phaolô diễn tả như những bước xuống tự nguyện: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàn nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2,7-8). Màu sắc khiêm tốn của tình yêu Chúa Giêsu được coi là yếu tố làm nên vinh quang Chúa. 5. Màu sắc thứ hai là tinh thần trách nhiệm. Tôi cảm thấy tinh thần trách nhiệm của Thánh Giuse là một tình yêu dấn thân vào một chuyến đi đầy gian nan. Ngài biết thế. Nên không nhởn nhơ, an phận, tới đâu thì tới. Trái lại, Ngài đã rất lo. Ngài có nhiều khao khát, nhiều thao thức, nhiều trăn trở, nhiều đau đớn lòng. Tinh thần trách nhiệm của Thánh Giuse gồm hai yếu tố quan trọng: Một là bỏ hết mọi sự, mà trước đây mình gắn bó. Hai là coi việc bảo vệ Chúa Giêsu là ơn được sai đi, mà mình phải thực hiện hết mình. Cả hai yếu tố đó đều do Chúa đòi hỏi nơi Ngài. Đó là một mạc khải Chúa dành cho Ngài. Ngài nhận ra lòng thương xót Chúa dành cho Ngài. Ngài cảm tạ Chúa vì ơn riêng đó. Vì thế, tinh thần trách nhiệm nơi Ngài là rất chiêm niệm, và cũng rất hoạt động. Vói tinh thần trách nhiệm như thế, Thánh Giuse coi mình là kẻ được Chúa thương cứu rỗi một cách đặc biệt. 6. Màu sắc thứ ba là tinh thần kiên trì, đối phó với mọi thử thách. Thánh Giuse đã chịu thử thách rất nhiều. Các thử thách đã đến với Ngài, như sẽ đến với Chúa Giêsu. Ngài đã đi vào cuộc thương khó. Bị loại trừ, bị xua đuổi, bị lùng bắt, bị cô đơn, đã là những thử thách mà Thánh Giuse đã trải qua ở Belem, ở Ai Cập. Bị vất vả nhọc nhằn, đó là thử thách, mà Thánh Giuse đã trải qua nhiều năm ở Nadarét. Phải kiên nhẫn đợi chờ ngày Chúa sẽ cứu dân Người, như dân Chúa hằng mong ước, thế mà từng năm qua đi, vẫn cứ phải đợi chờ. Đợi chờ là một thử thách lớn. Những cơn cám dỗ, mà Satan dùng để tấn công Chúa Giêsu xưa khi Chúa ăn chay 40 ngày trên núi, cũng đã xảy ra cách này cách nọ cho Thánh Giuse, cốt lôi Ngài vào tự mãn. Nhưng Ngài đã vượt qua. Phải biết bỏ qua đi những bận tâm không cần, để tập trung vào điểm chính, đó cũng là thử thách lớn. Nhìn các thử thách mà Thánh Giuse đã phải trải qua, tôi mới thấy ơn gọi bước theo Chúa đòi nhiều phấn đấu. Những thử thách đó vẫn rất gần tôi. Có nhiều thử thách gây nên đau đớn. 7. Màu sắc thứ tư là tinh thần tỉnh thức, cầu nguyện, tin cậy vững vàng nơi Chúa giàu lòng thương xót. Bước theo Thánh Giuse, tôi được thấy Ngài là con người đầy sức mạnh. Sức mạnh đó là từ Chúa ban cho. Ngài đã tỉnh thức và cầu nguyện đúng như lời Chúa Giêsu đã phán xưa với các môn đệ: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đững vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn, mới có đủ sức”. Thánh Giuse đã làm như vậy. Ngài khuyên những ai bước theo Ngài cũng hãy làm như vậy. 8. Nhìn thấy bốn màu sắc trên đây trong ánh sáng, mà tình yêu nơi Thánh Giuse toả ra, tôi cảm tạ Chúa hết lòng. Tôi tha thiết cầu xin Chúa cho tôi cũng được nhìn thấy bốn màu sắc đó trong Hội Thánh lúc này. 9. Chúa thương cho tôi được thấy cảnh đẹp đó, ngay trong Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Không phải mọi tín hữu đều toả sáng do tình yêu đậm màu sắc đẹp. Nhưng xa gần vẫn lấp lánh: - tinh thần khiêm tốn, - tinh thần trách nhiệm, - tinh thần kiên trì đối phó với mọi thử thách, - tinh thần tỉnh thức, cầu nguyện. Số người toả sáng như thế đang còn là số ít. Họ thuộc về đủ mọi tầng lớp. Tôi học được nơi họ rất nhiều. 10. Từ thực đó, tôi vui mừng và hy vọng cho Hội Thánh và cho chính bản thân tôi. Tình hình hiện nay đang diễn biến rất phức tạp và nguy hiểm. Tôi cầu mong sẽ có nhiều người quan tâm sống gần gũi với Thánh Giuse, và cũng bước theo Thánh Giuse một cách quyết liệt hơn. 11. Cầu mong của tôi thiết tưởng rất đẹp ý Chúa. Nếu đúng là như vậy, thì kính xin mọi anh chị em tín hữu hãy coi đây là một dịp tốt, để cộng tác mật thiết hơn với Chúa trong chương trình cứu độ, mà Chúa đang thực hiện ngay tại đây và chính lúc này. Long Xuyên, ngày 21.02.2017.
1. Đã nhiều lần, tôi được nếm những khổ đau, mà Hội Thánh phải chịu. Những lúc ấy, tôi thường cầu xin thánh Giuse hãy thương che chở Hội Thánh Chúa, như xưa Ngài đã che chở Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. 2. Những ngày này, tôi cầu xin như thế với thánh Giuse một cách khẩn thiết hơn bao giờ hết, bởi vì tôi đang cảm thấy nỗi khổ đau và những nguy cơ hiện đang đe dọa Hội Thánh là rất nhiều và rất khủng khiếp. Xin thánh Giuse thương che chở Hội Thánh. 3. Thánh Giuse thương trả lời tôi, bằng cách ban cho tôi hai cái thoáng nhìn sau đây. Tôi xin phép được chia sẻ mạo muội. 4. Trong thoáng nhìn thứ nhất, tôi thấy những nguy cơ gây đau đớn hiện đang tấn công Hội Thánh. Chúng rất nhiều, rất mạnh, rất ác. Những tấn công đến từ ngoài Hội Thánh vẫn nhiều. Nhưng những nguy cơ xuất phát từ nội bộ Hội Thánh xem ra nguy hiểm nhiều hơn. 5. Thí dụ: Thói dửng dưng, nguội lạnh, vô cảm trước nỗi khổ đau của Hội Thánh. 6. Thói sống hưởng thụ, lợi dụng nhiều hình thức tôn giáo để tìm lợi riêng. 7. Thói ghen ghét nhau. Ghen thì sinh ra ghét. Ghét thì sinh bỏ. Bỏ tàn bạo đến tinh vi. Xưa Cain và Abel là hai anh em, con của ông Adong và bà Eva. Thế mà vì ghen, nên Cain đã nỡ giết em. Xưa, các anh em con của ông Giacob đã vì ghen, nên đã định giết Giuse là chính em của họ, nhưng sau đó, thay vì giết thì bán em. Ghen ghét, ghét bỏ, xưa đã thế, nay cũng vậy. 8. Thói tự mãn, tìm cách đề cao mình trong các lễ nghi đáng lẽ phải tập trung vào Chúa. 9. Thói tục hóa, thích giới thiệu Chúa Giêsu không như thánh Giuse đã làm, mà như các kẻ đạo đức giả hình quen làm. 10. Những thói xấu vừa kể là thực sự nguy hiểm, đang được quỷ Satan dùng để phá Hội Thánh. Nguy hiểm, bởi vì chúng làm cho nhiều người trong Hội Thánh dần dần mất đức tin, và chúng làm cho nhiều người ngoài Hội Thánh không còn tìm được ở Hội Thánh Tin Mừng thực sự. Thế mà, những thói xấu đó lại được coi như bình thường, để tồn tại và phát triển. Nguy hiểm, được coi là không nguy hiểm, dẫn tới diệt vong. Thế mới là nguy hiểm lớn. 11. Trong thoáng nhìn thứ hai, tôi thấy những cách thánh Giuse đang dùng để che chở Hội Thánh khỏi các nguy cơ, tất cả đều nhắm vào việc đào tạo các con cái của Ngài. Tôi thường mong thánh Giuse sẽ cứu Hội Thánh, bằng cách Ngài làm những phép lạ. Nhưng tôi lại thấy thế này: Phép lạ thì Ngài vẫn làm. Riêng tôi, những phép lạ của Ngài thường là âm thầm. Nhưng phép lạ tôi coi là rất lớn, nếu coi đây là phép lạ, đó là Ngài giúp cho nhiều người trong Hội Thánh được ngoan ngoãn để cho Chúa Thánh Thần đào tạo họ trở thành những người giống như Giuse. 12. Giống như Giuse là:
Biết sống quên mình.
Biết sống hòa mình.
Biết sống chôn vùi mình.
13. Giống như Giuse là:
Có tinh thần khiêm tốn.
Có tinh thần trách nhiệm.
Có tinh thần kiên trì trước mọi thử thách.
Có tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện.
14. Việc thánh Giuse đang giúp công việc đào tạo hiện nay là rất lớn, nhưng vẫn âm thầm, và thực hiện thường ngày ở rất nhiều nơi, trong mọi tầng lớp. 15. Riêng tôi, tôi vẫn được Ngài đào tạo. Tôi thường phải bắt đầu đi, bắt đầu lại, chỉ một nhân đức mà Ngài dạy. Xin phép nói về tình yêu thương xót. Ngài như nhấn mạnh đến yếu tố đó, khi đào tạo tôi. 16. Ngài giúp tôi luôn cảm thấy mình yếu đuối hèn mọn, rất cần được xót thương. Xót thương là được tha thứ. Xót thương là được bao bọc. Xót thương là được dẫn dắt. Xót thương là được cảm thông. Xót thương là được sẻ chia. Được xót thương như thế, tôi cảm thấy mình hạnh phúc. Để rồi, tôi được Ngài khuyên là hãy xót thương người khác như vậy, để họ được hạnh phúc như tôi. 17. Với tình yêu xót thương được nhận, và được cho đi, tôi cảm thấy việc đào tạo mà thánh Giuse thực hiện đang rực sáng ở nhiều người khác. Họ không ở xa tôi. 18. Tôi cảm thấy chính những tình yêu xót thương ấy đang là giây nối kết chúng tôi lại, để xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh, một sự hiệp nhất rất cần, để che chở Hội Thánh trong tình hình bất ổn, đầy lo âu và mù mịt hiện nay. 19. Tới đây, tôi sực nhớ lại một kỷ niệm không bao giờ quên. Năm Ất Dậu được gọi là năm đói. Đói lắm, đói khủng khiếp. Trong cảnh khổ đó, tôi thấy có nhiều người nghèo trong xứ đạo, mà tôi đang giúp, đã xót thương những người nghèo khác. Hằng ngày, họ tình nguyện chia nồi cơm của họ cho những người khác. Họ chỉ ăn cho bớt đói, để dành cơm cho những người đói mà chẳng còn gì để ăn. Hằng ngày, họ lo chôn xác những người chết đói rải rác ngay trên đường. Hằng ngày, họ đến nhà thờ, đọc kinh cầu nguyện cho những người chết đói và đang sống đói. Họ xót thương nhau. Họ đoàn kết yêu thương nhau. Chính cảnh đó đã gây trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Đức tin của tôi trở nên mạnh. Tôi vững tin vào Chúa. Ơn gọi của tôi trở thành một cuộc lên đường cho tình yêu xót thương. 20. Hôm nay, tình yêu xót thương mà tôi phục vụ như một ơn gọi cao quý do thánh Giuse, đang rất cần được bồi dưỡng. Tôi xin Chúa trả công bội hậu cho những người đang góp phần bồi dưỡng cho ơn gọi của tôi. Những người đó, tuy âm thầm nhưng khá đông. Họ cũng đang âm thầm bồi dưỡng cho ơn gọi của nhiều người khác. Đó là niềm vui và hy vọng của tôi và của Hội Thánh. Tôi hiểu thánh Giuse đang che chở Hội Thánh là như thế đó. Xin hết lòng cảm tạ thánh Giuse. Long Xuyên, 24.02.2017
Thống, con ơi! 1. Con chết rồi. Nhưng Cha vẫn gọi con, như khi con còn sống. Cha tin con vẫn nghe được tiếng Cha, bởi vì con đang ở bên Chúa. Còn Cha cũng đang ở bên Chúa, tuy một cách khác, nên âm thầm gọi con. 2. Cha gọi con, để xin con giờ đây đang ở cõi đời sau, cũng vẫn cứ tiếp tục ơn gọi Chúa đã dành cho con khi con còn sống. 3. Ơn gọi đó:
Một là “hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
Hai là “hãy hiệp nhất với nhau” (Ga 17,21-23).
4. Hai điều trên đây đã được con coi là quan trọng nhất trong suốt cuộc đời giám mục của con. 5. Hai điều đó cũng đã được con cảm nhận là hết sức khó với biết bao kinh nghiệm đau đớn của đời giám mục của con. 6. Khi xây dựng hiệp nhất và phát triển yêu thương, con đã chỉ tìm thánh ý Chúa, chứ không tìm tiếng khen. Về lập trường đó, Cha có cảm tưởng là con rất ý thức lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Khốn cho các ngươi, khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,26). 7. Khi xây dựng hiệp nhất và thực thi yêu thương, con cũng đã trải nghiệm sự yếu đuối trong con, như thánh Phaolô xưa: “Tôi là người khốn nạn, bởi vì sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19-24). 8. Cha cảm tạ Chúa, vì con đã nhận ra giới hạn của con, để mà biết khiêm tốn, luôn trở về với Chúa. 9. Cha cảm tạ Chúa, vì con đã không đi tìm tiếng khen, mà chỉ tìm thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất khác ý loài người. Thánh ý Chúa là người mục tử phải bước theo Chúa Giêsu trên con đường thánh giá. 10. Cha thấy con
Đã khao khát ý Chúa.
Đã lắng nghe ý Chúa.
Đã nhận ra ý Chúa.
Đã thực thi ý Chúa.
