Tuần lễ trước đây, tôi đau nặng. Tự mình không thể đứng dậy được, tự mình không thể bước đi được. Trong cơn đau, tôi thở than với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, Chúa đã hứa với các môn đệ Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). “Hôm nay, lúc này, Chúa có ở cùng con không? Con mệt lắm. Xin Chúa thương con”. 2. Tối thứ sáu tuần đó (28.3.2014) tôi đi ngủ như mọi tối. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến với tôi. Ngài đi một mình. Tôi đang dâng lễ riêng, thì thấy Ngài đứng đồng tế bên tôi. Tôi cảm động và vui sướng. Bừng tỉnh, tôi cảm thấy có một sự gì lạ đang xảy ra cho tôi. Tôi bớt đau nhiều. Tôi cảm tạ Chúa, rồi tiếp tục ngủ. Lạ lùng. Tôi lại chiêm bao thấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến với tôi. Tôi đi đâu, Ngài cũng đi theo. Qua cộng đoàn này tới cộng đoàn kia, Ngài và tôi đều rất vui. Không biết cơn chiêm bao đã kéo dài bao lâu, nhưng khi tôi tỉnh giấc, xem đồng hồ, thì thấy đêm vừa bắt đầu sang ngày thứ bảy (29.3.2014). Tôi hạnh phúc vô chừng. 3. Tôi thấy những gì tôi vừa chiêm bao là quá bất ngờ. Tôi chợt hiểu, với chiêm bao đó Chúa trả lời tôi: “Chúa ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế là như thế đó”. Tôi tin Chúa thực sự ở với tôi, nhất là khi tôi được đưa vào con đường thương khó, để vác thánh giá theo Chúa Giêsu lên Núi Sọ. Trong thử thách, tôi cảm thấy cô đơn đau khổ. Chúa vẫn ở bên tôi một cách thiêng liêng, kín đáo. Nhưng nhiều khi, Chúa dùng những người của Hội Thánh bằng xương bằng thịt, để họ ủi an nâng đỡ và đồng hành với tôi. Người của Hội Thánh nói đây là Đức Giáo Hoàng hoặc một thành phần nào đó của Hội Thánh. Họ đã có kinh nghiệm phần nào về Chúa Cứu Thế và về con đường thánh giá của Người. Họ xác tín: Được thông phần vào thánh giá Chúa Giêsu để cứu các linh hồn là một vinh dự. Họ chia sẻ xác tín đó cho tôi. Tôi cảm ơn họ. 4. Những ý tưởng trên đây tự nhiên sáng rực lên trong tôi. Đột nhiên tôi nhận ra rất nhiều người của Hội Thánh gần xa đang âm thầm được Chúa dùng để nâng đỡ tôi. Họ chính là dấu chỉ hữu hình của sự Chúa ở cùng tôi trên con đường thánh giá. Những dấu chỉ ấy, mà tôi gọi là bằng xương bằng thịt, đều mang trong mình những đặc điểm của Chúa Cứu Thế, như hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, tế nhị, như những đức tính của Đức Gioan Phaolô II mà tôi không bao giờ quên, bởi vì tôi đã được hạnh phúc gặp Ngài nhiều lần riêng tư. 5. Tôi nhìn chiếc đồng hồ đeo tay toàn màu trắng, mà chính tay Đức Gioan Phaolô II đã tặng tôi. Khi trao tặng, Ngài cầu chúc: Hãy can đảm. Tôi hiểu ý Ngài là tôi hãy can đảm trở thành của lễ hy sinh dâng cho Chúa từng phút từng giây. Hãy can đảm! Chiếc đồng hồ này còn chạy tốt, nó cũng như vẫn nhắc lại lời Đức Thánh Cha: Hãy can đảm. Tôi biết mình rất yếu đuối, không đủ can đảm. Nên tôi xin Đức Thánh Cha nay đang ở trên trời, hãy thương giúp tôi, thỉnh thoảng xin đến khích lệ tôi. Tôi cảm thấy Ngài rất gần gũi tôi. 6. Cứ như thế, những giờ đầu của buổi sáng hôm đó, thứ bảy (29.3.2014), là một thời gian đầy an ủi đối với tôi. Tôi được thêm sức sống. Ngay lúc ấy, tôi được một nguồn tin đáng tin cậy cho biết: Toà Thánh sắp bổ nhiệm một linh mục giáo phận Long Xuyên làm Giám mục. Tôi cầu nguyện. Vì tôi coi chức Giám mục là một gánh rất nặng. 7. Tôi được gặp vị linh mục đó. Cha thực sự tỏ ra bối rối và sợ hãi. Tôi trấn an Ngài: Hãy can đảm. Chúa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Tôi chia sẻ với Ngài đôi chút kinh nghiệm của tôi. Can đảm không phải để làm những việc lớn, nhưng là để làm những việc thực sự do Chúa sai làm. Trong đời mục tử của tôi, tôi sợ nhất đoạn sau đây trong Phúc Âm thánh Matthêu: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). 8. Suốt thời gian thực thi nhiệm vụ giám mục, tôi hay trình bày tất cả mọi sự tôi làm lên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Tôi chỉ làm những gì được Ngài uỷ quyền chấp thuận và sai đi. Vì thế Ngài rất thương tôi. Và tôi được bình an. 9. Tôi thấy hiện tình Hội Thánh tại Việt Nam rất phức tạp. Nếu không tỉnh táo hiệp thông chặt chẽ với Đức Giáo Hoàng, và lắng nghe Chúa Thánh Thần, thì nhiều tín hữu, kể cả mục tử, sẽ có thể cứ nhân danh Chúa mà làm những công trình lớn lao, nhưng thực sự không phải là ý Chúa. Một thí dụ cụ thể. Lễ tấn phong linh mục nhất là tấn phong Giám mục nên được tổ chức thế nào cho hợp ý Chúa. Hiện nay tổ chức long trọng, linh đình, hoành tráng là một chọn lựa dễ coi như hợp lý. Nhưng có những mức độ và tính cách long trọng, linh đình, hoành tráng coi như hợp lý, nhưng có thể lại không hợp thánh ý Chúa. Biết như thế, nhưng nếu không đủ can đảm làm theo ý Chúa, cứ tìm cách làm theo ý riêng dưới chiêu bài nhân danh Chúa, thì tôi sợ, cứ thế từng bước, nhiều người trong Hội Thánh tại Việt Nam sẽ dần dần thiết lập một Hội Thánh xa lạ với thánh ý Chúa. Rồi cứ ảo tưởng đó là một Hội Thánh sốt sắng, nhiệt tình. 10. Hơn bao giờ hết, các mục tử của Chúa tại Việt Nam hôm nay phải thực sự can đảm bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cứu nhân loại bằng những lời cầu nguyện đau đớn và cuộc tử nạn đớn đau. Chúng ta được kêu gọi trở thành những người cộng tác với Chúa Giêsu trong chương trình cứu độ của Chúa, thì chúng ta không nên lựa chọn con đường khác con đường mà Chúa đã chọn. Đó mới là can đảm đích thực. Tôi có cảm tưởng là gia đình giáo phận Long Xuyên chúng tôi luôn đi theo sự can đảm đó. 11. Đột nhiên, tôi nhớ có lần tôi đã nói nhỏ với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II rằng: Con xin bằng lòng chịu mọi sự đau đớn con gặp phải, để dâng lên Chúa, với mục đích cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Lúc này, tôi cũng muốn nói tương tự như vậy với các Đức giám mục thân yêu của tôi tại Quê Hương Việt Nam hôm nay. Các ngài đang là sự hiện diện làm chứng cho sự thánh thiện của Chúa Giêsu. Làm chứng như thế không do sự chúng ta làm gì, cho bằng sự chúng ta là gì. Chúng ta là những người mang Chúa Giêsu trong mình. Long Xuyên, ngày 31 tháng 03 năm 2014
Ngày công bố sự kiện Cha được làm Giám mục phụ tá không còn xa. Toà Thánh chọn và bổ nhiệm. Nhà nước Việt Nam chấp nhận. Giáo phận Long Xuyên sẽ vui vẻ chào đón. Có thể đây là một bất ngờ đối với Cha cũng như đối với một số người. Tôi khuyên Cha nên vâng nhận chức vụ Giám mục trong hoàn cảnh hiện nay như một thánh giá. Với kinh nghiệm gần 40 năm Giám mục, tôi có thể nói lên sự thực này: Chức vụ Giám mục là một vinh dự lớn, nhưng vinh dự lớn đó chính là thập giá Chúa Giêsu. Khi mang trên mình thánh giá Đức Kitô trong chức vụ Giám mục, tôi cảm thấy rất rõ ba yếu tố sau đây: Thứ nhất, phải rất khiêm nhường. Phải hoà mình vào thân phận những kẻ nghèo khổ, bị loại trừ. Phải quì xuống rửa chân cho những kẻ lầm lạc, tội lỗi. Phải ra đi, tìm kiếm những kẻ tủi nhục, thất vọng. Thứ hai, phải chấp nhận đau khổ. Phải chịu nhọc nhằn, vất vả về thân xác. Phải chịu nhục nhã, cô đơn về phần hồn. Có lúc phải chịu cho người ta khạc nhổ vào mặt như Chúa Giêsu trong dinh Philatô. Có lúc sẽ rất cô đơn buồn khổ, như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Có lúc sẽ bị đóng đinh giữa những phạm nhân kinh tởm nhất như Chúa Giêsu trên Núi Sọ. Thứ ba, phải dạt dào yêu thương. Yêu thương cho đến cùng. Yêu thương để đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Yêu thương với lòng thứ tha vô bờ. Yêu thương đến nỗi dám hiến mạng sống vì đoàn chiên. Cha Toản ạ, vinh dự của Cha là thập giá Đức Kitô. Chỉ có thập giá Đức Kitô, với khiêm nhường, đau khổ và yêu thương như Chúa Giêsu mới cứu được các linh hồn. Và như vậy, Cha đừng quên đời sống nội tâm là hết sức cần cho chức vụ Giám mục. Tình hình rất phức tạp có nhiều thách đố. Cha hãy nương tựa vào cộng đoàn. Cha hãy làm chứng “Thiên Chúa là tình yêu” giữa lòng dân tộc Việt Nam một cách cụ thể và quảng đại. Đức Thánh Cha Phanxicô, khi được các Hồng Y bầu làm Giáo Hoàng, Ngài đã nói: “Tôi xin chấp nhận với tinh thần đền tội và phó thác”. Cha Toản cũng hãy làm như Ngài. Xin Cha thương cầu nguyện cho tôi với. Thân ái + GB. Bùi Tuần Long Xuyên, ngày 02 tháng 02 năm 2014
Trong những ngày này, tôi nghĩ nhiều tới Tuần Thánh. Tôi nghĩ đến những gì đã xảy ra xưa trong ba ngày Tuần Thánh, tôi đưa tâm hồn tôi về với Chúa Giêsu, để sống bên Người một cách trọn vẹn. Tôi ở bên Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly, đi vào vườn Cây Dầu, rồi lên đường vác thánh giá, đến Núi Sọ, và tới mồ táng xác Chúa. Tôi được nghe lời Người, được thấy những gì Người làm, được cảm nhận những nỗi đau của Người, được chia sẻ tình yêu bao la của Người. 2. Để không rơi vào chủ quan, tôi dựa vào Lời Chúa trong Kinh Thánh, để biết rõ mục đích những gì đã xảy ra trong Tuần Thánh xưa. Mục đích đó là: “Nhờ Chúa Giêsu đổ máu mình ra, chúng ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1,13-14). 3. Mục đích đó cũng đã được Phụng Vụ Thánh Lễ nói lên với nhiều hình ảnh khác nhau, dễ hiểu. Như: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, loài người chúng con quá yếu đuối, đã gục ngã thảm thương, nhưng vì Đức Kitô Con Chúa đã chịu khổ hình, xin cho chúng con được chỗi dậy và tìm lại được sự sống” (Lời nguyện nhập lễ, thứ hai Tuần Thánh). “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, để giải thoát chúng con khỏi quyền lực ác thần” (Lời nguyện nhập lễ, thứ tư Tuần Thánh). Những câu: Để chúng ta được chỗi dậy, tìm lại được sự sống, cũng như để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực ác thần, đó là những mục đích, mà Chúa Giêsu nhắm tới, khi tình nguyện chịu khổ hình thập giá. 4. Chúa ban ơn cho tôi được hiểu những sự thực đó, không phải chỉ trên lý thuyết, mà trong thực tế của bản thân. Nhờ ơn Chúa, tôi thấy thực tế của bản thân tôi là rất tồi tệ. Tôi là con người có rất nhiều tội lỗi, rất cần được tha thứ, rất cần được cứu chuộc. Tôi là con người quá yếu đuối, đã nhiều lần gục ngã, cần được chỗi dậy. Tôi là con người bao lần như đã chết, cần tìm lại được sự sống. Tôi là con người bao lần phải nhục nhã dưới quyền ma quỷ, cần được giải thoát. 5. Thực tế của bản thân tôi là như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã cứu tôi. Người cứu tôi và nhân loại bằng sự hạ mình xuống chịu khổ hình. Mỗi lần nhớ đến sự Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá, để cứu nhân loại, tôi lại được Chúa lưu ý đặc biệt đến sự Chúa hạ mình xuống, như lời Hội Thánh xưng tụng: “Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên” (Lời nguyện nhập lễ, thứ hai sau CN IV Phục Sinh). Hạ mình xuống, đó là tâm tình đặc điểm của Chúa Cứu Thế đã được thánh Phaolô ca tụng trong thư gởi tín hữu Philipphê. “Đức Giêsu Kitô, Vốn dĩ là Thiên Chúa, Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang Mặc lấy thân nô lệ, Trở nên giống phàm nhân, Sống như người trần thế Người lại còn hạ mình Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8). 6. Với ơn Chúa, tôi cảm nhận được việc Chúa Giêsu hạ mình xuống chịu khổ nạn thập giá để cứu tôi và nhân loại là một ơn vô cùng cao quý. Nhưng ơn trọng đại ấy không cưỡng ép tôi, không áp đặt tôi, không bắt buộc tôi phải nhận. Nghĩa là để được hưởng ơn Chúa cứu chuộc, tôi phải biết đón nhận ơn Chúa, tôi phải cộng tác với ơn Chúa. 7. Đón nhận và cộng tác thế nào, tôi xin phép được chia sẻ một sự kiện riêng tư Chúa đã để trải qua đời tôi, để dạy tôi về sự phải đón nhận và cộng tác vào ơn cứu chuộc. Đã rất lâu rồi, tôi bị đau nặng. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã khuyên tôi nên đi trị bệnh, càng sớm càng tốt. Caritas Đức sẵn sàng lo cho tôi. Tôi được nhập viện ở Đức, coi như cần phải cấp cứu. Tôi được mổ chính ngày thứ sáu Tuần Thánh. Khi tỉnh thuốc mê, tôi cảm thấy đau. Tôi kêu. Một chị bạn người Đức cầm tay tôi và nói nhẹ vào tai tôi: Cha ơi, hôm nay là thứ sáu Tuần Thánh. Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang ở bên cha. Nghe vậy, tôi thinh lặng. Tôi như thấy Chúa Giêsu đang yêu thương chịu tử nạn như một của lễ, để cứu chuộc tôi. Tôi tự nhiên dâng tình yêu và những đau đón của tôi lên Chúa, như để góp phần nhỏ bé vào của lễ đó. 8. Vài phút sau, một chị nữ tu người Đức mang Mình Thánh đến. Tôi nằm đau đớn, rước Mình Thánh từ tay chị. Chị nói với tôi: Cha ơi, trong bệnh viện này có từng trăm bệnh nhân đang cần được Chúa cứu. Xin cha cầu cho họ. Nghe lời chị, tôi cầu nguyện cho họ, tôi cũng dâng tình yêu và những đau đớn của tôi lên Chúa, để cộng tác phần nào vào việc Chúa cứu họ. 9. Những giây phút ấy, tôi chợt thấy mình đang xa Quê Hương Việt Nam, không một người Việt nào bên cạnh. Nhưng tôi lại được ở trong Hội Thánh Chúa. Tôi coi hai chị phụ nữ đó chính là những người, mà Hội Thánh Chúa sai đến. Họ an ủi tôi. Họ mang đến cho tôi những lời gọi tha thiết của Chúa. Nhờ đó, tôi luôn nhớ mình hãy là của lễ hy sinh bé nhỏ, để đón nhận và để cộng tác vào ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Cho đến hôm nay, tôi vẫn vui mừng được là như thế mà thôi. Của lễ hy sinh là tình yêu và đau khổ nhọc nhằn. Bé nhỏ là được chôn vùi trong cầu nguyện. 10. Hôm nay, niềm vui của tôi càng được tăng lên gấp bội, khi tôi nhận thấy xung quanh tôi nhiều người đang là của lễ hy sinh. Họ cầu nguyện phục vụ âm thầm lặng lẽ. Họ tìm Chúa ở giữa những người đau khổ, nghèo túng, bị loại trừ. Họ mang niềm tin và hy vọng của Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu. Họ tha thiết cứu các linh hồn, nhất là cứu linh hồn mình. 11. Tôi tin họ. Họ là những người đáng tin. Tôi cảm nhận được một sức mạnh thiêng liêng phát ra từ họ. Nhờ họ, tôi nghe được lời gọi của Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh gọi tôi: “Để gặp Chúa Phục Sinh, hãy đi theo con đường hẹp, khởi đi từ sự sám hối”. 12. Đột nhiên, tôi nhận ra tôi đang sống giữa một thế giới trong cơn khủng hoảng mất niềm tin ở những con người. Thực là hạnh phúc cho tôi, khi tôi gặp được những con người đáng tin như họ. Lạy Chúa, con xin hết lòng cảm tạ Chúa đang cho con thấy sự cứu linh hồn mình và các linh hồn là việc rất khẩn cấp, cần được thực hiện bằng chính con đường cầu nguyện, yêu thương khiêm tốn, khó nghèo, hy sinh mà Chúa Cứu Thế đã đi. Con yếu đuối lắm. Xin Chúa thương giúp con thực thi ý Chúa. Long Xuyên, ngày 11 tháng 4 năm 2014
Vì lý do sức khoẻ, Cha không thể tham dự thánh lễ phong Phó Tế của chúng con. Cha xin có mấy lời gởi các con. Mấy lời này cũng là những gì thuộc về Tin Mừng, mà chính Chúa đã dạy cha phải nhấn mạnh trong tình hình hiện nay. 1. Hãy đề cao hình ảnh “Thiên Chúa là tình yêu”. 2. Hãy đề cao hình ảnh “Hội Thánh là dấu chỉ và là dụng cụ của tình yêu Thiên Chúa”. 3. Hãy đề cao hình ảnh “Người môn đệ Chúa là người làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa”. 4. Đặc điểm của tình yêu Thiên Chúa là bước xuống thân phận những người cùng khổ, để chia sẻ cuộc sống của họ, để cứu họ, để gần gũi với họ. 5. Những người cùng khổ là những người nghèo túng, những người bệnh tật, những người già cả, những người cô đơn, những người tội lỗi, những người bị xã hội loại trừ... Họ là những địa chỉ nơi Chúa hẹn gặp các con. 6. Rất cần đào tạo cái tâm, để biết nhạy cảm trước những khổ đau của đồng bào, bất cứ họ là ai. Đừng vô tâm, vô cảm như nhà phú hộ trong dụ ngôn người giàu có và người ăn mày, hoặc như thầy tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn người Samarita tốt lành. 7. Những cái tâm tốt vẫn hoạt động mạnh nơi nhiều vùng không là công giáo, nơi nhiều gia đình không là công giáo, nơi nhiều người không là công giáo. Nên nhìn nhận sự thực đó, để biết lượng giá chính mình. 8. Chúa đang kêu gọi các môn đệ Chúa hãy đổi mới việc loan báo Tin Mừng, bằng việc sống nghèo và lo cho người nghèo theo lời dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đổi mới như vậy cũng rất hợp với tình hình của Việt Nam nói chung, và của địa phương chúng ta nói riêng. Xin Chúa là Tình yêu luôn ở trong chúng con. Thân ái. Long Xuyên, ngày 15-01- 2014.
Từ mấy năm nay, tại Việt Nam, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” được tôn vinh một cách sâu : 14-02-2014 Bùi-Tuần 1255
Từ mấy năm nay, tại Việt Nam, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” được tôn vinh một cách sâu rộng. Với hình ảnh “giàu lòng thương xót”, Thiên Chúa trở nên gần gũi, sống động trong lòng mọi người. Riêng đối với những ai lầm lạc, tội lỗi, yếu hèn, nghèo túng, khổ đau, Thiên Chúa đang trở thành điểm tựa thân thương và là Đấng cứu độ đầy tin tưởng, bởi vì Người giàu lòng thương xót. 2. Nhiều người xung quanh tôi đã được những ơn xót thương của Chúa. Tôi cũng vậy. Phải nói là tôi đã được Chúa xót thương một cách đặc biệt. Cách đặc biệt, mà tôi cảm nhận được về lòng thương xót Chúa, rất khó diễn tả, vì có nhiều nét rất riêng tư. Nhưng để an tâm, chắc chắn tình Chúa xót thương tôi là đặc biệt, tôi đến với thánh Giuse. Tôi trình bày với Ngài nhiều trường hợp cụ thể của tôi, xin Ngài cho tôi biết đó có phải là bằng chứng Chúa xót thương tôi một cách đặc biệt không. Nhất là đó có phải là cách tôi làm chứng về lòng thương xót Chúa không. Thánh Giuse đã thương trả lời tôi. Dưới đây là vài điều tôi cho là đặc biệt, tôi xin được chia sẻ. 3. Trước hết, khi tôi được Chúa gọi làm linh mục, rồi giám mục trong những hoàn cảnh rất khó khăn, tôi cảm thấy rất rõ tình yêu Thiên Chúa đã ôm lấy tôi. Tình yêu ấy là vô cùng, là không có giới hạn. Tôi xúc động nhận ra mình được Chúa mở ra về phía Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi đón nhận ơn gọi như một quà tặng tình yêu. Tôi tin tôi được Chúa yêu thương chính là đã được Chúa tha thứ. Tôi cảm tạ đón nhận ơn tha thứ trong ơn Chúa yêu thương. Tôi nhìn thấy rất rõ tôi được gọi về cõi đời đời. Đời đời là tình yêu. Một tình yêu sẽ đời đời tồn tại. Tình yêu ấy tôi sẽ phải học suốt đời để “có thể hiểu biết bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó nhờ tình yêu Chúa Giêsu” (x. Ep 3,18-19). 4. Tình yêu của Chúa xót thương là rất khiêm nhường. Người hạ mình xuống, chọn một con người hèn yếu, để cộng tác đặc biệt vào công trình cứu độ của Chúa. Để cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa là trước hết được nếm đủ mùi thân phận mỏng manh, yếu đuối, khổ đau, thiếu thốn của con người. Thân phận ấy thời nào cũng vậy, nơi nào cũng thế. Nhưng tại quê hương Việt Nam, thân phận ấy được hiện lên một cách đau đớn trong những năm chinh chiến, và cả trong những năm xây dựng hoà bình với muôn vài khó khăn trắc trở. Số người nghèo khó còn rất đông. Số người đau bệnh còn rất nhiều. Số người cô đơn, thiếu thốn đâu có giảm. Thêm vào đó, lại đang xuất hiện những hạng nghèo khó mới, những thứ đau bệnh mới, những loại cô đơn, thiếu thốn mới. Được cùng với Chúa Giêsu hoà mình vào những thân phận đó, để thực sự nếm những cay đắng nhọc nhằn, tủi nhục của họ, đó là sự khiêm nhường, mà tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa muốn mọi người được gọi như thánh Giuse xưa hãy thực hiện. Suốt đời thánh Giuse đã nếm đủ cảnh khổ của thân phận con người. 5. Tình yêu của Chúa xót thương là rất tha thứ. Chúa mặc lấy thân phận con người không phải để tố cáo và kết án con người, nhưng để ban tặng cho con người ơn giải thoát. Sự thực sẽ giải thoát họ. Sự thực nói đây là chính Chúa Giêsu, một tình yêu tha thứ, một tình yêu cứu độ. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6). Thánh Giuse đã nhận được sự thực đó. Ngài đã suốt đời sống sự thực đó. Ngài không kết án ai. Ngài không tố cáo ai. Ngài không buộc tội ai. Ngài luôn âm thầm khiêm tốn bao dung. Ngài cùng với Chúa Giêsu tự nguyện chịu mọi hy sinh để trở thành của lễ đền tội cho mọi người. Ngài cùng với Chúa Giêsu trao tặng ơn tha thứ của lòng thương xót Chúa cho bất cứ ai thấy mình cần được tha thứ. Trao tặng ơn tha thứ một cách rất khiêm nhường, đó là điều tôi được nhận thấy nơi thánh Giuse, và đó cũng là điều thánh Giuse khuyên tôi hãy thực hiện tại Việt Nam, quê hương yêu dấu của tôi. 6. Tình yêu của Chúa xót thương là rất hy sinh. Hy sinh của Chúa Cứu Thế, mà thánh Giuse được bảo vệ, là thường xuyên, từng phút, từng giây, từ lúc là bào thai trong lòng Đức Mẹ cho đến lúc tắt thở trên thánh giá. Hy sinh thường xuyên ấy là chịu đủ mọi thử thách, mà mọi người phải chịu, chỉ trừ tội lỗi. Thử thách về thân xác, thử thách về tâm hồn, tất cả đều dữ dằn. Chúa Cứu Thế đã gánh chịu tất cả vì yêu thương. Thánh Giuse cũng đã thực hiện như thế theo gương Chúa. Tình yêu Chúa xót thương là như vậy. Thánh Giuse đã thực hiện như thế, để làm chứng cho tình yêu xót thương Chúa. Tôi cũng được thánh Giuse khuyên hãy đi vào con đường của Ngài, để làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót tại Việt Nam hôm nay. Tại Việt Nam hôm nay, mọi tôn giáo đều hướng về từ thiện một cách mạnh mẽ. Trong từ thiện, các tôn giáo tại Việt Nam hôm nay đều nhấn mạnh đến việc hy sinh, không những tránh làm khổ cho người khác, mà còn dám chịu khổ thay cho người khác. Trong một tình hình như thế, nếu các môn đệ Chúa Giêsu đều nhiệt tình theo gương thánh Giuse mà hy sinh, hết sức tránh gây khổ cho người khác, mà còn chịu khổ thay cho người khác, thì đẹp biết bao. Nếu không, thì sẽ tai hại vô chừng cho tương lai đạo Chúa. 7. Tình yêu xót thương của Chúa là rất tế nhị. Chúa đem tình yêu xót thương đến để giải thoát con người. Nhưng Chúa không áp đặt. Chúa như một người gõ cửa nhẹ (x. Kh 3,20) . Ai nghe được và mở cửa, đón Chúa vào, thì Chúa sẽ vào và ở lại. Tình Chúa xót thương không là một gánh nặng cho ai. Nếu gọi là một gánh nặng vì mang theo trách nhiệm, thì đó là một gánh êm ái, dịu dàng x. Mt 11,30). Thánh Giuse đã cảm thấy như vậy, nên Ngài rất tế nhị, luôn mau lẹ vâng theo ý Chúa mà thay đổi ý riêng mình, chứ không khăng khăng cứ theo chương trình của mình đã tự đặt ra một cách cứng nhắc, theo khuôn của mình một cách ngạo mạn. Tế nhị của Ngài còn là tập trung lòng xót thương vào những con người, chứ không phải vào những công trình vật chất. Tế nhị của Ngài cũng còn là một thái độ hoà nhã. Biết phục vụ cho đi như một người đầy tớ, và biết đón nhận như một người bé nhỏ, nghèo hèn. 8. Tình yêu của Chúa xót thương là dạt dào đời sống nội tâm. Tất cả đều từ cái tâm. Một cái tâm đầy Chúa Thánh Thần. Một cái tâm đầy sự sống chỉ toàn là tình yêu. Một cái tâm chan chứa hạnh phúc của tám mối phúc, mà Chúa Giêsu đã rao giảng như hiến chương Nước Trời (x. Mt 5,1-12). Một cái tâm coi tình yêu của thánh giá Chúa là một vinh dự. Đời sống nội tâm đang là niềm khát khao của mọi người thiện chí tại Việt Nam hôm nay. Đời sống nội tâm đang là thứ lửa thiêng có thể đốt nóng lên tình yêu xót thương đích thực. Hình như đời sống nội tâm lại đang là một thiếu hụt nơi nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Nếu đúng là như thế, thì việc làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa nên được xem xét lại một cách rất khiêm nhường, khởi đi từ sự sám hối và cầu nguyện, trở về với Chúa. 9. Nên nhớ điều này, thời nay đang diễn ra một cuộc chiến thiêng liêng cam go gay gắt: Một bên là tình yêu thương xót của Chúa, một bên là ghen ghét ác độc của Satan, chúng ta hãy tỉnh thức luôn đứng về bên tình yêu thương xót của Chúa. Lạy Chúa, con tin lời Chúa hứa “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Chúa xót thương” (Mt 5,7). Xin Chúa giúp con phấn đấu, vượt qua mọi thứ khó khăn, để thực hiện lòng xót thương đối với mọi người. Amen. Long Xuyên, ngày 14 tháng 2 năm 2014
Đau khổ chiếm một mảng lớn của thời sự hằng ngày trên mọi phương tiện thông tin. Có thể nói: Đau khổ là một loại trường dạy đạo đức. 2. Riêng tôi, trường học bao la ấy dạy tôi bốn điều sau đây: Một là không ai có thể tránh được đau khổ, đặc biệt đau khổ là sự chết. Hai là con người đau khổ có những điều riêng tư, thầm kín, có thể là rất cao cả, không lộ ra bề ngoài. Xét đoán họ theo cái nhìn hẹp hòi là sai và là xúc phạm. Ba là đau khổ mà tôi thấy con người phải chịu với những kêu than, với những nước mắt, không phải là tiếng nói sau cùng của con người đau khổ. Tiếng nói sau cùng của họ rất có thể là một khám phá đầy an ủi của niềm hy vọng. Bốn là mọi người trong Hội Thánh đều có trách nhiệm đối với những người đau khổ, đặc biệt là trách nhiệm cảm thương. 3. Chia sẻ của tôi ở đây cũng được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm đó. Chia sẻ này, tuy không là tiếng nói sau cùng của một người đã từng chịu nhiều đau khổ, nhưng cũng báo hiệu một hy vọng đầy an ủi, bởi vì người chia sẻ đã cảm nghiệm được trong nhiều nỗi khổ những hương vị thiêng liêng, mà xin tạm gọi là thân mật. 4. Thực vậy, Tôi đã cảm nghiệm được một sự thân mật lạ lùng, khi trong nhiều cơn đau dữ dội, tôi đã gặp được tình Chúa xót thương tôi ở sự Chúa cho tôi nhận ra ý Chúa. Tình Chúa xót thương, mà tôi đã được gặp lúc đó, không phải là một giáo lý, một lý thuyết, nhưng là một ánh sáng, một sức thiêng, một hiện diện của Đấng thiêng liêng. Tình Chúa rất thân mật trong việc giúp tôi biết đón nhận thánh ý Chúa và biết cho đi những gì là hợp thánh ý Chúa. Giữa cơn đau khủng khiếp của tôi, tính cách thân mật của tình Chúa đối với tôi là ở chỗ Chúa đồng hành với tôi, ở sát bên tôi, để nâng đỡ, ủi an, soi đường, chỉ lối cho tôi. Con đường, mà tình Chúa xót thương chỉ cho tôi là ý Chúa. Hãy đón nhận ý Chúa, hãy vâng phục ý Chúa, hãy thực thi ý Chúa. Ý Chúa là tôi phải qua thánh giá, mới tới được phục sinh. Xưa, Chúa Giêsu đã đi con đường đó thế nào, thì nay tôi cũng phải bước theo Người trên con đường đó như vậy. Phải có ơn Chúa, tôi mới thực thi được ý Chúa. Những gì xảy ra cho tôi như thế làm tôi nhớ lại trường hợp hai môn đệ Chúa trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). Hai môn đệ đang ra đi trong tâm trạng hoang mang thất vọng, thì gặp được Chúa Giêsu hiện ra dưới hình người đi đường. Chúa cùng đi với họ. Chúa ngồi bên họ. Chúa nghe họ tâm sự. Chúa cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ. Chúa bẻ bánh trao cho họ. Sau cùng, họ hiểu: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang” (Lc 24,26). Tin Mừng là thế. Chúa cũng đã xót thương tôi, khi ban Tin Mừng đó cho tôi một cách rất thân mật, ngay chính lúc tôi đau khổ. 5. Ngoài ra, tôi cũng đã cảm nghiệm được một sự thân mật lạ lùng khi, trong nhiều cơn đau hãi hùng, tôi đã gặp được tình Chúa xót thương tôi, ở chỗ Chúa tha thứ cho tôi một cách rất nhân từ và thân mật. Tôi có tính hay bối rối về tội. Nhất là khi gặp đau khổ, tôi hay sợ hãi, tự hỏi: Phải chăng Chúa phạt tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi. Sợ hãi đó cùng với những đau đớn khác làm nên những cơn bão khủng khiếp trong tôi. Nhưng chính trong lúc đó, tôi đã gặp được tình Chúa xót thương ban cho tôi ơn tha thứ một cách rất thân mật. Tôi được nghe lại lời Chúa nói riêng với tôi: “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). “Thầy không lên án con đâu. Thôi con cứ an tâm, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Thêm vào đó, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc tôi. Người là Đấng xoá tội cho tôi. Ngài là Đấng đền tội thay cho tôi. Tình Chúa xót thương khiến tôi sám hối một cách thân mật, để đón nhận ơn tha thứ của Chúa một cách hết sức thân mật. 6. Còn một trường hợp khác, xin cũng được nêu lên. Đó là tôi đã cảm nghiệm thực sự thân mật lạ lùng, khi trong nhiều cơn đau khủng khiếp, tôi đã gặp được tình Chúa xót thương tôi ở chỗ Chúa sai tôi đi. Chúa sai tôi đi, để loan báo về hạnh phúc căn bản là ở cuộc sống đời đời trên thiên đàng. Và con đường dẫn tới đó chính là Chúa Giêsu. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Có những lúc rất đau đớn, tôi cũng được phần nào hạnh phúc như thánh Stêphanô xưa, là như thấy: “Trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Và cũng như ngài, tôi nói: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con... Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho họ” (Cv 7,56-60). Và tôi cũng như thấy “một trời mới, đất mới” (Kh 21,1). 7. Tới đây, tôi có thể kết thế này: Sự thân mật, mà tôi được hưởng trong những cơn đau, chính là tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa. Tình yêu đó có trước tình yêu của tôi. Tôi nhận được tình yêu ấy một cách nhưng không. Tình yêu ấy là một lời mời gọi tôi hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi tôi, để tôi được thuộc về Chúa, và thuộc về cộng đoàn những người con Chúa. Đáp lại tình yêu Chúa, tôi sẽ phải phấn đấu rất nhiều và sẽ phải có những lựa chọn sáng suốt và can đảm. Cũng với những nỗi đau thân mật, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa và phó thác mình nơi Chúa. Tâm hồn cảm tạ và phó thác của tôi đang được hiệp thông với muôn vàn người khác. Họ là những người bị thử thách đớn đau. Họ đã gặp được Chúa. Họ nâng đỡ tôi. Tôi học được nhiều điều nơi họ. Lạy Chúa, con xin hết lòng cảm tạ Chúa về những thân mật mà tình Chúa đã ban cho con. Xin giúp con biết sống mọi giây phút hiện tại một cách khiêm tốn và trung thành với những gì Chúa đã làm cho con. Amen. Long Xuyên, ngày 20 tháng 02 năm 2014
Mùa Chay kêu gọi tôi sám hối. Sám hối, mà tôi thực hiện mùa Chay này, được gợi ý bởi gương sáng của Đức Thánh Cha Phanxicô. Gương sáng gây ấn tượng nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô từ một năm nay là cải cách cũng gọi là đổi mới. Đổi mới từ cách suy nghĩ, lối sống, đến việc điều hành và tổ chức cơ cấu. Theo tôi hiểu, thì mọi đổi mới của Ngài đều nhắm mục đích làm nổi bật sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu khó nghèo trong Hội Thánh và trong thế giới giữa một tình hình có nhiều sóng gió và bóng tối do quá nghiêng về vật chất. Theo hướng đó, việc sám hối của tôi sẽ tóm gọn vào ba thú nhận khiêm nhường sau đây: 2. Thú nhận thứ nhất là khiêm nhường tuyên nhận mức độ yếu kém của tôi về sự hiểu biết những gì Chúa muốn tôi và Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay của tôi cần phải đổi mới. Mức độ yếu kém nhất chính là không tha thiết gì lắm với đổi mới. Thực vậy, xưa Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sống giữa một dân tộc sùng đạo Chúa, nhưng đã biến chất một cách quá sâu rộng. Người muốn đổi mới. Nhưng rất nhiều người hồi đó đã không đón nhận chương trình đổi mới của Người. Họ không thấy cần đổi mới. Họ không muốn đổi mới. Nếu đổi mới, thì phải đổi mới theo ý họ. Nhiều người dửng dưng với đổi mới. Nhiều người ra mặt chống lại đổi mới. Nguyên do chung của những dửng dưng và chống đối đó là vì họ bị khống chế bởi tội lỗi, bởi những lực lượng tăm tối và gian dối của xác thịt và thế gian, bị ma quỷ trói buộc, bị các thứ sự chết trong tâm hồn từ chối. Thiết tưởng, những gì đã xảy ra thời đó cũng đang xảy ra hôm nay, cách này cách khác, không nhiều thì ít. Biết đâu cảnh đau buồn đó cũng đang xảy ra ngay trong bản thân tôi và ngay trong nhiều cộng đoàn đức tin tại Việt Nam lúc này. Một điều tôi cho là rất nguy hiểm trong nhiều người đổi mới hiện nay là chỉ nhắm vào người khác, chứ không nhắm vào bản thân mình. Hoặc có nhìn vào bản thân mình, thì lại với mục đích mình phải thắng người khác. Cũng là rất nguy hiểm khi đổi mới chỉ nhắm vào những gì là bề ngoài. 3. Khi tôi thực sự khao khát đổi mới bản thân mình và cầu nguyện, thì tôi được thánh Phêrô tông đồ dạy là hãy coi đổi mới nhân bản là quan trọng. Ngài viết: “Anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái” (2Pr 1,5-7). Nhờ những lời dạy trên đây của thánh Phêrô tông đồ, tôi hiểu là tôi nên làm chứng cho đức tin và cho Đức Kitô của tôi qua những đức tính kể trên. Những đức tính kể trên có thể gọi là nhân bản, thuộc đạo làm người. Để những đức tính ấy được giàu những giá trị thiêng liêng, người ta phải phấn đấu rất nhiều, phải rèn luyện rất nhiều. 4. Nhìn lại đời tôi với nhiều hoàn cảnh phức tạp, tôi vui mừng đã gặp được những người có các đức tính nhân bản trong sáng. Qua họ, tôi đã gặp được Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Nhờ vậy, tôi hiểu việc đổi mới mà Chúa muốn hôm nay, là hãy bắt đầu từ đổi mới nhân bản. Tôi cảm tạ Chúa về chỉ dẫn đó. Nhưng rất có thể, tôi vẫn chưa biết đủ và biết đúng về chương trình đổi mới, mà Chúa muốn tôi và các cộng đoàn đức tin của tôi tại Việt Nam hôm nay cần thực hiện. Tôi khiêm nhường thú nhận những giới hạn đó của tôi. Đó là thú nhận thứ nhất. 5. Thú nhận thứ hai là khiêm nhường tuyên nhận mình rất yếu đuối về đời sống nội tâm, khó có đủ sức thực thi đổi mới như Chúa muốn. 6. Tôi yếu đuối lắm. Nên rất nhiều lần, khi chiến đấu nội tâm, tôi đã phải nói như thánh Phaolô: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19. 7. Tôi yếu đuối lắm. Nên, rất nhiều lần, tôi đã phải cương quyết nói với chính mình, “Đừng chủ quan. Không chừng mình cũng vào số những người kinh sư và Pharisêu xưa, mà Chúa Giêsu đã cảnh cáo một cách nặng nề” (x. Mt 23,12-32). 8. Tôi yếu đuối lắm. Nên, rất nhiều lần, tôi đã lo sợ cho chính mình tôi, biết đâu tôi không phần nào giống người Pharisêu cầu nguyện trong đền thờ, bên cạnh người thu thuế. Nhưng người thu thuế thì được Chúa xót thương. Còn người Pharisêu thì bị Chúa ruồng bỏ. Bởi vì người Pharisêu này kiêu ngạo phô trương. (x. Lc 18,9-14) 9. Tôi yếu đuối lắm. Nên, rất nhiều lần, tôi lo sợ cho chính mình tôi, không chắc tôi có thực sự không phải là thầy tư tế và thầy Lêvi mà Chúa Giêsu đã nói trong dụ ngôn “người Samari tốt lành”. Họ đã khôn khéo tránh né cứu giúp kẻ khốn cùng bị thương nằm bên vệ đường (x. Lc 10,29-37). 10. Tôi yếu đuối lắm. Nên, rất nhiều lần, tôi đã nhủ lòng mình rằng: Đừng vội tin vào lòng biết ơn của mình và của những người thuộc về mình. Biết đâu, lại không xảy ra cảnh vô ơn cay đắng và trắng trợn, như cảnh xưa trong số 10 người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người ngoại giáo trở lại cảm ơn Chúa (x. Lc 17,11-19). 11 Tôi yếu đuối lắm. Nên, rất nhiều lần, tôi cảnh cáo tôi: Hãy nhớ lại việc các tông đồ Chúa Giêsu đã tìm an phận, bỏ trốn và chối Chúa, trong đêm Chúa Giêsu bị bắt (x. Mc 14,48-52). Biết đâu tôi cũng vậy. Thú nhận sự yếu đuối của mình về đời sống nội tâm nghèo nàn mỏng manh là thú nhận thứ hai. Thú nhận này dẫn đưa tới việc phải tăng cường đổi mới nội tâm nhiều hơn nữa. 12. Thú nhận thứ ba là tuyên nhận sự chểnh mảng không chịu cầu xin ơn Chúa giúp. Chúa Giêsu đã quả quyết các môn đệ: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Tôi biết lời Chúa đó là sự thực giải thoát tôi. Nhưng biết bao lần, tôi đã không tìm cách đón nhận ơn Chúa, nhất là đón nhận bằng cầu nguyện, chịu phép giải tội, lui tới Thánh Thể. Tôi thường hay để ý đến việc mến Chúa và yêu người. Sống tình yêu coi như dễ. Nhưng thực tế cho thấy không dễ chút nào. Tôi rất cần ơn Chúa giúp, để có thể mến Chúa theo ý Chúa, và yêu người theo ý Chúa. Ý Chúa nhiều khi rất khác ý của loài người. Nếu không được Thánh Thần Chúa giúp, tôi sẽ rất có thể có những quyết định sai lầm về mến Chúa yêu người. Vì thế, tôi sám hối, xin Chúa đổi mới nội tâm của tôi thực nhiều hơn nữa. 13. Với ba thú nhận trên đây, tôi đặt trái tim tôi vào Trái Tim Chúa Giêsu và cầu nguyện như một trẻ thơ: “Cha ơi, xin Cha xót thương con”. Chúa xót thương tôi bằng sự Chúa cho tôi lúc này cảm nhận được sâu sắc những đau khổ của biết bao đồng bào, và biết quan tâm nhiều hơn đến những cách từ thiện do các người tốt xa gần đang nhiệt tâm thực hiện. Họ lo cho người đau khổ với những việc làm cụ thể và quảng đại. Họ thuộc về nhiều tín ngưỡng khác nhau. Nhìn thấy những việc từ thiện họ đang làm cho người đau khổ, tôi hiểu là Nước Trời đang đến với mọi người thiện chí. Tôi học được nơi họ nhiều điều tốt. 14. Vì vậy, nhờ ơn Chúa, tôi quyết tâm dốc lòng sống nhân bản tốt hơn, sống nội tâm tốt hơn và lo cho người đau khổ nhiều hơn. Tôi coi đó chính là một sự đổi mới rất đẹp lòng Chúa, thích hợp với việc làm chứng cho Chúa trong tình hình Việt Nam hôm nay. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. Xin cộng đoàn thương đỡ nâng tôi, bằng sự cảm thông và lời cầu nguyện, nhất là vì Chúa đang thực hiện việc đổi mới tôi một cách âm thầm, qua mầu nhiệm thánh giá. Long Xuyên, ngày 01 tháng 3 năm 2014.
