Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. - Ðó là lời Chúa.
Đọc sách Tin Mừng Mác-cô, người ta dễ dàng thắc mắc tại sao Đức Giê-su lại sai các môn đệ lên đường đi rao giảng sớm quá như vậy, với một chuẩn bị quá sơ sài như thế; và quan trọng hơn nữa, các ông môn đệ này lên đường rao giảng cái gì đây, họ đâu đã được dạy dỗ căn kẽ gì cho cam?
Quả vậy, chỉ tới chương 3 của sách Tin Mừng, tác giả Mác-cô mới cho biết Đức Giê-su ‘lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn… Người lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng’ (Mc 3:13-14); sau đó trong chương 4 tác giả ghi lại một vài nét giáo huấn của Người qua một số dụ ngôn, rồi chương 5 tường thuật thêm một vài phép lạ… và thế là chương 6 Người đã sai các ông đi rao giảng. Trước hết khó có thể xác quyết là các môn đệ đã nắm bắt và thấu hiểu tường tận sứ điệp Tin Mừng mà Đức Giê-su muốn mạc khải (xem Gioan chương 16). Chính vì thế mà ta có thể kết luận rằng, mục đích của chuyến sai đi lần này cùng lắm là để các môn đệ nếm được cái cảm nghiệm sơ khởi, ‘được cùng Thầy chia sẻ một sứ mạng’.
Sứ mạng Đức Giê-su được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn một là công bố: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần… anh em hãy sám hối” (Mc 1:15). Trong giai đoạn này việc tỏ lộ quyền năng Thiên Chúa qua các dấu lạ là rất cần thiết, nhất là đối với đám dân chúng bình dị. Đức Giê-su đã thực hiện một số phép lạ để quả quyết rằng: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11:20). Vì thế, không lạ gì, khi sai môn đệ lên đường lần này, Đức Giê-su chỉ trang bị cho các ông duy một điều, ‘Người ban cho các ông quyền trừ quỷ’. Tiếng là rao giảng, nhưng hình như các môn đệ giảng dạy rất ít, ngoài việc ‘kêu gọi người ta ăn năm sám hối’; các ông hành động nhiều hơn, ‘Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh’. Hành động như thế các ông đề cao quyền năng Thiên Chúa hơn là sức mạnh của mình. Đó là lý do, hay để làm nổi bật điều đó, ‘các ông không được mang gì đi đường… không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng… không được mặc hai áo’. Tóm lại giai đoạn này cần hành động, nhưng là hành động làm lộ rõ quyền năng Thiên Chúa.
Giai đoạn hai, đồng thời cũng là tâm điểm của sứ mạng Đức Giê-su, là mạc khải Tin Mừng cứu rỗi qua cuộc tử nạn thập giá. Giai đoạn này không cần tới nhiều phép lạ cho bằng làm sao để mọi người nhận biết lòng nhân ái vô biên của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ. Ngay cả Đức Giê-su trong giờ phút đó cũng giữ thái độ thinh lặng thay vì làm dấu lạ như vua Hê-rô-đê yêu cầu (xem Lc 23:8-11). Chương 16 sách Tin Mừng Mác-cô sẽ đề cập tới việc sai đi lần thứ hai này; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16:15). Việc loan báo này hình như cũng không cần nhiều lời giảng dạy cho bằng nhiều chứng nhân, ‘anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tân cùng trái đất’ (Cv 1:8). Các môn đệ nói chung, và Tông Đồ Gio-an nói riêng, chắc chắn đã hiểu được giá trị của việc làm chứng này; “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Hơn thế nữa, chứng từ này sẽ không phải là thuyết minh dài dòng, chưng dẫn các lý lẽ và bằng chứng thuyết phục, nhưng chủ yếu dựa vào Thần Khí Chúa, một dạng quyền năng tuyệt vời của Thiên Chúa Cứu Độ. Sai đi lần hai này là như thế, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em! Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. (Ga 20:21-22).
Như vậy ta nhận ra một điều, trong cả hai giai đoạn này vai trò của con người xem ra khá giới hạn! Suy tư trên giúp tôi nắm bắt rõ hơn tiến trình ‘truyền giáo’ và hoạt động tông đồ của Hội Thánh nói chung qua các thời đại, cách riêng các hoạt động của chính cá nhân tôi; đó là rao giảng Tin Mừng phải bằng hành động trong quyền năng Thiên Chúa, và công bố Hồng Ân Cứu Độ qua chứng tá đức tin dưới tác động mãnh liệt của Thần Khí Chúa…, đồng thời cũng cần xác định rõ, vai trò của mình trong công cuộc vĩ đại đó thật là nhỏ bé. Một rao giảng như thế cũng không đòi tôi nhất thiết phải là một bậc thánh hiền, một gương mẫu về đạo đức, một trí tuệ siêu phàm hay thông minh tài trí, nhưng ngay trong sự yếu đuối của mình, tôi có thể chứng tỏ được Thiên Chúa Cứu Độ đang hoạt động mãnh liệt và hữu hiệu nơi tôi.
Trong thời gian dưỡng bệnh tại Hàn Quốc sau cuộc tham gia trực tiếp truyền giáo ngắn ngủi tại Mông Cổ, tôi đã dành thời giờ chiêm ngắm thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và nghiệm ra các điều trên, rao giảng bằng chứng tá cuộc sống.
Lạy Chúa! Qua các thời đại, Chúa đã sai nhiều tông đồ khác nhau đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân; người này Chúa sai thực hiện giai đoạn một, người khác thể hiện giai đoạn hai, kẻ khác nữa cả hai giai đoạn cùng một lúc. Có lẽ con thuộc thành phần thứ ba chăng? Xin cho con luôn biết xác tín rằng, để trở nên môn đệ và tông đồ đích thực, con cần làm lộ rõ sức mạnh quyền năng Chúa trong hành động và hiện diện sinh động của Thần Khí Chúa trong tâm hồn con. Xin dạy con giảm bớt tin tưởng đặt nơi ‘bao bị, tiền đồng, cơm áo, v.v…’ thậm chí ngay cả trí tuệ, nhân đức hoặc thánh thiện của mình. A-men.
Khởi đầu bất cứ cuộc hành trình nào, người ta luôn phải chuẩn bị cho mình những vật dụng cần thiết. Người con gái trước khi về nhà chồng vẫn luôn được mẹ dặn dò và sắm sửa cho những gì cần phải mang theo. Cũng vậy, khi sai những học trò đi truyền giáo với bao khó khăn phía trước, Đức Giêsu cũng nhắn nhủ và căn dặn các ông kỹ lưỡng. Nhưng có một điều khá lạ thường, thay vì trang bị cho các môn đệ những vật dụng tùy thân để phòng hộ, Đức Giêsu lại khuyến mời các ông từ bỏ tất cả, ngay cả giầy dép, áo quần, gậy gộc hoặc tiền bạc. Điều duy nhất các ông mang theo nơi mình, là năng quyền trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu. Điều này xem ra khá nghịch thường, nhưng đó lại là một chỉ lệnh, một đòi hỏi bắt buộc. Bài Tin Mừng hôm nay phác vẽ chân dung đích thật của người môn đệ và đây cũng là sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi đến mọi người chúng ta hôm nay.
1. Mầu nhiệm ơn gọi
Tự bản chất, ơn gọi của chúng ta luôn là một mầu nhiệm, vì nó khởi phát từ chính Thiên Chúa. “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 16). Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Amos cũng nói về ơn gọi của mình. Ông tự thú, ông chỉ là một con người bất tài, làm nghề chăn bò và hái sung. Ông không thích và chẳng bao giờ mơ tưởng sẽ được làm ngôn sứ cho Chúa. Nhưng Chúa đã tóm lấy ông và ra lệnh: “Hãy đi công bố lời của Ta cho Israel ”. Ơn gọi của vị tiên tri hoàn toàn nằm ngoài suy tính và lựa chọn của con người. Cũng vậy, trong bài Tin mừng, thánh Marcô trình thuật về ơn gọi và sứ mạng rao giảng của nhóm mười hai. Trong nhóm học trò này, ngoại trừ Matthêu có ít vốn về chữ nghĩa, còn lại đa phần là những ngư phủ quê mùa và dốt nát. Người có chút ít học thức như Matthêu hành nghề thu thuế lại bị dân chúng coi khinh. Họ vẫn xếp những người thu thuế vào hạng tội lỗi, chẳng chút gì thiện cảm đối với những người này. Nhưng Đức Giêsu đã gọi, đã chọn, đã biến những con người bất tài như thế trở nên tông đồ, trở nên những cánh tay nối dài của Ngài trong sứ vụ cứu thế. Đối với Đức Giêsu, Ngài chẳng hề quan tâm chút nào đến quá khứ hay lý lịch của một ai. Ngài cũng chẳng cần những con người có tài có đức, có những phẩm tính ưu việt hay sở đắc nhiều bằng cấp xã hội. Cũng thế, ngày hôm nay Chúa cũng chọn mỗi người chúng ta không theo bất kỳ một quy chuẩn nào của xã hội loài người. Ngài gọi và chọn làm sao, chúng ta không hay biết, và tất cả hoàn toàn do ý muốn của Ngài. Vì thế, ơn gọi vẫn luôn là một mầu nhiệm khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người chúng ta.
2. Ơn gọi gắn liền với sứ mạng truyền giáo
Đức Giêsu đến trần gian với một sứ mạng duy nhất Chúa Cha trao ban, đó là thực thi sứ mạng cứu thế. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Cũng vậy, ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay cũng chính là ơn gọi truyền giáo, thông dự vào sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, giống như ơn gọi của các tông đồ năm xưa. Chúa sai phái những học trò thân tín của mình lên đường để họ ra đi, đến với những người đau khổ, những bệnh nhân, những người bị ma quỷ khống chế (Mc 6,13). Rõ ràng đây là sứ mệnh truyền giáo được ngỏ trao. Truyền giáo không phải là đi quảng bá một học thuyết, hoặc đi chiêu dụ người khác theo đạo. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của Đức Giêsu và các học trò của Ngài mà bài Tin mừng hôm nay vạch dẫn. Đức Giêsu là vị truyền giáo đầu tiên, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Hai ngàn năm trước, Chúa đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài đến chỉ để công bố cho thế giới một tin mừng, đó là tin mừng về lòng yêu thương mà Thiên Chúa ngỏ ban cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài” (Ga 3,16). Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá chính là đỉnh điểm của lời tuyên bố này. “Không có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13). Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa toàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa hiến tặng cho chúng ta. Đồng thời trên thập giá, Chúa Giêsu đã đạt đến sự sung mãn của sứ mệnh cứu thế mà Ngài thực hiện theo ý muốn của Chúa Cha.
Khi Chúa sai các môn đệ lên đường truyền giáo, Ngài nhắn nhủ các ông hãy mời gọi mọi người ăn năn sám hối (Mc 6,12). Đây cũng là lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đó chính là Tin Mừng về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Muốn đón nhận Tin Mừng đó, con người phải sám hối, phải metanoya, phải trở về để có thể ngụp lặn trong bầu trời bao la của tình yêu Thiên Chúa.
Cũng vậy, sứ mạng truyền giáo của mọi tín hữu chúng ta chính là rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người. Nhưng chúng ta rao giảng bằng cách nào? Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Giáo hội ngày nay cần những chứng nhân hơn là những thày dạy”. Chúng ta rao giảng Tin Mừng nhưng không phải rao giảng bằng lý thuyết trên đầu môi chót lưỡi, mà bằng chứng tá cuộc sống cách cụ thể. Một nguyên tắc giản đơn nhưng rất căn bản của việc truyền giáo, đó là chúng ta không thể công bố Tin Mừng, công bố về tình yêu của Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta cằn cỗi và thiếu vắng tình yêu. Để có thể lấp đầy tình yêu nơi tâm hồn mình, chúng ta phải biết cách làm cho con người chúng ta trở nên trống rỗng, phải biết tự hư vô hóa chính mình. Đây là điều kiện căn bản của việc thực thi sứ mệnh truyền giáo mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay : sống tinh thần nghèo khó cách tận căn.
3. Chân dung nghèo khó của người môn đệ Đức Giêsu
Chúa dặn dò các môn đệ “Anh em không được mang gì đi đường chỉ trừ cây gậy. Không được mang lương thực bao bị hay tiền bạc giắt lưng, được đi dép nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6 8-9 ). Sống nghèo khó triệt để là một mệnh lệnh. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để trở thành môn đệ Đức Giêsu và để phục vụ cho vương quốc Nước Trời. Nghèo khó là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi. Chúa cũng nói với chàng thanh niên: “Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta” (Mc 10,21).
Tinh thần nghèo khó Chúa nói ở đây hệ tại ở thái độ nội tâm, không dính bén của cải vật chất để toàn tâm phục vụ cho ơn cứu độ và trở nên sứ giả phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng. Chắc chắn Đức Giêsu không cổ súy cho một lối sống bần cùng, túng quẫn đến độ dễ làm tha hóa con người và khiến chúng ta rơi vào tình trạng dễ đánh mất đi phẩm giá chính mình. Trong ba năm rao giảng, Chúa vẫn nhờ vả sự giúp đỡ của những phụ nữ giàu có. Ngài cũng chọn một trong các học trò của mình làm người quản lý tài sản. Chúa vẫn lui tới dùng bữa với những người giàu như Giakêu. Để tổ chức bữa tiệc ly và thiết lập Bí Tích Thánh thể, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có trong vùng. Sự giàu có mà Chúa kết án ở đây là thái độ sống thượng tôn tiền bạc một cách hẹp hòi ích kỷ đến mức độ Chúa phải nói một cách thẳng thừng: “Người giàu vào Nước Trời khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào được Nước Trời” (Mt 19,23). Người thanh niên giầu có khi đến gặp Chúa, được Chúa nhìn với đôi mắt thiện cảm vì anh ta tuân thủ lề luật rất nghiêm túc. Chúa nói với anh ta, anh chỉ thiếu mỗi một điều là hãy về cho đi mọi của cải anh có. Cái thiếu nơi người thanh niên ấy, là anh ta đã không biết cho đi, và vẫn bám vào của cải, đặt tiền bạc lên trên hết. Chúng ta cũng nhớ lại dụ ngôn người phú hộ giàu có và chàng Lazaro nghèo kiết xác (Lc 16,19-31). Anh chàng phú hộ này đâu có tội tình gì. Anh ta đâu có ăn trộm ăn cắp của ai. Anh ta cũng chẳng giận ghét hay oán thù người nào. Nhưng anh ta bị kết án trầm luân trong hỏa ngục chỉ vì mỗi một tội duy nhất, đó là anh ta luôn mang nơi mình một con tim ích kỷ và keo kiệt, luôn rửng rưng và vô cảm trước nỗi khổ đau của người khác. Một triết gia đã nói : “Chỉ có loài vật mới đang tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không.” Nghèo khó của Tin mừng mà Chúa muốn nói tới, luôn gắn liền với lòng quảng đại, biết cảm thông, biết hiến dâng và trao ban. Đó chính là tinh thần nghèo khó mà Chúa khuyến mời các tông đồ thực hiện đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay.
Một nhà tu đức đã nói: “Không ai nghèo đến mức độ không có cái gì để cho”. Thánh Vinh sơn Phaolô đã từng nói với các con cái của Ngài: “ Chúng con đừng quên những người nghèo mà Chúa gửi đến. Họ là ân nhân và là ông chủ của các con. Các con hãy phục vụ họ với tình yêu”. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng nhắn nhủ các nữ tu của Mẹ: “Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những người nghèo. Chính nhờ họ mà chúng ta có cơ hội làm việc với nhau, và sống ơn gọi của mình”.
Để kết luận, xin trích dẫn một giai thoại. Các nhà truyền giáo sau một thời gian làm việc ở Ấn Độ, cảm thấy mình không mấy thành công. Họ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi: “Thưa ông, làm cách nào để những người Hindu ở đây đón nhận ánh sáng đức tin? Nhiều năm qua chúng tôi đã vất vả, nhưng công việc truyền giáo của chúng tôi chẳng đi đến đâu.” Gandhi trả lời: “Các anh hãy nhìn vào những bông hoa hồng, người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp quyến rũ của nó, nhưng vì nó còn tỏa ra một hương thơm dịu dàng làm mọi người ngây ngất say mê. Các anh hãy làm việc với bí quyết đơn giản này”. Sứ vụ truyền giáo của chúng ta ngày hôm nay, cũng như của các tông đồ năm xưa chỉ đạt được kết quả nếu cuộc sống của chúng ta luôn lan tỏa hương thơm của tình yêu. Đó là tình yêu phát nguồn từ chính Đức Kitô như Thánh Phaolô đã cảm nghiệm : “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi”. Đó cũng là tình yêu đặt nền tảng trên tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu đã vạch dẫn và mời gọi các học trò của mình thi hành. Chúng ta hãy sao chép lại lối sống của Đức Kitô, đấng “ vốn là Thiên Chúa giàu sang, đã tự nguyện trở nên khó nghèo, để cho chúng ta được thông dự vào sự giàu sang của Ngài” (2 Cor 8,9).
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người: TN15-B103
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục. Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa. Giáo huấn thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi đúng với những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp một người cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi, chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn uống bất cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách nhiệm động viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ: TN15-B104 Luong
- Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
“Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.”
Các làng chung quanh ở đây là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp tới.
“Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.”
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào “chín chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba người làm chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số đoạn nhắc đến cặp “hai người”, như trong cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Như vậy, việc làm chứng của “hai người” còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được “tô đậm”, quyền năng giải phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng được: “Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.
“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?
“Không được mang gì đi đường”, nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Vật được mang theo là gậy và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết: “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA làm.” (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.
Người loan báo tin mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.
“Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.”
Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa “đâm rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin Mừng.
“Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một: TN15-B105
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an. Câu hỏi gợi ý chia sẻ 1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ. 2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?
Lm. Anto Kudukkamthadam là cha Sở Họ Đạo Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội: TN15-B106
Lm. Anto Kudukkamthadam là cha Sở Họ Đạo Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội học đã giúp cha Anto biết rõ địa hình địa thế của Xứ Đạo. Theo cha, có từ 5-7% dân làng là người giàu, 10% là giới trung lưu, còn lại 80% là người nghèo. Thế nhưng, cha Anto nói: "Vị Linh Mục Tu Sĩ nào dám công khai lên tiếng tố giác hố sâu bất công này thì tính mạng bị lâm nguy. Nữ Tu Rani Maria bị ám sát cách dã man, chỉ vì chị hoạt động xã hội, khuyến khích các bà các cô biết tự tổ chức, phân định các hoàn cảnh và làm việc chung với nhau. Hoạt động của chị Rani Maria mang lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả tốt đẹp lại gây khó chịu cho giới giàu có trong làng và họ thuê người giết chị.”
Thời gian đầu vô cùng khó khăn. Một ngày, tôi tưởng như giờ cuối cùng đã điểm. Một nhóm thanh niên thuộc phong trào chính trị Ấn Giáo đến Giáo Xứ gặp tôi. Họ chất vấn tôi đủ điều: "Ông là ai mà dám ở đây ? Rồi ông đến đây để làm gì ? Ông không phải dân địa phương, như thế có nghĩa ông nhận tiền viện trợ của Anh hoặc của Mỹ !" May mắn thay, tôi nói được tiếng Hindi địa phương. Sau khi giải thích việc đang làm, tôi kết thúc: “Các anh có thể giết tôi, tôi sẵn sàng chết vì Đức Chúa Giêsu Kitô !
Dần dần, họ dịu lại. Một thời gian sau, khi họ thấy chúng tôi thật sự giúp dân làng, đặc biệt mở các lớp học bình dân, thì chính những người từng dọa giết tôi, lại gửi con cái họ đến học trường chúng tôi ! Cha Anto lấy lại bình tĩnh nhờ cầu nguyện và suy gẫm mỗi ngày. Rồi từ sau vụ khỏi bệnh lạ lùng, uy tín của cha Anto càng gia tăng thêm. Số là, một ngày kia, một dân làng bị bò húc gãy xương sống. Họ mang người bị nạn đến, xin cha chữa vì nghĩ cha là thầy thuốc. Cha Anto nói với người bệnh: "Tôi không có thuốc, nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa Giêsu Kitô có thể chữa ông lành.” Nói xong, cha đặt tay trên ông và sốt sắng cầu nguyện. Bỗng chốc người bị nạn đứng lên và đi đứng như thường.
Từ đó, cha Anto điều động một nhóm cầu nguyện và tiếp tục làm việc Tông Đồ trong an bình, không còn bị quấy nhiễu nữa ! ( Nữ Tu Jean Berchmans Minh Nguyệt, “Missions Étrangères de Paris” )
Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng, ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế, sự dữ, ma quỷ. Nhưng dặn các ông không được mang theo tiền của, lương thực, hành trang nào khác ngoài Lời Chúa. Cha Anto Kudukkam-thadam đã áp dụng chuẩn xác những điều Đức Giêsu răn dạy khi đi rao giảng.
Sống đơn sơ
Thoát khỏi cám dỗ vật chất, tiện nghi, không lương thực, bao bì, tiền bạc, không áo quần rườm rà, kiểu cọ, thời trang, mà sống đạm bạc, đơn sơ, thanh đạm, Tông Đồ mới có thể can đảm dấn thân đi rao giảng kết quả hữu hiệu. Bao lâu còn bị những ràng buộc vật chất, của cải, danh lợi, chức tước, quyền lực khuynh đảo, quản lý và trói buộc, thì chẳng còn hồn Tông Đồ, mà chỉ còn hồn Trương Ba, da hàng thịt, là kẻ cơ hội, mưu lợi cá nhân, vinh thân phì gia, cúc cung bái thần tài, nô lệ cho thân xác, thế gian và ma quỷ. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” ( Mt 6, 24 ).
Đức Thánh Cha Phanxicô hẳn phải rất băn khoăn, lo lắng cho tiền đồ Hội Thánh mới công khai nhắc nhở các Linh Mục: "Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình." Khi ngài cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô, vào lúc 9 giờ 30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, 28.3.2013.
Sống phục vụ
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi." Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ như thế nào, mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường được trao, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, thi hành đầy đủ chức năng, bổn phận và Ơn Gọi. Vì Đi Gieo là phục vụ chứ không phải được phục vụ, mà kén cá chọn canh, là sẵn sàng đón nhận gian lao, khó khăn, hy sinh và hiểm nguy đến tánh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” ( Mc 8, 34-35 ).
“Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa, để con được lớn lên” ( Đường Hy Vọng, số 610 ).
Sống công chính
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." Không thỏa hiệp với sự dữ, cái ác, với thế gian và với ma quỷ, Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô, không cần mỵ dân, không a dua bầy đàn theo xã hội, theo khuynh hướng thế tục, ham danh háo lợi, khoa trương, kiêu căng, kiêu hãnh.
Khôn ngoan thế gian hay cám dỗ hòa hợp, thỏa hiệp để tồn tại, để phát triển, để xây nhà thờ, nhà xứ cho đồ sộ, nguy nga, để sinh hoạt giáo xứ sầm uất, rầm rộ, xôm tụ, danh tiếng, mà bỏ bê tâm hồn giáo dân nguội lạnh, xa Chúa thì phỏng được ích gì ?
Thánh Phaolô chỉ duy nhất lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” ( Gl 6, 14 ).
“Ánh sáng Tông Đồ của con phải chuyển sang những lớp Tông Đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm Tông Đồ cho Tông Đồ” ( Đường Hy Vọng, số 305 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Chúa mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng, nhưng chúng con còn mãi bận rộn, tất bật với đủ chuyện thế gian, lo toan giành giật làm ăn, kiếm tiền, kiếm chức, kiếm danh, lại còn đam mê những thứ phù phiếm hư ảo chóng qua. Xin Chúa thức tỉnh chúng con, biết dần bỏ đi mọi sự phù vân, mà can đảm lên đường theo Chúa làm chứng nhân.
Mẹ Maria ơi, xin Mẹ cầu bầu cứu giúp chúng con bừng tỉnh, thoát ra khỏi thung lũng đầy nước mắt này, để chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, sám hối, ăn năn, tái sinh trong Chúa Thánh Thần, trở nên người Đi Gieo Lời Chúa cho muôn người. Amen.
Là nhân viên của bất kỳ đoàn thể, tổ chức, công ty, xí nghiệp nào cũng đều có nội quy riêng của: TN15-B107
Là nhân viên của bất kỳ đoàn thể, tổ chức, công ty, xí nghiệp nào cũng đều có nội quy riêng của nơi ấy. Và tính cách, đặc điểm riêng của từng thành viên sẽ nói lên tính chất của cả tổ chức, cộng đoàn đó. Nói thế cũng đồng nghĩa với việc khẳng định: con người làm nên tập thể, cá nhân chính là tiếng nói chung của cả tập thể.
Như vậy vai trò của từng cá thể rất quan trọng. Vai trò đó còn đặc biệt hơn nếu là vai trò tôn giáo, là người loan báo niềm tin. Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình cách thức trở nên người Tông Đồ đích thực của Thiên Chúa.
Việc đầu tiên người môn đệ phải thực hiện đó chính là cùng nhau: “Người sai đi từng hai người một” ( Mc 6, 7 ). Ngài không sai riêng rẽ từng người nhưng là cùng nhau đi rao truyền Lời Chúa. V́ Tin Mừng là tin vui của mọi người và phải cùng nhau chia sẻ, loan truyền. Cùng nhau đi rao giảng để Đức Tin người này là điểm tựa của người khác, để cùng bổ túc, hỗ trợ cho nhau. Ngay từ nguyên thủy, Ngài đã tạo dựng con người sống theo cộng đoàn, không hề có riêng ai là một hòn đảo tách biệt, không ai sống đơn độc trên thế giới này. Thế giới được tạo dựng nên cho nhau và vì nhau.
Quyền hạn người Tông Đồ có được, không do tự bản thân họ, nhưng chính là quyền năng Thiên Chúa ban. Ngài đã ban cho họ các quyền năng để phục vụ việc rao giảng Tin Mừng cho Danh Chúa được cả sáng chứ không phải vinh danh bản thân họ: “Người ban cho các ông quyền trừ quỷ” ( Mc 6, 7 ). Hành trang mà người Tông Đồ cần phải mang theo chính là cây gậy và đôi dép, nhưng không được mang theo lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, và không mặc hai áo ( x. Mc 6, 8-9 ). Những điều kiện mà Đức Giêsu đòi hỏi thật ra chỉ tóm gọn trong việc phó thác, tin tưởng và vâng phục. Điều người Tông Đồ cần trang bị cho mình hơn hết chính là niềm tin vào quyền năng, sự quan phòng và tình yêu của Thiên Chúa.
Khác hẳn với những nhân viên thuộc đoàn thể khác, người môn đệ của Đức Giêsu chỉ cần trong mình có Chúa. Có niềm tin vào Thiên Chúa, có tình yêu với Thiên Chúa, có sự trông cậy vào quyền năng Thiên Chúa và vâng phục Ngài. Muốn trở thành nhân viên tài giỏi người ta dựa vào kiến thức và tài năng vận dụng kiến thức ấy trong công việc, nhưng người Tông Đồ của Chúa chỉ cần có Lòng Tin, Lòng Cậy và Lòng Mến vào Thiên Chúa mà thôi. Mọi thứ khác chẳng phải Ngài đã hứa sẽ ban cho hay sao, ngay cả lương thực là thứ cần thiết nhất để tồn tại mà người Tông Đồ cũng chẳng cần phải quan tâm lo lắng nữa kìa.
Tất cả những điều trên cho chúng ta thấy rằng, Tông Đồ của Chúa thực sự chỉ là công cụ Ngài dùng, còn việc Tông Đồ hoàn toàn là do Thánh Thần Ngài hoạt động và làm việc. Tất cả đều do quyền năng của Ngài. Nếu như người Tông Đồ hiểu được điều căn bản ấy, thì chắc chắn sẽ gặt hái được kết quả thành công mỹ mãn và không còn e sợ bất cứ sự gì bất trắc xảy đến với họ trong hành trình loan báo Tin Mừng nữa.
Là Kitô hữu, chúng ta đã được lãnh nhận sứ mạng Ngôn Sứ ngay từ khi gia nhập cộng đoàn tín hữu Công Giáo. Sứ mạng truyền giáo là sứ mạng của mỗi người và từng người, không phân biệt ai. Có rất nhiều cách thức truyền giáo nhưng truyền giáo trước tiên phải ngay chính nơi mình hiện diện, ngay tại nơi ta làm việc, bên cạnh những người chúng ta gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày. Chúng ta đã có được tâm tình tin tưởng, cậy trông phó thác và lòng mến tuyệt đối vào Thiên Chúa hay chưa ?
Bệnh thành tích là căn bệnh lớn nhất của thời đại, căn bệnh đó cũng không loại trừ người Tông Đồ của Chúa. Chính vì hiểu sai tác nhân chính của việc truyền giáo là Chúa Thánh Thần và thành quả của truyền giáo cũng chính là công việc của Chúa Thánh Thần, nên người Tông Đồ đã dễ dàng sa ngã, sai đường lạc lối, đôi khi còn thất vọng, bỏ cuộc trước những bất toàn xảy ra ngoài ý muốn riêng họ.
Nếu như ai cũng ý thức được rằng đó là việc của Chúa thì dù tốt dù xấu thế nào không quan trọng. Điều chúng ta cần làm không phải chỉ là chu toàn bổn phận đó sao ?
Lạy Chúa, con đã từng làm công việc Tông Đồ đặc trách của Thiên Chúa. Con cũng đã từng nuôi mơ ước, nuôi hy vọng làm nên kỳ tích lớn trong thế giới này bằng chính nhiệt huyết Tông Đồ của mình. Thời gian ấy con như con thiêu thân lao vào hoài bão của mình không mệt mỏi. Thế rồi một ngày kia con chợt nhận ra mình đã mất tất cả có lẽ vì con đã không vâng phục Thiên Chúa, con chưa có tình yêu và niềm tin, niểm trông cậy vào Ngài. Thế là con đã gục ngã và bỏ cuộc. Như một kẻ thất trận không lời biện minh, con lầm lũi tìm lại chính mình. Có lẽ con chưa đủ điều kiện để trở thành người môn đệ thật mà lại ôm ấp hoài bão lớn chăng ?
Giờ đây con chỉ là một cành hoa dại bé nhỏ tầm thường và ẩn dật. Mỗi ngày và từng ngày, con loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống âm thầm của mình, không ỷ vào sức riêng, không cậy dựa vào tài năng, không nại vào tên tuổi... Con khẩn nguyện cho gia đình con, những người thân yêu sống chung quanh con được bình an và hạnh phúc trong Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa. Đó cũng chính là mơ ước làm Tông Đồ duy nhất và cuối cùng của đời con.
Cảm nghiệm sâu sắc về việc cầu nguyện, tác giả Thánh Vịnh đã xác định niềm tin và sự thỏa mãn: TN15-B108
Cảm nghiệm sâu sắc về việc cầu nguyện, tác giả Thánh Vịnh đã xác định niềm tin và sự thỏa mãn ân tình của Thiên Chúa:
Sống trong công chính mọi ngày Con đây hạnh phúc thấy ngay Chúa Trời Mỗi khi con thức giấc đời Thỏa lòng chiêm ngưỡng rạng ngời Thánh Nhan ( Tv 17, 15 ).
Cuộc đời luôn có nhiều dạng ra đi. Ai cũng có kinh nghiệm ít nhiều về sự ra đi, vì ai cũng đã từng ra đi hoặc chứng kiến người khác ra đi. Cuộc ra đi có thể gần hoặc xa, mau hoặc lâu, nhưng vẫn là một cuộc ra đi. Buồn lắm, nếu cuộc ra đi không hẹn ngày tái ngộ: Người yêu người mà chia tay, bạn bè chấm dứt mối quan hệ, anh chị em ruột không muốn nhìn mặt nhau... Với các nguyên nhân khác nhau: Ghen tương, ích kỷ, tham lam, cố chấp, độc đoán... Và buồn nhất vẫn là cuộc ra đi mãi mãi, không hẹn trở lại: Chết !
Tuy nhiên, có những cuộc ra đi đầy phấn khởi, rất vui vẻ đối với cả người ra đi và người ở lại, vì cuộc ra đi này được mong đợi từ lâu – chẳng hạn như việc xa nhà lên thành phố học đại học, con gái theo chồng, người đi định cư ở quốc gia khác… Nhưng hẳn là vui mừng và cần thiết nhất là cuộc ra đi vì sứ mạng: Loan báo Tin Mừng. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” ( Mc 16, 15 ). Đó là nhiệm vụ quan trọng đối với mọi Kitô hữu.
Ra đi cũng có “phong cách” riêng, loan báo Tin Mừng cũng vậy. Có người ra đi, nhưng người ta có đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chẳng hạn, có những thuyền nhân không được quốc gia nào đó tiếp nhận, hoặc có những người khách đến mà người ta không tiếp đón. Nhưng có những người đi đâu cũng được tiếp đón nồng hậu. Sự đời cũng lắm chuyện nhiêu khê !
Có lần sau khi xung đột, Amátgia nói với ông Amốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm ! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” ( Am 7, 12-13 ). Ông Amốt đã không được người ta tiếp nhận. Nghe lạ mà không lạ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu – Ngôn sứ của mọi ngôn sứ – cũng đã bị người ta khước từ khi Ngài trở về quê quán Nadarét ( Mt 13, 53-58; Mc 6, 1-6; Lc 4, 16-30 ). Thật khó có thể tưởng tượng nổi một tình huống quá phũ phàng như vậy !
Sau khi nghe Amátgia nói vậy, ông Amốt trả lời: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta” ( Am 7, 14-15 ).
Ngôn Sứ Amốt không dám nhận mình là Ngôn Sứ nhưng ông thực sự là Ngôn Sứ, dù ông bị “ép buộc” làm Ngôn Sứ, đi rao giảng cho dân Ítraen ( ảnh minh họa ). Ông Amốt ở miền Nam Giuđê nhưng đi rao giảng ở miền Bắc Ítraen. Ông là người đương thời với hai Ngôn Sứ Hôsê và Isaia, hoạt động vào khoảng năm 750 ( trước Công Nguyên ), thời vua Giêrôbôam II. Ông Amốt qua đời năm 745 ( trước Công Nguyên ).
Trung hiếu là đức tính được đề cao. Cụ Nguyễn Đình Chiểu đã đề cập ngay câu lục bát đầu tiên của tác phẩm Lục Vân Tiên: “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Nói là nói vậy, chứ nam hay nữ đều cần trung hiếu. Thiên Chúa cũng quý mến người trung hiếu. Tác giả Thánh Vịnh đã nói: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85, 9-10 ). Chắc chắn ai cũng mơ ước một đất nước “đại đồng” như vậy, nhưng có lẽ ước mơ vẫn chỉ là mơ ước đối với chúng ta trên thế gian này !
