1. Năm nay tôi được hơn 90 tuổi. Càng già yếu, tôi càng được Chúa cho cảm nghiệm về Tình yêu Chúa. Những cảm nghiệm này thường khác với những lý luận và những gì tôi đã học qua những thảo luận và những khóa học lý thuyết. Ở đây, tôi xin phép chia sẻ về cảm nghiệm qua vài hình ảnh. Có những hình ảnh đã tác động rất sâu sắc đến đời sống nội tâm của tôi, nhất là trong tuổi già yếu. 2. Hình ảnh thứ nhất là hình ảnh vực sâu. Hình ảnh này đã được Thánh vương Đavid nêu lên trong thánh vịnh 130 (129). “ Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi, xin nghe tiếng con cầu. Nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ, để chúng con biết kính sợ Ngài”. 3. Khi tôi nhìn nhận tôi như một vực sâu, tôi thực sự cảm nhận thấy mình đang ở trong những hoàn cảnh thất vọng. Thất vọng vì sợ hãi, vì lo âu, vì bế tắc, vì tối tăm, vì cô đơn. 4. Tôi như rơi vào tình trạng thê thảm, mà Chúa Giêsu đã trải qua ở Vườn Cây Dầu: “ Linh hồn tôi buồn đến chết được” (Mc 14,34) và cũng như trên Thánh Giá, Chúa Giêsu than thở: “ Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,35). Tôi cũng vậy. 5. Từ vực sâu của Thánh vương Đavid, và từ vực sâu của Chúa Giêsu, tôi kêu lên những lời thảm thiết. Trong những lời kêu thảm thiết đó, tôi một đàng thấy mình như thất vọng, nhưng một đàng tin vào Chúa một cách mạnh mẽ. Và thực sự, tôi cảm nhận được Tình yêu Chúa cứu tôi. 6. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh bụi cây cháy. Theo sách Xuất Hành kể lại thì, khi Moisen dẫn đàn chiên đến núi Khôrep. Moisen thấy một bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu. Moisen chạy lại xem, thì ông nghe có tiếng từ bụi cây bốc cháy nói với ông: “ Ta là Thiên Chúa của Cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacop” (Xh 3, 1-6). 7. Đọc đoạn Kinh Thánh trên đây, tôi tự nhiên nhìn bản thân tôi chỉ là một bụi cây. Bụi cây này bé nhỏ, xấu xí, có thể mang rác rưởi và những thứ gai góc. Thế mà, Chúa đã đốt nó cháy lên bằng một thứ lửa thiêng, để từ đó gửi đi một sứ điệp. Sứ điệp đó là: Tình yêu Chúa đoái nhìn đến tâm hồn coi như hèn hạ nhất này, biến nó thành dụng cụ của Chúa. 8. Khi nhìn mình như thế, tôi được Chúa cho tôi nhận ra Tình yêu Chúa là tha thứ, là chữa lành, là cứu chuộc, là đổi mới tôi. Cho dù tôi chỉ là một bụi cây xấu xí, hèn hạ, gai góc. Như trời xa đất thế nào, thì Tình yêu Chúa cũng đuổi xa tội lỗi cho những ai tin cậy Chúa. 9. Theo hướng đó, tôi hay cầu nguyện theo thánh vịnh 103(102). Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa ném thật xa ta. Như Người Cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng xót thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì. Hẳn ngươi biết: Chúng ta chỉ là cát bụi. 10. Hình ảnh bụi cây, hình ảnh cát bụi, mà Kinh Thánh nêu lên, đã giúp tôi rất nhiều về cảm nghiệm Tình yêu Chúa dành cho tôi. Thực sự, tôi chỉ là cát bụi, tôi chỉ là bụi cây hèn mọn. Nhưng được Chúa thương. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa. 11. Hình ảnh thứ ba là hình ảnh hạt lúa chôn vùi trong lòng đất. Hình ảnh hạt lúa chôn vùi dưới đất đã được chính Chúa Giêsu nêu lên. Chúa phán: “ Thật, thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó vẫn trơ một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). 12. Nhìn xung quanh tôi, tôi thấy rất nhiều người đang là những hạt lúa được Chúa chúc phúc. Họ âm thầm, bé nhỏ, nhưng hy sinh cho người khác. Hy sinh của họ đặt tại việc làm của họ, chứ không đặt ở lời nói. Hy sinh của họ là từ bỏ mình, để theo gương Chúa Giêsu mà cứu các linh hồn. Họ trở thành của lễ toàn thiêu. 13. Một thoáng nhìn về ba hình ảnh trên đây, đang giúp tôi cảm nghiệm về Tình yêu Chúa. Những cảm nghiệm trên đây đều thuộc lãnh vực thiêng liêng. Tuy vô hình, nhưng lại có sức mạnh hồi sinh cho tôi, cho Hội Thánh của tôi. 14. Như vừa mô tả trên đây, sức mạnh vô hình có sức hồi sinh trong cảm nghiệm về Tình yêu Chúa, luôn đòi một thái độ khiêm nhường và kiên trì cầu nguyện. Hãy coi mình như vực sâu tăm tối. Hãy coi mình như bụi cây xấu xí hèn hạ. Hãy coi mình như hạt lúa đang thối đi trong lòng đất. Thái độ khiêm nhường mở ra về Tình yêu Chúa sẽ cho ta thấy Tình yêu Chúa là rất hy sinh. Hy sinh của Tình Yêu Chúa nhắm vào sự cứu con người khỏi tội, khỏi lủa hỏa ngục, để được phúc thiên đàng. Để được cứu như vậy dứt khoát phải nhờ Chúa. Những cảm nghiệm này kêu gọi chúng ta hãy quan tâm nhiều hơn đến việc tu thân. 15. Chính Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta trên con đường cảm nghiệm về Tình yêu Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ thấy Hội Thánh không chủ yếu đi về với Chúa bằng những gì là long trọng, lừng lẫy, hoành tráng. Hội Thánh cũng không cứu con người bằng những quyền lực. Đang có nguy cơ khiến Hội Thánh trở nên nghèo dần về những giá trị thiêng liêng . Những cảm nghiệm như trên là rất quan trọng, rất khẩn thiết. Long Xuyên, ngày 26.8.2017
1. Thời gian gần đây, nhất là trong những ngày này, tôi thấy lòng tôi phát sinh một sức mạnh thiêng liêng, thúc đấy tôi phải tỉnh thức trước thời sự hằng ngày. 2. Tỉnh thức để phân định những gì là nên xa tránh và những gì là nên gần gũi, những gì đẩy tôi đến nguy cơ tội lỗi và những gì lôi kéo tôi vào con đường nhân đức. 3. Phân định đó hơi làm cho tôi bất ngờ. Bởi vì tự nhiên lúc này tôi ít còn gần gũi với những thời sự đề cao quyên lực, nhưng gắn bó nhiều hơn với những thời sự đề cao tình thương. Khi nói về quyền lực, tôi nghĩ tới những người thực sự có quyền chức, tôi càng nghĩ tới những người không có chức quyền, nhưng tự cho mình quyền xét xử người khác. 4. Quyền lực nói chung hiện nay bị lôi cuốn quá nhiều và quá lộ liễu vào những lợi ích. Còn tình thương thì lôi cuốn con người đến hy sinh một cách vị tha và mạnh mẽ. 5. Tất nhiên là có những quyền lực tỏa sáng về yêu thương và hy sinh. Họ rất đáng trân trọng. Nhưng trong một tình hình, mà phần đông con người như sống trong khủng hoảng niềm tin, thì việc đề cao quyền lực là điều dễ làm cho người ta dị ứng. 6. Dị ứng đó thiết tưởng cũng phải kiềm chế, và cần chỉnh đốn lại cho công bằng. Chúa đang giúp tôi làm điều đó. Chúa đang giúp tôi nhìn lại đời mình. Đời tôi đã có những lần đề cao không đúng lắm về quyền, về chức, thuộc hai lãnh vực đạo đời, không trong việc làm, thì trong tư tưởng, hoặc hữu ý, hoặc vô tình. Tôi còn biết bao tội khác nữa. 7. Nhìn lại, để mà sám hối. Tôi sám hối, theo chỉ dẫn của Thánh Gioan Baotixita. Thánh bổn mạng của tôi luôn nhấn mạnh đến sám hối. Theo Ngài, sám hối chủ yếu là nhìn vào Chúa Giêsu “ Đây, Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian” (Ga 1, 29). 8. Khi tôi nhìn vào Chúa Giêsu, tôi đã gặp cái nhìn của Chúa. Chúa đã nhìn tôi một cách rất xót thương. Từ cái nhìn xót thương ấy, tôi tin đời tôi tuy tội lỗi đầy tràn, vẫn được tình Chúa xót thương xóa đi. Tôi nhớ lại lời Chúa phán qua miệng tiên tri Isaia “ Như người mẹ an ủi con mình, Ta cũng an ủi con như vậy” (Isaia 51, 12). Chúa tha thứ tội lỗi cho tôi, bằng sự Người an ủi tôi, đó là một sự tha thứ bằng xót thương, được diễn tả qua hình ảnh người mẹ ôm chặt đứa con thơ vào lòng mình. Tha thứ bằng những ủi an, đó là điều tôi đã và đang cảm nhận được một cách rất rõ trong sám hối, mà Chúa thương ban cho tôi. 9. Trước đây, tôi vẫn cầu xin với Chúa Thánh Thần bằng lời cầu của Hội Thánh: “ Xin hãy đến, Chúa là Đấng an ủi tuyệt vời, Chúa là Cha kẻ nghèo khó” Bây giờ, thì tôi cảm nhận được Chúa đang đến với tôi và đến với nhiều người trong Hội Thánh tôi như một Đấng an ủi, như một Người Cha của kẻ nghèo khó. 10. Điều quan trọng, mà tôi và những người của tôi cần có, là phải biết đón nhận sự an ủi của Chúa. Theo tôi, dựa trên những lời trong Kinh Thánh, thì để đón nhận an ủi của Chúa, tâm hồn chúng ta phải hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 11, 29). Hiền lành và khiêm nhường là điều không dễ. Cố gắng của chúng ta được bao nhiêu thì hay bấy nhiều. Rồi cũng phải xin Chúa thương hỗ trợ thêm cho. 11. Đến đây, tôi sực nhớ tới Đức cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Ngài để lại trong đời tôi toàn là tình thương của Ngài, Ngài đã an ủi tôi rất nhiều. Tình thương của Ngài phát xuất từ tấm lòng hiền lành và khiêm nhường. Tôi nhận thấy sự hiền lành và khiêm nhường nơi Ngài được bảo vệ và phát triển qua nhiều phấn đấu. Nhưng nổi bật nhất là qua sự Ngài luôn tỉnh thức, để dấn thân chủ động ủi an người khác. Đúng như lời Chúa đã dạy xưa: “ Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7). Mục vụ ủi an, mà Đức Cố Hồng Y Thuận dành cho tôi, đỡ nâng tôi rất nhiều. 12. Đúng là an ủi người khác, sẽ được Chúa ủi an. Thời sự lúc này đang xảy ra như vậy. Những người mau mắn an ủi kẻ khác là một số đáng kể. Họ an ủi bằng nhiều cách. Dù bằng cách nào, họ đang làm mục vụ ủi an theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 13. Khi họ an ủi kẻ khác, họ phải đối đầu thường xuyên với quỷ dữ. Quỷ dữ trói buộc bao người vào gông cùm vô hình là những hình thức kiêu ngạo và độc ác. Giải cứu con người khỏi những gông cùm đó, tức là phải chiến đấu với những ác quỷ. Điều đó rất khó. Ngoài việc sống cầu nguyện và tiết độ, mục vụ ủi an còn phải nhìn thật sâu những khổ đau của người khác, để biết cùng đau khổ với họ. 14. Như vậy đức tin tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay không chỉ là kế thừa và nối tiếp những tốt đẹp đã qua. Nhưng chủ yếu đức tin hôm nay là không ngừng có những bắt đầu với những sáng kiến mới do tiềm năng mà Chúa Thánh Thần ban cho. Chúa vẫn đến, Chúa đang đến. Điều quan trọng là biết đón nhận Người. Người đang ở giữa Việt Nam này, trong những người đau khổ, và Người vẫn gọi chúng ta như xưa Người đã nói: “ Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta ở trần , các ngươi đã cho mặc” (Mt 25). 15. Sống đức tin của bao người xung quanh tôi là âm thầm gặp gỡ những kẻ khổ đau, để chia sẻ với họ và để cứu họ. Để có sức làm những việc đó, đức tin của họ phải đến uống sức mạnh từ nguồn là Chúa Giêsu. Một thoáng nhìn trên đây, đang đem lại cho tôi biết bao an ủi, ngay chính những lúc tình hình xem như tối tăm và thất vọng. Tôi mong mục vụ ủi an sẽ làm cho Hội Thánh được luôn trẻ trung, có khả năng góp phần vào việc chấn hưng Tổ Quốc yêu dấu của chúng ta. Long Xuyên, ngày 29.8.2017
1. Sau mỗi thánh lễ, tôi vẫn chúc giáo đoàn lời chúc theo Phụng Vụ: “ Chúc anh chị em ra đi bình an” Thế rồi, từ nhiều năm nay, nhất là trong những tháng ngày già yếu, tôi như nghe có lời chúc gửi về tôi: “ Chúc cha ở lại bình an”. 2. Ở lại, đó đúng là lời chúc cho tôi. Tôi ở lại căn phòng này thì quá rõ rồi. Nhưng tôi tìm ở lại một nơi vô hình, thì chính Chúa Giêsu dắt tôi vào. Chúa nói với tôi: “ Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng vậy, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy các con không làm gì được” (Ga 15, 4-5). 3. Với những lời trên đây, Chúa Giêsu dạy tôi một điều rất quan trọng, đó là: “Hãy ở lại trong Chúa”. Chúa Giêsu nói thêm: “ Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu thương các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). 4. Ở lại trong tình thương của Chúa. Đó là điều Chúa đã dạy tôi. Đó là điều tôi đã và đang thực hiện. Ở đây, tôi xin phép chia sẻ đôi chút kinh nghiệm. 5. Bước đầu tiên tôi được ở lại trong tình thương của Chúa là tôi được Chúa Thánh Thần dẫn dắt. Chúa Thánh Thần dẫn dắt tôi vào tình yêu Chúa, khi Người giúp lòng tôi được tĩnh. Đó là tình trạng quen gọi là lúc hồi tâm. Hồi tâm hệ tại tấm lòng tĩnh mạc. Như lời Chúa Giêsu dạy xưa: “ Khi con cầu nguyện, thì hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện với Cha của con, là Đấng ngự trên trời” (Lc 6,6). Rồi lòng tôi phải lắng nghe Chúa. Phúc cho tôi nếu tôi biết lắng nghe Lời Chúa (Lc 10,39). 6. Bước thứ hai là tôi được gặp Chúa Giêsu. Tôi chỉ gặp được Chúa Giêsu, khi lòng tôi được Chúa giúp để thực sự nghèo khó, khiêm hạ và khát khao. Thường là tôi được gặp Chúa Giêsu, khi tôi được ơn thấy Chúa Giêsu nhìn tôi một cách nào đó. Dù với bất cứ cách nào, Chúa Giêsu đã nhìn tôi luôn với tình yêu đầy xót thương. Tôi nhận ra tình yêu của Người dành cho tôi thực là cao quí. Người là con Thiên Chúa, thế mà đã giáng trần sống rất khó nghèo. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu” (Lc 9 57-58). Người là con Thiên Chúa, thế mà đã sống rất khiêm nhường, tự hạ, như Thánh Phaolo đã mô tả: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở lên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” (Pl 2, 6-8). Chúa Giêsu đã sống nghèo và khiêm nhường như vậy, để hy sinh đền tội cho tôi, để cứu tôi khỏi tội, khỏi hỏa ngục, để tôi được hưởng phúc thiên đàng. 7. Bước thứ ba là tôi được nhờ Chúa, mà nhận ra sự thực về tôi. Sự thực về tôi là tôi rất yếu hèn, tội lỗi “ Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1, 8-9). Tôi hèn hạ lắm. Sự thực đúng là như vậy. 8. Bước thứ bốn là tôi được Chúa xót thương. Chúa yêu tôi trước khi tôi biết Người, Chúa thương tôi, khi tôi còn trong tội lỗi (1Ga 4,10). 9. Bước thứ năm là tôi hãy theo gương Chúa, mà xót thương kẻ khác. Như Chúa Giêsu đã yêu thương tôi thế nào, thì tôi cũng hãy thương yêu người khác như vậy. “ Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta hãy yêu thương nhau như vậy. Nếu chúng ta yêu thương nhau như vậy, thì Thiên Chúa sẽ ở lại trong chúng ta” (1Ga 4,12). 10. Mấy bước trên đây mà tôi vừa mạo muội mô tả theo kinh nghiệm của tôi, đã làm nên một hành trình thiêng liêng cho ơn gọi ở lại mà Chúa thương dành cho tôi. 11. Ở lại như thế chính là tình trạng của một tâm hồn mang thân phận tội lỗi, phải phấn đấu rất nhiều trong đau đớn, để bước theo Chúa Giêsu, Đấng hy sinh để cứu nhân loại. 12. Một thoáng nhìn trên đây đang giúp tôi cảm tạ Chúa, vì ơn được ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại sâu, ở lại lâu, ở lại mãi mãi. 13. Tôi coi mỗi bước đi trong hành trình ở lại là mỗi nén bạc Chúa trao cho tôi. Theo dụ ngôn “Những nén bạc” được Chúa nói trong phúc âm (Mt 25, 14-30), tôi phải dùng những nén bạc Chúa trao cho để sinh lời. 14. Để được như vậy, tôi phải cộng tác vào ơn Chúa bằng trí khôn, ý chí và sự tự do của tôi. Do vậy, mà mục vụ của sự ở lại luôn đòi phải cầu nguyện và tỉnh thức và cũng rất cần đến sự nâng đỡ của giáo đoàn, để mà sám hối. 15. Với sự trợ giúp của giáo đoàn, sự ở lại của tôi sẽ là một hiện diện có sức làm chứng cho Chúa. Hiện diện để làm chứng là điều không dễ dàng chút nào. Xin anh chị em hãy thương tôi bằng tất cả tình liên đới trong Thiên Chúa là Tình Yêu giầu lòng thương xót. 16. Trên đất nước Việt Nam hôm nay, tôi đang thấy những người ở lại trong tình yêu Chúa. Họ khá đông. Họ như những hạt lúa gieo vào lòng đất âm thầm để được thối đi (x Ga 12, 24). Gương sáng của họ đang nâng đỡ tôi rất nhiều. Xin hết lòng cảm ơn họ, và cùng với họ, tôi ở lại trong tình yêu của Chúa, với niềm tin và đầy hy vọng. Trong lửa mến nồng nàn, chúng tôi hát bài ca ở lại dâng lên Chúa chúng tôi. Long Xuyên, ngày 18.8.2017
1. Cách đây đã mấy chục năm, một dịp tôi đến Vatican vì nhu cầu liên đới hiệp thông, tôi được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời chia sẻ với Ngài bữa tối lúc 20 giờ. Bữa tối hôm đó chỉ có Ngài, hai đức ông thư kí, và tôi. Lúc chia tay, Đức Thánh Cha bảo tôi hãy chờ một chút, Ngài về phòng. Vài phút sau, Ngài đi ra, tay cằm một chiếc đồng hồ đeo tay toàn màu trắng. Ngài âu yếm trao cho tôi quà tặng quý đó. 2. Chiếc đồng hồ này vẫn ở bên tôi, nay để cạnh đầu giường, nó còn hoạt động rất tốt. Nó không nói. Nhưng tôi như nghe được từ nó mấy điều khuyên như từ Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. 3. Điều khuyên thứ nhất là: Đức Thánh Cha rất thông cảm với những lo sợ của tôi, về ơn gọi của mình. Ngài khuyên tôi hãy can đảm lên. Như chiếc đồng hồ nhỏ không ngừng đi. Tôi cũng hãy đi không ngừng, trên đường làm chứng cho Chúa. 4. Điều khuyên thứ hai là: Thời gian của chiếc đồng hồ được đếm từ những bước nhỏ, nhưng lại làm nên một chuyến đi dài phong phú. 5. Hai điều khuyên trên đây đã giúp tôi rất nhiều trong suốt mấy chục năm qua, và nhất là ngay chính lúc này. Dù ở cương vị nào, tôi luôn coi mình là kẻ được sai đi làm chứng cho Chúa là Tình Yêu thương xót. Chính Đức Giáo Hoàng sai tôi đi, Ngài sai tôi đi, mặc dầu Ngài biết rõ tôi rất yếu đuối, hay lo sợ. Dù về hưu, tôi cũng vẫn là kẻ được sai đi làm chứng cho Chúa theo hoàn cảnh của mình. 6. Điều mà Chúa muốn tôi thực hiện, khi làm chứng cho Chúa, không phải là lý thuyết về Chúa, mà là những kinh nghiệm bản thân về Chúa. Chúa đã thương xót tôi là kẻ tội lỗi, yếu hèn thế nào. Chúa đã đồng hành với tôi cách nào, để ơn gọi của tôi trở thành một chuyến đi của hy vọng và của niềm tin. 7. Thực vậy, chuyến đi ơn gọi là những chuỗi dài những bước đi khác nhau. Có những bước đi trong tăm tối, nghe từng hơi thở rên xiết. Có những bước đi được Chúa đến ủi an, Chúa ủi an bằng nhiều cách. Hoặc do một Lời Chúa, hoặc do một người nào đó, hoặc do một Thánh Lễ, hoặc do một biến cố vui, hoặc do một bất ngờ có sức thay đổi lòng tôi. 8. Từ những chuỗi dài của kinh nghiệm về Chúa, tôi có một hình dung về Chúa. Chúa đã hy sinh mạng sống vì tôi. Người đã chết và đã sống lại. Người đang ở bên tôi. Tôi đón nhận Người. Tôi muốn cùng với Chúa cho đi chính mạng sống của tôi. Chỉ có Tình Yêu như thế mới là điều mà tôi thường hay muốn làm chứng theo ơn gọi của tôi. 9. Mấy đêm vừa rồi, tôi cảm thấy mình đau đớn, mệt mỏi, như không còn sức để sống. Thêm vào đó, tôi nghe như có tiếng quỷ Satan nói bên tai tôi là Chúa đã ruồng bỏ tôi, vì tôi quá tội lỗi. Nhưng chính lúc đó, chiếc đồng hồ nhỏ đã nhắc cho tôi nhớ lại Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, và nhất là nhớ lại Đức Mẹ Maria. Bởi vì trước khi trao tặng chiếc đồng hồ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trao tặng tôi một chuỗi tràng hạt, và Ngài nói với tôi: “ Hãy can đảm”. 10. Đúng là với Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ, tôi đã vững tin vào ơn gọi của tôi. Suốt hành trình hơn 90 năm tuổi đời, trong đó có 63 năm tuổi linh mục, giám mục, tôi đã được Đức Mẹ ủi an. Nhờ Mẹ, can đảm của tôi không là tự hào, tự tin, mà là phó thác như con thơ trong lòng mẹ hiền. 11. Đức Mẹ đã dắt dìu tôi từng bước nhỏ. Nếu ai hỏi tôi như thế là thế nào? Thì tôi xin trả lời tương tự như xưa Chúa Giêsu đã nói với ông Nathanael: “ Trước khi Philiphê gọi anh, Thầy đã thấy anh dưới gốc cây vả (Ga 1, 44). Ngồi dưới gốc cây vả, mà Chúa cũng đã để ý. Nghĩa là Chúa để ý đến những chi tiết rất nhỏ, rất thường. Đức Mẹ cũng quan tâm đến tôi từng chi tiết rất nhỏ. Không phải Mẹ thấy, mà Mẹ còn ở bên tôi. Giữa Mẹ và tôi, thường có những trao đổi tâm tình, không tên mà đậm đà tha thiết. 12. Mẹ thường chỉ vào chiếc đồng hồ nhỏ, mà nói với tôi: “ Con ơi, chỉ một phút, chỉ một giây thôi, con vẫn có thể đón nhận được rất nhiều, cũng như con cũng thể cho đi rất nhiều. Đón nhận từ Tình Yêu thương xót Chúa, và cho đi từ Tình Yêu thương xót Chúa. Làm chứng điều đó bằng kinh nghiệm của con. Đó là ơn gọi của con lúc này”. 13. Nghe vậy, tôi nghĩ ngay đến ơn đầu tiên và thường xuyên tôi đón nhận từ Tình Yêu thương xót Chúa là ơn Chúa tha thứ. Ơn tha thứ, mà tôi đón nhận từ Chúa, là những chuỗi dài nối tiếp, từng phút từng giây. Bởi vì tôi yếu đuối, tội lỗi. Hội Thánh cũng dạy tôi hãy luôn nói với Mẹ: “ Xin Mẹ cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi luôn là kẻ có tội. Chúa luôn là Đấng thứ tha. 14. Nếu nên nhấn mạnh đến một ơn nào, để đặt tên cho ơn gọi của tôi là một chuyến đi dài, thì tôi xin nhấn mạnh đến ơn tha thứ. Như vậy, ơn gọi của tôi là chuỗi dài làm chứng cho ơn tha thứ của Chúa. Vì Chúa là Tình Yêu thương xót. 15. Hôm nay, tôi xin nói lên điều đó, theo kinh nghiệm của tôi, và cũng để hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Mẹ ở Fatima. Ở Fatima, Đức Mẹ kêu gọi sám hối, trong sám hối hãy tin vào Tình Yêu thương xót Chúa. Chúa là Người Cha nhân hậu, hết lòng tha thứ cho bất cứ người con nào trở về ( x. Lc 15, 11-32). Mỗi ngày tôi đều trở về, và mỗi ngày Chúa vẫn thứ tha. Tôi không ỷ lại vào lòng thương xót Chúa để mà phạm tội. Lòng thương xót Chúa cũng không bao giờ là cớ để tôi phạm tội. Tôi làm chứng điều đó. Tôi làm chứng, đem an ủi đến cho bao người và cho chính tôi. Xin hết lòng tạ ơn Chúa nhân lành. Long Xuyên, ngày 8.9.2017
1. Đã từ rất lâu, nhất là từ mấy năm gần đây, tôi cảm thấy mình như một gánh nặng cho nhiều người, thậm chí cho chính tôi. Tôi cầu xin Chúa thương đến tôi, chỉ Chúa mới cứu được tôi. 2. Chúa đã cứu tôi bằng Lời của Chúa. Chính Chúa đã nói rất rõ ràng như sau: “ Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi thì êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-30). 3. Lời Chúa trên đây đã cho tôi một tia sáng. Tia sáng đó có hơi ấm của tình yêu. Tình yêu Chúa gọi tôi. Chúa gọi tôi bằng tình yêu. Chúa dạy tôi hãy đến với Chúa. Tôi đến với Chúa bằng niềm tin. Tôi mang theo mình gánh nặng cuộc đời của tôi. 4. Tôi gặp gỡ Chúa, để xin Người cứu tôi. Nên tôi không ngại nói cho Người tất cả những gì đang là gánh nặng của tôi. Chúa nghe tôi giãi bày. Người không xua đuổi, không mắng trách. Trái lại, Người lại an ủi. Tự nhiên, tôi cảm nhận được Chúa rất hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành và khiêm nhường tỏa ra từ tình yêu của Chúa, ví như dòng nước thiêng thấm sâu vào lòng tôi, đem lại cho tôi sự bình an, chữa lành các vết thương tâm hồn. 5. Chữa lành xong, Chúa lại dạy tôi hãy ra đi, mà đừng ồn ào, khoe khoang về việc đó. Chính thái độ đó của Chúa lại càng làm cho tôi cảm nhận Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. 6. Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, mà tôi được phúc đón nhận từ những phút gặp gỡ trên đây, sẽ dẫn tôi vào đời sau để hưởng hạnh phúc đời đời, trong tình yêu Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. 7. Hành trình như thế dù có phải trải qua thử thách, thì những thử thách đó cũng sẽ êm ái ngọt ngào mà thôi. 8. Trên đây là cảm nghiệm nền tảng về Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Từ đó, tôi nhận ra những ai đang là hình ảnh của Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lịch sử hôm nay. Trong lịch sử hiện nay, tôi nhận thấy những người có Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường hướng dẫn không phải là hiếm. Qua sự hiền lành và khiêm nhường nơi họ, Chúa Thánh Thần làm chứng những người thuộc về Chúa Giêsu hiện nay là con số đông, rải rắc khắp nơi, trong mọi văn hóa. 9. Một hiện tượng đang làm cho tôi và nhiều người phải suy nghĩ về sự phong phú trong ơn gọi làm chứng cho sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa, đó là sự nhiều người đã thấy Chúa đồng hóa mình với thân phận kẻ nghèo khổ. Họ giống như Thánh Martinô thế kỉ thứ bốn. Ngài là người lính, một hôm ngồi trên ngựa, đang trên đường thi hành công vụ, thì gặp một người ở vệ đường, người này trần truồng, đói khổ. Martinô chạnh lòng thương, xuống ngựa, lấy gươm cắt đôi chiếc áo mình mặc và trao một nửa cho người đó. Đêm sau, Martinô thấy Chúa Giêsu mặc mảnh áo Ngài cho hiện ra nói với Ngài: “ Chính Ta là Giêsu. Con thương kẻ khổ đau là thương chính Ta”. Martinô đã nhận ra Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường đến như thế. Ngài đã đi tu, sau này được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Tours. Ngài luôn luôn nhận ra Chúa hiền lành và khiêm nhường nơi những kẻ đói khát, nghèo túng, khổ đau. Phục vụ họ chính là đón nhận Chúa. 10. Những người như Thánh Martinô, giám mục thành Tours, cũng đang xuất hiện tại Việt Nam hôm nay. Họ gặp Chúa Giêsu nghèo khổ nơi bao người xung quanh họ, khiến họ không thể không có những sáng kiến về hiền lành và khiêm nhường. 11. Riêng tôi, sự hiền lành và khiêm nhường, mà Chúa Giêsu đã dạy, luôn giúp tôi sống ơn gọi làm chứng cho Chúa. Bất cứ ở nơi đâu, bất cứ lúc nào, hễ tôi nhìn thấy ai có dấu chỉ hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, tôi đều cảm tạ Chúa. Họ làm những việc nhỏ, việc nhỏ mà rấp đẹp, góp phận rất lớn vào công trình cứu độ. 12. Họ làm chứng cho Chúa bằng sự họ hiền lành và khiêm nhường, biết vui mừng đón nhận chỉ một người tội lỗi trở về với Chúa. Như lời Chúa phán xưa: “ Trên trời, cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn vì có 99 người công chính không cần sám hối ăn năn” (Mt 18, 12-14). 13. Họ làm chứng cho Chúa bằng sự họ hiền lành và khiêm nhường, biết tha thứ cho người khác như lời Chúa dạy: “ Nếu ai xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ cho họ đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-23). Nghĩa là vô hạn định. 14. Họ làm chứng cho Chúa bằng sự họ hiền lành và khiêm nhường, biết đón nhận Chúa là Đấng không chủ trương kết án và trừng phạt ai, mà chỉ muốn lấy sự lành mà thắng sự dữ. Sự lành lớn nhất là chính các môn đệ Chúa hãy bắt chước Chúa, mà đền tội thay cho kẻ tội lỗi. Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng đã làm như vậy. 15. Họ làm chứng cho Chúa bằng sự họ hiền lành và khiêm nhường, biết giới thiệu việc làm để vào Nước Chúa, đó là việc làm của cái Tâm. Với cái tâm hiền lành và khiêm nhường, họ tiếp nối con đường mà Đức Mẹ và Thánh Giuse đã đi. Với chia sẻ trên đây, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa đã thương cứu tôi bằng sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa. Từ đó, Chúa trao ban cho tôi ơn gọi làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa. Đức Mẹ và Thánh Giuse đang đồng hành với tôi trên con đường làm chứng. 16. Khi làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa, tôi đã được khích lệ rất nhiều bởi biết bao người hiền lành và khiêm nhường. Những người này thuộc nhiều giới, và ở nhiều nơi. Họ là những điểm tựa quí báu Chúa gởi đến cho tôi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Chúa. Cùng với tâm tình cảm tạ, tôi tha thiết xin Chúa cho tôi được nên người hiền lành và khiêm nhường theo ý Chúa muốn. Long Xuyên, ngày 23.9.2017
1. Cách đây hai ngày, ban đêm trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy Đức Mẹ Maria giữa các Thánh Tông Đồ. Được thấy Mẹ, tôi cảm thấy một hạnh phúc lạ lùng, đầy âu yếm thân thương. 2. Mẹ không nói gì, nhưng từ giây phút ấy, tôi nhận được rất nhiều tín hiệu cho tôi hiểu: Mẹ không đến cho riêng tôi, mà cho tất cả các con cái Mẹ. Mẹ muốn nhắn nhủ các con cái Mẹ một điều rất quan trọng, đó là hãy sám hối. 3. Sám hối là điều Mẹ đã nhắn nhủ ở Fatima trước đây 100 năm. Năm nay Mẹ nhắc lại, vì tình hình đang diễn biến nguy hiểm. Nhiều tai họa sẽ ập xuống cách khủng khiếp, nếu không sám hối. 4. Hiện nay, sám hối không được mấy người thực hiện, bởi vì rất nhiều người đã mất ý thức về tội. Rất nhiều người cho mình là vô tội. Do vậy, sám hối càng trở nên khẩn thiết. 5. Riêng tôi, sẽ vâng lời Đức Mẹ, mà sám hối. Sám hối của tôi có vẻ riêng tư. Tuy vậy, trong tinh thần hiệp thông, tôi cũng xin phép được chia sẻ đôi chút. Tôi sám hối bằng ba việc sau đây. Một là để ý đón nhận tình yêu xót thương của Chúa. Hai là để ý chia sẻ cho người khác tình yêu xót thương của mình. Ba là tỉnh thức trước những tại họa. 6. Sở dĩ phải để ý đón nhận tình yêu xót thương của Chúa, coi đó là một việc sám hối, bởi vì rất nhiều khi chúng ta từ chối sự mời gọi của Chúa. Từ chối đó là một lỗi lầm xúc phạm đến Chúa. Cần phải sám hối. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề từ chối sự mời gọi của Chúa. Đó chính là một xúc phạm. Dụ ngôn chủ nhà dọn tiệc, cho mời khách, nhưng nhiều khách được mời đã từ chối, với lý do này lý do kia. Vì vậy, chủ nhà thịnh nộ (x Lc 14, 15-24). Trong thực tế, có thể tôi và nhiều người trong chúng ta cũng đã có nhiều lần từ chối sự mời gọi của Chúa. Nhất là trong thực tế, có thể chúng ta có nhiều lần từ chối thánh ý Chúa. Làm việc đạo đức, nhưng theo ý mình, chứ không theo ý Chúa. Vì thế, sám hối của chúng ta nên để ý đến sự đón nhận Chúa và thánh ý Chúa. Nếu không, chúng ta sẽ bị Chúa cho thấy sự thật phũ phàng nầy: “ Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8). 7. Rồi, sở dĩ phải để ý đến sự chia sẻ cho người khác tình yêu xót thương của ta, bởi vì rất nhiều người chúng ta đã dửng dưng, vô tâm, chai đá trước những người lâm cảnh khổ đau. Trong dụ ngôn người “Samaria tốt lành” Chúa đã kết án thầy Tư Tế và thầy Levi, vì hai ông đã xa tránh, không chịu cứu giúp kẻ bị cướp trấn lột và bị đánh nằm ở vệ đường (x Lc 10, 30-37). Trong dụ ngôn “Người phú quí và người ăn mày”, Chúa Giêsu đã kết án người phú quí vì ông dửng dưng, vô tâm đối với người ăn mày bệnh tật nằm ở cổng nhà ông (x Lc 16, 19-31). Trong thực tế, có thể tôi và chúng ta cũng nhiều lần đối xử với những kẻ đói nghèo, khổ đau bằng thái độ dửng dưng vô tâm ở nhiều mức độ khác nhau. Vì thế, sám hối của chúng ta nên để ý tích cực nhiều hơn đến sự chia sẻ tình thương của ta cho những kẻ khổ đau. Tôi thấy chúng ta cho dù nghèo túng, bệnh tật, già nua, đau khổ đến đâu, vẫn có khả năng cho đi tình thương của mình. Nhiều người nghèo túng, khổ đau đã chỉa sẻ cho tôi tình thương của họ. Đó là một bài học quí giá cho tôi về sự sám hối. 8. Rồi, sở dĩ phải tỉnh thức trước những tai họa xảy tới, coi đó là một việc sám hối, bởi vì rất nhiều khi tai họa là hậu quả của tội. Nhìn tai họa, để nhận ra tội, mà sám hối ăn năn. 9. Theo giáo lý, khi chúng ta nhìn thấy bao nhiêu tai họa hiện nay trên thế giới, chúng ta có thể hiểu một phần là hậu quả của tội hai ông bà tổ tông loài người đã phạm xưa. Cũng thế, nhiều khi tai họa hiện nay là do tội của ai đó đã gây nên. Ai đó có thể là cá nhân, có thể là cộng đoàn, có thể là cơ chế, cũng có thể là chính chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy tỉnh thức trước những tai họa đang xảy ra khắp nơi, để cầu nguyện xin Chúa tha tội cho chúng ta và cho tất cả mọi người. 10. Thánh vương Đavid xưa, khi thấy tai họa khủng khiếp xảy tới cho dân, đã nhận ra tội của mình, đó là kiêu ngạo, tự hào vì những con số oai hùng trong cuộc kiểm tra dân số. Tai họa là do tội, nên Vua Đavid đã sám hối ăn năn (x 2 Samuel 4, 4-17). Hiện giờ, xem ra nhiều khi chúng ta cũng thích nêu lên những con số, để tự hào. Xin hãy tỉnh thức, kẻo sẽ không tránh được tai họa như vua Đavid xưa. Nhưng, nếu đã lỡ rồi, thì hãy theo gương Ngài mà sám hối ăn năn. Sám hối nào cũng đòi rất nhiều khiêm nhường, cầu nguyện, chấp nhận đớn đau để đền tội. 11. Với một thoáng chia sẻ trên đây, tôi muốn nói lên điều Đức Mẹ đã nhắn nhủ tôi mấy ngày nay. Tháng 10 hằng năm quen gọi là tháng Mân côi. Năm nay nếu tháng Mân côi nhấn mạnh đến việc sám hối, thì thiết tưởng sẽ thêm ý nghĩa có sức cứu độ. Bởi vì tình hình hiện nay đang báo hiệu nhân loại đang rất cần được cứu. 12. Sẽ rất nguy hiểm, nếu những con cái Đức Mẹ coi thường việc sám hối, để cứ nhởn nhơ với ảo tưởng “sẽ không sao đâu”. 13. Sẽ là quá muộn, nếu những con cái Đức Mẹ bỏ ngoài tai sứ điệp sám hối ở Fatima, bởi vì tai họa đang tới rất gần. 14. Sẽ là xúc phạm, nếu những con cái Đức Mẹ xúi giục người khác đừng sám hối, bởi vì Satan chỉ chờ có thế thôi, để lôi kéo con người xuống hỏa ngục. 15. Sẽ rất hy vọng, nếu những con cái Đức Mẹ quyết tâm đi vào con đường sám hối, theo như Đức Mẹ nhắn nhủ. Lịch sử cứu độ làm chứng: Sám hối bao giờ cũng là chìa khóa mở ra kho tàng phục hưng, đổi mới và bình an. Sám hối là một ơn Chúa ban. Hãy cầu xin cho được ơn trọng đại và cần thiết đó. Long Xuyên, ngày 01.10.2017
1. Khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó Giáo Phận Long Xuyên tháng 4 năm 1975, tôi đã chọn cho mình khẩu hiệu “Điều răn mới”. Điều răn mới là một Lời Chúa, trích từ câu Chúa phán trong buổi tiệc ly: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13, 34). Từ đó, yêu thương trở thành tiếng Chúa gọi, gây thao thức trong suốt hành trình mục vụ, truyền giáo và tu đức của tôi. 2. Ngay những ngày đầu cuộc đời giám mục, Chúa Giêsu đã đến với tôi, để dạy tôi yêu thương như Người đã yêu thương. Yêu thương đó đòi phải cụ thể và quảng đại. Cụ thể là ưu tiên để ý đến những người đau khổ xác hồn. Quảng đại là cho đi, bằng sự đồng cảm sâu sắc chân thành, bằng hy sinh, cầu nguyện và chia sẻ. Tôi đã cố gắng thực hiện như vậy. Nhờ vậy, mà tôi có cảm tưởng là đã thực hiện được phần nào nhiệm vụ làm chứng cho Chúa. Đúng như Lời Chúa phán: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). 3. Làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau, đó là một niềm vui lớn lao. Được như vậy, trước hết là nhờ ơn Chúa, sau đó cũng phải nhờ đến cộng đoàn. Cộng đoàn được hiểu theo nghĩa rộng. Về cộng đoàn, tôi thấy thế này: 4. Nhiều năm trước đây xem ra cộng đoàn làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau hơn cộng đoàn hiện nay. Ngay gia đình là một loại cộng đoàn rất nhỏ, thế mà hiện nay số gia đình làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau đâu còn nhiều. Thậm chí nhiều cộng đoàn những người đi tu cũng là một thứ gia đình, làm chứng cho Chúa, nay đâu còn bằng yêu thương nhau một cách dễ dàng như xưa nữa đâu. Thiết tưởng thực tế đau buồn đó cũng khiến chúng ta phải nhận ra điều này: Khủng hoảng lớn hiện nay cho Hội Thánh không phải chỉ về đức tin, mà cũng về yêu thương một cách trầm trọng. 5. Cần nhận ra sự thực đó, để có những việc làm chân thật về sám hối, về mục vụ và về truyền giáo. Nếu không, sẽ là lừa dối mình và lừa dối kẻ khác. 6. Sẽ là lừa dối, nếu tôi quả quyết yêu thương là việc dễ. Bởi vì yêu thương đích thực bao giờ cũng đòi phải hy sinh. Tình yêu không hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh không tình yêu là là hy sinh thừa. Nhưng hy sinh đâu là chuyện dễ. 7. Sẽ là lừa dối, nếu tôi quả quyết yêu như Chúa yêu là việc dễ. Bởi vì Chúa Giêsu khi yêu chúng ta, đã hy sinh chính mạng sống mình. Người chịu rất nhiều đau đớn. Còn Đức Mẹ, thì khi yêu thương Chúa và loài người, đã như bị lưỡi đòng đâm thâu qua trái tim (Lc 2, 45). Riêng tôi, xin thú thực là, để yêu như Chúa và Mẹ đã yêu, tôi phải phấn đấu rất nhiều. 8. Cũng rất may là hiện nay đang xuất hiện những chứng nhân mới, làm chứng cho Chúa bằng yêu thương một cách mạnh mẽ lạ lùng. Họ là những cộng đoàn, họ là những cá nhân. Tôi đang thấy họ là những dấu chỉ, mà Chúa Thánh Thần đào tạo nên, để được sai vào Hội Thánh tại Việt Nam. Họ đang hiện diện một cách âm thầm, mà lại tỏa sáng. 9. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, những cá nhân và những cộng đoàn đang làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau, đã đánh thức lương tâm tôi. Tôi nhận ra rằng: Thực sự tôi đã cố gắng làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương. Nhưng tôi cũng phải thú nhận rằng: Nhiều khi tôi đã làm chứng không đúng, không đủ. Tôi sám hối về mọi lỗi lầm trong bổn phận làm chứng Chúa bằng yêu thương. 10. Để sám hối, tôi thường cầu nguyện theo Thánh vịnh 50(51) của vua Đavid. Xin trích những đoạn mà tôi hay dừng lại lâu: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy… Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng lỡ đuổi con, không cho gần Nhân Thánh, Đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con”. 11. Điều mà Thánh vịnh sám hối đã nhiều lần giúp tôi được vui, đó là tin, dù tôi yếu đuối, Chúa vẫn có quyền và lòng thương xót đổi tôi ra mới. Nhìn về quá khứ, tôi tin Chúa thứ tha, nhìn về tương lai, tôi tin Chúa đỡ nâng và cứu độ tôi. Sám hối, như trên đây, đang giúp tôi lạc quan trên đường làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. 12. Một điều khác cũng đang giúp tôi lạc quan, để có những sáng kiến làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. Điều đó là thế này: Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Các con gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 13-15). 13. Hiện nay, trong một số cộng đoàn những người tin theo Chúa, đang thực hiện Lời Chúa dạy trên đây. Họ yêu thương nhau, đến nỗi rửa chân cho nhau, nghĩa là họ có những sáng kiến rửa những lỗi lầm, những mặc cảm, những vết thương lòng của nhau bằng tình thương khiêm tốn tế nhị. Họ rất nhiệt thành lo cứu các linh hồn. 14. Những người làm như thế đang còn là một thiểu số nhỏ, nhưng số nhỏ đó đang giới thiệu về những người tin theo Chúa nay vẫn có nhiều khả năng làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. Điều quan trọng đặt ra cho chúng ta là, chúng ta có đón nhận những giới thiệu đó không? 15. Riêng tôi, tôi đã nhận được nhiều gương sáng, được chính Đức Mẹ Maria giới thiệu về cách làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. Tôi không thể kể ra hết được. Qua đó, tôi tin việc Chúa Thánh Thần đang làm trong Hội Thánh là vô cùng lớn lao, và rất bất ngờ. Sự chúng ta biết được chỉ là một phần rất nhỏ. Về vấn đề làm chứng cho Chúa bằng yêu thương, chúng ta cần khiêm tốn, rất khiêm tốn, luôn luôn khiêm tốn. Long Xuyên, ngày 07.10.2017
1. Tôi vẫn nhận thức điều này một cách chắc chắn: “Ơn gọi của tôi là một chuyến đi làm chứng cho Chúa là tình yêu thương xót”. Chuyến đi là thiêng liêng, chứ không phải là đi đây đi đó. 2. Một trong những cách mà tôi hay vận dụng trong hành trình làm chứng cho Chúa là chia sẻ những gì Lời Chúa đã làm cho tôi. Những bài chia sẻ đó thường mang nội dung rất riêng tư, nhấn mạnh đến sự Chúa đã và đang yêu thương tôi thế nào, mặc dù tôi tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Giờ đây, tôi thấy sẽ đến lúc tôi không còn đủ sức viết những bài chia sẻ nữa. 3. Nhưng hành trình làm chứng cho Chúa vẫn tiếp tục bằng những cách khác vẫn làm, đó là cầu nguyện và hy sinh. 4. Ngày nào tôi cũng lên đường, để đến với các linh hồn. Tôi tin tình yêu của tôi được chuyển qua cầu nguyện và hy sinh, thế nào cũng tới đến nhiều linh hồn. Cho tới bây giờ, nhờ cầu nguyện và hy sinh, tôi đã gặp được rất nhiều tâm hồn tốt lành, mà tôi không ngờ. 5. Có những người không có tên trong sổ rửa tội, nhưng họ lại nói với tôi về Chúa, khi họ chia sẻ cho tôi thấy họ đã gặp được Chúa là tình yêu thương xót. 6. Có những người bị xã hội loại trừ, đã làm chứng với tôi là họ đã được Chúa thương cứu họ một cách lạ lùng. 7. Có những người rất nghèo đã cho tôi thấy là họ đã góp phần cứu nhiều người khác, bởi vì chính họ đã được Chúa cứu. 8. Có những người trước đây đã sa xuống vực sâu tội lỗi, nay họ cho tôi thấy là họ đã được Chúa thương cứu chữa một cách đặc biệt. 9. Gặp được những người trên đây, tôi nhớ lại, Chúa xưa đã cho tiên tri Giona biết: Mặc dầu thành Ninive đã phạm tội, nhưng khi họ sám hối, không lẽ Chúa nỡ phạt họ sao! Chúa đã cứu họ, mặc dầu họ không phải là dân được Chúa chọn (Giona 4, 10-11). 10. Tôi cũng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói với những người biệt phái là: “Nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ được vào nước Chúa” (Mt 8, 11-12). 11. Những việc Chúa làm do tình yêu thương xót mà tôi được gặp, đã mở lòng tôi ra. Nhờ vậy, tôi thấy tôi sẽ lỗi lầm, nếu tôi nhốt Lời Chúa và tình yêu Chúa vào những bức tường vô hình, nói là để bảo vệ. Cũng nhờ mở lòng ra, tôi đã gặp được nhiều tâm hồn nêu gương vượt khó, khi họ chịu khổ đau, mà vẫn kiên trì tin ở tình yêu Chúa. 12. Khó khăn khổ đau của họ là họ có quyền, có địa vị, mà nay phải mất đi một cách không ngờ. Nhưng tình yêu Chúa giúp họ vượt qua thử thách, để luôn trung thành với Chúa. 13. Khó khăn của họ là họ có quyền được con cháu hiếu thảo đền ơn. Thế mà nay họ phải mất đi một cách tàn bạo. Nhưng tình yêu Chúa giúp họ vượt qua thử thách, để luôn là môn đệ Chúa, biết tha thứ. 14. Khó khăn của họ là họ có quyền được bạn bè tín nhiệm, tôn trọng. Thế mà nay họ phải đương đầu với những phản trắc và thất tín. Nhưng tình yêu Chúa giúp họ vượt qua thử thách, để sống luôn xứng đáng với danh nghĩa người tin theo Chúa, lấy thiện mà báo ác. 15. Những người được thêm quyền, được thêm trọng kính, được thêm mến yêu, được thêm danh dự, mà tạ ơn Chúa, và cho mình là được Chúa thương cách đặc biệt, cũng làm chứng cho tình yêu Chúa. Nhưng họ cẩn thận, vì Chúa Giêsu đã phán: “Các ông tôn vinh lẫn nhau, và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được” (Ga 5, 44). 16. Còn những người mất đi những vinh quang đó, coi mình như hạt lúa chôn vùi xuống đất, chịu thối đi, mà vẫn tạ ơn Chúa. Thiết tưởng việc tạ ơn của họ có sức thiết phục, làm sáng danh tình yêu Chúa rất nhiều. 17. Riêng tôi, trên đường làm chứng cho tình yêu Chúa, tôi đã được khích lệ bởi những người phải mất đi rất nhiều, mà vẫn tạ ơn Chúa, vẫn yêu thương người khác như Chúa yêu thương. 18. Tôi vừa nói trên đây là tôi được khích lệ rất nhiều. Khích lệ đó rất quí. Vì làm chứng cho tình yêu Chúa là điều không dễ. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã muốn đời mình chỉ dành để làm chứng cho tình yêu Chúa. Về cuối đời, Thánh nữ nhìn nhận: “Con đường em đi chỉ là con đường nhỏ, thế mà em không ngờ phải đau khổ đến thế”. Đau phần xác là rất nhiều, đau tâm hồn cũng rất nhiều. Thánh nữ đã thực sự trở nên “Người đầy tớ khổ đau” mà tiên tri Isaia đã nói về Chúa Giêsu xưa. Chúa Giêsu đã phải chịu biết bao đau khổ, để làm chứng Thiên Chúa là tình yêu. Tôi cũng có kinh nghiệm phần nào như thế. 19. Khi phải chìm sâu vào đau khổ, mà được nâng đỡ, thì rất trân trọng. Tuy không dám đòi hỏi bất cứ nâng đỡ nào, nhưng nếu tôi vẫn đợi chờ, thì đó cũng là một lời tuyên xưng về sự yếu đuối của mình. Tuyên xưng chân thành đó muốn nói lên sự đi tìm nương tựa của Chúa. “Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời”. 20. Tôi nương tựa nơi Chúa, để lên đường. Lên đường, khi đã già yếu, là đi về Nhà Chúa. Tôi lên đường là cùng với Đức Mẹ Maria, tôi luôn nói lời : “Xin vâng”. 21. Tôi xin vâng thánh ý Chúa mọi giờ, mọi phút, ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Xin vâng, với Đức Mẹ, như Đức Mẹ. Nhờ vậy, Đức Mẹ luôn đỡ nâng tôi. Cùng với Đức Mẹ, nhiều người cũng đã và đang nâng đỡ tôi. Xin hết lòng cảm tạ mọi đỡ nâng. 22. Tôi lên đường là tôi cầu mong mọi người đều được Chúa yêu thương, mọi người đều biết đón nhận tình yêu của Chúa. Long Xuyên, ngày 17.10.2017
1. Đọc Kinh Thánh, tôi thấy Chúa hay nhắc cho con cái Chúa: Hãy sống tinh thần lữ khách, lữ hành. Lữ khách có nghĩa như ngoại kiều, lữ hành có nghĩa như kẻ đi đường. Ở đây, chỉ xin trích vài đoạn nhỏ: 2. Sách Lêvi: “Đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Levi 25, 23). Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái: “Từ xa, các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều và lữ khách trên trái đất” (Dt 11, 13). Thư thứ nhất Thánh Phêro viết: “Anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn” (1Pr 2, 11). 3. Lời Chúa dạy trên đây đã thấm sâu vào hồn tôi. Tôi cố gắng sống tinh thần ngoại kiều và lữ khách trong suốt hành trình ơn gọi của tôi. Kinh nghiệm của tôi không nhiều. Tuy nhiên, cũng xin được chia sẻ, coi đây là một món quà nhỏ của một người già đang đi chặng cuối của hành trình tương đối đã dài. 4. Kinh nghiệm thứ nhất. Tinh thần lữ hành và lữ khách giúp tôi gắn bó chặt chẽ với Chúa, không để mình bị trói buộc vào những gì chóng qua trên đời này. Đời này có nhiều điều hấp dẫn, nhưng tôi sẽ không dừng lại đó, để mà sở hữu. Đời này có nhiều điều gây bực bội, nhưng tôi sẽ không dừng lại ở đó, để tìm hiểu lỗi tại ai, để kết án họ. Là lữ khách và là lữ hành, tôi nhìn về Chúa, để cầu nguyện. Cầu nguyện, mà tôi thực hiện nhiều nhất là ca tụng Chúa. Tôi ca tụng Chúa, mọi nơi mọi lúc, coi đó là việc phải đạo và sinh ơn cứu độ. Khi ca tụng Chúa, tôi dâng lên Chúa tất cả hồn xác tôi, mọi việc, mọi tình cảm, mọi ước muốn, mọi hy sinh của tôi. Tôi cũng thường dâng lên Chúa cả những yếu đuối, những tội lỗi của tôi với tâm tình sám hối. Tôi cũng dâng lên Chúa mọi người thân yêu của tôi, Hội Thánh của tôi, quê hương của tôi. Tôi thuộc về Chúa. Chúa là gia nghiệp của tôi. 5. Tinh thần lữ hành và lữ khách đã giúp tôi lên đường mỗi ngày một cách vững vàng. Bởi vì tôi tin, tôi đi về với Chúa, tôi đi cùng với Chúa, tôi được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ. 6. Kinh nghiệm thứ hai. Tinh thần lữ khách và lữ hành đã giúp tôi được nhiều người thương giúp đỡ. Tôi đã đi qua nhiều nơi, đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử. Tôi đến những nơi đó, và đi vào những thời gian đó, một cách khiêm tốn, khó nghèo. Những người ở nơi đó và ở thời gian đó thấy tôi không đến như người tranh đất dành dân, như người áp đặt quyền lực, như người kích động, tố cáo, nhưng đến để yêu thương phục vụ, nên nhiều người đã thương chấp nhận tôi, hơn thế, dù họ không là công giáo, họ còn giúp đỡ tôi cả trong việc rao giảng Phúc Âm. 7. Ở đây, tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu ngồi nghỉ bên bờ giếng có tên là giếng ông Giacóp. Lúc đó, khoảng 12 giờ trưa, một người phụ nữ Samaria đến giếng múc nước. Chúa Giêsu khiêm tốn nói: “Xin chị làm ơn cho tôi chút nước uống”. Người phụ nữ trả lời: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, là một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?” Câu chuyện mở đầu từ thái độ khiêm tốn của Chúa Giêsu, như người lữ khách và lữ hành, đã tiếp diễn dần dần một cách thuận lợi, và kết thúc bằng sự người phụ nữ Samaria đã trở thành kẻ loan báo Tin Mừng về Chúa Giêsu. 8. Thái độ khiêm tốn của kẻ lữ khách và lữ hành, mà Chúa Giêsu đã nêu gương trên đây, đã giúp tôi rất nhiều. Kết quả là nhiều người không thuộc về công giáo không những đã tin theo Chúa, mà còn trở thành kẻ loan báo Tin Mừng một cách nhiệt tình ở chính nơi chưa hề biết Chúa. 9. Kinh nghiệm thứ ba. Tinh thần lữ hành lữ khách đã giúp tôi biết chấp nhận đau đớn trong những trường hợp bị loại trừ. Phải thú nhận điều này: Hành trình làm chứng cho Chúa không luôn dễ dàng. Thực vậy, có những trường hợp do những lý do khách quan và chủ quan, tôi có cảm tưởng như tôi bị nhiều người xa tránh, thậm chí cả những người rất gần gũi cũng như muốn coi tôi là dư thừa, là gánh nặng. 10. Những trường hợp như thế khiến tôi đau buồn. Tôi xin Chúa thêm ơn giúp sức cho tôi, để biết bao dung. Nhưng nói lên sự đau buồn của mình cũng là một tâm sự chân thành, xin được nâng đỡ. 11. Tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu xưa đã bị chính những người đồng hương xua đuổi (x.Lc 4, 28-30). 12. Tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu xưa đã bị chính dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, kêu la đòi giết Người (x. Mc14-15). Trong những trường hợp như vậy, tinh thần lữ hành và lữ khách nhắc nhủ tôi là cuộc đời luôn có những bất ngờ đau đớn. Tôi phải sãn sàng với những đau đớn đó. Để nói được như Chúa Giêsu xưa trên Thánh Giá “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ làm không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Tôi rất cần ơn đặc biệt của Chúa. 13. Từ những kinh nghiệm trên đây, tôi thấy: Tinh thần lữ hành và lữ khách khuyên nhủ tôi: Hãy tập trung vào yêu thương một cách khiêm nhường, theo gương Chúa Giêsu. Yêu thương như thế là rất đẹp. Nhưng yêu thương như thế có nhiều đau đớn. 14. Một hôm, tại bàn giấy riêng trong một cuộc bệ kiến, tôi có hỏi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rằng: “Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có đau khổ không?”. Ngài thưa: “Tôi đau khổ nhiều lắm, nhưng tôi quen rồi”. Nghe tâm sự trên đây của một Đấng Thánh, tôi thấy sự mình nói lên nỗi khổ đau của mình đâu có gì là xấu, trái lại nó còn là việc tốt, chứng tỏ tình yêu thương xót Chúa đã dỡ nâng những kẻ khổ đau biết cầu xin Chúa. 15. Để kết, tôi xin kể lại giấc chiêm bao mà tôi mới gặp đêm vừa rồi. Đại khái là: Tôi đang rất đau buồn về tình hình sức khỏe xác hồn của tôi, tôi cảm thấy mình cô đơn, xa vắng. Thì chính lúc đó, tôi được gặp rất nhiều giám mục đến với tôi. Tôi ở giữa các ngài trong bầu khí thân mật khác thường. Thức dậy, tôi cảm thấy rất vui. 16. Qua giấc chiêm bao đó, niềm vui đến với tôi mang lời nhắn nhủ của Chúa: “Con không cô đơn. Có nhiều giám mục cũng đang đồng hành với con một cách kín đáo. Đoàn lữ hành và lữ khách đó đang âm thầm trên đường làm chứng cho Chúa”. Xin cảm tạ Chúa. Xin ca tụng Chúa. Xin hãy cùng nhau lên đường. Với tinh thần lữ hành và lữ khách. Long Xuyên, ngày 21.10.2017
Cho đến bây giờ, tôi vẫn xác tín rằng: Ơn gọi của tôi là một chuyến đi làm chứng Thiên Chúa là Tình yêu thương xót. 2. Lúc này hơn bao giờ hết, khi làm chứng điều đó, tôi cần nói rõ: Chúa yêu thương tôi, không phải lúc tôi là người thánh thiện, nhưng chính đang lúc tôi tội lỗi, yếu đuối hèn mọn. 3. Chúa đã yêu thương tôi thế nào? Thưa Chúa đã yêu thương tôi như Chúa đã yêu thương các tông đồ xưa. Phúc âm Thánh Gioan kể: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa Cha mà đến, và sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đẩu rửa chân cho các môn đệ, và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,3-5). Việc làm trên đây của Chúa Giêsu tỏ rõ: Người yêu thương bằng khiêm nhường tột độ. Quì xuống rửa chân và lau chân cho các môn đệ của Người. 4. Chúa Giêsu cũng đã làm như thế cho tôi một cách nào đó. Người đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc đó cho tôi, qua nhiều người trong cộng đoàn, trong Hội Thánh, và cả trong xã hội nữa. 5. Được rửa và được lau bằng tình yêu khiêm nhường, tôi không những tin Chúa là Tình yêu xót thương, mà còn cảm được một cách sâu xa thấm thía. 6. Đời tôi đúng là như vậy. Nên tôi thấy rằng: Được sống trong yêu thương như vậy, tôi cũng hãy yêu thương những người khác như thế. Để cứ mãi mãi theo con đường đó, đời tối sẽ chỉ là sống cho tình yêu, và cũng sẽ chết cho tình yêu. Sống cho tình yêu là biết đón nhận tình yêu khiêm nhường phục vụ. Sống trong tình yêu cũng là biết cho đi tình yêu khiêm nhường phục vụ. 7. Tình yêu khiêm nhường phục vụ của Chúa Giêsu được diễn tả bằng những việc làm cụ thể: Cởi áo ngoài ra, quì xuống rửa chân cho các môn đệ, lấy khăn thắt lưng mà lau chân cho họ. Những việc làm cụ thể, mà Chúa Giêsu đã nêu gương, khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi và những người của Hội Thánh tôi đã có những việc cụ thể nào, để làm chứng cho tình yêu khiêm tốn phục vụ?. 8. Năm nay, tôi nhớ lại một điều Đức Mẹ Maria đã nhắn nhủ ở Fatima đó là sám hối. Tôi cần sám hối về rất nhiều lỗi lầm thiếu sót của tôi. Trong đó lỗi lầm thiếu sót phải coi là quan trọng, đó là đã thiếu những cụ thể trong việc phục vụ khiêm nhường, theo gương Chúa. 9. Vinh quang của Chúa là ở sự Chúa khiêm nhường phục vụ với yêu thương đầy hy sinh. Còn chúng ta, nếu lại coi sự mình được phục vụ như một quyền chức với nhiều hưởng thụ, rồi coi đó là làm vinh quang cho Chúa, thì thực là một sai lầm tai hại. 10. Tới đây, tôi sực nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã phán xưa về những việc làm mà nhiều người coi là làm vinh danh Chúa, nhưng thực sự bị Chúa kết án nghiêm khắc: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng con đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không biết các ngươi, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7, 22-23). Lời Chúa phán trên đây cho thấy. Không phải cứ làm những việc lẫy lừng nhân danh Chúa là đẹp lòng Chúa. 11. Nhưng, điều làm tôi lo lắng hơn, đó là những người bị Chúa cảnh cáo như trên, vẫn không nhận thức được mình có lỗi, mà chỉ nghe cho qua. Biết đâu chúng ta vào số những người như vậy. Xin Chúa thương cứu chúng ta khỏi sự cứng lòng đáng sợ đó. 12. Tôi thấy Chúa đang cứu những người thiện chí. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã cho thấy có những người xưng mình là thiện chí đến với Chúa, nhưng thực sự lại là người có ác ý. Trái lại, có những người đơn sơ, nghèo khó, tội lỗi đến với Chúa, lại được Chúa thương nhận là có thiện chí. 13. Về phương diện thiện chí, tôi thấy Chúa rất rộng lượng. Đôi khi chỉ là một chút thiện chí thôi cũng được Chúa nhận. Một chút thiện chí, như khi gặp gian nan mà giơ tay lên xin Chúa cứu. Một chút thiện chí, như khi Chúa giơ tay ra về phía họ, thì họ mau mắn nắm lấy tay Chúa, để được Chúa cứu. 14. Tôi đã nhiều lần làm như thế. Và Chúa đã cứu tôi. Xem ra cũng không thiếu người tỏ vẻ thắc mắc hỏi Chúa tại sao Chúa lại cứu những người như tôi, thì tôi nghe Chúa trả lời: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 12). Thực sự, Chúa đã kêu gọi tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi, để tôi làm chứng cho tình yêu Chúa đầy lòng thương xót. 15. Chúa đã thương cứu tôi, không phải nhờ những tư tưởng về Chúa, mà nhờ chính Chúa. Tôi đã gặp được Chúa. Tôi gặp được chính Chúa, khi tôi cầu nguyện, khi tôi suy gẫm Lời Chúa, khi tôi phục vụ những người đau khổ, khi tôi tham dự Thánh Lễ, khi tôi xưng tội, khi tôi hiệp thông với Hội Thánh. 16. Gặp được chính Chúa, tôi mới cảm được thấm thía Lời Chúa phán xưa trong bữa tiệc ly: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15, 4). Tôi ở lại trong Chúa, Chúa ở lại trong tôi. Như thế, tôi ở lại trong tình yêu Chúa, chính là ở trong Chúa, Đấng được gọi là Tình yêu thương xót. Chúa luôn cầm lấy bàn tay tôi để cứu tôi. Tôi luôn nắm lấy bàn tay Chúa để được Chúa cứu. 17. Theo Chúa, tôi cũng sẽ giúp người khác làm như tôi. Suốt hành trình ơn gọi của tôi chỉ là sống trong yêu thương như thế mà thôi. 18. Và tôi nghe Chúa Giêsu nói với tôi: “Cha ở đâu, con cũng sẽ ở đó với Cha” (x Ga 17, 24). Lời đó cho tôi rất nhiều an ủi, rất nhiều bình an, rất nhiều hy vọng. 19. Chia sẻ trên đây của tôi có thể coi như một cách tuyên xưng đức tin. Tuyên xưng đức tin như trên nhấn mạnh đến vai trò của tình yêu. Một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, hướng về Thiên Chúa, gieo rắc niềm tin trên mọi nẻo đường, trong các trái tim, xây dựng sự hiệp nhất, cùng nhau đi về thiên đàng, hưởng Tình yêu muôn đời. Long Xuyên, ngày 26.10.2017
Huy hiệu Giám mục của tôi là cây nến cháy. Khi chọn cho mình huy hiệu đó, tôi muốn tôi sẽ là: Một cây nến sống, một cây nến bé nhỏ, một cây nến cháy, một cây nến có thể chỉ cắm ở một chỗ mà thôi. 2. Suốt đời Giám mục của tôi, nhất là hiện nay nằm một chỗ, tôi sống theo tinh thần huy hiệu đó thế nào?. Với tâm tình sám hối, đáp lại lời kêu gọi của Đức Mẹ từ Fatima, tôi xét mình về câu hỏi trên. Chia sẻ dưới đây là một phần của sự xét mình đó. 3. Trước hết, lửa đốt cháy cây nến nhỏ đó là lửa nào?. Thưa là lửa từ trái tim Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Ta đã đến đem lửa xuống thế gian. Ta mong muốn biết bao cho lửa ấy cháy lên (Mt, Lc 12, 49). Mong muốn của Chúa Giêsu được thực hiện, khi tôi nói với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, con là cây nến nhỏ bé, xin thương cho con lửa của Chúa”. Thực sự, Chúa đã lấy lửa của Chúa đốt lên trong tôi. Nhờ lửa đó, tôi đã lãnh nhận biết bao ơn lành. 4. Ơn đầu tiên là nhờ lửa đó, tôi càng ngày càng biết Chúa và biết mình tôi. Chúa hiện lên trong tôi, như lần Chúa đến Bêtania, gặp hai chị em Macta và Maria, để làm phép lạ cho Ladaro là em của hai bà. Ông này đã chết và được chôn 4 ngày. Trước mặt mọi người Chúa quả quyết: “Chính Ta là sự sự sống lại và là sự sống” (Ga 11, 25). Rồi Chúa đã làm cho Ladaro sống lại (x Ga11, 14- 31). Tôi nhận thấy mình là Ladaro, còn Chúa là Đấng cứu tôi. Tôi là kẻ như đã chết nay được Chúa cứu cách lạ lùng. Biết Chúa là như vậy, biết mình là như vậy. Nên cây nến nhỏ phải rất khiêm nhường, hết sức khiêm nhường, mãi mãi khiêm nhường. 5. Ngọn lửa rất mong manh, cháy giữa đời đầy gió mưa, bão táp. Chúa dạy tôi phải bảo vệ lửa Chúa ban đó, bằng cầu nguyện, tỉnh thức và tiết độ. Kẻo lỡ, lửa đó tắt đi và quỉ Satan độc ác, gian dối sẽ thay lửa đó bằng thứ lửa của nó, tức là lửa kêu ngạo, thì khốn cho tôi và cho bao người đặt niềm tin vào tôi. 6. Biết như vậy, nên tôi xét mình kỹ trước mặt Chúa. Chúa cho tôi thấy: Đúng là đã có nhiều trường hợp, nếu Chúa không can thiệp, thì tôi đã có những lựa chọn sai ý Chúa, rồi dám gán cho lửa của Chúa. 7. Ở đây, tôi nhớ lại trường hợp Thánh Phêrô xưa đã can Chúa đừng khiêm nhường chịu chết. Phúc âm Thánh Mathêu kể: “Chúa cho các môn đệ Người biết Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ, do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, Người bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêro liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp phải chuyện đó. Nhưng Chúa Giêsu quay lại bảo ông Phêrô rằng: Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy. Anh cản lối Thầy. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng loài người” (Mt 16, 21- 23). 8. Đem trường hợp trên đây soi vào đời tôi, tôi nhận ra tôi cũng đã có lúc giống như Thánh Phêrô. Rất may là Chúa đã cảnh giác tôi, nên tôi đã kịp thời sửa sai. Thực ra, lỗi của Thánh Phêrô cũng như của tôi là do động cơ thương Chúa. Nhưng Chúa cho thấy thương như thế là không đúng ý Chúa. Rất có thể nhiều môn đệ Chúa hôm nay cũng như tôi và Thánh Phêrô. Phải khiêm nhường lắng nghe Chúa, trong tỉnh thức thường xuyên. Nhờ vậy, mà tôi thấy việc tỉnh thức đối với ngọn lửa trong mình là rất quan trọng. 9. Nhờ tỉnh thức, tôi mới nhận được ơn Chúa, để phân định rõ trong tôi còn lửa không? Lửa đó có đúng là lửa của Chúa không? 10. Xin phép được kể một chút về Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tôi được hân hạnh đồng tế với Ngài khá nhiều lần. Thường là tôi được đứng bên hữu Ngài. Tôi thấy từ đầu tới cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha đều tỏ ra rất khiêm nhường. Từ lời nói, từ cử chỉ đều toát ra tinh thần sám hối sâu xa. Thấy Ngài như vậy, tôi liền nhận ra Chúa ở trong Ngài. Từ kinh nghiệm sống động đó, sau này khi thấy ai tỏ vẻ hân hoan, tự hào bước lên bàn thánh, với những lời tự xưng mình trong sáng thánh thiện và như một quyền lực, thì tôi tự nhiên lo sợ và xấu hổ. Tôi nghĩ nếu có lửa của Chúa trong mình, thì không thể như thế được. Tôi lo cho tôi đừng như vậy, kẻo sẽ không thể làm chứng cho Chúa. 11. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ cho tôi lửa vẫn cháy trong hồn Ngài. Lửa đó là của Chúa, nhưng mang hương vị của trái tim Mẹ Maria. 12. Hiện giờ hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy thấm thía tôi là cây nến bé nhỏ đang được đốt cháy bởi một thứ lửa của Chúa qua trái tim Mẹ Maria. Lửa thiêng đó đang thanh luyện tôi, biến đổi tôi nên mới theo một hướng mới, đó là làm cho tôi trở nên người con bé nhỏ. 13. Cách mà lửa thiêng đó đang biến đổi tôi hiện giờ mang hương vị rất đậm đà của tình Mẹ. Chỉ là cái nhìn âu yếm, chỉ là hơi thở ấm áp, chỉ là bàn tay nhẹ nhàng, chỉ là giọng nói ngọt ngào, chỉ là tiếng gọi nhỏ nhẹ du dương. Thế mà lại biến đổi tôi. 14. Tôi đi theo Mẹ, qua những thử thách một cách tin tưởng. Tôi đi theo Mẹ, đến nhiều linh hồn, để âm thầm phục vụ họ một cách khiêm nhường kín đáo. Tôi đi theo Mẹ, đến với Chúa, để hiến dâng cho Chúa bản thân tôi, như một ngọn nến cháy được coi như của lễ hèn mọn. 15. Dần dần, nhất là lúc này, tôi cảm thấy là: “Tôi có thể cho đi những gì tôi không có”. Thực sự, tôi rất bé nhỏ, chẳng là gì, chẳng đáng gì, chẳng có gì. Nhưng tôi sẽ cho đi tình yêu của tôi, một tình yêu nhận được từ Mẹ Maria và từ Chúa là tình yêu thương xót. Được như thế, cây nến bé nhỏ này thấy chuyến đi của ơn gọi Chúa dành cho mình, quả là huyền diệu. Tất cả đều là hồng ân Chúa ban. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời. 16. Tôi sẽ cùng với Mẹ, dâng lên Chúa ngọn lửa từ trái tim có lưỡi đòng thâu qua, với lời Xin vâng khiêm nhường phó thác. Chúa ơi, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa. Long Xuyên, ngày 27.10.2017