Những khi phải phấn đấu với những cơn đau, tôi thường cầu nguyện rất nhiều. Trong thời gian gần đây và chính lúc này, những cơn đau tăng mạnh cả về thân xác lẫn về tâm hồn, tôi càng cầu nguyện nhiều hơn. Bằng nhiều cách, Chúa nói vào sâu thẳm lòng tôi: “Con hãy ở lại”. Tôi xin Chúa thương dạy bảo thêm điều Chúa đã bắt đầu dạy bảo. Không phải đợi lâu, tôi được Chúa đưa lòng trí tôi nhớ lại lời Chúa nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). 2. Tôi cảm tạ Chúa và thực hành điều Chúa dạy. Tôi tin Chúa đang hiện diện trong tôi. Tôi hồi tâm trong thinh lặng. Trong thinh lặng tôi tập trung vào Chúa. Tôi bước xuống khỏi chiếc xe vô hình đang chở lòng tôi đi nơi này nơi nọ. Tôi ở lại bên Chúa. Chỉ còn Chúa và tôi. Tôi lẵng lẽ tin vào Chúa. Chúa mở lòng trí tôi: Tôi nhận ra một cách sâu sắc Chúa là tình yêu, một tình yêu hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. 3. Trong thinh lặng sâu thẳm, tôi được tình yêu Chúa cho tôi nhận ra dung mạo thực của tôi: Tôi chẳng là gì, tôi chẳng đáng gì. Hơn thế, tôi còn là kẻ tội lỗi, hèn hạ, yếu đuối, cực kỳ bé nhỏ. Càng nhìn rõ mình là như thế, tôi càng bám vào Chúa mà nói: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Trong lời xin thương xót con, có những tâm tình cảm tạ, phó thác và khát khao thực thi ý Chúa. 4. Cứ thế, tôi ở lại trong tình yêu của Chúa.Dần dần tình yêu Chúa cho tôi nhận ra thánh ý Chúa. Bằng cách tình yêu Chúa đốt lên trong tôi những khát vọng rất cụ thể hợp với Phúc Âm. Thí dụ: Khao khát được Chúa tha tội, được Chúa cứu khỏi lửa hoả ngục, được đưa mọi linh hồn lên thiên đàng. Với khao khát đó, trí khôn tôi được mở rộng ra, được sáng thêm do đức tin, để phân biệt được những gì Chúa muốn tôi cần thực hiện lúc này ở chính chốn này, và những gì Chúa muốn tôi cần phải tránh, cho dù coi như đạo đức. 5. Xin nói ngay là Chúa muốn tôi bước theo Chúa trên con đường thánh giá, để tới Phục Sinh. Tôi phải hết sức từ bỏ mình, rất mực yêu thương, và khiêm nhường tột độ. Phải coi sự được thông phần vào thánh giá Chúa là một vinh dự. 6. Ở lại trong tình yêu của Chúa, tôi được Chúa biến đổi nên kẻ cộng tác với Chúa. Nhưng dù được Chúa biến đổi, tôi vẫn là kẻ cộng tác tự do. Chúa vẫn cho trí khôn tôi có khả năng phát triển một cách tự do. Phải chăm chỉ học hành, siêng năng nghiên cứu. Nhờ đó tôi hy vọng được cộng tác với ơn Chúa như một người có lý trí được đào tạo tốt. 7. Cũng vậy, dù được Chúa biến đổi, ý chí của tôi vẫn được tự do phát triển. Phải tập luyện chuyên cần, biết phấn đấu chọn điều tốt, tránh điều xấu. Nhờ vậy, tôi hy vọng được cộng tác với ơn Chúa, như một người có ý chí được tập luyện kỹ. 8. Nói như vậy là để xác định sự tôi ở lại trong tình yêu của Chúa, không phải một cách thụ động máy móc, mà với một cách tự do có trách nhiệm. Nghĩa là tôi phải phấn đấu. 9. Đó là những sự thực không những đúng triết học, mà cũng đúng với Phúc Âm. Tôi xem lại dụ ngôn những nén bạc (Mt 25,14-30). Ông chủ sắp đi xa, liền gọi đầy tớ của mình đến, mà trao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này 5 nén bạc, người kia 2 nén bạc, người khác nữa một nén bạc. Khi trở về, ông gọi 3 người đầy tớ đó đến. Người thứ nhất dùng vốn ông chủ trao để buôn bán làm lời được 5 nén khác. Chủ khen anh. Người thứ hai cũng dùng 2 nén chủ trao và sinh lời thêm 2 nén khác. Chủ khen anh. Còn người thứ ba đem chôn nén chủ trao, trả lại cho chủ y nguyên nén đó. Chủ phạt anh. 10. Với dụ ngôn trên đây, Chúa dạy tôi là, để cộng tác với Chúa, tôi phải phấn đấu bằng trí khôn và ý chí của mình được đào tạo cẩn thận, biết suy tính, cân nhắc, chứ không phải cứ ỷ lại vào ơn Chúa như một dụng cụ chết. 11. Tới đây, tôi nhận ra rằng: Tôi phải luôn luôn ở lại trong tình yêu của Chúa. Nhưng đồng thời một cách nào đó tôi cũng ra đi, để đến những nơi Chúa sai tôi đến. Ra đi, mà vẫn ở lại. Ở lại, mà vẫn ra đi. Chẳng hạn, chính lúc này, tôi đang ở lại trong tình yêu của Chúa một cách sâu xa. Nhưng tôi vẫn dùng chia sẻ và lời cầu nguyện của tôi để ra đi tới các nơi gần xa một cách có trách nhiệm. Ở lại, tôi vẫn phải phấn đấu với những đau đớn. Nhưng đau đớn ấy được hoà vào đau đớn của Chúa Giêsu, nhờ đó mà trở thành êm dịu. Ra đi¸tôi có thể gặp được những niềm vui để trở thành tự đắc. Nhưng tôi sẽ không tránh được đau đớn, nếu tôi thực sự muốn từ bỏ mình, để cộng tác vào công trình cứu chuộc của Chúa qua mầu nhiệm thánh giá. Đau đớn ấy là lành mạnh. 12. Được ở lại và ra đi như thế, tôi tham dự vào một cuộc chiến giữa các lực lượng của Satan và các lực lượng của Thiên Chúa. Satan dẫn đến những chiến thắng bề ngoài, hào nhoáng, nhưng tạm bợ phù du. Còn Chúa dẫn đến những chiến thắng bên trong, bền vững đời đời, cho dù phải trải qua những đớn đau coi như những thất bại. 13. Qua những cái nhìn trên đây, tôi xác tín điều này: Ở lại trong tình yêu của Chúa là điều phải thực hiện thường xuyên, từng giờ từng phút. Để rồi, nếu phải ra đi, thì chính nhờ sự ở lại trong tình yêu của Chúa, mà những ra đi mới được thực hiện đúng theo ý Chúa. Điều xác tín trên đây đang đem lại cho tôi những hy vọng và những lo âu cho Hội Thánh Việt Nam của tôi hiện nay. 14. Tôi hy vọng rất nhiều, khi thấy nhiều phong trào đạo đức hiện nay đang chú trọng đến việc ở lại trong tình yêu của Chúa, và có những ra đi mang theo sự gắn bó mật thiết với Chúa. Tôi lo ngại rất nhiều, khi thấy không ít người môn đệ Chúa hiện nay ham ra đi một cách thường xuyên theo ý riêng, mà ít để ý đến việc ở lại trong tình yêu của Chúa. Nếu phong trào ra đi như thế tiếp tục lan rộng, thì tôi có lý để lo sợ, Chúa Giêsu có lúc sẽ nhìn vào một số nơi tại Hội Thánh của ta, mà khóc, như xưa Người đã khóc thương thành Giêrusalem: “Vì sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, bởi ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,44). Lạy Mẹ Maria, xin xót thương con. Con tin tất cả những gì Chúa đang dạy con đều dẫn con tới hạnh phúc bình an trong Chúa. Con tha thiết nài xin Mẹ ban cho con ơn luôn biết ở lại trong tình yêu của Chúa, theo gương của Mẹ. Long Xuyên, ngày 25 tháng 3 năm 2014
Bùi-Tuần 1259: Tinh thần Vatican II trong cộng đoàn Long Xuyên
Nhà thờ cũng có tuổi. Với tuổi 20, nhà thờ Long Xuyên còn rất trẻ. Nét trẻ của nhà thờ Long Xuyên không do tuổi nó trẻ cho bằng sinh hoạt của nó càng ngày càng trẻ. Tôi gọi một sinh hoạt tôn giáo là trẻ trung, khi sinh hoạt ấy nói lên sức sống trẻ do Công Ðồng Vaticăng II khơi dậy. Công đồng vạch ra bốn hướng, để Hội Thánh các nơi theo đó mà đón nhận và cho đi sự sống cứu độ. Tôi thấy cả bốn hướng ấy đều có mặt trong các sinh hoạt của nhà thờ Long Xuyên này. Lúc mờ lúc tỏ. Hướng thứ nhất là Hội Thánh tập trung vào Ðức Kitô Tôi không thể không nhận thấy hướng tập trung ấy tại đây, khi tôi nhìn vào cách sắp xếp tượng ảnh trong nhà thờ này, nhất là khi tôi quan sát các giờ phượng tự thánh lễ. Tất cả đều đề cao Ðức Kitô: Chính nhờ Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô, và trong Ðức Kitô, các thánh lễ được diễn tiến trong bầu khí cầu nguyện, trong bầu khí lắng nghe Lời Chúa, trong bầu khí nội-tâm-hoá Tin Mừng, trong bầu khí đón chờ Chúa đến. Mọi nghi thức cũng âm thầm là những lời cầu nguyện. Ðiều đáng nói ở đây là trong bầu khí siêu nhiên ấy, nhiều người không những đã đón nhận được Lời Chúa, mà còn gặp được chính Chúa. Chúa đến với họ, ở lại trong họ, và họ cảm thấy họ không thể có hạnh phúc nếu thiếu vắng Ngài. Ðôi khi tôi có cảm tưởng nhà thờ Long Xuyên này cũng giống như giếng nước Giacob xưa, nơi người đàn bà Samaria đã gặp Ðức Kitô. Bà đến giếng, mục đích không phải để tìm gặp Ðấng Cứu Thế, mà chỉ để kín nước. Thế nhưng, Ðức Kitô đã đón sẵn ở đó. Chỉ sau vài phút trò chuyện, bà đã tin vào Ðức Kitô. Bà mến Ngài, tin Ngài, trước khi nghe và hiểu giáo lý của Ngài. Tôi thấy nhiều người đã gặp được Ðức Kitô tại đây như vậy. Họ đến đây, không chủ ý theo đạo, nhưng rồi họ đã gặp được Chúa, qua những con người dễ mến của Chúa, qua những sinh hoạt dễ thương về Chúa. Họ tin Chúa, trước khi học hỏi giáo lý của Ngài. Kinh nghiệm trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Gặp gỡ Ðức Kitô là điều quan trọng hơn là học hỏi về Ðức Kitô. Và đúng như lời Chúa đã dạy, Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai khiêm nhường, bé mọn. Hướng thứ hai là Hội Thánh gồm toàn thể dân Chúa Ðể có một hình ảnh gợi ý về Hội Thánh là dân Thiên Chúa, tôi hay nghĩ tới nhà tiệc ly. Tại đó, người đứng đầu triệu tập và chủ toạ là Ðức Kitô. Các môn đệ hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau. Bằng việc lắng nghe Lời Chúa. Bằng việc nhận lấy bánh rượu từ tay Ngài trao cho để rồi lại chuyền cho nhau những phần của cũng một tấm bánh đó, của cũng một chén rượu đó. Và bằng việc chứng kiến việc Chúa rửa chân cho mọi môn đệ, không trừ một ai. Tôi thấy hình ảnh đó thường hiện lên sống động trong nhà thờ Long Xuyên này, để rồi lại toả ra trong khắp họ đạo. Chúng ta, gồm các giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục, đều là dân Chúa. Chúng ta gắn bó với Chúa như lời Chúa dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành”. Và giữa chúng ta là dân Chúa, chúng ta luôn thực hiện lời Chúa dạy: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Thực hiện bằng các việc phục vụ nhau trong yêu thương và khiêm tốn. Nói tới điểm này, tôi nghĩ ngay tới Ðức Cha Micae. Tôi coi đời sống thường ngày của Ngài là mẫu gương đáng chúng ta noi theo: Rất phục vụ, rất yêu thương và rất khiêm tốn. Cùng với mẫu gương ấy, tôi đã nhận thấy nhiều người trong anh chị em: Rất giàu tinh thần phục vụ, trong yêu thương chân thành và với thái độ khiêm tốn sâu xa. Hướng thứ ba là Hội Thánh được sai đi loan báo Tin Mừng Trong hướng này, tôi nhớ lại các lễ phong chức linh mục tại đây. Trong số 78 linh mục được thụ phong từ sau ngày 30-4-1975 tới nay, phần đông được thụ phong trong nhà thờ Long Xuyên này. Các vị ấy cũng như mọi linh mục khác đều đã được sai đi truyền giáo. Mọi giáo dân cũng đã được sai đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ. Tôi thấy một trong những cách thực hiện sứ mệnh sai đi, đó là hội nhập văn hoá. Văn hoá địa phương ta có một nét riêng đặc biệt. Ðó là coi trọng tình nhân ái và các liên hệ của tình nhân ái. Cụ thể như tình xót thương đối với kẻ nghèo khổ, tình hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, tình chia sẻ thân thương đối với chòm xóm, tình người đối với mọi người. Khi Tin Mừng cứu độ được nói lên qua việc phát triển những dây liên hệ nặng tình nhân ái đó, đồng bào địa phương ta, dù khác tín ngưỡng, thường dễ hiểu đức tin của ta, và dễ chấp nhận đức tin của ta vào nền văn hoá địa phương. Từ kinh nghiệm trên đây, tôi nghĩ rằng: Khi truyền giáo, nếu người của Hội Thánh không quan tâm đến tình hình tâm lý xã hội, để đưa đức tin hội nhập vào văn hoá, mà chỉ để ý đến quyền lợi riêng của Hội Thánh mình, thì việc truyền giáo sẽ khó thành công. Sở dĩ giáo phận Long Xuyên đã tăng thêm số địa điểm truyền giáo một cách mau lẹ từ 20 năm nay, cũng một phần vì việc truyền giáo được thực hiện bằng cách hội nhập văn hoá như nói ở trên. Hướng thứ bốn là Hội Thánh dấn thân tham gia xây dựng xã-hội Trong hướng này, tôi thấy anh chị em đang có mặt trên mọi lãnh vực xã hội: Văn hoá, văn nghệ, kinh tế, khoa học, y tế, thể thao v.v... Anh chị em dấn thân với tinh thần trách nhiệm, tinh thần cầu tiến, tinh thần sáng tạo. Qua thái độ dấn thân, họ đạo Long Xuyên đang giới thiệu một Hội Thánh cởi mở, một đức tin đối thoại. Cũng qua thái độ dấn thân, mỗi người anh chị em đang chứng tỏ mình là con người phục vụ: Phục vụ cho chân lý. Phục vụ cho tự do. Phục vụ cho tình bác ái, đoàn kết, thăng tiến con người. Chân lý, mà anh chị em phục vụ và làm chứng, không chỉ là một hệ thống tín lý và luân lý, mà nhất là chính Ðấng là chân lý, đó là Ðức Kitô. Theo tôi thấy, thì thời nay điểm nóng có khả năng đốt lên đôi chút thiện cảm và kính nể đối với Hội Thánh trong lòng người ngoài công giáo, sẽ không còn là việc ta đọc kinh dự lễ, mà chính là thái độ chúng ta dấn thân xây dựng các giá trị trần thế, một cách có trách nhiệm và có nhiều khả năng. Nhận xét trên đây của tôi đã do chính những kinh nghiệm của anh chị em đem lại. *** Với bốn đường hướng trên đây do Công Ðồng Vaticăng vạch ra, họ đạo Long Xuyên đã và đang sống đạo và truyền đạo một cách trẻ trung. Nhưng, phải hân hoan nhận rằng: Nhiều họ đạo khác trong và ngoài giáo phận Long Xuyên còn tốt hơn họ đạo Long Xuyên nhiều. Họ đạo Long Xuyên còn nhiều thiếu sót. Biết vui vẻ nhận mình thiếu sót, để cố vươn lên, đó cũng là một nét dễ thương chứng tỏ sức sống trẻ trung nơi những cá nhân và những cộng đoàn đức tin đi theo Công Ðồng Vaticăng II. Long Xuyên, ngày 22/8/1993
“Thiên Chúa giàu lòng thương xót” (Ep 2,4). Người đã đến với tôi. Người đến rất nhiều lần, dưới nhiều hình thức. Hình thức quen thuộc nhất là qua những con người sống dứt lìa cái tôi ích kỷ, để dấn thân lo cho người khác khỏi sự dữ, được sự lành. Họ có cái tâm sáng. 2. Những người này cũng rất khác nhau. Nhưng họ có một nét chung này là giống Đức Mẹ Maria ở sự nhận biết mình thấp hèn, thế mà lại được Chúa xót thương đoái nhìn. Như Đức Mẹ đã xác nhận về mình: “Chúa là Đấng Cứu Độ đã đoái nhìn đến phận hèn nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,47-48), họ cố gắng sống khiêm nhường, nghèo khó, ở đời sống bề ngoài và ở nội tâm bên trong. Họ sống một đời sống mới là bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương đầy hy sinh để cứu chuộc con người. 3. Theo gương Đức Mẹ, họ đón nhận lòng thương xót Chúa đến với họ. Đón nhận bằng việc ca tụng Chúa, theo gương Đức Mẹ. “Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1,46). Đón nhận còn là “Xin vâng” (Lc 1,38). Xin vâng là lên đường “Mẹ Maria vội vã lên đường” (Lc 1,39). 4. Cùng với Mẹ, họ lên đường, lên đường làm việc bác ái, như Đức Mẹ xưa chia sẻ với Bà Isave. lên đường, đến với những người nghèo khổ, để chịu khổ như họ, như Đức Mẹ xưa tại hang đá Bêlem. lên đường, đến với những người tội lỗi, chịu khổ nạn, giữa những tội nhân, như Đức Mẹ xưa dưới chân thánh giá tại núi Golgotha. Tất cả mọi lên đường đều để làm chứng rằng: Chúa xót thương con người, nhất là những kẻ khốn cùng. 5. Trên suốt con đường đời dài gần chín chục năm của tôi, tôi đã gặp được nhiều con người như thế. Họ là những cá nhân. Họ là những nhóm nhỏ. Họ là những cộng đoàn. Một điều quan trọng họ đã dạy tôi là, muốn bước theo Chúa Giêsu để làm chứng cho lòng thương xót Chúa, thì phải rất cụ thể và rất quảng đại. Người đói thì hãy cho ăn. Kẻ khát thì hãy cho uống. Người bơ vơ thì hãy tiếp rước. Người rách rưới thì hãy cho mặc. Người đau yếu thì hãy thăm nom. Trong bài nói về cuộc Phán Xét chung, Chúa Giêsu cho biết Người sẽ phán xét từng người về những việc cụ thể như thế (x. Mt 25,31-48). 6. Trong lần đầu tiên được bái kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tôi trình bày với Ngài về giáo phận Long Xuyên của tôi là một giáo phận bé nhỏ, xa xôi, nghèo túng, nhưng lòng đạo sốt sắng, siêng năng đi lễ, đọc kinh mân côi mỗi ngày. Ngài lắng nghe tất cả. Nhưng Ngài quan tâm nhiều hơn đến việc Hội Thánh địa phương lo cho người nghèo một cách cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể. Lo cho người nghèo, theo Ngài, không phải chỉ là làm những việc từ thiện như một bổn phận xã hội, mà còn là làm những việc bác ái mang chiều kích thiêng liêng của Phúc Âm. Ngài không dạy tôi phải làm gì. Nhưng Ngài rất lắng nghe, khi tôi trình với Ngài là tôi sống phần nào theo tinh thần Anh Charles de Foucauld, bởi vì tôi quen nhiều người trong nhóm Jesus - Caritas và các chị Tiểu Muội. 7. Tôi nhận ra lòng thương xót Chúa đã đến với tôi qua Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi Ngài giúp tôi biết có những phân định đúng về sự lo cho người nghèo trong thời điểm cụ thể và địa điểm cụ thể mà tôi đang phục vụ. Như thế mới làm chứng được cho Lòng Thương Xót Chúa. 8. Và như vậy, tôi hiểu việc rao giảng Lòng Thương Xót Chúa phải thực hiện bằng việc làm chứng hơn là bằng lý thuyết. Dưới đây là một điều rất mới, tôi xin làm chứng về lòng thương xót Chúa. Mấy ngày vừa qua, tức ba ngày Tuần Thánh, tôi bị đau khác thường. Hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình khó nghèo tột độ: Nghèo về sức khoẻ, nghèo về những liên đới, nghèo về khả năng chịu đựng, nghèo về những ơn an ủi thiêng liêng. Trong tình trạng khó nghèo như tột độ đó, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ soi sáng cho tôi thấy tôi đang sống tinh thần nghèo khó một cách đặc biệt. Tôi nên dâng tình trạng nghèo khó mình đang chịu cho Chúa, để cầu nguyện cho những người nghèo khó đủ loại, nhất là cho loại người nghèo khó về thiếu niềm tin. Thiếu niềm tin vào Chúa, đó là cảnh nghèo thê thảm nhất hiện nay. 9. Với sự chỉ dẫn trên đây của Mẹ Maria, tôi cảm thấy Lòng Thương Xót Chúa đang đến với tôi. Thế là tôi được an tâm với thực tế hiện giờ của tôi. Thực tế hiện giờ là tôi rất nghèo về nhiều phương diện. Nhưng thực tế đó lại được Đức Mẹ gọi là tinh thần nghèo khó có khả năng làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa. Nghĩa là tôi đang sống rất nghèo, nhưng lại vẫn có thể lo cho một số loại người nghèo bằng lời cầu nguyện và của lễ hy sinh nơi chính bản thân mình. 10. Điều làm tôi hứng khởi để lên đường, khi phải nằm trên giường phấn đấu với những cơn đau, là nhận thức rằng việc tôi cứu người nghèo là cứu chính linh hồn tôi. Xác tín điều đó, tôi tha thiết xin Lòng Thương Xót Chúa giúp tôi luôn biết tỉnh thức và phấn đấu, để tôi thực sự sống tinh thần nghèo khó và thực sự lo cho người nghèo, để làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa. Nhờ vậy, mà người ta sẽ tin vào những người có trách nhiệm trong Hội Thánh. Nếu không, cơn khủng hoảng mất niềm tin vào cơ chế Hội Thánh hiện nay càng sẽ thêm trầm trọng. Sống tinh thần nghèo khó và lo cho người nghèo, để làm chứng cho Chúa giàu lòng thương xót, đó là một thách đố đang đặt ra cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam. Một lần nữa, tôi nhớ về những người đã đem đến cho tôi lòng xót thương của Chúa. Họ đến đúng những lúc tôi cần được xót thương. Tôi cảm thấy được vơi đi những sợ hãi và đau đớn, nhờ chính con người của họ. Tôi nhận được niềm tin và hy vọng, nhờ cách họ xót thương tôi. Lạy Chúa là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót, xin thương giúp con được luôn thuộc về Chúa, và luôn tìm thực thi ý Chúa. Lạy Chúa, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa ở Chúa. Long Xuyên, ngày 21 tháng 4 năm 2014.
Đời tôi được ghi nhiều dấu ấn. Trong những dấu ấn sâu đậm nhất có dấu ấn của tình mẹ. Tình mẹ thường rất âm thầm pha trộn với nhiều hy sinh, chú ý đến từng chi tiết nhỏ. 2. Tình mẹ đầu tiên là do mẹ thân sinh ghi. Mẹ thân sinh của tôi là một phụ nữ thuộc gia đình nghèo. Qua gương sáng của mẹ và của bố, tôi học được ba bài học sau đây: 3. Một là sự chăm chỉ chịu thương chịu khó để sống xứng đáng với lương tâm. Tôi theo gương mẹ, mà thức khuya dậy sớm, tận dùng từng giờ từng phút để tham gia công việc kiếm sống của gia đình. Tiếp đó là chăm chỉ học hành, cần cù tập ăn tập nói, sao cho lễ độ. 4. Hai là sự cầu nguyện. Trong gia đình, mẹ là người cầu nguyện nhiều nhất. Sáng vừa thức dậy, tối trước khi ngủ, mẹ cầu nguyện bằng lần chuỗi Mân côi. Mẹ hay dẫn tôi đi lễ tại nhà thờ cách nhà khá xa. Mẹ hay khuyên tôi: “Con hãy nhớ: Chúa ở trước mặt con. Đừng làm gì tội lỗi, dù rất nhỏ. Nhưng hãy luôn làm việc lành, vì Chúa thấy hết mọi sự, Chúa thương con”. 5. Ba là việc bác ái thương người. Tuy nhà nghèo, nhưng hễ có người ăn xin tới, bao giờ mẹ cũng bảo tôi đem ra cho họ một ít gạo, một chút tiền, hay một ít cơm. Cách cho trọng hơn của cho. Bác ái thương người, mà mẹ nhấn mạnh hơn hết là tình thương yêu đối với mọi người trong gia đình, với hàng xóm, với bà con họ hàng, nhất là với các ông già bà cả, với những người trong làng có tang chế hay gặp rủi ro, đặc biệt là sự hiếu thảo biết ơn đối với ông bà. 6. Khi cố gắng làm trọn ba bổn phận trên đây, tôi cảm thấy vui vì được đào tạo kỹ về tinh thần trách nhiệm và như cảm nhận được danh dự là con của mẹ của bố, của gia đình mình. Làm trọn bổn phận của người con như thế được tôi cho là căn bản, để tôi sống vui trong hoàn cảnh lúc đó. 7. Tình mẹ thứ hai là mẹ Tổ Quốc Việt Nam. Từ rất nhỏ, tôi đã sớm cảm nhận được Quê Hương Việt Nam của tôi là một người mẹ. Cảm nhận đó được xuất hiện từ nhiều yếu tố, do những gì mình thấy được, nghe được, đụng tới được, tiếp cận được trên Quê Hương Việt Nam, làm nên những nụ cười và nước mắt, những niềm thương và nỗi nhớ, những gắn bó và ước mơ cao đẹp dạt dào. Ước mơ cao đẹp nhất là về tinh thần cộng đồng cần được đào tạo kỹ. Phấn đấu hết sức mình, để cho những ước mơ tốt đẹp đó được thực hiện, đó là bổn phận căn bản của tôi đối với mẹ Việt Nam. Phần đấu đó cũng nằm trong những phấn đấu để tôi trở thành người con tốt của Mẹ Hội Thánh. 8. Tình mẹ thứ ba là Mẹ Hội Thánh. Khi tôi được vào chủng viện, tôi gặp được tình của người mẹ thứ ba. Mẹ thứ ba của tôi là mẹ Hội Thánh. Mẹ Hội Thánh gợi ý cho tôi là tôi được chuẩn bị để theo Chúa Giêsu một cách đặc biệt. Bổn phận người theo Chúa Giêsu một cách đặc biệt đòi hỏi phải học hành nhiều và phải tập luyện nhiều. 9. Các môn tôi học thì khá nhiều thuộc cả đời cả đạo. Nhưng các môn tôi hứng thú nhiều nhất là triết học, thần học và Kinh Thánh. Triết học giúp tôi biết suy nghĩ cho có mạch lạc, biết phân tích cho có khoa học, biết nhận định cho đúng sự thực, nhất là biết yêu mến đi tìm chân lý. Thần học và Kinh Thánh giúp tôi nhận ra chân lý sau cùng là lời Chúa và là chính Chúa. 10. Ngoài việc học, Mẹ Hội Thánh giúp tôi tập luyện. Để nên người theo Chúa Giêsu một cách đặc biệt, tôi phải tập sống từ bỏ mình, như lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Việc tập luyện gồm cả việc sống kỷ luật bên ngoài lẫn kỷ luật bên trong nội tâm. Con đường tu đức vì thế trở thành một nếp sống tiết độ, đắm mình trong bầu khí cầu nguyện, được đào tạo kỹ về đạo đức, có những lựa chọn hướng về sự làm chứng cho Chúa qua việc cứu con người khỏi tội lỗi, để họ được hạnh phúc thiên đàng. Với những việc học hành và tập luyện, tôi cảm thấy vui vì đã cố gắng làm bổn phận của người con của Mẹ Hội Thánh. 11. Tình mẹ thứ bốn là là Mẹ Maria. Ngay từ tuổi thơ, tôi đã có lòng mến yêu Đức Mẹ Maria. Càng lớn lên, nhất là trong những năm ở chủng viện, tôi càng gắn bó với Đức Mẹ Maria. 12. Mẹ Maria dạy tôi đặc biệt mấy điều sau đây: Một là hạnh phúc cao cả nhất và cần thiết nhất là có Chúa ở trong mình. Hai là để biết làm đúng bổn phận người con của Mẹ, tôi phải biết vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa sẽ được Chúa soi cho những ai khiêm nhường cầu nguyện, triệt để phó thác ở lòng xót thương của Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đường chỉ lối một cách cụ thể với những ân sủng cần thiết có thể là khác thường. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đào tạo tôi. 13. Tôi khiêm nhường và cảm tạ đón nhận những dạy dỗ của Mẹ Maria. Khi thực hiện những điều Mẹ dạy, tôi thấy rất hạnh phúc, cho dù con đường tôi đi là rất trắc trở. Biến cố 1945 và biến cố 1975 của lịch sử Việt Nam đã qua rồi. Nhìn lại hai biến cố ấy, tôi thấy nhờ có Chúa trong lòng tôi, và nhờ biết nhận ra thánh ý Chúa, để mà sống yêu thương với những lựa chọn được Chúa Thánh Thần soi dẫn, tôi xác tín là Mẹ Maria thương tôi, nên dẫn tôi theo Mẹ qua mầu nhiệm thánh giá để tới Phục sinh. 14. Một thoáng nhìn lại bốn tình mẹ trên đây đưa tôi đến nhận xét này: Tất cả bốn tình mẹ mà tôi đã được đón nhận đang làm nên một ngọn lửa trong tôi. Ngọn lửa khao khát phần rỗi các linh hồn. Ngọn lửa muốn cứu mọi người khỏi con đường đi xuống hoả ngục. Ngọn lửa muốn đưa mọi người về với Chúa. Ngọn lửa cháy bừng những thao thức. Có thể nói ngọn lửa trong tôi chính là biểu tượng của những dấu ấn do bốn tình mẹ. Ngọn lửa đó là của Chúa, do Chúa, thuộc về Chúa và đi về với Chúa. Ngọn lửa ấy là một dấu chỉ của sự tôi là gì, hơn là sự tôi làm gì. Chính nhờ ngọn lửa ấy, mà trong nhiều trường hợp đau đớn, tôi đã có thể cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Chính nhờ ngọn lửa ấy mà, trong nhiều trường hợp bị khổ nhục, tôi đã có thể cầu xin với Chúa Cha, như Chúa Giêsu xưa: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 22,34). Chính nhờ ngọn lửa ấy mà, trong nhiều trường hợp cô đơn khủng khiếp, tôi đã có thể cầu nguyện như Chúa Giêsu xưa: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Chính nhờ ngọn lửa ấy mà tôi xác tín về vai trò của tình yêu là phải đào tạo. Yêu thương là cộng tác vào việc đào tạo. Được yêu là được tham gia vào việc đào tạo. Tất nhiên đào tạo là để nên người tốt theo thánh ý Chúa. Đào tạo như thế là cả một công trình. Công trình đó rất khó khan, không thể thực hiện được trọn vẹn, nếu thiếu ơn Chúa giúp. Cũng chính nhờ ngọn lửa ấy mà, hằng ngày hằng đêm, tôi luôn tha thiết cầu xin với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con yếu hèn tội lỗi”. Vâng, tôi rất yếu hèn tội lỗi, rất cần được Chúa xót thương. Tôi tin Chúa xót thương tôi. Tôi xin kết luận như thế với tất cả tấm lòng tạ ơn và phó thác. Long Xuyên, ngày 24 tháng 4 năm 2014
Một triết gia xưa đã nói: “Người đối với người thật chó sói’’. Tư tưởng đó còn được diễn tả tệ hơn nơi một triết gia hiện đại: “ Địa ngục chính là những kẻ khác’’.
Theo tính tự nhiên có lúc tôi cũng chủ trương như thế. Đúng lắm, kẻ khác chỉ là chó sói rình rập cắn tôi. Họ chỉ là địa ngục làm khổ tôi.
Nhưng nghĩ lại, tôi thấy nói như vậy là quá đáng. Tôi không chối rằng thực sự bao người vô tình hay hữu ý làm khổ tôi. Nhưng không phải vì thế mà tôi được quyền xét đoán và kết án họ.
Các sách thần học luân lý dạy tôi rằng: chỉ trong những trường hợp tôi đủ ba điều kiện sau đây mới được xét đoán:
• Khi có quyền xét đoán.
• Khi biết rành mạch việc phải xét đoán.
• Khi hoàn toàn sạch mọi thiên kiến.
Nhưng mấy khi tôi có đủ ba điều kiện ấy cùng một lượt.
Ngoài những trường hợp hiếm hoi do chức vụ đòi hỏi, Chúa cấm tôi xét đoán và kết án bất cứ ai. “Các con đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét. Các con đừng kết án để khỏi bị kết án’’ (Mt 7, 1)
Thực Chúa khôn ngoan vô cùng. Ngài cấm tôi điều đó vì Ngài thương tôi. Ngài quá biết những xét đoán dông dài thường phát xuất bởi những nguyên nhân xấu và hay dẫn tới những kết quả xấu.
Nguyên nhân xấu thứ nhất là lòng xấu. Về điểm này Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra một nhận xét táo bạo. Ngài nói: “Người nào hay xét đoán xấu cho người khác tội gì thường là dấu chính người đoán xét có khuynh hướng ngầm nghiêng ngả rất mạnh về tội đó’’. Nhận xét tâm lý này làm tôi sợ quá. Thì ra, khi tôi nghĩ cho một điều xấu nào thì chắc chắn người đó đã có điều xấu ấy, nhưng hầu chắc chính tôi lại có tính ham điều xấu ấy. Sự tôi xét đoán đã vô tình cáo tôi. Mà thực không, vì tư tưởng con người thường là sắc thái của khuynh hướng con người.
Nguyên nhân xấu thứ hai là thiếu lòng mến Chúa. Lòng người đạo đức thánh thiện thường đơn sơ và bao dung. Họ chỉ biết mình và biết Chúa. Họ không dám nghĩ xấu cho ai. Hơn nữa họ còn cắt nghĩa lành cho kẻ khác. Trong Phúc âm , hạng người hay xét đoán và hay kết án người khác không phải là ai khác ngoài Pharisiêu, mà Pharisiêu ai cũng biết là họ thế nào.
Nguyên nhân xấu thứ ba là tính kiêu ngạo. Xét đoán ai tức là đặt mình lên trên họ. Mà có ai đặt tôi lên chức đó đâu. Chính mình tôi đặt tôi lên. Và đâu có phải vì lý do bác ái. Thường chỉ vì kiêu ngạo muốn coi mình hơn kẻ khác.
Những xét đoán sinh bởi những nguyên nhân xấu không thể nào sinh được kết quả tốt.
Kết quả xấu thứ nhất là tôi dễ sai lầm. Mỗi người là một vũ trụ huyền bí. Ngay chính mình tôi mà tôi cũng chẳng rõ. Người khác cũng khó hiểu được tôi. Thế thì tại sao tôi lại tưởng tôi phán đoán đúng được người khác. Đến như tòa án với tất cả những phương pháp khoa học mà vẫn còn có thể lầm, phương chi tôi. Tốt, xấu con người tùy thuộc rất nhiều yếu tố. Thẩm định được chính xác là một điều quá khó. Phần vì trí khôn tôi nhỏ hẹp. Phần vì tôi dễ bị ảnh hưởng của thiên kiến, tính xấu, tình cảm, dư luận chi phối. Nên xét đoán người khác là một mạo hiểm nhiều khi vô ích, lại vừa bất công.
Kết quả xấu thứ hai là làm tổn thương sự bình an của tâm hồn tôi và tâm hồn kẻ khác. Thực tế, khi tôi nghĩ xấu cho ai, thì tất nhiên tôi cho họ là không tốt. Ý nghĩ đó sẽ gây trong tôi một tình cảm bất kính và bớt tín nhiệm đối với họ. Có thể tôi sẽ dễ khinh họ, coi rẻ họ, dè dặt với họ. Có một cái gì làm tôi xa họ. Thế rồi khi gặp họ hoặc là tôi sẽ có thái độ bất kính đối với họ đúng như lòng tôi bên trong vốn nghĩ, hoặc là tôi sẽ cố gắng tạo một thái độ giả dối bôi bác bề ngoài. Cả hai cách đó cùng làm tôi mất mát và cùng làm đau lòng cho kẻ bị tôi xét đoán.
Kết quả xấu thứ ba là làm cho tôi không biết rõ sự thật về tôi. Muốn biết rõ về mình thì phải vô tư, thận trọng và khiêm tốn. Nếu tôi quen xét đoán càn cho người khác thì đâu tôi có những đức tính đó. Không lo xét mình, mà cứ lo xét người khác, đó là một đặc điểm của Pharisiêu.