Dù biết chỉ là mơ ước thì chúng ta cũng vẫn phải ước mơ, khao khát, mong mỏi. Chắc chắn điều đó sẽ đạt được khi có Thiên Chúa. Và thời kỳ đó đã thực sự đến giữa chúng ta, ngay trên thế gian này: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” ( Tv 85, 11-14 ). Nước Thiên Chúa đã đến, việc còn lại là trách nhiệm của chúng ta: Thực hiện công lý. Có công lý ắt sẽ có hòa bình. Chưa có hòa bình vì chúng ta chưa thực hiện công lý – nghĩa là chúng ta còn đàn áp nhau, áp bức kẻ yếu, đè bẹp kẻ nghèo khổ, thậm chí còn “dàn cảnh” để cướp giật của người khác. Họ ích kỷ với quan niệm: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Thiên Chúa biết phàm nhân “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, nhưng Ngài vẫn hết mực yêu thương và đã chính thức thiết lập Kế hoạch Cứu độ – ngay từ khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội bất tuân lệnh của Thiên Chúa [ Ađam và Eva không là tên riêng, chỉ là tên tượng trưng để gọi hai con người đầu tiên: Ađam nghĩa là “con người” hoặc “từ bụi đất”, Eva nghĩa là “người cộng sự” ].
Thật hạnh phúc khi chúng ta có một Thiên Chúa tuyệt đối như vậy. Thảo nào Thánh Phaolô đã không thể lặng im mà phải lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” ( Ep 1, 3-4 ). Hạnh phúc chồng lên hạnh phúc, niềm vui nối kết nỗi mừng. Tại sao ? Bởi vì không chỉ chúng ta được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ, mà còn được Ngài quan tâm chăm sóc không ngừng: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” ( Ep 1, 5-7 ).
Quả thật, dành cả đời đời của tỷ tỷ người để tạ ơn Ngài cũng không đủ chứ nói chi tới một cuộc đời của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” ( Ep 1, 8-12 ).
Thật vậy, Cựu Ước đã xác định: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa” ( Hc 11, 14 ). Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, nhưng trong mọi hoàn cảnh, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” ( Rm 8, 28 ). Nhận biết được như vậy là bắt đầu trưởng thành tâm linh. Nhưng muốn trưởng thành trong đời sống Kitô giáo, chúng ta cần phải có ba yếu tố quan trọng: Yêu Thương, Tha Thứ, và Chấp Nhận. Đó là tam-giác-sống như điều kiện ắt có và đủ, thế nhưng lại không hề đơn giản – nghĩa là phải nỗ lực không ngừng qua từng hơi thở.
Thánh Phaolô cho biết thêm, đồng thời cũng xác định và động viên chúng ta sống tích cực: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” ( Ep 1, 13-14 ). Vì tin tưởng mà chờ đợi, khi chờ đợi thì phải hành động, chứng tỏ bằng hành động là can đảm gặp gỡ tha nhân, muốn gặp gỡ thì phải đứng dậy và vào đời.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mc 6, 7-13 ( Mt 10, 5-15; Lc 9, 1-6 ), nói về việc Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi giảng. Ngài gọi sai họ đi từng hai người một. Để cung cấp “hành trang” cho họ lên đường, Ngài đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Tuy nhiên, Ngài đưa ra chỉ thị xem chừng “không giống ai” chút nào ráo trọi: Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Chúa Giêsu nói rất rõ ràng, không úp mở, không bóng gió, thế mà thật buồn khi thấy có người vẫn dám làm trái ngược, xao lãng cái chính mà chú trọng cái phụ, lem nhem về chuyện tiền bạc, tìm cách lo thu gom vật chất vì mục đích cá nhân ! [Xem: http://vietcatholic.com/News/Html/140212.htm].
Chúa Giêsu không muốn ai dính bén vật chất, vì vật chất sẽ làm người ta mù quáng, thế nên Ngài bảo “ra đi với đôi tay trắng”, và Ngài căn dặn các môn đệ rất cặn kẽ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” ( Mc 6, 10-11 ). Chúa Giêsu luôn có phong cách thanh thản và tự nhiên: Người ta không tiếp nhận mình thì thôi, đi nơi khác chứ cũng không ghét bỏ ai. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Đơn giản thôi !
Các ông ra đi rao giảng Nước Trời, kêu gọi ăn năn sám hối, trừ quỷ, xức dầu và chữa người ta khỏi bệnh tật. Đó là sống yêu thương, thực hiện lòng thương xót với bất cứ ai, đặc biệt là đối với những người không ưa mình, kể cả những kẻ thù. Sống lòng thương xót là sẵn sàng và can đảm ra đi, vào đời, ra khơi, vào giữa bầy sói, …
Lạy Chúa, xin cho con biết bình tĩnh chấp nhận thua thiệt và đón nhận những gì không thể thay đổi, can đảm THAY ĐỔI những gì CẦN THAY ĐỔI, càng sớm càng tốt, và khôn ngoan phân biệt con người và hoàn cảnh của con với con người và hoàn cảnh của người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
“Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai
và bắt đầu sai đi;
Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” (Mc 6,7.12a)
Các bài đọc hôm nay nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng cho Chúa (truyền giáo). Về nguồn gốc, sứ vụ TN15-B109
Các bài đọc hôm nay nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng cho Chúa (truyền giáo). Về nguồn gốc, sứ vụ này là một ơn gọi, vì được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi. Về mục đích, sứ vụ này nhắm đến việc rao giảng về chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng lời nói và hành động hầu kêu gọi người ta ăn năn sám hối để được đón nhận ơn cứu thoát.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Am 7,12-15)
Bài đọc I cần được đọc trong bối cảnh lịch sử của Dân Chúa thời đó. Sau khi vua Salômon qua đời (năm 931 Tcn), mười hai chi tộc Israel phân chia: 2 chi tộc trung thành với vương triều Đavít lập thành vương quốc Giuđa ở phía Nam; 10 chi tộc còn lại tách ra thiết lập vương quốc Israel ở phía Bắc.
Ngôn sứ Amos xuất thân từ vương quốc Giuđa phía Nam, nhưng được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ ở vương quốc Israel phía Bắc. Như thế, người thi hành sứ vụ ngôn sứ mà Thiên Chúa trao phó không phụ thuộc vào một miền đất nhất định nào đó, và sứ vụ đó không phải do ý muốn hay nỗ lực cá nhân của con người, nhưng do Thiên Chúa tuyển chọn.
Vào lúc đó, xét về đời sống bên ngoài, dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình và thịnh vượng nhưng xét về thực trạng bên trong, xã hội đầy dẫy những bất công, nhất là người giàu có và quyền thế đàn áp bóc lột dân nghèo trong xứ. Trong bối cảnh đó, ngôn sứ Amos loan báo lời Chúa để kêu gọi dân thay đổi lối sống áp bức kẻ nghèo về mặt xã hội; đồng thời lên án mạnh mẽ việc thực hành tôn giáo mà thiếu đời sống luân lý lành mạnh. Thêm vào đó, khi thấy hiểm họa xâm lăng của các đạo quân Átsua, ông đã tiên báo rằng vua Giơrôbôam sẽ bị ám sát và Israel sẽ bị đưa đi lưu đày. Ông cảnh báo vua và dân để giúp họ hồi tâm, thay đổi lối sống mà trở lại cùng Thiên Chúa để được cứu thoát.
Tuy nhiên, như bao ngôn sứ khác, sứ vụ của Amos gặp nhiều khó khăn. Vì trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, nên ngôn sứ Amos bị dân chúng ghét bỏ, ngay cả tư tế Amasia ở Đền thờ Bêthel cũng trục xuất ông về vương quốc Giuđa. Tuy nhiên, ngôn sứ Amos đã nhất quyết ở lại Israel để thi hành sứ vụ của mình, vì ông ý thức được rằng sứ vụ đó không xuất phát từ bản thân nhưng từ Thiên Chúa. Ông tự nhận “tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ” (Am 7,14), nhưng “chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi và đã truyền cho tôi‘Hãy đi tuyên sấm cho Israel’” (Am 7,15). Do đó, ông sẽ không từ bỏ sứ vụ đó bao lâu sứ điệp của Thiên Chúa chưa được dân đón nhận và thực hiện.
2. Bài đọc II (Ep 1,3-14)
Bài đọc II là một bài thánh ca thuộc thể loại tạ ơn truyền thống của Dothái. Thánh ca này có nội dung chính mang tính Kitô học, nói về vai trò trung tâm của Đức Kitô trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi; đồng thời, đó cũng là một bài mặc khải về ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người.
Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta từ trước cả khi tạo thành vũ trụ, đã thi ân giáng phúc, cho hưởng ân huệ của Thánh Thần để chúng ta được trở nên tinh tuyền thánh thiện, được làm nghĩa tử, và nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, chúng ta được cứu chuộc và thứ tha tội lỗi, và quy tụ muôn loài dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Nếu nói về tiền định của Thiên Chúa, thì đó là sự tiền định “cho ta làm nghĩa tử”, chứ không tiền định cho ai bị “diệt vong” bao giờ. Như vậy, việc chúng ta được làm “nghĩa tử” hay bị “diệt vong” là tùy thuộc quyền chọn lựa của chúng ta đáp trả ý định của Thiên Chúa.
Nhưng làm sao để con người nhận ra ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa và vai trò của Đức Kitô trong chương trình cứu độ của Người, nếu không nhờ vào việc làm chứng của các tông đồ. Quả thật, các tông đồ là “những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô” và “ngợi khen vinh quang của Người” (Ep 1,12), và đến lượt ra đi làm chứng để “trong Đức Kitô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin mừng cứu độ anh em” và “một khi đã tin như thế, anh em được đóng ấn Thánh Thần” (Ep 1,13a).
3. Bài Tin Mừng (Mc 6,7-13)
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ của Nhóm Mười Hai, tức các tông đồ. Đoạn Tin Mừng được chia làm hai phần chính: Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi loan báo Tin Mừng (Mc 6,7-11) và các ông thi hành sứ vụ đó (Mc 6,12-13).
Quả thật, Đức Giêsu đã lập Nhóm Mười Hai với mục đích: để các ông ở với Người và để sai các ông đi rao giảng (x. Mc 3,14). Như thế, sau khi “đã ở với Người”, các ông được “sai đi làm chứng” để tiếp tục sứ vụ của Người.
Đức Giêsu sai các tông đồ đi từng hai người một. Điều này nói lên rằng chứng của các ông về Đức Giêsu là chứng thật vì theo quy định của Lề Luật, một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng trở lên (x. Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30; Mt 18,16; Ga 8,16-17). Hơn nữa, đi từng hai người một không chỉ để an toàn và giúp đỡ nhau, nhưng quan trọng hơn là để biểu lộ tinh thần hiệp nhất, và nói lên việc làm chứng cho Tin Mừng này mang chiều kích cộng đoàn.
Gắn liền với việc sai đi rao giảng, Đức Giêsu ban cho các tông đồ quyền trên các thần ô uế, tức trừ quỉ (x. Mc 6,7). Điều đó muốn nói lên rằng sứ vụ loan báo Tin Mừng của các ông bào gồm việc chữa lành cả thể lý: bệnh tật; lẫn tinh thần: trừ quỉ (x. Mc 3,14-15; 6,7.12-13). Đây cũng chính là sứ vụ của Đức Giêsu (x. Mc 1,14-15; 1,21-27; 1,39). Như thế, các tông đồ là người tiếp tục sứ vụ của chính Thầy mình. Quả thật, Đức Giêsu chia sẻ sứ vụ đó cho các tông đồ là những kẻ đã nghe lời Người và chứng kiến việc Người làm, nghĩa là đã được “huấn luyện” với Người.
Sứ điệp mà các tông đồ rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 7,12) và dĩ nhiên là vì “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó cũng chính là sứ điệp mà Đức Giêsu đã loan báo lúc bắt đầu sứ vụ rao giảng của Người (x. Mc 1,14-15). Sứ điệp Tin Mừng này đòi hỏi sự canh tân nơi người nghe, hầu có thể đón nhận ơn cứu thoát.
Lệnh truyền không được mang gì đi đường (x. Mc 7,8-9) nói lên tính cấp bách của sứ vụ loan báo Tin Mừng và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn cho Thiên Chúa quan phòng khi thi hành sứ vụ đó. Như thế, cuộc đời tông đồ là một cuộc lữ hành. Hành trang vật chất các ông mang theo chỉ là những gì tối cần cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép, không cần mang theo lương thực, bao bị, tiền giắt lưng và đi từ nhà nay qua nhà khác, làng này qua làng khác. Nếu không, các ông lại lo tìm kiếm những phương tiện mà quên đi mục đích. Chúa muốn rằng người tông đồ không cần mang theo và cũng chẳng cần sở hữu gì ngoài Sứ điệp Tin Mừng.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Làm chứng cho Chúa, loan báo Tin Mừng (hay truyền giáo) là sứ vụ làm nổi bật căn tính của Hội Thánh và của mỗi Kitô hữu. Chúng ta ý thức được điều đó qua việc mỗi khi tham dự Thánh lễ, trước khi ra về, mọi người được cầu chúc và mời gọi: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.” Như thế, Thánh Lễ chưa kết thúc mà còn kéo dài suốt cả ngày và đi vào trong cuộc sống. Nói cách khác, đây là mời gọi đi loan báo Tin Mừng. Sau khi đã tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể trong Thánh lễ thì đến lượt, người Kitô hữu được mời gọi đem Lời Chúa, đem Đức Kitô đến cho người khác trong môi trường sống thường nhật của mình. Đó chính là đi làm chứng cho Đức Kitô giữa lòng đời. ĐGH Phanxicô cũng luôn tâm niệm điều trên khi ngài nhắc nhở chúng ta trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng: “Chúng ta hãy đi ra, đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Ðức Chúa Giêsu Kitô”, và ngài nói “Tôi muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Hội Thánh bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn riêng của mình.” Ngài lưu ý thêm: “bên ngoài, có vô số người đói khát, và Chúa Giêsu liên tục nhắc cho chúng ta rằng: ‘Các con hãy cho họ ăn’” (số 49).
2. Về phía người nghe, không phải ai cũng đón nhận Sứ Điệp Tin Mừng mà người Kitô hữu loan báo. Hệ luận là trong khi thi hành sứ vụ, không phải lúc nào các sứ giả cũng được người ta tiếp nhận vui vẻ, nhiều khi còn bị người ta chống đối và xua đuổi như trường hợp ngôn sứ Amos. Thời đại của chúng ta cũng có nhiều thách đố tương tự và hơn thế nữa, như ĐGH Phanxicô đã đề cập trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (ss. 52-75). Tuy nhiên, dù gặp khó khăn và thách đố đi chăng nữa, người môn đệ của Đức Giêsu luôn xác tín thi hành sứ vụ của mình, vì biết rằng sứ vụ đó không do ý muốn của bản thân hay của người nào khác mà do ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu hôm nay có cùng một sứ vụ của các tông đồ xưa kia, đó là được Đức Giêsu sai đi để tiếp tục sứ vụ của Người: rao giảng Tin Mừng và đẩy lui sự dữ. Sứ giả Tin Mừng không chỉ nói suông nhưng còn có bổn phận đem niềm vui đến cho dân chúng bằng cách đổi mới đời sống của họ, cả về mặt tinh thần lẫn mặt vật chất. Trước hết, cần lo cho người dân “ăn năn sám hối” nghĩa là thay đổi lối sống tinh thần, hướng tới một đời sống luân lý lành mạnh, làm lành lánh dữ, đẩy lui những tệ nạn, và hướng đến một nền văn minh tình thương xuất phát từ tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Kế đến, khi điều kiện cho phép, cần cố gắng giúp họ cải thiện đời sống vật chất qua việc giáo dục, hướng nghiệp và chăm lo sức khỏe cho cộng đồng, vì chính Đức Giêsu và các tông đồ cũng chữa lành bệnh tật thể lý cho dân chúng trong lúc rao giảng.
4. Một nguyên tắc nghe rất cũ nhưng luôn mới, đó là “mình không thể đem đến cho người khác điều mình không có”. Do đó, trước khi đi loan báo Tin Mừng, người sứ giả phải được đào tạo. Các tông đồ xưa, trước khi được Đức Giêsu sai đi, họ đã “ở với Người” (Mc 3,14). Qua việc “ở với Đức Giêsu”, họ đã được huấn luyện để trở thành người môn đệ, đã được nghe lời, thấy việc và nhất là kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trong Đức tin, Đức Cậy và Đức Mến. Người Kitô hữu cũng thế, cần phải được đào tạo các khía cạnh của đời sống Kitô hữu và thấm nhuần lối sống Tin Mừng. Có như thế, người Kitô hữu mới có thể đem đến cho người khác điều mình đã tin, đã hy vọng, đã yêu mến và nhất là đã sống.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng, hầu muôn người được quy tụ và cứu độ trong Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cùng dâng lời chúc tụng tri ân và tha thiết cầu nguyện.
1. “Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và sai đi từng hai người một.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho hàng giáo phẩm luôn hợp nhất trong đức tin và đức ái, tận tâm hoàn thành sứ mạng Chúa trao bằng lời rao giảng, gương sáng đạo đức, và những hoạt động bác ái.
2. “Chúa Giêsu ban cho các Tông đồ có quyền trên các thần ô uế.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhà cầm quyền các quốc gia trên thế giới biết nhìn nhận và trân trọng những nỗ lực của Giáo Hội nhằm đẩy lui sự dữ, chữa lành và thanh luyện lương tâm con người.
3. Môn đệ Chúa Kitô luôn bị người đời khước từ và chống đối. Chúng ta cầu nguyện cho các kitô hữu đang dấn thân cho các hoạt động tông đồ, luôn khiêm tốn và nhẫn nại trong sứ vụ, siêu thoát trước của cải vật chất, và tin tưởng phó thác kết quả cho thánh ý Chúa.
4. Trong Đức Kitô, mọi tín hữu được chọn để trở nên tinh tuyền thánh thiện. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn liên kết mật thiết với Đức Kitô qua việc lắng nghe cùng thực hành Lời Chúa, và nhiệt tâm với sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và chúc phúc để chúng con luôn hăng say tiếp nối sứ vụ tông đồ của Con Chúa, hầu đem tin mừng cứu độ đến cho nhiều người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Khi Chúa Giesu chọn môn đệ và các tông đồ, người luôn luôn kêu gọi với tất cả tình thương mến : TN15-B110
Khi Chúa Giesu chọn môn đệ và các tông đồ, người luôn luôn kêu gọi với tất cả tình thương mến đầy lòng trắc ẩn. Chúa đưa mắt với vẻ trìu mến, nhìn thẳng vào mặt như thách thức họ làm một cái gì mà họ khó có thể tránh được. Bài Phúc Âm hôm nay (Mc 6:7-13) nói về việc đào tạo những người sẽ đi rao giảng Tin Mừng Chúa trên khắp thế giới. Marco coi công tác và lời giảng huấn của các tông đồ như là một nối tiếp công việc của chúa Giesu. Trong câu chuyện Marco, sứ mạng của 12 tông đồ lúc đầu là bắt cá linh hồn người ta (Mc 1:16-20), rồi người chọn từng người riêng biệt ở với Chúa để nhận quyền rao giảng và trừ ma quỉ (Mc 3:13-19). Bấy giờ họ được trao cho một sứ mạng đặc biệt là thi hành quyền lực bằng lời nói và thẩm quyền đại diện Chúa trong khi họ thụ huấn.
Trong Marco, không thấy chúa Giesu cấm không cho vào phần đất của người ngoại và các thành phố của người Samaritano. Sự khác biệt này cho thấy có một chủ ý nào đó muốn thích ứng với những điều kiện bên trong và bên ngoài Palestine và gợi ý về một hoạt động sau này của Giáo Hội. Phần còn lại, chúa Giesu yêu càu các môn đệ hãy tin tưởng vào Thiên Chúa đừng lo lắng cho bản thân về tiền bạc, ăn uống, quần áo và nơi ở (Mc 6:35-44; 8:1-9). Hãy ở lại một nhà như là khách (Mc 6:10), đừng mong được thoải mái hơn để tránh cho người ta nghĩ mình đi tìm kiếm lợi lộc cho mình và không muốn chủ nhà khinh rẻ. Tại sao chúa Giesu lại biểu các môn đệ phải “di chuyển nhẹ”, ít đồ đạc, không cần mang theo đồ dự trữ? Chúa muốn các môn đệ phụ thuộc vào Chúa, đừng tin ở mình. Chúa hứa sẽ hành động nơi từng người được Chúa gọi vì vinh quang của Chúa. Hành động “phủi bụi” khỏi chân là dấu chỉ chống lại những kẻ không chịu ăn năn thống hối. GIÚP ĐỠ HAY CẢN TRỞ?
Một trong những đề tài thường thấy trong Tin Mừng Marco là sự dốt nát của các môn đệ. Đọc toàn thể Tin Mừng, chúng ta thấy các môn đệ cản trở Chúa Giesu nhiều cũng chẳng kém gì họ giúp đỡ Chúa. Họ không hiểu lời Chúa nói hoặc không biết giúp đỡ người. Chúa thường xuyên quở trách họ mắt không nhìn ra, trí không hiểu thấu và lòng thì trai đá. Nhưng khi họ hiểu sai Chúa hay làm hỏng việc của Chúa lại là lúc họ cố gắng để hiểu. Họ hành động như thể thử nghiệm, như những người “nghĩ về việc của loài người” hơn là những việc của Thiên Chúa. Họ không hiểu rằng con đường thẳng nhưng hẹp đang hiện diện trước mặt Chúa Giesu phải kết thúc trên Thập Giá. Vì vậy họ hành xử như dẫn Chúa đi vào lạc lối.
Nhiều lần chúng ta tự hỏi: “Tại sao Marco lại nêu lên những hình ảnh xấu như vậy về các môn đệ?” Những độc giả tiên khởi của Marco thì không chú trọng vào nghĩa đen nhưng vào những biến cố xẩy ra câu chuyện. Họ thường tự hỏi “Các môn đệ là những nhà lãnh đạo tài ba tại sao lại yếu và dở như thế? Cái đó có ý nghĩa gì?” Câu trả lời là Thiên Chúa đã mở mắt các môn đệ, biến họ từ những người chẳng hiểu gì cả và thử thách chúa Giesu thành những đầy tớ xứng đáng, những nhà lãnh đạo không biết sợ. Hy vọng của chúng ta! Là những Kito hữu, chúng ta nhận thức được sự yếu đuối và thất bại của mình cần phải ghi nhớ những câu chuyện nổi danh vể kêu gọi này để tin rằng Chúa Giesu, đấng khải hoàn trên sợ hãi, luôn luôn hiện diện giữa chúng ta. NHÂN DANH CHÚA GIESU
Quyền lực và thẩm quyền nào mà Chúa muốn chúng ta thực thi nhân danh Người? Chúa Giesu đã ban cho các tông đồ cà quyền lực lẫn thẩm quyền để nói và hành động nhân danh Người. Chúa điều khiển các ông thi hành công tác như Người đã làm: Trừ ma quỉ, chữa lành bệnh, nói lời Chúa, Tin Mừng Phúc Âm mà họ đã thu nhận được nơi Chúa. Khi chúa Giesu nói về quyền lực và thẩm quyền, Người đã làm những điều chưa ai nghe biết. Người kết hợp thẩm quyền và quyền lực với tình yêu thương và khiêm tốn. “Thế gian xác thịt” tìm kiếm quyền lực vì vị kỷ, vì cá nhân, gia đình, bạn bè, phe phái mình. Chúa Giesu dạy chúng ta dùng nó vì sự thiện, làm điều tốt, giúp đỡ tha nhân, những người hoạn nạn, bị áp bức và nghèo khó. Bước theo chúa Giesu là mạo hiểm, như kiến tạo một cuộc sống mới, để rao giảng như Chúa Giesu đã rao giảng và chữa lành để rồi bị hàm oan, hoạn nạn đủ điều. LỀ LUẬT, TIÊN TRI VÀ KINH THÁNH
Dựa vào bài đọc sách tiên tri Amos (Am 7:12-15), chúng ta thử suy niệm về Luật, Các tiên tri và các sách Cựu Ước qua chúa Giesu. Một đằng chúa Giesu biết luật một cách hoàn hảo và tuân giữ tận tình. Một đằng Chúa cảm thấy Chúa hoàn toàn tự do trước lề luật. Người muốn luật lệ được cắt nghĩa một cách chính xác. Đi xa hơn nữa người còn tuyên bố người là nhà làm luật mới có thẩm quyền ngang hàng với Thiên Chúa. Người là cứu cánh của luật, và ứng nghiệm luật (Rm 10:4).
Chúa Giesu cũng biểu lộ Người là tiếp nối đích thực của các tiên tri qua sứ điệp và đời cống của người. Giống như các tiên tri, Ngươi tuyên xưng niềm tin là “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và Jacob” (Mt 22:32). Người bảo vệ luật Thiên Chúa và luật người nghèo (Mt 11:20-24). Chúa cũng không ngần ngại tuyên xưng người vĩ đại hơn tất cả các tiên tri. Người ở trên họ, không phải cùng hàng tiên tri mà còn là người thứ nhất, là khởi thủy và là suối nguồn mặc khải linh hứng cho các tiên tri. Chúa Giesu cũng tự nhận đã hoàn thành/ứng nghiệm văn chương khôn ngoan trong Cựu Ước. Chúa đã hoàn thành lề luật và các ngôn sứ bằng cách áp dụng cho chính mình. Người áp dụng phương cách đó và biến cải nó bằng nhân chứng. Người hy sinh suốt cuộc đời, ngay cả mạng sống mình, một thay đổi tận gốc rễ những giá trị như một tân tạo dựng nổi lên từ một tạo dựng đang được thay đổi cực kỳ lớn lao. Nhờ cái chết của người, chúa Giesu làm sáng tỏ sự mâu thuẫn rõ ràng giữa những giá trị đó trong văn chương khôn ngoan, và mở ra một lối đi hình như đã trở thành bước đường độc nhất cho loài người. Đối với những ai bước theo chúa Giesu -hy vọng là mỗi người trong chúng ta- chúng ta phải bước theo vết chân Chúa, chịu đựng tất cả những hiểu lầm, đau khổ và cả cái chết của người để thực sự trở thánh môn đệ của người. Chúng ta càng thăm dò những chiều sâu của Kinh Thánh mà chính người đã hoàn thành bằng cuộc sông của người thì chúng ta sẽ càng trở nên giống người. ĐÔI LỜI KẾT: KHAI TRIỂN LỜI GỌI
Tuần này chúng ta thử suy niệm xem Chúa kêu gọi chúng ta làm môn đệ của người như thế nào? Bằng cách nào bạn cảm thấy chúa Kito kêu gọi cá nhân bạn? Chúa Kito biến cuộc sống của bạn thành đặc biệt như thế nào? Chúa kêu gọi bạn phải làm cái gì? Kinh nghiệm gì hay ai trong cuộc đời bạn giúp bạn đào sâu niềm tin của bạn? Đã thế hứa làm môn đệ Chúa mà bạn vẫn có thể cảm thấy mình yếu đuối và thất bại không? Là môn đệ chúa Giesu, bằng cách nào bạn có thể chia sẻ sứ mệnh rao giảng và chữa lành của Chúa cho mọi người trong thế giới ngày nay? Bạn đang được sai đi để rao giảng và chữa lành cho những ai?
Fleming Island, Florida July 13, 2015 NTC Fxavvy@aol.com
Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng phàm là người thì cần phải có cơm ăn, áo mặc và những dụng cụ để phòng thân: TN15-B111 Dalat
Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng phàm là người thì cần phải có cơm ăn, áo mặc và những dụng cụ để phòng thân. Cơm, áo, gạo, tiền … là những mối lo âu thiết thực nhất hay nói đúng hơn đó là nỗi sợ của con người. Đơn giản dễ hiểu đó là thực chất nếu như con người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiện nghi cơ bản cho cuộc sống thì con người không sống được cũng như chẳng làm được gì.
Ta thấy vật chất, tiền bạc … rất gần và rất cần cho con người cũng như những người gọi là môn đệ đi theo Chúa. Cần và cần nhiều nữa là khác thế nhưng hôm nay ta bắt gặp hình ảnh hay nói cách khác là lời mời gọi hay nói đúng hơn là lệnh truyền của Thầy Giêsu : Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo (Mc 6, 8.9).
Người môn đệ sống như thế nói thẳng ra là “chết chắc” vì chẳng có cái gì gọi là phòng thân cả. Sống như thế nghĩa là sống chỉ biết ngày hôm nay, ngày mai có ngày mai lo !
Thoạt đầu, khi nghe những lời ấy ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy sốc thế nhưng Nước Thiên Chúa là như vậy đó ! Nước Thiên Chúa là Nước không phải thuộc thế gian để người người lo phòng thủ, lo vun vén cho mình được càng nhiều càng tốt.
Nói hơi lý thuyết một chút, lời mời gọi của Thầy Giêsu gởi các môn đệ quả là chí lý, là có căn cơ, có cơ sở chứ không phải là lời mời gọi vu vơ. Căn tính của người môn đệ, của thành viên Nước Thiên Chúa, của công dân Nước Trời là như vậy. Nước Trời, Nước Thiên Chúa dành cho những tâm hồn đơn sơ, bé mọn và mãi luôn tín thác vào Thiên Chúa. Người đó sẽ không hề phải phụ thuộc vào thế gian, không phải quỵ lụy thế gian cũng như không hề có ý định hay ý định vun vén thế gian vào lòng mình.
Thật ra, thật giằng co khi con người sống ở giữa thế gian mà lại mời gọi họ từ bỏ những gì thuộc về họ, thuộc về thế gian. Đơn giản dễ hiểu là con người cần tiền, cần vật chất, cần quyền, cần danh để sống giữa cuộc đời. Nay lại bảo phải từ bỏ e rằng khó.
Chính khi nghe lại lời mời gọi này, ta lại bắt gặp hình ảnh của ta về căn tính người môn đệ chân chính của Chúa.
Nếu như cuộc sống của ta, ta cảm thấy bình an, ta cảm thấy đủ với những gì ta đang có thì ta thật hạnh phúc bởi lẽ ta đã thấy đủ. Khi ta tạm gọi là “dừng cuộc chơi” nghĩa là khi ta ý thức được chuyện không phải thủ cái gì cho đời ta cả.
Chắc có lẽ, chính có ta mới lượng giá được căn tính người môn đệ có ở trong ta như thế nào ?
Có khi ta biện minh rằng ta cần cái này cái kia cho cuộc sống để rồi ta chạy đi tìm, đi sắm, đi trang bị. Nực cười là ta quá lo lắng để ta đi tìm những cái để thủ cho đời ta mà những thứ đó chính ta tự nghĩ ra.
Giản đơn nhất để thấy điều đó là thi thoảng ta chịu khó dọn cái phòng của ta. Thật ngạc nhiên khi ta thấy cứ ngày mỗi ngày cái phòng của ta chật lại và đường đi hẹp lại vì ta vun vén quá nhiều. Ta không chỉ lo cho ngày mai mà lo cả lo cho ngày mốt, ngày kia, ngày kìa nữa … có những thứ mà ta cố sắm nhưng chẳng bao giờ xài đến, chẳng bao giờ đụng đến cả.
Hay là, ta thử dừng lại để ta dọn lòng ta thử. Khi dọn lòng, ta sẽ thấy lòng ta vẫn còn đó bề bộn, vẫn còn bừa bãi bởi những thứ làm cho ta nặng nề không thanh thoát đủ để bước lên đường rao giảng Tin Mừng như Chúa mời gọi. Có khi lòng ta còn nặng nề bởi sự sân hận, bởi sự ganh ghét anh chị em đồng loại.
Có lẽ, hài nhất và thực tế nhất đó chính là chuyện Chúa bảo là anh em không được mặc hai áo. Hai áo ở đây ta có thể hiểu được cả về cái áo vật chất và cả cái áo tâm hồn của ta.
Chúa đã trang bị, Chúa đã cho ta cái áo thật tinh tuyền nhưng rồi ta lại tự trang bị cho ta những cái áo giáp. Những cái mà ta tìm, ta trang bị xem ra không phù hợp với cái y phục tiệc cưới Nước Trời mà Chủ tiệc cưới mời gọi. Những cái áo mà ta trang bị nó được thêu dệt nên bởi sự giả tạo, sự giả dối của ta nhằm che mắt thiên hạ cũng như mắt Chúa. Thế nhưng, duy chỉ mình Chúa mới là người nhìn thấy suốt lòng ta, thấu suốt những chiếc áo của đời ta.
Về chiếc áo vật chất theo cách hiểu bình thường như Chúa nói đó. Chúa mời gọi mỗi người hãy sống hết lòng đơn giản, đừng trang bị cho mình hai áo cũng như những chiếc áo lụa là gấm vóc … Hãy mặc lấy cho mình một chiếc áo thôi, còn mọi chuyện khác Chúa sẽ quan phòng và Chúa sẽ an bài.
Nhắc đến chuyện này, tôi cũng cảm thấy ngượng về chính bản thân mình. Có khi tôi cũng tự nghĩ rằng mình sống giản đơn, ít quần áo nhưng xem ra còn nhiều hơn bậc thầy của mình mấy bậc.
Tôi có một người thầy, phải nói rằng Thầy là mẫu gương cho sự thanh thoát, nhẹ nhàng từ “cấu hình” cho đến “hình thể”. Cấu hình của Thầy thật mỏng manh, mảnh mai… nhìn vào Thầy, ai ai cũng thấy được một sự hãm mình về chuyện ăn uống. Và thật là như thế ! Thầy giản đơn từ cách ăn cho đến kiểu mặc. Nhìn tới nhìn lui, Thầy chỉ có đúng 3 bộ đồ trong người chứ không tìm thấy hơn nữa.
Quả chăng, Thầy chính là người gần nhất để tôi soi rọi đời mình. Nhìn Thầy, có khi chợt nhận ra rằng mình còn vun vén hơn Thầy của mình nhiều.
Và hôm nay, bắt gặp trang Tin Mừng mà Thầy Giêsu nói về căn tính người môn đệ, tôi không còn giật mình nữa mà giật bắn cả mình và thót cả tim khi nhìn lại bản thân mình về vật chất. Có khi đã được nghe nhiều, nói nhiều, dạy nhiều nhưng những bài học đó cũng như lời mời gọi của Thầy bị tôi bỏ ngoài tai. Chính vì bỏ ngoài tai lời của Thầy Giêsu nên tôi cứ mãi miết lo lắng cho mình về sự đời. Nhưng, nhìn thực tế, Chúa có để cho ai phải đói, phải không có cơm ăn áo mặc đâu mà ta lại cứ mãi lăn tăn. Chính vì ham hố, chính vì thiếu niềm tin vào Thầy Giêsu để rồi ta cứ lăn tăn đi tìm, trang bị cho mình những thứ phù du, nay còn mai mất.
Ta sẽ mang theo được gì khi đi đến mộ phần ?
Cũng nghe nhiều nhưng mới đây, nghe một bác dược sĩ già đam mê âm nhạc đã diễn tả lòng mình qua ca khúc quen thuộc của cố nhạc sĩ họ Trịnh :
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Để một mai vươn hình hài lớn dậy Ôi cát bụi tuyệt vời Mặt trời soi một kiếp rong chơi Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Để một mai tôi về làm cát bụi Ôi cát bụi mệt nhoài Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi Bao nhiêu năm làm kiếp con người Chợt một chiều tóc trắng như vôi Lá úa trên cao rụng đầy Cho trăm năm vào chết một ngày”
Tất cả cũng trở về cát bụi, tất cả cũng chỉ là phù vân để rồi ta cứ mãi chạy đi tìm và lấp đầy lòng ta cát bụi và phù vân.
