Tình hình xã hội hiện nay đang xảy ra nhiều hiện tượng đáng buồn. Một trong những hiện tượng đáng buồn và cũng đáng sợ, đó là cảnh những trái tim phá sản. Tôi muốn nói tới những trái tim người cha tàn nhẫn, lao mình vào những lối sống ích kỷ, tìm thoả mãn cho riêng mình, bỏ mặc gia đình trong cảnh điêu đứng. Tôi muốn nói tới những trái tim người mẹ nông nổi, để mình trôi dạt vào cảnh cờ bạc, nợ nần chồng chất, gây tan nát cho gia đình và cho chính bản thân. Những trái tim hư hỏng đó đang phá sản nghiệp cao quý của con người, đó là đạo đức, danh dự, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời. Hậu quả sẽ rất tai hại cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho xã hội mình. 2. Nhìn vào tình hình Hội Thánh, tôi thấy hiện tượng đáng buồn và đáng sợ tương tự cũng đang xuất hiện đó đây. Một số trái tim những người được Chúa trao phó trách nhiệm hãy là người cha người mẹ, để hết tình yêu thương lo cho đoàn chiên, xem ra cũng đang rơi vào cảnh phá sản. Biết đâu cảnh phá sản đó cũng đang xảy ra nơi chính bản thân tôi, ít là phần nào. Tôi thực sự lo sợ. 3. Để điều chỉnh lại chính mình, tôi đi tìm những lời khuyên. Với tâm tình cầu nguyện, tôi chợt nhớ lại lời khuyên của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” của Ngài. Trong số 17 của thông điệp này, Đức Thánh Cha khuyên chúng ta hãy gặp gỡ Đức Kitô và hãy bước theo Đức Kitô suốt chặng đường Đức Kitô đi, tới bữa Tiệc Ly và trên thánh giá. Vâng lời khuyên của Đức Thánh Cha, tôi nhìn Đức Kitô. Tôi thấy suốt đời Đức Kitô là ban tặng chính mình bằng yêu thương chấp nhận mọi hy sinh quên mình. 4. Khi nhìn Đức Kitô bị treo trên thánh giá, tôi thấy tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện trong sự Người hạ mình xuống một cách nhục nhã và đớn đau cùng độ. Nhìn cảnh thảm thương đó, trước hết tôi nhớ lại những lời Kinh Thánh dạy tôi là Đức Kitô chịu thương khó đến cùng cực như thế, là để đền tội, và để cứu chuộc nhân loại. 5. Đúng là như vậy. Tôi nhìn đầu của Đức Kitô chịu mão gai nhọn đâm sâu, máu chảy lênh láng. Tôi hiểu Người chịu như thế là để đền bao tội lỗi do cái đầu của chúng ta đã gây nên. Tôi nhìn tay chân Đức Kitô chịu đóng đinh vào thánh giá, máu chảy ròng ròng. Tôi hiểu Người chịu như vậy, là để đền bao tội chúng ta đã phạm do tay chân chúng ta. Tôi nhìn trái tim Đức Kitô bị đâm thủng, máu và nước trào ra. Tôi hiểu Người chịu đau như thế, là để đền những tội chúng ta đã phạm do trái tim chúng ta. Tôi nhìn vào thân thể Đức Kitô bị lột trần và bị đánh đập. Tôi hiểu Người chịu như thế, là để đền những tội chúng ta đã phạm do thân xác chúng ta. 6. Rồi tôi tự hỏi: Tôi có theo gương Đức Kitô, mà yêu thương đoàn chiên của tôi như thế không? Tôi không dám chắc. Tôi cầu xin ơn tha thứ về quá khứ của tôi và xin ơn nâng đỡ quyết tâm về tương lai của tôi. 7. Thêm vào việc đền tội cho nhân loại, cuộc thương khó của Đức Kitô cũng còn một ý nghĩa nữa, đó là để chia sẻ với những người khổ đau. Thực vậy, bao người đang bị đau đớn, như bị đội mão gai, như bị đóng đinh vào thánh giá, như bị gươm giáo đâm thủng trái tim, như bị lột trần và bị đánh đập. Đức Kitô đã tình nguyện chịu cảnh khổ đau trên thánh giá, để chia sẻ cảnh khổ đau của bao người trên trái đất này. Tôi tự hỏi: Tôi có theo gương Đức Kitô, mà chia sẻ thân phận khổ đau của bao người xung quanh tôi một cách khiêm nhường tự hạ như thế không? Tôi không dám chắc. Nên tôi ăn năn, kèm theo việc dốc lòng sẽ thực hiện nhiều hơn những việc hy sinh nhỏ thường ngày. 8. Càng nhìn lâu Đức Kitô trên thánh giá, tôi càng thấy tôi chỉ hiểu được tình yêu Thiên Chúa một cách đúng đắn nhờ đức tin. Đức tin lúc đó chính là sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô. Đức Kitô ở trong tôi. Chính Người chia sẻ cho tôi những tâm tình của Người. Chính Người làm cho trái tim chúng ta được bén nhạy. Cũng nhờ gặp gỡ sống động và thân mật với Đức Kitô, tôi mới nhận thêm được điều quan trọng này là: Tôi sẽ chỉ có thể yêu thương theo gương Đức Kitô, khi tôi thực sự dựa vào Người. Chứ với sức riêng mình, tôi sẽ thất bại. Nhận thức đó đòi tôi phải tăng cường việc cầu nguyện và suy gẫm nội tâm. Nhờ vậy, mà tôi sẽ được Chúa cho biết những sự thực cần thiết cho ơn gọi yêu thương. Tới đây, tôi nghĩ tới việc từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tôi biết Ngài là con người chọn hướng yêu thương, nhưng cũng là con người rất trọng sự thực. Tôi chắc là Ngài biết ba sự thực này trước khi quyết định từ nhiệm. Một là sự thực về Ngài lúc này. Sức khoẻ đang suy giảm rõ rệt. Hai là sự thực về trách nhiệm lúc này. Tình hình đang chuyển biến phức tạp. Trách nhiệm Ngài phải gánh sẽ rất nặng nề, rất có thể sẽ vượt quá sức của Ngài. Ba là sự thực về thánh ý Chúa lúc này. Chúa cho phép Ngài coi sự từ nhiệm của Ngài như một cơ hội có lợi cho ích chung Hội Thánh. Vì thế việc từ nhiệm của Ngài là một quyết định sáng suốt, khiêm nhường và can đảm dựa trên những sự thực, để phục vụ cho yêu thương. Bởi vì Ngài yêu thương Hội Thánh trong Chúa và với Chúa. 10. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã rất rõ ràng khi Ngài viết: “Tình yêu đối với tha nhân hệ tại ở việc tôi yêu thương trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, ngay cả người tôi không ưa và tôi không biết. Yêu thương như thế chỉ có thể thực hiện được từ việc chúng ta gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông giữa các lòng muốn cho đến tình cảm. Lúc đó tôi sẽ nhìn người khác không những bằng đôi mắt và tình cảm của tôi, mà còn nhìn họ trong đường lối của chính Đức Kitô” (Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18). Đường lối đó chính là cuộc tử nạn đau đớn và nhục nhã của Đức Kitô, nhờ đó Đức Kitô ban tặng chính mình để chia sẻ và để cứu chuộc. 11. Để kết, tôi xin tóm gọn mấy điểm sau đây: Tình hình sắp tới sẽ có nhiều khủng hoảng có thể gây nên những cảnh phá sản đau đớn trong xã hội và cả trong Hội Thánh. Để cứu chính mình và cứu người khác, chúng ta phải mau hoán cải. Hoán cải quan trọng nhất là hoán cải trái tim. Trái tim cần trở nên nhạy bén hơn, tỉnh thức hơn với trách nhiệm yêu thương, nhờ sống trong Chúa và với Chúa. Lúc đó, trái tim cần can đảm từ bỏ tất cả những ảo tưởng do ý riêng nhưng lại cho là hợp ý Chúa, để tăng cường đời sống nội tâm, tập trung làm những gì cần thiết nhất cho việc bảo vệ và phát triển Nước Thiên Chúa là Nước tình yêu, bình an và ân sủng. Những trái tim cần phải nên gương hoán cải một cách sâu xa và khẩn cấp nhất, chính là những trái tim người cha người mẹ và các mục tử. Hoán cải trái tim những người đó và những người có chức có quyền là điều không dễ. Nếu Chúa dùng đến những liều thuốc đớn đau, thì chúng ta không nên ngạc nhiên. Rất có thể là sẽ có nhiều người phải chịu khổ thay cho người khác, để cứu họ và đền tội thay cho họ. Con đường thánh giá sẽ dài. Nhưng sau thánh giá sẽ là Phục Sinh. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 19 tháng 2 năm 2013.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố từ nhiệm. Ngài về hưu. Mọi người con Hội Thánh vẫn mến thương Ngài. Riêng tôi, tôi sẽ thực hiện lòng mến thương của tôi đối với Ngài, bằng việc góp phần chăm sóc sức khoẻ của Ngài, lúc Ngài đi sâu vào tuổi già sức yếu. Sức khoẻ của người già gồm sức khoẻ thể xác và sức khoẻ tinh thần. Theo kinh nghiệm, sức khoẻ tinh thần giữ vai trò quan trọng hơn sức khoẻ thân xác, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người tuổi tác. Sức khoẻ tinh thần hệ tại ở sự tinh thần hoạt động tốt. Hoạt động tốt của tinh thần là biết suy tư, biết học hỏi, biết nghiên cứu, biết nhận định, biết phán đoán. Hoạt động tốt của tinh thần là biết nắm bắt tất cả những gì là chân thiện mỹ trong cuộc sống. Hoạt động tốt của tinh thần là cảm thấy mình còn có ích cho người khác, nhờ những cống hiến lớn nhỏ thường ngày. Hoạt động tốt của tinh thần là cảm thấy vui, khi nhận được những tình cảm chân thành gởi tới cho mình do mọi hình thức liên đới xa gần. Tôi thấy Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI có một lối sống rất phong phú, đó là yêu thương mọi người trong Chúa và với Chúa, nên yêu thương như thế sẽ làm cho tinh thần Ngài luôn luôn trẻ, mặc dầu thân xác phải già đi. Tôi thấy Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI có một nhận định rất dứt khoát, đó là chỉ những người thánh mới làm nên mùa Xuân cho Hội Thánh, nên nhận định như thế sẽ làm cho tinh thần Ngài luôn thanh thản, mặc dầu dư luận về Ngài và về Hội Thánh Chúa đang trở thành phức tạp. Nhận thức trên đây giúp tôi có những sáng kiến, để ở bên Đức Thánh Cha về hưu, như một cách báo hiếu chân thành của người con bên chân trời xa ngàn dặm. Có thể Ngài không cần đến tôi. Nhưng trong ánh sáng đức tin, tôi chắc chắn việc báo hiếu của tôi sẽ đẹp lòng Chúa, và sẽ được cùng với Đức Thánh Cha đóng góp phần nào trong việc mở rộng Nước Thiên Chúa là Nước tình yêu, bình an và ân sủng. Long Xuyên, ngày 19 tháng 02 năm 2013
Lạy Cha rất mến yêu. Giờ phút chia ly buồn lắm và đau đớn lắm. Cha thoái vị và ra đi, lúc đêm bắt đầu (20 giờ, ngày 28 tháng 02 năm 2013). Từ giờ phút đó, các thánh lễ tại Việt Nam sẽ không còn đọc tên Cha nữa (Thư Chung của HĐGMVN, ngày 16.02.2013). 2. Riêng con, con luôn nhớ đến tên Cha và gọi tên Cha. Con nhớ Cha, để cảm tạ Cha vì những ơn Cha đã làm cho con. Cha dạy con hãy luôn gặp gỡ thân mật với Đức Kitô và hãy bước theo Đức Kitô. Nhờ vậy, đời con chỉ phải là yêu thương, dâng hiến, trong tự do và cậy tin phó thác, theo gương Cha. Vì Cha bước theo Đức Kitô. Chỉ có thế, đời con mới có ý nghĩa và có hướng đi đúng đường. 2. Cha ra đi, khi đã thoái vị Giáo Hoàng. Nhưng Cha không thể từ nhiệm ơn gọi bước theo Chúa Kitô. Tối thứ Năm đó, Đức Kitô đã một mình ra đi. Người một mình đi vào Vườn Cây Dầu. Ở đó, Người sợ hãi xao xuyến. Người đã xin Đức Chúa Cha, nếu có thể, thì cho Người khỏi uống chén đắng đang kề. Nhưng, sau cùng, Người đã xin vâng ý Chúa Cha. Người không từ chối trách nhiệm đớn đau, mà Chúa Cha muốn Người phải thi hành. Người đi vào cuộc tử nạn một mình. Người vác thánh giá một mình. Người chịu đóng đinh trên thánh giá một mình giữa hai phạm nhân tử tội. Người một mình chịu thương khó, để dâng mình đền tội cho nhân loại. Cha đi, nếu Cha cũng sẽ được ơn gọi bước theo Đức Kitô như thế, thì thiết tưởng đó chính là một vinh quang, mà Năm Đức Tin cần tuyên xưng. Bởi vì theo đức tin, ơn cứu độ sẽ đến từ thánh giá Đức Kitô. 4. Từ nay, trong cảnh tĩnh mạc của cuộc đời hưu, Cha sẽ có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để cầu nguyện nhiều hơn. Trong đời cầu nguyện thẳm sâu ấy, xin Cha thương nhớ đến chúng con, nhất là những đứa con đang hấp hối, quằn quại, rên xiết, trong gian nan thử thách muôn vàn. Cha còn có chỗ, để ra đi. Còn chúng con, bao người đau khổ, chẳng có chỗ nào, để mà ra đi. 5. Khổ nhất đối với chúng con là sự ác đang tăng mạnh bao vây chúng con. Con nhớ đến lời thánh Gioan tông đồ đã cảnh báo: “Tất cả thế gian đều nằm dưới ách của Ác Thần (Ga 5,19) và “Có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1 Ga 4,1). Nếu thời điểm này đang ứng nghiệm những lời cảnh báo đó của thánh Gioan tông đồ, thì chúng con là những kẻ tội lỗi yếu hèn sẽ rất bơ vơ. Xin Cha thương cầu nguyện cho chúng con. 6. Con xin gởi Cha gánh nặng của bao nỗi lòng. Nỗi lòng đau đớn nhất là thấy chính mình chúng con có thể đang là nguyên do gây cho Cha những buồn phiền, do sự chúng con sa sút về đạo đức. Có thể nhiều người chúng con đang là nỗi thất vọng cho Cha. Con xin Cha rộng lòng tha thứ. Thưa Cha, con vẫn nhìn thấy nơi Cha khuôn mặt hiền lành và khiêm nhường của Đức Kitô. Do vậy, con tin Cha vẫn rất cần cho Hội Thánh nói chung, và cho chúng con nói riêng. Xin từ biệt Cha. Long Xuyên, ngày 25 tháng 02 năm 2013
Thánh Giuse là người khó nghèo và thinh lặng. Nhưng khó nghèo và thinh lặng của thánh Giuse lại là một tuyên xưng sống động. Thánh Giuse tuyên xưng một điều đơn giản, giữa một nếp sống đạo phức tạp của cộng đoàn đức tin. Nếp sống đạo hồi đó phức tạp, ở chỗ coi việc thuộc về đạo là thuộc về một giáo lý. Như thế Tin Mừng là giáo lý. Còn thánh Giuse thì đơn sơ. Tin Mừng của Ngài là một Đấng, một Người. Đấng ấy, Người ấy là Chúa Giêsu. Nếp sống đạo hồi đó phức tạp, ở chỗ coi người giữ luật lệ theo hình thức là người giữ đạo tốt. Còn thánh Giuse thì đơn sơ. Ngài coi người sống thân mật với Chúa Giêsu và yêu thương người khác như Người mới là người giữ đạo tốt. Tin Mừng là một Trái tim. 2. Rất có thể, thánh Giuse đã không có hoàn cảnh để nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Nhưng được sống thân mật với Chúa Giêsu, thánh Giuse đã cảm nhận được Chúa Giêsu là Tin Mừng, ở chỗ Chúa Giêsu có một trái tim yêu thương, đầy khiêm nhường, đầy chia sẻ, đầy bao dung, đầy hy sinh phục vụ và tinh thần cầu nguyện. 3. Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu yêu thương khiêm nhường, khi Chúa hạ mình, bỏ trời cao, xuống trần gian, mặc lấy thân phận con người. Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu yêu thương chia sẻ, khi Chúa sống như những kẻ nghèo, phải lầm than như họ. Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu yêu thương bao dung, khi Chúa hoà mình vào lớp người tội lỗi, chấp nhận những người yếu đuối với lòng bao dung vô bờ. Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu yêu thương hy sinh, khi Chúa vui lòng sống vâng lời, chịu thương chịu khó, để đền tội và cầu nguyện cho bao nhiêu người khác theo ý Chúa Cha. 4. Như thế, Tin Mừng theo thánh Giuse là một hiện diện thân thương, là một trái tim bén nhạy, là một Đấng có bản tính là tình yêu đầy lòng thương xót, biết đau cái đau của những người nghèo khổ, biết lo buồn cái lo buồn của những người thất vọng, biết thao thức và đi tìm những cuộc đời sa ngã nát tan, biết tha thứ và dám chết để cứu chính những kẻ ghét Người. 5. Trái tim yêu thương như thế của Chúa Giêsu chính là Tin Mừng. Tin Mừng đó có thể bị coi là không hợp lý. Rao giảng một Đức Kitô như thế là một mạo hiểm, khó được người ta chấp nhận. Như lời thánh Phaolô sau này đã nói: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23). Nhưng thánh Giuse đã rao giảng Tin Mừng đó bằng chính cuộc sống của Ngài. Ngài đã rất khó nghèo, nhận mình chẳng là gì, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, để vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài đã rất kiên từ chịu đựng muôn vàn cản trở trong sứ vụ bảo vệ Chúa Cứu Thế và Mẹ của Người. 6. Cuộc sống tình yêu của thánh Giuse không phải chỉ là những niềm vui, nhưng cũng có pha những đau đớn. Tuy nhiên, những đau đớn ấy được chấp nhận một cách tự do, như một sự dâng hiến của tình yêu. Do vậy, bản thân Ngài đã trở thành một đền thờ, trong đó chiếu dọi ánh sáng và tình yêu của Chúa, như lời thánh Phaolô sau này đã nói: “Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Mà Thánh Thần ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1 Cr 6,19). 7. Tin Mừng của thánh Giuse vốn được truyền đi qua các thế hệ. Khi các thế hệ rơi vào cảnh hỗn loạn do các thứ đạo đức giả, và khi lịch sử Hội Thánh trở thành nặng nề bởi các thứ cơ chế và các hình thức xa lạ với Phúc Âm, nhất là khi lan tràn các lối sống đạo bị tha hoá, biến chất, thậm chí phản Phúc Âm, thì Tin Mừng của thánh Giuse hiện lên như một lời kêu gọi. Muốn đổi mới Hội Thánh một cách có hiệu quả, hãy tập trung vào Đức Giêsu Kitô. Muốn Hội Thánh có nguồn sức sống mới, hãy biết sống thân mật với Đức Giêsu Kitô bằng thường xuyên cầu nguyện và bước theo Người. Muốn bảo vệ Hội Thánh và phát triển Hội Thánh, hãy sống tình yêu thương khiêm nhường, bao dung, gần gũi, tha thứ và hy sinh phục vụ. Nhấn mạnh đến những điểm trên đây, chính là Tin Mừng theo thánh Giuse. 8. Tôi xin được phép hy vọng Đức Tân Giáo Hoàng sẽ giải quyết tình hình phức tạp hiện nay bằng một cách đơn sơ chủ yếu là theo gương thánh Giuse. Phần chúng ta, là con cái của thánh Giuse khó nghèo, chúng ta cũng hãy sống đơn sơ như thánh Giuse. Nhất là theo gương thánh Giuse, chúng ta sống thân mật với Chúa Giêsu, để nhờ đó, tình yêu của Chúa trong chúng ta được chiếu toả ra qua cuộc sống của ta, khuôn mặt của ta, lời nói của ta. Đó chính là một cách tốt nhất để tuyên xưng đức tin, để rao giảng đức tin, để mở rộng Nước Thiên Chúa là tình yêu, giữa lòng Quê Hương Việt Nam yêu dấu này. Lạy thánh Giuse, xin thương chia sẻ cho con niềm vui được Chúa Giêsu là Tin Mừng, để rồi con cũng biết chia sẻ niềm vui ấy cho những người xung quanh con. Xin thương xót con là kẻ tội lỗi, khốn khó, mọn hèn. Long Xuyên, ngày 13 tháng 3 năm 2013
Đêm ấy đã hiện ra một ngôi sao sáng. Đêm cuối ngày 13 tiếp đầu ngày 14 tháng 3 vừa qua tại Việt Nam là đêm tôi được báo tin về việc Hội Thánh đã có Đức Tân Giáo Hoàng. Tuy rất xa, nhưng được nhìn trên các đài truyền hình ngoại quốc, tôi thấy mình như đang hoà mình vào đám đông trên quảng trường thánh Phêrô, Rôma. Đức Tân Giáo Hoàng xuất hiện. Tôi vui mừng khôn xiết. Niềm vui của tôi rất hồn nhiên. 2. Niềm vui thứ nhất của tôi là thấy mình thuộc về một Hội Thánh có phẩm trật và có lễ nghi. Phẩm trật ấy thân thương như một gia đình có trật tự nề nếp. Lễ nghi ấy gọn nhẹ trang nghiêm như báo trước một món quà quý giá cao vời. Phẩm trật ấy và lễ nghi ấy nâng tâm hồn tôi lên với Chúa. Đức Tân Giáo Hoàng xuất hiện, càng làm tôi hướng về Chúa. 3. Niềm vui thứ hai của tôi là thấy mình thuộc về Hội Thánh của Đức Kitô. Đức Tân Giáo Hoàng cung kính bước sau thánh giá. Ngài đeo thánh giá trước ngực Ngài. Ngài được giới thiệu như một người suốt đời dâng hiến mình cho Đức Kitô. Đức Tân Giáo Hoàng càng làm tôi gắn bó với Đức Kitô. Cùng với Ngài, tôi tuyên xưng rằng: Đức Kitô là Đấng cứu độ. Tôi biết tôi tin vào ai. 4. Niềm vui thứ ba của tôi là thấy mình thuộc vê một Hội Thánh cầu nguyện. Tôi rất cảm động, khi nghe Đức Tân Giáo Hoàng xin mọi người cầu nguyện cho Ngài. Tôi càng cảm động, khi thấy chính Ngài cúi mình xuống cùng với dân chúng khiêm tốn cầu nguyện. Ngài bám vào Chúa. Ngài tin vào ơn thiêng của Chúa. Ngài cậy nhờ sự cầu nguyện của những người khác. 5. Niềm vui thứ bốn của tôi là thấy mình thuộc vê một Hội Thánh có một người Cha chung nổi tiếng về sống nghèo và khiêm nhường. Tôi thực sự ngạc nhiên, khi thấy các đài truyền hình và dư luận thế giới khắp nơi đều đồng loạt để ý đến đặc điểm của Đức Tân Giáo Hoàng là sống khó nghèo và khiêm nhường. Khó nghèo và khiêm nhường như thánh Giuse và thánh Phanxicô. Đó là những giá trị đạo đức coi như quý hiếm và rất cần cho thời nay. 6. Niềm vui thứ năm của tôi là thấy mình thuộc về một Hội Thánh có một vị lãnh đạo đầy lửa thiêng trong lòng mình. Lửa mến Chúa, lửa thương người. Như thánh Phanxicô, và như thánh Giuse. Với lửa thiêng ấy, Đức Tân Giáo Hoàng sẽ phải đương đầu với một tình hình rất phức tạp. Có thể Ngài cũng thấy nhiều thử thách đang chờ đợi Ngài. Nhưng Ngài can đảm vâng theo ý Chúa. 7. Với những niềm vui trên đây, tôi tin vào Chúa. Tôi sẽ nâng đỡ Ngài. Nâng đỡ Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô đệ nhất là việc mọi con cái Hội Thánh tại Việt Nam cần thực hiện. Cần nâng đỡ Ngài theo đúng hướng Ngài đã chọn. Bởi vì tình hình Hội Thánh tại Việt Nam cũng đang bị tinh thần tục hoá chi phối mạnh. Hội Thánh tại Việt Nam cũng đang nổ ra nhiều mảnh. Hội Thánh tại Việt Nam cũng đang đánh mất niềm tin nơi nhiều người! Nếu đổi mới cần phải có tinh thần khó nghèo, khiêm nhường, đi vào siêu nhiên, thì không dễ gì đâu. Cản trở là do ma quỷ, và thế tục, nhưng cũng là do chính bản thân mỗi người chúng ta. Cần phấn đấu với chính mình. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 14 tháng 3 năm 2013
Lạy Cha rất thương mến, Được tin Hội Thánh đã có người kế vị thánh Phêrô, sau một thời gian trống toà, con rất vui mưng. Con càng vui mừng hơn, khi được biết Đấng kế vị thánh Phêrô mới được bầu, là người nổi tiếng là nghèo khó, và khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường và nghèo khó của Cha đã lôi cuốn con đến gần Cha. Giờ đây, với đức tin và lòng mến, con đang ở bên Cha. Ở bên Cha lúc này, con chỉ xin được tỏ bày chút tâm tình của con. Chút tâm tình này sẽ được giới hạn vào cảm nghĩ của con về đường hướng khó nghèo và khiêm nhường, mà Cha đã sống và đang trở thành hướng Cha chọn, để đổi mới Hội Thánh hôm nay. Tâm tình của con sẽ rất chân thành. Nghĩ sao, con nói vậy. 2. Thực sự, con lo ngại cho Cha. Sống nghèo khó và khiêm nhường theo gương Chúa Giêsu vốn là điều khó cho chính bản thân mỗi người môn đệ Chúa. Việc vốn đã khó ấy sẽ tăng thêm ngàn ngàn lần, khi người môn đệ Chúa lại muốn đưa cộng đoàn của mình, Hội Thánh của mình cũng đi vào hướng sống nghèo và khiêm nhường theo Chúa Giêsu. Xưa, Chúa Giêsu đã muốn đổi mới đạo cũ theo hướng khó nghèo và khiêm nhường. Nhưng công việc đổi mới ấy không dễ dàng gì. Bản thân Chúa Giêsu đã phải khổ đau, cô đơn, tan nát. 3. Ở đây, con nhớ lại mấy lời của tác giả thư gởi Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàn nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kên van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5,7). Ai muốn đổi mới một cơ chế tôn giáo, để nó trở thành khó nghèo và khiêm nhường, có thể bị coi là mạo hiểm, hơn nữa sẽ như tự đưa mình vào một thứ chết đớn đau nào đó. 4. Ở đây, con cũng nhớ lại hình ảnh Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu tối thứ Năm Tuần Thánh. Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22,41-44). 5. Hình ảnh đau đớn trên đây của Chúa Giêsu cho phép con nghĩ rằng: Chúa Giêsu muốn đổi mới Đạo Chúa theo hướng khó nghèo và khiêm nhường, sẽ không chỉ thực hiện được bằng lời giảng dạy, mà còn phải tự mình gánh tội thay và đền tội thay, để cứu dân Chúa khỏi tội. Và đó, chính là con đường thánh giá dẫn tới cái chết bị treo lên khổ hình. 6. Con nghĩ rằng: Cha sẽ không bị đối xử tàn nhẫn như Chúa Giêsu. Nhưng không nhiều thì ít, Cha cũng sẽ bị cô đơn. Cô đơn lớn nhất là: Đường Cha Cha cứ đi, còn đường chúng con chúng con đi, mặc chúng con. 7. Cô đơn có thể tới chỗ bị cô lập. Không phải do những người nghèo, mà do những người có chức, có địa vị, có quyền lợi, ngay trong chính nội bộ Hội Thánh. 8. Mấy ngày nay, con thấy Cha có nhiều bất ngờ, biểu lộ đức tính khó nghèo và khiêm nhường. Nhất là ở sự Cha tỏ ra gần gũi và đơn sơ với mọi tầng lớp dân chúng, đặc biệt là với dân thường. Xưa Chúa Giêsu cũng đã gần gũi và hoà mình như vậy. Dân thường và dân tội lỗi thì mến Người. Nhưng chính vì Người được dân nghèo và những người tội lỗi quý mến, nên những lớp người đạo đức giả lại sinh ra ghen ghét Người. 9. Mấy ngày nay, con thấy Cha hơi khác nhiều Đấng Bậc, khi Cha chủ trương xây dựng một Hội Thánh nghèo, không làm chính trị, mà chỉ chăm chú lo cho người nghèo. Cha nói thế, mà không sợ. Nhưng con thì sợ cho Cha. Nỗi sợ của con đã làm con ray rứt, khi thấy ngay tại Hội Thánh trên Quê Hương Việt Nam của con hiện nay cũng đang có những thực tế đau lòng coi như đi ngược lại chủ trương của Cha. 10. Tâm tình của con xin được tạm kết thúc bằng lời thư của thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Con coi những lời trên đây của thánh Phêrô cũng là những lời của Cha, Đấng kế vị thánh Phêrô. Con thiết nghĩ: Càng những nơi quen gọi là thánh, thì Satan càng rảo quanh và tím cách xâm nhập. Vì thế, con cúi xin Chúa thương bảo vệ Cha, bởi vì chính Toà Thánh rất có thể là một nơi đặc biệt, mà Satan quan tâm nhiều nhất để mà chia rẽ. Con lo, sẽ có những người lợi dụng chủ trương đường lối của Cha, để gây chia rẽ tại những địa phương vốn đang bất ổn về đức tin. Lịch sử Hội Thánh cho thấy: Cải cách nào cũng có sự đấu tranh gay gắt giữa cái mới và cái cũ. Đem lại sự hài hoà là điều Chúa Thánh Thần sẽ làm, nhưng cũng đòi sự cộng tác hy sinh và cầu nguyện lâu dài của những tâm hồn khiêm tốn khó nghèo. Riêng con, con nhận biết mình là kẻ tội lỗi, yếu hèn, sẽ xin luôn đứng vào hàng ngũ những kẻ cần được Chúa cứu, nên cũng xin Cha thương cứu con bằng phép lành của Cha. Con tin chắc: Cha là người của Chúa, được Chúa yêu thương, được Chúa chọn, được Chúa thánh hoá, được Chúa sai đi, để là của lễ làm chứng cho Tình Yêu Chúa giàu lòng thương xót. Con xin cảm tạ Cha. Long Xuyên, ngày 18 tháng 3 năm 2013
Khó nghèo và khiêm nhường là những giá trị cao quý của Phúc Âm. Những giá trị cao quý này vốn được đề cao trong Hội Thánh. Nhưng, lịch sử cho thấy những giá trị cao quý ấy nhiều khi như bị chìm xuống ở một số dòng đời quá nhiều sóng gió thế tục. Lúc đó, Chúa lại báo động. 2. Lúc đó chính là lúc này. Lúc này Hội Thánh đang bị chao đảo bởi sóng gió trần tục. Chính lúc này, Chúa gởi đến Hội Thánh một vị Giáo Hoàng, để báo động. Ngài báo động bằng cách nêu gương sáng về sóng khó nghèo và khiêm nhường. Nhiều người đã hiểu được thánh ý Chúa. Họ đã bắt đầu điều chỉnh lại nếp sống đạo của họ, để tinh thần khó nghèo và khiêm nhường của họ góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa. Báo động của Chúa đang được nhiều người lắng nghe. Xin cảm tạ Chúa. 3. Riêng tôi, tôi tập trung sự điều chỉnh của tôi trong Tuần Thánh này. Trước hết, sống khó nghèo và khiêm nhường là nhận biết mình tội lỗi. Đừng đổ tội cho ai cả. Nhưng lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Lỗi quan trọng nhất là từ chối tình yêu Chúa, không mến Chúa và không yêu thương người khác theo gương Chúa, nhất là không tin đủ vào tình yêu thương xót Chúa, không gần gũi đủ và không phục vụ đủ những kẻ bần cùng. 4. Sự khó nghèo và khiêm nhường như vậy thường là chưa đủ, mà còn phải tỉnh thức, không để mình nâng mình lên trên kẻ khác. Sẽ rất nguy hiểm, nếu tôi tự coi mình hơn những kẻ khác, nhất là hơn họ về mặt đạo đức, dù họ là ai. Tôi hãy bắt chước Chúa quỳ xuống rửa chân cho mọi người. 5. Khó nghèo và khiêm nhường còn là nhận biết mình chẳng có công phúc gì, mà chỉ cậy tin mến yêu Chúa là Đấng xót thương vô cùng. Tôi tin cậy, mến yêu Chúa như trẻ thơ tin cậy, mến yêu mẹ của mình. Còn hơn thế nữa, khi tôi biết Chúa đã xuống trần, đã đành chịu mọi khổ đau, sau cùng đã vui lòng chịu chết trên thánh giá, để cứu chuộc tôi. Sự cậy tin, yêu mến của tôi xét cho cùng cũng là một ơn Chúa ban. Một ơn nhưng không. Tôi nhận ra điều đó, khi tôi thờ lạy Chúa trong phép Thánh Thể mà Chúa đã lập ra trong bữa Tiệc Ly. 6. Sự khó nghèo và khiêm nhường còn phải là thái độ vâng phục ý Chúa, không bao giờ dám coi ý riêng mình là thánh ý Chúa, dù ý riêng mình có vẻ hợp lý đến đâu. Xưa, trong Tuần Thánh đã có vô số viêc coi như hợp lý, nhưng lại sai lầm. Các thượng tế, khi căn cứ vào luật đạo để kết án Chúa Giêsu, họ cho là hợp lý, nhưng lại sai lầm. Đám đông, khi nghe lời các thượng tế xúi giục để xin đóng đinh Chúa, họ cho là hợp lý, nhưng lại sai lầm. Chính thánh Phêrô, khi rút gươm chém người bắt Chúa, ngài cũng tưởng là hợp lý, nhưng đã sai lầm. 7. Sự khkó nghèo và khiêm nhường còn phải là vững tin, không dám đặt giới hạn cho những bất ngờ. Ai đâu có nghờ, ông Simon là người ngoại đạo, đã được Chúa thương kêu gọi vác đỡ thánh giá cho Chúa. Ai đâu có ngờ, người trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa, đã được Chúa hứa ban phúc thiên đàng ngay hôm đó. Ai đâu có ngờ, ông Giuđa, một tông đồ Chúa, vừa mới được phong chức thánh, vừa mới chịu Mình Thánh, lại bị Satan nhập, ngay trước mặt Chúa Giêsu là Đấng Rất Thánh. 8. Khó nghèo và khiêm nhường nhất là ở sự chấp nhận con đường thánh giá, như Chúa Giêsu, để cộng tác vào chương trình cứu độ. Chúa có thể dùng nhiều con đường vinh quang, quyền lực, để cứu đời. Nhưng Người đã chọn con đường thánh giá. Đó là con đường khó nghèo và khiêm nhường tột độ. Tôi cũng phải chọn con đường đó. 9. Khó nghèo và khiêm nhường còn ở sự bao dung tha thứ một cách quảng đại. Chúa Giêsu đã bao dung và tha thứ cho mọi kẻ đã làm hại Người. Người bị loại trừ, còn Người thì chẳng loại trừ ai, Người cũng không ép buộc ai phải đón nhận tình thương của Người. Người dạy chúng ta phải yêu thương nhau, coi đó là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. 10. Cụ thể hơn cả, khó nghèo và khiêm nhường là chấp nhận những giới hạn đang xảy ra cho tôi lúc này, như những yếu đuối cả phần xác lẫn phần hồn, những đớn đau của mình và của đồng bào, những hoàn cảnh không như mình muốn. Chấp nhận là không dễ. Nhưng tôi xin chấp nhận với niềm hân hoan của đức tin. Tôi xin Chúa ban ơn cho tôi biết chịu tất cả những sự xảy ra, với tinh thần khó nghèo và khiêm nhường, biết cậy tin và phó thác nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, để đền tội cho mình và cho nhiều người. “Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”. 11. Cũng là cụ thể, khó nghèo và khiêm nhường, khi tôi biết trân trọng đón nhận mọi nâng đỡ của những người khác, bất cứ lớn nhỏ, bất cứ họ là ai. Trân trọng đón nhận, như những món quà quý giá góp phần vào chương trình Chúa cứu độ tôi. Còn tôi, tôi sẽ góp phần bằng những việc rất nhỏ, theo khả năng Chúa ban. 12. Và cũng là cụ thể, khó nghèo và khiêm nhường khi tôi nhận ra nhiều tâm hồn đạo đức đang âm thần bước theo Chúa. Họ khá đông. Mỗi người mỗi cách. Họ đang là những bông hoa thiêng báo hiệu sự sống và sự sống lại. Với chút chia sẻ chân thành trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người gần xa một Tuần Thánh đầy ơn đổi mới, dẫn tới một lễ Phục Sinh chan chứa niềm vui và hạnh phúc của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Long Xuyên, ngày 23 tháng 3 năm 2013
Chúa Giêsu, khi sống lại rồi, đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Người. Các môn đệ Chúa, khi thấy Người hiện ra, đã tin nhận Thầy mình chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu độ, Đấng Cứu chuộc. Người đến để cứu. Sự ác nguy hiểm nhất mà Người muốn cứu con người ra khỏi, chính là tội lỗi. Đấng Cứu Thế hiện ra trước mắt họ, đã được chú ý đặc biệt do hai nét đẹp sau đây. 2. Nét đẹp thứ nhất là những thành tích về đời sống khó nghèo và khiêm nhường. Khó nghèo và khiêm nhường từ hang đá Belem, qua Nagiarét, đến những năm rao giảng đó đây, cho tới Núi Sọ. Bề dày thành tích khó nghèo và khiêm nhường đó vẫn còn nơi Chúa Phục Sinh. Các môn đệ nhận thấy Người vẫn đơn sơ, gần gũi, như một người nghèo, nhưng đầy yêu thương khiêm tốn. Người không kết án những kẻ đã muốn tiêu diệt Người. Người không thách thức những ai sau này dám bắt bớ Hội Thánh của Người. Người vẫn giữ phong độ người bạn của kẻ nghèo. 3. Nét đẹp thứ hai là những thương tích về cuộc tử nạn. Cuộc tử nạn của Người gắn liền với thánh giá. Nên thương tích nhắc đến nhục hình thánh giá là những dấu đinh ở chân tay Chúa và vết đâm ở cạnh sườn Người. Những thương tích ấy vẫn còn nơi Chúa Phục Sinh. Người mời gọi các môn đệ hãy nhìn vào và đụng vào, như những dấu tích của tình yêu. 4. Với những thành tích và với những thương tích ấy, Chúa Phục Sinh đã lôi cuốn tôi. Bởi vì, khi nhìn thấy những thành tích ấy và những thương tích ấy, tôi nhận ra tình thương của Chúa là vô cùng bao la. Những thành tích ấy và nhất là những thương tích ấy nói lên rằng: Chúa, vì thương yêu, đã gánh tội thay cho người khác, đã đền tội thay cho người khác, đã chịu mọi khổ đau và chịu chết nhục nhã, để cứu những người tội lỗi trong đó có tôi. 5. Chúa Phục Sinh với những thành tích về đời sống khó nghèo khiêm nhường, kèm với những thương tích của cuộc tử nạn của Người đã là gương cho các môn đệ của Người. Thánh Phêrô, thánh Phaolô đã rất nổi về sự theo gương ấy trong sứ vụ đứng đầu các cộng đoàn của Hội Thánh. Thành tích về đời sống khó nghèo và khiêm nhường nơi các ngài được nhận ra ngay chính đời thường của các ngài, một đời chỉ lo cứu người khác bằng yêu thương chấp nhận hy sinh quên mình. Thương tích về cuộc tử nạn nơi các ngài cũng được nhận ra ngay trong thánh giá thường ngày của các ngài, nhất là trong các biến cố Chúa muốn các ngài chết thay, để cứu những người tội lỗi khổ đau. Chết thay như một của lễ tình yêu vẹn tuyền, không pha chút gì là kiêu căng, thù hận và thách thức. Thành tích và thương tích của Chúa Cứu Thế và của các tông đồ xưa vẫn được tiếp tục trong Hội Thánh, ở mọi nơi mọi thời. 6. Tôi rất vui mừng nhận ra gương sáng ấy trong thời đại này, ngay chính hôm nay, ở nơi hai Đức Giáo Hoàng hiện còn đang sống. Ngày 23 tháng 3 vừa rồi, Đức Thánh Cha Phanxicô tại chức đến chào thăm Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã từ chức. Tôi nhìn hai đấng và rất cảm động. Cảm động của tôi phát xuất từ cái nhìn của tôi về Chúa Phục Sinh đang hiện diện nơi hai vị giáo hoàng, là hai môn đệ yêu dấu của Người. Hai môn đệ này đều mang trong mình những thành tích về đời sống khó nghèo, khiêm tốn và những thương tích về cuộc tử nạn của Chúa. 7. Nếu tôi không lầm, thì Đức Bênêđictô XVI đã không giấu được những thương tích. Những thương tích ấy đã toát ra ở khuôn mặt của ngài, ở những bước đi của ngài. Còn Đức Phanxicô cũng đã không giấu được những thành tích về đời sống khó nghèo, khiêm nhường của một người nổi tiếng là bạn của kẻ nghèo. Thành tích và thương tích đều có nơi hai Đức Giáo Hoàng. Mỗi vị có những mức độ riêng, với những hình thức riêng. 8. Điều quý giá tôi học được nơi hai Đức Giáo Hoàng là các ngài không hề tự phụ về những thành tích và thương tích của các ngài. Các ngài vẫn luôn coi mình là đầy tớ vô dụng trước mặt Chúa. 9. Các ngài, mặc dầu mang thành tích và thương tích của Chúa, vẫn không chống ai, cũng chẳng thách thức ai, cũng chẳng đe doạ ai, cũng không đòi ai phải làm như các ngài. Nhất là các ngài, tuy bị thương tích có thể do chính nội bộ và những người gần với mình, nhưng các ngài vẫn yêu thương đến cùng. 10. Thành tích về đời sống nghèo khó khiêm nhường và thương tích về cuộc tử nạn thánh giá vì yêu thương, hiện nay đang là những yếu tố cần nơi những người lãnh đạo dân Chúa. Nếu những yếu tố đó không luôn cần để dân Chúa tin tưởng, thì vẫn luôn cần để Chúa dùng ta vào chương trình cứu độ của Chúa. Dân Chúa đang cần được cứu. Nhân loại đang cần được cứu. Chính Hội Thánh cũng đang cần được cứu. Gia đình chúng ta cũng đang rất cần được cứu. Tôi càng rất cần được cứu. Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu chuộc. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Người. 11. Cộng tác, mà Chúa muốn, là hãy noi gương Chúa Giêsu, mà sống khó nghèo khiêm nhường và tham gia vào thánh giá, chỉ vì yêu thương. Khó nghèo khiêm nhường nhờ cuộc sống đơn sơ, biết từ bỏ ý riêng để thuận theo ý Chúa nhất là ở sự gần gũi, chia sẻ và cảm thông với những người nghèo khổ bất cứ trong phương diện nào. Khó nghèo khiêm nhường rất cần cảnh giác trước chủ nghĩa chiến thắng hiện nay rất mạnh: Mình phải thắng, nó phải thua, bởi những kết án và thách thức kiêu căng. Dửng dưng trì trệ trước bổn phận cứu các linh hồn, đó cũng là điều mà khó nghèo khiêm nhường đòi phải hết sức tránh. Tham gia vào thánh giá nhờ những hy sinh thường ngày và những hy sinh khác thường, mà Chúa muốn ta chịu. Nhưng không vì thế mà ta tự tạo nên cho mình và cho kẻ khác những khổ đau, rồi cho rằng Chúa muốn. Chỉ vì yêu thương mà thôi. Như một của lễ tình yêu mà thôi. Tình yêu ấy rất khiêm nhường. Nếu ngược lại, bênh Chúa sẽ trở thành chống lại Chúa. Sẽ thực sự chống lại Chúa, khi muốn biến Hội Thánh trở thành một Hội Thánh thách thức, kích động, áp đặt và trịch thượng. 12. Tới đây, tôi nghĩ tới sự cần phải đào tạo nhân sự và chọn nhân sự để là môn đệ Chúa cho thời nay. Lúc này, Hội Thánh Chúa tại Việt Nam, đang rất cần những môn đệ Chúa mang thành tích về cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Chúa. Lúc này, Hội Thánh Chúa tại Việt Nam, đang rất trân trọng những môn đệ Chúa mang thương tích của thánh giá Chúa trên mình. Để được như vậy, thiết tưởng các môn đệ Chúa cần đón nhận Chúa Phục Sinh vào lòng mình và cần sống mật thiết với Người. Tôi vui mừng tin tưởng Chúa Phục sinh đang và sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho Hội Thánh của Người tại Việt Nam yêu dấu của tôi. Lạy Chúa Phục Sinh, xin thương cứu chúng con. Long Xuyên, ngày 01 tháng 4 năm 2013