1. Từ vài tháng nay, tôi nghe trong lòng một Lời Chúa vang lên da diết, khiến tôi lo sợ. Lời đó là thế này: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23, 37). Lời đó Chúa Giêsu đã vừa nói vừa khóc, khi nhìn thành Giêrusalem. Người diễn tả nỗi đau buồn của Người trước cảnh Giêrusalem đã không đón nhận tình yêu thương xót của Người. Không đón nhận như thế sẽ khiến Giêrusalem rơi vào cảnh khổ ghê gớm. 2. Được nghe Chúa nhắc lại trong tôi lời xưa nhuốm lệ của Người, tôi hiểu Chúa muốn nhắn gửi tôi tâm tình của Người về Hội Thánh hôm nay. Tâm tình của Chúa là nỗi đau buồn của Người, trước cảnh nhiều con cái Chúa không chịu đón nhận tình yêu thương xót của Chúa, để rồi, sẽ không tránh được một chuỗi dài thảm họa đang tới. Nhiều con cái Chúa đã không chịu đón nhận tình yêu thương xót Chúa, đó là một sự thực rất đau đớn. Tôi đã thấy và tôi đang thấy. 3. Với tâm tình sám hối, liên đới trong trách nhiệm, tôi xin được kể ra đây một số những hình thức không chịu đón nhận tình yêu thương xót Chúa đang lan tràn hiện nay như: Hình thức dửng dưng, Hình thức tránh né, Hình thức bất cần, Hình thức chống đối, Hình thức thách thức. Nguyên nhân chính là nhận biết sai về mình và về Chúa. 4. Nhận biết sai về mình là điều rất phổ biến. Chúa cảnh báo điều đó nhiều lần nhiều cách. Thí dụ trong sách Khải Huyền, Chúa cho thấy hạng người chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng, thường ảo tưởng cho mình là chẳng thiếu thốn chi. Nhưng trước mặt Chúa, họ là kẻ khốn nạn, nghèo khổ, đui mù (Kh 3, 15- 17). Nhận biết sai về mình như thế, thì đâu có sám hối, cậy nhờ tình yêu thương xót Chúa. 5. Nhận biết sai về Chúa cũng là điều rất phổ biến, Chúa cũng cảnh báo nhiều lần nhiều cách. Thí dụ trong sách Khải Huyền, Chúa ví Mình như một kẻ lữ hành đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Chúa và mở cửa ra, thì Chúa sẽ vào và ở lại với người đó (Kh 3, 20). 6. Thú thực là nhiều người chúng ta, nếu không tỉnh thức và có ơn Chúa giúp, đều có thể không nhận ra Chúa gõ cửa lòng mình, nên đã khóa cửa lòng mình lại. Đó là một cách chối từ tình yêu thương xót, đôi khi cũng trở thành thách thức và chống đối tình yêu thương xót Chúa. Những trường hợp như vậy đang diễn ra đó đây. Nhiều người nhận ra. Nhiều người không nhận ra do cứng lòng. Cứng lòng là một hình phạt rất nặng dành cho những người kiêu ngạo. Xin Chúa thương cứu giúp chúng ta khỏi hình phạt nặng nề đó. 7. Thực sự, Chúa đã và đang cứu những ai để cho Chúa cứu, bằng sự họ tỏ ra một chút khiêm nhường. Tới đây, tôi nhớ lại dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế. Phúc âm Thánh Luca kể: “Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác. Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thuộc phái Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt nhìn lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các người biết: Người này khi trở về, thì đã được nên công chính, còn người kia thì không. Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 9- 14). 8. Với dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu cho thấy chỉ những ai khiêm nhường mới đón nhận được ơn Chúa xót thương cứu độ. Còn những ai kiêu ngạo thì không. Có những kẻ giầu sang mà vẫn khiêm nhường. Có những kẻ nghèo túng mà lại kiêu căng. 9. Thánh Phêrô quả quyết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5). Như vậy đã rõ kẻ kiêu căng sẽ không đón nhận được tình yêu xót thương của Chúa. Giờ đây, câu hỏi đặt ra cho tôi và cho mỗi người chúng ta là: Tôi là kẻ khiêm nhường hay kẻ kiêu ngạo? Mỗi người sẽ trả lời. Nhiều người cũng có ý kiến. Nhưng trả lời sau cùng sẽ là Chúa. Chúng ta hãy hỏi Chúa. Trả lời của Chúa mới chính là sự thực. Hỏi Chúa thì cũng phải rất khiêm nhường. Nhưng ai đã quen sống kiêu ngạo, thì không dễ gì lại biết khiêm nhường, khi hỏi Chúa và khi nghe Chúa trả lời. Vì thế, khiêm nhường là một đức tính tôi cần rèn luyện thường xuyên một cách kiên trì, dựa vào ơn Chúa. 11. Tôi tin ở Chúa, tôi cầu xin Chúa cho tôi biết sống khiêm nhường. Cùng với việc cầu nguyện, tôi cũng phải để mình được đào tạo bởi Hội Thánh, bởi cộng đoàn, bởi những người của Chúa sai đến. Xin nhắc lại: Đối với tôi, vấn đề quan trọng nhất đang đặt ra cho tôi, và cho Hội Thánh và cho cả nhân loại, là “Có đón nhận tình yêu thương xót Chúa không?”. Để đón nhận thì phải khiêm nhường. 12. Mấy ngày nay, khi suy nghĩ về khiêm nhường, tôi thường được Đức Mẹ nhắn nhủ chỉ một điều này: “Con hãy noi gương Mẹ”. Khi còn ở bên Chúa Giêsu, Đức Mẹ luôn âm thầm xin vâng. Khi Chúa Giêsu đã về trời, Đức Mẹ ở bên Thánh Gioan tông đồ, Đức Mẹ cũng luôn âm thầm xin vâng. 13. Đức Mẹ Xin vâng trong từng việc rất nhỏ. Xin vâng trong mọi liên đới với những người xung quanh, để phục vụ họ theo ý Chúa. Xin vâng trong việc hòa mình vào thân phận những người đau khổ. Xin vâng trong việc cầu nguyện và hy sinh. 14. Đức Mẹ có lúc đã nói với tôi: “Mẹ đang khóc. Chúa Giêsu cũng đang khóc. Vì bao người hôm nay vẫn không chịu đón nhận tình yêu thương xót Chúa”. Nghe vậy, tôi xót xa và lo sợ khác thường. Chúa ơi, xin thương cứu chúng con. Long Xuyên, ngày 04.11.2017
1. Câu vắn tắt tôi hay dùng nhất là: “Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con”. Câu đó cũng chính là lời cầu của vua Đavid và của Chúa Giêsu xưa. Nhiều lúc, tôi nói với Chúa câu đó, mà lòng nghẹn ngào, nhưng luôn luôn với niềm tin. 2. Chúa đã không bỏ rơi tôi. Tôi nhận ra điều đó, nhất là nhờ Đức Mẹ. Đức Mẹ âm thầm dạy tôi là Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi tôi, nếu tôi thực sự muốn điều đó. Để chứng thực tôi muốn Chúa đừng bỏ rơi tôi, thì Đức Mẹ dạy tôi thực hiện hai điều sau đây. 3. Điều thứ nhất cần thực hiện để được Chúa không bỏ rơi tôi, là tôi phải nhận mình yếu đuối, tội lỗi, đáng bị Chúa bỏ. Nhưng Chúa không bỏ, chỉ vì Chúa xót thương mà thôi. Nhận thức như thế đã được nhiều vị thánh nêu gương. 4. Gương sáng gần tôi nhất được Đức Mẹ nhắc cho tôi, là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Ngài viết: “Con tự hỏi tại sao Chúa đã gọi con? Tại sao Chúa đã chọn con? Con là đứa quá vụng về, quá ương ngạch, quá nghèo nàn về trí khôn và tâm tình. Con hiểu rồi. Chúa đã chọn những người yếu đuối trong thế gian, để không một người nào có thể khoe mình trước mặt Chúa được” (1Cr 1,17-18). Bây giờ xuất hiện trong trí nhớ con về lịch sử khốn nạn đời con. Một đàng được thêu dệt bằng những ân huệ phi thường, phát xuất từ lòng nhân từ khôn tả của Chúa, mà con hy vọng một ngày kia sẽ được xem thấy và sẽ ca tụng muôn đời. Một đàng bị tiêm nhiễm bởi những hành động vô phúc, không nên nhắc tới làm gì, vì chúng quá khiếm khuyết, bất toàn, dốt nát, dại dột. Lạy Chúa, con có điên rồi hẳn Chúa biết đó (x. Cv 68. 69, 6). Đời sống bần tiện, lao đao, bủn xỉn, hẹp hòi, rất cần phải nhìn nhận, phải được tu bổ, phải được vô cùng thương xót. Con luôn coi cuộc đời của thánh Augustino, như một tổng hợp tuyệt vời: Sự khốn nạn của con và lòng từ bi của Chúa (Observatore Romano 34, 21/8/1079). 5. Đức Phaolô VI đã nói như thế về những bóng tối của cuộc đời mình. Còn đời tôi có những bóng tối còn thê thảm hơn gấp bội. Từ nhận thức đó, tôi xin Chúa thương đừng bỏ rơi tôi. Chúa không bỏ rơi tôi, chỉ vì Chúa xót thương mà thôi. 6. Điều thứ hai cần thực hiện, để được Chúa không bỏ rơi tôi, là tôi phải cố gắng đừng bỏ rơi những ai cầu cứu tôi đừng bỏ rơi họ. Gương sáng về sự dấn thân giúp đỡ những người cầu cứu đừng bị bỏ rơi, được Đức mẹ cho tôi thấy nhiều trong lịch sử đạo đời. Trong đó, Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp đã đánh động lương tâm tôi nhiều nhất. Bất cứ ai gặp cảnh khổ đau, bế tắc, mà đến nói với cha Diệp: Xin Cha đừng bỏ rơi con, đều được Ngài thương cứu giúp. Tôi thấy cha Diệp đã không bỏ rơi ai. Những người được ngài cứu chữa, đã tin vào Chúa. 7. Riêng tôi, tôi coi lời cầu Xin đừng bỏ rơi con, đã mở lòng tôi ra, để tôi đón Chúa, và để tôi đón nhiều người đau khổ. Nhiều người cũng nói với tôi: “Xin cha đừng bỏ rơi con”. Và thú thực, họ đã giúp tôi biết mở lòng ra, để khi tôi cứu họ, tôi được Chúa coi như là tôi cứu chính Chúa ở trong họ. 8. Trong đời tôi, tôi đã nhiều lần ở bên những người hấp hối. Tôi định từ giã họ, nhưng lời “Xin Cha đừng bỏ rơi con”, đã thực sự đưa tôi vào con đường tin cậy vững vàng ở Chúa mà ở lại bên họ. “Tôi biết tôi tin vào ai”. Tôi tin vào Chúa là tình yêu thương xót. Khi tôi không bỏ rơi họ, thì Chúa cũng không bỏ rơi tôi. 9. Khi tôi sống niềm tin với lời cầu: “Xin Chúa đừng bỏ rơi con”, với những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, tôi sực nhận ra là tôi đang sống lời thánh Phaolô khuyên xưa: “Các con đừng học theo cách sống của đời này” (Rm 12, 2). Thực vậy, con người thời nay thích tự đắc tự hào, chứ đâu có thích hạ mình xuống. Hạ mình xuống trước mặt Chúa cũng là điều khó. Hạ mình xuống trước mặt người ta càng là điều khó. Tuy nhiên, tôi thấy sự hạ mình xuống trước Chúa và trước mọi người, để sống yêu thương khiêm nhường: “Đừng bỏ rơi nhau” vẫn là con đường nối kết, khác với con đường kiêu căng chỉ gây chia rẽ. 10. Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con. Tôi biết là khi tôi sống trọn vẹn lời cầu đó, tôi sẽ phải phấn đấu nhiều, nhưng tôi luôn được bình an. Sự bình an đó mang nhiều niềm vui và hy vọng. 11. Từ đó, tôi được sức mạnh thiêng liêng, để hoạt động cho Chúa là tình yêu thương xót. Trên đường hoạt động như thế, tôi sẽ không cô đơn. Tôi tin có nhiều người cùng đi với tôi. Nhất là tôi tin Chúa và Mẹ luôn đồng hành với tôi. Chúa và Mẹ luôn chia sẻ cho tôi lửa tình yêu của Chúa. 12. Cầu nguyện và hy sinh, tôi xin Chúa đừng bỏ rơi tôi. Tôi sống như vậy. Tôi sẽ ra đi như thế. Cầu nguyện và hy sinh, tôi xin Chúa đừng bỏ rơi ai cậy tin vào Chúa, dù họ không biết nhiều về Chúa. Cầu nguyện và hy sinh, tôi xin Chúa đừng bỏ rơi ai trong những người đã và đang nâng đỡ tôi trên con đường về quê trời. Tôi thành thực xin mọi người đừng bỏ rơi tôi. Cầu nguyện và hy sinh, tôi xin Chúa đừng bỏ rơi ai trong những linh hồn đang trong lửa luyện ngục, bởi vì từ cõi chết biết bao linh hồn mồ côi đang gửi về tôi lời nhắn nhủ thân thương: “Xin đừng bỏ rơi con”. Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con. Con xin phó thác hồn xác hèn hạ này trong tay Chúa. Long Xuyên, ngày 17.11.2017
1. Từ mấy năm gần đây, nhất là những tháng vừa qua, tôi thấy tình hình chuyển biến rất nhanh. Thời tiết biến đổi bất ngờ. Thời thế đổi thay nhanh chóng. Lòng người bất an, bất ổn một cách đáng sợ. Giữa một dòng lịch sử cứ luôn nối tiếp những đợt sóng gió phức tạp như thế, tôi cảm thấy cuộc sống của mình trở thành mong manh, bị đe dọa tư bề. Không phải riêng tôi là như thế. Rất nhiều người đều như thế, và còn hơn thế. 2. Trong cảnh huống đó, mỗi người đều có những chọn lựa riêng cho mình. Riêng tôi, với đức tin, tôi thường nói với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương ở lại với con”. Có lúc tôi cũng nói với Đức Mẹ: “Xin Mẹ thương ở lại bên con”. Tôi nhấn mạnh đến ở lại. Thực sự, Chúa và Đức Mẹ đã ở lại với tôi. Tôi tin và cảm thấy như thế, nhất là những lúc tôi yếu đuối, bệnh tật, vấp ngã, bị lạc vào những cô đơn tăm tối. Chúa và Mẹ ở lại với tôi. Tôi nhận được từ nguồn tình yêu những ơn cần thiết để tập trung vào cầu nguyện và tỉnh thức. 3. Khi tập trung vào cầu nguyện và tỉnh thức là những việc mà Phúc âm luôn nhắc nhở, tôi không còn mất thời giờ để kết án ai, để phiền trách ai, để đổ lỗi cho ai, nhưng tôi coi thời giờ là rất quí, phải tận dụng từng giây từng phút để làm việc lành. 4. Thế là Chúa và Mẹ ở lại với tôi. Và tôi cũng ở lại với Mẹ và với Chúa. Nhờ vậy, tôi dần dần đón nhận được tình yêu xót thương của Chúa. Chúa và Mẹ dạy tôi đón nhận bằng nhiều cách. Có lúc bằng cách lui tới Lời Chúa và các Bí tích. Có lúc bằng cách tiếp nhận những người mang tình thương cứu độ đến cho tôi. Có lúc bằng cách phục vụ những người nghèo túng, bệnh tật, cô đơn, yếu đuối, bé nhỏ, hèn mọn. 5. Càng ngày tôi càng hiểu sự Chúa và Mẹ ở lại với tôi, phải luôn đi liền với sự tôi ở lại với Chúa và Mẹ. Ở lại như thế, là những thời giờ quí báu, Bởi vì những thời giờ đó là cơ hội để đón nhận tình yêu xót thương của Chúa. 6. Tôi thấy mỗi ngày, mỗi giờ đều là sự ở lại để có thể phục vụ những người nghèo túng, bệnh tật, bé mọn, cô đơn, yếu đuối. Qua đó, mà gặp được Chúa và đón nhận được tình yêu của Chúa. Chỉ thế mà thôi, tôi cũng hãy coi mình là hạnh phúc lắm rồi. Phương chi, mỗi ngày mỗi giờ còn là sự ở lại, để đón nhận Lời Chúa, biết bao người sống Lời Chúa mà Chúa gởi đến chia sẻ với tôi. 7. Lỗi của tôi thường là sự không ở lại bên Chúa và Mẹ để cầu nguyện và tỉnh thức. Xét mình trước mặt Chúa, tôi thấy nhiều khi tôi nói mình cầu nguyện, nhưng Chúa lại không coi đó là cầu nguyện. Tôi nói mình tỉnh thức, nhưng Chúa lại không coi đó là tỉnh thức. Tôi nói mình tìm ý Chúa, nhưng Chúa lại coi đó là tìm ý riêng. Tóm lại, tôi không nên lừa dối Chúa và lừa dối mình, kẻo sẽ không tránh được những hậu quả khủng khiếp. 8. Hiện giờ, tôi đang thấy nhiều cá nhân và nhiều nhóm nhỏ theo gương Thánh Gia xưa, mà ở lại giữa những xóm nghèo. Họ không ồn ào, chỉ yêu thương phục vụ bằng những việc nhỏ một cách âm thầm nhưng cụ thể và quảng đại. Ở lại, ở bên, để chia sẻ, đỡ nâng. Ở lại, ở bên được thực hiện bằng nhiều cách. 9. Họ đang rao truyền Tin Mừng bằng sự họ ở lại như thế. Ở lại như thế không dễ đâu. Khó đối với loài người, nhưng đối với Chúa thì không khó. Khi được Chúa giúp, chúng ta sẽ hiểu thế nào là được tham gia vào tình yêu thương xót của Chúa. 10. Dịp ngày nhà giáo Việt Nam mới rồi, tôi được một nhóm cựu học sinh của tôi đến thăm. Họ nay đã lớn tuổi, hầu hết là không công giáo. Họ kể cho tôi hoạt động hiện nay của họ là cùng nhau làm việc từ thiện. Việc từ thiện của họ là phục vụ những người nghèo, già yếu, cô đơn. Đến tận nơi, ở lại, đem lại những niềm vui nhỏ cho từng người. Chủ yếu là tình thương quên mình. 11. Gặp được những người làm từ thiện trên đây, tôi cảm tạ Chúa và Mẹ đã cho tôi thêm hạnh phúc trước sự lan rộng của tình yêu xót thương của Chúa. Tình yêu của Chúa lan rộng sang những người không công giáo đang là hiện tượng phổ biến tại Việt Nam hôm nay. Tôi vừa cảm tạ Chúa vừa vui mừng được bắt chước họ. 12. Niềm vui của tôi đã được tăng thêm một cách chính thức, khi nghe Đức Thánh Cha Phanxicô quả quyết: “Làm việc từ thiện cho những người nghèo chính là một hộ chiếu để vào Thiên đàng” (19.11.2017). Tôi nghĩ Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như thế, vì ngài tin vào Lời Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta bảo thật các ngươi mỗi lần các ngươi làm từ thiện cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). 13. Thú thực là sự coi việc từ thiện dành cho kẻ nghèo khổ lại có giá trị cứu rỗi quyết định như thế đã có lần gây hoang mang cho tôi. Chính lúc đó, Chúa dạy tôi, muốn đón nhận Tin Mừng ấy, tôi phải rất khiêm nhường, bé nhỏ. Tôi nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10, 21). 14. Lạy Chúa và Mẹ, con xin hết lòng cảm tạ Chúa và Mẹ đã ở lại với con, để dạy con biết sống bé nhỏ, nhờ vậy mà đón nhận được tình yêu xót thương của Chúa. Long Xuyên, ngày 21.11.2017
1. Mấy ngày nay, tôi được thông tin về nhiều Thánh Lễ tạ ơn. Hầu như đâu cũng muốn dâng tiến Chúa những lễ nghi tưng bừng, những thành tích vang dội. 2. Do tình liên đới, tôi tham dự vào những lễ tạ ơn đó, nhưng theo thân phận của tôi, thân phận của tôi là thân phận kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Vì thế, của lễ tôi dâng lên Chúa là tấm lòng tan nát khiêm cung. Tôi nói với Chúa lời Thánh vương Đavid xưa: “Của lễ con dâng là tấm lòng bị gẫy nát, bị nghiền nát tan tành” 9Tv 51(50), 19). 3. Khi nói với Chúa những lời trên đây, tôi thực sự cảm thấy lòng tôi tan nát. Tan nát đó gây đau đớn vô vàn. Tôi đau đớn về bao nhiêu giới hạn trong thể xác và tâm hồn của tôi. Tôi đau đớn về biết bao khổ cực nghiệt ngã của đoàn chiên tôi. Tôi đau đớn về biết bao nỗi buồn lo, nhọc nhằn của đồng bào xa gần. Tôi đau đớn về biết bao cơ cực thiếu thốn, vất vả của những người bệnh tật, già yếu cô đơn. Đau đớn do tấm lòng bé nhỏ yếu đuối của tôi bị tan nát. 4. Đau đớn, mà tôi đã cảm nhận được, có lúc như một khối nặng sẽ làm tôi phải chết trong giây lát. Chính trong tình trạng đó, tôi kêu cầu Chúa: “Của lễ con dâng đang là những đớn đau vì tan nát cõi lòng. Xin Chúa đừng chê bỏ con”. Tôi cầu cứu Chúa. Vì tôi tin ở Chúa. Thực sự Chúa đã cứu tôi. Chúa đã cúi xuống của lễ tôi dâng. Chúa đã ôm những đau đớn và những tan nát của lòng tôi. Để soi sáng cho tôi thấy: Của lễ đẹp lòng Chúa chính là tấm lòng khiêm tốn, hòa nhập vào thân phận những con người khổ đau, hèn mọn, yếu đuối. 5. Hòa nhập vào thân phận của những người hèn mọn, khổ đau, cũng là hòa nhập vào thân phận của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Đấng đã mặc lấy thân phận của lớp người nghèo khổ nhất. 6. Được Chúa soi sáng cho tôi như vậy, tôi nhìn Chức thánh Chúa trao ban, với một cái nhìn mới. Cái nhìn mới đó cũng đã được Thánh vương Đavid nói lên. Tôi xin học Ngài: “Lạy Chúa, con không dám có tinh thần tự hào, Con không dám có cái nhìn kiêu hãnh. Con không tìm con đường của danh vọng lớn lao, Con cũng không tìm những việc lẫy lừng , Con gửi tâm hồn con trong bình an và thinh lặng. Như trẻ thơ trong lòng mẹ mình” (Tv 131(130)). 7. Thú thực, nói với Chúa như thế là điều tôi đã thường nói. Nhưng thực hiện những điều đó là điều không dễ chút nào. Không dễ đi ngược lại quan niệm xưa nay ở nhiều nơi hay khích lệ các người mang chức thánh hãy tự hào, tự coi mình là cao trọng hơn các người khác. Không dễ gì đi ngược lại chính guồng máy chức quyền trong đạo ở nhiều nơi vốn xếp các người mang chức thánh là những nhân vật quốc tế, có hậu thuẫn từ nước ngoài, cần được tôn vinh. Không dễ gì đi ngược lại thói quen xưa rầy ở nhiều nơi, các người mang chức thánh thường được đánh giá qua các thành tích của các ngài về những gì là tổ chức, và các hình thức bề ngoài. Vì thế mà tham vọng thường dễ là động lực trong ơn gọi theo Chúa. 8. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi nhận thức rất rõ điều này: Tôi là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Nhưng tôi được Chúa thương tha thứ. Của lễ tôi dâng là tấm lòng tan nát khiêm cung, với nhiều đau đớn đủ loại. Tôi tin Chúa đã không chê chối của lễ đó. Đó là niềm vui lớn lao của tôi. 9. Niềm vui lớn lao đó lại được tăng lên, do nhiều người cũng tha thứ cho tôi một cách quảng đại. Tha thứ là quên đi mọi lỗi lầm của tôi, tha thứ là đỡ nâng tôi bằng mọi cách, để tôi được bình an thuộc về Chúa, đi về với Chúa. 10. Niềm vui của tôi hiện nay là rất riêng tư, nhưng lại bao trùm. Bởi vì tôi thấy rất nhiều người xa gần đang chỉ biết dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung của họ. Chỉ với thế thôi, họ đã được gặp Chúa. Chúa đã đến và ở lại với họ. 11. Mới rồi, tôi nghe nói có một số người thuộc nội bộ đã rất tự hào về những gì Hội Thánh đã trao cho họ, kèm theo sự tự hào đó là hạ người khác xuống. Tôi nghe, mà cảm thấy tan nát tất cả cõi lòng mình. Nếu đây là khởi đầu cho một phong trào, thì quả là một thảm họa cho đạo Chúa. Tôi sợ tôi có phần trách nhiệm về thảm họa đó. 12. Tôi chỉ biết kêu lên với Chúa lời Thánh Vương Đavid xưa: “Từ vực sâu con kêu lên Chúa, nếu Chúa chấp hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được sao” (Tv 130(131)). Tôi tha thiết xin Chúa thương tha tội cho tôi và cho tất cả mọi người chúng ta. Tôi tin tình yêu thương xót Chúa là vô hạn. Chúa sẽ thương xót chúng ta. 13. Một ý nghĩ đang đánh thức lương tâm tôi lúc này một cách tha thiết, đó là giờ Chúa đến. Chúa sẽ đến, để phán xét chung mọi người. Chúa sẽ đến, để phán xét riêng tôi và từng người chúng ta. Ngày Chúa đến sẽ bất ngờ. Tôi và mọi người phải sẵn sàng. Ngày đó là ngày của Chúa. Ngày đó cũng là ngày của chúng ta. Tôi sẵn sàng là ngay bây giờ tôi luôn dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung. Bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê của lễ đó. Còn tôi cũng chỉ có của lễ đó mà thôi. 14. Thế là tôi được thanh thản nhẹ nhàng. Tôi ra đi, không mang theo thành tích nào, công trình nào, chỉ có tấm lòng tan nát khiêm cung mà ra trước Chúa. Tôi tin, chỉ có thế thôi, tôi sẽ được gặp Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 29.11.2017
1. Được thấy các linh mục qui tụ về Tòa Giám mục để tĩnh tâm năm, tôi rất mừng. Từ sự kiện qui tụ đông đảo đó đã xuất hiện trong tôi những cảm nhận mới. Tôi tin những cảm nhận mới đó là ơn Chúa ban. Vì thế, xin được phép chia sẻ phần nào. 2. Cảm nhận thứ nhất là: Đất nước Việt Nam hôm nay rất cần những ơn gọi riêng và mạnh mẽ. Đó là những người dám chết cho chính mình và cho đời, để chỉ tìm Chúa và phần rỗi các linh hồn mà thôi. 3. Dám chết cho chính mình và cho thế gian, đó là chấp nhận một chuỗi dài cái chết, hay một cái chết kéo dài. Những ai đã trải qua cái chết kéo dài đó, chắc đã phải nếm khổ đau muôn vàn. Nhưng bên cạnh khổ đau vẫn có niềm vui thiêng liêng cao quí. Cứ thế, họ chết đi mỗi ngày, chết đi trong sự tự do tình nguyện. 4. Một lần, trong cuộc gặp gỡ tư riêng, tôi hỏi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan- Phaolô II: “Đức Thánh Cha có đau khổ không?” Ngài đáp: “Tôi đau khổ nhiều lắm, nhưng tôi quen rồi”. Tôi hiểu là ngài mang trong mình một cái chết kéo dài từng giờ, từng phút, vì mến Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. 5. Hội thánh hôm nay và thế giới hiện thời rất cần có những mục tử như ngài. Từ cảm nhận trên đây tôi nhìn vào các mục tử tại đây, tất nhiên có tôi. Với một thoáng nhìn, tôi thấy một số người trong chúng tôi đã sống ơn gọi trên đây một cách mạnh mẽ, nhưng một số khác thì không. Đó là sự thực. Những người sống ơn gọi trên đây một cách mạnh mẽ, sẽ tự nhiên tỏa sáng tình yêu Thiên Chúa. Còn những người không sống ơn gọi này một cách chân thực và mạnh mẽ, thì có thể gieo tại họa một cách nào đó, khó mà lường được. Cảm nhận đó của tôi là quá khẩn thiết, nên thấy nên được nói ra. 6. Cảm nhận thứ hai của tôi là: Đất nướcViệt Nam hôm nay rất cần có những người như Thánh Gioan Tiền Hô dám giới thiệu Chúa Giêsu, cho dù giữa cuộc đời phức tạp. Tôi cảm nhận thấy rõ: Đồng bào Việt Nam hiện nay đang khao khát những gì là thiêng liêng, bình an tâm hồn, đưa họ về một cõi sau hạnh phúc. 7. Trước sự khao khát đó, nhiều người môn đệ Chúa xem ra vẫn dửng dưng, vô cảm, vô tâm, vô tình. Nhưng may mà cũng không thiếu người môn đệ Chúa đã lên tiếng. Họ lên tiếng về Chúa Giêsu. Lên tiếng bằng lời nói, bằng bài viết, bằng cách sống, bằng giao tiếp, bằng cầu nguyện, hy sinh và tỉnh thức. Họ dọn đường cho Chúa Giêsu. 8. Chính bản thân tôi cũng đã và đang được nhiều người như Thánh Gioan Tiền Hô đến an ủi, dạy dỗ. Cụ thể thế này: Tôi hay lo lắng, sợ hãi. Họ đến mang ơn thiêng giúp tôi tin cậy vào Chúa. Lòng tôi được bình an, mở ra để đón Chúa. Tôi hay buồn phiền về những yếu đuối, bất tài của mình. Họ đến với ơn thiêng, giúp tôi khiêm tốn phó thác vào Chúa. Lòng tôi được bình an, mở rộng ra để đón Chúa. 9. Những người đã và đang giúp tôi như thế thuộc đủ hạng người. Từ đó, tôi nhận ra điều này: Nếu tôi và các giám mục, linh mục không là Gioan Tiền Hô cho những người thời nay xung quanh mình, thì sẽ là một thiếu sót lớn. 10. Nhận thức đó khiến tôi xem xét lại bản thân mình một cách có trách nhiệm. Câu hỏi tôi hay đặt ra cho mình là: Trong mọi tiếp xúc, tôi có tìm cách giới thiệu Chúa Giêsu, hay chỉ là giới thiệu chính mình? Khi giới thiệu Chúa Giêsu, tôi có nhấn mạnh đến tình yêu cứu độ của Chúa không? Phải tỉnh thức trong ơn Chúa, tôi mới thấy rõ được sự thật. 11. Cảm nhận thứ ba của tôi là: Sẽ là khôn ngoan, nếu Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay biết dùng thời gian này, để làm chứng cho Chúa. Bởi vì, thời gian thuận lợi sẽ qua đi mà không trở lại. Thời giờ là của Chúa, thời giờ Chúa ban là rất quí. Tôi cần lợi dụng từng giờ, từng phút, từng giây, để mến Chúa và cứu các linh hồn. Riêng tôi, mến Chúa và cứu các linh hồn được thực hiện bằng cách làm chứng cho Chúa là tình yêu thương xót. 12. Tôi làm chứng về Chúa không phải chỉ bằng sự đưa ra đạo lý, mà thường là bằng sự chia sẻ những gì Chúa đã làm cho tôi, vì thương xót tôi là kẻ tội lỗi, hèn mọn, yếu đuối. 13. Một điều, mà tôi nhận là Chúa đã làm cho tôi, đó là tôi đã gặp được nhiều người có nét đẹp nào đó của dung mạo Thiên Chúa. Nét đẹp nhất là tình yêu thương xót. Những người như thế có thể là người giáo dân, giáo sĩ, cũng có thể là người không công giáo. Từ kinh nghiệm đó, tôi cảm nhận những gì Chúa làm cho tôi thực là kì diệu. Những điều kì diệu như thế cũng đã và đang xảy ra cho biết bao người xung quanh tôi. 14. Coi thường, hoặc bỏ qua thời gian diễm phúc này, để mơ tưởng một thời gian khác tưởng là sẽ huy hoàng hơn, đó là dại dột. 15. Mấy ngày này Đức Mẹ hay nhắn nhủ tôi điều này: “Hãy sống tốt những giây phút hiện tại. Muốn được vậy con phải tỉnh thức”. Tỉnh thức của tôi là chỉ đợi chờ Chúa mà thôi. Đợi chờ như con thơ đợi mẹ. Đợi chờ như người bệnh chờ được cứu chữa. Đợi chờ, để bất cứ phút nào Chúa gọi, tôi sẽ luôn hớn hở thưa: “Lạy Chúa, này con đây”. “Lạy Chúa, này con đây”, tôi đang nói với Chúa lời vắn tắt đó, và tôi cảm nhận được một sức sống mới trong tôi. Tôi như được tái sinh trong tình yêu xót thương vô biên của Chúa. Tôi nghe vang dội trong tôi: “Con ơi, này Cha đây, Cha là tình yêu cứu độ của con”. Long Xuyên, ngày 3.12.2017
Trong tinh thần “Tỉnh thức và cầu nguyện”, tôi nhìn Hội Thánh Việt Nam của tôi. Tôi thấy mấy điểm sau đây có thể gợi ý cho tôi những đường hướng mục vụ thích hợp với chặng đường lịch sử bước vào năm 2000.
Một Hội Thánh hiệp thông Nhiều sự kiện nổi bật xảy ra mấy năm gần đây trong Hội Thánh Việt Nam đã gây nên nơi nhiều người cảm tưởng này: Tại Việt Nam, việc xây dựng một Hội Thánh phẩm-trật nhấn mạnh đến đức vâng lời được quan tâm nhiều hơn là việc xây dựng một Hội Thánh hiệp-thông nhấn mạnh đến đức yêu thương. Tôi nghĩ rằng vì nhu cầu của một thời điểm lịch sử, Toà Thánh những năm qua và cho đến bây giờ, đã và đang chú trọng nhiều đến việc chọn và phân bổ các giám mục, cũng như đến việc nhắc nhở các giám mục, linh mục hãy vâng lời Toà Thánh. Nhưng không vì thế mà ta nên nghĩ rằng xây dựng một Hội Thánh phẩm-trật là cần thiết hơn xây dựng một Hội Thánh hiệp-thông. Bởi vì, trong Hội Thánh Việt Nam khắp nơi đức vâng lời vốn mạnh, đôi khi quá mức đòi hỏi, còn đức bác ái tại nhiều nơi vẫn chưa sâu, chưa rộng, chưa đúng phẩm chất Phúc Âm. Ngoài ra, Hội Thánh hiệp-thông là một mô hình được Công Ðồng Vatican II đề cao, được thần học hiện đại hỗ trợ, được kinh nghiệm tu đức và mục vụ làm chứng là giúp đi vào chiều sâu Phúc Âm, có nhiều sức truyền giáo. Hội Thánh hiệp-thông chú trọng đến việc chia sẻ và đón nhận chia sẻ trong tinh thần bác ái liên đới. Chia sẻ cho nhau những cái nhìn của mình về các vấn đề đặt ra cho Hội Thánh mình. Chia sẻ cho nhau những kế hoạch mục vụ, những kinh nghiệm và những thông tin. Chia sẻ cho nhau sự thông cảm, nâng đỡ, tài liệu. Nhất là chia sẻ trách nhiệm. Hội Thánh hiệp-thông vẫn giữ nhiều ranh giới: giáo phận, giáo xứ, giáo quyền. Tuy nhiên, không nên coi những ranh giới đó là những hàng rào cản trở, để loại trừ kẻ khác, nhưng nên coi đó là những điểm liên hệ, hội tụ, để phong-phú-hoá lẫn nhau. Từ ít lâu nay đã thấy xuất hiện đó đây những hiện tượng không phù hợp chút nào với tinh thần hiệp-thông, như khuynh hướng cục bộ, sự ghen tương, tính hẹp hòi. Ðó là những biên giới mới trong nội bộ, chia cắt Hội Thánh địa phương ra từng mảnh, từng khối, gây hại cho Hội Thánh hiệp thông và cũng chẳng lợi gì cho Hội Thánh phẩm trật.
Một Hội Thánh đối thoại Mấy nhượng bộ mới rồi của Toà Thánh trong các cuộc hội đàm với Chính Phủ Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, chứng tỏ điều này là một Hội Thánh đối thoại nhiều khi phải có những lựa chọn khó khăn hơn là một Hội Thánh đối kháng. Trong một thời điểm mà Hội Thánh Việt Nam chỉ có thể phát triển được một cách nhẹ nhàng tương đối nhờ biết đối thoại với xã hội, thì khả năng đối thoại phải là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc chọn các người đứng đầu các cộng đoàn. Phải có kiến thức, biết người, biết ta, biết vấn đề, phải có tài, nhất là phải có sự khôn ngoan do ơn Chúa Thánh Linh. Trong đối thoại, nhiều khi có thương lượng. Và trong thương lượng thường có tương nhượng. Nhưng có những tương nhượng, nếu được thực hiện sớm sủa đúng lúc và với tư thế chủ động, thì sẽ không bị coi là những nhượng bộ của kẻ kém vế, mà trái lại, sẽ được coi là những sáng kiến của kẻ chủ động, nắm trước nhiều lợi thế lớn hơn. Rồi đây, Hội Thánh Việt Nam sẽ phải đối thoại với nhiều chủ nghĩa khác với Chủ Nghĩa Xã Hội, nhất là với các tôn giáo mạnh. Ðề tài đối thoại sẽ không phải là những điều phải tin, mà là các giá trị đạo đức. Cách đối thoại sẽ không phải là tranh luận, mà là làm chứng bằng đời sống. Chủ nghĩa nào, đạo nào có những người của mình toả sáng về lương thiện, công bình, bác ái, khiêm nhu, đạo đó, chủ nghĩa đó sẽ được đánh giá cao. Một kiểu đối thoại như thế có thể sẽ gây nên những bất ngờ to lớn.
Một Hội Thánh Tin Mừng Từ vài năm nay, khi tình hình mở ra, nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam đã có bộ mặt mới. Nhiều xây cất mới, nhiều lễ lạc lớn, nhiều tài liệu học hỏi hơn trước, nhiều cuộc đào tạo hơn trước, nhiều của cải hơn trước, nhiều hình thức dấn thân hơn trước. Tại nhiều nơi, các sinh hoạt tôn giáo nối tiếp nhau suốt tuần, suốt tháng, nhộn nhịp, giòn giã. Bầu khí tôn giáo đúng là vui hơn trước. Nhưng trong bầu khí vui vẻ đó, Hội Thánh có Tin Mừng không? Tôi hiểu Tin Mừng là Ðức Kitô, Ðấng cứu độ loài người. Nếu thế thì câu trả lời phải rất thận trọng. Bởi vì nhiều sinh hoạt không được khởi đi từ động lực Phúc Âm, không qui chiếu về Ðức Kitô, nhất là không nhắm mục đích tham dự vào mầu nhiệm cứu độ của Ðức Kitô, Ðấng mang tên là Ðấng cứu chuộc nhân loại. Mọi đổi mới tôn giáo phải tập trung vào Ðức Kitô, đó là đòi hỏi căn bản của Phúc Âm, của giáo huấn các tông đồ, của Công Ðồng Vatican II. Ðể biết sự thật đó nơi ta, ta nên coi lại xem, các chọn lựa của ta có dựa trên Lời Chúa không? Nếp sống đạo của ta, các thao thức của ta có tính cách trở về với Ðức Kitô, để sống theo gương Người, và để gắn bó mật thiết với Người như cành với cây không? Dung mạo Ðức Kitô, mà các người ngoài công giáo Á Ðông nói chung và tại Việt Nam nói riêng rất kính trọng mộ mến, đó là dung mạo một Ðức Kitô nhân hậu, hiền từ, khiêm tốn, từ bỏ mình, chia sẻ thân phận kẻ nghèo. Họ muốn nhìn thấy dung mạo như thế qua các người tin theo Chúa, đặc biệt là qua các nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo. Chúng ta có làm họ thất vọng không, nếu chúng ta trình bày Ðức Kitô với một dung mạo khác, vừa không đúng với Phúc Âm, vừa không đáp ứng khát vọng chính đáng của họ? Chúng ta có làm họ nghi kỵ Hội Thánh Chúa không, nếu Tin Mừng chúng ta giới thiệu chỉ là cái tôi cá nhân hay cái tôi tập thể với chủ nghĩa anh hùng, với chủ nghĩa đắc thắng? Rất may là hiện nay phong trào đọc Kinh Thánh, học hỏi và suy niệm Lời Chúa đang phát triển mạnh mẽ tại nhiều nơi. Cũng rất đáng mừng là hiện nay những cuộc đào tạo nhân sự nhắm vào sự đi sâu vào đời sống nội tâm và sự đi ra dấn thân theo gương Ðức Kitô đang được xúc tiến đó đây khắp Hội Thánh Việt Nam. Hy vọng lớn của Hội Thánh Việt Nam là ở đó.