Tạ ơn Chúa vì ngày hôm nay Chúa lại nhắc nhớ ta về thân phận con người, cách riêng về căn tính của người môn đệ.
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta rũ bỏ tất cả những gì là vướng bận ta không trở thành người môn đệ chân chính. Xin cho ta có một tâm hồn trẻ bé để luôn luôn tín thác đời ta trong tay Chúa vậy.
Một trong những điều kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã làm là thiết lập Nhóm Mười Hai. Ngài qui tụ họ: TN15-B112
Một trong những điều kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã làm là thiết lập Nhóm Mười Hai. Ngài qui tụ họ từ nhiều giới trong xã hội Do Thái lúc đó.Nhóm Mười Hai được Chúa kêu mời: họ là những ngư phủ, thu thuế, lao động.Chúa dạy dỗ họ, uốn nắn họ, cho họ sống thân mật gần gũi với Chúa.Ngài đã làm phép lạ trước mặt họ, cho họ tham gia vào những công việc mà Chúa làm hằng ngày. Chúa tin tưởng họ. Sau khi ở với Ngài một thời gian ( Mc 3, 14 ). Chúa sai các ngài đi thực tập rao giảng, làm việc truyền giáo, làm việc tông đồ…
Chúa sai các môn đệ lên đường, Ngài trang bị cho các ông những quyền năng: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ ( Mc 6, 7 ).Rồi Chúa Giêsu chỉ thị cho các ông :” không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo “ ( Mc 6, 8-9 ).Sở dĩ Chúa dặn và truyền cho các ông như thế để các ông hoàn toàn siêu thoát và luôn tin tưởng, phó thác vào sự quan phòng của Chúa, cậy trông vào lòng tốt của con người. Các ông ra đi không có một chút bảo đảm nào ! Các môn đệ đi khắp nơi, rao giảng khắp chốn, không đóng đô, đóng trụ ở một nơi nào dù những nơi đó các ông gặp nhiều thuận tiện và thành công bởi vì các ông nhớ lại lời Chúa :” Không Thầy các con không thể làm gì được “ hoặc “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa “ ( Mc 1, 38 ). Các môn đệ phải luôn có tư thế sẵn sàng:” đến và đi “. Nơi nào cần thì đến, xong rồi đi…Đó là tính cơ động của người môn đệ, người tông đồ của Chúa.
Điều các môn đệ phải làm là rao giảng về Nước Thiên Chúa đang đến và giới thiệu Đức Kitô. Nhưng đồng thời các ngài cũng kêu gọi con người sám hối, hoán cải như Chúa Giêsu khi bắt đầu sứ mạng công khai đã công bố:”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Các tông đồ phải mạnh dạn nói lên sự thật, không được bóp méo sự thật và những đòi buộc của Phúc Âm. Họ luôn sẵn sàng dù được đón nhận hay bị khước từ. Thành công không tự phụ, tự mãn và thất bại cũng không cay đắng vì :” Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên “ ( 1 Co 3, 6 ). Do đó, các tông đồ đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó cho họ. Bởi vì, khi về trời Chúa vẫn luôn tin tưởng vào Nhóm Mười Hai và một số ít người phụ nữ đạo đức đã từng đi theo Chúa và các tông đồ. Hôm nay, Chúa tiếp tục trao cho mọi người chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng giữa lòng đời. Chúng ta tiếp tục phải nói lên những đòi hỏi của Tin Mừng và không được làm vơi nhẹ những điều Chúa đòi buộc. Chúng ta không được mị dân, vuốt ve dân mà bóp méo Tin Mừng. Phúc Âm luôn luôn phải được rao giảng lúc thuận cũng như lúc nghịch như lời thánh Phaolô viết :” Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng “ ( 1 Co 9, 16 ).
Chúa vẫn trao cho chúng ta những hành trang như đã trang bị cho các tông đồ : quyền rao giảng, quyền chữa bệnh và quyền xua trừ ma quỷ. Chúng ta vẫn công bố Tin Mừng về Nước Trời khi chúng ta sống lời Chúa, sống đạo gương mẫu và làm chứng cho Chúa. Chúng ta vẫn xua trừ ma quỷ khi chúng ta đẩy xa chúng ta những thói hư, tật xấu, những điều tiêu cực ra khỏi con người chúng ta.Chúng ta vẫn chữa lành bệnh hoạn tật nguyền khi chúng ta biết nâng đỡ kẻ cô thân yếu thế và thăm viếng những người bệnh hoạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được sứ mạng rao giảng của mỗi người chúng con.Xin giúp chúng con luôn biết công bố Nước Trời, giới thiệu Đức Kitô dù lúc thuận hay lúc nghịch. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa sai ai đi rao giảng ? 2.Tại sao Chúa lại tin tưởng Nhóm Mười Hai ? 3.Chúa trang bị cho các tông đồ những gì khi đi rao giảng ? 4.Chúa cấm các tông đồ những gì khi họ được sai đi rao giảng ?
Hãy đi". Chúa phán cùng Amos : "Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta" (Am 7, 15) ; "Chúa Giêsu gọi mười: TN15-B113
"Hãy đi". Chúa phán cùng Amos : "Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta" (Am 7, 15) ; "Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi" (Mc 6, 7). Chúa gọi Amos, Chúa sai các tông đồ, Chúa cũng gọi mỗi người chúng ta. Hết thảy mọi tín hữu, ngoài ơn gọi làm con cái Chúa, còn có ơn gọi làm ngôn sứ, và rao giảng Tin Mừng nữa.
Chúa chọn Amos và sai đi
Amos là người được Thiên Chúa chọn gọi và sai đi, khi ông chăn bò, Chúa túm lấy ông, Chúa lôi ông đi. Dù không được đón tiếp, ông vẫn mạnh mẽ rao giảng chống lại sự bất công, nhất là tố cáo nhà vua và các kỳ mục đã xúc phạm đến Thiên Chúa khiến cho hành vi phụng tự của họ trở nên vô ích. Vì thế Amasia đuổi Amos khỏi vương quốc Israel : "Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc" (Am 7, 12-13). Nhưng Amos vẫn tiếp tục nhiệm vụ ngôn sứ của mình. Dẫu biết rằng, việc phụng sự Thiên Chúa nơi Đền thờ và trong cung thánh là việc dành riêng cho chi tộc Lêvi. Amos không chỉ trích điều Môisê thiết lập. Ông tự đặt mình vào vị trí chính xác : "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri. Tôi là một người chăn bò và chuyên đi hái lá xung" (Am 7,14). Thiên Chúa đã chọn ông từ nơi khác đến và trao cho ông sứ mạng này. Ông đến rao giảng điều Thiên Chúa phán chứ không rao giảng những gì con người muốn nghe. Đây chính sứ mạng của Giáo hội, Giáo hội không rao giảng điều các kẻ quyền thế muốn nghe. Tiêu chuẩn của các tông đồ là sự thật và công lý, cả khi chống lại sự đồng tình của con người và quyền bính trần gian. Cộng đoàn Giáo hội sơ khai cũng gặp những khó khăn tương tự như sự xuất hiện của thánh Phaolô, "hoán cải trong giây lát".
Amasia yêu cầu Amos rời khỏi vương quốc thuộc chi tộc phía Bắc đi đến đất Giuđa, vì ông không muốn nghe, Amos trả lời : "Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta" (Am 7, 15). Sứ mạng của Amos là phổ quát, Chúa sai đi nói tiên tri cho cả 12 chi tộc chứ không riêng một chi tộc nào.
Chúa Giêsu sai các môn đệ
"Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con" (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội đi đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người, ngõ hầu con người được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Các tông đồ là những người bình thường được Chúa chọn, gọi và sai từng hai người đi, sau khi dạy các ông cầu nguyện, Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế là những thần có lần làm các ông bất lực ! Dù là ai đi chăng nữa, gặp sự gì vượt quá khả năng, cần có sự trợ giúp từ Trời Cao. Chúa Giêsu tin tưởng và dạy dỗ các ông để các ông mang Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Thế là sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện, mười hai ông được sai đi. Tông Ðồ nghĩa là "được sai đi". Sự kiện Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác trực tiếp vào sứ mệnh của Người, thể hiện khía cạnh yêu thương của Chúa. Chúa không chê sự trợ giúp của con người vào công trình của Chúa. Người biết rõ giới hạn cũng như yếu đuối của họ nhưng không khinh rể họ, trái lại còn ban cho họ phẩm giá là những người được Chúa sai đi.
Chúa sai họ đi kèm theo các chỉ thị. Thứ nhất là tinh thần không dính bén tới tiền bạc và các tiện nghi vật chất. Ra đi với hai bàn tay trắng để họ chỉ còn cậy dựa vào chính Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới hoán cải được lòng người. Người cũng báo cho họ biết không phải nơi nào họ cũng được tiếp đón, đôi khi bị khước từ và cũng có thể bị bách hại. Nhưng họ phải luôn luôn nói nhân danh Chúa Giêsu và rao giảng Nước Thiên Chúa mà không lo chuyện thành công.
Cử chỉ rũ bụi chân diễn tả sự không dính bén luân lý và vật chất, như để nói rằng chúng tôi đã loan báo nhưng các bạn đã từ chối, và chúng tôi không muốn gì cho các bạn cả. Sau hết, cùng với việc rao giảng là chữa lành bệnh tật theo gương Chúa Giêsu để biểu lộ lòng lành của Người với các cử chỉ bác ái, phục vụ và sự tận hiến.
Chúa tiếp tục sai chúng ta
"Hãy đi !" Mệnh lệnh Chúa truyền cho Amos vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Nếu như tiên tri Amos lúc ấy thoái thác, thì ngày hôm nay một tâm thức khá phổ biến cổ võ cho thái độ muốn rút lui trước những khó khăn vẫn tồn tại. Ðiều kiện đầu tiên để "ra đi" là vun trồng một tinh thần cầu nguyện sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày bởi việc lắng nghe Lời Chúa.
Ở thời chúng ta, vẫn có những người nam nữ được Thiên Chúa chọn, túm lấy, khi họ đang đối mặt với những lo lắng hằng ngày. Họ đang ở trong giáo xứ, chủng viện, tu viện, hay trên cánh đồng truyền giáo. Khuôn mẫu của họ là Đức Kitô, Đấng đầu tiên chấp nhận con đường thánh ý Chúa Cha vạch ra và cam kết trung thành với sứ mạng cho đến chết và Phục sinh.
Chúng ta không dựa vào sức con người hay tìm kiếm thành công, mà phải dựa vào chính Thiên Chúa. Vì là tạo vật của Thiên Chúa, nhận lãnh mọi sự từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm những gì chúng ta muốn. Chúng ta có nghĩa vụ phải làm những gì Thiên Chúa muốn. Vì tất cả là hồng ân mời gọi ta thưa : "Lạy Chúa, con đây". Đừng bao giờ phản đối hay từ chối lời mời gọi của Chúa, "Chính Chúa đã chọn tôi".
Thiên Chúa "đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài" (Ep 1, 4). Đây là kế hoạch tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ trợ giúp chúng con quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa bằng lời nói và trước hết bằng cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 6:7-13)
Mỗi khi bắt đầu một nghề mới, chúng ta đều phải học việc. Chúng ta thử tưởng tượng Chúa Giê-su: TN15-B114
Mỗi khi bắt đầu một nghề mới, chúng ta đều phải học việc. Chúng ta thử tưởng tượng Chúa Giê-su ngay khi còn là một thiếu niên đã có thể là một “cậu thợ mộc” tài khéo rồi, bởi cậu đã chịu khó học hỏi và được bác thợ mộc Giu-se hướng dẫn cặn kẽ mọi công việc. Giờ đây, trong giai đoạn đào tạo các tông đồ, Chúa Giê-su cũng áp dụng cùng một phương pháp khi Người học việc với cha nuôi của Người. Mặc dù bài Tin Mừng hôm nay chỉ ghi lại một số chi tiết trong những điều Chúa hướng dẫn các môn đệ làm việc truyền giáo, nhưng ngoài cái hồn tông đồ ra, những chi tiết ấy lại rất quan trọng và là căn bản cho tác phong của người tông đồ.
Đào tạo tông đồ là việc quan trọng đối với Chúa Giê-su cũng như với các môn đệ Người. Đây thực là một khởi đầu mới cho các tông đồ, môn đệ và tất cả chúng ta, những nhà truyền giáo hôm nay. Có thể nói tương lai vững chắc của Giáo Hội một phần đều trông nhờ vào việc đào tạo này. Hơn nữa tầm quan trọng của Tin Mừng cũng đòi hỏi những người rao giảng phải tuân thủ một phương pháp truyền thông thích hợp, để họ không chỉ là người thông tin, nhưng còn là những người chia sẻ với người khác đức tin vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô.
Vậy trong diễn trình đào tạo, trước hết họ phải là những người được Chúa sai đi và được Chúa ban quyền trên các thần ô uế. Họ phải nhận mệnh lệnh từ nơi Chúa và được Người ban quyền hoặc sức mạnh trên ma quỷ. Vì truyền giáo là tiếp nối công cuộc loại trừ ảnh hưởng của ma quỷ và tội lỗi, để mở rộng vương quốc của Tin Mừng, nên Chúa Giê-su đã trang bị cho họ đầy đủ điều kiện mà thi hành sứ vụ. Tuy nhiên, điều kiện quan trọng không kém, đó là phong cách thích hợp. Chúng ta có thể gặp phong cách của người truyền giáo trong ba tình huống khác nhau. Thứ nhất là khi đi đường. Chúa muốn môn đệ Người phải “nhẹ gánh”. Không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng và không mặc hai áo! Đây là những thứ có thể làm cho người tông đồ phải bận tâm hoặc bị chi phối. Mà việc rao giảng Tin Mừng lại là việc cấp bách, không thể trì hoãn. Nếu người ta mất quá nhiều thời gian để lo lắng những thứ vật chất kia, thì sẽ không còn thì giờ để “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mác-cô 16:15)! Nhưng Chúa Giê-su vẫn quan tâm đến sinh mạng và sức khỏe của họ. Người bảo họ mang theo cây gậy và đi dép. Gậy và dép là những vật cần thiết để hành trình. Truyền giáo là đi không ngừng nghỉ, nên gậy được dùng để nâng đỡ mình khi đi đường xa hoặc leo đồi núi, còn dép là để bảo vệ đôi chân.
Thứ hai là khi vào nhà người ta mà được tiếp đón. Chúa dạy: Thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Thoạt nghe lời khuyên này dường như chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng thực ra Chúa muốn nói thật nhiều ẩn sau việc “ở lại đó”. Ở lại nhà người ta, môn đệ Chúa không ngồi chơi sơi nước hoặc bắt người ta hầu hạ. Thánh Phao-lô đã học bài học này kỹ lắm, khi ngài không muốn trở thành gánh nặng cho anh chị em tín hữu phải lo lắng, nhưng ngài tự túc tự cường bằng nghề dệt lều! Đây là một cuộc “ở lại” sinh ích lợi cho kẻ đón tiếp các ngài, vì họ được các ngài chia sẻ sự giàu sang phong phú của mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Ngoài ra, ở lại cũng một thời gian thôi, tức là cho đến lúc ra đi để tới những nơi khác nữa (Mác-cô 2:38).
Thứ ba là thái độ của người tông đồ khi bị từ chối xua đuổi. Bị xua đuổi là một cái nhục. Nhưng người môn đệ phải vì lý tưởng mà chấp nhận cái nhục ấy. Gương của Thầy Giê-su khi trở về Na-da-rét và bị chối bỏ vẫn còn đó. Không phản ứng dữ dội, không chúc dữ hay xin Thiên Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu rụi người ta (Lu-ca 9:51-56). Nhưng chỉ cần làm một cử chỉ tế nhị để “tỏ ý cảnh cáo họ” thôi, là giũ bụi đất dưới chân!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta ý thức mình là những người tông đồ hôm nay. Giáo Hội đang hô hào chúng ta tham gia vào công cuộc Tân Truyền giáo. Vẫn rao giảng cùng một sứ điệp Tin Mừng, nhưng chúng ta phải áp dụng ba cái mới: mới trong sự hăng say, mới trong phương pháp và mới trong cách trình bày (ĐGH Gio-an Phao-lô II). Nào, ta lên đường!
Một tôn giáo chỉ tồn tại nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người tin theo. Kitô giáo do Chúa TN15-B115 Luong
Một tôn giáo chỉ tồn tại nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người tin theo.
Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong hoàn cảnh ấy. Dưới con mắt của Ngài, thì mỗi linh hồn đều có một giá trị như nhau. Và mỗi người đều được sai đi để tìm kiếm những con chiên lạc, mà dẫn chúng trở về cùng Chúa. Ngài luôn ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để vứt vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm Nước Trời. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến trong trần gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Và để chu toàn sứ mệnh này, Ngài cần có những người cộng tác với Ngài, bởi vì lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít.
Với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng đã bước theo Chúa để trở nên môn đệ của Ngài. Vì thế, chúng ta có bổn phận phải cộng tác với Ngài, trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, truyền bá đức tin. Vậy rao giảng Tin Mừng, hay truyền bá đức tin là gì?
Tôi xin thưa: Trước hết là rao giảng Đức Kitô, Đấng đã đến để thiết lập Nước Trời. Việc rao giảng và truyền bá này gồm hai phần. Một phần tiêu cực, đó là giải phóng con người khỏi sự nô lệ và kìm kẹp của ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền hành trên các thần ô uế. Còn một phần tích cực đó là làm chứng cho Chúa trong lời nói, trong việc làm và nhất là trong đời sống của mình.
Thực vậy, người Kitô hữu phải là người có Chúa trong tâm hồn và đem Chúa đến cho người khác. Và cách thức bảo đảm để đem Chúa đến cho người khác, đó chính là đời sống gương mẫu của mình, một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ngày kia thánh Phanxicô gọi một thầy dòng để cùng đi rao giảng với ngài. Hai thầy trò rảo qua các đường phố tại Assie, một cách thật nghiêm trang, vừa đi vừa suy gẫm về Chúa. Tới nhà, thầy dòng ngạc nhiên vì chẳng thấy giảng dạy ở chỗ nào. Thánh nhân mỉm cười và trả lời: Chúng ta đã giảng bằng chính gương sáng, bằng chính sự sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Một điều cần thiết khác trong khi hoạt động tông đồ, đó là phải biết quên mình đi, để Chúa hoạt động, bởi vì dù tài giỏi đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Chúa. Vì thế, đừng ỷ lại vào tài năng, một hãy tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa, bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì.
Một văn hào có nói: Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả địa cầu này lên. Điềm tựa duy nhất của chúng ta, chính là Thiên Chúa. Thánh nữ Catarina, chỉ là một nữ tu dòng Đaminh, vừa trẻ tuổi lại vừa ít học, thế nhưng đã chi phối đời sống thiêng liêng của Giáo Hội, đã chi phối những sinh hoạt chính trị của nước Ý và đã làm được nhiều việc to lớn, như đem Đức Giáo Hoàng từ Avignon trở về Rôma. Sở dĩ như vậy vì thánh nữ hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào quyền năng và tình thương của Chúa.
Bởi vì như Thánh vịnh cũng đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, Thợ nề vất vả cũng là uổng công Thành trì Chúa chẳng giữ trông Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Vào thế kỷ thứ 8 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, sau một cuộc tranh chấp ác liệt, đất Do thái bị chia TN15-B116
Vào thế kỷ thứ 8 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, sau một cuộc tranh chấp ác liệt, đất Do thái bị chia làm đôi: hai chi tộc phía Nam là Giuđa và Bengiamin làm thành quốc gia Giuđa với Giêrusalem là thủ đô; mười chi tộc còn lại ở phía Bắc lập thành nước Israel với Samaria là thủ phủ. Dưới triều đại của Giêrôbôam II (786-726 BC), đất nước Israel trở nên hưng thịnh. Vương quốc được mở mang và trở nên giàu có.
Để lôi kéo thêm dân chúng từ các nơi về, và để dân trong nước không đi lên đền thờ Giêrusalem trong các dịp lễ, Giêrôbôam và các vua trước ông đã cho lập đền thờ tại Bethel, cách Giêrusalem chừng 14 dặm Anh về phía bắc. Hàng tư tế tại đây được ưu đãi và khuyến khích lập ra những lễ nghi đặc biệt, để tạo nên không khí huy hoàng và sầm uất, hầu làm lu mờ những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo tại Giêrusalem. Đây là một mưu đồ chính trị nhằm củng cố việc chia đôi đất nước và phân rẻ một dân tộc mà Giavê đã tuyển chọn nhằm tái tạo sự hiệp nhất giữa trời cao với đất thấp-giữa Thiên Chúa và con người.
Nhưng Giavê không thể làm ngơ trước cảnh tượng đó. Ngài đã chọn Amos, một người chăn chiên tại Tekoa, bên bìa sa mạc Giuđa, để đi làm ngôn sứ cho Giavê Thiên Chúa bên nước Israel.
Nhân danh Thiên Chúa, Amos cảnh cáo những âm mưu nuôi dưỡng tình trạng chia rẽ để trục lợi, lên án những cuộc sống sa đoạ bất công trong xã hội, công kích sự an tâm giả tạo khi người ta lấy lễ nghi tôn giáo để che đậy cho những việc làm xấu xa.
Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ tại Bethel và Samria, Amos đã bị trục xuất ra khỏi Israel.
Khi mà quyền lợi cá nhân bị đụng chạm, miếng cơm bị đe doạ, người ta khó lòng để yên. Vì thế Amasia, một tư tế của đền thờ Bethel đã cậy vào uy thế của vua Giêrôbôam và nhân danh hàng tư tế của vương quốc miền Bắc để đuổi Amos về lại Giuđa. Ông cho Amos là hạng thầy bói nói mò hòng kiếm miếng cơm. Amasia cấm Amos không được tuyên sấm ở Bethel nữa, vì theo ông, những sứ điệp đó không phù hợp với đường lối chính trị của nhà vua và cả vương quốc Israel.
Nhưng ngôn sứ Amos không chấp nhận lập luận của Amasia. Ông khiêm nhường nói với vị tư tế bụt thần này rằng ông không làm nghề tiên tri, cũng không phải là con của một tiên tri. Trước kia ông chẳng hề nghĩ đến việc đi tuyên sấm, ông chỉ biết chăn chiên và hái trái sung. Nhưng rồi một hôm, đang lúc bước theo đàn chiên, Giavê Thiên Chúa đã gọi ông và truyền phải đi tuyên sấm cho nhà Israel, cảnh báo họ về một tai hoạ khủng khiếp sẽ giáng xuống: quân thù dày xéo đất nước, tàn sát dân chúng, bắt đi lưu đày những kẻ còn sống sót (Am 7:17).
Như vậy việc Amos đi loan truyền sứ điệp tiên tri cho các vua quan, tư tế, và dân chúng, không vì khả năng tự nhiên hay tài đức hơn người, song là vì Giavê đã trao Lời và sai ông ra đi. Thế nên sứ mạng của ông không gì khác hơn là nói lại Lời đó trong vai trò của một ngôn sứ. Có thể sứ điệp do ông truyền đạt sẽ được nhiều người đón nhận, nhưng cũng không chắc tránh khỏi tình cảnh bị từ khước, xua đuổi, hay giết hại. Dẫu sao, người được sai đi vẫn ra đi và không ngừng tiến bước. Không nản lòng. Không thất vọng. Không đầu hàng. Đó mới là thái độ của người môn đệ Đức Kitô.
Phúc âm tường thuật việc Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ đi đến các làng mạc miền Galilê, rao giảng sự ăn năn thống hối. Ngài thấy trước những thất bại có thể sảy ra, và sự thất bại đáng kể nhất sẽ là bị khước từ. Song thất bại không thể là yếu tố làm chùn bước chân của vị sứ giả Tin Mừng. Bởi vì như lời Đức Giêsu phán dạy: “Nếu nơi nào không tiếp đón các ngươi thì hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi chân lại” (Mc 6:11) rồi tiếp tục tiến bước. Cũng như trong bài Phúc âm tuần trước, khi bị những người đồng hương đồng hạt khinh dể thì “Chúa Giêsu đã rảo qua các làng xung quanh và giảng dạy” (Mc 6:6b).
Khách quan mà xét, hành trình rao giảng của Chúa Giêsu cũng có thất bại, nhưng không vì đó mà Ngài thất vọng ngã lòng. Trái lại Ngài vẫn tiến bước ra đi. Đi cho đến chặng đường cuối cùng là thập giá.
Như thế, người tông đồ của Đức Kitô cũng không thể tránh khỏi thập giá, vì “môn đệ không thể hơn thầy.” Nhưng dù có gặp từ khước, khó khăn, trắc trở, lao tù, xiềng xích trên hành trình rao giảng, Lời Chúa vẫn “không bị xích xiềng” và “Đức Kitô vẫn được truyền rao” (Ph 1:18).
Thế nhưng tôi tự hỏi: Nếu ngày nay Lời Chúa bị xiềng xích và Đức Kitô không được rao truyền là bởi các lý do bên ngoài hay những yếu tố bên trong? Vì người ta không nghe Tin Mừng tôi loan báo hay vì những tham lam, lợi nhuận, bất công, và cả những hình thức, lễ nghi trang trọng nhưng vô hồn, như của dân Do thái trong thời ngôn sứ Amos, đã trói buộc chân lý Phúc âm?
Thế nên, Lời Chúa lại nhắc nhở tôi về thái độ nghèo khó để được tự do trong khi rao giảng: không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, không mặc tới hai áo. Giá trị của Tin Mừng không hệ tại nơi áo quần, tiền bạc, cơm bánh. Chúa Giêsu không chọn con đường cứu nhân độ thế bằng sự đáp ứng của cải vật chất, song là chính Lời Hằng Sống của Ngài.
Vì vậy, hành trang rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô phải luôn là Đức Giêsu Kitô-Lời Thiên Chúa mà họ tiếp cận và tìm thấy “sự sống phong phú dồi dào” (Ga 10:10b)-chứ không phải bao bị, giày dép, tài năng, bạo lực hay bạc tiền. Đây cũng chính là nguyên lý căn bản mà Giáo hội đã dùng để trả lời cho thần học “giải phóng” khi xác định: Chỉ có “chân lý mới giải thoát con người” (Ga 8:32). Và chân lý đó chính là Đức Giêsu. Vì Ngài là đường, là chân lý, và là sự sống cho nhân trần mọi thời và mọi nơi.
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi. Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, TN15-B117
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
HÃY RAO GIẢNG BẰNG ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN LUÔN TÍN THÁC VÀO CHÚA
Tôi mở bài suy ngẫm này để chia sẻ với quý vị giảng thuyết. Nhưng nếu bạn không phải là người giảng TN15-B118
Tôi mở bài suy ngẫm này để chia sẻ với quý vị giảng thuyết. Nhưng nếu bạn không phải là người giảng thuyết thì đừng nghĩ là không liên quan đến. Một giáo sủ giảng thuyết tiếng tăm là cha Fred Craddock đề nghị trong sách cha viết về cách giảng là nên bắt đầu bài giảng với với lời giải thích mang tính giản đơn của bài đọc. Cha khuyên nên tránh xa những lời bình luận, và đọc bài sách như giáo dân nghe. Đến đây chúng ta nghĩ đến câu hỏi, những thắc mắc, những nhầm lẫn, những cảm giác và bao nhiêu ý niệm gây nên bởi bài đọc "giản đơn". Lần đọc đầu tiên giúp có khái niệm mới mẻ về bài sách, và giúp người giảng thuyết nghe bài sách như giáo dân nghe một cách chính xác không có gì che đậy. Tôi sẽ dùng lời khuyên của cha Craddock về bài sách của tiên tri Amos.
Trước tiên,bài sách đánh động trí tôi như là một bài kỳ lạ. Đó là điều gì? Vì sao thầy tư tế Amasya không chịu nổi Amos? Nếu thầy giảng nói về bài sách này hay không, tôi chắc rằng giáo dân sẽ nghe và biết điều gì xãy ra. Như thế tôi có bi quan quá hay không? Tôi công nhận tôi cũng không biết nhiều về bài sách đó.
Lúc đó là thế kỷ thứ 8 trước công nguyên. Amasya là thầy cả tư tế trong triều vua. Bấy giờ là lúc hoà bình thịnh vượng cho dân Israel, và những người giàu có cảm thầy rất an toàn. Và cũng là lúc dân chúng suy đồi, quên lời Giao ước. Thầy tư tế Amasya chỉ nói với triều đình những gì họ muốn nghe, và biết bao người khác đã bỏ qua Thiên Chúa, dựa vào quyền uy của chính quyền để giữ sự an toàn. Amos là một người chăn chiên và châm quả sung. Ỏ Trung Đông trái sung là cho người nghèo. Phải châm trái lúc còn nhỏ để mủ chảy ra cho trái mau lớn và chín ngọt. (Đây, một người châm trái sung lại là ngôn sứ).
Amos không phải là thành phần trong triều vua, ông ta cũng không phải là ngôn sứ nhà nghề. Amos xưng mình là kẻ chiếm giải Sư tử Giuda. Bài sách hôm nay nói về thị kiến của Amos. Việc ông ta gặp thầy tư tế Amasya cắt ngang các thị kiến. Amasya bảo Amos chạy thoát thân ra khỏi thành phố. Amos cự lại, nói với Amasya là ông ta không muốn làm ngôn sứ. Nhưng Đức Chúa đã chọn ông không giống bất cứ một điều gì như trước kia. Amos cũng không phải là tiên tri hay môn đệ của tiên tri. Sứ mạng ông ta phải được chấp nhận. Sứ mạng đó không phải bởi quan quyền trong chính quyền hay bởi triều vua. Bây giờ chúng ta hiểu vì sao bài sách này được chọn đi với bài phúc âm hôm nay. Sứ mạng là điều chính. Thiên Chúa chọ người đưa sứ mạng đến dân Ngài.
Tôi viết bài này nhân lúc tôi sửa soạn hành lý lên đường đi giảng tĩnh tâm ở một xứ đạo. Bài Phúc Âm làm tôi suy nghĩ trong lúc tôi nhìn những hành lý tôi muốn đem theo. Nghe bài Phúc âm bảo là tôi không nên lo về tiền bạc, thức ăn, vậy tôi có lo nhiều quá hay không? Tôi sẽ làm sao ra phi trường, và ai sẽ trả tiền vé máy bay cho tôi? Tôi biết bây giờ không như ngày xưa và tôi đang nhìn vào máy vi tính để nhắc tôi biết là sự vật thay đổi quá nhanh chóng. Nhưng tôi không muốn bỏ qua bài sách một cách dễ dàng cho đó là một bài sách thuộc thời xưa. Mà tôi cũng không muốn nói là bài sách chỉ áp dụng cho một số ít vị giảng thuyết. Chúng ta đi giảng nhiều cách, và mỗi người được phép "trừ tà" của thời đại mình.
Chúa Giêsu bảo chúng ta nên sống đơn giản, chú trọng đến sự quan trọng của sứ mạng, và ra đi làm điều gì về sứ mạng đó. Vậy thì đã bao lần chúng ta bỏ qua lời kinh nguyện quan trọng vì chúng ta nghĩ chúng ta cần đọc sách về cầu nguyện, hay dự một buổi họp về cầu nguyện và học cách làm sao cầu nguyện phải không? Chúng ta cảm thấy chúng ta không đủ sức nói với người khác về cầu nguyện. Vậy thì về những câu chuyện chúng ta tránh nói như: về sức khoẻ, tôn giáo, vũ khí quân đội v.v… vì chúng ta nghĩ là chúng ta không biết đủ các chi tiêt hay sao? Nếu đó là những điều làm chúng ta thinh lặng thì chúng ta có thể bớt xem truyền hình, bớt chơi game trên vi tính và để nhiều thì giờ học hỏi hơn. Chúng ta cần biết là chúng ta được sai đi rao giảng, được quyền trừ quỷ, và được phép chửa bệnh.
Có lẽ chúng ta nên sống đơn giản, chứng tỏ điều chúng ta ao ước là chỉ Thiên Chúa mà thôi, và chỉ có lề luật Thiên Chúa quản trị trên trái đất hơn là các quyền khác trên chúng ta. Có thể lối sống đơn giản là dấu chỉ "quyền uy trên quỷ dữ", vì chúng ta đều biết rõ là lối sống đơn giản, cách tiêu xài, cách giải trí và cách tiêu thụ nhờ vào các nước khác dùng nhân công rẻ và không giúp tái tạo lại con người và các nguyên vật thiên nhiên của họ. Một báo cáo của chính phủ cho biết người Hoa Kỳ phung phí 25% của thực phẩm tươi họ mua. Vậy môn đệ Chúa Giêsu sẽ làm gì trước những phung phí đó? Và chúng ta dùng sự đơn giản để sống một lôi sống khác hay không? Bài giảng chúng ta qua lời nói và lối sống có lẽ phải rõ ràng hơn. Phải nói rõ chúng ta là ai và đời sống chúng ta chú trọng về ai. Nếu chúng ta thật lòng với Chúa Kitô và Tin Mừng thì chúng ta cần làm chứng về Đấng chúng ta tin tưởng qua sự thay đổi lối sống của chúng ta. Giảm bớt "xử dụng quá mức" sẽ chứng tỏ sứ mạng mà chúng ta được sai đi rao giảng.
Chúng ta nhớ câu chuyên người Samaritanô tốt lành trong phúc âm thánh Luca. Câu chuyện đó nhắc đến nguy hiểm trong thế gian là nơi Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài ra đi. Thế gian nguy hiểm cho người đi đường. Vì sao lại bỏ nơi an toàn trong gia đình và làng xóm để ra đi trong thế gian nguy hiểm? Phần đông ít người ra đi như thế. Họ có đủ mọi sự trong gia đình. Dù vậy Chúa Giếsu gởi các môn đệ Ngài ra đi. Ngài gởi đi từng hai người một. Họ sẽ cần giúp đỡ che chở nhau. Có người nghĩ là nếu hai người đi với nhau thì sẽ không chỉ giảng về Chúa Giêsu, hay về sứ mạng của Ngài. Hai người giảng sẽ cân bằng hơn. Chúa Giêsu nghĩ là các môn đệ Ngài sẽ được đón nhận theo truyền thống đón khách cúa văn hoá Trung đông. Chúa Giêsu nghĩ là một khi họ được đón vào nơi nào thi sứ mạng họ đem đến sẽ làm cho họ được đón nhận niềm nở chứ không phải vì vật dụng hay tiền bạc họ mang theo.
Vì sao Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ nhiều như thế? Cha Robert Warznak S.S. nhớ lại một phong tục Do thái, là khi người ta bước vào sân đền thờ, người ta phải dừng lại bỏ cây gậy và cởi giày ra và cả thắt lưng tiền rồi mới bước vào đền thờ là nơi thánh thiện có sự hiện diện của Thiên Chúa. Các điều gì lo lắng hằng ngày sẽ phải để ra một bên. Bây giờ nếu các môn đệ Chúa Giêsu để "các lo lắng ra một bên" thì có ý nghĩa gì? Sứ mạng của Chúa Giêsu và phép chửa lành sẽ là điều quan trọng nhất và các lo lắng đều không đáng kể. Vậy môn đệ trên đường đi giảng mang theo hành lý ít hơn có thể đứng trước Đấng Thánh, mặc dù còn trên đường đi hay ở trong hội đường hay không? Vậy các nhà họ bước vào, và các gia đình đón nhận họ có như hội đường là nơi có Đấng Thánh ngụ hay không? Vậy Chúa Giêsu có thể nhắc các môn đệ là khi nào gặp trường hợp khó (như nơi nào không đón nhận họ), các ông sẽ dựa vào Thiên Chúa hơn là dựa vào các lo lắng hay không?