Để được thế, con đã quan tâm đặc biệt đến đời sống nội tâm. Như vậy, con đã tập sống theo gương thánh Giuse, bổn mạng của con. Nay con ra đi, mang theo mình vô số điều mà chỉ Chúa biết, như thánh Giuse xưa. 11. Giờ đây, Cha tin là con đang được hưởng niềm vui khôn tả Chúa ban cho con. Xin con hãy nhớ đến Cha, đến mọi thành phần thuộc linh tông, và nhớ đến Hội Thánh Việt Nam. 12. Cha xin nói thiệt với con điều này: Nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều thử thách cam go, với rất nhiều đau đớn xác hồn. Xin con đừng quên họ, đừng quên những người còn ở lại, đang phải vất vả nhọc nhằn trên con đường làm chứng cho Chúa qua yêu thương và hiệp nhất. 13. Cha vốn tin lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,30). Cha tin, nhưng tin mà vẫn không tránh được khổ đau tư bề. Tuy nhiên, Cha rất hạnh phúc, vì có Chúa ở bên. Con ra đi, khi còn tương đối trẻ. Cha còn ở lại, khi tuổi đã già nua. Trẻ hay già, đều do thánh ý Chúa. Nay Chúa đem người trẻ đi, để lại người già. Điều đó đang dạy Cha rất nhiều. 14. Thống, con ơi! Sự ra đi của con là một bất ngờ. Cha nghĩ sẽ còn nhiều bất ngờ sắp xảy ra. Cha nghĩ đến tinh thần Phó thác của thánh Giuse. Xin con cầu nguyện cho Cha và các anh chị em của con được biết phó thác mình cho Chúa một cách khiêm tốn, đơn sơ, tin tưởng, kiên trì. Phó thác mình cho Chúa, cũng là khiêm tốn gắn bó mình với Hội Thánh, và sống tinh thần cộng đoàn một cách chân thành và bao dung tế nhị. Con đã nhiều lần chia sẻ với Cha như vậy. Xin con tiếp tục chia sẻ điều đó với Cha và với những người thân, nhất là trong tình hình bất ổn hiện nay. 15. Thống, con ơi! Mấy ngày nay, con chia sẻ với Cha rất nhiều về sự phải luôn luôn sẵn sàng, vì Chúa đến rất bất ngờ. Đó là một cảnh báo khẩn thiết. Con và Cha hãy cầu xin Chúa cho mọi người được biết đón nhận cảnh báo đó. Hẹn gặp nhau bên Chúa. Hẹn trong niềm tin vô bờ bến ở tình yêu xót thương của Chúa. Long Xuyên, ngày 3.3.2017 + GB. Bùi Tuần
Từ rất lâu rồi, tôi hay hát, hoặc chung với cộng đoàn, hoặc âm thầm một mình bài: “Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn”. Tâm tình của tôi, khi hát bài đó, là những tiếng kêu. Tôi kêu vì cảm thấy đời tôi quá khổ. Tôi kêu, vì tin Đức Mẹ sẽ thương xót ủi an. Mẹ sẽ ủi an không phải một lúc một ngày, nhưng luôn luôn. 2. Khi kêu cầu như thế, tôi cảm thấy mình rất gần gũi với Mẹ. Ngay sự gần gũi đó cũng đã ủi an tôi rất nhiều. 3. Thêm vào đó là cảm thấy Mẹ hiện diện kề bên, những khi tôi đau buồn. Mẹ ủi an một cách dịu dàng và từ từ, bằng nhiều cách khác nhau. Hoặc Mẹ trực tiếp ủi an, hoặc Mẹ ủi an gián tiếp qua những người Mẹ gửi đến. 4. Tôi càng nói: “Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn”, tôi càng thấy an ủi của Mẹ đi sâu vào đời tôi. An ủi của Mẹ đổi mới con người của tôi. Tôi thuộc về Chúa nhiều hơn. Tôi biết xót thương người khác quảng đại hơn. 5. Nhận thức về những an ủi Mẹ ban đã đưa tôi đến sự cảm tạ Chúa và Mẹ. Tôi cảm tạ bằng lời của Mẹ xưa: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa” (Lc 1, 6-9). 6. Tâm tình cảm tạ của tôi chắc chắn là do Chúa Thánh Thần ban cho. Hôm nay, tôi xin được phép chia sẻ vắn tắt một vài ơn lạ trong đó. 7. Ơn thứ nhất là nhờ được Mẹ an ủi, tôi đã gặp được Chúa. Thực vậy, khi được Mẹ an ủi, tôi cảm thấy có một sức lạ lùng tràn vào hồn tôi. Một đàng tôi nhận ra mình hèn mọn bất xứng, một đàng tôi cảm thấy có một Đấng thiêng liêng ẩn mình trong những ủi an đó. Dần dần, tôi được ơn nhận ra Đấng thiêng liêng ấy chính là Chúa. Tôi gặp được Chúa trong những ủi an của Mẹ. Chúa mà tôi gặp là Đấng sống động, gần gũi. Chúa đi tìm tôi. 8. Ơn thứ hai là nhờ được Mẹ an ủi, tôi đã cảm được tình yêu của Chúa là tuyệt vời. Thực vậy, Chúa mà tôi được gặp, có một tình yêu khôn tả dành cho tôi. Chính Người, vì yêu tôi, nên đã chết để cứu tôi. Người dựng nên tôi mà khỏi phải khó khăn nhọc nhằn. Nhưng Người cứu tôi, thì phải đổ máu ra trên thánh giá. Cái giá Người phải trả để cứu tôi là thế đó. Nhận ra tình yêu của Chúa dành cho tôi là như thế, tôi phải biết ơn Chúa thế nào cho xứng? Chúa đã cho tôi chính mình Chúa, tôi chỉ có cách biết ơn Chúa, bằng cách dâng cho Chúa trọn vẹn bản thân tôi. 9. Ơn thứ ba là nhờ được Mẹ ủi an, tôi dần dần khám phá ra suối nguồn sự sống đời đời chính là Chúa. Thực vật, có lúc tôi cảm thấy bàn tay Chúa. Có lúc tôi cảm thấy cái nhìn của Chúa. Có lúc tôi cảm thấy hơi thở của Chúa. Có lúc tôi cảm thấy khuôn mặt của Chúa. Có lúc tôi cảm thấy mùi thơm của Chúa. Tất cả đều từ một nguồn là Chúa, Đấng hằng có từ thuở đời đời và mãi mãi hằng có đời đời. Cảm thấy như vậy, tôi thấy đời tôi ở đời này chỉ là một chuyến đi vắn vỏi, nhưng đời sau ở bên Chúa mới chính là cùng đích. 10. Nhận thức trên đây và cảm nhận trên đây có lúc rất mạnh khiến tôi khao khát như thánh nữ Têrêsa thành Lisiơ, muốn đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn về với Chúa. Hoặc khao khát như thánh Phanxicô Xaviê, muốn vượt các đại dương, để kêu mời mọi người về với Chúa. 11. Những ơn trên đây, đang được ban cho nhiều người xa gần hiện nay. Họ quên mình, chỉ còn nhìn vào Chúa mà thôi. Họ nhìn Chúa, mọi nơi mọi lúc. Do vậy, chiêm niệm không tách rời hoạt động. 12. Nhưng, mọi sự không luôn luôn diễn biến tốt đẹp. Đã có lúc tôi như mất hết tất cả những ơn trên. Tôi trở thành nghèo khó, hèn hạ. Những lúc đó, tôi lại hát: “Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn”. Tôi nói với Mẹ lời khẩn cầu đó, với ý thức mình là kẻ yếu đuối hèn hạ: “Sự thiện con muốn, thì con không làm. Sự ác con không muốn, thì con lại cứ làm. Con là kẻ khốn nạn” (Rm 7,19). Tôi như phải bắt đầu lại. Thực sự tôi phải bắt đầu lại mỗi ngày, với quyết tâm trở về với Chúa, nhờ Mẹ ủi an. 13. Được ủi an là một ơn trọng, cần thiết cho tôi. Biết cùng với Mẹ ủi an những người khác cũng là một ơn quý giá, cần thiết cho họ và cho chính tôi. Biết đón nhận an ủi và biết cho đi an ủi, đó là những điều Mẹ Maria hằng ngày vẫn nhắc nhở tôi. Thực sự, đó là những vấn đề khó. Phải có ơn Chúa, mới hiểu rõ được. Phải có ơn Chúa mới thực hiện được. Ơn Chúa sẽ ban cho những ai khiêm tốn cầu nguyện, tỉnh thức và sống tiết độ (1Pr 5,8). Hiện giờ, quỷ Satan đang như sư tử gầm thét chạy rảo khắp nơi để tìm mồi là các linh hồn, đúng như thánh Phêrô quả quyết (1Pr 5,8). Biết sự thực đó, chúng ta càng phải khiêm tốn kêu van Mẹ: “Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn”. Long Xuyên, ngày 10.3.2017
1. Lễ giỗ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp dang diễn tiến như một biến cố lớn. Từng ngàn người đổ về Tắc Sậy là nơi Ngài hy sinh. Vô số người tuôn về Cồn Phước là quê hương nơi Ngài sinh trưởng. Làn sóng người tràn về những nơi đó một cách hồn nhiên, tự động. Họ thuộc mọi tầng lớp xã hội. Lễ viếng Cha Diệp tạo nên một bầu khí linh thiêng, khiến tôi suy nghĩ. Tôi thấy thế này: 2. Chuẩn mực đạo đức đang rơi vào khủng khoảng, nơi thì đòi phải thế này, nơi thì đặt nặng điều kia. Đang khi đó, những người đến viếng Cha Diệp không ngại tin vào Cha Diệp, coi Ngài như chuẩn mực đạo đức. Bởi vì họ thấy Ngài sống chan hòa tình người, coi mọi người như anh em, hiểu họ, thương họ, cứu giúp họ. Chuẩn mực đạo đức là chính con người Cha Diệp. Ngài đã qua đời rồi, nhưng người ta thấy Cha vẫn gần gũi họ, vẫn ân cần cứu giúp họ. Đạo đức mà người ta đi tìm, là phải như thế. Chuẩn mực đạo đức phải ở nơi con người, mà người ta gọi là nhân chứng. Cha Diệp chính là nhân chứng về đạo đức. Bởi vì Cha yêu thương mọi người. Từ tin vào con người Cha Diệp, người ta dần dần tìm về với Chúa. 3. Tôi lại thấy thế này: Vinh dự tín ngưỡng đang rơi vào khủng hoảng, nhiều người ngại xưng mình thuộc về tôn giáo nọ, tín ngưỡng kia. Đang khi đó, những người đến với Cha Diệp không ngại coi mình được vinh dự tin vào Cha. Họ tin vào Cha Diệp, bởi vì họ thấy Cha Diệp linh thiêng mà gần gũi. Chứng tỏ rằng tín ngưỡng, mà họ mến mộ, phải nổi về yêu thương. Yêu thương chân thành, sống động, chan hòa, cụ thể. Cha Diệp là nhân chứng cho một tín ngưỡng mà căn bản là yêu thương. Người ta tin vào Cha, rồi từ đó dần dần họ tin vào Chúa, mà Cha tôn thờ. 4. Tôi lại thấy thế này: Việc chấp thuận trong đời sống xã hội đang rơi vào khủng hoảng, hỏi về ý kiến có chấp thuận này nọ hay không, rất nhiều người trả lời là chấp thuận. Nói chấp thuận cho qua, chứ trong lòng thì phản kháng. Đang khi đó, những người đến viếng Cha Diệp đã chấp thuận coi Ngài là người mà họ tin cậy và gắn bó. Chấp thuận của họ là rất chân thành, không bị áp lực nào. Chấp thuận của họ là một thái độ linh thiêng, phát xuất từ nội tâm và tỏa sáng ra thái độ bên ngoài. 5. Nhưng điều tôi vừa suy nghĩ trên đây, về biến cố lễ giỗ Cha Diệp, được tôi coi như những sứ điệp Chúa gửi đến cho tôi và cho mọi người chúng ta. Sứ điệp nhân chứng về yêu thương. Yêu thương nơi Cha Diệp phản ánh yêu thương của Chúa Giêsu. Yêu thương nơi Cha Diệp có sức lôi cuốn từng triệu người. Yêu thương nơi Cha Diệp đang gây nên mối đoàn kết sâu rộng trên Đất Nước Việt Nam. Vâng ý Chúa gửi qua sứ điệp Cha Diệp, tôi mạo muội chia sẻ thêm vài ý muốn của tôi. 6. Tôi muốn chúng ta hãy cẩn thận hơn về những gì, mà chúng ta coi là chuẩn mực đạo đức. Thực sự, nhiều chuẩn mực đạo đức đang xuống cấp, thậm chí đã thành sai lạc. 7. Tôi muốn chúng ta cũng hãy cẩn thận hơn về những gì, mà chúng ta coi là thành công và vinh quang của đạo. Thực sự, có những thành công và vinh quang của đạo đang lừa dối. Chúng ta tưởng là hợp ý Chúa, làm sáng danh Chúa. Nhưng Chúa lại chối từ. 8. Tôi muốn chúng ta hãy cẩn thận hơn về những gì, mà chúng ta quen chấp thuận. Thực sự có những điều chúng ta chấp thuận do áp lực, do an phận, do phong trào. Những chấp thuận như thế nhiều khi gây hại cho đạo, hậu quả sẽ khó lường. 9. Để kết, tôi xin Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp kính yêu, hãy nhìn đến từng người hôm nay đang đến với Cha, trong đó có tôi. Tôi không đi được, nhưng tôi đang rất gần Cha. Tôi tin cái nhìn của Cha mang rất nhiều yêu thương. Yêu thương đang rất cần cho tôi và cho mọi người Việt Nam, nhất là lúc này. 10. Thưa Cha Phanxicô thân yêu, Tôi là con người hay sợ. Một điều mà hiện giờ tôi đang sợ nhất, đó là sợ tình yêu bị khủng hoảng trầm trọng. Nhiều nền văn minh đang cạn kiệt tình yêu. Nhiều tôn giáo đang đánh mất tình yêu. Nhiều gia đình đang thiếu vắng tình yêu. Nhiều người đang lẩn tránh tình yêu. Điều tôi đang sợ đó, có đúng không, thưa Cha kính yêu? Nếu đúng, thì xin Cha thương tìm cách giải cứu chúng tôi. Tôi có cảm tưởng là Cha đang làm việc đó. Xin hết lòng cảm ơn Cha kính thương. Tôi sợ nhất là cho chính tôi. Xin Cha thương tôi là kẻ yếu đuối hèn hạ. Long Xuyên, ngày 12.3.2017
1. Với tinh thần vâng phục, tôi được thụ phong Giám Mục ngày 30-4-1975 do sắc lệnh của Tòa Thánh. Từ ngày đó đến nay là một thời gian đầy chuyển biến. Suốt 42 năm đó, tôi đã nhận được rất nhiều ơn Chúa. Hôm nay, tôi xin nói cách riêng về một ơn, mà tôi xác tín là rất quan trọng, đó là ơn KHAO KHÁT CHÚA. 2. Tình hình ngày 30 tháng 4 năm 1975 diễn tiến từng phút một cách bất ngờ và nghiêm trọng. Chính trong tình hình mới đó, Chúa trao cho tôi chức vụ Giám mục, với khẩu hiệu “Điều răn mới”. “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,34). 3. Hướng đi cho cuộc đời tôi trong tình hình mới là điều răn mới. Nhìn hướng đi đó, tôi thấy hiện lên trong tôi nhiều vấn đề rất phức tạp. Nhưng tôi không để mình bị trói buộc vào vấn đề nào, mà chỉ tập trung sống với một khao khát, đó là khao khát Chúa. 4. Thế nào là khao khát Chúa? Chúa, mà tôi khao khát, được tôi tin và cảm nghiệm như là một Đấng vì yêu thương tôi, nên đến với tôi, đồng hành với tôi, để đỡ nâng tôi, để giải thoát tôi, để là điểm tựa trung tín trong mọi tình huống lịch sử đời tôi. Chính Chúa đã hứa, đã thực hiện như thế cho dân Chúa xưa và nay. Tôi đã tin và tôi đã cảm nghiệm đúng là như thế. Như vậy, khao khát Chua nơi tôi phát xuất từ đức tin, và phần nào cũng từ cảm nghiệm. 5. Khao khát Chúa không phải là khao khát giáo lý của Chúa, lề luật của Chúa, lễ nghi của Chúa, mà là khao khát một Đấng linh thiêng sống động, mà bản tính là tình yêu thương xót cứu độ. 6. Do vậy, nếu muốn diễn tả phần nào tâm tình của sự khao khát đó, thì tôi mạo muội nhấn mạnh đến mấy tâm tình sau đây: Khao khát Chúa là thao thức về Chúa. Khao khát Chúa là nhớ nhung Chúa. Khao khát Chúa là mong đợi Chúa. Khao khát Chúa là muốn ở lại với Chúa Khao khát Chúa là tâm sự với Chúa. Khao khát Chúa là gắn bó kết hợp với Chúa. Khao khát Chúa là tìm trú ẩn nơi thánh ý Chúa. 7. Chúa đáp lại sự khao khát của tôi bằng nhiều cách. Một trong những cách, mà tôi cho là chắc chắn nhất, đó là tôi cảm được Chúa là tình yêu xót thương cứu độ, để rồi từ đó Chúa gợi lên trong tôi sự khao khát đem tình thương của Chúa đến cho nhiều người khác. 8. Tạ ơn vì nhận được tình thương, và tha thiết muốn chia sẻ tình thương, tình thương của Chúa. Đó là căn bản sống với ơn khao khát Chúa. 9. Như vậy, sống ơn khao khát Chúa là tôi muốn sự lành cho moi người, là tôi làm hết sức để mọi người được sự lành. Mọi người nói chung, và cách riêng những người đụng vào lịch sử đời tôi. 10. Để sống tình thương được trở nên việc đạo đức thật, tôi cần biết phân định với lương tri lành mạnh và với ơn Chúa, trong từng hoàn cảnh, để biết có những chọn lựa sáng suốt, khôn ngoan. Trong mọi chọn lựa, ưu tiên phải nhắm chắc, đó là yếu tố tình thương. 11. Nói thế, là vì Phúc âm và kinh nghiệm cho thấy: Sống yêu thương sẽ gặp nhiều trắc trở. Trắc trở lớn nhất là tính yếu đuối của chính mình. Cộng thêm là ma quỷ. Sau cùng là thói thế gian. 12. Riêng tôi, tôi rất thấm thía với sự thực, mà thánh Phaolô khiêm nhường tự thú: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm…Thực tôi là một người khốn nạn: Ai sẽ giải thoát tôi? Tạ ơn Chúa, chính nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,19-25). Đúng là phải nhờ Đức Giêsu Kitô. Tôi rất xác tín điều đó. Chính vì thế mà tôi càng xác tín là tôi phải luôn luôn khao khát Đức Giêsu Kitô của tôi. 13. Nhưng ngày nay, hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình khao khát Chúa Giêsu một cách mãnh liệt. Tôi cảm thấy mãnh liệt sự khao khát đó, bởi vì tôi đang thấy cuộc giao tranh giữa thiện và ác nơi tôi cũng như trong Hội Thánh và trong xã hội có vẻ rất quyết liệt. Phía ác có lúc xem ra rất mạnh, phía thiện có lúc xem ra rất yếu. Tuy nhiên, phía thiện vẫn đang tiến triển một cách âm thầm, với những bước nhỏ mà vững nhờ Chúa xót thương. Số người tốt vẫn đông trên quê hương Việt Nam này. 14. Riêng tôi, cuộc sống với niềm khao khát Chúa đang được tôi thực hiện một cách cụ thể nhờ sống bé nhỏ với Mẹ Maria, là Mẹ nhân lành của tôi. 15. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây chỉ là một phần rất nhỏ về cuộc đời khao khát Chúa của tôi. Tôi xin cảm tạ Chúa hết lòng về cuộc đời đó. Tôi xin cảm tạ Hội Thánh hết tình về cuộc đời đó. Tôi xin tận tình cảm ơn mọi người đã góp phần giúp tôi sống cuộc đời đó. 16. Tình hình hiện nay, tuy có nhiều ánh sáng, nhưng cũng có nhiều bóng tối. Chúng ta hãy bám vào Chúa, Chúa là Cha của mọi người, Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Khởi đầu, ngay từ bây giờ, mỗi ngày chúng ta hãy khao khát Chúa. Một cách nào đó, hãy mở lòng ra, khao khát Chúa. Đây là cơ hội tốt cho niềm vui và hy vọng. Long Xuyên, Những ngày chuẩn bị cho 30.4.2017