Kết quả xấu thứ bốn là tôi sẽ bị Chúa xét xử nghiêm ngặt. Có lần Chúa đã nói rõ những gì tôi làm cho người khác, thì Chúa kể như làm cho chính Chúa. Như thế, khi tôi xét xấu cho người khác, thì tôi lỗ chắc chắn rồi. Trái lại, nếu tôi không xét đoán ai thì tôi sẽ được lời to lớn. Chúa hứa chắc chắn rằng: “đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán’’. Chúa đã hứa thì Chúa sẽ giữ lời. Tôi biết tôi nhiều tội quá. Nhưng Chúa đã cho tôi một lối thoát. Tôi sẽ lợi dụng lối thoát đó.
Lạy Chúa, từ khi con không xét đoán ai, con thấy lòng con nhẹ nhàng thư thái. Con dễ biết mình và biết Chúa. Con dễ vui vẻ và yêu mến mọi người. Nhất là con thực sự an lòng như nắm chắc một sự bảo đảm vô giá. Vâng, con biết con chẳng trong sạch gì. Nhưng con tin vào lời Chúa hứa: “Con không xét đoán ai, thì Chúa cũng không xét đoán con’’. Lạy Chúa, xin giúp con giữ trọn điều con dốc lòng.
Tác giả Giám Mục GB. Bùi Tuần
Trong đạo, “chước cám dỗ” được hiểu là một sức mạnh xấu lôi cuốn con người vào tội lỗi. Cùng với việc cảnh báo về nguy cơ của các chước cám dỗ, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một việc quan trọng để đối phó, đó là cầu xin Cha trên trời thương ban ơn cho chúng ta, đừng để chúng ta sa vào chước cám dỗ. Hiện nay, các chước cám dỗ đang phát triển mạnh. Chúng hoạt động một cách tự do. Hiện diện của chúng là đều khắp trong đạo ngoài đời. Nhân Mùa Chay là thời gian sám hối, trở về với Chúa, chúng ta nên nhìn vào những chước cám dỗ đã và đang lôi kéo chúng ta xa rời Phúc Âm, để sa vào đàng tội, dẫn tới tình trạng mất linh hồn. Trước hết, chúng ta hãy xem các chước cám dỗ đến từ đâu? 1. Nguồn gốc các chước cám dỗ Nguồn gốc thứ nhất là Satan. Phúc Âm thánh Matthêu gọi “Satan là tên cám dỗ” (Mt 4,3). Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã bị quỷ dữ Satan cám dỗ. Nó hứa cho Người quyền lực kinh tế, quyền lực thần thiêng, quyền lực chính trị. Chỉ cần Người thực hiện vài việc rất nhỏ làm dấu vâng phục nó. Nhưng Chúa Giêsu đã thắng Satan (x. Mt 4,-111). Trước giờ chịu nạn, Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô về nguy cơ bị Satan lôi kéo vào đàng tội: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,31-32). Thánh Phêrô, với kinh nghiệm của mình, đã ví Satan như con sư tử. Nó cám dỗ cả bằng những phương tiện độc ác “Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Nguồn gốc thứ hai là dục vọng của riêng mỗi người. Thánh Giacôbê viết cho các tín hữu của Ngài: “Mỗi người có bị cám dỗ, thì do dục vọng của mình lôi cuốn” (Gc 1,14). Dục vọng nơi mỗi người là vô số những nghiêng chiều bất chính. Thánh Phaolô gọi dục vọng đó là tính xác thịt. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19). Nguồn gốc thứ ba là những thói đời. Thánh Phaolô khuyên giáo đoàn Rôma: “Anh em đừng rập theo thói đời này” (Rm 12,2). Một điều có sức cám dỗ mạnh của thói đời là sự khôn ngoan chối từ thập giá Đức Kitô. Đối với thánh Phaolô, sự khôn ngoan của thế gian không có sức cứu độ. Ngài cương quyết nhận lãnh sự khôn ngoan của Thần Khí được ban cho từ Đức Kitô trên thánh giá. “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,2). Hiện nay thói đời chính là tinh thần thế tục. Tinh thần này đang tràn vào Hội Thánh Việt Nam. Tác động của nó không phải là nhỏ trong nhiều lãnh vực tôn giáo. Nguồn gốc thứ bốn là những ngôn sứ giả. Thánh Gioan viết: “Đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1 Ga 4,2). Ngôn sứ giả là những người đứng trong hàng ngũ ngôn sứ, nhưng họ có những lời nói sai lầm, phán đoán sai lầm, chủ trương sai lầm, cái nhìn sai lầm. Những sai lầm đó được pha trộn vào đời sống ngôn sứ của họ. Để rồi những sai lầm của họ cũng khoác áo chân lý. Hậu quả là dần dần họ lôi cuốn người ta đi theo những sai lầm của họ. Thánh Gioan tông đồ gọi họ là những tên Phản-Kitô“chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta” (1 Ga 2,18-19). Ngay chính thời Chúa Giêsu, các ngôn sứ giả, các thầy dạy giả, các chứng nhân giả cũng đã kích động thành công quần chúng. Do họ mà quần chúng đổi lòng đổi dạ, trở nên những kẻ hò hét yêu cầu giết Chúa Giêsu. Chứng tỏ sức lôi cuốn của những người đạo đức giả không phải luôn luôn là yếu. Đến đây, chúng ta có thể thấy được các chước cám dỗ là một mặt trận rất phức tạp, rất tinh vi và rất mạnh. Để đối phó với mặt trận vô hình đó, chúng ta phải làm gì? Chúa Giêsu dạy chúng ta phải thực hiện những việc sau đây. 2. Những việc phải làm để đối phó với những chước cám dỗ Việc đạo đức, mà Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều nhất, để đối phó với các chước cám dỗ là việc cầu nguyện. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40). Người khuyên các môn đệ cầu nguyện. Chính Người cũng cầu nguyện. Cầu nguyện của Người là rất khiêm tốn, rất thiết tha, rất phó thác trong xao xuyến bồi hồi. Người quỳ gối, “sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Cầu nguyện như thế để khỏi sa chước cám dỗ được Chúa Giêsu thực hiện như một cuộc giao chiến quyết liệt với chính mình. Cùng với việc cầu nguyện, Chúa Giêsu hay nói đến một việc khác, đó là việc tỉnh thức. Cũng trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Tỉnh thức nói đây là không mê ngủ. Ngủ về thân xác và ngủ về tinh thần. Ngủ trong ý nghĩ chủ quan, chính là điều Chúa Giêsu thấy nơi thánh Phêrô lúc đó. Ý nghĩ chủ quan của thánh Phêrô lúc đó là rất tự đắc, vì Ngài tin vào sức mình. Ngài quả quyết với Chúa: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mc 14,31). Thực tế không như vậy. Chúa Giêsu thấy trước. Người cảnh báo Phêrô. Nhưng Phêrô vẫn chủ quan. Ngài như ngủ mê trong ý nghĩ chủ quan đó. Chính vì không tỉnh thức vâng lời Thầy, nên Phêrô đã sa chước cám dỗ một cách thê thảm. Việc đạo đức sau cùng, mà Chúa Giêsu dạy, để chống chước cám dỗ là ăn chay. Chúa Giêsu phán: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Việc ăn chay thường được hiểu là tự ý giảm bớt trong việc ăn uống và các thứ hưởng thụ được phép. Đi sâu hơn, ăn chay còn là dấn thân tham gia mầu nhiệm thập giá và chia sẻ những khổ đau của những kẻ khốn cùng. *** Trên đây là một phần quan trọng của những chân lý có sức cứu độ. Chúng ta đón nhận những chân lý cứu độ ấy với lòng cảm tạ Chúa. Nguy cơ lớn nhất là chúng ta, những kẻ rất yếu đuối, đang bị vô số chước cám dỗ lôi kéo vào đàng tà, thế mà chúng ta vẫn ung dung, không cho là nguy cơ. Nguy cơ đáng sợ nhất là, khi chúng ta đã sa vào chước cám dỗ rồi, mà vẫn tưởng chẳng có gì tai hại sẽ xảy ra cho mình về mặt phần rỗi. Những tưởng nghĩ như thế chính là những chước cám dỗ cực kỳ nguy hiểm. Sự mù quáng, sự cứng lòng và sự tự đắc chủ quan đang là những mối đe doạ thực sự trong Hội Thánh chúng ta. Coi thường những mối đe doạ ấy, chính là một chước cám dỗ tai hại chúng ta cần phải đề phòng. Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
Bình thường, tôi hay nhớ về Đức Cố Hồng y Thuận như một người bạn. Khi gặp thử thách, tôi hay nhớ về Ngài như một người thánh để học hỏi. Trong cảnh tối tăm, tôi hay tìm đến Ngài, như tìm đến một người gần gũi, để được đỡ nâng. Hôm nay, tôi viết đôi chút về Ngài. Như một bó hoa gửi tặng Ngài, dịp mừng thánh bổn mạng Ngài, Phanxicô Xaviê. Bó hoa gồm vài hương sắc tu đức mà tôi học được nơi Ngài. Ngài là một ngôi sao sáng và là một sứ điệp. 1. Yêu thương Đức Cố Hồng y Thuận có nhiều sức thu hút. Đối với tôi, sức thu hút mạnh nhất nơi Ngài là đức tính yêu thương. Ngài yêu thương bạn bè, trong đó có tôi. Yêu thương đó rất cụ thể, nhất là hết sức chân thành. Ngài yêu thương Quê hương Tổ quốc và Hội thánh Việt Nam. Yêu thương đó được thể hiện trên chặng đường dài. Ngài tâm sự với tôi về những khó khăn đủ thứ Ngài đã gặp trong phục vụ cho tình yêu. Xã hội có gây khó khăn. Nội bộ Hội thánh cũng không luôn dễ dàng. Tính nhân loại ở đâu cũng có. Ngay trong bản thân Ngài cũng không thiếu. Chúa giúp Ngài thắng vượt nhờ cố gắng phấn đấu. Phấn đấu nhất là bằng sự khiêm nhường nhịn nhục. Yêu thương của Đức Hồng y Thuận toả hương thơm khiêm nhường. Khiêm nhường kèm theo quảng đại. Không bao giờ Ngài đã nói lời hận thù đối với những tướng lãnh đã phản bội cậu Ngài là Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không bao giờ Ngài đã có phản ứng chống đối căm ghét đối với những người đã bắt bớ Ngài. Không bao giờ Ngài đã tỏ thái độ bất kính đối với những người trong Hội thánh đáng lẽ phải nâng đỡ Ngài tích cực hơn trong lúc Ngài bị giam cầm và thiếu nơi nương tựa. Khiêm nhường kèm theo nhẫn nại. Ngài cho tôi biết là suốt thời gian xa Việt Nam, Ngài vẫn giữ liên hệ tốt với Nhà nước Việt Nam. Những năm tháng cuối đời, Ngài muốn về thăm quê hương Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã tỏ ý chấp thuận trên nguyên tắc. Nhưng cần chuẩn bị kỹ, để chuyến về thăm quê đạt được nhiều hiệu quả tốt nhất. Tiếc là ý định chưa thành, thì Ngài đã qua đời. Tuy nhiên, Ngài vẫn luôn là con người hoà giải, đầy yêu thương quảng đại khiêm tốn. Có lẽ cũng nhờ vậy, mà giữa Nhà nước và Toà thánh đã có những bước gần lại, mở ra một trang sử mới. Nếu muốn tìm nguồn gốc của tình yêu thương khiêm nhường nơi Đức Hồng y Thuận, thì không khó. Nguồn gốc đó là tình mến tin của Ngài đối với Chúa. Ngài có Chúa trong mình Ngài. Chúa trong mình Ngài là Chúa tình yêu. Chúa chia sẻ sự sống của Chúa cho Ngài. Nên Ngài yêu thương người khác như Chúa yêu thương. Quảng đại khiêm tốn mà hồn nhiên nhẹ nhàng. 2. Đau khổ Đức Hồng y Thuận đã có nhiều vinh quang. Nhưng Ngài cũng đã nếm nhiều đau khổ. Hỏi về đau khổ thì Ngài mới trả lời. Những gì Ngài nói về đau khổ của Ngài không có tính cách kể lể than vãn. Đôi khi tôi có cảm tưởng là Ngài kể những đau đớn của Ngài, như một chuyện vui, như một chuyện bình thường. Cao thượng là ở đó. Đau khổ của Ngài tất nhiên là những bệnh tật, những xỉ nhục, những thiếu thốn Ngài phải chịu. Nhưng đau khổ của Ngài còn là những tội lỗi vô vàn xung quanh. Ngài rất có kinh nghiệm về sự hiệp thông hiệp nhất trong Hội thánh Việt Nam. Có lần Ngài nói với tôi: Một đống đá to, hòn nọ sát hòn kia, nhưng không dính vào nhau. Đôi khi hiệp thông hiệp nhất ở một vài nơi cũng như vậy. Cảnh đó làm Ngài đau khổ. Đau khổ do nội bộ thường là âm thầm, nhưng xót xa cay đắng. Tuy nhiên Ngài không vì thế mà bớt yêu thương. Ngài dâng tất cả thân Ngài và đời Ngài như một của lễ, hiệp với của lễ Chúa Giêsu trên thánh giá, để cứu độ các linh hồn. Một hôm, tôi đang làm việc trong phòng riêng ở Long Xuyên, thì nhận được điện thoại của Ngài. Ngài nói từ Rôma. Ngài cho biết là lịch sử đời Ngài không còn thuộc về Ngài. Vì thế, Ngài cũng phải nói đôi chút về những đau khổ của Ngài, vì vâng lời mà thôi. Tôi nghĩ những gì Ngài không nói còn nhiều hơn những gì Ngài đã nói. Giờ đây, khi viết về Ngài, tôi mặc chiếc áo ấm mà Ngài đã mặc. Tôi cảm thấy được bình an. Tôi như được Ngài an ủi đỡ nâng. Tôi xác tín: Chúa Giêsu đã cứu chuộc tôi và nhân loại nhờ mầu nhiệm thánh giá, thì tôi cũng phải sống mầu nhiệm thánh giá một cách thiết thực, như Đức Hồng y, bạn thân thiết của tôi. 3. Hy vọng Hy vọng thường xuyên nhất của Đức Cố Hồng y Thuận là một Hội thánh Việt Nam phát triển trong một Tổ quốc Việt Nam phát triển. Được gần gũi Ngài, tôi hiểu sự phát triển của Hội Thánh Việt Nam là phát triển trên nền tảng Phúc Âm. Phát triển từ những việc tốt lành nhỏ, từ những nhóm đạo đức nhỏ. Phát triển cần có những khởi đầu thực tốt. Thực tốt nghĩa là không phải đẹp ở cái vỏ bề ngoài, mà tốt ở thực chất bên trong và đàng sau các hiện tượng. Ngài khuyên tôi phải cảnh giác, đừng bị ru ngủ bởi những lạc quan ảo. Để phát triển trong Hội thánh Việt Nam, Đức Cố Hồng y Thuận hay đề cập đến vấn đề đào tạo. Ngài chú ý cách riêng đến việc đào tạo giáo dân. Ngài mong ước có một đội ngũ giáo dân trí thức có khả năng phục vụ Đất nước. Hy vọng của Ngài hướng về giáo dân là rất rõ, rất mạnh, rất cởi mở. Với tâm tình yêu mến kính trọng, Ngài hay nhắc đến những giáo dân trí thức đã và đang giữ những địa vị quan trọng trong chính trị, khoa học, văn học, kinh tế tại các nước trên thế giới. Ngài hy vọng Hội thánh Việt Nam sẽ cống hiến cho Tổ quốc Việt Nam những giáo dân tốt, có nhiều khả năng phục vụ trong bất cứ lãnh vực nào. Phục vụ như một đồng hành, như một cộng tác, như một gắn bó. Hy vọng sau cùng của Ngài là được ở bên Chúa đời đời. Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nay đang ở trên thiên đàng. Đối với tôi, Ngài đã là thánh. Tôi cảm thấy Ngài gần gũi hơn xưa. Vì thế, tôi hay gọi Ngài như đã gọi hồi xưa. Chúng tôi cùng nhau khiêm tốn tạ ơn Chúa giàu tình yêu thương xót. + Giám mục Gioan B. Bùi Tuần Nguồn: tgphanoi
Có những con đường tự hình thành. Nó không được phát họa theo họa đồ, một chương trình. Nó không được kiến thiết do một kỷ sư, một tổ chức. Nó hình thành dần dần. Ban đầu một số người đi theo lối đó. Rồi nhiều người cũng đi theo lối đó. Đi nhiều thành đường. Hồi xưa, phần lớn đường xá được hình thành theo cách đó. Bây giờ, những đường như thế vẫn còn thấy ở các xóm ngõ, nhất là tại miền quê. Khi xã hội tiến triễn và nhu cầu liên lạc gia tăng, nhiều đường mòn được xã hội chỉnh trang,mở rộng và đặt vào một hệ thống. Thế rồi hệ thống đường sá trở thành một thứ luật cho sự di chuyển. Lịch sự cũng giống như đường đi. Nó thành hình dần dần. Ban đầu còn thô sơ, sau trở thành những hình thức tinh tế tùy theo tiến triển của văn minh. Nó là những thái độ khởi sự từ những hành vi tự phát và hồn nhiên. Dần dần những hành vi đó được tinh luyện và phổ biến. Rồi trở thành tục lệ. Tục lệ cũng có giá trị như một thứ luật. Lịch sự hiện nay là một hệ thống những hình thức được xã hội thỏa thuận chấp nhận như những con đường liên lạc giữa người với người, tùy theo tính chất những tương quan. Vì lịch sự là những hình thức đã được xã hội thỏa thuận, nên tôi tự buộc mình giữ những hình thức đó. Những hình thức đó, là những con đường liên lạc. Nếu không theo đường đó, tôi sẽ khó tới được tha nhân. Thí dụ: Chào hỏi lễ phép là một hình thức, nhưng nếu tôi muốn thoát mọi hình thức lịch sự để không chịu chào người trên của tôi, hay chào một cách xấc xược, thì giữa tôi và vị đó ít còn đường liên lạc hay chỉ có liên lạc mà không liên kết. Vì lịch sự là những hình thức kính trọng bề ngoài diễn tả một thái độ bên trong, nên tôi không thể khước từ những hình thức đó. Con người có hồn, nhưng cũng có xác. Con người là con xã hội. Bên trong không đủ phải có bên ngoài. Nội tâm của tôi ai biết được. Kính trọng, biết ơn, yêu mến là những tâm tình phải chứng minh. Chứng minh ít nhất cũng bằng một thái độ đọc được ý nghĩa. Vì lịch sự là đặc điểm của con người có giáo dục, nên tôi không coi thường. Không ai bảo cái máy vô lễ. Không ai trách con vật thất lễ, vì chúng không có ý thức, không có ý chí tự do để lựa chọn thái độ. Còn tôi là người. Gíao dục đưa tôi từ chỗ là người đến chỗ làm người và nên người. Nếu tôi vô lễ, người ta có quyền cho tôi thiếu giáo dục. Đó không phải là một lời khen. Vì lịch sự là bông hoa thơm đẹp của giống người, nên tôi không thiếu xót. Bông hồng cài áo làm đẹp cho người mặc. Nhưng tôi phải mua, phải kiếm mới có. Còn bông hoa lịch sự tôi có thể tự làm lấy ngay tại mình tôi. Một cử chỉ nhã nhặn, một lời chào lịch thiệp, một câu cảm ơn chân thành, một thái độ trọng kính, một cách đi đứng ăn nói đoan trang. Tất cả đều là những bông hoa làm đẹp cho người có nó. Không đẹp vì nhan sắc, không đẹp vì áo quần, nhưng đẹp vì lịch sự, thì vẫn là một thứ đẹp đáng mến đáng kính. Có sắc đẹp nhưng không có lịch sự, thì chỉ là một thứ đẹp dễ coi, nhưng không dễ kính. Khi tôi giữ lịch sự, tôi phải chân thành. Ngoài sao, trong vậy. Nhưng nếu trường hợp bên trong tôi không ưa thích, tôi nên có thái độ trong sao ngoài vậy không? Có lúc tôi muốn lựa chọn thái độ đó, vì tôi cho thế là thành thật. Nhưng nghĩ lại tôi thấy không được. Lịch sự cũng như các lễ nghi. Nó gồm những dấu bề ngoài. Vấn đề đặt ra cho tôi chỉ là có phải giữ lịch sự và những dấu đó không. Một khi tôi thấy phải giữ, thì tôi phải điều chỉnh nội tâm của tôi sao cho ăn hợp với các dấu bề ngoài đó. Sự thành thật tôi phải có ở đây là làm sao thái độ bên trong tâm hồn tôi cũng đẹp như thái độ lịch sự bên ngoài. Lịch sự phải thành thật. Nhưng thành thật cũng phải lịch sự. Khi tôi giữ lịch sự tôi rất cần tinh thần bác ái. Lịch sự là một cách đối xử dựa trên sự tôn trọng và yêu mến tha nhân. Sẽ không có lịch sự, nếu không biết dể ý làm vui lòng người khác. Nhiều lúc việc đó đồi hỏi phải tự chế, hy sinh. Lịch sự là một thứ kỷ luật. Lịch sự là một sự cho đi. Có tinh thần bác ái, lịch sự sẽ trở thành một khía cạnh của nhân đức thương yêu. Đừng cho lịch sự là không quan trọng. Có những người đáng lẽ đã thành công, nếu biết ăn ở lịch sự hơn chút nữa. Có những người tài thông giỏi, lương thiện, nhưng chẳng được mấy ai ưa, chỉ vì thiếu lịch sự. Có những thất bại lớn chỉ vì một thất lễ nhỏ. Được cảm tình, hay bị ác cảm, một phần cũng do lịch sự, hay không lịch sự. Càng lớn càng cần lịch sự. Nhưng không mấy ai dám giảng lịch sự cho người lớn. Hình như đó là một thái độ lịch sự. Nhưng đó cũng là một đợi chờ tự giác. Tôi có hay tự xét và tự sửa không? Trích: Nói với chính mình - GB. Bùi Tuần
Tôi thích chó. Lý do là vì chó rất biết ơn. Biết ơn của chó khác với biết ơn của người, nhưng không thiếu vẻ đẹp. Chỉ cho chó một miếng xương, nó cũng tỏ ra biết ơn. Nó nhìn trìu mến ngoe nguẩy đuôi, quấn quýt người cho. Càng được cho, nó càng biết ơn. Nó tự động tự bảo vệ chủ, nhà cửa và đồ đạc của chủ. Nhiều người không biết ơn bằng chó. Mười người cùi được Chúa chữa khỏi nhưng chỉ có một người quay lại cảm ơn. Tỷ lệ một phần mười! Mà người đó lại là người ngoại! Cả ngàn người đã được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa phải vác Thánh giá, chỉ có một người bằng lòng vác đỡ. Người đó cũng lại là người ngoại! Cả một dân tộc đã chịu ơn Chúa, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người dám công khai lên tiếng xưng - tụng là người vô tội. Người đó lại là người ăn trộm! Đời là thế! Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Đếm người biết ơn dễ hơn đếm người vô ơn, vì số này quá lớn. Có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn. Có đủ thứ người vô ơn. Làm ơn có thể không đòi trả nghĩa. Nhưng đã chịu ơn là phải biết ơn. Cho đi có thể không mong nhận lại. Nhưng đã nhận là có bổn phận phải trả đáp. Trả đáp trong biết ơn không có nghĩa là một sự bồi hoàn đổi chác, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị vật chất và tinh thần của ơn nhận được. Thí dụ: Có người cho tôi một chiếc áo ấm. Chiếc áo giá 10.000 đồng. Mười ngàn là giá trị vật chất của tặng vật. Nhưng không phải chỉ có thế. Chiếc áo đó biểu hiện một tình thương và mang ý nghĩa của một sự cho đi phần nào chính mình người tặng, nên tặng vật đã trở thành một giá trị tinh thần. Chiếc áo đó, người tặng đã có thể cho người khác, nhưng họ đã tặng tôi, như một sự lựa chọn tự do trong trăm ngàn. Sự lựa chọn đó lại là một giá trị thiêng liêng cao quý khác đắp thêm vào hai giá trị có sẵn. Nhận thức ba giá trị đó, để rồi mình liên hệ với người làm ơn. Liên hệ đó sinh ra bổn phận nơi người chịu ơn. Bổn phận nơi người chịu ơn lại sinh ra quyền lợi nơi người lam ơn. Kẻ chịu ơn có bổn phận phải biết ơn. Người làm ơn có quyền được biết ơn. Bổn phận biết ơn phải tương xứng với các giá trị của ơn nhận được. Nếu chẳng thực hiện được tương xứng, thì ít ra cũng có một mức tối thiểu nào. Hoặc một lời cảm ơn, hoặc một cử chỉ chứng tỏ mình hiểu biết. Làm thế không phải vì người làm ơn cần, nhưng vì chính người chịu ơn cần. Cần biết ơn để mình xứng đáng là người hơn, để mình xứng đáng phần nào với ơn nhận được, để mình xứng đáng được lãnh nhận thêm. Nếu tôi tưởng mình không nhận ơn ai, thì tôi lầm lớn. Vì đời tôi nằm trong những liên đới chập chùng. Tôi chẳng cho đi được bao nhiêu nhưng đã nhận được quá nhiều.Thử một ngày ngưng nhận được các dây liên lạc nâng đỡ, cộng tác yêu thương, giúp đỡ, cung cấp, tôi sẽ lập tức trở thành bơ vơ, nghèo nàn, khốn đốn. Nếu tôi tưởng tôi không mắc nợ ai, thì tôi lầm lớn, con người tôi, từ vật chất đến tinh thần, đã, đang và sẽ được xây dựng bằng biết bao công ơn của người khác. Suốt dọc đời, tôi đều ghi dấu của biết bao bóng người đã ghé lại. Nếu tôi tưởng tôi đã trả ơn đối với mọi người làm ơn cho tôi, thì tôi lầm lớn. Tiền bạc, đồ vật có thể trả, nhưng ân nghĩa và tình thương làm sao trả đúng được. Những mồ hôi nước mắt và những tận tâm của bao người đã làm cho đời tôi đẹp là những gì thiêng liêng cao quý. Chưa chắc tôi đã hiểu rõ được giá trị của những ơn đó, chứ đừng nói đến việc trả đền cho đúng. Lạy Chúa, xin cho con một tâm hồn biết ơn. Xin xuống phúc lành cho tất cả những ai đã làm ơn cho con. Trích: Nói với chính mình - GB. Bùi Tuần Nguồn: dunglac.org
Im lặng là quê hương của kẻ mạnh. Vì trong im lặng mới phát sinh được những tư tưởng mạnh, nhờ im lặng mới nung nấu được những động lực mạnh, và để im lặng thường phải có ý chí mạnh. Im lặng là vàng. Tuy nhiên không phải luôn luôn nên im lặng. Nhiều khi phải nói. Nói đâu phải xấu. Xấu tốt là do nội dung, ý hướng và cung cách. Nội dung lời nói phải là sự thật. Đã nói phải nói sự thật. Nhưng không phải sự thật nào cũng nên nói. Gán cho người điều xấu không có, đó là vu khống. Tiết lộ hay phổ biến điều xấu người ta có, đó là nói hành. Gièm pha, thêm bớt, xuyên tạc, đó là những hình thức và mức độ khác nhau của vu khống và nói xấu: tất cả đều xấu. Ý hướng lời nói phải là sự thiện. Nói để thông tri. Nói để xây dựng. Nhưng có khi nói sự thật với chủ ý phô trương, có khi nói đạo đức với thêm quảng cáo chính mình, có khi chỉ trích sự tội kẻ khác với thâm ý hại họ và đề cao bản thân, có khi bênh vực chân lý với hậu ý bênh vực tự ái. Cung cách lời nói phải là lịch sự. Nói là truyền thông tư tưởng, nhưng cũng đã diễn tả chính mình. Có những kiểu nói cộc cằn, biểu lộ tâm hồn thiếu tế nhị. Có những giọng nói hách dịch, tố cáo một khuynh hướng kiêu căng.Có những lời nói cứng cỏi phơi bày một tính tình nghèo thiện cảm. Tất cả đều xấu. Lời nói là người. Có người càng nói nhiều, càng tỏ mình trống rỗng. Người ta dễ khen người ít nói. Chẳng mấy ai khen kẻ nói nhiều. Kẻ ít nói và kẻ nói nhiều, cả hai cùng đáng sợ. Nhưng hai cái sợ khác nhau. Sợ kẻ nói ít vì họ vẫn còn những gì mình nên dè dặt. Sợ kẻ nói nhiều vì họ dễ trở thành nguyên nhân phiền rầy. Nói nhiều chưa chắc đã làm nhiều. Làm nhiều nói ít thì hơn là nói nhiều làm ít. Nói hay, không tại hay nói. Thà nói ít mà tư tưởng phong phú rõ rệt, còn hơn là hay nói mà tư tưởng nghèo hèn luộm thuộm. Nói nhiều, khó tránh khỏi sai lỗi và dư thừa. Sai lỗi tất nhiên không tốt, mà dư thừa cũng chẳng là điều hay. Nói dai dẳng, nói hoài, nói không để ai nói, nói không cần ai nghe, đó là cách gây ác cảm rất thành công. Lời nói là một ký hiệu. Ký hiệu là dấu bề ngoài. Gọi là dấu bề ngoài, vì nó dùng để chỉ một sự bên trong. Không thấy được bên trong, nên phải dùng dấu bề ngoài. Dấu chỉ có thể mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa một ngôn từ thường được hình thành do một sáng kiến, một thói quen. Nó có thể biến đổi. Một ngôn từ khi đã dùng cho nhiều nghĩa khác nhau thì việc chọn lựa phải rất thận trọng. Vì tâm lý con người thường dễ liên tưởng từ nghĩa nọ sang nghĩa kia. Ví dụ đẹp và kêu như danh từ dấn thân, nhưng đến nay đã dùng cho quá nhiều nghĩa, từ tốt nhất, hay tới xấu nhất. Hiện tượng đó coi là một kinh nghiệm. Chọn lời mà nói. Chọn chữ mà dùng. Ăn phải nhai, nói phải nghĩ. Nói hợp với người nghe. Việc đó không dễ. Chắc không phải vô cớ mà thánh Giacôbê đã quả quyết: “Ai không lỗi trong lời nói, người đó là người hoàn toàn’’ (Giacôbê 3, 2). Thế mà có bao giờ tôi chịu khó xét mình về vấn đề nói năng không? Trích: Nói với chính mình - GB. Bùi Tuần Nguồn: dunglac.org
Đề tài chia sẻ hôm nay là: Năm Linh mục, suy nghĩ về Linh mục trước vấn đề tội lỗi. Nội dung chia sẻ gồm 3 phần: 1. Giúp con người bỏ đàng tội, đó là bổn phận quan trọng của Linh mục. 2. Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội. 3. Sám hối với việc bỏ đàng tội. 1/ Giúp con người bỏ đàng tội, đó là bổn phận quan trọng của Linh mục Tội lỗi là một thực tế đau buồn. Mọi tôn giáo đều nhắm mục đích giúp con người bỏ đàng tội. Riêng Kitô giáo, mục đích đó được thực hiện một cách đặc biệt. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, để cứu nhân loại khỏi tội. Trong chương trình cứu độ, Đức Kitô đã lập phép Bí tích Truyền Chức Thánh. Người trao cho Linh mục bổn phận cứu con người khỏi tội. Vì thế, món nợ của Linh mục đối với Chúa là phải làm hết sức mình để cứu đoàn chiên khỏi tội. Vinh quang của Linh mục là được chia sẻ vinh quang của Đức Mẹ và các thánh là những người đã cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu con người khỏi tội. Chúa phán với tiên tri Edêkiel: "Edêkiel, Ta đã đặt ngươi làm kẻ canh thức Israel. Nếu ngươi không khuyến cáo các người ác bỏ đàng tội, thì nó sẽ phải chết. Nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về máu nó đã đổ ra" (Ed 3,17-18). Thiết tưởng Chúa cũng nói tương tự với từng Linh mục như thế. Trong thánh lễ, Linh mục đọc lời truyền phép: "Đây là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội". Để nhiều người được tha tội, Đức Kitô đã đổ máu ra. Để con chiên được tha tội, Linh mục cũng phải tham gia vào máu cứu chuộc của Đức Kitô bằng những hy sinh đời mình. Có nghĩa là Linh mục có bổn phận cứu người ta khỏi tội, không phải chỉ bằng phép giải tội, mà còn bằng cuộc đời hy sinh của mình. 2/ Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội phải nhận là rất phức tạp. Chỉ xin nêu lên vắn tắt một số đặc điểm: a) Hiện nay, phong trào hưởng thụ tạo ra khát vọng tìm khoái lạc. Nó dần dần xúi người ta nghĩ rằng: Cái gì đem lại khoái lạc đều được phép dễ dàng. Không cần xét cái đó là hợp đạo đức hay không. b) Hiện nay, phong trào tự mãn tạo ra một thái độ lẩn tránh sự biết mình, dù mình đầy tội. Thánh Gioan viết: "Ánh sáng đã đến trong thế gian. Nhưng người ta ưa thích tội lỗi hơn ánh sáng, bởi vì các việc của họ đều xấu. Ai làm sự xấu thì ghét ánh sáng, và không đến từ ánh sáng, vì sợ các việc của mình bị lộ ra" (Ga 3,19-20). c) Hiện nay, phong trào cá nhân chủ nghĩa dễ tạo nên một thái độ tự bảo vệ với bất cứ giá nào. Do đó, người ta thích đổ lỗi cho người khác hơn là khiêm tốn nhận lỗi về mình. d) Hiện nay, phong trào tục hoá tạo nên một tâm thức mới về tội, đó là tội chỉ là việc xúc phạm đến người khác, chứ không có quy chiếu nào về Chúa. Do đó, xưa, tội được hiểu là cái gì làm dơ bẩn tâm hồn trước Chúa, cần phải xin Chúa tha. Còn nay, tội được hiểu là cái gì làm hư mối tương quan với người khác, nên cần phải hoà giải. e) Hiện nay, phong trào trốn tránh trách nhiệm khá mạnh. Nó tạo ra một tâm thức sai: Nghĩa là tội được tha, thế là xong. Còn việc đền tội và sửa lại những hậu quả của tội, thì không lo tới. f) Hiện nay, phong trào mục đích biện minh cho phương tiện đang dâng cao. Để phục vụ mục đích tốt, người ta tưởng được dùng bất cứ phương tiện nào và với bất cứ cách nào. Dù cách đó, phương tiện đó là không đúng chỗ. Nhất là tiền bạc. g) Hiện nay, có nhiều yếu tố tinh vi trói buộc con người vào ngục tù tội lỗi. Tự mình, con người không thể cởi gở được. Đến đây, chúng ta có thể nói: Người ta rất khó hiểu được mọi nguyên nhân dẫn đến tội, cũng như mọi hậu quả do tội gây nên. Những chuyển biến lịch sử cho thấy có sự giảm bớt một số tội dữ dằn, nhưng lại nảy nở một số tội mới tinh vi. Vì thế, có một điều có thể nói, mà không sợ lầm, đó là tội lỗi vẫn tràn lan. Trước tình hình như thế, Linh mục giúp con người bỏ đàng tội bằng cách nào? 3/ Bỏ đàng tội thì phải thế nào? Xin dựa trên lời Kinh Thánh. "Hãy trở về với Ta với tất cả tấm lòng, trong sự chay tịnh, khóc lóc kêu than của tang tóc. Hãy xé lòng mình ra, chứ đừng xé áo..." (Ge 2,12-14). "Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Ta sẽ đặt vào các ngươi một tinh thần mới..." (Ed 36,26-30). Xé lòng mình là đau đớn hối hận ăn năn. Trái tim mới, tinh thần mới là sự đổi mới tâm hồn. Quyết tâm đi vào đường hẹp, dấn thân cho việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. - Không còn vô cảm trước đau khổ của người khác như thái độ thầy tư tế trước nạn nhân bị cướp đánh nằm ở vệ đường. Nhưng nhạy cảm trước nỗi đau của người khác. - Không còn tự mãn như người Pharisêu cầu nguyện trước bàn thờ. Nhưng khiêm tốn như người thu thuế đứng cuối nhà thờ. - Không còn xa Chúa như người con phung phá, nhưng quyết tâm trở về bên Chúa, để đón nhận ơn tha thứ. Để kết, tôi xin phép nói lên hai điều xác tín của tôi. Một là để đối phó với vấn đề tội, chúng ta phải tuyệt đối tin vào ơn Chúa, tin vào lòng thương xót Chúa. Hai là, để được Chúa thương tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ cho người khác, phải biết xót thương người khác. ĐGM GB Bùi Tuần
Hiện giờ, tôi đang sống những ngày đầu của tháng Năm năm 2014. Bầu khí hiện giờ là rất tưng bừng. Cả nước đều mừng. Tôi vui niềm vui chung và cũng với niềm vui riêng. Riêng ở chỗ tôi kỷ niệm 39 năm thụ phong Giám mục. 2. Được thụ phong đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975 theo sắc chỉ của Toà Thánh, tôi mang trên mình một nhiệm vụ rất quan trọng, đó là giúp cho giáo phận được sống đức tin một cách vững vàng trong tình hình mới. Tình hình mới có nhiều vấn đề mới, nhiều thách đố mới, nhiều khó khăn mới. Hôm nay đã được 39 năm, đức tin ở đây không những vững vàng, mà còn phát triển tốt đẹp. 3. Nhiều người hỏi tôi: được như hôm nay là nhờ đâu? Tôi xin chia sẻ vắn tắt và chân thành. Đây là ơn đặc biệt Chúa ban. Rất nhiều người đã cộng tác vào ơn đó. Tôi chỉ góp phần rất nhỏ. Ở đây tôi xin tâm sư đơn sơ về phần đóng góp mọn hèn đó. 4. Ngay từ những giây phút đầu tiên của những ngày đầu tiên của tháng Năm năm 1975, lúc tình hình đang diễn tiến phức tạp, và mọi người ở đây đang rất hoang mang sợ hãi, tôi đã nhìn Đức Mẹ Maria, như một trẻ thơ nhìn mẹ mình. Tôi nói đơn sơ với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, xin Mẹ ở bên con. Con tin Mẹ thương con”. Rồi lúc nào, tôi cũng cầm chuỗi tràng hạt Mân côi. Hễ rảnh là đọc kinh Kính Mừng. 5. Thực sự, Đức Mẹ luôn ở bên tôi. Lúc nào Đức Mẹ cũng nhắc cho tôi một lời vắn tắt: “Con hãy bước theo Đức Kitô”. Vâng lời Mẹ, tôi nhìn Đức Kitô, tôi ngắm suy cuộc sống Đức Kitô, tôi cầu nguyện với Đức Kitô. Nhờ vậy trái tim tôi được đổi mới. 6. Việc đổi mới được thực hiện mỗi ngày. Càng ngày tôi càng bước theo Chúa Giêsu trên đường yêu thương. Yêu thương như Người yêu thương, để là dấu chỉ đích thực người môn đệ của Người (x. Ga 13,15). Yêu thương trong Người, là Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta mến Người (x. Ga 4,9). Yêu thương nhờ Người, là Đấng đã phó mạng sống mình vì chúng ta (x. Ga 2,20). Yêu thương như vậy là sống hoà giải nhờ máu của thập giá Đức Kitô, Đấng đã là của lễ đền tội cho chúng ta (x. 1Ga 2,2). 7. Bước theo Đức Kitô như vậy đã khởi đi từ đời sống nội tâm dạt dào yêu thương và bình an. Tuy nhiên, phải nói thực là những ngày đầu của tháng Năm năm 1975 đối với tôi là một thời gian phải lo âu. Tôi thấy từng đoàn người từ tỉnh trốn về vùng quê. Tôi thấy vô số người từ đất liền chạy ra biển để vượt biên. Lo âu của tôi là rất lớn. Tôi cảm thấy mình quá bé nhỏ. Vâng lời Đức Mẹ, tôi quan tâm nhiều hơn đến đời sống nội tâm, theo gương Đức Mẹ. Đời sống nội tâm của tôi lúc ấy được tăng cường một cách quyết liệt nhờ Phúc Âm và kinh Mân côi. Qua Phúc Âm và kinh Mân Côi, tôi hiểu đời sống nội tâm phải rất mạnh về sự dứt lìa khỏi bất cứ những gì cản trở cho sự nên giống Đức Kitô. Tình hình lúc đó giúp tôi dứt lìa một cách thuận lợi. Tôi dứt lìa tất cả, chỉ tìm Chúa mà thôi. 8. Thêm vào đó, đời sống nội tâm của tôi cũng được hỗ trợ bởi Công đồng Vatican II. Qua Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”, Công đồng dạy tôi bước theo Đức Kitô là phải phục vụ con người toàn thể, cả xác cả hồn, chứ không phải chỉ phần hồn mà thôi. Một đặc điểm trong phục vụ này là Hội Thánh không phải chỉ cho đi, mang tới, mà còn phải biết tiếp đón, nhận lấy những gì tốt, mà thế gian có do Chúa ban cho. Hội Thánh nên nhấn mạnh đến những gì có thể liên kết nhân loại hơn là những gì gây chia rẽ nhân loại. 9. Một đời sống nội tâm như thế là một mở ra. Nó có một cái nhìn mới. Nhìn mọi người với đôi mắt của Đức Kitô, Đấng “hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), Đấng đến “không để kết án, nhưng để cứu độ” (Mt 9,13). Một đời sống nội tâm như thế đã giúp tôi phục vụ Quê Hương Việt Nam với niềm vui và hy vọng. 10. Hôm nay, nhìn lại chặng đường 39 năm sau biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, tôi vui mừng nhận thấy sự bước theo Đức Kitô theo gương Đức Mẹ đang đem lại cho tôi hạnh phúc được thuộc về Chúa và đang đi về với Chúa, trên con đường yêu thương phục vụ. Hạnh phúc này đang làm cho tôi trở nên bé nhỏ. Bé nhỏ, vì nhận thấy Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã làm bao nhiêu việc lạ lùng quá sức hiểu biết của tôi. Người đã đổi sự dữ thành sự lành. Người đã làm cho tôi tìm được sự lành ngay trong sự dữ. Tôi cũng cảm thấy mình chẳng đáng gì, so với bao người tốt đã góp phần vào ơn Chúa trong chặng đường lịch sử vừa qua. Tôi càng nhận thấy mình bé nhỏ, vì nhận thức mình đã có nhiều yếu đuối, nhưng đứng vững được là nhờ Hội Thánh của Người. 11. Hôm nay, nhìn về tháng Năm 39 năm về trước, tôi thấy hạnh phúc tôi hưởng hôm nay phải rất tỉnh thức, bởi vì hoà bình không phải chỉ là không có chiến tranh, mà còn phải xây dựng trên đạo đức. Thế mà đạo đức xem ra đang xuống dốc. Nơi nhiều môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam hôm nay, đời sống nội tâm, bước theo Đức Kitô, sống dứt lìa không còn là giá trị ưu tiên. Lịch sử cho thấy, cái tốt truyền thống trong đạo ngoài đời có thể biến chất nếu không tỉnh thức phấn đấu chống các phong trào xấu do các tà thần khơi dậy trong các tâm hồn. Vì thế, hôm nay nhìn về tháng Năm năm 1975, tôi thấy một bài học quý giá cho rất nhiều người đã được viết ra bằng bao hy sinh. Nhưng mới chỉ sau 39 năm, bài học đó xem ra đã bắt đầu nhường chỗ cho những hào hứng mới về hưởng thụ, tục hoá, tìm hư danh do trào lưu vật chất chủ động. Tôi thực sự lo ngại. Xin hãy tỉnh thức. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi. Long Xuyên, ngày 02 tháng 5 năm 2014.