Vì các môn đệ xức dầu cho người bệnh và chữa lành họ, thì Chúa nhật hôm nay có nên giảng về bí tích xức dầu cho người bệnh hay không? Chắc bạn không muốn để riêng bài Kinh Thánh ra và giảng nhiều về tín lý, rồi phần thứ hai của bài giảng sẽ nói về bí tích là dấu chỉ Chúa Giêsu tiếp tục chữa lành trong cộng đoàn. Điều đó thể giúp chỉ rõ sự quan trọng của bài sách đọc hôm nay về đời sống của Giáo hội.
Cha hỏi chúng con, trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, chúng con thấy Chúa làm điều gì nào? TN15-B119
Cha hỏi chúng con, trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, chúng con thấy Chúa làm điều gì nào?
- Dạ thưa cha, Chúa gọi nhóm 12 lại và sai các ngài đi truyền giáo.
- Thế nhóm 12 này là những ai vậy?
- Thưa là những người mà Chúa chọn và gọi họ là các tông đồ.
- Chúng con trả lời rất đúng và rất hay. Cha khen chúng con.
Tin Mừng hôm nay kể: Chúa gọi nhóm 12 lại và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Thực ra phải nói là Chúa sai họ đi thực tập việc rao giảng Tin Mừng mới đúng. Chúa tập cho các ngài để sau này khi Chúa về trời các ngài có thể tiếp tục công việc của Chúa tốt hơn.
Đây là lần đầu tiên Chúa làm như thế. Và vì là lần đầu tiên cho nên Chúa đã ban cho các ngài những chỉ thị thật rõ rệt và tỉ mỉ, bao gồm những điều phải làm và không được làm. Những chỉ thị ấy như thế nào thì chúng con đã nghe. Ở đây cha chỉ muốn hỏi chúng con một điều: Tại sao mà Chúa là phải căn dặn quá kỹ như vậy? Theo Cha thì Chúa làm như thế để nhắc cho các tông đồ biết: Việc rao giảng là việc của Chúa. Các tông là những người cộng tác với Chúa, cho nên phải biết tin tưởng vào Chúa, đừng quá bận tâm đến những việc mà người đời thường lo lắng. Vì như lời Chúa hứa "Vì thợ thì đáng được nuôi ăn"(Mt 10,10)
cha kể cho chúng con câu chuyện này: Một hôm, có người lạ mặt tới thăm cha Don Bosco, Người này chào ngài như thường lệ.
- Chào Don Bosco, bây giờ ra sao?
- Vẫn không có xu nào...
- Kỳ quá! Nếu bây giờ cha phải có ngay một số tiền, thì cha sẽ làm gì?
- Tôi sẽ ngửa mặt lên với Chúa Quan Phòng...
- Vâng, Chúa Quan Phòng! Lại Chúa Quan Phòng! Một cách nói quá đẹp, nhưng tôi hỏi cha nếu bây giờ cha phải có một số tiền ngay lập tức thì sao?
- Trong trường hợp đó, tôi sẽ nói với ông: thưa ông xin ông ra phía cổng thì sẽ thấy có một người, lúc này đây đang đem đến cho Don Bosco một món tiền dâng cúng.
- Sao? Cha nói thật không? Mà lúc tôi vào đây, tôi chẳng thấy ai ngoài đó. Ai nói với cha?
- Chẳng ai nói với tôi hết, nhưng tôi biết, và Chúa Quan Phòng cũng biết.
Người lạ mặt đó cũng rất bỡ ngỡ, liền đi ra phòng khách và thấy có một người ngồi chờ ở đó. Người ấy hỏi:
- Có phải ông muốn gặp cha Don Bosco phải không? - Vâng, tôi mang đến cho ngài một số tiền dâng cúng. Và thánh nhân cũng vừa bước tới cửa phòng: - Ông thấy đó, tôi có lý để tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. "Vì thợ thì đáng được nuôi ăn"phải không chúng con? Chúa đã nói như thế mà.
2. Bây giờ cha hỏi tiếp:Thế Chúa có muốn chúng ta làm gì qua bài Tin Mừng hôm nay không?
Cha thấy có nhiều người nghĩ rằng bài Tin mừng hôm nay là bài Tin Mừng Chúa nói riêng với 12 tông đồ thuở xưa hay là với các Đức Giám mục, Linh mục, tu sĩ ngày nay mà thôi chứ đâu phải là Chúa muốn nói với mọi người.
Quả là có những người nghĩ như thế! Nhưng theo Cha, nghĩ như vậy là sai! Chúng con có biết tại sao không? Thưa vì khi lãnh Bí tích Rửa tội mỗi người chúng ta đã trở thành con cái của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn nói mạnh hơn: "Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa"(Ep 2,19)
Thánh Phaolô nói hay quá! Người nhà của Thiên Chúa! Vì là người nhà của Thiên Chúa nên phải làm những việc Thiên Chúa muốn. Vậy thử hỏi Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì nếu không phải là công tác với Chúa để làm cho mọi người biết Chúa và yêu mến Chúa.
Vào một ngày mùa đông nọ, có một người bộ hành bắt gặp một em bé đang ngồi ăn xin ở bên vệ đường, vừa đói vừa lạnh. Người bộ hành bỗng cảm thấy tội cho em bé quá nên mới thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, sao Chúa không làm gì hết để giúp em bé này? Chúa đáp: - Ta đã làm rồi! Người bộ hành ngạc nhiên thưa lại: - Thưa, con có thấy em bé được Chúa giúp gì đâu? Người bộ hành hỏi. - Có chứ! Chúa đáp. - Lạy Chúa! Vậy Chúa đã giúp em bé cái gì vậy? - Ờ thì Ta đã dựng nên con, dẫn con đi qua đây để cho con nhìn thấy đứa bé đó, và để con giúp đỡ nó!
Vậy ra mỗi người chúng ta chính là dụng cụ mà Chúa muốn dùng để lo cho người khác, những người nghèo khổ và những người chưa biết Chúa.
Một câu hỏi tiếp theo: Chúng con còn nhò chúng con có thể làm được gì?
Chúng con đừng bảo chúng con còn nhỏ không làm được gì! Chẳng thiếu gì việc chúng con có thể làm. Chúng con hãy cho mọi người thấy chúng con là những người tốt...tốt như Chúa. Như thế thôi cũng đủ lắm rồi.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Một người lính già ngồi trên ghế đá trong một công viên. Ông chụm đôi tay run rẩy trên đầu một cây gậy. Đôi mắt mỏi mệt của ông nhìn vào khoảng trống. Bao cùng cực, bao thất vọng và khó khăn đè nặng trên ông đến độ ông chỉ còn có thể lắc đầu than thở: “Không, không còn có người tốt nữa!”
Vào lúc đó, có một bà ăn mặc sang trọng đi ngang qua trước mặt ông, tay bà dắt một bé gái. Bé nhìn cụ già.
- Má, ông này làm gì thế ? - Ông ngồi nghỉ, con thân yêu. -Tại sao ông ngồi nghỉ ? - Bởi vì ông mệt. - Có phải là một ông ngọi (ngoại ) không ? - Đúng, con ạ . - Mề đay đeo trên áo ông là cái gì vậy? - Đó là một huân chương, bởi vì ông đã đánh trận. - Tại sao ông mặc áo cũ rách thế ? - Tại ông không thể mua những áo mới. - Tại sao ông không thể mua những áo mới ? - Vì ông nghèo. - Má !!! - Gì thế con ? - Hôm nay là lễ bổn mạng của con phải không ? - Ừ thì con biết đấy ! - Má, con có gì trong ngày lễ của con không? - Con có kẹo, có bánh ngọt, và cái túi nhỏ trong đó có 20 quan Pháp. Con làm mất rồi à? - Không, thưa má, còn đây.!. . . Má à ! - Gì con ? - Hai mươi quan này là của con phải không? - Chắc chắn rồi ! - Cả hai mươi quan chứ ? - Ừ, cả 20 quan. - Con có thể làm những gì con muốn với số tiền này chứ ? - Đúng.
Thế là em bé rời tay mẹ, chạy ngay về phía cụ già, mở cái túi nhỏ của em ra và rút tờ giấy 20 quan đưa cho cụ già vừa làm vừa nói một cách thật dễ thương : “của cụ đấy !”
Đôi mắt của người lính già khốn khổ bỗng vụt sáng.Ông cầm lấy tờ giấy bạc. Trong giây phút, ông không thể thốt ra được lời nào, rồi bất thình lình, ông nói : - Xin Chúa trả công cho cháu, Thiên Thần tốt lành của ông! Em bé đã trở lại bên mẹ. - Má ơi , con có phải là một Thiên Thần không? Cảm động, bà mẹ đáp : - Phải, con là một Thiên Thần. Thế tại sao con lại không có cánh? - Cũng có những Thiên Thần không có cánh, con ạ !
Người mẹ ôm mạnh con vào lòng. . . Và trên chiếc ghế đá lạnh nước mắt của người lính già chảy thành giòng ướt đẫm cả bộ râu rậm của ông, bởi vì ông đã tìm lại được niềm tin vào con người. Amen.
Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, TN15-B120 Dalat
Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài, có thể là lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Thiên Chúa đối với nỗi khổ của dân, và Chúa ra tay cứu thoát.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch trần nỗi thống khổ của dân là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời. Tiên tri Amos là một bằng chứng.
Ơn gọi của Amos
Tên Amos có nghĩa là “gánh nặng” hay “người gánh vác nặng nhọc”. Ông quê làng Tekoa, một xóm nhỏ phía Nam Giêrusalem, nay đã hoang phế và không còn lưu lại một dấu vết nào, làng này cách Bethlehem chừng vài dặm. Chính ông cho biết ông sống bằng nghề chăn súc vật, trồng cây sung. “Lời của Amos. Ông là một trong những người chăn cừu tại Tơcôa …” (Amos 1,1). Lời Amos trả lời ông Amátgia : “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung”(Amos 7,14). Mặc dù ông đang chăn cừu, nhưng Chúa đã túm lấy ông, Chúa lôi ông đi và bắt ông làm tiên tri, với sứ mệnh nặng nhọc đúng với tên của ông.
Ông đâu muốn làm ngôn sứ vì ông an phận với cương vị một nông dân. Ông bị bắt làm ngôn sứ : “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta” (Am 7, 15). Amos thổ lộ biết : ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Israel dân Chúa”. Amos được Chúa chọn gọi làm ngôn sứ vào thời vua Uzziah coi sóc vuơng quốc Giuda ở miền Nam, tức vào khoảng năm 791 đến 740 trước TC. Lúc đó Giêrôbôam làm vua vương quốc Israel miền Bắc ( năm 793 đến năm 753 trước Chúa Giêsu giáng sinh. Thời điểm Amos lên tiếng nói : “Ông đã thấy thị kiến liên quan đến Ítraen, dưới thời Uzziah làm vua nước Giuđa, và Giêrôbôam con vua Giôsias làm vua nước Ítraen, hai năm trước trận động đất” ( Amos 1,1).
Chúng ta biết những ngôn sứ chân chính, ngôn sứ thật bao giờ cũng bị ghen ghét. Thời Amos, các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng khó chịu và không muốn thấy Amos hiện diện tại miền đất của họ nữa. Đứng trước nền đạo đức xuống cấp và nền luân lý suy đồi, ngôn sứ Amos tố cáo mọi cấp bậc trong dân Chúa đồng thời cảnh báo họ sẽ bị phạt nếu không thay đổi đời sống. Amos đã làm tốt các công việc Chúa muốn: ông không tự mình nói gì và làm gì ngoài lệnh của Thiên Chúa.
Đẹp thay sứ mạng Tông Đồ
Tin Mừng Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu sai mười hai Tông Đồ cứ từng hai đến hai một đi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng ấy là Thiên Chúa Cha đã yêu thương loài người bằng tình yêu vô hạn, Ngài ban tặng sự sống cho chúng ta để chúng ta sống và hạnh phúc luôn mãi. Tin Mừng này dành cho tất cả mọi người, không một ai ở ngoài lời mời gọi cứu chuộc của Thiên Chúa, và cũng không một ai bị loại trừ khỏi Tình yêu của Chúa. Tin Mừng này phải được loan đi đến tận cùng thế giới. Chúng ta phải công bố niềm vui và ơn cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã tái tạo con người, đã chết và sống lại để cho con người được sống.
Những người được sai đi, Chúa trao cho “quyền trên các thân ô uế” (Mc 6, 7) và một hành trang “hầu như không có gì”. Người còn ra lệnh cho họ “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo” (Mc 6,8) để cho họ thấy rằng, hiệu quả của việc rao giảng Tin Mừng sẽ không đến từ sự ảnh hưởng của con người hay vật chất, mà là từ quyền năng của Thiên Chúa, như lời Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : " Thiên Chúa được truyền cảm hứng trong lòng người ta do ân sủng của Chúa Thánh Thần".
Niềm vui tông đồ
Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI, Tin Mừng còn chưa đến mọi nơi, rất cần đến lòng nhiệt thành truyền giáo.
Chúng ta đã nhận được Tin Mừng, chúng ta có biết giá trị thực sự của Tin Mừng không? Chúng ta có ý thức về điều đó không ? Chúng ta có biết ơn không? Chúng ta hãy xem xét chính mình, người đã lãnh nhận Phép rửa tội, chúng ta co loan báo Tin Mừng bằng gương mẫu của chúng ta chưa?
Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 27. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại lời Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Mọi canh tân trong Hội Thánh phải có truyền giáo như mục đích, để không rơi vào nguy cơ của một Hội Thánh quy về mình. Quan trọng hơn, đây là dịp tốt nhất để khơi dậy ơn ban và huyền nhiệm ơn gọi Truyền giáo Ngôi Lời”.
Chúng ta hãy khám phá ra vẻ đẹp đích thực của sứ giả loan báo Tin Mừng qua những nét đặc trưng liên quan đến Nguồn gốc ơn gọi, nội dung rao giảng, mục đích hướng tới và cả Thách đố.
Không ai tự mình trở thành sứ giả Tin Mừng do địa vị, tài năng, công trạng… Chính là “do lòng thương xót và được tuyển chọn” (Thánh Bêđa Khả kính), được Chúa thương tha thứ và đưa vào sứ vụ của Người (Missio Dei).
Sứ giả loan báo Lời từ Thiên Chúa, Hồng ân và Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không phải là một loại thông tin. Tin Mừng là một sứ điệp có bản chất hoàn toàn khác biệt. Tin Mừng chiếu tỏa vẻ đẹp vô tân của lòng thương xót Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không phải là sản phẩm do con người suy tư hay làm ra (Gl 1,11). Tin Mừng đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải, được tỏ bày do tình bằng hữu, nên chỉ có thể lãnh nhận và loan báo trung thành.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ---------------------------------
Trong kỳ họp thường niên của HĐGMVN thứ nhất năm nay, các Đức giám mục Việt Nam chia TN15-B121
Trong kỳ họp thường niên của HĐGMVN thứ nhất năm nay, các Đức giám mục Việt Nam chia sẻ với nhau tiến trình thỉnh nguyện xin mở án phong chân phước cho hai Đức Cha: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt Đức Cha Lambert de la Motte làm giám mục Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu giám mục Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ từ Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha. Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng là phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây. Cho nên, Ngài đã vui mừng nói: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước chúng ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác đều gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên giống như Chúa, rồi cũng được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho các ông: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Vì vậy, hoạt động của các ngài là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của Chúa Giêsu.
Đáng lý ra hành trình rao giảng đầy gian khó như thế phải mang nhiều hành trang chứ? Nhưng Chúa Giêsu nói: “Không được mang gì khi đi đường”, tức phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, như thế họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa. Có như thế, chúng ta mới dễ:
Thứ nhất, có nhiều thời gian gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Thứ hai là có trái tim biết cảm thương và cứu giúp tất cả mọi người: từ người trẻ đến già, từ những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, đến những người nghèo kém may mắn. Cuối cùng, có tâm hồn nghèo khó đơn sơ phó thác. Nghèo khó tâm hồn tức là siêu thoát với vật chất. Vật chất chỉ là phương tiện giúp sống chứ không phải mục đích sống. Nếu sống duy vật chất thì chắc chắn mất phần tâm linh, tức mất linh hồn, mất lương tri. Ví dụ, hôm này 7-7 vừa qua một vụ giết giết kinh hoàng xảy ra ở Bình Phước, làm 6 người trong gia đình đại gia, tất cả đều bị sát hại bằng phương thức cắt cổ. Chỉ duy nhất bé gái khoảng 18 tháng tuổi, con út ông bà chủ may mắn thoát nạn. Theo thông tin, người ta dự đoán đây là vụ giết người cướp của. Lại một sự đau lòng cho con người vì tiền của mà mất lương tâm, bất nhân và tàn ác.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Qủa thế, chúng ta là những người đã chịu Phép Rửa, là giống nòi tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa để hoạt động tông đồ và rao truyền Tin Mừng cho mọi người. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới đó là: nơi chúng ta đang sống, đang làm việc, là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp... Vậy, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải ra đem Tin Mừng của Chúa thấm đẩm vào cuộc sống ngõ hầu biến đổi thế giới mình đang sống hành thế giới của Thiên Chúa: là công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ, không gian tham, không độc ác…
Ước gì Lời Chúa hôm này, sau Thánh Lễ này, Chúa Giêsu sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố rõ ràng và hữu hiệu nhất bằng cuộc sống chứng tá của mỗi người chúng ta qua các hoạt động tông đồ của chính mình hay các ban ngành, đoàn thể trong giáo xứ trong tình yêu hiệp nhất với nhau và đặc biệt với Chúa Giêsu Kitô và Hội Thánh. Amen.
--------------------------
TN15-B122: Căn tính và tinh thần của người thừa sai
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng không hẳn vì ngài khôn ngoan cho bằng nhân đức của ngài vượt trội. Một trong những đức tính tuyệt vời mà nhiều người nhận ra, đó là đức tính khiêm nhường, can đảm và nghèo khó....
Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng TN15-B122
Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng không hẳn vì ngài khôn ngoan cho bằng nhân đức của ngài vượt trội. Một trong những đức tính tuyệt vời mà nhiều người nhận ra, đó là đức tính khiêm nhường, can đảm và nghèo khó. Vì thế, ngài đơn sơ, giản dị, dễ gần, luôn cảm thông cho người tội lỗi, nâng đỡ những người bất an, bảo vệ những người bị áp bức, và nhất là luôn thương cảm với người nghèo.
Ngài thực là người mục tử mẫu mực, luôn “cảm thấu” và “ngửi” thấy mùi chiên.
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa cũng làm toát lên những đặc tính cần phải có nơi người môn đệ.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Bài đọc I, trích sách Amos, thuật lại việc ngôn sứ Amos bị mời đi nơi khác hoạt động, vì nơi đó, người ta không muốn ngài hiện diện. Tuy nhiên, vị ngôn sứ này rất chân thành, đơn sơ, nghèo khó và can đảm xác tín mạnh mẽ về ơn gọi của mình đến từ Chúa và sứ mạng ông đang thực thi cũng là do chính Chúa chỉ định. Khi xác tín như thế, ông đã trung thành và quả cảm ở lại ngay tại nơi “nước sôi lửa bỏng” để loan báo sứ điệp mà Thiên Cháu muốn ông thi hành.
Với bài đọc II, thánh Phaolô tuyên tín mạnh mẽ và gợi lại cho dân về ơn gọi của mỗi người cách nhiệm mầu trong tình thương của Thiên Chúa từ trước cả khi tạo dựng đất trời.
Điều cao quý nhất, đó là trong Đức Giêsu, mỗi người được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được cứu chuộc nhờ máu của Con của Người đã đổ ra trên thập giá để giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống thần linh.
Ân huệ này phải được chúng ta cảm nghiệm và loan truyền cho mọi người được thấy.
Cuối cùng, thánh sử Máccô thuật lại việc Chúa gọi và chọn mười hai Tông đồ, rồi nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường những điều cốt lõi, trọng tâm.
Tin Mừng thuật lại: Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Từ bài Tin Mừng, chúng ta có thể hiểu về lời căn dặn của Đức Giêsu trước khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng như sau:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng, kêu gọi thống hối chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, bám chặt lấy Thiên Chúa, trao phó mọi sự nơi Ngài. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy". Và đừng quá lo lắng về vật chất, bởi vì: Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho (Helder Camara).
Thứ ba là thái độ của người được sai đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”, luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh vì phần thưởng của người thừa sai trên trời thật lớn lao.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội đầy nhiễu nhương, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Quan điểm, lập trường của một số người mọi thời là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin…. Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy... nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và, cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người thừa sai. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo củng cố bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và, phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi: là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
2. Tin Mừng cho người nghèo
Từ những suy niệm trên, chúng ta thấy, Đức Giêsu rất quan tâm đến tinh thần của người môn đệ. Một trong những điều mà Ngài quan tâm hơn cả, đó là tinh thần nghèo khó của người được sai đi. Tinh thần nghèo khó có nghĩa là chỉ gắn bó với sự giàu có của Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Ngài đã không gọi những người giàu có, tài ba lỗi lạc, mà đa phần là những người nghèo, tội lỗi để loan báo Tin Mừng. Có thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: hành trang các ông mang theo trên đường truyền giáo là trái tim, sự khiêm nhường và lòng phó thác.
Mặt khác, khi chọn người nghèo và tội lỗi là đối tượng chính yếu để loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mọi người nhận thấy rằng: người nghèo chính là tài sản của Giáo Hội.
Từ ơn gọi của các Tông đồ đến đối tượng của sứ vụ các ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng đều là những nhà thừa sai đúng nghĩa. Vì thế, tiên vàn, mỗi người Kitô hữu phải xác tín căn tính của mình là thuộc về Chúa và phải truyền giáo. Không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất và không còn là người Kitô hữu đúng nghĩa. Có chăng chỉ là cái xác không hồn hay chỉ có tên tuổi trong sổ Rửa Tội!
Noi gương Vị Thừa Sai Vĩ Đại là Đức Giêsu, chúng ta truyền giáo bằng đời sống tốt lành, gương mẫu. Nhất định không bao giờ trở thành cái phèng la làm điếc tai thiên hạ, hay giống như cái thùng kêu to nhưng bên trong rỗng tuếch. Đời sống cầu nguyện, nghèo khó và sự khiêm tốn là nền tảng cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Đối tượng chính yếu của công cuộc này là người nghèo. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội” (số 187). Ngài quả quyết thêm: “Trong trái tim của Thiên Chúa có môt chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên Chúa “đã trở nên nghèo khó” (x. 2 Cr 8,9; số 197). Nói như Paula Hoesi: “Nếu sự ham muốn của cải thế gian lấp đầy con tim tôi thì thử hỏi đâu còn chỗ dành cho Thiên Chúa?.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng: Giáo Hội thực sự trung tín với Thiên Chúa khi Giáo Hội khiêm nhường, khó nghèo và tín thác. Xin cho mọi thành phần dân Chúa luôn sống tinh thần ấy khi loan báo Tin Mừng để Lời Chúa không bị bóp méo nơi những người loan báo. Amen.
Sau khi đã dạy cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng. Điều này cho thấy TN15-B123
Sau khi đã dạy cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng. Điều này cho thấy, Ngài không rao giảng một mình. Ngài muốn cho các môn đệ cùng chia sẻ sứ mệnh rao giảng với Ngài.
Điều này hợp lý vì Ngài biết cuộc đời trần thế của Ngài không kéo dài mãi, nhưng sứ mệnh cứu độ của Ngài phải được tiếp tục cho đến tận thế. Để thực hiện điều này, Ngài chọn mười hai môn đệ và một nhóm môn đệ khác. Ngài huấn luyện họ và sai họ đi rao giảng ngay khi Ngài còn ở với họ, giúp họ học hỏi kinh nghiệm cuộc sống truyền giáo của Ngài. Ngài sai đi với những chỉ thị rõ rệt.
Ngài sai họ đi từng hai người. Chúng ta có thể hiểu rằng công việc rao giảng không phải là công việc của một cá nhân và cũng không dễ dàng, cần phải trợ lực cho nhau, cần cộng tác với nhau. Công việc này không phải công việc của một cá nhân muốn làm thế nào tùy ý mình, mà là một trách nhiệm chung cùng chia sẻ cực khổ với nhau, và theo một đường hướng nhất định. Sau này chúng ta thấy các Tông Đồ cũng thực hiện y như thế: Phêrô với Gioan sát cánh, Phaolô và Banaba cũng luôn đi đôi.
Trước khi sai đi, Chúa Giêsu căn dặn thật kỹ: chỉ được mang theo cây gậy và mang dép, ngoài ra không mang theo gì khác: không lương thực, không tiền bạc, áo xống…
Cây gậy và dép là cần thiết cho những chuyến đi dài. Ngoài ra, mọi sự sẽ được giải quyết tại chỗ tùy hoàn cảnh. Ra đi rao giảng không phải là tìm cho mình những bảo đảm vật chất, những tiện nghi. Người giảng chỉ cần mang trong lòng Tin Mừng mà thôi.
Những điều Ngài căn dặn đều được nhìn thấy nơi Ngài. Ngài “không có nơi tựa đầu”, không tiền, không bạc, hoàn toàn tay không. Các môn đệ của Ngài không thể nào đi con đường khác. Nhờ đó, họ cảm thấy nhẹ nhàng, không vướng mắc gì cả khi dấn thân cho sứ mệnh.
Công Đồng Vatican II, trong sắc lệnh về truyền giáo (Ad gentes) đã nêu rõ: “Giáo Hội (…) nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy,(…) cũng tiến bước trên con đường mà Chúa Giêsu đã đi, là nghèo khó, vâng phục, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết”. Chúng ta không thể ra đi mang cồng kềnh những hành trang vật chất. Con người truyền giáo là con người dám “cho không cuộc đời của mình” như Thầy Chí thánh, mới có thể đem lại những mùa gặt phong phú.
Phải ra đi.
Truyền giáo là ra đi, vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thế giới mênh mông, Giáo Hội vẫn còn là một con thuyền nhỏ trên biển cả nhân loại. Giáo Hội vẫn ước mong làm sáng tỏ Tin Mừng trên khắp thế giới. Mỗi người Công giáo phải cảm thấy bị thôi thúc ra đi khỏi chân trời hẹp hòi của mình, đi vào chương trình mênh mông của Thiên Chúa là “cứu vớt tất cả mọi người”.
Chúng ta làm được gì?
Xem ra chúng ta nhỏ bé quá, chúng ta cảm thấy mình như một hạt cát, chẳng có giá trị gì, làm sao “rao giảng Tin Mừng” như Chúa muốn?
Chúng ta nhỏ bé đó là điều hiển nhiên, nhưng chúng ta không làm gì một mình. Một mình, chúng ta chỉ là hạt cát nhỏ, nhưng chúng ta là Giáo Hội. Chúng ta làm theo Giáo Hội, với Giáo Hội và trong Giáo Hội, nghĩa là với tất cả anh chị em chúng ta.
Chúng ta ra đi không phải do sáng kiến riêng của chúng ta, mà là được “sai đi”. Chúng ta lãnh nhận sứ mệnh từ nơi Chúa, trong luồng gió của Thánh Thần, chỉ một điều quan trọng là chúng ta “dám” ra đi hay không.
Chúng ta có dám ra đi với sự khó nghèo khiêm tốn, buông bỏ tất cả những gì là tham vọng cá nhân hay trần thế không?
Chúa muốn chúng ta ra đi với bàn tay trắng, chỉ có cây gậy, là niềm tin tuyệt đối vào Đấng đã sai chúng ta đi. Chúng ta không mang theo hành trang nào ngoài “Chúa Giêsu Kitô” và “Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá”.
Đây là điều dễ vì chúng ta luôn luộm thuộm đủ các thứ: tham vọng, kiêu căng và bao nhiêu ước mơ không phải là Chúa. Chúng ta vẫn mang theo “con người cũ” của chúng ta. Phải tẩy xóa tất cả những gì có thể ngăn cản lời Chúa. Người tông đồ, càng bỏ mình, thì càng vâng phục ý Cha mới có thể chuyển thông sứ điệp của Chúa. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa, trong sự sống cũng như sự chết, như các Tông Đồ, như Phaolô, lời nhỏ bé của chúng ta mới mang lấy sức mạnh cần thiết để đi vào các tâm hồn.
Chúa Giêsu trao quyền trừ quỷ cho các Tông Đồ. Tại sao thánh Maccô chỉ nói đến quyền này mà thôi? Chúa Giêsu đến trong trần gian là để tiêu diệt thần dữ. Các Tông Đồ ra đi là đi vào cuộc chiến chống thần dữ. Trao quyền trừ quỷ là mục tiêu chính yếu, các quyền khác như chữa bệnh chỉ là phụ thuộc. Điều quan trọng và cam go nhất là lột mặt nạ của ma quỷ đang chiếm hữu các tâm hồn, giải thoát con người khỏi ách nô lệ của thần dữ. Vì thế, các Tông Đồ ra đi, kêu gọi mọi người “sám hối”. Đó là công việc đầu tiên giúp con người thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của ma quỷ. Việc trừ quỷ bên ngoài chỉ là dấu hiệu cho một cuộc giải thoát quan trọng hơn.
Người Tông Đồ phải đặt tất cả niềm tin vào Đấng đã kêu gọi và sai mình đi mới đủ khả năng lột mặt nạ và xua đuổi ma quỷ, vì đôi khi, chúng ta không trừ quỷ được “phải ăn chay và cầu nguyện”.
Sai các Tông Đồ đi rao giảng, Chúa Giêsu ân cần dặn dò các ông, cả về vấn đề vật chất như “ăn những gì người ta dọn cho”, “ở lại trong một nhà mà thôi, không đi nhà này đến nhà khác”, tìm những gì thích hợp cho mình. Người Tông Đồ không tìm tiện nghi cho chính mình để hưởng thụ.
Đi rao giảng là “cho không” tất cả, chỉ bằng lòng với những gì tối thiểu, và nếu cần, cũng hiến dâng mạng sống cho sứ mệnh.
Các Tông Đồ ra đi, thâu lượm nhiều kết quả.
Hôm nay, Chúa vẫn sai chúng ta đi, những người đang mang Tin Mừng trong cuộc sống của mình. Phép Rửa tội là một hồng ân nhưng không làm cho chúng ta được sáp nhập vào Chúa Kitô. Phép Thêm sức là lệnh truyền ra đi. Thánh Thần Chúa tung chúng ta ra khắp nẻo đường cuộc sống. Không ai được phép nói rằng: tôi nhỏ bé, bất tài, dốt nát… Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi chúng ta tin vào Ngài thôi.
Truyền giáo là biến cuộc sống hằng ngày thành một tuyên xưng đức tin sống động và rõ rệt: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng (Tin Mừng)!” Tin Mừng chính là chúng ta, là cuộc sống hôm nay, cuộc sống hướng thẳng vào Chúa, trao trọn cho Chúa. Một giáo dân đã nói: “Từ khi có Chúa Giêsu, mỗi cuộc đời của người tín hữu là một quyển Tin Mừng thứ năm”.
Hôm nay, trên bàn thờ này, Chúa Giêsu vẫn đến và sai chúng ta đi. Kết thúc thánh lễ, chủ tế nói: “Lễ xong, chúc anh chị em về bình an”. Chúng ta quy tụ lại để cùng nhau chia sẻ Mình Máu Thánh Chúa, để “được no say tình Chúa” và ra đi. Cuộc sống chính là môi trường rao giảng của mỗi người. Chúng ta ra đi vào đời, không phải đơn độc, mà cùng với Chúa, mang Chúa trong tâm hồn…và thông chuyển tình yêu Chúa cho mọi người chung quanh. Chỉ cần biết: phục vụ và yêu thương.
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Loan báo không phãi bằng lời mà bằng chính cuộc sống chứng tá của mình.
Tục ngữ có câu: "Miệng người giàu có gang, có thép". Và người ta dạy đi tìm quyền lực trong TN15-B124
Tục ngữ có câu: "Miệng người giàu có gang, có thép". Và người ta dạy đi tìm quyền lực trong tiền bạc, khí giới, trí thức, khoa học … Môn đệ của Đức Ki-tô không chạy theo tham vọng. Sứ vụ của họ là rao truyền lời Chúa, làm chứng nhân cho Chúa. Người môn đệ phải dành trọn vẹn tâm hồn và sức lực cho Thiên Chúa. Người ta chỉ tin lời của môn đệ khi họ sống lời đó như chân lý.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 6, 7- 13
Mác-cô trình thuật cho chúng ta vài người bước theo Đức Ki-tô (1, 16- 20). Người qui tụ họ thành một Nhóm Mười Hai để "ở với Người" và chia sẻ sứ vụ với Người (3, 43- 19). Giờ đây, Người sai họ đi rao giảng (7).u5
Đức Giêsu "sai đi từng hai người một". Có phải đây là thói quen của người Do thái hay không ? Theo luật Môsê ít nhất phải có hai người chứng, thì điều làm chứng mới được nhìn nhận (Đnl 19, 15). Con số 2 cũng nói lên tinh thần tập thể: người sứ giả rao truyền Tin Mừng không được đi đơn độc, nhưng phải làm việc theo tập thể. Điều Đức Giêsu làm đã được cộng đoàn tiên khởi tuân giữ. Trong sách Công vụ, các nhà truyền giáo luôn đi từng hai người một: Phêrô và Gioan (3, 1; 4, 13). Phaolô và Barnabê (13, 2); Giuđa và Silas (15, 22b)… Đức Giêsu chia sẻ một phần quyền hành của Người cho những kẻ được sai đi: quyền trừ quỷ. Đó là một dấu chứng cho thấy Nước Thiên Chúa đã khởi đầu.
Điều làm chúng ta kinh ngạc ở đây là tinh thần khó nghèo của vị sứ giả Thiên Chúa. Những phương tiện sống (lương thực, tiền túi) họ chỉ được lãnh nhận từ những kẻ họ thăm viếng. Khi ra đi họ không được mang theo bao bị, cũng không được mặc hai áo. Gọn nhẹ và luôn sẵn sàng để đi tới. Họ được cầm gậy và mang dép. Vào thời đó, người ta thường đi chân đất; nếu mang dép và cầm gậy, cho thấy con đường mà họ phải đi rất xa, như một người hành hương, như nghi thức trong đêm Vượt qua: "Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy" (Xh 12, 11).
Lời nói về việc tiếp đón cũng gây kinh ngạc. Sứ giả truyền giáo, dù mang Tin Mừng cứu độ nhưng không, đến cho người ta, nhưng đôi khi vẫn bị từ chối. Tin Mừng không áp đặt ai, nhưng chỉ là lời mời gọi tự do, có thể được đón nhận hay bị từ chối. Khi người ta từ chối "Hãy giữ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ". Đó là một thói quen cổ xưa để nói lên sự cắt đứt dứt khoát (Cv 13, 51).