Đức Giáo Hoàng Phanxicô xuất hiện như một dấu chỉ của thời đại. Thời đại hôm nay đang quan tâm đến Ngài một cách đặc biệt. Đặc điểm nơi Ngài được thế giới để ý hơn cả là tinh thần nghèo khó, khiêm nhường và yêu thương kẻ nghèo. Với đặc điểm đó Chúa dùng Đức Thánh Cha Phanxicô như một dấu chỉ. Dấu chỉ này vạch ra một hướng, mà Chúa sẽ thanh luyện Hội Thánh. 2. Cuộc thanh luyện hôm nay mới chỉ bắt đầu một giai đoạn mới. Sẽ tới nhiều giai đoạn khác đôi khi gay gắt. Những giai đoạn gay gắt đó sẽ xảy ra nhiều biến cố bất ngờ gây đau đớn bàng hoàng. Để hiểu rõ hơn về những thanh luyện sắp tới, tôi xin được phép phân tích Hội Thánh hiện nay một cách vắn tắt. 3. Có nơi Hội Thánh như tập trung vào giáo sĩ. Có thể nói Hội Thánh là hàng giáo sĩ. Hàng giáo sĩ được đề cao một cách quá đáng. Với chức tước, địa vị, quyền bính, lợi lộc tinh thần và vật chất, hàng giáo sĩ như nắm tất cả mọi quyền, mọi danh dự đều như quy về hàng giáo sĩ, mọi sự thánh thiện đều như được dành riêng cho hàng giáo sĩ, mọi vất vả của cộng đoàn đều như để bảo vệ và phát triển hàng giáo sĩ. Thực sự, chức thánh là một món quà quý giá Chúa tặng cho Hội Thánh. Hàng giáo sĩ thực sự là một nhân tố cần thiết cho Hội Thánh. Nhưng không vì thế mà hàng giáo sĩ được miễn trừ khỏi những tác động của Satan, thế gian và xác thịt. Rất nhiều khi, tác động xấu cũng đến từ phía giáo dân. Nhiều giáo dân cũng đã muốn giáo sĩ của mình phải sống quyền cao chức cả như ngoài đời hay hơn ngoài đời. Coi đó là để sáng danh Hội Thánh. Họ nghĩ thế do não trạng cạnh tranh quyền lực giữa đạo và đời. Do vậy, mà sự quá đề cao hàng giáo sĩ theo hướng tục hoá đã xảy ra dần dần, trở thành nguy hiểm cho Tin Mừng và cho chính Hội Thánh. Đến lúc Hội Thánh cần được thanh luyện về mặt đó một cách thận trọng nhưng hữu hiệu. 4. Có nơi Hội Thánh nổi về mặt tôn giáo, mà tôn giáo lại là tổ chức cơ chế. Có thể nói Hội Thánh là cơ chế tôn giáo. Cơ chế tôn giáo là đất đai, nhà cửa, của cải, các ban bệ, các hội đoàn, các phong trào, các luật lệ riêng của từng giáo phận, của từng giáo xứ, của từng giáo họ, cửa từng nhóm, của từng khu. Hội Thánh cần cơ chế. Nhưng cơ chế kiểu đó trở nên nặng nề và dễ bị thu thẹp, trái với ý muốn của Chúa Giêsu. Người muốn Hội Thánh mở ra về một Nước Thiên Chúa rộng bao la hiện lên như một Nước tình yêu, ân sủng và bình an. Chứ Hội Thánh không được phép cản trở Nước Thiên Chúa, bằng cách quá lo phát triển một thứ cơ chế riêng. 5. Có nơi Hội Thánh nổi về mặt đức tin. Có thể nói Hội Thánh là cộng đoàn đức tin. Cộng đoàn ấy tin mọi điều trong kinh Tin Kính, mọi điều trong Kinh Thánh, mọi điều Hội Thánh dạy tin. Nhưng rất nhiều khi, họ tin các điều đó như chấp nhận một lý thuyết, chứ không phải tin là gặp gỡ thân mật với Chúa, đang khi thực sự gặp gỡ thân mật với Chúa mới là căn bản của đức tin. Hơn nữa, tin là một chuyện. Còn thực hành điều mình tin lại là chuyện khác. Tin mà không thực hành hiện nay đang khá phổ biến. 6. Có nơi Hội Thánh nổi về mặt yêu thương. Có thể nói Hội Thánh là cộng đoàn bác ái. Cộng đoàn ấy để ý đến bác ái, làm việc từ thiện. Nhưng rất nhiều khi, họ không yêu thương như Chúa đã yêu thương. Thành thử, yêu thương mà vẫn loại trừ. Miệng thì tuyên xưng: Yêu thương mọi người mà chẳng trừ ai, nhưng trên thực tế, lại trừ hết người nọ đến người kia. Yêu thương hiện nay đang sa sút một cách đau lòng ở nhiều nơi, ngay trong nội bộ những người môn đệ Chúa. 7. Có nơi Hội Thánh nổi về về mặt tám mối phúc. Có thể nói Hội Thánh là cộng đoàn nghèo khó và khiêm nhường. Cộng đoàn ấy chủ trương sống nghèo khó, khiêm nhường. Nhưng rất nhiều khi lại quá để ý đến hình thức, để rồi lúc phải đụng chạm đến thử thách, thì mới lộ ra thực chất lại quá xa khó nghèo và khiêm nhường của Chúa Giêsu. Đến nỗi, dám đấu tranh để khẳng định mình là khiêm nhường và khó nghèo hơn kẻ khác. 8. Trên đây là sơ lược các hình ảnh thực tế về Hội Thánh: Hội Thánh là hàng giáo sĩ. Hội Thánh là cơ chế tôn giáo. Hội Thánh là cộng đoàn đức tin. Hội Thánh là cộng đoàn bác ái. Hội Thánh là cộng đoàn nghèo khó, khiêm nhường theo tám mối phúc. Tại Việt Nam, Hội Thánh có đủ 5 hình ảnh đó. Mỗi nơi mang một hình ảnh riêng, với nét nổi bật của mình. Nhưng phải khiêm tốn nhận rằng: Nơi nào tốt xấu cũng chen lẫn nhau. Điều đó không lạ. Nên phải chấp nhận thanh luyện. 9. Thanh luyện sẽ được thực hiện do gương sáng, lời khuyên và các phong trào đạo đức. Nhưng thường là không đủ. Có thể sẽ xảy đến những biến cố bắt buộc ta phải bỏ những cái ta không thể tình nguyện bỏ, để thôi thúc ta đón nhận chỉ ý Chúa mà thôi. 10. Nhưng tôi chắc chắn điều này là: Thanh luyện dù do gương sáng và lời khuyên răn, dù sẽ kèm theo biến cố gây nên mất mát và đớn đau, thì luôn phải có sự cộng tác tự do của chúng ta. Sự cộng tác ấy gồm mấy điều sau đây: Điều thứ nhất là chúng ta phải nhìn nhận việc Chúa thanh luyện chúng ta và Hội Thánh chúng ta là điều cần thiết và là một hồng ân. Bí tích Giải tội là một nguồn thanh luyện cao quý. Điều thứ hai là chúng ta xin vâng với tâm hồn phó thác khiêm cung. Chúa thanh luyện ta cách nào, lúc nào, thì xin vâng. Chúa muốn ta từ bỏ những gì cũ và phải có những gì mới, thì ta đều xin vâng. Thanh luyện nào cũng cần được đón nhận với nhiều yêu thương. Nhưng xin vâng với rất nhiều yêu thương là chuyện không dễ. Bởi vì những lúc bị thanh luyện, nhiều khi chúng ta cảm thấy mình rất bần cùng, hèn hạ, trong một bầu khí âm u sợ hãi tư bề. Nên xin vâng với rất nhiều yêu thương thường là việc của một đức tin trần trụi, chỉ nhờ ơn Chúa mà thôi. Điều thứ ba là chúng ta sẽ không lấy làm lạ, nếu chúng ta thấy cản trở đáng ngại nhất trong chương trình Chúa thanh luyện ta, lại xuất hiện từ chính nội bộ Hội Thánh, và có thể là từ chính bản thân ta. Sự không lấy làm lạ nhiều lúc sẽ kèm theo những đau đớn bàng hoàng, khi nhận thấy sức mạnh của ác thần là kinh khủng ngay trong Hội Thánh. Phải rất khiêm nhường, để chấp nhận sự thật. Điều thứ bốn là chúng ta luôn phải vững tin vào quyền năng của Chúa. Rất nhiều cám dỗ xúi chúng ta nản lòng. Nhưng hãy tin rằng: Chúa Thánh Thần sẽ dẫn Hội Thánh của Chúa đến một tình trạng rực rỡ. Hội Thánh được thanh luyện sẽ có những sáng kiến tốt đẹp cho xã hội, đồng bào và Quê Hương chúng ta. Hội Thánh được thanh luyện đôi khi coi như bị thua, nhưng Chúa thắng, đưa nhiều người về Cõi Phúc. Thế là thua mà thắng. 11. Tới đây, tôi nhớ về Mẹ Maria trong ngày Truyền Tin. Năm nay, lễ Truyền Tin được dời vào ngày 8 tháng 4 năm 2013. Mẹ Maria đã cộng tác với Chúa bằng lời “Xin vâng”. “Xin vâng” của Mẹ được thực hiện từng ngày, từng giờ, từng phút, bằng những đón nhận và những cho đi luôn hợp thánh ý Chúa. Được như vậy, là vỉ Mẹ luôn để Chúa Thánh Thần biến đổi Mẹ, để Mẹ nên đền thờ sống động có Chúa ngự bên trong, để Mẹ âm thầm thông phần vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, và để Mẹ cùng với Chúa Giêsu được gần gũi và chia sẻ thân phận những người nghèo khó khổ đau. Xin Mẹ thương dắt dìu con trên con đường Chúa thanh luyện con và Hội Thánh của con. Con rất yếu đuối. Con vui sướng được phó thác nơi Mẹ. Mẹ là Mẹ yêu dấu của con. Long Xuyên, ngày 27 tháng 4 năm 2013
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại nhà nguyện nhỏ bé Toà Giám Mục Long Xuyên, tôi đã được thụ phong Giám mục, theo sắc chỉ của Toà Thánh. Thánh lễ Phong Chức được tổ chức rất đơn sơ, chỉ với vài chục người tham dự. Bầu khi thiêng liêng rất sốt sắng, tập trung vào cầu nguyện, sám hối và tin vào Chúa một cách chân thành sống động như chưa từng có. Với lễ thụ phong đơn sơ ấy, và với hoàn cảnh đặc biệt ấy, Chúa đã nhắn nhủ tôi một điều. Điều nhắn nhủ ấy đến từ chính Chúa, như một lời tâm huyết, tràn sâu vào lòng tôi những trăn trở và thao thức triền miên. Chúa bảo tôi: “Là mục tử lúc này, ưu tiên con hãy cảm thông với mọi người đau khổ, theo gương mục tử Giêsu”. 2. Từ giây phút ấy, tôi hiểu cảm thông với những người đau khổ là một cách cụ thể, rất cần thiết, để thực thi điều răn mới của Chúa: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 14,34). Đó sẽ là một hành trình dài, tôi sẽ chỉ thực hiện được nhờ ơn Chúa mà thôi. Thực vậy, nhờ ơn Chúa, tôi đã cảm nhận được một số nỗi đau ngay trong thánh lễ thụ phong Giám mục của tôi hôm đó. Tôi cảm nhận thấy mình rất bần cùng, qua một thánh lễ hết sức đơn sơ rất gợi ý về sự bần cùng. Tôi cảm nhận thấy mình rất khốn khổ, qua nhận thức mình quá bất xứng. Tôi cảm nhận thấy mình rất cô đơn, qua thấy trước mình sẽ phải một mình chịu trách nhiệm lấy hết mọi chọn lựa sau này của mình. Tôi cảm nhận thấy mình rất yếu đuối, qua kinh nghiệm về sức khoẻ cả phần xác lẫn phần hồn. 3. Với những nỗi đau được cảm nhận này, tôi tìm nương tựa ở Chúa và ở cộng đoàn. Tìm nương tựa ở Chúa là tôi gặp gỡ Chúa Giêsu, ở lại trong Người, và Người ở trong tôi. Nhờ vậy, tôi được Người chia sẻ cho sự sống của Người, tâm tình của Người, tình yêu của Người và cả thánh giá của Người. 4. Tìm nương tựa ở cộng đoàn là tôi trân trọng bất cứ nâng đỡ nào từ bất cứ ai. Thú thực là, khi tìm nương tựa ở cộng đoàn, nhiều khi tôi không có ý tìm nương tựa ở những người đau khổ. Nhưng chính Chúa lại đưa họ đến với tôi. Dần dần, tôi thấy nhiều người đau khổ đã nâng đỡ tôi rất tốt, đã dạy tôi nhiều điều hữu ích, đã giúp tôi nên người hơn, nhất là đã giúp tôi nên giống Chúa Giêsu hơn. 5. Được gần gũi những người đau khổ, tôi hiểu đau khổ là quê hương chung của mọi người, đau khổ là trường đào tạo con người, đau khổ đòi một nền văn hoá của cảm thông, đau khổ kêu gọi một mục vụ của lòng thương xót. Đau khổ như biển mênh mông, do nhiều nguyên do. Bệnh tật, nghèo túng, thiếu khả năng, thiếu trình độ, thiếu may mắn, thiếu tình yêu, mất công ăn việc làm, mất người thân, mất điểm tựa, mất danh dự, mất phương hướng, mất niềm tin, nhất là bị tội lỗi khống chế, đi vào bế tắc, thật vọng. Và còn biết bao thứ đau khổ không tên, không chân dung. Nỗi đau như trăm ngàn dòng chảy mồ hôi, nước mắt và máu nghẹn ngào. Nỗi đau nào cũng là một tiếng kêu cầu cứu. Tôi đáp lại, trước hết bằng sự cùng đau với họ. Nỗi đau của họ như xâm nhập vào tôi. Tôi đau nỗi đau của họ. Nỗi đau ấy cảm thấy được trong thân xác, trong tâm hồn, nhất là trong trái tim tôi. Tôi thấy, nếu tôi ở trong hoàn cảnh của họ, tôi cũng sẽ bị khổ như họ. Tôi nhớ lại những lời Kinh Thánh về người mục tử biết cảm thông. Thư gởi Do Thái quả quyết: Người mục tử biết cảm thông, khi chính ngài cũng cảm thấy mình yếu đuối (x. Dt 4,14;5,1-3). 6. Thực sự, tôi cảm thấy tôi rất yếu đuối, không kém những ai yếu đuối nhất, nên tôi rất cảm thông. Nhìn nhận mình yếu đuối là yếu tố quan trọng, để biết cảm thông với những người yếu đuối. Cảm nhận đó thúc đẩy tôi chạy lại với Chúa, xin Chúa thương cứu tôi và cứu họ. Họ và tôi cũng trong thân phận chung của kẻ yếu đuối khổ đau khốn cùng. Tôi đến với Chúa, chỉ với danh nghĩa một người tội lỗi, một kẻ bần cùng. Tôi đến với Chúa như thế hầu như thường ngày, một cách đơn sơ và bình an. Nhưng không thiếu trường hợp, tôi đến với Chúa, với tâm trạng sợ hãi, xao xuyến, cô đơn khủng khiếp trong tâm hồn. 7. Lúc đó, tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Cây Dầu. Người đã sợ hãi, và nài xin Chúa Cha, nếu có thể, thì thương cứu Người khỏi chén đáng sắp phải uống (x. Lc 22,41-44). Còn tôi, trong sợ hãi cô đơn, tôi nói với Chúa rằng: Chúa đã uống chén đắng, để đền tội thay cho con và để cứu con. Con tin như vậy. Nên xin thương cứu con. 8. Kết quả là Chúa đã cứu tôi, và với tôi, Chúa cũng đã cứu nhiều người đau khổ như tôi. Chúa cứu chúng tôi, không vì công trạng gì của chúng tôi, nhưng vì công phúc cuộc tử nạn thánh giá, mà Người đã thực hiện, để cứu chúng tôi. Chúa cứu tôi khỏi bao sự dữ, Chúa cứu tôi khỏi tội lỗi. Chúa cứu tôi khỏi cái tôi cũ thích tìm theo ý riêng, để đưa tôi vào cái tôi mới chỉ tìm thực thi ý Chúa mà thôi. Chúa cứu tôi khỏi lạc đường, dẫn tôi vào chính lộ an toàn cho phần rỗi đời đời. Khi được cứu, tôi vẫn xin Chúa giúp tôi đừng bao giờ lạm dụng lòng thương xót Chúa. 9. Khi Chúa cứu tôi, Chúa đã dùng Hội Thánh Chúa. Hội Thánh, mà Chúa dùng để cứu tôi, là một Hội Thánh cởi mở bao dung, hướng về Nước Trời. Hội Thánh này gồm tất cả những ai vâng theo ý Chúa mà biết yêu thương nhau, biết cảm thông với những người đau khổ. Họ làm nên một Hội Thánh cảm thông, mà Chúa Giêsu khen thưởng ngày phán xét chung (x. Mt 25,31-46). 10. Họ cảm thông, cứu giúp những người đau khổ, không chỉ bàng của cải vật chất, nhưng cũng còn bằng sức thiêng họ gởi tới. Bởi vì bao lần họ đâu có của cải vật chất. Sức thiêng họ gởi tới là lời cầu nguyện, nhất là sự họ vui nhận trở thành hạt lúa gieo vào lòng đất, như Chúa Giêsu xưa (x. Ga 12,24). Như hạt lúa gieo vào lòng đất, bị thối đi, họ sẽ là của lễ. Khiêm nhường trong yêu thương. Khiêm nhường trong phục vụ. Khiêm nhường trong hy sinh. Đó là sức thiêng có sức góp phần cứu những người đau khổ. Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ, sẽ thu lượm những đóng góp đó, dù âm thầm nhỏ bé, để biến thành sức thiêng, kết hợp với thánh giá của Người, mà cứu được rất nhiều người đau khổ. 11. Giờ đây, nhìn lại quãng đường từ 30 tháng 4 năm 1975 đến hôm nay, tôi thấy quãng đường ấy là một hành trình, mà Chúa dắt tôi đi. Tôi hân hoan cảm tạ Chúa, vì suốt chuyến đi ấy, Chúa đã đồng hành với tôi, để cứu tôi, và cho tôi chứng kiến sự Chúa đã cứu biết bao người khác. Họ và tôi đều đang nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Người đến không để kết án, nhưng để giải cứu những kẻ tin Người cho khỏi mọi thứ sự ác, nhất là khỏi tội lỗi. Người cứu không phải bằng sức mạnh quyền lực bất cứ dưới hình thức nào, mà chỉ bằng sức mạnh của thánh giá là tình yêu khiêm nhường tự hạ đầy thương xót. Chúa Giêsu vác thánh giá và chết trên thánh giá vì yêu thương, chính là Đấng tôi tin. Do đó vinh dự của tôi cũng chính là thánh giá Chúa Giêsu. 12. Những gì Chúa đã làm cho tôi đều là những ơn Chúa ban cho một cách nhưng không. Tôi lãnh nhận rất nhiều mà cho đi thì quá ít. Vì thế, trong tâm tình cảm tạ của tôi, vẫn phải có tâm tình sám hối vì bao thiếu sót lỗi lầm. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa vì nền văn hoá của cảm thông cũng như mục vụ của lòng thương xót đang được phát triển. Hiện tại đầy phức tạp. Tương lai đầy thách đố và có thể xảy ra những bất ngờ. Dầu sao, tôi vẫn tin: Chúa sẽ cứu. Kẻ Chúa cứu đầu tiên sẽ là những ai biết cảm thông với những người đau khổ bằng tất cả tấm lòng yêu thương khiêm nhường. Đúng như lời Chúa đã hứa: “Phúc cho ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Tôi tin tưởng chắc chắn rất nhiều người trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi sẽ được Chúa xót thương cứu độ, do lời hứa ấy của Chúa chúng ta. Họ sẽ được Chúa đưa họ vào Cõi Phúc trường sinh đời đời. Tôi xin cảm tạ và ngợi khen Chúa. Tôi xin cảm tạ và gắn bó với Hội Thánh. Tôi xin cảm tạ và yêu mến Quê Hương. Tôi xin cảm tạ mọi bạn bè gần xa đã thương nâng đỡ tôi. Tôi xin thân ái gởi tới mọi người lời cầu chúc bình an yêu thương trong Chúa. Long Xuyên, ngày 22 tháng 4 năm 2013.
Tháng Năm là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Nhân tiện tháng hoa này, tôi xin được phép chia sẻ việc tôi dâng hoa lên Mẹ. Chính chia sẻ này cũng được coi là một đoá hoa bé nhỏ dâng lên Mẹ hiền. 2. Hoa, mà tôi hay dâng lên Mẹ trước tiên là niềm tin của tôi đối với Mẹ. Đặc biệt là tôi tin Mẹ rất mến Chúa và rất thương những người khốn khổ. Niềm tin trên đây của tôi khởi đi từ kinh nghiệm về chính bản thân tôi. Chính tôi là kẻ tội lỗi, khốn khổ. Thế mà đã được Mẹ thương và cứu giúp. Tôi không nhớ tôi đã gặp Mẹ lần đầu tiên ở đâu và vào tuổi nào. Nhưng chắc chắn là khi tôi còn rất nhỏ. Có thể là ngay khi tôi còn là bào thai trong lòng mẹ tôi. Tôi rất vui sướng, khi nào tôi gọi Mẹ, thì tôi thấy Mẹ đã ở bên tôi trước đó lâu rồi. 3. Những ơn Mẹ ban cho tôi, thì không sao kể xiết. Ở đây, chỉ xin nói vắn tắt về một số hoa trái mà Mẹ đã giúp nở sinh ra từ cây đức tin Chúa đã trồng trong tôi. Đã từ rất lâu, đức tin nơi tôi không chỉ là sự chấp nhạn một giáo lý, mà chủ yếu là một sự gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ thân mật, riêng tư với Chúa. Thí dụ, Chúa Giêsu dạy: “Anh em cứ xin, thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cưa thì sẽ mở cho... Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con mình những của tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,7-11). Lời Chúa trên đây, khi được đón nhận và gẫm suy bên Mẹ, đã đưa tôi đến với Chúa. Tôi không dừng lại ở những lời Chúa phán, mà đến gặp chính Chúa. Cùng với Mẹ, tôi nhận ra Chúa là Cha của tôi, tôi nhìn thấy dung nhan Chúa chỉ là Tình yêu. Một tình yêu thương xót, sẵn sàng ban những của tốt lành cho những ai kêu cầu Người. 4. Sự gặp gỡ Chúa và nhận ra Chúa là tình yêu như thế chính là một Tin Mừng. Tôi đã cùng với Mẹ cảm tạ và ca ngợi Chúa vì Tin Mừng cao quý ấy. Mẹ cho tôi nhận biết Tin Mừng đó là một ơn trọng đại, Chúa ban cho tôi nhưng không. Chứ không do công trạng gì của tôi. Bởi vì tôi chỉ là kẻ tội lỗi, khốn khổ. Nhận được Tin Mừng cao quý đó, tôi hãy đền đáp lại phần nào, bằng cách chia sẻ Tin Mừng đó cho những người xung quanh, nhất là cho những ai tội lỗi, khốn khổ. 5. Chia sẻ Tin Mừng đó cách nào, thì tôi lại nhờ đến Mẹ. Mẹ dạy tôi là hãy yêu thương họ. Yêu thương như Chúa đã yêu thương. Yêu thương như thánh Phaolô viết về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7). 6. Một thoáng nhìn hành trình đức tin của tôi bên Mẹ cho thấy: Hoa trái quan trọng nhất của đức tin là những liên đới mến thương. Liên đới với Chúa là gặp gỡ thân mật với Người. Liên đới với những người khác là yêu thương họ với mọi hương sắc của tình yêu Chúa. Đức tin như thế đã trở nên một vườn hoa đức ái có đủ mọi hương sắc, như một lối đi đẹp đẽ dẫn vào Nước Trời. Vườn hoa đó trong tôi là do Mẹ. Tôi hái những bông của vườn hoa ấy để dâng lên Mẹ. Khi dâng lên Mẹ những bông hoa ấy, tôi cảm tạ Mẹ, và xin Mẹ cảm tạ Chúa thay tôi, vì ơn đức tin đã ban cho tôi phong phú là như thế. Tôi cũng cảm tạ Chúa, vì Chúa cũng đã và đang ban cho nhiều người được ơn đức tin còn phong phú hơn thế rất nhiều. 7. Cảm tạ của tôi đi đôi với sám hối. Tôi sám hối, vì những thiếu sót lỗi lầm trong việc đón nhận ơn đức tin, trong sự bồi dưỡng ơn đức tin, và trong sự làm chứng cho ơn đức tin. Cảm tạ và sám hối của tôi cũng đi kèm với những cầu xin tha thiết thấm đầy hy vọng. Tôi cầu xin tha thiết cho tất cả những kẻ tội lỗi, khốn khổ được đón nhận ơn đức tin. Mẹ bảo tôi: Nhiều người sẽ đón nhận được ơn đức tin, nếu Hội Thánh có thêm những khuôn mặt dễ thương như Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đơn sơ, khó nghèo, khiêm tốn, hoà mình, yêu thương. Gợi ý trên đây là một khuyến cáo. 8. Lời Mẹ khuyến cáo trên đây cho tôi thấy: Trong Hội Thánh hiện nay, những người được như Đức Phanxicô còn là số ít, có thể là quá ít. Biết đâu chính tôi vẫn chưa được kể vào thiểu số đó. Nhận thức trên đây thúc giục tôi phải phấn đấu nhiều hơn nữa trên đường sống đức tin. Thực vậy, sống đức tin là một hành trình chiến đấu cam go. Làm sao để nơi tôi, tâm tình luôn hợp với lời nói, lời nói luôn hợp với việc làm, mọi việc làm đều hợp với nhau, trong một sự sống thực sự thuộc về Chúa, tất cả đều toả ra dung mạo của Chúa Giêsu với một vài nét nào đó. Được như vậy, là nhờ tin vào cuộc chiến thắng của tình yêu được thực hiện trên thánh giá. Tin như thế sẽ không tránh được khổ đau trên thực tế cuộc đời. Do vậy, tôi cũng xin dâng lên Mẹ những khổ đau tôi chịu vì Chúa. Đó là những bông hoa tình yêu tha thiết nhất. Xin Mẹ thương nhận. Như vậy, những bông hoa tôi dâng lên Mẹ chính là những nỗi lòng. Niềm tin, cảm tạ, yêu thương, sám hối, cầu nguyện, hy vọng và khổ đau, phấn đấu. Có thể có những nỗi lòng rối ren tôi quên, nhưng Mẹ lại nhớ. Mẹ nhớ, để mà thương đứa con yếu đuối luôn tìm về Mẹ. Long Xuyên, ngày 4 tháng 5 năm 2013.
Càng về già, tôi càng ít muốn nói câu: “Chúa sai con đi”. Nhưng tôi lại thích nói câu: “Chúa dắt dìu con”. Tuy cả hai câu đều đúng. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy: Nhiều lần Chúa sai tôi đi, nhưng tôi đã đi sai, vì tôi không để Chúa dắt dìu. Vì thế, được Chúa dắt dìu, tôi cảm thấy mình được an toàn hơn là được Chúa sai đi. Thực vậy, nếu không được Chúa dắt dìu, chắc chắn tôi sẽ hư hỏng. Những gì xấu xa bị kết án trong Kinh Thánh, dễ gì tôi không mắc phải, nếu tôi không được Chúa dắt dìu. Những gì tồi tệ xảy ra trong lịch sử và thời sự hôm nay, chắc gì tôi đã tránh nổi, nếu tôi không được Chúa dắt dìu. 2. Chúa dắt dìu tôi, khởi đi bằng nhiều cách, như qua một gương sáng, một lời kinh, một lễ nghi, một biến cố. Nhưng điểm sau cùng Chúa dắt dìu tôi, vẫn là gặp được chính Chúa Giêsu. Được gặp Chúa Giêsu, tôi nhận ra Người không là một giáo lý, mà là một Đấng thiêng liêng sống động gần gũi. Người thương tôi. Người muốn cứu tôi. Người tha thiết muốn đổ lửa tình yêu của Người vào tôi, để biến đổi tôi nên người con của Cha trên trời. Nói một cách bình dân, tôi thấy Người tha thiết muốn tôi đón nhận Người, để tôi được chắc chắn cho phần rỗi đời đời, là mục đích đời tôi. 3. Chúa Giêsu là một Đấng yêu thương như thế, nhưng Người không áp đặt. Người để tôi tự do. Với sự tự do Chúa ban, tôi nài xin Chúa giúp tôi đón nhận Chúa. Chúa giúp tôi bằng cách thêm đức tin cho tôi. Với ơn của Người, tôi tin Người là sự thực, là đường đi, là sự sống và là sự sống lại. Tôi tin bằng chính đức tin mà Người hỗ trợ cho tôi. Tôi cảm thấy lòi Chúa phán xưa là rất đúng: “Không có Cha, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Chúa dắt dìu tôi là như thế đấy. 4. Được đón nhận Chúa Giêsu vào trong lòng, tôi ở lại trong Người và Người ở lại trong tôi, như lời Người căn dặn (x. Ga 15,4). Nhờ vậy, tôi được Người thôi thúc, hãy biết đón nhận muôn vàn ơn khác Chúa ban cho. Người thôi thúc tôi đón nhận, đồng thời Người cũng cho tôi nhìn thấy vô số trường hợp ơn Chúa đã không được người ta đón nhận, và kết quả là rất bi đát. 5. Tôi nhớ lại dụ ngôn “khách được mời xin kiếu” được kể trong Phúc Âm thánh Luca (x. Lc 14,15-20). Nước Trời ví như một bữa tiệc lớn. Chủ nhà mời nhiều người. Nhưng vô số người đã từ chối, người thì vịn lẽ mới mua một thửa đất, cần đi thăm, người thì vịn lẽ mới tậu năm cặp bò, cần đi thử, người thì vịn lẽ mới cưới vợ, không thể đến được. Kết quả là tất cả những ai từ chối lời mời, đều bị Chủ loại bỏ. 6. Tôi cũng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã than trách thành Giêrusalem: “Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37). Kết quả là họ không còn được gặp Người nữa. 7. Với những cảnh báo trên đây, Chúa đã dắt dìu tôi. Như vậy, dắt dìu của Chúa gồm nhiều cách khác nhau. Dù bằng cách nào, dắt dìu của Chúa vẫn tôn trọng sự tự do của tôi. Chính vì thế, mà tôi thấy tôi rất cần phải khiêm nhường, luôn luôn khiêm nhường, khiêm nhường sâu thẳm, để tránh lạm dụng tự do. Bởi vì, cũng có lúc với sự tự do có sẵn, tôi vẫn có thể không chịu đón nhận thánh ý Chúa. Nhưng nếu có khiêm nhường, tôi sẽ biết hối cải, mà trở về. 8. Kinh nghiệm cho thấy, với sự tự do, tôi có thể không đón nhận thánh ý Chúa trong mấy trường hợp sau đây. Trường hợp thứ nhất là sự tự mãn đạo đức. Tôi dễ tự hào với những thiên kiến cố định, những khuôn khổ đã quen, những chủ trương có sẵn, những luật lệ cứng nhắc, để từ chối sự mời gọi của Chúa, khi mời gọi này không hợp với tôi. Trường hợp thứ hai là sự thất vọng. Với một cái nhìn bi quan về sự tồi tệ của chính mình, tôi có thể rơi vào cảnh tối tăm, cho rằng Chúa không còn muốn thương tôi, nên tôi đóng cửa lòng mình lại, không dám tin vào lòng thương xót Chúa. Thái độ thất vọng như thế cũng là thái độ từ chối Chúa. Trường hợp thứ ba là mất phương hướng. Có lúc ngoại cảnh rất là phức tạp, đi về phía nào tôi cũng thấy cái chết đợi chờ. Trong hoàn cảnh đó, tôi có thể để mình buông xuôi, tới đâu thì tới. Thái độ buông xuôi như thế cũng là một sự từ chối quyền năng của lòng thương xót Chúa. Khi tôi rơi vào các tình trạng trên đây, Chúa đã dắt dìu tôi, bằng cách giúp tôi phấn đấu thoát ra khỏi cái tôi hẹp hòi để tin vào tình yêu vô biên của Chúa. Được như vậy, tôi được Chúa giúp cởi gỡ mình ra khỏi mọi thành kiến, trở thành bé nhỏ, phó thác mình cho Chúa giàu lòng thương xót. Sự dắt dìu của Chúa như thế luôn kết thúc ở sự tôi bám chặt vào Chúa một cách tuyệt đối và vững bền. 9. Sẽ là một thiếu sót lớn, nếu tôi không nói đến sự Chúa dắt dìu tôi trong những hoàn cảnh bi đát nhất, đó là khi tôi phải vác thánh giá trên con đường khổ nạn, để được cùng chịu đóng đinh mình bên Chúa trên núi Calvariô. Trong những hoàn cảnh đớn đau nhất, tôi được Chúa dắt dìu, bằng cách Chúa giúp tôi hiểu những đau đớn tôi chịu sẽ có giá trị như một của lễ, để cứu các linh hồn, để nâng đỡ các con cái Chúa, để góp phần đem lại bình an cho Quê Hương và Hội Thánh, và cũng để biết khám phá thấy những tấm lòng tốt như ông Simon xưa đã vác thánh giá đỡ Chúa Giêsu. Đặc biệt là Chúa giúp tôi xác tín: Sau thánh giá là Phục sinh. 10. Một thoáng nhìn trên đây cho thấy sự Chúa dắt dìu, dù với hình thức nào, đều luôn quy chiếu vào Lời Chúa và gương Chúa, đều mở rộng về phía con người, đặc biệt là về phía những người nghèo khổ, thất vọng, tội lỗi, để sau cùng được trở về với Cha trên trời. Dắt dìu của Chúa là đi vào những cụ thể của đời sống một cách tế nhị. Dắt dìu của Chúa được thực hiện thường xuyên, mọi nơi mọi lúc, dù tôi thức dù tôi ngủ. Do vậy, tôi nhận mình bé nhỏ yếu đuối, như con thơ trong tay mẹ yêu dấu. Tôi nói lên điều đó, để mọi người dù bé nhỏ và yếu đuối đến đâu, vẫn có thể được Chúa dắt dìu, còn hơn tôi rất nhiều. Lạy Chúa, đến muôn đời con ca ngợi những sự lạ lùng Chúa đã làm cho con là kẻ tội lỗi mọn hèn. Long Xuyên, ngày 9 tháng 5 năm 2013.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy nhiều khi số phận khốn khổ đời đời được định đoạt từ những thái độ vô tâm coi như bình thường. Đáng suy nghĩ nhất là trường hợp “ông nhà giàu” kể trong Phúc Âm thánh Luca. “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó, tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham. Ông nhà giàu cũng chết và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông nhà giàu ngước mắt lên thấy tổ phụ Apraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Ông Araham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: Suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi, còn Ladarô bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con, thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó qua bên chúng ta cũng không được” (Lc 16,19-26). 2. Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng. Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó. Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời. Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận. 3. Dụ ngôn trên đây khiến tôi thực sự lo ngại cho một số trường hợp giàu nghèo đang xảy ra tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Hưởng thụ một cách quá vật chất như ông phú hộ mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình hằng ngày thì không có. Nhưng hưởng thụ một cách tinh vi dựa vào những phát triển vật chất khoác áo đạo đức, thì có. Hưởng thụ kiểu đó, nếu lại quên cứu khổ những người nghèo túng khổ đau bên cạnh mình, thì thiết tưởng sẽ khó chối được mình cũng giống phần nào người phú hộ vô phúc đó. 4. Chỉ vài bước thôi, thế mà nhiều khi chúng ta không muốn bước ra khỏi ranh giới cộng đoàn tôn giáo chúng ta, để tìm đến những người nghèo túng khổ đau ngay cạnh nhà chúng ta. Người nghèo hiện nay rất đông. Họ thuộc nhiều thứ nghèo. Họ là địa chỉ, mà Chúa muốn chúng ta tới. Nhưng chúng ta không chịu tới, tuy chỉ vài bước thôi. Lý do là vì chúng ta ích kỷ, trong tư thế chỉ muốn phát triển nội bộ, cố tình quên đi những liên đới với dân chúng xung quanh, nhất là với những người nghèo khổ kề bên. 5. Vượt qua được khoảng cách chỉ vài bước nhiều khi cũng là một thách đố quan trọng. Cũng may là thách đố quan trọng đó đang được nhiều người công giáo tại Việt Nam giải quyết tốt đẹp. Với đức tin dạt dào yêu thương, họ vượt qua khoảng cách vài bước rất khó khăn, để xây dựng những liên đới tốt với những người trong gia đình, với hàng xóm, với những người cùng cơ quan. Khoảng cách chỉ vài bước. Bước tâm lý, chứ không phải bước thân xác. Những bước tâm lý ấy cực kỳ là khó. Nhưng họ đã bước được khoảng cách vài bước cực kỳ khó khăn ấy. Nhờ ơn Chúa. Họ không phải là những nhà phú hộ. Nhưng là những người thường. Họ siêng năng cầu nguyện và sống phần nào chiêm niệm. Họ âm thầm, khiêm tốn, gắn bó với Hội Thánh, qua các vị hướng dẫn có ơn phân định. Chỉ vài bước thôi, họ thích sống bé nhỏ, và làm những việc bé nhỏ. Nhưng mỗi bước âm thầm của họ đều mang lửa và hy vọng. 6. Tuy nhiên, kinh nghiệm đạo đức cho thấy: Bất cứ điều gì tốt đều bị ác thần cản phá, cũng như bất cứ điều gì xấu đều được nó khuyến khích. Dụ ngôn người Samari tốt lành cho thấy sự thực đó. Chúa Giêsu nói: “Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia đường mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvai tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia đường mà đi” (Lc 10,30-32). Dụ ngôn cho thấy: Cũng chỉ vài bước thôi, thầy tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân. Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân. Và họ an tâm. Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt. 7. Với những gì về “chỉ vài bước” trên đây đang đặt ra cho tôi một vấn đề lương tâm: Nếu chỉ với vài bước thôi, tôi đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thế mà tôi không làm, thì liệu tôi có thể tránh được án phạt nặng nề Chúa nói trong Phúc Âm không? Nếu chỉ với vài bước thôi, một số cá nhân và tổ chức công giáo có thể giúp Hội Thánh Việt Nam trở thành một Hội Thánh sống nghèo, lo cho người nghèo, nhưng họ đã không chịu bước, thì trách nhiệm của họ trước Chúa sẽ ra sao? Họ không giúp Hội Thánh trở thành một Hội Thánh sống nghèo và lo cho người nghèo, là vì chính họ sống như một giai cấp giàu sang quyền lực một cách tự hào và khiêu khích, ngay giữa đám đông dân nghèo, lầm than, thiếu thốn. Tự hào và khiêu khích với não trạng thắng thế lại được cho là để làm sáng danh đạo Chúa. Đó là một vấn đề có thực rất cần được cảnh giác. Lạy Chúa, xin thương giúp con luôn biết mau lẹ thực hiện những bước cứu con người. Con xác tín đó chính là dấu chỉ tốt làm chứng cho đức tin tại Việt Nam hôm nay. Con cũng rất xác tín những bước thực sự cứu con người theo ý Chúa sẽ chỉ được thực hiện đúng là nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa. Lạy Chúa, xin bảo toàn con, vì con trông cậy ở Chúa.