Một Hội Thánh phấn đấu hiện diện Bầu khí tưng bừng của tôn giáo có nơi mới bắt đầu, có nơi đang tiếp tục, và có nơi đang giảm bớt. Bầu khí đó là rất khiêm tốn, so với Ðất Nước Việt Nam này. Thật vậy, Hội Thánh Việt Nam chỉ là một thiểu số bé nhỏ, với khoảng 7 triệu tín hữu trong số 70 triệu rưỡi đồng bào. Hội thánh Việt Nam cũng rất bé nhỏ, so với số dân Á-Châu, hiện nay chiếm quá nửa dân số thế giới. Á-Châu qua bao thế kỷ, chưa bao giờ đã là một lục địa Thiên Chúa giáo. Hiện nay Á-Châu có hơn 100 triệu người công giáo, nghĩa là chưa tới ba phần trăm của tổng dân số Á-Châu. Rõ ràng Á-Châu có một thái độ dửng dưng đối với Công Giáo. Hầu hết các nước Á-Châu đều rất gắn bó với các tín ngưỡng truyền thống. Họ nghĩ rằng, với các tín ngưỡng truyền thống, họ có thể phát triển về mọi mặt, kể cả mặt khoa học và đạo đức, mà không cần đến Hội Thánh Công Giáo. Thực tế cho thấy nhiều nước Á-Châu giàu mạnh hiện nay như Nhật, Singapore, Ðài Loan đã có kinh nghiệm đó. Nhiều dấu hiệu cho thấy Việt Nam dần dà rồi cũng muốn có kinh nghiệm đó. Trong một tình hình mà thái độ dửng dưng trở nên mạnh, Hội Thánh Việt Nam, nếu không khéo phấn đấu sẽ bị đẩy dần vào hệ thống “vắng mặt”. Sẽ bị vắng mặt trong nhiều cơ quan, sẽ bị vắng mặt trên các phương tiện thông tin báo chí, đài truyền thanh, truyền hình, sẽ bị vắng mặt trong nhiều hội nghị, v.v... Nếu Hội Thánh Việt Nam tự mình cũng lại chủ trương vắng mặt, co cụm lại, thì chắc chắn không phải vì thế mà phá được thái độ dửng dưng đối với Hội Thánh Việt Nam. Kết quả là đã dửng dưng càng dửng dưng thêm. Vì thế cần phải phấn đấu bằng cách sống sao cho thật tốt, có nhiều khả năng phục vụ, có nhiều đức tính cao đẹp khả dĩ băng bó được những vết thương cho dân tộc. Phấn đấu bằng cách có giầu bản sắc dân tộc được phong-phú-hoá bởi các giá trị Phúc Âm. Nhất là bằng cách tha thiết nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một trái tim giống như Ðức Kitô, hiền lành khiêm tốn và nhân hậu. Long Xuyên, tháng 7/1994
1. Tình hình thế giới hiện nay đang có những chuyển biến nguy hiểm có thể dẫn tới những bùng nổ khủng khiếp, gây nên những bất ngờ đau đớn khôn lường. Chúng ta tại Việt Nam này cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhiều thì ít. Nghĩa là chúng ta cũng cần được cứu. 2. Những yếu tố được coi là mạnh mẽ, sẽ được vận dụng để cứu chúng ta, không phải là thiếu. Nhưng theo tôi, và cũng là ý kiến của rất nhiều người, thì yếu tố phải cho là quan trọng việc cứu Hội Thánh, và cứu Tổ Quốc, chính là yếu tố tâm linh mang những giá trị thiêng liêng. 3. Xin phép trình bày rất vắn gọn về yếu tố tâm linh đó. Một là niềm tin vào một Đấng Tối Cao thiêng liêng luôn đồng hành với mình. Hai là niềm tin vào hồn thiêng những người thân quá cố vẫn luôn thương mình. Ba là niềm tin vào những đồng bào xa gần vẫn chia sẻ tình thương với mình. 4. Ba niềm tin trên là rất thiêng liêng, làm nên một chiều kích tâm linh sâu thẳm và bao la, chứa đựng một sức mạnh lạ lùng. Sức mạnh lạ lùng đó chính là yêu thương. 5. Yêu thương đó, tôi đã cảm nhận được suốt cuộc đời tôi. Yêu thương đó vẫn sống động trong tôi. Yêu thương đó luôn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. 6. Hôm nay, tôi cầu xin Chúa Thánh Thần soi dẫn yêu thương của tôi đi vào Năm mới 2018, sao cho yêu thương của tôi được vâng theo ý Chúa mà góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa một cách thiết thực. 7. Chúa đã trả lời tôi qua gợi ý của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha Phanxicô mới nhắn nhủ những người dâng mình cho Chúa là hãy lắng nghe và hãy phân định. 8. Tôi phải để ý lắng nghe ý Chúa, để biết yêu thương theo ý Chúa. Tôi phải để ý phân định điều gì tốt nên làm ngay ở đây, bây giờ, điều gì tốt nhưng không nên làm lúc này, nơi đó. Với sự lắng nghe và phân định, tôi sẽ thực hiện yêu thương của tôi trong năm mới thế này: 9. Yêu thương của tôi sẽ tìm gặp Chúa nhiều hơn nữa, thân mật hơn nữa. Bất cứ ở đâu, bất cứ làm gì, tôi cũng để lòng mình gặp gỡ Chúa. Chúa ở trong tôi. Nhờ vậy, tôi sẽ biết phải nói gì, làm gì, trong những phục vụ từng con người cụ thể. 10. Nói chung, tôi sẽ chọn những việc phục vụ nhỏ, đáp ứng những nhu cầu nhỏ trong xã hội và trong Giáo Hội. Việc lành nhỏ, trong phạm vi nhỏ. Thí dụ, điều gì là thương người, thì dù nhỏ, vẫn cố làm. Điều gì là hại người, thì dù nhỏ, vẫn cố tránh. Việc lành nhỏ, trong phạm vi nhỏ. Thí dụ, khi chỉ có sức đọc một kinh kính mừng, thì dù mệt, tôi vẫn cố gắng đọc. Khi chỉ có sức dâng cho Chúa một hy sinh nhỏ, thì dù kiệt sức, tôi vẫn cố gắng dâng cho Chúa chút hy sinh nhỏ đó. 11. Nhỏ, mà tôi nói ở đây, không quan trọng ở việc nhỏ, phục vụ nhỏ, mà ở tinh thần như Chúa Giêsu đã nói xưa. Phúc âm ghi: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10, 21). Những người bé mọn đã được Chúa khen. Tôi rất mong, tôi sẽ được là kẻ bé mọn, trong năm mới này. Tôi cũng mong anh chị em cộng đoàn Long Xuyên đây cũng không ngại được Chúa khen là những người bé mọn của Chúa. 12. Nhận thức mình là người bé mọn, nhưng được Chúa yêu thương, sẽ giúp chúng ta cảm tạ Chúa như Đức Mẹ, và với Đức Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng. Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi Người đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1, 46- 48). 13. Hèn mọn, bé mọn, sống đúng như vậy sẽ giúp chúng ta vượt qua được những thử thách muôn vàn trong năm mới 2018 này. Hèn mọn, bé mọn, sống đúng như vậy sẽ giúp chúng ta tìm được niềm vui và hy vọng trong cuộc sống đức tin, nhất là trên con đường đầy khó khăn của năm mới này. Hèn mọn, bé mọn, sống đúng như vậy cũng sẽ giúp chúng ta an tâm trong năm mới 2018 này. An tâm, bởi vì chúng ta được Chúa và Đức Mẹ yêu thương. 14. Thiết tưởng đó chính là chiều kích tâm linh, có khả năng giúp chúng ta góp phần vào việc cứu Hội Thánh và quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Chỉ bé nhỏ thôi, nhưng chúng ta sẽ là những ngọn lửa tâm linh được Chúa đốt lên từ lửa của trái tim Chúa, sẽ có sức chiến thắng quỉ dữ Satan và hỏa ngục. Chỉ bé nhỏ thôi, nhưng chúng ta sẽ là những ngọn lửa tâm linh được Đức Mẹ đốt lên từ lửa của trái tim Mẹ, sẽ có sức chiến thắng hận thù, chia rẽ kiêu căng, để thiết lập yêu thương của Nước Chúa. 15. Nếu năm mới này, sẽ có những lớn lao bị tàn phá và sụp đổ, thì cũng sẽ có những bé nhỏ vẫn tồn tại và phát triển. Đó là những ngọn lửa tâm linh. Long Xuyên, ngày 12.12.2017
1. Tôi được thông báo là đầu xuân Mậu Tuất này, chúng ta được nghỉ tết 7 ngày. Tôi coi đây là dịp tốt để tôi chỉnh đốn lại những mối quan hệ, sao cho giá trị cao quí nhất là tình yêu trong tôi được sáng lên hơn, theo Lời Chúa và theo gương Chúa. 2. Quan hệ quan trọng nhất của tình yêu trong cuộc sống là thể hiện lòng hiếu thảo, lòng biết ơn. Chỉ một ngày thôi, tôi thường nhận được biết bao sự giúp đỡ của bao người gần xa, để đời tôi được như một mái ấm tình thương. Phương chi một tháng, một năm và cả một cuộc đời dài. Thành thực mà nói, tôi cảm nhận rất rõ, tôi được cứu hầu như từng giây, từng phút, nhất là trong tình trạng yếu sức như hiện nay. Tôi được cứu, nhờ ơn Chúa, và nhờ lòng tốt của biết bao người. Được cứu là một ơn. Tôi phải biết ơn, và biết cách đáp ơn. Cách đáp lại ơn mình đã lãnh nhận phải cụ thể và dễ nhận ra. 3. Nhận ra tôi có lòng biết ơn sẽ làm ấm lòng người làm ơn. Không nhận ra điều đó sẽ làm đau lòng người làm ơn. Phúc Âm Thánh Luca kể lại chuyện: Chúa Giêsu chữa 10 người mắc bệnh phong cùi. Khi được khỏi rồi, chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người trở lại là người dân ngoại (x Lc 17, 11- 17). Đọc chuyện kể trên, tôi tự hỏi mình: 9 người vô ơn xưa có tái diễn nơi tôi và các người công giáo hiện nay không? Nếu có phần nào, thì thực đáng buồn. 4. Cho dù chỉ là một phần nhỏ vô ơn, bất hiếu, tôi cũng như mọi người công giáo phải quyết tâm sửa lại. 5. Sửa lại thái độ vô ơn bất hiếu là điều rất cần nơi chúng ta. Còn một thái độ nữa cũng rất cần phải sửa, đó là thái độ đối với những người nghèo khổ. Quan hệ với những người nghèo khổ, nếu không tích cực, thì tình yêu của chúng ta không thể nào sáng lên được, theo ý Chúa. Hậu quả sẽ khôn lường. 6. Điều đó được Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng trong Phúc Âm, đặc biệt ở dụ ngôn sau đây: Dụ ngôn nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó. “Ông nhà giàu, mặc áo lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn anh Ladarô nghèo khó, mụn nhọn đầy mình, nằm trước cửa ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm những mụn nhọt ghẻ của anh ta. Thế rồi, người nghèo đó chết. Ông nhà giàu cũng chết. Người nghèo Ladarô được lên thiên đàng. Người giầu có kia phải xuống hỏa ngục” (x Lc 14, 19- 21). 7. Khi đem dụ ngôn trên đây soi vào tình hình hiện nay, tôi thấy sợ. Bởi vì tôi thấy giữa giàu và nghèo hiện nay có nhiều khoảng cách đau lòng còn bi thảm hơn tình hình trong dụ ngôn. Nhất là tôi thấy những Ladarô thời nay xem ra đang bị đẩy vào những vực thẳm đớn đau kinh hoàng. Đau trong thân xác, đau trong tâm hồn. Đau nhất là thấy mình bị xa tránh, bị loại trừ, bị khinh khi, bị bỏ rơi, bị kết án. 8. Cũng may là họ vẫn có khi được an ủi, nhưng an ủi bằng chỉa sẻ nỗi đau của họ là rất hiếm. Chia sẻ nỗi đau của họ là cùng đau với họ, cùng khổ như họ, là điều không dễ. Tôi nói như vậy, bởi vì chính tôi cũng đã trải qua thân phận Ladarô một cách nào đó. Đau lắm, khổ lắm. Chúa cho tôi kinh nghiệm đó, để tôi hiểu rằng, quan hệ với những người nghèo khổ phải sáng lên tình yêu thương chân thật. Điều đó phải được quan tâm thường xuyên với ơn của Chúa. 9. Còn một thứ quan hệ nữa, tôi cũng cần phải quan tâm chỉnh đốn, để sáng lên tình yêu thương chân thật, đó là quan hệ với những người mà đạo đời liệt vào hàng tội lỗi. 10. Chúa Giêsu nhắc cho tôi điều đó trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác. Chúng tham lam, bất chính, ngoại tình. Con cũng không như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí không dám ngẩng mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực, vừa thưa rằng: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết, người thu thuế này, khi trở về thì đã được nên công chính. Còn người Pharisêu thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 10- 14). 11. Những người mà xã hội xếp vào hàng tội lỗi, là một số khá đông. Những nhười mà tôn giáo liệt vào hàng tội lỗi, cũng là một số không nhỏ. Tôi không nên vì những phán đoán đó mà khinh những người bị kết án, nhất là lại tự coi mình là đạo đức hơn họ. Chúa Giêsu đã dạy tôi như vậy, nên tôi phải cảnh giác mình tối đa, để khỏi kiêu ngạo, mà lại tưởng mình đạo đức. 12. Coi mình là đạo đức hơn người khác, đó là một tự hào nguy hiểm, xem ra đang phát triển một cách bình thường. Thế mới nguy hiểm cho tôi, cho chúng ta, và cho đạo Chúa. 13. Những nhận thức trên đây đang thúc đẩy tôi hãy chạy lại bên Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ là bài ca tán tụng Chúa vì tình hiếu thảo, biết ơn. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những người nghèo khổ. Đức Mẹ là bông hoa tỏa hương thơm khiêm nhường. Đức Mẹ dạy tôi về mùa xuân yêu thương. Chính Đức Mẹ nâng đỡ tôi, để yêu thương trở thành mùa xuân trong tôi. 14. Yêu thương luôn có sáng kiến. Đức Mẹ soi sáng cho tôi để mọi sáng kiến về tình yêu được luôn theo thánh ý Chúa. Nhất là trong năm mới Mậu Tuất này, tình yêu phải có nhiều sáng kiến, vì tình hình sẽ có nhiều chuyển biến phức tạp. Tôi phó thác mình cho Đức Mẹ, với niềm tin Đức Mẹ là mùa xuân yêu thương của tôi. Long Xuyên, ngày 18.12.2017
Năm nay, tôi chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh với rất nhiều hy vọng. Hy vọng lớn nhất của tôi là Chúa đến với tôi, để cứu tôi, và ban cho tôi sự bình an. 2. Chuẩn bị của tôi là tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ. Bằng nhiều cách, Ðức Mẹ dạy tôi hãy dọn lòng để đón Chúa qua hai việc: Một là thương mến Chúa nhiều hơn, hai là xót thương những con người nhiều hơn. 3. Tôi thấy hai điều Ðức Mẹ nhắn nhủ tôi đều rất bao la, rất thiêng liêng, rất nhiệm mầu và cần thiết cho tôi. Tôi cố gắng thực hiện hai điều quan trọng đó theo sức của tôi. Có lúc tôi tưởng là đã thành công. Nhưng rồi, không lâu sau, tôi phải thú nhận như Thánh Phaolô xưa: “Ðiều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn, thì tôi lại làm. Tôi đúng là kẻ khốn nạn. Ai sẽ cứu tôi đây? Thưa chỉ có Ðức Giêsu Kitô”( x Rm 7, 19- 24). 4. Tôi được Chúa Giêsu cứu khỏi nhận thức sai lầm, mà tôi thường hay có về mình. Khi thành thực nhận mình là yếu đuối, khó nghèo, thiếu thốn, và Ðấng cứu tôi là Chúa Giêsu, Người cứu tôi bằng sự Người gánh lấy tội của tôi và lấy khổ đau của Người mà xóa tội tôi, tôi cảm thấy mến thương Người, với tất cả tâm hồn. Từ tâm tình mến thương Chúa Giêsu, tôi xót thương những người khác. Họ nhiều ít cũng cần được Chúa xót thương và cứu chữa như tôi. 5. Mến thương Chúa Giáng Sinh, và xót thương những con người, đó là những việc của tấm lòng tốt, của cái tâm tốt, đó chính là thiện tâm. 6. Khi thấy mình có được phần nào một thiện tâm như vừa diễn tả, tôi cảm thấy rất vui. Vui nhất là vì tin tưởng thiện tâm đó sẽ góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa Giáng Sinh. 7. Tin tưởng đó là tự nhiên, nhưng thực chất là siêu nhiên. Do vậy, đức tin giữ một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh. Chúa ban đức tin cho những ai thực tâm tìm gặp Chúa. 8. Thực tâm tìm gặp Chúa, đó là điều Ðức Mẹ luôn nhắc nhủ tôi trong dịp mừng lễ Giáng Sinh. Bởi vì rất nhiều khi, tôi mừng lễ Giáng Sinh với mong muốn kiếm về cho mình những lợi ích này nọ, chứ không thực sự tìm gặp chính Chúa Cứu Thế. 9. Thỉnh thoảng, tôi được như nhìn thấy Ðức Mẹ ôm Chúa Hài Nhi bé nhỏ, nghèo nàn, rồi Mẹ nhẹ nhàng và âu yếm trao Hài Nhi Giêsu đó cho tôi. Và Mẹ nói: Con hãy tin đây chính là Ðấng Cứu Ðộ giàu tình yêu thương xót. Tôi vui mừng khôn tả. Tự nhiên tôi cảm thấy niềm tin mà Mẹ ban cho tôi, sẽ chẳng bao giờ lừa dối tôi. Tôi tin, tôi rất tin ở Chúa Giêsu. Từ đó mến thương Chúa và xót thương những con người được phát triển trong niềm vui đầy hy vọng. Rồi, có những lúc niềm vui và hy vọng đó như biến mất. Ðó là thử thách. Lúc đó, đức tin phải bền vững. Bền vững được là nhờ ơn Chúa. 10. Chính lúc này, đức tin đang giúp tôi được vui và hy vọng ở Chúa. Chúa đến với tôi, Người ban cho tôi ơn bình an cao quý. Bình an, mà Chúa ban cho tôi lúc này là do tôi được gặp Chúa, được Chúa tha thứ, được Chúa cứu chữa, được Chúa yêu thương. Bình an, mà Chúa ban cho tôi lúc này còn là do tôi được Chúa giúp, biết xót thương mọi người với tất cả lòng quảng đại, tha thứ, không loại trừ một ai. Bình an, mà Chúa ban cho tôi lúc này còn là do tôi được Chúa cho, biết hiến thân phục vụ Hội Thánh và Tổ Quốc, theo như Chúa muốn, một cách quảng đại và cụ thể, cho dù tình hình là rất phức tạp. 11. Có lần tôi hỏi Ðức Mẹ về sự bình an mà Ðức Mẹ mong muốn nhất, khi sinh hạ Chúa Giêsu, thì Ðức Mẹ cho tôi biết: Bình an duy nhất mà Mẹ mong muốn, khi sinh hạ Con Chúa giáng trần, là mong được sinh con ở chỗ nào, mà bất cứ ai cũng có thể tới gặp được Hài Nhi Thánh. Ai ngờ nơi đó lại chính là hang đá nghèo giữa cách đồng hoang vắng. Chứ, nếu sinh tại đền thờ hay một nơi giàu sang, thì dễ gì những người nghèo được có cơ hội tới gặp Hài Nhi Giêsu. 12. Riêng tôi cũng có kinh nghiệm đó. Vì thế, nếu năm nay Hang đá Chúa giáng sinh được đặt ở bất cứ nơi nào, dễ dàng cho bất cứ ai muốn tới viếng, nhất là dễ dàng cho những người nghèo khó, những người không biết nhiều về Chúa, được có cơ hội thấy Chúa, thì đó chính là sự bình an, mà tôi mong muốn. Có được sự bình an đó, người ta sẽ dần dần biết mến thương Chúa và biết xót thương mọi người. Nhờ vậy, cái tâm sẽ được đổi mới. 13. Thực vậy, cái tâm con người luôn luôn cần được đổi mới. Ðổi mới cái tâm là giúp cái tâm biết bỏ xa những gì là gian dối, gian ác, gian tham, mà thế gian hay gieo rắc, để thay vào đó là biết mến yêu những gì là chân thiện mỹ đích thực. Ðổi mới cái tâm, để nó không còn ác, mà chỉ là thiện, đó là bước đầu của sự bình an. Sự bình an, mà mọi người Việt Nam đều mong muốn, không phải chỉ là sự bình an ở cõi đời này mà thôi, mà nhất là sự bình an sẽ kéo dài mãi mãi ở cõi đời sau. 14. Lúc này hơn bao giờ hết, đồng bào Việt Nam rất khao khát sự bình an, một bình an đích thực và vững bền. Nhận thức đó là một nhận thức đạo đức rất quan trọng. Những ai có trách nhiệm về sự thịnh vượng của Ðất Nước không được phép bỏ qua khát vọng chính đáng trên đây của đồng bào. Nhưng chọn bình an nào, đó là việc mà các tín ngưỡng sẽ góp phần không nhỏ. Tôi góp phần của tôi. Tôi nghĩ là những ai có trách nhiệm trong Hội Thánh Công giáo, cùng đã và đang góp phần của mình. 15. Thời sự cho thấy: Bình an đang trở nên mong manh một cách nguy hiểm. Vì thế, tôi tha thiết cầu chúc mọi người hãy biết đón nhận sự bình an của Chúa giáng sinh, để cùng với Người, mỗi người sẽ biết góp phần của mình vào việc xây dựng sự bình an cho Ðất Nước Việt Nam yêu dấu.
Trong thời gian gần đây, tôi đau đớn và mệt mỏi, nên không thích và cũng không thể cầu nguyện bằng những kinh dài. Kinh vắn, mà tôi hay đọc, để cầu nguyện, nhất là lúc này, là kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. 2. Tôi đến với Đức Mẹ với tư cách mình là kẻ có tội. Nhận thức mình là kẻ có tội, chỉ là thế thôi, với tâm tình sám hối, và với niềm tin Đức Mẹ là nơi trú ẩn của những người tội lỗi. 3. Tôi nghe Đức Mẹ trả lời tôi, Mẹ nói với tôi lời xưa Chúa đã nói với dân Israel: “Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con và ban ơn bình an cho con” (Ds 6, 22-27). 4. Quả thực, tôi cảm nhận được sự Chúa chúc lành và gìn giữ tôi, khi tôi thực tâm nhận mình tội lỗi, sám hối, chạy lại xin Chúa cứu. 5. Chính lúc đó, tôi nhận ra nhan thánh Chúa là Đấng thương xót, Người xót thương kẻ tội lỗi kêu cầu đến Chúa. Người xót thương những ai nhận mình tội lỗi. Coi sự mình tội lỗi là một sự thực can đảm. Như Thánh Gioan tông đồ quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Còn nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, thì Thiên Chúa là Đấng trung thành và công minh sẽ tha tội cho chúng ta, Người sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga 1, 8-9). 6. Tôi cảm nhận rất rõ sự Chúa tha tội cho tôi được thực hiện chỉ trong chốc lát. Còn sự Chúa thanh tẩy tôi sạch mọi điều bất chính, thì sẽ thực hiện không phải ngay một lúc, nhưng với thời dan dài, suốt cả cuộc đời, bằng cách Chúa đồng hành với tôi. Thí dụ, khi tôi đau bệnh, Chúa ở bên tôi, Người đồng hành với tôi, Người giúp tôi chịu đau đớn với đức tin và phó thác. Thí dụ, khi tôi bị sỉ nhục, bị ruồng bỏ, bị cô đơn, Chúa ở bên tôi, Người đồng hành với tôi. Người giúp tôi trải qua những thử thách đó, với đức tin, phó thác và tình thần đền tội. 7. Bây giờ thì tôi nhận ra rất rõ một sự thật quan trọng về sự Chúa hay thanh tẩy tôi khỏi một điều bất chính đối với Chúa, đó là thanh tẩy thói quen xấu nơi tôi thích theo ý riêng mình, và thích dựa vào những hình thức đạo đức giả, để lừa dối mình là thực thi ý Chúa, đang khi thực sự chỉ là theo ý riêng mình. 8. Về nguy hiểm đó, có lần Chúa Giêsu đã phán: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7, 22-23). Tôi sợ tôi và nhiều người cũng sẽ phải nghe những lời Chúa trên đây, nếu chúng ta tự hào về những việc mà chúng ta coi là đã làm để làm sáng danh Chúa, nhưng trước mặt Chúa đó chỉ là để phô trương chính mình. 9. Có Chúa. Có cõi sau. Có Đấng thiêng liêng sãn sàng cứu chúng ta khỏi tội, để chúng ta được sống với Người trên thiên đàng đời đời. Tôi đã gặp Đấng thiêng liêng ấy. Khi tôi đến gặp Người, với tâm tình khiêm tốn nhận mình tội lỗi, xin Người xót thương, thì tôi đã được Người làm phép lành và giữ gìn che chở. 10. Hiện giờ Chúa vẫn đồng hành với tôi. Tôi cần nghe Người, và có những lựa chọn theo ý của Người. 11. Tôi đang nghe Chúa nói với tôi. Chúa dạy tôi hãy tôn sùng Đức Mẹ, hãy coi đó là một lựa chọn, mà Chúa muốn, để đón nhận ơn cứu độ trong tình hình đầy biến động rất nguy hiểm hiện nay và sắp tới. 12. Xin phép nói lên sự thực này là: Để tôn sùng Đức Mẹ, tôi đã thường cầu nguyện với Mẹ bằng kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Nhờ vậy, không những Chúa và Mẹ đã làm phép lành cho tôi, mà còn làm phép lạ cho tôi. Phép lạ tôi nhận được là ơn bình an. Phép lạ tôi nhận được là ơn được chữa lành. Phép lạ tôi nhận được là ơn được sống lại. Xưa Chúa Giêsu, vì thương hai chị em Marta và Mađalêna, đã làm cho ông Ladarô chết 4 ngày được sống lại. Tôi được ơn sống lại không phải một lần, mà là nhiều lần. Sống lại cả phần xác, cả phần hồn. Nhờ Đức Mẹ Chúa Trời cầu cùng Chúa cho tôi. 13. Hôm nay, tôi nói lên những ơn lạ đó, để ca tụng ngợi khen Chúa, và cũng để chia sẻ cho mọi người bí quyết sống ơn cứu độ trong tình hình nguy hiểm hiện nay. 14. Một ơn nữa, mà tôi thấy cũng nên nói ra, đó là ơn tôi đã được gặp Đức Mẹ. Thực vậy, rất nhiều lần khi tôi đọc kinh: Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, tôi đã được gặp Đức Mẹ. Gặp được Đức Mẹ, tôi thực sự cảm nhận được Đức Mẹ là Đấng làm cho tôi được sống, được vui, được cậy, như kinh Nữ Vương giới thiệu. Nhất là được gặp Đức Mẹ, tôi thực sự cảm nhận được Đức Mẹ là nơi trú ẩn của những kẻ có tội, như kinh cầu Đức Mẹ đã nhắc bảo. 15. Tình hình hiện nay đang có những chuyển biến đưa tới bất an, Chúa cho chúng ta một con đường cứu độ chắc chắn, đó là Đức Mẹ. Với Đức Mẹ, chúng ta hãy đơn sơ, tâm tình, bé nhỏ. Hãy đọc kinh Kính mừng, Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời. Đức Mẹ sẽ cứu chúng ta trong tình hình khẩn cấp. Đức Mẹ sẽ ở bên chúng ta trong tình hình nguy khốn. GB. Bùi Tuần
Long Xuyên, ngày 01.1.2018
Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình là người hiền lành và khiêm nhường. Người nói: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Với niềm tin vững vàng vào Lời Chúa, tôi đã học với Chúa Giêsu. Càng học với Người, tôi càng thấy sống hiền lành và khiêm nhường là một bài học vừa rất quan trọng, lại vừa rất khó.
2. Rất quan trọng, vì hiền lành và khiêm nhường là dấu chỉ kẻ thuộc về Chúa. Rất khó, vì hiền lành và khiêm nhường là những đức tính, mà xác thịt, thế gian và ma quỉ thường ra sức cản phá dữ dội. Một ví dụ. Hiền lành và khiêm nhường nơi Chúa Giêsu là luôn tự ý bước xuống và trút bỏ vinh quang. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2, 6-8). 3. Còn chúng ta thì sao? Phải nói thật là bước xuống và trút bỏ vinh quang là điều tự nhiên chúng ta khó muốn và không muốn thực hiện một cách triệt để và chân thành. Nhiều khi chúng ta lại còn chủ trương rằng: Cần bước lên và cần vinh quang, mới có điều kiện để làm sáng danh Chúa. Thế rồi, khi đã bước lên chức nọ, quyền kia, và khi đã được vinh quang, chúng ta lại nghĩ là cần bảo vệ và phát triển những điều kiện đó, để mở Nước Chúa. Đến lúc nào đó, nếu Chúa không để cho ý riêng của chúng ta được thỏa mãn nữa, thì chúng ta dễ rơi vào khủng hoảng. Tình trạng đó đã và đang xảy ra. Đôi khi tôi cũng vậy. 4. Nhưng Chúa thương luôn đào tạo tôi, để tôi không ngừng học ở Chúa Giêsu sự hiền lành và khiêm nhường. Xin phép chia sẻ đôi chút về sự Chúa đào tạo tôi bài học hiền lành và khiêm nhường. 5. Thứ nhất, Chúa cho tôi nhận thấy mình là kẻ tội lỗi, nên khi được bước lên và được vinh quang cách nào đó, thì tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ. 6. Thứ hai, Chúa cho tôi thói quen phân định này, đó là hễ thấy ai hiền lành và khiêm nhường, thì lập tức tôi coi họ là kẻ thuộc về Chúa, kẻ có khả năng xây dựng đoàn kết, và phục vụ trung tín. 7. Thứ ba, Chúa cho tôi được may mắn học sự hiền lành và khiêm nhường nơi các Đức Giáo Hoàng mà tôi quen biết. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nổi tiếng ở sự Ngài lên tiếng xin lỗi những gì sai trái mà trong quá khứ Hội Thánh đã phạm đến các tôn giáo khác. Đức Thánh Cha Benedictô XVI đã can đảm xin từ nhiệm, để lui vào đời sống thầm lặng. Đức Thánh Cha Phanxicô quyết định không dọn vào nhà dành cho các Giáo Hoàng, mà cứ ở lại trong nhà Santa Marta, là một nhà dành cho các chức sắc đến Vatican muốn trọ tạm thời. Đúng là ba đấng ấy bước xuống. Các Ngài làm gương về hiền lành và khiêm nhường. Thêm vào những gương sáng đó, cũng còn nhiều gương sáng khác mà tôi đã và đang gặp thấy ở Việt Nam, nơi các thành phần khác nhau của Hội Thánh Chúa. 8. Cho đến phút này, tôi vẫn thấy hiền lành và khiêm nhường là bài học rất quan trọng và cũng là bài học rất khó. Tôi như luôn phải bắt đầu lại. Tự hào về chức, về quyền, về các thứ vinh quang, đó là lối sống thế tục hiện nay. Muốn có chức, có quyền, có chút vinh quang, đó cũng là một thứ thăng tiến bình thường của nhiều người văn minh hiện nay. Do vậy mà khiêm nhường hiền lành chỉ còn là những từ đẹp, chứ không còn là những gì cần phấn đấu để có. 9. Khi phấn đấu để có khiêm nhường và hiền lành, tôi phải nhờ đến Đức Mẹ. Tôi nói với Đức Mẹ là tôi phải đấu tranh gay gắt với ma quỷ. Ma quỉ tấn công tôi bằng nhiều cách để tôi đừng khiêm nhường hiền lành. Tấn công rất mạnh, tấn công dữ dội. 10. Đức Mẹ ở bên tôi. Mẹ dạy tôi là đừng lý luận gì với ma quỉ. Nhưng đơn giản là hãy cứ tin vào Lời Chúa. Chúa dạy hãy học với Chúa, vì Chúa hiền lành và khiêm nhường, thì hãy gặp Chúa, ở lại bên Chúa, lắng nghe Chúa, vâng lời Chúa, tin ở Chúa. Tôi vâng lời Mẹ, mà làm như thế. Từng giờ, từng ngày, trong mọi hoàn cảnh. 11. Mẹ thường dạy tôi hãy để ý hiền lành và khiêm nhường ngay trong những việc nhỏ, ngay trong giây phút hiện tại. Thí dụ, lúc này, khi đang viết bài chia sẻ, tôi cảm thấy đau đớn, mệt mỏi, tối tăm. Một cách đơn sơ, tôi cứ dâng cho Chúa tình trạng thực tế ấy, như một của lễ hèn mọn. Tôi nhờ Mẹ mà dâng cho Chúa với tâm tình phó thác. Thế là, từ từ hiền lành và khiêm nhường như dòng suối thiêng chảy vào hồn tôi, từ trái tim Chúa và trái tim Mẹ. 12. Tự nhiên, tôi hiểu chính qua hiền lành và khiêm nhường nhận được từ Chúa và Mẹ, mà tôi có thể thực hiện được ơn gọi làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay. Tôi vui mừng được sống như thế. 13. Tới đây, tôi hiểu hiền lành và khiêm nhường là bầu khí cần để tôi tiếp xúc với mọi người. Tiếp xúc với những người đạo đức, thì phải hiền lành và khiêm nhường, đó là dĩ nhiên. Tiếp xúc với những người mà thiên hạ coi là tội lỗi, thì càng phải hiền lành và khiêm nhường, đó là điều tôi phải chú ý rất nhiều, để mà thương yêu và kính trọng họ. Xưa Chúa Giêsu đã rất hiền lành và khiêm nhường, khi đón tiếp những người mà giới biệt phái Do Thái khinh chê là tội lỗi. Nhưng chính thái độ hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã lôi cuốn biết bao người tội lỗi, để họ tìm đến Tin Mừng. 14. Hiền lành và khiêm nhường, đó là một nét đẹp dễ thương, tôi đừng coi thường nét đẹp đó. Bây giờ, thì tôi hiểu hơn tại sao Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn (khiêm nhường) nghèo khó. Vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành. Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5, 3-4). Với niềm tin vào Lời Chúa, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người được hiền lành và khiêm nhường trong năm mới và mãi mãi suốt đời. Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi là kẻ tội lỗi. GB. Bùi Tuần
Long Xuyên, ngày 05.1.2018
Đời tôi là một chuỗi dài những chia ly. Chia ly nào cũng đau buồn. Chia ly người thân, và nếu chia ly đó lại là cái chết của họ, thì đau buồn nơi tôi sẽ như vực sâu thăm thẳm. 2. Trong nỗi đau buồn thăm thẳm ấy, tôi bám chặt lấy cuộc đời của họ. Cuộc đời của họ đã có tôi. Họ gánh trên vai bao vất vả nhọc nhằn, có thể nói là họ gánh những thùng mồ hôi và nước mắt. 3. Điều quí giá nhất mà cuộc đời của họ đã để lại trong tôi, đó là niềm tin vào Chúa. Chúa mà họ tin, chính là Đấng mà Kinh Thánh đã mạc khải, Hội Thánh đã dạy họ. Và chính họ đã được cảm nhận phần nào. Có thể nói là đức tin của họ đã lan truyền sang tôi. Nói một cách khác, chính Chúa đã ban đức tin cho tôi, nhưng Chúa đã dùng gia đình tôi và những người thân của tôi, để đức tin đó thấm nhập vào tôi một cách từ từ. 4. Từ từ, tôi nhận ra thân phận của mình là yếu đuối, đời mình là mong manh. Từ từ, tôi cảm nhận tôi có một Đấng thiêng liêng, quyền phép vô cùng, đã thương đến tôi. Người thương tôi một cách lạ lùng. Sau này, khi đọc Thánh Vịnh 103(102), tôi thấy những lời sau đây của Vua Đavid, đã thực hiện nơi tôi. “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao (11). Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta (12). Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn (13)”. 5. Đời này, Chúa xót thương tôi một cách lạ lùng như thế. Để rồi, đời sau Chúa còn xót thương tôi một cách lạ lùng hơn thế. Bởi vì Chúa sẽ cho tôi được ở bên Chúa trên thiên đàng hưởng hạnh phúc vững bền đời đời kiếp kiếp. 6. Tóm lại, Chúa mà tôi tin chính là Chúa tình yêu đầy lòng thương xót. Tôi cảm nhận được tình Chúa xót thương tôi, qua bao lần Chúa đã tha thứ cho tôi, đã chữa lành tôi, đã cứu chuộc tôi, đã an ủi tôi, đã đổi mới tôi. Đặc biệt là biết bao lần Chúa đã thôi thúc tôi hãy biết quyên mình, để yêu thương phục vụ mọi người theo Lời Chúa dạy. 7. Riêng tôi, mỗi lần thương nhớ những người thân đã qua đời, tôi thường cảm tạ và ngợi khen Chúa đã ban cho họ đức tin. Đức tin của họ rất đơn sơ, những mạnh mẽ và bao quát cả đời này lẫn đời sau. Nhờ đức tin ấy của họ, mà tôi được khích lệ trong việc tha thứ và trong việc cảm tạ Chúa mọi ngày, mọi giờ, mọi phút. 8. Có một điều rất riêng tư, nhưng tôi cũng muốn chia sẻ ở đây, đó là sự tôi hay lo lắng về những yếu đuối, những lỗi lầm, những tội lỗi của tôi. Tính hay lo lắng đó thường làm nặng lòng tôi. Nhưng một người thân của tôi, là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, đã nhiều lần khuyên tôi không nên để mình nặng lòng về những yếu đuối của mình. Ngài hay quả quyết với tôi là những tội của tôi đã được Chúa tha, và một khi Chúa đã tha, thì Chúa quên rồi. Nghe lời khuyên của người bạn thân, rồi sực nhớ lại lời Thánh Vương Đavid nói: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm. Tội ta đã phạm Chúa cũng ném thật xa ta”. Tôi thiết nghĩ là theo gương Chúa, tôi cũng phải biết tha thứ cho chính bản thân mình, để rồi biết tha thứ cho những người khác. 9. Qua những gì Chúa đã dạy tôi trên đây, tôi thấy đức tin chân chính bao giờ cũng tập trung vào Chúa là tình yêu thương xót. Vì thế, tội lỗi đúng là điều phải kết án, nhưng Chúa là tình yêu thương xót, muốn cứu con người khỏi tội lỗi, không phải bằng cách tìm kết án, những bằng cách xót thương tha thứ. Là người được Chúa xót thương như vậy, tôi cũng phải xót thương người khác như Chúa xót thương tôi, Chúa xót thương một cách rất tế nhị, từng chi tiết nhỏ, xót thương phong phú và tha thiết từ trái tim mình. 10. Trái tim quen dửng dưng, quen vô cảm trước những khổ đau của người khác, là một thực tế đau buồn, mà đạo đức và văn hóa đang kêu gọi phải quan tâm sửa lại. Điều quan trọng trong đạo đức và văn hóa sống tình yêu thương xót, chính là chân thành nhận mình tội lỗi, nhất là tội lỗi vì thiếu yêu thương và khiêm nhường. 11. Nhưng chân thành nhận mình thiếu sót về khiêm nhường và yêu thương là điều không dễ. Tôi có kinh nghiệm về điều đó. Phải có ơn Chúa, phải biết đón nhận ơn Chúa, chúng ta mới thấy được yêu thương và khiêm nhường vốn đi với nhau, và là những gì phải cầu nguyện và tỉnh thức mới có được. 12. Quỉ Satan luôn tìm phá yêu thương và khiêm nhường bằng những cách tinh vi. Nên chúng ta phải đối phó bằng cầu nguyện và tỉnh thức như lời Chúa dạy. 13. Cầu nguyện và tỉnh thức cũng còn là bầu khí cần thiết, để chúng ta biết đón nhận ơn được chia sẻ với những người đau thương. Tôi có chút kinh nghiệm về vấn đề đó. Khi những người thân của tôi rơi vào cảnh tang tóc đau thương, tôi biết đau cái đau của họ, đó là một ơn Chúa ban. Nhưng chia sẻ đó khiến tôi đau đớn. Khi những người thân của tôi lại là những người xa lạ, nhưng tôi coi là thân thiết, rơi vào cảnh đau thương, tôi đau cái đau cảu họ, đó là một ơn Chúa ban. Chia sẻ đó cũng khiến tôi đau đớn rất nhiều. Khi tôi đau đớn như vậy thì Chúa đến. Người đồng hành với tôi trong những cơn đau. Tôi được mạnh mẽ và ủi an. Từ đó, tôi hiểu rõ hơn về Thiên Chúa là tình yêu thương xót. 14. Thánh Vương Đavid đã nói: “Như trời trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (103(102)). Tôi thấy đúng là như vậy. Thiên Chúa từ trời cao đã bước xuống, để đồng hành với tôi khi tôi đau khổ, vì đau cái đau của người khác. 15. Thực là một ơn quí giá, đưa tôi vào một đức tin nhiệm mầu, giúp tôi như nhìn thấy trời mở ra, để tôi nhận ra Thiên Chúa chính là tình yêu và biết bao người thân đang đợi tôi trên đó. Với những gì đã xảy ra như thế cho tôi, tôi coi chia ly trong cái chết, tuy đau đớn, nhưng đầy hy vọng. Tôi nói như Thánh Vương Đavid: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103(102)). Và tôi thêm: Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên những người đã nâng đỡ kẻ hèn mọn này. --------------------------- Long Xuyên, ngày 06.01.2018