Như Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ra đi công bố "Nước Trời đã đến", kêu gọi con người sám hối để đón nhận. Các dấu lạ làm chứng điều các ông loan báo. Việc xức dầu chữa lành bệnh nhân là một phương dược thông thường vào thời đó, nhưng vì được hỗ trợ bằng quyền năng Đức Giêsu, nên trở thành hữu hiệu. Đây là mần mống cho Bí tích Xức Dầu bệnh nhân, do quyền năng Đấng Phục sinh nghi thức này chữa lành phần hồn, phần xác cho người tín hữu (x. Ge 5, 14).
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Kitô Hữu Được Chọn Để Sai Đi: Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay trình bày việc Chúa chọn gọi Amos ( Bài đọc I ) và chọn nhóm Mười hai ( Tin Mừng). Thiên Chúa chọn để sai đi, Amos được gọi sai đi nói tiên tri khuyến cáo những dân tội lỗi bất trung. Nhóm Mười hai được gọi để sai đi loan báo tin mừng, kêu gọi mọi người sám hối. Không cần quan tâm đến thành phần xuất thân, không lưu tâm đến danh phận cá nhân, Chúa muốn gọi ai là tùy theo ý định của Ngài. Cho dẫu có gọi ai đi nữa, nhưng vẫn chỉ có một mục đích duy nhất là Chúa gọi để người được gọi ở với Chúa và sai họ đi loan báo ý định yêu thương cứu độ. Kitô hữu cũng thế, qua Bí tích Thánh Tẩy, Kitô hữu được gọi để ở với Chúa. Ở với Chúa là đón nhận sự sống, đón nhận mọi ân sủng do lòng thương xót của Chúa ban tặng. Ở với Chúa để nên thánh thiện và tinh tuyền. Ở với Chúa là để nên nghĩa tử yếu dấu của Ngài. ( Bài đọc II ). Ở với Chúa để được Ngài sai đi. Không phải các Tông đồ đã chọn Chúa mà chính Chúa đã chọn các ông. Các ông ra đi rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa chứ không phải sứ điệp của các ông.
Mỗi Kitô hữu đều là những người được Chúa chọn gọi để sai đi. Sai đi vào chính môi trường mình đang sống để trở nên muối men ướp cho mặn đời; để nên ánh sáng chiếu soi bóng tối tội lỗi, u mê của thế gian. Tất cả cuộc sống phải thấm nhuần tinh thần phúc âm. Mỗi người đếu phải ý thức và nỗ lực chu toàn trách nhiệm truyền giáo của mình. Luôn phải tự hỏi và cảnh tỉnh bản thân: Tôi được gọi để sai đi, vậy tôi đã thi hành lệnh sai đi ấy như thế nào trong cuộc sống hàng ngày của tôi.
2. Tinh Thần Khó Nghèo_Phó Thác Là Hành Trang Đời Kitô Hữu: Khi sai các môn đệ ra đi loan báo Tin mừng, Chúa truyền cho các ông không được mang gì cả, không gậy, không bị, không tiền … Đi đến đâu sống nhờ vào sự chăm sóc của dân nơi đó. Điều này này không phải Chúa làm khổ các môn đệ nhưng Chúa đòi hỏi nơi các ông một tinh thần khó nghèo và phó thác mọi sự trong tay Chúa. Sứ mạng Chúa trao thì Chúa sẽ lo liệu. Bên cạnh đó, khi để cho lòng mình thảnh thơi khỏi những của cải, vật chất và thực sự có một lòng tín thác vào Chúa, người môn đệ sẽ không ỷ lại vào mình mà luôn cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Có như vậy mới bền tâm chu toàn sứ mạng được giao phó. Trong thực tế của đời sống Kitô hữu ngày nay, ai cũng nhắm đến tiền tài, quyền lực danh vọng xã hội, thế gian và tìm mọi cách để đạt được điều đó. Ngay cả những gì xem ra là việc Chúa, việc Giáo Hội cũng nhuấm màu tính toán nặng tính thế gian với một lý luận đơn giản 'có thực mới vực được đạo', 'không có tiền làm sao lo việc xứ tổ chức việc Giáo Hội được'. Có một thực tế khó phủ nhận, ngày nay người ta đi tìm những phương thế, cậy dựa vào quyền thế của đồng tiền, của thế gian hơn là cậy dựa vào Thiên Chúa. Nếu có cậy dựa vào Chúa thì xem ra đó cũng là phương thế cuối cùng, chẳng biết chạy vào đâu thì chạy đến Chúa xem sao. Trong khi đó lẽ ra phải chạy đến Thiên Chúa trước hết và trên hết. Ngày nay mà sống tinh thần khó nghèo, tín thác vào Chúa xem ra là một nghịch lý.
Dù ở bất cứ đâu, bất cứ môi trường nào, địa vị nào, thì Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu luôn luôn phải sống tinh thần khó nghèo, tín thác mọi sự trong tay Chúa.
3. Đời Sống Kitô Hữu Dấu Chỉ Của Nước Trời: Sứ điệp Chúa Giêsu và các Tông đồ loan báo là sứ điệp Nước Trời: 'Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến'. Kitô hữu cũng được sai đi loan báo sứ điệp ấy. Khi sai các môn đệ đi,Chúa ban quyền cho các ông được trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân. Đó là những dấu chỉ cho thấy Bàn tay Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa đã ở giữa thế gian. Chúa cũng sai các ông đi từng hai người một và đến đâu thì cùng sống với người dân ở đó. Tất cả cho thấy rằng toàn bộ đời sống các Tông đồ, các môn đệ của Chúa phải thấm nhuần tinh thần Nước Trời, tinh thần Phúc Âm. Nói cách khác, nếu Kitô hữu sống đúng đòi hỏi của Chúa là đang đưa màu nhiệm Nước Trời và những giá trị Tin mừng đến với thế gian và con người đồng thời của mình. Điều này làm cho đời sống người Kitô hữu trở nên dấu chỉ của Nước Trời. Loan báo không phãi bằng lời mà bằng chính cuộc sống chứng tá của mình.
Ngày hôm nay, qua các việc từ thiện chia sẻ bác ái, qua việc sống mưu sinh lương thiện, qua đời sống công chính dám hy sinh … sẽ làm cho đời Kitô hữu trở nên dấu chỉ của Nước Trời. Đó mới thực là những lời giảng hùng hồn nhất, có sức thuyết phục nhất.
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Người chỉ thị cho các ông không được mang gì hết, ngọai trừ cây gậy và đôi dép.
Có câu chuyện kể rằng: Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu về trời và được thiên thần TN15-B125
Có câu chuyện kể rằng: Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới trần gian? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Nghe Chúa trả lời, thiên thần Gabriel hình như chưa thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười đáp: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, Người đã để lại một nhóm tông đồ xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình của Chúa, đó là đem Nước Thiên Chúa vào trần gian.
Quả thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì hết, ngọai trừ cây gậy và đôi dép.
- Đôi dép (sandal) là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào chân để đi. Sandal được sử dụng rất thông thường trong xã hội Do Thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài. Cũng nên nhớ rằng, ở Israel có những miền đất sa mạc khô cằn, nóng cháy, vì thế sandal thật là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi sandal, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
- Cây gậy ở đây cũng là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi nơi mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mặt mọi người.
- Không được mang hai áo
Trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu của sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Người loan báo Tin Mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo sang trọng trên mình.
- Không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng
Dây thắt lưng để buộc phía ngoài chiếc áo. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng dây thắt lưng. Dây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần may hai lớp thường dùng làm túi đựng tiền.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây: Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ được hình dáng con vật, đủ cả chân, đuôi và đầu. Hai túi có dây để đeo trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, hoặc kẻ đi đường đựng bánh mì, nho, trái ôliu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày. Khi ra chỉ thị này Chúa Giêsu muốn nhắc nhở các môn đệ đừng mang theo túi tiền, mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cậy phó thác vào Chúa.
- Rồi Chúa còn bảo: khi anh em vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi
Ở với họ, chung sống với họ, họ cho ăn cái gì thì ăn cái đó. Nói thì đơn giản, nhưng đi vào thực tế thì không đơn giản chút nào vì mỗi địa phương đều có văn hóa ẩm thực khác nhau. Không cần phải nói thời Chúa Giêsu, cách đây cả hơn hai ngàn năm, nói ngay tại đất nước chúng ta, ở ngay vùng Kontum, cách đây hơn một trăm năm thôi, các nhà thừa sai ngoại quốc đã gặp khó khăn như thế nào trong việc thích nghi với người dân tộc Làng Hồ về cách ăn uống. Các ngài phải ăn cả những thịt thối rữa như một vị thừa sai kể rằng:
“… Một hôm tôi yêu cầu một người dân tộc kể cho tôi nghe các loại động vật mà chính anh ta và những người dân tộc khác có thể ăn. Anh ta cười và nói với tôi: "Đúng hơn, tôi nên kể cho ông nghe tên những loài vật mà chúng tôi không được ăn". Và anh kể ra bốn loại. Rồi anh nói thêm: "Ngoài bốn loài vật này, chúng tôi ăn tất cả những gì động đậy, nhúc nhích trong không khí, trên đất và cả dưới nước nữa". Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là những con vật còn sống khi người ta giết chết làm thịt, bởi vì dù con vật đã chết vì bệnh hoặc vì bị con vật khác giết, thậm chí đã thối rữa thì người dân tộc vẫn cứ ăn như thường. Một ngày kia, tôi đi ngang qua khu rừng. Một người dân làng Dak Rô Ting quen biết tôi, đã gọi tôi từ xa và mời tôi dùng bữa tối. Anh muốn thiết đãi tôi một bữa tiệc. Tôi quay lại và đến gần anh. Anh đang nấu thức ăn trong một ống lồ ô đặt trên đống lửa. Món gì vậy? Anh đã may mắn vớ được một phần còn lại của một con nai đã thối rữa. Anh cẩn thận lượm từng con giòi đang lúc nhúc trong đống thịt thối, bỏ vào đầy một ống lồ ô để làm một bữa tiệc, mà theo anh thì đây phải là một bữa tiệc dành cho bậc quyền quý đấy.
… Và tại làng Kơ Long: có cơm ăn là tốt rồi:
Trong thời gian đầu, nhiều sáng thức dậy, chúng tôi lo lắng không biết liệu còn đủ gạo để ăn nữa không. Nhưng nhờ Chúa Quan Phòng, chưa có ngày nào mà chúng tôi không còn gạo để nấu. Chúa nhân lành đã soi lòng mở trí cho cư dân của một làng tên là Kon Kơ Mo, để họ cung cấp gạo cho chúng tôi ăn suốt thời gian tạm trú trong rừng Kơ Lang.
Sau mấy tuần tôi ở Kơ Lang, Bok Kiêm, bạn của Thầy Sáu Do, đã đến thăm chúng tôi. Đến giờ ăn tối, thấy bên cạnh nồi cơm chỉ có rau rừng, ông đã ứa nước mắt. Hai ngày sau, các gia nhân của ông đã đem đến tặng chúng tôi một phần tư con trâu, một con heo và mấy con gà.
Thật đúng như lời Chúa nói: "thợ thì đáng ăn lương của chủ”. Cuộc sống của những nhà thừa sai là như vậy đó. Amen.
Sau khi về nhận xứ Malâm, Cha Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy Honda Nhật đang TN15-B126
Sau khi về nhận xứ Malâm, Cha Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy Honda Nhật đang chạy để mua một chiếc Minsk. Bà con nực cười ông cha xứ mình chạy chiếc Minsk giống mấy người xe thồ, xe ôm, chẳng ra dáng vẻ ông cha xứ tí nào. Mãi đến mấy tháng sau họ mới hiểu, chiếc Minsk là phương tiện tốt nhất có thể đưa cha đi đến vùng Đami cách Giáo xứ nhà 70 cây số về hướng tây bắc, giáp ranh với Bảo Lộc Lâm Đồng, nơi ấy, có vài trăm con chiên đang tản mác trên các đồi chè ngập nắng. Vào ngày 11-9-2001, chúng tôi được đi với Cha Gioan đến thăm vùng Đami đèo núi. Được biết, bà con hầu hết từ những tỉnh miền Bắc đến đây tìm kế sinh nhai. Họ sống trên đồi, nhà này cách nhà kia có khi cả cây số. Chỉ mới 6 tháng sau khi về nhận xứ và năm lần “đến xem nơi người ở và ở lại với người” mà Cha Gioan đã thuộc hầu hết địa chỉ của con chiên và thành lập được ba điểm tập trung để dâng Thánh Lễ. Còn các Bí tích hầu hết cử hành tại nhà dân. Sau hơn 10 năm, Đami nay đã tràn đầy sức sống mới của Tin Mừng, đã là Giáo Xứ với ba bốn Giáo Họ.
Chiếc Minsk là phương tiện, nhưng là phương tiện đơn sơ mà hiệu quả của một sứ giả có tấm lòng mang Sứ Điệp Tin Mừng đến cho muôn dân. Chiếc Minsk ắp đầy kỷ niệm của bao lần vấp đá, trượt đồi, té ngã, cán chó, tai nạn… và cả những lần bị rượt đuổi vu vơ vì tội làm lễ nhà dân không xin phép…
Các Linh Mục được sai đi
Hy vọng đây là một trong trăm ngàn minh họa rất hùng hồn về việc các Linh Mục, Sứ giả Tin Mừng tại Việt Nam đã và đang tuân thủ đúng lệnh truyền của Chúa Giêsu, Người Sai Đi: “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”.
Vâng, có thể nói, không vì hoàn cảnh quá sức khó khăn đến nổi giáo dân Việt Nam không lo lắng được, hoặc chính các linh mục không sắm sửa cho mình những phương tiện, tiện nghi thoải mái, nhưng vì các ngài muốn thực hiện cuộc sống đơn sơ khó nghèo như đòi hỏi của Tin Mừng, và hơn thế nữa, các ngài ý thức được việc chính yếu của lệnh sai đi là “rao giảng sự thống hối”.
Khi đề cập đến chi tiết này có thể có người bi quan vặn hỏi: “Được bao nhiêu phần trăm như thế mà dám cả quyết vậy?”. Chúng ta nên biểu quyết: “Gần trăm phần trăm”. Bởi vì, con số những người được sai đi hôm nay bị tục hóa, vị phương tiện hóa, không thi hành sứ vụ chính yếu của mình… chỉ là số phần trăm nho nhỏ thôi. Nhưng, bởi vì, sự xấu xa dễ ảnh hưởng nhanh và rộng hơn là điều tốt lành, nên khi có vài trường hợp không phù hợp là đã có thể gây hoang mang lớn lao cho mọi người. Hơn nữa, cũng cần phải cẩn trọng trước những đồn đoán, phao tin làm mất danh dự của các linh mục bởi vì những người chống phá Giáo Hội cũng đang rắp tâm tìm các khe hở của các linh mục để thổi phồng lên cho thỏa mãn ý đồ phá hoại. Thiết tưởng, dẫu sao, chúng ta cũng hãy cầu nguyện và tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần và tình yêu Chúa Kitô sẽ thúc bách các linh mục “thống hối, canh tân” trước khi rao giảng sự thống hối, đổi mới theo Tin Mừng.
Giáo dân được sai đi
Không chỉ các Linh Mục mới là những người nhận lệnh sai đi loan báo tin mừng, mà cả mỗi tín hữu hôm nay, được sai đến trong môi trường sống của mình để làm chứng cho Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cũng được mời gọi sống đời đơn sơ khó nghèo và đặc biệt quan tâm đến việc truyền giáo ngay trong chính lúc khó nghèo đau khổ nhất. Thế nhưng, chúng ta vẫn:
Từ chối một sẻ chia vì cho rằng phải đợi đến dư thừa mới chia sẻ được. Từ chối thăm viếng nhau vì không có thời gian cho việc vô bổ ấy. Từ chối một chút chạnh lòng bởi rằng lúc mình khốn khó chẳng thấy ai ngó tới. Từ chối một lời lành khuyên người bởi cứ nhất nhất cho rằng người lòng chai dạ đá. Từ chối một lời xin lỗi bởi người thấp bé hơn mình. Từ chối một lời cảm ơn bởi cho rằng người làm ơn đang bố thí hơn là giúp đỡ.
Chúng ta đã bị lệ thuộc quá nhiều vào phương tiện, vào điều kiện mà không chú tâm đến việc đáp đền hồng ân Thiên Chúa bằng cách loan báo sứ điệp Tin Mừng cho anh em, làm chứng về “cuộc sống bình an trong Chúa” cho mọi người.
Lời Chúa hôm nay đang nhắc nhớ chúng ta đơn sơ khiêm tốn bắt chước gương tiên tri Amos, nhận ra ơn gọi rao giảng Tin Mừng của mình là hồng ân cao cả vượt lên trên thân phận tầm thường và bất toàn của mình: “Tôi chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân của Ta” (Am 7, 15), và chu toàn sứ vụ của mình theo thể cách đơn sơ nhất, phù hợp nhất với Tin Mừng, để phục vụ cho Tin Mừng.
Nguyện xin Chúa cho các Linh Mục của Chúa chuyên tâm “rao giảng sự thống hối” “trừ quỷ, xức dầu, chữa lành” cho đoàn chiên Chúa. Và xin cho các tín hữu Chúa không quá lệ thuộc vào phương tiện trần gian, những luôn năng nổ chu toàn sứ vụ tông đồ trong đời thường. Amen.
Kinh Thánh ghi lại lịch sử của mười hai con cháu ông Jacob trở thành Mười Hai Chi Tộc Israel TN15-B127
Kinh Thánh ghi lại lịch sử của mười hai con cháu ông Jacob trở thành Mười Hai Chi Tộc Israel, dân riêng Chúa. Mười hai chi tộc bắt đầu từ một đại gia đình. Chính tên Jacob cũng do Chúa đặt cho. Tên của 12 chi tộc đó là: Reuben, Simeon, Judah, Issachar, Zebulun, Benjamin, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Ephraim và Manasseh. Sáng Thế Ký 9.
Khi Jacob định cư đất Aicập cũng là lúc lịch sử Israel được thành lập. Trên núi thánh Sinai Thiên Chúa ban cho họ lề luật và đó là lề luật của cả một dân tộc ghi lại trong sách Torah. Lề luật bị coi thường, việc thờ phượng lơ là, xa dời Thiên Chúa, đời sống đồi trụy trở thành nô lệ thói hư tật xấu bản thân sau đó là nô lệ cho Pharaoh. Thiên Chúa sai Môisen đến cứu họ và dân này lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc trước khi đến miền đất hứa. Tại đây mỗi chi tộc chiếm một vùng đất do chi tộc trưởng lãnh đạo và tất cả dưới quyền lãnh đạo chung của Saul và thầy cả thượng phẩm Eli. Nội chiến xảy ra và các bô lão ủng hộ David và David trở thành vua. Sau khi David chết Solomon thay cha lãnh đạo. Sau khi Solomon chết, Nam Bắc phân tranh chia đất nước làm hai. Lãnh thổ phía Bắc nhận là Israel; lãnh thổ phía Nam thành Judah.
Thời Tân Ước Đức Kitô cũng chọn mười hai tông đồ tạo dựng nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chính Đức Kitô đã chọn họ và đặt tên cho một số các môn đệ, huấn luyện và sai họ đi rao giảng Tin Mừng và sau đó là Tin Mừng Phục Sinh. Ai tin và nhận phép thanh tẩy: Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, người đó trở thành dân riêng của Thiên Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô và trở thành Dân Tư Tế, thừa hưởng gia nghiệp Đức Kitô trao ban, là kẻ thừa tự trong đại gia đình Chúa. Là kẻ thừa tự, hưởng gia nghiệp Chúa bởi chính Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban sự sống trường sinh cho những ai tin theo, sống tinh thần mến Chúa, yêu tha nhân. Trong nước Đức Kitô chỉ có một lề luật đó là luật yêu thương bởi chính Đức Kitô xác định: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau.Gn 15,12
Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Ngài trao quyền điều hành cho thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi và những kẻ kế tiếp điều hành Giáo Hội trần thế theo tinh thần của Đức Kitô, Ngài là đầu và các Kitô hữu là thành phần của thân thể Kitô. Giáo hội trần thế nhận sức mạnh và sự khôn ngoan của Thánh Thần Chúa, lắng nghe và thực thi lời hướng dẫn của Thánh Thần. Dân Israel chịu lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc truớc khi tiến vào miền đất hứa. Dân Đức Kitô không phải lưu đầy mà là những người lữ hành suốt cuộc sống trần gian. Trở thành người lữ hành để họ tìm kiếm người khác cùng đồng hành với họ rao giảng Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh. Trước khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng kêu gọi mọi người thống hối để đón nhận nước Thiên Chúa đang đến. Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, họ là sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh, là anh chị em sống trong đại gia đình Chúa. Người lãnh đạo dân Chúa mang tinh thần của Đức Kitô, tinh thần đó là "đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" Mat 20,28. Chính Đức Kitô xác nhận điều đó và thực thi trong cuộc sống rao giảng của Ngài. Phục vụ trong tinh thần khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Khiêm tốn, yêu thương, phục vụ là yếu tố căn bản chọn người lãnh đạo dân Chúa. Khi người lãnh đạo thực sự mang tinh thần trên của Đức Kitô thì việc tranh giành quyền lực sẽ không còn bởi họ được kêu gọi để phục vụ, để nhận ra khuôn mặt Đức Kitô nơi người họ phục vụ và nhận biết sự sống là lành thánh vì do Chúa ban.
Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Mẹ Têrêxa Calcutta đáp máy bay đến Oslo. thủ đô Na Uy, để lãnh TN15-B128
Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Mẹ Têrêxa Calcutta đáp máy bay đến Oslo. thủ đô Na Uy, để lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Mặc bộ y phục đặc biệt của mình, là chiếc sari có đường viền màu xanh và chân đi dép, bất chấp thời tiết lạnh dưới không độ. Một tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi, còn tay kia một túi xách nhỏ, khiến cho cả đoàn xe hùng hậu ra nghênh đón Mẹ Têrêsa tại phi trường, phải chưng hửng về không, vì Mẹ chẳng có mang theo gì hơn.
Theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã kỹ lưỡng căn dặn các Tông đồ: “Không được mang gì đi đường,” không vướng bận vào những lo toan, vật chất, danh lợi, khi Đi Gieo. Phải chăng Người chỉ muốn nhắn nhủ các sứ đồ mang theo ba lô lên đường, với những hành trang tinh thần?
1. Cầu Nguyện
Hành trang thiết yếu nhất là cầu nguyện. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, các Tông đồ mới nghe được Ơn Gọi sai đi, để mau mắn đáp lời. Gương sáng gần đây nhất, chính là Mẹ Têrêsa Calcutta luôn liên lỉ cầu nguyện, vì đó là viêc thường nhật, là nguồn sức mạnh bồi dưỡng. Do vậy, cỗ tràng hạt không bao giờ rời khỏi tay Mẹ Têrêsa, vì ad Jesum per Mariam, đến với Chúa Giêsu nhờ qua Mẹ Maria.
"Nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo chẳng có thể giúp đỡ người nghèo được. Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn." (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Chúa Giêsu đã biến mình dưới hình bánh để đem cho chúng ta sự sống. Ðó là nơi chúng tôi bắt đầu một ngày, với Thánh Lễ. Và chúng tôi kết thúc một ngày với việc Chầu Thánh Thể. Tôi nghĩ là tôi không thể làm nổi công việc này chỉ một tuần lễ, nếu không dành bốn giờ cầu nguyện hàng ngày. (Mẹ Têrêsa trả lời phỏng vấn của báo Time)
2. Hy Sinh
Chúa Giêsu còn dặn dò: “Không được mang lương thực, bao bì, tiền giắt lưng, được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8) Tại sao Người lại đòi hỏi ngặt nghèo đến thế? Nếu không phải là tâm tình dâng hiến, phó thác, tin cậy. Nếu không phải tâm hồn đơn sơ, giản dị, thanh bần và hòan toàn hy sinh.
3. Bác Ái
Một khi sống khắng khít với Người qua cầu nguyện, hy sinh và phó thác trọn vẹn vào tay Chúa Quan Phòng, không còn lấn cấn lo lắng đến bản thân, cái tôi nhỏ mọn, thì môn đệ của Chúa mới có thể tận tâm đến với tha nhân, đến với người nghèo, tàn tật, bịnh hoạn thân xác, lẫn tâm hồn. Chính nhờ đức bác ái, người ta nhận ra chính xác người môn đệ của Chúa.
“Bác ái, đồng phục của người Kitô hữu.” (ĐHV)
Không phân biệt đối xử với bất cứ ai, môn đệ còn sống trung thực, liên đới, cảm thông, tin yêu, theo đúng những điều mình đang rao giảng, để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, cho Tình Yêu tuyệt diệu của Người: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.” (Mc 6, 10)
Tuy nhiên Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải bày tỏ thái độ dứt khoát và công khai, đối với những ai cố chấp, khước từ Tin Mừng:”Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân, để tỏ ý phản đối họ.” (Mc 6, 11)
Tóm lại, cầu nguyện, hy sinh và bác ái là ba hành trang vô cùng thiết yếu, bất khả phân ly, của người được sai đi rao giảng, nếu không muốn trở thành kẻ phản nghịch, kẻ giả hình, man trá, a dua theo sự dữ.
Lạy Chúa, xin giúp con giũ bỏ được mọi phù vân, mọi dục vọng danh lợi, để con có thể xứng đáng trở nên sứ giả Đi Gieo Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa, biết hy sinh bản thân, để yêu thương, phục vụ tha nhân, hầu đem Tình Yêu Thiên Chúa đến mọi người. Amen.
Nét đẹp của một người không hệ tại ở chức vụ người đó, cũng không hệ tài ở tài sản của họ TN15-B129
Nét đẹp của một người không hệ tại ở chức vụ người đó, cũng không hệ tài ở tài sản của họ mà quan yếu là ở những gì họ cống hiến phục vụ cho đời. Càng cho đi thì giá trị họ càng cao. Càng sống thanh thoát khỏi những bon chen thì con người họ càng thanh cao. Càng sống phục vụ thì con người họ càng cần thiết cho gia đình và xã hội.
Người cao đẹp như thế cũng tựa như dòng nước. Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho vạn vật, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Mặc dầu nước rất cần cho con người. Thiếu nước con người sẽ chết. Thiếu nước vạn vật cũng không tồn tại. Nhưng nước vẫn thanh thoát tự tại, không màng đến được- mất, thắng- thua...
Thế nên, điều quan trọng trong cuộc sống là ta hãy tích đức. Tích đức bằng việc đến với tha nhân để thi ân, để phục vụ. Tích đức bằng việc cho đi mà không cần nhận lãnh. Sống thanh thoát khỏi những tham sân si để tâm hồn luôn cởi mở bình an. Khi con người gieo việc thiện sẽ nhận được những điều tốt lành, vì “gieo gì gặt ấy”. Càng sống quảng đại thì trời lại càng cho thêm như người xưa đã nói: “Xởi lởi Trời lại cho thêm”
Người ta kể rằng: có một người phụ nữ mù đi taxi tới một tòa nhà. Lúc đến nơi, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng. Tài xế taxi dẫn cô vào chỗ an toàn rồi nói: “Tôi không thu tiền của cô, bởi vì so với cô thì việc kiếm tiền của tôi chắc là dễ dàng hơn”.
Vừa đúng lúc này, từ trong khu cư xá, người đàn ông có dáng vẻ của một ông chủ đi ra. Ông cũng lên chiếc xe taxi đó rồi đi. Trên đường, hai người đàn ông vui vẻ chuyện trò cùng nhau. Khi xuống xe, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng nhưng người đàn ông lấy ra số tiền 200 ngàn và nói: “Tiền này bao gồm cả số tiền của người phụ nữ lúc nãy. Tôi cũng không phải vĩ đại gì, nhưng chắc là việc kiếm tiền cũng dễ dàng hơn cậu một chút, hy vọng cậu có thể tiếp tục làm việc tốt!”.
Cuộc sống giống như một chiếc gương phản chiếu, nó có thể ghi nhận rồi phản ánh hết thảy những chuyện tốt xấu của đời người. Vậy nên, sẽ có lúc chúng ta nhận ra, những việc mình đã làm cuối cùng đều sẽ quay trở lại. Gieo điều thiện sẽ gặt trong hân hoan.
Hôm nay Chúa bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Giáo hội luôn được người đời yêu mến vì thời nào cũng có những sứ giả tin mừng sống thanh thoát với đời để sẵn lòng phục vụ mọi người và mọi nơi. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống thanh bần như người nghèo, để phục vụ mà không mong đền đáp.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu biết sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen.
Đức Giêsu là Đấng Thiên sai. Tại Hội đường Nagiaréth, khi về thăm quê và đọc Lời Chúa ngày TN15-B130
Đức Giêsu là Đấng Thiên sai. Tại Hội đường Nagiaréth, khi về thăm quê và đọc Lời Chúa ngày Sabát, trước sự ngỡ ngàng của những người đồng hương, Chúa đã xác quyết Người là Đấng Thiên sai, khi tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (x. Lc 4, 16-22). Khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu mời gọi mọi người cộng tác với sứ vụ thiên sai của Người. Người đã chọn gọi các môn đệ, đào tạo các ông và sai các ông lên đường để loan báo Tin Mừng cứu độ. “Như Cha sai Thày, Thày cũng sai anh em!”, Chúa Giêsu đã nói như thế khi sai các môn đệ. Noi gương Thày mình, các ông nhiệt thành lên đường. Sau khi Chúa Giêsu về trời, nhờ những vị thừa sai đầu tiên này mà Tin Mừng như một dòng chảy nhanh chóng lan toả đến mọi miền thế giới.
Những người được chọn và sai đi không hẳn là người uyên bác tài giỏi. Ngôn sứ Amos đã thú nhận: tôi không phải dòng dõi ngôn sứ, mà chỉ là một người chăn chiên bò và chuyên đi hái sung, nhưng Chúa đã chọn và gọi tôi và nói: ‘Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta’. Sống ở thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, vào thời Nam Bắc phân tranh, Amos là người phía Bắc. Ông là vị ngôn sứ của người nghèo. Giáo huấn của ông gồm những lời phê phán mạnh mẽ những người giàu có bóc lột dân nghèo. Ông cũng kêu gọi dân chống bạo lực, gian dối, mời gọi họ trung thành với Chúa. Như thế, sự khôn ngoan can đảm nơi các ngôn sứ đến từ Chúa. Ngài sai các ông đi và hướng dẫn cho các ông những điều các ông rao giảng. Các ngôn sứ là người chuyển tải ý muốn của Chúa. Lời rao giảng của các ông vừa là lời động viên khen ngợi, nhưng cũng là những lời phê bình chỉ trích và đôi khi lên án quyết liệt những hành vi và lối sống sa đoạ của dân. Ngôn sứ không nhằm làm hài lòng con người và chiều theo những khuynh hướng đam mê của họ, nhưng là làm vừa lòng Thiên Chúa và giữ gìn kỷ cương trật tự.
Như Chúa đã sai các môn đệ, hôm nay Người cũng sai chúng ta, là những người tín hữu, nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo. Tất cả mọi tín hữu đều có ơn gọi thừa sai, loan truyền Danh Chúa trong mọi hoàn cảnh, phù hợp với bậc sống và điều kiện của mình. Thánh Phaolô đã nói lên vinh dự cao quý của người Kitô hữu: “Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài” (Bài đọc II). Ca tụng vinh quang ân sủng của Chúa, đó chính là giới thiệu và loan truyền để Người được nhận biết giữa những người đang sống xung quanh chúng ta.
Thành công của sứ vụ loan báo Tin Mừng không lệ thuộc vào những phương tiện trần gian, cũng không do sức riêng của con người, nhưng là do Chúa. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dặn dò các môn đệ rất kỹ lưỡng. Người dạy các ông phải buông bỏ để thanh thoát nhẹ nhàng, dễ dàng lên đường mà không bị dính bén hay ràng buộc. Hành trang quan trọng là lòng tín thác nơi Thiên Chúa. Chúa cũng dạy các ông phải kiên trì. Bởi lẽ sứ điệp Tin Mừng không dễ dàng được chấp nhận bởi con người mọi thời đại, nhất là đối với những người đã có sẵn thành kiến với Giáo Hội. Truyền giáo không phải là mua chuộc, cũng không phải là gâp áp lực bắt người khác phải theo. Truyền giáo là nói về lòng nhân lành của Chúa, đồng thời trình bày niềm hạnh phúc của những ai tin vào Ngài. Niềm hạnh phúc ấy, không phải là một công thức bên ngoài, nhưng được cảm nghiệm và lan toả từ chính cuộc sống của người loan báo.
Mỗi khi thánh lễ kết thúc, linh mục chủ tế nói với cộng đoàn phụng vụ: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Nhiều người hiểu đây là một lời chào tạm biệt. Không phải vậy. Đó là lời sai đi. Linh mục vừa thay mặt Chúa Giêsu, vừa thay mặt cho Giáo Hội để sai chúng ta lên đường. Người tín hữu, sau khi đã được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Mình Chúa, nay lên đường với nghị lực mới. Thánh lễ là một cuộc lên đường, là một khởi đầu mới với những năng lượng đón nhận từ nơi Chúa.
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng trần gian!” (Ga 8,12). Với các môn đệ, Người cũng khẳng định: “Anh em là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-67). Lời Chúa vừa nhắc đến danh dự của người tín hữu, vừa gợi cho họ nhớ đến sứ mạng phải toả sáng nơi lòng cuộc đời bằng chính đời sống khiêm nhường và yêu thương.
Tất cả mọi người đều có quyền tìm thầy kiếm thợ, khi túi họ nhiều tiền lắm bạc. Đấng làm thầy TN15-B131
Tất cả mọi người đều có quyền tìm thầy kiếm thợ, khi túi họ nhiều tiền lắm bạc. Đấng làm thầy dạy, luôn được tự do đón nhận hoặc từ chối các học trò ngổ ngáo, thiếu thiện cảm, không đủ điều kiện làm đệ tử. Lý tưởng nhất ở đời là trò ngoan được thọ giáo nơi người thầy đức độ, kẻ đau ốm bệnh tật được gặp thầy thuốc giỏi. Tìm kiếm đã khó, song thầy trò cần nghiêm túc, cần phải trung thành với phận vụ ; thầy thuốc, bệnh nhân, có tuân thủ việc chữa trị, sẽ còn là một chuỗi dài phức tạp. Cuộc đời không đơn giản theo công thức: con nhà giầu là học giỏi. Các đấng bậc đã từng nói: mục tiêu cũng như hải đăng, đủ sáng mới có thể hướng dẫn được tầu thuyền. Trong tương quan gia đình xã hội, người ta vẫn đòi hỏi sự công bằng: có làm thì mới có ăn, trong đời sống đức tin, có đầu tư, có đón nhận ơn ích thiêng liêng, sẽ có ngày gặt hái kết quả.
Thầy Giêsu năm xưa gọi chọn 12 học trò, bằng một tình yêu không tính toán, Thầy trao ban cho các ông, cùng tham dự trọn vẹn vào sứ vụ loan báo tin mừng ơn cứu độ. Thầy thao thức cho cả nhân loại nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha, các học trò thì mơ ước Thầy sẽ ở mãi bên các ông, dù hoàn cảnh, niềm tin yêu mỗi vị mỗi khác nhau. Các ông lên đường trong ý thức phục vụ, bằng một tinh thần từ bỏ: “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Vâng, vui cảnh nào, chào cảnh ấy, được một điều mừng, trăm điều nghi ngại. Được gọi chọn theo Thầy Giêsu là một vinh dự, lên đường không có tiền của phòng thân, phục vụ, làm việc tông đồ như thế, đúng là phải hy sinh, tín thác cao độ hơn, trước tình yêu thương của Thầy.