Đã từ lâu, tôi ước mơ đi hành hương Đất Thánh. Nhưng tôi không có điều kiện để đi. Để bù lại, tôi rất muốn đi hành hương các đền thánh trong Nước. Nhưng sức khoẻ không cho phép. Tôi đành hành hương tại chỗ. Nghĩa là tôi cầu nguyện tại nhà nguyện kế bên. Thậm chí tôi cũng xin được cầu nguyện trên giường bệnh của tôi. 2. Nói thiệt là khi hành hương tại chỗ, tôi không theo một nghi thức nào cả. Thường là tôi gặp Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Gặp Người, tôi cúi chào Người, tôi thờ lạy Người, tôi nhìn Người, tôi phơi bày lòng tôi trước Người. 3. Lòng tôi thường chất chứa nhiều nỗi đau. Có những lần, nỗi đau rất là kinh khủng. Chúa không cản ngăn khi nghe tôi trình bày tâm tình sợ hãi trước những nỗi đau rùng rợn đó. Trái lại, Chúa âu yếm ủi an. Người cho tôi nhớ lại: Xưa, tại vườn Cây Dầy, chính Chúa cũng đã trải qua những cơn sợ hãi đầy tăm tối, khiến Người đã khẩn cầu Chúa Cha thương cứu Người, nếu có thể. 4. Chính lúc đó, Chúa Giêsu đã thực hiện sự khiêm nhường sâu thẳm. Khiêm nhường trước Chúa Cha, khiêm nhường trước tình hình thắng thế của sự ác, khiêm nhường trước mọi người đã, đang và sẽ có lúc rơi vào cảnh khổ đau gay gắt rùng rợn. 5. Chúa Giêsu đã tự hạ mình xuống, cam chịu những sợ hãi trước các khổ đau, đó là một cách Người gần gũi và chia sẻ với những người yếu đuối. Gần gũi và chia sẻ như thế là rất cụ thể, thiết thực, rất nhân bản. 6. Khi thấy Chúa Giêsu cũng đã sợ hãi như tôi, cũng đã vật vã như tôi trước cảnh khổ, tôi cảm nhận được rằng Người đang ở bên tôi, đang trong thân phận của tôi. Người không ở xa, không ở ngoài hoàn cảnh của tôi, để thương cảm từ xa, nhưng Người cùng sợ như tôi, cùng khổ với tôi. Sự khiêm nhường, đó là điều thứ nhất Chúa Giêsu dạy tôi, khi tôi đem những sợ hãi và đau đớn của tôi đến hành hương bên Người. 7. Điều thứ hai. Chúa Giêsu dạy tôi những lúc sợ hãi và đau khổ, là sự yêu thương. Chúa cho tôi nhớ lại cảnh Chúa sắp bị bắt trong vườn Cây Dầu. Người biết rõ ai phản bội Người, ai ghen ghét Người, ai chủ mưu loại trừ Người. Thế mà, trong giây phút chuẩn bị nộp mình, Người đã không tỏ lộ chút gì là kết án ai, căm thù ai, nguyền rủa ai. Người tự nguyện chịu cực hình đến chết, để đền tội thay cho nhân loại, và để cứu linh hồn chính những kẻ làm khổ Người. 8. Khi được Chúa Giêsu dạy về tình yêu của Người trong cuộc thương khó Người chịu, tôi nhìn thấy trái tim Người chỉ là thương xót, chỉ là thứ tha, chỉ là cứu độ. Khi cảm nhận được tình yêu Chúa Giêsu là như thế, tôi mới tỉnh thức gạt ra khỏi lòng tôi tất cả những gì là bực bội bất mãn buồn giận vốn lẩn quẩn trong các nỗi đau khổ tôi phải chịu. 9. Điều thứ ba, Chúa Giêsu dạy tôi, khi tôi đem nỗi khổ của tôi, để hành hương bên Người, đó là hãy nhìn lên thánh giá Chúa. Thực vậy, khi nhìn lên thánh giá Chúa, tôi thấy những đau khổ của tôi có một ý nghĩa. Ý nghĩa đó là tôi có khả năng cao quý, khả năng yêu mến Chúa, và yêu thương con người. Với khả năng này, tôi thấy tôi là con người đi trên con đường cởi mở. Cởi mở với Chúa bằng tình yêu. Cởi mở với mọi người cũng bằng tình yêu. Một tình yêu biết nuôi dưỡng bằng những việc phục vụ, cho đi và hy sinh cho kẻ khác. 10. Tới đây, tôi nhớ lại lời nguyện sau đây, mà người ta nói là của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Lạy Chúa, khi con đói, xin gởi đến cho con một người đang cần lương thực. Khi con khát, xin gởi đến con một người đang cần nước uống. Khi con rét lạnh, xin gởi đến con một người đang cần sưởi ấm. Khi con bị tổn thương, xin gởi đến con một người cần được an ủi. Khi thánh giá của con trở thành nặng, xin gởi đến con thánh giá một người cần được chia sẻ. Khi con nghèo túng, xin gởi đến con một người thiếu thốn. Khi con không có thời giờ, xin gởi đến con một người mà con có thể giúp đỡ ít là một lúc. Khi con bị hạ nhục, xin gởi đến con một người con cần ca ngợi. Khi con chán nản, xin gởi đến con một người con cần khích lệ. Khi con cần sự hiểu biết của những người khác, xin gởi đến con một người đang cần đến sự hiểu biết của con. Khi con cần người ta chăm sóc con, xin gởi đến con một người cần con chăm sóc. Khi con chỉ nghĩ đến con, xin quay các tư tưởng của con về phía người khác”. 11. Từ những lời nguyện trên đây, Chúa cho chúng ta khám phá thấy chúng ta có nhiều khả năng làm những việc lành. Khả năng đó là yêu thương người khác, nhờ ơn Chúa. Xin Chúa gởi đến cho con những người cần con giúp đỡ. Nghĩa là con sẽ giúp đỡ họ, như giúp đỡ Chúa, nhờ chính tình yêu thương xót của Chúa chia sẻ cho con. Tôi nhận thấy nhiều người sống như thế đã có sự bình an và hạnh phúc ngay giữa muôn vàn khổ đau. 12. Bình an và hạnh phúc nhất, mà Chúa ban cho họ, đó là họ không tạo nên kẻ thù trong họ. Trong lòng họ, chỉ có những người họ yêu thương. Được như vậy, chính là nhờ thánh giá Chúa. 13. Nhận thức ấy giúp họ cảm nhận thấy sự sai lầm trong lịch sử đạo, khi đã có những người nhân danh thánh giá Chúa, mà bắt bớ trả thù, săn đuổi tiêu diệt những kẻ họ cho là kẻ thù của đạo Chúa. 14. Với chút kinh nghiệm trên đây của hành hương tại chỗ, tôi hết lòng ca ngợi lòng thương xót Chúa đã cho tôi hiểu thánh giá của bất cứ ai đều có thể trở thành khiêm nhường, yêu thương và cứu độ, đem lại bình an và hạnh phúc. Tất nhiên thánh giá của họ cần tháp vào thánh giá của Chúa Giêsu, Đấng đang ở giữa chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa vì những chứng nhân của lòng thương xót Chúa đang hoạt động trên Đất Nước Việt Nam yêu dấu của con. Long Xuyên, ngày 31 tháng 5 năm 2013
Cuộc sống là một chuyến đi. Chuyến đi đời tôi đã khá dài. Trải qua 87 năm tuổi đời, trong đó có 58 năm tuổi giáo sĩ, chuyến đi cuộc sống của tôi đã được gặp nhiều chứng nhân của tình yêu thương xót Chúa. Có thể nói là qua họ, nhờ họ, tôi đã cảm nhận được là Chúa thương tôi, Chúa đến với tôi, Chúa ở bên tôi, Chúa cứu tôi. Họ làm chứng cho Chúa, rất ít bằng lời nói, nhưng chủ yếu là bằng thái độ và việc làm cụ thể. Như đối với tôi, họ quan tâm, họ ân cần, họ tiếp nhận, họ ủi an giúp đỡ, khi thấy tôi khốn khổ. 2. Bên họ, tôi cảm thấy một cái gì thiêng liêng. Rất nhiều khi, điều thiêng liêng ấy dẫn đưa tôi đến một Đấng linh thiêng. Tôi thấy Chúa ở trong họ. Những chứng nhân như thế thường là những người có điều kiện để cứu giúp tôi. Nhưng điều kiện quan trọng nhất là họ có cái tâm giàu lửa yêu thương. 3. Bên cạnh những chứng nhân loại đó, lại có những chứng nhân loại khác. Họ là những người nghèo khổ, tội lỗi, nhưng rất khiêm nhường, vững tin vào Chúa. Họ đến với tôi với thân phận khốn cùng. Họ đánh thức lương tâm tôi. Họ gợi ý cho tôi thấy tôi có khả năng cứu giúp họ. Tôi nhận thấy có một cái gì linh thiêng ở chính thái độ của họ. Dần dần điều linh thiêng ấy dẫn tôi đến với Đấng linh thiêng. Tôi tin Chúa ở trong họ. Chúa nói với tôi là: Bất cứ sự gì tốt lành tôi làm cho người nghèo khổ tội lỗi ấy đều được Chúa kể như là tôi làm cho chính Chúa. Như vậy, một cách nào đó, họ là chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Họ đến thúc giục tôi: Hãy mau mau cứu khổ cho người đau khổ, vì Chúa đang đợi chờ ở họ. Như vậy, những người đau khổ ấy đến với tôi đã mang theo một cái tâm đầy lửa hy vọng. 4. Những cái tâm mang lửa yêu thương, cũng như những cái tâm mang lửa hy vọng có chung điều này là: Họ để ý đến những việc cụ thể. Làm chứng cho Chúa bằng việc làm ân cần, mau mắn, vị tha. Rất xa kiểu bác ái lý thuyết, bác ái phong trào, bác ái khẩu hiệu. Cụ thể thường là những việc nhỏ, âm thầm, mà đặc tính là bớt đi những gì là vì mình, mà thêm mãi những gì là vì Chúa và vì tha nhân. 5. Kinh nghiệm chuyến đi đời tôi cho thấy: Những cái tâm đầy lửa yêu thương và lửa hy vọng của các chứng nhân lòng thương xót Chúa đã là những quán trọ tình thương cần thiết cho nhiều hoàn cảnh của bất cứ ai. Quán trọ dù chỉ cho một chốc lát. Đôi khi, họ đã cho tôi mượn chính trái tim họ, để tôi đi qua như một con đường tắt, hầu tới được một quãng đời cần thiết, để về với Chúa. 6. Xưa, trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã được một thiên thần Chúa Cha sai đến, để an ủi Người (x. Lc 22,43). Nay, trong chuyến đi cuộc đời, gặp quãng tối tăm đau khổ, tôi cũng được Chúa sai những người nào đó, để ủi an tôi. Họ là nhân chứng của lòng thương xót Chúa. Tôi xin cảm tạ Chúa hết lòng. 7. Xưa, trên đường vác thánh giá lên Núi Sọ, Chúa Giêsu đã được ông Simon đưa vai ra vác đỡ thánh giá cho Người (x. Mt 27,32). Nay, trong chuyến đi cuộc đời, cũng có những chặng đường vác thánh giá, tôi đã được những người như ông Simon ghé vai vác đỡ thánh giá cho tôi. Họ là những nhân chứng của lòng thương xót Chúa. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. 8. Xưa, trên Núi Sọ, khi bị đóng đinh treo trên thánh giá, Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria và một nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá, để chia sẻ nỗi đau nhục nhã, cô đơn của Chúa (x. Ga 19,25). Nay, trong chuyến đi cuộc đời, có lúc tôi cũng như bị đóng đinh treo lên thập giá. Lúc ấy, tôi cũng được một nhóm nhỏ nào đó can đảm đứng kề bên, để chia sẻ nỗi cực hình của tôi. Họ là những chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Tôi cảm tạ Chúa vô vàn. 9. Những chứng nhân này đã làm những việc rất cụ thể. Không theo nghi thức nào. Không theo khuôn khổ nào. Không theo tính toán của áp lực dư luận nào. Việc họ làm chỉ là yêu thương do niềm tin. Họ tin rằng việc họ làm là việc tốt, hợp đạo làm người, hợp đạo truyền thống. Thực sự, những chứng nhân ấy củng cố rất nhiều niềm tin của tôi đối với Chúa trong cơn thử thách. 10. Hôm nay, nhìn lại chuyến đi đời mình, tôi thấy rất rõ vai trò của những chứng nhân tình yêu Chúa là rất quan trọng đối với tôi. Do vậy, tôi xác tín rằng: Làm chứng cho tình yêu Chúa phải là nẻo đường quan trọng nhất của mục vụ thời nay trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi. 11. Một khi xác tín điều đó, tôi phải tỉnh thức và phấn đấu rất nhiều. Bởi vì không những Satan sẽ dùng đủ cách để chống phá con đường làm chứng cho lòng thương xót Chúa, mà bản tính tự nhiên của chính chúng ta cũng không luôn sẵn sàng đi vào con đường đó. Nói thì sẵn lòng. Nhưng thực hiện bằng việc làm thì thường chọn những việc dễ dàng và có lợi cho mình. Do đó mà đôi khi thành vô cảm, thậm chí thành ác tâm. Tỉnh thức và phấn đấu, nhờ vào cầu nguyện, sống nội tâm, kết hợp với Chúa Giêsu. Lạy Thánh Cả Giuse, xin Người thương giúp chúng con đi theo con đường Người đã đi để làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là con đường sống đơn sơ, khó nghèo, khiếm tốn, hoà mình vào dân nghèo, để họ nhận ra Chúa chính là tình yêu cứu độ, một tình yêu dám chết để đền tội thay, một tình yêu tha thứ, một tình yêu vô biên vô bờ được mạc khải nơi Trái Tim Chúa Giêsu, Chúa chúng con. Long Xuyên, ngày 6 tháng 6 năm 2013
Bùi-Tuần 1216: Những bùng nổ hiện tượng mang tính chất tôn giáo
Hiểu biết tình hình Hội Thánh trong thế giới hôm nay, đó là một đòi hỏi quan trọng của mục vụ. Ðòi hỏi này đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại trong Tông Huấn “Pastores dabo vobis”. Ngày nay, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang chuyển biến liên tục và mau lẹ. Giữa dòng tiến hoá ấy, Hội Thánh sẽ không là một con tàu cắm neo, đức tin cũng sẽ không là một kho tàng khoá kín. Vì thế cần tỉnh thức. Cần trao đổi cho nhau những hiểu biết về tình hình Hội Thánh trong thế giới nói chung và trong địa phương nói riêng. Những suy nghĩ và những việc làm mục vụ thích hợp có thể được gợi lên từ những thông tin mặc dầu rất giới hạn. Trong nhận thức ấy, hôm nay tôi xin chia sẻ nhận xét của tôi về một nét tình hình xã hội đáng được mục vụ quan tâm, đó là sự bùng nổ những hiện tượng mang tính chất tôn giáo. Sự bùng nổ này xảy ra dưới nhiều dạng khác nhau và với những mức độ không đồng đều. Phải nói là tình hình phức tạp. Ở đây, tôi muốn lựa ra một số hiện tượng, mà tôi cho là mang nhiều tiềm năng tích cực.
1/ Hiện tượng tìm đến các vị thần thiêng Từ vài năm nay, hiện tượng thần thiêng bùng lên đó đây. Ðặc biệt là chuyện hành hương. Có nhiều điểm hành hương. Thí dụ: Những điểm đã có từ lâu như chùa Hương ở Miền Bắc, Vía Bà ở núi Sam, miền Nam, những điểm mới mọc lên như chùa Ðạo Nằm ở Cù-Lao-Giêng, mộ Cha Diệp ở Tắc-Sậy. Hành hương kéo dài suốt năm. Trong những tháng cao điểm, xe lớn nhỏ tới lui địa phương tôi từng trăm mỗi ngày. Khách hành hương thuộc đủ loại. Giới trung lưu, thành thị cũng rất đông. Ðúng là hiện tượng quần chúng. Sẽ là sai lầm lớn, nếu nói rằng họ đi hành hương chỉ vì mục đích du lịch. Bởi vì hầu hết đi vì nhu cầu tâm linh. Họ phải tốn hao của cải, thời giờ. Nhưng họ chấp nhận vì một niềm tin. Họ đến vì tin. Vì tin, nên họ cầu khấn. Ða số đã có lần đến các nơi ấy. Nay họ trở lại, để tạ ơn. Nhiều người, để tạ ơn, đã thay đổi nếp sống, cải thiện hoàn lương. Có thể gọi hiện tượng này là một làn sóng tâm linh. Các vị thần thánh mà làn sóng quần chúng tìm đến đều do quần chúng tự phong lên. Nếu hỏi tại sao, đám đông sẽ trả lời: Bởi vì các vị ấy rất thiêng. Thiêng ở chỗ có lòng nhân ái và có quyền năng, gần gũi với hoàn cảnh từng người, hay ra tay cứu giúp những kẻ khốn khó. Các vị thần thánh này không là những vị vô danh, nhưng là những con người có lịch sử. Theo dư luận, các vị ấy thuở sinh thời, đã sống tốt với mọi người, nay chết rồi, vẫn hiện diện cách thiêng liêng giữa lớp người khổ đau, tiếp tục cứu giúp họ. Tôi có cảm tưởng quần chúng phong thần thánh như chọn lựa bạn bè. Họ chọn những kẻ thương họ. Tín ngưỡng của họ chủ yếu là tin vào những đấng thiêng liêng giàu tình thương cứu độ. Cũng vì thế mà các liên hệ của họ với thần thánh của họ đều rất hồn nhiên. Không qua khuôn khổ nghi lễ. Không qua trung gian tư tế. Lời cầu của họ là lời nói của trái tim. Nói tự đáy lòng. Ngoài những vị thần thánh ở đền, ở chùa, ở am, còn có các đấng thiêng liêng trên bàn thờ gia đình. Hầu như gia đình nào nay cũng có bàn thờ để kính nhớ những người thân quá cố. Hình ảnh các ngài, hộp tro các ngài đặt trên đó không phải chỉ là những kỷ vật quý, mà còn là một sự hiện diện thiêng liêng đầy thân thương, mà người sống tin rằng sẽ đem lại cho bầu khí gia đình niềm hy vọng cứu độ. Thêm vào hiện tượng bàn thờ gia đình, còn có hiện tượng bàn thờ Ông Thiên được lập ở trước sân và hiên nhà. Bàn thờ đó chỉ là biểu tượng. Còn Ông Thiên ngự trên cao, khắp bốn phương trời. Vái lạy Ngài, khấn cầu Ngài, thắp nhang thờ Ngài, đó là những việc thảo hiếu đối với Ðấng Tạo Hoá sinh thành, an bài, phù trợ. Quần chúng không cần biết những việc mình làm trên đây thuộc về dạng văn hoá dân tộc, hay thuộc về dạng tín ngưỡng dân gian, hay thuộc về dạng tôn giáo nào. Riêng tôi thấy rằng những hiện tượng trên là những cánh cửa, mà quần chúng tự sáng tạo, để mở vào thế giới thần thiêng, trong đó có những điểm tựa đáng tin, đáng mến. Những sáng tạo này khởi đi từ tầng sâu lương tâm người Việt vốn rất giàu tính chất tôn giáo. Hiện tượng trên đây nói lên khuynh hướng quần chúng Việt Nam hôm nay muốn tự giải quyết vấn đề hạnh phúc của mình. Họ cho thấy hạnh phúc của họ không thể thiếu chiều kích thiêng liêng. Họ tự mở ra chiều kích ấy. Chiều kích này sẽ phát triển mạnh. Có thể gọi sự phát triển này là một bùng nổ, một cuộc cách mạng tầng sâu. Khuynh hướng này, khi mạnh lên và lan rộng, cũng sẽ là một thách đố lớn cho các nhà hoạt động tôn giáo. Ðối với những ai bén nhạy, biết đáp ứng một cách sáng tạo, nó sẽ trở thành một sức sống tinh thần góp phần không nhỏ vào việc phát triển con người và xã hội. Ðồng thời nó cũng sẽ giúp cho các tôn giáo cơ chế bớt đi lối sống câu nệ luật lệ, cứng nhắc, hình thức máy móc, quyền lợi hẹp hòi, để quan tâm nhiều hơn đến thực chất của đạo, là gặp gỡ sống động thân mật, cung kính với Ðấng Tối Cao thiêng liêng là Tình Yêu cứu độ.
2/ Hiện tượng đi tìm ý nghĩa cao thiêng cho cuộc đời Hiện tượng này được thấy ở cách suy nghĩ của quần chúng hôm nay. Ðọc các sách báo, nghe các bài ca, xem các kịch bản, tôi thấy cách suy nghĩ của đồng bào xung quanh đã chuyển biến nhiều. Ít còn nhớ tới cảnh máu lửa chiến tranh hồi nào, ít còn muốn nhắc đến hận thù, tranh chấp xưa kia. Ðiều họ năng đề cập tới bây giờ là ý nghĩa cuộc đời. Hiện nay một ý nghĩa cuộc đời đang được đề cao, mến mộ, đó là sống cho kẻ khác. Sống cho kẻ khác bằng nhiều cách. Như bằng những nâng đỡ cứu độ dành cho những kẻ thiếu may mắn, bằng tình người được chia sẻ cho những người xung quanh, nhất là bằng cách làm tốt bổn phận đối với gia đình, lối xóm. Sống cho kẻ khác không đơn giản chỉ là cho đi, mà cũng là lãnh nhận. Mình giúp cho kẻ khác sống, và kẻ ấy cũng mang lại cho mình sự thăng tiến tâm hồn và màu xanh cho cuộc sống mình. Mẫu người sống cho kẻ khác không tìm ở kho chuyện xa xưa, mà tìm ngay ở cuộc sống hôm nay. Họ cũng trong hoàn cảnh chung của đồng bào. Họ cũng sống nghèo, cũng sống vất vả. Nhưng lòng họ bao la thư thái, vì cảm thấy đời mình có ý nghĩa cao thượng. Ðiều đáng suy nghĩ ở đây, đó là niềm tin của họ. Họ tin rằng sống cho kẻ khác là một thái độ đạo đức có ảnh hưởng sâu đậm đến đời con cháu mai sau, đến cả linh hồn những người thân quá cố. Ảnh hưởng đó không phát xuất từ một định luật tâm-sinh-lý, mà từ một luật hiệp thông của Ðấng An Bài công minh hằng sống. Tin tưởng trên đây là một sự thức tỉnh tín ngưỡng. Nó vạch ra con đường cho cuộc sống, đem lại hướng vui vĩnh cửu cho cuộc đời chật hẹp. Với tin tưởng ấy, nhiều người sống cho kẻ khác một cách rất quảng đại, anh hùng, nhưng âm thầm kín đáo. Niềm tin của họ và lối sống của họ làm nên những tụ điểm mới. Những tụ điểm mới này, tuy lỏng lẻo nhưng rất năng động, tuy tự do nhưng rất gắn bó. Ðám đông sẽ được thu hút tới những tụ điểm mới đó, như một môi trường mầu xanh tươi mát. Ðơn giản chỉ vì họ nghĩ rằng: Ở đâu người ta thực tình sống cho kẻ khác, ở đó có tình yêu thương chân thành, và ở đó có Thượng Ðế là Tình Yêu Cao Cả.
3/ Hiện tượng đi tìm chiều sâu nội tâm Theo tôi, chiều sâu nội tâm được đo lường bằng tính chất và mức độ của những thao thức trước cảnh khổ đau của người khác, bằng khả năng chấp nhận đớn đau vì tình yêu cao cả, bằng nỗ lực xây dựng hoà bình ngay tự chính bản thân mình. Với cái nhìn như thế, tôi gặp thấy vô số người có nội tâm sâu thẳm. Trong họ luôn có một sức thiêng liêng đang đổi mới một cái gì đó nơi họ và nơi các người gặp họ. Trong họ vừa có sự thú nhận những yếu đuối và những vết thương, vừa có sự mở ra về những khả năng mới. Họ ăn chay trường hay chỉ ăn chay ít ngày hàng tháng, đó không chỉ là vẻ đẹp khẳng định một cội nguồn thiêng liêng, mà còn là một phương thế tu đức, để nội tâm bớt đi cái tôi, và thêm tình nhân ái. Cũng thế, thức khuya dậy sớm, tần tảo làm ăn, đó không chỉ là nhu cầu kiếm sống, mà còn là những lời kinh sống động, trong đó mỗi từ là từng nổi đau, từng tâm tình tha thứ, từng niềm vui và từng hy vọng, được se kết lại trong một tình yêu không biên giới. Tôi có cảm tưởng là những chiều sâu nội tâm này sẽ làm nên một thành trì thiêng liêng, có khả năng đối phó với trào lưu văn minh thác loạn đang xúi giục bao người đi tìm một cuộc sống sung sướng hơn, bất chấp đạo đức. Tuy nhiên, những người có khuynh hướng phát triển chiều sâu nội tâm nên tự cảnh giác. Họ cần được hướng dẫn đúng, để biết cởi mở, để có quân bình. Bởi vì không thiếu trường hợp, trong những chiều sâu nội tâm không được hướng dẫn đúng, đã phát sinh những cái nhìn khép kín, lệch lạc, thậm chí sai trái rõ ràng mà vẫn khăng khăng khẳng định mình đúng. Lặn xuống tầng sâu nội tâm, để nghe tiếng lòng mình. Nhưng mọi tiếng lòng mình không luôn luôn là tiếng vọng của chân lý. Nhiều khi chúng chỉ là sản phẩm của một quá trình tâm-sinh-lý xã hội, thuộc khoa phân-tâm-học, chứ không dính dáng gì đến đạo đức học. Ðôi khi một chiều sâu nội tâm không phát triển đúng hướng có thể trở thành một thứ đạo đức bệnh hoạn, với những ảo tưởng thần soi thánh phán.
4/ Hiện tượng đi tìm những giá trị đạo đức mới Quan sát các lễ cưới, lễ tang, lễ giỗ hiện nay, tôi thấy hầu như lễ nào cũng mang một bầu khí linh thiêng, phảng phất hương vị đạo đức cổ truyền. Ðạo đức cổ truyền đề cao tam cương ngũ thường, nhân nghĩa lễ trí tín. Những giá trị ấy có lúc như bị xuống cấp, nay đang bắt đầu bước lên đài cao. Không do pháp luật, mà do phản ứng tự nhiên từ bên trong tâm hồn người Việt. Chứng tỏ lương tâm người Việt Nam ta rất gắn bó với những giá trị đạo đức truyền thống. Bên cạnh những giá trị đạo đức truyền thống đó, tôi thấy đang vươn lên những giá trị đạo đức mới, được đồng bào đánh giá rất cao. Thí dụ tính tôn trọng sự thực, tính dân tộc hài hoà, tính bao dung liên đới, tính khiêm tốn cởi mở, tính đơn sơ chân thành. Người dân bây giờ, nhất là giới trẻ, rất ưa các nhân vật tôn giáo và xã hội nào có những giá trị đạo đức mới đó. Họ rất dị ứng với những thái độ ngược lại. Họ không coi thường những giá trị đạo đức cổ truyền, nhưng họ sống thực tế nhiều hơn với những giá trị mới. Bởi vì họ hướng tới tương lai nhiều hơn là vọng về quá khứ. Tương lai là đất của khoa học, của tự do, của phát triển, của hợp tác. Họ sẽ dễ thành công trên mảnh đất tương lai ấy, nếu họ biết phấn đấu bằng những giá trị mới. Tôi nghĩ rằng những giá trị đạo đức mới cùng với những giá trị đạo đức truyền thống đang làm nên một nền văn hoá mới. Nền văn hoá mới này mang nhiều giá trị đạo đức tôn giáo, nhưng phát triển độc lập, ngoài tôn giáo. Chính nền văn hoá mới này sẽ hướng dẫn con người Việt Nam. Tôn giáo nào khéo góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới này, sẽ có được một chỗ đứng vinh dự trong lòng dân tộc. Ðể góp phần, tất nhiên cần phải hiểu biết nó, phải đồng hành với nó, phải cùng nhau trao đổi những cái đúng, những cái đẹp, những cái tốt, những cái hay. Tóm lại cần phải có khả năng, và thiện chí đối thoại với văn-hoá mới. *** Tôi vừa nêu lên bốn loại hiện tượng mà tôi cho là có những tính chất tôn giáo. Tất cả đều là những dấu chỉ thời đại cho quê hương Việt Nam. Những dấu chỉ ấy nên được hiểu trong ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh. Ở đây tôi nhớ lại đoạn 37 sách Êgiêkien, trong đó mô tả bãi xương khô, nhờ thần khí Chúa nhập vào, nên đã sống lại trở thành dân thánh Chúa. Ðiều kiện chính yếu là phải có tiên tri thổi thần khí Chúa vào. Xưa là thế, nay cũng vậy. Ai sẽ là những tiên tri như thế cho hôm nay? Long Xuyên, tháng 7/1993
Từ lâu rồi, tôi tha thiết cầu xin Chúa soi sáng cho tôi biết, Chúa muốn các môn đệ Chúa cần bắt chước thánh Gioan Baotixita thế nào tại Việt Nam hôm nay. Chúa soi sáng cho tôi dần dần. Có thể là tôi chưa đón nhận hết những gì Chúa đã dạy tôi. Hôm nay, tôi xin được phép chia sẻ phần nào. Vắn gọn thôi. 2. Thứ nhất, bắt chước thánh Gioan Baotixita, là đặt nặng vấn đề tu thân. Tu thân nơi thánh Gioan Baotixita là ưa thích thinh lặng nội tâm, cầu nguyện, chiêm niệm, nghèo khó, khiêm nhường, yêu thương. Gặp thánh Gioan Baotixita dù trực tiếp, dù gián tiếp, bất cứ cách nào, người ta đều thấy ngay những nét tu thân nơi Ngài là rất ấn tượng. Những nét tu thân ấy toả ra một bầu khí thiêng liêng quý hiếm. Chúa dùng những nét tu thân như thế của thánh Gioan Baotixita để nói với các tâm hồn thời đó. Thời nay, nhiều tâm hồn Việt Nam cũng đã nghe được tiếng Chúa qua những nét tu thân đậm đà của những ai tu thân theo gương thánh Gioan Baotixita. Chính vì thế, mà lúc này nên xem xét kỹ những “ơn gọi” tự nhận là ơn gọi đi tu. Nhất là nên chấn chỉnh lại những nơi tự xưng là “nhà tu”. Hiện nay, tại Việt Nam, “tu thân” vẫn còn được quý trọng, ngay tại gia đình. Hiện nay “tu thân” đang là một phục hưng quan trọng trong nhiều tôn giáo tại Việt Nam. Còn Công giáo thì sao? Xem ra ở nhiều nơi tinh thần trần thế đang tục hoá đời tu, người tu và nhà tu. Tai hại sẽ khôn lường, nếu coi đó là một đổi mới được phép coi là bình thường. 3. Thứ hai, bắt chước thánh Gioan Baotixita là cảnh báo tình hình thực sự nguy hiểm. Thánh Gioan Baotixita nói thực, nói rõ, nói mạnh về tình hình tội lỗi bấy giờ rất nguy hiểm. Ngài nói: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?... Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Cảnh báo tình hình là rất nguy hiểm về mặt thiếu đạo đức, đó là việc thánh Gioan Baotixita đã làm cho những người tin thờ Chúa, những người tự phụ có tổ phụ Abraham (x. Mt 3,9). Thời ấy, nhiều người có đạo đã được ơn trở lại, nhờ cảnh báo của thánh Gioan Baotixita. 4. Còn thời nay, tại Việt Nam, xem ra vẫn thiếu những lời cảnh báo mạnh dạn và thành thực như của thánh Gioan Baotixita. Thay vì cho thấy tình hình là nguy hiểm, thì lại quả quyết tình hình là tốt đẹp, không sao. Hoặc có cho thấy tình hình là nguy hiểm, nhưng lại đổ lỗi cho những nguyên nhân ngoài Công giáo, chứ Công giáo thì trong sạch, vô can. Chính sự không nhận ra mình tội lỗi mới thực là cực kỳ nguy hiểm. 5. Thứ ba, bắt chước thánh Gioan Baotixita là phải thực tình sám hối. Sám hối theo thánh Gioan Baotixita là bỏ đàng tội, đền bù những gì tội lỗi mình đã gây ra, và hãy sinh ra hoa quả tốt. Ngài nhấn mạnh đến việc sinh hoa quả tốt. “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3,8). Nghĩa là bỏ tội lỗi thì chưa đủ, mà còn phải làm việc lành. Việc lành mà thánh Gioan Baotixita chỉ rõ, đó là sửa lại những liên đới với mọi người (x. Lc 3,10-14). 6. Sám hối, mà thánh Gioan Baotixita rao giảng xưa là thế. Nay, chúng ta có nhận thức đúng như vậy không? Nhất là nhận thức về sự phải sửa lại những liên đới với mọi người. Sửa lại mọi liên đới là sao cho có công bình, bác ái, khiêm nhường trong mọi đối xử. Tôi rất buồn và cũng rất lo, khi thấy sự sám hối mà thánh Gioan Baotixita rao giảng xưa, xem ra không được đón nhận một cách trân trọng tại Việt Nam hôm nay. Thực sự, có nói tới sám hối và cũng có làm việc sám hối. Nhưng sám hối theo nghi thức nhiều hơn là sám hối thực sự, mà Chúa muốn. 7. Thứ bốn, bắt chước thánh Gioan Baotixita là tin nhận và đón nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Baotixita cảnh bảo tình hình là rất nguy hiểm, con cái Chúa cần phải sám hối, sau cùng phải tin nhận và đón nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. “Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian’” (Ga 1,29). Ngài xin mọi người đừng nhìn vào Ngài nữa, nhưng hãy tập trung vào Đức Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). 8. Tập trung vào Chúa Giêsu là phải cất đi bất cứ cái gì là rào cản, là màn che. Nhất là phải khiêm tốn tự mình lu mờ đi, để người ta dễ nhìn thấy Chúa Giêsu, dễ gặp được Người, dễ đón nhận Người. Nhận thức điều thánh Gioan Baotixita dạy trên đây, tôi thấy mình cần phải rất tỉnh thức và khiêm nhường, nhất là phải mở rộng lòng tôi ra, để ơn Chúa Thánh Thần thanh luyện lòng tôi cho khỏi các thứ rắc rối. Rắc rối là một thứ bệnh, xem ra của mọi người. Rắc rối là thích làm cho những gì đơn sơ thành phức tạp để rồi tìm cách tránh né điều căn bản cần thiết. Nhất là thích phức tạp để núp đàng sau những bức tường đạo đức này nọ, khỏi nhìn thấy chính Chúa Giêsu, vì sợ Người đòi hỏi nhiều điều người ta tự nhiên không thích. 9. Thứ năm, bắt chước thánh Gioan Baotixita là vâng phục ơn gọi thực sự là do Chúa. Thánh Gioan Baotixita được Chúa gọi thực sự. Ơn gọi của Ngài được chứng minh rõ rệt qua những gì đã xảy ra cho ông Dacaria và vợ là bà Êlisabét (x. Lc 1,5-25). Ngài không tự mình xin ơn gọi đó. Ngài càng không bao giờ vận động cho mình được làm ngôn sứ của Chúa. Ngài được gọi và được sai đi hoàn toàn do Chúa chủ động. Còn Ngài thì xin vâng một cách khiêm nhường phó thác. Khiêm nhường phó thác suốt cuộc đời, trong mọi nơi mọi lúc. Nhờ vậy, Ngài nhận ra vinh quang của ơn gọi Chúa ban cho Ngài chính là được chết khổ đau, loan báo trước chính cái chết của Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc loài người. 10. Nói thiệt là điểm thứ năm vừa trình bày trên đây đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy mình nhỏ bé. Với tinh thần thơ ấu Phúc Âm, tôi xin Chúa thương dìu dắt tôi trên mọi chặng đường của cuộc đời tôi. Cho dù tôi chưa cảm được vinh quang của ơn gọi Chúa dành cho tôi sẽ là những thánh giá như thánh Gioan Baotixita, và như Chúa Giêsu, nhưng tôi vẫn tin với lòng phó thác ở tình yêu Chúa, Đấng đã gọi tôi và đã sai tôi đi. Lạy Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Gioan Baotixita, xin thương xót con. Con tin ở Chúa. Con cảm tạ Chúa. Con thuộc về Chúa. Long Xuyên, ngày 17 tháng 6 năm 2013
Nhiều năm trước đây, khi cầu nguyện trước Trái Tim Chúa Giêsu và Trái tim Đức Mẹ, tôi thường nhìn Hai Trái Tim cực thánh ấy như suối nguồn tình yêu. Tôi tin tình yêu ấy rất ngọt ngào, dịu dàng. Tôi cầu xin Hai Trái Tim cực thánh ban cho tôi chút quà của tình yêu ấy. Kết quả là tôi đã nhiều lần được nếm sự ngọt ngào, dịu dàng của tình yêu ấy. 2. Nhưng rồi, không luôn mãi như vậy. Bởi vì, càng về già, tôi càng được Hai Trái Tim cực thánh ban cho tôi thêm một thứ quà khác của tình yêu, đó là những đau khổ, để thanh luyện. Đúng là tôi vẫn đến với Hai Trái Tim rất thương mến, mà tôi cậy tin. Tôi cầu xin tha thiết. Nhưng như một trả lời, có lúc tôi lại nhận được một nguồn đớn đau tê tái. Nỗi đau như một cái gì cùng cực. Nếu muốn tả nỗi đau ấy, tôi chỉ xin mượn Phúc Âm. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu nói: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,34). “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). “Người sấp mặt xuống đất, cầu nguyện rằng: Cha ơi, nếu được, xin Cha cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). “Vào giờ thứ 9, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Êlôi, Êlôi, Lamaxabactani! Nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con” (Lc 15,34). 3. Như vậy, Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì yêu thương, đã chấp nhận trải qua những cơn đau khủng khiếp. Thánh Tâm đầy lửa yêu thương đã trở thành vực thẳm đầy đau khổ. Những đau khổ đó rất nặng nề. Tôi được cảm thấy phần nào. Chúa cho tôi hiểu thế này. Nguyên do khiến tình yêu Chúa Giêsu phải đau khổ là vì: Người nhìn thấy con cái Chúa không chịu nghe Lời Chúa, mà lại nghe ma quỷ, thế gian, xác thịt. Nghe theo chúng làm những sự xấu, để rồi bị chúng trói buộc vào quyền lực độc ác của chúng dẫn vào con đường hư hỏng, đi vào hoả ngục. Để cứu loài người, Chúa Giêsu tình nguyện chịu đau khổ, để đền tội thay. Đau khổ rất nhiều, nhưng biết bao người rồi vẫn cứ tiếp tục phạm tội, cứ tiếp tục nghe quỷ, thế gian, xác thịt hơn nghe Chúa. Cứ vậy, tội lỗi dẫn vào mọi thứ hình phạt ở đời này và ở đời sau. Cảnh tượng đó rất là thê thảm, khiến Chúa Giêsu đau đớn. 4. Để tiếp tục cứu loài người lầm lạc, Chúa Giêsu không những xin gánh mọi hình phạt của loài người, để đền tội thay, mà cũng xin nhiều con cái Chúa hãy chia sẻ với Người. Đức Mẹ đã chia sẻ một cách quảng đại. Nhiều người, cũng đi theo gương Đức Mẹ. Nay, đến lượt một số người, trong đó có tôi đang được Chúa gọi đi theo trên con đường chia sẻ khổ đau. 5. Khi được nếm phần nào nỗi khổ của Trái Tim Chúa, tôi hiểu rõ hơn những tai hại khủng khiếp do tội gây nên, nhất là tội không chịu nghe Lời Chúa. Hiện nay, tội không nghe Lời Chúa đang trở thành phổ biến khắp nơi. Nếu cứ thế này, những tai hoạ khủng khiếp sẽ phải xảy ra. Nguy hiểm đáng sợ nhất là hình phạt ở đời sau. Tôi nhớ tới những gì Đức Mẹ đã tiên báo ở Fatima. Tôi nhớ tới cảnh Đức Mẹ hiện ra khóc ở La Salette. Tôi xin Đức Mẹ thương giúp tôi biết đón nhận những đau khổ, để góp phần nhỏ bé vào việc đền tội riêng mình và nhiều người khác, hy vọng sẽ tránh cho Hội Thánh và Đất Nước khỏi những tai hoạ khủng khiếp. 6. Đau khổ thường gây nên tan nát và cô đơn trong lòng. Nhưng tôi tin trong đau khổ của tình yêu luôn có Chúa. Chúa ở đó, để đỡ nâng. Nhất là Người đỡ nâng lòng cậy trông của tôi. Cậy trông vững vàng. Cậy trông dù hoàn cảnh trở thành bi đát nhất. Cậy trông, để đau khổ tôi chịu có một ý nghĩa thiêng liêng cao quý. 7. Tôi có kinh nghiệm là khi tôi bị thử thách trong đau khổ, Đức Mẹ luôn ở bên tôi. Mỗi khi tôi than van với Chúa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”, tôi lại thấy Đức Mẹ ôm lấy tôi. Tình Mẹ biến lời than van của tôi thành một lời cầu nguyện. Tôi như một trẻ nhỏ. Với Mẹ, tôi tin mọi sự rồi sẽ tốt đẹp quá sự tưởng tượng của tôi. Bởi vì Chúa là Cha của tôi. Tôi nhớ tới mầu nhiệm thánh giá dẫn tới Phục sinh. Do vậy, tôi thấy đau khổ hôm nay không là tiếng nói sau cùng. Tiếng nói sau cùng sẽ là sự sống lại. Tôi cũng thấy sự thắng thế của tội ác không là tiếng nói sau cùng. Tiếng nói sau cùng sẽ là tiếng nói của tình yêu thương xót Chúa. Thấy như vậy và tin như vậy, tôi sẽ có một hướng đi thích hợp cho tu đức, mục vụ, nhất là trong lãnh vực làm chứng cho Chúa. 8. Khi cầu nguyện, tôi hay thấy Chúa Giêsu quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người rất khiêm nhường. Người rất yêu thương. Người rất gần gũi. Tôi cảm thấy Người rửa, Người lau cõi lòng của tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng, đầy tin tưởng cậy trông, mặc dầu tôi rất tội lỗi. Cùng với lòng tin tưởng cậy trông, tôi được Đức Mẹ dạy tôi là hãy rất nghèo, thực sự nghèo, trong mọi phương diện. Có thế, mới thực sự được thuộc về Chúa Giêsu. Có thế, mới thực sự được Chúa Giêsu dùng trong chương trình cứu chuộc của Chúa. Nghèo thì khổ. Nghèo thì hèn. Cái khổ và cái hèn của kẻ nghèo khổ đau được tôi cảm thấy một cách thấm thía, như một sự loại trừ, xa tránh. Tôi biết tôi đáng bị như thế. Nhưng tại sao thân phận như thế lại đã xảy ra cho chính Chúa Giêsu xưa? Tôi hiểu con đường Chúa đi, để cứu chuộc loài người, là con đường thánh giá. Tôi xin Chúa cầm tay tôi mà dắt dìu tôi đi theo con đường đó. Lạy Chúa, con đường thánh giá của Hội Thánh tại Quê Hương con sắp tới những chặng bất ngờ. Con tin những đau đớn bất ngờ sẽ làm chúng con thức tỉnh biết nghe Lời Chúa hơn. Xin Chúa thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 9 tháng 6 năm 2013