Tôi đang sống một tình trạng xuống dốc thê thảm. Sức khoẻ thể xác xuống dốc toàn diện. Chỗ nào cũng đau. Sức khoẻ tinh thần cũng giảm sút. Tôi cảm thấy mình yếu đuối mệt mỏi. Tôi xin chấp nhận. Nhưng điều tôi sợ nhất là xuống dốc về đạo đức. Tôi tha thiết muốn đạo đức nơi tôi không xuống dốc. Tôi cầu xin Chúa giúp tôi nên dựa vào những dấu chỉ nào để biết được điều đó, ít là phần nào. 2. Chúa thương soi sáng cho tôi bằng cách đưa lòng trí tôi nhớ lại sự việc đã xảy ra ở hồ Genêxarét xưa. “Giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon: ‘Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá’. Ông Simon đáp: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới’. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: ‘Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi’. Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ, Đức Giêsu bảo ông Simon đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Chúa Giêsu” (Lc 5,4-11). 3. Suy gẫm và cầu nguyện với đoạn Phúc Âm trên đây, tôi được Chúa cho thấy mấy điều sau đây nên được coi là dấu chỉ của lòng đạo đức nơi người môn đệ Chúa. Dấu chỉ thứ nhất là thánh Phêrô biết kinh ngạc nhận ra việc lạ lùng Chúa làm cho mình. Dấu chỉ thứ hai là thánh Phêrô biết nhận ra mình tội lỗi, bất xứng, khó nghèo. Dấu chỉ thứ ba là thánh Phêrô bỏ mọi sự đi theo Chúa, vì mến Chúa và vì thương muốn cứu con người. 4. Trong ba dấu chỉ trên đây, dấu chỉ khiêm tốn khó nghèo nên được nhấn mạnh. Như Đức Mẹ xưa đã nhận biết mình chỉ là “nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48). Đó là dấu chỉ đáng tin về đạo đức. Không những thánh Phêrô nhận biết mình hèn mọn, bất xứng và nói ra sự nhận biết đó bằng miệng, mà còn diễn tả ra bằng thái độ, đó là Ngài sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu trước mặt các anh em. Chính lúc Ngài nói: “Xin Chúa tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” thì lại là lúc Chúa ngự một cách thiêng liêng vào tâm hồn Ngài. Nhờ vậy, Ngài đã dư sức bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, vì mến Chúa và cứu con người một cách chân thành và tuyệt đối. 5. Với ba dấu chỉ trên đây, tôi nhìn vào các môn đệ Chúa xung quanh đây, đặc biệt là nhìn vào chính bản thân tôi, để biết tình hình đạo đức có thực sự là đáng khả quan không. Thú thực là giữa cuộc sống ồn ào, tôi không nhìn thấy rõ. Nhưng khi Chúa đưa tôi vào một thứ sa mạc nội tâm, chỉ còn Chúa và tôi, tôi được biết phần nào. Kết quả là tôi thấy phải sám hối rất nhiều. Tôi rất cần được cứu. Đấng cứu tôi là Chúa Giêsu. 6. Nhưng để Chúa Giêsu cứu tôi, thì tôi cần gặp Người. Mà muốn gặp được Người, thì tôi cần “tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,28). Bởi vì Người đến lúc nào, cách nào, dưới hình thức nào, thì tuỳ ý Người, chứ không theo chương trình và ý muốn của tôi. Trong tỉnh thức và cầu nguyện, đều phải có sự khao khát gặp Chúa và vâng ý Chúa, với sự khó nghèo nội tâm. Khó nghèo nội tâm là khiêm nhường đừng phô trương thành tích đạo đức. 7. Dụ ngôn người Pharisêu kể với Chúa những con số thành tích và tự hào mình đạo đức hơn người thu thuế (x. Lc 18,11-12) dạy tôi phải rất khiêm tốn và khó nghèo trong các thứ lễ tạ ơn hiện nay, cũng như trong các thứ biểu dương bác ái và công bình của Hội Thánh chúng ta trong xã hội Việt Nam lúc này. 8. Những lời Chúa Giêsu nói về người môn đệ chân chính (Mt 7,21-27) cũng dạy tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng. Nếu không, tôi cũng sẽ lầm tưởng tôi là môn đệ chân chính của Chúa, được Chúa khen thưởng, vì đã làm sáng danh Chúa bởi những việc lẫy lừng nhân danh Chúa. Nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm phép lạ, đó là những việc coi như chắc chắn làm chứng cho Chúa, ai ngờ Chúa lại gọi những kẻ làm thế là phường gian ác (x. Mt 7,23). Phương chi là những công trình vật chất. Chỉ vì họ không làm theo ý Chúa. 9. Làm theo ý Chúa là thế nào? Thưa, tiên vàn là phải sống kết hợp với Chúa. Khi tôi vâng ý Chúa, mà luôn sống kết hợp với Chúa một cách chặt chẽ như cành nho với cây nho (x. Ga 15,1-5) thì dần dần trái tim tôi được đổi mới. Tôi được Chúa cho cảm thấy Thiên Chúa là tình yêu. Chứ Thiên Chúa không là lề luật. Từ cảm nghiệm đó, tôi nghĩ tới việc xây dựng đạo đức cho tôi và cho cộng đoàn của tôi. Theo tôi, xây dựng đạo đức không phải là bằng cách ra nhiều lề luật, mà là hãy đạo tạo trái tim cho biết yêu thương như Chúa yêu thương. 10. Tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu trối lại trong bữa Tiệc Ly: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34). Yêu thương cũng là một lề luật. Luật cua nó là hãy mang lửa trong mình, đó là những thao thức biết lo cho người khác khỏi khổ, nhưng được sự lành, nhất là khỏi phải sa hoả ngục, nhưng được lên thiên đàng. Cũng hãy mang thánh giá trong mình, đó là chịu hy sinh để đền tội thay cho người khác và để góp phần vào sự thương khó Chúa Giêsu mà cứu họ, để họ được rỗi. 11. Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh điều răn mới đó. Nhờ vậy, đã có vô số tín hữu đã biết cho đi và biết lãnh nhận tình yêu phục vụ hy sinh, làm cho cộng đoàn trở thành cộng đoàn yêu thương, làm chứng cho Chúa là tình yêu. Chính tôi cũng đã và đang được hưởng phúc lành của lòng đạo đức đó. Chính tôi cũng đã và đang chia sẻ lòng đạo đức đó, mà tôi đã được lãnh nhận một cách dồi dào. 12. Tôi xin Chúa cho lòng đạo đức này mãi mãi tăng lên cả bề rộng lẫn bề sâu. Chỉ Chúa mới giúp tôi được điều đó. Tới đây, tôi thấy: Đạo đức của tôi lên hay xuống dốc, thì chỉ một mình Chúa biết rõ mà thôi.Phần tôi, tôi luôn nhận biết mình là kẻ tội lỗi yếu hèn, nhưng lại được Chúa rất yêu thương. Nên tôi cố gắng thực hiện yêu thương một cách tốt nhất với đồng bào của tôi, Quê Hương của tôi và Hội Thánh của tôi. Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa. Long Xuyên, ngày 10 tháng 5 năm 2014.
1. Từ mấy tuần qua, tình hình khắp nơi càng ngày càng đáng lo ngại. Lo ngại cho Đất Nước, cho Hội Thánh, cho cả thế giới, cho chính chúng ta. 2. Như để trả lời, Chúa đưa trí khôn tôi nhớ lại đoạn Phúc Âm sau đây của thánh Luca: Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như 18 người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13,1-5). 3. Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên đây, tôi hiểu Chúa muốn dạy tôi điều này: Để cứu khỏi những thảm khốc có thể sắp xảy ra cho Quê Hương, cho Hội Thánh, cho thế giới, cho chính chúng ta, những người tin Chúa hãy coi sám hối là việc quan trọng phải thực hiện ngay. Có nghĩa là: Đấng có thể cứu chúng ta là Chúa. Chúa quyền năng sẽ cứu chúng ta khỏi tội và hậu quả bởi tội gây nên. Để đón nhận ơn cứu độ ấy, chúng ta phải sám hối. 4. Tôi vâng ý Chúa mà sám hối. Để có thể sám hối đúng theo ý Chúa, tôi cầu nguyện với hết lòng tin cậy, khiêm nhường và phó thác. Chúa dần dần giúp sám hối của tôi không những để ý đến các tội tôi quen phạm, mà còn phải để ý đến những tình trạng nguy hiểm thường dẫn con người vào tội lỗi. Thí dụ ba tình trạng sau đây: 5. Tình trạng thứ nhất là cảnh tối tăm trong tâm hồn. “Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu” (Ga 12,35). Cảnh tối tăm này không phải là những tính mê nết xấu, mà chính là sự thiếu ánh sáng của Chúa. Vì thiếu ánh sáng của Chúa, tâm hồn con người sẽ không có định hướng nội tâm, để mình trôi dạt theo tình thế bên ngoài và theo những thúc đẩy bên trong tức thời. Thiếu ánh áng của Chúa, tâm hồn con người sống vô trật tự, nên đi từ sai lầm này đến sai lầm khác, mà chẳng bao giờ nhận ra tại sao mình lại rơi vào những hậu quả thảm khốc như thế. Một đặc điểm nữa của người thiếu ánh sáng của Chúa, là họ xa tránh mọi giải pháp dựa trên Lời Chúa. Họ như không muốn ra khỏi tình trạng tối tăm. Họ ghét ánh sáng Lời Chúa. 6. Tình trạng thứ hai là lối sống giả dối. Giả dối là dấu của quỷ “Quỷ là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Thí dụ như thói quen để tránh nhiệm vụ mình có trách nhiệm, thì lao mình vào những bận rộn không phải nhiệm vụ của mình. Để che đậy sự trống vắng nội tâm, thì hăng say làm những việc bề ngoài ồn ào hoành tráng. Đạo đức căn cứ vào những hình thức và luật lệ bề ngoài, tự đeo vào mình những hào quang giả. Cố chấp tự coi mình là thánh, xác hồn trắng tinh. 7. Tình trạng thứ ba là làm nô lệ. “Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội” (Ga 8,34). Thí dụ thích tìm khoái lạc ở những thói quen xấu có tính cách khống chế sự tự do đích thực của mình. Bị chi phối quá mạnh bởi những thành kiến. Bị sai khiến bởi những dư luận, những phong trào, những khích động, mà không tỉnh táo cân nhắc. Bị ràng buộc một cách quá đáng vào những chương trình do chính mình đặt ra, và những luật lệ cứng nhắc không luôn cần thiết, mặc dù lợi ích chung đòi phải linh động. Nô lệ sự xét đoán chủ quan của mình. Bị ám ảnh bởi những kế hoạch có tính cách tìm danh vọng, tiền bạc, địa vị. Bị căng thẳng bởi những ghen tương, tranh chấp, xung đột, hiếu thắng. 8. Khi rà soát nơi tôi về ba tình trạng nói trên, tôi thấy cần phải có ơn Chúa, mới nhận ra được những cái xấu và những cái nguy hiểm ẩn tàng trong đó. Và cho dù đã nhận ra rồi, nếu muốn thực tình gớm ghét chúng, và muốn thực tình muốn thoát ra khỏi chúng, tôi càng thấy phải có thực nhiều ơn Chúa. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy: Sự cứng lòng nơi con người là rất lớn, sự yếu đuối và tự ái nơi con người là rất nặng. Tôi nhớ lại những lời than của thánh Phaolô xưa: “Muốn sự thiện, thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm... Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,18-25). 9. Tôi tin rằng: Chúa Giêsu sẽ cứu chúng ta khỏi tình hình đầy nguy hiểm hiện nay. Người cứu cách nào? Thưa: Chúa có cách của Chúa. Phần chúng ta, chúng ta phải cộng tác vào ơn Chúa cứu độ, bằng sự chúng ta biết tỉnh thức, cầu nguyện sám hối, và như thế mỗi người chúng ta sẽ trở thành của lễ đền tội, góp phần vào của lễ đền tội mà Chúa Giêsu đã dâng để cứu chuộc nhân loại. 10. Nhưng nếu sự giải cứu ấy cũng sẽ là một cuộc thanh luyện, do đó sẽ xảy ra những biến cố khủng khiếp như Đức Mẹ đã báo ở Fatima, thì chúng ta ngay từ bây giờ, hãy chạy lại với Đức Mẹ, xin Mẹ thương đến chúng ta. Tại Fatima, Đức Mẹ khuyên con cái Mẹ: “Hãy cải thiện đời sống, hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ, hãy năng cầu nguyện chuỗi mân côi”. Chúng ta hãy vâng lời Mẹ, mà trở về với Chúa bằng những việc Mẹ dạy. Dù trong hoàn cảnh nào, hãy vững tin vào lòng thương xót Chúa, theo gương Đức Mẹ. Với Mẹ, nhờ Mẹ và bên Mẹ, chúng ta tin Chúa sẽ cứu tất cả những ai thiện tâm thiện chí. Ngay lúc này, tôi nhận ra ơn Chúa cứu tại Đất Nước Việt Nam đã bắt đầu, đó là đồng bào ta đang siết lại gần nhau hơn, thắm thiết yêu thương nhau hơn, trong lý tưởng cao đẹp thiêng liêng là kiên quyết bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Long Xuyên, ngày 18 tháng 5 năm 2014.
Mấy ngày nay tôi đau nhiều. Đêm rồi, những cơn đau làm tôi không sao ngủ được. Tôi nghĩ tới lễ Đức Mẹ đi thăm Bà Elisabét (35.2014). Tôi lần chuỗi mân côi, và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, con đau lắm, đứng lên không được. Xin Mẹ thương con. Mẹ có thể đến thăm con, được không?”. Tôi nói như thế nhiều lần. Rồi lại lần chuỗi.
2. Một lát sau, tôi cảm thấy có một sự gì lạ xảy ra trong tôi. Tôi dần dần như được trầm mình vào một dòng nước thiêng liêng. Dòng nước thiêng liêng ấy rửa tôi khỏi tình trạng lo âu. Tôi cảm thấy tâm hồn được bình an nhẹ nhàng. Tôi thấy mình thực bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối. Đột nhiên, tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa dạy tôi và các môn đệ Chúa hãy là hạt lúa gieo vào lòng đất, để chịu chết đi, thì mới được cùng với Chúa cứu các linh hồn. 3. Khi đề cập đến việc cứu các linh hồn, tự nhiên tôi được một ánh sáng thiêng liêng cho thấy: Hiện nay rất nhiều người đang bị quỷ Satan khống chế, xiềng xích, lôi kéo từ tội nọ sang tội kia. Để sau cùng phải sa xuống hoả ngục. Cứu được chỉ một người ra khỏi quyền lực Satan đã là chuyện không dễ chút nào, phương chi cứu nhiều người. Ngay để cứu chính mình cũng là việc không tự mình làm được. Dứt khoát phải nhờ vào Chúa. Mà, để được Chúa cứu, thì hãy khiêm nhường. Hết sức khiêm nhường. 4. Tôi như thiếp đi. Rồi tỉnh lại. Tôi nhận ra là Đức Mẹ đã đến thăm tôi. Tôi không nhìn thấy Đức Mẹ. Nhưng chính ở sự Đức Mẹ đến một cách kín đáo tế nhị, mà tôi càng mến phục sự khiêm nhường của Đức Mẹ. Tôi cảm được sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp và là một hương thơm, dấu chỉ tình yêu cứu độ của Mẹ. 5. Việc Đức Mẹ thăm tôi đã qua rồi. Tôi hết lòng cảm tạ Mẹ. Có hai điều Mẹ để lại trong tôi một cách đặc biệt. Điều thứ nhất là cảnh nhiều người thời nay bị Satan khống chế. Chính tôi đã thấy và đang thấy cảnh đó. Thực là ghê gớm. Phúc Âm kể lại một người bị quỷ ám xin Chúa cứu. Chúa hỏi quỷ tên là gì? Nó thưa: Tên tôi là đạo binh. Chúa bắt quỷ phải ra khỏi người đó. Chúng nhập vào đàn heo gần đấy. Đàn heo rất đông từ sườn đồi lao mình xuống vực thẳm (x. Lc 8,26-33). Tôi dám nói là hiện nay các đạo binh quỷ nhập vào một người, một gia đình hay một cộng đoàn cũng đang xảy ra, tuy dưới hình thức nhẹ hơn. Chúng vẫn còn đó. Những người bị ác thần nhập nhiều khi cảm thấy rất khổ, muốn thoát, nhưng không tự mình thoát được. Đức Mẹ dạy tôi là các con của Mẹ hãy sống như hạt lúa gieo vào lòng đất, làm của lễ hy sinh, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ. 6. Điều thứ hai là sự nhiều môn đệ Chúa thời nay đang dần dần coi thường đức khiêm nhường. Đúng lý ra, người môn đệ của Chúa phải luôn coi mình là kẻ được Chúa sai đi, vì thế phải quan tâm làm tốt những gì Chúa muốn mình làm vì lợi ích các linh hồn. Sống như thế đòi phải rất khiêm nhường. Nhưng thực tế đang xảy ra khác. Nhiều người môn đệ Chúa lại tự đánh giá mình theo những gì mình biết làm, theo khả năng của mình, như mọi người trong xã hội mình sống, chứ không như Chúa muốn. Do đó, họ coi cạnh tranh uy tín, địa vị là bình thường, coi đấu tranh giành thắng lợi cả trong lãnh vực tôn giáo cũng là chuyện hãnh diện, coi tìm vinh quang cho cá nhân mình cũng là làm cho Chúa. 7. Những điều trên đây được Mẹ nhắc nhủ cho tôi. Tôi nhận biết là đạo đức đang xuống dốc ở ngoài đời cũng như ở trong đạo. Tôi quyết sửa ngay nơi bản thân tôi. Nhưng thú thưc tôi chưa làm đủ, làm đúng như Chúa muốn. Tôi sám hối và cầu xin Mẹ thương thêm sức cho tôi. Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy tận dụng thời gian còn lại để cùng với Chúa cứu các linh hồn. Nếu chần chừ, tưởng chừng mọi sự sẽ êm xuôi cả, chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu, thì ai biết được những bất ngờ có thể xảy ra! 8. Khi tôi đang ngồi viết gần xong bài này, thì tôi nghe còi xe cứu hoả rú. Từ xa rồi gần lại. Tôi mở cửa đi ra, thì thấy xe cứu hoả đang ở sân Toà Giám Mục. Tôi hoảng sợ. Hỏi ra, thì biết dân xung quanh thấy khói đen bốc ra từ một căn phòng khu nhà góc Toà Giám Mục. Họ gọi xe cứu hoả. Đúng là đang có cháy do chập điện. May mà kịp cứu. Tôi nghĩ tới những bất ngờ. 9. Thực sự tôi đang thấy những bất ngờ đau đớn đang xảy ra đó đây trên thế giới, trong khu vực, trên Quê Hương và ngay tại địa phương bé nhỏ này. Bất ngờ này kéo theo bất ngờ khác. Tôi hỏi Đức Mẹ, thì Mẹ cho tôi nhớ lại tất cả những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Sẽ có những cơn đau đớn bất ngờ khủng khiếp xảy ra, nếu người ta không sám hối và khiêm nhường tỉnh thức. Tôi cầu xin Mẹ thương đến viếng thăm Đất Nước Việt Nam yêu dấu của tôi. Xin Mẹ ban cho tất cả đồng bào tôi được yêu thương nhau, biết bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức thiêng liêng cao quý. Lạy Mẹ, xin đến cứu con khỏi mọi tội lỗi. Long Xuyên, ngày 24.5.2014
1. Từ khá lâu rồi, tôi đau yếu mệt mỏi. Không đủ sức theo dõi một bài giảng dài. Không đủ sức tham dự một thánh lễ lâu. Không đủ sức đọc một bài lý luận trừu tượng. Không đủ sức nghe một nội dung điện thoại gây căng thẳng. Chính trong tình trạng ấy, tôi đã được Chúa đến thăm tôi. Chúa đến với tôi qua những người có trái tim giống như trái tim của Người. 2. Thực vậy, có những người đến với tôi, mà tôi cảm nhận được ngay họ đang theo gương Chúa Giêsu, quỳ xuống rửa các vết nhơ của linh hồn tôi. Phúc Âm kể: “Chúa Giêsu cởi áo ngoài ra, lấy khăn mà thắt lưng. Rồi đổ nước vào chậu, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,4-5). Tôi cũng cảm thấy tương tự như thế đối với một số người đến với tôi. Họ bỏ lại những gì là quyền chức giàu sang của họ. Họ đổ nước tình yêu vào giờ phút gặp gỡ, rồi rửa, rồi lau những gì là tội lỗi và mặc cảm trong tôi. Họ tế nhị xin tôi để cho họ rửa, như một dấu chỉ của tình nghĩa thân thương. Qua gặp gỡ đó, tôi cảm nhận được trái tim Chúa Giêsu là trái tim đầy yêu thương khiêm nhường. 3. Rồi, có những người đến với tôi, mà tự nhiên tôi cảm nhận được ngay, họ đang theo gương Chúa Giêsu, tự nguyện chịu đóng đinh mình trên thập giá, dùng đau khổ của mình để cùng với Chúa Giêsu mà cứu chuộc tôi. Đau khổ của họ là rất lớn. Nhưng họ vâng chịu. Đôi khi họ nói ra sự đau đớn đó, cũng là để tôi hiểu đau đớn đó là kinh khủng, sức tự nhiên không chịu nổi. Nhưng nhờ ơn Chúa, họ vâng chịu, chỉ để cùng với Chúa Giêsu, mà cứu tôi, và nâng đỡ tôi. Và cũng là để tôi hiểu cái giá để cứu các linh hồn chính là thánh giá. 4. Qua những gì Chúa đã cho tôi trải qua như trên, tôi được Chúa dạy tôi bài học quý báu về mục vụ cho Việt Nam hôm nay, nhất là cho chính lúc này. Mục vụ đó là làm chứng cho Chúa bằng trái tim yêu thương khiêm nhường. 5. Được sống cạnh một số người thực sự mến thánh giá Chúa, tôi thấy sức mạnh của tình yêu Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta không phải là ở sự Chúa nâng cao mình lên, nhưng là ở sự Chúa hạ mình xuống, như tự chôn vùi mình. Dung mạo Chúa là yêu thương khiêm nhường. Tôi gặp được dung mạo ấy trong đời thường, nơi biết bao người xung quanh tôi. 6. Yêu thương khiêm nhường đặc biệt là ở sự biết vâng phục Chúa trong Hội Thánh của Người. Hơn bao giờ hết, tôi thấy những lời thánh Phaolô viết sau đây về sự khiêm nhường phải đi đôi với sự vâng phục đang là một lời khuyên rất cần cho tôi và cho mọi người chúng ta: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên người phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8). Vâng phục trong Hội Thánh của Chúa, đó là một dấu chỉ làm chứng cho Chúa một cách đích thực. 7. Mấy ngày nay, tôi nhận được khá nhiều thiệp gởi báo tin những lễ tạ ơn của các tân linh mục. Các thiệp ấy đều có nhiều chữ ký. Riêng tôi, tôi tìm chữ ký của Chúa. Đang khi tôi tìm, thì Chúa dạy tôi là chữ ký của Chúa được tìm thấy nơi chính các tân linh mục. Chữ ký đó luôn giấu kín qua đời sống yêu thương khiêm nhường vâng phục của các tân linh mục. Nếu không có chữ ký đó của Chúa, thì cuộc đời gọi là dâng hiến sẽ chẳng có ý nghĩa gì. 8. Tôi coi sự vâng phục là một cách tôi phó thác đời tôi cho Chúa. “Không phải con, nhưng là chính Cha sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đi” (Ga 21,18). Tôi thấy vâng phục trong yêu thương khiêm nhường là một ách nhẹ nhàng, Chúa ban cho tôi (x. Mt 11,30). Nhờ kinh nghiệm đó, tôi thấy tôi phải chia sẻ mục vụ của trái tim cho tất cả anh chị em trong Chúa Giêsu. Mục vụ của trái tim là mục vụ dễ hiểu và dễ được đón nhận trong tình hình hiện nay. Xin hết lòng cảm tạ Trái Tim Chúa Giêsu đầy yêu thương, khiêm nhường và vâng phục. Long Xuyên, ngày 01 tháng 6 năm 2014.
21-05-2014 Thánh lễ Tạ Ơn của Đức Tân Giám Mục Giuse Trần Văn Toản + GB. BÙI TUẦN Bài chia sẻ Trong Thánh lễ Tạ Ơn của Đức Tân Giám Mục Giuse Trần Văn Toản tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 30.5.2014
Thú thực là khi nhận lời Đức Cha Giuse Trần Văn Toản xin tôi chia sẻ trong thánh lễ Tạ Ơn này, tôi đã rất ái ngại. Tôi cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa thương dạy tôi nên nói gì. Bằng nhiều cách, Chúa đã dạy tôi: Hãy chuyển đạt cho giáo phận nói chung và cho Tân Giám mục nói riêng tâm sự của Chúa trong chính bài Phúc Âm hôm nay theo Phụng vụ (thứ Sáu sau Chúa Nhật VI Phục Sinh). Đó là một tâm sự thân mật. Cụ thể tâm sự đó là thế này: Thời gian sắp tới, sẽ có nhiều đau khổ đợi chờ các con. Nhưng cũng có niềm vui chờ đón các con. 2. Về đau khổ, Chúa nói 6 lần. Về niềm vui, Chúa nói 5 lần. Đau khổ thì xảy ra trước. Còn niềm vui thì tới sau. Nhìn qua tình hình, tôi thấy tâm sự của Chúa là một đồng hành rất cần cho chúng ta. 3. Trước hết, Chúa báo cho biết: Chúng ta sẽ gặp nhiều đau khổ. Để giúp tôi hiểu về những đau khổ, mà các môn đệ Chúa phải chịu, Chúa gọi tôi hãy nhìn Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá, và cũng hãy nhìn Đức Mẹ sầu bi với trái tim tan nát đứng dưới chân thánh giá. Nhìn Chúa Giêsu và Đức Mẹ chịu đau khổ như thế, tôi hiểu là: Những Đấng cực thánh mà còn phải đau đớn như vậy. Phương chi chúng ta là những kẻ có tội. 4. Ngoài sự chúng ta sẽ phải đau khổ như mọi đồng bào ta về những biến động gay gắt của cuộc sống, chúng ta còn phải chịu đau khổ thêm, do tinh thần sám hối đền tội, mà Chúa đòi hỏi để chúng ta góp phần vào việc Chúa cứu chuộc. Do vậy, những đau khổ chúng ta chịu sẽ có giá trị thiêng liêng. 5. Nhưng để được thế, chúng ta rất cần đến ơn Chúa. Ơn Chúa sẽ ban cho những ai khiêm nhường trong tỉnh thức và cầu nguyện, như Chúa đã nói với các môn đệ nhiều lần. 6. Cũng với ơn Chúa, những ai khiêm nhường trong tỉnh thức và cầu nguyện sẽ đón nhận được niềm vui, mà Chúa hứa ban. Niềm vui đó là vô tận. Chúa báo trước cho biết như vậy. Trong tâm sự hôm nay, Chúa nói là niềm vui sẽ ban cho. Sẽ ban cho nghĩa là do Chúa ban cho. Ở đây đức tin đóng vai trò quan trọng. 7. Càng suy gẫm tâm sự của Chúa gởi chúng ta hôm nay, tôi càng thấy rõ sự cần thiết phải rất khiêm nhường trong tỉnh thức và cầu nguyện, để biết chịu đau khổ đúng ý Chúa, và đón niềm vui đúng ý Chúa. 8. Phúc Âm cho thấy: Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã phong chức thánh giám mục cho 12 tông đồ. Nhưng vừa sau đó, Chúa đã để cho các ngài cảm thấy thấm thía các ngài chẳng có gì để tự hào cả. Mà trái lại phải rất khiêm nhường. Bởi vì Giuđa đã bị quỷ nhập, đi bán Chúa, thánh Phêrô thì chối Chúa, các tông đồ khác thì bỏ Chúa mà trốn chạy. Sự việc cho thấy chức thánh không làm cho con người khỏi yếu đuối và vấp ngã. Các ngài vẫn phải khiêm tốn phấn đấu và khiêm nhường đón nhận ơn Chúa cứu độ từng giờ từng phút. 9. Lịch sử Hội Thánh cũng cho thấy: Khi thử thách ập tới, nhiều giáo phận, nhất là bên Trung Đông và Châu Phi, đã biến mất. Nhiều Toà Giám mục nay chỉ còn tên trong lịch sử mà thôi. Sự việc đó chứng tỏ rằng: Đừng bao giờ nên tự phụ, tự đắc, tự hào là mình sẽ luôn mãi tồn tại trong đức tin, do ý chí kiên quyết của mình. 10. Tình hình sắp tới có nhiều thử thách đối với đức tin. Nên, nhân danh Chúa, tôi xin phép được khuyên anh chị em: Hãy khiêm nhường, sống nghèo và mau mắn vâng phục ý Chúa, như Đức Mẹ Maria. Hãy khiêm nhường, sống nghèo, dấn thân và chôn vùi mình, như thánh Giuse. Hãy khiêm nhường thống hối và nhiệt thành, như thánh tông đồ Phêrô. Hãy khiêm nhường và sống yêu thương đến cùng, như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm gương. Sống như vậy đòi nhiều phấn đấu. Đó là những dấu chỉ sống động giúp các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay làm chứng những đau khổ nào có giá trị thiêng liêng, và những niềm vui nào dẫn tới hạnh phúc thực. 11. Hơn bao giờ hết, hôm nay tôi nhìn lên tượng Đức Mẹ cuối nhà thờ Long Xuyên. Mẹ đang đứng đón các con Mẹ ở cửa nhà thờ, tôi tin là Đức Mẹ cũng đang chờ đón mọi người. Hãy khiêm tốn tin vào Mẹ. Hãy khiêm tốn cầu xin với Mẹ. Cùng với Mẹ, chúng ta khiêm nhường dâng mình cho Chúa và cảm tạ Chúa về biết bao việc lạ lùng Chúa đã làm và đang làm cho Đức Tân Giám mục, cho chúng ta, cho Quê Hương Việt Nam chúng ta và cho Hội Thánh chúng ta. Amen.
1. Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình có lần đã nói với tôi về một nỗi sợ của Ngài. Ngài nói: “Tôi sợ loại linh mục không biết sợ. Họ không sợ giáo dân, không sợ giám mục của mình, không sợ chính quyền, không sợ cả Chúa”. Tôi nghĩ Đức Tổng có vẻ nói chơi, mà cũng nói thực. 2. Phần tôi, tôi còn sợ hơn Ngài, ở điểm này là tôi sợ chính bản thân tôi. Bởi vì như thánh Phaolô nói: “Điều thiện tôi muốn thì tôi lại làm. Còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Nơi tôi đúng là như vậy. Có những điều thiện chắc là điều thiện. Có những điều ác rõ là điều ác. Thế mà tính yếu đuối của tôi vẫn cứ làm sai. Chỉ ơn Chúa mới cứu tôi được. Nhưng tôi cũng phải phấn đấu hết mình. 3. Khi về già, lại thêm đau bệnh, tôi thấy nhiều nỗi sợ mới đã phát sinh trong tôi. Ở đây, tôi chỉ xin kể mấy loại người tự nhiên tôi sợ. Không biết họ có sức thực sự gây sợ hãi cho tôi, hay chính bản thân tôi quá yếu nên sợ. Dù sao, nỗi sợ hãi nơi tôi là rất lớn và rất thực. Thứ nhất là những người quen sống lừa dối. Thứ hai là những người quen tự mình nâng mình lên. Thứ ba là những người quen nói xấu người khác. Thứ bốn là những người quen coi thường trách nhiệm. Tôi không ghét họ, không kết án họ, không nguyền rủa họ. Nhưng tôi đau đớn và sợ vì tôi nhìn thấy nơi họ có một sức phá hoại của hoả ngục. Nỗi sợ của tôi đôi khi làm tôi mất sự bình an. 4. Trong nỗi sợ ấy, tôi cầu nguyện Trái Tim Chúa Giêsu. Tôi hay thầm thĩ lời cầu vắn tắt này: “Lạy Trái Tim Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường, xin thương xót con”. Kết quả là dần dần tôi cảm thấy Trái Tim Chúa Giêsu xót thương tôi. Có một cách tôi được cảm thấy rõ ràng và nhẹ nhàng, đó là Chúa gởi đến cho tôi những con người chân thực, khiêm nhường, bác ái và trách nhiệm. Tôi xin phép kể ra một vài trường hợp đã ảnh hưởng lớn đến đời tôi. 5. Tôi được hạnh phúc gặp gỡ riêng tư nhiều lần Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Có những lần đứng bên Ngài, quỳ bên Ngài, cùng với Ngài cầu nguyện, tôi nghe Ngài thở dài và khe khẽ kêu: “Lạy Chúa tôi” bằng tiếng Đức. Có lần tôi mạnh dạn hỏi Ngài: “Đức Thánh Cha có đau khổ lắm không?”. Ngài trả lời một cách tự nhiên: “Có chứ. Nhưng tôi quen rồi”. Thái độ chân thực và khiêm nhường của Ngài trước vấn đề đau khổ đã đi vào lòng tôi như một món quà sống động của Trái Tim Chúa Giêsu. Thái độ đó đã an ủi tôi rất nhiều. Tôi không còn mặc cảm nghĩ rằng những than khổ của tôi là xấu và đáng trách. Tôi nói thế, là vì nhiều khi tôi đau khổ, thì có những người đã dạy tôi là cho dù khổ, cũng không nên than, và theo họ, người có đức tin thì mọi đau khổ đều cảm nhận như những niềm vui. Tôi không dám bình luận gì. Nhưng thú thực là thái độ của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đem lại cho tôi sự bình an. Thái độ ấy cũng giúp tôi cảm thương sâu sắc với những người khổ đau. 6. Một trường hợp khác, đó là thái độ của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Tình hình lúc đó bỗng trở nên khó khăn bi đát. Giáo dân sợ hãi, chạy trốn vào nhà thờ. Cha Diệp hiền từ khiêm tốn, không trách giáo dân, không khích động họ. Cha cũng không lên án, chửi bới những người bắt bớ giáo dân. Trái lại, Cha luôn ở giữa giáo dân. Và sau cùng, Cha sẵn sàng chết thay cho giáo dân. Thái độ khiêm nhường, bác ái, chân thực của Cha đã giúp tôi rất nhiều trong những năm sau 1975. Tình hình giáo phận của tôi hồi đó tuy không đến nỗi như vậy, nhưng có những khó khăn nhất định. Tôi đã theo gương Cha Diệp. Kết quả là Chúa đã làm cho tình hình được thay đổi: Đức tin được vững vàng và lan rộng. Hoà giải được xây dựng tốt đẹp. Chúa được ca tụng mến yêu. 7. Tới đây, tôi có thể thấy: Những nỗi sợ của tôi trước một số loại người nói trên chính là những phản ứng lành mạnh Chúa ban, để tôi biết tỉnh thức. Tất nhiên không được sợ tràn lan, nhưng không biết sợ chính là điều rất đáng sợ. Có người nói với tôi: Sợ gì tội! Sợ gì hoả ngục! Chúa lòng lành giàu lòng thương xót sẽ cứu chúng ta. Việc gì mà sợ. Thú thực, tôi coi những thái độ như thế chính là mưu ma chước quỷ. Không biết sợ, chính là một cái nghèo kinh khủng nhất, dẫn tới sa đoạ và diệt vong. 8. Hiện giờ, những nỗi sợ của tôi đang giúp tôi trở nên bé nhỏ trước mặt Chúa. Bé nhỏ như một cành nho ẩn giấu mình ở một chỗ nào kín đáo nhất, miễn là được sát nhập vào thân cây nho là Chúa Giêsu. Tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu phán xưa với các môn đệ của Người: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). 9. Xét cho cùng, nỗi sợ quan trọng nhất của tôi chính là sợ mình không thuộc về Chúa, không kết hợp mật thiết với Chúa, không đón nhận tất cả từ Chúa. 10. Chuyến đi đời tôi có lúc sẽ kết thúc. Với tinh thần đức tin, tôi hy vọng tất cả mọi nỗi sợ của tôi trong chuyến đi dài này sẽ nở hoa Phục Sinh, nhờ kết hợp với Trái Tim Chúa Giêsu đầy yêu thương, khiêm nhường và vâng phục. 11. Tôi chân thành sám hối về mọi lỗi lầm của tôi, không chỉ trong lãnh vực những nỗi sợ, mà trong tất cả mọi lãnh vực của con người tôi. Tôi chấp nhận mọi đau đớn, như những sứ giả để thanh luyện tôi theo lòng từ bi Chúa. Sám hối của tôi không phải chỉ là đau đớn, hối hận, mà cũng còn là ca tụng Chúa và phó thác mình cho Chúa, để thực hiện những gì Chúa muốn về tôi. Tôi tin Chúa rất thương tôi. Khi nghĩ đến sự Chúa muốn tôi sẽ được về bên Chúa trên thiên đàng, tôi cảm thấy hân hoan vui sướng. Tôi tha thiết xin Chúa cho mọi người thân yêu của tôi cũng được về bên Chúa như tôi. Tôi cầu xin cho Hội Thánh của tôi, cho Quê Hương của tôi, cho mọi đồng bào của tôi, không phân biệt ai. Lạy Chúa, con sẽ trở về với Chúa tay không, vì con quá bé nhỏ và nghèo hèn. Nhưng con tin Chúa sẽ đón con. Bởi vì Chúa là Cha của con. Long Xuyên, ngày 9.6.2014.