Thời gian gần đây, tôi phải đau đớn nhiều hơn trước. Đau đớn phần xác là do tình trạng xuống cấp của tuổi già, cộng với nhiều chứng đau do thời tiết. Đau đớn phần hồn là do những lo âu sợ hãi về những tội lỗi và yếu đuối của mình, cộng với những xót thương trước những khổ đau của bao người gần xa. 2. Trong tình trạng cảm thấy đau đớn là rất mạnh, và mình lại rất yếu, tôi thường cầu nguyện với Chúa, Đức Mẹ và thánh Giuse. Đêm rồi, tôi nghe có tiếng nói với tôi: “Con hãy tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu”. Tôi rất bỡ ngỡ, nhưng tôi tin chắc tiếng nói với tôi lời đó là từ cõi trên. 3. Thức dậy, tôi suy gẫm về sự tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, theo những bài chia sẻ của Đức Hồng Y Martini. Theo Đức Hồng Y Martini, những đau khổ, mà Chúa Giêsu đã chịu, là rất nhiều thứ, nhưng đau khổ nhất chính là sự cô đơn, một sự cô đơn được cảm nghiệm như một sự bị chối từ, bị bỏ rơi, bị loại trừ, bị xa tránh, do chính những người thân. Các môn đệ bỏ trốn, Đức Chúa Cha xem như cũng bỏ rơi Người: “Cha ơi, sao cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). 4. Thánh Phaolô tông đồ cũng coi sự mình bị những người thân bỏ rơi là một đau đớn đầy thử thách: “Tất cả đều bỏ tôi, chẳng ai bênh đỡ tôi” (2Tm 4,16). Nhận định trên đây của Đức Hồng Y Martini là một soi sáng quan trọng đầy an ủi cho tôi. 5. Nhờ sự soi sáng đó, tôi hiểu nhiều hơn tình trạng hiện nay, mà nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam lúc này, đang trải qua để tham dự vào cuộc thương khó Chúa. Họ tham dự nhất là bằng sự họ cảm thấy mình bị cô đơn, bị ruồng bỏ, bị xa tránh, nhiều khi do chính nội bộ. 6. Bản thân tôi cũng đã và đang cảm thấy thấm thía sự cô đơn, sự bị ruồng bỏ một phần do nội bộ, chính là một đau đớn thực sự xót xa. Nhưng đau đớn đó giúp tôi tham dự vào cuộc thương khó Chúa một cách đích thực. Sự cô đơn, sự bị bỏ rơi, gây nên do những con người mình tin đã là một đau đớn rất lớn. Đau đớn này lại bị ma quỷ làm cho bi đát thêm do những ham dọa của chúng. 7. Thánh Phaolô thánh giá tỏ lộ là có lúc Ngài bị ma quỷ cám dỗ về sự thất vọng, Ngài cảm thấy cô đơn khủng khiếp đến nỗi như muốn tự tử cho xong. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng đã có tâm sự về những khổ đau trong tâm hồn, nhất là về cô đơn hãi hùng, không có một chút an ủi nào. 8. Cô đơn trong tăm tối, đó là tình trạng tôi cũng đã trải qua. Kinh nghiệm đó dạy tôi rất nhiều. Tôi phải xót thương Chúa Giêsu. Tôi phải xót thương những người đang bị thử thách. Tôi phải rất khiêm nhường trước những cô đơn đau đớn, để luôn vững tin vào Chúa. 9. Tới đây, tôi nhớ lại những chia sẻ thân tình của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Ngài cho tôi biết là trong một thời gian dài, Ngài đã sống trong một tình trạng cô đơn rất đau đớn. Tình trạng đó một phần lớn là do nội bộ. Tình trạng đó làm Ngài đau đớn. Nhưng Ngài luôn yêu thương, tha thứ. Ngài dâng tất cả cho Chúa, để hợp cùng sự thương khó Chúa mà cứu các linh hồn. Do vậy, cuộc đời của Ngài trở thành của lễ tình yêu. Chỉ có yêu thương. Chỉ có thứ tha. Không chút hận thù. Không chút xa tránh. 10. Đời tôi cũng là một của lễ tình yêu trên thánh giá. Tôi tin như vậy. Cho dù có phải cô đơn đau đớn như Chúa Giêsu trên thánh giá, tôi vẫn coi sự thinh lặng của thánh giá chính là con đường cứu rỗi cần cho Hội Thánh. 11. Theo tôi, ai tin vào Chúa sẽ chẳng bao giờ là cô đơn. Cô đơn chỉ là một thử thách. Sống với thử thách đó một cách đạo đức thì phải vững tin vào Chúa. Tôi xin mượn lời thánh Phaolô mà nói: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức , vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi” (Cl 1,24-25). 12. Giờ đây, suy nghĩ về những thử thách, mà các môn đệ Chúa phải chịu, tôi coi sự cầu nguyện và tỉnh thức là rất cần cho tôi. Nếu tôi tưởng thử thách đều đã qua, thì chính lúc tưởng như vậy, thử thách lại đã đến gần. Xin Chúa Giêsu thương xót chúng ta, để chúng ta biết tham dự vào những khổ đau của Chúa ngay trong mùa chay này. Tham dự hằng ngày, bằng những việc nhỏ, một cách âm thầm, trong tâm tình yêu thương phó thác. 13. Lúc nãy, khi tôi vâng lời Chúa, mà xin tham dự vào cuộc thương khó Chúa, thì lập tức Chúa cho tôi thấy ơn gọi mà Chúa trao cho tôi và cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Đó là: “Hãy dứt khoát bỏ đi ý định coi đạo Chúa là một quyền lực chiến thắng, mà hãy luôn luôn làm chứng đạo Chúa là tình yêu, yêu như Chúa Giêsu đã yêu trong cuộc khổ nạn thánh giá. Với tình yêu trên thánh giá, các môn đệ Chúa sẽ cùng với Chúa thổi vào Việt Nam một luồng gió tình yêu có sức cứu độ. Chỉ là tình yêu. Tất cả đều là tình yêu khiêm nhường, hy sinh”. Tôi đón nhận ơn gọi trên đây, với niềm hân hoan và hy vọng. Xin cảm tạ Chúa hết lòng. Tôi tin: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Long Xuyên, ngày 26.3.2017
Tuần thánh đã đến gần. Đây là thời gian trọng đại. Phần rỗi của tôi tùy thuộc vào đó. Chính trong thời điểm này, tôi lâm vào cảnh khổ đau cả phần xác lẫn phần hồn. Trong thảm cảnh đó, tôi khao khát tình yêu thương xót của Chúa. Tôi cầu nguyện. Chúa trả lời: Con hãy biết đón nhận tình yêu thương xót của Chúa. Biết đón nhận, đó là điều hết sức quan trọng. Tôi tha thiết xin Chúa giúp tôi biết đón nhận tình thương của Chúa. Dưới đây là vắn tắt một số những cách mà Chúa đã dạy tôi, để đón nhận tình thương của Chúa. Tôi đã thực hiện chút ít từ lâu. Lúc này tôi quyết tâm thực hiện một cách tốt hơn nữa 2. Cách thứ nhất là hãy theo gương Chúa đã làm ở bữa tiệc ly, là quỳ xuống rửa chân cho người khác. Chúa Giêsu đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ khiêm tốn đó được Chúa Giêsu thực hiện trước lời trối quan trọng là “các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,34). 3. Yêu thương, mà Chúa muốn, là khi thấy anh em mình có tội, thì hãy tìm cách rửa anh em mình khỏi tội. Cách rửa là phải rất yêu thương và khiêm tốn. Như quỳ xuống mà rửa và lau cho sạch. Rửa và lau như thế là việc của tình thương. Tình thương không làm cho đau và bị xấu hổ hay bị xúc phạm. 4. Nếu không rửa và lau, mà lại còn bôi bẩn thêm vào người anh em mình do những xét đoán xấu, để họ bị tổn thương và mất danh dự, thì sẽ rất phản điều răn yêu thương mà Chúa truyền lại. Kết quả xấu sẽ khôn lường. Về điều này, Chúa đã dạy rõ: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán người khác thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Anh em đong đấu nào cho kẻ khác thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2). 5. Kinh nghiệm cho tôi thấy. Mỗi lần tôi rửa chân cho người khác một cách nào đó, nhất là khi hết sức tránh bôi bẩn sang người khác những xét đoán xấu, thì tôi đón nhận được ơn xót thương của Chúa một cách dồi dào. Ơn xót thương ấy đem lại cho tôi ơn tha thứ và sự bình an. 6. Cách thứ hai là hãy theo gương thánh Phêrô biết nhìn vào cái nhìn của Chúa Giêsu, để ăn năn sám hối. Phúc âm viết: “Chúa Giêsu quay lại nhìn ông Phêrô. Ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông. Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần. Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Lc 22,61-62). 7. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Cái nhìn của Chúa Giêsu mở ra cho tôi thấy một bầu trời bao la và huyền diệu về tình yêu xót thương của Chúa. Chúa không nên hiểu như một người ân nhân cho tôi sức khỏe, của cải,.v.v, mà là Đấng “chính là Đường, là sự thật, sự sống” (Ga 14,6). Hơn nữa, chính Người là sự sống lại. Chúa, mà cái nhìn của Chúa Giêsu mở ra cho tôi, là Đấng cho tôi sự tự do, để tôi có thể chọn Chúa và cũng có thể chọn sự gì ngoài Chúa. Điều đó làm tôi phải rất khiêm nhường, để biết xin Chúa cho tôi đừng lạm dụng sự tự do đó mà chối bỏ Chúa. 8. Tôi thường nhìn cái nhìn của Chúa Giêsu đang nhìn tôi, để cầu nguyện. Và tôi đón nhận được từ cái nhìn đó tình yêu thương xót của Chúa. 9. Khi xưng tội, tôi thường không nhìn vào các lề luật để xét mình và sám hối, nhưng tôi nhìn vào cái nhìn của Chúa Giêsu đang nhìn tôi. Do vậy, sự sám hối của tôi trở thành rất đơn giản. Sám hối lúc đó là sự trở về với Đấng yêu mình. Chỉ trong cái nhìn, Chúa trao cho tôi tình thương của Chúa. Chỉ với cái nhìn, tôi dâng cho Chúa tất cả tình yêu của tôi. Tôi đón nhận tình yêu thương xót của Chúa bằng sự nhìn vào cái nhìn của Chúa. Tôi cảm thấy một sự thân mật gần gũi ngọt ngào, đổi mới bản thân tôi. 10. Cách thứ bà là hãy như thánh Gioan tông đồ đón nhận Đức Mẹ Maria về nhà mình. Phúc âm thánh Gioan kể: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu có thân mẫu Người, chị của thân mẫu là bà Maria vợ ông Cơlôphát, cùng với bà Maria Macđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: Thưa Bà, đây là con Bà. Rồi Người nói với môn đệ: Đây là mẹ của con. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước thân mẫu về nhà mình” (Ga 19,25-27). 11. Tôi cũng được nghe Chúa Giêsu nói với tôi như xưa Người đã nói với thánh Gioan tông đồ. Đức Mẹ Maria luôn ở bên tôi. Tôi luôn được ở bên Mẹ. Đôi khi, tôi tỏ ra lo lắng về tội lỗi của tôi, thì Mẹ luôn an ủi tôi. Mẹ tỏ ra Mẹ chẳng bao giờ kể tội của tôi, hơn nữa Mẹ quả quyết Mẹ chẳng bao giờ nói tội tôi cho bất cứ ai. Mẹ đúng là người mẹ, chỉ biết an ủi, dùng tình xót thương mà cải hóa tôi. 12. Một điều, mà tôi nhận được từ Mẹ là Mẹ rất nhân từ và nhẫn nại. Tôi thường gọi Mẹ là tình thương đợi chờ. Bởi vì lúc nào Mẹ cũng tỏ ra Mẹ đợi chờ tôi. Đợi chờ không mệt mỏi. Đợi chờ để an ủi và bao bọc lấy tôi. Sống bên Mẹ, tôi đón nhận được tình yêu thương xót của Chúa hằng ngày, hằng giờ hằng phút. Yêu thương đó cứu độ tôi. 13. Với ba cách vừa chia sẻ trên đây, tôi đã đón nhận được tình yêu xót thương của Chúa một cách lạ lùng. Thực sự, khi nói ra những điều như trên, tôi không hề dám coi mình là kẻ dạy ai, mà chỉ muốn làm chứng là tôi đã được Chúa thương như thế đó, và đó cũng là những điều tôi học được từ bao người khác. 14. Với sự đón nhận được tình yêu xót thương của Chúa, tôi cảm thấy mình như ra khỏi ngục tù của thời gian, để vui mừng bước vào một cõi đời đời đang khởi sự cho tôi ngay từ giây phút hiện tại. Và đó cũng chính là một lễ Phục Sinh của tôi. Xin thân ái cầu chúc anh chị em một Tuần thánh đón nhận được rất nhiều tình yêu thương xót của Chúa. Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi. Long Xuyên, ngày 3.4.2017
1. Những ngày tháng này, hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy tình hình bất ổn, bất an đang diễn tiến xấu trong xã hội, trong Giáo Hội, trong gia đình, và ngay trong các tâm hồn, trong đó có tôi. Tình hình như thế là rất nguy hiểm. Lo sợ của tôi càng lúc càng tăng. Tôi cầu nguyện thiết tha với Chúa. Bằng nhiều cách, Chúa trả lời tôi là: “Con hãy gặp gỡ Chúa Phục Sinh”. 2. Tôi đi tìm Chúa Phục Sinh ở trong chính nội tâm tôi. Trong thinh lặng, tôi nghe được tiếng Chúa rất nhỏ nhẹ: “Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Đúng là phải rất thinh lặng, mới nghe được tiếng Chúa Phục Sinh gõ cửa lòng mình. Đúng là Chúa Phục Sinh đã bước vào lòng tôi một cách rất nhẹ nhàng, thân mật. 3. Lời đầu tiên Chúa Phục Sinh nói với tôi là: “Bình an cho con. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai con”. Lời chào đó cũng chính là lời chào, mà Chúa Phục Sinh đã nói với các môn đệ của Người, khi Người mới sống lại. (x.Ga 20,21). Nghe được lời chào chúc: “Bình an cho con”, do chính Chúa Phục Sinh nói với tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc trào lên trong tôi. 4. Nhìn Chúa Phục Sinh, tôi thấy Người còn mang các dấu đanh ở tay chân, nhất là lỗ đâm ở trái tim, tôi hiểu Người đã yêu thương nhân loại đến thế nào. Chính Người, với tình yêu thương xót ấy, đang đem lại cho tôi sự cứu rỗi và bình an. 5. Chúa ban tặng sự bình an vô cùng cao quý. Nhưng tôi phải biết đón nhận sự bình an đó. Đón nhận thế nào? Tôi rất cần được biết rõ. Nên tôi xin Chúa thương dạy tôi. Chúa dạy tôi là hãy đón nhận bằng đức tin. 6. Trước hết, hãy tin là Chúa Giêsu đã đem lại sự bình an cho nhân loại nhờ sự Người vâng lời Chúa Cha, mà yêu thương tự hạ đến mức sau cùng, như lời thánh Phaolô quả quyết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người lại còn tự hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8). 7. Xét mình trước mặt Chúa, tôi thấy tôi thường tin lời thánh Phaolô trên đây một cách thuộc lòng. Chứ trong thực tế, tôi vẫn hay muốn tin khác. Nghĩa là tôi nhìn Chúa và Hội Thánh Chúa như những quyền lực: Quyền lực về của cải, về tổ chức, về chiến thắng. Để rồi tôi cũng muốn tỏ ra mình cũng là một thứ quyền lực nào đó. Thực tế xấu đó là rất phản lại niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã cứu tôi chỉ bằng tình yêu thương xót khiêm nhường tự hạ. 8. Nhận thức về mình như thế, tôi nói với Chúa một lời rất chân thành này: “Đức tin của con thực sự non yếu lắm. Xin Chúa giúp con thêm lòng tin” (Lc 17,5). 9. Chúa gọi tôi là “kẻ kém lòng tin”, như xưa Người đã nhiều lần nói như thế với các môn đệ của Người (Mt 8,26). Nghe Chúa bảo tôi là kẻ kém lòng tin, tôi rất cảm tạ Chúa, tôi hiểu Chúa không mắng tôi. Chúa thương tôi, nên nói lời đó, để khích lệ tôi là hãy xin Chúa thêm đức tin cho tôi. Thực sự, chỉ Chúa mới ban đức tin cho tôi được. 10. Với một chút lòng tin, mà Chúa ban, tôi thấy ứng nghiệm lời Chúa hứa xưa. Đức tin cho dù bé như hạt cải, cũng sẽ được Chúa dùng để làm nên cây lớn (Lc 17,5-10). Thực sự, tôi đã thấy rất nhiều người bị chìm trong những cảnh thất vọng, tưởng như đã chết, nhưng đã được Chúa cho sống lại. Nhờ tin vào Chúa, cho dù niềm tin chỉ như hạt cải. Chính tôi cũng đã nhiều lần chìm trong cảnh bi đát thê thảm, tưởng chừng đã chết, nhưng đã được Phục sinh cho sống lại cách lạ lùng, nhờ tin vào Chúa, cho dù niềm tin đó rất bé nhỏ, nhưng rất chân thành. 11. Tin vào Chúa Phục Sinh là thế nào? Tôi chỉ xin nói lên đôi chút theo kinh nghiệm của tôi. Tôi tin vào Chúa Phục Sinh là tôi tin sự cứu độ của Chúa Phục Sinh hệ tại ở Người yêu thương, tự hạ. Nhờ vậy, Người làm cho tôi sống lại. Tôi cộng tác vào tình yêu thương tự hạ của Người, đó là một cách tôi đón nhận ơn cứu độ ban sự bình an của Người. 12. Tôi tin vào Chúa Phục Sinh là tôi tin chính Chúa mới là Đấng cứu độ, chứ không phải những công trình của Chúa. Bởi vì, trên thực tế, tôi hay bị cám dỗ coi những công trình của Chúa sẽ cứu tôi và cứu nhân loại. Công trình của Chúa có thể là rất huy hoàng, oai phong, hoành tráng, linh đình, sang trọng. Nhiều khi tôi dốc hết sức mình vào những công trình đó, coi đó như những công trình có sức cứu độ. Nhưng Chúa Phục Sinh dạy tôi là đừng bị lôi cuốn vào những ảo tưởng đó, nhưng hãy tập trung vào chính Chúa Phục Sinh. Công trình của Chúa có thể cần một phần nào như một số điều kiện cho sự cứu rỗi, nhưng có lúc sẽ bị mất hết, tôi chỉ còn Chúa Phục Sinh mới là Đấng cứu độ mà thôi. 13. Những gì tôi vừa chia sẻ, đã được tôi cảm nghiệm từ lâu, nhưng nay đang được Chúa làm mới lại một cách đặc biệt. Lý do là vì tôi rất yếu đuối và tội lỗi. Tôi không ngại nói về mình lời thánh Phaolô xưa: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm…Tôi thật là kẻ khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi? Tạ ơn Chúa, chính nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,19-24). 14. Chúa Giêsu Phục Sinh đang cứu tôi. Người đang ban cho tôi niềm tin tràn đầy bình an. Niềm tin mà Chúa ban cho tôi đúng là một kho tàng quý báu. Người ban cho tôi là kẻ yếu đuối hèn hạ khó nghèo tội lỗi. Xin hết lòng cảm tạ Chúa Phục Sinh. Long Xuyên, ngày 6.4.2017 + GB. Bùi Tuần