Thánh Gioan Baotixita là tiên tri của Chúa. Sứ vụ tiên tri của thánh Gioan Baotixita là một hành trình dài. Hành trình dài đó gồm nhiều chặng khác nhau. Tất cả đều đầy khó khăn, hiểm trở. Nhưng thánh Gioan Baotixita đã vượt qua một cách lạ lùng, nhờ một bí quyết, đó là Ngài có một nội tâm dồi dào sự sống thiêng liêng. 2. Thực vậy, nội tâm của thánh Gioan Baotixita là một đền thờ toả sáng sức thiêng. Toả sáng thứ nhất là sự khiêm nhường. Thánh Gioan Baotixita sống khó nghèo, xưng mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, không xứng đáng cởi dây giày cho Chúa Giêsu. Khiêm nhường của thánh Gioan Baotixita báo trước khiêm nhường của Chúa Giêsu, Đấng sẽ mời gọi: “Các con hãy học ở Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). 3. Toả sáng thứ hai là yêu thương. Thánh Gioan Baotixita yêu thương mọi người, muốn cứu các linh hồn không những bằng lời cầu nguyện và lời giảng, mà cũng bằng chính đời sống hãm mình, hy sinh đến cùng. Yêu thương của thánh Gioan Baotixita loan báo trước yêu thương của Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban tặng chính mình trên thánh giá để cứu chuộc loài người (x. Ga 12,32). 4. Khiêm nhường và yêu thương nơi nội tâm thánh Gioan Baotixita được sáng lên, là do nội tâm của Ngài luôn có sự hiện diện của Chúa. Chúa ngự trong nội tâm thánh Gioan Baotixita, để chia sẻ cho Ngài sự sống của Chúa và tâm tình của Chúa. Chúa ở lại trong nội tâm thánh Gioan Baotixita, và thực hiện điều Chúa Giêsu sau này sẽ nói: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). 5. Anh chị em thân mến, Thánh Gioan Baotixita là như thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có nội tâm dồi dào sự sống thiêng liêng, và có Chúa hiện diện ở đó không? Tôi hỏi Chúa, và Chúa cho tôi thấy là: Ai cũng có nội tâm, nhưng không phải nội tâm nào cũng có sự sống thiêng liêng, càng không phải nội tâm nào cũng có Chúa hiện diện. Đó là một sự thức đáng buồn, đáng ngại, rất nguy hiểm. Nhất là tình hình hiện nay đang xấu đi, do đạo đức xuống và tội lỗi tăng, tai hoạ Chúa và Đức Mẹ cảnh báo đang tới gần. Nguy hiểm nhất là chúng ta không để ý đủ đến việc cứu khổ tức là cứu con người khỏi nguy cơ mất linh hồn, nguy cơ sa hoả ngục. Những nguy cơ đó là gần kề. Phải cứu với tất cả tình yêu của Chúa Giêsu. Phải cấp cứu với một tình yêu của thánh Gioan Baotixita. Tình yêu tha thiết, tình yêu dám chết cho các linh hồn. Vì thiếu một nội tâm có Chúa Giêsu hiện diện, chúng ta dễ bị quỷ Satan lừa dối, ở giữa nguy cơ mất linh hồn, mà không nghĩ đến việc cần được cấp cứu. Riêng tôi, trước khi ra đi, tôi xin nói với anh chị em một lời rất chân tình, đó là: Có một nội tâm dồi dào sự sống thiêng liêng do Chúa hiện diện, chúng ta sẽ vượt qua được cuộc đời giông bão đầy bất ngờ đau đớn đang tới, để chắc chắn có ngày sẽ được về với Chúa là hạnh phúc trường sinh của chúng ta. Amen. Long Xuyên, ngày 24 tháng 6 năm 2013
Ngày 02.7.2013 này, tôi được 58 tuổi Linh mục. Kỷ niệm thụ phong linh mục thúc giục tôi tỏ bày tấm lòng biết ơn đối với Chúa. Tôi biết ơn Chúa, nhất là vì suốt 58 năm qua, Chúa luôn ở trong tôi và luôn ở trong cuộc đời của tôi. Tôi nhận ra hồng ân đó, nhờ những dấu ấn ghi trên đời tôi. Thực vậy, Chúa đã ban cho tôi vô vàn ơn, tôi chỉ xin được nhắc qua mấy ơn sau đây. 2. Tôi nhận thấy rất rõ, tôi chỉ là kẻ tội lỗi, yếu hèn. Tôi mang trong mình tội riêng của mình, thêm vào đó là tội chung của những tập thể và những cơ chế mà tôi là thành phần. Tôi rất cần được cứu. 3. Tôi cảm thấy rất rõ những khổ đau của phần đông đồng bào tôi. Họ khổ, tôi cũng khổ. Họ đau, tôi cũng đau. Có thể tôi còn khổ đau hơn họ, vì tôi thấy họ không nhận thức đủ những nguy hiểm đang vây hãm họ, và những khống chế đang đẩy họ vào hố diệt vong. Họ rất cần được cứu. 4. Tôi cảm thấy rất rõ những sai lầm của Hội Thánh về mặt cơ chế và về mặt nhân loại trong nhiều thành phần. Những sai lầm đó nhiều khi đã trở thành khuôn cứng nhắc, cản sự đổi mới của Chúa. Hội Thánh rất cần được cứu. 5. Tôi tin chắc chắn điều này: Đấng cứu độ chính là Chúa Giêsu, Người cứu bằng tình yêu của Người. Một tình yêu chấp nhận hoà mình vào thân phận khổ đau của những người đau khổ nhất. Một tình yêu tha thứ. Một tình yêu hy sinh, hiến dâng chính mình chịu mọi nhục nhã đớn đau, để đền tội thay, để cứu chuộc nhân loại. 6. Tôi tin vững vàng: Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta, nhưng chúng ta cần phải đón nhận ơn Người cứu chuộc. Chúng ta đón nhận được ơn Chúa cứu chuộc, nhờ tin ở Người và bước theo Người. 7. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy 58 năm qua, Chúa đã dạy tôi không những bằng Kinh Thánh và gương các thánh, mà còn dạy tôi qua các biến cố xảy ra cho riêng tôi, nhất là xảy ra cho Quê Hương Việt Nam, và cho Hội Thánh trên Quê Hương của tôi. Quá nhiều biến cố chứng minh những gì không xây dựng trên Lời Chúa đều đã sụp đổ tan tành. Quá nhiều biến cố đã chứng minh những ai không đón nhận tình yêu Chúa đều đã sa vào lưới của Satan độc ác. 8. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy tôi không tránh được nhiều quãng đời khó khăn hiểm trở. Nhưng Chúa vẫn bên cạnh tôi, như Người đã bên cạnh hai môn đệ Chúa trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). 9. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy tôi thực sự được bình an và tự do, khi tôi theo gương Người, mà tha thứ. “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
10. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy tôi thực sự được hiện diện giữa những người bị loại trừ, khi tôi giống như Người, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân bị án tử hình (x. Lc, 23,33). 11. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy Chúa chỉ muốn tôi lo mến Chúa hết lòng, và yêu thương mọi người, như Chúa yêu thương, rồi phó thác mình cho Chúa “Lạy Cha, con xin phó thác mình con trong tay Cha” (Lc 23,46). Chứ mến Chúa và thương người, mà lại khôn khéo quy chiếu mọi việc mình làm về việc lên chức, giữ chức, bảo vệ quyền lợi cho mình, thì đúng là trái tim đã chết từ lâu rồi. 12. Bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy lịch sử Đất Nước tôi và lịch sử Hội Thánh trên Đất Nước tôi, tuy dù có những bóng tối, nhưng vẫn có những luồng sáng hy vọng. Bởi vì vẫn có những người biết nhận ra sự cần thiết phải đổi mới bản thân và cơ chế. Đổi mới dựa trên nền tảng tình yêu. Đổi mới với sự trở về những giá trị thiêng liêng. Đổi mới bằng những việc bắt đầu và bắt đầu lại. Đổi mới nhất là bằng sự chấp nhận mầu nhiệm thánh giá: Qua thánh giá mới có Phục Sinh. 13. Hôm nay, nhìn lại 58 năm bước theo Chúa Giêsu, tôi thấy tôi mắc nợ với Chúa, mắc nợ với Quê Hương của tôi, mắc nợ với Hội Thánh của tôi, mắc nợ với biết bao ân nhân xa gần. Có những nợ sẽ chẳng bao giờ trả đủ. Đó là nợ tình thương. Nhưng chính vì không bao giờ sẽ trả đủ, nên càng thêm gắn bó. Gắn bó ở đời này và ở đời sau. Trong thinh lặng lắng nghe. Trong thinh lặng cầu nguyện. Trong thinh lặng hiến dâng. Long Xuyên, ngày 01 tháng 7 năm 2013
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu ra hướng mục vụ của Ngài, đó là mở ra về phía Chúa và về phía con người. Hai hướng đó cần được thực hiện đi đôi với nhau. Con đường mở ra là tình yêu. Gương và sức mạnh mở ra là Chúa Giêsu. 2. Trong bài diễn văn đọc trước Hội nghị Uỷ Ban Giáo Hoàng cho châu Mỹ Latinh, tại Roma, ngày 18-2-2009, Đức Jorge Bergoglio, sau này là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã nhấn mạnh đến việc đào tạo linh mục. Đại ý như sau: Đào tạo này theo thánh Tôma và thánh Ambrosiô, là “Đức Kitô hình thành trong chúng ta, là chúng ta đón nhận được đức ái của Đức Kitô”. Mục tử phải là người có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, theo khuôn mẫu của trái tim Chúa Giêsu. Họ luôn ngoan ngoãn với những tác động của Chúa Thánh Thần... Được như vậy, mục tử phải nuôi mình bằng Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện... Họ sẽ là mục tử thừa sai, biết bảo vệ đoàn chiên và đi tìm chiên lạc... Họ sẽ là những người phục vụ cuộc sống, biết để ý đến những nhu cầu của những kẻ yếu đuối... Họ sẽ là linh mục của lòng thương xót. 3. Ngoài ra, đời sống thiêng liêng vừa kể còn sẽ được xây dựng bằng việc đào sâu thần học, triết học và Kinh Thánh. Tất cả đều mở ra về mầu nhiệm Chúa Giêsu, giúp chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta tin cậy với tất cả con người, linh hồn, trí khôn, trái tim. Người sẽ ban cho chúng ta Thần Khí của Người, đưa chúng ta vào chân lý toàn diện. Trong bài giảng thánh lễ mừng Quốc Khánh nước Achentina, ngày 25-5-2012 tại Nhà Thờ Chánh Toà Thủ Đô, Buenos Aires, Đức Hồng Y Jorge Bergoglio, quả quyết: “Chỉ tình yêu sẽ cứu được chúng ta”. Ngài nói về tình yêu của Chúa Giêsu. 4. Điều đáng chú ý là Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc mục tử phải biết áp dụng tất cả đời sống thiêng liêng và học thuyết của mình vào thực tế. Thực tế mà tác giả nhấn mạnh là cái tâm của nền văn hoá dân tộc mình. Cái tâm đó chính là sự khôn ngoan đạo đức tiềm ẩn trong lòng dân. Thí dụ sự kính trọng dành cho những gì là linh thiêng, sự hướng lòng mình về một Đấng Tối Cao có quyền thưởng phạt. 5. Áp dụng vào thực tế như thế đòi một khả năng phân định. Người mục tử biết phân định, là giữa một tình hình hỗn độn, ngài biết giữ lại cái gì là tốt, biết đưa đàn chiên đến những nơi thực sự có cỏ xanh và nước sạch, biết bảo vệ đàn chiên khỏi những mục tử giả, những lái buôn. 6. Qua những bài diễn văn của Đức Thánh Cha, tôi thấy hướng mở ra về phía Thiên Chúa đã rất rõ, hướng mở ra về phía con người cũng khá rõ. Riêng hướng mở ra về phía con người được Đức Thánh Cha dần dần làm rõ thêm qua những trả lời báo chí phỏng vấn Ngài. Ngài nói là: Cần cổ võ cho một nền văn hoá của sự gặp gỡ. Trong cuốn “Tôi tin vào con người”, hai nhà báo được nói chuyện nhiều lần với Đức Jorge Bergoglio đã nhắc đi nhắc lại ý muốn của Đức Thánh Cha về sự phải coi gặp gỡ là mục vụ và văn hoá. 7. Ngài nói về Đất Nước Achentina của Ngài rất là bè phái. Người ta thích nhấn mạnh đến những gì chia rẽ nhau hơn là những gì đoàn kết với nhau. Người ta thích cổ võ tranh chấp hơn là hoà hợp. Chỉ có văn hoá gặp gỡ mới đưa gia đình và dân tộc đi về phía tương lai tốt đẹp. Nói về Hội Thánh tại Achentina, Ngài nói cơn cám dỗ lớn nhất là các linh mục trở thành nhà cai trị, chứ không còn là mục tử. Ngài than phiền: Nhiều người đến nhà xứ vì lý do bí tích hay việc nào đó, thì không được linh mục tiếp, mà là một bà thư ký tiếp, bà đó rất khó tính. Vấn đề thực là bà đó không phải chỉ làm cho người ta sợ và xa cha sở, mà còn làm cho người ta bỏ Hội Thánh và bỏ Chúa Giêsu. 8. Vì thế, theo Đức Phanxicô, tân Phúc Âm hoá là hãy bắt đầu bằng gặp gỡ. Gặp gỡ thân tình. Gặp gỡ thân tình còn là đi đến với con người. Phúc Âm nói: Mục tử nhân lành bỏ 99 con tốt, để đi tìm một con chiên lạc. Còn thực tế trong Hội Thánh chúng ta, thì xem như ngược lại. Đức Thánh Cha coi mục vụ gặp gỡ và văn hoá gặp gỡ là rất quan trọng. Nhưng thực hiện được đến mức nào thôi vẫn chỉ là hy vọng. Ngài coi việc thực hiện ý nguyện của Ngài là rất khó, như phải nhảy xuống sông trong đêm tối. Tuy nhiên, Ngài vẫn hy vọng, Ngài tin rằng: Về mặt nhân bản, nơi mỗi con người vẫn có những tiềm năng tốt. Về mặt đức tin, con người vẫn được Chúa thương bằng một tình yêu nhưng không đầy thương xót. 9. Với một thoáng nhìn trên đây về Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi thấy hướng mục vụ của Ngài giúp tôi thực thi một cách sâu sắc hơn hướng mục vụ của Hội đồng Giám Mục Việt Nam được tuyên bố trong thư mục vụ 1980 đó là: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”. Thực thế, “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” chính là hướng mở ra về phía Chúa và cũng mở ra về phía dân tộc. Điều tôi thấy cần bắt chước Đức Thánh Cha, để thực thi đường hướng đó một cách sâu sắc hơn, đó là cố gắng nhiều hơn đến việc đào tạo đời sống thiêng liêng. Tôi thấy Đức Thánh Cha Phanxicô có một đời sống thiêng liêng rất sâu, rất mạnh, rất vững, đặc biệt là ở điểm khiêm nhường và yêu thương. 10. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến trách nhiệm phải cứu con người khỏi khổ, nhất là khỏi tội lỗi, cứu con người khỏi mất linh hồn, cứu con người khỏi sa hoả ngục. Việc cứu khổ là cấp bách, đòi nhiều hy sinh. Chỉ có tình yêu mới cứu được. Tình yêu cứu độ là Chúa Giêsu. Các mục tử phải được đào tạo kỹ, để có tình yêu cứu độ từ Chúa Giêsu. 11. Qua những gì Đức Thánh Cha dạy về đào tạo, tôi thấy cần xem xét lại việc đào tạo môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Nhiều nơi, học nhiều mà đào tạo thì ít. Có nơi đào tạo chỉ là học thuộc mà thôi. Điều tôi cho là còn thiếu ở nhiều nơi đào tạo là đời sống thiêng liêng. Nhiều người đào tạo cũng nghèo đời sống thiêng liêng. Ít là chúng ta khiêm tốn nhận thức được là đào tạo nơi chúng ta còn thiếu sót nhiều, thì đó cũng là một khởi đầu tốt. Đêm 27-6 vừa qua, lúc 3 giờ 30, tôi mở đài truyền hình, chợt thấy một phim đang nói về các tôn giáo lớn ở Việt Nam. Riêng về Phật giáo, phim chiếu cảnh chùa chiền đào tạo các thanh thiếu niên về đời sống đạo, đặc biệt là về mặt linh thiêng. Điều làm tôi chú ý nhất là các thanh thiếu niên được hướng dẫn và tập luyện một cách tỉ mỉ về lối sống tu thân, từ cách ăn mặc, đến việc ăn uống, đi đứng, nói năng, chay tịnh, khó nghèo, thinh lặng, từ bỏ mình, cầu nguyện, và phục vụ người khác. Cảnh đào tạo đó gợi ý nhiều cho tôi về việc đào tạo các mục tử mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về Công giáo. Phải chăng Chúa muốn chúng ta hãy nhìn sang các tôn giáo bạn tại Việt Nam hôm nay, để càng phải mau chấn chỉnh lại việc đào tạo mình. Long Xuyên, ngày 01 tháng 7 năm 2013
Ngày 8-7-2013 vừa qua, tôi hân hậnh nhận được lá thư của Quốc Vụ Khanh Toà Thánh đề ngày 24-6-2013. Với nội dung thân tình, lá thư nói về Đức Thánh Cha Phanxicô có đoạn như sau: “Khi cuộc sống đã xế chiều, việc cầu nguyện một cách riêng biệt trở thành ‘sự duy nhất cần thiết’ cho việc thánh hoá bản thân, và cho việc xây dựng thân thể Đức Kitô, là Hội Thánh”. 2. Câu tâm sự trên đây đến với tôi rất đúng lúc. Bởi vì đời sống của tôi đang xế chiều. Tôi đang đi vào bóng đêm. Đêm nói đây không chỉ là sự xuống dốc của sức khoẻ, mà chủ yếu là những cơn đau. Đau thân xác vẫn nhiều. Đau tâm hồn lại nhiều hơn. Đau xác khổ hồn làm nên những cơ cực, tự mình như muốn xa tránh và loại trừ mình. Thêm vào những khổ đau của bản thân, lại gánh thêm những khổ đau của bao người khác. Một cách nào đó, khổ đau của Hội Thánh và của Quê Hương luôn dằn vật lương tâm tôi. Cho dù có phần chủ quan, đau khổ nào cũng là một thực tại nặng nề. Tôi không phải là đứng trước một đêm tối khủng khiếp, mà là đứng trong đêm hãi hùng. Tôi không trốn đâu được. 3. Nhưng chính trong sâu thẳm hãi hùng đó đã phát sinh một đời sống đức tin đặc biệt. Tôi tin Đấng có thể cứu chúng tôi là Chúa. Với niềm tin ấy, tôi cầu xin Chúa thương cứu tôi, cứu những người khác, cứu Hội Thánh và cứu Quê Hương. Cầu nguyện của tôi là rất riêng biệt. 4. Tôi nhận mình tội lỗi, yếu đuối, hèn hạ. Tôi năn nỉ. Tôi nài van. Tôi xin Chúa Thánh Thần thương cầu nguyện trong tôi và với tôi. Đôi khi tôi nại đến Lời Chúa để cầu xin với Chúa. Như: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy con rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy, nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,9-13). 5. Và, thực sự, Chúa đã ban Thánh Thần cho tôi, khi Người gởi đến cho tôi những trái tim nhân ái. Họ cứu tôi bằng những việc cụ thể, quảng đại, và tế nhị. Qua tình thương của họ, tôi tin Nước Thiên Chúa đang đến với tôi, với những người thuộc về tôi, và đến với Quê Hương tôi. Chúa dùng họ để làm những phép lạ cứu tôi. 6. Thế là, từ đức tin, việc cầu nguyện của tôi chuyển dần sang bác ái. Tôi cầu xin Chúa cho Hội Thánh của tôi được nhiều trái tim biết thương người theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã làm chứng rằng: Chỉ tình yêu mới cứu được loài người. Một tình yêu dám chấp nhận hy sinh mình trên thánh giá. Từ đó, cầu nguyện của tôi được xác định theo hướng đức tin phải được chứng minh bằng bác ái thương người. - Thương người một cách cụ thể, như làm các việc thương người mà Chúa sẽ căn cứ vào để cho được đứng bên hữu Chúa trong ngày phán xét (x. Mt 25,31-40). - Thương người một cách quảng đại, như người Samaritanô tốt lành, mà Chúa đã nêu gương cho những người tin Chúa (x. Lc 10,29-32). - Thương người một cách ưu tiên, như dấu chỉ chính thức của người môn đệ Chúa Giêsu (x. Ga 13,36). 7. Mới rồi, tôi được may mắn đọc thư mục vụ Mùa Chay 2012 của Đức Hồng Y Jorge Bergoglio, nay là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, gởi cho Tổng giáo phận Buenos Airs, trong đó Ngài quả quyết: “Không là đức tin thực sự nếu đức tin ấy không được diễn tả ra tình yêu. Tình yêu không quảng đại và cụ thể, sẽ không là tình yêu Kitô hữu”. 8. Như vậy, cái nhìn của người có đức tin phải là cái nhìn của tình yêu. Một tình yêu thương xót, biết kiên trì đi từng bước nhỏ. Một tình yêu đón nhận, biết kính trọng những khác biệt, để xây dựng tình nghĩa. Một tình yêu sáng tạo, biết biến đổi cái xấu thành cái tốt. Một tình yêu phân định, biết chọn cái nên làm, bỏ cái không nên làm tuỳ thời điểm. Chính vì thế, mà cầu nguyện hằng ngày của tôi là xin Chúa giúp tôi chấn chỉnh lại cái nhìn về người khác. Bỏ đi những cái nhìn kết án. Bỏ đi những cái nhìn xoi bói. Bỏ đi những cái nhìn dửng dưng. Bỏ đi những cái nhìn đại gia, quý tộc như người phú hộ bị chúc dữ trong Phúc Âm (x. Lc 16,19-31). Nhưng hãy có những cái nhìn dấn thân hơn cho Chúa trong mọi người thiếu thốn khổ đau, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 9. Đổi cái nhìn là rất khó. Có thể nói, đổi cái nhìn là đổi mới chính mình trở thành một tạo vật mới. Việc đổi mới này không thể thực hiện được chỉ nhờ học hỏi các tài liệu, nhờ tham gia các khoá hội thảo, nhờ đưa ra những khẩu hiệu, những nghị quyết, những tuyên hứa. Nhưng nhất quyết phải nhờ ơn Chúa, qua hoán cải chính mình, qua tập luyện kiên trì, nhất là qua cầu nguyện. 10. “Cầu nguyện một cách riêng biệt” đó là việc Đức Thánh Cha Phanxicô đang làm. Đó cũng là việc Toà Thánh gợi ý cho tôi. Tôi đang cầu nguyện như một người già nua đau yếu. Tôi đang cầu nguyện như một người tội lỗi sám hối trở về. Tôi đang cầu nguyện như một trẻ nhỏ ngây thơ. Tôi đang cầu nguyện như người kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa. Tôi đang cầu nguyện như một người sắp ra đi. Tôi đang cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và cùng với Đức Thánh Cha. Tôi đang cầu nguyện rất nhiều cho các mục tử tại Quê Hương tôi biết đọc được ý Chúa trong các dấu chỉ của thời đại, để biết thương xót đoàn chiên một cách cụ thể và quảng đại, nhất là bớt cho con cái mình những gánh nặng không cần thiết trong tình hình khó khăn và phức tạp hiện nay. Tôi cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho tôi. Long Xuyên, ngày 10 tháng 7 năm 2013
Chỉ mới một thời gian vắn từ ngày nhận trách nhiệm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tỏ rõ quyết tâm của Ngài muốn đổi mới Hội Thánh. Để đổi mới Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã coi vấn đề đổi mới các mục tử là ưu tiên số một. Một bước được coi là quyết liệt nhất, đó là những lời Ngài cảnh báo các mục tử với lời lẽ khá nặng nề. Người ta sẽ dễ thông cảm với Ngài, khi được biết những lời cảnh báo nặng nề đó không chút gì mới mẻ, nhưng chỉ tiếp tục những gì Ngài đã làm khi còn là Hồng Y coi sóc giáo phận thủ đô rộng lớn của một nước đa số là Công giáo.
Ngài coi việc cảnh báo là một bổn phận Chúa trao phó cho Ngài. Trong bài giảng lễ tại Buenos-Aeres, ngày 4.9.2009, Đức Hồng Y Jorge Bergolio đã mở đầu bằng Lời Chúa nói với tiên tri Isaia: “Cứ lấy hết gân cổ mà kêu lên, đừng kìm hãm, kêu lớn tiếng lên như tù và, báo cho dân Ta hay tội ác của chúng, cho nhà Giacóp biết những lỗi lầm đã phạm” (Is 58,1). Ngài cảnh báo thủ đô của Ngài, đồng thời, Ngài cảnh báo những ai được danh dự gọi các người khác là con cái mình. Ngài cảnh báo sự dửng dưng của họ trước cảnh khổ đau của dân. Ngài trách: “Họ đã quên khóc, bởi vì chính họ đã bán con cái mình. Họ đã quên khóc, bởi vì chính họ đã loại trừ con cái mình. Họ đã quên khóc, bởi vì chính họ đã đẩy con cái mình vào thân phận nô lệ”. Ngài cảnh báo một tình hình đau đớn: “Chúng ta đã ra cứng lòng. Chúng ta đã đánh mất trái tim”. 3. Hồi đó, Ngài nặng lời như thế. Hôm nay, Ngài vẫn cảnh báo một cách nghiêm khắc không kém. Chứng tỏ tình hình là nghiêm trọng. Ngài quả quyết: “Khi trái tim đã ra xơ cứng, thì tâm hồn sẽ trở thành ác độc một cách mau lẹ”. Xem ra theo Ngài, khủng hoảng lớn nhất nơi nhiều mục tử hiện nay là ở trái tim. Nhưng Ngài không bi quan. Ngài rao giảng niềm hy vọng vào Chúa giàu lòng thương xót. “Chúa sẽ ban tình yêu cho ta. Nhưng ta phải biết đón nhận, phải biết vun tưới, phải biết diễn tả.” 4. Đọc những lời cảnh báo liên tục của Đức Thánh Cha Phanxicô, từ hồi Ngài còn là Hồng Y cho đến hôm nay, tôi vừa lo sợ và cũng vừa hy vọng. Lo sợ có lúc rất mạnh. Nhưng rồi bao giờ hy vọng cũng hiện lên sáng sủa. Bởi vì tôi thực sự đã cảm nghiệm thấy tình Chúa xót thương là vô cùng vô tận. 5. Tôi thấy trong Hội Thánh tại Việt Nam, hiện tượng cứng lòng không phải là hiếm, hiện tượng đánh mất trái tim cũng không phải là ít, hiện tượng độc ác cũng có đó đây. Nhưng những hiện tượng như thế không xảy ra đều khắp, càng không tồn tại và phát triển một cách vững bền và cố chấp. Một dấu chỉ đáng mừng báo hiệu niềm hy vọng, đó là sự khiêm nhường. 6. Sự khiêm nhường đang hình thành từ nhiều phía. Phía đáng kể hiện nay là gương sáng về khiêm nhường của Đức Phanxicô. Ngài giản dị, khó nghèo, khiêm tốn, gần gũi. Các mục tử tại Việt Nam rất khâm phục Ngài. Một phía đáng kể khác hiện nay là gương sáng về khiêm nhường của nhiều mục tử tại Việt Nam. Khiêm nhường nơi các ngài là sự các ngài chân thành nghĩ tới những sai lầm của mình. Một trong những sai lầm, mà nhiều vị sám hối là sự các ngài nhiều khi đã để mình sa sút về đời sống nội tâm, do đó đã không nhận thấy rõ những khổ đau của con chiên mình, để cảm thương và để cứu họ. Một trong những sai lầm khác mà nhiều vị lo sợ, là sự các ngài nhiều khi có thể đã dung dưỡng những thói quen xấu, mà các tư tế thời xưa đã tự hào, và đã bị Chúa Giêsu khiển trách, đó là thói quen đạo đức nặng về hình thức, căn cứ vào luật nọ luật kia, để tìm tư lợi, né tránh việc bác ái cứu người đau khổ. 7. Những việc khiêm nhường trên đây là những khởi đầu tốt cho việc đổi mới Hội Thánh nói chung và đổi mới bản thân mục tử nói riêng. Tội lỗi và yếu đuối đến mấy, nhưng có khiêm nhường, thì sẽ được ơn đổi mới. Trái lại, thành công và đạo đức đến mấy, nhưng không có khiêm nhường, thì sẽ mất hết. Vì thế, lúc này, thiết tưởng chúng ta nên nhắc nhiều đến khiêm nhường. Bởi vì tình hình rất cần được đổi mới, đổi mới này phải nhờ ơn Chúa. Thánh Phêrô quả quyết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). 8. Tôi có cảm tưởng là những cảnh báo của Đức Thánh Cha Phanxicô đang nhắc lại những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Nếu nhắc lại đó lại có nghĩa như chuẩn bị cho một tai hoạ khủng khiếp đã được báo ở Fatima, thì chúng ta phải đón nhận lời cảnh báo của Đức Phanxicô với lòng khiêm nhường sám hối thành thực và khẩn cấp. Khiêm nhường nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu không buộc anh chị em phải là kitô hữu. Nhưng nếu anh chị em là kitô hữu, thì anh chị em phải tin vào Chúa Giêsu. Một mình Người có sức mạnh đổi mới thế giới, đổi mới cuộc đời của anh chị em, đổi mới gia đình của anh chị em, đổi mới cộng đoàn của anh chị em, đổi mới tất cả mọi người. Đó là sứ điệp chúng ta phải mang theo mình ngay từ hôm nay. Chúng ta cầu xin Chúa Cha thương giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng Thánh Thần, là Thánh Thần của Đức Giêsu, Đấng sẽ làm việc đó” (ĐHY. Bergolio, lễ Thêm Sức ở nhà thờ thánh Lôrensô, Rôma, ngày 18.02.2012). 9. Với sứ điệp trên đây, chúng ta tin sẽ có đổi mới. Đổi mới cách nào đều sẽ do Chúa Giêsu. Vì thế, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy đón nhận sự đổi mới ấy và cộng tác vào sự đổi mới ấy bằng sự khiêm nhường. Khiêm nhường bằng sự sám hối, khiêm nhường trong tình yêu đón nhận, khiêm nhường trong tình yêu cho đi, để trở thành người con của Thiên Chúa là tình yêu, mở rộng Nước Chúa là Nước tình yêu, gắn bó với mọi người bằng tình yêu phục vụ liên đới. Như vậy, cảnh báo của Đức Thánh Cha Phanxicô gởi các mục tử đúng là một cảnh báo của tình yêu. Chúng ta khiêm nhường đón nhận như một ân huệ Chúa trao ban. Hãy lo sám hối sửa mình, như một ưu tiên đổi mới. Hãy cầu nguyện thực nhiều, để biết nhìn vào sự thực nơi chính mình, một sự thực đầy những yếu đuối. Hãy cầu nguyện thực nhiều, để biết can đảm gỡ bỏ các thứ hào quang giả tạo, để khiêm tốn phó thác mình cho tình yêu thương xót Chúa. Hãy cầu nguyện thực nhiều, để biết nhận thấy cái xà trong con mắt mình hơn là cái rác nơi con mắt người khác. Hãy cầu nguyện thực nhiều, để biết trở về với Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường, tự nguyện chịu chết trên thánh giá, để cứu chuộc loài người. Hãy phấn đấu yêu thương như Chúa đã yêu thương. Cúi xin Đức Mẹ Maria thương dẫn dắt chúng ta trên đường khiêm tốn “xin vâng”.
Trong thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin”, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô mới ban hành ngày 29.6.2013 vừa qua, tôi thấy có một đoạn lôi cuốn tôi một cách đặc biệt, đó là đoạn: “Đức tin như một thính giác và thị giác” gồm ba số 29, 30, 31. Đoạn đó lôi cuốn tôi một cách đặc biệt, bởi vì chính tôi đã cảm nghiệm thấy đức tin trong tôi có một khả năng Chúa ban, để nhận ra Chúa. Nhận ra tiếng của Người, nhận ra dung mạo của Người, nhận ra thánh ý của Người. Tất nhiên, những nhận ra đó luôn nhận mình chỉ ở mức độ thấp và chỉ mang tính cách riêng tư. Cảm nghiệm đó xảy ra trong tôi đã từ rất lâu. Cho đến hôm nay, đức tin trong tôi là một gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ đó rất riêng tư, rất thân mật. Có nghe thấy, có nhìn thấy, có chạm đến. Một đức tin như thế là một hồng ân siêu nhiên Chúa ban cho tôi. Đức tin như thế đã trở thành ánh sáng hướng dẫn suốt hành trình cuộc đời tôi. 2. Trong tâm tình tạ ơn Chúa về hồng ân cao cả đó, tôi xin phép nói lên đôi chút về cảm nghiệm đức tin như một thính giác và thị giác, mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập trong thông điệp Ánh Sáng Đức Tin. Đôi chút cảm nghiệm này xin được chia sẻ những gì rất riêng tư, nhất là trong đời Giám mục của tôi. Tháng tư, năm 1975, tình hình miền Nam thay đổi từng giờ. Một hôm, tôi được Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ đích thân tới thăm tại phòng riêng của tôi. Ngài hỏi thăm tôi về tình hình sức khoẻ. Rồi với vẻ trân trọng, Ngài cho tôi biết là Toà Thánh quyết định chọn tôi làm Giám mục phó giáo phận Long Xuyên. Tôi thực sự xấu hổ và hoảng sợ. Tôi xin Ngài thương cứu tôi bằng cách trình với Toà Thánh là tôi xin được phép từ chối. Ngài bình tĩnh trấn an tôi và quả quyết là sự chọn lựa của Toà Thánh đã được cân nhắc. Tình hình rất nghiêm trọng, cần phải vâng lời. Rồi Ngài ra về với lời ủi an khích lệ. 3. Đang lúc bối rối, tôi chợt nhớ hôm đó là ngày thứ sáu, và lúc đó là khoảng 3 giờ trưa. Tôi như nhìn thấy Chúa Giêsu trên thánh giá. Chúa cho tôi thấy chỉ có tình yêu Chúa dám hy sinh đến cùng trên thánh giá mới cứu được con người. Tôi như nghe Chúa kêu cầu: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 33,46). Đức tin của tôi trong giờ phút bất ngờ trên đây là như thính giác và thị giác. Tôi như nhìn thấy Chúa Giêsu. Tôi như nghe thấy những lời Người nói. Hơn nữa, tôi như cảm được những tâm tình của Người. Tôi nhìn thấy Người yêu thương tôi, mặc dầu tôi hèn hạ yếu đuối. Tôi nhìn thấy trách nhiệm nặng nề và tình hình rất phức tạp. Tôi nhìn thấy rõ chỉ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. 4. Nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy là những gì đi sâu vào trái tim, chứ không là lý thuyết. Trái tim được nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy Chúa Giêsu, có thể coi như trái tim được chạm đến tình yêu Chúa. Đúng là một hồng ân cao cả. Hồng ân cao cả ấy giúp tôi cậy trông phó thác mình cho tình yêu Chúa, hướng về một tương lai được xác tín là tình yêu sẽ thắng. Nhưng thắng của tình yêu Chúa được thể hiện trên nhục hình thánh giá. Một tình yêu chịu đau khổ, để đền tội thay. Đền tội thay cho những con người tội lỗi biết sám hối, và cả cho những con người tội lỗi cố chấp. 5. Cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thánh giá vì yêu thương giữa một đám đông vẫn chọn tội lỗi hơn chọn sự sám hối, là một thực tế làm tôi quá sợ hãi. Tôi cũng sẽ phải như thế sao? Sự quá sợ hãi đó tôi chỉ thắng vượt được nhờ đức tin, một đức tin là như nhìn thấy Chúa, như nghe thấy Chúa, như cảm được Chúa trên thánh giá đã dấn thân đến cùng cho tình yêu. Qua đó, Chúa ban cho tôi ơn được tin vào tình yêu thương xót Chúa. Tôi thắng vượt được sợ hãi, nhưng sợ hãi vẫn còn, khó khăn vẫn chồng chất. 6. Trong sợ hãi, tôi cầu nguyện thực nhiều, một cách rất đơn sơ. Đột nhiên, tôi nhớ tới câu chuyện đã xảy ra cho mẹ tôi 48 năm về trước. Chuyện đó vẫn được mẹ kể đi kể lại như một sự lạ lùng. Đại khái thế này: Khi mẹ tôi mang thai tôi, bố mẹ tôi vẫn có thói quen lần chuỗi chung trước khi ngủ. Tối hôm đó, đọc kinh xong, mẹ vào mùng ngồi đọc kinh riêng. Bỗng mẹ thấy một cây nến cháy xuất hiện giữa nhà. Mẹ sửng sốt, tiếp tục đọc kinh. Bỡ ngỡ tiếp theo sửng sốt: Mẹ thấy một chiếc ghế trống xuất hiện sau cây nến. Mẹ hết sức hoảng hồn, khi thấy một người không rõ mặt đến ngồi vào ghế. Người đó mặc phẩm phục giám mục. Mẹ chưa hiểu gì, thì thấy Đức Mẹ hiện ra đứng đàng sau vị giám mục đó, một tay để trên vai ngài. Mẹ vui mừng tiếp tục đọc kinh. Một lát sau, tất cả cảnh lạ đó đều biến đi. Mẹ vội gọi bố, và kể lại những gì đã thấy. Nhưng bố không tin. Còn mẹ thì tin là mình đã thấy thực sự. Mẹ bùi ngùi không hiểu những gì mẹ được thấy có ý nghĩa gì. 7. Bây giờ, trong giờ phút sợ hãi vì được gọi làm giám mục, chuyện đó hiện lên trong tôi như một ánh sáng. Tôi nhìn thấy Chúa nhìn tôi ngay khi tôi còn trong lòng mẹ. Tôi như nghe được tiếng Chúa gọi tên tôi. Tôi cảm thấy bàn tay Mẹ Maria đang đặt trên vai tôi lúc này, để ủi an và che chở tôi. Tôi tin vào Chúa. Đức tin của tôi lúc này là khả năng nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy Chúa Giêsu. Tất cả đều rất riêng tư. Tôi xác tín tôi được Chúa yêu thương, mặc dầu tôi tội lỗi, sẽ bơi lội vụng về trong dòng lịch sử đầy sóng gió. 8. Trong tâm tình cảm tạ và phó thác, tôi thầm thưa với Chúa là suốt đời tôi sẽ làm chứng cho niềm tin vào Chúa. Niềm tin ấy sẽ như ngọn lửa bé nhỏ. Để chọn biểu tượng, tôi chọn cây nến cháy, như hình ảnh mẹ tôi đã thấy 48 năm về trước. Tôi chỉ mong mình được là ngọn lửa bé nhỏ như thế thôi. Nhưng rồi, đức tin của tôi không ngừng lại ở những gì mình đã được thấy, được nghe, được cảm về Chúa. Do biến cố sau đây: 9. Mấy ngày sau khi thụ phong Giám mục, một đêm tôi gặp được Chúa Giêsu. Người cầm tay tôi, dẫn vào một bệnh viện rộng lớn. Người đưa tôi qua các phòng bệnh. Bệnh nhân nằm la liệt, quằn quại trong đau khổ. Tôi cảm thấy xót xa. Tôi đau nỗi đau của họ. Và một lúc, lòng tôi như muốn vỡ ra. Tôi bừng tỉnh, tôi thấy lửa đức tin trong tôi đã biến thành lửa tình yêu thương xót dành cho những người đau khổ. 10. Lửa tin yêu ấy khiến tôi nhiều khi phải cô đơn, như bị loại trừ. Trong cơn đau đớn, tôi kêu kên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Và tôi hiểu lửa tin yêu trong lòng tôi được cảm nghiệm như một sự chia sẻ thân phận những người cùng cực nhất. Họ khổ lắm. Họ lầm than lắm. 11. Tới đây, tôi xin phép được kết luận thế này: Đức tin trong tôi có một phần rất lớn là khả năng Chúa ban để thấy được, nghe được, chạm tới được và nhận ra được Chúa Giêsu. Đức tin ấy là một ngọn lửa. Ngọn lửa đó không những soi sáng, mà còn thanh luyện và đốt nóng, thúc đẩy tôi đi ra khỏi cái tôi, để đến với Chúa và đến với con người, nhất là con người cùng khổ. Đức tin đó là một cuộc xuất hành. 12. Lửa đức tin đó từ đâu? Chúa Giêsu phán: “Thầy đã đem lửa vào thế gian, và Thầy chỉ mong lửa ấy cháy bùng lên” (Lc 12,49). Thế nghĩa là lửa đức tin trong tôi là do Chúa Giêsu đốt lên. Người đốt lên và Người ở trong đó. Nhờ lửa đức tin ấy, tôi biết biến đổi mọi đau đớn tôi chịu thành những việc yêu thương có giá trị cứu độ. Cũng nhờ lửa đức tin ấy, tôi đi về Cõi Sau, từng bước theo Chúa Giêsu, trong niềm phó thác tuyệt đối vào Cha trên trời giàu tình yêu thương xót. Đức tin của tôi là như thế. Tôi phải biết khiêm nhường đón nhận, tỉnh thức bảo vệ, siêng năng chăm sóc, và chân thành diễn tả. Nhất là trong những thử thách cam go khủng khiếp đang và sẽ đổ xuống lịch sử một cách bất ngờ. Chúa ơi! Con nay thuộc về Chúa. Xin Chúa thương dắt dìu con.