Dịp lễ an táng bà Maria Bùi Thị Túy (Cô Út Hỗ)
Em Đức Cha Gioan B. Bùi Tuần
Giáo xứ Tân Thành 07.01.2018
Sức khỏe của tôi sa sút. Càng ngày tôi càng cảm thấy mọi thứ đau đang kéo nhau đến trú ngụ trong con người tàn tạ này. 2. Đức Mẹ hiểu hoàn cảnh của tôi. Bằng những cách nhẹ nhàng và rất riêng tư, Đức Mẹ dắt dìu tôi sống đức tin giữa những dòng chảy cuồn cuộn đớn đau vây quanh mình. Những việc Đức Mẹ dạy tôi làm, để sống đức tin, trong tình hình đau đớn lúc này, là những việc đơn sơ. Thánh Vương Đavid xưa cũng đã làm. 3. Việc thứ nhất là, khi quá đau đớn, thì than vãn với Chúa cũng là một cách cầu nguyện. Thánh Vương than khóc: “Lạy Chúa, xin đoái thương, vì con đang kiệt sức. Xin Chữa lành con, vì gân cốt con rã rời, rên xiết đã nhiều, nên con mệt mỏi. Trên giường ngủ, những thổn thức năm canh, từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối, mắt hoen mờ, vì quá khổ đau” (Tv 6, 3, 7-8). Dòng chảy than khóc của Thánh Vương Đavid hình như đã tràn sang tôi. Tôi cũng đã than khóc với Chúa. Tôi tin Chúa đã nghe, Chúa đã cúi xuống ôm lấy tôi, như ôm lấy đứa con nhỏ đau quá, chỉ biết kêu gọi đến cha mình. 4. Việc thứ hai là khi đau đớn bệnh nạn, tôi nói với Chúa là những đau đớn đó cũng do tội lỗi mà ra, nên tôi xin chấp nhận và phó thác. Thánh Vương Đavid nói: “Lạy Chúa, xin đừng sửa trị con lúc thịnh nộ” (Tv 6, 2). Ngài có ý nói về sự ngài đã phạm tội, nên bị Chúa sửa phạt. 5. Riêng tôi, tôi nghĩ bệnh tật, đau đớn tôi phải chịu là do Chúa muốn tôi chịu, để tôi có dịp đền những tội lỗi vô vàn của tôi. Hơn nữa, đây cũng là dịp để tôi đền tội cho những người thuộc về tôi. Tất cả chúng tôi đều liên đới với nhau trong nhiều thứ tội. Ngoài ra, tôi cũng đền tội chung cho Hội Thánh, cho nhân loại. 6. Đền tội, là điều cần thực hiện. Đền tội bằng đau đớn bệnh tật có thể là cách nhẹ nhất. Tuy sao, khi đau đớn bệnh tật, tôi vẫn xin Chúa nhìn tôi như một của lễ. “Lạy Chúa, con xin phó thác con trong tay Chúa” (Lc 23, 46). 7. Việc thứ ba là khi đau đớn bệnh tật thân xác gây nên nhiều đau đớn trong tâm hồn, tôi cũng hay khiêm nhường cầu nguyện. Thánh Vương Đavid nói: “Lạy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức” (Tv 6, 3). Nhiều khi, đau đớn trong tâm hồn quá lớn và đau đớn về thân xác quá nặng, tôi chỉ nói được với Chúa là: “Con kiệt sức rồi, xin Chúa thương con”. 8. Sa sút về sức khỏe thân xác đã là nỗi đau đớn lớn. Sa sút về sức khỏe tâm hồn được tôi cảm nhận là nỗi mất mát xót xa sâu sắc. Xem ra nhiều người vì thế mà xa tránh và ruồng bỏ tôi. Tôi cảm thấy mình là gánh nặng cho họ. 9. Xem ra, chính Chúa cũng bỏ tôi. Tôi khóc mà nói với Chúa. “Cha ơi, sao cha nỡ bỏ con”. Xưa, Chúa Giêsu đã kêu lên như vậy. Nên hôm nay, Chúa cũng nghe lời tôi kêu than đó như một lời cầu nguyện. Đôi khi, tôi có cảm tưởng lời tôi kêu than đó, chỉ là tiếng kêu khóc trong sa mạc. Nhưng Đức Mẹ đã an ủi tôi. Mẹ cho tôi hiểu: Xưa Mẹ cũng nhiều lần đau đớn trong lòng, như trái tim bị lưỡi gươm đâm thấu. Đau đớn trong tâm hồn, chính là dịp cần phải gặp Chúa. 10. Việc thứ bốn là, khi đau đớn tràn ngập, tôi cầu xin và vững tin Chúa sẽ giải cứu tôi. Thực sự, Chúa đã giải cứu tôi. Đức tin, khi trở thành đức cậy, sẽ cho tôi thấy: Chúa đã nghe lời tôi kêu cầu, Chúa đã đến. Tôi tưởng đau đớn xác hồn sẽ là một gánh nặng không sao chịu nổi. Nhưng giờ đây, tôi cảm thấy khác. Đau đớn còn đó, nhưng tôi thấy Chúa ở bên tôi. Chúa thương tôi. Chúa cứu tôi. 11. Chúa cứu tôi khỏi nhiều thứ khốn khó thường xảy ra cho người già nua, đau bệnh. Ở đây, tôi muốn nhắc đến một thứ khốn khó vô hình nguy hiểm đã xảy đến cho tôi, đó là những cuộc tấn công của quỉ Satan. Satan đã nhiều lần nhiều cách lôi kéo tôi xa Chúa. Nó không ngại quả quyết với tôi là Chúa đã bỏ tôi, nên tôi đừng tin vào Chúa nữa. Nhưng Chúa đã cứu tôi khỏi những cám dỗ độc hại đó. Bằng chứng là tôi càng đau đớn, càng tin cậy vào Chúa hơn. 12. Không những tôi càng tin cậy vào Chúa, mà tôi càng cảm tạ Chúa. Vì trong những đớn đau của tuổi già, tôi nhận thấy Chúa vẫn dạy dỗ đào tạo tôi. 13. Đau đớn vẫn còn đó. Tôi có lúc vẫn than khóc với Chúa. Nhưng có lúc vẫn ca tụng ngợi khen Chúa. “Này con xin đến, để thực thi ý Chúa”, lúc nào tôi cũng nói lời đó với Chúa, vì tôi tin Chúa là Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Tôi tin Chúa đã đoái nhìn đến tôi là thân phận yếu đuối hèn mọn. Tôi tin Chúa đã và đang làm nơi tôi những sự lạ lùng. Chỉ vì Chúa thương tôi mà thôi. Tôi được như thế này hôm nay là do tình yêu xót thương của Chúa. Chúa thương tôi một cách nhưng không. 14. Đức Mẹ xưa đã nói “Linh hồn tôi tung hô Chúa, Thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 46-47). Hôm nay, tôi xin Đức Mẹ đưa linh hồn Mẹ và thần trí Mẹ vào trong tôi, để tôi cảm tạ Chúa là Đấng cứu độ tôi. Đức Mẹ đang ca ngợi Chúa trong tôi, Đức Mẹ cũng đang ca ngợi Chúa trong bao người hèn mọn và đau khổ khác. Rất có thể Chúa Thánh Thần sẽ làm nhiều sự lạ lùng cho Hội Thánh từ những thánh lễ cuộc đời âm thầm như thế. Long Xuyên, ngày 09.1.2018
1. Tuổi già, tôi cảm thấy đời mình như ngọn đèn sắp tắt. Thế nhưng đôi khi, tôi lại cảm thấy sáng rực lên trong tôi một ngọn lửa thiêng, tỏa ra hơi nóng ngọt ngào, lửa thiêng đó là lòng khao khát Chúa. Ngay những ngày này, và ngay chính lúc này, tôi khao khát Chúa hơn bao giờ hết. 2. Tôi khao khát chính Chúa, chứ không phải những công trình của Chúa. Khao khát Chúa là như nhìn thấy Chúa, nên chờ đợi ngóng trông. Tôi đợi chờ mong mỏi Chúa, vì tôi tin Chúa thương tôi, Chúa lo liệu mọi sự cho tôi. Tôi tin Chúa thương và lo cho tôi, nên Chúa dù rất xa mà lại rất gần. Vì xa nên mới khát khao, vì gần nên mới thân mật. Khát khao và thân mật nảy sinh tâm tình ca ngợi Chúa. 3. Trong tâm tình ca ngợi, đầy khát khao thân mật hướng về Chúa, tôi đang nhận ra rất rõ những gì Chúa đã thương tôi. Tôi chỉ xin nêu lên mấy điều tôi cho là quan trọng nhất. 4. Điều thứ nhất là Chúa đã và đang tha thứ cho tôi. Tôi tội lỗi lắm, tôi yếu đuối lắm. Thánh Phaolô xưa nói về mình: “Điều tốt tôi muốn làm thì tôi lại không làm. Điều xấu tôi không muốn làm, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7, 19). Nay tôi cũng nói về tôi như thế. Hiện tình của tôi chắc là bi đát hơn hơn thế. Chính trong tình trạng đó, tôi được Chúa thương, Chúa đến để cứu tôi, Chúa tha thứ cho tôi. 5. Khi tôi khao khát Chúa, thì tôi khao khát sự tha thứ của Chúa. Trong sự tha thứ của Chúa, tôi thấy không chỉ là tha thứ tội lỗi, mà còn sửa lại những hậu quả xấu do tội lỗi đã gây nên. Hậu quả xấu của tội là những vết thương vô hình mà tội lỗi để lại. Tội được tha, nhưng những vết thương vô hình của tội vẫn còn đó. Tôi xin Chúa thương rửa sạch, băng bó, chữa lành những vết thương ấy. Hậu quả xấu của tội là những gương mù, mà tội lỗi gây nên cho cộng đoàn và xã hội. Tội được tha, nhưng gương mù vẫn còn đó. Tôi xin Chúa thương xóa sạch những gương mù đó, bằng những gì Chúa biết là tốt hơn cả. Hậu quả xấu của tội là đã không gieo hạt giống Tin Mừng Nước Chúa, mà lại gieo cỏ lồng vực. Tội được tha. Nhưng tôi xin Chúa thương đừng vì tội của tôi, mà Nước Chúa bị chậm phát triển. 6. Khi khao khát Chúa là như vậy, tôi mới hiểu Chúa muốn tôi phải góp phần nào đau đớn, để cùng với Chúa mà đền tội. Chính Chúa sẽ giúp tôi chịu phần đau đớn ấy, một cách êm dịu, vì Chúa thương tôi. 7. Điều thứ hai là Chúa đã và đang đỡ nâng tôi trên những chặng đường khó khăn hiểm trở. Tôi đã và đang gặp những chặng đường hiểm trở cả về phần xác lẫn phần hồn. Hiểm trở về phần xác, như sự sa sút trầm trọng về sức khỏe. Hiểm trở về phần hồn, như sự sa sút trầm trọng về nghị lực phấn đấu nội tâm. Nhận thức rõ tình hình sa sút ấy, tôi khao khát Chúa. Trong khao khát ấy có sự khao khát ơn Chúa đỡ nâng tôi. 8. Thực sự, Chúa đang nâng đỡ tôi. Nâng đỡ căn bản nhất là Lời Chúa hứa: “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đưa anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó, và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1-4). Khi tôi khao khát Chúa và trình bày với Chúa về nỗi lo cho cuộc đời mình, thì Chúa đã nói với tôi những lời trên đây. Tôi được an ủi. 9. Tôi nhận thấy điều này: Cho dù hoàn cảnh có xấu mấy đi nữa, tôi vẫn được Chúa dành cho một chỗ trong Nước Chúa. Chỗ đó gần bên Chúa. Đúng như lời Chúa hứa: “Thầy ở đâu, con cũng ở đó với Thầy”. Tôi thấy đúng là như vậy. Điều quan trọng nhất đối với tôi là tôi được ở bên Chúa. Kinh nghiệm cho tôi thấy, nếu khao khát Chúa là để xin Chúa cho mình được thành công này, thành công khác theo ý mình, thì rất sai. Kinh nghiệm cũng cho tôi thấy. Nếu gặp trở ngại trên đường đời, mà trốn tránh nó bằng cách tìm quên đi, và bằng những giải trí thì cũng rất sai. 10. Phải tìm được ở bên Chúa. Chỉ có cách đó, mới thực sự được bình an. Bình an đó chính là một ơn trọng Chúa ban, chứ không do ý chí và công trạng. 11. Điều thứ ba là Chúa sẽ phán xét tôi theo cách tôi xét đoán người khác. Khi tôi khao khát Chúa, Chúa cho tôi thấy Chúa mà tôi khao khát, sẽ giúp tôi trong việc xét đoán người khác. Trước đây, đôi khi tôi thích xét đoán người khác. Tôi tưởng đó là việc bình thường, thậm chí còn là việc tốt. Nhưng, khi khao khát Chúa, và Chúa đến với tôi, Chúa cho tôi thấy. Thói hay xét đoán người khác có thể sẽ rất hại cho tôi, nếu tôi xét đoán xấu cho họ. Bởi vì “Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (Mt 7, 1-2). 12. Trong cuộc sống, tôi cần nhận ra kẻ tốt người xấu, để những liên đới xã hội được tốt. Muốn được thế, xét đoán lành mạnh là hết sức quan trọng. Thế nhưng, xét đoán không lành mạnh lại đang là một hiện tượng phổ biến. Nên tôi càng cần phải thận trọng trong việc xét đoán. Nếu không có bổn phận phải xét đoán ai, thì đừng xét đoán họ. Nếu có bổn phận phải xét đoán ai, thì hãy để công lý và yêu thương cùng ôm lấy nhau mà xét đoán. 13. Đấng sẽ phán xét tôi sau cùng là Chúa. Chúa sẽ phán xét một cách công minh và dễ hiểu. Tôi xét đoán người khác thế nào, thì sẽ được Chúa xét đoán tôi như vậy. Chúa đã quả quyết như thế. Và do đó, tôi cần phải thế nào trong việc xét đoán người khác. 14. Trên đây là đôi chút chia sẻ những gì đang xảy ra trong tôi. Tôi thấy sự khao khát Chúa và được gặp Chúa là tình yêu thương xót đang được Chúa thực hiện nơi tôi. Sẽ là xúc phạm đến Chúa, nếu tôi không coi đó là ơn trọng Chúa ban cho tôi. Vì thế, tôi xin hết lòng cảm tạ ngợi khen Chúa vì ơn rất trọng đó. Tôi cũng xin thân ái cảm ơn mọi người đã giúp tôi khao khát Chúa và gặp được Chúa. Tôi như được trẻ lại, với mùa xuân mới là tình yêu Chúa bao la, vô cùng, vô tận. Tôi sẽ được ở bên Chúa đời đời mãi mãi. Hạnh phúc biết bao! Long Xuyên, ngày 17.1.2018
1. Dịp cuối năm và dịp đầu năm, tôi thường tập trung tâm hồn tôi vào việc tạ ơn Chúa. Tôi tạ ơn Chúa vì biết bao ơn Chúa đã ban cho tôi trong thời gian qua và ngay chính lúc này. Một trong những ơn cao quí, mà tôi nhận ra, để tạ ơn Chúa cách riêng, đó là ơn biết kính sợ Chúa. Biết kính sợ Chúa, nên được Chúa xót thương. Như lời Đức Mẹ Maria đã ca ngợi Chúa xưa: “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 50). 2. Thế nào là kính sợ Chúa? Tôi xin Đức Mẹ dạy tôi. Bằng nhiều cách, với nhiều lần, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Biết kính sợ Chúa là một ơn Chúa ban. Với ơn đó, tôi nhận ra mấy điều lạ lùng Chúa làm cho tôi. 3. Điều lạ lùng thứ nhất là tôi xác tín mình tội lỗi, hèn mọn, yếu đuối, mọi sự tốt lành tôi được là do lòng thương xót Chúa mà thôi. Xác tín mình tội lỗi, hèn mọn, yếu đuối chỉ là khởi đầu. Từ khởi đầu chân thành đó, tôi thường nài xin Chúa cứu tôi. Tôi nói với Chúa những lời thống thiết như: “Xin rửa con sạch mọi lỗi lầm. Của lễ con dâng là tâm hồn tan nát khiêm cung. Xin tạo cho con một trái tim trong sạch” (Tv 51(50)). Với những lời thống thiết như thế, tôi đến với Chúa. Tôi được gặp Chúa. 4. Khi gặp được Chúa, tôi mới thấy rõ mọi sự tốt lành tôi có hôm nay đều do ơn Chúa xót thương tôi. Từ nhận thức đó, tôi mới thấy mình phải tỉnh thức với những gì hay nâng mình lên. Nâng mình lên có khi một cách lộ liễu, có khi một cách ngây thơ, có khi một cách đạo đức giả hình. Xin thú thực là cho dù tỉnh thức đến mấy, tôi vẫn thấy sự nâng mình lên cách này cách nọ vẫn là điều có thể xảy ra cho tôi, nếu Chúa không ra tay can thiệp. Tôi tạ ơn Chúa, vì Chúa đã can thiệp. 5. Điều lạ lùng thứ hai là Chúa cho tôi cảm nhận được rõ ràng điều Đức Mẹ đã nói xưa: “Chúa biểu dương sức mạnh Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Phường lòng trí kiêu căng có thể là những người xa gần, và cũng có thể là chính tôi. Khi tôi bị Chúa dẹp lòng trí kiêu căng trong tôi, tôi cảm thấy rất đau. Nhưng Chúa cho tôi nhận ra đau đớn đó là thuốc chữa trị. Biết chấp nhận đớn đau đó cũng là một ơn Chúa. Bởi vì đau đớn bất cứ do đâu, đều vẫn là điều ai cũng muốn tránh 6. Từ kinh nghiệm bản thân đó, tôi sẽ biết cầu nguyện cho những người bị đau đớn, khi Chúa dùng đau đớn, để chữa lòng trí kiêu căng của họ. 7. Biết đón nhận đớn đau, biết cộng tác với Chúa trong đau đớn, đều là những việc không dễ dàng, cho dù trong lý thuyết chủ chương của chúng ta là dễ dàng. Phải khiêm tốn nhận sự thực đó, để được là kẻ kính sợ Chúa. 8. Điều lạ lùng thứ ba là tôi nhận ra đừng bao giờ muốn là quyền lực, nhưng hãy luôn là kẻ phục vụ khiêm nhường, kẻo Chúa sẽ đảo ngược lại. Tôi vẫn sợ mình là một quyền lực. Tôi rất ái ngại, khi thấy xuất hiện trong Hội Thánh đó đây những cá nhân hoặc những nhóm coi mình là đạo đức, nhưng lại rất quyền lực do kiêu căng. Nếu để tự do phất triển, những quyền lực kiêu căng đó sẽ là một mối họa gây hại cho cộng đoàn. Tình thần quyền lực sẽ lây lan, khiến “Chúa ra tay hạ bệ những ai quyền thế. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52-53). 9. Kinh nghiệm cho tôi thấy đúng là như vậy. Khi Chúa ra tay hạ bệ những ai quyền thế, thì không tránh được những sợ hãi. Và khi Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, thì khó tránh khỏi những ghen tuông. Cho dù vậy, thì việc Chúa làm vẫn là như vậy. Từ đó tôi thấy Nước Chúa được phát triển không nhờ những người quyền lực kiêu căng, nhưng qua những người là dụng cụ khiêm nhường phục vụ. 10. Tôi rất mừng là hiện nay, các lễ phong chức hầu như không còn thói quen đề cao chức thánh như một thứ quyền lực, mà nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ khiêm nhường. Nếu không, rồi sẽ thấy ứng nghiệm lời Đức Mẹ đã nói “Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Nhận ra điều đó, là dấu chỉ người biết kính sợ Thiên Chúa. 11. Điều lạ lùng thứ bốn là Chúa cho tôi biết nối kết niềm tin của tôi vào niềm tin của tổ phụ Abraham, của Đức Mẹ và của mọi người thánh trong lịch sử cứu độ. Trong kinh ngợi khen, Đức Mẹ nói: “Chúa nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1, 55). Khi tôi nối kết niềm tin của tôi vào niềm tin của tổ phụ Abraham và của Đức Mẹ, thì tôi từ bỏ mọi sự, để chỉ vâng phục thánh ý Chúa mà thôi. 12. Ở đây, khi đề cập đến cập đến vấn đề thực thi thánh ý Chúa, tôi sực nhớ tới Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tôi được phúc gần ngài nhiều lần và tại nhiều nơi. Lần nào, chỗ nào, tôi cũng thấy thánh nhân trong thái độ cầu nguyện. Ngài lắng nghe ý Chúa, ngài kết hợp với ý Chúa, ngài thực thi ý Chúa. Trong mọi sự, ngài đều sống tinh thần xin vâng của Đức Mẹ. Trong mọi thử thách, ngài đều sống trọn vẹn lời Chúa Giêsu xưa tại vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha mà thôi”. Gương sáng của thánh nhân đã ảnh hưởng mạnh đến tôi. Tôi tin ngài đang cầu nguyện cho tôi. 13. Một lần nữa. Tôi xin nhắc lại niềm tin của tôi là lòng thương xót Chúa chỉ dành cho những ai kính sợ Chúa. Thế có nghĩa là chúng ta phải chú trọng đến tinh thần kính sợ Chúa, để được Chúa xót thương. 14. Hiện nay, xem ra rất nhiều người không biết và cũng không muốn kính sợ Chúa, nên cũng không biết tìm đến lòng xót thương của Chúa. Nếu hiện tình đang xảy ra đúng như vậy, thì chúng ta là những mộn đệ tin theo Chúa Giêsu, phải ưu tiên lo đổi mới chính bản thân mình được nên kẻ kính sợ Chúa, để tìm nơi Chúa lòng xót thương cứu độ. Phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Đó là nguyện chúc chân thành tha thiết xin gửi đến mọi người gần xa, và tất nhiên cho chính kẻ hèn mọn này. Long Xuyên, ngày 24.1.2018
1. Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình là người hiền lành và khiêm nhường. Người nói: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Với niềm tin vững vàng vào Lời Chúa, tôi đã học với Chúa Giêsu. Càng học với Người, tôi càng thấy sống hiền lành và khiêm nhường là một bài học vừa rất quan trọng, lại vừa rất khó. 2. Rất quan trọng, vì hiền lành và khiêm nhường là dấu chỉ kẻ thuộc về Chúa. Rất khó, vì hiền lành và khiêm nhường là những đức tính, mà xác thịt, thế gian và ma quỉ thường ra sức cản phá dữ dội. Một ví dụ. Hiền lành và khiêm nhường nơi Chúa Giêsu là luôn tự ý bước xuống và trút bỏ vinh quang. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2, 6-8). 3. Còn chúng ta thì sao? Phải nói thật là bước xuống và trút bỏ vinh quang là điều tự nhiên chúng ta khó muốn và không muốn thực hiện một cách triệt để và chân thành. Nhiều khi chúng ta lại còn chủ trương rằng: Cần bước lên và cần vinh quang, mới có điều kiện để làm sáng danh Chúa. Thế rồi, khi đã bước lên chức nọ, quyền kia, và khi đã được vinh quang, chúng ta lại nghĩ là cần bảo vệ và phát triển những điều kiện đó, để mở Nước Chúa. Đến lúc nào đó, nếu Chúa không để cho ý riêng của chúng ta được thỏa mãn nữa, thì chúng ta dễ rơi vào khủng hoảng. Tình trạng đó đã và đang xảy ra. Đôi khi tôi cũng vậy. 4. Nhưng Chúa thương luôn đào tạo tôi, để tôi không ngừng học ở Chúa Giêsu sự hiền lành và khiêm nhường. Xin phép chia sẻ đôi chút về sự Chúa đào tạo tôi bài học hiền lành và khiêm nhường. 5. Thứ nhất, Chúa cho tôi nhận thấy mình là kẻ tội lỗi, nên khi được bước lên và được vinh quang cách nào đó, thì tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ. 6. Thứ hai, Chúa cho tôi thói quen phân định này, đó là hễ thấy ai hiền lành và khiêm nhường, thì lập tức tôi coi họ là kẻ thuộc về Chúa, kẻ có khả năng xây dựng đoàn kết, và phục vụ trung tín. 7. Thứ ba, Chúa cho tôi được may mắn học sự hiền lành và khiêm nhường nơi các Đức Giáo Hoàng mà tôi quen biết. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nổi tiếng ở sự Ngài lên tiếng xin lỗi những gì sai trái mà trong quá khứ Hội Thánh đã phạm đến các tôn giáo khác. Đức Thánh Cha Benedictô XVI đã can đảm xin từ nhiệm, để lui vào đời sống thầm lặng. Đức Thánh Cha Phanxicô quyết định không dọn vào nhà dành cho các Giáo Hoàng, mà cứ ở lại trong nhà Santa Marta, là một nhà dành cho các chức sắc đến Vatican muốn trọ tạm thời. Đúng là ba đấng ấy bước xuống. Các Ngài làm gương về hiền lành và khiêm nhường. Thêm vào những gương sáng đó, cũng còn nhiều gương sáng khác mà tôi đã và đang gặp thấy ở Việt Nam, nơi các thành phần khác nhau của Hội Thánh Chúa. 8. Cho đến phút này, tôi vẫn thấy hiền lành và khiêm nhường là bài học rất quan trọng và cũng là bài học rất khó. Tôi như luôn phải bắt đầu lại. Tự hào về chức, về quyền, về các thứ vinh quang, đó là lối sống thế tục hiện nay. Muốn có chức, có quyền, có chút vinh quang, đó cũng là một thứ thăng tiến bình thường của nhiều người văn minh hiện nay. Do vậy mà khiêm nhường hiền lành chỉ còn là những từ đẹp, chứ không còn là những gì cần phấn đấu để có. 9. Khi phấn đấu để có khiêm nhường và hiền lành, tôi phải nhờ đến Đức Mẹ. Tôi nói với Đức Mẹ là tôi phải đấu tranh gay gắt với ma quỷ. Ma quỉ tấn công tôi bằng nhiều cách để tôi đừng khiêm nhường hiền lành. Tấn công rất mạnh, tấn công dữ dội. 10. Đức Mẹ ở bên tôi. Mẹ dạy tôi là đừng lý luận gì với ma quỉ. Nhưng đơn giản là hãy cứ tin vào Lời Chúa. Chúa dạy hãy học với Chúa, vì Chúa hiền lành và khiêm nhường, thì hãy gặp Chúa, ở lại bên Chúa, lắng nghe Chúa, vâng lời Chúa, tin ở Chúa. Tôi vâng lời Mẹ, mà làm như thế. Từng giờ, từng ngày, trong mọi hoàn cảnh. 11. Mẹ thường dạy tôi hãy để ý hiền lành và khiêm nhường ngay trong những việc nhỏ, ngay trong giây phút hiện tại. Thí dụ, lúc này, khi đang viết bài chia sẻ, tôi cảm thấy đau đớn, mệt mỏi, tối tăm. Một cách đơn sơ, tôi cứ dâng cho Chúa tình trạng thực tế ấy, như một của lễ hèn mọn. Tôi nhờ Mẹ mà dâng cho Chúa với tâm tình phó thác. Thế là, từ từ hiền lành và khiêm nhường như dòng suối thiêng chảy vào hồn tôi, từ trái tim Chúa và trái tim Mẹ. 12. Tự nhiên, tôi hiểu chính qua hiền lành và khiêm nhường nhận được từ Chúa và Mẹ, mà tôi có thể thực hiện được ơn gọi làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay. Tôi vui mừng được sống như thế. 13. Tới đây, tôi hiểu hiền lành và khiêm nhường là bầu khí cần để tôi tiếp xúc với mọi người. Tiếp xúc với những người đạo đức, thì phải hiền lành và khiêm nhường, đó là dĩ nhiên. Tiếp xúc với những người mà thiên hạ coi là tội lỗi, thì càng phải hiền lành và khiêm nhường, đó là điều tôi phải chú ý rất nhiều, để mà thương yêu và kính trọng họ. Xưa Chúa Giêsu đã rất hiền lành và khiêm nhường, khi đón tiếp những người mà giới biệt phái Do Thái khinh chê là tội lỗi. Nhưng chính thái độ hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã lôi cuốn biết bao người tội lỗi, để họ tìm đến Tin Mừng. 14. Hiền lành và khiêm nhường, đó là một nét đẹp dễ thương, tôi đừng coi thường nét đẹp đó. Bây giờ, thì tôi hiểu hơn tại sao Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn (khiêm nhường) nghèo khó. Vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành. Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5, 3-4). Với niềm tin vào Lời Chúa, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người được hiền lành và khiêm nhường trong năm mới và mãi mãi suốt đời. Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi là kẻ tội lỗi. Long Xuyên, ngày 05.2.2018
1. Hạnh phúc của tôi trong những ngày Tết là được xum vầy. Để được xum vầy, tôi phải trở về. Tôi trở về với Chúa. Tôi trở về với mọi người thân xa gần, còn sống và đã qua đời. Tôi trở về với Hội Thánh. Tôi trở về với Quê Hương. 2. Tôi trở về, để tìm lại tình thương, để đón nhận tình thương, để chia sẻ tình thương. Tình thương ấy rất thiêng liêng. Bản chất của tình thương ấy là cứu độ. Tình thương cứu độ đã cứu tôi khỏi mất phương hướng, đã cứu tôi khỏi sa vào vực thẳm cô đơn tăm tối dẫn tới hỏa ngục. Chúa đã giúp tôi trở về, để gặp lại tình thương cứu độ ấy. Tình thương cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô. 3. Nhận thức điều đó là do đức tin. Đức tin được Chúa Thánh Thần đốt nóng lên trong tôi, khiến tôi thao thức, coi việc trở về với Chúa Giêsu Kitô là yếu tố quan trọng nhất của những ngày đầu xuân mới này. 4. Tôi đã trở về với Chúa Giêsu Kitô. Tôi đã gặp Người. Gặp Chúa Giêsu Kitô là một hạnh phúc lớn lao cao quí. Tôi ở lại với Người. Ở lại, đó là điều Chúa đã dạy tôi. “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Tôi ở lại, để lắng nghe, để cảm nhận tình thương, để được chữa lành, để được tha thứ, để được đổi mới. Có ở lại với Chúa Giêsu Kitô, tôi mới thấy Người có sức đổi mới tôi một cách lạ lùng, như xưa Người đã đổi mới Thánh Phaolô. Từng là người bắt bớ đạo, Phaolô đã trở thành người rao giảng đạo. Trở lại với Chúa Giêsu Kitô, đó là ơn Chúa đã làm cho tôi. Mỗi ngày, mỗi giờ, tôi đều trở về với Chúa Giêsu Kitô. Trở về với Người, và ở lại với Người. 5. Ở lại và gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu Kitô. Gắn bó chặt chẽ như cành nho với cây nho. Chúa phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). 6. Hiện giờ, tôi đang ở lại trong Chúa Giêsu Kitô, và tôi đang gắn bó mật thiết với Người. Trong tình trạng tràn đầy ơn Chúa hiện giờ, tôi nhìn về tương lai tại Việt Nam. 7. Nếu trong tương lai, Hội Thánh nói chung, hoặc nơi này nơi nọ, có những điều kiện thuận lợi dễ dãi, thì chúng ta đừng quên yếu tố đích thực làm phát triển ơn cứu độ, chính là sự chúng ta biết ở lại trong Chúa Giêsu Kitô và biết gắn bó mật thiết với Người. Nếu trong tương lai, Hội Thánh nói chung, hoặc nơi này nơi nọ gặp phải những điều kiện khó khăn trắc trở, thì chúng ta càng phải ở lại trong Chúa Giêsu Kitô, và càng phải gắn bó mật thiết với Người. 8. Cho dù trong tương lai, lịch sử Việt Nam sẽ có những chuyển biến nào đi nữa, chúng ta cũng cần chuẩn bị cho mình và cho những người thuộc về mình một con đường chắc chắn để sống vứng đức tin. Con đường đó là trở về với Chúa Giêsu, ở lại với Người và gắn bó mật thiết với Người. 9. Chuẩn bị ngay từ bây giờ, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu Kitô. Riêng tôi, tôi tập trung vào Chúa Giêsu Kitô theo một thói quen Đức Mẹ dạy tôi từ nhỏ, đó là: 10. Mỗi ngày nhận ra những ơn lành mới, Chúa thương ban cho tôi, trong ngày đó. 11. Mỗi ngày nhận ra tôi được Chúa cứu, cho dù tôi gặp phải gian nan, nguy khốn tư bề. 12. Mỗi ngày nhận ra tôi được ơn thao thức về Chúa, như một đặc điểm con người của tôi. 13. Mỗi ngày tôi cố gắng dâng lên Chúa một việc lành nhỏ, cho dù âm thần kín đáo. 14. Mỗi ngày tôi tìm cách làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa, qua chính những gì Chúa đã làm cho tôi, là kẻ yếu đuối hèn mọn. 15. Mỗi ngày tôi cầu nguyện với tình yêu thương xót Chúa, xin Chúa thương mọi người và từng người, để họ biết đón nhận tình yêu thương xót Chúa. 16. Mỗi ngày tôi tín thác mình cho tình yêu thương xót Chúa, một cách đơn sơ mà triệt để. 17. Tôi tập trung vào Đức Giêsu bằng một đời sống nội tâm như thế đó. Tôi cảm nhận rất rõ Đức Giêsu đã, đang và sẽ mãi mãi là Tin Mừng của tôi. Tôi vui mừng được nói lên sự thực đó. 18. Tôi nói lên sự thực đó với Đức Mẹ Maria. Ngày cũng như đêm, lúc nào tôi cũng mang tràng hạt mân côi, để cầu nguyện. Đức Mẹ giúp tôi cầu nguyện và hồi tâm. Đức Mẹ giúp tôi luôn cùng với Mẹ nói lời xin vâng. Tôi xin vâng, để cảm tạ Chúa. Tôi xin vâng, để sám hối ăn năn. Tôi xin vâng, để trở thành của lễ. Tôi xin vâng, để đón nhận phép lành của Chúa. Tôi xin vâng, để còn sống giờ nào, thì vẫn ca tụng lòng thương xót Chúa. Tôi xin vâng, để luôn trở về, tham dự vào niềm vui xum vầy của các chứng nhân lòng thương xót Chúa. Long Xuyên, ngày 18.2.2018
1. Tôi cảm tạ Chúa, vì suốt cuộc đời dài, tôi đã gặp được nhiều người tốt. Những người tốt thuộc nhiều lãnh vực. Có người tốt thuộc về lĩnh vực trí thức, có người tốt thuộc về lĩnh vực nghề nghiệp làm ăn, có người tốt thuộc về lĩnh vực tổ chức. Lãnh vực nào cũng có người tốt. Riêng trong lãnh vực thương người, tôi đã gặp được nhiều người tốt. Họ đã ảnh hưởng nhiều đến tôi. Tôi coi họ là món quà tặng cao quí, mà lòng thương xót Chúa dành cho tôi. 2. Đặc điểm của họ là quan tâm đến những người đau khổ. Quan tâm đó của họ thường được người đời gọi là việc tử tế, việc từ thiện. Nhưng đối với họ, quan tâm đó là một nhu cầu của trái tim. Gặp một người khóc vì đau khổ, tự nhiên họ muốn lại gần, để ủi an, để chia sẻ. Gặp một người lo âu quằn quại trong cô đơn, tự nhiên họ muốn hỏi: “Tôi có thể giúp gì cho bạn không?”. Gặp một người thất vọng, coi tự tử là cách duy nhất mình lựa chọn để chấm dứt khổ đau, tự nhiên họ muốn cứu, cho dù phải hy sinh mạng sống mình. 3. Không dửng dưng, không xa tránh, không hình thức, quan tâm của họ trong lãnh vực tình thương không chỉ do lửa của trái tim, mà cũng do lửa của Chúa Thánh Thần. Họ đáp ứng nhu cầu người đau khổ đúng lúc, đúng cách, bằng đúng việc. 4. Chúa Thánh Thần sẵn sàng ban lửa yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng rất nhiều người đã không đón nhận. Lý do không đón nhận thường là thói quen sống thực dụng, sống hưởng thụ, mà yêu thương có tính cách quên mình như Chúa muốn, thì không hợp với hưởng thụ và thực dụng. Nhất là khi hưởng thụ và thực dụng coi tiền bạc làm chính, mà thương người lại phải quên mình, thì đâu có lợi gì cho kinh tế. 5. Nhiều người đã từ chối đón nhận lửa yêu thương của Chúa Thánh Thần. Cũng có người đã đón nhận, nhưng rồi sau đó lại bỏ. Chỉ vì để mình bị thực dụng và hưởng thụ lôi kéo. 6. Riêng tôi, tôi được Chúa giúp để biết quan tâm đến những người đau khổ mà không cảm thấy mệt mỏi do tính toán này nọ. Bởi vì tôi tin vững vàng vào Lời Chúa Giêsu đã hứa: “Làm bất cứ điều lành nào cho kẻ khổ đau hèn mọn, sẽ được Chúa kể như làm cho chính Chúa” (x Mt 25, 34-40). Kết quả là tôi sẽ được Chúa cho lên Thiên Đàng, để cùng với Chúa hưởng hạnh phúc đời đời trong tình yêu xót thương của Chúa. 7. Tôi tin rất nhiều người cũng được Chúa thương như tôi, dù họ không biết Chúa và không được nghe Lời Chúa. Bất cứ ai làm sự lành cho kẻ khổ đau, đều sẽ được Chúa ban thưởng. 8. Quan tâm đến những người đau khổ, đó là điều tốt đẹp, nhưng tự sức mình tôi không thực hiện được một cách hoàn hảo. Tôi phải nhờ ơn Chúa. Với ơn Chúa, tôi thực hiện việc quan tâm đến những người đau khổ, bằng những việc nhỏ, với một số nhỏ người đau khổ xung quanh. Bởi vì khả năng của tôi là rất giới hạn. Nhận thức như thế, để tôi khỏi rơi vào ảo tưởng là mình sẽ làm được rất nhiều. Tuy biết mình chỉ làm được rất ít, tôi vẫn cứ làm chỉ ít việc đó, với niềm vui những người đau khổ đó sẽ giúp tôi gặp được chính Chúa. Nhờ vậy, đời tôi là một chuyến đi của tình thương. 9. Suốt cuộc đời là một chuyến đi của tình thương. Để được thế, tôi cần tỉnh thức và cầu nguyện. 10. Tỉnh thức và cầu nguyện của tôi dựa trên Lời Chúa sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 24-25). Lời Chúa thực rõ ràng. Đời tôi sẽ là một chuyến đi của tình thương. Mà phải thế thôi. 11. Tỉnh thức và cầu nguyện của tôi còn được dựa vào Đức Mẹ, Thánh Giuse và các thánh Tông Đồ. Tôi coi lời sau đây của Thánh Gioan tông đồ là phản ánh chung của các Đấng: “Ai yêu thương anh em mình, thì ở lại trong ánh sáng” (1Ga 2, 10). Ánh sáng đã soi đường chỉ lối cho mọi bước đi giữa cuộc đời phức tạp. Yêu thương chính là ánh sáng. Tôi cảm nhận rõ điều đó. Do vậy, tôi coi những ai yêu thương như Chúa dạy, chính là những người bạn thân thiết của tôi. Họ nâng đỡ tôi với tấm lòng vị tha chân thành. 12. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa đã cho tôi được nhiều bạn thân thiết như thế. Qua họ, Chúa dạy tôi sống đơn sơ, tập trung vào tình thương. Mỗi ngày lo đón nhận tình thương và cho đi tình thương. Đó là cách tôi sống đức tin. Đó là cách tôi sống Tin Mừng. Đó là cách tôi cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ của Chúa. 13. Tình hình thế giới hiện nay đang chuyển biến phức tạp và nguy hiểm. Không những làn sóng thực dụng và hưởng thụ đang dâng cao, mà còn thêm vào đó là những hận thù, những ghen ghét, những tham vọng chức quyền, những mưu đồ lợi ích riêng. Không những có những dửng dưng, mà còn thêm vào đó là những mưu toan loại trừ nhau một cách tàn ác. Một tình hình như thế có thể đưa nhiều người đến chỗ tự hủy. 14. Rất may là ánh sáng tình thương đang mọc lên và lan tỏa. Tuy âm thầm, nhưng mạnh mẽ. Ánh sáng tình thương ấy không thuộc về riêng ai, nhưng lấp lánh từ mọi trái tim thiện chí. Tôi coi đó là quà tặng cao quí của lòng thương xót Chúa. Hãy biết đón nhận quà tặng đó. Quà tặng đó sẽ cứu chúng ta, Tổ Quốc chúng ta, Hội Thánh chúng ta. Tình thương đang là cảm hứng thiêng liêng cho nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 22.2.2018