Với cái nhìn tự nhiên, chúng ta sẽ thắc mắc, các vị chài lưới đầy giới hạn, làm sao các ông có thể sống từ bỏ, chu toàn được sứ vụ loan báo tin mừng cứu độ, nếu các ông chưa được biến đổi tâm tính, hoặc thiếu sự hiện diện của Vị Thầy quyền năng. Trước vấn đề cao siêu khó hiểu, chính tình yêu đã hé mở cho các ông, cho chúng ta một cảm nhận: nghịch cảnh càng lớn, người ta càng trưởng thành hơn, khó khăn càng nhiều, thành quả càng cao. Ngày hôm nay, nhờ tình yêu và sứ mạng rất cao quý từ nơi Đức Kitô, chúng ta đủ khôn ngoan để nói với chính mình, nói với thế hệ con cháu: hãy nắm bắt lấy cơ hội, tất cả hoàn cảnh, thời gian, đều là cơ hội. Tình yêu, nhiệt huyết tông đồ của ta đang minh chứng: người có uy tín nhất, thường là người sẵn sàng hành động, và chấp nhận thách thức từ mọi phía.
“Các ông ra đi rao giảng sự thống hối, các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu và chữa nhiều bệnh nhân”. Là học trò của Đức Giêsu, không phải chỉ hô to hãy sám hối ăn năn, mà bản thân mỗi người phải biết tự bỏ mình, bỏ tính ích kỷ nhỏ nhen, và vui sống hài hòa chuẩn mực. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, không phải cứ nhịn ăn nhịn uống mới là dấn thân phục vụ, căn bản hơn là hãy tín thác vào Thầy Giêsu bằng tinh thần cảm mến tri ân. Đức Giêsu quyền năng, Ngài mời gọi các học trò, các môn đệ, và chúng ta hôm nay, hãy cộng tác, chia sẻ, đem tin mừng yêu thương đến khắp mọi nơi. Chắc chắn Đức Giêsu muốn những ai là học trò, là môn đệ của Thầy phải hiểu rằng: tình yêu không cần phải thừa dư, tình yêu không cần phải hoàn hảo, điều cần hơn cả trong tình yêu chính là chân thật.
Tình yêu, luôn khó hiểu đối với phận làm con, tình yêu, bao giờ cũng phức tạp với các học trò, tình yêu, chắc chắn ngọt ngào với kẻ đang được yêu. Kinh nghiệm ở đời mãi mãi là bài học không có đáp án chung cho chúng ta: người nào yêu mà không mong được đáp đền, người đó không những là sư phụ, là bậc thầy, cách sống của họ đã đủ chứng minh họ có tình yêu thật. Tình yêu của Đức Giêsu không phải chỉ có 3 năm rao giảng tin mừng hay 33 năm sống chứng nhân tại trần thế, mà còn cho đến tận cùng của thế giới, Ngài vẫn hiện diện với tư cách là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ. Sứ vụ tông đồ, tình yêu Đức Kitô, sẽ mãi mãi ở trong tình yêu các học trò, nơi mỗi người tín hữu chúng ta, không có gì cao thượng hơn tình yêu ở nơi những trái tim trong sáng, thành khẩn.
Đức Giêsu chọn các môn đệ, mời gọi người tín hữu chúng ta theo Ngài, đó là vinh dự, là cơ hội, Ngài biết rõ từng tâm hồn, biết cả những giới hạn thiếu sót của chúng ta. Nét đẹp của người học trò, là hãy sống tốt, đừng quan tâm đến những kẻ khác nghĩ về mình, là hãy khiêm tốn cậy dựa vào tình yêu của Thầy mình. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, theo Thầy cùng thực thi sứ mạng yêu thương, điều lớn lao nhất không phải là ta làm được việc quan trọng, không hệ tại cái đích ở trần gian, mà hướng ta đang đi, niềm tin ta đang bày tỏ thế nào ? Thầy Giêsu sẽ vui biết bao khi các học trò trưởng thành, Thầy rất hạnh phúc khi các môn đệ của Thầy biết khiêm tốn, tín thác vào tình yêu và sứ vụ của Thầy. Amen.
--------------------------------
TN15-B132: ĐƯỢC CHỌN LÀM CON ĐỂ TRỞ NÊN TINH THẦN THÁNH THIỆN
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Thể theo lời thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô chương 1, 3-6, chúng ta thấy TN15-B132
Thể theo lời thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô chương 1, 3-6, chúng ta thấy được ơn lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là ơn gọi làm con Chúa, tức làm thánh.
Câu hỏi được đặt ra là Chúa chọn chúng ta khi nào?
Thưa: Chúa không chọn chúng ta làm con Chúa ngày hôm qua, hay hai ngàn năm trước, nhưng là, “trước khi tạo dựng thế gian”. Thiên Chúa biết rằng trong thế kỷ này có một người là tôi, mà Ngài đã nhận làm con. Trước khi tạo thành thế gian, Chúa đã chọn tôi, và việc tôi nay là người tốt hay xấu không thành vấn đề. Chúa không để ý xem tôi có xứng đáng không. Thật ra, chẳng ai trong chúng ta xứng đáng được chọn làm con Chúa. Ðáng lẽ mọi người chúng ta đều phải gánh chịu sự chết khi tổ tông loài người phạm tội. Nhưng Chúa không đành, mà lại cho chúng ta trở thành con Chúa do ân sủng: “Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,5). Được làm con Chúa, chúng ta có một người Cha hằng chăm sóc, lo lắng và có quyền năng giải quyết mọi khó khăn của chúng ta. Ðiều quan trọng là chúng ta phải biết nhìn vấn đề theo con mắt đức tin, để thấy được những ơn cao trọng. Ðược Thiên Chúa nhận làm con, chúng ta có được quyền lợi cũng như trách nhiệm của người con trong gia đình Thiên Chúa. Chúng ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Abba – Cha ơi và được thừa hưởng tất cả những ơn từ Cha. Khi linh hồn lìa khỏi thể xác, chúng ta sẽ được về nhà Cha, vì là con của Ngài. Không những có người cha trên Trời, chúng ta con có anh chị em trong Hội Thánh, vì mọi người đều là con Thiên Chúa. Người ngồi cạnh chúng ta hôm nay là anh chị em của chúng ta vì có cùng một Cha trên Trời.
Chúa chọn chúng ta để làm gì?
Thưa, “để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 1, 4). Chữ “Thánh” có nghĩa là “tách riêng ra.” Trong thời Cựu Ước, đền thánh là nơi được giành riêng để thờ phượng Chúa; thầy tế lễ là người được tách biệt ra để lo việc thờ phượng Chúa. Cũng vậy, Chúa chọn chúng ta làm con, và tách biệt chúng ta để chúng ta thuộc về Ngài.
Ngài làm cho chúng ta nên thánh. Đúng như vậy, vì khi nhìn tôi, Thiên Chúa không còn thấy những tội lỗi của tôi nữa. Dòng máu cứu chuộc của Chúa Giêsu đã tẩy sạch tội tôi, để tôi trở nên tinh tuyền trước nhan thánh Chúa. “Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài” (Ep 1, 4).
Bài học về chức phận làm con Chúng ta học được gì qua những điều Phaolô nói ở đây?
Thứ nhất, chúng ta phải sống xứng đáng với chức phận làm con Chúa. Ðời sống chúng ta phải phản ảnh được địa vị cao trọng này. Chúng ta phải càng ngày càng giống Chúa hơn.
Thứ hai, hãy vững tin vào địa vị làm con Chúa. Chúa chọn chúng ta không dựa vào những việc làm tốt chúng ta làm, để có thể “từ” chúng ta nếu chúng ta phạm tội. Nói như thế cũng không có nghĩa là chúng ta giờ đây cứ tha hồ phạm tội. Bị giam hãm trong xác thịt này, chúng ta sẽ còn phạm tội; và nếu lỡ lầm phạm tội, đừng vì thế mà đánh mất niềm tin, nghĩ rằng Chúa không còn yêu mình nữa. Chúa sẽ gìn giữ chúng ta cho đến giây phút cuối cùng.
Thứ ba, chúng ta phải khiêm nhường, vì Chúa chọn chúng ta không dựa vào công trạng chúng ta. Ngài không chọn chúng ta vì chúng ta giàu sang, hay nghèo đói, học cao hay thấp. Ngài chọn chúng ta trước khi chúng ta có thể làm một điều lành nhỏ.
Hãy đi rao giảng Tin Mừng làm chứng về Chúa
Là con, chúng ta phải làm chứng về Cha của mình với mọi người. Nhiều người cho rằng, nếu Chúa đã chọn từ lâu, thì chúng ta không cần làm chứng cho ai nữa! Nhưng nếu không có ai nói về Cha thì làm sao người khác tin được? Chúa đã chọn họ, nhưng Chúa cũng đã chọn chúng ta để nói với họ về Ngài. Nếu có một người chịu nghe lời chứng của chúng ta, ấy là Chúa đã chọn người đó để nghe chúng ta, và đã chọn chúng ta để đem Tin Mừng đến với họ. Khi chia sẻ niềm tin với một người, chúng ta phải biết rằng đằng sau khả năng yếu kém, lời nói vụng về của chúng ta là sự chọn lựa của Thiên Chúa. Chúng ta không đánh trận bằng xác thịt, dựa vào khả năng riêng của mình, nhưng dựa vào sự chọn lựa của Chúa đã có sẵn từ trước.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được ơn gọi làm con Chúa thì phải làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm trong đời sống hằng ngày của chúng con. Amen.
Đối diện với một thế giới đang bị tục hóa và càng ngày càng trở nên ngoại giáo, trong Tông Huấn TN15-B133
Đối diện với một thế giới đang bị tục hóa và càng ngày càng trở nên ngoại giáo, trong Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi các Kitô hữu “đi vào một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui” gặp gỡ Chúa Giêsu. Liên quan đến vấn đề này, Lời Chúa hôm nay làm nổi lên những câu hỏi: vậy thì, việc truyền giáo cốt ở điều gì? Đâu là sự mới mẻ phải có? Chúng ta cần phải thay đổi điều gì? Đâu là ý muốn đích thực của Chúa Giêsu khi Người sai các môn đệ tiếp tục đi loan báo Tin Mừng?
1- Bắt đầu lại từ Chúa Kitô
Tin Mừng hôm nay muốn làm sáng tỏ những câu hỏi đó khi cho rằng: Chúa Giêsu chính là nguồn mạch, là nguồn cảm hứng và là khuôn mẫu của công cuộc loan báo Tin Mừng đối với các Tông Đồ và mọi tín hữu xưa cũng như hôm nay. Chúa Giêsu đã chọn họ. Mỗi người có một nguồn gốc, lý lịch, tính tình khác nhau, nhưng họ có chung một sứ vụ được ủy thác. Mỗi người được sai đến những nơi khác nhau, nhưng họ đều có chung một lý tưởng là loan báo Tin Mừng và xây dựng Nước Trời.
Các Tông Đồ được Chúa Giêsu sai đi không phải để nhân danh mình và rao giảng về mình, nhưng là nhân danh Chúa Kitô và chỉ rao giảng Tin Mừng. Họ không có quan tâm gì khác ngoài việc hiến mình hoàn toàn cho Chúa để mở ra những con đường cho triều đại Thiên Chúa mau đến.
Bởi thế, chỉ có một con đường đưa tới “một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui” gặp gỡ Chúa Giêsu” là chúng ta cần phải thanh tẩy bản thân và sống kết hợp thân mật với Người. Sẽ không có một cuộc tân Phúc Âm hóa nếu không có những nhà truyền giáo mới. Sẽ không có những nhà truyền giáo mới nếu không có sự gặp gỡ sống động, thân mật và vui tươi với Chúa Giêsu. Không có Người, chúng ta chỉ là những nhà hoạt động xã hội, những công chức tôn giáo làm việc tôn giáo.
2- Hành trang truyền giáo
Tin Mừng Máccô cũng cho biết: Khi sai họ đi, Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi các môn đệ hoạt động một mình. Chúa Giêsu ban cho họ “quyền” của Người, một thứ quyền lực không phải để điều khiển, thống trị và chi phối người khác, nhưng là quyền để “trừ nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,13); nhờ đó, họ giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ, áp bức và phi nhân.
Các môn đệ ý thức rất rõ những gì Chúa Giêsu đã ủy thác cho họ. Các ông không bao giờ thấy Chúa dùng quyền để thống trị và áp đặt bất cứ ai. Họ luôn nhìn thấy Chúa đi đến đâu là thi ân giáng phúc ở đó, Người chữa lành các vết thương, làm giảm bớt nỗi đau khổ, chữa lành kẻ bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ chết sống lại, giải thoát người khỏi tội lỗi, loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa. Như thế, việc “chữa lành” và “giải thoát” là những bổn phận chính yếu trong hoạt động truyền giáo của Chúa Giêsu. Đây là những cách thế mang lại sự mới mẻ và khác biệt cho sứ vụ truyền giáo của chúng ta hôm nay.
Hơn nữa, để công cuộc truyền giáo hiệu quả, Chúa Giêsu còn chỉ thị cho họ chỉ mang những gì cần thiết cho hành trình truyền giáo. Theo Máccô, “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6,8-9). Như thế, hành trang truyền giáo không gì khác ngoài sự khó nghèo Tin Mừng và lòng tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Giêsu muốn các Tông Đồ sống một cuộc sống đơn giản, thanh thoát và không dính bén vào của cải vật chất khi đi truyền giáo. Họ chỉ mang những gì là cần thiết cho cuộc sống mình. Chúa Giêsu muốn người rao giảng trở thành những người thực sự tự do và không có gì làm cản trở bước chân họ, nhờ đó họ luôn luôn sẵn sàng dấn thân và phục vụ trong sự tín thác vào quyền năng của Chúa Thánh Thần.
3- Phục hồi lại cung cách sống theo Tin Mừng
Để có thể truyền giáo cho con người hôm nay, chúng ta phải thực sự sống tinh thần khó nghèo Tin Mừng, để không rơi vào việc tìm kiếm vật chất, lợi tức khi thi hành sứ vụ, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ nhưng không vì Tin Mừng và ơn cứu độ của tha nhân.
Như thế, nếu không có phục hồi lại “cung cách Tin Mừng” này, sẽ không có “một giai đoạn mới của loan báo Tin Mừng.” Điều quan trọng không phải là có những chiến lược truyền giáo mới mẻ, chi tiết và hấp dẫn, nhưng chính là việc chúng ta dám can đảm để đi ra khỏi những thói quen, lối snghĩ, khỏi những cơ cấu tổ chức và những ảnh hưởng xung quanh đang trói buộc chúng ta, không còn làm chúng ta được tự do để loan báo những giá trị Tin Mừng một cách chân thật và đơn sơ nhất.
Trong Giáo Hội hôm nay, xem ra chúng ta đang đánh mất “cung cách sống theo Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu đề nghị. Nhiều lúc chúng ta bước đi cách chậm chạp và tỏ ra mệt nhọc trong sứ vụ này. Nhiều lúc chúng ta không biết làm sao để đồng hành với những người được giao phó cho chúng ta khi họ đang bị bủa vây mọi sự khó khăn và bế tắc của cuộc sống hiện đại.
Nếu không có “cung cách sống theo Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu đề nghị, chúng ta sẽ đánh mất khả năng nhạy bén để lắng nghe những tiếng thở dài và kêu cứu của anh chị em mình; chúng ta sẽ đánh mất khả năng đồng hành và quyền năng chữa lành những vết thương cho người bị tổn thương. Rốt cuộc chúng ta chỉ là những người tuyên truyền hơn là truyền giáo. Như thế, chúng ta chỉ lo bảo tồn niềm tin và quyền lực của chúng ta, hơn là tìm kiếm lợi ích cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta cần hoán cải; nghĩa là phải trở về với “cung cách Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu truyền dạy. Có lần, tôi đến thăm một cộng đoàn của các nữ tu của Mẹ Têrêxa Calcutta ở Orange, Australia. Điều làm tôi ấn tượng và cảm phục là cuộc sống đơn sơ, khó nghèo, giản dị, họ sống âm thầm và làm những việc không ai muốn làm: hằng ngày các sơ đi thăm viếng những ai cô đơn, bị bỏ rơi, bị bệnh tật trong vùng. Các xơ đi tìm những người vô gia cư và đưa về sống trong một ngôi nhà để các xơ chăm sóc. Các xơ có những ngôi nhà nho nhỏ để dạy giáo lý cho các trẻ em. Cách dạy giáo lý hoàn toàn khác, không bằng lý thuyết suông hay sách vở, nhưng bằng các trò chơi, cụ thể để trình bày về Chúa Giêsu, về giáo lý căn bản, về các bí tích. Đây là cách dạy vừa dễ nhớ, vừa cụ thể, làm cho các em thích thú đến học. Bí quyết của các xơ là làm những việc nhỏ bé với lòng yêu mến lớn lao; sống cuộc sống âm thầm, phó thác cho sự quan phòng của Chúa. Nhưng các sơ đã làm được rất nhiều điều lớn lao mà ngay cả các linh mục cũng không làm được như thế, các xơ đưa rất nhiều người trở về với Chúa và gia nhập đạo thông qua sứ vụ phục vụ này. Tôi nghĩ rằng đây là một bằng chứng cụ thể của “cung cách Tin Mừng” mà Chúa Giêsu đề nghị thực hiện. Chỉ như thế, giai đoạn mới cuộc công cuộc loan báo Tin Mừng thực sự được tái sinh và bắt đầu có hiệu lực. Amen.
Hôm nay, Chúa Giêsu gọi nhóm Mười Hai và sai từng hai người một đi rao giảng Tin Mừng Nước TN15-B134
Hôm nay, Chúa Giêsu gọi nhóm Mười Hai và sai từng hai người một đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sau khi đã được ở với Chúa một thời gian, các ông đã được nghe Người giảng dạy, được học cung cách phục vụ của Người, thấy Người chữa lành bệnh tật cho những ai có lòng tin. Hôm nay, các ông sẽ đi thực tập tông đồ.
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6, 8-9). Thoạt đầu, ta cảm thấy lo lắng khi nghe Thầy Giêsu nói đi rao giảng Tin Mừng mà chẳng mang gì phòng thân. Chỉ có cây gậy trong tay, chân mang đôi dép và một tấm áo che thân, không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. Các ông đã ra đi trong thiếu thốn hay trong sự phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa? Chúa Giêsu bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi” (Mc 6, 11). Khi vào nhà nào, các ông phải thật sự trở thành những vị khách dễ thương và là khách quý thì mới có thể trú ngụ lại lâu ngày tại nhà họ. Có lẽ, khi được ai đó đón tiếp, mời vào trú ngụ, dù gia đình ấy giàu hay nghèo thì cũng không quan trọng, điều quan trọng là ngay tại mái gia đình ấy, các ông sẽ góp phần xây dựng một bầu khí yêu thương và tôn trọng. Các ông sẽ đón nhận tất cả những gì được người ta đón tiếp với một tấm lòng biết ơn. Nếu người ta không đón tiếp thì các ông chỉ giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ chứ không lên án, chỉ trích hay “kêu lửa từ trời để thiêu đốt họ” (x.Lc 9, 54). Nghĩa là dù không được đối xử tốt, các ông vẫn không được dùng quyền đã được ban cho để làm hại một ai, vì các ông được sai đi là để trao ban tình yêu của Chúa cho muôn người. Chúa Giêsu sai đi từng hai người một, cả hai sẽ cùng nâng đỡ nhau trong hành trình sứ vụ, sẽ là những chứng nhân về tình yêu thương và tôn trọng nhau. Các ông sẽ không chuyển từ nhà này sang nhà khác khi thấy bầu khí gia đình đang xảy ra xung đột, các ông sẽ là những người mang lại bình an cho mọi người. Các ông cũng sẽ không chia tay nhau khi gặp mâu thuẫn nhưng cộng tác với nhau, cùng nhau lắng nghe để tìm kiếm và thi hành điều Chúa muốn. Có lúc, các ông sẽ là chiếc cầu nối nối lại mối tương quan cho những thành viên trong gia đình khi các ông nói lời của Thiên Chúa, làm những việc Người ủy thác cho các ông nhân danh Chúa Giêsu.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, ta cũng được Người sai đi. Không phải ta tự ý ra đi nhưng là chính Chúa sai đi và ta ra đi nhân danh Chúa qua Hội dòng, cộng đoàn, giáo xứ,… Có lúc, ta thấy mình chưa đủ khả năng, chưa kịp chuẩn bị, ta chưa sẵn sàng trước một nhiệm vụ mới mẻ, đến những vùng truyền giáo đầy khó khăn. Nhưng Chúa Giêsu muốn ta lên đường mà không chần chừ. Chúa Giêsu luôn đồng hành bên ta, đừng lo lắng chi cả. Người chia sẻ cùng ta cả những khi thành công hay thất bại. Đừng lo lắng khi người ta không đón tiếp. Có nhiều người thương mến Chúa nhưng cũng có không ít kẻ muốn tra tay hại Người. Ta cũng giống Chúa thôi. Người nhắn nhủ ta, hãy bước đi cùng Người. Ở trong Chúa Giêsu ta sẽ được bình an, dù phải gặp muôn vàn khó khăn, gian khổ, bị bách hại hay bị vu khống đủ điều xấu xa. Điều quan trọng là ta có nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Chúa Giêsu trong tình yêu thương hay không.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã chọn gọi con. Xin cho con trở nên tông đồ nhiệt thành của Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa giúp con luôn ý thức về hồng ân Chúa ban và biết ở lại trong Chúa để được Chúa dạy dỗ; hầu khi ra đi rao giảng, con biết nói lời của Chúa và sống giống Chúa nhiều hơn. Con không chỉ là người rao giảng lời của Chúa bằng chính đời sống của con nhưng con còn phải biết sám hối mỗi ngày, từ bỏ mọi sự để theo sát Chúa hơn. Amen.
Thánh sử Máccô kể lại cho chúng ta về việc Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước TN15-B135
Thánh sử Máccô kể lại cho chúng ta về việc Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi mọi người sám hối. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, cùng các chỉ thị kèm theo. Qủa thực, các môn đệ ra đi theo lệnh truyền của thầy Giêsu.
Để trở thành một thầy thuốc, một bác sĩ hay một giáo viên, chúng ta phải trải qua quá trình đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu. Trước khi hành nghề, chúng ta phải có giấy phép, đặc biệt là trong việc bốc thuốc chữa bệnh, mở phòng khám. Vậy mà các môn đệ của Đức Giêsu lại không hề qua một lớp đào tạo nào về nghề y, trừ quỷ. Họ ra đi theo lệnh truyền của Thầy Giêsu. Chính Người sai các ông đi với quyền trừ quỷ. Chúng ta có thể hiểu rằng, Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Ngài có quyền trên muôn loài muôn vật. Tin Mừng kể lại nhiều lần Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, dẹp yên gió bão. Các môn đệ có thể đặt tay chữa lành bệnh tật, trừ quỷ là nhờ ơn nhận được từ Thầy Giêsu, không phải bởi những khả năng riêng hay những gì họ thủ đắc từ các khóa học.
Khi ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi thực thi những chỉ thị của Đức Giêsu mời gọi trong tinh thần phó thác hoàn toàn. Ở thời đại công nghệ 4.0, trong công việc tông đồ, chúng ta được hỗ trợ rất nhiều bởi các trang thiết bị hiện đại. Phải chăng, chỉ thị của Đức Giêsu không còn phù hợp nữa? Thực ra, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa rất nhiều ân huệ. Như thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Bạn có gì mà không do nhận lãnh? Nếu bạn đã nhận lãnh tại sao lại vênh vang như thể đã không lãnh nhận” (1Cr 4, 7). Những gì chúng ta sử dụng để hỗ trợ cho công việc tông đồ đều là ơn của Chúa ban. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta sẽ thực thi công việc tông đồ đúng nghĩa, theo tinh thần phó thác hoàn toàn, không bị lệ thuộc quá vào chúng.
Tiên tri Amốt bị chống đối rất dữ dội khi ông thực thi sứ mạng ngôn sứ của mình. “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm” (Am 7,12). Phải chăng, ngôn sứ chỉ là một nghề để người ta kiếm sống? Ngôn sứ Amốt đã cho chúng ta câu trả lời. “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta’.” (Am 7,15). Linh mục và tu sĩ không phải là một nghề nhưng hơn hết là căn tính, là sứ mạng. Chúng ta có thể nói: Tôi là một linh mục, tôi là một tu sĩ. Thật vậy chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Như các tông đồ xưa, chúng ta cũng được mời gọi ra đi làm công việc tông đồ với ơn ban của Chúa. Người sai chúng ta đi thì Người cũng sẽ ban ơn. Bởi đó, chúng ta cần bám vào Chúa hơn là chỉ dựa vào sức riêng hay vào các phương tiện hỗ trợ.
Tiếp bước dấu chân của các vị tiền bối, chúng ta được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong tinh thần sẵn sàng, phó thác và đón nhận tất cả những điều Chúa ban cho ta. Chỉ cần nỗ lực hết sức mình với một con tim đầy tràn yêu mến trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ là những cộng tác viên tích cực của Chúa. Với niềm tin tưởng Chúa sẽ sai thêm nhiều thợ gặt để cùng với chúng ta ra đi gặt lúa về, vì lúa đã chín đầy đồng.
Trong sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giê-su cần có những người cộng tác. Phải chăng một mình TN15-B136
Trong sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giê-su cần có những người cộng tác. Phải chăng một mình Ngài không đủ khả năng thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó? Chắc chắn là không, vì Ngài là Thiên Chúa Toàn Năng và chỉ cần phán một lời thôi là đã có thể làm nên mọi sự. Vậy tại sao Chúa Giê-su lại gọi và chọn những tông đồ, xưa cũng như nay, để con người có thể được tham gia vào công trình cứu chuộc của Ngài?
Khi chọn những người cộng tác, Chúa Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (x. Mc 6,7). Nhóm Mười Hai đã được chọn trước đó, là những kẻ được chọn do Chúa muốn chứ không do cá nhân họ muốn (x. Mc 3, 13-19). Họ là ai, là thành phần ưu tuyển trong xã hội Do Thái thời đó sao? Hoàn toàn không. Họ là những ngư phủ thất học, quanh năm lao động vất vả kiếm sống. Họ là một trong số những người bị liệt vào hàng tội lỗi, làm tay sai cho đế quốc. Họ là những người hay hoài nghi, có người thì hăng say với phong trào chính trị chống La Mã, lại có kẻ được làm quản lý nhưng không thành thật,… Họ thuộc đủ mọi giai cấp, nghề nghiệp, thành phần, lứa tuổi, tính cách nhưng có một điểm chung là được Chúa gọi tên đích danh và đặt làm tông đồ. Ơn gọi của các tông đồ, các môn đệ năm xưa cũng như ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay đều bắt nguồn trước hết từ Thiên Chúa. Ngài gọi và chúng ta, tùy mỗi người mỗi hoàn cảnh, đáp trả lại hay từ chối. Đời sống tại thế của chúng ta có hạnh phúc và viên mãn hay không là tùy vào sự đón nhận và thái độ đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Chúa. Ý muốn Chúa dành cho mỗi người luôn là điều tốt nhất, nhưng nhiều người trong chúng ta lại không biết, hoặc biết mà cố tình không nghe theo. Bị rơi vào sự bế tắc, sống không vui, không hạnh phúc, bất an, lỗi tại ai? Cha Thomas Merton viết trong cuốn “Tự thuật” của ngài: “Chỉ có một hạnh phúc, đó là làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chỉ có một muộn phiền, đó là làm mất lòng Chúa, đó là từ chối Ngài một điều gì đó, đó là quay lưng lại với Ngài, ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất, ngay cả trong tư tưởng, trong ước muốn nửa vời của chúng ta”.
Không phải chỉ có một số ít người có ơn gọi làm tông đồ. Mỗi một Ki-tô hữu, bất kể là linh mục, tu sĩ, giáo dân hay thuộc ngôn ngữ, màu da nào đi nữa thì đều có sứ mạng làm tông đồ. Chúng ta làm tông đồ tùy vào ơn gọi, môi trường, hoàn cảnh riêng của mỗi người. Tất nhiên có một số ít người được kêu gọi sống đời thánh hiến linh mục và tu sĩ, nhưng sứ mạng làm chứng và loan báo Tin Mừng thì không phải chỉ dành riêng cho họ. Là học sinh – sinh viên, các bạn có bao giờ suy nghĩ và ý thức Chúa muốn mình làm tông đồ nơi trường học? Là nhân viên, kỹ sư, bác sĩ, công nhân,… Chúa mời gọi chúng ta là Ki-tô hữu đúng với vị trí và vai trò của mình. Thánh Phao-lô Tông đồ nói: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12, 6-8). Nếu không có sự cộng tác của các tông đồ giáo dân, sứ mạng loan báo Tin Mừng sẽ không mang lại nhiều kết quả như Chúa Giê-su mong muốn. Ngay trong môi trường giáo xứ, Chúa cũng cần lắm sự chung tay cộng tác của mọi thành phần dân Chúa với các linh mục quản xứ để phục vụ dân thánh. Sự năng động, nhiệt thành, hy sinh của các nhóm huynh trưởng, giáo lý viên, giới trẻ, ca đoàn, các hội đoàn, là thành tố quan trọng và cần thiết giúp các xứ đạo được phát triển. Những hình ảnh đẹp của họ đã mang đến rất nhiều âm hưởng tích cực đối với mọi người, kể cả những người lương dân.
Nhìn vào bối cảnh của xã hội và thế giới hôm nay, chúng ta mới hiểu hơn vai trò của người tông đồ Chúa Ki-tô. Chúa muốn chúng ta cộng tác để chúng ta biết ra khỏi nơi trú ẩn an toàn của mình, để nhìn thấy được bao mảnh đời bất hạnh, chạm đến được bao người đang đau khổ, cùng cực. Nếu không đi ra, có lẽ chúng ta chỉ lo quay quắt trong những nỗi đau nhỏ nhặt của mình, như có người ví von “tiểu thư giẫm phải gai mồng tơi” mà cứ kêu đau, cứ than thân trách phận, nghĩ rằng không ai khổ bằng mình. Giờ phút này, tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam chúng ta, đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối phó với đại dịch Covid. Dịch vẫn đang bùng phát rất mạnh và chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Thành phố Hồ Chí Minh trong những ngày tới sẽ giãn cách xã hội theo chỉ thị 16, nhiều người dân, nhất là những người lao động nghèo, thất nghiệp, mất việc,… sẽ phải đối diện với bao nhiêu khó khăn. Hoàn cảnh này cần lắm, sáng lắm gương những người tông đồ nhiệt thành như nhiều giáo xứ, cộng đoàn dòng tu, tổ chức bác ái đang thực hiện các sáng kiến để lan tỏa tình thương của Thiên Chúa đến mọi người. Đúng là “cách ly nhưng không cách lòng”.
Hãy mạnh dạn lên đường khi được sai đi. Chúng ta đừng để những nỗi lo lắng về tiền bạc, của cải, tài năng cản ngăn bước chân của chúng ta. Chúa Giê-su đã chẳng khuyên bảo các môn đệ đừng mang theo nhiều thứ lỉnh kỉnh, đừng mang tiền bạc, nhiều giày dép, quần áo,…(x.Mc 6,8-9) là những thứ đem đến cho ta cảm giác an toàn đó sao? Mang nặng quá nhiều hành lý, hoặc chúng ta sẽ không theo kịp Chúa, hoặc chúng ta sẽ chỉ cậy dựa vào đó mà quên đi niềm tín thác vào Chúa. Hẳn vật chất thì cần, nhất là khi ta đến với những nơi và những người đang thiếu thốn, chúng ta phải có thì mới cho họ được chứ. Nhưng đừng quên, nó luôn chỉ là phương tiện, và phương tiện thì không bao giờ được thay thế hoặc có thể thay thế được mục đích căn bản. Chúng ta là tông đồ của Chúa, chúng ta làm việc của Chúa và cho sáng danh Chúa, đó là mục đích đời sống chúng ta. Chúng ta làm việc hết mình nhưng cũng phó thác hết tất cả cho Thiên Chúa như sách giáo lý Hội thánh Công Giáo đã dạy. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ luôn vui vẻ lên đường cách nhẹ nhàng và thanh thoát; luôn bình an và tràn đầy hy vọng dù có gặp những khó khăn, thử thách, chống đối, thất bại; luôn hạnh phúc và có sáng kiến để vượt thắng mọi hoàn cảnh.
“Lạy Chúa, chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con từ trước… Xin dùng con theo ý của Ngài, làm tay chân cho người què cụt, cùng làm tai cho người bị điếc. Xin dùng con theo ý của Ngài, làm đôi mắt cho người bị mù, làm tiếng kêu cho người bị oan. Xin gởi con đi tới mọi miền, để đem cơm cho người nghèo hèn, và tặng nước cho người còn khát. Xin gởi con vào khắp muôn nhà, tặng thuốc thang cho người bệnh tật, tặng chiếu chăn cho người lạnh co.
Xin gởi con ra khắp nẻo đường, bàn tay nâng ánh đèn dọi đường, tỏa lửa ấm cho người lạnh giá. Xin gởi con ra khắp nẻo đường, cảm thông chia vui buồn phận người, và sớt chia cho đời niềm vui. Xin gởi con vào khắp thôn làng, ủi an trao cho người khổ sầu, gợi lòng tin cho người buồn chán. Xin gởi con vào khắp buôn làng, niềm vui trao những người buồn phiền, người lắng lo xin gởi bình an” (Lời bài hát “Chính Chúa chọn con”). Amen.
Như người cha trong gia đình không muốn tự mình làm hết mọi việc, để con cái ngồi chơi xơi TN15-B137
Như người cha trong gia đình không muốn tự mình làm hết mọi việc, để con cái ngồi chơi xơi nước, nhưng muốn đoàn con cùng tham gia làm việc với mình để chúng trưởng thành hơn, khôn ngoan hơn, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta là con cái Ngài tham gia làm việc với Ngài như thế.
Chính vì thế, khi muốn có đông người sinh sống trên mặt đất, Thiên Chúa không tự mình nắn lên từng người một, nhưng Ngài đã dựng nên nguyên tổ loài người là A-đam và E-va rồi trao cho hai ông bà và con cháu qua các thế hệ, cộng tác với Ngài sinh thêm những người con khác, nhờ đó, nhân loại được sinh sôi phát triển khắp địa cầu.
Trong công cuộc cứu chuộc loài người cũng thế, Chúa Giê-su không tự mình đảm đương mọi việc, nhưng Ngài đã trao cho các Tông đồ, các môn đệ cùng hợp tác chặt chẽ với Ngài trong sứ mạng hệ trọng nầy.
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy việc ra đi rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, kêu gọi người ta ăn năn sám hối[1]… vốn là việc của Chúa Giê-su, thế mà Ngài lại trao cho 12 môn đệ lên đường làm công việc đó.
Sau nầy, Ngài còn sai Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ lên đường tiếp nối sứ mạng cao cả nầy[2].