“Xin cảm tạ Chúa” đó là lời tôi nói lên, mà cảm thấy tâm tình tôn phục và thờ phượng Chúa trào lên trong lòng tôi. Dù có lúc không nói rõ bằng miệng, mà chỉ nói âm thầm bằng tâm trí, lời biết ơn Chúa trong tôi vẫn dạt dào tâm tình cầu nguyện và sám hối. Thánh Phaolô dạy tôi: “Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5,17). Tôi làm như vậy, cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Có thể nói, chính trong những hoàn cảnh tối tăm, tâm tình cảm tạ Chúa trong tôi càng thêm sâu sắc. Bởi vì chính trong những hoàn cảnh bi đát, tôi càng thấy rõ ơn Chúa ban cho tôi thực là bao la, thực là cao quý. Đặc biệt là ba ơn sau này: 2. Ơn thứ nhất là ơn đức tin. Đức tin là món quà vô giá Chúa ban cho tôi, nhờ đó, theo kiểu nói của thánh Phaolô, tôi được nên công chính. Đức tin trong tôi thường bị thử thách bởi nhiều cơn bão táp. Bão táp do thế gian, do xác thịt và do ma quỷ. Ma quỷ là thứ thù địch hung ác, mà thánh Phêrô ví như “Sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Nó rất lừa dối. Tôi chỉ có thể đối phó với nó bằng một đức tin tỉnh thức nhờ ơn Chúa. Vì thế, trong mọi thử thách, tôi cảm tạ Chúa luôn ban cho tôi ơn biết đón nhận một đức tin tỉnh thức. 3. Ơn thứ hai là ơn đức cậy. Với ơn đức cậy, tôi chờ đợi giờ Chúa đến. Người sẽ đưa tôi qua cõi đời này, để về với Chúa trên cõi phúc trường sinh. Sự cậy trông này trong tôi luôn bị thử thách. Thử thách quen thuộc nhất là không mặn mà trông chờ hạnh phúc đời sau, không tỉnh thức trông chờ Chúa đến, không khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa, mà cứ trông chờ những sự không là phần rỗi đời đời. Những thử thách như thế xảy ra hằng ngày. Nếu trong các thử thách tôi vẫn cố gắng giữ được đức cậy một cách vững vàng, thì đó là một ơn đặc biệt Chúa ban. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa. 4. Ơn thứ ba là ơn đức ái. Đức ái là dấu chỉ tôi được trở nên tạo vật mới, được qua sự chết để vào sự sống mới của Thiên Chúa tình yêu. Đức ái trong tôi cũng luôn bị thử thách. Thử thách về đức ái là rất ghê gớm. Do lòng người độc ác hơn là do lòng người ích kỷ. Thế mà tôi vẫn được Chúa khuyên là hãy thứ tha, hãy đền tội cho họ, hãy cứu họ. Ít ra hãy cố gắng cứu những nạn nhân của sự độc ác loài người. Nếu mặc dầu bị thử thách ác nghiệt, tôi vẫn cố gắng yêu thương như Chúa yêu thương, thì rõ ràng đó là ơn đặc biệt Chúa ban. Đức ái trong tôi lúc đó phải được coi như một phép lạ. 5. Khi nhìn đức tin, đức cậy, đức ái trong tôi vượt qua được những thử thách, để bám vào Chúa, tôi xác tín điều đó là ơn nhưng không Chúa ban, do lòng thương xót Chúa, chứ không do công phúc nào của tôi. Do vậy, sự tôi cảm tạ Chúa mang theo một sự khó nghèo sâu thẳm. Sự khó nghèo này càng được cảm nghiệm thấm thía, khi tôi thấy mình rất yếu đuối, đã có nhiều lúc chao đảo, nhưng rồi lại được Chúa cầm tay dắt đi. 6. Khi tôi cảm tạ Chúa vì ba ơn trọng đại, tôi đã không chỉ nhìn vào mình, mà còn nhìn vào nhiều người khác. Bởi vì nhiều người khác cũng được ơn như tôi, và hơn tôi. Nhìn lại những năm dài đời tôi, tôi đã gặp nhiều người như sống trong cảnh địa ngục. Nếu địa ngục có nhiều tàng, thì một số người trong họ kể như ở những tầng sâu nhất, do bị khinh chê, ngược đãi, hành hạ. Thế mà nhờ ơn Chúa, họ đã có một đức tin sâu, một đức cậy vững, một đức ái quảng đại. Có thể là họ đã nhận được những ơn đó không phải một lúc, nhưng từ từ, giữa những vấp ngã vì yếu đuối. Nhưng họ đã trở lại. Sự sám hối của họ được Chúa coi là một niềm vui lớn cho tất cả thiên đàng. Như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Tôi nói cho các ông hay, trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7). 7. Những ơn đó được Chúa ban cho họ trong Đức Giêsu. Như lời thánh Phaolô viết: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa vì anh chị em, về ân huệ Người đã ban cho anh chị em nơi Đức Kitô Giêsu” (1 Cr 1,4). Nhìn thấy nhiều người được Chúa Giêsu thương ban ơn sám hối trở về, tôi rất tạ ơn Chúa, bằng cách cũng sám hối trở về như họ và với họ. 8. Cảm tạ của tôi lúc ấy hướng về phần rỗi một cách rõ rệt. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu người ta được cả thế gian, mà phải mất linh hồn, thì nào có lợi gì” (Mt 16,26). Phần rỗi của riêng mình và phần rỗi người khác, đó là điều tôi luôn nhớ tới khi cảm tạ Chúa. Phần rỗi ấy là một ân Chúa ban, nhưng cũng đòi một sự chiến đấu cam go. Trong chiến đấu này, tôi đã nhận được nhiều giúp đỡ phù trợ của Hội Thánh và của nhiều người tốt. Vì thế, trong cảm tạ Chúa, tôi rất nhớ ơn Hội Thánh và các ân nhân xa gần. 9. Cảm tạ Chúa là việc đạo đức hằng ngày. Nhiều ngày, khi tôi cảm tạ Chúa, tôi được nghe tiếng Chúa dạy tôi là hãy làm mới lại việc cảm tạ. Tôi hiểu Chúa không hài lòng với việc cảm tạ làm theo thói quen một cách hình thức. Tôi làm mới lại việc cảm tạ Chúa bằng những sáng kiến được nẩy sinh do thời sự. Sáng kiến nào của tôi cũng nhắm vào việc giải cứu con người khỏi tội lỗi và ác thần, đưa họ vào con đường dẫn tới phần rỗi. 10. Hiện giờ, một thời sự khiến tôi rất lo lắng, đó là nhiều thứ khốn khổ đang đe doạ xảy ra cho đồng bào, cả Đạo cả Đời. Thứ khốn khổ đáng lo nhất là sự mất đạo đức và mất niềm tin. Trước hiểm nguy đó, Chúa dạy tôi hãy làm mới lại sự cảm tạ Chúa hiện nay bằng tăng cường cầu nguyện, hy sinh, và quảng đại một cách cụ thể. Một sáng kiến nữa, mà Chúa muốn, là hãy báo động cho Hội Thánh Việt Nam. Xin hãy tỉnh thức nhiều hơn trong việc giáo dục và đào tạo, kể cả trong các hình thức mang tên tạ ơn Chúa, bởi vì, gian ác và gian dối đang cố gắng lẻn vào khắp nơi, để phá vỡ chương trình phục vụ phần rỗi. 11. Tới đây, tôi thấy việc cảm tạ Chúa chính là một hồng ân Chúa ban. Khi không là hồng ân Chúa ban, mọi việc cảm tạ Chúa dễ trở thành đạo đức giả. “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa, vì con không như bao kẻ khác...”. Đó là lời cảm tạ của người Pharisêu trước bàn thờ được Chúa nói tới trong dụ ngôn “hai người cầu nguyện” (Lc 18,9-14). Lời cảm tạ đó bị Chúa từ chối như một thứ ghê tởm đầy gian dối. Chỉnh đốn lại việc cảm tạ Chúa, thiết tưởng đó là một trong nhiều điều cần thiết, để đổi mới Hội Thánh và đổi mới chính bản thân mỗi người. Tôi xin phép được kính gởi tư tưởng hèn mọn trên đây lên Đức Thánh Cha Phanxicô, một vị lãnh đạo Hội Thánh đang rất thao thức về việc đổi mới Hội Thánh, trong một thời điểm rất ồn ào với những tạ ơn Chúa vì nhiều thứ công trình, chức quyền và thành công. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã được lên Trời, xin Mẹ thương giúp con biết cảm tạ Chúa theo gương khiêm nhường của Mẹ. Long xuyên, ngày 10 tháng 8 năm 2013.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng Y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp” (Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Jeneiro). 2. Thực sự, “Đừng quên người nghèo”, là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. Xin cảm ơn Đức Hồng Y Hummes. Xin cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô. “Đừng quên người nghèo”, cũng đượccoi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay. 3. Riêng tôi, với tư cách là môn đệ Chúa Giêsu, tôi đón nhận lời khuyên “đừng quên người nghèo”, cũng trong tâm tình của các môn đệ được sống bên Chúa Giêsu xưa. Đại khái như sau: Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo, mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). 4. Chúa Giêsu sinh ra ở Belem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo. Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi. 5. Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết. Sỡ dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu. Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại. Để rồi, mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm. 6. Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện. Hôm nay, “đừng quên người nghèo” được nhắc lại và được hưởng ứng một cách rộng rãi. Không chỉ vì người nghèo đang trở thành một lớp người ngoài lề vừa đông vừa khổ, mà còn vì uy tín của Hội Thánh sẽ tuỳ thuộc rất nhiều ở sự lo cho người nghèotheo gương Chúa Giêsu. 7. Tại Á châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng, hầu như mọi tôn giáo hiện nay đang cố gắng đổi mới mình bằng ba giá trị thiêng liêng này: Một là tu thân. Hai là gắn bó với dân tộc. Bà là phục vụ người nghèo. Trong Hội Thánh Công giáo Việt Nam, nhiều cá nhân, nhiều tập thể đã ý thức về sự cấp bách phải đổi mới mình và đạo mình qua ba giá trị đó. Nhưng ý thức như thế vẫn chưa được rộng khắp, nhất là chưa được chính thức khởi động. Vì thế, lời nói và lối sống của Đức Thánh Cha Phanxicô, “đừng quên người nghèo” đang là một nhắc nhủ và cũng là một thách thức cho các Hội Thánh Công giáo tại Á châu nói chung, tại Asean nói riêng, và tại Việt Nam một cách đặc biệt. 8. Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng Y, và khi đã làm Giáo Hoàng, tôi xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo. Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tuỳ khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu. 9. Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phaxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ. Để kết, tôi xin nói lên cảm tưởng riêng của tôi về “đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Tôi nghĩ, đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn. Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự huỷ. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. Long Xuyên, ngày 15 tháng 8 năm 2013
Ngày thứ Bảy, 17.8.2013 là một ngày buồn. Buổi sáng, Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, Giám mục Bùi Chu, qua đời. Buổi tối, Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân, Giám mục Vĩnh Long, cũng đột ngột qua đời. Tôi hiểu cái chết của hai Đức Cha là một chọn lựa của chính Chúa. Chúa gọi. Hai môn đệ Chúa lập tức ra đi. Các ngài ra đi mau lẹ, bỏ lại tất cả, dứt khoát phải vâng theo ý Chúa. 2. Tôi coi biến cố này như một sứ điệp. Chúa nhắn nhủ tôi cũng những lời Chúa đã gọi các tông đồ thuở xưa. Chúa gọi trong suốt đời tôi. “Hãy theo Thầy” (Ga 1,43) Chúa gọi mà không cắt nghĩa gì. Hơn nữa, Chúa còn nói: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo Thầy, thì không thể làm môn đệ Thầy được” (Lc 14,27). Thánh sử Luca thuật lại những đòi hỏi dứt khoát của Chúa Giêsu. Một người được Chúa gọi, xin Chúa cho phép mình về an táng người cha của mình, thì được Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết. Phần anh, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Người khác được Chúa gọi, xin Chúa cho phép trở về từ giã những người thân, thì được Chúa trả lời: “Ai cầm cày trong tay mà còn nhìn lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,59-62). Người khác được Chúa gọi, xin theo Chúa, tưởng sẽ được giàu sang ở đời này, thì được Chúa cho biết: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9,57-58). 3. Các môn đệ Chúa xưa cũng đã rất dứt khoát trong việc trả lời tiếng Chúa gọi: “Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Chúa Giêsu” (Lc 5,11). Tất cả sự dứt khoát của người theo Chúa là: Từ bỏ mọi sự, tin vào Chúa, và đi theo Chúa. Nhờ vậy, họ được đổi mới. 4. Những gì các tông đồ xưa đã làm khi theo Chúa Giêsu, vẫn được truyền lại cho mọi thế hệ các môn đệ Chúa tới bây giờ. Khi dứt khoát xin theo Chúa với tất cả những gì Chúa đòi hỏi về sự từ bỏ và dấn thân, tôi nhận thức rất rõ về sự yếu đuối của tôi. Nhưng tôi theo gương Đức Mẹ Maria và các tông đồ xưa mà thưa “Xin vâng”. Đó là một lời “xin vâng” thành thực, được Chúa chấp nhận và Chúa sẽ thánh hoá. Suốt cuộc đời theo Chúa Giêsu được tôi cảm nghiệm như “một hạt lúa gieo vào lòng đất, để có thể sinh ra nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Do phải từ bỏ, phải vác thánh giá, phải hy sinh mạng sống mình. 5. Nhưng càng bước theo Chúa như vậy, tôi càng được Thánh Thần của Chúa đồng hành. Người cho tôi tin vững vàng vào sự Phục Sinh. Ngày thứ bảy tuần thánh là ngày đợi chờ Chúa Phục Sinh. Đợi chờ bên Đức Mẹ Maria, người mẹ đã sống niềm tin vững vàng trong một tình hình đầy tối tăm chán nản. Tôi xin phép nói với hai Đức Cha mới ra đi là nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam cũng như hai Đức Cha sẽ đi theo Chúa một cách dứt khoát, trong niềm tin vững vàng vào Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Chuộc loài người, mà chúng ta hết lòng tin tưởng, yêu mến và cậy trông. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cứng lòng, nhiều dửng dưng trước lời Chúa gọi. Cơn thử thách lớn đang tới gần, dù muốn dù không, chúng ta sẽ phải bỏ lại và ra đi, sẽ không kịp gì. Xin Chúa thương chúng con. Long Xuyên, ngày 20 tháng 8 năm 2013.
Nếu ai hỏi tôi lý tưởng đời tôi là gì, tôi sẽ trả lời một cách vắn gọn: “Đời tôi như của lễ”. Nếu ai hỏi về của lễ mà tôi dâng là gì, tôi cũng sẽ trả lời một cách vắn gọn: “Của lễ tình yêu”. 2. Chọn lựa của tôi được dựa trên Kinh Thánh. Thánh Phaolô quả quyết: Đức ái là cao quý nhất, hơn nữa, là quan trọng hơn cả. Ngài viết: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng có ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3). 3. Như vậy, tình yêu là con đường tuyệt hảo hơn hết. Tình yêu là ân huệ hoàn hảo hơn hết. Nhiều vị thánh đã triển khai tư tưởng đó bằng những lời khác nhau. Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Hành động nhỏ bé nhất mà do tình yêu tinh tuyền sẽ có lợi ích hơn tất cả các công trình khác hợp lại với nhau” (Ca thiêng thánh Gioan Thánh Giá). 4. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói: “Tình yêu gồm hết mọi địa vị trong thân thể Chúa, tình yêu là tất cả, tình yêu bao gồm mọi thời gian và không gian... Tắt một lời tình yêu là bất diệt” (Thư gởi chị Marie du Sacré Coeur). Ý thức được như vậy, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã chọn cho mình con đường tình ái, chỉ vì Ngài biết mình quá yếu đuối và bé nhỏ. Ngài viết: “Con chỉ là một đứa trẻ nít bất lực và yếu đuối. Chính sự yếu đuối của con đã khiến con táo bạo tận hiến làm của lễ toàn thiêu cho tình yêu Chúa” (Thư gởi chị Marie du Sacré Coeur). Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhận thấy rõ ràng Chúa đã yêu thương con người đến nỗi hạ mình xuống một cách tột độ. Vậy thì tình yêu chỉ có thể đáp lại bằng tình yêu. “... Con không có phương pháp nào khác để minh chứng tình yêu của con đối với Chúa ngoài việc tung hoa, nghĩa là không để mất một hy sinh nhỏ bé nào, một cái nhìn nào, một lời nói nào. Con sẽ lợi dụng tất cả những việc nhỏ nhặt nhất và làm chứng với tất cả một tình yêu mến. Con muốn chịu đau khổ vì yêu mến. Như vậy con sẽ tung hoa trước ngai Chúa, hễ gặp bất cứ bông hoa nào là con nhấc cánh dâng lên Chúa... Rồi tay thì dâng hoa miệng thì ca hát. Và con ca hát ngay cả khi hái những bông hoa giữa gai góc, mà gai góc càng dài càng đâm đau đớn bao nhiêu thì tiếng hát tình yêu của con càng du dương bấy nhiêu” (Thư gởi chị Marie du Sacré Coeur). 5. Những lời trên đây của thánh nữ Têrêsa làm tôi nhớ tới giá trị của đau khổ trong tình yêu, mà Chúa Giêsu đã nói tới trong Phúc Âm: “Thật, Ta bảo thật, nếu hạt lúa rơi xuống đất mà không mục nát đi thì nó vẫn cứ trơ trọi như thế, nhưng nếu nó mục nát nó sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 12,24-25). 6. Đối với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, khi cuộc đời trở thành của lễ tình yêu, thì không phải chỉ chấp nhận đau khổ vì yêu, mà còn phải đối xử với người khác cũng bằng tình yêu. Về điểm này thánh nữ Têrêsa đã đưa ra kinh nghiệm của bản thân mình: “Bản tính của con là bản tính mà sự sợ hãi có thể làm con lùi bước, nhưng với tình thương không những con tiến mà còn bay nữa” (Tự Thuật). 7. Tình thương đối với người khác còn phải được trong sáng trong những việc từ thiện xã hội. Thánh Phaolô viết: “Tôi không cần tặng vật mà cần cho anh em được sinh hoa kết quả dồi dào” (Pl 4,17). Thánh Augustinô cắt nghĩa lời của thánh Phaolô trên đây như sau: “Lạy Chúa, Chúa đã dạy con cho biết phân biệt giữa tặng vật và hoa lợi. Tặng vật là của cải mà người ta giúp đỡ chúng con trong lúc cần thiết như tiền bạc, của ăn, của uống, áo quần, nhà ở và mọi cứu trợ khác. Còn hoa lợi là ý chí tốt lành và ngay thẳng của kẻ cho” (Tự Thuật, Giá trị thật của việc bác ái, 41). Tôi hiểu ý chí tốt lành và ngay thẳng là tình thương vô vị lợi, hơn nữa là vì mến Chúa mà bác ái quên mình. Gương sáng gần tôi nhất là thánh Têrêsa Calcutta. Tới đây tôi hiểu thế nào đời tôi là của lễ thực sự. 8. Thực hiện được như vậy cũng là đã khó. Tôi rất cần phải có ơn Chúa. Cái khó hơn nữa chính là của lễ không ngừng. Nghĩa là phải thực hiện từng ngày, từng giờ, từng phút, không nản lòng, không thối chí. Về điểm này, tôi rất biết ơn Hội Thánh của tôi. Hội Thánh mà tôi nói đây là Hội Thánh mở ra về phía Nước Trời. Một Hội Thánh thực sự là thánh nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thương giải cứu con người bằng một tình yêu không mỏi mệt, một tình yêu hy sinh đến cùng, để đền tội thay cho nhân loại. Tình yêu này rất khiêm nhường, rất quảng đại. Đời tôi như của lễ không hề ngưng. Tôi mượn lời trên đây từ bài nhạc của Ngọc Kôn, người học trò cũ yêu mến của tôi. Xin cảm ơn Anh. Tôi thiết nghĩ nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam cũng đang sống đời mình như của lễ tình yêu. 9. Khi tôi nói “Đời con như của lễ không hề ngưng”, tôi nhìn lên Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót. Tôi xin Chúa Cha nhìn của lễ đời tôi, trong và cùng với của lễ Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tôi biết đời tôi chẳng là gì. Nhưng nó sẽ có giá trị nhờ kết hợp với của lễ tình yêu của Chúa Giêsu. Tôi cũng tha thiết xin Đức Mẹ luôn ở bên tôi. Mẹ phủ trên tôi tình yêu “Xin vâng” của Mẹ, để rồi Mẹ dâng tôi như đứa con bé nhỏ lên Chúa là Tình yêu thương xót. Sống như của lễ tình yêu, chết cũng như của lễ tình yêu. Đó chính là ân huệ cao quý Chúa thương ban. Tôi tin như vậy với tất cả tấm lòng khiêm tốn cảm tạ Chúa nhân lành. Đó cũng là điều linh thiêng cao quý, mà tôi xin thân ái và thành thực cầu chúc cho mọi người trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu, nhân ngày LỄ QUỐC KHÁNH 2013. Long Xuyên, ngày 25 tháng 8 năm 2013.
Lúc này, câu kết thúc kinh Lạy Cha đang trở thành một điều khẩn cấp đối với tôi. Tôi khẩn khoản cầu xin Chúa “cứu chúng con khỏi sự dữ”. Tôi thấy sự dữ hiện nay là rất lớn, rất nhiều. Nếu muốn kể ra những gì là sự dữ mình phải chịu và muốn tránh, thì mỗi người xem ra sẽ rất vắn. Bởi vì hầu hết đều nghĩ rằng: Nói hết ra những gì là sự dữ mình phải chịu và muốn tránh, thì không những sẽ chẳng có lợi gì cho mình, mà còn gây thêm sự dữ cho mình. Ngay suy nghĩ như thế mà thôi cũng tự nó tố cáo sự mất tin tưởng hoặc giảm tin tưởng đối với nhau. Tôi thấy sự mất hay giảm tin tưởng đối với nhau đang là một sự dữ trong xã hội và trong Giáo Hội. Sự dữ đó phản ánh một tình hình không ổn. Để cứu cho khỏi sự dữ đó, thì cần cứu cho khỏi sự dữ nào đang gây bất ổn nhiều nhất hiện nay. Theo tôi, sự dữ đó chính là sự không làm theo thánh ý Chúa. 2. Ai không làm theo thánh ý Chúa sẽ không được vào Nước Trời, đó là điều bất hạnh, bất ổn hơn hết. Chúa Giêsu quả quyết: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Chúa Giêsu đã rất dứt khoát. Người chỉ thưởng những người thực sự làm theo thánh ý Chúa, chứ không phải những người coi như đạo đức, chuyên làm những việc tưởng là đạo đức, kể cả những việc đạo đức phi thường, nhưng thực sự những việc họ làm là do ý riêng họ, chứ không do thánh ý Chúa. Chúa Giêsu quả quyết: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ rằng: ‘Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). 3. Càng suy gẫm những lời Chúa phán trên đây, tôi càng thấy lo sợ cho tôi và cho tất cả những người quen “nhân danh Chúa”, mà làm các việc có vẻ đạo đức. Phải chăng, khi nói những lời cảnh cáo trên đây, Chúa Giêsu cũng đã nghĩ đến chúng tôi. Theo những lời cảnh báo nghiêm khắc của Chúa Giêsu, thì đạo đức mà không thực hành đúng ý Chúa, sẽ là thảm kịch. 4. Thảm kịch, vì cuộc đời gọi là đạo đức của mình không được Chúa chấp nhận, chính bản thân mình tưởng là đạo đức cũng không được Chúa kể là thuộc về Chúa. Thảm kịch, vì sau cùng, cuộc đời gọi là đạo đức của mình, sẽ bị kết án nặng nề, đó là không được vào Nước Trời. Thảm kịch, vì cuộc đời tự coi mình là đạo đức, tưởng như đã gây được uy tín, nhưng lại phải nếm mùi cay đắng của Lời Chúa: “Được cả thế gian này, mà phải mất linh hồn, thì có lợi gì?” (Mt 16,26). Thảm kịch về “không làm theo ý Chúa” xem ra vẫn xảy ra, ngay lúc này, tại nơi chốn chúng ta đang sống. Rõ ràng, mà lại không nhìn ra, không nhận thấy. Thực là thảm kịch nguy hiểm. 5. Điều gì hiện nay bị coi là không làm theo ý Chúa một cách nặng nhất? Theo thiển ý của tôi, đó là sự người ta mất ý thức về tội, mất thành thực nhận biết mình là kẻ có tội. Khi mất ý thức về tội, và không thành thực nhận biết mình là kẻ có tội, người ta sẽ tự cho mình là tốt, không cần được Chúa cứu chuộc. Từ đó, con người trở nên kiêu căng, ngạo mạn và vô cảm. Mình không cần được Chúa cứu, và mình cũng không cần phải vất vả cứu ai. Sống như thế là sống trong tình trạng thiếu khiêm nhường và thiếu yêu thương, đang khi khiêm nhường và yêu thương là hai nhân đức căn bản của nhân bản nói chung và của Phúc Âm nói riêng. 6. Nhìn chung, tình trạng thiếu khiêm nhường và thiếu yêu thương đang có chiều hướng phát triển một cách phức tạp và tinh vi trong nhiều cá nhân và cộng đoàn thuộc Hội Thánh. Hậu quả sẽ bi thảm khôn lường nếu không sửa lại. 7. Sửa lại bằng cách nào? Thưa là hãy vâng theo Lời Chúa, mà “tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 26,41). Nếu tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy ý Chúa hiện nay muốn chúng ta hãy làm chứng cho Chúa và rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay bằng đường hướng, mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã vạch ra. Đường hướng đó là các môn đệ Chúa Giêsu hãy sống nghèo và lo cho người nghèo theo gương Chúa Giêsu.. Sống nghèo và lo cho người nghèo đòi phải khiêm nhường và yêu thương. Khi xác định được thánh ý Chúa, chúng ta sẽ biết điều gì cần phải chọn. Cần chọn đúng việc, chọn đúng cách, chọn đúng thời điểm, chọn đúng nơi, chọn đúng người. Thời điểm này rất cần những trái tim nhân ái giống trái tim Chúa Giêsu, một trái tim bén nhạy, biết mềm dẻo, hợp với từng người, từng hoàn cảnh, theo sự hướng dẫn của Thánh Linh. Trước một tình hình nguy hiểm, bao giờ cũng có nhiều phương án để giải cứu. Chọn đúng phương án, mà Chúa muốn, đó là điều mọi người con Chúa nói chung, và mọi người đứng đầu cộng đoàn nói riêng, cần phải rất quan tâm. Chọn như thế là phải từ bỏ ý riêng, cho dù từ bỏ đó sẽ đắng cay. 8. Tình hình hiện nay phải nói là nguy hiểm. Hội Thánh địa phương cần phải cải cách một cách khôn ngoan, một sự khôn ngoan, mà Chúa hứa ban cho những kẻ bé mọn, nhận biết mình tội lỗi, yếu đuối, rất cần được Chúa cứu (x. Lc 10,21). Đó là ý Chúa. 9. Ý Chúa cũng muốn chúng ta nên biết điều này. Người Việt Nam rất quý trọng những gì là linh thiêng. Hiện nay họ đi tìm linh thiêng ở chính những con người. Ai sống khiêm nhường, yêu thương, nghèo khó, lo cho người nghèo, thường được họ coi là người toả ra một sức linh thiêng huyền nhiệm. Chính những người sống khiêm nhường, yêu thương, nghèo khó, lo cho kẻ nghèo, cũng cảm được một hồng ân linh thiêng nào đó đến với mình. Hồng ân linh thiêng ấy càng sâu đậm, khi những người ấy vui lòng từ bỏ mình, chấp nhận vác thánh giá hằng ngày, để tham gia vào chương trình cứu chuộc của Chúa. Nói cho cùng, hồng ân linh thiêng quan trọng nhất là chính Chúa ở với họ. Lạy Mẹ Maria, con nhận biết con là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn hạ. Con cảm ơn Mẹ đã luôn giúp con tìm thánh ý Chúa. Xin Mẹ hãy mãi mãi thương con, mặc dầu con có lầm lỗi dại dột. Con phó thác mình con cho Mẹ. Ôi, Mẹ yêu dấu của con. Long Xuyên, ngày 01 tháng 9 năm 2013.
Bùi-Tuần 1230: ĐÔI CHÚT TÂM TÌNH TRƯỚC LỜI KÊU GỌI KHẨN CẤP
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ 04-09-2013 + GB. BÙI TUẦN
Đức Thánh Cha vừa mới kêu gọi toàn thể Hội Thánh cầu nguyện và giữ chay, để xin Chúa thương đến tình hình rất nguy hiểm đang đe doạ trực tiếp Syria, và gián tiếp đến khu vực và cả thế giới. Đọc xong lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, tôi thấy chắc chắn chúng ta phải đáp ứng một cách cụ thể và quảng đại. Thế nào là cụ thể và quảng đại? Dựa theo những lời Đức Thánh Cha bây giờ và khi còn là Hồng Y, tôi xin làm những việc sau đây: Việc thứ nhất là sám hối. Trong bài giảng ngày thứ tư, lễ Tro, 13.02.2013, Đức Hồng Y Bergolio đã nhấn mạnh đến việc sám hối trong Mùa Chay. Sám hối chủ yếu là sửa mình một cách chân thành và sâu sắc. Điều cần sửa mình ưu tiên là những gì nghịch với đức ái. Ngài trích lời thánh Chrysotônô: “Nếu con ăn chay cả ngày, con ngủ trên nền đất cứng, ăn tro, và thở than liên tục, nhưng nếu con không làm điều gì tốt cho những người khác, thì con cũng chẳng làm gì gọi được là lớn lao”. Có lần, Đức Thánh Cha đưa ra thí dụ một người đang sắp chết đuối giữa dòng nước chảy, mình thấy mà không tìm cách cứu họ một cách cấp tốc, thì có lỗi. Thái độ dửng dưng, làm ngơ, tránh né trước cảnh hiện nay bao người sắp chết đuối giữa dòng đời là khá phổ thông. Là người Kitô hữu, tôi phải sám hối về những thái độ như thế, nếu xét mình mà thấy mình lỗi phạm. Việc thứ hai là cầu nguyện. Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần đã nhấn mạnh đến việc nhận biết mình tội lỗi, những khi cầu nguyện. Mình tội lỗi, mà được Chúa cứu, đó là vinh quang của người kitô hữu. Đức Thánh Cha khuyên chúng ta, khi cầu nguyện, không những nên nhìn vào tội lỗi của mình để sám hối, mà còn phải tránh kể tội người khác để kết án họ. Nếu không, người cầu nguyện dễ trở nên kiêu căng và thiếu bác ái. (Bài giảng thánh lễ tại nhà thờ Chánh toà, ngày 24.09.2011) Tình hình hiện nay là rất nguy hiểm. Nếu mỗi người chúng ta làm được một chút việc lành như vừa gợi ý theo Đức Thánh Cha, thì một chút việc làm đó sẽ được Chúa kể như một đóng góp cho hoà bình. Hoà bình cũng đang rất cần cho chính quê hương Việt Nam chúng ta, đặc biệt cho chính bản thân mỗi người chúng ta. Long Xuyên, ngày 4 tháng 9 năm 2013.
Đời tôi là một chuỗi dài những biến cố được cứu. Tôi được cứu khỏi rất nhiều nguy khốn. Khỏi bệnh, khỏi thất học, khỏi túng nghèo, khỏi cô đơn, khỏi tội lỗi, khỏi thất vọng, khỏi sợ hãi, khỏi mất hướng, khỏi mặc cảm, vv... Mỗi lần được cứu, tôi đều cảm thấy rất vui. Tôi xin hết lòng tạ ơn Chúa và tận tình cảm ơn những người đã cứu tôi. Nếu so sánh những niềm vui được cứu, tôi không ngần ngại quả quyết điều này: Niềm vui được cứu lớn nhất đối với tôi, chính là được cứu khỏi sự xa lìa Chúa Giêsu. Quả quyết đó có lý do. Vắn tắt như sau: 2. Phải nói thực là: Từ lâu nay, ngay lúc này, đạo Công giáo khắp nơi phải đối mặt với nhiều thử thách từ ngoài Hội Thánh. Những thái độ như dửng dưng, nghi ngờ, khinh chê, ác cảm, chống đối, loại trừ, không những không còn là mới mẻ, mà xem ra còn được coi như bình thường. Họ có lý do của họ. Tình hình như thế không sáng sủa gì. Phản ứng công giáo thế nào? Nhiều người chán nản. Nhiều người bất mãn. Không thiếu người bỏ đạo. Không thiếu người kêu trách. Một số thụ động, tới đâu thì tới. Đang khi đó lại xuất hiện khuynh hướng bảo vệ đạo bằng cách tục hoá đức tin dưới nhiều hình thức. Cũng có hiện tượng giảm sút đạo đức và niềm tin. 3. Tôi coi tất cả những gì đang xảy ra trên đây trong và ngoài Hội Thánh đều là những thách đố, những nguy cơ cho Tin Mừng. Một phần cũng do lỗi của nội bộ mình. Là người có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, tôi cũng đã nghĩ tới nhiều cách cải thiện, mà nhiều nơi đang thực hiện. Trong khi cân nhắc, nên chọn cách nào được coi là đúng ý Chúa nhất cho tình hình Việt Nam hôm nay, tôi cầu nguyện rất nhiều. 4. Chúa không trả lời tôi trực tiếp. Người luôn nhắc nhở tôi là: Hãy cứu mình và những người thuộc về mình khỏi xa lìa Chúa Giêsu Kitô. Hãy trở về với Chúa Giêsu Kitô. Hãy tập trung vào Chúa Giêsu Kitô. Tôi hiểu việc quan trọng Chúa dạy tôi phải chọn ưu tiên là hãy cộng tác tích cực vào việc cứu mình và những kẻ thuộc về mình, không những khỏi xa lìa Chúa Giêsu, mà còn phải sống mật thiết với Người trong mọi chọn lựa. Tôi hết lòng cúi xin Chúa thương cứu tôi, chứ sức riêng tôi không thể nào làm được việc đó. 5. Thực vậy, Chúa đã cứu tôi. Người đang cứu tôi. Việc đầu tiên Người thôi thúc tôi hãy chọn, đó là hãy chỉnh đốn lại tư tưởng của tôi về Thiên Chúa. Việc điều chỉnh này được thực hiện từ việc ngắm nhìn Chúa Giêsu. Ngắm nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thần, tôi nhận ra Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Một tình yêu rất mực khiêm nhường. Một tình yêu rất mực hy sinh. Sự khiêm nhường và yêu thương được chứng tỏ bằng sự Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người hèn yếu, chịu mọi đau khổ như con người, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15) và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Chết trên thánh giá vì yêu thương, đó chính là một chọn lựa quá sức tưởng tượng của sự khôn ngoan loài người, nhưng đó lại chính là một chọn lựa tỏ ra quyền năng của một mình Thiên Chúa là tình yêu (x. 2 Cr 1,22-25). 6. Chúa Giêsu trên thánh giá, đó là trung tâm của Tin Mừng. Tôi tin vào một Thiên Chúa yêu thương đến như thế. Tôi hiểu Chúa muốn tôi cũng được kêu gọi trở nên giống như thế. Hiểu biết đó đã giải thoát tôi khỏi sa vào những thứ cuộc đời không đúng hướng và không đúng nghĩa. Nghĩa đúng của đời tôi và hướng đúng của đời tôi là theo gương Chúa Giêsu cho đi một cách vị tha, là xót thương, là tha thứ, là xây dựng tình huynh đệ, là quan tâm phục vụ người khác, là kính trọng và đón nhận người khác, nhất là những người yếu kém, bị bỏ rơi, bị khinh chê, bị người đời ghê tởm. Chúa Giêsu dạy sao, tôi muốn làm như vậy. 7. Chúa Giêsu, mà tôi tin như “con đường, sự thực và sự sống” (Ga 14,6) sẽ không là những tư tưởng, mà là một Đấng linh thiêng gần gũi, mà tôi gặp gỡ, mà tôi ở lại, mà tôi bước theo. Chúa Giêsu, mà tôi bước theo, sẽ là hồn của hồn tôi, Người sẽ giúp tôi có những việc làm chứng minh cho tình yêu. Như lời thánh Giacôbê viết: “Chính bằng việc làm, mà tôi tỏ ra đức tin của tôi” (Gc 2,18). Những việc làm chứng minh đức tin của tôi sẽ phải luôn luôn là những việc đậm đà tình yêu đầy khiêm nhường và hy sinh. 8. Từ những gì tôi vừa trình bày, tôi thấy đức tin của tôi là một đón nhận tự do, đầy hứng khởi và đầy hy vọng. Tất nhiên tôi phải phấn đấu rất nhiều, để giảm thiểu tối đa những sự dữ làm cho con người phải khổ. Nhưng phấn đấu của tôi luôn đi về hướng tình yêu, theo gương Chúa Giêsu. Những phấn đấu ấy nhiều khi gây nên đau đớn, nhất là khi phải thực hiện lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình, mà theo Thầy” (Mt 16,24). Nhưng tôi cậy tin ở Chúa. 9. Tôi biết phấn đấu của tôi không luôn dễ dàng. Tôi vẫn mang trong mình những yếu đuối. Tôi vẫn có thể vấp ngã. Tôi không thể làm sổ đủ những vấp ngã đó. Nhưng tôi xác tín tôi được Chúa cứu. Chúa cứu tôi, cả những khi tôi chủ quan, gán cho ý Chúa những ý riêng sai lầm của tôi. Nhưng tôi cần khiêm tốn, sám hối, cậy trông. 10. Vâng, tôi tin vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nơi Người, mọi lỗi lầm của tôi sẽ được xoá bỏ. Tôi phải biết khiêm nhường đón nhận ơn Chúa. Vâng, tôi tin Hội Thánh của Chúa sẽ luôn luôn được thanh luyện, để luôn luôn biết loan báo Tin Mừng về Chúa Giêsu Kitô. Vâng, tôi tin con người, dù xấu xa biết mấy, vẫn có thể trở nên tốt, nhờ tin cậy vào Chúa Giêsu. Vâng, tôi tin Quê Hương của tôi, dù phải trải qua những thử thách đớn đau, sẽ mãi mãi mang một thứ hồn thiêng, để có thể gặp được một cách nào đó Tin Mừng cứu độ là Chúa Giêsu. Được Chúa cứu, đó là niềm vui lớn lao mà tôi tuyên xưng với hết lòng cảm tạ. Long Xuyên, ngày 13 tháng 9 năm 2013.
Cuối cuốn “Tự Thuật”, thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đã viết: “Lạy Chúa, xin đừng để con trở nên gánh nặng cho Nhà Dòng”. Lời cầu đó rất chân thành. Chỉ vì yêu mến các chị em, và không muốn Nhà Dòng phải tốn tiền, tốn giờ, tốn sức vì mình, nên Têrêsa đã cầu xin Chúa đừng để mình bao giờ trở nên gánh nặng cho cộng đoàn. Tôi cũng bắt chước thánh nữ, mà hay cầu xin Chúa như vậy. Kết quả thế này: 2. Có lúc tôi cảm thấy tôi không là gánh nặng cho ai. Tôi rất vui. Có lúc tôi thấy một số dấu chỉ làm tôi mất lạc quan, vì được cảnh báo là tôi đã và đang trở thành gánh nặng cho cộng đoàn, hoặc cho những người chăm sóc tôi. Tôi rất nghĩ ngợi và sợ hãi. Có lúc tôi được nghe những lời cứng cỏi và được thấy những thái độ tránh né khiến tôi hiểu chắc chắn tôi đang là gánh nặng cho một số người. Tôi đau buồn, xấu hổ và xin lỗi họ với tình yêu thương chân thành. 3. Tôi nài van Chúa giúp tôi sống trong nỗi đau buồn ấy một cách hữu ích. Chúa cho tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đội mão gai bị người ta khạc nhổ vào mặt, bị đấm đá, bị trói vào cột, bị đánh đòn, bị xỉ nhục. Người chịu đau đớn hồn xác quá sức tưởng tượng, mà không oán trách. Sau cùng Người bị đóng đinh vào thánh giá, và chết như một kẻ tội lỗi ghê tởm. Đức Mẹ Maria giúp tôi cùng với Đức Mẹ, âm thầm cũng chịu đau khổ với Chúa, để đền tội mình, cứu nhân loại khỏi sa hoả ngục, nhưng được vào thiên đàng với Chúa. 4. Rất có thể tôi đã có nhiều yếu đuối và lỗi lầm, làm phiền người khác, nên tôi sám hối, cầu nguyện trong đau đớn vì bị loại trừ. Tôi nghĩ đến nhiều người cũng đang bị rơi vào hoàn cảnh hơn kém như tôi, nghĩa là hoàn cảnh già nua, bệnh tật, hết quyền hết tiền, thói hư tật xấu. Họ cảm thấy mình là gánh nặng cho người khác. Họ có thể đã được nghe những lời nặng nhẹ nhắm vào họ. Họ đau lắm. Họ khổ lắm. 5. Tôi nhớ tới những gì, mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô, lúc còn là Hồng Y, đã nói về tuổi già: “Người ta chế nhạo tuổi già, người ta hạ giá sự kiện cao niên, người ta tôn vinh một tuổi trẻ đời đời. Trong nhiều nước Nam Mỹ, những luật liên hệ đến người già, hầu hết đều chỉ là nguyên tắc, chứ trên thực tế, người ta đang thấy một hệ thống loại trừ người già ra khỏi đời sống xã hội... Chỉ vì họ không còn khả năng sản xuất. Trong đối xử với người già, hãy có một cái nhìn nhân ái, một cử chỉ gần gũi, một việc làm có sức làm vơi đi những phiền muộn lo âu của họ...” (Bài giảng trong thánh lễ ngày 02.02.2008, tại thủ đô nước Achentina). 6. Lo âu của những người già thường mang nặng bề sâu ý nghĩa cuộc đời, nên họ thường cầu nguyện rất nhiều. Tôi nhớ tới những lời Đức Mẹ đã nhắn nhủ ở Fatima. Hãy cầu nguyện nhiều. Hãy sám hối nhiều. Hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Hãy tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Tất cả những điều Đức Mẹ nhắn nhủ ở Fatima đều rất xưa. Rất xưa, nhưng rất phù hợp với tinh thần Phúc Âm, và đang được phần lớn những người già thực hiện một cách sốt sắng, để lo cho gia đình, Hội Thánh và Đất Nước. Nhiều người già đang thực sự mang gánh nặng của bao người thân yêu và của cả dân tộc. 7. Tôi nhớ lại lời thánh Phaolô khuyên dạy về gánh nặng: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô. Thực vậy, ai tưởng mình là gì, mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình. Mỗi người hãy xem xét việc làm của mình, và bấy giờ sẽ có lý do để hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác. Quả thực, mỗi người phải mang gánh nặng của riêng mình” (Gl 6,2-5). 8. Thực vậy, gánh nặng nhất của tôi là chính tôi. Mang gánh nặng bản thân đã là mệt rồi. Bây giờ, Chúa bảo còn phải mang thêm gánh nặng của người khác, như thế là rất mệt. Nhưng Chúa an ủi. Mang gánh nặng là chu toàn luật của Đức Kitô. Với kinh nghiệm cuộc đời dài, tôi thấy mang gánh nặng với tinh thần bác ái khiêm nhường của Phúc Âm như thế, đòi phải cầu nguyện nhiều, ngoài ra cũng đòi một nền đào tạo đạo đức thường xuyên. 9. Kinh nghiệm, mà tôi chia sẻ về tương quan giữa bản thân tôi là người già với những gánh nặng được tóm tắt như sau: Tôi muốn tôi đừng trở nên gánh nặng cho cộng đồng và cho bất cứ ai. Nhưng trên thực tế, tôi biết tôi vẫn là gánh nặng cho bao người.Nhận ra sự thực đó là một nỗi đau. Tôi muốn tôi phải quảng đại chia sẻ phần nào gánh nặng của những người khác. Nhưng trên thực tế, tôi nhiều khi vẫn hẹp hòi. Nhận ra sự thực đó là một nỗi xót xa. Tôi muốn tôi mang gánh nặng chính bản thân mình một cách thanh thản. Nhưng trên thực tế, tôi nhiều khi vẫn bị căng thẳng. Nhận ra sự thực đó là một lời xin cầu cứu. Tôi thấy gánh nặng nào cũng làm cho tôi khiêm tốn hơn, để biết mình yếu đuối. Tôi phó thác tất cả nơi Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Tôi cậy tin vững vàng ở lòng nhân lành bao la của Đức Mẹ. 10. Từ những kinh nghiệm trên đây về gánh nặng, tôi cầu xin Chúa tha thiết, đừng để lịch sử dân tộc Việt Nam coi Hội Thánh Công giáo là một gánh nặng cho Đất Nước, do lỗi lầm của một số người tin theo Chúa. Một cái nhìn như thế sẽ không đúng và rất hại cho việc truyền bá đức tin và tình đoàn kết dân tộc. 11. Tuy nhiên, tôi rất được an ủi, khi thấy Hội Thánh tại Việt Nam đã và đang quan tâm chăm sóc nhiều người bị xã hội coi là gánh nặng. Nếu không có một Hội Thánh Công giáo giàu tình bác ái, thì bao người bị xã hội coi là gánh nặng ấy, đã chẳng bao giờ nếm được tình thương chân thành vị tha. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 02 tháng 10 năm 2013
Cho đến lúc này, Chúa vẫn dạy tôi hãy truyền giáo. Chúa dạy tôi bằng cách cho tôi được những người khác truyền giáo cho tôi, để rồi tôi có thêm kinh nghiệm, mà truyền giáo cho người khác. 2. Khởi đầu là tôi rất hay gặp nhiều đau đớn cả phần xác lẫn phần hồn. Trong tình trạng đó tôi rất thường kêu lên với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con”. Chúa soi sáng cho tôi là hãy thường xuyên khiêm tốn kêu cầu, xin Chúa cứu. Tôi coi mình như người bị trọng thương, nằm bên vệ đường, mà Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm (x. Lc 10,29-37). Tôi cảm thấy có một sức thiêng thúc giục tôi hãy coi lời cầu cứu như một lời cầu nguyện. Không những cầu cứu với Chúa, mà cũng hãy cầu cứu với mọi người. 3. Khi cầu cứu như vậy, tôi nhận thức mình không tự mình cứu mình được. Nhận thức đó giúp tôi hiểu thấm thía sự cứu độ mà tôi mong chờ chính là một hồng ân cao cả. Hồng ân cứu độ đó là một quà tặng, mà tôi chỉ có thể đón nhận từ Đấng cứu độ. Để đón nhận quà tặng cao quý đó, tôi phải mở lòng tôi ra. Tôi mở rộng lòng tôi bằng khao khát, đợi chờ với những lời cầu cứu thiết tha và khiêm tốn chân thành. Khi cầu cứu, tôi tin ở Chúa. Tôi tin Chúa sẽ xót thương tôi. Tôi tin ở những người tốt. Tôi tin họ sẽ chia sẻ cho tôi đôi chút tình thương của họ. 4. Thế rồi, Chúa đã đến với tôi. Chúa an ủi tôi trong thẳm sâu cõi lòng. Người ban cho tôi ơn được tin cậy nơi Người một cách mạnh mẽ hơn. Thêm vào đó, Chúa còn đến với tôi qua nhiều người tốt. Những người này đã quảng đại cứu tôi bằng nhiều cách. Tôi nhận ra họ là những bàn tay xót thương của Chúa. 5. Họ có một trái tim xót thương rất bén nhạy. Bén nhạy ở chỗ họ nghe được những tín hiệu cầu cứu từ rất xa và dưới những hình thức rất nhỏ nhẹ. Họ có một trái tim xót thương rất tế nhị. Tế nhị ở cách họ cứu giúp. Cách họ cứu giúp luôn làm cho người được cứu giúp cảm thấy một sự thân thương, gần gũi, sẻ chia thân tình. Hơn nữa, họ tỏ ra như việc họ cứu giúp là một vinh dự. Như thể họ tin việc họ cứu giúp kẻ khốn khổ được kể là việc làm cho chính Chúa, theo lời Chúa Giêsu đã phán về ngày phán xét chung (x. Mt 25,31-46). Họ có một trái tim xót thương rất quảng đại. Quảng đại ở chỗ họ không cho ai là không đáng cứu, trái lại họ theo gương Chúa Giêsu mà tìm cứu những kẻ tội lỗi, hư hỏng bị người đời xa tránh ruồng bỏ. Cứu một cách dấn thân, không mệt mỏi. 6. Càng về già, tôi càng thấy việc mình cầu cứu là một yếu tố tốt cho việc truyền giáo của tôi. Phải nói thật là: Nguy cơ lớn nhất hiện nay là người ta mất niềm tin, hoặc giảm niềm tin. Người ta không còn tin vào nhau. Người ta không còn tin vào cuộc sống. Trong một tình hình như thế, người ta dễ đi tìm sự cứu độ ở những cái mong manh. Thậm chí người ta sẽ có thể bất cần đến ai, bất cần cả đến sức thiêng cứu độ nào. Tình hình như thế là rất nguy hiểm. Nếu còn cầu cứu, thì đó là một cách tăng thêm niềm tin vào Chúa và vào những người khác. Nếu rất cần được cứu, mà không muốn hay không dám cầu cứu, do mất niềm tin vào cộng đoàn, thì đó mới thực sự là bi đát. 7. Cách đây mấy ngày, tôi được nghe một tin rất buồn: Một giáo sĩ trẻ đã chết trong tư thế treo cổ tại phòng riêng của mình. Xét nghiệm kết luận: Ngài tự tử. Dư luận bàng hoàng, xót xa. Tôi coi đó là một cảnh báo cho việc truyền giáo. Cảnh báo đó cộng với nhiều kinh nghiệm khác cho phép tôi tóm tắt việc truyền giáo hiện nay vào những nhắc nhở sau đây, mà tôi coi như Chúa gởi cho tôi. 8. a) Truyền giáo hiện nay chủ yếu là làm chứng về bác ái yêu thương. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,34). b) Truyền giáo hiện nay để ý nhiều hơn đến bác ái yêu thương của cả cộng đoàn hơn là của cá nhân. Cộng đoàn biết lo cho nhau và cùng nhau lo cho những người ngoài cộng đoàn. Phải thực hiện hằng ngày, từ những việc nhỏ. c) Truyền giáo hiện nay là cộng đoàn những người tin Chúa không ngại nhận mình cũng cần được cứu, đồng thời dấn thân cứu người khác. d) Truyền giáo hiện nay đòi hỏi sự đón nhận yêu thương và cho đi yêu thương phải rất bén nhạy, tế nhị và quảng đại. e) Truyền giáo hiện nay là yêu thương bén nhạy tế nhị và quảng đại của những môn đệ Chúa phải thực sự cậy tin vào Chúa. f) Truyền giáo hiện nay là dù phải khổ đau, vẫn lạc quan làm chứng chính mình đã cảm nghiệm được tình xót thương của Chúa và của cộng đoàn. Lời nguyện thánh lễ Chúa nhận XXVII sau đây là rất đúng: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người; xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ”. g) Truyền giáo hiện nay là làm chứng về một ơn trọng đại Chúa ban cho cộng đoàn chúng ta, đó là chúng ta biết đọc được những cầu cứu kín đáo ẩn giấu của những người thuộc về chúng ta, liên quan đến đủ mọi thứ nghèo họ gặp phải, để chúng ta cùng nhau cứu họ và cứu những người khác. Tích cực lo cứu người nghèo, đó là hướng truyền giáo mà Đức Thánh Cha Phaxicô đang nhấn mạnh. h) Truyền giáo hiện nay đòi một sự đào tạo huấn luyện cao về cái tâm dồi dào sức thiêng, biết ngoan ngoãn dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, để được Chúa sai đi, như lời Kinh Thánh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). 9. “Tôi khát”, đó là lời cầu cứu của Chúa Giêsu trên thánh giá (x. Ga 19,28). Tôi xin phép mượn lời cầu cứu ấy, để mà tin tưởng rằng: Chúa Giêsu khát khao niềm tin yêu của chúng ta, kể cả niềm tin yêu được thể hiện trong những hình thức cầu cứu, mà chúng ta hằng ngày vẫn dâng lên Chúa với mục đích truyền giáo. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương làm cho trái tim con được nên giống trái tim của Mẹ, một trái tim hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, phó thác tin cậy ở Chúa, và thiết tha với phần rỗi các linh hồn, để con biết truyền giáo tại Quê Hương Việt Nam hôm nay, theo thánh ý Chúa là làm chứng cho tình yêu thương xót vô biên của Chúa, như Mẹ vẫn dạy con. Long Xuyên, ngày 14 tháng 10 năm 2013.