Tháng tư của năm 2017 này đang hiện lên như một thời gian phức tạp và nguy hiểm. Khắp nơi đều có khủng hoảng về yêu thương. Khắp nơi đều có tan vỡ về hiệp nhất. Tình hình như thế khiến tôi lo sơ. Tôi lo sợ cho tôi thì ít, mà lo sợ cho Hội Thánh tại Việt Nam nói chung và cho giáo phận Long Xuyên của tôi thì nhiều. 2. Lo sợ, nên cầu nguyện rất nhiều. Đột nhiên, tôi nhớ lại một kỷ niệm ngọt ngào mà tôi đã nhận được ở Lộ Đức. Tôi xin kể lại vắn tắt. Tôi không nhớ rõ năm nào. Khi đã lâu rồi, nhân dịp tôi đi Rôma, qua Pháp, anh Trần Năng Thể bạn tôi, khuyên tôi nên đi Lộ Đức viếng Đức Mẹ. 3. Vào một chiều thứ bảy, chúng tôi đi xe lửa tới Lộ Đức. Chúng tôi trọ ở một khách sạn nhỏ. Anh Thể bảo cho cha phụ trách đền thờ Đức Mẹ là, có một giám mục Việt Nam xin được dâng lễ tại Đền thờ Đức Mẹ sáng hôm sau. 4. Đúng giờ hẹn, chúng tôi vào phòng áo, để mặc áo lễ. Đang lúc đó, cha phụ trách đền thờ đến chào tôi. Ngài nói đại khái thế này: Sáng nay, lễ rất đông linh mục và giáo dân từ nhiều nước tới. Chỉ có một giám mục là đức cha. Xin đức cha vui lòng chủ lễ, và giảng. Nghe vậy, tôi quá bất ngờ. Tôi thấy mình không thể chủ sự một lễ trọng như thế, nhất là không có chút khả năng nào để giảng giữa một cộng đoàn quốc tế như vậy. Giảng mà không soạn trước là điều tôi không hề đã làm. Phương chi giảng một dịp trọng đại như đang thấy trước mắt. 5. Tôi quá sợ. Tôi từ chối. Nhưng cha phụ trách đền thờ trấn an tôi. Ngài trao cho tôi gậy giám mục và nói: Đức Cha cứ bình tĩnh, vừa đi giữa cộng đoàn vừa làm phép lành cho cộng đoàn. Đức Mẹ ở bên đức cha. Xin đức cha đừng sợ. 6. Thế là cha dắt tôi ra trước mặt cộng đoàn, và giới thiệu. Số linh mục đồng tế khoảng vài chục. Số người dự lễ rất đông. Tất cả đến từ nhiều nước khác nhau. Có một số không là công giáo. Tôi vừa bước đi vừa cầu nguyện. Đề tài, mà tôi sẽ chia sẻ là gì đây? Tôi nghĩ ngay đến yêu thương và hiệp nhất. Sau Phúc âm, tôi chia sẻ đề tài đó. Tất nhiên bằng tiếng Pháp. Tôi vừa nói, vừa cầu nguyện. Nghĩ tới đâu nói tới đó. 7. Ngay lúc đó, tôi cảm nhận được rõ ràng: Đức Mẹ đang làm một phép lạ. Mẹ làm cho chúng tôi là những người khác nhau được trở nên quen thân nhau. 8. Sau thánh lễ, nhiều người rất lạ đến chào tôi. Mọi người đều vui trong yêu thương và hiệp nhất. 9. Riêng tôi, tôi nhận thấy rất rõ ràng ơn Đức Mẹ ban. Tôi chỉ là một dụng cụ bé nhỏ, yếu đuối, tội lỗi, nhưng khi được Đức Mẹ dùng, thì yêu thương hiệp nhất là do Đức Mẹ, chứ không do tôi. 10. Kỷ niệm trên đây đã qua lâu rồi. Nhưng thời gian này, kỷ niệm đó đang sống lại trong tôi. Kỷ niệm đó giờ đây dạy tôi điều này: Yêu thương và hiệp nhất không là kết quả của sự thực hiện các nghi lễ, yêu thương và hiệp nhất cũng không đến từ bên ngoài. Nhưng đến từ bên trong tâm hồn. Tâm hồn tìm về với Chúa, một cách nào đó, nhờ Đức Mẹ. 11. Tâm hồn phải nhận biết mình nghèo khó, để chỉ cậy vào Chúa mà thôi. Cậy vào Chúa là cậy vào Lời Chúa. Khi chia sẻ, thì chia sẻ từ Lời Chúa, dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. 12. Kỷ niệm trên đây đang diễn lại trong tôi, để nhắc bảo tôi về điều Chúa Giêsu xưa đã nói: “Người mù lại dắt người được sao? Cả hai sẽ rơi xuống hố sâu” (Lc 6, 39) Chúa dạy tôi là yêu thương và hiệp nhất là những điều rất khó. Nếu tôi không dựa vào ơn Chúa, mà chỉ dạy yêu thương và hiệp nhất theo kiểu lý luận thế gian, thì tôi sẽ chỉ là người mù dắt người mù mà thôi. 13. Nhất là khi tôi nói về yêu thương và hiệp nhất, mà nếu lại chỉ đưa ra những suy đoán gây hận thù và kích động ghen ghét, thì quả là tôi sẽ tự xếp mình vào loại cây xấu sẽ sinh ra trái xấu, như Chúa Giêsu quả quyết (Lc 6,45). 14. Giờ đây, để tỏ lòng biết ơn và cảm tạ Chúa. Tôi xin quả quyết điều này: Yêu thương và hiệp nhất đang là một thách đố lớn cho Hội Thánh chúng ta. Nhưng với Đức Mẹ, thách đố lớn đó sẽ được giải quyết một cách lạ lùng. Đó là một an ủi vô cùng quý báu cho chúng ta. An ủi quý báu đó đang kêu gọi mỗi người chúng ta hãy cùng với Mẹ Maria trở thành người gieo rắc yêu thương và hiệp nhất theo thánh ý Chúa. Nhờ vậy mà chính chúng ta sẽ được cứu rỗi. Riêng đối với tôi, bất cứ ai đến gieo vào lòng tôi yêu thương và hiệp nhất theo tinh thần Phúc âm đều được tôi coi là người của Đức Mẹ, dù họ không theo đạo Công giáo. “Lạy Mẹ Maria, xin thương đến giáo phận Long Xuyên”. Long Xuyên, ngày 8.4.2017 + GB. Bùi Tuần
Ngày 30 tháng 4 năm nay 2017 là kỷ niệm 42 năm tôi được thụ phong Giám mục. Kỷ niệm này đang đẩy mạnh tâm hồn tôi lên tới Chúa. 2. Mấy ngày nay, tự nhiên tôi thích cầu nguyện với Chúa theo thánh vịnh 130. Thánh vương Đavít đã dâng lên Chúa những lời tha thiết từ vực sâu, mà Ngài đang chìm vào. “Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi”. 3. Vực sâu của vua Đavít trước hết là nỗi đau của Ngài về bao tội lỗi của mình. Nỗi đau của Ngài ví như một vực thẳm. Từ vực thẳm nỗi đau về tội lỗi, Ngài nói với Chúa: “Ôi, lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững được chăng. Nhưng Chúa vẫn rộng lòng thứ tha”. Tôi cũng đứng ở đáy vực sâu của tôi là nỗi đau về bao tội lỗi của mình, tôi đã kêu lên Chúa. Và tôi đã được nghe Chúa trả lời tôi về lòng Chúa thứ tha. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa. 4. Vực sâu của vua Đavít còn là nỗi khát khao mong đợi Chúa đến, để cứu Ngài và dân Itraen. Nỗi khát khao mong đợi đó ví như một vực thẳm. Từ vực thẳm nỗi khao khát đó, Ngài nói với Chúa: “Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi cậy trông ở lời Chúa. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi rạng đông”. Tôi cũng đứng ở đáy vực sâu của tôi là nỗi khao khát mong đợi Chúa. Tôi đã kêu lên Chúa, và tôi đã nghe Chúa trả lời tôi về sự Chúa đến, vì Chúa luôn từ ái, luôn cứu những ai cậy trông ở Chúa. 5. Hình ảnh vực sâu của thánh vịnh, lại dẫn tôi đến một vực sâu khác, đó là sự bất xứng của tôi. Tôi nhìn thấy sự bất xứng của tôi đối với chức vị Chúa trao phó, như một vực sâu thăm thẳm. Tôi cảm thấy sợ hãi. Sợ hãi vì bất xứng được cảm nghiệm như một vực sâu. Từ vực sâu đó, tôi kêu cầu Chúa. Và tôi đã nghe Chúa trả lời tôi về tình yêu thương xót Chúa sẽ đổ tràn vào vực thẳm hồn tôi, bởi vì Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. 6. Càng cầu nguyện “Từ vực sâu”, theo thánh vịnh, tôi càng thấy ứng nghiệm trong tôi lời thánh Phaolô đã quả quyết: “Thần Khí giúp chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh thần cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, bằng những rên xiết khôn tả” (Rm 8,28). Đúng là như vậy, Chúa Thánh Thần đã dùng chính sự yếu hèn của kẻ đứng ở đáy vực sâu làm nên lời cầu nguyện. 7. Càng cảm thấy mình yếu hèn, nghèo khó, tôi càng cảm thấy mình cần liên hệ với Chúa một cách tha thiết. Từ đó, tôi mới nhận ra được những ơn Chúa ban cho tôi, như thánh Phaolô dạy: “Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là thần khí của Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta không lãnh nhận thần khí của thế gian, nhưng là thần khí của Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1Cr 2,12-13). 8. Tôi đây, tôi thấy rõ những điều này: Để có thể nhận ra một cách đúng đắn những ân huệ Chúa đã ban cho tôi suốt 42 năm Giám mục: - Tôi cần được Chúa Thánh Thần soi cho. - Tôi cần phải biết mình yếu hèn, nghèo khó như những vực thẳm. - Tôi cần kêu lên Chúa. Chúa là tình yêu xót thương. Chúa đến với tôi, không phải vì tôi công chính, nhưng vì tôi là kẻ tội lỗi. Chúa đến, không phải để kết án nhưng để giải cứu tôi (x.Mt 9,12). 9. Một trong những ân huệ lớn lao Chúa đã ban cho tôi trong mấy chục năm qua, là được sống mọi thử thách và mọi đau khổ, trong tình thần hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa không miễn cho tôi khỏi những khổ đau, nhưng Chúa cho tôi được cậy trông Chúa, qua mọi thánh giá, luôn được tham dự vào sự Chúa Phục Sinh. 10. Với chút chia sẻ trên đây, tôi thân ái cảm ơn mọi người gần xa đã và đang nâng đỡ tôi trong ơn gọi làm chứng cho Chúa giữa Việt Nam hôm nay. Số người nâng đỡ tôi không phải ít. Họ đang cùng với tôi cảm tạ Chúa vì bao sự lạ lùng Chúa đã thực hiện cho Hội Thánh Chúa. “Muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135). Long Xuyên, ngày 21.4.2017
Từ ngày đó, 30 tháng 4 năm 1975 tới hôm nay, 30 tháng 4 năm 2017, đã là 42 năm. Tôi coi 42 năm vừa qua của tôi là một chuyến đi dài. Chuyến đi dài đó rất phức tạp, đầy gian nan. Ngày nào cũng là lên đường một cách thiêng liêng. Khi lên đường, tôi thường mang một số hành trang, lúc thứ này, lúc thứ khác. Nhưng bất cứ lúc nào, tôi vẫn mang một hành trang nhỏ, mà tôi coi là cần thiết nhất. Hành trang nhỏ đó là chuỗi tràng hạt mân côi. 2. Với chuỗi tràng hạt mân côi, tôi cầu nguyện một cách đơn sơ với Đức Mẹ Maria. Cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi gặp Đức Mẹ. 3. Với Đức Mẹ, giờ đây tôi nhìn thoáng qua toàn cảnh cuộc đời giám mục của tôi. Cuộc đời đó là một chuyến đi xa vào mầu nhiệm thánh giá chan chứa tình Chúa xót thương dành cho tôi là kẻ yếu đuối tội lỗi. Hành trang là chuỗi tràng hạt mân côi. Đồng hành với tôi là Đức Mẹ. Đức Mẹ chỉ dạy một lời: Hãy xin vâng ý Chúa. Xin vâng đó đem lại cho tôi bầu khí yêu thương và bình an. Nhận được yêu thương và bình an của Chúa, để rồi chia sẻ yêu thương và bình an đó cho nhiều người khác. Nhờ vậy, tuy khổ đau còn đó, tôi vẫn hạnh phúc. Với hạnh phúc của thánh giá chan chứa tình Chúa xót thương dành cho tôi là kẻ tội lỗi yếu hèn, tôi được Chúa gọi phục vụ Hội Thánh và Quê Hương trong những phạm vi nhỏ nhưng không thiếu phức tạp. Chính tại đó, tôi thấy rõ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. 4. Tôi xin được kể ra đây một kỷ niệm. Hồi đó, tình hình rất khó khăn. Khi nghe tin cha sở Đất Hứa bị bắt, tôi nhất định lên đường tới đó. Hành trang chỉ là một xâu chuỗi Mân Côi. Tôi tin có Đức Mẹ đồng hành với tôi. Tới đó, tôi không được ngủ tại nhà xứ, mà phải ngủ dưới nhà bếp. Bầu khí có vẻ căng. Nhưng với mọi người, Đức Mẹ bên tôi luôn giúp tôi bình an và yêu thương, bình an và yêu thương thực tình và tận tình. Kết quả cuối cùng là rất tốt cho cả đời cả đạo. Việc Chúa làm thực rất lạ lùng. Nhiều trường hợp tương tự đã xảy ra cho tôi như vậy. 5. Từ những kinh nghiệm đó, hôm nay tôi xác tín là: Đức Mẹ đã và đang giúp tôi sống đức tin. Đức tin đưa tôi đến nguồn yêu thương và bình an. Nhờ đó tôi được nhận ra Chúa là Đấng tạo dựng và cứu độ tôi. Đức tin giúp tôi phấn đấu không ngừng để tôi được thuộc trọn về Chúa, để tôi thao thức làm theo ý Chúa. Xin cảm tạ Chúa đã ban cho tôi đức tin. Hơn bao giờ hết, Đức Mẹ đang là điểm tựa êm đềm cho tôi. Mẹ luôn giáo dục người con yếu đuối của mẹ bằng tình mẹ bao la. 6. Đón nhận bình an và yêu thương, rồi cho đi bình an và yêu thương, đó là điều tôi đã ngỡ ngàng nhận ra nơi rất nhiều người gần xa. Họ là gương sáng cho tôi. Chúa làm nơi họ những sự lạ lùng. So sánh mình với họ, tôi mới thấy tôi quả là rất nghèo về đạo đức. Nhận thức được điều đó là một ân huệ Chúa ban cho tôi. Từ đó, tôi nhận ra điều này: Tôi không là người dạy dỗ, cho bằng là người cần phải học thêm mãi. Những người dạy tôi có thể là những người rất nghèo, rất khổ. Họ làm chứng cho mầu nhiệm thánh giá dạt dào tình Chúa xót thương dành cho những kẻ yếu hèn tội lỗi, trong đó có tôi. 7. Với chút chia sẻ trên đây, tôi xin thân ái cảm ơn hai Đức Cha và tất cả cộng đoàn. Đặc biệt, tôi xin cám ơn Đức cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Nhớ về ngài, là nhớ tới một cụ già sống nghèo, luôn vâng phục ý Chúa, tay lúc nào cũng cầm tràng hạt Mân Côi, sẵn sàng cho đi bình an và yêu thương tới bất cứ ai, mặc dầu bản thân ngài mang nhiều đau đớn. Ngài đau cái đau của đoàn chiên, Ngài đau thay cho đoàn chiên. 8. Đời tôi không còn hoạt động được gì nữa. Chỉ ở một chỗ. Có thể thành một gánh nặng cho chính mình và cho nhiều người. Dầu vậy, tôi vẫn vâng theo ý Chúa, hết lòng tin tưởng ở lòng Chúa xót thương. Xin cảm tạ Chúa hết lòng. Cũng xin tận tình cảm ơn anh chị em đã không ngại nâng đỡ tôi. 9. Càng ngày tôi càng hiểu thêm lời Chúa Giêsu phán xưa: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em một sự bình an, không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Kinh nghiệm đang giúp tôi thêm tin vào Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho Hội Thánh và cho Quê Hương yêu dấu chúng ta. Long Xuyên, ngày 30.4.2017