Mỗi khi tôi muốn nói đến việc Phúc Âm hoá hay Tân Phúc Âm hoá một đối tượng nào, Chúa thường dạy tôi là hãy thực hiện việc đó trước tiên ngay nơi chính bản thân mình. Lần này cũng vậy, khi tôi muốn nói tới việc Phúc Âm hoá gia đình, tôi cũng được nghe Chúa dạy tôi là hãy khởi đi từ chính mình, một cách cụ thể, theo nhu cầu của tình hình thực tế. Tôi xin Chúa dạy thêm: Nhu cầu của tình hình thực tế là thế nào? Thì Chúa cho biết là: Phải tỉnh thức và sẵn sàng, để đón nhận những khó khăn và những khốn khổ sẽ tới. Vâng lời Chúa, tôi khiêm tốn cầu xin Chúa cho tôi nhận ra những tình hình cụ thể và những việc làm cụ thể, cần cho việc Phúc Âm hoá hiện nay. Những nét cụ thể về tình hình đạo hiện nay được Chúa cho tôi thấy qua Phúc Âm là những nét sau đây: Thứ nhất là những người bận tâm lo tìm lợi ích riêng, mà coi thường Lời Chúa mời gọi. Chúa phán: “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. Bấy giờ mọi người nhất loạt xin kiếu. Người thứ nhất nói: Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm. Cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây. Cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không đến được” (Lc 14,16-20). Dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra trên đây đã đúng cho thời đó. Nó cũng đang đúng cho thời nay tại Việt Nam này. Sống ích kỷ, chỉ lo tìm tư lợi, coi thường Lời Chúa mời gọi, đó là điều khá phổ biến trong giới công giáo Việt Nam hiện nay. Biết đâu trong đó có tôi? Thứ hai là những người nhân danh Chúa mà làm việc đạo, nhưng lại làm theo ý riêng mình, chứ không làm theo ý Chúa. Chúa phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). Những gì Chúa Giêsu nói trên đây đã đúng cho thời đó. Nó cũng đang đúng cho thời nay tại Việt Nam này. Nhân danh Chúa mà làm những công trình lớn, mà tổ chức lớn, mà khơi dậy những phong trào lớn, nhưng theo ý riêng, không theo ý Chúa, đó là hiện tượng không hiếm trong giới hoạt động tôn giáo tại Việt Nam hôm nay. Biết đâu trong đó có tôi? Thứ ba là những người tự ái cứng lòng. Phúc Âm kể lại khi Chúa Giêsu về Nadarét quê hương của Người, và giảng tại hội đường. Dân chúng rất thích. Nhưng lúc Người nói: “Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình” (...) thì mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-28). Tự ái, cứng lòng, chuyện đó cũng hay xảy ra trong nhiều cộng đoàn công giáo, kể cả nơi những người có địa vị. Biết đâu trong đó cũng có tôi. Ba nét trên đây thực là nguy hiểm. Nhìn ba nét đó, tôi thấy tình hình đạo tại Việt Nam hôm nay đáng phải báo động. Để có thể tránh được phần nào những khó khăn và khốn khổ sắp xảy tới do tội gây nên, thiết tưởng mọi người chúng ta phải tha thiết lắng nghe Lời Chúa, và phải làm hết mình để thực thi ý Chúa. Việc quan trọng nhất Chúa muốn thiết tưởng cần cố gắng thực hiện, đó là làm cho đời sống đạo của chúng ta có một nội dung thực sự là chính Chúa. Chứ một đời sống đạo bề ngoài coi như sốt sắng, nhưng trống vắng nội tâm là chính Chúa trong lòng mình, thì sẽ khốn khổ. Để được thế, thì phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường cầu nguyện, khiêm nhường hãm mình. Khiêm nhường làm những việc lành dù rất nhỏ, và tránh mọi sự xấu dù rất nhỏ. Được như vậy, những khó khăn khốn khổ sẽ được giảm bớt đi. Và chính những khó khăn khốn khổ đó sẽ trở thành dịp tốt, để chúng ta góp phần vào việc cứu mình và cứu các linh hồn. Theo thiển ý của tôi Phúc Âm hoá đơn sơ là như thế đó. Xin chân thành chia sẻ và cầu chúc cho nhau phép lành của Chúa.
Tôi đang vui sướng nhìn thấy hình ảnh sống động của thánh Gioan Tiền Hô nơi hai Đức Giáo Hoàng hiện nay sống ở Vatican. Đặc điểm của thánh Gioan Tiền Hô là dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đặc điểm ấy đang hiện lên rực sáng nơi Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thánh Cha Bênêđictô. Mỗi đấng dọn đường cho Chúa một cách riêng biệt. 2. Đức Phanxicô dọn đường cho Chúa bằng những việc cải cách. Cải cách lối sống, cải cách giáo triều, cải cách hàng giám mục. Cải cách của Ngài phải nói là rất rõ và rất mạnh. Ở đây, chỉ xin trích một ít dòng Ngài đã nói với Hội Đồng Giám Mục Ý khoá 65 năm ngoái: “Sống với Chúa là thước đo sự phục vụ Giáo Hội của chúng ta, nó diễn tả lòng sẵn sàng để vâng phục, để hạ mình và để tận hiến”... Chúng ta phải là dấu chỉ sự hiện diện của hành động Chúa phục sinh... Vì thế phải có một sự tỉnh thức thiêng liêng, thiếu nó, thì chủ chiên, trước hết là giám mục sẽ nguội lạnh, vô tâm, quên lãng và trở thành vô cảm, bị lôi cuốn theo viễn tượng chức quyền, tiền bạc và thoả hiệp với tinh thần thế tục. Những cái đó làm họ trở nên lười biếng, thành một thứ công chức, một nha lại của nhà nước, chỉ biết lo cho bản thân, cho tổ chức và các cơ cấu, thay vì lo cho lợi ích đích thực của dân Chúa... Xin cho Giáo Hội trở thành một Giáo Hội cầu nguyện và sám hối”. Cải cách của Đức Phanxicô hiện đang tiếp diễn mạnh mẽ ở nhiều lãnh vực của Giáo Hội, Ngài đáng gọi là một Gioan Tiền Hô thế kỷ XXI. 3. Còn Đức Bênêđictô thì đang dọn đường cho Chúa bằng đời sống khiêm nhường, cầu nguyện và từ bỏ. Nhìn sự từ nhiệm của Ngài và đời sống cầu nguyện hiện nay của Ngài, tôi như được đọc lại lời thánh Phaolô xưa: “Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang trong mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự chết của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,7-11). 4. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa, vì sự từ nhiệm của Đức Bênêđictô và đời sống ẩn dật hiện nay của Ngài đang đánh động lương tâm tôi rất nhiều. Từ đó, tôi nghĩ rằng: đánh động được lương tâm cũng là một cách dọn đường cho Chúa. Tôi rất sợ một điều là lương tâm trở nên chai đá. Nhiều người cũng chia sẻ với tôi về nguy cơ “xơ cứng” của lương tâm đang có chiều hướng phát triển tại Việt Nam hiện nay. Vì thế, nhìn Đức Bênêđictô âm thầm cầu nguyện trong sự từ bỏ thẳm sâu, mà thấy lòng mình trở về nội tâm hơn, tôi cho Ngài chính là Đấng đang dọn đường cho Chúa một cách hữu hiệu. 5. Hai Đức Thánh Cha truyền sang tôi lửa mến Chúa là lửa xưa đã đốt lòng thánh Gioan Tiền Hô. Để lửa này sẽ tồn tại và phát triển trong tôi, để dọn đường cho Chúa, tôi phải làm gì? Tôi xin Chúa Thánh Thần soi sáng và dẫn dắt tôi. Chúa Thánh Thần cho tôi biết là luôn luôn tôi nên coi mọi sự tôi có và làm mới chỉ là bước đầu. Tôi phải cầu nguyện và chiêm ngắm nhiều trước Chúa Giêsu, để Người trở thành thân mật với tôi, và tôi trở thành gần gũi với Người. 6. Thêm vào đó, tôi phải gặp Chúa Giêsu nơi những người khác, nhất là nơi những kẻ nghèo khó, bệnh tật, cô đơn. Những liên hệ trực tiếp với những người xung quanh, khi có Chúa trong tâm tình chân thành, cũng nảy sinh được nhiều sinh lực thiêng liêng, có sức dọn đường cho Chúa. 7. Nói gì thì nói, tôi phải khiêm tốn thú nhận rằng: Tôi được như hôm nay cũng là nhờ rất nhiều yếu tố giúp tôi sửa mình để đón Chúa. Những yếu tố đó thuộc nhiều loại, như cộng đoàn, các bí tích, những con người, những biến cố... Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. 8. Nhưng với tư cách là giám mục, tôi nhận thức mình có bổn phận phải đề cao gương của các Đức Giáo Hoàng, những vị đã và đang sửa đường cho Chúa bằng nhiều cách. Tôi có cảm tưởng là hai Đức Giáo Hoàng hiện nay luôn rất cần cho Hội Thánh, và cũng sẽ rất cần cho nhau. Bởi vì tương lai sẽ có những thử thách lớn. 9. Lạy thánh Gioan Baotixita, xưa Ngài đã sửa đường cho Chúa, không phải chỉ bằng những lời giảng, mà còn bằng tất cả đời sống cầu nguyện, chiêm niệm, hãm mình, với biết bao nhọc nhằn đau khổ. Nay, cũng có nhiều người đang bước theo Ngài mà sửa đường cho Chúa trong những hoàn cảnh rất khó khăn. Xin Ngài thương cầu nguyện cách riêng cho họ. Long Xuyên, ngày 13.6.2014.
Đã từ rất lâu rồi, tôi có thói quen, mỗi sáng vừa thức dậy, đều dâng mình cho Đức Mẹ. Tôi cảm thấy Đức Mẹ ở bên tôi. Lần nào cũng vậy, khi Mẹ nhận việc dâng mình của tôi, Mẹ thường khuyên tôi: “Con hãy xin Chúa cứu con cho khỏi tội lỗi.” 2. Tôi hiểu tội lỗi là sự dữ nguy hiểm nhất luôn đe doạ tôi. Tội lỗi là một lực lượng rất mạnh, rất lớn, rất gần. Nói kiểu thánh Phêrô tông đồ, thì tội lỗi chính là thứ “ma quỉ, thù địch của loài người, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr 3,8). Tôi tin Đấng có thể cứu tôi khỏi tội lỗi là Đức Giêsu Kitô. Trong nhận thức tội lỗi là sự dữ nguy hiểm đang vây quanh tôi, và tôi thực sự khát khao được Chúa Giêsu cứu tôi, tôi thường thú nhận với Chúa theo “kinh cáo mình”: “Con đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót.” 3. Như để đáp lại, Chúa cho tôi thấy những thứ tội cụ thể, tôi phải cho là sự dữ, mà Chúa muốn tôi ăn năn sám hối cách riêng. Hiện giờ, Chúa cho tôi thấy một tội rất nguy hiểm, đó là tội không chịu cứu người khác. Không cố gắng cứu người khác khỏi các sự dữ, nhất là khỏi tội lỗi, chính là một thiếu sót mang tính cách tội, mà tôi phải sám hối. Những người mà tôi có bổn phận phải cứu là những người Chúa trao trong phạm vi trách nhiệm của tôi. Chúa trao họ cho tôi có thể là thường xuyên, cũng có thể là trong những hoàn cảnh bất ngờ. 4. Những người Chúa trao cho tôi, để tôi có trách nhiệm thường xuyên đối với họ, đã được Chúa Giêsu nói đến trong “dụ ngôn người đầy tớ trung tín”. Người đầy tớ này thường lo cho các gia nhân khỏi bất ổn, khỏi sợ hãi về mọi mặt. (x. Mt 24,45-47). Chúa khen anh. 5. Những người Chúa trao cho tôi, để tôi có trách nhiệm trong hoàn cảnh bất ngờ, đã được Chúa Giêsu nói đến trong “dụ ngôn người Samari tốt lành”. Một người bị cướp trấn lột và bị đánh trọng thương nằm bên vệ đường. Thầy tư tế đi qua, thầy Lêvi đi qua. Họ thấy, nhưng tránh không cứu người đó. Nhưng người Samari đi qua, thấy người đó, đã dừng lại chăm sóc (x. Lc 15,29-37). Chúa khen người ngoại giáo ấy. Nhìn vào chính mình, tôi thấy tôi chưa chắc gì đã được Chúa khen, như Người đã khen người đầy tớ trung tín và người ngoại giáo Samari. Tôi sám hối, xin Chúa tha thứ. Tôi không luôn có khả năng cứu người bằng tiền bạc. Để bù lại, tôi tăng cường những việc tinh thần, như cầu nguyện, hãm mình, chia sẻ tâm tình, với tất cả tâm hồn mến Chúa. Tôi xót xa đau đớn, khi nghĩ đến cảnh nhiều người bị tội khống chế. 6. Hiện nay, trên toàn quốc nói chung và tại địa phương này nói riêng, việc cứu người cho khỏi các sự dữ, nhất là khỏi tội lỗi, đang là thước đo đạo đức, để đánh giá từng người, đặc biệt là những người có địa vị trong các tôn giáo. Tại địa phương tôi đang phục vụ, các tôn giáo bạn, như Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài và Tin Lành, rất quan tâm đến việc cứu con người cho khỏi các sự dữ, đặc biệt là khỏi tội lỗi. Cứu không phải chỉ bằng những việc từ thiện, mà còn bằng những việc chiêm niệm, ăn chay, cầu nguyện. Rõ ràng là có một khuynh hướng tìm đến Đấng Thiêng Liêng và nhờ ơn thiêng liêng. Đó là một gương sáng cho tôi. 7. Nhiều lần, tôi đã hỏi Đức Mẹ, xem tôi phải làm gì để có thể góp phần cứu con người khỏi các sự dữ, nhất là khỏi tội lỗi. Lần nào cũng vậy, Đức Mẹ đều khuyên tôi hãy bước theo Chúa Giêsu. Vâng lời Đức Mẹ, tôi bước theo Chúa Giêsu từ hang đá Belem đến Núi Sọ. Bước đi bước lại, dần dần tôi được Chúa cho thấy việc Chúa Giêsu đã làm để cứu con người khỏi tội là tự hạ, chịu đau khổ vì yêu thương họ, để đền tội cho họ, để mở đường cho họ đi vào Thiên Đàng. 8. Tôi cố gắng làm như thế. Càng cố gắng làm, tôi càng được Chúa cho thấy điều cần nhất tôi phải có trong việc bước theo Chúa, chính là tình yêu thương. Tôi xin Chúa giúp tôi, vì tự mình tôi không có tình yêu thương như của Chúa. Chúa thương ban cho tôi dần dần tình yêu của Chúa. Phải nói ngay là, khi Chúa ban cho tôi tình yêu của Chúa, thì Chúa cũng ban tặng chính Chúa cho tôi. Chúa đến với tôi, Chúa ngự trong tôi. Tôi có thể nói phần nào như thánh Phaolô xưa: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi” (Gl 2,26). Khi được có chính Chúa Giêsu trong mình, tôi cám thấy bình an, cho dù cuộc sống của tôi vẫn là một chuyến đi phải giao tranh với nhiều trắc trở. Khi có chính Chúa Giêsu trong mình, tôi vẫn phải chịu đau khổ, đến nỗi tôi có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu” ( 2 Cr 4,10). Nhưng có Chúa, tôi vẫn nói được như thánh Phaolô: “Sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của tôi” (2 Cr 4,11). 9. Có chính Chúa Giêsu trong mình, đó chính là điều tôi thao thức, vì đó mới là nội dung đích thực của đời sống Đức Tin. Nếu không có Chúa trong mình mà chỉ lo cho cơ chế, cho tổ chức, cho các công việc của đạo, thì coi như là người hoạt động, nhưng tôi đâu mang Chúa đến cho người khác. 10. Khi có Chính Chúa trong lòng mình, tôi sẽ biết đem bình an cho nhiều người một cách âm thầm mà hữu hiệu. Ngay bây giờ, tôi phải làm quen điều đó. Bởi vì có thể tương lai sẽ rất khó khăn, mọi hình thức đạo có vẻ phô trương, ồn ảo, thắng thế, sẽ gây hại lớn cho họ. Nhưng chính sự khiêm tốn Phúc Âm sẽ cứu đạo. Khiêm nhường cũng là đặc điểm của Chúa Giêsu. Ngôi Hai Thiên Chúa, khi nhập thể để cứu loài người, đã rất khiêm nhường, đã rất tự hạ, đã rất từ bỏ mọi vinh quang, đã rất hy sinh, đó là một thứ lửa khôn ngoan, để biết làm việc thiện. Tôi nên xấu hổ, khi dám làm khác. Hơn nữa, tôi nên coi sự tôi không theo gương Chúa là một bước dẫn tới tình trạng mất ý thức về tội lỗi. Hiện nay mất ý thức về tội đang là một nguy cơ lan rộng đưa tới muôn vàn tội lỗi, đẩy con người xuống vực thẳm hỏa ngục. Lạy Chúa, xin cứu con cho khỏi tội lỗi, nhất là khỏi tình trạng mất ý thức về tội. Con tin vào lòng thương xót Chúa. Long Xuyên, ngày 20 tháng 6 năm 2014
1. Đờitôi được gặp nhiều người tốt. Những người tốt ấy đã góp phần đào tạo con người tôi. Trong số những người đáng kể nhất, có một người hiện nay đã được phong thánh. Đó là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đức Thánh Gioan Phaolô II đã ảnh hưởng nhiều đến tôi, không những do những thông điệp, huấn từ, quyết định của Ngài, mà nhất là do những liên hệ trực tiếp mà Ngài đã dành cho tôi. 2. Tôi được trực tiếp nói chuyện với Ngài nhiều lần ở bàn giấy của Ngài, ở bàn ăn của Ngài, ở những hành lang cạnh nhiều hội nghị. Nhưng chính khi được đứng bên Ngài để cùng Ngài dâng thánh lễ, tôi đã thực sự được Ngài kéo tôi lên với Chúa. Khi đứng bên Ngài để đồng tế, tôi được nghe giọng Ngài nói, thấy khuôn mặt của Ngài, đôi khi được cảm thấy hơi thở của Ngài. Qua những gì được cảm thấy, được xem thấy, được nghe thấy, tôi rất xúc động chứng kiến Đức Thánh Cha gặp gỡ Chúa một cách thân mật. 3. Giờ phút Đức Thánh Cha gặp gỡ Chúa trong thánh lễ bỗng trở thành linh thiêng khác thường, do sự thánh thiện của Đức Thánh Cha toát ra. Những giây phút ấy, tôi như quên hết mọi sự, chỉ còn đắm mình vào tình yêu Chúa mà thôi. Sau này, nhất là hiện giờ, khi một mình nhìn lại, tôi mới ghi nhận được khá rõ những ơn đặc biệt, Chúa đã ban cho tôi, nhờ sự thánh thiện của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thánh lễ. Xin được phép kể ra sau đây. 4. Ơn thứ nhất là ơn quan tâm nhiều hơn đến đời sống chiêm niệm. Trong thánh lễ, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II toả ra qua thân xác, nhất là qua khuôn mặt của Ngài, một sự sống chiêm niệm sâu thẳm lạ lùng. Tôi thấy chiêm niệm nơi Ngài là cung kính ngắm nhìn Chúa, là tập trung lắng nghe Chúa, là khiêm tốn vâng phục ý Chúa. Nhìn Ngài chiêm niệm, tôi như được lôi cuốn theo, để tìm gặp Chúa là Đấng thiêng liêng sống động, vô cùng yêu thương, vô cùng quyền năng. Tôi khao khát thuộc về Chúa. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Chiêm niệm nơi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mà tôi đã được chứng kiến, giúp tôi xác tín về sự quan trọng của chiêm niệm trong đời tông đồ của tôi. 5. Ơn thứ hai là ơn quan tâm nhiều hơn đến việc sám hối. Ngay từ đầu thánh lễ, Đức Thánh Giáo Hoàng đã tự giới thiệu mình là kẻ có tội. Ngài đọc kinh “Sám hối” một cách rất khiêm nhường và xác tín. Đứng bên cạnh Ngài lúc đó, tôi có cảm tưởng là Ngài không thực hiện một lễ nghi, mà là thực hiện một sự hoán cải trở về với Chúa một cách hồn nhiên do động lực của tình yêu chân thành tha thiết. Tôi nhớ lại lời thánh Gioan tông đồ: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, thì Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, Người sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 18-9). Sám hối của Đức Thánh Gioán Hoàng là cậy tin vào Đức Giêsu Kitô, như lời thánh Gioan tông đồ dạy: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Giêsu Kitô đã là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,1). Sám hối của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là không những xin Chúa tha tội, mà còn là xin lỗi người khác. Trong cuốn sách “Khi Đức Giáo Hoàng xin lỗi”, tác giả Luigi Accattoli, đã kể ra 21 vụ việc trong lịch sử, mà Đức Thánh Giáo Hoàng xét thấy là Hội Thánh Công giáo đã phạm sai lầm, và Ngài đã công khai lên tiếng xin lỗi. 6. Ơn thứ ba là sự quan tâm nhiều hơn đến việc hy sinh cho đoàn chiên. Được đứng bên Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thánh lễ, tôi rất xúc động, khi thấy chính bản thân Ngài là một của lễ hy sinh cho đoàn chiên. Xưa, Chúa Giêsu phán: “Tôi là mục tử tốt lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,14). Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, đó là điều tôi đã thấy nơi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài hy sinh suốt đời, hy sinh từng ngày, từng giờ, từng phút. Điều đó đã dạy tôi rất nhiều, nhất là trong những khi tôi gặp phải những đớn đau, trắc trở, và cả trong việc dùng thời giờ và các phương tiện, sao cho cớ sự hãm mình, vì phần rỗi của đoàn chiên. 7. Đứng bên cạnh Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tôi thấy khá rõ những dấu tích nơi Ngài, như những thương tích của một của lễ Ngài dâng cho Chúa, để thông phần vào của lễ Chúa Giêsu dâng, trong chương trình đền tội cho nhân loại. Thánh lễ bàn thờ của Ngài là một của lễ hy sinh. Thánh lễ cuộc đời của Ngài cũng là một của lễ hy sinh. Tôi được gương sáng đó của Ngài khích lệ rất nhiều. Gương sáng của Ngài dạy tôi phải phấn đấu không ngừng. Một đời sống an phận, vô cảm sẽ có lúc xảy đến cho tôi, nếu tôi không tỉnh thức, càu nguyện và phấn đấu. 8. Với ba ơn trên đây mà tôi nhận được từ Chúa, qua gương sáng Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tôi xác tín vai trò gương sáng của các mục tử là rất quan trọng. Hiện nay, gương sáng về đời sống chiêm niệm, đời sống sám hối, đời sống hy sinh cho đoàn chiên đang là một đòi hỏi khẩn thiết mà Chúa đặt ra cho các mục tử. Nhân loại đang rất cần những mục tử như vậy. Việt Nam đang rất chờ những mục tử như thế. Lạy Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, con tin Ngài đang ở bên Chúa trên thiên đàng, xin Ngài thương tiếp tục dẫn đưa con trên đường ơn gọi làm người mục tử tại Việt Nam hôm nay. Con yếu đuối lắm, xin Ngài đỡ nâng con. Xin Ngài cũng nhìn đến hoàn cảnh đạo đức đang xuống dốc tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam, để cầu xin Chúa thương cứu. Con tin chỉ có Chúa mới cứu được. Con xin tạ ơn Chúa. Long Xuyên, ngày 24 tháng 6 năm 2014
Những ngày này, tôi như chán sống. Tôi nghĩ thế theo tính tự nhiên. Tôi cảm thấy cuộc sống nơi tôi không còn gì gọi được là niềm vui. Thân xác đau, tâm hồn đau, đời sống tự nhiên đau, đời sống siêu nhiên cũng đau. Tôi sống đúng hướng là do đức tin. Nhưng sống đức tin lúc này là như bước đi trong tối tăm. Nhưng nhờ đức tin, tôi tuyệt đối vâng phục Ý Chúa. 2. Đang khi đó, trong giáo phận tôi xuất hiện nhiều tổ chức vui. Đặc biệt là lễ phong chức linh mục cho 19 ứng viên, rồi sau đó là những lễ tạ ơn đầy hân hoan. Những lễ này đã được chuẩn bị và đã được thực hiện với những thiện chí và tinh thần trách nhiệm đối với tục lệ và tình nghĩa. 3. Với tình trạng chán sống, tôi nhìn diễn tiến những lễ long trọng đó, mà thầm mong có chút gì linh thiêng từ đó đem lại cho tôi sự bình an, để tôi bớt nặng nề. Nhưng thực sự tôi không nhận được tín hiệu lạc quan, trái lại tự nhiên tôi lại thêm lo, mặc dù tôi rất thương mến các tân linh mục của tôi. Tôi tưởng là bế tắc. Nhưng đột nhiên, Chúa gửi đến cho tôi vài người lạ. Họ rất bình thường. Họ không làm gì, không có chức tước gì, không cho tôi quà vật chất nào. Nhưng sự hiện diện chốc lát của họ bên tôi làm tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi rằng: “Cha ở bên con”. Tôi tự nhiên cảm thấy rất vui và được bình an. Thêm vào đó, họ gợi lên trong tôi niềm khát khao được thuộc trọn về Chúa. 4. Không còn gì để nghi ngờ là Chúa đã đến với tôi qua trung gian những con người bình dị ấy.Tôi thấy mình được an tâm hơn. Bởi vì tôi cảm thấy trái tim Chúa ở trong tôi, Người đốt lên trong tôi lửa phó thác bầng bầng giúp tôi trở thành của lễ. 5. Khi xảy ra như vậy, tôi tự hỏi: Tại sao những lễ linh đình trọng thể phong chức linh mục và tạ ơn tưng bừng lại không gây được cho tôi những ủi an và khích lệ cần thiết của Chúa, để tôi vui sống, nhưng tôi lại nhận được những ủi an đó của Chúa từ những người khác? Câu hỏi trên đây không đòi tôi phải tìm trả lời, mà đòi tôi hãy cầu nguyện nhiều hơn cho mọi người mang chức thánh tại Việt Nam hôm nay, trong đó có tôi. Họ rất đáng thương. 6. Khi cầu nguyện cho các tư tế tại Việt Nam hôm nay, tôi thấy hiện lên một điều Chúa mong muốn hơn cả, đó là các ngài hãy thực sự được Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn. Bởi vì đã đến lúc Satan không dùng những người ngoài Hội Thánh để chống phá Nước Trời, mà nó dùng chính những người trong Hội Thánh, để làm việc đó. Hơn nữa, Thánh Gioan Tông đồ viết: “Giờ đây, nhiều tên phản Kitô đã xuất hiện..... Chúng xuất hiện từ hàng ngũ chúng ta” (1Ga 2, 18). Thời Thánh Gioan Tông đồ đã xảy ra như thế. Thời nay nếu cũng xảy ra như vậy, thì đâu có gì lạ. “Nhiều tên” nghĩa là con số phản Kitô không phải nhỏ. 7. Điều làm tôi ngạc nhiên là những kẻ phản Chúa lại xuất hiện từ hàng ngũ những người đã được Chúa chọn và được Chúa trao trách nhiệm. Ngạc nhiên của tôi được Chúa giải thích bằng sự kiện trong Phúc âm. Phúc âm cho thấy Chúa Giêsu trao chức thánh cho 12 tông đồ, nhưng trong số 12 người ấy, có một kẻ sau đó đã ra hư hỏng, ông phản Chúa, bán Chúa. Ông là Giuđa. Xét cho cùng, Giuđa đã ra hư, là vì mặc dù được Chúa chọn, ông vẫn không luôn vâng lời Chúa mà bước theo đường hẹp, nhưng thích chọn đường rộng rãi thênh thang. Kết quả là đưa tới diệt vong. Chúa phán: “Hãy qua cửa hẹp mà vào Nước Trời, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật, thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14). 8. Lời Chúa phán trên đây làm tôi sợ cho tôi và cho những người được Chúa chọn và trao trách nhiệm. Sợ ở chỗ chúng tôi rất dễ trẽ sang cửa rộng và đường thênh thang. Trẽ những lúc không ngờ, do tự tín, do chủ quan, do áp lực, do mù quáng, do yếu đuối. Thế rồi, hư hỏng này tiếp nối hư hỏng kia, mà không biết dừng lại. Hơn nữa lại tự đeo vào mình những hào quang giả tạo. Tôi lo sợ. Biết đâu mang chức thánh, mà không mang Chúa! Biết đâu chức thánh lại chứa đựng trong những chiếc bình sành đã vỡ vụn! 9. Nhưng lạ lùng thay! Trong số những người tôi tưởng là đã chìm sâu trong vực thẳm hư hỏng, lại bất ngờ nổi lên như những gương sáng về sự được ơn trở về. Hiện nay ơn trở về đang được Chúa ban cho nhiều người một cách lạ lùng. Họ cũng đón nhận ơn trở về một cách lạ lùng. Có những người đã ngã nay được ơn đứng dậy. Có những người nguội lạnh nay được ơn sốt sắng. Có những người đã tốt nay được ơn tốt hơn. Hình như mỗi người ấy đều được ơn trở về riêng tư, chỉ mình họ và Chúa biết. Trường hợp của tôi cũng vậy. Vì thế, tôi vững tin rằng: Chúa đang và sẽ ban ơn trở về cho rất nhiều người, mặc dù tình hình xem ra đang bị tội lỗi khống chế nặng nề khủng khiếp. 10. Riêng tôi, ơn trở về đi kèm với những đau đớn. Tôi đón nhận ơn trở về như thế với nhận thức lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”(Mt 17,24 ). Như vậy, đớn đau tất nhiên phải có do từ bỏ và thánh giá. Những đớn đau ấy sẽ có lợi lớn, bởi vì “ Nếu người ta được cả thế gian mà phải mất linh hồn, thì nào có lợi ích gì” (Mt 17,26). Thành ra đau đớn trở thành một niềm vui thiêng liêng. Nhưng được như vậy, cần có ơn Chúa. Những giúp đỡ của các người tốt cũng là những đỡ nâng quý giá. 11. Kinh nghiệm của tôi về những đớn đau đến nỗi chán sống bây giờ được tôi nhận ra như một ơn Chúa. Nó giúp tôi hiểu tôi là kẻ yếu hèn. Nó giúp tôi thương cảm với những người đau khổ. Nó giúp tôi tìm đến với Chúa. Nó giúp tôi chia sẻ chân thành với các người mang chức thánh. Với kinh nghiệm bản thân, càng ngày tôi càng thấy mình có bổn phận phải gánh tội và đền tội thay cho đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã làm. Triển khai nhận thức đó sẽ giúp tôi phấn đấu và tỉnh thức, cầu nguyện để có những lựa chọn đúng trong việc dùng thời giờ và các điều kiện mình có, hầu có thể dấn thân vào việc cứu đoàn chiên khỏi sa lưới Satan, kéo xuống hỏa ngục. Đó chính là ơn trở về mà Chúa đang ban cho tôi do lòng thương xót Chúa. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Long Xuyên, ngày 29. 6. 2014
Hiện giờ, sức khoẻ của tôi suy giảm rõ rệt. Nếu không chống gậy và không có người dắt, tôi dễ bị vấp ngã khi đi. Nếu không dọn sẵn và không có người nhắc, tôi dễ uống lầm thuốc và sai giờ. Từ sự suy thoái về sức khoẻ thân xác, tôi nghĩ tới sự suy thoái về sức khoẻ tâm hồn. Sức khoẻ tâm hồn có thể suy thoái về nhiều lãnh vực. Ở đây, tôi chỉ xin đề cập tới vài lãnh vực, mà tôi cho là quan trọng hơn. 2. Thứ nhất là suy thoái về khả năng suy nghĩ điều cần suy nghĩ nhất. Theo tôi, điều cần suy nghĩ nhất chính là tình yêu gồm mến Chúa và thương người. Đó là đề tài do Chúa dạy. Tôi phải hiểu đúng ý Chúa, dựa trên Phúc Âm. Mến Chúa yêu người, đó là điều căn bản quan trọng nhất và lớn hơn hết, mà mọi người phải giữ để được rỗi linh hồn. Chúa Giêsu phán: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40). 3. Là người tín hữu, tôi phải biết suy nghĩ thế nào là mến Chúa, thế nào là yêu người. Không có khả năng suy nghĩ điều cần đó, hay đánh mất khả năng suy nghĩ điều cần đó, sẽ là cực kì tai hại. Nhất là khi tôi lại còn là người mục tử. Thực tế cho thấy tình hình cực kì tai hại đó đang xảy ra nơi nhiều người, nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam. 4. Suy nghĩ về mến Chúa yêu người được Chúa Giêsu dạy bằng lời giảng và bằng gương sáng đời sống của Người. Tránh hết sức lối mến Chúa yêu người chỉ bằng hình thức, phô trương, chỉ bằng lời nói hào nhoáng cao vời, chỉ theo ý riêng tìm tư lợi. Nhưng phải thực sự có lửa Chúa Thánh Thần bên trong từng chi tiết mọi việc lớn nhỏ đối với Chúa và đối với mọi người. 5. Khi thực sự có lửa Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, người tín hữu sẽ cảm thấy phải rất khiêm tốn, khi được dấn thân vào mọi việc vui buồn của Nước Chúa, chỉ vì vâng phục ý Chúa. Tôi còn khả năng suy nghĩ như thế không? Hay tôi tự hào khoe khoang chức dấn thân khiêm tốn ấy bằng những nghi lễ tạ ơn hoành tráng, tiệc tùng linh đình. 6. Tôi không nên trả lời một cách chủ quan. Hãy đọc lại lời Chúa Giêsu phán sau đây: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Ta sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-22). Cứ theo bề ngoài, người ta có lý để coi những người làm các việc đạo đức bên ngoài trên đây là để mến Chúa yêu người. Thế nhưng Chúa nhìn thấu suốt bên trong, thì thấy họ làm các việc đó vì mục đích tư lợi theo ý riêng, chứ không theo ý Chúa. Do đó, mà Chúa gọi họ là bọn gian ác. Xét mình, tôi thấy: Nếu không tỉnh thức, tôi cũng dễ rơi vào loại người bị Chúa chúc dữ như thế. 7. Thứ hai là suy thoái về khả năng phân định đúng sai. Sống là một chuyến đi giữa muôn mời gọi, giữa trăm ngả đường. Để tới đích là về với Cha trên trời, tôi phải biết phân định điều đúng nên chọn, điều sai nên tránh, đường nào dẫn tới sự sống đời đời thì đi, đường nào dẫn tới diệt vong muôn đời thì bỏ. Phân định đó là vô cùng quan trọng. 8. Để biết chọn và dám chọn như thế, người tín hữu phải có một đời sống nội tâm dồi dào. Nhờ đó, mà có một sự phân định đúng sai ngay từ một nội tâm biết nhìn mọi sự bằng cái nhìn của trái tim Chúa. Rất nhiều khi, phân định đó không do lý luận, mà do trực giác, vừa thấy là biết liền. Tôi nghĩ, sở dĩ được như thế là do kết hợp chặt chẽ với Chúa nhờ đức mến. Do đó, thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tha thiết tìm ơn cao trọng nhất, trổi vượt hơn cả, đó là đức mến. Ngài nói: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3). 9. Khi biết phân định lửa đức mến là cao quý và cần thiết nhất cho việc tu đức cũng như cho việc truyền giáo, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã chọn con đường tình yêu. Phải nói đúng sự thực: Chọn lựa của thánh nữ là do Chúa. Chúa ban ơn cho thánh nữ, vì thánh nữ sống khiêm nhường, nghèo khó và bé nhỏ. Ngài chỉ ở trong nhà dòng, sống mọi giây phút cho tình yêu, thế mà ngài đã đổi mới được biết bao tâm hồn. Ngài được tôn vinh là một trong các thánh Quan thầy các nhà truyền giáo. Tôi có đức mến thực sự không? (x. 1Cr,4-7) 10. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Suy thoái về khả năng suy nghĩ điều cần suy nghĩ nhất, tức là tình yêu mến Chúa yêu người, rất dễ xảy ra cho tôi. Suy thoái về khả năng phân định tốt xấu, để khẳng định đức mến là trên hết, cũng rất dễ xảy ra cho tôi. Những nguyên do gây nên những suy thoái đó là khá nhiều. Như thiếu tỉnh thức, thiếu cầu nguyện, thiếu phấn đấu. Một nguyên do quan trọng thiết tưởng cũng nên nói ra, đó là dư luận cả trong đạo lẫn ngoài đời đều coi là bình thường những suy thoái đó. Nếu dư luận xấu đó lại có phần của các vị đứng đầu trong đạo, thì tình hình suy thoái đạo đức sẽ rất trầm trọng. Tôi có góp phần nào vào dư luận xấu đó không? 11. Tính cách trầm trọng về sự suy thoái đạo đức xem ra đang xảy ra. Phải nhận là tình hình đạo đức suy thoái trầm trọng bắt nguồn từ sự suy thoái về đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm suy thoái, mà không nhận ra. Hoặc cho dù có nhận ra, những người có trách nhiệm lại tránh né giải quyết sự suy thoái đó. Hơn nữa, lại chấp nhận sự suy thoái đó bằng cách bình thường hoá nó, hoặc che giấu nó bằng những hoạt động bên ngoài vô bổ, hay đạo đức giả hình. Lạy Chúa, xin thương xót con. Xin giúp con sám hối trở về với Chúa. Con là kẻ rất hèn hạ và yếu đuối. Long xuyên, ngày 19.7.2014
1. Đã từ lâu rồi, tôi vẫn hằng cầu nguyện với các thánh tử đạo tại Việt Nam. Điều tôi xin các ngài nhiều nhất là: Xin hãy cầu bầu cùng Chúa cho tôi được ơn làm chứng cho Chúa, cách thích hợp nhất theo thánh ý Chúa, trong tình hình cụ thể đang diễn tiến trên quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi lúc này. 2. Tôi đã được trả lời. Bằng nhiều cách, Chúa soi sáng cho tôi biết: Nhờ lời cầu bầu của các thánh tử đạo tại Việt Nam, Chúa dạy tôi là chọn một cách làm chứng thích hợp nhất, quan trọng nhất về Chúa, đúng với thời điểm này là điều tốt. Cách đó là làm chứng Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi xác tín điều đó. Vì nhiều lý do, như: Các Đức Giáo Hoàng cận đại và đương thời dạy như vậy. Xu hướng đạo đức mạnh nhất hiện nay khuyến khích như vậy. Tâm lý đồng bào Việt Nam hiện nay rất nhạy bén với cách làm chứng như vậy. Tôi an tâm tin tưởng: Thời nay, làm chứng Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót chính là điều Chúa muốn tôi thực hiện một cách triệt để trong chức vụ của tôi. 3. Làm chứng bằng cách nào? Tôi hết sức cầu nguyện. Và Chúa đã thương cho tôi một nền tảng gợi ý vắn tắt rõ rệt và dễ hiểu. Đó là Thánh Vịnh 103 (102). 4. Vua David nêu lên 7 việc cụ thể Chúa đã làm cho ngài. Đó là những lý do ngài nên nhìn lại, để ca tụng Chúa là tình yêu thương xót: “Chúa tha cho ngươi muôn vàn tội lỗi. Chúa thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Chúa cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt. Chúa bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà. Chúa ban cho đời ngươi biết bao hạnh phúc. Chúa khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng. Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức”. Tôi áp dụng mỗi việc trên đây vào cuộc đời của tôi, tôi còn thấy nhiều việc khác nữa. Tôi nhận ra tình yêu Chúa dành cho tôi thực là đặc biệt sống động, đặc biệt riêng tư. 5. Tôi tiếp tục đọc tâm tình của vua David. Ngài nhìn Chúa thế nào, khi Chúa đã thương ngài như thế. “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chẳng trách cứ luôn mãi. Không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét cử. Không trả báo ta xứng với lỗi lầm”. Thánh vịnh ca tụng Chúa đã là như thế, và luôn luôn sẽ mãi là như thế. Tôi thấy rất đúng. Chúa đã đối xử với tôi như vậy. Tôi rất xúc động cách riêng với hai câu này: “Chúa không cứ tội ta mà xét xử. Chúa không trả báo ta xứng với lỗi lầm của ta”. Thực vậy, nếu không như thế, thì tôi đâu có ngày hôm nay. 6. Tình Chúa xót thương thực khó tả. Thánh Vịnh đưa ra 3 hình ảnh: “Như trời cao trổi cao hơn mặt đất, Tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm Tội ta phạm, Chúa cũng ném xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái. Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn”. Riêng tôi, tôi thích nhất hình ảnh người cha. Tất nhiên người cha nói đây là người cha nhân ái, mà Chúa Giêsu gọi là mục tử nhân lành: “Tôi là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tôi nhìn Chúa và cảm tạ Chúa. Chúa Giêsu trên thánh giá nhìn tôi. Người không nói gì, nhưng cái nhìn của Người đã đốt lên trong tôi lửa biết ơn đối với tình yêu mà Ngài dành cho tôi. Người đã hy sinh mạng sống vì tôi. 7. Mà tôi có đáng gì đâu! Thánh Vịnh gợi ý cho tôi thấy tôi là kẻ yếu đuối, hèn mọn. Đây là hai hình ảnh về tôi, theo Thánh Vịnh: “Hẳn Chúa biết: Ta chỉ là cát bụi. ... Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng Một cơn gió thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng không biết mình”. Tuy vậy, lòng Chúa xót thương vẫn âu yếu tôi một cách hết sức đặc biệt. 8. Cảm nhận được điều đó, tôi ca tụng Chúa hết lòng. Việc ca tụng, mà Chúa chờ đợi nơi tôi hơn cả, là hãy sám hối và bác ái. Tôi sám hối vì đã hờ hững đối với những gì tình yêu thương xót Chúa đã dành cho tôi, tôi đã không đáp trả. 9. Một điều quan trọng Chúa muốn tôi thực hiện để đáp trả, là hãy xót thương người khác như Chúa đã xót thương tôi. “Ai yêu mến Thiên Chúa, Thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,21). “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì. Đó là Đức Kitô đã thí mạng sống vì chúng ta, như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng sống vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian, và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được” (1 Ga 3,16-17). 10. Như vậy, theo lời Chúa dạy thì ca tụng ngợi khen Thiên Chúa giàu lòng thương xót đòi tôi hãy sống bác ái đối với người khác. Bác ái đến mức sẵn sàng đổ máu, hy sinh vì anh em, và cũng sẵn sàng đổ mồ hôi, tình yêu và của cải ra để cứu anh em. Chúa nói rất rõ giá trị của những việc bác ái tôi làm cho người khác: “Mỗi lần các con làm bác ái cho một người trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). 11. Trên đây là vắn tắt những gì Chúa dạy tôi về sự phải làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay. Tôi coi những gì Chúa dạy tôi trên đây là một ân huệ rất cao quý Chúa ban cho tôi. Tôi quyết tâm thực hiện, cho dù phải từ bỏ mình rất nhiều. Tôi hay hỏi ý hai thánh tử đạo của giáo phận Long Xuyên là Cha Phêrô Đoàn Công Quý và ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng về mục vụ của tôi tại địa phương này. Luôn luôn tôi được các ngài khuyên bảo và khích lệ về từ thiện bác ái, trong đó hãy đặc biệt lo cho các gia đình được đạo đức, biết xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần sao cho tốt với đạo, với đời. Tôi xin hết lòng cảm ơn hai thánh thân yêu. 12. Xin lưu ý là: Cũng như nơi hai thánh, nơi tôi bác ái đối với người khác đã bắt nguồn từ lòng mến đối với Chúa. Tiến trình được diễn tả qua sự đến với Chúa. Thánh Vịnh 103 (102) là một gợi ý. Nhờ lòng mến Chúa, tôi mới có sức vượt qua được biết bao khó khăn trên đường sống bác ái đối với người khác. Bởi vì, rất nhiều trường hợp, sống bác ái đối với người khác cũng là một thứ tử vì đạo không đổ máu. Để kết, tôi mong muốn mỗi người chúng ta được luôn là bài ca bác ái của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa...”. Long Xuyên, ngày 30.7.2014.