Để cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã và đang ban cho tôi, hôm nay tôi xin chia sẻ đôi chút về sự Tin Mừng đến với tôi trong tình hình già yếu bệnh tật. Cuộc đời càng về chiều, tôi càng tha thiết với Lời Chúa. Một Lời Chúa đã rất an ủi tôi, đó là lời Đức Giêsu Kitô đã nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). 2. Lời Chúa trên đây hay được nhắc lại trong tận đáy lòng tôi. Tôi biết chính Chúa nói với tôi lời đó. Tôi trả lời Chúa: Lạy Chúa, con tin Chúa, con tin Lời Chúa. Với niềm tin đó, tôi gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ như thế đã là cầu nguyện. Khi tôi mệt mỏi, không còn đủ sức theo kịp những bản kinh dài và những buổi phụng vụ lâu, thì cầu nguyện của tôi sẽ phải vắn lại. Vắn, nhưng hồn nhiên hơn với Chúa. Hồn nhiên ở chỗ gặp gỡ Chúa một cách đơn sơ. Không lệ thuộc vào lễ nghi, không căn cứ vào công thức, không sắp xếp theo chương trình. Tôi hiện diện trước Chúa. Tôi nhìn Chúa. Tôi đợi chờ ơn Chúa. Tôi lắng nghe Chúa. Tôi thuộc về Chúa. Tôi khao khát Chúa. Cứ thế hầu như suốt ngày đêm. Khi tôi gặp trục trặc nào trong cầu nguyện, tôi liền xin Chúa Thánh Thần giúp. Chúa Thánh Thần giúp tôi cầu nguyện theo ý Chúa. 3. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa như vậy đem lại cho tôi một sự thay đổi nội tâm. Tôi cảm thấy có một sức sống linh thiêng từ Chúa chuyển vào trong tôi. Chúa cho tôi biết đó là sự sống của Chúa. Sự sống ấy của Chúa làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu hơn, có nhiều tâm tình của Chúa Giêsu hơn, tha thiết hơn với việc cứu các linh hồn theo gương Chúa Giêsu, tuyệt đối trung thành với Chúa Giêsu trong việc thực thi những gì là thánh ý Chúa Cha. 4. Với những thay đổi trên đây do cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, tôi coi cầu nguyện là một thứ tái sinh. Tái sinh ở chỗ tôi được ngoan ngoãn hơn đối với Chúa Thánh Thần, tôi được nên giống Chúa Giêsu hơn, tôi được nhìn thấy rõ hơn dung mạo của Chúa Cha giàu tình yêu thương xót. 5. Qua những gì tôi vừa kể trên, tôi hiểu thế nào là “ở lại trong Chúa Giêsu” như cành nho sống nhờ sức sống của thân cây nho. Ở lại trong Chúa Giêsu là một đòi hỏi căn bản, mà Chúa Giêsu đặt ra cho mọi môn đệ Chúa. Ai đáp ứng đúng đòi hỏi đó, sẽ sinh được nhiều hoa trái thiêng liêng. Ai không đáp ứng đúng đòi hỏi đó, sẽ bị quăng vào lửa. Chúa Giêsu cảnh báo như thế (x. Ga 15,6). Tôi tin, và tôi sợ cho tôi. Tôi cũng sợ cho tất cả những ai được Chúa gọi làm môn đệ Chúa. Vì thế, tôi cố gắng “ở lại trong Chúa Giêsu” bằng sự cầu nguyện thường xuyên, tức là thường xuyên gặp gỡ Chúa Giêsu. 6. Thêm vào việc cầu nguyện, tôi còn được Chúa dạy tôi hãy gặp gỡ Chúa bằng nhiều việc khác, như chịu các phép Bí tích, đọc Kinh Thánh, chu toàn bổn phận, tham dự vào mầu nhiệm thánh giá, nhất là phục vụ những người nghèo khổ. 7. Đến đây, tôi xin được nói đôi chút về việc phục vụ những người nghèo khổ. Vì ba lý do: Thứ nhất, vì Chúa Giêsu quả quyết phục vụ cho người nghèo khổ được Chúa kể như phục vụ cho chính Chúa (x. Mt 25,31-46). Thứ hai, vì phục vụ cho người nghèo khổ đang là một vấn đề thời sự hiện nay trên thế giới nói chung, và tại Việt Nam nói riêng. Thứ ba, vì tôi có kinh nghiệm này: khi tôi tìm đến người nghèo khổ để phục vụ họ, thì tôi thấy Chúa Giêsu đã ở đó trước tôi rồi. 8. Nhiều khi tôi tưởng với tình hình hiện nay của tôi, tôi sẽ không còn nhiệm vụ nào về mục vụ của một kẻ được sai đi có liên hệ đến người nghèo như trước đây và như các vị còn chức vụ. Nhưng lời Chúa sau đây vẫn nhắc nhở tôi một điều gì đó: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,16). Tôi hiểu ý Chúa là một cách nào đó, Chúa vẫn sai tôi đi, Chúa vẫn cắt cử tôi. Nhưng trong tình hình thực tế hiện nay của tôi, tôi ra đi một cách lặng lẽ, bằng nội tâm trong tinh thần hiệp thông và vâng phục các bề trên trong Hội Thánh. 9. Lặng lẽ, tôi đã gặp được loại người nghèo rất khốn khổ, đó là nơi họ toà nhà đức tin đã sụp đổ. Đức tin nơi họ đã vỡ vụn. Họ còn tin chút ít, và đời họ như đang bị phân thây thê thảm. 10. Lặng lẽ, tôi đã gặp được loại người rất nghèo, cô đơn, liều lĩnh, đó là nơi họ niềm tin vào đạo đức đã chết. Họ chỉ còn sống cho những gì là phù du, mong manh, tạm bợ, thậm chí cho cả những gì là tội tỗi. 11. Lặng lẽ, tôi đã gặp được loại người những người giàu có nhưng rất nghèo một cách nguy hiểm. Bởi vì họ làm cho tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa. Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: Thế thì ai có thể được cứu? Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể” (Mt 19,23-26). 12. Lặng lẽ, tôi gặp được loại người nghèo mà hạnh phúc và loại người giàu mà khốn đốn. Vì họ làm tôi nhớ lại Lời Đức Mẹ Maria nói trong kinh Tạ ơn: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có bị đuổi về tay không” (Lc 1,53). Như vậy, sự Chúa sai tôi đi và tôi ra đi lúc này đã dạy tôi khá nhiều sự thực Phúc Âm về người nghèo mà trước đây, khi còn khoẻ mạnh trẻ trung, tôi đã không nhìn thấy rõ. Nghèo mà giàu, giàu mà nghèo, tình hình phức tạp đó đòi tôi phải biết chọn lựa theo Tin Mừng. 13. Đức Thánh Cha Phaxicô đang khẩn thiết hô hào: Hội Thánh hãy sống nghèo và lo cho người nghèo, Ngài coi đó là cải cách căn bản cần phải đặt ra lúc này. Thiết tưởng cải cách quan trọng đó sẽ chỉ thực hiện hữu hiệu được bằng cách phối hợp sự ở lại với Chúa và sự ra đi nói ở trên. Sẽ không thể gọi được là ở lại với Chúa Giêsu để nên giống Chúa Giêsu, mà lại không sống nghèo như Chúa Giêsu. Sẽ không thể gọi được là ra đi loan báo Tin Mừng, mà lại không dấn thân lo cho người nghèo theo gương Chúa Giêsu. 14. Ở lại với Chúa Giêsu và ra đi với Chúa Giêsu là một linh đạo rất cần, để biết sống nghèo và lo cho người nghèo, hầu đem lại cho Hội Thánh một dung mạo mới về Tin Mừng, dễ được đón nhận trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Tôi có cảm tưởng là: Vinh dự và hạnh phúc của người môn đệ Chúa, nhất là tại Việt Nam, không thể tách rời khỏi nếp sống ở lại bên Chúa Cứu Thế khó nghèo, và cùng với Người ra đi lo cho người nghèo. Lạy Mẹ Maria, con là kẻ yếu đuối tội lỗi, xin Mẹ tiếp tục dắt dìu nâng đỡ con trên đường ở lại bên Chúa và cùng với Chúa ra đi. Nếu có gì sai sót, cúi xin Mẹ thương tha thứ cho con. Mẹ là hy vọng của con. Long Xuyên, ngày 19 tháng 10 năm 2013
Năm Đức Tin đã chính thức bế mạc ở nhiều nơi trong Hội Thánh bằng những lễ nghi long trọng. Tôi tự hỏi: Riêng tôi, tôi đã nhận được gì đặc biệt trong Năm Đức Tin? Với tâm tình biết ơn, tôi ghi nhận sâu sắc điều này: Trong Năm Đức Tin vừa qua, tôi đã được Chúa đến thăm tôi một cách đặc biệt. Tôi xin được phép chia sẻ vắn tắt. 2. Năm vừa qua có thể gọi được là năm thử thách. Nhiều thử thách đã làm giảm niềm tin trong dân tộc của tôi. Nhiều thử thách đã tràn bóng tối vào Hội Thánh của tôi. Nhiều thử thách đã gây bất ổn cho các gia đình thuộc về tôi. Nhiều thử thách đã đem lại cho tôi bao đớn đau xác hồn. Giữa những thử thách đó, tôi kêu lên Chúa: Lạy Chúa, xin Chúa thương xót con. Chúa trả lời tôi: Chúa sẽ đến thăm con. Con hãy chuẩn bị đón Chúa. 3. Nhưng, thế nào là chuẩn bị đón Chúa, theo ý Chúa? Chúa soi sáng cho tôi việc thứ nhất phải làm để đón Chúa trong cơn thử thách là hãy cầu nguyện. Cầu nguyện mà Chúa muốn tôi thực hiện lúc này chủ yếu không phải là xin các ơn thuộc về vật chất, mà hãy xin ơn được nên giống Chúa Giêsu. Chúa muốn tôi biến đổi. Chúa Thánh Thần được ban xuống cho tôi. Người muốn biến đổi tôi dần dần nên giống Chúa Giêsu, từ những vấn đề cụ thể hằng ngày. Để được Thánh Thần biến đổi, tôi cần phải ra khỏi cái tôi bằng sám hối, đặt mình trong hoạt động của Thánh Thần. Thánh Thần ví như gió, muốn thổi đâu tuỳ ý. Tôi “Không biết được Người từ đâu tới, và đi về đâu” (Ga 3,8). 4. Tôi hoàn toàn ở trước thánh nhan Chúa. Lặng lẽ đặt nơi Ngài mọi gánh nặng của tôi. Tôi không xin gì, chỉ xin được tin vào tình yêu của Chúa và luôn vâng phục tình yêu Chúa. Tình yêu Chúa giúp tôi nhận được những gì nên làm và những gì không nên làm trong tình hình những thử thách hiện nay. Mọi nhận định như thế đều căn cứ vào lời Chúa, đó là làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa, cứu con người khỏi tội lỗi và mọi cản trở, để họ được vào Nước Thiên Chúa là Nước Tình Yêu và ân sủng của Chúa. 5. Khi Chúa soi sáng cho tôi nên làm những gì và không nên làm những gì trong thời điểm những thử thách , Chúa vẫn để tôi tự do. Chúa bảo tôi là phải nhận lấy trách nhiệm của mình một cách tự do hoàn toàn. Đó là điều tôi phải phấn đấu cam go và tỉnh táo kiên trì. Cầu nguyện, đó là việc thứ nhất tôi phải làm trong cơn thử thách để đón Chúa. 6. Việc thứ hai Chúa dạy tôi làm để đón Chúa trong cơn thử thách là nương tựa vào các nhân chứng. Tôi nhìn thấy có 3 loại nhân chứng về thử thách. Loại thứ nhất là các vị thuộc quá khứ đã rất xa xưa, đó là các vị được ghi trong Cựu ước, thí dụ thánh Giob, tiên tri Giêrêmia. Rồi các thánh tông đồ, được ghi trong Tân ước. Loại thứ hai là các vị nổi tiếng trong quá khứ gần. Có đấng được phong thánh, có đấng không. Nhưng tất cả đều đã làm chứng cho đức tin của thời kỳ thử thách. Loại thứ ba là các nhân chứng đương thời. Họ ở xa tôi. Họ ở gần tôi. Tất cả đều nêu gương sáng về một đức tin kiên cường . Đức tin này được phiên dịch ra đức ái giàu lòng thương xót. 7. Những nhân chứng như thế không hiếm đâu. Họ thuộc mọi thành phần. Họ sống bình dị, mau mắn cứu những người gặp sự ác khống chế. Nhìn họ, tôi nhận ra một Chúa Cứu Thế đang rửa chân cho các người tội lỗi hèn mọn. Nhìn họ, tôi nhận ra một Chúa Cứu Thế đang đi tìm những gì là hư hỏng, để mà cứu chuộc. Nhìn họ, tôi nhận ra một Chúa Cứu Thế đang để đời mình bị chôn vùi như hạt lúa bé nhỏ, để làm cho mùa màng phần rỗi được tốt đẹp. Họ nâng đỡ tôi nhiều lắm. Nhờ họ, tôi được an ủi; vững tâm trong cơn thử thách. Tôi cảm thấy mình không cô đơn, những lúc tối tăm và như bị tách rời. 8. Việc thứ ba Chúa dạy tôi làm trong cơn thử thách để đón Chúa là hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá. Nhìn lên Chúa trên cây thánh giá, tôi thấy Người tiều tuỵ, đói khát, bị trói, bị hành hạ, bị khạc nhổ, bị xỉ vả. Người chịu đủ mọi thứ đau khổ để chia sẻ với những người đau khổ. Và trong cơn đau khổ tột độ, Người vẫn cậy trông phó thác nơi Chúa Cha. Người hy sinh tất cả, để làm giá cứu chuộc cho muôn người. Nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, tôi nhận thấy những thử thách tôi đang chịu sẽ có giá trị và ý nghĩa. Tôi có trách nhiệm phải làm cho đồng bào của tôi, bạn hữu của tôi, người thân của tôi bớt khổ, nhưng nếu cái khổ vẫn là một vấn đề nằm trong chương trình thử thách sẽ luôn đặt ra cho mọi người, thì sự tôi chịu đau khổ vẫn là một cách tôi bước theo Chúa Cứu Thế, để cứu muôn người. 9. Qua chút ít chia sẻ trên đây, tôi nhận thấy rằng: Trong Năm Đức Tin, Chúa đã đến với tôi ngay trong những thử thách. Người dạy tôi hãy mở rộng tâm hồn ra, để Chúa hoạt động trong tôi, nhờ đó, tôi sống tình liên đới chân thành và gân gũi với những người đau khổ, túng nghèo, thất vọng và bị bỏ rơi. Tình liên đới ấy âm thầm nhưng đem lại nhiều kết quả tốt liên quan đến phần rỗi của tôi và của nhiều người. 10. Chúa đã đến với tôi nhiều lần. Lần nào Người cũng chỉ hỏi tôi một câu mà xưa Người đã hỏi thánh Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15-18). Tôi thưa: “Có”. Và người bảo tôi: hãy kết hợp với Chúa và hãy yêu thương mọi người. 11. Chúa đến với tôi, mà không hẹn trước. Người đến thường là những lúc tôi không ngờ, Người đến ngay giữa những lo âu thường ngày của tôi, nhất là lúc tôi đau khổ, bên bờ vực thẳm. Tôi phải sẵn sàng đón Người, bằng tâm hồn khát khao, cầu nguyện và tỉnh thức. 12. Chúa đến với tôi với những lời nhỏ nhẹ này: Cha yêu thương con, vì con yếu đuối. Cha đồng hành với con, vì con khốn khổ. Thử thách cũ vẫn còn. Thử thách mới đang tới trong đó có nhiều thử thách ngọt ngào. Con hãy tỉnh thức. 13. Gặp được Chúa đến, tôi luôn nhận được hy vọng và bình an của Nước Thiên Chúa. Một Nước Thiên Chúa không ở thế gian này, mà ở trong lòng con người đã được cải hoá, để cùng với Chúa đi về Cõi Vĩnh cửu Tình yêu đời đời. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa về những ơn Chúa đã ban cho con trong Năm Đức Tin vừa qua, nhất là ơn đã được Chúa đến viếng thăm con, mặc dầu con bất xứng. Long Xuyên, ngày 25 tháng 10 năm 2013
Tôi còn sống. Nhưng tôi đã thấy nơi sẽ chôn xác tôi. Một ngày nào đó, ngôi mồ ấy sẽ là nơi ở sau cùng của tôi. Nhưng, tôi tin, đến ngày phán xét chung, tôi sẽ được ra khỏi nơi ấy, theo lệnh của Chúa. “Hãy bước ra khỏi mồ”. 2. Nhưng ngay bây giờ, tôi vẫn thường nghe trong lòng tôi lời Chúa gọi: “Hãy bước ra khỏi mồ”. Dần dần, tôi hiểu lời gọi đó có ý nghĩa thiêng liêng. Nghĩa là, trên đời này, có những ngôi mồ vô hình. Chúng muốn chôn sống tôi. Phải canh chừng, đừng để mình bị rơi vào đó. Nếu chẳng may, đã bị rơi vào đó rồi, thì hãy tìm cách bước ra. “Hãy bước ra khỏi mồ”. Tôi nghe, tôi hiểu, và tôi thưa với Chúa: “Xin Chúa thương cho con thấy rõ sự ác nào đang là mồ đe doạ con”. Chúa dạy tôi qua Lời Chúa và qua thực tế. 3. Sự ác thứ nhất đóng vai mồ chôn sống con người là đạo đức giả. Chúa Giêsu phán: “Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh sư và Pharisêu giả hình. Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ thối tha. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28). 4. Sự ác thứ hai đóng vai mồ chôn sống con người là lười biếng. Trong dụ ngôn những nén bạc, ông chủ khen thưởng những đầy tớ biết dùng những nén bạc chủ trao gởi, để sinh lời. Còn người đầy tớ không làm ra lời nén bạc được trao, đã bị phạt. Chủ gọi đầy tớ đó là tồi tệ, biếng nhác, và vô dụng, bị ném vào nơi tối tăm (x. Mt 25,24-30). 5. Sự ác thứ ba đóng vai mồ chôn sống con người là tính ích kỷ, không chịu cứu giúp những người cùng khổ. Trong bài giảng về cuộc Phán xét chung, Chúa sẽ quyết liệt với những ai ích kỷ, không chịu thương cứu những người đau khổ. Chúa phán: “Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế (tức là cứu giúp) cho một trong những người bé nhỏ nhất, là các ngươi đã không làm cho chính Ta... Thế là họ sẽ bị cực hình muôn kiếp” (Mt 25,41-46). 6. Sự ác thứ bốn đóng vai mồ chôn sống con người là sự quá tìm hưởng thụ ở giàu sang. Chúa Giêsu đã phán: “Các con ơi, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10,25). 7. Sự ác thứ năm đóng vai mồ chôn sống con người là sự phô trương, ham thích được ca tụng khi làm các việc lành. Chúa Giêsu đã nói rất rõ về những người cầu nguyện, ăn chay, bố thí, mà ham muốn được người ta khen ngợi. Họ sẽ bị Chúa loại bỏ. Vì: “Chúng đã được thưởng công rồi” (x. Mt 6,2.5.16). 8. Sự ác thứ sáu đóng vai mồ chôn sống con người là kiêu ngạo, không nhận mình là kẻ tội lỗi. Chúa phán với các Pharisêu: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây, các ông nói rằng: Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,41). 9. Nhận ra 6 sự ác trên đây đang đóng vai mồ chôn sống con người, tôi sợ cho tôi. Tôi nói nỗi sợ đó của tôi cho một số người. Phần đông họ đều khuyên tôi không nên sợ. Cứ sống sao cho thoải mái, vui vẻ. Đừng quá sợ những rủi ro có thể xảy ra ở đời sau. Chúa liền soi sáng cho tôi thấy: Không biết sợ những gì sẽ xảy ra đời sau, đó là một sự ác rất nguy hiểm đóng vai mồ chôn sống tôi. Và chính đó là tinh thần tục hoá đang phá hoại đức tin hiện nay. Nếu vậy, thì tinh thần tục hoá, không biết sợ Chúa, sẽ là sự ác thứ 7 đóng vai mồ chôn sống tôi. Với tất cả tấm lòng tin cậy, tôi xin Chúa cứu tôi. Xin Người thương giúp tôi bước ra khỏi những mồ chôn sống tôi, nếu thực sự, một cách nào đó, tôi đang bị chôn trong những mồ ấy. 10. Chúa hứa là Chúa sẽ cứu tôi. Nhưng tôi phải cộng tác vào ơn Chúa cứu. Bằng những việc sau đây. Tôi xin được rất vắn gọn. 1) Tôi phải cầu nguyện nhiều. Cầu nguyện ở đây cốt yếu là gặp gỡ Chúa, xin ơn vâng phục thánh ý Chúa, để thuộc về Chúa, để được về với Chúa. Khi cầu nguyện, tôi phải tin cậy vô điều kiện ở lòng thương xót Chúa. Tôi thường nói với Chúa rằng: Xưa ông Ladarô chết, chôn trong mồ, đã bốc hôi thối, thế mà Chúa cũng vẫn làm cho ông sống lại, bước ra khỏi mồ. Nay, con dù cũng đã hư thối, con tin Chúa cũng dư sức làm cho con sống lại, bước ra khỏi mồ. Tôi cầu xin trong tâm tình kết hợp với Thánh Linh. 11. 2) Tôi phải sám hối nhiều. Sám hối của tôi chủ yếu là giục lòng yêu mến Chúa nhiều hơn. Đồng thời, cũng xin chịu những đau đớn xảy ra, để đền tội. Sám hối đòi phải cậy tin ở lòng thương xót Chúa. Như đứa con hoang đàng trở về với Cha. Nhất định sống xứng đáng người con của Chúa, theo gương mẫu Chúa Giêsu, sẵn sàng phấn đấu để nên người mới. Tôi thường nói với Chúa: Con tội lỗi lắm. Xin Chúa đừng bỏ con. 12. 3) Tôi phải cậy nhờ ở nhiều người khác, xin họ thương cứu giúp tôi. Chúa cứu tôi, nhưng rất nhiều lần Chúa dùng những con người để thực hiện việc cứu đó. Sự cậy nhờ người khác chính là một việc khiêm nhường trong tình liên đới, có sức chữa lành nhiều thứ bệnh tâm hồn. Đặc biệt tôi phải nhờ đến những người đạo đức, thực sự sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ là bậc thầy của tôi. 13. 4) Tôi phải góp phần cứu người khác trong mọi trường hợp, mà tôi có thể cứu họ. Cứu người khác chính là một cách tôi bước ra khỏi mồ chôn tôi. Cứu người khác là cả một sự mở ra quảng đại tấm lòng của mình. Cho dù mình rất bị giới hạn về của cải vật chất, nhưng vẫn có thể giàu về tâm hồn, để mà cho đi. Nhất là cho đi niềm hy vọng về Tin Mừng ở Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Tôi cứu họ do ơn gọi được sai đi. Tôi cho đi ít, mà nhận được nhiều. 14. 5) Tôi phải khiêm tốn đợi chờ giờ Chúa đến cứu. Chúa thường đến bất ngờ, và cứu bằng những cách bất ngờ. Rất nhiều khi bằng cách kín đáo, chỉ như một sự hiện diện thân thương. Tôi đợi chờ Chúa, để mà tạ ơn, để mà yêu mến, để mà phó thác. Đôi khi Chúa đến cứu tôi bằng cách cho tôi thấy những sự thực đau đớn. Như hình ảnh sau đây, mà thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết: “Đến ngày phán xét chung, chúng ta sẽ thấy nhiều tông đồ giống như những cây sến đẹp đẽ, cành rộng phủ bóng xa, chim trời xuống làm tổ ở đó. Nhưng chúng ta sẽ thấy gì trong ngày phán xét? Chúng ta sẽ thấy bên trong những cây đó đã bị rỗng, do mối mọt kiêu ngạo và thích hư danh đục khoét”. 15. Theo kinh nghiệm của tôi, mồ nguy hiểm nhất đang chôn sống nhiều người công giáo chúng ta, chính là tính tự mãn và chủ quan. Tự mãn và chủ quan đang phát triển mạnh và công khai như một đức tính tốt tại nhiều cá nhân và cộng đoàn. Y hệt như thời đạo cũ, lúc Chúa Giêsu xuống thế làm người rao giảng sự cải cách. Do tự mãn và chủ quan, chính những người có đạo thời đó đã giết Chúa Giêsu. Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con biết cầu nguyện và tỉnh thức, để có thể đón nhận ơn Chúa cứu độ, mà Chúa dành cho những kẻ khiêm nhường bé mọn. Xin Chúa thương giúp cho việc đào tạo trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay đem lại cho đồng bào Việt Nam những chứng nhân về sự thánh thiện của Chúa Giêsu khó nghèo, khiêm tốn và yêu thương quên mình, dồi dào sức sống nội tâm, như một của lễ tình yêu hiến dâng cho Chúa, vì phần rỗi các linh hồn. Long Xuyên, ngày 3 tháng 11 năm 2013.
Bùi-Tuần 1237: NHỮNG CƠN BÃO ĐANG TÀN PHÁ ĐỨC TIN 10-11-2013
Bão thường được hiểu là hiện tượng mây gió kết tụ lại thành một sức mạnh phi thường di chuyển không theo luật. Hậu quả của bão là tàn phá trên bất cứ nơi nào nó đi qua. Ở đây, tôi xin mượn từ bão với ý nghĩa đó, để nói về những sức mạnh vô hình đang tàn phá đức tin trên thế giới nói chung và tại Việt Nam hôm nay nói riêng. Theo tôi, thì có nhiều thứ bão loại đó. 2. Bão thứ nhất là phong trào tục hoá. Phong trào tục hoá đang hình thành và diễn biến phức tạp trong nếp sống đạo hiện nay. Nét chung của các hình thức tục hoá là nỗ lực tăng cường các việc đạo đức bề ngoài, còn đời sống nội tâm thì lại coi nhẹ. Một trong những yếu tố quan trọng của đời sống nội tâm là gặp gỡ Chúa trong đức tin, thì xem ra không được để ý. Thực vậy, đức tin không phải là một đề tài, một chủ thuyết để cắt nghĩa và khai triển, nhưng chủ yếu là một gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thế nhưng rất nhiều khi, phong trào tục hoá đã làm áp lực, để tôi đừng gặp gỡ Chúa Giêsu, thậm chí cũng áp lực để tôi không muốn tìm gặp gỡ Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người, để cứu chuộc nhân loại. 3. Phúc Âm thánh Marcô có đoạn viết: “Đang khi Đức Giêsu ra khỏi Đền thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: ‘Thưa Thầy, Thầy xem công trình lớn thật! Kiến trúc vĩ đại thật!’ Đức Giêsu đáp: ‘Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Tất cả đều sẽ bị phá đổ’”. (Mc 13,1-2). Lời Chúa phán trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới những công trình đức tin, mà tôi và hầu hết cho là vĩ đại, nhưng Chúa lại cho là sẽ bị phá huỷ tan tành. Bởi vì công trình đó chỉ được xây dựng bằng những việc đạo đức bề ngoài, có tính cách phô trương mà thiếu thực chất. Phô trương xem ra là một nhu cầu đang được vẽ ra cho nhiều công trình đức tin, và được công nhận là chính đáng để làm sáng danh Chúa, hợp với thời đại mới. Bão tục hoá đang tàn phá, nhưng lại không nhận ra, đó mới là điều bi đát cho đức tin. 4. Cơn bão thứ hai là phong trào hưởng thụ. Nói tới hưởng thụ, chúng ta thường nghĩ tới sự tìm khoái lạc nơi của cải vật chất. Chúng trói buộc chúng ta, bắt chúng ta phải làm tôi chúng. Để vật chất khống chế, để vật chất sai khiến, nhận đó là hạnh phúc chính của mình, thứ hưởng thụ như thế rất hại đến đức tin. Nhưng nguy hiểm hơn thứ hưởng thụ đó, là hưởng thụ về giai cấp, về danh dự đạo đức mà mình cho là mình hơn người khác. Phúc Âm thánh Luca kể dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra sau đây để cảnh báo: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc phái Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. “Còn người thu thuế, thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14). Kiêu căng, tự đắc với giai cấp đạo đức, tự mãn cho là mình không xấu như những người khác, đó là một thứ hưởng thụ rất tinh vi, cao cấp, cực kỳ nguy hiểm. Nếu tôi không tỉnh thức, tôi cũng dễ bị cơn bão hưởng thụ đó tàn phá đức tin của tôi. 5. Cơn bão thứ ba là phong trào nhân danh Chúa. Phong trào nhân danh Chúa đang phát triển mạnh. Xây cất nhân danh Chúa, tổ chức ban bệ nhân danh Chúa, tiệc tùng nhân danh Chúa, tranh đấu nhân danh Chúa, loại trừ nhân danh Chúa, kết án nhân danh Chúa, chống đối nhau nhân danh Chúa. Xưa, Chúa Giêsu đã cảnh giác về việc nhân danh Chúa với những lời nghiêm khắc sau đây: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao. Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Lý do là vì họ làm theo ý riêng, chứ không làm theo ý Cha trên trời (x. Mt 7,21). 6. Có thể là còn nhiều cơn bão khác đang tàn phá đức tin. Nhưng tôi biết chắc ba cơn bão nói trên đang thi nhau di chuyển trên Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Tôi cầu xin Chúa phá đi những cơn bão nguy hiểm đó. Nhưng Chúa cho tôi thấy chính Chúa Giêsu xưa cũng đã bị Satan đi theo, để quấy phá Người, ngay trong sa mạc, nơi Người vào đó để cầu nguyện và ăn chay. Chúa cũng cho tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về sức mạnh của Satan: “Đây là giờ của những bóng tối” (Lc 22,53). Thế nghĩa là gì? 7. Tôi hiểu là những cơn bão tàn phá đức tin sẽ vẫn mãi còn. Chúng do Satan. Chúa cho phép chúng tồn tại và hoạt động. Chúng ta phải phấn đấu, như Chúa Giêsu xưa. Chúa muốn như vậy. Phấn đấu của chúng ta sẽ rất cam go, có khi sẽ bi quan, khi thấy xem ra đang ứng nghiệm lời than của Chúa Giêsu xưa: “Liệu khi Con Người đến, Ngài còn tìm thấy đức tin trên mặt đất này nữa không?” (Lc 18,8). Phấn đấu của chúng ta sẽ phải rất kiên trì, như Chúa Giêsu đã nói: “Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguôi đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng sẽ được cứu rỗi” (Mt 24,12). Phấn đấu của chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện và tỉnh thức tìm thực thi ý Chúa, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Phấn đấu của chúng ta sẽ phải khiêm tốn dựa vào Lời Chúa, dựa vào các phép Bí tích, dựa vào Hội Thánh, coi đức tin là một ân huệ Chúa ban, mà ta phải đón nhận với lòng khiêm tốn cảm tạ. Phấn đấu của chúng ta sẽ có lúc phải rất vất vả đớn đau, như Chúa Giêsu xưa trong vườn Cây Dầu và trên thánh giá. Phấn đấu của chúng ta sẽ không ngừng phiên dịch đức tin ra yêu thương trong mọi liên đới, nhất là liên đới với những người đau khổ, coi yêu thương chính là dấu chỉ đích thực của những người tin Chúa. Phấn đấu của chúng ta sẽ luôn luôn nép mình vào trái tim Chúa Giêsu. Trái tim ấy là nơi chúng ta trú ẩn, để tuyệt đối tin cậy ở tình yêu Chúa luôn ở với ta, luôn lấy máu mình làm giá cứu chuộc ta. Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn hạ, nhg con tin con được Chúa yêu thương, được Chúa cứu chuộc, được Chúa kêu gọi, được Chúa sai đi. Con tin ở Chúa. Con phó thác nơi Chúa. Con cảm tạ Chúa. Con thuộc về Chúa. Con về với Chúa.
Bùi-Tuần 1238: SỐNG ĐỨC TIN VỚI NHỮNG GIỚI HẠN 15-11-2013
Càng về cuối đời, tôi càng nhận thức rõ hơn về những giới hạn của mình, cách riêng là về 3 giới hạn sau đây. 2. Giới hạn về sự nhận biết ơn Chúa ban cho tôi. Xưa, trên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samaria rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho chị” (Ga 4,10). Với lời đó, Chúa Giêsu cho người phụ nữ thấy chị chưa thực sự nhận ra ơn Chúa ban cho chị. Lời đó cũng nhắc bảo tôi là tôi chưa nhận biết đúng về tất cả những ơn Chúa đã ban cho tôi. Ơn Chúa ban cho tôi rất nhiều, thuộc phần hồn và phần xác, trong mọi lãnh vực. Nói theo ngôn từ Phúc Âm, những ơn Chúa ban cho tôi đủ loại đó có thể ví như những nén bạc, mà Chúa trao cho tôi, để tôi sinh lời (x. Mt 25,14-28). Tôi có dùng những nén bạc đó, để làm cho tôi nên người tốt, có lợi cho phần rỗi của mình và của người khác, cũng như cho Nước Chúa không? Tôi phải lương thiện nhìn nhận rằng: Trong việc nhận ra ơn Chúa ban, tôi đã có nhiều giới hạn. Biết bao lần, những niềm vui và những thành công thì được tôi nhìn nhận là ơn Chúa, còn những đớn đau và những thất bại thì không nhận là ơn Chúa, đang khi chính những đớn đau và những thất bại lại chính là cơ hội Chúa gởi tới để Chúa ban cho tôi những ơn cao quý. Biết bao lần, những người giàu sang đến với tôi để tặng quà cho tôi, thì tôi cho là ơn Chúa ban, còn những người nghèo khổ đến với tôi để xin cầu cứu, thì tôi không cho là ơn Chúa, đang khi họ chính là địa chỉ chính xác Chúa đợi, để bất cứ sự gì tốt tôi làm cho họ, đều sẽ được Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Biết bao lần, Chúa gởi đến cho tôi những biến cố, những con người, những sự việc kêu gọi tôi sửa mình, để trở nên người đạo đức hơn. Nhưng tôi không quan tâm, vẫn dửng dưng, vẫn bỏ lỡ cơ hội. Xưa, Chúa Giêsu đến với các người đồng hương, rao giảng Tin Mừng, nhưng họ không nhận ra Người là Tin Mừng, họ xua đuổi Người. Xưa, Chúa Giêsu trừ quỷ và làm nhiều phép lạ, để làm chứng Người là Tin Mừng cứu độ. Nhưng bao người có đạo thời đó, chính các thượng tế và Thượng Hội Đồng cũng không tin nhận Người, thậm chí còn tìm cách giết Người. Rất có thể, Chúa Giêsu cũng đang đến giữa lịch sử hôm nay và đang làm nhiều phép lạ. Nhưng biết đâu nhiều người, trong đó có tôi, vẫn không nhận ra Người. Giới hạn trong sự nhận ra ơn Chúa luôn vẫn mãi tồn tại. Biết đâu giới hạn đó nơi tôi đang trong tình trạng trầm trọng. 4. Một giới hạn nữa nơi tôi cũng có thể trong tình trạng trầm trọng, đó là giới hạn về sự khôn ngoan. Phúc Âm dạy tôi phải rất khôn ngoan. Khôn ngoan trước hết là trong những ưu tiên phải chọn cho đời mình. Ưu tiên lo cho phần rỗi linh hồn. Chúa phán: “Được mọi sự thế gian, mà mất linh hồn, thì nào được ích gì?” (Mt 16,26). Ưu tiên biết sợ Chúa. Chúa phán: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy biết sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác anh em trong hoả ngục” (Mt 10,28). Ưu tiên thực thi ý Chúa. Chúa phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thêm vào sự khôn ngoan về chọn ưu tiên, Chúa cũng đòi phải khôn ngoan trong thái độ sống: Chúa phán: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói. Anh em phải khôn như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16). Phúc Âm cho thấy: Cũng là việc rao giảng, cũng là việc làm phép lạ chữa bệnh, cũng là việc trừ quỷ, nhưng Chúa Giêsu có lúc làm những việc đó ở nơi này mà không làm ở nơi khác, có lúc làm ở thời điểm này, mà không làm ở thời điểm khác. Đó là bài học về sự khôn ngoan trong thái độ sống. Một bài học nữa Chúa dạy tôi về sự khôn ngoan trong mục vụ. Chúa phán: “Ách tôi thì êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Với lời đó, Chúa muốn những môn đệ Chúa đừng bao giờ làm cho bất cứ ai lầm tưởng: Theo đạo Chúa là phải mang lấy những gánh nặng, nhưng trái lại sẽ cảm thấy cuộc sống đạo là êm ái, là nhẹ nhàng. Sự khôn ngoan đó trong mục vụ của Chúa luôn cảnh giác tôi về các thứ mục vụ chồng chất những gánh nặng về luật lệ không cần thiết. Giới hạn về sự khôn ngoan nơi tôi là thế nào? Tôi nhìn nhận là có nhiều. Nếu tôi không thận trọng, giới hạn đó cũng có thể trở nên nguy hiểm. 5. Giới hạn nguy hiểm nữa nơi tôi là giới hạn về sự tỉnh thức. Từ ít lâu nay người ta nói nhiều đến dấu chỉ thời đại. Dấu chỉ thời đại thường là những khác thường xảy ra trong lịch sử, thí dụ sự kiện Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đức Phanxicô xuất hiện kéo chú ý nhiều người về cải cách trong lãnh vực đạo đức, mục vụ và truyền giáo. Rất nhiều người nhìn Ngài mà hiểu về hướng thời đại. Xưa Chúa Giêsu phán với các người Pharisêu và Sađốc rằng: “Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điểm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi” (Mt 16,3). Nếu tôi không cố gắng, tôi cũng sẽ bị Chúa trách như thế. Một tỉnh thức nữa, tôi rất sợ tôi cũng có nhiều giới hạn, đó là tỉnh thức về bổn phận liên đới. Chúa dạy tôi về bổn phận liên đới trong dụ ngôn người phú hộ và người ăn mày Ladarô (x. Lc 16,19-31). Nhà phú hộ hưởng thụ tối đa những gì ông có, như địa vị cao sang, của cải dư thừa, bạn bè quý tộc, với những tiệc tùng ngày nọ sang ngày kia. Đang khi đó, ngay ở cửa nhà ông, có một người ăn mày nằm đó, bệnh tật, đói khổ, cô đơn. Nhà phú hộ coi mình như không có bổn phận gì với người ăn mày đó. Nhưng, sau khi chết rồi, Chúa xét xử ông rất công minh về bổn phận liên đới của ông với người ăn mày. Ông bị ném xuống hoả ngục, đời đời sẽ phải ở đó. Dụ ngôn trên đây đòi tôi phải tỉnh thức rất nhiều về bổn phận liên đới của tôi với những người nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn xung quanh tôi. Một tỉnh thức nữa, mà Chúa hay nhắc tôi trong Phúc Âm là tỉnh thức đón giờ Chúa gọi về đời sau. Có thể sẽ có những bất ngờ. Nếu không tỉnh thức, tôi sẽ phải lãnh lấy những hậu quả khủng khiếp đời đời. Nhưng từ đây đến khi chết, tôi sẽ gặp nhiều bất ngờ, trong đó có những bất ngờ đau đớn và khủng khiếp. Nếu tôi không tỉnh thức, những bất ngờ đó có thể sẽ tàn phá đời tôi và tương lai của Hội Thánh. 6. Tôi xin tạm dừng ở đây, để cảm tạ Chúa đã cho tôi thấy những giới hạn của tôi. Cảm tạ đi đôi với sám hối. Tất cả đều dựa trên đức tin. Tôi tin ở Chúa, mà không có giới hạn nào. Tin như trẻ thơ trong lòng người mẹ, người cha của mình. Tin tuyệt đối, tin vững vàng. Tin của tôi là gặp gỡ Chúa Kitô, vâng lời Người là gắn bó mật thiết với Người. Tin của tôi là dấn thân bước theo Chúa Kitô sống yêu thương phục vụ. Tin của tôi là phó thác mình cho Chúa với nhận thức mình tội lỗi, yếu đuối, hèn hạ và với xác tín Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Lạy Chúa, xin xót thương con.