1. Hơn lúc nào hết, những ngày tháng đầu năm Mậu Tuất này, tôi nghe Chúa gọi tên và thúc giục tôi: “Con hãy bảo vệ Mẹ Maria và Chúa Giêsu trong con và trong cộng đoàn của con. Bởi vì Hai Đấng đang bị bắt bớ và xua đuổi bởi nhiều quyền lực trong đạo ngoài đời. Xưa đã là thế, nay cũng như vậy”. Tôi xin Chúa soi sáng cho tôi, để biết phải bảo vệ Hai Đấng thế nào. Chúa trả lời tôi là hãy theo gương Thánh Giuse. Vắn tắt ở mấy điểm quan trọng sau đây: 2. Trước hết, hãy sống mật thiết với Hai Đấng, lắng nghe Hai Đấng. Quả thật, Thánh Giuse đã thực hiện điều quan trọng đó. Nhờ vậy, ngài không nghĩ mình phải trở thành một quyền lực nào, hay sẽ phải tất bật làm việc này, lo việc kia, nhưng Ngài hiểu ý Hai Đấng là: Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa (Ga 15, 9). Hãy gắn bó mật thiết với Chúa (Ga 15, 6). 3. Được ở lại trong Chúa và sống gắn bó với Chúa, Thánh Giuse đã thờ phượng Chúa theo như ý Chúa, đó là: 4. Sống tinh thần Tám mối phúc chính là cách bảo vệ Chúa và Đức Mẹ. Làm ngược lại là xua đuổi và bắt bớ Chúa (x Mt 5, 1-12). 5. Sống khiêm tốn, tránh phô trương khi cầu nguyện, ăn chay, bố thí, chính là cách bảo vệ Chúa và Đức Mẹ. Làm ngược lại là xua đuổi và bắt bớ Chúa (x Mt 6, 1-17). 6. Quan tâm phục vụ người nghèo khổ, chính là bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Làm ngược lại là xua đuổi và bắt bớ Chúa (x Mt 25, 34- 46). 7. Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ trong nội bộ cộng đòan tôn giáo của mình. Bởi vì ngài biết trong nội bộ có những lớp người tự nhận là đạo đức sẽ ra tay bắt bớ và xua đuổi Chúa Giêsu và Đức Mẹ. 8. Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách khôn ngoan, nghĩa là không lên tiếng khích bác và chống đối ai, nhưng chỉ lặng lẽ sống những giá trị Phúc Âm một cách tích cực. 9. Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách tế nhị. Nghĩa là ngài luôn lui vào địa vị kẻ phục vụ, vui lòng nhận vào mình những việc nặng nề vất vả nhọc nhằn, để che chở cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. 10. Bố tôi hay nhắc cho tôi biết một lời trối của ông nội tôi. Trước khi tắt thở, ông nội chúng tôi gọi các con lại bên giường mà nói: Thánh Giuse rất có lòng thương những kẻ nghèo khổ, nếu các con gặp cơn khốn khó, hiểm nghèo, các con hãy chạy lại Thánh Giuse, xin ngài thương cứu giúp. Riêng tôi đã có rất nhiều lần được Thánh Giuse cúu giúp, cho dù cơn khốn khó hiểm nghèo của tôi coi như rất nhỏ. Đúng là ngài đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ, khi ngài quảng đại cứu giúp tôi là kẻ yếu đuối hèn mọn. 11. Ngay lúc này, khi tôi đang viết những dòng chia sẻ đây, tôi rất mệt, rất đau do già yếu bệnh tật, nhưng Thánh Giuse đang cứu giúp tôi. Ngài cho tôi nhìn thấy bao ơn lành Chúa ban cho tôi chỉ trong giờ phút này, thật là cao quí khôn tả. Những ơn lành đó là rất riêng tư. Cảm nhận được sự thực đó, tôi càng thêm vững tin vào tình yêu thương xót Chúa. 12. Dựa vào kinh nghiệm đó, Thánh Giuse dạy tôi hãy tín thác mình cho lòng Chúa xót thương một cách đơn sơ mà triệt để. Hãy theo gương ngài, mà luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa. Vâng ý Chúa mới là môn đệ Chúa (x Mt 7, 21-23). Lịch sử có những chuyển biến bất ngờ, Thánh Giuse đã lắng nghe được ý Chúa, để có những chọn lựa thích hợp. Tôi cũng phải như vậy, khi lịch sử chuyển biến khác không như tôi muốn. 13. Chọn lựa của Thánh Giuse những lúc đó là tăng thêm khiêm nhường, tăng thêm tình thương, ngài coi đó là thánh ý Chúa. Tôi cũng sẽ như vậy. Thêm khiêm nhường, thêm tình thương, là những điều không dễ. Phải nhờ ơn Chúa, phải nhờ vào cộng đoàn những người thiện chí. 14. Điều quan trọng là phải để ý nhiều đến đời sống nội tâm, chứ nếu chỉ thích nghi bề ngoài cho qua, thì sẽ tệ hại cho chính mình và cho đạo Chúa. Đời sống nội tâm nơi Thánh Giuse là rất khiêm tốn. Ngài không cho mình là kẻ đạo đức hơn người khác, nhưng luôn biết mình yếu đuối, không ngừng và trong mọi sự điều nhờ ơn Chúa, để cùng với ơn Chúa mà dẫn thân phục vụ, chia sẻ, hiệp thông. Đời sống nội tâm của tôi cũng phải như thế. 15. Để được như vậy, tôi phải noi gương Thánh Giuse mà tỉnh thức và cầu nguyện thường xuyên. Tôi hiểu tỉnh thức và cầu nguyện là rất cần cho tôi, để tôi có hy vọng và niềm vui khi gặp những khó khăn trắc trở không sao tránh được. 16. Niềm vui và hy vọng, mà Chúa ban cho tôi, như đã ban cho Thánh Giuse xưa, chính là Chúa. Để đón Chúa, tôi phải tỉnh thức, phải cầu nguyện thật nhiều. 17. Có tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới có thể đón được Chúa vào lòng, nhất là Chúa là Đấng đã nói rõ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Ta” (Mt 15, 24). Lạy Chúa, xin thương giúp con được noi gương Thánh Giuse mà bảo vệ Chúa và Đức Mẹ tại Việt Nam hôm nay. Long Xuyên, ngày 28.2.2018
1. Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã qua đời tại Rôma. Tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ biết cầu nguyện cho ngài. Khi cầu nguyện cho Đức Tổng, tôi xót xa nghẹn nghào. Tôi nhớ lại những tâm sự giữa hai chúng tôi, ngay trước khi ngài đi Rôma. 2. Giờ đây, ngài vẫn tâm sự với tôi. Ngài khuyên tôi hãy coi cái chết của ngài như một bức tâm thư Chúa gửi cho Hội Thánh Việt Nam nói chung, và cho tôi nói riêng. Ý chung của bức tâm thư đó là: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. 3. Đức cố TGM Phaolô khẩn khoản nhắc cho tôi nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã báo trước: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21, 36). 4. Có nghĩa là những điều sắp xảy đến sẽ tang tóc. Để thoát khỏi, tôi cần cầu nguyện nhiều, và cần lắng nghe ý Chúa, để mà biết chọn lựa những gì nên làm, những gì nên thôi làm. 5. Và có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô sẽ bất ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có luôn tìm gặp Ngài là Đấng cứu độ không, có luôn coi Ngài là nền tảng cho cộng đoàn đức tin của tôi không (x.1Cr 3, 11). 6. Và có nghĩa là: Chúa Giêsu Kitô sẽ bất ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có thực sự đang thuộc về Chúa không (x Gl 2, 20). 7. Và có nghĩa là: Chúa Giêsu Kitô sẽ bất ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có thực sự “Hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa không? (Rm 12, 1). 8. Mấy ngày trước khi Đức Tổng đi Rôma, tôi gọi điện thăm ngài. Tôi nói với ngài một lời thân mật: “Đức Tổng Bùi nên nhớ mình đứng đầu Giáo Tỉnh. Vì thế nên đi thăm anh em, trong đó có tôi là kẻ già yếu sắp chết rồi”. Ngài trả lời: “Chưa chết đâu, chúng ta còn gặp nhau”. Ai ngờ bây giờ tôi còn sống, mà chính ngài đã chết. Tuy sao, chúng tôi vẫn còn gặp nhau một cách thiêng liêng. 9. Bằng cách thiêng liêng, mà rất thân tình, Đức Cố TGM Phaolô mới nhắn nhủ tôi là: Tình hình đang chuyển biến mau lẹ, như cái chết mau lẹ của ngài. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện thực nhiều, kẻo sẽ quá muộn. Tôi hiểu phần nào điều ngài nhắn nhủ. Tôi băn khoan và cầu nguyện thêm, thì tôi được hiểu thêm nhờ đoạn thơ sau đây của Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Êphêsô: 10. “Bẩm sinh chúng ta là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. Nhưng Thiên Chúa giầu lòng thương xót và rất mực yêu thương chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ẩn sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2, 4-5). Kẻo sẽ quá muộn, tôi lập tức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nhờ ân sủng của Ngài, tôi yêu thương mọi người khác, như Chúa đã thương tôi. (x.Ga 13, 34). Từ đó, Đức cố TGM Phaolô nhắn nhủ tôi là. Dù tình hình sẽ chuyển biến xấu đi và mau lẹ, trở thành nguy hiểm, thì tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện luôn phải vững vàng bám chặt vào Chúa Giêsu Kitô, vâng lời Ngài, mà sống yêu thương như Ngài đã yêu thương. 11. Đức Cố TGM Phaolô đã sống và đã chết trong ân sủng và lòng thương xót Chúa. Ngài không tự hào vì những gì khác. Đó chính là chứng nhân của tỉnh thức và cầu nguyện. 12. Tôi có cảm tưởng là sẽ có một lúc, tình hình trở nên tang tóc, đến nỗi tôi cũng sẽ thốt lên như Chúa Giêsu xưa: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ rơi con” (Mc 15, 34). Nhưng chính lúc đó, tôi rất cần có một đức tin khiêm nhường phó thác, để nói như Chúa Giêsu: “Cha ơi, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Nghĩa là tôi chỉ trông cậy vào ân sủng và lòng thương xót Chúa mà thôi. 13. Tâm thư mà Chúa gửi cho tôi qua cái chết của Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc là như thế. Ít là lúc này, tôi đọc qua, thì thấy vậy. Có thể khi đọc kỹ, sẽ thấy thêm. 14. Những năm tháng gần đây, tôi hay gọi điện thoại cho Đức Cố TGM. Khi trả lời, bao giờ Đức Cố TGM cũng bắt đầu bằng câu: “Thưa Đức cha, con đây”. Giờ đây, tôi cũng đang gọi ngài. Ngài cũng đang trả lời, nhưng bằng cách khác. Rồi đây tôi còn sẽ gọi ngài. Mong ngài cũng sẽ trả lời, bằng cách nào mà Chúa cho phép. Tôi coi tất cả đều là do ân sủng và lòng thương xót Chúa. 15. Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã chết như một người yếu đuối, tại nhà thờ Thánh Phaolô. Tự nhiên, tôi nhớ lại lời Thánh Phaolô xưa: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối…Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh (2Cr 12, 9- 10). Long Xuyên, ngày 7.3.2018
1. Cái chết của Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc là một tiếng Chúa gọi tôi. Chúa Giêsu gọi tôi và nói: “Con cũng sẽ ra đi. Chắc chắn như vậy. Giờ phút ấy là rất quan trọng. Điều gì sẽ an ủi con lúc đó?”. Tôi bối rối, nên xin Chúa thương dạy tôi. Chúa bảo tôi hãy đọc kỹ những lời Chúa đã dặn dò các môn đệ của Ngài trong bữa tiệc ly. Tôi mở Phúc Âm Thánh Gioan, và gặp ngay đoạn 14, Chúa nói: 2. “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1- 4). 3. Đọc xong, tôi tự nhiên cảm thấy mình được an ủi lạ lùng. Tôi tin, lúc tôi chết chính là lúc Chúa Giêsu đến gọi tôi về với Ngài. Chúa ở đâu, tôi sẽ ở đó. Nghĩa là tôi sẽ được ở bên Chúa. 4. Chúa Giêsu đã hứa điều đó cho các môn đệ Chúa. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra cho tôi, đó là tôi có phải là môn đệ Chúa đích thực không?. Sẽ có một dấu chỉ, để nhận ra ai là môn đệ Chúa Giêsu, thì dấu đó đã được chính Chúa Giêsu nói rõ. Chúa phán: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13, 34-35). 5. Xác định rõ điều đó, tôi thấy là: Điều sẽ an ủi tôi, khi sắp chết, là được về ở bên Chúa. Nhưng điều sẽ làm tôi lo lắng, khi sắp chết, đó là tôi có thực là môn đệ đích thực của Chúa, ở điểm yêu thương như Chúa dạy không. 6. Chính ở điểm yêu thương, tôi thường nhìn những người thân ra đi. Nếu họ có một nếp sống yêu thương như Chúa dạy, thì tôi hy vọng rất nhiều họ sẽ được ở bên Chúa. Đồng thời, họ cũng an ủi những người còn ở lại, bởi vì họ đã yêu thương, và còn sẽ tiếp tục yêu thương. 7. Tới đây, tôi thấy nên nói lên điều này: Yêu thương là việc không dễ. 8. Theo kinh nghiệm của tôi, yêu thương là một kho tàng phong phú. Nhưng theo cách nói của Thánh Phaolô, thì kho tàng đó lại chứa trong những bình bằng sành dễ vỡ “Để chứng tỏ quyền năng phi thường phải phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chính tôi” (2Cr 4, 5). Thực vậy, chúng tôi dù là giám mục, hay chức sắc nào trong đạo, cũng là những chiếc bình sành dễ vỡ. Nên không tránh được những lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực yêu thương. Chúng tôi rất cần được Chúa thương tha thứ, chúng tôi rất cần được mọi người thứ tha. 9. Tôi sẽ chết. Tức là tôi được về với Chúa Giêsu. Chúa ở đâu, tôi sẽ được ở đó. Vì Chúa đã dọn cho tôi một chỗ ở bên Ngài. Tôi sẽ chết. Tôi cũng sẽ được cùng với Chúa, dọn chỗ cho những người tôi thương mến. Để họ cùng với tôi, sẽ được ở bên Chúa. Ai rồi cũng sẽ có chỗ ở bên Chúa, miễn là khi còn sống, họ là môn đệ Chúa ở điểm họ yêu thương người khác một cách nào đó, như Chúa đã yêu thương. 10. Niềm tin trên đây của tôi dựa trên lời Chúa. Tôi đón nhận cái chết với lòng thanh thản, bởi vì tôi cậy trông vào ân sủng và lòng thương xót Chúa. 11. Như vậy, chính cái chết của những người môn đệ Chúa đều là những lá thư gửi cho những người thân còn ở lại. Lá thư mang nội dung vắn tắt là: Hãy yêu thương, như Chúa yêu thương. 12. Riêng tôi, suốt đời chỉ lo điều quan trọng đó. Và cho tôi giây phút này, tôi phải thú thực là: Ngày nào tôi cũng như phải bắt đầu lại. Yêu thương là đón nhận, là cho đi. Không phải chỉ là những ngọt ngào, mà cũng là những đắng cay. Chẳng yêu thương nào mà không có đau khổ. Tôi muốn nói về những yêu thương đích thực, chính đáng. 13. Việc các giám mục Việt Nam mới rồi đi Rôma thăm Đức Giáo Hoàng và viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là một biến cố trọng đại. Từ đó đã phát đi nhiều hình ảnh đẹp, nhiều phát biểu hay. Nhưng một sự kiện đã gây nhiều xúc động nhất tại Việt Nam, chính là cái chết của Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại nhà thờ Thánh Phaolô, bên Ý. Phải nói là cả nước đã xúc động và tiếc thương. Cái chết của ngài đánh động các tâm hồn, một cách mạnh mẽ, hơn bất cứ thông điệp nào, hơn bất cứ nghi lễ nào. Lý dó gây xúc động chính là sự ra đi của một nhân vật nổi về yêu thương. 14. Ngài yêu thương một cách khiêm nhường, một cách chân thành, một cách hồn nhiên. Ngài yêu thương với nhiều bao dung, với nhiều quảng đại, với nhiều gần gũi. Ngài yêu thương mọi người, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt dân thường hay chính quyền, không phân biệt giai cấp giầu nghèo. 15. Ngài lặng lẽ trở về tổng giáo phận của ngài, để như hạt lúa chôn vùi trong lòng đất mẹ Việt Nam. Tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa được chôn vùi xuống đất, nó sẽ mọc lên nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Đám tang của ngài sẽ là một biển yêu thương. Từ đó, chúng ta sẽ nhìn về phía trước. Phía trước cũng phải là yêu thương tỏa sáng. Đức Cố TGM đã ra đi với yêu thương lặng lẽ. Nhưng ngài trở về với yêu thương tràn đầy tha thiết nhắn gửi. Long Xuyên, ngày 10.3.2018
Thánh lễ an táng Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã qua rồi, nhưng dư âm biến cố đó vẫn còn sâu đậm. Tôi xin chia sẻ đôi chút dư âm đó trong tôi. Tôi tham dự Thánh Lễ an táng qua màn ảnh truyền hình. Rất lặng lẽ, tôi cầu nguyện thực nhiều. 2. Một chi tiết đã đánh động tôi cầu nguyện nhiều hơn và với tâm tình riêng tư hơn, đó là lúc ca đoàn hát bài thánh ca: “Chúa là niềm vui của con”. Đức Cố TGM Phaolô đã chọn cho mình câu đó. Ngài đã cảm nhận được Chúa là niềm vui của ngài thế nào, thì tôi không rõ. Còn tôi, tôi cảm nhận được Chúa là niềm vui của tôi một cách rất riêng tư, nhất là khi Chúa đến cứu tôi, lúc tôi ở những vực sâu kêu lên với Chúa. “Từ vực sâu con kêu lên Chúa”, đó là Thánh Vịnh 130, mà vua Đavid xưa đã cầu nguyện thiết tha. Tôi cũng từ những vực sâu của tôi, mà kêu lên Chúa một cách thảm thiết. 3. Vực sâu thứ nhất là sự yếu đuối của tôi trước lương tâm. Sự yếu đuối trước lương tâm đã được Thánh Phaolô Tông Đồ nói lên một cách đau đớn như sau: “Thực vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm…Vậy, thật ra không còn phải chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi…Muốn sự thiện, thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Tôi thực là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7, 15- 25). 4. Những gì mà Thánh Phaolô nói trên đây về sự yếu đuối trước lương tâm ngài, cũng được tôi cảm nhận trong tôi một cách sâu sắc. Đó là một vực sâu, từ đó tôi kêu lên với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đến cứu tôi. Tôi nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Chúa thương xót cứu tôi ở sự Ngài tha thứ cho tôi, chữa lành cho tôi, ban sự sống của Chúa cho tôi. 5. Vực sâu thứ hai là sự yếu đuối của tôi trước xã hội. Yếu đuối đó là sự tôi giảng về Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Về vực sâu này, Thánh Phaolô đã rất rõ. Ngài viết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, thì Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn sức mạnh của loài người” (1Cr 1, 22- 25). 6. Tôi có đôi chút kinh nghiệm của Thánh Phaolô. Tức là, khi tôi không những rao giảng về Đức Kitô bị đóng đinh, mà còn chủ trương bắt chước Người mà sống yêu thương khiêm nhường, hy sinh phục vụ quên mình, tha thứ, thì xã hội cho là dại, là yếu. Cái nhìn đó của xã hội như ném tôi xuống một vực sâu thăm thẳm. Từ vực sâu đó, tôi đã kêu lên với Chúa. Chúa đã đến cứu tôi. Người an ủi tôi. Người cho tôi thấy rõ ơn cứu độ đến từ thánh giá, nơi biểu dương tình yêu thương xót Chúa. Từ đó, Chúa đã cứu tôi khỏi những quan niệm sai lầm về người môn đệ Chúa muốn mạnh theo kiểu thế gian. Bỏ được những quan niệm sai lầm đó là việc không dễ. Tôi phải nhờ ơn Chúa. 7. Vực sâu thứ ba là sự yếu đuối của tôi trước Thiên Chúa. Sự yếu đuối của tôi trước Thiên Chúa được Hội Thánh dạy tôi rất rõ, nhất là trong kinh cáo mình Trước Thánh lễ, tôi vẫn đọc kinh đó “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…” Những lời kinh đó đặt tôi vào một vực thẳm, để từ đó tôi khiêm tốn xin Chúa thứ tha tội lỗi của tôi. 8. Nhưng nhiều khi vực sâu đó đã không có hiệu lực, bởi lẽ tôi chỉ đọc kinh theo thói quen. Từ đó, xuất hiện một vực sâu khác, đó là khoảng cách giữa lời nói và việc làm nơi tôi. Nhận ra vực sâu đó, tôi cảm thấy sợ hãi. Chính từ vực sâu đó, tôi thường kêu lên Chúa. Chúa đã cứu tôi. Chúa cứu tôi ở sự Chúa cho tôi thấy rõ tôi là kẻ tội lỗi rất cần ơn tha thứ. Chính tôi cần đón nhận ơn tha thứ hơn bất cứ ai. 9. Với một thoáng nhìn những gì tôi vừa trình bày trên đây cho thấy: Từ những vực sâu tội lỗi, yếu đuối, tôi đã được Chúa cứu. Từ đó, tôi nhận ra Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Niềm vui được Chúa cứu là vô biên, huyền diệu. Niềm vui ấy xóa tội tôi trong quá khứ. Niềm vui ấy hướng lòng tôi về tương lai phía trước. Tôi sẽ được Chúa đưa tôi về Trời ở bên Chúa mãi mãi trong tình yêu thương xót. 10. Trên đường về Trời, tôi sẽ còn gặp nhiều vực sâu. Tôi sẽ vẫn còn là kẻ tội lỗi. Tôi sẽ vẫn mãi cầu xin Chúa đến cứu tôi. Tôi sẽ vẫn cần đến ơn cứu độ từng phút từng giây. Trên đường về Trời, tôi không cô đơn. Chúa cứu tôi, qua nhiều người tốt. Đức Cố TGM Phaolô sẽ mãi là người bạn thân thiết của tôi. Tôi vẫn gọi Ngài là người an kẻ ủi âu lo. Chúng tôi được Chúa cứu, sẽ cùng nhau cộng tác với Chúa trong việc cứu Hội Thánh và Quê Hương. Long Xuyên, ngày 18.3.2018
1. Tuần thánh là thời gian sôi động bởi nhiều sinh hoạt đạo đức. Có những sinh hoạt do luật phụng vụ của toàn Giáo Hội. Có những sinh hoạt do thói quen truyền thống của từng cộng đoàn, của mỗi địa phương. Chúng ta tham dự những sinh hoạt đó với lòng sốt sắng. 2. Thiết tưởng một cách tham dự tốt nhất, để Tuần thánh mang lại cho ta lợi ích thiêng liêng tối đa, đó là mỗi người chúng ta hãy coi Tuần thánh là của chung Hội Thánh, nhưng cũng là của riêng mình ta. 3. Thế nào là tuần thánh này trở thành Tuần thánh riêng tôi? Thưa là trong Tuần thánh này, tôi tìm đến Chúa Cứu Thế và đón nhận Ngài với tình trạng hiện nay của riêng tôi. Xin coi đây là một ví dụ. Tình trạng hiện nay của tôi là bất ổn bởi nhiều thiếu thốn sự sống. Sự sống thể xác thường xuyên bị bầm dập bởi nhiều thứ bệnh. Sự sống tâm linh nhiều khi như cảnh sấm chớp, mây mù và hạn hán. Sự sống của những liên đới giữa con người với con người đôi khi bị giằng co giữa tin tưởng và nghi ngờ. Sự sống với Quê hương là nỗi thao thức trước khủng hoảng về niềm tin. Sự sống với nhân loại là nỗi đau xót sâu đậm trước bao cảnh chết chóc vô tội và tàn phá tang thương do chiến tranh bạo tàn ngạo mạn. Sự sống với Chúa có lúc thân mật như cảm tưởng thấy Ngài ở bên, nhưng có lúc nguội lạnh như bị Ngài ruồng bỏ, mặc mình cô đơn vật lộn với bao thử thách nặng nề. Thân phận như trên là của riêng tôi. Tôi mang thân phận riêng tư đó đi vào Tuần thánh. Tôi có gì, tôi là gì, tôi thế nào, thì tôi đến với Chúa Giêsu như vậy. 4. Đối với những người mang thân phận riêng tư như thế, Chúa Giêsu có những cách cứu độ thích hợp. Thí dụ, riêng với tôi, Ngài luôn nhắc nhở lời Ngài nói xưa: “Phần Thầy, Thầy đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Với một số người đang rất thiếu sự sống như tôi, lời Chúa phán trên đây là một an ủi rất lơn. Tôi càng được thêm an ủi, khi nhớ lại những lời Chúa Giêsu nói về sự sống do Ngài ban tặng. Thí dụ những lời sau đây: “Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14, 6). “Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại, ai tin vào Thầy, dù có chết, cũng sẽ được sống lại” (Ga 11, 25). “Chúa Cha ban cho kẻ chết trỗi dậy và ban cho họ sự sống thế nào, thì Người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý” (Ga 5, 21). Những lời trên đây, khi đọc trong Phúc Âm và nghe đọc trong phụng vụ, tôi có cảm tưởng là Chúa Giêsu nói chung cho mọi người, nhưng cũng chủ ý gởi đến riêng tôi. Đang khi tôi đón nhận những lời của Chúa về sự sống, và suy đi nghĩ lại, thì chính Chúa đến với tôi. 5. Chúa đến một cách thiêng liêng trực tiếp, nhẹ nhàng, âm thầm. Và Chúa cũng đến một cách hữu hình qua những con người và những biến cố. Tất cả mọi hình thức Ngài đến đều mang lại sự sống. Bao biến cố hằng ngày đã đem lại cho tôi sự sống. Cho dù nhỏ bé. Một chiếc lá bay, một bông hoa nhỏ, cũng mang trong nó những tia nắng đến từ rất xa, những thời tiết bốn mùa của vùng đất lạ. Chúng đến để cuộc sống hôm nay của tôi được tươi hơn. Cũng vậy, bao người hằng ngày đã đem lại cho tôi sự sống về nhiều mặt. Từ cơm ăn, nước uống đến bao nghĩa tử tốt đẹp. Với con mắt đức tin, tôi nhận ra Chúa trong mọi sự xảy đến cho tôi. Kể cả những sự xảy ra là thánh giá. Mục đích để thanh luyện, để chữa trị, để thánh hóa. Tôi tin Chúa Giêsu đem lại sự sống đến. Tôi tin sự sống Ngài ban sẽ rất dồi dào. Nhất là tôi tin Chúa Giêsu là sự sống của tôi. Một sự sống từ Chúa Cha, để tôi có thể được trở nên con của Chúa. 6. Điều quan trọng tôi phải thực hiện ưu tiên là tôi phải biết đón nhận Chúa Giêsu. Đón nhận bằng cách mở lòng ra với niềm tin vững mạnh. Tin Ngài là Đấng cứu độ của tôi (17, 3). Tin Ngài là Con Thiên Chúa Cha (Ga 11, 27). Tin Ngài được Chúa Cha sai đến (Ga 11, 42). Tin Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài (Ga 11, 10- 11). 7. Đón nhận Ngài còn là xin theo Ngài. Bởi vì Ngài quả quyết: “Ai đến với Thầy, sẽ không bị đói, ai tin vào Thầy sẽ không phải khát bao giờ” (Ga 6, 35). 8. Đón nhận Ngài cũng còn là quyết tâm đặt số phận đời mình trong Ngài: “Ai tin vào Con sẽ có cuộc sống đời đời” (Ga 3, 36). 9. Đón nhận Ngài cũng là chọn cho mình một số việc dấn thân vì yêu. Thí dụ mỗi ngày dành một ít thời giờ cho việc tham dự thánh lễ, viếng Mình Thánh, suy niệm Phúc Âm, thực hiện bác ái, trau dồi khả năng phục vụ vv… 10. Trong hành trình đón nhận Đức Kitô như thế, tôi sẽ được thấy chính Đức Kitô dẫn tôi về với Chúa Cha. Và dần dần một chân lý tuyệt vời được sáng lên: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8). 11. Tôi sẽ đến với Thiên Chúa tình yêu bằng cuộc sống phục vụ yêu thương mọi người, như Chúa truyền dạy, trong sứ vụ Chúa trao. Phục vụ yêu thương một cách khiêm nhường. Phục vụ yêu thương bằng các việc cụ thể. Phục vụ yêu thương bằng cách liên đới mật thiết với tình yêu thương phục vụ của Chúa Cứu Thế, Đấng đã cam lòng chịu chết trên thánh giá, để cứu chuộc chúng ta. 12. Như vậy, Tuần thánh của tôi sẽ là một cuộc gặp gỡ chính Chúa Giêsu cứu độ. Cùng với Ngài, tôi sẽ đi vào vườn Cây Dầu của tôi, ở đó tôi xin sẵn sàng được chia sẻ nỗi cô đơn rợn rùng của Ngài xưa, nhưng sau cùng tôi vẫn chọn theo ý Chúa Cha. Cùng với Ngài, tôi sẽ chết đi với những cái chết nhỏ, đó là thực hiện những việc hy sinh, chịu khó hằng ngày. Cùng với Ngài, tôi sẽ vác thập giá trên cuộc đời tôi, với những khổ cực nhọc nhằn lớn nhỏ. Cùng với Ngài, tôi sẽ cầu xin ơn tha thứ cho tất cả mọi người, nhất là những người làm hại tôi. Cùng với Ngài, tôi sẽ dâng mình làm hy lễ tình yêu, hy lễ đền tội, hy lễ tỏ bày tinh thần vâng phục ý Chúa Cha cho đến cùng. Cùng với Ngài, tôi sẽ phó thác mình tôi và đời tôi, sự sống và sự chết của tôi trong tay Chúa Cha nhân từ. Dù trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn tin lời Chúa: “Phần Thầy, Thầy đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đối với tôi, sự sống dồi dào Ngài ban chính là tình yêu giàu lòng thương xót, vô bến vô bờ, quá mọi tính toán, suy nghĩ và tưởng tượng của con người tốt nhất trên trần gian này. Long Xuyên, ngày 25.3.2018
1. Chúa Giêsu, sau khi sống lại, đã hiện đến với các môn đệ của Người. Ngay lần đầu hiện ra, Chúa Giêsu đã đứng giữa họ mà nói: “Bình an cho anh em”. Một lát sau, Chúa lại nhắc lại: “Bình an cho anh em” (x. Ga 20, 19- 22). 2. Chúa Phục sinh cũng đã đến với tôi nhiều lần nhiều cách. Lần nào Người cũng nói: “Bình an cho con”. Tôi cảm nhận lời “bình an”, mà Chúa Phục sinh nói với tôi, không chỉ là một lời chào, một lời chúc, mà chính là một ơn Chúa ban cho tôi. Ơn bình an đó đến từ trái tim Chúa. Ơn bình an đó được tôi cảm nhận một cách mạnh mẽ như một sức thiêng cứu độ. Chúa cứu tôi trong ba lãnh vực sau đây một cách rõ rệt. 3. Lãnh vực thứ nhất, mà Chúa Phục sinh đem ơn bình an đến cứu tôi, là lãnh vực sức khỏe thân xác. Tôi mang trong mình nhiều giới hạn thuộc lãnh vực sức khỏe thân xác. Có những giới hạn được Chúa Phục sinh cứu cho khỏi cách này cách nọ. Có những giới hạn được Chúa Phục sinh cứu, không phải làm cho khỏi, nhưng bằng cách cho tôi chịu đựng với tinh thần đức tin và phó thác. 4. Mang những giới hạn trong lãnh vực sức khỏe thân xác, mà được ơn Chúa đỡ nâng, sẽ giúp tôi biết thông phần vào mầu nhiệm thánh giá với những đớn đau có sức cứu độ. Ơn đó cũng giúp tôi biết thông cảm với những người yếu đau đủ loại nhan nhản xung quanh tôi. Nếu khỏe mạnh để rồi vô cảm với những ai đau yếu, sẽ là một bất hạnh vô phúc cho tôi. 5. Lãnh vực thứ hai, mà Chúa Phục sinh đem ơn bình an đến cứu tôi, là lãnh vực sức khỏe tâm linh. Khi đề cập đến sức khỏe tâm linh, tôi thường nghĩ tới những chứng bệnh về tâm thần, như chứng hay sợ hãi, chứng hay phô trương, chứng hay kết án kẻ khác, chứng hay suy nghĩ lộn xộn, không có mạch lạc. 6. Chúa Phục sinh cứu tôi bằng cách cho tôi nhận ra tôi có vấn đề trong lãnh vực sức khỏe tâm thần. Nhận ra được mình có vấn đề là đã bắt đầu được cứu. Tiếp đó là thấy mình cần được chữa bằng đào tạo. Phải nhờ đến những phương pháp chuyên môn và những người thông hiểu, nhất là phải nhờ ơn Chúa. Rất may là tôi được phần nào như thế. Đó là việc Chúa Phục sinh cứu tôi. 7. Lãnh vực thứ ba, mà Chúa Phục sinh đem ơn bình an đến cứu tôi, là lãnh vực sự sống siêu nhiên. Sự ác phá hoại sự sống siêu nhiên nơi tôi thường là tội lỗi, quĩ dữ Satan, và những sai lầm. 8. Tội lỗi và quỉ Satan là những sự ác rất mạnh, tôi không tự mình cứu tôi khỏi chúng được. Tôi nhờ ơn Chúa. Còn những sai lầm, thì tôi thường không để ý lắm. Đang khi chúng lại là những sự ác gây hại lớn cho tôi. Sai lầm về lựa chọn trong nhiệm vụ tu đức. Sai lầm về đường lối trong nhiệm vụ truyền giáo. Sai lầm về chủ trương trong nhiệm vụ hòa giải. Có những sai lầm thuộc về cá nhân, có những sai lầm thuộc về tập thể, có những sai lầm thuộc về cơ chế. Khi sai lầm thuộc về cơ chế, nghĩa là được hợp thức hoá theo luật, thì tai họa sẽ rất lớn. Khi sai lầm thuộc về tập thể, nghĩa là được cộng đoàn cho là hợp tục lệ và sở thích của quần chúng, thì tai hại cũng sẽ không nhỏ. Mọi thứ sai lầm đều có trong tôi. Nói mình không thể sai lầm là sai lầm lớn nhất. Chúa Phục sinh đến cứu tôi, Người giúp tôi coi tỉnh thức và cầu nguyện là cách tốt nhất để cộng tác với Chúa trong việc tránh khỏi những sai lầm tai hại. 9. Được Chúa Phục sinh cứu như vậy, tôi cảm thấy bình an, trong bình an ấy có niềm vui và hy vọng tràn trề. Tôi cảm thấy trong tôi có một sự biến đổi lớn lao. Tôi được Chúa cứu. Tôi sẽ cùng với Chúa mà cứu người khác theo lòng nhân lành xót thương cứu Chúa. 10. Tình hình hiện nay đang chuyển biến mau lẹ, có những bất ngờ nguy hiểm. Chúa Phục sinh đến thăm tôi, Người cho tôi thấy sự bình an là điều đang trở thành khẩn thiết nhất cho thế giới, cho Hội Thánh, cho Quê hương, cho gia đình, và cho bản thân mỗi người chúng ta. Chính mỗi người chúng ta hãy là con người bình an, và đem lại sự bình an cho những người khác. 11. Tình hình hiện nay đang tăng thêm xung đột. Cần phải hòa giải bằng tinh thần bình an của Chúa Phục sinh. 12. Tình hình hiện nay đang phát triển mạnh về xu hướng loại trừ nhau. Cần phải đốt lên ngọn lửa liên kết, bao dung và yêu thương, phục vụ nhau theo gương Chúa Giêsu. 13. Tình hình hiện nay đang phát triển mạnh về ham muốn tìm hạnh phúc đời này, không màng gì đến hạnh phúc đời sau. Cần phải mạnh dạn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã phục sinh để đưa con người vào cõi sau có thưởng có phạt đời đời. Cõi sau bắt đầu từ cõi đời này. Chúng ta cần tránh những sai lầm tai hại ở đời này. 14. Tình hình hiện nay đang có xu hướng đề cao ý riêng và cái lợi riêng. Cần phải để phòng xu hướng đó, bằng cách nhìn vào Chúa Phục sinh. Người đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, hy sinh mạng sống mình để cứu nhân loại. Nên đã được sống lại vinh quang. Bình an là một hành trình dài đòi nhiều khôn ngoan trên những con đường đời đầy trắc trở. Lạy Chúa Giêsu. Con xin cảm tạ Chúa đã ban ơn bình an cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con biết khiêm nhường đón nhận và cộng tác vào ơn bình an của Chúa. Long Xuyên, ngày 31.3.2018
1. Mỗi năm, gần đến 30 tháng 4, tôi thường hồi tâm. Hồi tâm này có đặc điểm riêng. Bởi vì 30 tháng 4 năm 1975 là ngày lịch sử Đất Nước sang trang. Cũng chính ngày đó, tôi được thụ phong Giám mục, nhận trọng trách làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên. 2. Năm nay, tôi cũng hồi tâm. Cái chết đột ngột của Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc khiến tôi nghĩ biết đâu hồi tâm của tôi lần này sẽ là lần cuối. Dù sao, hồi tâm lần này, tôi cũng xin chia sẻ trước mọi người thân yêu đôi chút tâm tình thân mật của tôi. 3. Tâm tình thứ nhất là tôi coi trách vụ đứng đầu giáo phận là một chén đắng làm tôi rất sợ. Hồi đó, tôi biết Đức Cha Micae sẽ trao hết cho tôi. Thế mà tôi thì quá yếu về mọi phương diện. Tôi sợ lắm. 4. Ở chức vụ đó, tôi phải hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu, nhất là trong cuộc thương khó của Người và trong giới luật yêu thương, mà Người đã trối lại. Trọng trách thì quá lớn, còn tôi thì quá yếu đuối hèn mọn, tội lỗi. Tôi quá sợ. 5. Ở chức vụ đó, tôi phải hiệp nhất trọn vẹn với Đức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng muốn tôi làm gì, trong một giai đoạn Đất Nước tôi rất cần hòa giải một cách khôn ngoan? Trọng trách thì quá lớn, còn tôi thì quá nhỏ bé, xa xôi, vụng về. Tôi rất sợ. 6. Ở chức vụ đó, tôi phải sống liên đới chân thành với Quê Hương, với đồng bào. Tôi sẽ làm gì, khi thấy nhiều đồng bào rơi vào sợ hãi, thất vọng, đau khổ. Tôi sẽ làm gì, khi thấy Đất Nước gặp bao khó khăn trên đường dựng Nước và giữ Nước. 7. Tôi bùi ngùi thao thức. Thao thức nhiều càng thêm lo sợ. Lo sợ làm tôi coi chức vụ được trao là chén đắng. Xưa Chúa Giêsu đã có lần nói với Đức Chúa Cha: “Nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng đừng theo ý con, xin chỉ theo ý Cha mà thôi” (Mt 26, 39). Tôi cũng đã nhiều lần nói với Chúa như vậy. 8. Từ khi được về hưu, tôi được nhẹ vơi nhiều gánh nặng. Nhưng trách nhiệm yêu thương, trách nhiệm làm chứng cho Chúa vẫn còn đó, đôi khi còn nặng hơn trước. Tuy nặng, mà ngọt ngào, và cũng không khỏi sợ: Tôi có làm đủ, làm đúng không? Càng sợ, tôi càng kêu cầu Chúa. 9. Tâm tình thứ hai là tôi đã được đỡ nâng rất nhiều, nên được sức mạnh để sống ơn gọi. Chúa nhân từ đã đỡ nâng tôi bằng nhiều cách. Lúc thì Chúa trực tiếp an ủi tôi trong tâm hồn. Lúc thì Chúa gián tiếp an ủi tôi qua những con người có tấm lòng, có trái tim. Đặc biệt Chúa đỡ nâng tôi qua cộng đoàn giáo phận. Tôi coi mỗi người nâng đỡ tôi như một lá thư Chúa gửi cho tôi. Trong từng lá thư đó, tôi đọc được tình thương, sự bao dung, sự tha thứ, sự bén nhạy, sự tế nhị, sự khiêm nhường. 10. Cách riêng, tôi được đỡ nâng nơi Đức Mẹ Maria. Mẹ đỡ nâng tôi bằng cách dẫn tôi đến với Chúa Giêsu đang gần gũi những người khổ đau, tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Gặp Chúa Giêsu nơi họ, tôi được Mẹ mở lòng tôi ra, để tôi thấy “Chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh”. 11. Được đỡ nâng, đó là bài học dạy tôi hãy nâng đỡ những người khác. Có lửa yêu thương thực sự trong lòng, thì dù chỉ với một lời nói đơn sơ, một việc làm nhỏ, cũng có sức gửi đến người đau khổ một đỡ nâng cần thiết có sức cứu họ. 12. Ở đây, tôi xin gửi lời cảm ơn nồng nhiệt tới mọi người đã đỡ nâng tôi hoặc cách này hoặc cách khác. Họ thuộc mọi tầng lớp, trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Họ ở gần và họ ở xa. Xin cảm tạ Chúa đã gửi đến tôi những người tốt đó. 13. Tâm tình thứ ba là cậy tin ở lòng thương xót Chúa. Suốt 43 năm qua, đối với tôi, chức giám mục luôn là một tiếng Chúa gọi “Hãy cậy tin vào tình yêu thương xót Chúa” Gánh nặng của tôi là chức vụ. Gánh nặng của tôi là sự yếu đuối của chính tôi. Tôi thường sợ hãi. Sợ hãi là điểm yếu của tôi mà quỉ Satan thường tấn công dữ dội. Chúa thương giúp tôi đối phó, bằng cách luôn kéo tôi gắn bó chặt chẽ với tình yêu thương xót Chúa. Tôi cậy tin ở lòng thương xót Chúa một cách tuyệt đối, một cách đơn sơ, một cách bền bỉ, một cách thường xuyên, từng giờ, từng phút, tầng giây. Thành ra chính sự sợ hãi của tôi lại là cơ hội tốt, để tôi ký thác mình cho Chúa. Đúng như lời Thánh Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 12). Tôi được tha thứ, được sửa lại và được ơn trở về với Chúa. Tôi cảm nhận thấm thía Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế rất nhân lành. 14. Hằng ngày, tôi tạ ơn Chúa một cách đặc biệt vì ơn được tin cậy ở tình yêu thương xót Chúa. 15. Đối với tôi, bất cứ ai tin vào tình yêu thương xót Chúa đều được Chúa nhận là đã bắt đầu thuộc về Chúa. Vì thế, giờ đây tôi rất vui, vì nhận thấy tại Việt Nam hôm nay, ngay tại địa phương này, số người tin vào tình yêu thương xót Chúa là rất đông. Với những tâm tình trên đây, chúng ta hãy khiêm nhường tạ ơn Chúa và để mình chìm sâu vào tình yêu thương xót Chúa. Trong tình yêu thương xót Chúa, chúng ta sẽ đi về tương lai. Cho dù tương lai sẽ có những chén đắng mới, nhưng có Chúa, chúng ta vẫn có quyền lạc quan. Long Xuyên, ngày 05.4.2018