“Người mục tử nhìn giáo phận của mình bằng ánh sáng đức tin, phải chống lại cơn cám dỗ ‘không nhìn, không thấy’. Từ chối nhìn, đó là điều Chúa Giêsu khiển trách nặng nề các người biệt phái và các luật sĩ. Họ đã mù quáng cố chấp dưới nhiều hình thức”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói những lời trên đây, lúc còn là Hồng Y Giáo chủ tại Buenos Airs (25.8.2011). 2. Xét mình, tôi nhận thấy tôi cũng hay bị cám dỗ “không nhìn, không thấy” điều gì xấu trong giáo phận và trong Hội Thánh tại Việt Nam cả. Thế là ảo tưởng để an phận. Cứ chủ quan cho mọi sự đều ổn định, đều tương đối tốt cả. Thế là xong. Nhưng Chúa không cho là xong. Trái lại, trốn tránh nhìn và thấy những điều sai trái trong lãnh vực mình phụ trách, chính là một tội. 3. Nhận thức như thế theo lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi đã dùng ánh sáng đức tin, để nhìn và thấy tại Hội Thánh Việt Nam nói chung và tại giáo phận tôi nói riêng. Tôi thấy tình hình là không ổn định lắm đâu. Hơn thế, có những nơi, nguy cơ bị Chúa ruồng bỏ đang tới gần kề. 4. Thực vậy, Chúa cho tôi thấy cảnh Sôđôma và Gômôra xưa sắp tái diễn ở nơi này nơi nọ, cách này hay cách khác. Nếu “không tìm được 10 người công chính trong thành” (x. St 18,32). Hồi đó, đang khi hầu như mọi người trong thành Sôđôma, Gômôra và các vùng phụ cận đều vui vẻ trong đàng tội, thì lửa từ trời xuống đốt, phá hết mọi sự. Họ không nhìn, không thấy nguy cơ, để sám hối. Nên khi lửa ập tới, họ bị thiêu đốt. Nay, nhiều nơi cũng sẽ như vậy, nếu không thấy nguy cơ, để sám hối. 5. Chúa cũng cho tôi thấy những lời của tiên tri Amos sau đây đang được thực hiện ở nơi này nơi nọ tại Việt Nam hôm nay: “Ta khinh ghét và chê bỏ những ngày lễ trọng của các ngươi. “Ta không thèm ngửi mùi hương trong các ngày hội của các ngươi. “Nếu các ngươi dâng cho Ta của lễ toàn thiêu và phẩm vật, Ta sẽ không chấp nhận. “Ta cũng không nhìn đến các lễ khấn tốt đẹp của các ngươi, ngươi hãy mang đi cho xa Ta giọng hát lời ca của ngươi. “Ta sẽ không nghe tiếng đàn cả của ngươi” (Am 5,21-24). Xưa, thời tiên tri Amos, dân Chúa cũng đã có những lễ lạy tưng bừng, nhưng Chúa thấy chỉ là hình thức phô trương, nên Chúa ruồng bỏ, để sau đó bị hình phạt trút xuống. Nay nhiều nơi cũng vậy. Khi hình phạt trút xuống, thì chúng ta sẽ rất khổ. 6. Chúa cũng cho tôi thấy cảnh đền thờ nơi này chỗ nọ sẽ bị phá như lời Chúa phán xưa với các môn đệ: “Khi Đức Giêsu từ Đền thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình kiến trúc của Đền thờ. Nhưng Người nói: Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: Tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Tất cả đều sẽ bị phá đi” (Mt 24,1-2). Xưa, dân Chúa rất tự hào về đền thờ của mình, tưởng đó là công trình được Chúa bảo vệ. Nhưng, Chúa đã để đền thờ đó bị phá một cách thảm thương, do tội lỗi của dân. Nay nhiều đền thờ cũng đang đợi số phận đó. Sao ta không nhìn thấy trước. 7. Không nhìn và không thấy tai hoạ sắp xảy ra cho mình, đó là một nguy cơ rất lớn. Do đâu chúng ta không nhìn và không thấy? Dưới đây là một số nhận xét của các nhà tu đức. 8. Thứ nhất là thói quen không đặt mình vào những bổn phận thực sự của mình, nhưng lại hăng hái ràng buộc mình vào những bổn phận giả và những quyền lợi giả, rồi lao mình theo hướng đó một cách hăng say. Để rồi ghen tương với những ai luôn trung thành với những bổn phận thực sự của mình. Do đó, mà ghen tương và dối trá khiến họ không nhìn, không thấy sự thực. 9. Thứ hai là thói quen thiếu vắng đời sống nội tâm, không biết phân biệt việc gì là có giá trị Phúc Âm, việc gì không có giá trị đó, nhưng việc gì cũng coi như nhau. Do đó, họ không nhìn, không thấy. 10. Thứ ba là thói quen chấp nhận lối sống mất định hướng nội tâm, để mình bị lôi cuốn vào những sức mạnh trực tiếp, do tính xấu, do dư luận, do ma quỷ. 11. Thứ bốn là thói quen sống cuộc đời đầy mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, và giữa những việc làm với nhau. Nơi họ có một sự mất trật tự trong hoạt động, trong lời nói, trong tình cảm. 12. Thứ năm là thói quen tự hào mình là người thánh thiện, do tuân giữ những luật lệ nhất định, do tin tưởng vào những khuôn đạo đức nhất định. Họ giống như phần đông các người đứng đầu đạo cũ thời Chúa Giêsu. Sự tự đắc của họ làm cho họ không sao nhìn thấy nguy cơ gây nên do sự tự đắc đó. Nay cũng vậy. Nhiều người tự đắc cho mình là kẻ ban phát sự thánh thiện, nên thiếu sự khiêm nhường và nghèo khó nội tâm. Do đó trở nên mù quáng, và nô lệ chính sự tự đắc của mình. 13. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là làm thế nào, để ta nhìn và thấy? Thưa cách tốt nhất và duy nhất tốt, đó là nghe lời Chúa và thực thi lời Chúa, mà ở lại trong Chúa: “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). “Ở lại trong Chúa” không phải là chuyện chỉ do chúng ta muốn mà được, mà chủ yếu là do Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Rất nhiều khi, để ở lại trong Chúa, tôi được Chúa Thánh Thần dẫn đưa tôi đi gặp những con người, để phục vụ họ, để cứu họ, để chia sẻ với họ. Đến nỗi, có thể nói: Chính sự yêu thương con người lại là dấu chỉ của sự tôi ở lại trong Chúa, như lời Chúa phán: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,35). 14. Tôi có cảm tưởng là sẽ có ngày chúng ta bị đưa vào một hoàn cảnh khó khăn với nhiều thử thách đau đớn. Chúng ta xin Chúa thương chuẩn bị cho chúng ta, ngay từ bây giờ, biết một đàng gắn bó chặt chẽ với Chúa, một đàng biết biết yêu thương mọi người như Chúa yêu thương. Tắt một lời là chúng ta sẵn sàng làm của lễ hy sinh với tất cả tinh thần khiêm tốn, từ bỏ và phó thác. Trong hoàn cảnh khó khăn với nhiều thử thách đau đớn, chúng ta sẽ không còn được giữ đạo và làm chứng cho Chúa một cách nhàn hạ và với một cách dành cho những thành phần ưu tú nữa. Nhưng sẽ rất khiêm tốn, khó nghèo như một kẻ nghèo hèn. Một tay nắm chặt lấy Chúa, một tay nắm chặt lấy cộng đoàn những người thiện chí. Lạy Chúa, xin thương giúp con biết nhìn, biết thấy những thử thách sắp tới.
Đã lâu rồi, tôi hay nghĩ đến sự chết. Tôi nghĩ đến sự chết của những người khác một cách thấm thía. Tôi nghĩ đến sự chết của tôi một cách sâu xa, như một biến cố duy nhất nghiêm trọng, sẽ chỉ xảy ra một lần với hậu quả đời đời vô cùng vô tận. Nghĩ đến sự chết, tôi thường nghĩ đến đất là nơi đón nhận mọi người chết. Tự nhiên tôi yêu thích đất. Có một sức thiêng thúc giục tôi hãy cầu nguyện, xin Chúa cho tôi ngay từ bây giờ, hãy là mảnh đất tốt trước mặt Chúa. 2. Chúa thương nhận lời tôi. Với ánh sáng Phúc Âm, Chúa cho tôi thấy hai mảnh đất sau đây có thể gọi được là ơn gọi cho tôi. Mảnh đất thứ nhất là mảnh đất được chăm sóc biết đón nhận những hạt giống tốt, làm cho những hạt giống tốt đó sinh hoa kết quả. Mảnh đất như thế đã được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn người gieo giống (Mt 13,4-23). Khác với mảnh đất ở bên vệ đường bỏ mặc chim thú, cũng khác với mảnh đất có nhiều sỏi đá, cũng khác với mảnh đất ở giữa bụi gai, mảnh đất tốt là mảnh đất được chăm sóc. Lời Chúa gieo vào đó được hiểu đúng và sinh hoa kết quả từng chục, từng trăm. 3. Ơn Chúa và kinh nghiệm cho tôi thấy mỗi người có thể ví như một mảnh đất sẽ được nhiều thứ hạt giống gieo vào. Phải là hạt giống tốt, và đất cũng phải được chăm sóc tốt, thì mới trổ sinh ra được hoa trái tốt. 4. Tôi có là mảnh đất tốt mà Chúa muốn không? Xét mình, tôi thấy tôi có trách nhiệm lớn về việc giáo dục đối với bản thân mình. Giáo dục nhân bản, giáo dục trí thức, giáo dục tu đức theo Phúc Âm là những giáo dục tôi phải thường xuyên thực hiện đối với bản thân mình. Giáo dục nào cũng đòi một kỷ luật nội tâm và lối sống. Giáo dục như thế là một đào tạo con người về hướng đạo đức, để sống giữa đời, tôi biết đón nhận những hạt giống tốt. Nếu không, tôi rất dễ ra hư hỏng. 5. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Con người ta sẽ rất dễ hư hỏng, khi không được giáo dục tốt, như giáo dục chỉ đặt nặng về lý thuyết, mà lơ là về kỷ luật và phấn đấu, cũng như tránh tập luyện trong những khó khăn. Tôi xin phép được nói về một kinh nghiệm riêng tư. 6. Nền giáo dục tôi nhận được từ gia đình phải nói là khá vững về nhân bản và về Phúc Âm. Giáo dục đó đòi hỏi tôi nhiều phấn đấu để được biến đổi thành người tốt. Nền giáo dục tôi nhận được từ nhà Đức Chúa Trời và từ các chủng viện, cũng phải nhận là rất vững về nhân bản, về trí thức và về Phúc Âm. Giáo dục đó đòi hỏi nhiều dấn thân, cầu nguyện và tỉnh thức để biết tự hạ, luôn tìm thực thi ý Chúa. Nền giáo dục tôi nhận được từ các chức vụ trong Hội Thánh, hầu hết là trong những năm khó khăn gian khổ, cũng phải nói là rất sát với Công đồng Vatican II và khuynh hướng tu đức của các Đức Giáo Hoàng cận đại. Giáo dục đó đòi hỏi nhiều từ bỏ mình, để phó thác cậy tin ở Chúa Thánh Thần và khao khát Lời Chúa. Tất cả đều nhờ ơn Chúa. Xin Chúa trả công bội hậu cho mọi người đã góp phần giáo dục tôi. 7. Nói chung, các nền giáo dục đó đã giúp tôi trở thành một mảnh đất thuận lợi tương đối để đón nhận Lời Chúa. Lời Chúa được gieo vào mảnh đất lòng tôi thì nhiều, nhưng xem ra Lời Chúa được Chúa nhấn mạnh hơn trong tôi là “Những gì tốt con làm cho những kẻ bé nhỏ nhất của Ta, là con làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Lời đó đã làm cho đời tôi trở thành một chuỗi dài thao thức trước những nỗi khổ đau của mọi đồng bào. Phải chăng đó là ơn gọi của tôi. Tôi cảm tạ Chúa hết lòng vì ơn gọi đó. Ơn gọi đó đã giúp tôi gặp được Chúa trong bao người đau khổ. 8. Mảnh đất thứ hai cũng gọi được là mảnh đất ơn gọi của tôi, đó là mảnh đất được Chúa viết lên trên. Phúc Âm thánh Gioan kể rằng: “Các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Moisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Họ nói thế, nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Người lại cúi xuống mà viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: Này chị, họ đâu cả rồi. Không ai lên án chị sao? Người phụ nữ đáp: Thưa ông, không có ai cả. Đức Giêsu nói: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,3-11). 9. Khi đọc đoạn Phúc Âm trên đây, tự nhiên tôi để ý đến mảnh đất được Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay mà viết lên trên. Chúa viết gì, thì tác giả Phúc Âm không ghi lại. Chỉ biết rằng: Nhờ sự Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đó, mà người phụ nữ kia đã được tha. Chị không những được tha tội, mà còn được tha cả hình phạt nặng nề mà luật pháp dành cho chị. Mảnh đất ấy gợi lên trong tôi một ơn gọi. Hãy biết đón nhận và cho đi những cử chỉ khiêm tốn. 10. Khi tôi cầu xin Chúa cho tôi được là mảnh đất như vậy, thì Chúa dạy tôi hãy ở hiền lành và khiêm nhường. Tôi cố gắng sống như Chúa dạy. Kết quả tôi thấy được là sự hiền lành và khiêm nhường rất hữu hiệu trong việc cứu người ta khỏi tội và hình phạt bởi tội. Với sự hiền lành và khiêm nhường, mảnh đất như thế sẽ là một tiếng kêu về chân lý và về hy vọng. Chân lý, đó là cả người phụ nữ ấy, cả những người tố cáo người phụ nữ ấy, đều phải nhận mình có tội, cần phải hối cải. Hy vọng, đó là Thiên Chúa giàu lòng thương xót sẽ tha thứ cho họ. Trong cuộc sống mục vụ, tôi cố gắng sống như mảnh đất đó. Chúa giúp tôi, chứ tự sức tôi không thực hiện được. Không ngờ, với sự hiền lành và khiêm tốn, người mục tử nhiều khi đã có thể ra đi rất xa và rất sâu trong việc loan báo Tin Mừng. 11. Những gì tôi vừa chia sẻ đang giúp tôi đi tới mảnh đất chôn tôi sẽ mang tấm bảng: An nghỉ trong bình an của Chúa. Ngay từ bây giờ, tôi tha thiết cầu nguyện cho tôi cũng được trở thành những mảnh đất bình an làm chứng về tình thương, hiền lành và khiêm nhường. Chỉ là mảnh đất nhỏ thôi. Tôi rất xấu hổ, khi được người ta cầu xin cho trở thành ngọn đèn soi sáng trần gian. Ơn gọi đó sẽ dành cho những người khác. Còn tôi là kẻ hèn hạ, nếu được là mảnh đất tốt nhỏ bé âm thầm, thì đó đã là một hồng ân cao quí đem lại sự bình an và hạnh phúc cho tôi rồi. Lạy Chúa, con rất yếu đuối. Mỗi ngày con sẽ bắt đầu lại trên đường theo tiếng Chúa gọi con. Xin Chúa xót thương con. Xin mọi người thương cầu nguyện cho tôi Long xuyên ngày 25.7.2014
Suốt đêm vọng lễ Đức Mẹ lên trời, tôi dọn mình bằng cầu nguyện một cách đơn sơ, đó là lần chuỗi Mân côi. Tôi ngủ, mà cũng chiêm bao về Đức Mẹ. Tôi mơ ngồi trên một toa xe nhỏ đi về cõi sau. Trong xe có một phụ nữ dáng người mẹ và một số tín hữu nam nữ. Người phụ nữ ấy lần chuỗi và khuyên chúng tôi lần chuỗi. Tôi cầu nguyện trong tâm tình yêu thương nhau và mến yêu Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường. Lòng tôi cảm thấy đầy bình an vui mừng và hân hoan lạ lùng. 2. Tôi thức rất sớm. Trước khi dâng thánh lễ, tôi thầm nói với Chúa rằng: Hiện nay con già yếu bệnh tật, con chẳng làm được gì đáng kể để mừng kính Đức Mẹ. Xin Chúa dạy con nên làm gì. Tôi ra sân, bất ngờ tôi thấy một bông hoa mai trái mùa mới nở. Chúa thầm bảo tôi: Con hãy là một bông hoa nhỏ. Dù trong đêm tối, hoa vẫn là hoa. Đó là một của lễ. Hoa thiêng liêng ấy đẹp thơm, vì vâng phục thánh ý Chúa. Như Đức Mẹ xưa. Mẹ đã “Xin vâng” trong ngày truyền tin. Mẹ đã sống “Xin vâng” suốt cả cuộc đời.
3. Tôi dâng thánh lễ, với tâm tình xin Chúa cho tôi biết sống xin vâng, theo gương Đức Mẹ. Chúa đã nhậm lời tôi nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Trong thánh lễ, Chúa dạy tôi ba điều Đức Mẹ đã sống “Xin vâng” một cách sâu sắc nhất. 4. Điều thứ nhất của Xin Vâng là sống khiêm nhường. Ngay đầu thánh lễ, Chúa dạy tôi hãy xin vâng, mà thú nhận mình hèn mọn, tội lỗi. Hãy theo gương Mẹ. Đức Mẹ rất khiêm nhường trước Chúa và trước mọi người. Khi được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ đã lặng lẽ âm thầm sống ơn gọi đặc biệt đó. Không phô trương, không loan báo cho ai, không tổ chức ăn mừng. Mẹ hạ mình xuống, nhận mình chỉ là người đầy tớ bất xứng của Chúa. Với nhận thức như thế về Mẹ, tôi đọc kinh “Cáo mình” đầu thánh lễ. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Tôi thực tình sám hối. Chỉ trách tội mình, chứ không trách tội người khác. Tôi tin Chúa cứu tôi khỏi tội. Mãi mãi tôi vẫn là một kẻ yếu đuối tội lỗi, nhưng được Chúa thứ tha, giải cứu. Khiêm nhường như thế chính là sống theo sự thực, đúng thánh ý Chúa. 5. Điều thứ hai của Xin Vâng là sống thân mật với Chúa, tức vâng phục ý Chúa. Trong thánh lễ, Hội Thánh luôn nhắc tôi về sự được tham dự vào sự sống của Chúa, được nên giống Đức Kitô, cần phải ở lại trong Chúa và trong Lời Chúa. Đức Mẹ xưa đã triệt để sống như vậy. Xin vâng của Mẹ là ưu tiên sống mật thiết với Chúa. Sống mât thiết này không hệ tại tình cảm, mà là vâng phục ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu đã phán: “Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Đức Mẹ cũng đã coi sự vâng phục ý Chúa như lương thực của mình. Thánh lễ dạy tôi điều đó. Thực thi đúng ý Chúa mới chính là sống thân mật với Chúa. Nhưng biết được đúng ý Chúa và thực thi đúng ý Chúa là điều không dễ chút nào. Nhiều khi tôi nghĩ cứ làm theo thiện chí là làm theo ý Chúa. Nhưng Phúc Âm dạy, tôi nghĩ thế là sai. Khi nghe Chúa Giêsu nói Người sẽ bị nhiều đau khổ và sẽ bị giết, thánh Phêrô đã phản ứng: “Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! Nghe vậy Chúa Giêsu đã mắng thánh Phêrô: ‘Satan, lui lại đàng sau’. Anh cản Thầy, tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của con người” (Mt 16,21-23). Rồi, khi Chúa Giêsu vào nhà chị em Marta và Maria, Marta lo dọn nhiều món ăn và vất vả nhiều chuẩn bị để đãi Chúa. Nhưng Chúa lại nói: “Marta, sao con lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” (Lc 10,41). Rõ ràng thiện chí của con người không luôn đúng với điều Chúa muốn. Hiểu được như vậy đã giúp tôi tỉnh táo hơn trong việc sống thân mật tình cảm với Chúa và sống theo thiện chí. Tưởng sống như thế luôn là ý Chúa, sẽ có thể rât sai. 6. Tại Việt Nam hôm nay đang nở rộ nhiều phong trào đạo đức, nhiều khuynh hướng làm sáng danh Chúa, nhiều hình thức làm chứng cho Chúa. Nhưng, tất cả những thứ đó có thực sự là đúng ý Chúa không? Hay chỉ là thiện chí, cạnh tranh, tục lệ, ý kiến phô trương, xây dựng uy tín, kiếm tìm lợi lộc vật chất? Tôi dám nghĩ rằng: Ma quỷ sẽ khôn khéo dùng chính những việc đạo không phải ý Chúa, để mà phá đạo. Vì thế, phải rất tỉnh thức trong thời buổi này. Ý Chúa chỉ được tỏ ra cho những ai khiêm nhường, quyết tâm đi vào cửa hẹp và đường nhỏ hẹp, từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. 7. Điều thứ ba của Xin Vâng là yêu thương bác ái. Xưa, Đức Mẹ đã biết lãnh nhận và đã biết cho đi. Dù lãnh nhận, dù cho đi, Đức Mẹ đã luôn khiêm nhường, tế nhị, và biết ơn. Điều Đức Mẹ dạy tôi rõ ràng nhất về yêu thương bác ái là sự Đức Mẹ đồng công cứu chuộc loài người. Cứu người dù phải hy sinh đến mấy, đó là điều xin vâng cao quý nhất. Đức Mẹ luôn nhắc bảo tôi về yêu thương bác ái, với hình ảnh Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Trong giờ phút cám ơn cuối thánh lễ, tôi nói với Đức Mẹ rằng: Con chẳng có gì để cho đi. Hiện giờ con già yếu bệnh tật, nghèo nàn về mọi phương diện. Con xin Mẹ, cho con được là viên gạch nhỏ lát nền, để mọi người bước qua, mà đến với Chúa. Đức Mẹ cho tôi biết: Ý kiến đó của tôi chưa hẳn là đúng ý Chúa. Ý Chúa chắc chắn nhất về tôi lúc này, là hãy cảm tạ ngợi khen Chúa về muôn vàn người tốt, sự thiện tốt và hy vọng tốt, mà Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi hiện đang có một cách đặc biệt. 8. Thế là một ngày mừng kính Đức Mẹ đã qua đi, để lại trong tôi rất nhiều hồng phúc. Tôi thầm đọc đi đọc lại kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, mà Đức Mẹ đã thốt lên tại nhà bà thánh Elisabét. Tôi vừa đọc kinh đó, vừa bước từng bước nhỏ, để về phòng. Bước nhỏ, mà cũng phải chống gậy. Tôi nói với Đức Mẹ: “Con yếu đuối lắm. Xin Mẹ thương dắt con đi từng bước nhỏ trên đường xin vâng. Cùng với Mẹ, con tin Cha trên trời luôn có những chương trình thương xót đối với con. Con xin vâng với hết lòng cảm tạ. Long Xuyên, ngày 18.8.2014.
Tôi thuộc kinh Lạy Nữ Vương từ lúc còn rất nhỏ. Khi đọc kinh đó, tôi chào Đức Mẹ là Nữ Vương. Còn khi nói với Đức Mẹ, tôi luôn gọi Đức Mẹ là Mẹ. Cũng may, mà kinh Lạy Nữ Vương chỉ bắt đầu bằng từ Nữ Vương, nhưng ngay liền đó, đã tiếp nối bằng từ Mẹ. “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”. Nhìn Đức Mẹ và gọi Đức Mẹ là Mẹ dễ thương như vậy, tôi cảm thấy gần gũi và âu yếm ngọt ngào. 2. Với những lời kinh sau lời chào đó, tôi hay tâm sự với Mẹ về cuộc đời của tôi, một cuộc đời với bao nỗi lầm than, long đong, khổ sở. Tôi cảm thấy Mẹ âm thầm chia sẻ với tôi, Mẹ lặng lẽ ủi an tôi. Dần dần, tôi được Mẹ cho tôi ơn xin ở cuối kinh, là được thấy Chúa Giêsu, Con của Mẹ. 3. Chúa Giêsu, Con của Mẹ, do Mẹ cho thấy, là Đấng đã đổ máu mình ra, để cho tôi và nhiều người được tha tội. Càng thấy Chúa Giêsu là như thế, tôi càng nhận ra tôi là kẻ tội lỗi, cần phải xin ơn tha thứ. Nhận ra mình là kẻ chìm sâu trong vực thẳm tội lỗi, tôi cảm thấy tôi rất mọn hèn. Mẹ dạy tôi hãy từ thân phận hèn mọn đó, mà cầu nguyện. Mẹ dạy tôi nhìn lên Chúa Giêsu, tha thiết xin đón nhận ơn Chúa cứu chuộc. 4. Khi tôi thực sự tha thiết muốn đón nhận ơn Chúa Cứu Chuộc, Mẹ lại dạy tôi là hãy chân thành cộng tác với ơn Chúa, mà biến đổi trái tim mình. Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh vương Đavít: 5. “Của lễ con dâng là trái tim tan nát, khiêm cung” (Tv 50,19). Mẹ muốn trái tim tôi hãy là trái tim khiêm nhường sám hối. Khiêm nhường sám hối đòi một sự quên mình sâu sắc, để chỉ tìm ý Chúa mà thôi. Mà ý Chúa thế nào, thì chỉ Thánh Thần Chúa mới rõ. Tôi phải rất khiêm tốn lắng nghe Thánh Thần Chúa soi dẫn. Dần dần, tôi được Mẹ dạy bảo là với ơn Chúa Thánh Thần, trái tim tôi, nếu chịu tan nát khiêm cung, thì sẽ bỏ đi được tình trạng xơ cứng, mà trở thành mềm mỏng, bén nhạy với những gì Chúa muốn. Tôi xin vâng. Mẹ còn dạy tôi thêm một điều nữa, mà thánh vương Đavít xưa đã thưa với Chúa: 6. “Xin Chúa tạo cho con một trái tim trong trắng” (Tv 50,12). Trái tim trong trắng là thế nào? Mẹ dạy tôi là trái tim biết dứt lìa những thứ gọi là hưởng thụ. Hưởng thụ gồm các thứ đam mê, ước muốn lôi kéo tôi xa Chúa. Không phải chỉ những thú vui xác thịt, mà cũng gồm cả loại kiếm tìm những gì về tinh thần hầu thoả mãn sự kiêu căng ích kỷ. 7. Biến đổi trái tim, tức biến đổi tấm lòng như thế, là điều không dễ chút nào. Mẹ rõ điều đó, nên Mẹ cho tôi biết là: Chúa không đòi tôi phải thành công hoàn toàn trong việc biến đổi khó khăn đó. Nhưng Chúa sẽ rất hài lòng, nếu thấy tôi chịu khó và can đảm trên con đường biến đổi trái tim mình. 8. Tôi nhìn vào trái tim Mẹ. Tôi tha thiết xin Mẹ cho trái tim tôi được một chút nào của trái tim Mẹ, để tôi sống ơn gọi của trái tim được đổi mới tại Việt Nam hôm nay. 9. Với một cách rất âm thầm, Mẹ dạy tôi là hãy rất tỉnh thức về một nguy cơ đang ngầm phá các trái tim những người có đạo tại Việt Nam hiện giờ. Nguy cơ đó là sự xung đột trong nội bộ. Xung đột giữa nhóm này với nhóm kia, giữa phong trào đạo đức này với phong trào đạo đức kia, giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa cộng đoàn nọ với cộng đoàn kia. Xung đột do ganh tị, do cạnh tranh, do tìm lợi ích riêng, do thành kiến, do bị lôi cuốn. Xung đột, nên xa nhau, hạ nhau và loại trừ nhau. Xung đột dưới nhiều hình thức đạo đức giả. Từ nhân danh truyền thống đến nhân danh làm sáng danh Chúa. Những xung đột đó đang làm suy yếu Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay một cách thê thảm. Thành ra, thay vì trái tim được biến đổi nên hình ảnh trái tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thì lại vô tình dễ biến đổi thành trái tim những kẻ phá đạo. 10. Như để cảnh giác tôi một cách cương quyết, Mẹ cho tôi đọc loại tiên tri Êdêkien, đoạn nói về các chủ chiên thời đó. Tôi xin trích lại cho chính tôi, vì tôi là một chủ chiên. Nhờ vậy, tôi lo biến đổi trái tim mình. “Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Khốn cho các chủ chiên Israel. Họ chỉ lo nuôi chính bản thân. Chớ thì các chủ chiên không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao? Các ngươi đã uống sữa chiên, đã mặc áo lông chiên. Hễ con nào béo tốt, các ngươi làm thịt. Con nào yếu đuối, các ngươi không bổ dưỡng. Con nào đau ốm, các ngươi không chạy chữa. Con nào bị thương, các ngươi không băng bó. Con nào đi lạc, các ngươi không đem về. Con nào đi mất, các ngươi không tìm kiếm. Các ngươi chăn dắt chúng bằng bạo lực và nghiêm khắc. Các chiên Ta tản mác vì thiếu chủ chăn, chúng làm mồi cho thú dữ ngoài đồng...” (Ed 31,1-11). 11. Với những lời khiển trách nghiêm khắc trên đây của tiên tri Êdêkien, Chúa dạy tôi là hãy có trái tim biết yêu thương thực sự những kẻ Chúa trao phó cho tôi. Yêu thương vị tha. Yêu thương quên mình. Như Chúa Giêsu trên thánh giá. Như Đức Mẹ dưới chân thánh giá. Nếu được biến đổi là một trái tim như thế, tôi sẽ là một của lễ đẹp ý Chúa Cha. Cho dù thời cuộc sẽ tối tắm đến mấy, trái tim của lễ như vậy vẫn sẽ là một chứng nhân đích thực cho Nước Thiên Chúa là Nước Tình Yêu. Lạy Mẹ giàu lòng thương xót, xin Mẹ luôn giúp con biết cộng tác với ơn Chúa trong việc biến đổi trái tim tội lỗi, yếu đuối, mọn hèn của con. Long Xuyên, ngày 22. 8. 2014 Lễ Mẹ Maria, Nữ Vương
Một nhà báo Mỹ mới bị một nhóm Hồi giáo cực đoan cắt đầu. Tôi đọc tin và thấy hình ảnh trên các phương tiện truyền thông. Như một phản ứng tự nhiên, tôi thổn thức kêu lên với Chúa: Lạy Chúa, sự kiện khủng khiếp này đang báo cho con điều gì? Chúa trả lời tôi trong tận đáy lòng tôi: Nó báo hiệu sự lớn mạnh của tội ác. Nhiều người hiện nay đang tự hào dám nghĩ dám làm điều ác, mà họ cho là đúng, là phải, theo ý riêng của họ. 2. Chúa báo cho tôi thêm điều nữa: Ngay chính trong đạo Chúa cũng đã xảy ra như thế. Phúc Âm còn ghi rõ: Hồi đó nhiều người thuộc giới lãnh đạo tôn giáo và nhiều người thuộc giới đạo đức đã âm mưu giết Chúa Giêsu. Sau cùng, họ đã vận động được đám đông dân chúng có đạo đồng thanh xin giết Chúa Giêsu. Họ đã dám nghĩ dám làm điều ác, mà họ cho là đúng, là phải. Và họ đã tự hào về sự họ dám nghĩ dám làm một điều đại ác như thế. 3. Chúa dạy tôi thêm là: Tội ác tự nó gây nên hậu quả xấu. Hậu quả xấu nhất là hình phạt. Hình phạt có thể ở đời này, nhưng nhất là ở đời sau. 4. Chúa còn nhắc bảo tôi là: Những gì đã xảy ra xưa và đang xảy ra lúc này ở nơi nọ nơi kia, cũng có thể xảy ra ngay trong cộng đoàn của tôi, và ngay trong chính bản thân tôi. Cùng lúc, Chúa cho tôi thấy: Nếu không tỉnh thức, thảm cảnh người nọ cắt đầu người kia, đóng đinh người nọ cũng đang xảy ra dưới nhiều hình thức, ngay trong gia đình ruột thịt và thiêng liêng. Nếu không khiêm tốn tỉnh thức, biết đâu chính tôi cũng đang dính vào những tội ác ghê tởm đó. Xưa, Chúa Giêsu gọi các Luật sĩ và Pharisêu là những kẻ đui mù. Họ có mắt, mà không nhìn thấy sự thật về tội ác ngay trong chính bản thân họ. Mù rồi lại dắt người mù, khi họ đứng ra dạy dỗ, đào tạo các người khác về đạo đức. Nghe Chúa nói như thế, tôi rất sợ cho bản thân tôi. 5. Tôi tha thiết và khẩn khoản xin Chúa cứu tôi. Tôi gặp Chúa Giêsu. Người thương đến với tôi. Ở bên Người, tôi quên hết mọi sự. Tôi trở nên rất bé nhỏ. Người nhấn mạnh đến mấy điều sau đây: Một là hãy tin vững chắc vào Người. Người là Đấng cứu độ. Chính Người là Đấng sẽ phán xét mọi người. Chính Người là Đấng đưa tôi về với Chúa Cha. Với ánh sáng Phúc Âm, Chúa Giêsu cho tôi thấy rất nhiều người cho việc mình dám nghĩ dám làm là đáng tự hào, nhưng thực sự trước mặt Chúa, họ lại rất xa thánh ý Chúa. Cũng thế, nhiều người tưởng sức mạnh cứu độ sẽ đưa họ về thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời, tránh được hoả ngục, là những giá trị trần thế, như khoa học, tiền bạc, quyền thế. Tưởng như thế là rất sai. Chúa Giêsu cho thấy: Sức mạnh cứu độ chính là những giá trị đạo đức, như khiêm tốn, bác ái, cầu nguyện và hy sinh quên mình theo gương Chúa Giêsu. Những giá trị trần thế tuy là cần thiết, nhưng bỏ Chúa để theo chúng là sai. Vì thế, tôi được ơn xác tín là: Tôi phải trở về với Chúa Giêsu. Phải tin vào Người. Phải bước theo Người. Phải ở lại bên Người. Phải gắn bó với lời Người. Phải trung thành với thánh giá của Người. 6. Hai là hãy có một cái nhìn báo động. Báo động cho con cái Chúa về cái xấu phải tránh, cái tốt phải làm, đó là điều tình yêu Chúa vẫn thực hiện trong lịch sử cứu độ. Phúc Âm đầy những báo động. Thánh Gioan Tiền Hô nói: “Cái rìu đã để sát gốc cây” (Mt 3,10). Với lời đó, Ngài báo động về hình phạt sắp tới. Chúa Giêsu nhìn thành Giêrusalem mà khóc (Lc 19,41). Nước mắt của Chúa Giêsu là một báo động về một tương lai thê thảm sẽ xảy ra cho thành. Ở La Salette, Đức Mẹ hiện ra, ôm mặt khóc. Mẹ báo động cho con cái Mẹ về những tai hoạ sẽ xảy ra, nếu con cái Mẹ không sám hối. Ở Fatima, Đức Mẹ cho ba trẻ thấy một cảnh khủng khiếp sẽ xảy ra cho Hội Thánh. Mẹ báo động về một đại hoạ nếu nhân loại không sám hối. Đức Thánh Cha Phanxicô, với những cải cách mạnh mẽ của Ngài, cũng đang báo động về sự các môn đệ Chúa cần phải sống nghèo và lo cho người nghèo. Nếu không đạo sẽ xuống dốc. 7. Hãy nhận ra những báo động, Chúa gởi đến qua Phúc Âm, qua lịch sử và qua tình hình đang xảy ra, đó là điều Chúa thôi thúc tôi lúc này. Nhìn vào tình hình, Chúa cho tôi thấy có một cái gì không tốt đang xảy ra tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam lúc này, khi người ta quá chú trọng đến Hội Thánh là cơ chế, tổ chức hữu hình, mà lơ là với Chúa Giêsu, Đấng linh thiêng, là Đầu và là Hồn của Hội Thánh. Do đó, mà nhiều người sốt sắng với lễ nghi, nhưng không cầu nguyện, nhiều người nhiệt thành sống nhập thế, nhưng bỏ tinh thần khổ chế, nhiều người hao mòn vì đạo đức phô trương, mà trống trải nghèo nàn về đời sống nội tâm. 8. Trước một tình hình có nhiều báo động như vậy, tôi phải làm gì? Tôi khiêm tốn hỏi Chúa. Chúa đã trả lời tôi: “Con hãy thêm lửa yêu mến thực nhiều”. Vâng lời Chúa, tôi chú trọng nhiều hơn đến đức mến. Thú thực là yêu mến trên lý thuyết thì tôi biết khá nhiều, nhưng giữa lý thuyết và thực hành là một khoảng cách rất xa. Vì thế, thực hành đức mến nơi tôi đã khởi đi từ việc cầu nguyện với Thần Linh của Đức Giêsu. 9. Kết quả, là chính Thần Linh của Đức Giêsu đã đốt lên trong tôi lửa yêu mến. Lửa yêu mến này lấy từ lửa trong Chúa, một thứ lửa là như bản tính của Chúa, để Chúa chính là tình yêu. Một khi có được chút lửa tình yêu do Thần Linh Đức Giêsu đốt lên trong lòng, tôi cảm thấy mình được đổi mới thực sự. Tôi nhìn mọi người với cái nhìn của Trái Tim Chúa. Tôi chịu mọi khổ đau với tinh thần hy sinh của Trái Tim Chúa. Tôi sám hối mọi tội lỗi tôi với tâm tình phó thác tuyệt đối nơi Trái Tim Chúa. 10. Nhưng, phải nói thực là, từ khi được Chúa đốt lên trong tôi ngọn lửa yêu mến, dù rất nhỏ, tôi vui hơn trước rất nhiều, nhưng tôi cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu cam go, nhưng hy vọng tràn trề, vì tôi nhìn thấy: Tình hình dù có chuyển biến nguy hiểm đến đâu, các con cái Chúa nhờ ơn Chúa thương, vẫn thấy được đời mình nở hoa thơm đẹp dù âm thầm bé nhỏ, những hoa yêu thương ấy góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa là tình yêu. Cứu độ là viêc của Chúa. Chỉ Chúa mới cứu độ được con người khỏi tội. Còn tôi, bé nhỏ, sẽ ở lại bên Người, để vâng lời Người, mà làm những viêc bé nhỏ mà Chúa dạy tôi làm. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa hết lòng vì tất cả những gì Chúa đã yêu thương con, mặc dù con bất xứng, mọn hèn, tội lỗi. Long Xuyên, ngày 28.8.2014 Lễ Thánh Âu Tinh
Đã từ lâu tôi cố gắng viết những bài chia sẻ. Những bài này có rất nhiều giới hạn. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cảm tạ Chúa vì đã thương ban ơn giúp tôi dâng lên Người những lễ vật bé mọn, hợp với thân phận hèn mọn của tôi. Hôm nay, với tâm tình biết ơn, tôi xin được phép chia sẻ về hành trình chuỗi dài chia sẻ của tôi. 2. Mọi sự đã bắt đầu từ bài Phúc Âm thánh Luca: “Một hôm, dân chúng chen lấn nhau đến sát Đức Giêsu, để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghenêxarét. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon. Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền, Người giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo ông Simon: ‘Chèo thuyền ra chỗ nước sâu, mà thả lưới bắt cá’. Ông Simon đáp: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới’. Họ đã làm như vậy và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên thuyền đầy cá, đến gần chìm...” (Lc 5,1-7). Phúc Âm cho thấy: Ông Simon đang gặp một thực tế hết sức khó khăn trong nghề bắt cá. Nhưng ông xin vâng lời Chúa mà thả lưới ở những chỗ nước sâu. 3. Tôi cũng vậy. Động lực khiến tôi viết chia sẻ là vâng lời Chúa. Nếu chia sẻ cũng gọi được là thả lưới kéo tôi và các linh hồn về với Chúa, thì tôi làm việc đó chỉ vì vâng lời Chúa. Nơi tôi, vâng lời Chúa gồm nhiều việc khác nhau, chủ yếu là những việc sau đây: Đọc Phúc Âm, suy gẫm và cầu nguyện, rất lâu và trong thinh lặng, khó nghèo nội tâm. Dần dần, tâm hồn tôi được gặp Chúa Giêsu. Người hiện diện một cách thiêng liêng trước mặt tôi, ở bên tôi, trong hồn tôi. Người lôi kéo tôi bằng lửa mến và niềm tin. Một cách nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, Người gợi ý cho tôi vấn đề nên chọn, nội dung nên xây dựng. Như thế, vâng lời Chúa không đơn giản chỉ là thuộc Lời Chúa, mà còn là gặp được chính Chúa trong Lời Chúa. Cũng không chỉ là ở khởi đầu đưa ra Lời Chúa, mà còn là nghe Chúa soi sáng suốt hành trình chia sẻ. Chia sẻ như thế chính là Nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô mà chia sẻ. Tôi có cảm tưởng là chính Đức Kitô đã dẫn tôi đến những chỗ nước sâu để thả lưới. 4. Theo kinh nghiệm riêng tôi, những chỗ nước sâu, mà Chúa dẫn tôi đến, trước tiên chính là những gì làm nên thân phận hèn hạ yếu đuối của tôi. Đó là những tội lỗi đủ loại, những tính mê nết xấu đủ thứ, những mặc cảm chìm sâu trong tiềm thức, những khát vọng mù quáng trong vô thức. Chúa cho tôi nhìn thấy vực thẳm đen tối ấy trong tôi, không phải để tôi ngã lòng, nhưng để tôi nhận ra Đấng cứu tôi là chính Chúa. Tôi nhớ lại biết bao Lời Chúa đầy xót thương, biết bao hình ảnh Chúa vất vả nhọc nhằn đi tìm kẻ lầm lạc, biết bao cực hình Chúa chịu để cứu chuộc loài người tội lỗi. Nhờ ơn Chúa, tôi ở đáy những chỗ nước sâu, đã cảm được tình Chúa yêu thương vô cùng. Tôi sám hối chân thành. Tôi được Chúa cứu. Tôi trở về Chúa. Tôi thuộc về Chúa. Tôi được Chúa thứ tha. Tôi được biến đổi một cách sâu sắc. 5. Sự biến đổi này lan toả ra khắp con người của tôi. Từ trí khôn, lòng muốn, trí nhớ và tài năng lựa chọn. Chúng được đổi mới ví như một mẻ cá trong lưới tình yêu của Lời Chúa. 6. Nói thế không có nghĩa là Vâng lời Chúa mà thả lưới sẽ luôn luôn được thực hiện một cách suôn sẻ, dễ dàng. Không đâu. Chúa dạy tôi phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu với ma quỷ, với thế tục, với chính mình, với cả những thế lực gọi là đạo đức sai trái, mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã mắng trách “Khốn cho các ngươi” (x. Mt 23,1-36). 7. Trên đây là một thoáng nhìn về hành trình chia sẻ của tôi. Nó không loại trừ các hành trình khác. Nó chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc về ơn gọi của nó. Như đã rõ, ơn gọi của tôi là làm chứng cho tình yêu đầy xót thương Chúa. Làm chứng điều đó ngay tại kinh nghiệm chính bản thân tội lỗi yếu hèn của mình. Làm chứng là Chúa đầy xót thương. Và cũng làm chứng là bản thân yếu hèn của tôi cũng phải phấn đấu rất nhiều để đón nhận và cộng tác với tình xót thương của Chúa. 8. Một điều rất cần và cũng là căn bản để đón nhận và cộng tác với tình yêu xót thương Chúa là: Thực tình vâng lời Chúa. Vâng lời trong đức tin. Vâng lời trong thiện tâm. Vâng lời trong hành động. Chúa dạy tôi là trong vâng lời Chúa phải tránh hết sức kiểu cách hình thức, chỉ hứa cho đúng lễ nghi, miệng thì hứa, mà lòng thì đã sẵn sàng thất hứa. Như một sự lừa dối. 9. Ở đây, tôi nhớ lại trường hợp của vợ chồng Khanania và Xaphia. Họ bán một thửa đất, rồi đưa tiền dâng cúng cho các tông đồ để làm việc thiện. Họ nói với thánh Phêrô: Bán được bao nhiêu thì dâng cúng đủ bấy nhiêu. Không giữ lại đồng nào. Nhưng thực tế, họ đã giữ lại một phần. Chúa phạt sự lừa dối của họ. Cả hai vợ chồng đều bỗng bị vật ngã xuống chết trước mặt mọi người, ngay khi thánh Phêrô báo cho họ biết: “Họ đã lừa dối chính Thiên Chúa” (x. Cv 5,1-11). Nếu không tỉnh thức, tôi cũng rất có thể rơi vào tội lừa dối Chúa, một tội nặng mà hiện nay đang phổ biến để trở nên sự kiện bình thường. Xin Chúa thương giúp tôi. 10. Một điều quan trọng khác ,mà tôi luôn được Đức Mẹ dạy bảo, để đón nhận và cộng tác với tình Chúa xót thương, đó là thái độ hiếu thảo, luôn hiến mình làm của lễ sống động dâng lên Chúa. Cho dù của lễ tôi dâng là rất mọn hèn, chỉ với những việc lành bé nhỏ, những phấn đấu âm thầm, những dấn thân lặng lẽ, những sám hối chân thành, những cầu nguyện vắn tắt, những niềm tin tuyệt đối, đời tôi vẫn hy vọng được Chúa đoái nhận. Nhất là hiện giờ, của lễ mọn hèn này rất nặng những tâm tình ngậm ngùi gắn bó với Chúa. “Chúa là hạnh phúc của con, Chúa là gia nghiệp đời con. Xin đừng bỏ con. Xin xót thương con. Con về với Chúa. Chúa là Cha của con”. Tôi biết chắc sẽ đến một lúc nào đó, tôi không còn đủ sức chia sẻ. Nhưng, dù ra đi, tôi vẫn chia sẻ với một cách khác, do “vâng lời Chúa”. Lạy Chúa, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Chúa. Long Xuyên, ngày 6.9.2014.