Ngày 3 tháng 12 là lễ kính thánh Phanxicô Xavie. Tự nhiên năm nay lễ này đưa tôi vào cõi nhớ. Tôi nhớ rất nhiều đến Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Hầu như ngày nào tôi cũng nói chuyện với Người Bạn thân thương của tôi. Cho dù Ngài đã bắt đầu bước lên bậc thánh, tôi vẫn gọi Ngài bằng: “Chú Thuận ơi”. 2. Nhưng mấy ngày nay, tôi tâm sự với Ngài nhiều hơn. Tôi nói với Ngài về tình hình sức khoẻ của tôi. Sức khoẻ thân xác, sức khoẻ tâm hồn, cả hai đều xuống dốc. Tôi hỏi Ngài: Trong một tình hình như vậy, tôi nên làm gì, để ổn định ơn gọi của tôi? Không lâu, người bạn của tôi thầm nhắc cho tôi là hãy sống theo lời khuyên của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma. 3. Tôi nhớ ngay đến phần “khuyên nhủ” của lá thư đó. Tôi mở Phúc Âm ra, thì gặp đoạn 12 thư đó, đã được ngăn sẵn tự lúc nào không biết. Lời khuyên mở đầu như sau: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Chúa. “Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,1-2). 4. Đức Hồng Y, Bạn tôi, khuyên tôi bằng lời khuyên của thánh Phaolô. Còn tôi thì hiểu lời khuyên đó trên cuộc đời của người bạn thân thiết của tôi là Đức Hồng Y Phanxicô. Trước hết, tôi hiểu tôi “hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa”. Tôi nhìn gương Đức Hồng Y, suốt đời Ngài nhất là về cuối đời, Ngài đã là của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa. Nhờ những hy sinh cộng với tình yêu, ở mức độ khác thường, ngay trong những giai đoạn của cuộc sống bình thường. Bây giờ xin đi một chút vào chi tiết. 5. Của lễ sống động là trong chính bản thân, chứ không trong lý thuyết. Của lễ sống động, mà tôi cảm nghiệm sâu sắc nhất nơi Đức Hồng Y Phanxicô, là tình yêu bén nhạy của Ngài. Tôi có cảm tưởng Chúa ở trong Ngài, nên Ngài mới có được một tình yêu nhạy bén như thế. Ngài hiểu hoàn cảnh khốn khó của tôi, trước khi tôi tỏ bày với Ngài. Ngài không muốn nghe tôi kể lể, mà chỉ muốn làm hết sức mình để an ủi và nâng đỡ tôi. 6. Của lễ thánh thiện là như của lễ Chúa Giêsu xưa. Tôi rất cảm động, khi biết Đức Hồng Y chịu thương chịu khó, là để cùng với Chúa Giêsu, muốn đưa tôi vào cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa. Cứu độ mọi người bằng yêu thương và hy sinh. 7. Của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, để thờ phượng Thiên Chúa là theo chân lý và trong Thánh Thần (Ga 4,24). Khi bản thân mình là của lễ, thì dù ở đâu, dù ở lúc nào, dù trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn thờ phượng Chúa. Của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, để thờ phượng Thiên Chúa, trong tình hình hiện nay của tôi, thường được tôi suy nghĩ và hỏi ý kiến Đức Hồng Y. Ngài hay trấn an tôi, như Ngài vẫn làm hồi xưa khi Ngài còn sống. Luôn luôn mọi lời khuyên của Ngài đều dẫn tôi vào tâm tình phó thác khiêm nhường, với những dấn thân nhẹ nhàng cho bình an và hoà giải. 8. Năm đó, dịp tôi đang trị bệnh ở Cộng hoà Liên Bang Đức, Đức Hồng Y đã từ Rôma qua thăm tôi. Hai anh em trọ ở một tu viện nữ, mà Ngài quen biết. Chúng tôi đã trao đổi nhiều về những chuyển biến đang xảy ra trên thế giới nói chung và tại Quê Hương Việt Nam nói riêng. Ngài khôn khéo nhắc cho tôi về sự khôn ngoan tránh rập theo thói đời. Lời khuyên đó cũng là lời khuyên của thánh Phaolô xưa (Rm 12,2). Thói đời, mà Đức Hồng Y nói tới, thì nhiều, nhưng Ngài hay nhắc tới sự phải tránh nhất là những hận thù và những tinh thần lợi ích cục bộ. Về hận thù, Đức Hồng Y có ý nói về tương quan đối với chủ nghĩa Cộng sản và các tôn giáo khác trong nước, nếu đã có những va chạm trong quá khứ. Về cục bộ, Đức Hồng Y có ý nói tới nội bộ Hội Thánh Việt Nam với những khác biệt lâu đời. Tôi thấy Ngài có nhiều kinh nghiệm về những thói đời trong tinh thần cục bộ vẫn tồn tại dưới những hình thức hiệp thông và hợp nhất. Sửa lại những thói đời đó không phải chuyện dễ.
9. Ngài rất biết là Hội Thánh Việt Nam có nhiều đổi mới. Nhưng Ngài cũng rất biết là “cải biến con người bằng cách đổi mới tâm hồn” như thánh Phaolô khuyên (Rm 12,2), chưa được nhiều. Hơn nữa, sự cải biến con người bằng cách đổi mới tâm hồn sẽ rất có thể đi sai hướng, khi Việt Nam tiếp cận với các phong trào tục hoá, hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa của thế giới tự do mỗi ngày mỗi phức tạp. 10. Mỗi lần gặp nhau tại Rôma, Đức Hồng Y hay nói với tôi về việc đào tạo nhân sự cho tương lai Hội Thánh Việt Nam. Phải đào tạo thế nào, để trong một tình hình phức tạp, các nhân sự của Hội Thánh Việt Nam “biết phân định ‘đâu là ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo’” (Rm 12,2). Theo hướng đó, Đức Hồng Y hay kể cho tôi những kinh nghiệm của Ngài về các Hội Thánh ở Phi châu và ở Nam Mỹ, là những nơi Ngài đã được mời đến giảng tĩnh tâm cho các Hội đồng Giám mục, hoặc đến để thanh tra theo lệnh của Toà Thánh. Theo Đức Hồng Y, phân định đâu là ý Chúa, cái gì là tốt, là đẹp, trong một Giáo Hội địa phương và ở một thời điểm, đòi các nhân sự tại chỗ phải có những sáng kiến vừa dựa theo Lời Chúa, vừa dựa trên những giá trị cao đẹp của văn hoá truyền thống dân tộc. Giá trị cao đẹp nhất của nền văn hoá truyền thống dân tộc là hiếu thảo và yêu thương. 11. Được gần Đức Hồng Y Phanxicô, tôi thấy Ngài luôn thao thức cho Hội Thánh Việt Nam biết làm chứng cho đức tin bằng đức ái, và đức khó nghèo. Đức ái màNgài muốn là đức ái đã được thánh Phaolô miêu tả như sau: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. “Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7). 12. Về đức khó nghèo trong Hội Thánh, Đức Hồng Y hay phàn nàn về những tham vọng, những tranh chấp, những phô trương, mà người ta khéo che giấu tinh vi dưới hình thức đạo đức. Đức Hồng Y biết khá nhiều về những yếu đuối trong Hội Thánh, từ trung ương đến các địa phương. Nhưng Ngài không bi quan, cũng không chủ trương một cuộc cải cách có tính cách chiến thắng theo kiểu thế gian. Nhưng Ngài luôn hy vọng mọi sự sẽ được trở nên tốt hơn, nhờ tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu được thể hiện trên thánh giá. Tôi thấy Đức Hồng Y là người khiêm nhường nghèo khó. 13. Một thoáng nhớ về Đức Hồng Y Phanxicô trên đây đang làm ấm lại những ngày cuối đời của tôi. Tôi còn rất nhớ lời Ngài hay nói với tôi: “Sau này, chú và tôi sẽ về hưu. Chúng mình sẽ ở chung một nơi, cùng nhau giúp tĩnh tâm cho những ai đến nơi đó”. Hình như chúng tôi đang làm như vậy, theo một cách nào đó, thông thoáng như một hy vọng tâm linh, gần gũi như một gặp gỡ tâm tình. Xin hết lòng cảm tạ Chúa đã cho Hội Thánh Việt Nam một mục tử tốt lành là Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Ngài là gương sáng về sự trung thành với Chúa và Hội Thánh. Ngài cũng là gương sáng về sự gắn bó với Quê Hương Việt Nam và thiết tha phục vụ tất cả đồng bào Việt Nam yêu dấu. Long Xuyên, ngày 26 tháng 11 năm 2013.
Mùa Vọng, tôi có hai hy vọng. Hy vọng thứ nhất là hy vọng tôi biết đón nhận Chúa. Hy vọng thứ hai là hy vọng tôi được Chúa đón nhận tôi. Hy vọng vẫn là hy vọng, nghĩa là chỉ trong ước mong. Còn điều tôi ước mong có được thực hiện hay không lại là chuyện khác. Tôi rất lo cho sự thực hiện hai hy vọng trên đây của tôi. Nỗi lo của tôi có cơ sở Phúc Âm và thực tế lịch sử. 2. Trước hết, xin nói về hy vọng biết đón nhận Chúa. Phúc Âm cho thấy nhiều người theo đạo Chúa thời Đức Giêsu Kitô xuất hiện, đã không biết đón nhận Người. Thánh Gioan Tông đồ đã viết ngay trong “lời tựa” Phúc Âm của Ngài những câu đau đớn: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng thế gian lại không nhận biết Người Người đã đến nhà mình, nhưng những người nhà lại chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,9-11). Thực là phũ phàng. 3. Sự thực phũ phàng đó lại xảy ra ngay tại Nadarét, là quê hương của Chúa Giêsu. Thánh sử Luca viết: “Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó ... Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Người nói với họ: Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, là quê hương của ông xem nào. Người trả lời: Tôi bảo thật các ông: Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương. ... Mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-20). Đồng hương của Chúa Giêsu không những không đón nhận Người, mà còn định tiêu diệt Người. Thực là một sự thực phũ phàng đầy đau đớn. 4. Sự thực phũ phàng đau đớn như thế lại đã xảy ra một cách độc ác ngay chính những người đứng đầu đạo Chúa thời Chúa Giêsu. Thánh sử Marcô ghi lại một cách rõ ràng: “Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ không men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu để bắt Đức Giêsu mà giết đi. ... Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đều tựu lại... Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng hội đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để làm án tử hình, nhưng họ không tìm ra... ... Họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho quan Philatô. Các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô lên án giết Đức Giêsu” (Mc 14,1-11). 5. Những chuyện phũ phàng đau đớn và ác độc trên đây không phải là không tái diễn trong lịch sử Hội Thánh dưới nhiều hình thức khác nhau, rải rác đó đây, nơi này nơi nọ. 6. Chuyện xua đuổi Chúa một cách quy mô có thể là không nhiều. Nhưng chuyện dửng dưng không đón nhận Chúa là chuyện phải nói là thông thường. Chúa phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Biết bao lần, tôi đã không tỉnh thức nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Biết bao lần, tôi nghe tiếng Chúa gọi, nhưng tôi đã không mở cửa lòng tôi ra, để đón Chúa. Không đón Chúa đến với mình, đó là một thực tế đau lòng, mà tôi thấy đang xảy ra nơi nhiều người đạo Chúa. Thực tế đau lòng đó cũng rất có thể đang xảy ra nơi tôi. Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con. 7. Bây giờ, tôi nhìn sang hy vọng thứ hai của tôi, đó là hy vọng tôi được Chúa đón nhận. Phúc Âm cho thấy điều này: Những điều Chúa Giêsu giảng dạy dưới mọi hình thức đều quy về mục đích đưa con người vào chính lộ dẫn về Nước Trời, nơi được hạnh phúc trường sinh bên Chúa. Những ai đi vào chính lộ, phấn đấu làm điều phúc đức, tránh điều tội lỗi, bước theo Chúa đến cùng, sẽ được Chúa đón nhận vào thiên đường. Còn những ai làm theo ý riêng mình, không từ bỏ tội lỗi, không sám hối, trở về với Chúa, sẽ không được Chúa đón nhận. Những ai được Chúa đón nhận và những ai không được Chúa đón nhận đều đã được Chúa nói rõ trong Phúc Âm, nhất là trong nhiều dụ ngôn, đặc biệt là trong bài nói về ngày phán xét. 8. Phán đoán của Chúa rất công minh, và rất nhiệm mầu. Nhưng chắc chắn điều này là: Chúa ưa thích những ai khiêm nhường, chân thành, tin cậy vào Chúa và biết xót thương người khác, luôn tìm thực thi ý Chúa và biết sám hối. Tôi nhớ tới người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,38-50) và người trộm cướp bị đóng đinh bên hữu Chúa (x. Lc 23,40-43). Có thể nói tinh thần hưởng thụ, nếp sống thực dụng và thói quen đưa mình lên luôn là những cản trở khiến con người mọi nơi mọi thời không được Chúa đón nhận. Lời Chúa phán sau đây làm tôi lo sợ: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng, bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố vói họ: Ta không hề biết các ngươi là ai. Hãy xéo đi cho khuất mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Như vậy, tôi đừng có chủ quan tự mãn với những việc tôi làm, mà tôi tưởng là lành thánh. Bởi vì rất có thể khi tôi làm những việc đó, đã có pha mục đích khoe khoang, và trái ý Chúa. 9. Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thấy Mùa Vọng của tôi sẽ là thời gian quý giá để rà soát lại hai hy vọng của tôi. Tôi rà soát lại bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, là hai phụ nữ quan trọng trong mùa Vọng. Đức Mẹ Maria đã đón nhận Chúa một cách rất khiêm nhường, phó thác. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Mẹ một cách bất ngờ với tình yêu thương xót, và đã làm nơi Mẹ những sự lạ lùng, vì danh Người là Thánh. Bà thánh Isave đã đón nhận Chúa với lòng tin mãnh liệt và tâm tình cảm tạ khiêm cung. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Bà một cách tế nhị kín đáo với một chương trình cứu độ hết sức lớn lao. Đức Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu, bà Isave cưu mang thánh Gioan Baotixita. Cả hai phụ nữ cưu mang ấy đã rất âm thầm, nhưng đã cộng tác rất đắc lực với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ở bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, tôi trở thành bé nhỏ. Và tự nhiên, tôi hiểu bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo khó, tin tưởng ở Chúa chính là những điều kiện cần, để sống mùa Vọng với hai hy vọng của tôi. Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. Nếu thiếu đời sống nội tâm với những nét căn bản đó, tôi có thể sẽ chỉ còn là người của một cơ chế tôn giáo, chứ không là chứng nhân đích thực của đức tin. Lạy Chúa, xin thương xót con. Long Xuyên, ngày 25 tháng 11 năm 2013
Kỷ niệm Chúa Giáng Sinh là một lễ lớn. Lễ trọng này bao giờ cũng gởi vào lòng tôi những món quà. Quà thuộc nhiều thứ. Nhưng quà mà tôi quý trọng nhất, chính là sựbình an. Thời nào bình an cũng quý. Nhưng thời nay, bình an càng rất quý. Bởi vì nó rất cần và cũng rất hiếm. Riêng đối với tôi, bình an còn là một phép lành đặc biệt của Chúa. 2. Khi nói “bình an là một phép lành đặc biệt của Chúa”, tôi có ý tách bình an này ra khỏi các thứ bình an khác. Bởi vì có nhiều thứ bình an. Thí dụ bình an do mình được đầy đủ về của cải, địa vị, sức khoẻ, bình an do mình không bị ai quấy rầy, bình an do mình không phải bận tâm lo cho người khác. Bình an là một phép lành đặc biệt của Chúa, tức là thứ bình an, mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em sự bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em sự bình an không như sự bình an mà thế gian ban tặng” (Ga 14,37). Bình an mà Chúa vừa nói đã được tuyên bố trong đêm Chúa Giáng Sinh tại Bêlem xưa: “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,13-14). Như vậy, bình an như một phép lành của Chúa được hiểu là bình an Chúa ban cho những người thiện tâm. 3. Những người thiện tâm, mà ca đoàn các thiên thần ca ngợi đêm Chúa Giáng Sinh, chính là những người tin vào Lời Chúa. Họ là Đức Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng. Đức Mẹ Maria đã được sứ thần của Chúa đến báo tin “Bà sẽ được thụ thai, sinh hạ một con trai, do quyền năng Chúa Thánh Thần. Con trẻ sẽ được đặt tên là Giêsu, được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Đức Mẹ đã tin và đã thực thi ý Chúa. Thánh Giuse đã được thiên thần báo mộng cho biết: “Đừng ngại đón Maria về với mình. Vì con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Thánh Giuse đã tin và đã thực thi ý Chúa. Các mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh, đã được sứ thần Chúa báo tin vui là: “Một Đấng Cứu Độ đã sinh ra. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người. Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Các mục đồng đã tin, đã tìm, và đã thấy Chúa Giêsu. Họ đã thực thi ý Chúa. 4. Đức Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng có thể đã đón nhận được nhiều ơn riêng, khi gặp được Chúa Giêsu. Nhưng tất cả đều cảm nhận được sâu sắc ơn chung này, đó là sự bình an đặc biệt. Sự bình an, mà các Đấng cảm nhận được, là thấy đời mình sẽ được bảo đảm. Cho dù cuộc đời sẽ rất gian nan, nhưng có Đấng Cứu Thế ở với mình, mình sẽ được Người cứu, nhất là cứu khỏi tội, để tới đích sau cùng là về với Thiên Chúa trên trời đầy vinh quang. Bình an đó là một món quà đặc biệt Chúa ban cho các Đấng, những người tin vào Lời Chúa và thực thi Lời Chúa. 5. Còn tôi thì sao? Với tâm tình khiêm cung và cảm tạ, tôi xin tuyên xưng điều này: Sự bình an, mà Chúa ban cho tôi như một món quà đặc biệt, được tôi cảm nghiệm là một sức thiêng liêng, khiến tôi nhận biết mình luôn cần được cứu. Đấng cứu tôi chính là Đức Giêsu, Người ở bên tôi, mặc dù tôi hèn hạ, tội lỗi. Người ở bên tôi, để gánh tội cho tôi, để đền tội cho tôi, để xoá tội cho tôi, để kéo tôi ra khỏi tội lỗi. Bình an như thế là luôn được Chúa cứu, luôn được trở về với Chúa, hy vọng chắc chắn sẽ tới thiên đàng. 6. Sự bình an như thế không có nghĩa là được hưởng an nhàn. Bởi vì thực tế và chính Phúc Âm cũng cho tôi thấy là sự bình an, mà Chúa ban cho tôi, đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều. Mang bệnh tật, nghèo khổ, mà không chán nản, nhưng hãy biết biến những đau khổ ấy thành của lễ đền tội. Bị loại trừ xa tránh, mà không oán hận, nhưng hãy dùng khổ cực đó thành cơ hội tha thứ và trả đáp bằng yêu thương. Tôi hiểu phấn đấu cao đẹp nhất, là dám chọn Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống của tôi, mặc dầu gặp cản trở. Như vậy, phấn đấu là một điều kiện cần của thiện tâm, phấn đấu cũng là một yếu tố cần của sự bình an. 7. Đến đây, tôi cảm tạ Chúa và xin lỗi Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn cậy tin. Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho tôi ơn thiện tâm, ơn bình an, và ơn phấn đấu với mức độ theo lòng thương xót Chúa. Tôi xin lỗi Chúa, vì bao lần tôi đã có những thiếu sót và lầm lỗi trong việc đón nhận và sử dụng ba ơn nói trên. 8. Tôi cảm nhận rất rõ: Cuộc đời là một chuyến đi. Chuyến đi cuộc đời thường gặp nhiều trắc trở bất ngờ. Nếu tôi kiêu ngạo chủ quan nghĩ rằng: Tôi không cần đến ba ơn nói trên, hoặc chần chừ tự ái cho rằng mình không vội phải sửa mình, theo ba ơn nói trên, thì tôi sợ là điều gì phải tới sẽ tới, mà không kịp hối cải. Vì thế, dịp lễ Chúa Giáng Sinh này, tôi xin nói lên một sự thực nên nói: Đó là tình hình đạo đức trong Hội Thánh nói chung, và tại Việt Nam nói riêng đang có nhiều bóng tối. Có nhiều thiện tâm, nhưng những thiện tâm đích thực vẫn thiếu. Có nhiều bình an, nhưng những bình an đích thực nay cũng vẫn thiếu. Có nhiều phấn đấu, nhưng những phấn đấu đích thực vẫn còn rất thiếu. Tôi cũng như nhiều người khác có thể ở trong danh sách những kẻ thiếu thiện tâm, thiếu bình an và thiếu phấn đấu. Nhận định như thế đòi một sự khiêm nhường, sám hối, và cậy tin vào lòng thương xót Chúa. Đó là một hy vọng tốt, một niềm vui tốt. 9. Với niềm hy vọng và niềm vui Phúc Âm, tôi bước sang năm 2014 với một quyết tâm mới, đó là sẽ dấn thân hơn. Dấn thân hơn vào một cuộc sống hy sinh quên mình vì yêu thương theo gương Chúa Giáng Sinh. Dấn thân hơn vào một cuộc sống giản dị, gần gũi và hoà mình với những thân phận bé mọn, túng nghèo, như Thánh Gia tại Belem đối với các mục đồng. Dấn thân hơn vào một cuộc sống làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa bằng chính việc làm và cách sống hơn là bằng lời nói. 10. Với tất cả tấm lòng yêu mến, tôi xin đem những suy nghĩ trên đây dâng lên Chúa, coi đó là một của lễ nghèo của người con bé nhỏ. Dựa trên của lễ trên đây dâng lên Chúa, tôi xin chân thành gởi tới mọi người gần xa lời chúc tỉnh thức Phúc Âm, để có thể nghe được và đón nhận được lời chúc của ca đoàn thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”, nhất là để gặp được Chúa Giêsu đang đến với chúng ta. Cũng dựa trên của lễ trên đây, tôi thành khẩn xin mọi người hãy cầu chúc cho Đức Thánh Cha Phanxicô một niềm vui Phúc Âm luôn mới, để đổi mới Hội Thánh một cách có hiệu quả trong giai đoạn đầy khó khăn này. Đức Thánh Cha nói nhiều đến người nghèo, và muốn Hội Thánh phải là Hội Thánh sống nghèo theo tinh thần Chúa Giáng Sinh. Tôi sợ cho Đức Thánh Cha. Nhưng tôi tin Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là ngôi sao đêm Giáng Sinh dẫn đường cho nhiều người đến được với Chúa Giêsu. Long Xuyên, ngày 8 tháng 12 năm 2013.
Bùi-Tuần 1242: Một thánh lễ xưa có quá ít người tham dự 12-04-2013
1. Xưa, ngày thứ sáu Tuần Thánh, Đức Giêsu Kitô đã bị đóng đinh, treo trên cây thánh giá. Trong tư thế thảm thương ấy, Đức Giêsu Kitô đã là một thánh lễ dâng lên Chúa Cha. 2. Thánh lễ ấy đã làm vinh danh Chúa Cha hơn mọi lễ tế, vì Đức Giêsu Kitô đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha, ban tặng trọn vẹn chính bản thân mình cho nhân loại, phó thác tuyệt đối vào tình yêu Chúa Cha, để lập công đền tội thay cho nhân loại, nhờ đó bất cứ ai đón nhận ơn cứu chuộc của Người, sẽ được cứu khỏi cõi tối tăm của Satan, được vào thiên đàng hưởng phúc trường sinh. 3. Thánh lễ ấy của Đức Giêsu Kitô quả là quý giá vô cùng. Nhưng số người tham dự thánh lễ trọng thể ấy thực là quá ít. Phúc Âm thánh Gioan cho biết họ chỉ là một nhóm 5 người, trong đó có Đức Mẹ Maria, thánh Gioan và bà Maria Madalena (x. Ga 19,25). 4. Việc quan trọng nhất của sự tham dự thánh lễ đó là sự họ thông phần vào cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô. Thông phần vào cuộc thương khó ấy bằng cách: - Đón nhận những đau đớn của Đức Giêsu Kitô, để họ cũng cảm thấy đau đớn trong chính mình. - Biến những đau đớn mình chịu thành tình yêu. - Để nhờ vậy, chính mình cũng được tham dự vào lễ hiến tế cứu chuộc đầy mến Chúa và đầy thương người của Đức Giêsu Kitô. 5. Gương Đức Mẹ Maria và nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá xưa đã là một dòng suối thiêng chảy qua các thế hệ, đem lại cho nhiều người ơn gọi tham dự thánh lễ trên núi Calvariô. Tôi có cảm tưởng là nhiều người đã đón nhận ơn gọi đó. Họ đang hiện diện tại Việt Nam hôm nay. Họ tham dự thánh lễ ấy bằng nhiều cách. Thực vậy, có nhiều người, khi tham dự thánh lễ bàn thờ, đã biết ra khỏi thói quen thả mình vào các hình thức bề ngoài, để gặp gỡ chính Đức Giêsu Kitô, tích cực thông phần vào cuộc thương khó của Người. Lại có những người, tuy không đến dự thánh lễ bàn thờ, nhưng đời họ là một dòng chảy những khổ đau, họ được ơn Chúa đi ra khỏi nỗi đau riêng của mình, để biết thông phần vào cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô. Lại cũng có những người, tuy không biết tham dự thánh lễ bàn thờ, cũng không chịu nhiều đau khổ riêng tư, nhưng khi thấy ai đau khổ, họ đã được ơn Chúa gọi đi ra khỏi cái tôi của mình, để tích cực thông phần vào cuộc thương khó của người đau khổ. Một cách nào đó, họ cũng đã gặp Đức Giêsu Kitô. 6. Những người trên đây có thể được coi là những người tiếp nối nhóm nhỏ xưa. Họ đứng dưới chân thánh giá Chúa, để tham dự thánh lễ Chúa cứu chuộc nhân loại. 7. Họ đau khổ, nhưng không vì thế mà không nếm được niềm vui sâu kín. Nói chung, niềm vui của họ là được trở thành của lễ tình yêu, được là ngọn lửa tình yêu, được cảm nhận như một bài ca tình yêu. Nhỏ bé thôi, nhưng là tình yêu được kết hợp với tình yêu cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Âm thầm thôi, nhưng là tình yêu được kết hợp với tình yêu của các thánh đang đi về Nước Trời. 8. Để được như vậy, họ đã được Chúa Thánh Thần giúp trở nên bần cùng theo gương Đức Giêsu Kitô trên thánh giá. Để rồi, trong một thế giới ngại nói về tội và thánh giá, họ không ngại làm chứng rằng: Tội là một sức mạnh ghê gớm và độc hại. Để cứu mình và người khác khỏi tội, người môn đệ Chúa phải tham dự tích cực vào thánh lễ của Đức Giêsu Kitô trên thánh giá. 9. Họ làm chứng điều đó trong niềm hân hoan biết ơn và cảm tạ Chúa. Tất cả mọi ơn đó hiện lên như một kho tàng. Nhưng họ nói như thánh Phaolô xưa: “Những kho tàng ấy, chúng tôi đựng trong bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường là từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). Họ làm chứng những gì họ đã cảm nhận. Họ làm chứng, chứ không áp đặt. Họ nhận biết mình bé mọn. Họ núp mình vào lễ tế của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha, là Chúa trời đất, con xin chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu những điều ấy cho những nhà khôn ngoan thông thái, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé nhỏ” (Lc 10,24). 10. Tất cả những gì tôi đang thấy ở những nhóm nhỏ tham dự thánh lễ của Đức Giêsu Kitô trên thánh giá, là rất đáng mừng. Họ mang Tin Mừng không phải vì họ là nhóm nhỏ, mà vì họ có tâm hồn khó nghèo, khiêm tốn, bé mọn đầy yêu thương. Họ giới thiệu Thiên Chúa là tình yêu, chứ không là lề luật. Họ giới thiệu một Đức Giêsu Kitô chỉ tay vào trái tim bị thương tích vì yêu, để mọi người dễ hiểu con đường đến với Chúa Cha là con đường trái tim biết thông cảm, tha thứ và cho đi đến cùng. 11. Riêng tôi, tôi xin làm chứng thêm điều này nữa: Tôi nhận biết mình quá yếu đuối, chẳng có sức thông phần đáng kể vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tôi chỉ biết tin vào tình yêu cứu độ của Người. Tôi tin và tôi đến với Người, mang theo bao nhiêu gánh nặng xác hồn. Kết quả thực lạ lùng. Chúa đã thực hiện nơi tôi lời Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Không những tôi được bớt gánh nặng, mà còn được nghỉ ngơi bồi dưỡng trong trái tim Chúa. Xin cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót đã đoái thương đến kẻ hèn mọn này. Long Xuyên, ngày 12 tháng 4 năm 2013
Theo nhận định của nhiều người có thẩm quyền, thì nguy hiểm lớn nhất hiện nay trong Giáo Hội là rất nhiều nơi đang đánh mất những giá trị căn bản mà lại không cho là nguy hiểm. Xin kể ra dưới đây một số hiện tượng khá phổ biến hiện nay. 2. Đức khiêm nhường là một giá trị nền móng của đạo đức Phúc Âm. Nay nó đang bị xoá đi bằng tinh thần háo thắng tôn giáo, coi phô trương các hình thức đạo là làm sáng danh đạo, coi cạnh tranh hoành tráng trong các công trình là phát triển lòng đạo, coi cao sang lộng lẫy của các tổ chức đạo là cách lôi cuốn người ta vào đạo. Hiện tượng kiêu ngạo không phải ở đâu cũng có. Nhưng thực sự nó đang lan rộng. Có nơi nó đang biến dạng thành một tinh thần muốn tách người tín hữu khỏi Chúa Giêsu và thánh giá của Người. 3. Đức bác ái chia sẻ là một giá trị căn bản của người tin theo Chúa. Nay đang bị yếu đi do khuynh hướng phân các thứ giai cấp: Giàu và nghèo, quyền lực và yếu kém, trung tâm và bên lề, với những khoảng cách xa. Thêm vào cảnh phân giai cấp lại đang phát triển khuynh hướng cục bộ dưới nhiều hình thức với những quyền lợi riêng. Tất cả đều bị chi phối mạnh bởi chủ nghĩa cá nhân và lối sống quan tâm đến công trình công việc hơn là đến con người. 4. Hoạt động của cái tâm theo bài giảng trên núi, như tâm hồn nghèo khó, hiền lành, xót thương, trong sạch, khao khát sự công chính, xây dựng hoà bình là một giá trị cốt yếu của đời sống đức tin. Nay nó đang bị coi nhẹ, do sự coi nặng hoạt động của tay chân hướng về hưởng thụ. Sự thánh thiện nội tâm đang bị xuống cấp một cách trầm trọng. Kinh tế hoá một số hoạt động tôn giáo đang là một xu hướng mạnh. 5. Nhìn nhận mình là kẻ có tội, để sám hối trở về, nhờ ơn Chúa cứu chuộc, là một giá trị cao quý của con người tín hữu. Nay nó đang bị lãng quên do thói quen mất ý thức về tội. Theo Phúc Âm, những người tội lỗi dễ đón nhận ơn Chúa thứ tha, vì họ dễ nhận mình có tội, nên sám hối trở về. Còn những người cho mình là đạo đức thường không được như thế, vì họ bảo vệ ý thức sai lầm về tội. Thí dụ, khi Chúa Giêsu tuyên bố: “Ngày Sabba được làm nên vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabba” (Mt 2,27), thì những người hăng say bảo vệ luật Chúa đã bực mình và phản đối. Bởi vì họ cho rằng chủ trương của Chúa Giêsu như thế là tội lỗi, đang khi chính họ mới thực là tội lỗi, thế mà họ lại không chấp nhận sự thực đó. Ý thức của họ về tội là rất sai. 6. Phương hướng nội tâm tập trung vào Đức Giêsu Kitô, tin nhận Người là ánh sáng, là con đường, là sự thật, để bước theo Người vốn được coi là giá trị không thay thế được. Nay nó đang bị khủng hoảng nặng nề, do thiếu phương hướng đó, hoặc mất phương hướng đó. Hậu quả là con người bỏ những trách nhiệm thực của mình, để tự bó buộc mình vào lợi ích phù du trước mắt. Hiện tượng đó còn được nhận ra do sự mất trật tự trong tâm hồn, đi quờ quạng trong bóng tối, lao mình vào những hướng sống với những kiếm tìm không bao giờ thoả mãn, mà không biết đi về đâu và không biết lối thoát ra. 7. Bình tĩnh giữ lập trường theo thánh ý Chúa với sự quy chiếu vào Lời Chúa và gương Chúa vốn là một giá trị vững chắc cho người môn đệ Chúa. Nay nó đang chao đảo bởi những lập trường do thành kiến sai, do dư luận sai, do những áp lực sai trong đạo ngoài đời. Thói đời của chủ nghĩa tục hoá đang hoành hành khắp nơi. Kể cả nơi thờ tự và các nhà tu. 8. Sự mở lòng ra để đón nhận lời Chúa kêu gọi hãy phục vụ con người một cách khiêm nhường như rửa chân cho các môn đệ, và một cách quảng đại như hy tế chính mình trên thánh giá, vốn mãi mãi là một dấu chỉ, hoàn toàn có giá trị chắc chắn của người môn đệ Chúa Giêsu. Nay nó như đang bị chối từ một cách có hệ thống bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cơ chế. Hiện tượng đóng cửa lòng lại đang xảy ra dưới nhiều hình thức. Tinh vi nhất là hình thức chọn cho mình một thứ đạo đức chủ quản, nói là của Chúa nhưng thực ra là của Satan. 9. Mấy khủng hoảng vừa kể trên đây chưa phải là một thống kê đủ, nhưng thiết tưởng cũng đủ, để thấy được là tình hình hiện nay trong Giáo Hội không phải là không đáng lo ngại. Tình hình đáng lo ngại này đã và đang được báo động do chính Chúa bằng nhiều cách. Phải tỉnh thức mới thấy được mức độ lo ngại là rất lớn. 10. Theo thiển ý của tôi, điều đáng lo ngại hơn cả là ở hai điểm này: Một là khủng hoảng được thành hình do sự xâm nhập từ từ của những yếu tố xấu. Xâm nhập từ từ, đó là một chiến lược khôn khéo của Satan. Hai là ở giữa khủng hoảng đầy nguy hiểm mà không nhận ra nguy hiểm. Coi khủng hoảng hiện nay là bình thường của cuộc sống hiện đại, không ảnh hưởng gì đến phần rỗi linh hồn. 11. Phần tôi, trước tình hình đáng lo ngại như hiện nay, tôi vẫn cậy tin vào Chúa. Thánh Gioan tông đồ xưa trước mồ trống táng xác Chúa Giêsu, Ngài đã thấy các dấu chỉ, và Ngài đã tin Chúa đã sống lại: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Phần nào cũng như thánh Gioan tông đồ, nhiều người nay cũng dám nói: “Tôi đã thấy và tôi đã tin”. Thực sự Chúa đã cho họ thấy nhiều dấu chỉ, để họ tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện trong Hội Thánh hôm nay. Người đang cứu Hội Thánh của Người. Người đang làm cho Hội Thánh được tham dự vào sự phục sinh của Người. Tôi xác tín rằng: Sự chúng tôi đã thấy các dấu chỉ và đã tin ở Chúa chính là một ơn quý giá Chúa ban cho chúng tôi. Tôi lại thấy rõ: Biết bao người cũng đã thấy các dấu chỉ ấy, nhưng họ đã không tin ở Chúa. Đó cũng là một khủng hoảng hiện nay khá trầm trọng. Tôi sợ rằng: Các khủng hoảng về đạo đức và về đức tin hiện nay, nếu vẫn cứ mãi mãi phát triển, đẩy con người xuống hố diệt vong đời đời, đem lại thắng lợi cho Satan, thì Chúa sẽ buộc lòng phải giải quyết một cách quyết liệt. Cũng là để cứu con người mà thôi. Lạy Chúa, xin xót thương chúng con. Long Xuyên, ngày 4 tháng 01 năm 2014
Đời tôi là một chuyến đi dài. Đi qua nhiều năm tháng khác nhau. Đi qua nhiều vùng đất khác nhau. Đi qua nhiều trường dạy khác nhau. Đi qua nhiều chế độ khác nhau. Đi qua nhiều môi trường sống khác nhau. Đi qua nhiều biến động và biến loạn khác nhau. Nét nổi bật nhất còn ghi đậm trong ký ức của chuyến đi đời tôi là tôi đã được Chúa cứu. Chúa cứu tôi khỏi nhiều nguy hiểm. 2. Nguy hiểm lớn nhất là tội lỗi có thể dẫn tới hoả ngục. Chúa cứu tôi khỏi tội lỗi bằng nhiều cách như: - Không phạm tội nhờ ơn Chúa. - Trót phạm tội thì sám hối nhờ ơn Chúa. - Tránh đàng tội nhờ ơn Chúa. - Sửa lại những hậu quả do tội gây ra nhờ ơn Chúa. 3. Nguy hiểm cũng thuộc loại lớn là lối sống tuy không phải là tội lỗi, nhưng dễ làm cho con người mất đạo đức. Ở đây, tôi xin kể ra một số lối sống như thế. 4. Lối sống vội vã. Lối sống vội vã là lối sống ưa thích bận rộn, vội vàng, tất bật. Đi nhiều, nói nhiều, làm nhiều, di chuyển nhiều, tiếp xúc nhiều, hoạt động nhiều, náo động nhiều, hăng say hướng ngoại, không có giờ cho suy tư và hồi tâm, nên nội tâm nghèo nàn trống rỗng. Chúa cứu tôi khỏi lối sống đó, để đưa tôi vào lối sống thích gẫm suy, thích ngắm nhìn, thích nội tâm. Một đề tài có tính cách triết học không thể nào suy nghĩ một cách vội vã được, phương chi lại luôn lao mình vào những hoạt động bề ngoài ồn ào, mà lại dám gọi là đi sâu, đi sát. Cuộc sống có biết bao đề tài chạm đến triết học. Một đề tài có tính cách tu đức không thể nào nội tâm hoá được một cách vội vã, phương chi lại không lặng lẽ lắng nghe lời Chúa trong nội tâm một cách tập trung và khiêm tốn. Thế mà cuộc sống có biết bao đề tài chạm đến tu đức. Bỏ tu đức, bỏ nội tâm đang là hiện tượng phổ biến rất đáng sợ. 5. Lối sống thời sự. Lối sống thời sự ở đây được hiểu là thói quen hằng ngày ham biết mọi thứ tin tức thời sự, coi các thứ tin tức thời sự như một thứ lương thực cần thiết bậc nhất. Nhiều người hiện nay ham đủ mọi thứ tin tức thời sự, trên đài, trên báo, trên mạng, trong dư luận, trong các thứ đồn thổi, các thứ bàn tán. Thời sự hiện nay không thiếu những dơ bẩn. Chúa cứu tôi khỏi lối sống đó, để đưa tôi vào lối sống chọn lựa chất lượng xây dựng cuộc sống. Thời giờ có hạn. Tôi sẽ rất hời hợt, nếu với thời giờ có hạn đó, tôi chỉ mải mê theo dõi tin tức thời sự, coi tin tức thời sự như một thứ gì cần thiết làm nên giá trị con người của mình, mà quên rằng giá trị thực của con người phải được chắt lọc từ những môn học căn bản về chân thiện mỹ. Tất nhiên, tin tức thời sự có những giá trị giúp ích nhiều cho cuộc sống. Nhưng tự nó mà thôi sẽ dễ đưa con người đến chỗ trôi nổi, mất phương hướng. Phải biết phán đoán đúng sai, tốt xấu, dựa trên những chân lý được dạy ở các môn học căn bản, chứ không ở trong các tin tức thời sự. Tin tức thời sự cho dù có phơi bày sự kiện một cách chân thành, vẫn có thể đi sai chân lý đạo đức. Bởi vì chân lý đạo đức nhiều khi không cho phép sự phơi bày chân thành đó đụng đến danh dự chính đáng của người khác, mà mình phải tôn trọng. Chân lý đạo đức cũng đòi hỏi những gương sáng được trình bày, hơn là những gương xấu được nêu cao. 6. Lối sống tự mãn. Lối sống tự mãn là coi những gì tốt mình đang có là đủ. Cũng là tự mãn khi coi mình là tốt hơn những người khác. Chúa cứu tôi khỏi lối sống tự mãn, để đưa tôi vào lối sống luôn nhận thức mình là tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Từ đó tôi biết mình phải phấn đấu không ngừng, để luôn luôn sống theo thánh ý Chúa, luôn luôn thuộc về Chúa, luôn luôn trở về với Chúa, luôn luôn cảm thấy mình cần được Chúa cứu. Khi còn trẻ, tôi cứ tưởng đạo đức thánh thiện là do mình làm được nhiều việc lành phúc đức. Nhưng càng đi sâu vào tu đức, tôi càng thấy đạo đức thánh thiện cốt yếu là do mình biết đón nhận ơn Chúa. Nhận thức như thế đòi phải rất khó nghèo. Khiêm nhường đón nhận các ơn Chúa đủ loại, nhất là khiêm nhường đón nhận chính Chúa. Người đến với tôi dưới nhiều hình thức. Đón nhận Người, khi Người đến dưới hình thức đau khổ, nghèo hèn không phải là việc dễ. Nhưng phải nhìn nhận rằng: được đón nhận Chúa, được gặp gỡ Chúa, dù trong hình thức đớn đau đến mấy, vẫn luôn là một hạnh phúc tuyệt vời. Đón nhận lửa yêu thương của Chúa là việc hết sức cần thiết đối với tôi. Tôi luôn rất cần được đón nhận sự tha thứ của Chúa và của mọi người. 7. Lối sống chủ quan. Lối sống chủ quan là thói quen tự coi những chọn lựa của mình là đúng, tự coi những tư tưởng của mình là đẹp, tự coi những việc làm của mình là tốt, tự coi đường lối của mình là trúng hướng, tự coi mọi sự sẽ trôi chảy, tự coi là tương lai chẳng có gì xấu xảy ra đáng sợ, vv... Chủ quan như thế rất có hại. Chúa cứu tôi khỏi lối sống có hại đó, để đưa tôi vào lối sống tỉnh thức. Tỉnh thức lắng nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Tỉnh thức đón Chúa khi Chúa đến lúc bất ngờ. Tỉnh thức nhận ra những sự ác giấu mặt. Tỉnh thức đoán được những khốn khó đang tới. Tỉnh thức ấy nẩy sinh ra những thao thức về những khát vọng và về những giới hạn của mình, để rồi biết khiêm nhường cậy tin vào Chúa và can đảm phấn đấu cho thánh ý Chúa được thể hiện trọn vẹn nơi bản thân người con bé mọn này của Chúa. Nhất là tỉnh thức vâng phục thánh ý Chúa. Đừng bao giờ cố chấp đòi Chúa phải theo ý riêng tôi. Đừng bao giờ quên sống bao dung theo gương Chúa. 8. Lối sống nguội lạnh. Lối sống nguội lạnh là thói quen sống đạo theo hình thức, làm việc đạo cho có lệ, giữ đạo một cách máy móc, có đọc kinh, dự lễ, nhưng hồn thì để ở chỗ khác, có làm việc bố thì từ thiện, nhưng chỉ để lấy tiếng. Nói chung giữ đạo nguội lạnh là một lối sống đạo thiếu lửa trong tâm hồn. Thiếu lửa yêu mến Chúa thực. Thiếu lửa yêu thương con người thực. Chúa cứu tôi khỏi lối sống nguội lạnh, để đưa tôi vào lối sống ấm áp nồng nàn. Đó là lối sống tập trung vào tình yêu, tình yêu của Chúa. Tập trung vào tình yêu không phải là nói nhiều về tình yêu, cũng không phải là nghĩ nhiều đến tình yêu, mà là sống trong tình yêu, sống với tình yêu, sống cho tình yêu. Lửa tình yêu là chính Chúa Giêsu. Người ở trong tôi. Một phần nào đó, tôi có thể nói: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi”. Đặc điểm của lối sống tình yêu này là sự dấn thân quên mình, để thăng tiến những người mình yêu, cho dù phải chấp nhận biến mình làm của lễ đền tội thay cho những người mình yêu. Tất cả đều được thực hiện một cách khôn ngoan của thánh giá Chúa, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 9. Trên đây là một chút chia sẻ về một số những gì, mà Chúa đã cứu tôi trong suốt hành trình cuộc sống 88 năm nay. Với tất cả tấm lòng biết ơn của tôi, tôi xin tuyên xưng Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Chuộc loài người, Đấng Cứu Độ trần gian. Tôi xin làm chứng điều đó bằng những kinh nghiệm sống của chính đời tôi. Cũng trong tâm tình biết ơn, tôi xin thân ái gởi lời cảm ơn tới tất cả mọi người đã cộng tác với Chúa trong việc cứu tôi. Cuộc đời được cứu là một bài ca cảm tạ tình yêu bao la của Chúa giàu lòng thương xót. Đề cập đến cuộc đời được cứu khỏi nhiều lối sống trên đây, tôi mong đây cũng là một gợi ý để chúng ta nghĩ đến nhiều lối sống không tốt khác đang phát sinh và phát triển, có nhiều khả năng làm cho đạo đức giảm sút một cách rất nguy hiểm. Xin Chúa thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 14 tháng 01 năm 2014