1. Khi nhận chức Giám m ục ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đã chọn cho tôi một Lời Chúa làm khẩu hiệu. Tôi nhớ trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Thầy trao ban cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Có thể là tình hình lúc tôi thụ phong Giám mục là rất phức tạp, nên chính Chúa đã soi cho tôi chọn “Giới luật yêu thương” trích từ Lời Chúa trên đây làm khẩu hiệu, để ơn gọi Giám mục của tôi có phương hướng rõ ràng và chắc chắn. 2. Tôi đã sống theo hướng đó. Qua 43 năm, bây giờ, tôi nhìn lại ơn gọi đó, tôi thấy yêu thương là một chuyến đi. Tôi đi từ ngày này sang ngày khác, với niềm khao khát góp được phần nào trong việc xây dựng yêu thương cho những nơi tôi phục vụ. Tôi thấy thế này: 3. Mỗi ngày là một ngày mới. Mỗi ngày của tôi bắt đầu từ thánh lễ bàn thờ. Trong thánh lễ bàn thờ, tôi được Chúa đốt lên trong tôi niềm khao khát Chúa. Tôi khao khát được gặp Chúa. Tôi khao khát tìm thấy Chúa. Tôi khao khát cho mọi người đều được gặp Chúa, để nhờ Chúa mà được cứu độ và được bình an. 4. Sau thánh lễ bàn thờ là thánh lễ cuộc đời. Cuộc sống mỗi ngày của tôi được tôi coi là một thánh lễ cuộc đời. Trong thánh lễ cuộc đời, tôi cũng được Chúa đốt lên trong lòng niềm khao khát Chúa. 5. Cứ thế, ngày nọ sang ngày kia, tôi trở thành con người khao khát Chúa. Từ khao khát Chúa, tôi khao khát những giá trị đạo đức, trong đó có yêu thương như Chúa đã yêu thương. Lòng khao khát đó chính là lời cầu nguyện. Chúa thương đến với tôi qua nhiều ngả, nhất là qua Lời Chúa và qua những con người sống yêu thương. 6. Ngày nào, tôi cũng gặp được Lời Chúa và những người yêu thương. Tôi đón nhận những món quà đó, để đào tạo mình. Đón nhận như thế chính là một việc quan trọng để sống ơn gọi yêu thương. Tôi cảm tạ Chúa cách riêng, vì nhiều người yêu thương không xa tôi. Họ là người yêu thương, trước khi làm việc yêu thương. Tôi tin họ có Chúa trong mình một cách nào đó. Khi khiêm nhường đón nhận những gương sáng của họ, tôi cảm thấy mình được hạnh phúc, vì được trở nên tốt hơn, và vì thấy xã hội cũng được bình an hơn. 7. Từ đón nhận tôi thực thi việc cho đi. Cho đi của tôi là phục vụ. Tôi phục vụ mọi người, nhất là nhằm mục đích giúp cho họ gặp được Chúa là tình yêu cứu độ giầu lòng thương xót. Để đạt được mục đích đó, tôi luôn chia sẻ Lời Chúa và luôn đề cao yêu thương. Yêu thương, nên tôi coi cầu nguyện và hy sinh cho những người mình phục vụ, là điều cần thiết. Yêu thương, nên tôi coi những việc lành nhỏ bé phục vụ, là một chọn lựa thích hợp cho tôi. Yêu thương, nên tôi coi thái độ mà Chúa Giêsu đã nói trong dụ ngôn người Samaria tốt lành (x. Lc 10, 29- 37) là điều rất phải quan tâm. Những người bị trọng thương nằm ở vệ đường như được tả trong dụ ngôn, hiện nay là vô số, dưới nhiều hình thức khác nhau. Ai có trái tim yêu thương, sẽ nhận ra họ, để mà cứu họ, không cách này thì cách khác. 8. Tôi nhớ có lần, ai đó đã nói: Cứu người thì phải cụ thể và quảng đại. Tôi muốn thêm “và cũng phải khôn ngoan”. Nếu không khôn ngoan, thì không chừng việc cứu sẽ không có hiệu quả, thậm chí còn có thể trở thành nguy hại cho người mình muốn cứu. 9. Nói đến khôn ngoan, tôi nghĩ đến khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần hiện nay đang ban ơn khôn ngoan cho nhiều người, nhiều nhóm, để họ biết cách cứu người theo thánh ý Chúa. Chỉ có điều là chúng ta có xin vâng sự chỉ dẫn của Chúa Thánh thần hay không. Rất nhiều lần, khi xét mình, tôi thấy tôi tưởng mình xin vâng Chúa Thánh Thần, nhưng đó là tưởng làm. Tôi phải sửa lại. Cũng Chúa Thánh Thần giúp tôi sửa lại. 10. Với sự biết mình có nhiều điều cần sửa lại, tôi càng ngày càng nhận ra điều này: “Yêu thương là một chuyến đi. Chuyến đi của yêu thương là rất dài, rất phức tạp. Học mãi vẫn chưa đủ, nhận lãnh mãi vẫn chưa đủ, cho đi mãi vẫn chưa đủ. 11. Nhưng được chút nào vẫn là hạnh phúc. Tôi cần cảm tạ Chúa vì hạnh phúc đó. Còn phần chưa đủ, thì tôi cậy trông ở Chúa. Như vậy, tôi được bình an, để bước thêm mãi, cho dù chuyến đi sẽ còn dài. 12. Tôi thấy yêu thương là một chuyến đi dài, nhiều nhọc nhằn, có nhiều bất ngờ, với những hậu quả khó lường. Vì thế, tôi luôn nép mình dưới bóng Mẹ Maria. Xin Mẹ dắt dìu tôi như đứa con bé nhỏ của Mẹ. 13. Có Mẹ ở bên, tôi thấy trong suốt chuyến đi này, tôi rất cần tỉnh thức và cầu nguyện, để nghe được Chúa Thánh Thần soi đường chỉ lối. 14. Ngay chính lúc này, khi tình hình đang tăng thêm nhiều bất ổn ngấm ngầm, tôi càng được Mẹ khuyên hãy tỉnh thức và cầu nguyện nhiều hơn, bởi vì yêu thương sẽ gặp rất nhiều trắc trở, do ngoại cảnh và do nội bộ. Nếu chẳng may trắc trở lại do chủ quan của người môn đệ Chúa gây nên, thì sẽ rất nguy hiểm. Nỗi sợ của tôi là chính đáng. Biết sợ chính là một ơn Chúa ban. 15. Trong một tình hình, mà rất nhiều người không còn sợ Chúa, thì nỗi sợ của tôi được coi là hữu ích cho chuyến đi yêu thương. Tôi sợ, nên tôi bám vào Chúa, tôi tìm đến Chúa, tôi xin Chúa cứu. Và khi chắc chắn mình được Chúa thương, thì tôi chắc chắn đó là hạnh phúc và hy vọng cho tôi. Hạnh phúc và hy vọng đó theo tôi suốt hành trình yêu thương. Đi về cõi sau, sẽ ở bên Chúa đời đời vô cùng vô tận. Long Xuyên, ngày 13.4.2018
1. Mấy ngày nay, tôi hay nghĩ tới muôn vàn ơn Chúa đã ban cho tôi suốt 43 năm đời giám mục của tôi. Tôi nghĩ tới, để mà tạ ơn. 2. Cùng với việc tạ ơn là việc tạ tội. Tôi nghĩ tới muôn vàn tội lỗi đời tôi. Tôi tạ tội với Chúa. Tôi xin Chúa giầu lòng thương xót tha tội và xóa tội cho tôi. 3. Tính tôi vốn hay sợ. Thêm vào đó là chước cám dỗ của Satan. Nó bày ra đủ thứ lý do để đưa tôi vào thất vọng. Có nhiều lần, tôi đã kêu lên thảm thiết: “Lạy Chúa, sao Chúa nỡ bỏ rơi con”. 4. Chính những lúc đó, Chúa âu yếm nói với tôi: “Con ơi, Cha đang rửa chân cho con. Con đừng sợ. Hãy tin ở Cha”. 5. Chúa cho tôi nhìn lại việc rửa chân xưa, mà Chúa đã thực hiện cho các môn đệ của Chúa trong bữa tiệc ly. “Trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Chúa Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ, rồi lấy thắt lưng mà lau” (Ga 13, 4- 5). Chúa nói với tôi: “Cha cũng đang thực hiện việc rửa chân cho con”. 6. Tôi nhận ra đúng là như vậy. Bằng nhiều cách, Chúa đang rửa chân cho tôi, nhất là bằng cách ban cho tôi ơn an ủi. Với nhiều cách an ủi, Chúa như rửa tâm hồn tôi khỏi sợ hãi. 7. Những cách an ủi làm tôi cảm động nhất chính là những phục vụ khiêm nhường, nặng nhọc, kín đáo của biết bao người và cộng đoàn, mà Chúa gửi đến tôi. Nhìn họ làm những việc đó cho tôi, tôi cảm tưởng là chính Chúa Giêsu đang rửa chân cho tôi. 8. Tự nhiên tôi nghĩ rằng: Trong giáo phận, và trong Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang thực hiện việc rửa chân cho các môn đệ của Người như thế đó. Những ai thay Chúa mà lo rửa chân cho người khác như vậy, chính là những kẻ xây dựng Hội Thánh một cách hữu hiệu. 9. Như vậy, giới luật yêu thương của Chúa phải đi kèm với việc rửa chân cho nhau. Rửa chân cho nhau tất nhiên là không bôi xấu cho nhau, mà cái gì xấu nơi họ, thì mình lo rửa cho họ một cách yêu thương, khiêm nhường. 10. Một câu hỏi được đặt ra cho tôi là: Tôi có cảm tạ Chúa, vì ơn được Chúa rửa chân cho không? Và tôi có rửa chân cho người khác như Chúa đã rửa chân cho tôi không? Xét mình, tôi thấy tôi có nhiều thiếu sót. Tôi cần tạ tội với Chúa. 11. Khi tạ tội với Chúa vì những thiếu sót đó, tôi chạy lại bên Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ dạy tôi hãy đọc lại Lời Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô xưa: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết. Lúc con còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng, khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra, cho người khác thắt lưng cho, và dẫn con đến nơi con chẳng muốn” (Ga 21, 18). 12. Đức Mẹ cho tôi hiểu là tôi hãy tạ tội với Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa như Thánh Phêrô xưa. Tôi xin Mẹ giúp tôi biết xin vâng, theo gương Thánh Phêrô xưa, và như Đức Mẹ xưa. Xin vâng, xin vâng. Tôi tạ ơn với lời xin vâng ý Chúa. Tôi tạ tội với lời xin vâng ý Chúa. Một khi biết đâu là thực ý Chúa, tôi tuyệt đối xin vâng. 13. Theo tôi, ý Chúa quan trọng nhất là tôi hãy nhìn vào Chúa Giêsu mà tin mình được Chúa yêu thương, Chúa yêu thương tôi đến nỗi đã chết cho tôi, đã cho tôi những gì là cao quí nhất, tức mạng sống của mình. Tôi hãy theo gương Chúa mà yêu thương kẻ khác phần nào như vậy. 14. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi đang được Chúa nhẳc nhở một cách khẩn khiết: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Ở lại trong tình yêu Chúa, đó là ý Chúa. Tôi xin vâng. Tình yêu Chúa ở đâu? Thưa ở nhiều nơi, nhất là ở những việc yêu thương chúng ta làm cho kẻ khổ đau. Làm cho họ được Chúa kể như là làm cho Chúa. Chúa cam kết như vậy (x.Mt 25, 40). 15. Vì thế, tôi coi những việc yêu thương, mà tôi có thể làm, như kinh Hòa Bình đã kể, chính là ý Chúa, tôi cần xin vâng. “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng” 16. Do vậy, Xin vâng, mà Đức Mẹ dạy tôi, chính là Xin vâng ý Chúa, trong đó có lãnh vực yêu thương kẻ khác. 17. Hạnh phúc của tôi là Xin vâng ý Chúa, như vừa trình bày. Thiết tưởng hạnh phúc của mỗi người anh chị em cũng sẽ như thế. Chúng ta cầu nguyện cho nhau rất nhiều. Bởi vì Xin vâng đâu phải là chuyện dễ. Rất cần ơn Chúa để mà Xin vâng. Long Xuyên, ngày 22.4.2018
1. Trong thánh lễ kỷ niệm thụ phong Giám mục, tôi thường tập trung tâm hồn vào việc tạ ơn Chúa. Tôi có rất nhiều điều để tạ ơn Chúa. Hôm nay, có một điều tôi nghĩ nên cảm tạ Chúa cách riêng, đó là ơn được gặp Chúa. Gặp Chúa là điều tôi đã cảm nghiệm sâu sắc suốt đời giám mục của tôi, nhất là trong những ngày này. Để tạ ơn Chúa vì ơn trọng đại ấy, hôm nay tôi xin được chia sẻ đôi chút với anh chị em về kinh nghiệm đó của tôi. 2. Tôi gặp được Chúa ở những lúc nào? Thưa: Tôi gặp được Chúa, khi tôi tỉnh thức và cầu nguyện. Thực vậy, tình hình ngày 30/4/1975 và trước sau ngày đó thay đổi từng giờ, các chương trình dự tính trước cho lễ thụ phong Giám mục của tôi đều tan vỡ hết. Đức Cha Cố Micae và tôi chỉ biết: Tỉnh thức và cầu nguyện (Mc 14, 38). 3. Khi tỉnh thức và cầu nguyện, tôi được Chúa cho thấy những người đau khổ là vô số kể, dưới nhiều hình thức khác nhau. Tôi hãy cùng với Chúa, đi về phía những người đau khổ, để chia sẻ và đồng hành với họ. Chính tôi cũng là người đau khổ rất cần được cứu. 4. Khi tôi đau khổ, thì sự mà tôi khao khát nhất, chính là tình yêu thương và sự bình an của Chúa. Do vậy yêu thương và bình an của Chúa là lương thực thiêng liêng tôi coi là cần thiết nhất, cho tôi và cho bao người đau khổ. Chúa dạy tôi phải biết đón nhận và biết cho đi lương thực ấy, trong mọi tình hình biến động của lịch sử. 5. Suốt 43 năm qua, khi đồng hành với những người đau khổ, tôi đã gặp được Chúa qua ngã đón nhận và qua ngã cho đi thứ lương thực bình an và yêu thương của Chúa. Gặp được Chúa như vậy, chính là một ơn Chúa ban, không phải một lúc, nhưng là từng ngày, từng giờ, từng phút. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. 6. Tôi đã được gặp Chúa như thế với những điều kiện nào? Thưa, tôi xin nhấn mạnh đến ba điều kiện. 7. Điều kiện thứ nhất là niềm tin vững vàng ở Chúa. Tôi tin Chúa không là một quyền lực đến để kết án. Nhưng Chúa là một tình yêu đến để giải cứu. Tôi tin Chúa không đến với tôi, vì tôi là thánh. Nhưng Chúa đến với tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Người đến vì xót thương tôi. 8. Điều kiện thứ hai là nhận biết mình tội lỗi, yếu đuối và hèn mọn. Khiêm nhường là điều phải sống động trong mọi bước đi của lãnh vực cho đi, và đón nhận. Nhưng khiêm nhường cũng lại là điểm yếu của chúng ta. Và đó cũng là điểm mà Satan thường tấn công mỗi người. 9. Điều kiện thứ ba là biết phân định. Trong một tình hình cụ thể tôi phải biết phân định Hội Thánh thực và Hội Thánh giả, thánh ý thực và thánh ý giả. Không biết phân định sẽ có những chọn lựa sai. Sửa lại hậu quả của những sai lầm đó là điều không dễ, nhất là sai mà lại không nhận là mình sai. 10. Khi với niềm tin khiêm nhường và phân định, tôi được gặp gỡ Chúa, thì tôi thấy dung mạo Chúa thế nào?. Thưa, một cách thiêng liêng, tôi thấy rất rõ dung mạo Chúa. Tôi thấy Chúa hiền lành và khiêm nhường, đầy xót thương. Tôi thấy và tôi cảm nghiệm được. Từ đó, tôi phó thác mình tôi cho Chúa. Với tâm tình phó thác càng ngày càng sâu, tôi gặp gỡ Chúa càng ngày càng thân mật và đơn giản. Dung mạo Chúa lôi cuốn tôi. Tôi đến bên Chúa với hai bàn tay không mang gì được gọi là công phúc. Chỉ mang theo mảnh đời tội lỗi, hèn mọn, yếu đuối, nhưng mong được Chúa xót thương. Dung mạo Chúa giúp tôi tin Chúa là Đấng cứu thế giầu lòng thương xót. 11. Dung mạo Chúa luôn tỏa ra một tình thương có sức an ủi tôi và nâng đỡ tôi, nhất là trong những trường hợp tôi có cảm tưởng là mọi người như thất vọng về tôi. 12. Dung mạo Chúa luôn kêu gọi tôi hãy từ bỏ tất cả những gì là thế tục, để có thể thuộc về Chúa. Chúa Giêsu đã cầu nguyện “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17, 15- 16). 13. Dung mạo Chúa luôn tỏ ra hết sức đau đớn, vì thấy nhiều người chúng ta để mình thuộc về thế gian một cách quá dễ dàng. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi đang nghe rất rõ Lời Chúa phán xưa: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). 14. Tình hình hiện nay đang bị bao phủ bởi nhiều bóng tối. Nhưng dung mạo Chúa xem ra vẫn được an ủi phần nào. Bởi vì đó đây nhiều môn đệ Chúa vẫn đang làm hết sức mình để thực thi Lời Chúa: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Họ cũng đang làm hết sức mình, để sống giới luật yêu thương như Lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13, 35). Họ chân thành sống yêu thương, và không ngừng xây dựng bình an theo ý Chúa. Họ là những người đang tích cực sống liên đới với những người đau khổ bằng chia sẻ yêu thương và bình an của Chúa. Tôi xác tín người môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay, cần làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống như thế. Và như thế, họ phục vụ đồng bào và góp phần xây dựng hạnh phúc cho Quê hương Việt Nam yêu dấu. 15. Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi được cùng với họ mà hân hoan làm chứng cho Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa xin ban bình an cho chúng con. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên 30-04-2018
1. Càng về cuối đời, tôi càng bị thử thách về đức tin. Thử thách lớn nhất là những khi đi vào những chặng đường đầy trắc trở, muôn vàn đau đớn, thêm vào đó còn có vô số cơn cám dỗ do Satan thực hiện, với mục đích làm cho tôi nghi ngờ về Chúa. 2. Trong nhiều cơn thử thách đó, tôi đã được Chúa đỡ nâng. Một trong những cách Chúa dùng để đỡ nâng tôi, là tôi gặp được nhiều người môn đệ Chúa có đời sống đức tin rất quyến rũ, rất thuyết phục. 3. Tôi được quyến rũ và thuyết phục bởi hai điểm sáng sau đây của họ. Điểm sáng thứ nhất là đời sống thân mật của họ với Chúa. Khi nhìn thấy họ, nhất là tiếp xúc với họ, tôi cảm thấy từ họ tỏa ra một thứ lửa thiêng chứng tỏ họ có tình mến Chúa rất thiết tha, rất gắn bó. Tôi cảm thấy họ như cành nho gắn chặt vào Chúa là thân cây nho. Như Lời Chúa phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5). Tôi càng cảm thấy rõ họ đang ở lại trong tình yêu Chúa một cách sống động, như Lời Chúa dạy: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). 4. Sự sống thân mật của họ với Chúa được thể hiện bằng nhiều cách. Một trong những cách của họ đã làm tôi phải suy nghĩ nhiều, đó là tinh thần cầu nguyện của họ. Đối với họ, cầu nguyện ví như hơi thở. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa. Có thể là họ đã có lần được trải qua một cuộc gặp gỡ ngọt ngào không thể nào quên, như những môn đệ Chúa đã được trải qua trên núi Tabo xưa. Họ cầu nguyện một mình hay với nhiều người, thì vẫn là rất thân mật với Chúa, đó là điều khiến tôi coi họ là những gương sáng cho tôi. Tôi nhìn họ không chỉ là những gương sáng cho tôi, mà còn là những sức sống thiêng liêng mang nhiều ủi an, sức mạnh đến cứu giúp tôi. Đời sống thân mật của họ với Chúa là điểm sáng thứ nhất. 5. Điểm sáng thứ hai của họ là sự họ đem lại cho tôi và cho nhiều người tình yêu và sự bình an của Chúa. Tôi nhớ ở đâu có kể về cha Eckart trong những huấn đức của cha dành cho các đệ tử của cha, đại khái thế này: “Nếu con đang được ơn ngất trí như Thánh Phaolô xưa lên 9 tầng trời, mà con nghe có người bệnh muốn được ăn một bát cháo, thì cha khuyên con hãy mau mắn phục vụ người bệnh đó. Hãy coi việc phục vụ đó là phục vụ chính Chúa”. 6. Hôm nay, tôi phải nói là tôi rất vui mừng, vì chính tôi đã được thấy nhiều người môn đệ Chúa xung quanh tôi đã thực hiện điều cha Eckart khuyên dạy. Họ đã đến với tôi và đến với nhiều người khổ đau, để phục vụ. Bằng nhiều cách cụ thể, họ cho tôi cảm thấy là tôi được Chúa yêu thương, nhiều người đau khổ cũng đang được Chúa yêu thương. 7. Khi họ đến với tôi và đến với những người đau khổ để phục vụ một cách cụ thể, thì họ có Chúa ở cùng họ, dù họ ở đâu như ở bếp, và dù họ làm gì, như những việc thuộc vệ sinh cá nhân để cấp cứu. Họ phục vụ trong yêu thương. 8. Được gặp những người như thế, tôi vui mừng cảm thấy mình được đỡ nâng do gương sáng của họ, và nhất là do sức sống yêu thương tỏa ra từ họ. 9. Trên đây là hai điểm sáng của nhiều người đang giúp tôi sống đức tin. Nhìn họ, tôi thấy mình phải có ơn khôn ngoan của Chúa Thánh thần, để phối hợp cuộc sống thân mật với Chúa một cách ngọt ngào, với cuộc sống phục vụ người khác một cách dấn thân đầy vất vả nhọc nhằn. 10. Xét mình trước mặt Chúa, tôi thấy tôi vẫn chưa đủ điểm sáng nào nói trên, chứ chưa nói đến sự phối hợp hai điểm đó một cách khôn ngoan như Chúa muốn. 11. Nhận thức mình còn nhiều thiếu sót, tôi thấy bổn phận của tôi là phải tiếp tục luôn mãi việc đi theo tiếng gọi của Chúa, mà sống thân mật với Chúa và dấn thân phục vụ mọi người, nhất là những kẻ khổ đau. Khổ đau của rất nhiều người tại Việt Nam hôm nay là thiếu bình an. Nếu chúng ta biết đau cái đau của họ, chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được cơn đau khủng khiếp, để không còn dám vô tâm, vô cảm, nhởn nhơ tự hào. 12. Tôi cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất theo thánh ý Chúa”. 13. Đọc lời nguyện đó của phụng vụ thánh lễ, tôi hiểu bình an của Chúa là một ơn Chúa ban. Tôi phải xin và phải biết đón nhận, để cùng với đức tin của Hội Thánh, mà loan báo Tin Mừng bình an hiệp nhất. 14. Xác tín điều đó, tôi thấy tôi và chúng ta, cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa, cần phải sống thân mật nhiều hơn nữa với Chúa Giêsu. Chính Chúa mới là nguồn bình an và hiệp nhất. Khi cầu nguyện chúng ta cần khiêm tốn và kiên trì, sẵn sàng xin vâng ý Chúa. 15. Tôi xác tín điều này: Tin Mừng, mà đồng bào Việt Nam hôm nay đang chờ mong nhất nơi Hội Thánh chúng ta, là hãy đem lại cho mọi người sự bình an và đoàn kết tức là tình yêu thương. Tin Mừng hôm nay là thế đó. Thế thì, chúng ta phải coi sự sống thân mật với Chúa Giêsu là bổn phận hàng đầu và hằng ngày, để nhờ Chúa Giêsu, mà lãnh nhận và cho đi sự bình an và yêu thương của Chúa. 16. Bình an và yêu thương của Chúa đang được thấy lấp lánh nơi những người có hai điểm sáng mà tôi nói trên đây. Họ là đức tin của Hội Thánh. Họ thuộc mọi thành phần Hội Thánh. Họ rất gần tôi. Cho dù tình hình có lúc rất tăm tối, họ vẫn sẽ là chút ánh sáng của Chúa để kêu gọi, để đánh thức, để ủi an chúng ta. Họ đang đem lại cho chúng ta sự sống và sự sống dồi dào. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 5.5.2018
Đức Mẹ trong đời tôi là một lịch sử dài, khởi đi từ lúc tôi mới là bào thai trong lòng mẹ. 2. Đức Mẹ ở bên tôi là một tình thương âu yếm, rõ nhất là trong cuộc sống ơn gọi giám mục của tôi. Còn tôi, tôi sống với Mẹ như con thơ bé nhỏ. Mãi mãi là thế thôi. 3. Nhưng nếu nói đến việc tôi dâng hoa kính Đức Mẹ, thì tôi xin quả quyết là tôi có thực hiện, bằng cách của tôi: Để diễn tả cách đó, tôi xin được kể lại một việc đã xảy ra từ lâu rồi, mà tôi vẫn cho là một kỷ niệm không bao giờ quên. 4. Năm đó, tôi có chương trình đi Rôma, để kính viếng Đức Giáo Hoàng. Trong chuyến đi đó, tôi dừng lại Paris ít ngày. Một học trò cũ thân yêu của tôi ở Pháp, gợi ý cho tôi là nên đi viếng Đức Mẹ Lộ Đức. Tôi rất vui. Hai thầy trò đi xe lửa tới Lộ Đức vào một buổi chiều. Chúng tôi giữ phòng trọ ở một khách sạn bình dân ngay trong phố. Rồi chúng tôi đến ngay hang đá Đức Mẹ để cầu nguyện. Khi cầu nguyện, tôi có lúc đã để ý đến mấy bông hoa hồng dưới chân Đức Mẹ. Tôi thầm nghĩ, giá mà mình được là một bông hồng như thế, thì hạnh phúc biết bao. Ngay tối hôm đó, chúng tôi báo cho cha Tuyên úy phụ trách đền thánh Lộ Đức, xin ngài định giờ, để tôi dâng lễ hôm sau. 5. Sáng hôm đó, tôi đến phòng áo của đền thờ, để chuẩn bị dâng lễ, thì cha phụ trách đền thờ đến chào tôi. Ngài xin tôi đứng chủ lễ và xin tôi chia sẻ trong thánh lễ. Tôi từ chối, vì chưa chuẩn bị gì trước. Nhưng ngài nhất định xin. 6. Thánh lễ khá đông linh mục, tu sĩ và giáo dân các nước. Sau bài Phúc Âm, tôi chia sẻ một cách rất đơn sơ. Tôi nói là tôi từ Việt Nam qua, sẽ gặp Đức Giáo Hoàng. Tôi đến Lộ Đức, để cầu nguyện cho đồng bào và tôi được ơn bình an và yêu thương của Chúa. Xin mọi người cũng hãy cầu nguyện cho Đất Nước Việt Nam của tôi. Tôi nói bằng tiếng Pháp. Tất nhiên không được chuẩn. Nhưng mọi người đều chăm chú nghe. 7. Sau lễ, rất nhiều người đã đến gặp tôi. Tôi không ngờ, tôi nhận được nhiều ơn bình an và yêu thương đến thế. Để rồi, khi về Việt Nam, tôi lại cho đi ơn bình an và ơn yêu thương bằng nhiều cách. Tôi nhận biết mình tội lỗi, được như thế này, là do ơn Chúa mà thôi. 8. Thế là tôi trở thành bông hoa hồng của Mẹ. Khi Đức Giáo Hoàng trao tặng tôi chuỗi tràng hạt mân côi, tôi coi đó là chuỗi những bông hồng. 9. Hôm nay, tôi vẫn là một bông hồng dưới chân Đức Mẹ. Hôm nay, tôi vẫn là một chuỗi bông hồng kết nối mọi người của tôi lại, để cùng Đức Mẹ thành lời ca ngợi Chúa giàu lòng thương xót, vì ơn bình an và ơn yêu thương của Chúa đã ban cho tôi, cho Hội Thánh của tôi, cho quê hương Việt Nam của tôi. 10. Điều mà Đức Mẹ luôn nhắc nhở tôi, là hãy tìm thánh ý Chúa và thi hành thánh ý Chúa, trong việc lãnh nhận và lãnh vực cho đi. 11. Phải rất tỉnh thức và cầu nguyện, thì mới nhận ra được thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là tôi phải biết nhận lãnh và phải biết cho đi đúng cách, đúng lúc và đúng nội dung mà Chúa muốn. Được thế, tôi phải khiêm nhường. 12. Chúa cho tôi nhớ lại Lời Chúa phán xưa: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng con đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỉ và làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt ta, hỡi bọn làm điều gian ác. Lý do là vì họ không thi hành ý muốn của Cha trên trời”. (Mt 7, 21- 23). Lời Chúa trên đây là lời cảnh báo nghiêm khắc gửi cho tôi và những ai thích hoạt động để làm sáng danh Chúa. Chúa cho thấy là nhiều thứ hoạt động đó không được Chúa chấp nhận, bởi vì làm theo ý riêng, chứ không theo ý Chúa. 13. Do vậy, để là hoa hồng của Đức Mẹ, tôi phải có sự khiêm nhường được thể hiện trong sám hối với tấm lòng tan nát khiêm cung, đi vào đền tạ. Khiêm nhường trước Chúa, và cũng khiêm nhường trước xã hội và trong cộng đoàn đức tin. 14. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa vẫn dạy bảo và đào tạo tôi nên một bông hồng nhỏ tại địa phương mà tôi đang sống. Chúa đào tạo tôi, nhất là bằng cách dắt tay tôi lên đường mỗi ngày. Đường của lịch sử đời tôi. Đường của lịch sử đất nước tôi. Đường của lịch sử Hội Thánh tôi. Lịch sử bao giờ cũng phức tạp. Lịch sử bao giờ cũng có những bất ngờ. Tôi phải sống như kẻ lữ hành, đi về một tương lai, mà chỉ Chúa mới biết rõ sẽ là gì. Chứ chẳng ai dám hoạch định chương trình cho Chúa. Bắt Chúa phải theo chương trình của tạo vật, đó là cực kỳ kiêu ngạo. 15. Một người bạn mới gửi tặng tôi một cuốn sách bằng tiếng Pháp mang tựa đề “Lòng thương xót Chúa, với Đức Giáo hoàng Phanxicô”. Sách khổ nhỏ, 376 trang, mỗi trang là một đoạn suy gẫm nhỏ về lòng thương xót Chúa, trích từ những huấn dụ của Đức Phanxicô. Đọc qua sách này, tôi nhìn vào thực tế tại Việt Nam hôm nay. Tôi thấy không ít người tín hữu Việt Nam xung quanh tôi, đang âm thầm khiêm tốn là những bông hoa của lòng thương xót Chúa. Họ làm chứng Chúa xót thương họ và những kẻ khổ đau. Tôi thầm mong tôi cũng được như vậy. Sống làm chứng cho lòng thương xót Chúa từng ngày, thì suốt năm chúng ta sẽ là những bông hồng dâng kính Đức Mẹ, được Chúa chúc lành. Thánh tâm Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường sẽ chúc lành cho họ và cũng chúc lành cho Hội Thánh và cho Đất Nước Việt nam chúng ta. Long Xuyên, ngày 13.5.2018
1. Mấy ngày nay, tôi bị Satan cám dỗ rất nặng. Nó làm cho tôi buồn sầu về tội lỗi và tính xấu của tôi. Tôi nghĩ, tội lỗi và tính xấu của tôi quá nhiều, quá nặng, nên bị nhiều người loại trừ, xa lánh, cả Chúa cũng như ruồng bỏ tôi. Tình trạng tăm tôi đó như khóa cửa lòng tôi lại. 2. Nhưng cũng chính trong tình trạng đó, tôi được Chúa cứu. Một trong những cách Chúa đã và đang cứu tôi, là cho tôi được gần gũi Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Thực vậy, qua những tài liệu mới nhất về Đức Phanxicô mà tôi nhận được, tôi để ý nhiều đến khẩu hiệu, mà Đức Phanxicô đã chọn. 3. Khẩu hiệu đó bằng tiếng Latinh: Miserando atque eligendo. Nghĩa là xót thương và chọn. Ngày 8/2015, Đức Phanxicô đã nói với Cha Antonio Spadarô rằng: “Ngón tay Chúa Giêsu xưa chỉ vào ông Mathêu thu thuế, nay lại chỉ vào tôi đây. Tôi giống như ông Mathêu thu thuế có nhiều tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu đã xót thương và rồi đã chọn”. 4. Cũng cách suy nghĩ đó, Đức Phanxicô quả quyết: Chúa Giêsu nhìn vào những người đau khổ như nghèo túng, bệnh tật, cô đơn. Người đã xót thương họ và đã chọn họ. 5. Cả đến những người mà thế gian cho là thiếu tư cách, cũng được Đức Phanxicô trân trọng. Trong bài suy gẫm 28/6/2013 và trong bài giảng thánh lễ 25/7/2013, Đức Phanxicô: “Xin anh em đừng nói xấu kẻ khác, cũng đừng hạ giá người khác xuống”. 6. Đức Phanxicô nói: Chúa Giêsu đến, không phải để kết án, nhưng là để giải cứu. Chúa không đến để xây những bức tường ngăn chặn, nhưng Chúa đến để xây những chiếc cầu. 7. Muốn được như Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp gỡ Ngài. Đức Phanxicô nhấn mạnh đến việc gặp gỡ Chúa Giêsu một cách riêng tư, thân mật, trong cầu nguyện và thinh lặng. 8. Đức Phanxicô hay nói về Chúa Giêsu như một dung mạo. Dung mạo tha thứ, yêu thương và cảm thương. Dung mạo ấy nhìn thẳng vào từng người một cách tư riêng. 9. Đức Phanxicô khuyên chúng ta hãy gặp gỡ Chúa Giêsu hằng ngày. Ít là hãy để Chúa Giêsu gặp gỡ chúng ta. Chúa Giêsu sẽ mang lại cho chúng ta sự bình an và tình yêu thương. 10. Nhất là, khi gặp gỡ Chúa Giêsu, chúng ta được học cách Chúa yêu thương ta, và đã cứu ta. Chúa cứu ta không phải bằng một chương trình tri thức, mà là bằng chính cuộc khổ nạn của Ngài. 11. Những gì Đức Phanxicô nói về Chúa Giêsu đã và đang là một cách Chúa đến với tôi. Chúa đến để cứu tôi, cũng bằng cách: Xót thương và chọn. Lòng tôi được mở rộng ra, để gặp gỡ Chúa, và để gặp gỡ mọi người xung quanh. Tôi có một cái cầu để đi ra. Chúa Giêsu ở bên tôi. Người là Đấng ủi an, là Đấng báo tin một sự đổi mới, đổi mới do lòng thương xót Chúa. 12. Trong cuốn sách Lòng thương xót Chúa với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tôi thấy rất rõ sự đổi mới Hội Thánh và thế giới hôm nay, sẽ phải dựa vào lòng thương xót Chúa. Cuốn sách là một chuỗi dài 365 ngày, tất cả đều nói về lòng thương xót Chúa. Các chuyên gia đã trích dẫn các huấn dụ của Đức Phanxicô, và cho vào từng trang sách. Mỗi trang sách là một ngày của lịch phụng vụ. Từ 1/1 đến 31/12 ngày nào cũng có một suy nghĩ nhỏ về lòng thương xót Chúa. Suy gẫm đơn sơ, dễ hiểu mà thấm thía. Suy gẫm nào của Đức Phanxicô cũng đưa tôi vào khiêm nhường và yêu thương của lòng thương xót Chúa. 13. Tôi xin trích bài suy niệm của ngày hôm nay 17/5. “Hạnh phúc cho những ai có khả năng giúp đỡ những người khác, khi những người này chìm vào sai lầm và bị khinh bỉ. Họ không bỏ rơi những người đó. Họ luôn là những người bạn thực. Họ có trái tim trong sạch, biết nhìn xa hơn sự gian dối và qua mọi khó khăn. Hạnh phúc cho những ai biết nhìn cái tốt nơi người khác”. (Trích bài giảng cho giới trẻ ngày 13/7/2015). Rõ ràng là Đức Phanxicô để cao tình bạn trung thành và chân thành. 14. Phải khiêm nhường và yêu thương, thì mới có được cái nhìn như trên. Để được như vậy, hãy gặp gặp gỡ Đức Kitô. 15. Tôi có kinh nghiệm này: Những gì mà Đức Thánh Cha Phanxicô tâm sự trên đây đều rất hay, rất bổ ích cho tôi. Nhưng không vì thế, mà tôi được miễn, khỏi phải chiến đấu với Satan và với chính mình. Tôi vẫn còn phải phấn đấu nhiều lắm bằng cầu nguyện, hy sinh, và nhờ vào các bạn hữu xa gần nâng đỡ tôi một cách trung tín và không mệt mỏi. 16. Kinh nghiệm bản thân của tôi càng ngày càng giúp tôi bắm chặt vào lòng thương xót Chúa. Bám vào lòng thương xót Chúa là luôn phó thác mình cho Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những cơn bị cám dỗ coi mình là quá tội lỗi, đáng bị mọi người ruồng bỏ, và đáng bị Chúa loại trừ. Xót thương và chọn. Chúa xót thương tha thứ, rồi chọn vì xót thương. Chứ tôi chẳng là gì, chẳng đáng gì, chẳng có gì là công phúc. Được an ủi là một hồng ân. Chịu đau đớn cũng là một hồng ân. Tôi thuộc về Chúa. Tôi tin ở Chúa. Tôi ca tụng Chúa hết lòng đến muôn thuở muôn đời. Long Xuyên, ngày 17.5.2018
1. Mấy tuần nay, tôi được nghe nhiều về phong trào “Hội Thánh Đức Chúa Trời”. Đối với tôi, đơn giản phong trào này là xấu, phát xuất từ Satan. Nhận định đó là từ thần học. Nhận định đó nơi tôi đang trở nên vững mạnh, và đang giúp tôi nhìn vào Hội Thánh hiện nay. 2. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thì Satan đang tìm cách phá Hội Thánh một cách dữ tợn. Đức Phanxicô nói về Satan của thế kỷ XXI một cách rất cụ thể. Rồi từ đó ngài vạch mặt Satan đang có mặt khắp nơi, để phá Hội Thánh. 3. Đức Phanxicô quả quyết “Satan không phải là một hình ảnh, một biến ngôn, một tư tưởng về sự xấu. Nhưng Satan là một thực thể. Nó có thực. Nó đang ở trong thế kỷ XXI này. Chúng ta phải chống lại nó” (Suy niệm sáng lễ ngày 30/10/2014). 4. Đức Phanxicô tập trung tư tưởng của ngài vào chiến dịch Satan đang phá Hội Thánh. Trong bài giảng của một thánh lễ tháng giêng 2014 ở nhà nguyện Thánh Marta, Đức Phanxicô vạch rõ dấu vết của Satan trong Hội Thánh hôm nay. Đó là tìm cách chia rẽ. Chia rẽ đang là một phong trào thời sự ở mọi cấp bậc trong Hội Thánh hiện nay. 5. Đức Phanxicô quả quyết: Đang khi Chúa Giêsu lo hiệp nhất Hội Thánh bằng khiêm nhường và yêu thương, thì Satan tìm cách chia rẽ Hội Thánh bằng kiêu ngạo, ghen tương và tham vọng. Xin phép cho tôi được thêm chút kinh nghiệm của tôi. Tôi đang thấy Satan gói những thứ xấu đó vào một cái vỏ đạo đức giả, mà nó gọi là khôn ngoan, rồi xúi chúng ta nhân danh đó, mà phục vụ Hội Thánh. Nhưng đó là khôn ngoan của quỉ. Thánh tông đồ Giacobê quả quyết như vậy (x. Gc 4, 13- 180). 6. Đức Phanxicô khuyên chúng ta hãy ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần, bằng tỉnh thức, cầu nguyện, khiêm nhường, từ bỏ lợi riêng. Chỉ Chúa Thánh Thần mới là nguồn khôn ngoan thực để xây dựng hiệp nhất yêu thương. 7. Đức Phanxicô không ngại nói đến một tính xấu đang lộng hành trong nhiều cộng đoàn đạo đức, đó là tính nói hành, nói xấu. Có lúc Đức Thánh Cha gọi hiện tượng xấu đó là một thứ khủng bố. 8. Đọc qua một số tài liệu về Đức Phanxicô đề cập đến Satan trong Hội Thánh hiện nay, tôi tự thấy mình có trách nhiệm phải hợp ý với ngài, mà cảnh báo những người trong cộng đoàn đức tin của tôi, trước hết là cho chính tôi 9. Chúng ta hãy coi Satan là một thực thể có thực, rất dữ tợn. Nó đang hoạt động ngay trong cộng đoàn của chúng ta. 10. Chúng ta hãy chống lại Satan bằng cách cầu nguyện với Chúa, xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết tỉnh thức, tránh xa những gì đang làm chia rẽ Hội Thánh tại địa phương này. Trừ quỉ Satan chia rẽ, có lẽ còn phải ăn chay, như Chúa đã nói xưa: “Thứ quỉ này chỉ trừ được bằng cầu nguyện và ăn chay” (x. Mc 9, 25). 11. Nếu ghen tương, tham vọng, nói hành, nói xấu, là những dấu chỉ của sự hiện diện Satan, thì chúng ta phải hết sức tránh những thứ xấu đó. Kinh Thánh quen gọi Satan là kẻ tố cáo. Thế thì chúng ta chớ bao giờ là kẻ tố cáo như nó. 12. Theo tinh thần của Đức Phanxicô, thì xây dựng yêu thương hiệp nhất, không phải chỉ là tránh những gì gây chia rẽ, mà còn phải tích cực thực hiện những gì là yêu thương và hiệp nhất. Tức là: - Hãy cùng cầu nguyện với nhau. - Hãy cùng bàn bạc với nhau. - Hãy cùng nhau phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn, già yếu. Xây dựng yêu thương hiệp nhất là điều khó, nên phải luôn khiêm nhường, biết sợ mình sai, không ngại lắng nghe, sẵn sàng sửa sai. Xây dựng yêu thương hiệp nhất không phải chỉ là vấn đề của kỷ luật, nhưng chính yếu là vấn đề của tu đức nội tâm. 13. Nói đến vấn đề yêu thương hiệp nhất, tôi nhớ rất nhiều đến Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Ngài là bạn rất thân của tôi. Không những ngài rất tế nhị, mà còn vác gánh nặng thay cho kẻ khác và luôn quảng đại tha thứ, để xây dựng hiệp nhất yêu thương. 14. Trong tháng kính Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý cách riêng đến ơn bình an hiệp nhất và yêu thương. Xin Trái Tim Chúa ngự vào lòng ta và vào gia đình ta với ơn yêu thương, bình an và hiệp nhất của Chúa. 15. Tôi xin tạm kết bài chia sẻ trên đây bằng đoạn Phúc Âm của Thánh Luca: “Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cùng nhau nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi. Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được… Sẽ tới ngày ngươi bị tàn phá, không hòn đá nào còn trên hòn đá nào. Vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19, 41- 44). Hình như hôm nay Chúa Giêsu lại đang khóc thương Giêrusalem. Xin Chúa Giêsu cũng khóc thương chúng ta, nhưng xin Chúa đừng để sự tàn phá nào xảy ra trên chúng ta. Bởi vì chúng ta đang sám hối và hết lòng tin ở lòng thương xót Chúa. “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội chúng con. Nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, mà ban cho chúng con ơn hiệp nhất, ơn bình an”. Long Xuyên, ngày 21.5.2018