Đầu năm học, các trường đều khai giảng long trọng. Dịp này, tôi sực nhớ mình cũng còn cần phải học, dù tôi đã hơn 88 tuổi đời. Có một người Thầy đã gọi tôi: “Hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người Thầy nói đây là chính Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu, tôi đến bên Người. Được ở bên Người, tôi sung sướng cảm nhận thấy Người rất hiền lành và khiêm nhường, dễ mến một cách lạ lùng. Người đối xử với tôi hết sức âu yếm, mặc dầu tôi tội lỗi. Chúa Giêsu dạy riêng tôi. Người dạy bằng trái tim hiền lành và khiêm nhường của Người. 2. Mấy ngày nay, Người nhắc đi nhắc lại cho tôi chỉ một điều, vì Người biết tôi đang yếu mệt. Điều mà Người nhỏ nhẹ dạy tôi một cách rất yêu thương, tóm tắt thế này: “Đời con còn được bao nhiêu ngày, thì con hãy tận dụng từng giây từng phút cho việc vâng lời Chúa mà làm các việc lành, cho dù nhỏ bé, để con được Chúa đón con vào cõi đời đời, hưởng hạnh phúc vô cùng bên Chúa là tình yêu”. Trong một thái độ hiền lành và khiêm nhường bắt chước Chúa, tôi đặt mình trong tay Người. Chúa cho tôi thấy những điều Chúa nhắn nhủ tôi, chính là con đường sống Tin Mừng. 3. Tôi hiểu đời tôi là một thời gian vắn, nhưng đầy những trách nhiệm. Tôi không được coi thời gian đó như một nơi nghỉ ngơi. Tôi không là con người đi du lịch trên cuộc đời, cũng không là một khách mời ở lại đó vĩnh viễn. Chuyến đi đời tôi hướng về một đích điểm ở cõi đời đời. Tôi sẽ được Chúa phán xét về những gì tôi đầu tư cho đích điểm đời đời đó trong chuyến đi đời tôi. 4. Những gì tôi đầu tư là tình mến. Tình mến ở trong mọi sự. Có thể trong một nụ cười. Cũng có thể trong những đớn đau, nhọc nhằn, nhục nhã. Những gì tôi đầu tư còn là sự sám hối, sự xin lỗi mọi người. Từ tấm lòng chân thành tôi cố gắng phục vụ yêu thương. Những gì tôi đầu tư cũng còn là những lời cầu nguyện, những của lễ mọn hèn như hạt lúa gieo vào lòng đất (x. Ga 12,24). Những gì tôi đầu tư nhất là xin vâng, mà tôi luôn nói theo gương Đức Mẹ. Xin vâng đi theo đường hẹp, qua cửa hẹp (x. Mt 7,13-14). Xin vâng là “từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa” (Mt 16,24). 5. Khi học với Chúa Giêsu, là Đấng hiền lành và khiêm nhường, và khi được Người dạy dỗ ân cần, tôi mới nhận ra rõ hơn một nguy cơ xưa đã tàn phá đạo Chúa, đó là sự cứng lòng và mù quáng nơi không ít người có đạo, kể cả những người thuộc cấp lãnh đạo và thuộc loại đạo đức. Nay hiện tượng đó cũng đang xảy ra đó đây, cách này cách khác, với nhiều mức độ khác nhau. 6. Đạo đức xuống dốc một cách thê thảm, mà không nhận ra, hay có nhận ra, nhưng vẫn cứng lòng, nhởn nhơ để mình lăn xuống dốc. Chỉ vì thiếu hiền lành và khiêm nhường, nên không nhận ra. Tôi sợ điều đó có thể xảy ra cho tôi. Nên tôi luôn tha thiết xin Chúa thương ban cho tôi ơn hiền lành và khiêm nhường, là một thứ ánh sáng cứu độ. 7. Để có sự hiền lành và khiêm nhường, tôi không những phải cầu nguyện, mà cũng phải phấn đấu tự rèn luyện, tự đào tạo, và nhận sự đào tạo rèn luyện của Hội Thánh qua các Bề Trên và cộng đoàn. Tới đây, tôi nghĩ đến việc giáo dục đào tạo đang thực hiện tại nhiều nơi trong Hội Thánh nói chung và trong Hội Thánh Việt Nam nói riêng. Theo nhận xét của tôi, việc giáo dục, đào tạo tại một số nơi ấy đều giàu về lý thuyết, nhưng lại nghèo về thực tế. Hơn nữa, do ảnh hưởng của thói đời, việc giáo dục và đào tạo như thế lại đang làm cho các người được giáo dục và đào tạo có cảm tưởng mình được tôn vinh và thuộc về một giai cấp có quyền đòi hỏi sự tôn vinh. Thế là khiêm nhường hiền lành dần dần bị tàn phai, nhường chỗ cho kiêu hãnh quan liêu. Tệ hơn nữa có những nơi đang thiết lập một hệ thống tôn vinh về đủ mặt với nhiều cưng chiều dành cho những người muốn là môn đệ Chúa, rồi gọi đó là trường đào tạo theo gương Chúa Giêsu. Nói thế là một xúc phạm lớn đến Chúa Giêsu, và cũng là một tai hại lớn cho Hội Thánh. 8. Hiền lành và khiêm nhường là tuyệt đối vâng lời Chúa, là luôn luôn bám vào Chúa, là triệt để bước theo Chúa, đó là điều rất cần cho tôi lúc này. Lúc này và những ngày sắp tới, chúng ta sẽ bước vào nhiều thử thách về đức tin. Chúng ta rất cầ hiền lành và khiêm nhường, theo hướng nói trên. 9. Trong cuộc viếng thăm Hàn Quốc mới rồi, Đức Thánh Cha Phanxicô đã quả quyết: Hội Thánh Công giáo không đến bất cứ đâu để chinh phục. Tin Mừng mà Hội Thánh Chúa đem đến chỉ có tích cách thu hút. Theo kinh nghiệm của tôi, sức thu hút đó là sự hiền lành, khiêm nhường nơi kẻ loan báo Tin Mừng. Sự hiền lành khiêm nhường đó không có chút gì là yếu kém, trái lại, đây là một sự sống nội tâm phong phú, dồi dào sức mạnh chiến thắng sự độc ác và kiêu căng do tướng quỷ Lucifer chủ trương. Hiền lành khiêm nhường đó chính là sức mạnh đạo đức lấy từ Chúa Giêsu trên thánh giá. 10. Tôi tin như vậy. Tôi thấy như vậy. Tôi được Chúa cho biết: Hiền lành khiêm nhường là bó hoa thơm đẹp tôi có thể dâng lên Chúa. Cũng vậy, hiền lành khiêm nhường là một quà tặng quý tôi có thể phục vụ người khác. Mỗi lần tôi nghi ngờ về giá trị của hiền lành và khiêm nhường, tôi lại được Đức Giêsu gọi tôi từ trên thánh giá. Sức mạnh thu hút tôi đến với Ngài chính là sự hiền lành và khiêm nhường vì yêu thương. Đó chính là sức mạnh đạo đức, mà tôi và các môn đệ Chúa cần có trong mục vụ và truyền giáo. 11. Hiền lành và khiêm nhường toả ra tinh thần khổ chế, kỷ luật nội tâm, kết hợp với Chúa, đang là một thứ lương thực thiêng liêng, mà con người Việt Nam hôm nay khao khát, đi tìm và rất muốn đón nhận. Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường, xin luôn dạy và giúp con được phần nào nên giống Chúa như vậy, để con làm sáng danh Chúa; nhờ đó mà đưa được nhiều linh hồn về với Chúa. Long Xuyên, ngày 12.9.2014.
Tôi cầu nguyện rất nhiều bằng chuỗi Mân Côi. Vừa đọc kinh, vừa suy gẫm, vừa khao khát Chúa, tôi lần chuỗi Mân côi như làm một việc thờ phượng Chúa bên Đức Mẹ. Khi tôi cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi, tôi tin Mẹ cùng cầu nguyện với tôi. Nhờ vậy, tôi đã được Mẹ cho tôi được gặp gỡ Chúa. Chúa và Mẹ đã dạy tôi rất nhiều điều trong chuỗi Mân Côi. Ở đây, tôi chỉ xin được nói lên mấy điều tôi cho là quan trọng, đang ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi, nhất là trong tình hình hiện nay. 2. Điều quan trọng thứ nhất là tôi được hiểu giá trị của thời gian, mà Chúa ban cho tôi để đi qua, như một chuyến đi về với Chúa. Suy gẫm 15 mầu nhiệm Mân Côi, tôi nhìn thấy Chúa đã sai Mẹ vào một thời gian của lịch sử. Thời gian đó như một dòng sông, như một con đường, Mẹ phải đi qua. Cuộc đời của Mẹ vì thế là một chuyến đi. Chuyến đi đó là một chuỗi dài những đào tạo, những thử thách, những thanh luyện, những phấn đấu. Tất cả chuyến đi ấy đều luôn là những cuộc ra đi. Mẹ phải từ bỏ nhiều như kẻ lữ hành. Mẹ phải nhìn về phía trước, nơi có lời mời gọi và chờ đợi. Chuyến đi cuộc đời của Mẹ đã có nhiều bất ngờ. Mẹ đã vượt qua, do động lực vâng theo ý Chúa. Mẹ không trốn tránh cuộc đời đó. Mẹ không mơ ước một dòng lịch sử khác. Chúa đã sai Mẹ vào một dòng lịch sử nhất định, thì Mẹ vui ở trong đó, để cùng với Chúa biến đổi nó nên tốt hơn theo ý Chúa. Nhìn thời gian của Mẹ như một chuyến đi như thế, tôi cũng đã nhận ra thời gian của tôi. Nó là một quãng lịch sử nhất định, mà Chúa sai tôi vào. “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Đức Mẹ được sai vào lịch sử. Cũng vậy, tôi ý thức mình được sai vào một quãng nhất định của dòng lịch sử. Đấng sai tôi vào là Chúa. Không những Người sai tôi vào đó, mà Người còn đồng hành với tôi trong chuyến đi cuộc đời giữa dòng lịch sử của Quê Hương tôi. Đó là điều rất quan trọng, mà tôi xin đề cập. 3. Điều quan trọng thứ hai là tôi được biết, tôi phải sống trong thời gian Chúa ban một cách có giá trị nhất, do sự tôi bước theo Chúa Giêsu. Khi tôi cầu nguyện bằng 15 mầu nhiệm Mân Côi, tôi thấy rất rõ suốt chuyến đi cuộc đời của Mẹ là bước theo Đức Giêsu Kitô. Bước theo Đức Giêsu Kitô là bước theo Đấng đã phán: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Mẹ sống khó nghèo, như Chúa Giêsu. Đó là lối sống mở ra về phía những người đau khổ nghèo khó, đó là lựa chọn dấn thân để cứu những người cùng cực, và đó cũng chính là của lễ đền tội, dâng lên Chúa Cha, thay cho nhân loại tội lỗi, do vâng phục và mến yêu Chúa Cha. Qua kinh Mân Côi, Chúa dạy tôi hãy bước theo Chúa Giêsu như Đức Mẹ. Nếu tôi không phải chịu đóng đinh trên thánh giá, thì ít ra cũng phải sẵn sàng cùng với Đức Mẹ sống khó nghèo, và dâng đời mình làm của lễ thiêng liêng cho Chúa, do chấp nhận có những từ bỏ vì mến Chúa yêu người. Thiết tưởng, giữa một thế giới đang lâm nguy do tranh giành quyền lợi, sự theo Chúa Giêsu, như Đức Mẹ, trên con đường khó nghèo, hy sinh, chính là hướng Phúc Âm mở ra và phục vụ cho yêu thương của Nước Thiên Chúa, một Nước tồn tại đến muôn đời, mà kinh Mân Côi đã dạy tôi. 4. Điều quan trọng thứ ba là tôi được thấy cùng đích chuyến đi đời tôi là thiên đàng ở cõi đời sau. Suy gẫm những mầu nhiệm sau cùng của kinh Mân Côi, tôi thấy chuyến đi đời tôi đang được Chúa dẫn về đích điểm, đó là thiên đàng. Được vào thiên đàng là một hạnh phúc không gì ví được. Chúa Giêsu phán: “Được cả thế gian này, mà phải mất linh hồn, thì nào có lợi gì?” (Mt 8,36). Tôi tin có thiên đàng. Nhưng để được vào đó, tôi phải làm cho đời tôi trở thành một chuyến đi như chuyến đi của Đức Mẹ, tức là bước theo Chúa Giêsu suốt cuộc đời của mình. Bước theo Đức Giêsu là cùng với Người, mến Chúa yêu người, đến hy sinh trên thánh giá, để chiến thắng tội lỗi. 5. Tới đây, tôi đón nhận lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, và biết rằng: Trong Chúa sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích” (1 Cr 15,58). Thánh Phaolô nói đến những nhọc nhằn, mà người theo Chúa phải chịu, vì Chúa. Hiện nay, tại Việt Nam cũng đang có những người chịu nhọc nhằn vì Chúa. Nhưng cũng đang có những người chịu nhọc nhằn vì lợi ích riêng, dưới danh nghĩa Chúa. Đó là một báo động đáng phải để ý. 6. Điều quan trọng thứ tư là tôi được biết phải cầu nguyện với sự tỉnh thức trước những báo động đang xảy ra trong các chuyển biến của tình hình. Từ ít ngày nay, tôi được Chúa báo động qua những biến cố ở Iraq. Hội Thánh Công giáo tại đó đang bị quân Hồi giáo cực đoan bách hại. Các nhà thờ bị phá. Các người công giáo bị giết, bị xua đuổi, bị hành hạ dã man. Đó là một báo động cho tôi và cho tất cả chúng ta. Tình hình đang xấu đi một cách trầm trọng. Đức Mẹ dạy tôi hãy lần chuỗi Mân Côi với tinh thần liên đới một cách sâu sắc. Hãy cùng đau khổ với bao người đang đau khổ. Hãy dâng hy sinh cầu nguyện cho họ. Đức Mẹ cũng dạy tôi hãy chuẩn bị đi vào một thời gian thử thách lớn sẽ xảy ra cho chính chúng ta, do phong trào hưởng thụ và tự do. Hãy cầu nguyện với quyết tâm từ bỏ những nếp sống an nhàn, hưởng thụ, để cứu lấy chính mình khi những phong trào xấu hiện nay đang trở nên quá mạnh, sẽ tràn vào Hội Thánh Việt Nam để tàn phá đức tin. Phẩm chất đức tin sẽ không tăng lên chỉ nhờ thuộc lòng nhiều, hoạt động bên ngoài nhiều, tổ chức lễ lạy nhiều, du lịch hành hương nhiều. Đức tin là một hồng ân Chúa ban cho những ai khiêm tốn, khó nghèo, khát khao Chúa trong cầu nguyện, và làm mọi sự do vâng phục thánh ý Chúa. Lạy Mẹ Mân Côi, xin Mẹ thương đàn con của Mẹ đang kêu cầu Mẹ với tất cả tâm tình cậy tin phó thác. Long Xuyên, ngày 14.9.2014
Đức Tổng lãnh thiên thần Micae là vị thần lãnh đạo các thiên thần trung thành với Chúa, đã giao tranh với tướng thần Lucife và các thần phản nghịch, đuổi được chúng xuống hoả ngục. Xem ra, nay các ác quỷ đó đã được Chúa cho phép tạm ra khỏi hoả ngục, để thử thách loài người. Chúng đang hoành hành trên trái đất này. Chúng đang quậy phá trong Hội Thánh Chúa. Chúng đã xiềng xích nhiều người, sai khiến nhiều người, xâm nhập nhiều người. Ý thức được mức độ nguy hiểm của tình hình đang bị lực lượng quỷ dữ lộng hành, nhân lễ kính Đức Tổng Micae tôi hết lòng cầu xin với Chúa. Khi cầu nguyện, tôi không có tham vọng sẽ thực hiện được việc nào lớn lao, nhưng chỉ xin Chúa thương xua đuổi quỷ dữ ra khỏi bản thân tôi, để nhờ đó tôi có thể giúp được phần nào những người khác cũng thoát được quyền lực của quỷ. 2. Chúa thương nhận lời tôi, Chúa Thánh Thần dạy tôi hãy đọc kỹ Phúc Âm. Qua Phúc Âm, Chúa cho tôi thấy tôi và nhiều người có đạo có thể đang bị quỷ cám dỗ kéo lôi rời xa Chúa, để trở thành con cái ma quỷ, do thói quen gian dối. Xưa, có lần Chúa Giêsu đã nói thẳng với những người Do Thái tự hào xưng mình là có đạo Chúa, thuộc dòng dõi Ápraham: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó. Bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Qua những lời thẳng thắn trên đây, Chúa khẳng định tất cả những ai quen lừa dối, đều trở thành con cái ma quỷ, vì quỷ là cha sự gian dối. 3. Lời Chúa phán trên đây về sự gian dối gợi ý cho tôi nhớ lại những gì Chúa đã nói về các mục tử giả: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10,1). Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên, thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10,12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa. 4. Lừa dối tự nó vốn là điều xấu. Nếu lừa dối lại trở thành một thói quen nào đó trong mục vụ, phụng vụ và truyền giáo, thì đúng là dấu chỉ quyền lực ác quỷ đang thắng thế trong những lãnh vực đạo đức nhất. Tôi lại nhớ đến lời nói thành thực của một linh mục trẻ tôi đã gặp nhiều năm trước đây: “Nếu ở chủng viện, con không giả hình, thì làm sao con được làm linh mục”. Như vây, lừa dối cũng có thể xảy ra ngay trong trường đào tạo. Giả hình, lừa dối, gian dối đang phát triển đều khắp, do vậy số con cái ma quỷ thực sự đang tăng lên một cách kinh khủng. Nghĩ đến tình hình như thế, tôi rất sợ. 5. Một nỗi sợ nữa đã xuất hiện trong tôi, khi Chúa cho tôi nhìn thấy số những người xưng mình là có đức tin nhưng thực sự lại không có đức tin trước mặt Chúa. Chúa phán: “Các ông tôn vinh nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5,44). Tôn vinh nhau đang là hiện tượng rất phổ biến trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay. Các lễ tạ ơn, các lễ khánh thành, các lễ viếng thăm, các lễ giới thiệu, thường rất rộn ràng với những bài tôn vinh nhau, ngay trong nhà thờ, ngay trước bàn thờ. Có nơi thói quen phô trương kể ra các thành tích, các con số, các chương trình, các tổ chức, các thành công, để tôn vinh nhau, đang có chiều hướng đi sai đạo đức và văn hóa. Theo ý Chúa thì tìm cách để tôn vinh nhau là dấu chỉ không có đức tin đích thực. 6. Thêm vào đó, lại “không tìm kiếm vinh quang phát từ Thiên Chúa duy nhất” (Ga 5,44), thì càng là dấu không thể có đức tin đích thực. Không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất là điều một mình Chúa biết, cho dù bề ngoài có những người nhân danh Chúa mà làm những sự lẫy lừng đạo đức. Chúa phán: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Chúa xua đuổi họ, và gọi họ là phường gian ác, bởi vì họ đã nhân danh Chúa, mà làm được nhiều việc lẫy lừng, nhưng trong thâm tâm họ, họ là những người lợi dụng Chúa để tìm tư lợi cho mình. Họ chỉ lo công việc, chứ không lo xây dựng con người. 7. Nếu cần nói thêm về những việc ma quỷ đang lôi kéo người ta rời xa Chúa, thì còn vô số việc, như chúng đang xúi người ta thờ ngẫu thần thay vì thờ Chúa. Thần tiền, thần tình, thần danh vọng, thần tửu, thần thành công. 8. Cách đây hơn 20 năm, hồi còn đi lại bên Đức, tôi được một Giám mục quen thân ở đó cho biết: Trong giáo phận của ngài có nhóm người thờ quỷ. Mỗi tháng họ họp nhau một lần ban đêm. Sau những giờ phút hát ca tuyên xưng niềm tin vào quỷ, đến một lúc bất ngờ, quỷ hiện ra thực. Họ dâng mình cho quỷ. Quỷ hứa cho họ nhiều lợi lộc và sai họ đi hoạt động. Đức Giám mục đó phàn nàn với tôi là Hội Thánh Chúa hiện nay ít còn nói tới quỷ, càng ít nhắc nhở cho tín hữu cầu nguyện, ăn chay để xua đuổi quỷ. Theo ngài, đó chính là một thắng lợi lớn của quỷ trong tình hình hiện nay. 9. Để tạm kết, tôi xin cảm tạ Chúa đã soi sáng cho tôi biết là tôi phải phấn đấu, rất cần sám hối và tỉnh thức một cách rất khiêm nhường, để được ơn Chúa xua đuổi quỷ dữ ra khỏi bản thân mình. Tôi theo gương người phụ nữ tội lỗi xưa kia đãquỳ xuống chân Chúa Giêsu lấy nước mắt mình mà rửa chân cho Chúa... Chị khiêm nhường sám hối với hết lòng yêu mến và lòng tin cậy. Tôi cũng được nghe Chúa nói với tôi lời Chúa đã nói với chị: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50). Tôi cảm tạ Chúa vì bao người đã làm gương sáng cho tôi về việc chiến thắng quỷ dữ trong tình hình hiện nay. Đức Tổng Lãnh Thiên Thần Micae dạy tôi rằng: Đuổi được quỷ, thắng được quỷ, thoát được ra khỏi tay quỷ, là việc con người không làm được. Phải rất khiêm tốn nhờ vào sức thiêng của Chúa. Rất nhiều người đã nhờ vậy mà nên đạo đức thánh thiện. Phải nhờ vậy suốt đời. GM. GB. Bùi Tuần Long Xuyên, ngày 20.9.2014
Ngày 01 tháng 10 này là lễ kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Hôm nay, ngày giỗ của chị, tôi tưởng nhớ nhiều đến chị nữ tu, mà tôi kính mến. Chị qua đời ngày 30.9.1897, lúc mới 24 tuổi. Một trong những lý do khiến tôi nhớ chị và mến chị, là vì chị được Đức Giáo Hoàng Piô XI tôn vinh làm quan thầy các người truyền giáo trên khắp hoàn cầu (14.12.1927) ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. 2. Trong phòng tôi, có một kỷ niệm nhỏ về chị nữ tu thánh thiện ấy, đó là một mẩu nhỏ sợi tóc của chị, do Mẹ Bề Trên Dòng Kín Lisieux đã tặng tôi, dịp tôi đến đó đã nhiều năm nay. Tôi cầm báu vật này trong tay, để xin Chúa cho phép tôi được gặp chị nữ tu, quan thầy các người truyền giáo, vì tôi là người truyền giáo đang gặp rất nhiều khó khăn. Một cách thiêng liêng, chị đã đến bên tôi. Tôi cảm thấy cạnh bên tôi có một sự hiện diện âm thầm, kín đáo, nhưng thân mật. 3. Bằng một thoáng nhìn tổng hợp về thân phận mình, tôi giãi bày để chị thấy tôi là một người truyền giáo vốn yếu kém, nay đang lại yếu kém thêm, do tuổi già, sức yếu và có nhiều giới hạn về mọi mặt. 4. Với một thái độ tế nhị của một nữ tu thánh, thánh nữ Têrêsa nhắc cho tôi nhớ lại con đường truyền giáo của chị là con đường bé nhỏ của trẻ thơ. Ngay khi nằm liệt trên giường bệnh, có lúc không còn đủ sức giơ tay lên làm dấu thánh giá (ngày 31.8.1897), chị vẫn làm việc truyền giáo. Chính là do sự chị chịu mọi hy sinh trong tâm tình phó thác hoàn toàn và mến yêu tuyệt đối. 5. Tất cả cuộc đời của chị được thể hiện một cách cụ thể bằng việc chị dâng mình làm của lễ cho Tình yêu thương xót Chúa (ngày 9.6.1895). Tình yêu đối với Chúa dẫn tới tình yêu đối với các chị em cộng đoàn và tất cả mọi người. 6. Chị mến yêu và chị chỉ biết mến yêu, bởi vì chị nhận thức mình là rất nhỏ bé, rất yếu hèn. Mến yêu vì thế sẽ là sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, như chính chị đã viết thành thơ trước khi qua đời. Ngày 16.7.1897, khi linh mục mang Mình Thánh đến cho chị thánh nằm liệt, mấy chị dòng Kín đã hát: Sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, như để tiễn biệt chị thánh. 7. Hôm nay bên cạnh thánh nữ, và được thánh nữ nhỏ nhẹ đôi chút như trên, tôi mới sực nhớ ra sức mạnh của truyền giáo là do Chúa. Chúa ban sức mạnh quý giá đó cho những ai khiêm nhường, bé nhỏ, biết sống mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Tôi hiểu, tôi sẽ được sống mật thiết với Chúa, như cành gắn liền với cây, do sự tôi từ bỏ mình, hết lòng mến yêu Chúa và hết mình hy sinh cho đoàn chiên, mọi ngày, mọi giờ, mọi phút. 8. Thời gian tôi được ở bên cạnh thánh nữ Têrêsa như chính lúc này, đang thúc giục tôi hãy cầu nguyện nhiều cho việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay. Đừng quá phô trương tự hào về số đông, nhưng hãy ưu tiên lo thêm phẩm chất cho các người truyền giáo. Đối với họ, sống là Đức Kitô. Đừng quá lo đến những việc lớn lao, nhưng hãy ưu tiên làm những việc nhỏ với tình mến phó thác, vâng phục thánh ý Chúa. Đừng quá chú trọng đến lối sống náo động ồn ào, nhưng hãy ưu tiên lo sống tĩnh lặng với Chúa, để tình yêu Chúa tỏa sáng ra nơi họ. Đừng khao khát có nhiều linh mục, nhưng hãy ưu tiên khao khát có nhiều môn đệ Chúa, cho dù môn đệ Chúa sẽ “như hạt lúa gieo vào lòng đất, phải thối đi, để có thể sinh ra được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). 9. Chị thánh Têrêsa muốn qua tôi gởi đến các nơi đào tạo nhân sự tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay, chút tâm tình như trên. Hội Thánh Việt Nam sẽ rơi vào một cơn khủng hoảng nặng nề, không do các yếu tố ngoài Hội Thánh, cho bằng do chính vấn đề nhân sự của nội bộ Hội Thánh. Nếu nhân sự thiếu phẩm chất lại là số đông, thì sẽ là họa lớn cho Hội Thánh. Phẩm chất căn bản của nhân sự là lòng yêu mến. Yêu mến đó phải như thế nào? Thánh nữ Têrêsa bảo tôi hãy vâng lời thánh Phaolô: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. (1Cr 13, 1-7)” Lúc nãy, tôi nói với Chị nữ tu Têrêsa lời mà chính chị nói xưa: “ Ở trên trời, em sẽ làm mưa hoa hồng xuống dưới thế” (9.6.1897). Xin Chị thánh đừng quên mưa hoa hồng trên Hội Thánh Việt Nam. Hoa hồng là đức mến. Xin cám ơn chị hết lòng. Chúng ta cùng nhau ngợi khen Chúa, cùng nhau khiêm tốn bé nhỏ, để Chúa làm cho mỗi người truyền giáo tại đây trở thành một bông hoa hông nhỏ bé, góp phần đem lại hạnh phúc cho quê hương Việt Nam yêu dấu. Long Xuyên, ngày 30.9.2014
1. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sám hối. Tại Fatima, Đức Mẹ tha thiết kêu gọi sám hối. Đức Thánh Cha cảnh báo: Tình hình hiện nay sẽ đi tới đại hoạ, nếu không sám hối. Lương tâm tôi nhắc bảo: Chính bản thân tôi cũng sẽ rơi vào vực thẳm hư vong, nếu không sám hối. Nhận thức sám hối là rất quan trọng, tôi cầu xin Chúa giúp tôi thực hiện việc đạo đức đó. Chúa là Cha giàu lòng thương xót, đã và đang giúp tôi đi vào con đường sám hối. Con đường sám hối là con đường có nhiều khó khăn. Nhưng nhờ ơn Chúa, tôi đang bước đi với những bước nhỏ. Tôi xin chân thành chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ bé của tôi. 2. Trước hết, Chúa cho tôi biết mục đích việc sám hối của tôi là tôi được hoán cải, trở nên con cái Thiên Chúa, nhờ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, để rồi, tôi giúp nhiều người khác cũng được như vậy. Như lời thánh Phaolô dạy: “Phàm ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14). Rồi Chúa dạy thêm. 3. Chúa hỏi tôi: Trước đây và chính lúc này, con có thực sự là con cái Thiên Chúa, nhờ việc để cho Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn con không? Để gợi ý cho tôi xét mình, Chúa cho tôi nhớ lại hai dụ ngôn trong Phúc Âm. 4. Dụ ngôn thứ nhất là về các loại đất đón nhận hạt giống Lời Chúa: Đất bên vệ đường, đất có nhiều sỏi đá, đất có nhiều gai góc, đất tốt (x. Lc 8,5-15). Tôi thuộc loại đất nào? 5. Dụ ngôn thứ hai là về các loại khách được mời vào dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Có người xin kiếu, vì cần đi thăm thửa đất mới mua. Có người xin kiếu, vì cần thử mấy cặp bò mới tậu được. Có người xin kiếu, vì cần chăm sóc cô vợ mới cưới. Có người tàn tật, đui mù, què quặt thì phút chót lại được đón vào (x. Lc 14,15-24). Tôi thuộc loại khách nào? 6. Chúa can tôi chớ vội nhận mình là đất tốt và là người khách tốt. Nhưng để thấy rõ sự thực về mình, Chúa dạy tôi trước hết phải tĩnh lặng hồi tâm. 7. Sự tĩnh lặng hồi tâm này không nhất thiết phải thay đổi hoàn cảnh, cũng không nhất thiết phải làm những việc hãm mình phạt xác khác thường, nhưng chủ yếu là phải tĩnh lặng, phải dịu lại lối sống ham hoạt động, phải biết dành thời giờ cần thiết cho việc cầu nguyện, để toàn thể con người tôi dễ được ơn thánh thấm nhập và chinh phục. 8. Cùng với sự tĩnh lặng hồi tâm, tôi cần phải thực hiện một việc quan trọng khác, đó là khát khao tìm Chúa. Sự khao khát tìm Chúa được thúc đẩy trong tôi một cách thường xuyên qua những thao thức được thuộc trọn về Chúa và qua những ước mong được Chúa là hạnh phúc của mình. Lúc rõ, lúc mờ, những thao thức và ước mong như thế được tôi cảm nhận như những tiếng gọi của Thiên Chúa là tình yêu. Tôi phải đáp ứng. 9. Đáp ứng những lời mời gọi của Chúa là phải như thế nào? Trước hết tôi phải ngoan ngoãn đón nhận sự sống của Chúa. Chúa ban sự sống của Chúa cho tôi, khi tôi kết hợp mật thiết với Chúa. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hợp với Chúa bằng tình yêu mến trọn vẹn, và yêu thương người khác như Chúa yêu thương chúng ta. Tôi còn phải đáp ứng lời mời gọi của Chúa bằng sự tôi đón nhận thánh ý Chúa một cách khiêm nhường. Tôi phải rất thận trọng trong việc vâng phục thánh ý Chúa. Làm việc đạo đức nọ, việc lành kia nhân danh Chúa, rồi tưởng đó là đủ để được gọi là thực thi ý Chúa, thì đó là một sai lầm dễ thường xảy ra. Những việc như thế bị Chúa cảnh báo một cách nghiêm khắc. Chúa nói rõ: Những kẻ nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ, nhưng không thực sự vâng theo ý Chúa, đều bị Chúa xua đuổi, như những kẻ làm điều gian ác (x. Mt 7,21-23). 10. Khi đã được Chúa chia sẻ cho sự sống của Chúa, và được thông hiệp với thánh ý Chúa, tôi mới thấy rõ trong tôi đã có một số tư tưởng, lời nói, việc làm không do Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Tôi xin Chúa tha thứ cho tôi. Tôi quyết tâm sửa lại. Tôi cũng nhận ra trong tôi đã có những thiếu sót, do không vâng phục Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Tôi xin Chúa thứ tha cho tôi. Tôi dốc lòng cải thiện. 11. Để sám hối về những trường hợp đã không để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tôi rất cần được ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sám hối này là rất quan trọng đối với các mục tử và những người có trách nhiệm đào tạo dẫn dắt người khác. 12. Bây giờ xin đề cập đôi chút tới sám hối về bổn phận giúp cho người khác cũng được nên con cái Chúa nhờ được Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Khi sám hối của tôi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tôi mới nhận ra rõ lỗi lầm của tôi trong mục vụ và truyền giáo thường không phải là do thiếu lý thuyết, mà là do thiếu thực hiện cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể. 13. Trên lý thuyết, tôi biết người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đặt lên để coi sóc gia nhân, sẽ phải cung cấp lương thực tốt cho họ đúng giờ đúng lúc (x. Mt 24,45). Nhưng trên thực tế, nếu tôi không phân phát cho đoàn chiên Lời Chúa, tình yêu, lời khuyên và gương sáng là lương thực tốt, theo nhu cầu của thời điểm này và địa phương này, thì đúng là tôi có lỗi, do tôi không chịu phấn đấu để lắng nghe Thánh Thần Chúa hướng dẫn tôi vào thực tế cụ thể hiện nay có nhiều thách đố. Trên lý thuyết, tôi biết Chúa trao cho tôi nhiều điều kiện tốt, để tôi sinh lời, là đem nhiều linh hồn về với Chúa. Dụ ngôn những nén bạc nói rõ điều ấy (x. Mt 25,14-30). Nhưng trên thực tế, nếu tôi dành những điều kiện tốt Chúa ban cho tôi vào những mục đích tư lợi cá nhân, thì đúng là tôi có lỗi, do không chịu phấn đấu để vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa trong thực tế phức tạp, có nhiều cạm bẫy. 14. Nếu thực tế tôi đã sai lầm như thế trong mục vụ và truyền giáo, thì tôi là người cộng tác rất thiếu trách nhiệm đối với Chúa, và cũng phần nào thiếu trách nhiệm đối với đoàn chiên. Vì thế khi sám hối, tôi sợ tôi sẽ bị phạt vì thiếu những trách nhiệm đó. Nhưng càng sợ thì càng bám vào Chúa, càng cố gắng sửa mình, càng chấp nhận những đớn đau nhọc nhằn để đền tội. Điều sợ nhất là lòng tôi có thể trở thành mảnh đất chai đá, có thể trở nên người khách được mời, nhưng rồi bị đuổi ra khỏi nước Chúa. Tôi sợ, nhưng luôn phó thác tin cậy Chúa giàu lòng thương xót. 15. Những gì tôi vừa chia sẻ, cho thấy sám hối là một việc rất quan trọng, để cứu chính bản thân tôi, đồng thời cũng để góp phần cứu những người khác, trong đó có cộng đoàn của tôi, Hội Thánh của tôi, Đất Nước của tôi, cách riêng những người nghèo hèn thân thiết của tôi. Tình hình là rất nghiêm trọng Lạy Chúa, sám hối đã đưa con và nhiều người tới hạnh phúc tuyệt vời. Con tin nhận, đây là một ơn trọng đại Chúa ban cho chúng con. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa suốt đời này và mãi mãi đời sau. Long Xuyên, ngày 10/10/2014
Từ hơn một ngày nay, tôi được Chúa ban cho một cơ hội đẹp, để tiến tới thêm trên đường làm chứng cho Chúa. Cơ hội đẹp đó là cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng diễn ra ngày 18.10.2014. 2. Cuộc gặp gỡ này gồm một chuỗi dài những hình ảnh rất đẹp. Đẹp ở những cử chỉ thân thiện, đẹp ở những thái độ niềm nở, đẹp ở những trao đổi thân tình. Cái đẹp nhất, đối với tôi là sự hiện diện của Chúa tình yêu giữa hai phía, và lòng yêu thương của Đức Mẹ Maria được trao tặng đến từng người. 3. Rõ ràng là Toà Thánh mở ra, cũng rõ ràng là Nhà Nước Việt Nam mở ra. Hai bên cùng mở ra về một chân trời chung là hoà giải. Mở ra đó là một chặng đường dài, không thiếu gian nan trắc trở. Chặng đường đã qua đã có những bước tốt đẹp. Được như hôm nay phải coi là một thành công lớn. Tôi coi đó là một ơn trọng đại Chúa ban. 4. Khi tôi đang phấn khởi cảm tạ Chúa về ơn trọng đại đó, thì Chúa cho tôi thấy, có một yếu tố có thể sẽ làm chậm lại những bước mở ra, yếu tố đó là Hội Thánh địa phương. Tôi nghe Chúa nói trong lòng tôi, mà vẫn e ngại. Để giúp tôi có cơ sở suy nghĩ, Chúa giục tôi hãy đọc lại sách Tông đồ Công vụ, trong đó đã ghi những yếu kém của Hội Thánh địa phương hồi đó trong việc hoà giải. 5. Yếu kém thứ nhất là sự xung đột giữa những quan điểm về vài vấn đề quan trọng. Sách Tông đồ Công vụ viết: “Có những người từ miền Giuđa đến dạy anh em rằng: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Maisen, thì anh em không thế được cứu rỗi...”. (Cv 15,1-15) Quan điểm bảo thủ trên đây đã bị chống đối mạnh mẽ bởi Phaolô và Banaba. Xung đột nổ ra rất lớn, kéo dài khá lâu, và lan ra khá rộng. Đó là chuyện thời đó. Thời nay, xung đột giữa những người vẫn trung thành với chủ trương diệt Cộng và những người hoà giải vẫn còn đó đây trong nhiều mức độ khác nhau. Xung đột đó đang làm yếu đi sức mạnh hợp nhất trong việc sống Lời Chúa sau đây để làm chứng cho Chúa: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). 6. Yếu kém thứ hai là sự cạnh tranh giữa những khối có những quyền lợi và văn hoá khác nhau. Sách Tông đồ Công vụ viết: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên” (Cv 6,1). “Phaolô thường đàm đạo tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông” (Cv 9,29). Như vậy, thời Giáo Hội sơ khai, những khác biệt về văn hoá và về quyền lợi cũng đã làm cho nội bộ Hội Thánh ra yếu, không làm nên được sự hoà giải làm chứng được cho Lời Chúa phán: “Sẽ chỉ có một đoàn chiên, và một mục tử” (Ga 16). Thời nay cũng vậy. Sự cạnh tranh giữa các gốc có những văn hoá và quyền lợi riêng trong Hội Thánh Việt Nam cũng rất đáng kể. Sự cạnh tranh đó được thực hiện dưới nhiều hình thức, từ tinh vi đến trắng trợn, gây nên chia rẽ. Thế mà có nói lại được coi như đáng khen. Như vậy, lời Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha trong bữa Tiệc Ly xưa: “Xin Cha cho họ được nên một như chúng ta là một” (Ga 17,22), đã trở nên xa vời. 7. Yếu kém thứ ba là sự va chạm giữa các nhân vật lãnh đạo. Sách Tông đồ Công vụ viết: “Ít ngày sau, ông Phaolô nói với ông Banaba: Ta hãy trở lại thăm các anh em trong mỗi thành chúng ta đã loan báo Lời Chúa, xem họ ra sao”. Ông Banaba muốn đem theo cả ông Gioan cũng gọi là Máccô. Nhưng ông Phaolô thì nghĩ là: một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-lia vì đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. Hai bên nổi nóng đến mức phải chia tay nhau” (Cv 15,36-39). Thời xưa, đã có những va chạm nẩy lửa như thế. Thời nay cũng còn vậy. Giữa các vị lãnh đạo tinh thần với nhau, đến cả các vị chánh với các vị phó, cũng đã có những loại trừ nhau không chút tiếc thương. Thế thì còn gì là sức mạnh nội bộ, để mà xây dựng hoà giải giữa Hội Thánh và các tổ chức ngoài Hội Thánh. 8. Yếu kém sau cùng là sự các kẻ dâng mình và dâng của cho Chúahay tính toán, giữ lại phần tư lợi cho riêng mình. Sách Tông đồ Công vụ viết: “Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Saphina bán một thửa đất. Ông đồng ý với vọ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các tông đồ. Ông Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất...” (Cv 5,1-4). Kết quả là cả vợ chồng đều bị phạt ngã xuống, chết ngay một cách khủng khiếp (x. Cv 5,5-11). Thời đó là như thế. Thời nay vẫn có thói quen tính toán, lừa dối, dùng cách bề ngoài dâng mình, dâng của cho Chúa, nhưng thâm tâm lại mưu tìm lợi riêng. Thói quen xấu xa đó có vẻ đang lộng hành đó đây. Mà cứ như thế này, thì còn gì là thánh thiện, để Hội Thánh địa phương rao giảng sự hoà giải với Thiên Chúa. 9. Thú thực là những chuyện thời xưa như thế và thời nay như vậy đã làm tôi lo ngại. Nhưng, để trấn an tôi, Chúa cho tôi thấy: Chúa đang cứu Hội Thánh Chúa tại Việt Nam. Số người cầu nguyện đang tăng. Số người sám hối cũng đang tăng. Số người làm việc từ thiện bác ái cũng đang tăng. Số người chịu thương chịu khó vì phần rỗi các linh hồn cũng đang tăng. Tuy nhiên, những người được Chúa chọn sẽ phải hy sinh nhiều hơn. Tôi thấy Đức Mẹ đang quy tụ các con cái của Mẹ, dù họ ở đâu, ở địa vị nào. Lạy Mẹ Maria, con xin cảm ta Mẹ đã cho con nhìn thấy Mẹ trong biến cố lịch sử vừa qua. Con tin Mẹ là mẹ của mọi người. Con tin mặc dầu Hội thánh Việt Nam sẽ phải trải qua một cuộc thanh luyện đau đớn, nhưng Trái tim Mẹ sẽ thắng, tình yêu của Mẹ sẽ âm thầm che chở, ủi an hết mọi người khiêm tốn chân thành cậy tin ở Mẹ. Long Xuyên, ngày 20.10.2014.