Từ ít tháng nay, tôi hay cầu xin Chúa ban cho tôi được ơn ra đi bình an trong ơn nghĩa Chúa. Có một lúc, Chúa cho tôi thấy ý Chúa là thế này: Ra đi bình an trong ơn nghĩa Chúalà một hạnh phúc Chúa sẽ ban cho những kẻ tin theo Chúa biết cầu xin với Chúa. Nhưng, điều mà các môn đệ Chúa cần cầu xin hơn, đó là biết ra đi hằng ngày trong suốt cuộc sống của mình. Vâng ý Chúa, tôi cầu xin điều Chúa soi sáng cho tôi cầu xin, để trong năm mới này, tôi và các môn đệ Chúa biết ra đi trong chính cuộc sống của mình. Dưới đây là những ra đi, mà Chúa muốn. 2. Hãy ra đi như thánh Phanxicô Assisi. Thánh Phanxicô Assisi đã ra khỏi cuộc sống tiền của và quyền chức, để đi vào cuộc sống khó nghèo, hèn mọn. Trong cuộc ra đi này, thánh Phanxicô Assisi đã làm chứng điều thánh Gioan tông đồ đã khuyên: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian, thì kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt, và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó đều không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian. Mà thế gian thì đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì tồn tại mãi mãi” (1Ga 2,15-17). Ngoài ra, cuộc ra đi của thánh Phanxicô Assisi cũng làm cho ngài trở nên bạn hữu thân thiết của những người nghèo khổ. Nhờ được ngài yêu thương gần gũi, những kẻ nghèo khổ cảm được mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ. Họ càng được an ủi, khi, qua sự thân thương của thánh Phanxicô, họ cảm thấy trong họ vẫn còn một cái gì cao quý trước mặt Chúa. Từ đó, lương tâm của họ được đổi mới, sẵn sàng đón nhận Nước Trời. Như vậy, ra đi của thánh Phanxicô là một chuyến đi của tình yêu cứu độ, rất đẹp lòng Chúa. 3. Cũng hãy ra đi như thánh Phanxicô Xavie. Thánh Phanxicô Xavie đã bỏ cuộc sống an ổn và nơi ở ổn định, để đi đến những nơi xa lạ và những người nghèo túng, đem Tin Mừng đến những nơi và những người nghèo khổ. Tin Mừng, mà ngài rao giảng cho họ đã rất đơn sơ, dễ hiểu. Tin Mừng là Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, để đồng hành với họ, để thương yêu họ, để cứu họ. Giáo lý mà thánh Phanxicô Xavie dạy họ chỉ tóm tắt vào mến Chúa yêu người, như Chúa Giêsu đã dạy. Khi thánh Phanxicô đến với những người gọi là ngoại đạo, tại những vùng đất xa lạ nghèo khó, ngài nhận thấy Chúa Thánh Thần đã tới đó từ lâu rồi. Bằng chứng là những nơi đó và những người ở đó đã sống theo một số điều thiện. Mặc dầu gặp khó khăn, thánh Phanxicô Xaviê đã có thể nói như thánh Phaolô: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô” (Rm 16,25). Sự ra đi của thánh Phanxicô Xaviê là một chuyến đi đầy ơn Chúa. 4. Cũng hãy ra đi như Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã bỏ một cuộc sống với tình yêu chân thành đối với nhiều ưu đãi, để đi vào một cuộc sống đón nhận tình yêu đối với thánh giá Chúa Giêsu. Quả thực, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có một cuộc sống nhiều năm với những hoạt động tưng bừng cho nhiều công trình lừng lẫy, trong những điều kiện ưu đãi. Nhưng rồi sau đó, Chúa đã bắt ngài phải bỏ lại tất cả, để đi vào một cuộc sống đón nhận những bất ngờ đau đớn tập trung vào tình yêu thánh giá. Qua kinh nghiệm, ngài đã xác tín: Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu trên thánh giá mới có thể đổi mới được các tâm hồn, đưa họ về với Chúa. Càng về cuối đời, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận càng có thể nói như thánh Phaolô: “Hồi còn ở giữa anh em, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thánh giá” (1Cr 2,2). Sự ra đi của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đúng là một hồng ân Chúa ban cho ngài, cho tôi và cho Hội Thánh. 5. Cũng hãy ra đi như cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Ngài đã bỏ ý định sống cho riêng mình, để đi vào ý định sống cho giáo dân và chết thay cho giáo dân. Giáo dân của ngài đều là những người nghèo. Ngài chia sẻ cảnh nghèo với giáo dân. Ngài cứu giáo dân nghèo của ngài bằng những phương tiện vật chất và những phương tiện tinh thần. Sau cùng, ngài đã cứu đoàn chiên ngài bằng cách chết thay cho họ. Đi vào con đường chết thay cho đoàn chiên, cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp đã bước theo Chúa Giêsu một cách cụ thể và quảng đại. Với quyết tâm chết thay cho đoàn chiên, cha đã làm chứng về lời Chúa Giêsu đã phán xưa, trước khi Chúa bước vào cuộc tử nạn. “Không tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu người liều mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Sự cha Phanxicô chết thay cho đoàn chiên đã và đang là một lời rao giảng Tin Mừng sáng giá nhất hiện nay tại Việt Nam. Đúng là một ra đi đầy ơn Chúa. 6. Cũng hãy ra đi như Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha Phanxicô ra khỏi cung điện, để đi ở trong nhà trọ Martha. Với sự ra đi đó, ngài muốn đổi mới Hội Thánh, bằng cách chọn một cuộc sống giản dị hơn, khó nghèo hơn, gần gũi với những người nghèo hơn. Với sự ra đi của ngài như hiện nay, người ta có quyền nghĩ rằng: Đức Phanxicô đang muốn làm chứng về Chúa Giêsu theo hình ảnh đã được thánh Phaolô phác hoạ trong thư gởi tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-8). Sự ra đi của Đức Thánh Cha Phanxicô đang là một bài giảng gây chấn động khắp thế giới. Sự ra đi đó đúng là một sức mạnh có đầy ơn Chúa, để đổi mới Hội Thánh. 7. Với những ra đi trên đây, Chúa cho tôi thấy là chính những ra đi như thế đang làm nên Mùa Xuân cho Hội Thánh toàn cầu nói chung và cho Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng. Điều quan trọng nên biết, là những người ra đi như thế đều đã gặp được Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô luôn ở trong họ. Họ có đời sống nội tâm phong phú. 8. Tôi có cảm tưởng là năm 2014 trùng với năm Con Ngựa sẽ có nhiều biến động và biến loạn dưới nhiều hình thức. Sẽ có nhiều cuộc ra đi. Không phải ra đi nào cũng tốt. Nên tôi tha thiết cầu xin Chúa ban cho chúng ta được luôn khiêm nhường và can đảm, biết dấn thân vào những cuộc ra đi thánh thiện như những ra đi trình bày ở trên. Ra đi như thế là để chứng minh đời ta có một chiều kích thiêng liêng sẽ đem lại hạnh phúc đích thực cho mình, cho quê hương và cho mọi người. 9. Thiết tưởng hình ảnh Hội Thánh Việt Nam cần được đổi mới. Hình ảnh các môn đệ Chúa tại Việt Nam càng rất cần được đổi mới. Đổi mới bằng cuộc sống tự nguyện nghèo, lo cho người nghèo, dám hy sinh, đến chết thay cho người nghèo, dâng mình làm của lễ tình yêu trên thánh giá để cứu chuộc người nghèo khổ. Hình ảnh đó muốn nói cho Quê Hương Việt Nam yêu dấu điều này: Cái thiếu hụt trầm trọng hiện nay không phải là kinh tế nhưng là đạo đức. 10. Thánh giá trên các thánh đường thực là đáng kính. Nhưng thánh giá trong cuộc đời những người nghèo khổ còn đáng kính hơn. Vì thế, nếu một ngày nào đó, thánh giá trên thánh đường bị hạ xuống, chỉ còn thánh giá trong những cuộc đời nghèo khổ, thì các môn đệ Chúa vẫn tìm được một cách ra đi hợp ý Chúa có sức cứu độ. Ra đi hợp ý Chúa nhất chính là cầu nguyện trên thánh giá. Xin thân ái cầu chúc anh chị em một Năm Mới có những ra đi đầy ơn Chúa. Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi là kẻ có tội, bây giờ và trong giờ lâm tử. Long Xuyên, ngày 14 tháng 01 năm 2014
Bùi-Tuần 1246: Lời đầu xuân mới CỦA LỄ HY SINH 21-01-2014
Dịp đầu Xuân mới này, tôi tha thiết xin Chúa ban cho tôi một Lời Chúa làm lộc Xuân. Lời Chúa như lộc Xuân, mà Chúa ban, được tôi coi như phương hướng tôi phải tập trung vào, để sống đức tin trong Năm Giáp Ngọ - 2014. 2. Chúa soi vào lòng tôi Lời Chúa sau đây: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). 3. Lời Chúa trên đây có nhiều ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa nổi nhất, mà Chúa kêu gọi tôi hãy đón nhận, đó là: tôi hãy nên của lễ hy sinh như Chúa muốn. Cụ thể như sau: a) Hãy là của lễ hy sinh suốt đời, ở sự làm mọi việc lành và chịu mọi khổ đau với tinh thần sám hối đền tội. Bởi vì tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. b) Hãy là của lễ hy sinh suốt đời, ở sự dâng đời mình với những hy sinh cụ thể, để cầu nguyện cho mọi người thân đã qua đời. c) Hãy là của lễ hy sinh suốt đời, ở sự hiến dâng bản thân mình với những hy sinh quảng đại, để phục vụ Hội Thánh và Quê Hương. d) Hãy làcủa lễ hy sinh trong đời sống thường ngày ở sự phục vụ tình yêu Chúa đối với mọi người. Thường ngày, khi phục vụ cho tình yêu tha nhân, tôi phải hy sinh nhiều, để biết tế nhị, nhất là trong bổn phận hiếu thảo, biết ơn và tình nghĩa. Thiếu hy sinh, tôi dễ có những xúc phạm đến người khác trong tư tưởng, lời nói và thái độ. Một chút xúc phạm nhỏ có thể gây nên thương tích lớn cho người khác. Hậu quả sẽ khôn lường. e) Hãy làcủa lễ hy sinh trong những dịp khác thườngđặc biệt, ở sự tôi phải sẵn sàng hy sinh trọn vẹn tất cả mạng sống mình vì mến Chúa và vì yêu thương người khác. f) Hãy là của lễ hy sinh trong trường hợp khác thường không đặc biệt vẫn xảy ra, khi đối tượng tôi phải phục vụ là những người già cả, những người bệnh nạn, những người tật nguyền. Thường thì Chúa không đòi tôi phải hy sinh mạng sống tôi cho họ. Nhưng Chúa đòi tôi phải hy sinh, ít là ở mức độ nhân bản, để họ cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương, được nâng đỡ, nhờ đó mà họ nghĩ đến Chúa. Ở đây, tôi xin tận tình cảm ơn những người đã hy sinh cho tôi và vì tôi. Nhờ họ, và qua họ, Chúa đã ban tôi sự sống và sự sống dồi dào (x. Ga 10,10). Hy sinh nhiều, hy sinh cụ thể, hy sinh quảng đại, hy sinh quên mình, đó là dấu ấn Chúa muốn tôi đóng vào mọi của lễ tôi dâng lên Chúa. 4. Sống như một của lễ hy sinh sẽ làm cho đời tôi có một ý nghĩa cao quý. Bởi vì sống như một của lễ hy sinh sẽ đem lại nhiều ích lợi cao cả cho muôn vàn người. Xưa, với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một đứa trẻ, Chúa đã nuôi hơn hai ngàn người, mà hãy còn dư (x. Ga 6,1-15). Tương tự cũng thế. Với lễ vật hy sinh của một người hèn mọn, Chúa cũng sẽ nuôi được rất nhiều linh hồn. Bởi vì của lễ hy sinh của họ được gắn kết vào của lễ hy sinh của Chúa Giêsu là một lương thực vô cùng phong phú có sức cứu độ cho cả nhân loại. 5. Sống ơn gọi làm của lễ hy sinh như vậy mang một xác tín huy hoàng. Đó là thấy mình có một tự do nội tâm vững chắc, chọn cho mình một hướng đúng, đi về với Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Niềm vui ấy sẽ đời đời bền vững trên thiên đàng là cõi Phúc vô cùng vô tận. 6. Sống ơn gọi làm của lễ hy sinh như vậy là chấp nhận sống khó nghèo như Chúa Giêsu: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi để gối đầu” (Mt 8,20). Sống khó nghèo không phải chỉ trong lãnh vực của cải, mà cũng trong lãnh vực chức quyền, danh dự, và trong lối sống. 7. Sống ơn gọi làm của lễ hy sinh đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều, không những để xa tránh tội lỗi và chống lại các thói hư tật xấu nơi tôi, mà còn để sống thực sự theo thánh ý Chúa. Một điều trong những sự Chúa muốn là tôi phải phấn đấu cam go để có thể vượt qua được những đau đớn, tủi nhục, cay đắng, thất vọng do thực tế cuộc đời gây nên cho tôi từ nhiều phía, kể cả từ phía lỗi lầm của tôi. Trong phấn đấu, tôi tin Chúa ở bên tôi. 8. Sống ơn gọi làm của lễ hy sinh như vậy là sống niềm hy vọng đầy vui mừng hạnh phúc: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết. Cũng không còn tang tóc và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Bởi vì “họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ” (Kh 21,3). 9. Tôi chắc chắn điều này: Trong năm Giáp Ngọ 2014, Chúa đợi chờ ở Hội Thánh Việt Nam ta nhiều của lễ hy sinh. Chính những của lễ hy sinh đó sẽ mang lại Mùa Xuân cứu độ cho Quê Hương chúng ta và cho muôn vàn người thiện chí, chân thành. 10. Tôi tin Chúa Giêsu, tôi theo Chúa Giêsu, nên tôi dâng mình làm của lễ hy sinh một cách trọn vẹn suốt cả cuộc đời, đó là hạnh phúc của tôi. Với hạnh phúc đó, tôi xin thân ái chia sẻ ơn gọi của tôi. Xin anh chị em thương cầu nguyện cho tôi. Tôi tin rằng: Đón nhận ơn gọi làm của lễ hy sinh chính là đón nhận Chúa Giêsu của tôi. Tôi cũng tin rằng: Với ơn gọi làm của lễ hy sinh, Chúa đang cứu tôi và cứu nhiều người khác khỏi những sự dữ gây hại cho phần rỗi. 11. Chúng ta hân hoan bước sang Năm Mới trong Chúa Giêsu là của lễ hy sinh vô giá, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đấng xoá tội chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta. Vinh dự mà Chúa muốn ban cho chúng ta, khi bước sang Năm Mới này là: Được nên của lễ hy sinh theo Chúa Giêsu. Chúng ta có sẵn sàng đón nhận vinh dự đó không? Dù đã sẵn sàng, dù chưa sẵn sàng, chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa đã thương yêu gọi chúng ta với những lời thân thiết nhất: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Thầy” (Mt 16,24). Long Xuyên, ngày đầu Xuân Giáp Ngọ - 2014
Những ngày Tết, tôi được vui hưởng biết bao cái đẹp. Đẹp ở thiên nhiên, đẹp ở nhà cửa, đẹp ở phố phường đường xá, đẹp ở các cuộc vui, đẹp ở các lời mừng chúc và viếng thăm. 2. Nhưng, nếu hỏi: Cái gì được gọi là đẹp nhất? Thì tôi sẽ thưa: Đẹp nhất là những con người có cái tâm đẹp. Tôi tạm đưa ra vài hình ảnh. Cái tâm đẹp là cái tâm sáng như bầu trời rạng đông, thơm tựa cánh đồng lúa chín hay vườn hồng bao la, mát như dòng suối luôn tràn nước dinh dưỡng cho mọi người và mọi môi trường. Đó chỉ là hình ảnh mờ nhạt của cái tâm đẹp mang những giá trị thiêng liêng dẫn vào cõi hạnh phúc đời đời. Cái tâm có những giá trị thiêng liêng vô giá là cái tâm rất đẹp. Cái tâm có một Đấng thiêng liêng vô cùng tốt đẹp hiện diện là cái tâm đẹp nhất. 3. Tôi nghĩ như vậy. Tôi thấy như vậy. Khi tôi gặp những con người có cái tâm mang những giá trị thiêng liêng, và trong họ có Đấng thiêng liêng hiện diện, tôi cảm nhận rất rõ: Đây chính là một ơn huệ Chúa ban, và trong ơn huệ đó, tôi nhận ra Đấng ban ơn huệ. Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến với tôi. Người đến để cứu tôi. 4. Chúa Giêsu cứu tôi thế nào? Chúa cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô nói: “Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Giêsu Kitô” (1Pr 1,18). Với một cách tế nhị, Chúa dạy tôi thêm điều này: Để đón nhận ơn Chúa cứu tôi, và để cộng tác vào việc Chúa cứu tôi, thì một cách nào đó, tôi cũng phải như có một chút máu của chính mình pha vào máu của Chúa Giêsu. 5. Hiểu như vậy là đã bắt đầu cầu nguyện. Tôi cầu nguyện để được can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường đổ máu mình ra một cách nào đó âm thầm. Tôi bước từng bước. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu lên cơn xao xuyến, bồi hồi, sợ hãi, đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Khi những trường hợp nhiều ít tương tự như thế xảy ra cho tôi, tôi mới thấy đau đớn của Chúa Giêsu thực là kinh khủng. Cộng tác vào sự hy sinh đó của Chúa, chỉ một ít thôi, cũng chẳng dễ chút nào. 6. Trong dinh tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu bị đội mão gai, bị người ta khạc nhổ vào mặt, bị người ta đánh đập chế giễu (x. Mc 15,16-20). Khi những trường hợp nhiều ít tương tự như thế cũng xảy ra cho tôi, tôi mới thấy sự nhục nhã khốn khổ Chúa phải chịu thực là khủng khiếp. Cộng tác vào sự hy sinh đó của Chúa, dù chỉ một chút nhỏ thôi, cũng không dễ chút nào. 7. Trên Núi Sọ, Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, giữa hai tên cướp (x. Mc 15,23-37). Khi trường hợp nhiều ít tương tự như thế cũng xảy ra cho tôi, tôi mới cảm thấy thấm thía sự loại trừ man rợ Chúa phải chịu thực là hãi hùng. Cộng tác vào sự hy sinh đó của Chúa, dù chỉ một chút rất nhỏ, cũng không dễ chút nào. 8. Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Khi trường hợp nhiều ít như thế xảy ra cho tôi, tôi mới thấy sự cô đơn tăm tối Chúa Giêsu phải chịu thực là quá sức tưởng tượng. Cộng tác vào sự hy sinh đó, dù chỉ một chút rất nhỏ thôi, cũng không dễ chút nào. 9. Trên thánh giá, trong đau đớn cực độ do người ta làm cho Người, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và, trong cô đơn cực độ, như bị Chúa Cha bỏ rơi, Chúa Giêsu đã kêu lên “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Khi những trường hợp nhiều ít như thế xảy ra cho tôi, tôi mới thấy sự tha thứ cũng như sự phó thác của Chúa Giêsu, quả là những việc phi thường, vượt quá sức con người. 10. Một thoáng trên đây cho thấy: Bước theo Chúa Giêsu trên đường thánh giá đúng là như chịu một phép rửa mới. Tôi tạm gọi như thế. Phép rửa thứ nhất tôi đã được chịu khi còn bé, là phép Rửa bằng Nước. Còn phép Rửa thứ hai tôi đang được chịu lúc này là phép Rửa bằng Máu. Máu đang rửa tôi là máu Chúa Giêsu. Còn máu tôi đổ ra chỉ là những hy sinh nhỏ bé, những từ bỏ mình hèn mọn, được pha trộn vào máu Chúa Giêsu. Được như vậy, là một vinh dự cho tôi. Nhưng khi vinh dự là những đớn đau của thánh giá Chúa Giêsu, thì phải có ơn đặc biệt của Chúa mới hiểu được và mới vui nhận được. 11. Tôi thấy, tại Việt Nam hôm nay, Chúa đang ban ơn đặc biệt đó cho nhiều người. Họ âm thầm thuộc về nhiều tầng lớp, rải rác khắp nơi. Họ như tự chôn vùi mình trong cuộc sống bình dị, theo gương Đức Mẹ và thánh Giuse. Cái đẹp chung của họ là họ bước theo Chúa Giêsu, sống niềm hy vọng của thập giá Chúa Giêsu. Cái tâm của họ được rửa trong máu tình yêu thương xót Chúa. Cái tâm của họ mang những giá trị thiêng liêng có chiều kích đi về cõi Phúc đời đời. Cái tâm của họ có Đấng thiêng liêng hiện diện. Đấng ấy là tình yêu giàu lòng thương xót. Người là sự sống lại của họ. Như vậy, chúng ta đã có thể tự do chọn hướng sống của chúng ta, cho dù tình hình xã hội đang diễn biến phức tạp. Chọn được từng ngày rửa mình bằng phép Rửa thứ hai, tức là phép Rửa của thập giá Chúa Giêsu là chọn cho mình niềm hy vọng vững bền và cũng là niềm vui vô giá. Chọn lựa đó rất có lợi cho mình, cho Hội Thánh và cho Quê Hương. Xin hết lòng khiêm tốn cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 14 tháng 2 năm 2014.
Từ mấy tháng nay, những tin về sự chết đến với tôi càng ngày càng nhiều. Có những cái chết rất bất ngờ. Có những cái chết rất thương tâm. Có những cái chết kéo dài thê thảm. Qua những cái chết, Chúa đang gọi tôi. Chúa gọi tôi hãy nghĩ đến cái chết của chính mình. Cái chết của tôi là kết thúc một chuyến đi lo công việc cho Chúa. Công việc, mà Chúa trao cho tôi phải lo trong suốt chuyến đi cuộc đời, đã được ghi trong lòng tôi, khi tôi chịu phép Rửa tội, Thêm Sức, cũng như khi tôi được thụ phong linh mục và giám mục. Hôm nay có thể là một ngày của cuối chuyến đi. Trong tình hình mỏi mệt, tôi được Chúa nhắc nhủ cách riêng đến ba công việc quan trọng. Nhắc nhủ này được coi như dấu chỉ của tình yêu xót thương Chúa, tôi nên chia sẻ cho mọi người thuộc Hội Thánh là một cộng đoàn tình yêu. 2. Công việc thứ nhất là loan báo Tin Mừng Tin Mừng là Chúa Giêsu. Người đến trong thế gian, đi vào lịch sử nhân loại. Người ta sẽ nhận ra sự Người đến qua những dấu chỉ nào? Chính Chúa Giêsu đã kể ra những dấu chỉ sau đây, khi trả lời cho các môn đệ thánh Gioan Baotixita: “Người mù được xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Có thể gọi các dấu chỉ trên đây là các việc từ thiện bác ái, đặc biệt dành cho những người nghèo khổ. Từ thiện bác ái nói đây là thăng tiến con người, giải cứu con người khỏi mọi thứ sự dữ. Từ thiện bác ái gồm nhiều thứ khác nhau, từ việc làm đến tư tưởng thái độ, từ vật chất đến tinh thần, từ cầu nguyện đến bài giảng bài viết và lối sống... 3. Ngay trong hội đường thành Nadarét, Chúa Giêsu cũng đã quả quyết những lời tiên tri Isaia nói xưa được áp dụng cho chính Chúa Giêsu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho kẻ mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18). 4. Theo những lời Chúa phán trên đây, thì các việc bác ái từ thiện làm cho người nghèo khổ, chính là dấu chỉ loan báo Tin Mừng cho tất cả nhân loại. Tin Mừng được loan báo cho mọi người qua việc thực hiện từ thiện bác ái cho người nghèo khổ. Chính vì thế, khi các môn đệ Chúa làm các việc từ thiện bác ái dành cho người nghèo khổ, thì họ làm nên những dấu chỉ chắc chắn nhất về sự Chúa Giêsu hiện diện ở chính các ngài, và ở nơi các ngài hoạt động. Làm việc bác ái từ thiện như những dấu chỉ của Chúa hiện diện, thì phải để ý đến những việc làm cụ thể và cách làm cụ thể, sao cho đúng là bác ái thật. Điều quan trọng là phải trao tặng rất nhiều tình yêu. Phải coi việc từ thiện bác ái là một vinh dự cao quý. Làm hết sức mình, còn kết quả ra sao hãy phó thác nơi Chúa. Chứ hễ thành công thì tự hào kể công, còn hễ thất bại thì đổ lỗi cho người khác. Làm thế là sai bác ái. 5. Công việc thứ hai là dâng của lễ. Dâng của lễ lên Thiên Chúa, mà tôi thực hiện hằng ngày, là dâng chính mình và tất cả mọi người lên Thiên Chúa. Thánh Gioan thuật lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Phần tôi, một khi được đưa lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Rồi thánh Gioan nói: “Đức Giêsu nói thế, để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào” (Ga 12,32-33). Tức là Chúa Giêsu hy sinh chết trên thánh giá vì yêu thương nhân loại. Đó chính là của lễ, mà tôi được mời gọi hãy làm theo. Như vậy, của lễ tôi dâng lên Chúa là tình yêu với những hy sinh vì tình yêu. Nếu không, của lễ dâng lên Chúa không những chẳng có nghĩa gì, mà còn bị Chúa ruồng bỏ. 6. Ở đây, tôi nhớ lại lời Chúa phán qua miệng tiên tri Isaia: “Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương. Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày Sabát, ngày đại hội. Không chịu nổi những ngày cứ phạm tội ác, rồi cứ lễ lạt linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta. Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn. Các ngươi có đọc kinh cho nhiều. Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì trong các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, hãy tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa” (Is 1,13-16). 7. Những lời trên đây khiến tôi lo sợ cho những gì tôi coi như là của lễ tôi và cộng đoàn của tôi hay dâng lên Chúa, như hoa, nến, công trình xây cất hoành tráng, tiền bạc chồng chất, các nghi lễ đẹp đẽ và các quy tụ đông đảo. Dâng những thứ đó lên Chúa thực sự không phải là làm điều ác. Nhưng để có những thứ đó, biết đâu tôi đã chẳng phạm những bất công và phản bác ái. Cũng như khi dâng những thứ đó, biết đâu tôi lại không nhắm tìm một lợi ích tư riêng, trần tục. Cũng như khi dâng các thứ đó lên Chúa, mà tôi cảm thấy sung sướng, bình an, thì biết đâu sự sung sướng bình an đó chỉ là phản ánh của một sự tự đắc phô trương. Chính vì thế, mà tôi phải rất tỉnh thức trong công việc dâng của lễ lên Chúa. 8. Công việc thứ ba là thực hành nhiệm vụ ngôn sứ. Nhiệm vụ ngôn sứ không phải là nói tiên tri về tương lai. Nhưng là nói những lời có chất lượng đạo đức nuôi dưỡng con người. “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,29). Tất nhiên ngôn sứ đôi khi phải nói những lời cảnh báo, nhưng luôn giữ mình ở mức độ tình yêu, mà Chúa đòi ở các con cái Chúa. Nhiệm vụ ngôn sứ còn là loan báo cho mọi người biết thánh ý Chúa trong những thời điểm nhất định. 9. Theo tôi, thánh ý Chúa rất cần được thực hiện trong thời nay là giới răn mới của Chúa Giêsu: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Ngôn sứ của Chúa phải loan báo ý Chúa là yêu thương nhau, để mỗi người sẽ là dấu chỉ và là khí cụ của tình yêu, để các cộng đoàn đều trở thành những cộng đoàn tình yêu, để bất cứ ai nhìn thấy như thế sẽ có thể nhận ra người môn đệ đích thực của Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). 10. Làm ngôn sứ của Chúa trong tình hình hiện nay là thế đó. Phải rất tỉnh thức và tế nhị. Nhất là khi người ta đang mỏi mệt, thiếu thốn, thì người ngôn sứ nếu không làm gì được điều tốt cho họ, thì đừng làm cho họ phải khổ thêm. Ngôn sứ làm bổn phận với tất cả nhiệt tình. Còn kết quả thế nào thì xin dâng phó cho Chúa. Không nên đề cao mình và đừng bao giờ chê trách bên nọ kết án bên kia. 11. Trong hồi tâm trước mặt Chúa, tôi nhìn lại ba công việc Chúa đã trao cho tôi trong chuyến đi cuộc đời. Tôi thấy tôi chưa làm tốt, tôi yếu đuối lắm. Tôi xin Chúa thương tha thứ cho tôi. Và tôi cũng xin cộng đoàn tha thứ cho tôi. Với chút nghị lực còn lại, tôi quyết tâm cố gắng không ngừng phấn đấu, để bước theo Chúa Giêsu, và lo những công việc Chúa trao, cho dù phải vác thập giá: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Nhưng tôi nhận mình rất yếu đuối, có nhiều giới hạn, nên tôi xin phó thác mình cho lòng thương xót Chúa. Tôi xin làm hết sức mình, còn kết quả ra sao, thì xin dâng phó trọn vẹn cho Chúa. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng. Lạy Chúa, xin Chúa thương đến mọi người môn đệ Chúa đang lo những công việc của Chúa trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của con. Trách nhiệm của họ hiện nay là rất nặng nề. Long Xuyên, 8 tháng 3 năm 2014.
Tôi mới đọc lại một bài của Đức Hồng Y Bergolio, nay là Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Bài này được Ngài giảng trong thánh lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thờ, ngày 02.02.2008. Nội dung bài giảng là về “những người già”. Vì là một người già đau yếu, tôi đọc mà thấy lòng mình thấm thía nỗi đau. Xin được chia sẻ nỗi niềm ấy của tôi trong tâm sự này. 2. Ngay trong đầu bài giảng, Đức Hồng Y đã không ngại nói lên một cảnh đau buồn đang xảy ra tại nhiều nơi ở Nam Mỹ. Cảnh đau buồn đó là cách cư xử đối với những người già. Theo Ngài nhận xét về chính sách dành cho người già, thì cả đời cả đạo đều có những tuyên bố rất hay. Nhưng thực tế lại khác. Người già bị coi như kẻ bị loại trừ. Người già bị khinh như kẻ bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Người già bị đối xử như kẻ bị từ bỏ, bị để trong những nhà hưu như kho dành cho các vật phế thải. Người già bị chế giễu và bị bỏ quên. 3. Những hình ảnh trên đây tạo nên trong tôi một bầu trời u ám. Tôi cảm thấy xót xa vô chừng. Tôi thầm nghĩ: Nếu phần đông đối xử tệ như thế đối với những người già, thì chắc là họ có cơ sở. Nếu chính tôi cũng bị đối xử như thế, thì hẳn là vì tôi xứng đáng bị như thế. Bởi vì chính tôi cũng thấy mình đang là người thuộc loại không sản xuất được gì, mà lại còn gây phiền hà cho nhiều người khác. 4. Thực vậy, tôi cảm thấy mình đang là gánh nặng cho cộng đoàn. Bởi vì đời sống của tôi hiện giờ phải lệ thuộc rất nhiều vào người khác, đi đứng, di chuyển đều phải nhờ người khác. 5. Tôi cảm thấy mình đang là kẻ dư thừa, gây phiền toái cho cộng đoàn. Bởi vì tôi bị kể như không còn khả năng phục vụ, đã thế lại giữ cho mình những phương tiện sống đáng lẽ nên dành cho những người đang phục vụ. 6. Tôi cảm thấy mình đang là kẻ gây chướng tai gai mắt. Bởi vì tôi có những lời nói, việc làm, thái độ vụng về mà người ta không muốn bao dung chấp nhận. 7. Tôi cảm thấy mình đang là kẻ phạm đến quyền lợi của người khác. Bởi vì tôi có những suy nghĩ và những lời nói nào đó, mà người ta cho là pha mình vào chuyện của người khác. 8. Tôi cảm thấy mình đang là kẻ bị kết án, không xứng đáng ở lại chốn này. Bởi vì tôi bị coi như kẻ làm gương xấu, gây hại cho ích chung. 9. Những cảm thấy trên đây đang làm tôi đau đớn và sợ hãi. Tôi muốn tìm người, để tâm sự. Nhưng tôi sợ lại bị khổ thêm, do người ta khinh chê, xa tránh. Mất miền tin vào người khác, co mình lại, đó là triệu chứng của trầm cảm. 10. Trầm cảm có lúc gây nên căng thẳng. Chỉ một chút thôi trong lời nói, trong thái độ, của ai đó, tuy vô hình, nhưng tỏ ra sự dửng dung, sự khinh miệt, đều có thể làm cho tâm hồn đang đau lại đau thêm. 11. Những lúc đó, tôi không phải là hiểu, mà là cảm nhận được một cách sâu sắc tình trạng, mà Chúa Giêsu đã trải qua xưa trong vườn Cây Dầu. Người cảm thấy rất mực cô đơn, rất mực sợ hãi, rất mực khổ đau. Tôi cũng như Người, lúc đó gục đầu xuống đất, mà khẩn cầu: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). 12. Và tôi cũng cảm nhận thấy rấtcần được ủi an nâng đỡ. Tôi thấy nhu cầu ấy cũng đã có trong lời Chúa Giêsu trách các môn đệ: “Các con không thức nổi một giờ ở bên Thầy sao?” (Mc 14,37). 13. Ai đã trải qua những trường hợp như thế, mới thấy những trường hợp như thế là rất khủng khiếp. Do vậy, cần phải rất nhạy bén và tế nhị đối với những người trong cơn khủng khiếp như thế, nhất là khi họ là những người già cả đau yếu, không còn sức khoẻ thân xác và tinh thần để vượt qua. Tôi đã nhiều lần rơi vào những trường hợp khủng khiếp đó. 14. Cũng may là trong tôi, Chúa vẫn hiện diện, Người thắp lên trong tôi một ngọn lửa nhỏ. Ngọn lửa nhỏ này là niềm tin yêu mãnh liệt. Nhờ ngọn lửa thiêng này, tôi biến đau khổ thành cơ hội đến với Chúa và đến với con người, một cách âm thầm nhưng đầy tin tưởng. 15. Trước hết, tôi coi bản thân tôi đang đau đớn là một của lễ hy sinh. Tôi khiêm tốn dâng lên Chúa của lễ hy sinh đó, hợp với của lễ hy sinh Chúa Cứu Thế đã dâng xưa trên thánh giá. 16. Với của lễ hy sinh đó, tôi chúc phúc lành cho những người thân yêu của tôi. Như xưa ông già Simêon đã chúc lành cho Đức Mẹ và Thánh Giuse, khi hai Đấng dâng Chúa Hài Đồng trong đền thờ (x. Lc 2,33-35). 17. Rồi, cũng với của lễ hy sinh đó, tôi chuyển giao kinh nghiệm của tôi cho cộng đoàn và những thế hệ đi sau. Như xưa bà già Anna “đã nói về Hài Nhi Giêsu cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,38). 18. Những gì tôi chia sẻ trong tâm sự này đều rát chân thành. Cũng với tất cả tấm long chân thành, tôi thú nhận tôi rất yếu đuối, hèn hạ, tội lỗi, rất cần được Chúa xót thương và cũng rất cần được cộng đoàn cảm thông. 19. Để kết, tôi xin mượn ý của Đức Thánh Cha Phanxicô về người già: - Nhu cầu được có người ở bên, - Nhu cầu gặp được một cái nhìn yêu thương có sức làm êm dịu nỗi lo âu sợ hãi... - Nhu cầu được cảm thấy mình có ích cho người khác. - Nhu cầu làm nhẹ nỗi đau. Đó là những gì anh chị em nên làm cho những người già cả đau yếu, trong đó có tôi. Xin cảm tạ Chúa hết lòng. Xin chào chúc anh chị em được bình an trong Chúa. Long Xuyên, ngày 12 tháng 3 năm 2014 Ngày giỗ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp
Sự Chúa hiện diện trong cuộc sống của tôi là điều số một tôi quan tâm hằng ngày. Bởi vì tôi tin: Chúa là Đấng đưa tôi tới đích điểm sau cùng của đời tôi, tức cõi phúc đời đời. 2. Đức tin dạy tôi về sự Chúa hiện diện trong đời tôi bằng nhiều hình ảnh sống động và thân thương. Như: Chúa ở trước mặt tôi, Chúa ở bên tôi, Chúa ở trong tôi. 3. Tôi tin và dần dần tôi cảm nhận thấy điều tôi tin là rất sống động. Chúa là Đấng vô hình. Nhưng tôi cảm nhận thấy Người yêu thương tôi, Người dạy dỗ tôi, Người dẫn dắt tôi, Người bảo vệ tôi, Người giải cứu tôi, Người an ủi tôi. 4. Tin như vậy đã trở thành gặp gỡ. Sự gặp gỡ này rất sống động, rất thân mật và rất riêng tư. 5. Gặp gỡ như thế đòi một sự gắn bó chân thành. Sự gắn bó ấy được Chúa Giêsu mô tả bằng một hình ảnh dễ hiểu. Người nói: “Thầy là cây nho, các con là cành…Cũng như cành nho không thể tự mình sinh ra hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng vậy…Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,1-5). 6. Trong thinh lặng nội tâm, tôi hay nói với Chúa hiện diện trong tôi câu này: “Lạy Chúa, xin dạy bảo con những gì là hoa trái mà Chúa muốn nơi con”. Để trả lời, Chúa dẫn đưa lòng trí tôi vào Phúc âm, nơi đó có ghi lại lời Chúa. Hiện giờ, hơn bao giờ hết, Chúa dạy bảo tôi qua bốn dụ ngôn được ghi lại trong Phúc âm thánh Matthêu. Bốn dụ ngôn này đều đưa ra loại người tốt và loại người xấu. Chọn làm theo gương người tốt, đó là điều sinh hoa trái tốt. Vì khao khát sinh được hoa trái tốt, tôi dừng lại ở từng loại người tốt, mà Chúa nêu lên, để nhận ra đặc điểm. Tôi thấy thế này: 7. Trong dụ ngôn về những đầy tớ, thì có loại đầy tớ trung tín và loại đầy tớ bất trung. Người đầy tớ trung tín là “người cấp phát lương thực cho gia nhân đúng giờ đúng lúc” (Mt 24,45). Tôi tự hỏi mình: lối sống của tôi, những chia sẻ của tôi có mang tính chất lương thực tinh thần phục vụ cho dân Chúa đúng thời điểm không? 8. Trong dụ ngôn về 10 người trinh nữ, thì có loại trinh nữ khôn ngoan và loại trinh nữ khờ dại. Trong đêm tối, những trinh nữ khôn ngoan “vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,4). Tôi tự hỏi mình: tôi làm những việc đạo đức bề ngoài, nhưng bên trong tôi có dầu là lửa mến Chúa yêu người thực không? 9. Trong dụ ngôn những người quản lý, thì có loại quản lý siêng năng và có loại quản lý lười biếng. Người quản lý siêng năng là người biết dùng những của cải chủ trao phó mà làm ra lời. (x. Mt 25,14-23). Còn người quản lý lười biếng thì đem chôn của cải được trao. Tôi tự hỏi: Chúa trao cho tôi một số của cải vật chất và tinh thần, tôi có dùng những vốn đó để làm ra lời cho Nước Chúa không? 10. Trong dụ ngôn về ngày phán xét chung, thì có loại người được thưởng lên thiên đàng, và có loại người bị phạt phải xuống hoả ngục. Loại người được thưởng lên thiên đàng là người hảo tâm, biết xót thương những ai đau khổ, (x. Mt 25,31-40). Còn loại bị phạt xuống hoả ngục là những người ác tâm, vô tâm, không biết xót thương những người đau khổ. Tôi tự hỏi: tôi có xót thương những người đau khổ không? 11. Tôi xét mình theo bốn dụ ngôn một cách chân thành. Tôi thấy tôi thực sự luôn muốn chọn làm theo gương những người tốt, mà Chúa nêu lên. Nhưng tôi cũng phải thú nhận sự thực này là có nhiều trường hợp, việc thực hiện những lựa chọn của tôi đã có những lỗi lầm, thiếu sót. Lỗi lầm hay xảy ra nhất là sự tôi nôn nóng sớm được nhìn thấy những hoa trái do những lựa chọn tôi thực hiện theo lời dạy của Chúa. Những hoa trái mà tôi mong có thể không phải là hoa trái mà Chúa muốn. Lỗi lầm hay xảy ra cho tôi còn là sự tôi tưởng việc thực hiện làm theo những mẫu gương tốt là rất dễ dàng. Tôi sám hối, xin Chúa thứ tha. 12. “Lạy Chúa, xin dạy bảo con”. Chúa dạy bảo tôi điều này là: Lựa chọn gắn bó với Chúa, lựa chọn thực thi lời Chúa, lựa chọn làm theo những gương tốt mà Chúa nêu lên, tất cả những lựa chọn đó đều là cuộc chiến đấu gay go. 13. “Lạy Chúa, xin dạy bảo con”. Chúa dạy bảo tôi: Phải cầu nguyện thật nhiều, phải có lòng khiêm tốn sâu xa, phải có tinh thần thơ ấu thiêng liêng và nghèo khó, mới có thể đón nhận được ơn Chúa, để sinh ra được những hoa trái tốt đẹp mà Chúa muốn. Những hoa trái đó cũng vẫn là những ơn Chúa ban. Hoa trái này sinh ra cách nào, lúc nào, dưới hình thức nào, tôi phải khiêm tốn phó thác nơi Chúa. Có thể tôi chỉ gặp thất bại. Nhưng trước mặt Chúa, thất bại ấy lại đưa tới thành công. 14. “Lạy Chúa, xin dạy bảo con”. Tôi không ngừng xin Chúa dạy bảo tôi. Và lúc này, Chúa đang dạy bảo tôi một điều hết sức quan trọng, đó là gương người tốt nhất chính là Chúa Giêsu trên thánh giá. Đó là gương yêu thương thắng ghen ghét, gương khiêm nhường thắng kiêu căng, gương nghèo khó thắng hưởng thụ giàu sang quyền lực, gương tha thứ thắng hận thù, gương hiền lành thắng giận dữ. Bây giờ, tôi không những cầu xin Chúa dạy bảo tôi, mà còn xin Chúa dắt dìu tôi đi. Bởi vì, nếu không được Chúa cầm tay tôi mà dắt đi, thì dù biết được điều hay lẽ phải, tôi cũng chẳng thực hiện được. Đúng như lời Chúa đã dạy: “Nếu không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Trong khi viết bài chia sẻ này, tôi rất ý thức sự thực quan trọng đó. Thực vậy, với ơn Chúa, tôi phải lắng nghe lời Chúa. Với ơn Chúa, tôi phải biết chọn lựa. Với ơn Chúa, tôi phải biết tỉnh thức cầu nguyện. Với ơn Chúa, tôi phải biết kết hợp mật thiết với Chúa hiện diện trong tôi. Với ơn Chúa, tôi phải biết phó thác nơi Chúa và chân thành cộng tác với tất cả mọi người thiện chí. Cuộc đời tôi có thể cũng là một bài chia sẻ dài. Tôi luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin dạy bảo con”. Và tôi cũng phải cẩn thận kết hợp mật thiết với Chúa, còn hơn khi viết bài chia sẻ bé nhỏ này. Lạy Chúa, Chúa chính là thân cây nho. Con là cành nho bé nhỏ. Con khẩn khoản và tha thiết xin ơn được luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa. Long Xuyên, ngày 21 tháng 03 năm 2014