Có một điều riêng tư, nhưng tôi cảm thấy nên nói ra, để ca ngợi trái tim Chúa Giêsu, điều đó là sự trái tim Chúa Giêsu đã dạy tôi về phục vụ. Khi được Chúa trao cho chức Giám mục, tôi cũng được Chúa ban cho tôi ý thức là mình phải phục vụ đoàn chiên theo như Chúa muốn. Phục vụ như thế đã được nhiều tài liệu do Hội Thánh dạy. Thêm vào những văn bản đó, Chúa còn thương dạy tôi bằng một biến cố riêng tư. Xin phép được diễn tả vắn tắt như sau. 2. Một đêm, sau ngày thụ phong Giám mục, 30/4/1975, tôi vừa ngủ mà cũng vừa cầu nguyện, thì tôi thấy Chúa Giêsu đến. Tôi đang đi một mình trên một con đường lớn giữa cánh đồng, thì tôi thấy một người từ con đường nhỏ đi về phía tôi. Gặp nhau, tôi nhận ra ngay đó là Chúa Giêsu. Người cầm lấy tay tôi, dẫn vào một thành phố, rồi đi thẳng vào một bệnh viện. Bệnh viện có nhiều bệnh nhân nằm la liệt, Chúa Giêsu dẫn tôi tới gần các bệnh nhân. Tự nhiên, tôi cảm thấy trào lên trong tôi những tình cảm rất mới, như sau: 3. Một là tôi cảm thấy mình được chia sẻ cái đau của bệnh nhân. Hai là tôi cảm thấy mình thực sự mong ước những gì là tốt nhất cho bệnh nhân. Ba là tôi cảm thấy tôi cần phải hiến dâng chính bản thân tôi, để cứu họ. 4. Ba điều trên đây được Chúa Giêsu dạy tôi như những điều cần trong phục vụ. 5. Tất cả đều diễn tiến trong giấc mơ. Tôi bừng thức dậy. Tôi xác tín Chúa Giêsu đã đến gặp tôi thực sự. Từ đó, tôi sống với từng điều Chúa Giêsu đã dạy tôi. Càng ngày tôi càng cảm thấy rõ ràng thực tế không dễ chút nào. Phải có ơn Chúa mới thực hiện được. Xin phép trình bày đôi chút kinh nghiệm. 6. Thứ nhất, khi tiếp xúc với những người đau khổ bất cứ bằng phương tiện nào, tôi được Chúa dạy là phải biết đau cái đau của họ, phải đồng cảm thực sự với họ. Thế nhưng, biết bao lần, nếu không tỉnh thức, tôi đến với họ chỉ là xã giao, chỉ là hình thức, mà lòng thì lạnh lùng, vô cảm. Chính tôi, khi người khác đến với tôi đang khổ đau mà như vậy, tôi cũng rất buồn. Nỗi buồn đó giúp tôi hiểu nỗi buồn của nhiều người đau khổ khác. Từ cái vô cảm đối với nỗi khổ của người khác, người ta dễ đi xa hơn, để dám có những lời nói việc làm xúc phạm, gây đau khổ thêm cho những người mà mình cho là đang phục vụ. 7. Thứ hai, khi tiếp xúc với những người đau khổ, tôi được Chúa dạy là phải muốn cho họ những điều tốt lành nhất. Thế nhưng, biết bao lần, nếu không tỉnh thức, tôi đến với những người đau khổ, không những không mong muốn cho họ những điều tốt lành, mà còn mong muốn cho họ những điều không là bình an, không là yêu thương, rồi cho đó là phục vụ họ. Đức Hồng Y Martini kể lại chuyện này. Khi Ngài đến thăm Đức Hồng Y Paulhaber, tổng giám mục Munich, Đức, năm 1950, Đức Paulhaber cho Đức Martini xem một cục đá và nói: Đây là một trong nhiều cục đá, mà người ta đã ném vào phòng tôi, để phản đối tôi, hồi tôi lên tiếng chống lại chủ nghĩa dân tộc quá khích của Hitle. Tôi giữ nó làm kỷ niệm. 8. Chuyện trên đây làm tôi liên tưởng đến nhiều thứ cũng như cục đá, mà người ta cũng đã nhiều lần ném vào tôi, và cho đó là vì mục đích phục vụ. Thực tế đó cho thấy mong muốn cho người khác những điều ác độc, rồi cho đó là phục vụ, vẫn có thể xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Tôi cũng thấy phải có ơn Chúa mới tránh được thảm kịch đó. 9. Riêng tôi, tôi tha thứ, vẫn yêu thương những kẻ ném đá tôi. Tôi luôn tự nhủ: Ném đá bất cứ ai, vì bất cứ mục đích và lý do nào, đều là việc không nên làm và không được làm. Ai làm thì chịu trách nhiệm trước Chúa. Còn tôi thì phó thác, không quan tâm đến việc đối phó trước những chuyện mình bị ném đá. Thế là tôi được bình an, để thời giờ lo cho những việc khác đáng làm hơn. 10. Thứ ba khi tiếp xúc với những người đau khổ, tôi được Chúa dạy là hãy hiến dâng chính bản thân tôi để cứu họ. Thế nhưng, biết bao lần, nếu không tỉnh thức, tôi đến với họ, không những chẳng dám hiến dâng chính mình để cứu họ, mà còn lợi dụng nỗi khổ của họ, để tìm tư lợi cho tôi. 11. Rất mừng là tại Việt Nam hôm nay, số người hy sinh chính mình cho những kẻ khổ đau vẫn đông. Họ âm thầm và bằng nhiều cách, hy sinh chính mình để cứu những kẻ khổ đau. Theo gương họ, tôi cũng quyết tâm hiến dâng chính mình, góp phần nào vào việc cứu những kẻ khổ đau. 12. Hạnh phúc của tôi là: Làm cho người đau khổ bớt khổ đau, ít là đừng bao giờ làm cho họ thêm đau khổ vì những lời nói, việc làm, hay thái độ gây tổn thương cho họ. 13. Tất cả những gì tôi vừa chia sẻ trên đây đều đã được Chúa Giêsu dạy tôi một cách căn bản, khi Người cầm tay tôi đi thăm các bệnh nhân đêm đó. 14. Bây giờ, thì chính tôi đã là bệnh nhân từ lâu rồi. Bệnh trong thể xác, bệnh trong tâm hồn. Đôi khi tình trạng của bệnh nơi tôi trở nên trầm trọng. Vì thế, tôi hiểu thấm thía nỗi mong chờ của người bệnh đặt nơi những người khỏe mạnh gần xa có chút liên hệ với mình. Càng mong chờ thì càng bén nhạy với bất cứ sự gì xảy đến cho mình. Do vậy, tôi nghĩ nhiều tới những bệnh nhân bị người xung quanh xa tránh, hoặc bị đối xử nhẫn tâm. 15. Một thoáng nhìn trên đây đang giúp tôi nhìn vào trái tim Chúa Giêsu. Tôi khẩn khoản nài xin trái tim Chúa thương ban cho tôi được hiền lành và khiêm nhường, phần nào như trái tim Chúa, để tôi biết tiếp xúc với những người đau khổ với tâm tình của trái tim Chúa. Đừng khi nào đạo đức mà độc địa kiêu căng. Nếu không, chính mình sẽ phải khổ trước, do tội mình gây nên. Lạy trái tim Chúa Giêsu, xin thương giúp Hội Thánh chúng con biết quan tâm nhiều hơn đến những người đau khổ. Long Xuyên, ngày 30.4.2017
1. Dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, tôi cầu nguyện rất nhiều. Lời kinh tôi dùng nhiều nhất để cầu nguyện là kinh sau đây được phổ biến từ Fatima: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đưa các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn”. 2. Khi đọc kinh trên đây, Đức Mẹ dạy tôi ba tâm tình này: Một là phải rất khiêm nhường. Hai là phải rất khó nghèo. Ba là phải tín thác vào lòng Chúa xót thương. 3. Tâm tình khiêm tốn được Mẹ dạy tôi, khi Mẹ dắt tôi đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi. Đứng trong hàng ngũ những kẻ tội lỗi, tôi cảm thấy mình có liên đới với tất cả những ai tội lỗi, để cùng với họ, tôi nài xin Chúa: “Xin tha tội chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục”. Thái độ khiêm nhường đó phát xuất từ thẳm sâu con người của tôi. Lạy Chúa, này con đây, con là kẻ tội lỗi, như bao nhiêu kẻ tội lỗi khác, có khi còn tội lỗi hơn những kẻ tội lỗi trên đời này. Tâm tình khiêm tốn đem lại cho tôi sự bình an. 4. Tâm tình khiêm tốn đó được tăng cường hơn bằng tâm tình nghèo khó. Khi Đức Mẹ dắt tôi đứng vào hàng ngũ những kẻ có tội, Đức Mẹ lại dạy tôi là đừng dại tự hào với những công việc mình sẽ làm để đền tội. Trái lại, Mẹ dạy tôi là hãy cứ làm những việc đền tội, nhưng căn bản là không được coi đó là những của cải để làm giàu một cách thiêng liêng, mà căn bản là phải cậy tin vào lòng thương xót Chúa. Tinh thần nghèo khó là rất cần trong cầu nguyện. Cầu nguyện mà kể công phúc của mình, thì sẽ bị Chúa từ bỏ, như trường hợp người Pharisêu xưa, trong dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế cùng cầu nguyện trong đền thờ (x. Lc 18,9-14). 5. Phải tín thác vào lòng thương xót Chúa. Khi Mẹ dắt tôi đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, thì Mẹ cũng dạy tôi là hãy coi mình là kẻ cần đến lòng thương xót Chúa hơn hết mọi người tội lỗi khác. Từ đó, tôi nhìn mọi ơn Chúa ban cho tôi đều là ơn ban nhưng không, chỉ vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn kẻ tội lỗi này mà thôi (Lc 1,48). 6. Với ba tâm tình trên đây, tôi cảm thấy mình hiện diện trước Chúa như người con bé nhỏ yếu đuối, để luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa với tâm tình cảm tạ. Tôi rất ý thức tôi là kẻ tội lỗi, nhưng được Chúa đoái thương. 7. Do những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, tôi được Đức Mẹ dạy tôi là kỷ niệm 100 năm Mẹ hiện ra ở Fatima đang là một biến cố Chúa dùng, để đánh thức lương tâm chúng ta. Chúng ta nên coi đây là một sự đánh thức lương tâm rất hữu ích, rất cần thiết. Bởi vì lương tâm nhiều người chúng ta đã và đang bị chi phối rất nhiều bởi những tinh thần sai Phúc Âm. 8. Thực vậy, thay vì nói: “Xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục” thì nhiều khi chúng ta nói: “Xin tha tội cho họ, xin cứu họ khỏi lửa hỏa ngục”. Còn bản thân mình chúng ta thì xem ra không cần được tha tội, không cần phải cứu khỏi lửa hỏa ngục. Xin ý tứ kẻo kiêu ngạo. 9. Hơn nữa, chúng ta tự coi mình là những kẻ giàu có nhiều nhân đức, để tự hào là kẻ phân phát nhân đức cho kẻ khác. Chúng ta tự đeo vào mình nhiều thứ hào quang. Xin ý tứ, kẻo mất sự khó nghèo. 10. Lại nữa, chúng ta đôi khi chủ trương phải cứng rắn đối với những kẻ tội lỗi, không nên xót thương họ. Vô tình thái độ đó của chúng ta lại bị Chúa áp dụng cho chính chúng ta. “Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng bị Chúa xét đoán như vậy. Anh em đong đấu nào cho kẻ khác, thì Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7,2). Xin ý tứ, kẻo xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. 11. Mấy ngày nay, Chúa đánh thức lương tâm tôi một cách mạnh mẽ, qua những gì Đức Mẹ dạy ở Fatima. Lương tâm được đánh thức không phải chỉ cho mấy ngày này, mà cho một chuyến đi dài trước mắt. Trước mắt là một tình hình rất bất ổn. Cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa Satan và Thiên Chúa, đang trở thành cam go, phức tạp. 12. Chúng ta hãy dứt khoát thuộc về Chúa. Thuộc về Chúa qua những gì Đức Mẹ dạy ở Fatima. Ở Fatima, Đức Mẹ nhấn mạnh đến việc sám hối, ăn năn. Tôi thấy sám hối ăn năn là việc cần thực hiện hằng ngày. Sống khiêm nhường, sống khó nghèo, sống tín thác vào lòng thương xót của Chúa, tất cả đều đòi phải tỉnh thức và chiến đấu nội tâm. Dù vậy, tôi thấy rất vui và đầy hy vọng. Bởi vì tôi tin chắc chắn: Tôi là kẻ tội lỗi, nhưng được Chúa thương nhờ Mẹ Maria, Mẹ rất nhân ái, dịu hiền. Long Xuyên, ngày 14.5.2017
1. Năm nay tôi đã 90 tuổi. 90 năm đời tôi là một chuyến đi tương đối dài. Chuyến đi ấy được đánh dấu bằng nhiều biến cố quan trọng. Những biến cố đó được coi như những bến đợi, mà Chúa đã đến gặp tôi, để sai tôi đi. Chúa sai tôi đi vì Chúa muốn, mặc dầu tôi sợ hãi, xin được rút lui, mà không được. Do vậy, lễ thụ phong linh mục, nhất là lễ thụ phong Giám mục của tôi đã được tổ chức hết sức đơn giản. 2. Vâng phục thánh ý Chúa mà dấn thân vào nhiệm vụ đầy gian nan, tôi ý thức mình rất yếu hèn tội lỗi. Nhưng tôi tin vào Đấng đã sai tôi. Hơn bao giờ hết, những ngày cuối đời, nhìn lại những ơn Chúa đã ban, tôi thấy tôi phải cảm tạ Chúa một cách đặc biệt vì đức tin. 3. Thực vậy, đức tin đã đem lại cho tôi sự bình an, sức mạnh và hạnh phúc trong suốt hành trình ơn gọi đầy gian khổ. 4. Chúa đã ban đức tin cho tôi, và chính Chúa dạy tôi sống đức tin ấy. Sống đức tin đó là như thế nào? Hôm nay tôi xin phép mô tả vắn tắt theo kinh nghiệm dựa vào những chỉ dẫn của vài vị thánh. 5. Theo thánh Augutinh, sống đức tin là đón nhận Chúa. Trong cuốn Tự Thú, quyển X, đoạn 27, thánh nhân viết: “Chúa đã gọi con, Chúa đã kêu con, Chúa đã bẻ gẫy cái điếc của con. “Chúa đã soi sáng, Chúa đã toả sáng và Chúa đã đánh tan sự mù tối của con. “Chúa đã xức dầu thơm cho con. Con đã hít vào và thao thức nghẹn ngào, con thở về Chúa. “Con đã nếm và con thấy đói, thấy khát. “Chúa đã đụng tới con và con được cháy lên vì sự bình an của Chúa”. Với những lời tự thú trên đây, thánh Augutinh cho thấy ngài tin Chúa là ngài đón Chúa. Ngài đón bằng tai, mắt, mũi, lưỡi và tay. Chúa vào trong ngài. Ngài cảm thấy Chúa là suối nguồn bình an, bởi vì Chúa là tình yêu thương xót. 6. Khi tôi sống đức tin theo gương thánh Augutinh, tôi thấy cái đẹp, cái thiện, đều phát xuất từ Chúa. Tin Chúa là đón nhận Chúa bằng tất cả con người mình, để rồi cũng bằng tất cả con người của mình, tôi ca tụng Chúa. 7. Cùng với gương sáng của thánh Augutinh, tôi cũng sống đức tin theo gương sáng của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tôi được may mắn ở bên Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần, tại bàn thờ, tại bàn giấy, tại bàn ăn của ngài. Đâu đâu, tôi cũng nhận thấy thánh nhân luôn sống kết hiệp với Chúa. Đối với ngài, sống đức tin là sống mật thiết với Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,9). Mật thiết “như cành nho gắn với thân cây nho” (x. Ga 15,4). 8. Thêm vào các gương sáng trên đây, tôi cũng học sống đức tin nơi thánh nữ Têrêsa Calcutta. Thánh nữ dạy tôi sống đức tin là hãy nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo khổ, và hãy tránh kết án bất cứ ai. 9. Sau cùng, sống đức tin của tôi đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Fatima, nơi Đức Mẹ đã nhắc nhở đến sự sám hối ăn năn. Sống đức tin hôm nay là hãy khiêm tốn nhận mình là kẻ cần phải ăn năn đền tội, cho mình và cho thế giới đang lâm nguy. 10. Với mấy nét chính trên đây, tôi đã và đang sống đức tin như một cuộc gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ riêng tư, gặp gỡ thân mật, gặp gỡ thường xuyên. Sống đức tin như thế một cách mãnh liệt trong suốt cuộc đời, nhất là cuộc đời Giám mục. Tôi nói sự thật đó, chỉ để cảm tạ Chúa và cũng để chia sẻ trách nhiệm với cộng đoàn, mà tôi gắn bó. 11. Sống đức tin, nếu phải là như trên đây đã gợi ý, thì lúc này, thiết tưởng chúng ta nên xem xét lại chính mình. Đây là vấn đề quan trọng, để làm chứng cho đức tin trong tình hình phức tạp hôm nay, và nhất là để cứu lấy chính mình. 12. Nhờ đức tin, Chúa sẽ cứu chúng ta khỏi tội và khỏi lửa hoả ngục. Nhưng đức tin phải là đức tin mà Chúa muốn, chứ không phải đức tin mà mỗi người có quyền tạo dựng nên. Đức tin là ơn trọng đại quý giá do Chúa ban. Chúa ban đức tin cho những ai khiêm nhường, nghèo khó, bé nhỏ. Nếu hôm nay, chúng ta coi mình là những người đạo đức, thánh thiện, được quyền đào tạo đức tin với niềm tự đắc tự hào, thì đúng là chính chúng ta đã rơi vào một cuộc khủng hoảng về đức tin. 13. Khủng hoảng về đức tin xảy ra trong chính những người tự nhận là nhân chứng của đức tin, thì hậu quả sẽ ra sao? Cách đây đã mấy chục năm, tôi có dịp đi La Salette, để hành hương cầu nguyện với Đức Mẹ khóc. Bởi vì tại La Salette, Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình một phụ nữ ngồi ôm mặt khóc. Đức Mẹ khóc, để cảnh báo về một tình hình đức tin sa sút lúc đó đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Pháp. 14. Cảnh báo về tình hình đức tin sa sút, đó là việc Đức Mẹ đã làm bằng nhiều cách, kể cả bằng nước mắt của Mẹ. Nhớ lại cảnh Đức Mẹ khóc ở La Salette, tôi cầu xin Đức Mẹ đoái thương đến tôi và Hội Thánh tại Việt Nam. Xin Mẹ đừng để xảy ra cảnh đức tin sa sút, do biến chất hay do bất cứ nguyên nhân nào. Nếu chẳng may sa sút, thì xin Mẹ thương cứu. Đức Mẹ sẽ cứu, nhưng cần chúng ta biết đón nhận với lòng khiêm nhường cậy trông. Tình hình hiện nay là rất phức tạp. Đức tin chân thực sẽ cứu chúng ta. 15. Xem xét lại tình hình đức tin của mình, đó là việc Chúa muốn, mà mỗi người chúng ta nên làm trong năm nay, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Việc xem xét tình hình đức tin là việc không dễ chút nào. Rất cần ơn Chúa. Xin Mẹ Maria thương giúp chúng con. Amen. Long Xuyên, ngày 19.5.2017.