1. Từ nhỏ, tôi đã quen đọc kinh “Vực sâu”, để cầu cho những người đã qua đời. Khi đã khôn lớn, lúc cầu cho những người còn sống, tôi cũng hay nghĩ tới các thứ “vực sâu” của cuộc đời họ. Lúc này, khi gánh nặng tuổi tác, bệnh tật và các yếu đuối đè nặng trên tôi, tôi thường cảm thấy thấm thía “vực sâu” của chính mình, để từ đó kêu lên với Chúa. Do vậy, các thứ vực sâu của bản thân và của các cuộc đời đã trở thành nơi thúc đẩy tôi kêu cầu Chúa. Tôi tin những vực sâu ấy có những bi đát, và những đớn đau, mà chỉ Chúa mới có thể cứu con người vượt qua được. Hôm nay, tôi xin tâm sự đôi chút về sự tôi cầu nguyện từ những vực sâu. 2. Vực sâu là những đau đớn, những âu lo, những xa vắng, những mong manh, mà những người bệnh tật, già nua thường cảm thấy nặng nề, không sao chia sẻ được. Vực sâu là những nỗi vất vả, nhọc nhằn, lầm than, lam lũ, thiếu thốn, tạm bợ, mà những người túng nghèo thường phải nếm trong thân phận ngoài lề xã hội. Vực sâu là những hụt hẫng, những thất vọng, những bạc bẽo, mà nhiều người phải gánh chịu, do những tình yêu bị tan vỡ, những niềm tin bị sụp đổ, những liên đới bị phản bội, những việc nghĩa được trả đáp bằng vô ơn, những lòng người thay đổi, rắc rối phức tạp. Vực sâu là những chọn lựa luôn sai lầm, những tội lỗi không sao tránh được, mà những người cứng lòng và mù quáng thường mắc phải. Đó là một số vực sâu quen thuộc trong rất nhiều người. Vực sâu nào cũng đầy đau đớn. Có những vực sâu được che giấu. Có những vực sâu để kệ mặc. Có những vực sâu liều lĩnh và nổi loạn. Có những vực sâu phấn đấu để cố vượt qua. 3. Bên cạnh những vực sâu có tính cách cá nhân, lại có những vực sâu mang tính cách xã hội như: Vực sâu là nạn bè phái, là những thứ tệ nạn xã hội, như xì ke, ma tuý, nạn cờ bạc, nạn buôn bán người, những văn hoá đồi truỵ, những phong trào sa đoạ hưởng thụ, những xã hội đen. Vực sâu còn là những sai lầm trong cơ chế, những lối sống thiếu khôn ngoan nơi một số nhân sự có trách nhiệm lớn trong cơ chế đạo đời. Những vực sâu trên đây mang tính chất độc hại. Vì thế, luôn có những thiện chí cản lại. Nhưng cản lại bằng bao nước mắt. 4. Tôi chạm vào các vực sâu trên đây, coi tất cả như của chính mình. Lương tâm tôi không sao trốn khỏi những trăn trở. Tôi thấy thế này: Với những vực sâu đó, cuộc đời mỗi người sẽ là một chuyến đi đầy mạo hiểm khó khăn, và có những bất ngờ quan trọng. Sẽ có thể được rất nhiều, cũng có thể sẽ mất rất nhiếu. Có thể đi lên, và cũng có thể đi xuống. Tôi thực sự lo ngại. Thêm vào nỗi lo đó, có một nỗi lo khác lớn lao hơn, đó là nỗi lo về vực sâu nơi chính bản thân tôi. 5. Vực sâu nơi tôi là sự yếu đuối của tôi. “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Thánh Phaolô xưng mình như vậy. Tôi càng phải xưng mình như thế. Bởi vì tôi thực sự rất yếu đuối đến mức hèn hạ, đáng khinh bỉ. Vì thế, từ chính vực sâu nơi bản thân tôi, tôi đã kêu lên với Chúa. Vực sâu nơi tôi giúp tôi cũng cầu nguyện cho các thứ vực sâu nơi những người khác và nơi những cơ chế đạo đời. 6. Khi cầu nguyện từ các vực sâu, tôi phải rất khiêm tốn và bé nhỏ. Tôi tin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và quyền năng. Người thực sự đã thương tôi. Người thương tôi bằng sự Người ban cho tôi Tin Mừng. Tin Mừng mà Người ban tặng, không phải là một giáo lý, nhưng là một Người, một Đấng, đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đến với tôi. Tôi đã gặp được Người. Người nuôi tôi bằng Lời Chúa, bằng phép Thánh Thể, bằng những tâm sự thân mật. Người cứu tôi một cách trực tiếp bằng những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Người cứu tôi một cách gián tiếp bằng sự nâng đỡ của Hội Thánh và của bao người tốt. Họ được Chúa sai đến, để giúp tôi tránh tội và làm lành. Nhất là để thêm vào lòng tôi lửa mến Chúa yêu người. 7. Nói thế, không có nghĩa là tôi không phải phấn đấu cam go. Bởi vì cuộc sống là một chiến trường. Hơn nữa, quỷ luôn tỉnh thức để đào sâu những vực sâu sẵn có, và đào thêm những vực sâu mới. Chúa Giêsu đã nói trước từ lâu, về các vực sâu, mà quỷ hiện nay đang làm: “Tội ác gia tăng, nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24,12-13). Như thế, các thứ vực sâu mới, mà Chúa chỉ cho tôi thấy, đó là tội ác gia tăng và lòng mến nguội đi. Thêm vào đó, Chúa Giêsu lại báo trước về một tình hình đức tin bị giảm sút trầm trọng: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này không?” (Lc 18,8). Một tình hình đen tối như thế thực là quá bi đát. Đó đúng là một vực sâu mà quỷ Satan lộng hành. 8. Đọc Phúc Âm, tôi thấy những vực sâu đó hình như đang hình thành tại nơi nọ nơi kia. Nhưng chưa hết khủng khiếp, nếu những lời sau đây của Chúa Giêsu cũng đang xảy ra: “Sẽ có những cơn gian nan khốn khó đến mức từ thuở khai thiên lập địa đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy” (Mt 24,21). Thời gian xảy ra những vực sâu khủng khiếp đó sẽ kéo dài. Nhưng “vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn” (Mt 24,22). 9. Những gì Chúa Giêsu đã báo trước như vậy sẽ phải xảy ra. Nếu đang bắt đầu xảy ra lúc này, thì tôi phải làm gì? Thưa tôi phải từ những vực sâu mà kêu lên Chúa. Đó là việc tôi đang làm với tất cả thiện chí của tôi, mặc dầu tôi vẫn yếu hèn, chỉ làm được một vài việc nhỏ bé. 10. Tôi xin cảm tạ Chúa, vì tôi đang được khích lệ bởi nhiều gương sáng xa gần. Họ đang cầu nguyện với Chúa từ những vực sâu đau đớn đầy nước mắt và mồ hôi. Chúng tôi đang được Chúa Thánh Thần dẫn vào vườn Cây Dầu, để cùng cầu nguyện với Chúa Cứu Thế trên bờ vực sâu của những đớn đau khủng khiếp do tội lỗi loài người (x. Mc 14,32-36). “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 14,36). Từ vực sâu, chúng tôi kêu lên Chúa Cha những lời thảm thiết ấy. Chúng tôi được Người dạy là hãy bước theo Chúa Giêsu. Chúng tôi cảm thấy mình rất hạnh phúc, vì được là những của lễ hèn mọn cộng tác vào công cuộc cứu độ của tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 16.10.2014.
1. Được sống lâu năm trong cảnh âm thầm, tôi dễ nhận ra nhiều ơn Chúa ban cho tôi. Một trong những ơn Chúa ban mà tôi coi là rất trọng, đó là được nhìn thấy rõ hơn một Hội Thánh trong kín đáo. Một Hội Thánh trong kín đáo gồm những người làm các việc lành một cách kín đáo, và sống mật thiết với Chúa một cách kín đáo. Họ được Chúa yêu thương và khen thưởng. Kín đáo ở đây chính là khiêm nhường. 2. Trước hết, họ là những người cầu nguyện một cách kín đáo theo lời Chúa dạy: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả. Chúng đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ở các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,5-6).
3. Tại Việt Nam hôm nay, những người cầu nguyện một cách kín đáo như lời Chúa dạy, càng ngày càng đông. Chúa cho tôi thấy như vậy. Phần đông họ là những người giản dị, nghèo hèn, bệnh nạn, cô đơn, bị ruồng bỏ. Họ là những người có tên trong sổ Rửa tội. Cũng có nhiều người không có tên thánh, nhưng tin vào Chúa và đã cầu nguyện âm thầm với Chúa. Họ đã được Chúa chấp nhận. Họ đang được Chúa yêu thương. Họ sẽ được Chúa ban phúc đời đời, như lời Chúa hứa. 4. Cùng với những người cầu nguyện một cách kín đáo, tôi thấy còn có những người ăn chay một cách kín đáo, như lời Chúa dạy: “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả. Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được thưởng công rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,16-17). 5. Xung quanh tôi, ngay lúc này, những người ăn chay một cách kín đáo như lời Chúa dạy, là một số khá đông. Tôi nhìn thấy rõ sự thật đó. Họ thuộc đủ hạng người, thuộc đủ mọi tín ngưỡng. Ăn chay nơi họ không phải chỉ giới hạn trong lãnh vực ăn uống, mà còn trong nhiều lãnh vực khác, như tự hạn chế trong bất cứ những gì gọi là hưởng thụ, và tìm tư lợi. Tôi thấy Chúa ghi tất cả những thứ ăn chay đó của họ, không sót một việc nào, dù rất nhỏ, dù rất âm thầm kín đáo. Và Chúa ban thưởng cho họ một cách rộng rãi, mặc dù kín đáo.
6. Còn một loại người đạo đức kín đáo nữa, đó là những người bố thí một cách kín đáo, như lời Chúa dạy: “Khi bố thí, anh em đừng có khua chiêng đánh trống như bọn đạo đức giả hình thường biểu diễn trong hội đường và ngoài đường phố, cốt để người ta khen. Thật, Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh em bố thí được kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,2-4). 7. Hạnh phúc cho tôi, khi đã từ lâu, trong âm thầm, tôi được nhìn thấy những người bố thí một cách kín đáo tại quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi. Họ không phải là hiếm. Bố thí của họ gồm nhiều việc lành khác nhau, với mục đích phục vụ, vị tha, trao tặng lặng lẽ. 8. Sống nhiều năm với Hội Thánh kín đáo vừa kể, tôi dần dần khám phá ra vẻ đẹp thiêng liêng của Hội Thánh đó. Vẻ đẹp thiêng liêng, mà tôi gắn bó hơn cả nơi Hội Thánh kín đáo, chính là đời sống thân mật với Cha trên trời, cho dù thân mật một cách kín đáo. Thực vậy, rất nhiều khi tôi không cầu nguyện, không ăn chay, không bố thí, tôi chỉ sống đơn sơ, trong kỷ luật, làm những việc lành nhỏ dưới cái nhìn của Cha trên trời. Và tôi cảm thấy như thế là rất hạnh phúc. Hạnh phúc kín đáo nhờ đời sống thân mật với Chúa cũng rất kín đáo. 9. Đặc biệt là sự kín đáo, mà tôi được Chúa dạy hãy chú trọng tập trung, đó là làm tốt việc bổn phận. Việc lớn cũng cố làm tốt, việc nhỏ cũng phải làm tốt. Bổn phận chính của tôi là bổn phận người môn đệ Chúa. Bổn phận đó tóm tắt vào câu: “Hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Chúa” (Mt 16,24). Tôi cố gắng chu toàn bổn phận đó dưới con mắt của Cha trên trời. Thú thực là sự cố gắng chu toàn bổn phận đó đã được nâng đỡ bởi cái nhìn kín đáo của Cha trên trời. 10. Ở đây, tôi phải thú nhận điều này, đó là không những Cha trên trời nhìn tôi với lòng thương xót, mà Người cũng còn soi sáng cho nhiều người thương xót tôi. Thực vậy, họ được Chúa sai đến với tôi, một cách kín đáo, để nâng đỡ tôi một cách kín đáo tế nhị, nhất là khi tôi phải phấn đấu gay gắt lâu dài. Ngoài ra, Cha trên trời cũng còn ban nhiều ơn cho tôi qua các việc xảy ra hằng ngày. Tất cả đều một cách kín đáo và tế nhị. Do đó, những lựa chọn của tôi cũng thường được thực hiện trong lương tâm tôi một cách kín đáo, chịu trách nhiệm trước Chúa, dưới cái nhìn của Cha trên trời, là Đấng thấu suốt mọi sự trong kín đáo. Tất cả những gì tôi chia sẻ trên đây đều nhằm mục đích cảm tạ và ca ngợi Cha trên trời, về những việc lạ lùng Cha đã và đang thực hiện trong kín đáo nơi các linh hồn một cách nhiệm mầu. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã cho biết bao người được sống thân mật với Chúa, được làm con của Chúa, được chia sẻ sự sống của Chúa là tình yêu vô biên, được tham dự vào chương trình cứu độ của Chúa, được hướng dẫn bởi Thần Linh Chúa. Họ kín đáo, nhưng chính ở sự kín đáo đó, mà họ làm chứng cho Chúa một cách hữu hiệu trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của con hôm nay. Xin Chúa thương luôn đánh thức lương tâm con, để con biết chống lại mọi cám dỗ lôi kéo con vào các hình thức phô trương. Lạy Chúa xin thương xót con. Long Xuyên, ngày 01.11.2014
1. Càng ngày sức khỏe của tôi càng giảm sút. Sự giảm sút này được tôi cảm nghiệm về mọi mặt một cách sống động. Như một sự đổ vỡ, như một sự tiêu tan, như một sự mất mát. Nếu cứ thế để mình buông trôi, thì sẽ ra sao? Nhưng hạnh phúc cho tôi, vì Chúa ở bên tôi. Chúa cho tôi nhớ lại lời thánh Phaolô xưa: “Dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2 Cr 4,16). Lời kinh thánh trên đây đã đánh thức tôi. 2. Tôi được thức tỉnh trong hân hoan và hy vọng tràn trề. Chúa đánh thức tôi, để rồi lại giúp tôi sống trong tỉnh thức mà Chúa hướng dẫn. Hôm nay, tôi xin mạo muội chia sẻ đôi chút về sự con người bên trong của tôi đang được Chúa đổi mới, giữa lúc con người bên ngoài của tôi đang tới chỗ tiêu tan. 3. Yếu tố căn bản được tôi cảm nghiệm đổi mới rõ nhất, chính là lòng mến Chúa. Tôi được Chúa đốt lên trong tôi lửa khao khát Chúa. Tôi khao khát Chúa, như người con bé nhỏ khao khát tình yêu của cha mình. Khao khát Chúa, nên thích ngắm nhìn Chúa, thích nói chuyện với Chúa, thích lắng nghe Chúa. Tỉnh thức trước Chúa trở thành một khao khát lớn. 4. Do vậy, mà tôi ưa thích dâng lên Chúa lòng cảm tạ. Cảm tạ về mọi ơn hồn xác, nhất là ơn được làm con Chúa. Trong cảm tạ, tôi ý thức rất rõ: tôi nhận được mọi ơn do lòng thương xót Chúa. Người đã ban cho tôi nhưng không. Cảm tạ như thế là sống sâu sắc sự khó nghèo. Làm mọi sự với ý muốn làm đẹp lòng Chúa trong phó thác trọn vẹn, mặc dầu tôi biết tôi chẳng là gì, chẳng đáng gì. Tôi xác tín điều này cũng rất đẹp lòng Chúa, đó là sự tôi biết đau những nỗi đau của Đất nước tôi, của Hội thánh tôi. Những nỗi đau đó đã đánh thức tôi. Tôi cũng rất cảm tạ Chúa đã giúp tôi biết lo phân định điều gì là thánh ý Chúa, điều gì là ý riêng hay ý của thần dữ. Trong tình hình hiện nay, biết phân định là một ơn cần thiết. 5. Một cách cảm tạ, mà Chúa soi sáng cho tôi thực hiện, là hãy biến đổi chính mình thành của lễ cho tình yêu Chúa. Hình ảnh của lễ mà Chúa dạy tôi nên nhìn vào, để bắt chước, chính là hình ảnh Đức Mẹ dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu. Nơi của lễ đó, tình yêu đã mang sức mạnh lòng thương xót Chúa có giá trị làm sáng danh Thiên Chúa và có sức cứu các linh hồn. 6. Khi cảm tạ Chúa bằng cách sống như một của lễ, tôi thấy lòng tôi vừa đi lên vì yêu mến, vừa đi xuống vì vâng phục. Vâng phục là điều rất cần để trở thành của lễ, nhất là trong lĩnh vực phục vụ yêu thương. Về điểm đó, tôi thường phải sám hối vì những thiếu sót và sai phạm. Tôi quan niệm rằng: Phục vụ là phải đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, đúng cách, đúng lúc. Thế mà nhiều lần tôi đã không đúng. Tôi đau xót vì điều đó. 7. Khi tôi thấy lòng tôi buồn chán, tôi được Chúa dạy hãy nhìn vào của lễ thiêng liêng gần xa xung quanh tôi. Bao người đang vui được dâng chính mình làm của lễ, hợp với của lễ của Chúa Giêsu trên thánh giá. Tự nhiên tôi nhận được hy vọng ngọt ngào. Tôi hy vọng những của lễ đó đang góp phần làm cho tôi và cho nhiều người được sống lại. Như vậy, tôi hãy vui vì là của lễ, cho dù tôi phải từ bỏ mình. 8. Thú thực là, khi tình yêu Chúa càng tăng lên, thì đau đớn cũng tăng lên theo. Đau đớn, mà Đức Mẹ đã cảm thấy, khi được làm của lễ theo Chúa Giêsu, đã được tiên tri Simêon ví như lưỡi đòng đâm vào trái tim (x. Lc2, 35). Lưỡi đòng hiện nay thực sự đang đâm vào trái tim các người dâng mình làm của lễ gồm nhiều thứ, đó là những phấn đấu chống lại các tinh thần xấu như: Tinh thần trần tục hóa đang tàn phá những gì là linh thiêng trong đạo. Tinh thần hưởng thụ đang phổ biến con đường rộng và cửa rộng, nghịch với Phúc Âm. Tinh thần kiêu căng đang lôi kéo con người đi xa đức vâng phục và khiêm nhường. Tinh thần hướng ngoại đang chống phá nội tâm và các giá trị của nó. Tinh thần ghen tương cục bộ đang quấy rối sự hiệp nhất. Tinh thần gian dối đang xóa bỏ sự chân thành trong các mối tương quan. Tinh thần nông nổi đang có những lựa chọn sai lầm làm mất uy tín Hội thánh. Tinh thần dửng dưng đang làm cho lương tâm nhiều người trở nên chai cứng. Theo tôi, điều làm cho những người đang là của lễ phải rất đau lòng chính là các phong trào giết người hàng loạt dưới nhiều hình thức đang xảy ra tại nhiều nơi, cả trong đạo lẫn ngoài đời. Giết người hàng loạt nói đây là giết người về đức tin, về đạo đức, về lương tâm. Lưỡi đòng cũng còn là những thử thách Chúa, để cho các người muốn là của lễ đền tội phải chịu. Chúa Giêsu xưa trên thánh giá đã kêu lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Họ cũng có những lúc phải trải qua những cơn đau ghê gớm, đến nỗi phải thở than như thế. Đau đớn nào cũng là đau đớn. 9. Được Chúa đánh thức là được một ân huệ Chúa ban. Nhưng con người vẫn có tự do từ chối. Tôi có kinh nghiệm điều đó nơi chính mình và nơi người khác. Thực vậy, nếu tôi không thực sự nhận mình yếu đuối, cứ tưởng mình luôn trên con đường công chính, thì tôi đâu có nghĩ là tôi cần phải được đánh thức. Tôi tự nhiên thích ngủ yên trong cảm nghĩ an phận. An phận với những hào quang giả. An phận với những hư danh trống rỗng. An phận với những tự sướng phù du. An phận đó cũng có một phần cứng lòng và mù quáng. Rất may mà Chúa giúp tôi luôn nhìn thấy mình rất yếu đuối và nặng nề, nên tôi rất vui được Chúa đánh thức, để phấn đấu trở về với Chúa trong bình an và phó thác. 10. Ơn trở về đòi những bắt đầu và bắt đầu lại. Bởi vì con người tôi thực sự rất yếu đuối. Cũng xin nói ngay là những bắt đầu lại thường được thực hiện nhờ những đánh thức mới. Đối với tôi, những đánh thức mới hiện nay nổi nhất là gương hai Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và Phanxicô. Hai Đức Giáo Hoàng đáng kính này rất ý thức về trách nhiệm lái con tàu Hội Thánh Chúa trong những khúc ngoặt lịch sử đầy sóng gió. Các ngài nhận biết mình yếu đuối. Nhưng các ngài xin vâng, trong tinh thần đức tin vững mạnh và với lửa đức ái nồng nàn. Sức mạnh nơi các ngài là từ Chúa trong nội tâm khiêm tốn cầu nguyện. Nhờ sức mạnh đó, các ngài đã trở thành người của toàn thế giới, chứ không còn là người của riêng Hội thánh Công giáo. Mỗi ngày tôi theo dõi thời sự của hai Đức Thánh Cha để bắt đầu lại. Kết quả là rất lạc quan, khi tôi chấp nhận phấn đấu với chính mình. Tôi rất cần được nâng đỡ và tha thứ. Lạy Chúa, con xin hết cảm tạ Chúa vì ơn đã đánh thức con. Xin thương giúp con luôn biết tỉnh thức, để làm bất cứ sự gì Chúa muốn. Lạy Chúa, con hết lòng tin tưởng nơi Chúa. Long Xuyên 10.11.2014
1. Tháng 11, tôi nhớ tới những người đã qua đời một cách đặc biệt. Tôi cầu nguyện cho họ. Tôi cầu xin với họ. Tôi hỏi họ. Tôi lắng nghe họ. Điều mà mọi người thân của tôi đã qua đời, đều nhắc nhở và nhấn mạnh, đó là hãy luôn phấn đấu thuộc về Chúa, và làm điều Chúa muốn. Tôi xin đón nhận lời khuyên trên đây một cách hân hoan. Tôi tin những người thân của tôi đang sống ở cõi đời bên kia đã trao cho tôi một kinh nghiệm quý báu. Tôi coi đó là con đường chắc chắn dẫn tôi về bên Chúa, sau khi tôi chết. 2. Tôi phấn đấu thuộc về Chúa và làm điều Chúa muốn một cách đơn sơ, như Phúc Âm dạy. Tôi nghĩ là sẽ chưa đủ, nếu tôi thiếu sự nâng đỡ của người khác. Vì thế, mà hôm nay tôi xin chia sẻ, với mục đích xin được đỡ nâng. Trước hết, xin nói về những việc tôi quen làm, để thuộc về Chúa. 3. Việc đầu tiên và căn bản, chính là việc cầu nguyện. Cầu nguyện, đối với tôi, là thở. Tôi cầu nguyện luôn luôn, để đón nhận Chúa vào lòng tôi. Tôi cầu nguyện luôn luôn, để sẵn sàng ra đi, bất cứ lúc nào Chúa gọi. Tôi cầu nguyện luôn luôn, để có thể làm tốt bổn phận. Bổn phận của tôi là làm chứng cho đức tin qua đức ái. Bổn phận đó phải nhận là rất khó. Chỉ với sự cầu nguyện, tôi mới được Chúa giúp thực hiện tốt trong cuộc đời luôn phức tạp. Cầu nguyện, đối với tôi, cốt ở tấm lòng. Tấm lòng của tôi chủ yếu là yêu mến Chúa. Tôi để ý mến yêu Chúa trong bất cứ lúc nào, và bất cứ làm gì. Tôi cần được Chúa đến với tôi, như lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21). Chúa tỏ mình ra cho tôi, không phải bằng những thị kiến, mà bằng một thứ sức mạnh thiêng liêng, khiến tôi không thể không tin rằng: có Chúa hướng dẫn tôi. Như vậy, cầu nguyện luôn luôn là một thái độ sống với Chúa, hơn là một việc làm. Thái độ đó ví như thái độ một trẻ thơ đối với người cha, người mẹ. Thái độ như thế lớn lên trong nội tâm. 4. Do vậy, nội tâm là một điều, tôi được Chúa dạy phải hết sức quan tâm, để thuộc về Chúa. Sống nội tâm, đối với tôi, đòi phải hồi tâm. Hồi tâm là một bầu khí tĩnh mạc. Tĩnh mạc trong trái tim, trong trí nhớ, trong trí khôn. Tĩnh mạc cả trong con mắt, trong lỗ tai, trong miệng lưỡi. Tĩnh mạc nội tâm giúp cho cuộc sống thân mật với Chúa được phát triển. Nhờ vậy, tôi mới hy vọng đem tình yêu Chúa đến cho người khác. Nhất là khi tôi quan niệm đem tình yêu Chúa đến cho người khác chính là một cách biết ơn họ, kính trọng họ và yêu thương họ. 5. Thêm vào việc cầu nguyện và hồi tâm, tôi còn được Chúa dạy là, ai muốn thuộc về Chúa, sẽ phải chịu đau khổ, hy sinh. Theo tôi, đau khổ và hy sinh lớn nhất, chính là chu toàn bổn phận của mình với tất cả tình yêu đối với Chúa và đối với mọi người. Muốn được như vậy, tôi phải bỏ ý riêng mình, đó là điều không luôn dễ. Rồi còn phải đem hết tình yêu và trách nhiệm vào mọi việc thuộc bổn phận, từ việc nhỏ đến việc lớn, đó cũng là điều không dễ chút nào. Mẹ Têrêsa Calcutta luôn nhắc nhở các chị em Dòng của Ngài một ơn, mà Ngài cho là rất quan trọng, đó là: Điều tốt đẹp nhất mà Chúa ban cho chị em chính là sự từ bỏ mình và đời sống dễ dãi muốn gì làm đó, để được sai vào một cuộc sống nghèo, hầu chia sẻ một cách quảng đại với Chúa Giêsu nghèo nơi những người nghèo khổ. Khi tôi thực hiện sự từ bỏ mình và chấp nhận sự sai đi như thế, tôi thấy mình phải hy sinh rất nhiều, nhưng hy sinh đó đem lại niềm vui sâu xa. 6. Bây giờ, tôi xin phép nói về sự tôi tìm thực thi thánh ý Chúa. Không cần phải dựa vào lý luận nào, tôi được Chúa cho xác tín điều này. Thánh ý Chúa, mà Chúa muốn tôi thực hiện trong sự vụ của tôi tại Việt Nam hôm nay là “yêu thương” (x. Ga 13,34). Phúc âm dạy điều đó, lịch sử đợi chờ điều đó. Thực hiện yêu thương trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay của Quê Hương Việt Nam và Hội Thánh trên Quê Hương yêu dấu này là một công việc phức tạp. Có biết bao người đói ăn. Có biết bao người đói tình thương. Có biết bao người đói chân lý. Có biết bao người đói văn hoá. Có biết bao người đói đạo đức, Có biết bao người đói Lời Chúa, vv... 7. Sẽ là vô tâm, nếu tôi không muốn nghe hay không nghe được những kêu rên từ những cảnh đói khổ đó. Nhưng sẽ là ác tâm, nếu tôi lại lợi dụng những cảnh đói khổ đó, để tìm tư lợi, hoặc làm cho người nghèo khổ càng nghèo khổ thêm, do thái độ khinh khi của tôi. Vô tâm và ác tâm, nếu vô tình thì còn dễ tha. Còn nếu cố tình, như một lựa chọn, thì sẽ phá hoại yêu thương một cách tàn nhẫn. Vô tâm và ác tâm là những gì đã xảy ra cho tôi, do người xa và cả những người gần. Tôi rất đau đớn. Có thể cũng lỗi tại tôi. Đau đớn của tôi giúp tôi hiểu đau đớn của bao người khác. Do vậy, tôi thấy yêu thương là một cuộc chiến đấu, đòi nhiều tha thứ, biết ơn, và tỉnh thức, để những gì mình không muốn người ta làm cho mình, thì đừng bao giờ làm cho kẻ khác. 8. Nhưng con người luôn yếu đuối. Tôi thấy Chúa thương giúp tôi, bằng lửa của trái tim Người. Lửa đó là lửa mến Chúa yêu người. Do vậy, tôi thấy khủng hoảng lớn hiện nay chính là khủng hoảng về thiếu lửa mến Chúa yêu người. Những người đã qua đời nhắn nhủ tôi đừng coi thường khủng hoảng đó. Bởi vì không có lửa mến, rất nhiều người sẽ bị đuổi đi, không được vào thiên đàng. 9. Tới đây, tôi nhận ra điều này: Lắng nghe người đã chết đem lại cho tôi nhiều chân lý sống động cần thiết cho phần rỗi đời đời. Nhờ vậy cuộc sống trên trần gian này sẽ bớt tội lỗi và tăng thêm đạo đức. Nhưng rất nhiều người không muốn lắng nghe người đã chết. Hơn nữa, họ trốn tránh để khỏi nghe. Kết quả là tiếp tục phạm tội, rồi cái gì phải tới sẽ tới, đó là hình phạt ở đời sau. Lúc đó đã quá muộn cho sự trở về. Lạy Chúa, hôm nay và ngay lúc này con xin trở về với Chúa. Con xin cảm tạ Chúa đã cho con biết lắng nghe những người đã chết. Rồi, con cũng sẽ chết. Nên con xin được trối lại cho mọi người một chút kinh nghiệm của con về con đường con đi về với Chúa. Lạy Chúa, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Long Xuyên, ngày 11.11.2014.
1. Tình yêu Quê Hương Việt Nam là một sức sống tha thiết mãnh liệt trong tôi. Nó được tôi cảm nghiệm như một chuỗi dài những thao thức, những tỉnh thức và những thổn thức về Quê Hương và cho dân tộc. Hôm nay, nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam, tôi nhớ về những môi trường lớn đã rèn luyện tình yêu Quê Hương trong tôi 2. Môi trường gia đình họ hàng, với những bà con gần xa, đã chuyển vào tôi những tình cảm thiêng liêng tha thiết, những kỷ niệm gắn bó như lòng biết ơn, tâm tình trọng kính vâng phục các vị cao tuổi, thói quen chia sẻ và phục vụ tình nghĩa. Tôi yêu thương môi trường đó. 3. Môi trường thiên nhiên, với những con sông nhất định, những cánh đồng nhất định, những rặng núi nhất định, những bầu trời nhất định, đã như một ngôi nhà, ấp ủ đời tôi, để tôi dàn trải trong đó những kỷ niệm riêng tư. Tôi yêu những môi trường đó. 4. Môi trường văn hóa, với nếp sống trung thực cần cù, với những liên đới vừa có lý vừa có tình, với những gì là chân thiện mỹ lành mạnh,đã giúp tôi phấn đấu và phân định. Tôi yêu những môi trường đó. 5. Môi trường tôn giáo, với những tiếng chuông chùa, nhà thờ, thánh thất, với những tiếng vang của những buổi đọc kinh trong các gia đình. đặc biệt là trong các đám tang, với những miếu thờ to nhỏ rải rác trên các đoạn đường quê, nhất là với những niềm tin, đã cho tôi thấy sự hiện diện của Đấng thiêng liêng giữa lòng dân tộc. 6. Bốn môi trường trên đây đã đào sâu trong tôi những dòng sức sống thiêng liêng, chi phối trong tôi mọi suy tư, mọi tính toán, tất cả như đều đổ về một ước vọng, đó là bình an cho Quê Hương, hạnh phúc cho dân tộc. Do vậy, môi trường giáo dục cũng là một loại nhà giáo đáng kính yêu. 7. Yêu thương đòi hỏi phải có trách nhiệm. Trách nhiệm của tình yêu Quê Hương đòi tôi phải sáng suốt. Bởi vì, Quê Hương tôi luôn có những chuyển biến. Có chuyển biến thấy trước được. Có chuyển biến rất bất ngờ. Thí dụ sự phân hóa giàu nghèo có chỗ thấy trước và chấp nhận được, có chỗ quá bất ngờ không chấp nhận được. Vì thế, mà trách nhiệm tỉnh thức là trách nhiệm rất quan trọng. 8. Tỉnh thức, để thấy được hoàn cảnh mới với những phức tạp mới. Tỉnh thức, để biết suy nghĩ vấn đề mới bằng những ánh sáng mới, một phần do đức tin, một phần do chuyên môn. Tỉnh thức, để có những bàn hỏi tốt với những người có khả năng về trình độ, về đạo đức, về kinh nghiệm, về chuyên môn. Tỉnh thức, để cầu nguyện với Chúa, với tinh thần đức tin và với ánh sáng của Công đồng Vatican, và thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam 1980. Một thoáng nhớ về tình yêu Quê Hương đang giúp tôi để ý nhiều hơn đến đạo đức, dù trong đời sống cá nhân, dù trong đời sống xã hội. Đạo đức mà tôi để ý nhiều chính là những giá trị thiêng liêng, dưới cái nhìn của Đấng thiêng liêng. 9. Hiện nay, đạo đức đang xuống dốc, nên tình yêu Quê Hương đòi tôi phải chấn chỉnh đạo đức một cách cụ thể và quyết liệt, ưu tiên ngay nơi chính bản thân tôi. Long Xuyên, ngày 14 tháng 11 năm 2014