1. Theo thông báo của Đức Tổng Giám mục chủ tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam, thì năm nay Hội Thánh Việt Nam sẽ tổ chức mừng kỷ niệm 30 năm Đức Thánh Cha phong hiển thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam. Thời gian mừng kỷ niệm trọng đại đó sẽ kéo dài từ 19/6/2018 tới 24/11/2018. Giáo phận Long Xuyên có 2 thánh tử đạo trong số 117 được phong. Đó là thánh Phêrô Đoàn Công Quý linh mục, và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giáo dân. 2. Theo quyết định của Đấng bản quyền giáo phận, thì Long Xuyên sẽ tổ chức lễ khai mạc tại Châu Đốc, nơi hai thánh đã bị hành quyết xưa. 3. Theo tinh thần của “Thư công bố Năm thánh tôn vinh các thánh Tử đạo Việt Nam”, tôi xin Chúa, nhờ lời cầu của hai thánh Tử đạo Long Xuyên, thương soi sáng cho tôi được biết làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh hiện nay một cách đúng ý Chúa nhất. Chúa đã thương nhận lời tôi. 4. Cách đây mấy ngày, sau thánh lễ, tôi mở đọc cuốn “Lòng thương xót Chúa với Đức Phanxicô”, thì gặp trang 143, Đức Phanxicô nói thế này: “Hội Thánh là người mẹ có trái tim cởi mở, biết đón khách và biết tiếp khách. Nhất là đón và tiếp những ai cần được chăm sóc, và những ai trong hoàn cảnh rất khó khăn. Hội Thánh là nhà đón tiếp những ai cần chỗ trọ. Chúng ta sẽ làm được biết bao điều lành, nếu chúng ta biết học ngôn từ của đón tiếp. Nếu được đón tiếp, biết bao người sẽ cảm thấy vết thương lòng mình được lành, những nỗi thất vọng của mình được tan đi” (Trích bài giảng của Đức Phanxicô 12/7/2015 tại Paraguay). 5. Đọc xong những lời chia sẻ trên đây của Đức Phanxicô, tôi nhìn vào bầu khí sống chứng tá của các linh mục tại Châu Đốc này. Các ngài đang làm chứng cho Chúa bằng tinh thần đón khách và tiếp khách theo chỉ dẫn của Đức Phanxicô. 6. Giáo xứ Châu Đốc là một cộng đoàn nhỏ, sống giữa một địa phương hầu hết không là Công giáo và trên tuyến đường khách thập phương tấp nập đổ về những Chùa ở Núi Sam. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ giáo xứ Châu Đốc vẫn được mọi người kính thương. Bởi vì đó là nhà đón khách và tiếp khách với tấm lòng mở. 7. Với nét đạo đức đó, cộng đoàn nhỏ giáo xứ Châu Đốc đang làm chứng cho Chúa một cách hữu hiệu, cho dù làm chứng cách đó đòi phải rất tỉnh thức. 8. Với những gì đang xảy ra trong tôi, tôi xác tín điều này: Các Thánh tử đạo mến yêu của tôi và của chúng ta vẫn cầu nguyện cho chúng ta được luôn biết làm chứng cho Chúa trong những tình huống khác nhau, với tấm lòng khiêm tốn yêu thương của người môn đệ Chúa. 9. Tôi xét mình và sám hối về lỗi lầm trong việc đón khách và tiếp khách theo lời khuyên của Đức Phanxicô. 10. Tôi phải tập ra khỏi những cái khuôn thích đơn giản chỉ là khép mình vào thói quen ích kỷ, thay vào đó là hãy mở lòng ra về phía những sáng tạo của tình xót thương Chúa. 11. Nhìn thực tế cộng đoàn giáo xứ Châu Đốc hiện nay, tôi thấy lòng thương xót Chúa đang sáng tạo những cái mới, có sức lan tỏa một cách bình an trong yêu thương khiêm nhường. Giữa một tình hình rất phức tạp, việc làm chứng cho Chúa như thế đòi mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. 12. Giáo phận Long Xuyên còn có một linh mục đã qua đời, tuy ngài chưa được Tòa Thánh phong là thánh, nhưng đối với người dân, thì ngài đã là thánh. Đó là Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp quê ở Cồn Phước. Cha Diệp là người rất nổi tiếng về đón khách và tiếp khách. Bây giờ vốn vậy, ngài đón mọi người, tiếp mọi người, với một tấm lòng yêu thương cới mở. Không ai đến với cha Diệp, mà phải ra về thất vọng. Nhìn ngài, tôi có cảm tưởng ngài cùng với hai thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng đang dạy chúng tôi hãy làm chứng cho Chúa bằng cởi mở đón khách và tiếp khách. 13. Biết đón nhận và tiếp nhận, đó là thái độ mà Đức Phanxicô dạy chúng ta, để làm chứng cho Chúa trong lịch sử hiện nay. Vì thế, dù ở đâu, dù đi đâu, chúng ta vẫn phải để ý đến đón nhận và tiếp nhận. 14. Đón tiếp theo lời dạy của Đức Phanxicô là điều không dễ. Tôi xin Chúa thương giúp tôi. Đêm rồi, có một lúc tôi được thấy và được nghe một người giáo sĩ lạ nói với tôi: “Hãy cùng với Đức Mẹ mà đón tiếp”. Tôi bỗng thấy mình đổi mới, hân hoan lạ lùng. Bây giờ thì tôi hiểu thánh ý Chúa. Đó là: Tôi, các giáo sĩ của giáo phận Long Xuyên, và tất cả mọi cộng đoàn đức tin thuộc giáo phận, hãy chạy lại bên Đức Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy là Mẹ của chúng ta, để cùng với Mẹ, chúng ta đón khách và tiếp khách, nhất là đón tiếp những ai cần đến Hội Thánh và những ai trong hoàn cảnh khó khăn. 15. Với Đức Mẹ, chúng ta sẽ thực hiện việc đón tiếp một cách rất chân thành, khiêm nhường và vị tha. Như vậy, việc tôn vinh các thánh Tử đạo Việt Nam sẽ đi đôi với tinh thần gắn bó với Đức Mẹ Maria. Dân An Giang này, tuy có thể chưa quen với các thánh Tử đạo, nhưng lại rất mến Đức Mẹ. Xin cảm tạ Chúa đã cho tôi hiểu thánh ý Chúa là một chuyến đi dài, phải tỉnh thức và khiêm nhường mới nắm bắt được. Hiểu rồi, chúng ta hãy hân hoan làm chứng cho Chúa giữa lịch sử hôm nay. Long Xuyên, ngày 24.5.2018
1. Thánh Gioan Baotixita được Chúa chọn làm người dọn đường cho Chúa Giêsu. Người đã thực hiện trọng trách đó thế nào? Xin hết sức vắn tắt mà thưa: Người đã tập trung vào việc rao giảng sám hối. 2. Sám hối, mà thánh Gioan Baotixita rao giảng, cốt yếu là để tẩy tội, xóa tội, tha tội. Con người, mỗi khi phạm tội, đều làm cho linh hồn mình nên dơ bẩn. Dơ bẩn đó, nếu không được tẩy sạch đời này, sẽ là bản án đẩy linh hồn xuống lửa hỏa ngục ở cõi đời sau. 3. Tẩy rửa tội lỗi bằng gì? Thưa bằng sám hối. Sám hối, mà thánh Gioan Baotixita rao giảng gồm mấy việc sau đây: 4. Một là kẻ có tội hãy tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là Đấng xóa tội trần gian bằng máu của Ngài. 5. Hai là kẻ có tội phải góp phần nhỏ của mình là những khổ chế của mình vào việc tẩy xóa tội lỗi của mình. 6. Ba là kẻ có tội cũng hãy tin rằng: Tình yêu có sức tẩy xóa tội lỗi còn hơn là những khổ chế đớn đau của mình. 7. Những điều tôi vừa kể vắn tất trên đây đã không đến với tôi một lúc, nhưng đến từ từ. Có thể nói sám hối là cả một hành trình dài. 8. Nhưng điều quan trọng nhất phải có trong mọi chặng hành trình dài đó, chính là tôi phải nhận thức mình là kẻ có tội, nếu không sám hối, sẽ phải vô phúc đời đời. 9. Do vậy, tôi coi sự biết sám hối là một điều căn bản trong tu đức và mục vụ của tôi. 10. Hội thánh vẫn dạy tôi điều căn bản đó, khi làm ra những lễ nghi sám hối và những kinh sám hối để mở đầu cho thánh lễ và các bí tích. Thực hiện những điều đó một cách chân tình, đã giúp tôi rất nhiều trong mục vụ và tu đức. 11. Nhưng Chúa muốn tôi phải sống sám hối suốt đời, mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách. Thực vậy, Chúa dã dạy tôi sám hối qua gương sáng của nhiều người đạo đức gần xa, mà tôi được gặp. 12. Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ, luôn nêu gương sống khổ chế. Tôi hỏi ngài, thì ngài hay trả lời: Để sám hối, đền tội. 13. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gây ấn tượng sâu sắc cho tôi, ở sự ngài luôn tỏ ra rất khiêm nhường sám hối trong thánh lễ. Có lần tôi thành thực hỏi ngài: Đức Thánh Cha có đau khổ không? Ngài thưa: Tôi đau khổ nhiều lắm. Tôi hiểu ngài muốn nói đến đau khổ ngài chịu là một phần quan trọng của sám hối, mà ngài thực hiện cho ngài, cho Hội thánh và cho nhân loại. 14. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, cũng đã làm gương cho tôi về sám hối một cách khác. Tôi thấy ngài hay vui tính, dùng nụ cười, những lời nói ngọt ngào, và những cử chỉ tế nhị yêu thương, để đón tiếp tôi và mọi người khác. Sau thì tôi hiểu ngài làm do tinh thần sám hối. Sám hối bằng đề cao yêu thương phục vụ. 15. Ngay lúc này, rất nhiều người xung quanh tôi đang sống tinh thần sám hối, bằng nhiều cách khác nhau. Nếu tỉnh thức, tôi sẽ nhận ra ơn sám hối đang được Chúa ban cho địa phương chúng ta một cách rộng rãi. Rất nhiều người không Công giáo tại đại phương này đang thực hiện sám hối một cách chân thành và sốt sắng. 16. Riêng tôi, nếu ơn sám hối có lúc đòi tôi phải góp phần đau khổ của tôi vào, thì xin thú thực, đây là điều khó nhất đối với tôi. Đau khổ nào cũng là điều tự nhiên tôi muốn tránh. Cho dù đạo đức dạy đau khổ cần để tẩy xóa tội lỗi. Nhưng tôi vẫn sợ cả những đau khổ cần đó. 17. Sợ hãi trước đau khổ, đó là điều tôi đã cảm nghiệm một cách sâu sắc. Có những đau khổ khủng khiếp. Cảm thấy rồi mới hiểu. Tôi coi đó là một kinh nghiệm không phải là xấu, khi tôi nhớ lại chính Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, cũng đã trải qua những những phút sợ hãi như thế. Người sợ hãi đến nỗi toát mồ hôi máu, Người sợ hãi đến nỗi đã nài xin Chúa Cha tha cho Ngài khỏi phải đau khổ đó, mà Người gọi là chén đắng: Nếu có thể, xin Cha đừng để con phải uống chén đắng đó. (Mc 14, 35). 18. Tôi cũng đã từng lâm vào cảnh sợ hãi như thế. Vì thế tôi xin có một lời khuyên gửi tới mọi người là: Xin hãy biết ủi an nâng đỡ những người trong hoàn cảnh như thế. Nhất là tôi khuyên chớ bao giờ tự phụ, chủ quan coi mình có sức vượt qua thử thách đó mà không phải nhờ đến Chúa và những người thân. 19. Sau cùng sám hối mà thánh G.B dạy tôi là nhận biết mình tội lỗi, đáng phạt. Nhưng hãy tin cậy vào tình yêu thương xót Chúa, phó thác tuyệt đối cho thánh ý Chúa. Sám hối như vậy sẽ dẫn tôi vào cõi bình an. 20. Như vậy, sám hối phải được nhìn nhận là một ơn rất quí. Chúng ta cần phải biết cầu xin, biết đón nhận, và luôn biết cảm tạ Chúa. Cúi xin Thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta được biết dọn đường cho Chúa bằng việc thực hiện tinh thần sám hối. Lúc này, hơn bao giờ hết, Đức Mẹ cùng với thánh G.B đang kêu gọi chúng ta hãy sám hối, sám hối và sám hối. Long Xuyên, ngày 5.6.2018
1. Chúa đến với tôi dưới hình dạng Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Tôi đã thấy như vậy. Chúa đến như vậy qua nhiều cách. Một cách đã gây nhiều ấn tượng trong tôi, đó là qua những con người làm chứng cho Chúa. 2. Tôi đã được gặp nhiều chứng nhân về lòng thương xót Chúa. Tất cả các chứng nhân đó đều mang nơi mình chứng từ của tình yêu Chúa xót thương. 3. Cái đẹp lạ lùng tôi thấy là mỗi người trong họ đều có những mầu sắc riêng. Ở đây tôi chỉ nêu lên vài mầu sắc tiêu biểu rút ra từ một số chứng nhân quen thuộc của Phúc Âm. 4. Thí dụ: Có những người vừa gặp, thì tự nhiên thấy như họ tỏa ra một mầu sắc thiêng liêng đặc điểm của thánh Gioan Baotixita xưa: Mầu sắc đặc điểm đó là sa mạc. Sa mạc nơi thánh G.B là đời sống thinh lặng, suy niệm, cầu nguyện, khổ chế. Xưa với mầu sắc sa mạc đó, thánh G.B đã làm chứng Chúa cứu thế đến như Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. 5. Có những người vừa gặp, thì tự nhiên thấy như họ tỏa ra một mầu sắc thiêng liêng đặc điểm của Đức Mẹ Maria, màu sắc đặc điểm đó là xin vâng ý Chúa. Xin vâng ý Chúa nơi Đức Mẹ Maria là cả một đời ngoan ngoãn dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xưa với mầu sắc xin vâng đầy khiêm nhường phó thác đó, Đức Mẹ đã làm chứng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế giàu lòng thương xót. 6. Có những người vừa gặp thì, tự nhiên thấy như âm thầm tỏa ra một mầu sắc thiêng liêng đặc điểm của thánh Giuse. Màu sắc đặc điểm đó là mau lẹ, dấn thân phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xưa với mầu sắc dẫn thân phục vụ đó, thánh Giuse đã làm chứng Chúa Giêsu là Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. 7. Ở đây, tôi xin phép được nói sự thực này là: Giữa dòng người đông đảo, tôi đã được gặp những chứng nhân nói trên. Họ lặng lẽ ở giữa đám đông. Họ không ồn ào, thậm chí họ còn thinh lặng. Nhưng họ chỉ làm chứng cho Chúa bằng đời sống mang đặc điểm mà Chúa ban cho họ. 8. Riêng đối với tôi, họ đã mang lại cho tôi rất nhiều an ủi. An ủi lớn nhất là họ giúp tôi cảm thông với những người đau khổ. Tôi coi họ là những lá thư riêng Chúa gửi cho tôi. Tôi cảm tạ Chúa vì những bức tâm thư đó. 9. Qua những chứng nhân mà tôi được gặp, tôi đã nhìn thấy Chúa. Tôi nhìn thấy Chúa Giêsu là Đấng cứu thế giầu lòng thương xót. Tôi nhìn thấy, và tôi đã cảm nhận được sự thực cao quí đó. 10. Cảm nhận đầy an ủi đó đang giúp tôi đi nốt chặng cuối của chuyến đi cuộc đời. Cuộc đời là một chuyến đi về cõi sau. Tôi đang gần đến cõi sau. Bước vào cõi sau, tôi sẽ nhận được chỗ dành cho tôi, chỗ đó sẽ là hạnh phúc hay là vô phúc. Nếu ở đời này tôi biết đón nhận Chúa Giêsu như Đấng cứu độ giàu lòng thương xót, thì ở cõi sau tôi sẽ hạnh phúc đời đời. 11. Hạnh phúc đời đời ở cõi sau, đó là chuyện phải tính ngay ở đời này. Ở đời này, tôi phải lợi dụng từng ngày, từng giờ, từng phút, để gặp Chúa cứu độ giầu lòng thương xót. Bởi vì chính Người và chỉ có Người, mới cứu được tôi khỏi phải vô phúc đời đời, nhưng sẽ được hạnh phúc đời đời. 12. Gặp Chúa Giêsu là điều không phải do tôi muốn mà được. Chính Chúa chủ động đến với tôi, theo cách mà Chúa muốn, lúc mà Chúa muốn. Bổn phận của tôi là khiêm nhường khao khát, khiêm nhường tỉnh thức, khiêm nhường đón tiếp. Và như vậy, tôi có tự do không đón nhận Chúa Giêsu, mặc dầu Ngài là Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Đó là thảm kịch khủng khiếp có thể xảy ra. 13. Vì thế, tôi luôn cầu xin Trái tim Chúa thương cứu tôi khỏi tính kiêu ngạo, để luôn luôn biết đón nhận Chúa. 14. Tôi bỏ đi thói quen xét đoán và kết án những người khác, ý Chúa là như vậy. Sẽ chỉ tập trung vào việc đón Chúa cứu độ giầu lòng thương xót mà thôi. 15. Đối với tôi, việc đón nhận Chúa Giêsu Đấng cứu độ giầu lòng thương xót là điều quan trọng nhất. Chính nhờ vậy, mà tôi được bình an trong lương tâm và cả trong hướng phục vụ Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam. 16. Phục vụ Hội Thánh và Quê Hương bằng quyết tâm làm hết sức mình, để rất nhiều người đón nhận được Chúa Giêsu, Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Đó là thao thức của tôi đêm ngày. 17. Tôi hay nói với Chúa: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa xót thương con, con tin ở Chúa” Vắn tắt như thế thôi. 18. Khi có sức, tôi lại cầu nguyện thêm bằng kinh tràng hạt mân côi. Tôi cầu nguyện như một trẻ nhỏ. Rất khó nghèo, rất thiết tha, rất cậy tin phó thác. 19. Và cứ thế, hằng ngày tôi đón nhận Chúa Giêsu Đấng cứu độ giầu lòng thương xót. Người đến với tôi, Người ở lại với tôi, Người đồng hành với tôi. Cuộc sống của tôi trở thành đơn giản. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 14.6.2018
Hình ảnh mà hai thánh tông đồ đã đưa ra để dạy tôi, để trở nên môn đệ Đức Kitô về yêu thương và khiêm nhường đối với người khác. Đó là hình ảnh người Samatinô tốt lành, mà Chúa Giêsu đã nêu lên 1. Thánh Phêrô và thánh Phaolô luôn dạy tôi một lời vắn tắt sau đây: “Dù con là ai, ở địa vị nào, con hãy sống đúng ơn gọi của con. Ơn gọi của con là môn đệ Đức Kitô. Môn đệ Đức Kitô, đó là ơn gọi căn bản của con, đó là ơn gọi cao quí nhất Chúa dành cho con”. Nhận thức điều hai thánh tông đồ dạy trên đây là quan trọng, tôi xin hai thánh tông đồ dạy tôi thêm những gì tôi cần làm để sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô. Hai Đấng đã dạy tôi. 2. Việc thứ nhất các ngài dạy là hãy cùng với Đức Kitô, mà cầu nguyện với Đức Chúa Cha “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (Lc 11, 2- 4). Khi tôi cùng với Đức Kitô đọc kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, tôi thấy lòng tôi bỗng mở ra, cho phép tôi có một cái nhìn mới rất lạ lùng. Tôi sung sướng thấy mình có một người Cha ở trên trời. Người Cha ấy xót thương tôi. Tôi thấy Cha trên trời ôm mọi người vào lòng mình, vì Cha coi mọi người đều là những người con của Cha. Tôi cảm thấy tôi được gần lại với Cha, và đồng thời cũng được gần lại với mọi người, không kể họ là ai. 3. Tôi cảm thấy dung mạo của Cha trên trời là yêu thương là khiêm nhường. Yêu thương hết sức và khiêm nhường tột độ. Với yêu thương và khiêm nhường như thế, để dẫn đưa tôi về thiên đàng. Với yêu thương và khiêm nhường, Cha trên trời muốn tôi cũng hãy nên giống Cha, mà yêu thương và khiêm nhường không những đối với Cha, mà cũng đối với mọi người. 4. Hình ảnh mà hai thánh tông đồ đã đưa ra để dạy tôi, để trở nên môn đệ Đức Kitô về yêu thương và khiêm nhường đối với người khác. Đó là hình ảnh người Samatinô tốt lành, mà Chúa Giêsu đã nêu lên (x Lc 10, 25- 37). Người Samatinô đó đã xuống ngựa, đến bên người đau khổ, cúi mình xuống, chăm sóc họ, với yêu thương hết sức và khiêm nhường tột độ, môn đệ Đức Kitô là như thế đó. Nếu môn đệ Đức Kitô thì phải như thế, thì thú thực đã nhiều lần tôi không phải là môn đệ Đức Kitô. Bởi vì tôi đã không yêu thương và khiêm nhường đủ trong việc phục vụ người khác. 5. Nhận thức mình còn nhiều thiếu sót về yêu thương và khiêm nhường đang là điều tôi phải sám hối. Sám hối của tôi là xin lỗi Chúa, nhất là quyết tâm sửa mình lại. 6. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là hai vị thánh nổi về sám hối. Sám hối nơi hai người nhấn mạnh đến khiêm nhường. 7. Thánh Phêrô quả quyết: “Hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5). 8. Còn thánh Phaolô thì nói: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Phl 2, 3). 9. Khiêm nhường cũng đã và đang là điều mà các Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêdictô XVI, và Đức Phanxicô đề cao, khi các ngài dùng nhiều cách khác nhau, để xin lỗi về những gì Hội Thánh trong quá khứ đã xúc phạm đến những người ngoài Công Giáo. 10. Khiêm nhường là một thứ của hẹp. Nhưng phải qua cửa hẹp đó, mới vào được thiên đàng. Thế nhưng rất nhiều người đã không muốn đi qua cửa hẹp đó: “Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó, còn cửa hẹp và đường hẹp đưa tới sự sống, thì ít người tìm được lối ấy” (Mt 7, 13- 14). Lời Chúa Giêsu phán xưa đang là một sự thực xảy ra trong tình hình hiện nay. 11. Khiêm nhường là dấu chỉ những người môn đệ Chúa Giêsu. Kiêu ngạo là dấu chỉ những người môn đệ quỉ Satan. 12. Đức Phanxicô, khi coi sự khiêm nhường là điều kiện cần thiết để đổi mới Hội Thánh hôm nay, thì ngài coi thời gian là một lãnh vực, mà chúng ta cần thực hiện sự khiêm nhường hơn. Nghĩa là: 13. Khiêm nhường là biết chờ đợi, đừng nóng vội. Hãy biết bắt đầu lại. 14. Khiêm nhường là biết đi từng bước nhỏ, đừng ham bước những bước dài, bước lớn. 15. Khiêm nhường là biết coi thời gian mỗi ngày là một kho tàng để khám phá ra những ơn lành của Chúa. Đừng coi mỗi ngày là một gánh nặng, để rồi than oán. 16. Khiêm nhường là đừng coi mình là giám mục, linh mục, hay là ai, nhưng chỉ là môn đệ Đức Kitô, đó là việc thứ hai và cũng là việc sau cùng, mà hai thánh tông đồ đã dạy tôi lúc này. 17. Trên đây là đôi chút chia sẻ, để mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Các ngài đúng thực là môn đệ Đức Kitô. Xin hai thánh làm phép lành cho chúng ta, để chúng ta biết tỉnh thức sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô một cách thiết thực trong tình hình phức tạp hiện nay. Long Xuyên, ngày 27.6.2018
1. Thánh Phêrô và thánh Phaolô luôn dạy tôi một lời vắn tắt sau đây: “Dù con là ai, ở địa vị nào, con hãy sống đúng ơn gọi của con. Ơn gọi của con là môn đệ Đức Kitô. Môn đệ Đức Kitô, đó là ơn gọi căn bản của con, đó là ơn gọi cao quí nhất Chúa dành cho con”. Nhận thức điều hai thánh tông đồ dạy trên đây là quan trọng, tôi xin hai thánh tông đồ dạy tôi thêm những gì tôi cần làm để sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô. Hai Đấng đã dạy tôi. 2. Việc thứ nhất các ngài dạy là hãy cùng với Đức Kitô, mà cầu nguyện với Đức Chúa Cha “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (Lc 11, 2- 4). Khi tôi cùng với Đức Kitô đọc kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, tôi thấy lòng tôi bỗng mở ra, cho phép tôi có một cái nhìn mới rất lạ lùng. Tôi sung sướng thấy mình có một người Cha ở trên trời. Người Cha ấy xót thương tôi. Tôi thấy Cha trên trời ôm mọi người vào lòng mình, vì Cha coi mọi người đều là những người con của Cha. Tôi cảm thấy tôi được gần lại với Cha, và đồng thời cũng được gần lại với mọi người, không kể họ là ai. 3. Tôi cảm thấy dung mạo của Cha trên trời là yêu thương là khiêm nhường. Yêu thương hết sức và khiêm nhường tột độ. Với yêu thương và khiêm nhường như thế, để dẫn đưa tôi về thiên đàng. Với yêu thương và khiêm nhường, Cha trên trời muốn tôi cũng hãy nên giống Cha, mà yêu thương và khiêm nhường không những đối với Cha, mà cũng đối với mọi người. 4. Hình ảnh mà hai thánh tông đồ đã đưa ra để dạy tôi, để trở nên môn đệ Đức Kitô về yêu thương và khiêm nhường đối với người khác. Đó là hình ảnh người Samatinô tốt lành, mà Chúa Giêsu đã nêu lên (x Lc 10, 25- 37). Người Samatinô đó đã xuống ngựa, đến bên người đau khổ, cúi mình xuống, chăm sóc họ, với yêu thương hết sức và khiêm nhường tột độ, môn đệ Đức Kitô là như thế đó. Nếu môn đệ Đức Kitô thì phải như thế, thì thú thực đã nhiều lần tôi không phải là môn đệ Đức Kitô. Bởi vì tôi đã không yêu thương và khiêm nhường đủ trong việc phục vụ người khác. 5. Nhận thức mình còn nhiều thiếu sót về yêu thương và khiêm nhường đang là điều tôi phải sám hối. Sám hối của tôi là xin lỗi Chúa, nhất là quyết tâm sửa mình lại. 6. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là hai vị thánh nổi về sám hối. Sám hối nơi hai người nhấn mạnh đến khiêm nhường. 7. Thánh Phêrô quả quyết: “Hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5). 8. Còn thánh Phaolô thì nói: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Phl 2, 3). 9. Khiêm nhường cũng đã và đang là điều mà các Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêdictô XVI, và Đức Phanxicô đề cao, khi các ngài dùng nhiều cách khác nhau, để xin lỗi về những gì Hội Thánh trong quá khứ đã xúc phạm đến những người ngoài Công Giáo. 10. Khiêm nhường là một thứ của hẹp. Nhưng phải qua cửa hẹp đó, mới vào được thiên đàng. Thế nhưng rất nhiều người đã không muốn đi qua cửa hẹp đó: “Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó, còn cửa hẹp và đường hẹp đưa tới sự sống, thì ít người tìm được lối ấy” (Mt 7, 13- 14). Lời Chúa Giêsu phán xưa đang là một sự thực xảy ra trong tình hình hiện nay. 11. Khiêm nhường là dấu chỉ những người môn đệ Chúa Giêsu. Kiêu ngạo là dấu chỉ những người môn đệ quỉ Satan. 12. Đức Phanxicô, khi coi sự khiêm nhường là điều kiện cần thiết để đổi mới Hội Thánh hôm nay, thì ngài coi thời gian là một lãnh vực, mà chúng ta cần thực hiện sự khiêm nhường hơn. Nghĩa là: 13. Khiêm nhường là biết chờ đợi, đừng nóng vội. Hãy biết bắt đầu lại. 14. Khiêm nhường là biết đi từng bước nhỏ, đừng ham bước những bước dài, bước lớn. 15. Khiêm nhường là biết coi thời gian mỗi ngày là một kho tàng để khám phá ra những ơn lành của Chúa. Đừng coi mỗi ngày là một gánh nặng, để rồi than oán. 16. Khiêm nhường là đừng coi mình là giám mục, linh mục, hay là ai, nhưng chỉ là môn đệ Đức Kitô, đó là việc thứ hai và cũng là việc sau cùng, mà hai thánh tông đồ đã dạy tôi lúc này. 17. Trên đây là đôi chút chia sẻ, để mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Các ngài đúng thực là môn đệ Đức Kitô. Xin hai thánh làm phép lành cho chúng ta, để chúng ta biết tỉnh thức sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô một cách thiết thực trong tình hình phức tạp hiện nay. Long Xuyên, ngày 27.6.2018
1. Nhà nguyện Tòa Giám mục Long Xuyên hôm nay, trong thánh lễ này, đang là biểu tượng một Hội Thánh địa phương rất đẹp. 2. Đẹp là vì thánh lễ này của Hội Thánh địa phương này, đang được chủ sự bởi vị chủ chăn của mình. Đức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu chính là vị chủ chăn của chúng ta. 3. Đẹp là vì chính vị chủ chăn này đang qui tụ, đang đón tiếp các thành phần của giáo phận. 4. Đẹp là vì trong qui tụ và đón tiếp này có tình thương và hy vọng. 5. Tình thương và hy vọng đang bao phủ chúng ta. Tình thương và hy vọng đó phát xuất từ Chúa, và tựa vào Chúa. 6. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, thì tình thương và hy vọng bao phủ Hội Thánh không đồng nghĩa với lạc quan. Lạc quan thì dựa vào sức con người và mơ tìm những thành công theo ý riêng. 7. Còn hy vọng và tình thương thì tin vào Chúa. Vì thế, có những lạc quan đưa tới thất vọng. Đang khi hy vọng và tình thương của chúng ta bao giờ cũng chắc chắn đưa tới sự giải cứu. Chính Chúa là Cha giầu lòng thương xót sẽ giải cứu chúng ta. Hy vọng của chúng ta là một đợi chờ ở Chúa. Chúng ta hy vọng rất nhiều ở Chúa. 8. Với tình thương hy vọng đó chúng ta cũng sẽ ra đi. Ra đi để chia sẻ tình thương, hy vọng cho mọi người xung quanh, nhất là cho những người khổ đau. 9. Chia sẻ bằng những ủi an, chia sẻ bằng những chăm sóc, chia sẻ bằng cách sống liên đới có tình có nghĩa với những người mà chúng ta có bổn phận. 10. Riêng tôi, tôi rất vui khi thấy nhiều người của giáo phận sống gắn bó với nhau bằng tình thương và hy vọng một cách cụ thể, một cách đằm thắm. Tôi mong, những nơi nào chưa được như vậy, thì cần phải sửa lại. 11. Rất nhiều người đặt hy vọng vào chúng ta. Họ hy vọng chúng ta sẽ đem lại cho họ hy vọng và tình thương của Chúa. 12. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, nhất là cho tất cả các giám mục và linh mục luôn là người mang tình thương và hy vọng của Chúa đến cho mọi người. 13. Hôm nay, hơn lúc nào hết, khi mừng kỷ niệm 19 năm thụ phong giám mục của Đức Cha Giuse, chúng ta cần cảm được Đ.C của chúng ta đang rất mong tình thương và hy vọng luôn được phát triển trong giáo phận, đặc biệt là ngay trong Tòa Giám mục này. 14. Phần tôi, tôi cũng rất mong điều đó, nhưng tôi cũng rất lo. Thú thực là tôi rất lo cho sự hiệp nhất và yêu thương trong giáo phận. Bởi vì tôi thấy nguy cơ tàn phá sự hiệp nhất và yêu thương đang tới gần. Nguy cơ đó là rất mạnh. Nguy cơ đó đang hình thành từ chính nội bộ, do Satan chủ mưu. Chúng ta cần cầu nguyện và tỉnh thức. Xin Chúa nhờ hai thánh Phêrô và Phaolô cầu bầu, thương cứu chúng ta, giúp chúng ta vượt qua được cơn thử thách kinh hoàng về hiệp nhất và yêu thương. 15. Cơn thử thách đang diễn biến phức tạp. Nhưng giờ đây, số người sống niềm vui từ tình yêu xót thương Chúa lại đang tăng. Lúc này, hơn bao giờ hết, Lời Chúa sau đây đang trở thành lời kêu gọi khẩn thiết gửi tới mỗi người chúng ta: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Cha, là các con yêu thương nhau như Cha yêu thương các con” (Ga 13, 35). Long Xuyên, ngày 29.6.2018
1. Năm nay, tôi đã ngoài 90. Sức khỏe của tôi mỗi ngày mỗi xuống dốc. Tôi chắc chắn đời tôi sẽ chấm dứt, và phải chấm dứt vào một lúc nào đó không xa. 2. Tôi tin giây phút ra đi đó sẽ đưa tôi vào cõi sau. Ở cõi sau, tôi sẽ được ở bên Chúa là Cha trên trời, Người là tình yêu giầu lòng thương xót. 3. Niềm tin đó của tôi là rất mạnh. Tôi tưởng là mạnh do tôi, nhưng thực sự, nếu mạnh là do ơn Chúa mà thôi. 4. Ơn Chúa ban cho tôi thì vô kể. Ở đây tôi chỉ xin kể ra ơn này, đó là ơn được cảm thấy niềm vui trong những cơn thử thách. 5. Những cơn thử thách đáng kể nhất đối với tôi đều có yếu tố chung này là tâm hồn cảm thấy tối tăm, cô đơn, sợ hãi, bơ vơ. 6. Xin đưa ra mấy ví dụ: Có những thời gian dài tôi cảm thấy mình tội lỗi, hèn hạ, xấu xa, nên bị mọi người xa tránh. Chính Chúa xem ra cũng ruồng bỏ tôi. Tôi đau khổ lắm. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, Chúa đã bất ngờ đến. Người an ủi tôi. Người nói: Cha vẫn yêu thương con. Người vừa nói vừa ban ơn cho tôi được niềm vui vì được Chúa thương yêu. Cảm thấy mình được Chúa xót thương là một niềm vui lớn lao. Nhờ đó, tôi được đỡ nâng. 7. Có những thời gian dài, tôi cảm thấy những việc bác ái tôi làm cho nhiều người như trở thành vô ích. Tôi rất buồn và chán nản. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, Chúa đã đến, Người an ủi tôi: Đừng chán. Bởi vì những việc thiện con làm cho người khác là con làm cho Chúa. Cảm thấy mình vẫn có ích, khi làm từ thiện cho người khác, trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi thấy vui, và được đỡ nâng rất nhiều. 8. Niềm vui do Chúa ban, chứ không do tôi hay do bất cứ ai, đó là niềm vui cao quí. 9. Niềm vui, vì tin mình được Chúa yêu thương, đó là nguồn sức mạnh khích lệ tôi rất nhiều. 10. Niềm vui, vì tin bao người xung quanh tôi đây được Chúa yêu thương, cũng đang là nguồn sức mạnh khích lệ tôi rất nhiều. 11. Tôi thấy những niềm vui đó là do Chúa ban. Tôi cần biết ơn Chúa, và cần nâng niu nó. 12. Nhờ cảm nhận được niềm vui do Chúa ban, tôi sẽ phân định được những niềm vui nào là không do Chúa. Bởi vì hiện nay đang bùng nổ những phong trào tôn vinh những niềm vui không từ Chúa, và không dẫn về Chúa. Nhưng niềm vui đó đang đánh lừa bao người, kể cả trong Hội Thánh. 13. Tôi thấy Satan đang gieo rắc những niềm vui giả và nguy hại vào lòng rất nhiều người và rất nhiều nơi trong Hội Thánh. 14. Xin hãy cầu nguyện và luôn tỉnh thức, để nghe Chúa Thánh Thần soi sáng, kẻo sai lầm trong lựa chọn niềm vui sẽ đưa tới những hậu quả khôn lường. 15. Cũng như Đức Mẹ xưa, Đức Mẹ sống niềm vui Chúa ban một cách khiêm nhường, không ồn ào, không phô trương, cũng nhờ vậy mà cuộc sống niềm vui đó đã góp phần đổi mới nhân loại. 16. Thiết tưởng, muốn đổi mới chính mình, muốn đổi mới Hội Thánh địa phương chúng ta, và muốn đổi mới quê hương chúng ta, chúng ta cũng hay sống niềm vui như Đức Mẹ. 17. Đức Mẹ sống niềm vui Chúa ban bằng sự ra đi thăm viếng âm thầm, bằng lời chào thân thương, bằng nụ cười âu yếm, bằng những việc phục vụ rất nhỏ. Đức Mẹ sống niềm vui Chúa ban bằng việc làm và thái độ sống, hơn là bằng lời nói. 18. Tôi có cảm tưởng là cuộc khủng hoảng lớn nhất hiện nay là khủng hoảng về niềm vui, đâu là niềm vui cứu độ đích thực, đâu là niềm vui cứu độ giả dối. Nguy hiểm nhất là chính nhiều người trong Hội Thánh cũng sai lầm trong việc phân định. 19. Đoạn Phúc Âm sau đây khiến tôi tỉnh giấc, khi tưởng mình có quyền tự hào và vui về những việc từ thiện bác ái mình đã làm. “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy. Lạy Chúa, lạy Chúa nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi, cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”. (Mt 7, 22- 24). Lý do là vì họ làm theo ý riêng của họ. 20. Như vậy, điều quan trọng để vui, khi làm việc từ thiện bác ái, chính là làm theo ý Chúa, chứ không theo ý riêng mình. Lạy Chúa xin thương giúp chúng con luôn được vui, vì vâng theo thánh ý Chúa, và tin vào lòng Chúa xót thương. Long Xuyên, ngày 30.6.2018