1. Thời sự lớn đã, đang và sẽ xảy ra trong Hội Thánh Việt Nam mấy tháng này là những lễ phong chức. Tôi cầu nguyện nhiều cho các tân chức. 2. Nhìn các tân Giám mục và các tân linh mục, tôi thoáng nhận ra Chúa Giêsu với trái tim bốc lửa lặng lẽ xuất hiện. Chúa âm thầm nói với từng vị: “Con hãy bắt chước Cha, - mà cầu nguyện thay cho đoàn chiên, - mà đền tội thay cho đoàn chiên, - mà sẵn sàng hy sinh mạng sống thay cho đoàn chiên”. 3. Không những Chúa Giêsu đã nói như vậy với các tân Giám mục và các tân linh mục là một số nhỏ, mà Chúa cũng nói như vậy với số đông gồm mọi tín hữu thuộc mọi thành phần trong Hội Thánh Việt Nam. Trong đó có tôi. 4. Chúa Giêsu muốn mọi môn đệ của Người: - hãy cầu nguyện thay cho người khác, - hãy đền tội thay cho người khác. - hãy chết thay cho người khác. 5. Mong muốn đó của Chúa Giêsu được kể như một sự sai đi. Tôi hiểu như vậy, khi nghe Người cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Đến thế gian, Chúa Giêsu đã luôn cầu nguyện thay cho nhân loại, luôn đền tội thay cho nhân loại, đã hy sinh mạng sống thay cho nhân loại. 6. Cái nhìn trên đây là một ơn mà Trái Tim Chúa đã ban cho tôi. Với cái nhìn chan chứa hồng ân đó, tôi nhận ra nhiều người đã cầu nguyện thay cho tôi, đã đền tội thay cho tôi, đã phần nào hy sinh mạng sống thay cho tôi. Tôi mãi mãi nhớ ơn họ. 7. Cũng với cái nhìn trên đây, tôi nhận ra những người đã và đang là tông đồ của Trái Tim Chúa giữa lịch sử Việt Nam đầy phức tạp này. Họ âm thầm cầu nguyện thay, đền tội thay và sẵn sàng hy sinh mạng sống thay cho bao người khác. Ở đây, tôi tự nhiên nhớ tới Cha Phanxicô X. Trương Bửu Diệp. 8. Khi có dịp qua Pháp, tôi thường ghé đền thờ kính Trái Tim Chúa ở MontMartre. Bất cứ lúc nào, tôi cũng gặp ở đó một ít người âm thầm cầu nguyện, lặng lẽ hồi tâm, để rồi ra đi dấn thân phục vụ những người đau yếu, già nua, nghèo khổ. Họ lãnh nhận ở đó lửa của Trái Tim Chúa, để biết cầu nguyện thay, đền tội thay và hy sinh mạng sống mình thay cho những người khác. 9. Một hôm, trong lần gặp riêng Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, tôi thấy ngài mệt mỏi, bước đi khó khăn, tôi liền nói với ngài: “Con xin dâng mạng sống con, thay cho Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha cần sống hơn con”. Ngài quay sang tôi mà nói: “Xin cám ơn hết lòng. Chúng ta hãy vâng theo ý Chúa”. Tôi tin chắc ngài đã được an ủi phần nào. Kinh nghiệm đó giúp tôi đừng ngại cầu nguyện thay, đền tội thay và sẵn sàng hy sinh mạng sống thay cho người khác. 10. Khi những “thay cho” đó trở thành hướng đi của đời mình, thì cuộc sống thường ngày sẽ mang màu sắc mới trong từ chi tiết nhỏ. Thí dụ: những ngày này, tôi rất suy sụp về cả thân xác lẫn tinh thần. Tôi cô đơn, mệt mỏi. Chính trong hoàn cảnh đó, ý tưởng cầu nguyện và đền tội thay cho người khác đang giúp tôi sống phần nào như của lễ dâng lên Chúa. 11. Đúng là “những thay cho” luôn phải thực hiện trước thánh nhan Chúa. Cho dù chẳng ai thấy, nhưng một mình Chúa thấy là đủ. Mà cũng đừng mong muốn những thay cho đó được phơi bày ra cho người ta thấy mà khen. Kẻo, sẽ lại rơi vào sự mến chuộng những hình thức bề ngoài, dễ thành đạo đức giả. 12. Đến đây, tôi tự nhiên nhớ tới những cảnh giác, mà Trái Tim Chúa đã nhiều lần gởi đến tôi. Cảnh giác quan trọng nhất là: Nếu tôi không cầu nguyện thay, đền tội thay và sẵn sàng chết thay cho người khác để cứu họ như Chúa muốn, thì cũng đã là thiếu sốt rồi. Nếu tôi lại dám loại trừ họ bằng những lời nói việc làm và thái độ nhục mạ, khinh khi, kết án, thì tiết tưởng đó không chỉ là thiếu sót, mà còn chính là tội phạm, không những xúc phạm đến người khác, mà cũng xúc phạm đến chính Chúa nữa. 13. Không những vậy, những thứ loại trừ mang tính cách tàn nhẫn như thế cũng là những cản trở lớn cho việc phát triển một nền văn hoá lành mạnh, và cũng rất cản trở cho việc đối thoại với các tôn giáo khác để đi tới một tương lai cùng hướng về Chúa. 14. Nên nhớ: Cộng đoàn Công giáo tại Việt Nam là một cộng đoàn thiểu số. Nếu trong thiểu số đó lại có những loại trừ nhau, thì thiểu số đó sẽ tự mình làm cho mình càng thêm mong manh. Chính sự loại từ nhau đã là một biến chất nguy hiểm đang đe doạ Thiên Chúa giáo một cách trầm trọng. 15. Trong nhiều họ đạo tại Việt Nam, tôi đã được gặp nhiều gương sáng về ơn gọi thực hiện “những thay cho”. Họ là những cá nhân, những nhóm nhỏ, khi được gợi ý, họ đã tình nguyện cầu nguyện thay, đền tội thay, thậm chí cũng có vài hình thức chết thay, để cứu các linh hồn. Họ âm thầm lặng lẽ, gieo lửa tình thương của trái tim Chúa vào cuộc sống thường ngày tại nơi họ sống. Nhìn họ, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu xưa đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Con ở trong họ, và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một. Như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ, như đã yêu thương con” (Ga 17,23). Tôi rất vui được thấy cảnh lạ lùng trên đây. Cảnh đó đang được Chúa dùng, để cứu tình hình đang lâm nguy về nhiều mặt, nhất là về mặt đạo đức. Long Xuyên, ngày 02 tháng 06 năm 2017
1. Lễ mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita nhắc cho tôi nhớ điều quan trọng này: Trẻ Gioan Baotixita được sinh ra với nhiều ơn trọng đại. Nhờ sự Đức Maria đến viếng thăm và chào chúc thánh nữ Isave là người mẹ lúc đang mang thai con trẻ Gioan Baotixita (Lc 1,39-45). Sự kiện lịch sử đó chứa đựng nhiều bài học quý báu, mà Hội Thánh mọi thời mọi nơi đều chăm chú học hỏi. 2. Riêng đối với tôi, Đức Mẹ khuyên dạy tôi hãy để ý đến sự viếng thăm và chào chúc, coi đó như những yếu tố, tôi nên đón nhận và thực hiện cho đi để làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay. 3. Trước hết, có những viếng thăm và chào chúc, tôi cần biết đón nhận, bởi vì những viếng thăm và chào chúc đó mang tinh thần của Mẹ Maria, khi Mẹ đến viếng thăm và chào chúc bà Isave, nhờ đó mà có Gioan Baotixita. Tôi đón nhận những viếng thăm và chào chúc đó từ đâu? Thưa: 4. Từ các phép Bí tích, quen thuộc nhất là thánh lễ Misa và phép Giải tội. Từ sự tôi sống Tám Mối Phúc Thật. Từ sự tôi sống từ thiện bác ái. Từ sự tôi sống những thử thách một cách khiêm nhường, vâng phục ý Chúa. Từ sự tôi cầu nguyện, suy gẫm, hồi tâm theo đúng chỉ dẫn của tu đức. Từ sự tôi lo chu toàn bổn phận Sau cùng, Chúa cũng đến viếng thăm và chào chúc tôi qua nhiều biến cố xảy đến cho tôi cách này cách khác. Có thể nói: Chúa đến thăm viếng và chào chúc tôi mọi ngày và ở mọi nơi. Quan trọng là tôi có nhận ra điều đó nhưng nhất là tôi có thực sự muốn đón nhận không? 5. Xét mình, tôi nhiều lần đã hối hận và nói như thánh Augustinh: “Đã trễ quá rồi, nay con mới đón nhận Chúa. Chúa đến bên con, nhưng con đã không ở bên Chúa” (Tự thú quyển X,27). 6. Đón nhận Chúa viếng thăm và chào chúc không những trong trường hợp có nhiều an ủi, mà cả những trường hợp có nhiều đớn đau, mình như thể hạt lúa bị nghiền nát dưới sức nặng của chiếc cối đá xoay vòng. 7. Biết đón nhận những viếng thăm và chào chúc của Chúa là điều quả thực không dễ. Tôi có kinh nghiệm về mình như thế. Nên tôi không lạ, nếu thấy hiện nay rất nhiều người trong Hội Thánh chúng ta, đang xa tránh những sự Chúa viếng thăm và chào chúc Chúa dành cho họ. Tôi cũng vậy. 8. Tôi không lấy làm lạ. Nhưng tôi thực sự rất lo ngại, nếu chúng ta, nhất là nhiều đấng bậc trong đạo, có xu hướng bình thường hóa việc xa tránh những sự Chúa viếng thăm và chào chúc của Chúa khi những viếng thăm và chào chúc đó đòi chúng ta từ bỏ mình. 9. Cùng với việc đón nhận những viếng thăm và chào chúc của Chúa, Đức Mẹ dạy tôi cũng hãy biết thực hiện cho đi những viếng thăm và chào chúc theo gương Đức Mẹ. Về điêu dạy trên đây của Mẹ, tôi phải khiêm tốn xét mình. Xưa, Mẹ đi viếng thăm và chào chúc Bà Isave, hoàn toàn do mục đích vâng theo ý Chúa. Mẹ làm như kẻ được Chúa sai đi, chỉ để phục vụ Bà Isave mà thôi. Nay, tôi có như thế không? Nếu chẳng may tôi thăm viếng và chào chúc người ta, tuy có vẻ đạo đức, những cũng ngầm mang mục đích tự giới thiệu mình với những chương trình này nọ, để gợi ý cho người ta mừng tôi và các tổ chức của tôi, thì thực là đáng hổ thẹn. Xưa, Mẹ đi viếng thăm và chào chúc cho Bà Isave, một cách đơn sơ, khiêm nhường. Nay, tôi có như thế không? Nếu chẳng may, tôi đi thăm viếng và chào chúc nơi nào, mà trong nơi đó có vẻ vui mừng, nhưng nếu nơi đó cũng phải tốn phí, tổ chức đón rước, tốn công tốn của, tốn sức, tốn thời giờ, thì thực là đáng buồn cho mục vụ thăm viếng và chào chúc. 10. Hiện nay, trên thực tế tại Hội Thánh Việt Nam, đang có nhiều người làm chứng cho Chúa qua những viếng thăm và chào chúc của họ. Viếng thăm và chào chúc là những việc thuộc đạo làm người, thuộc nhân bản. Chính từ đạo đức nhân bản để thấy đó, mà nhiều con cái Chúa đang mang những gì là siêu nhiên của Phúc Âm đến với bao người xung quanh. Viếng thăm và chào chúc, khi được thực hiện với ơn Chúa, sẽ trở thành những không gian và trung gian gần gũi để người ta dễ gặp được Chúa. 11. Riêng tôi, với kinh nghiệm một đời khá dài trong lịch sử phức tạp, tôi có cảm nghĩ thế này: Viếng thăm và chào chúc đã được Tòa Thánh dùng từ lâu, để mở ra cho Hội Thánh Việt Nam những chân trời mới. Những chân trời mới đó đang và sẽ giúp cho Tin Mừng được đi xa và đi sâu vào Đất Nước chúng ta. Chúng ta hãy biết viếng thăm và chào chúc một cách tin tưởng và hân hoan trong cuộc sống hôm nay, với tinh thần mến Chúa thương người, quên mình và khiêm tốn. 12. Những đối tượng, mà Chúa muốn chúng ta quan tâm hơn trong viếng thăm và chào chúc là những người nghèo khổ, những người bệnh tật, những người già nua, cô đơn, những người chúng ta cần đền ơn báo hiếu vì bất cứ lý do nào. 13. Tôi rất mừng, khi nghe tin nhiều tân linh mục đang có hướng viếng thăm và chào chúc như trên, ngay trong những lễ tạ ơn đầu tiên của mình. 14. Thực hiện được một mục vụ thăm viếng và chào chúc như vừa gợi ý, đòi chúng ta phải can đảm. Nhưng Chúa sẽ giúp chúng ta. Long Xuyên, ngày 6.6.2017
1. Đêm ấy, cũng như mọi đêm trước, khi vừa thức giấc từ 3 giờ sáng, tôi nói với Chúa Giêsu một lời chào thân mật: “Lạy Chúa, này con đây”. 2. Nhưng lần này có một chút bất ngờ. Tôi nghe Chúa Giêsu trả lời. Người nói nhỏ trong lòng tôi: “Cha khát”. Lời đó Chúa đã nói trên thánh giá xưa (Ga 19,28). Với lời đó Chúa cho tôi hiểu: Chúa khát các linh hồn. 3. Chúa khát các linh hồn, trong đó có linh hồn tôi. Chúa muốn linh hồn tôi biết mở cửa lòng mình ra để đón tình yêu Chúa cứu độ. Mở cửa lòng ra là biết khiêm nhường nhận mình cần được cứu, và tin vào tình yêu thương xót Chúa. Tôi vâng mở cửa lòng tôi ra như vậy. Và Chúa Giêsu đã ngự vào. Chúa ngự vào lòng tôi. Tôi tin và cũng cảm nhận được như một tin mừng thiêng liêng ngọt ngào. 4. Từ thẳm sâu tâm hồn Chúa Giêsu nói với tôi: “Con hãy thuộc về Cha”. Tôi tự hỏi: thuộc về Chúa bằng cách nào? Thì Chúa trả lời tôi cũng như Lời Chúa đã phán xưa: “Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Cha” (Mt 17,24). Lời đó vắn gọn quá, rất cần được chỉ dẫn khi áp dụng vào cuộc sống thường ngày. Chúa thương chỉ dẫn tôi bằng nhiều cách, mọi ngày, cho đến hôm nay. Tôi xin vắn tắt diễn tả. 5. Từ bỏ mình được tôi thực hiện như Chúa chỉ dẫn một cách cụ thể những khi tiếp xúc. Thí dụ khi tiếp xúc với những người đau khổ bất cứ vì lý do nào, tôi hãy từ bỏ cái tôi ích kỷ của tôi, để biết đau cái đau của họ, biết mong muốn cho họ những điều tốt đẹp nhất, biết dám hy sinh cho họ. Do vậy, tôi phải hết sức tránh sự vô cảm, và mọi thái độ có thể gây tổn thương cho người đang đau khổ. Từ bỏ mình cũng là điều Chúa dạy tôi hãy thực hiện trong đời sống cộng đoàn. Biết cởi mở, biết nhã nhặn, biết thân thiện, biết quan tâm lịch sự với những người xung quanh. Về điều này, Đức cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã làm gương cho tôi. Trong đời sống cộng đoàn, sự nhường nhịn cũng là một sự từ bỏ mình phải tập luyện mới có được Từ bỏ mình cũng là điều Chúa dạy tôi hãy thực hiện ngay đối với những người xa lạ. Một buổi tối tại thủ đô Hungary, tôi đứng đợi xe buýt dưới trời lạnh giá. Thấy tôi có vẻ co ro, một người lạ bên cạnh tôi đã cởi áo họ đang mặc và khoác trên vai tôi, để tôi đỡ rét. Cử chỉ quên mình của họ đã dạy tôi rất nhiều một cách sống động cho đến hôm nay. 6. Về sự vác thập giá mình, thì Chúa cũng nhắc nhở tôi mỗi ngày. Thập giá mà tôi phải vác là thân phận con người bình thương, như những nhọc nhằn, bệnh tật. Thập giá, mà tôi phải vác là các trách nhiệm lớn nhỏ, mà tôi phải gánh vác trên vai. Đau đớn của bao người khác nhiều khi cũng là thập giá, mà Chúa trao cho tôi, để chia sẻ vì mục đích cùng với Chúa mà cứu các linh hồn. Thêm vào đó, còn có những bệnh tật mãi là thế, có những hạn chế vẫn mãi như vậy, có những hoàn cảnh mãi không sao đổi được. Tôi phải vác những thứ đó trên vai như những thập giá, nhưng vác với tinh thần đạo đức. Một hôm, trên giường bệnh, tôi đang rất đau đớn, thì một nữ tu đến thăm. Chị chỉ cầm tay tôi mà nói: Hôm nay là thứ sáu, xưa Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Nay Cha cũng chịu đau đớn với Chúa, để cứu các linh hồn. Tôi hiểu ý Chúa qua chị nữ tu, để vác thập giá mình một cách có ý nghĩa. Chuyện trên đây xảy ra ở bên Đức, đã lâu rồi, nhưng tôi vẫn nhớ để vác những thập giá, mà Chúa trao cho tôi tại Việt Nam những thời điểm khó khăn. 7. Bước theo Chúa, đó là điều Chúa cũng dạy tôi thực hiện hằng ngày. Tôi bước theo Chúa, là khi tôi vâng phục thánh ý Chúa. Mỗi ngày, tôi nói lời xin vâng với Chúa. Tôi thực hiện lời xin vâng bằng: “Cầu nguyện và tỉnh thức”. Để như xưa Chúa Giêsu đã bước đi theo ánh sáng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, thì nay, tôi cũng cần bước theo Chúa Giêsu như vậy. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Bước theo Chúa Giêsu trên con đường phức tạp của lịch sử đổi thay là điều không dễ. Luôn luôn tôi là kẻ hành hương, luôn luôn tôi là kẻ lữ hành, trên đường đi về phía trước, mà phía trước không giống phía sau. Tôi phải biết phân định, phải biết bắt đầu lại. Tôi cũng như mọi người, đều là những kẻ tội lỗi, yếu đuối. Chỉ biết trông cậy vào lòng thương xót Chúa mà thôi. Suốt chuyến đi đời tôi, tôi đã được nâng đỡ bởi Chúa Thánh Thần. Nếu có được những chọn lựa xin vâng đúng đắn, nhất là trước những bất ngờ, thì đó là nhờ ơn Chúa mà thôi. Còn bản thân tôi thì rất yếu đuối. 9. Qua những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, tôi thấy trái tim Chúa Giêsu đã là nguồn mạch sức thiêng, giúp tôi đổi mới chính mình. Chính trái tim Chúa đã khát các linh hồn. Chính trái tim Chúa đã giúp các linh hồn được thuộc về Chúa. Chính trái tim Chúa đã giúp các linh hồn biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Tôi đã nhận được chút lửa của trái tim Chúa. Lửa ấy đã và đang soi đường chỉ lối cho tôi đi về nhà Cha. Chính lửa của trái tim Chúa trong tôi đang giúp tôi hiểu phần nào nỗi đau của trái tim Chúa trước những vô ơn và vô cảm của bao người đối với Chúa. 10. Tôi phải rất khiêm nhường, để có thể đón nhận lửa của trái tim Chúa. Tháng sáu là tháng kính Trái tim Chúa, chúng ta cầu nguyện nhiều cho nhau, để biết nghe được tiếng Cha khát từ trái tim Chúa. Long Xuyên, ngày 30.5.2017