Và trước khi về trời, Chúa Giê-su trao cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp nơi.
Từ ngày lãnh Bí tích Thánh tẩy (Rửa tội), chúng ta được trở nên chi thể, trở nên bàn tay của Chúa Giê-su như Hội thánh dạy: “Bí tích Thánh tẩy làm cho ta trở thành chi thể Chúa Giê-su.”
Vì được trở nên chi thể Chúa Giê-su, chúng ta được thông dự vào vai trò ngôn sứ, tức là vai trò rao giảng của Chúa Giê-su cũng như vai trò tư tế và phục vụ của Ngài.
Là ngôn sứ của Chúa Giê-su, nghĩa là người rao giảng lời Chúa, chúng ta phải tích cực tham gia vào sứ mạng này mà không được thoái thác với bất cứ lý do gì.
Giúp cho bao người chung quanh hiểu biết và yêu mến Chúa là nhiệm vụ chính yếu của chúng ta. Chúng ta không thể trông chờ Chúa Giê-su xuống thế làm người lần thứ hai để loan Tin mừng cho họ, điều đó không cần thiết vì đã có chúng ta là môi miệng của Chúa rồi, chúng ta phải mở miệng ra mà loan báo.
Sáng hôm kia thức dậy, ông Năm kinh hoàng tột độ khi phát hiện ra rằng mình bị cấm khẩu, không nói được lời nào. Dù cố gắng nói đôi lời với vợ con, nhưng ông cứ ú a, ú ớ… mãi mà không thốt nên lời. Ông vô cùng bực bội, rất đỗi buồn phiền và đau khổ vô cùng vì không ngờ mình trở nên câm đặc.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng truyền lệnh cho chúng ta là miệng lưỡi của Ngài hãy mở ra để loan Tin mừng, để giới thiệu cho bao người nhận biết và yêu mến Chúa… nhưng chúng ta vẫn im hơi lặng tiếng. Ngài thúc giục hoài, Ngài khuyến dụ đủ cách… nhưng chúng ta là môi miệng của ngài vẫn câm nín, vẫn lặng im. Vì thế, Ngài bực bội biết dường nào, buồn phiền, đau khổ biết bao !
Lạy Chúa Giê-su,
Bí tích Thánh tẩy đã biến chúng con thành chi thể của Chúa, làm cho chúng con trở thành miệng lưỡi của Chúa và điều Chúa mong muốn nhất là chúng con phải mở lời giới thiệu Chúa cho mọi người không trừ ai.
Xin cho chúng con đừng thoái thác trách nhiệm của mình để khỏi làm cho Chúa đau lòng vì không nói được điều Chúa muốn nói với những người chung quanh chúng con. Amen.
-----------------------------
TN15-B138: ĐƯỢC CHỌN GỌI – ĐƯỢC HUẤN LUYỆN – ĐƯỢC SAI ĐI
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Sứ vụ loan báo Tin mừng bắt nguồn từ Thiên Chúa khi sai Con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô TN15-B138
Sứ vụ loan báo Tin mừng bắt nguồn từ Thiên Chúa khi sai Con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô xuống làm người. Đức Giê-su xuất hiện nơi trần gian nhằm để loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến, và kêu gọi con người ăn năn hối cải để đón nhận ơn cứu độ. Ngang qua biết bao lời giảng dạy cùng với các phép lạ, Đức Giê-su muốn con người nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa để con người được sống và sống dồi dào. Ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su là ở đó được thi ân giáng phúc. Nơi nào Đức Giê-su có mặt là người què đi được, người câm nói được, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, ngay cả người chết cũng được hồi sinh,…Qua đó, nhiều người đã tin nhận vào Đức Giê-su và đi theo Ngài.
Với vai trò là Thiên Chúa làm người, Đức Giê-su có thể làm được mọi sự và không cần sự cộng tác của con người để loan báo Tin mừng cứu độ cho muôn người. Tuy nhiên, chúng ta đã nhận thấy Đức Giê-su đã chọn gọi các môn đệ Ngài muốn để các ông ở lại với Ngài, rồi Ngài sai họ đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Tin mừng hôm nay (Mc 6, 7-13) cho chúng ta thấy việc Đức Giê-su sai các Tông đồ ra đi loan báo Tin mừng. Nhưng để hiểu rõ hơn bối cảnh của bài Tin mừng này, chúng ta phải biết rằng làm sao các Tông đồ được sai đi nếu trước đó không ở lại với Đức Giê-su? Làm sao ở lại với Ngài nếu không được chọn gọi bởi Đức Giê-su?
Chính vì thế, chúng ta phải khởi đi từ việc chọn gọi các Tông đồ. Quả thật, để tiếp nối sứ vụ loan báo Tin mừng cho muôn dân, Đức Giê-su đã đích thân chọn gọi cho mình những môn đệ Ngài muốn. “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” (Mc 3, 13-15). Chính Đức Giê-su chủ động chọn gọi các ông như Ngài đã nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.” (Ga 15,16). Ngài đi bước trước để kêu gọi cho mình những người nối nghiệp trung thành và can đảm trong việc loan báo Tin mừng. Như vậy, chúng ta biết rằng ơn gọi làm môn đệ, ơn gọi loan báo Tin mừng là xuất phát từ ý định của Thiên Chúa chứ không phải tự ý con người. Chính Thiên Chúa kêu gọi và con người cần đáp trả để kế hoạch của Ngài được thực hiện.
Thế nhưng, chọn gọi xong không có nghĩa là đủ khả năng để thực thi sứ vụ, mà các môn đệ phải ở lại và hiện diện với Đức Giê-su để cùng với Ngài rảo bước khắp mọi nẻo đường nhằm giúp các môn đệ biết nhìn, biết nghe, biết yêu, biết tha thứ, biết cảm thông, biết chạnh lòng thương, biết gần gũi với những kẻ bị coi là tội lỗi, biết thân thiện với những mảnh đời éo le và khổ sở,…Vì thế, trước khi được sai đi, các Tông đồ phải bắt buộc phải ở vói Đức Giê-su. Vì Ở vói Đức Giê-su, để các môn đệ học cung cách cư xử đối với mọi người nhằm loan truyền “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Ở với Đức Giê-su để học hỏi các nhân đức của Ngài là khiêm nhường, là hiền lành, là hy sinh, là quảng đại, là vị tha, là bao dung, là cởi mở, thân thiện và gần gũi. Ở với Đức Giê-su để biết chấp nhận mọi sỉ nhục, mọi đau thương, ngay cả sẵn sàng chịu chết để mưu ích phần rỗi cho muôn người. Như thế, ở lại với Chúa là để được huấn luyện trở nên những nhà thừa sai cứng cáp, nhiệt huyết, nhiệt thành, can đảm, và hăng say dấn thân ra đi rắc gieo Tin mừng khắp muôn nơi.
Quả thật, sau khi đã được hướng dẫn, được học hỏi và được huấn luyện cũng như chịu nhiều thử thách nơi Thầy Giê-su, các Tông đồ bắt đầu đón nhận sứ vụ sai đi của Thầy mình. Như Tin mừng hôm nay trình thuật: “Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế.” (Mc 6, 7). Đức Giê-su sai đi ‘từng hai người một’, là muốn họ có tinh thần cộng đoàn, nghĩa là họ không làm việc đơn lẻ nhưng làm việc theo nhóm, theo anh em. Chúng ta thấy điều đó trong Công vụ Tông đồ khi các môn đệ luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phê-rô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabe (Cv 13, 2); Giuđa và Sila (Cv 15, 22b),…Khi sai đi, Đức Giê-su cũng ban cho các Nhóm Mười Hai một quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như một trong dấu chỉ xác thực rằng sự hiện diện của Nước Thiên Chúa giữa trần gian.
Bên cạnh đó, khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Đức Giê-su mong muốn các ông không được lệ thuộc vào của cải vật chất, các tiện nghi nhưng hãy sống ký thác mọi sự cho Chúa và sống nhẹ nhàng khoan thai.“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”(c.8-9). Như vậy, người ra đi rao giảng Tin mừng không được màng tới hoặc đòi hỏi những đồ dùng này đồ dùng kia, không phải lo lắng cho bản thân quá nhiều, mà cần thanh thoát, bỏ đi những thứ xem ra cần thiết cũng như không cần thiết để dễ dàng phục vụ và dấn thân cho tha nhân. Đức Giê-su xác tín cho các ông rằng hãy hết mình khi ra đi rao giảng và hy sinh phục vụ, mọi sự khác sẽ có Chúa và mọi người lo liệu. Vì làm thợ thì đáng được nuôi ăn. Một sự sẵn sàng lên đường mà lòng không vướng bận là điều mà một người loan báo Tin mừng luôn luôn phải có. Cứ dấn thân, cứ nhiệt huyết, cứ hăng say, cứ ra đi, cứ gặp gỡ,…Chúa sẽ dùng nhiều cách thế để giúp đỡ, để an ủi và bổ túc tất cả những thiếu thốn khác ngang qua các ân nhân hoặc các mạnh thường quân trong hành trình sống.
Hơn nữa, Đức Giê-su còn căn dặn các Tông đồ : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.” (c.10). Nói như vậy là Đức Giê-su muốn những nhà thừa sai, những người loan báo Tin mừng đừng chọn nhà này hơn nhà khác, đừng chọn theo sở thích của bản thân mình nhưng hãy thoả mãn và vui vẻ chấp nhận sự chật hẹp hay khó khăn nơi gia đình, nơi làng xóm mà mình được sai đến. Thật vậy, theo bản tính con người, ai ai cũng thích chỗ sung sướng, thoải mái, ăn ngon mặc đẹp, phòng ốc đàng hoàng, có điều hoà khi thời tiết nóng, có nóng lạnh khi mùa đông đến,…nhưng theo Đức Giê-su, một khi đã được sai đi rao giảng Tin mừng, chúng ta không màng tới điều đó nhưng biết hội nhập tất cả cũng như chịu đựng những khó khăn nơi vùng miền được sai đến.
Điều đặc biệt các Tông tồ cần hướng đến là đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối để được ơn tha tội và được hưởng ơn cứu đội của Thiên Chúa. Ngang qua việc trừ quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa lành các bệnh nhân, các Tông đồ dễ dàng giới thiệu cho mọi người biết về tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa cũng như Lòng thương xót của Ngài. Cũng vậy, nơi người loan báo Tin mừng ngày hôm nay cũng được mời gọi hãy sống bằng chứng nhân, bằng những việc làm cụ thể là bác ái yêu thương, là hy sinh phục vụ các bệnh nhân, người già cả neo đơn, là tiếp đón người nghèo mà không phân biệt lương giáo, hay sắc tộc. Qua những việc làm cụ thể và thiết thực đó, chúng ta đang thu hút và cảm hoá nhiều người biết về đạo yêu thương, đạo của Chúa Giê-su. Quả thật, Đức Thánh Cha Phanxico đã nhấn mạnh điều đó rằng Giáo hội phát triển không phải bằng chiều dụ nhưng bằng sức thu hút. Như vậy, Đức Giê-su mong muốn mỗi người hãy là muối, là ánh sáng cho trần gian (x.Mc 9, 50; Lc 14, 34-35) ngang qua cách sống yêu thương và tha thứ của chúng ta.
Quả thật, ơn gọi trở nên chứng nhân của Chúa cho con người ngày hôm nay là ơn gọi phổ quát, tuy nhiên, có những người đặc biệt đã được chọn gọi, được huấn luyện tại các trường Đại chủng viện, học viện, tu viện để trở nên những thừa sai đích thực, chuyên môn và nhiệt huyết nhằm ra đi lan toả Tin mừng cho mọi người ở khắp mọi nơi. Điều quan trọng mà Chúa Giê-su mong muốn là ai được sai đi dấn thân phục vụ Tin mừng và giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân thì tiên vàn phải là người cầu nguyện, là người có đủ ơn Chúa, đủ sức mạnh từ Chúa; là người thanh thoát với của cải vật chất để chủ tâm cho công việc loan báo Tin mừng; là người sống nối kết với anh chị em mà không ích kỷ hay riêng rẽ; là những chứng nhân đích thực ngang qua cách sống vui vẻ, cởi mở, thân thiện, quảng đại, vị tha và đượm tình bác ái yêu thương.
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước cho biết “Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ TN15-B139
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước cho biết “Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo”. Tin Mừng tuần này kể tiếp: “Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng với quyền trừ quỷ”. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã ở với Chúa từ đầu. Sách Tin Mừng không cho ta biết thời gian bao lâu. Sau một thời gian, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ về quê Nadaret, cho họ chứng kiến thân nhân, người “đồng hương” đối xử với Người như thế nào; Người đã nói cho họ biết thực tế phũ phàng trong thân phận ngôn sứ. Rời Nadaret, Người tiếp tục đi các làng chung quanh mà rao giảng, không để “kinh nghiệm Nadaret” tác động trên đường sứ mạng của mình. Bây giờ, Người bắt đầu sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng với quyền trừ quỷ.
Ta có thể thắc mắc, sao Người không sai các ông đi trong lúc hứng khởi, khi Người được đón tiếp, được đám đông chen lấn chung quanh thán phục? Tại sao lại chờ gáo nước lạnh của làng quê Nadaret rồi mới sai các ông đi?
Người huấn luyện các ông bằng thực tế. Phải để cho các ông đứng cả hai chân trong thực tế của sứ mạng rao giảng, như các ngôn sứ, rồi mới sai đi để biết “thắng không kiêu, bại không nản”. Ngôn sứ Isaia được sai đi …nói với đá (x.Is 6,1-10); ngôn sứ Giêrêmia được sai đi để “nên cột sắt thành đồng chống lại cả xứ” (x. Gr 1,18-19). Ra đi là vì được sai đi, chứ không phải vì mong được đón tiếp, được hoan hô, được công kênh lên như siêu sao bóng đá sau khi đoạt cúp. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
Các Tông đồ lên đường với hành trang 3 không và 2 có. Ba không: không lương thực, không bao bị, không tiền bạc. Hành trình như vậy là đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.
Hai có: cây gậy và đôi dép. Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ. Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.
Đây quả là một gói hành trang dị thường, một lời khuyên nghịch lý, trái với suy nghĩ khôn ngoan tự nhiên của con người mọi thời.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Vì thế, các Tông đồ luôn sống tinh thần phó thác, tin tưởng vào Chúa.
Chúa Giêsu cũng trao cho các môn đệ những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn, nhất là biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ Ngài (x.Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ hết sức sống động và lôi cuốn người khác theo mình.
Hành trang của người Tông đồ là sự gắn bó mật thiết với Chúa Các Tông đồ đã được ở với Chúa. Các ông đã nghe lời Chúa dạy. Các ông đã chứng kiến các việc Chúa làm. Biết bao nhiêu bài học các ông đã ghi tâm khắc cốt. Bài học về tình thầy trò, tình đồng nghiệp. Bài học về sự từ bỏ hy sinh, về các nhân đức… các ông đã được Chúa Giêsu đào tạo, huấn luyến, uốn nắn và giáo dục. Được gần gũi với Chúa Giêsu, các ông đã học hỏi nơi Ngài rất nhiều điều từ đời sống nhân bản, đời sống thiêng liêng. Đó là những hành trang quý báu Chúa trao cho các ngài. Bây giờ, trước lúc lên đường, Chúa muốn các ngài cần có tinh thần phó thác và tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào sức riêng hay của cải vật chất. Của cải có thể là vật cản cho người môn đệ trong hành trình truyền giáo. Cho nên, khi không dính bén tới của cải vật chất, người Tông đồ thảnh thơi hơn để lo việc rao giảng Tin mừng.
Với những hành trang ấy, các Tông đồ lên đường thực hành sứ vụ. Thánh Maccô cho biết, các ông đã “trừ được nhiều quỷ và chữa lành được nhiều bệnh nhân”.
Mỗi Kitô hữu đều được chọn để sai đi. Ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều hướng đến chủ đề: ơn gọi sai đi. Thiên Chúa chọn để sai đi. Ngôn sứ Amos được gọi và sai đi để nói tiên tri khuyến cáo những dân tội lỗi bất trung (Bài đọc 1). Nhóm Mười Hai được gọi để sai đi loan báo tin mừng, kêu gọi mọi người sám hối. Chúa gọi để người được gọi ở với Chúa và sai họ đi loan báo ý định yêu thương cứu độ. Ở với Chúa là đón nhận sự sống và ân sủng Chúa ban tặng. Ở với Chúa để nên thánh thiện và tinh tuyền. Ở với Chúa là để nên nghĩa tử yếu dấu của Ngài (Bài đọc 2). Ở với Chúa để được Ngài sai đi.
Chúa trao cho các Tông đồ những hành trang thực sự cần thiết, hữu ích cho sứ vụ, và sai đi vào môi trường thực tế. Mỗi Kitô hữu đều là môn đệ của Chúa. Khi lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi vào chính môi trường mình đang sống để trở nên muối men ướp cho mặn đời, để nên ánh sáng cho thế gian. Tất cả cuộc sống phải thấm nhuần tinh thần phúc âm.
Người môn đệ ở mọi nơi mọi thời vẫn được Chúa và Giáo Hội sai đi. Người môn đệ hôm nay có thể ra đi với cung cách hơn xưa là mang theo nhiều vật dụng, có nhiều phương tiện, nhưng cốt lõi vẫn là hành trang đơn sơ, phục vụ, sống công chính để rao giảng và giới thiệu Đức Kitô cho tha nhân.
Sống đơn sơ: Vượt thắng những cám dỗ tiện nghi vật chất với ba không: không lương thực, không bao bị, không tiền bạc; để có thể sống đơn sơ, thanh thoát nhẹ nhàng. Nhờ đó, người Tông Đồ mới có thể dấn thân cho sứ vụ đạt kết quả hữu hiệu. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24). Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở các mục tử: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”.
Sống phục vụ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi” Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường đang sống, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, chu toàn bổn phận. Người được sai đi là để là phục vụ chứ không phải để được phục vụ : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34-35)
Sống công chính: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. Không bao giờ thỏa hiệp với sự dữ với thế gian và không đối thoại với ma quỷ. Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô. Thánh Phaolô lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
Trong cuộc sống có nhiều thứ cần phải biết khước từ và giũ sạch. Rất cần can đảm để có thể TN15-B140
Trong cuộc sống có nhiều thứ cần phải biết khước từ và giũ sạch. Rất cần can đảm để có thể dứt khoát. Khước từ cái xấu là hành động tốt, khước từ cái tốt là hành động xấu. Khước từ không dứt khoát thì như giặt đồ không sạch. Đối với tâm linh cũng tương tự.
Có kiểu khước từ đáng yêu thì cũng có kiểu khước từ đáng sợ. Kinh Thánh nói: “Người tội lỗi khước từ lời khiển trách, tìm đủ lẽ để làm theo ý mình.” (Hc 32:17) Thật đáng quan ngại biết bao!
Theo Chúa đòi hỏi phải khước từ mạnh mẽ hơn – cả tinh thần và vật chất. Xét theo nghĩa đen, khước từ là giũ bỏ cái gì đó. Muốn nhẹ mình thì phải bỏ, muốn bỏ thì phải buông, càng bám chặt thì càng nặng người, đúng như người ta thường nói: “Già lừa ưa nặng.”
Chắc rằng ai cũng có kinh nghiệm ít nhiều về sự từ bỏ, nhất là đối với chất gây nghiện như rượu bia hoặc thuốc hút. Quả thật, không dễ gì mà bỏ ngay được, có người bỏ năm lần bảy lượt vẫn chưa được. Chất gây nghiện bình thường mà còn vậy, huống chi ma túy. Người nghiện ma túy cứ tái nghiện nhiều lần, rất hiếm người bỏ được. Nghiện thứ gì thì khổ thứ đó.
Ngày nay còn thứ nghiện @ gọi là nghiện internet, internet addiction hoặc cyber addiction. Chứng nghiện này cũng gây rối loạn tâm sinh lý. Không ai có thể cứu mình, ngoại trừ chính mình. Điện thoại thông minh là điện thoại khôn, nhưng nó khiến người ta hóa khốn. Kinh Thánh nhắc nhở chí lý: “Trong mọi chuyện lớn nhỏ, đừng tỏ ra vô ý thức.” (Hc 5:15)
Nghiện là đam mê lệch lạc quá độ. Nghiện gì cũng “chết” – chết ảo và chết thật. Nhưng vì sức khỏe của chính mình, và có liên quan người khác, rất cần quyết tâm khước từ. Khước từ chất gây hại để bảo vệ hệ miễn nhiễm, nhất là trong tình trạng dịch bệnh lây lan lúc này. Chất gây hại cho thân xác còn nguy hiểm như vậy thì chất gây hại cho linh hồn càng nguy hiểm hơn bội phần. Dù xác hay hồn, có khỏe mạnh mới có thể làm việc hiệu quả. Sức khỏe thể lý có ảnh hưởng tới sức khỏe tinh thần và linh hồn.
Từ bỏ những thứ tầm thường để có thể làm những điều tốt đẹp – cho mình và cho tha nhân, đặc biệt là lợi ích cho Thiên Chúa, cụ thể là công việc chung của mọi tín nhân: Loan báo Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Đó là trọng trách Chúa Giêsu trao cho những người tin vào Đức Giêsu Kitô – Đấng Ngôi Lời.
Không hẳn “ra đi” là phải đến nơi kia, tới nơi nọ. Thánh nữ Teresa Lisieux không ra khỏi bốn bức tường dòng kín mà vẫn đến được mọi nơi trên thế giới này. Vấn đề quan trọng là tinh thần truyền giáo của Chị Thánh. Ngày nay, với internet, người ta có thể đi đến bất cứ nơi nào và biết được nhiều chuyện dù chỉ ngồi một chỗ. Đó là một lợi thế cho những ai biết tận dụng theo hướng tốt, nhưng có thể là mối nguy hiểm cho những ai tò mò, chỉ tìm hiểu những chuyện không nên biết. Lợi bất cập hại.
Ngày xưa, sau khi xung khắc, Amátgia nói với Amốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” (Am 7:12-13) Ông Amốt đã không được người ta tiếp nhận. Nghe lạ mà không lạ, bởi vì chính Chúa Giêsu – Ngôn sứ của mọi ngôn sứ – cũng đã bị người ta khước từ khi Ngài trở về Nadarét. (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6; Lc 4:16-30) Một tình huống phũ phàng như vậy khó có thể tưởng tượng được!
Ông Amốt nói với Amátgia: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.” (Am 7:14-15) Ngôn sứ Amốt không dám nhận mình là ngôn sứ nhưng ông thực sự là ngôn sứ, dù ông bị “ép buộc” làm ngôn sứ, đi rao giảng cho dân Israel.
Ngôn sứ Amốt là ai? Ông là người thuộc miền Nam Giuđê nhưng đi rao giảng ở miền Bắc Israel. Ông là người đương thời với hai ngôn sứ Hôsê và Isaia, hoạt động vào khoảng năm 750 TCN, thời vua Giêrôbôam II. Ngôn sứ Amốt qua đời năm 745 TCN.
Xưa nay đức tính được đề cao là lòng trung hiếu. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, cụ Đồ Chiểu đã đề cập đức trung hiếu ở ngay câu lục bát đầu tiên: “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.” Nói là nói vậy, chứ nam hay nữ đều cần cả trung hiếu và tiết hạnh. Thiên Chúa cũng quý mến người trung hiếu. Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.” (Tv 85:9-10) Chắc chắn ai cũng mơ ước một đất nước “đại đồng” như vậy, nhưng có lẽ ước mơ vẫn chỉ là mơ ước đối với chúng ta trên thế gian này, càng tệ hại hơn đối với cư dân ở các quốc gia vô thần.
Dù có thế nào thì chúng ta cũng vẫn phải không ngừng ước mơ, khao khát, mong mỏi,… Nếu có Thiên Chúa thì chắc chắn điều đó sẽ đạt được. Thời kỳ “đáng mơ ước” đó thực sự đã đến với chúng ta, ngay trên thế gian này: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân.” (Tv 85:11-14) Nước Chúa đã đến, việc còn lại là trách nhiệm của chúng ta: Bài trừ mọi bất công và thực hiện công lý. Có công lý ắt sẽ có hòa bình. Chưa có hòa bình vì chúng ta chưa thực hiện công lý – nghĩa là chúng ta còn đàn áp nhau, áp bức kẻ yếu, đè bẹp kẻ nghèo khổ, thậm chí còn “dàn cảnh” để đàn áp dân lành. Thánh Phaolô khuyên: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12:21)
Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không vì tội ác của những kẻ xấu, mà vì sự im lặng của những người tốt.” Đúng vậy. Và có liên quan vấn đề cá nhân: “Dối trá và lừa lọc là hành động của kẻ ngu xuẩn không đủ trí óc để trung thực.” (Benjamin Franklin)
Thiên Chúa biết phàm nhân “dẻo miệng” lắm, hứa rồi quên, nhưng Ngài vẫn hết mực yêu thương và chính thức thiết lập Kế Hoạch Cứu Độ – ngay từ khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Thật diễm phúc khi chúng ta có một Thiên Chúa tuyệt đối như vậy. Thảo nào Thánh Phaolô đã không thể lặng im mà phải lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người.” (Ep 1:3-4)
Rõ ràng hạnh phúc chồng lên hạnh phúc, niềm vui nối kết nỗi mừng. Tại sao? Bởi vì không chỉ chúng ta được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ, mà còn được Ngài quan tâm chăm sóc không ngừng: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1:5-7)
Quả thật, dành cả đời đời của tỷ tỷ người để tạ ơn Ngài cũng không đủ chứ nói chi tới một cuộc đời của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” (Ep 1:8-12)
Tất cả là hồng ân. Thật vậy, Cựu Ước đã xác định: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa.” (Hc 11:14) Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, nhưng trong mọi hoàn cảnh, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.” (Rm 8:28) Sống theo Thánh Ý Chúa là điều quan trọng tuyệt đối. Nhận biết được như vậy là bắt đầu trưởng thành tâm linh. Nhưng muốn trưởng thành trong đời sống Kitô giáo, chúng ta cần phải có ba yếu tố quan trọng: Yêu Thương, Tha Thứ, và Chấp Nhận. Đó là tam-giác-sống như điều kiện ắt có và đủ.
Để động viên chúng ta sống tích cực, Thánh Phaolô cho biết: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” (Ep 1:13-14) Có tin tưởng thì mới chờ đợi, khi chờ đợi thì phải hành động, chứng tỏ bằng hành động là can đảm gặp gỡ tha nhân, muốn gặp gỡ thì phải đứng dậy và vào đời, vào đời hôm nay để vào trời ngày mai. Đức Mẹ Fatima đã đặt vấn đề: “Nếu người ta biết thế nào là đời đời thì người ta sẽ hành động bằng mọi giá.” Và có điều đặc biệt này: “Cửa Thiên Đàng rất thấp, chỉ những người hạ mình mới có thể vào được.” (Thánh Elizabeth Seton)
Trình thuật Mc 6:7-13 (≈ Mt 10:5-15; Lc 9:1-6) đề cập việc Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi loan báo Tin Mừng. Ngài sai họ đi từng đôi, từng cặp. Để cung cấp “hành trang” cho họ lên đường, Ngài ban cho họ quyền trừ quỷ. Tuy nhiên, Ngài đưa ra chỉ thị xem chừng “không giống ai” chút nào: Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Chúa Giêsu nói rất rõ ràng, không úp mở, không bóng gió, thế mà ngày nay vẫn thấy có người làm trái ngược, xao lãng cái chính mà chú trọng cái phụ, lem nhem về chuyện tiền bạc, tìm mọi cách để có thể vơ vét…
Biết con người sợ khó, thích nhàn, mê tiền, hám lợi, thế nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ “ra đi với đôi tay trắng,” không được dính bén vật chất, vì vật chất sẽ gây mù quáng. Ngài căn dặn rất cặn kẽ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” (Mc 6:10-11) Người ta không tiếp nhận mình thì thôi, đi nơi khác chứ cũng không ghét bỏ ai. Tự nhiên vậy thôi, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.” Chúa Giêsu luôn sống bình dân, tự nhiên và thanh thản. Ngài không muốn ai miễn cưỡng nên Ngài không bao giờ ép buộc ai.
Vâng lời Thầy Giêsu, các môn đệ ra đi rao giảng Nước Trời, kêu gọi hoán cải, trừ quỷ, xức dầu và chữa khỏi bệnh tật. Sống tốt giữa đời thường, thể hiện lòng thương xót, nhất là trong tình trạng dịch bệnh hiện nay, để nêu gương sáng. Đó là cách sẵn sàng và can đảm vào đời và sống giữa bầy sói. Khước từ tiện nghi cho mình để giũ sạch mọi thứ tham lam, tà tâm, mưu ma chước quỷ.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con biết khước từ chính mình để có thể thay đổi những gì cần thay đổi, biết chia sẻ những gì cần chia sẻ, dám giũ sạch mọi đam mê trần tục, biết khó với chính mình và sống nghiêm túc, để người khác có thể nhận ra Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Cuộc sống quanh ta muôn màu muôn vẻ. Mỗi ngày sống chỉ có ý nghĩa khi đem lại niềm vui và TN15-B141
Cuộc sống quanh ta muôn màu muôn vẻ. Mỗi ngày sống chỉ có ý nghĩa khi đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Cuộc sống cũng như dòng chảy, luôn mang theo sức sống đến với mọi người ta gặp gỡ và mọi nơi ta hiện diện. Thiếu niềm vui, cuộc sống sẽ trở nên nghèo nàn đơn điệu vô nghĩa. Cuộc sống cũng luôn là cuộc lên đường, mở rộng tầm nhìn, khám phá những điều kỳ diệu Thiên Chúa đang không ngừng thực hiện mỗi ngày, để ca tụng tôn vinh và loan báo tình thương của Ngài đối với nhân loại. Đối với người tin Chúa, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường. Càng nhiệt thành lên đường, ta càng nhận ra cuộc đời này tươi đẹp.
Tiếp nối tư tưởng sứ mạng “ngôn sứ” được diễn giải trong Chúa nhật trước, Lời Chúa hôm nay muốn phác họa chân dung người ngôn sứ trong cuộc sống hiện tại. Ngôn sứ là người được sai đi nói lời của Chúa. Một khi được sai đi, người ngôn sứ không thể ù lỳ bất động, nhưng phải lên đường. Cuộc lên đường nào cũng đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh, thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để đến với người khác. Đến với người khác là chấp nhận họ cùng với những khiếm khuyết và bất toàn của họ trong nhân cách cũng như mối tương giao.
Chẳng có ai sinh ra lập tức đã là ngôn sứ, nhưng phải rèn luyện bản thân và thiện chí học hỏi. Ngôn sứ Amos đã được Chúa gọi “bất thình lình” khi ông đang đi theo đàn chiên. Ông tự nhận mình không phải là một ngôn sứ cha truyền con nối. Nhưng một khi đã được Chúa gọi, ông làm hết sức mình để chuyển tải lời giáo huấn của Chúa cho dân (Bài đọc I). Chúa có quyền tự do chọn lựa và gọi những ai Ngài muốn. Tất cả đều có thể cộng tác với Ngài để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ. Không có ai lấy cớ, sức khỏe, học vấn, địa vị xã hội… để khước từ sứ mạng cao quý này. Hiệu quả của nhiệm vụ ngôn sứ không đến từ sự khôn ngoan loài người, nhưng do Chúa làm nên. Ngôn sứ Giona đã lên đường với toan tính kiểu con người, tức là trốn tránh trách nhiệm Chúa trao vì quá nặng nề, nhưng kết cục, ông vẫn phải đến nơi Chúa muốn sai ông đến. Trong Cựu ước, có những vị ngôn sứ vì sợ cường quyền hoặc ham muốn bổng lộc, đã làm sai lệch ý Chúa. Những vị này đã phải chuốc lấy thất bại, vì tội bất trung.
Mỗi người tín hữu là một ngôn sứ được sai vào lòng đời. Thánh Mác-cô thuật lại việc Chúa Giê-su sai các môn đệ lên đường. Hành trang các ông mang theo trước hết là quyền năng và sức mạnh thần thiêng của Chúa. Nhờ quyền năng này, các ông có thể xua trừ ma quỷ, đẩy lui sự tấn công của thần ô uế và những mãnh lực tăm tối. Những người được sai đi không làm việc đơn lẻ, nhưng trong tình hiệp thông và liên kết với anh em mình. Đó là lý do tại sao Chúa sai “từng hai người đi”. Sự liên kết này vừa tạo sức mạnh trong việc loan báo, vừa là một chứng từ sống động để giúp người khác nhận ra sứ điệp của Chúa.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên những ngôn sứ của Giao ước mới. Thánh Phao-lô khẳng định: Thiên Chúa đã chọn chúng ta từ trước khi tạo dựng thế gian, với mục đích để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài (Bài đọc II). Đây chính là vinh dự của người Ki-tô hữu. Vinh dự này đem lại cho chúng ta ân sủng và niềm vui. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương cũng thúc bách chúng ta hãy loan báo tình yêu thương ấy cho mọi người. Đó chính là nhiệm vụ ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận khi được thanh tẩy.
Nhiệm vụ ngôn sứ gắn liền với những khó khăn chống đối và thử thách trăm chiều. Chúa Giê-su là vị Ngôn sứ vĩ đại khôn ngoan, đã chấp nhận những phản đối từ phía đồng bào của Người và đã phải chết trên thập giá, do sự ghen tương thù nghịch của họ. Những ngôn sứ tiếp nối Chúa Giê-su không thể khước từ thập giá, vì thập giá là con đường Chúa đã đi, là phương tiện Chúa đã sử dụng và là phong cách Chúa qua đó Chúa thể hiện tình thương vô biên của Chúa Cha đối với nhân loại.
Thi hành nhiệm vụ ngôn sứ qua lời rao giảng. Đó là điều đương nhiên. Tuy vậy, người Ki-tô hữu còn phải thực hiện chức năng này qua chính cuộc sống hằng ngày. Sự thân thiện, cởi mở, bao dung, nhân hậu, hiếu hòa, độ lượng… đều là những chứng từ tuyệt vời khẳng định chúng ta là môn đệ của Chúa Giê-su. Khi cố gắng trau dồi những đức tính trên đây, mặc dù chúng ta chẳng đi đâu xa, nhưng vẫn đang lên đường mỗi ngày. Với thiện chí của bản thân và ân sủng của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đem lại những hoa trái và thành công.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi TN15-B142
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không? Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không? Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa? Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
Câu ca dao quen thuộc: đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, được TN15-B143
Câu ca dao quen thuộc: đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, được xem như nét đẹp trong sáng của tình yêu dệt nên. Phải chăng sức mạnh của yêu thương đã làm cho người ta không sợ cảnh túng thiếu, không ngại phải đối diện với hiểm nguy ở hiện tại và tương lai ? Tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, hay tình yêu gia đình, đâu nặng nhẹ đầy vơi để người ta nhìn xem, thu giữ, …, nhưng vẫn đang trải rộng bằng một cấu trúc định sẵn: “biết yêu vì được yêu”. Đôi bạn trẻ thời nào cũng sẽ vui mừng, gia đình hướng tới hạnh phúc, mơ ước đó là sự thật, nhưng tất cả đều nhờ bởi tình yêu, trong tình yêu của Đấng ban phát, và mời gọi nhân loại chung chia sứ mạng với Ngài.