1. Cuối tháng 5 và đầu tháng 6 vừa qua, tòa Giám mục Long Xuyên đã tổ chức khóa thường huấn cho các linh mục giáo phận. Tôi tham gia bằng cầu nguyện và học hỏi từ xa. Hình như những điều tôi học hỏi là rất riêng tư. Dầu vậy, vì ích chung, tôi cũng xin chia sẻ ở đây vài điều. 2. Điều thứ nhất là nhiều cơn cám dỗ trong mục vụ đã được các linh mục nhận ra, để xa tránh và đẩy lùi. 3. Thí dụ: Chủ trương mình phải cứng, phải đúng luật ghi trong truyền thống. Theo chủ trương đó, những người công giáo nào, lỗi bất cứ luật nào trong đạo, đều sẽ phải chịu đối xử một cách khắt khe. Chủ trương như vậy có người coi là đạo đức. Nhưng thực sự, đó là một cám dỗ nguy hại rất sai lầm. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo. Chúa dạy, đạo đức thực theo Phúc Âm là không khóa chặt mình vào luật theo chữ, theo lý thuyết trìu tượng, mà phải mở lòng mình ra theo lòng Chúa xót thương, Đấng nhìn thấu thực tế của từng người, để có những bất ngờ vì mục đích cứu họ. Đạo đức thực không phải là coi những gì minh đã học về mục vụ là đã đủ, mà phải học thêm nhất là về những gì Chúa đang thực hiện trong các linh hồn để cứu độ họ trong thực tế lịch sử phức tạp hiện nay. Do vậy, chủ trương phải cứng đã được nhiều linh mục coi là một cơn cám dỗ, mình phải xa tránh và đẩy lùi. 4. Rồi, một chủ trương khác có vẻ đề cao lòng thương xót một cách quá dễ dãi, cũng đang bị coi là một cơn cám dỗ. Theo chủ trương đó, bất cứ ai lỗi lầm, bất cứ về luật nào, đều được giải cứu bằng chỉ một phương cách đơn sơ, đó là chỉ làm phép lành cho họ. Coi việc đó là đạo đức. Nhưng đạo đức thực là phải tìm ra những nguyên nhân gây nên vết thương, để có những băng bó với đúng thuốc và đúng cách. Chứ không lạnh lùng, vô cảm. Cứu người bằng cách cho đi lòng thương xót một cách quá dễ dãi theo ảo tưởng, chính là một cơn cám dỗ làm ô danh lòng xót thương, bởi vì đó là lòng thương xót giả tạo. Nhiều linh mục đã nhận ra cơn cám dỗ đó, và đã xa tránh đẩy lùi. 5. Rồi, một chủ trương khác cho phép tránh né việc cứu người đau khổ bằng sự mình tỏ ra phải bận rộn nhiều với những công việc về Chúa. Theo chủ trương đó, nhìn thấy người đau khổ đang đợi được cấp cứu, người môn đệ Chúa vẫn dám tránh né một cách cho là hợp lý, như thầy Lêvi và thầy tư tế, mà Phúc Âm đã kể (Lc 10,29-32). Chủ trương tránh né trên đây là một cơn cám dỗ nguy hại, đó là điều được nhiều linh mục nhận ra để xa tránh và đẩy lùi. 6. Rồi, một chủ trương khác cũng đã được coi là một cơn cám dỗ, đó là chủ trương tố cáo người tội lỗi. Theo chủ trương này, những ai mình cho là tội lỗi, thì mình có quyền và có bổn phận phải tố cáo họ, để họ phải bị trừng trị, như thế mới là đạo đức. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại dạy khác. Phúc Âm cho thấy: Khi người phụ nữ ngoại tình bị các kinh sư và Pharisêu lôi cổ đem nộp cho Chúa Giêsu, đòi phải trừng trị cô, thì Chúa phán: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném cô này trước đi” (Ga 8,10). Câu đó thực sự làm nhức nhối mọi người trong Hội Thánh chúng ta. Các mục tử, cũng như tôi, và cũng như mọi thành phần khác nhau trong Hội Thánh, đều phải nhận mình là kẻ có tội. Thế thì hãy tự tố cáo mình trước đã, hãy tự ném đá mình đi. Do vậy, chủ trương tố cáo người khác đã được nhiều linh mục nhận ra là một cơn cám dỗ rất nguy hại, cần phải xa tránh và đẩy lùi. 7. Trên đây, tôi nói về những gì mà các linh mục của tôi đã nhận ra là những cơn cám dỗ cần xa tránh và đẩy lùi. Nhận xét đó làm tôi rất vui. Đó cũng là bài học tốt cho tôi. 8. Một nhận xét nữa cũng làm tôi vui và cũng là bài họ tốt cho tôi. Đó là các linh mục thực tình tôn vinh thánh giá, coi thánh giá chính là vinh dự của mình. Nhìn các linh mục, được gặp các linh mục, tôi nhận thấy vị nào cũng mang trong mình nhiều đau đớn. Đau đớn do bệnh tật, do lo âu, do áp lực, do cô đơn, do gánh nặng của trách nhiệm, có những đau đớn có tên và đau đớn không tên. Cũng có trường hợp, linh mục bị cám dỗ tránh xa thánh giá, rời khỏi thánh giá. Nhưng hầu hết các ngài vượt qua được những cám dỗ đó. Họ vẫn vác thánh giá. Họ vẫn bị treo trên thánh giá. Họ vẫn coi mình là được hạnh phúc, vì trung thành với thánh giá. Nhờ vậy, mà họ cộng tác với Chúa trong chương trình cứu các linh hồn. 9. Những gì tôi cảm nhận trên đây từ sự gần gũi với các linh mục của tôi những ngày vừa qua, đang là một dịp tốt để tôi sống tinh thần cộng đoàn một cách hân hoan, yêu thương và hy vọng. Đúng là Chúa Thánh Thần đang ở giữa Hội Thánh của chúng ta. 10. Chúa Thánh Thần khuyên dạy chúng ta hãy cầu nguyện và tỉnh thức, để biết đón nhận “Cha nhân từ cũng là Chúa mọi niềm an ủi, là Đấng an ủi chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để chính chúng ta có thể an ủi những ai lâm cảnh gian truân, với niềm an ủi mà Thiên Chúa đã an ủi chúng ta” (2Cr 1). Bởi lẽ tương lai sẽ đầy những gian truân, các linh mục rất cần có khả năng an ủi bao người sẽ bị chìm trong gian truân khốn khổ. Riêng tôi là kẻ yếu đuối, tôi rất cần đến mọi tín hữu có ơn Chúa, biết an ủi tôi trong mọi hoàn cảnh khó khăn của tôi, để tôi được luôn thuộc về Chúa. Long Xuyên, ngày 12.6.2017
1. Thánh Gioan Baotixita được sinh ra bởi thánh nữ Isave, lúc đó có Đức Mẹ Maria ở bên. Nhờ vậy, Gioan Baotixita đã được chúc phúc, và ơn gọi của Gioan Baotixita đã được Đức Mẹ đồng hành. 2. Theo kể lại, Mẹ tôi khi mang thai tôi, cũng đã được Đức Mẹ Maria đến viếng thăm. Nhờ vậy, ơn gọi của tôi đã được Đức Mẹ đồng hành. Tôi xin tâm sự đôi chút về ơn trọng đại đó. 3. Được gọi làm linh mục, rồi được gọi làm giám mục, tôi đã thực sự lo lắng sợ hãi. Nhưng tôi tin, có Đức Mẹ ở bên, nên đã lên đường với tâm tình phó thác. 4. Tôi tin Đức Mẹ ở bên tôi, nhờ năm dấu chỉ sau đây: Dấu chỉ thứ nhất là Đức Mẹ luôn dạy tôi hãy tập trung vào việc làm chứng cho Chúa Giêsu, chính Chúa Giêsu mới là Tin Mừng cứu độ. Lịch sử, mà tôi được sai vào là rất phức tạp. Nhưng càng phức tạp, tôi càng phải tìm cách làm chứng: Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng gánh tội cho trần gian, là Đấng đền tội cho trần gian, là Đấng xóa tội cho trần gian (Ga 1,29). Khi giới thiệu Đức Kitô như thế, tôi phải biết tự chôn vùi mình. Người phải lớn lên, còn tôi thì phải hạ xuống. Tôi không đáng xách dép cho Người (Mt 3,11). 5. Dấu chỉ thứ hai là Đức Mẹ luôn khuyên dạy tôi: Hãy cầu nguyện và tỉnh thức (Mt 14,38). Để biết phân định và chọn lựa trong mọi chuyển biến và mọi tình hình. 6. Dấu chỉ thứ ba là Đức Mẹ luôn lôi kéo tôi về với Chúa Giêsu bằng những cách đậm đà yêu thương và an ủi. Bởi vì Đức Mẹ quá biết tôi là kẻ yếu đuối, hay lo lắng sợ hãi, do những lỗi lầm. Rất nhiều lần, tôi đã nghe Đức Mẹ nói với tôi: “Con ơi, Mẹ không kết án con đâu. Mẹ đến bên con, không phải để kết án con, nhưng là để cứu con”. Với những lời như thế, tôi cảm thấy mình được yêu thương, được an ủi. Nhờ đó mà càng muốn sống xin vâng, để luôn được đẹp lòng Chúa. 7. Dấu chỉ thứ bốn là Đức Mẹ luôn nâng đỡ đức tin của tôi. Xin thú thực là: Đối với tôi, cuộc chiến nội tâm, để bảo vệ đức tin đã diễn ra nhiều khi rất cam go. Có lúc tôi như đi trong cô đơn tăm tối một cách rùng rợn. Có lúc tôi tưởng mình đã chìm trong thất vọng đau đớn. Tôi bơ vơ, sợ hãi. Quỷ dữ thì vui mừng. Chính trong những trường hợp bi đát đó, Đức Mẹ đã đến bên tôi. Mẹ thêm sức cho đức tin của tôi. Mẹ hay nhắc lại cho tôi nhớ lời Tổng lãnh thiên thần Gariel xưa đã nói với Mẹ: “Hãy tin. Đối với Chúa, không gì là không thể làm được” (Lc 1,32). 8. Những dấu chỉ tôi vừa kể trên đây đều có nền tảng trong Phúc âm. Vì thế mà tôi rất an tâm, khi nhờ những dấu chỉ đó, mà tin chắc Đức Mẹ luôn ở bên tôi. Tôi vẫn phải phấn đấu. Nhưng trong phấn đấu, cho dù ác nghiệt, tôi vẫn tin có Mẹ đỡ nâng. 9. An tâm vì thế không có nghĩa là an nghỉ, mà là tin tưởng lên đường. Mỗi ngày, tôi đều lên đường. Bởi vì ơn gọi của tôi là một chuyến đi. Tôi đi vào lịch sử. Lịch sử là rất phức tạp. Mỗi ngày đều có những thời sự mới. 10. Lịch sử hiện nay không phải chỉ rất phức tạp, mà còn là rất nguy hiểm. Trước tình hình này, Đức Mẹ ở bên tôi đang tha thiết khuyên dạy tôi: Hãy vâng lời Mẹ nhắn nhủ ở Lộ Đức và ở Fatima, mà lần chuỗi Mân Côi. Điều quan trọng, khi lần chuỗi Mân Côi là: Hãy khiêm nhường. + Hãy khiêm nhường, như Mẹ ngày truyền tin. + Hãy khiêm nhường, như Chúa Giêsu trên thánh giá. + Hãy khiêm nhường như Hội Thánh dạy trong Kinh “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. + Hãy khiêm nhường, như sự sám hối mà thánh Gioan rao giảng. 11. Hãy lần chuỗi với lòng khiêm nhường. Khiêm nhường sẽ được Chúa cứu. Đức Mẹ ở bên tôi đang dạy tôi điều đó, Đức Mẹ ở bên tôi đang sai tôi nói với anh chị em điều đó. Điều đó sẽ là dấu chỉ thứ năm chứng tỏ Mẹ ở bên tôi. 12. Tôi nhận thấy trong suốt đời tôi, nhất là trong thời điểm này: Có rất nhiều người đã đến với tôi, như một số trong năm dấu chỉ trên đây. Tôi tin họ là những người của Đức Mẹ. Hôm nay, một cách đặc biệt, tôi xin cùng với họ, đến quy tụ bên Mẹ dấu yêu, để tạ ơn Chúa. 13. Với chia sẻ vắn tắt này, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa đã cho tôi được có Mẹ ở bên. Xin anh chị em cũng thương cầu nguyện cho tôi, để được luôn ở bên Mẹ nhân lành, cùng với anh chị em, đi về cõi sau, đời đời hạnh phúc trong tình thương của Chúa chúng ta. Long Xuyên, ngày 24.6.2017
1. Đã từ lâu rồi, tôi cảm thấy mình xuống cấp. Thân xác thì đau hết chỗ này đến chỗ khác; tâm hồn thì sợ hãi trước những yếu đuối này đến những yếu đuối khác. Nếu để tự sức mình, tôi sẽ mất sự bình an. Từ đó sẽ vấp phạm từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác. Tôi tha thiết cầu xin Chúa xót thương tôi. 2. Thực sự, Chúa đã xót thương tôi bằng nhiều cách. Đặc biệt, Chúa nhắc cho tôi nhớ đến sự khiêm nhường. Khiêm nhường phải là cụ thể, theo gương Chúa Giêsu. Thánh Phaolo viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Philipphê 2, 6-9). 3. Khi những lời trên đây vẫn chỉ là những lời Kinh Thánh gửi đến tôi, tôi nghe, mà đã thấy sợ, vì đòi hỏi khó quá. Đến khi chính Chúa Giêsu đến trước mặt tôi với sự khiêm nhường, mà Người đã sống như được mô tả, thì tôi càng sợ. Tôi xin Người thương tôi. Người trấn an tôi. Tôi đón Người vào hồn tôi. 4. Trong tôi Chúa Giêsu dạy tôi xác tín ba điều sau đây: Một là Chúa Giêsu cứu con người khỏi tội và lửa hỏa ngục, nhờ sự khiêm nhường của Người. “ Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.” Người bước xuống rất sâu, đó là một sự khiêm nhường sâu thẳm để cứu con người. Tôi muốn được Chúa cứu, thì càng phải khiêm nhường. 5. Hai là để trở thành người môn đệ Chúa Giêsu một cách đích thực, thì phải khiêm nhường một cách đích thực, theo gương của Chúa Giêsu. Tôi muốn làm linh mục, nghĩa là muốn trở thành muôn đệ Chúa Giêsu một cách đặc biệt, thì phải coi khiêm nhường là điều rất quan trọng, phải nhìn khiêm nhường là vẻ đẹp của mình, phải nhận khiêm nhường là sức mạnh của mình. 6. Ba là để có sự khiêm nhường đích thực, thì phải có ơn Chúa. Bởi vì để sống khiêm nhường, thì phải vượt thắng rất nhiều cơn cám dỗ về kiêu ngạo. Kiêu ngạo là một sức mạnh dữ tợn đến từ nhiều phía do xác thịt, thế gian và ma quỉ. Kiêu ngạo theo ta suốt cuộc đời, mọi lúc mọi nơi dưới nhiều hình thức tinh vi. “Mặc dầu tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác thì lại yếu đuối. Nên phải nhờ ơn Chúa, do “ Cầu nguyện và tỉnh thức” (Mc 14,38-39). 7. Do vậy, tôi không bao giờ coi khiêm nhường là kết quả của các cuộc hội thảo và của các hình thức lễ nghi, mà phải coi khiêm nhường là kết quả của cầu nguyện và tỉnh thức kiên trì. Nghĩa là phải dựa vào ơn Chúa. 8. Nhờ cầu nguyện và tỉnh thức, tôi vừa nhận ra sự yếu đuối của tôi, vừa nhận ra sức mạnh của ơn Chúa. Lòng tôi nhờ đó, mà biết đau đớn và hối cải. Nhờ vậy mà được bình an. 9. Nhờ cầu nguyện và tỉnh thức, mà tôi hy vọng được chở che khỏi những khoe khoang tự hào về những việc lành tôi làm. 10. Nhờ cầu nguyện và tỉnh thức, mà tôi mong nhận thức đúng về lời thánh tiên tri Isaia đã nói xưa: “ Tất cả chúng ta đều dơ bẩn, tất cả những việc ta làm, gọi là công chính cũng đều là những vải dơ nhớp” (Isaia 64,5). 11. Nhờ cầu nguyện và tỉnh thức, mà tôi tha thiết được sống với những người xung quanh một cách bao dung, hiền từ, khiêm tốn. Đặc biệt, tôi sung sướng được coi mọi người yếu đuối và tội lỗi là những người mà tôi cần phải yêu thương một cách khiêm nhường, đó mới là cách cộng tác vào sự cứu rỗi họ. 12. Thế nhưng, cầu nguyện và tỉnh thức lại chính là những điều không dễ. Bởi vì tôi là kẻ tội lỗi yếu đuối lắm. Nhận thức được sự thực đó đã được Chúa coi là điều tốt. Thì ra khiêm nhường luôn là điều kiện để được gặp gỡ lòng thương xót Chúa. 13. Mới rồi, một buổi chiều mưa, khi tôi đang mải miết đọc sách thì trời nổi cơn bão, sét đánh, mưa to, gió mạnh, trời tối sầm. Tự nhiên, tôi nhớ lại lời Đức Mẹ cảnh báo tại Fatima cách đây đúng 100 năm. Mẹ cảnh báo sẽ xảy ra đại họa cho thế giới nói chung, nếu không có sự hối cải thực sự. Tôi có cảm tưởng là lời Đức Mẹ cảnh báo cách đây 100 năm tại Fatima, nay đang được nhắc lại một cách khẩn thiết. Nếu cầu nguyện và tỉnh thức, thì thấy tính cách khẩn thiết là rất thiết tha. 14. Phải làm gì để đáp ứng lời Đức Mẹ cảnh báo? Thiết tưởng phải: + Hối cải với lòng khiêm nhường. + Lần chuỗi mân côi với lòng khiêm nhường. + Tôn sùng trái tim Mẹ với lòng khiêm nhường. + Tin yêu với lòng khiêm nhường. + Phục vụ bác ái với lòng khiêm nhường. 15. Khiêm nhường, khiêm nhường: Đó là lời khuyên vắn tắt, Chúa gửi tới tôi. Đó là lời nhắn nhủ thân thương Đức Mẹ dặn dò tôi. Đó là lời chào chúc thân tình tôi được hân hạnh nói với từng người anh chị em. Khiêm nhường và rất khiêm nhường, đó là tâm tình tha thiết tôi gói ghém trong việc tạ ơn và phó thác, mà tôi dâng lên Chúa hôm nay và mãi mãi. Amen Long Xuyên, ngày 28.6.2017
1. Năm nay kỉ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Tại Fatima, Đức Mẹ đã gửi một sứ điệp rất quan trọng, đó là hãy sám hối. Nếu không sám hối, sẽ xảy đến cho nhân loại nói chung và cho Hội Thánh nói riêng nhiều điều khủng khiếp. Sứ điệp đó đã có những tiếng vang. Riêng trong năm nay, những tiếng vang đó đang mang giọng thống thiết trong nhiều tâm hồn. 2. Thống thiết là ở những lo âu trước biết bao bất ổn đang xảy ra mỗi ngày. Thống thiết là ở những sợ hãi trước biết bao tội phạm đang tăng lên như những tan vỡ về đạo đức một cách có hệ thống. Thống thiết là ở những nước mắt trước biết bao khổ đau đủ loại đang tràn ngập các dân tộc. Thống thiết là ở những ray rứt trước biết bao nguy cơ về khủng bố, về chiến tranh, về nạn đói, về chia rẽ, về thiên tai, đang mỗi ngày mỗi xảy ra lúc công khai lúc âm thầm. 3. Những tiếng vang thống thiết như vừa kể đang đánh thức lương tâm nhiều người. Tiếng vang thì đánh thức, nhưng chính Chúa nói với từng người trong sâu thẳm lương tâm họ “Hãy sám hối”. 4. Sám hối là đối diện với Thiên Chúa, để nhận tội của mình. “ Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. 5. Sám hối là chân thành đền tội. Đền tội một cách đơn giản là mến Chúa hơn trước, yêu người hơn trước. 6. Để mến Chúa và để yêu người mãi mãi hơn trước, tôi đến với Chúa Giêsu, tôi ở lại trong Người, tôi kết hợp với Người. Chính nhờ Người với Người và trong Người, mà “tôi thương mến nhau, với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt huyết, không trễ nải... Đừng để cho sự ác thống trị mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,10-21). 7. Gương “lấy thiện mà thắng ác”, được Chúa Giêsu chỉ cho tôi là hãy học Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta. Mẹ chủ động đến với những người nghèo khổ, sống gần gũi với họ, sống chia sẻ với họ. Mẹ hay tự hỏi: Tôi phải làm gì để những người nghèo khổ vơi đi được nỗi khổ, xoa dịu được nỗi đau?. Mẹ cũng hay tự hỏi mình: Tôi có phần nào trách nhiệm về những khổ đau của những người đau khổ xung quanh tôi không? Khi Mẹ Têrêsa Calcutta chủ động dẫn thân cho những người nghèo khổ, thì Mẹ hết sức tránh xét đoán họ và kết án bất cứ ai. Mẹ rất ghê tởm tính kiêu căng hay cho mình quyền kết án người khác. 8. Khi nhìn vào gương sáng Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, tôi thấy mình hãy sám hối như vậy. Sám hối như vậy đòi tôi phải rất khiêm nhường. Rất mừng là nhiều người công giáo xa gần đang sám hối như vậy. Họ tố cáo tội mình, chứ không tố cáo tội người khác. Họ làm những việc thiết thực để xoa dịu nỗi đau của bao người đau khổ xung quanh, mà không đòi phải được làm những việc từ thiện lớn lao có tính cách phô trương. Tôi đã tự hỏi mình: Tôi có sám hối theo gương sáng đó không?. 9. Tôi có nhiều lý do, để tự răn mình là tôi chưa sám hối đủ, theo như Chúa dạy. 10. Chúa dạy: Ai nhận nhiều, thì phải trả nhiều, ai nhận ít, thì sẽ phải trả ít. Với dụ ngôn những nén bạc, Chúa Giêsu dạy tôi là phải dùng những ơn Chúa ban để làm lời. Ai làm lời với vốn liếng Chúa ban, sẽ được Chúa thương. Ai dùng ơn Chúa ban, mà không làm ra lời, thì sẽ bị phạt (x Mt 25, 14-30). 11. Lời lãi đẹp lòng Chúa nhất là sự người ta vâng phục ý Chúa trong ba việc đạo đức sau đây mà Chúa Giêsu chú ý đề cao: 12. Chúa phán “ Khi anh em bố thí, thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh em bố thí được kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em”( Mt 6,3-4). Tôi thấy tại địa phương này, nhiều người làm việc từ thiện đã làm như thế. Họ là người công giáo. Họ cũng rất đông là người thuộc tôn giáo bạn. Làm từ thiện như Chúa dạy chính là một cách sám hối, sám hối đích thực. 13. Chúa phán: “ Khi cầu nguyện, anh em hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha trên trời, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,6). Tôi thấy tại vùng này, nhiều người đã cầu nguyện như Chúa dạy. Họ là người công giáo. Họ cũng rất đông là người không công giáo. Cầu nguyện như Chúa dạy chính là một cách sám hối, sám hối đích thực. 14. Chúa phán: “ Khi ăn chay, anh em nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoài trừ Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,17-18). Tôi thấy tại An Giang này, nhiều người đã ăn chay như vậy. Phần đông họ là tín hữu tôn giáo bạn, công giáo chỉ là thiểu số. Ăn chay như vậy chính là một cách sám hối, rất thiết thực, rất đẹp lòng Chúa. 15. Nhìn cảnh sám hối trên đây, tôi vui mừng khôn tả. Đột nhiên tôi nghe một tiếng vang thống thiết từ Chúa Giêsu. Người nói với Chúa Cha: “ Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Lc 10.21). 16. Được chứng kiến cảnh trên đây, tôi thấy những người sám hối đích thực mà Đức Mẹ Fatima muốn có, đang xuất hiện đó đây. Cho dù tai họa sẽ xảy ra, những người sám hối đó vẫn góp một phần không nhỏ vào việc cứu nhân loại và cứu Hội Thánh. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 17.7.2017
1. Đã lâu rôi, khi sám hối, tôi thường xét mình về bổn phận trung tín và khôn ngoan, mà Chúa Giêsu đòi người môn đệ của Người phải có. Chúa Giêsu phán: “ Ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, mà ông chủ đặt làm người coi sóc gia nhân của ông chủ, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc” (Mt 24, 45-46) 2. Qua lời Chúa phán trên đây. Chúa Giêsu dạy tôi là kẻ Chúa chọn làm mục tử đoàn chiên Chúa, phải trung tín và khôn ngoan, ở việc cung cấp lương thực cho đoàn chiên đúng giờ đúng lúc. 3. Tất nhiên lương thực phải đúng là lương thực có chất lượng. Lương thực thiêng liêng có chất lượng nuôi dưỡng các linh hồn được Chúa nhấn mạnh là sự cầu nguyện, hy sinh, bác ái, gương sáng, Lời Chúa và các bí tích. 4. Rồi phải cung cấp lương thực đúng giờ đúng lúc. Có lúc đòi phải tập trung vào cầu nguyện, hy sinh, bác ái và gương sáng. Có lúc nên chú trọng nhiều hơn đến việc rao giảng Lời Chúa với những phương cách khôn ngoan. Có lúc nên nhấn mạnh đến Bí Tích Thánh Thể và Cáo Giải một cách thuận lợi nhất. Phục vụ bằng đúng việc, đúng cách, đúng lúc mới là phục vụ khôn ngoan. 5. Tóm lại, mục vụ của tôi phải trung tín và khôn ngoan. Trung tín là luôn luôn gắn bó với Chúa Giêsu. Khôn ngoan không phải là chỉ biết tránh tội, mà nhất là biết tránh bất cứ sự gì không hợp với Thánh ý Chúa. Về hướng khôn ngoan đó Chúa Giêsu đã nói rất rõ. 6. “ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “ Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt ta, hỡi bọn làm nhiều gian ác” ( Mt 7, 21-23). 7. Với những lời Chúa Giêsu dạy trên đây, tôi hiểu khôn ngoan mục vụ không phải là nhân danh Chúa mà làm được những việc lẫy lừng có vẻ sáng danh đạo Chúa. Nhưng khôn ngoan mà Chúa muốn trong mục vụ là thi hành đúng Thánh Ý Chúa. 8. Thánh Giuse xưa, không làm những việc lẫy lừng, chỉ sống âm thầm, nhiều khi lại trốn tránh, thế mà Ngài được khen là người công chính (xMt 1,19). Công chính có nghĩa là trung tín và khôn ngoan. Bởi lẽ mọi việc Thánh Giuse đều hợp Thánh Ý Chúa. Nhiều khi Ngài lùi, mà lại là tiến. Thế mới khôn ngoan. 9. Để biết sống trung tín và khôn ngoan trong mục vụ, nhất là trong việc điều khiển giáo đoàn, tôi cần phải cầu nguyện nhiều và suy tính nhiều, theo gương Thánh Bonaventura và đức giáo hoàng Bênêdictô XVI. Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI quả quyết: “ Cai quản Hội Thánh không phải là một việc làm, nhưng nhất là cầu nguyện và suy nghĩ. Cầu nguyện và suy nghĩ trong tinh thần kết hợp với Chúa Giêsu.” 10. Theo lời dạy trên đây, nếu tôi dành nhiều thời gian để cầu nguyện và suy nghĩ, thì đó là khôn ngoan và trung tín, mà Chúa Giêsu muốn nơi những kẻ Chúa chọn làm người môn đệ phục vụ dân Chúa. 11. Ngoài việc cầu nguyện và suy nghĩ, sự khôn ngoan mục vụ cũng đòi tôi phải có những tiếp xúc và gần gũi với những hạng người, mà Chúa muốn tôi đến với họ. Về hướng đó, Đức Hồng Y Christoph SchÖnborn, tổng giám mục Áo, mới nói lên nhiều lời mạnh dạn và tha thiết. Đức hồng y khuyên: “ Khi tiếp xúc với những con người, vị mục tử đừng nhìn họ bằng những ý tưởng trừu tượng, mà hãy nhìn mỗi người với thực tế của họ. Đừng đến với họ để xét đoán họ, với những văn bản luật lệ, mà hãy nhìn họ với trái tim cảm thông xót thương của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành”. 12. Đức Hồng Y SchÖnborn khuyên các mục tử hãy biết sám hối và trở về với Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, giàu tình yêu thương xót. Ngài nhắc lại những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “ Đừng đứng trên ban công mà nhìn xuống, nhưng hãy hòa mình vào đám đông, đó mới là Kitô hữu, đó mới là chứng nhân, đó mới là gặp gỡ Đức Kitô. (xin đọc cuốn Christoph SchÖnborn, le regard du bon Pasteure, 07- 09- 2015). 13. Một thoáng nhìn trên đây đang giúp tôi sám hối về bổn phận phải trung tín và khôn ngoan. Với 90 năm tuổi đời, và 42 năm tuổi Giám Mục, tôi xin nói điều này: Nếu trung tín và khôn ngoan là luôn cần cho những mục tử trong khắp Hội Thánh, thì đối với người mục tử tại Việt Nam, trung tín và khôn ngoan phải được coi là hết sức cần. Thiếu khôn ngoan và trung tín nhất là trong những thời buổi phức tạp như hiện nay, người mục tử sẽ làm hại cho đạo Chúa một cách không ngờ. 14. Tới đây, tôi sực nhớ lời một vị thánh đã nói: “ Người đạo đức thì hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Người thông thái thì hãy dạy dỗ chúng tôi. Người khôn ngoan thì hãy cai quản chúng tôi”. Khôn ngoan là một ơn trọng Chúa ban. Biết phân định đâu là khôn ngoan thật, đâu là khôn ngoan giả, chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin với Chúa Thánh Thần. Long Xuyên, ngày 23.7.2017
1. Từ nhiều năm rồi, có những phong trào xấu mang tính cách chia rẽ nội bộ, làm suy giảm đức tin, làm biến chất đạo đức đã tràn vào Hội Thánh. Chúng như những cơn bão lụt đang tàn phá nhiều thành phần Hội Thánh Chúa. Cùng với những đợt bão đó, còn có những đợt bão trong lòng tôi. Trong lòng tôi cũng đang có nhiều niềm tin bị sạt lở trầm trọng. Tôi muốn nói tới những niềm tin của tôi về những con người. 2. Tôi tự hỏi: Ai sẽ cứu Hội Thánh tôi? Ai sẽ cứu tôi?. Chúa trả lời bằng cách cho tôi nhớ lại Lời Chúa phán xưa: “ Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu…Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21, 28,34,36). 3. Tôi đang làm như Chúa dạy. Và tôi thấy cảnh lạ này: Nơi một số người, tôi thấy Chúa Giêsu đang rất xót thương những con người bé mọn, sầu khổ, yếu đuối. Nơi một số người, tôi thấy Chúa Giêsu đang sống rất khiêm tốn, hạ mình xuống đến cùng độ, như Thánh Phaolô tông đồ đã mô tả trong khi gửi tín hữu Philipphê (2,6-8). Nơi một số người, tôi thấy Chúa Giêsu đang sống rất nghèo giữa những người nghèo. Nơi một số người, tôi thấy Chúa Giêsu đang tha thứ cho những kẻ thành tâm một cách vô cùng quảng đại, đầy tình xót thương. 4. Nhìn cảnh lạ trên đây, tôi nhận ra những người có sức cứu tôi, cứu Hội Thánh, chính là những ai có Chúa Giêsu trong họ. Họ thuộc về mọi hạng người, được Chúa Thánh Thần soi sáng, dẫn đưa. Họ được Chúa Giêsu đến gõ cửa lòng họ. Họ đã mở cửa lòng họ, đón Chúa vào. Chúa ở lại trong họ (x Xh 3,20). 5. Nhận ra Chúa Giêsu trong những người đó, tôi thấy Chúa đang cứu tôi, nhất là cứu Hội Thánh, không bằng những việc lẫy lừng, nhưng bằng con đường chính yếu của Chúa Giêsu, là tinh thần khó nghèo, sự khiêm nhường, lòng xót thương, sự tha thứ, sự từ bỏ. 6. Nếu đúng là như vậy, và thực sự đúng là như vậy, thì tôi phải chết đi cho chính mình một cách nào đó. Nghĩa là tôi phải sống từ bỏ tất cả những gì không hợp với con đường cứu độ của Chúa Giêsu. 7. Thành thực mà nói, nếp sống của nhiều người chúng ta hiện nay, rất xa lạ với con đường cứu độ của Chúa Giêsu. Xa lạ, đến nỗi phản lại một cách lộ liễu, mà vẫn tồn tại. Bởi vì chúng ta nhìn mà không thấy, thấy mà không hiểu, hiểu mà không chịu sửa. Nguyên do chính là vì lòng dạ chúng ta đã ra chai cứng (x Mt 13,10-15). 8. Thế nhưng, tôi thấy sự chai đá đó, mà Chúa kết án, đang được biến đổi nơi nhiều người, nhờ sự họ khiêm tốn và vững vàng kiên trì ở lại trong tình yêu của Chúa. “ Như Chúa Cha đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Chúa đã nói rõ như vậy. 9. Ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu, đó là điều đang được nhiều người thực hiện một cách âm thầm, tại Việt Nam hôm nay. Nhìn thấy họ, gặp gỡ họ, tôi được an ủi và thêm can đảm. 10. Tôi tự nhiên cảm thấy mình đang có một hướng đi chắc chắn, đó là ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu. 11. Hiện giờ, tôi đang được Chúa dẫn đưa vào hướng đó. Tôi ở lại trong việc cầu nguyện. Tôi ở lại trong những hy sinh. Tôi ở lại trong việc từ bỏ mình, để sống theo Thánh Ý Chúa, cho dù Thánh Ý Chúa là thánh giá. 12. Ở lại trong tình yêu Chúa, là tôi nhận thức mình tội lỗi, yếu đuối, chỉ sống nhờ lòng xót thương của Chúa mà thôi. 13. Ở lại trong tình yêu Chúa là tôi cố gắng bỏ thói quen tự coi mình và thích giới thiệu mình như con người sống đúng luật, như những người Pharisêu xưa, mà hãy khiêm nhường nhận mình cần được Chúa cứu do lòng xót thương của Chúa. 14. Ở lại trong tình yêu của Chúa, là tôi cố gắng bỏ đi các thứ dửng dưng, vô tình, vô cảm trước những nỗi đau của Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay, tôi xin Chúa đốt lửa mến trong lòng tôi, để tôi mến Chúa thực, để tôi thương người thực. Thiếu lửa mến, đó là một thảm họa hiện nay ở nhiều nơi trong Hội Thánh. 15. Ở lại trong tình yêu của Chúa, là tôi để ý làm những việc nhỏ, nhưng với tình yêu thực lớn. Thánh nữ Têrêsa Thành Lisieux cũng như Thánh Têrêsa Calcutta đã làm gương cho tôi về điều đó. 16. Ở lại trong tình yêu của Chúa, là tôi phó thác tôi cho Chúa “ Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Ga 23,46). Ở lại trong tình yêu của Chúa, là tôi tin chính Chúa là Tình Yêu. Chính tình yêu Chúa sẽ cho tôi ánh sáng niềm vui và hy vọng, ngay trong hoàn cảnh tối tăm đầy bão gió như hiện giờ. Tôi tin, cho dù tôi đi trong tăm tối, cho dù tôi không hiểu gì, cho dù tôi có vẻ như kẻ mù quáng. Nhưng tôi tin: “Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37), như lời tổng lãnh Thiên Thần Gabriel đã quả quyết với Đức Mẹ, thì đâu gọi được là mù quáng. Niềm tin đang cho tôi nguồn vui và hy vọng. Tôi đang làm chứng cho đức tin. Long Xuyên, ngày 29.7.2017
1. Năm nay, tôi được 62 năm tuổi linh mục. Làm linh mục được 62 năm, thời gian đó phải coi là quí. Tôi rất cảm tạ Chúa về ơn quí trọng đó Chúa đã thương ban cho tôi. 2. Nhìn lại 62 năm linh mục, tôi thấy ơn gọi của tôi là: “Hãy theo Chúa”. Chúa Giêsu đã gọi tôi, như xưa đã gọi các môn đệ đầu tiên của Người (Mt 4, 18-24). Chính Chúa Giêsu đã chủ động gọi tôi. 3. Khi tôi đi theo Chúa Giêsu, thì Chúa nói điều kiện tôi phải có để theo Chúa “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). 4. Theo Chúa Giêsu là gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. “Thầy là cây nho, các con là cành nho… Ai ở lại trong Thầy, thì người ấy sinh được nhiều hoa trái” (Ga 15, 1-6). 5. Ở lại trong Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết với Người trong những hoàn cảnh vinh quang của Người, thì tương đối dễ. Nhưng sẽ không dễ chút nào, trong những hoàn cảnh Người chịu khổ đau. 6. Tôi có kinh nghiệm đó. Kinh nghiệm sâu sắc nhất là hoàn cảnh Chúa Giêsu bị rơi vào cảnh đau đớn, cô đơn tột độ, rồi Chúa gọi tôi hãy chia sẻ với Người. 7. Tối thứ Năm tuần thánh, Chúa Giêsu cầu nguyện ở Vườn Cây Dầu. Tại đó, Người đã rơi vào cảnh buồn phiền, sợ hãi và cô đơn ghê gớm. Đến nỗi Người đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. Rồi Người nói với Chúa Cha: “Nếu có thể, xin cho con khỏi phải uống chén đắng này” (Mc 24, 34-36). 8. Trong 62 năm qua, tôi đã được Chúa Giêsu gọi tôi vào cảnh đau buồn, sợ hãi, cô đơn đó của Người. Chỉ trong những thời gian ngắn. Tôi đã cảm thấy rất thấm thía đau khổ đó ghê gớm thế nào. Chia sẻ với Chúa Giêsu đau khổ trong tinh thần gắn bó mật thiết với Người, quả là điều không dễ. Phải nhờ ơn Chúa. 9. Nhất là trên cây Thánh Giá, Chúa Giêsu với những đau đớn ghê gớm trong thân xác và trong tâm hồn, Người đã lại thốt lên một lời than thở diễn tả sự cực khổ của Người: “Lạy Cha sao cha nỡ bỏ con”. (Mc 15, 34). 10. Tôi cũng đã được Chúa gọi chia sẻ nỗi đau cô đơn cùng độ đó của Người. Chỉ một chút mà thôi. Nhưng quá đủ để tôi cảm thấy là bước theo Chúa, nên giống Chúa, không dễ chút nào. Phải nhờ ơn Chúa. 11. Trong những trường hợp như vậy, tôi mới nhận ra rằng: Cái gía Chúa phải trả, để cứu Hội Thánh và cứu nhân loại, là tình yêu hy sinh đến tận cùng. 12. Rồi từ đó tôi lại hiểu thêm. Trong suốt 62 năm đời linh mục của tôi, Chúa cũng đã dùng tình yêu hy sinh đó, mà cứu tôi. Trong tình yêu đó cũng có phần đóng góp của nhiều người. Họ đang cùng với Chúa, mà cứu tôi, bằng những hy sinh đầy đau đớn. Tôi chịu ơn họ. 13. Và rồi cũng từ đó, tôi hiểu rõ hơn ơn gọi của tôi, đó là: Hãy cùng với Chúa Giêsu mà cứu đoàn chiên và đồng bào tôi, bằng tình yêu hy sinh cho đến cùng độ. 14. Do đó, tôi hiểu những việc tôi đã làm trong 62 năm linh mục một cách chính xác hơn theo ánh sáng mầu nhiệm Thánh Giá. Nghĩa là, nếu không tỉnh thức, thì nhiều việc tôi làm, bề ngoài coi như có giá trị cứu rỗi các linh hồn, làm sáng danh Chúa. Nhưng thực sự là không có giá trị đó. 15. Đến đây, tôi mới hiểu rõ hơn những lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy, mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng bấy giờ Thầy sẽ nói với họ rằng: Ta không biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt ta, hỡi bọn làm điều gian ác”. (Mt 7, 22-23). 16. Tôi thấy đời linh mục phải rất tỉnh thức, kẻo có những khổ đau mà không phải hy sinh vì Chúa. Cũng như có những tình yêu lại thiếu vắng hy sinh có giá trị của Thánh Giá. 17. Nhìn lại 62 năm linh mục, tôi nhận thấy tôi có bổn phận phải bước theo Chúa Giêsu trên đường Thánh Giá một cách chân thực và trung tín. 18. Tôi phải quan tâm cách riêng đến những người đau khổ, cô đơn. Có thể họ đang là những của lễ, Chúa dùng để cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ hiện nay. 19. Nhiều khi chúng ta tưởng chúng ta cứu họ, nhưng thực sự họ mới là những kẻ cứu chúng ta, do những đau khổ hy sinh họ chịu vì Chúa. 20. Vinh dự của chúng ta là Thánh Giá Đức Kitô (1Cr 2,2). Thánh Giá đó là những khổ đau, những nhọc nhằn, những cô đơn, những nhục nhã, những cuộc chiến nội tâm cam go, những từ bỏ mình hằng ngày, vác Thánh Giá mà vẫn vui, vì được hy sinh cho người khác. Thực là xấu hổ, nếu tôi bỏ vinh dự của Thánh Giá, để tự hào về những hưởng thụ. 21. Trong suốt 62 năm qua, khi sống mầu nhiệm Thánh Giá, tôi đã nhớ rất nhiều đến gương sáng của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, của Thánh Gioan Vianey cha sở xứ Ars, của cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ký ức về 62 năm linh mục vang lên những bài ca về Thánh Giá. 22. Những ngày này khi sống mầu nhiệm Thánh Giá, tôi nhớ cách riêng đến các chứng nhân của Thánh Giá tại Việt Nam hôm nay. 23. Họ hiện đang sống chung quanh tôi. Họ được Chúa yêu thương. Họ được Chúa dùng để cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với những bước nhỏ, âm thầm mà dũng cảm, nhất là trong sự họ chu toàn bổn phận của mình. Thánh giá của họ là rất nhiều. 24. Cách riêng, với các linh mục tại Việt Nam hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi họ hãy là chứng nhân của Thánh Giá một cách khôn ngoan theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tình hình càng phức tạp, các linh mục càng cần phải cầu nguyện và tình thức, để nghe được Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đang muốn các chủ chăn hãy vác Thánh Giá thay cho đoàn chiên, chứ đừng bắt họ vác Thánh Giá thay cho mình, hoặc là gây cho họ những đau khổ không cần thiết. Long Xuyên, ngày 6.8.2017 + Gm. Gioan B Bùi Tuần