Theo quy luật bất thành văn, người giầu cậy của, người thông thái nhạy bén trong đối nhân xử thế, con ông cháu cha dựa vào chức quyền, và họ ấp ủ lợi thế đó như “tấm bùa” hộ mệnh. Vợ chồng vừa tài vừa đức, các thành viên gia đình dễ sống, những người làm con, được lớn lên trong bầu khí yêu thương, biết sống kỷ luật, xác suất thành công bao giờ cũng cao hơn. Cứ sự thường, thời nào cũng thế, các thầy dạy, các ông chủ, thu phục học trò, tuyển lựa nhân sự làm việc, họ đều có ý củng cố lợi danh cho mình. Đức Giêsu hôm xưa Ngài kêu gọi các đệ tử và hướng các ông theo cùng một sứ mạng yêu thương, tín thác: “các ông ra đi rao giảng sự thống hối, trừ quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều bệnh nhân”.
Khuynh hướng chung chung ở đời, người ta sẽ tự tin hơn với số kiến thức mà họ đã thu thập được, người ta sống chủ trương mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Người ta sẽ thoải mái vô tư, khi hoàn cảnh của họ không có của chìm của nổi, không hề có ý tranh giành quyền cao chức trọng với ai. Trước số học trò còn đầy tham vọng, Đức Giêsu đưa ra một chỉ thị quả là mới lạ: “khi đi đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị không mang bánh, chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Đúng là lệnh truyền hay chỉ thị, bao giờ cũng có tính cương quyết, nếu học trò không đoán biết ý thầy, nếu nhân viên không hiểu ý chủ, hẳn người ta sẽ xem chỉ thị luôn là gánh nặng, khó thực hành.
Sứ mạng Đức Giêsu tại trần gian không phải là “tiền hô hậu ủng”, không phải thu hút bá nhân bá tánh bằng sức mạnh quyền uy, Ngài có ý thu phục các tâm hồn tội lỗi bất xứng bằng tình yêu thương. Nếu người ta từng suy nghĩ: đặc trưng của gà trống là phải biết gáy, con chó phải biết sủa, biết tỉnh thức trông nhà cho chủ, con người dễ thương và đáng yêu là biết sống tương quan có tình có nghĩa. Đức Giêsu dư biết thân phận con người bất toàn, làm bất cứ việc gì dù bé nhỏ vẫn cần đến thủ tục “tiền đâu”, nhưng chỉ thị của Ngài hướng các học trò, và những ai theo Ngài đều phải có lòng tín thác vào Thiên Chúa quyền năng.
Người môn đệ không hiểu thầy, không tin thầy, không thể theo thầy và mãi mãi chỉ là “con rối” vô hồn, hoặc chỉ là tên hề ngớ ngẩn vô duyên. Đức Giêsu, Vị Thầy đủ kinh nghiệm để nhìn xa trông rộng, và biết đâu là những hành trang cần thiết, nhằm giúp người tông đồ thanh thoát theo Ngài cùng chia sẻ sứ mạng yêu thương. Thực tế thì những thứ nguy hiểm có thể hạ gục người theo Chúa, đó là công danh, là tiền của vật chất, chúng sẽ khiến người ta trở nên ích kỷ, gian tham, và chỉ mơ tưởng đến hưởng thụ. Tuy khả năng, hoàn cảnh, thời giờ, sức khoẻ, mỗi người mỗi khác nhau, nhưng ơn gọi theo Đức Giêsu phải có chung một niềm tin, rất cần đến nhiệt huyết tông đồ, hầu có khẳ năng thực thi sứ mạng phục vụ cách trọn vẹn nhất.
Người xưa cho chúng ta một kinh nghiệm: có thức đêm mới biết đêm dài, có khó khăn vất vả trong học tập, mới thấy tấm văn bằng giá trị ; có dám sống tinh thần từ bỏ, mới đáng được dự phần vào sứ mạng của Đức Kitô. Chúa Giêsu cần trò ngoan trò giỏi, nhưng không cần người đệ tử kiêu căng, Chúa Giêsu sẽ không chê người lắm tiền nhiều của, nhưng Ngài cần các môn đệ có tinh thần quảng đại hơn, biết ý thức sống tinh thần sẻ chia. Con người thời nào cũng yếu đuối tội lỗi, dù là linh mục, tu sĩ, hoặc là một tín hữu bình thường, do đó, chúng ta cần làm gì để nhận ra tình yêu thương của Chúa vẫn là một lưu ý.
Hy vọng khi có sẵn chút đạo đức rồi, chúng ta sẽ mơ ước được thánh thiện hơn, đã có tinh thần phục vụ, chúng ta sẽ thao thức phục vụ nghiêm túc hơn nữa. Khi có ý thức về ơn gọi tông đồ rồi, chúng ta sẽ mong ước được chung chia sứ mạng yêu thương với Đức Kitô mãnh liệt hơn nữa. Amen.
Mỗi khi đi đâu chúng ta luôn mang bên mình những thứ cần thiết cho bản thân và cho công việc TN15-B144
Mỗi khi đi đâu chúng ta luôn mang bên mình những thứ cần thiết cho bản thân và cho công việc. Tất cả những thứ ấy được chất trong một chiếc túi hay một ba lô. Đó là những thứ bên ngoài. Còn trong lòng chúng ta thì sao? Nếu đi đâu vì công việc, chúng ta sẽ mang theo một tinh thần trách nhiệm cao cùng với sự lo lắng. Còn đi chơi thì chúng ta đã biết, lòng chúng ta háo hức vô cùng. Nhưng đâu đó chúng ta vẫn quan tâm cho vẻ bên ngoài hơn, cho bản thân mình hơn.
Vậy, theo như Lời Chúa: “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8-9) chẳng phải khó chấp nhận với nhu cầu cuộc sống ngày hôm nay sao, cách riêng đối với một xã hội hưởng thụ và đặt lợi ích cá nhân lên trước. Mặt khác, những người đi rao giảng miền núi xa xôi, hẻo lánh nghèo nàn, cần vật chất nhiều hơn thì sao? Có phải nơi nghèo nàn ấy, điều họ cần thiết hơn cả là đủ thức ăn hằng ngày thôi chăng? Có phải trước tiên là phải giúp họ có bữa ăn thì họ mới có tinh thần lắng nghe Lời Chúa?
Thật sự, nếu chúng ta nghĩ rằng “có thực mới vực được đạo”, Lời Chúa chỉ như một cái gì đó để trang điểm bên ngoài cho đời chúng ta đẹp hơn khi chúng ta đã no đủ thì Lời Chúa rất khó để được rao giảng và được đón nhận. Tuy nhiên, điều Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta trong ngày hôm nay đó là sự từ bỏ bản thân ở bên trong. Ngài mời gọi mọi người hãy nhìn lại mục đích rao giảng là gì? Vì ai? Và điều cần thiết là gì? Đôi khi vì quá quan tâm đến bản thân mà không còn thời gian lo cho công việc Nhà Chúa. Mà những cái ở bên ngoài phải là một phương tiện cho chúng ta thực hiện, còn cốt lõi để rao giảng là cách sống của chúng ta. Ngoài sự ra đi rao giảng ở những miền xa xôi, chúng ta còn được mời gọi rao giảng ngay trong chính cuộc sống hiện tại của mình. Như chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su, chị đã truyền giáo bằng chính những công việc nhỏ nhặt hằng ngày.
Ngoài ra, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta sống khó nghèo để gần gũi, chia sẻ với người nghèo. Mà càng sống khó nghèo, việc từ bỏ những gì nơi bản thân càng dễ dàng. Thánh Phanxicô Assisi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, vậy mà ngài đã từ bỏ áo gấm lụa là, làm người nghèo khổ đi theo Chúa. Và Đức Cha Lambert, một vị thẩm phám, biện luận tài ba đã từ bỏ tương lai tươi sáng để trở thành con người nay đây mai đó. Các ngài ra đi trong sự tin tưởng phó thác. Ước gì, mỗi người chúng ta dù không thể làm được điều tuyệt vời ấy ngay lập tức, nhưng vẫn cố gắng mỗi ngày sống từ bỏ mình một chút để làm cho cuộc sống mọi người hòa bình hơn và lương dân nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, sự từ bỏ nơi bản thân cả bên trong và bên ngoài thật là khó với chúng con. Xin Chúa hãy kiên nhẫn và thức tỉnh chúng con như Chúa đã thức tỉnh Thánh Phao-lô. Nhờ đó, chúng con nhận ra giá trị của sự từ bỏ để sống kết hợp với Chúa và mọi người. Amen!
Hai người một nhóm đồng hành, Ra đi rao giảng tin lành cho dân. Trao quyền cứu chữa tha nhân, TN15-B145
Hai người một nhóm đồng hành, Ra đi rao giảng tin lành cho dân. Trao quyền cứu chữa tha nhân, Cuộc đời phó thác, thanh bần đơn sơ. Không tiền, không bị, không nhờ, Hoàn toàn tin tưởng, thiên cơ quan phòng. Người nào đón tiếp ước mong, Vững tâm ở lại, thong dong đáp lời. Ai mà chê chối không mời, Phủi chân tố cáo, những nơi bất đồng. Tông đồ sánh bước lập công, Gọi mời thống hối, hiệp thông ơn lành. Tin vui loan báo hoàn thành, Xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh nhân. Chu toàn sứ vụ canh tân, Trở về bên Chúa, dự phần phúc vinh.
Chúa Giêsu sai nhóm mười hai Tông đồ ra đi rao giảng tin mừng cứu độ. Ngài đã ban quyền trừ qủy và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Chúa đưa ra chỉ dẫn cụ thể khi ra đi: Đừng mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, chân đi dép và đừng mặc hai áo. Ngài muốn các môn đệ sống tinh thần khó nghèo và phó thác. Vật chất cần thiết nhưng chỉ là phương tiện giúp chúng ta sống. Loại trừ được những lỉnh kỉnh vật chất sẽ bớt đi sự bận vướng.
Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ thì dễ dàng di chuyển. Người môn đệ sống khó nghèo được tự do thanh thản và không bị vật chất chi phối. Người môn đệ sống nghèo nhưng tình thần thì đầy ắp yêu thương. Thật lý tưởng khi con người thoát ra khỏi những nhu cầu vật chất.
Chúng ta biết việc truyền giáo của Giáo Hội vào thời nào cũng thế. Các nhà truyền giáo muốn phát động chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh và phương tiện thì cũng khó khăn. Người ta nói: Có thực mới vực được đạo. Mỗi Địa phận hay Dòng tu đều có qũy truyền giáo. Có tiền bạc thì công việc xem ra trôi chảy dễ dàng. Chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao xưa kia Chúa Giêsu trực tiếp sai các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng. Các môn đệ có thể làm được gì? Thực tế, các môn đệ đã ra đi và đã thâu hoạch nhiều kết qủa.
Nhìn vào hoàn cảnh cụ thể về cách sống đạo, từ những nước nghèo đói như Phi Châu, Á Châu và những vùng đất xa xôi chiến tranh hoang tàn có nhiều nhà thờ siêu vẹo đổ nát nhưng lại có nhiều tâm hồn nhiệt thành. Rất nhiều tín hữu trung kiên giữ đạo và sống đạo. Trong khi xã hội văn minh giầu có, ngày càng ít người đến nhà thờ. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa. Có những nhà thờ khang trang, đầy đủ tiện nghi nhưng lại vắng bóng tín đồ.
Lời truyền của Chúa Giêsu vẫn là một thức tỉnh cho Giáo Hội. Việc quan trọng là mỗi người hãy ý thức trách nhiệm truyền giáo của mình. Chúng ta không thể thoái thác cho rằng truyền giáo là bổn phận của các thừa sai, các giáo sĩ và tu sĩ. Chúng ta có sự liên đới và hỗ trợ lẫn nhau. Người hậu phương, kẻ tiền tuyến. Các nhà truyền giáo ra đi với bàn tay trắng. Các ngài có chúng ta ở hậu phương yểm trợ. Công việc truyền giáo sẽ sinh hoa quả tốt đẹp.
Hãy ra đi loan truyền ơn cứu độ. Nhớ khi kết thúc thánh lễ, linh mục cầu chúc anh chị em đi bình an. Chúng ta đã nhận lãnh của ăn là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta tiếp tục ra đi đem tin mừng chia xẻ cho mọi người. Đó cũng là việc truyền giáo.
Tôi biết rất ít về khoa học kỹ thuật và chậm chạp trong việc theo kịp đà tiến bộ của computer, internet TN15-B146
Tôi biết rất ít về khoa học kỹ thuật và chậm chạp trong việc theo kịp đà tiến bộ của computer, internet. Tôi rất ngại đi vào internet, nhưng đã đi vào thế giới thông tin này rồi thì lại đâm nghiền vì nó rất hấp dẫn và mới lạ. Ngày nào cũng check email, nhận rất nhiều chuyện vui cười rồi lại gửi đi cho bạn bè. Tôi rất ngạc nhiên về sức mạnh kỳ diệu của nó. Chỉ qua những ngón tay nhỏ bé đánh máy trên bàn chữ, tôi có thể đến được với tất cả mọi bạn hữu. Tôi có thể gửi đi ngay tức khắc những tin tức cần thiết, và đón nhận những sự trả lời cũng mau chóng như vậy. Tôi có thể gửi đi những lời chúc mừng, những lời hỏi thăm, khích lệ, nâng đỡ… Tôi cảm thấy có một sức mạnh nổi lên qua những ngón tay của tôi khi tôi bấm vào chữ “send” hay “OK”. Toàn bộ những gì tôi muốn gửi đi vâng lệnh ngay. Sức mạnh nằm trên đầu ngón tay tôi! Lạ lùng thật! Chỉ bấm một cái, một thông điệp được truyền đi.
Cảm nghiệm về một sức mạnh nổi lên trên đầu ngón tay, chỉ qua một cái bấm trên bàn chữ, làm tôi suy nghĩ về trường hợp và cảm giác phấn khởi của các thánh tông đồ khi Chúa Giêsu sai họ đi thi hành sứ mệnh trong các làng và chữa được bệnh tật: “Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân” (Mc 6:13).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 6:7-13, Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai tượng trưng cho mười hai chi tộc Israel. Các ông là những viên đá nền móng cho thành Giêrusalem mới (Kh 21:12-14). Mười Hai Tông Đồ đã tham dự vào sứ mạng Chúa Kitô, vào quyền năng và vào số phận của Ngài. Qua hành vi này, Chúa Kitô chuẩn bị và xây dựng Giáo Hội (GLCG # 765) với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
Theo William Barclay để hiểu sâu xa đoạn Phúc Âm này, chúng ta cần tìm hiểu y phục của một người thường mặc ở Palestine thời Chúa Giêsu. Có năm thứ căn bản: 1- Áo trong: rất đơn sơ, dài cho đến chân, chỉ là một miếng vải dài được gấp và khâu lại. 2- Áo choàng bên ngoài: là một miếng vải dầy, ban ngày dùng làm áo choàng, ban đêm là mền để đắp. 3- Dây vải thắt lưng: được cột ngang bụng ở bên ngoài hai áo trên, thường được khâu chập đôi trở thành cái túi đựng tiền. 4- Mũ che đầu: làm bằng một miếng vải hay nỉ khổ 1 mét vuông, được xếp chéo góc thành cái mũ bảo vệ đầu, sau gáy, hai bên má, và mắt khỏi sức nóng và sự chói chang của ánh mặt trời. 5- Đôi dép sandal.
Ngoài ra còn có hai loại túi thường được sử dụng. Túi cho khách du hành làm bằng da thú vật đựng bánh, nho và trái olive với hai sợi dây đeo trên vai. Và một loại túi đặc biệt của các thầy tư tế đi gom góp tiền và các thứ đóng góp của dân chúng cho đền thờ. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ “không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Ngài còn muốn ám chỉ các môn đệ không được mang túi thu tiền giống như các thầy tư tế. Họ phải ra đi để ban phát chứ không phải thu góp.
Công Đồng Vatican II cũng đã nhắc lại sứ điệp của Tin Mừng như sau: “Các Kitô hữu vì có những ân huệ khác nhau (Rm 12:6), nên mỗi người phải cộng tác vào việc rao giảng Phúc Âm tùy theo hoàn cảnh thuận tiện, tài năng đặc sủng và chức vụ (1Cr 3:10) của mình. Do đó tất cả mọi người, kẻ gieo và người gặt, kẻ trồng và người tưới, phải hiệp nhất, đồng tâm gắng sức xây dựng Giáo Hội” (Ad Gentes, đoạn 28).
Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở chúng ta về nhiệm vụ phải làm chứng tá cho Tin Mừng bằng những lời lẽ hết sức chân thành và yêu thương: “Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian… Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1:4).
Do đấy nơi mỗi người chúng ta được ban những ơn khác nhau để hoàn thành sứ mệnh trong những cách khác nhau. Vì “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cor 12, 4-6).
Chim sơn ca là loài chim quý. Nó thích bay lên trời cao, và hát những bài ca thánh thót. Nhưng chỉ có một điều nó không thích là phải lao động hằng ngày vất vả để đào bới tìm kiếm những con giun, con bọ làm lương thực sinh sống qua ngày. Một ngày nọ khi đang cao hứng và thú vị bay tít trên trời cao, nhìn xuống đất trông thấy một người đàn ông mang chiếc áo đỏ rảo bước trên đường và rao to: “Giun đại hạ giá. Giun on sale. Đổi giun lấy lông chim sơn ca. Đại hạ giá. Mại dô, mại dô!” Nghe vậy, con sơn ca từ trên cao tập trung tầm mắt vào người đàn ông, xà xuống thấp rồi hỏi: “Giá cả làm sao?” “Hai con giun một sợi lông,” người đàn ông trả lời, “Thử xem, bạn sẽ thích mà! Giá cả như vậy là quá rẻ rồi!” Chim sơn ca nghe thế lấy làm hợp lý bèn thử một phen và thú vị lắm, vì nghĩ rằng mình vẫn còn đầy đủ lông, mất một sợi có nghĩa lý gì. Rồi từ ngày này sang ngày khác, chim sơn ca cũng đã nhổ hết lông dài đến lông ngắn lấy giun ăn qua ngày. Ngày khốn cùng đã đến, nó cố gắng cất cánh bay thử lên khỏi mặt đất, nhưng thân xác nặng nề của nó cứ lao đầu xuống đất. Nó đã nhận biết sự gì xảy ra. Nó đã trở thành một con chim sơn ca dính đầy bùn đất, không thể nào bay nổi nữa. Thật là mâu thuẫn, chim sơn ca mà không thể bay được. Do đấy nó phải suốt ngày đi đào đất bới tìm những con giun đất. Khi đêm về, người đàn ông mặc áo đỏ đi ngang, chim sơn ca lo âu nói với ông ta: “Xin ông đổi lại những chiếc lông cho tôi đi.” Không thèm quay lại, người đàn ông cứ tiếp tục bước đi vừa cười vừa trả lời: “Đâu có vụ đó, ông bạn! Đổi giun lấy lông là nghề nghiệp của tôi, không phải là đổi lông lấy giun. Tôi không cần giun đâu!”
Chúng ta cũng có thể giống như con chim sơn ca này. Một con chim sơn ca không còn lông cánh để bay. Chỉ mải mê kiếm tìm của ăn vật chất mà quên đi việc truyền giáo rao giảng Tin Mừng, chúng ta cũng trở nên mâu thuẫn với chính mình: một người Kitô hữu không mang một sứ mạng gì cả!
Dĩ nhiên, khi làm việc tông đồ truyền giáo, chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại và khó khăn trong mọi lãnh vực (2 Tm 4:2). Theo bài Phúc Âm, Chúa dạy các môn đệ phải rũ sạch bụi khỏi giầy dép và ra đi khi không được đón tiếp: “Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ” (Mc 6:11).
Linh mục Munachi Ezeogu, CSSp – Dòng Thánh Linh và Trái Tim Vẹn Sạch Đức Bà, kể câu chuyện như sau. Một người bạn của tôi đã mướn một ông thợ mộc giúp anh ta sửa lại nhà kho ở nông trại. Ngày đầu tiên đến làm việc thật là không may cho ông thợ mộc đó. Ông đến làm việc quá trễ vì bị bể bánh xe trên đường đi làm. Đang làm nửa chừng thì cái cưa điện bị gẫy. Và cuối cùng, sau một ngày lao động vất vả, leo lên chiếc xe pickup truck thì xe không nổ máy được. Người bạn của tôi phải chở ông ta về nhà!
Về tới nhà, ông mời người bạn tôi vào nhà chơi. Khi sắp bước tới cửa, người thợ mộc ngừng lại một lúc phía trước một cái cây nhỏ, xoa cả hai tay vào đầu những cành lá. Rồi ông ta mở cửa nhà với những nụ cười tươi nở trên mặt; ông ôm lấy hai đứa con nhỏ và hôn nhẹ lên má vợ ông. Sau đó ông đưa bạn tôi ra xe về. Khi họ bước qua cái cây, ông bạn tôi mới tò mò hỏi ông thợ mộc về hành vi ông đã làm trước khi bước vào nhà. “Đây là cái cây xả xui”, “That’s my trouble tree” ông trả lời. “Tôi biết rằng khi làm việc tôi chẳng làm được gì cả với những trục trặc, nhưng một điều chắc chắn là, những trục trặc rắc rối đó đã không do vợ con của tôi gây ra và nó cũng không ở trong căn nhà này. Do đó tôi đã treo cổ chúng nó lên trên cái cây này mỗi đêm trước khi bước vào nhà. Thế rồi sáng sớm tôi lại nhặt lấy chúng lại. Điều buồn cười là, khi tôi đi ra ngoài vào ban sáng để nhặt lấy chúng nó, dường như là không còn nhiều như tôi nhớ được khi treo chúng lên vào đêm hôm trước.”
Những trục trặc khó khăn là một phần của đời sống con người và luôn luôn có mặt trong công việc truyền giáo. Thế nhưng Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là phải “phủi bụi chân”, phủi khó khăn và nghịch cảnh ra, treo nó lên như người thợ mộc, đừng để nó theo chúng ta và làm chúng ta nản chí (Cv 18:6).
Theo William Barclay, ở Đông Phương sự hiếu khách là một bổn phận thiêng liêng. Khi người khách lạ vào làng, người dân làng đó phải đón tiếp bằng sự hiếu khách như một bổn phận. Đối với luật của Rabbi, bụi của một quốc gia ngoại giáo là nhơ nhuốc, và khi một người bước vào xứ Palestine từ một quốc gia khác, phải giũ sạch mọi hạt bụi của vùng đất nhơ bẩn đó đi. Đây là một hình ảnh diễn tả sự từ chối với bất cứ một sự liên hệ nào, dù chỉ là hạt bụi của người ngoại giáo. Ý Chúa Giêsu muốn nói rằng, nếu họ từ chối lắng nghe lời giảng dạy của các môn đệ, thì hãy đối xử với họ như một người Do Thái nghiêm khắc đối xử với một nhà ngoại giáo. Phủi bụi chân tức là không còn giữ lại một sự liên hệ nào cả!
Trong Phúc Âm của Máccô, các môn đệ được trình bày như là những con người yếu đuối, thất bại, và chậm hiểu. Máccô nhắc đi nhắc lại rằng họ vẫn không hiểu lời Chúa nói (Mc 4;13; 8;21; 9;32). Chúa Giêsu đã biết rõ những yếu đuối của các môn đệ của Ngài. Ngài gọi họ không phải để thành công, nhưng để thi hành sứ mạng trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa. Thành công là trách nhiệm của Thiên Chúa.
Khi chấp nhận sứ mạng của Chúa Giêsu đã trao, chúng ta cũng phải chấp nhận chia sẻ số phận Ngài đã chịu. Chính Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương từ chối (Mc 6:1-6), các môn đệ từ bỏ (Mc 14:50), sau cùng bị lên án, và chết treo trên cây thập giá. Ngài đã mang lấy số phận của “một cái cây xả xui” như lời Thánh Phêrô đã nói: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5: 7), “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2: 24).
Khi Đức Giêsu đã về trời, các Tông Đồ đã chia nhau đi rao giảng Tin Mừng, có các người phụ tá TN15-B147
Khi Đức Giêsu đã về trời, các Tông Đồ đã chia nhau đi rao giảng Tin Mừng, có các người phụ tá và những người cộng tác với các ngài. Khi các ngài đã qua đi thì Giáo Hội lãnh nhận công tác tiếp nối công việc của các Tông Đồ mà rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới, không kể mầu da sắc tộc, ngôn ngữ. Lời Chúa phải được rao giảng cho mọi người. Và đến lượt các tín hữu, mọi người có trách nhiệm phải rao giảng cho người khác. Mọi người phải rao giảng Tin Mừng, không trừ ai, nhưng Giáo Hội trạch cử một số người chuyên đi rao giảng mà ta gọi là “các nhà truyền giáo.” Đức Giêsu không còn trực tiếp rao giảng như ngày xưa nữa mà cần loài người chúng ta phải cộng tác để đi đến các hang cùng ngõ hẻm đem Lời Chúa đến cho mọi người.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công Giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất. Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ông nói: “Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân tượng lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BAN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 494).
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta biết Đức Giêsu đã chọn 12 Tông Đồ để trở thành những cán bộ nồng cốt cho việc rao giảng Tin Mừng. Các ông đã sống với Ngài một thời gian, đã chứng kiến cuộc đời Chúa, đã nghe Ngài giảng thuyết, đã chứng kiến phép lạ Ngài làm, đã nhìn thấy những thất bại của Ngài ở Gherasa và ở Nazareth, đã nhận thức thái độ thù ghét của người biệt phái (Jn 15:27). Nay đã đến lúc thử để biết vàng hay thau. Ngài cần cho các ông biết phải hoạt động theo tinh thần nào và những nguyên tắc nào.
Chúng ta hãy xem cách thức Đức Giêsu sai các Tông Đồ như thế nào: 1. Ngài sai các ông đi từng hai người một để giúp đỡ nhau (Mk 6:7), biểu lộ tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ, đồng thời để làm chứng tích sống động về điều họ rao giảng là cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Nguời ta cứ dấu đó mà biết họ là những môn đệ của Chúa Kitô (Jn 13:35). 2. Ngài ban quyền lực đây phải hiểu là “quyền trừ các thần ô uế” (Mk 6:7) Câu nói đó phải hiểu theo quan điểm đã ghi chép trong Mt 10,8 và Lc 9,1 nghĩa là khu trừ quỉ ám và chữa lành các bệnh tật: vì theo quan niệm thời đó, tất cả các bệnh tật đều coi như là hậu quả của tội lỗi (Jn 9:2, 34) và không ít thì nhiều do ma quỉ làm.
Trước tiên hãy đến với dân Chúa tức là những người Do Thái: ”Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Israel” (Mt 10:5). Còn đối với dân ngoại, các ông sẽ đến với họ sau khi Chúa đã về trời (Act 13:46).
Các ông sẽ rao giảng sự thống hối (Mk 6:12). Vì công cuộc cứu chuộc chưa hoàn tất nên Đức Giêsu không dạy các ông giảng về Ngài. Điều đó Ngài sẽ dạy các ông rao giảng sau này khi Ngài đã chịu chết và sống lại để chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế (Rm 1,3-4; 1Cr 1,23).
Khi sai các Tông Đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu căn dặn các ông kỹ càng nhiều điều để làm hành trang lên đường. Chúng ta có thể tóm tắt các lời căn dặn đó trong 3 điểm sau: 1. Đức Giêsu đã từng nói về Ngài: ”Con chồn có hang, con chim có tổ, Con người không có nơi tựa đầu” (Mt 8:20). Ngài di chuyển nay đây mai đó, không vướng mắc gì về phần vật chất nghĩa là sống siêu thoát. Vì thế, Ngài khuyên các ông đừng mang gì ngoài cây gậy. Thậm chí không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi (Mk 6:8). Người tông đồ không chuẩn bị gì để lên đường, mọi sự đã có Chúa lo: ”Tiên vàn các con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho” (Mt 6:33). 2. Đức Giêsu đã bị hất hủi nơi quê hương mình: ”Không có tiên tri nào mà không bị khinh dể nơi quê hương mình” (Mk 6:4). Các Tông Đồ cũng sẽ rơi vào trường hợp đó. Các ông sẽ không được một số người tiếp nhận và còn bị ngược đãi nữa. Trong trường hợp đó, Ngài cho phép ra đi đến một nơi khác, và giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm của họ (Mk 6:11). Người Do Thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu xa với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cách cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại. 3. Đức Giêsu đã dạy các Tông Đồ phó thác theo nghĩa là khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, không cần tìm đến nhà giầu sang, chỗ nào không tiếp nhận thì đi chỗ khác (Mt 10:9; Lc 10:4-7). Điều chính yếu quan trọng mà các ông cần cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, trước khi ra về, Linh mục nói lên lời cầu chúc và căn dặn mọi người: ”Ite, Misa est”: Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an. Linh mục không cầu chúc mọi người trở về nhà bình an mà cầu chúc mọi người ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Thánh Lễ chưa kết thúc ở đây mà còn kéo dài trong cả ngày, trong cả cuộc sống. Chúng ta đã tiếp nhận được Lời Chúa trong Thánh Lễ thì hãy đem lời Chúa gieo rắc khắp nơi nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa. Hãy đi làm chứng cho Chúa giữa lòng đời.
Làm chứng cho Chúa là lấy lời nói, nhất là cách ăn ở, việc làm mà tỏ cho người khác biết Chúa Kitô, vì người ấy giống Chúa Kitô trong tư tưởng, nói năng, xử sự, việc làm. Vì giống như vậy nên khi người ta gặp người ấy, thì người ta nhớ đến Chúa Kitô. Người ấy đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô như Thánh Phaolô nói: ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20).
Chúng ta chỉ là công cụ của Chúa để nhờ đó người ta biết Chúa. Tuy công cụ nhỏ bé chẳng đáng kể nhưng lại cần thiết. Chúa không trực tiếp tỏ mình ra cho người ta mà dùng con người nhỏ bé của chúng ta để tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa cao cả. Chúng ta chỉ là phương tiện để Chúa đến với người ta và người ta đến với Chúa. Ví dụ: một người muốn biết ngôi sao mai trên trời nhưng không biết ngôi nào trong hàng ngàn ngôi sao, nhưng nếu chúng ta dùng bàn tay chỉ cho họ thì họ sẽ nhận ra ngôi sao mai trên trời. Bàn tay chỉ là phương tiện để người ta nhìn ra sao mai, nếu không có bàn tay ấy thì người ta không nhìn ra sao mai được.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đang đi gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố. Trời lạnh, gió thổi mạnh. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?” Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi. Ta đã làm ra con” (Flor McCarthy, Sđd, tr 492).
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ những lời sau cùng: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16,15; Mt 28,19). Nếu Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân thì lệnh truyền ấy phải có thể thực hiện được: thực tế đã chứng minh, các ông đã đem Tin Mừng đến mọi nơi, và từ hai ngàn năm nay vẫn còn tiếp tục. Dĩ nhiên với thời gian vắn vỏi các ông chưa có thể đi khắp thế giới rao giảng được, nhưng Giáo Hội đã tiếp nối sứ mạng ấy và nhờ chúng ta là những phần tử trong Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Ai không rao giảng Tin Mừng là một điều thiếu sót. Thánh Phaolô đã nói: ”Khốn thân tôi, nếu không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).
Chúa về trời, Ngài đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến những người cùng khổ. Tuy về trời, Ngài vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi Kitô hữu.
Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta. Chính vì vậy mà Chúa đã bảo các Tông Đồ và chúng ta rằng: ”Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48).
Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta; chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ Ngài về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: ”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người.”
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha Thánh: “Giảng ở đâu?” Cha Thánh trả lời: “Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.”
Trong cuộc sống văn minh đầy tiện nghi hôm nay, nhiều Kitô hữu đã lao mình vào cuộc sống vật chất; họ chỉ biết hưởng thụ, thu tích cho nhiều của cải mà quên đi vai trò làm chứng của mình. Họ là những Kitô hữu vô thần. Trên danh nghĩa thì họ là Kitô hữu, nhưng trong thực tế, cách sống của họ hoàn toàn là vô thần. Họ còn vô thần hơn cả người vô thần nữa. Cách sống thiếu gương mẫu của họ vô tình biến đổi từ nhân chứng đến “phản chứng”, thay vì lôi kéo người ta đến với Chúa lại đẩy người ta ra xa Chúa hơn.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta: ”Các con sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:27; Lc 24:48; Act 1:8). Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Chúa” (Jn 6:46), nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh chị em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh chị em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng giầu lòng tha thứ (Lc 6:36; Mt 5:48).
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa sai 12 các tông đồ đi thực tập truyền giáo. Đây là lần TN15-B148
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa sai 12 các tông đồ đi thực tập truyền giáo. Đây là lần thực tập đầu tiên. Cũng có thể coi đây là cuộc thử nghiệm. Vì là cuộc thực tập đầu tiên và vì các tông đồ mới bước vào cuộc, cho nên trước khi ra đi, Chúa đã đưa ra những chỉ dẫn rất cụ thể và cần thiết cho các ngài.
1- Họ phải giảng điều gì và phải giảng như thế nào?
+ Về nội dung lời giảng, thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Nội dung này cũng chính là nội dung mà Chúa Giêsu (Mc 1,15) và Gioan tẩy giả đã rao giảng cho mọi người (Mc 1,4). Và đây cũng chính là nội dung mà Hội Thánh sẽ tiếp tục rao giảng sau này cho đến ngày tận thế.
+ Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn giảng:
a/ bằng việc làm chứng (c 7: Họ đi từng nhóm hai người, đúng quy định của luật Môisê về điều kiện để sự làm chứng giá trị)
b/ bằng việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ qủy”)
c/ bằng việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).
+ Về tác phong người của người rao giảng. Có thể tóm lược trong hai điều: Nghèo khó và luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
Cách rao giảng. Cách giảng hữu hữu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là chính cuộc sống của mình và cuộc sống tốt nhất đối với Chúa là cuộc sống nghèo và luôn biết tin tưởng vào Chúa.
Đã có lần Lênin nói về Thánh Phanxicô Assisi với những người nghe ông như thế này: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy cũng đủ rồi”(Trích “mỗi ngày một niềm vui”)
Vâng! Chẳng có chứng tá nào bằng chứng tá của cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn này từ chối, anh ta nói:
– Thưa Ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời:
– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
– Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.
Còn chứng nhân của Chúa ngày hôm nay. Lacordaire từng nói: “Kitô hữu là một người đã được Chúa Giêsu Kitô phó thác những người khác cho mình.”
Công Đồng Vaticanô II trong hiến chế Ad Gentes số 2 xác định thật rõ “Tự bản chất, Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo, vì chính Hội Thánh bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, theo ý định của Chúa Cha”.
Bằng cách nào đây?
Chắc chắn cũng không có cách nào khác hơn là cách chính Chúa Giêsu đã làm và các tông đồ của Người đã noi gương.
Một ngày kia Đức Hồng y Hume, trong một buổi thuyết giảng về việc rao truyền Phúc âm, đã nói rằng: “Muốn cho sứ điệp được lắng nghe, người rao giảng cần phải có những đức tính cần thiết như thành thật, thâm tín, vui tươi. Tiên quyết ở đây hẳn không phải là một giáo trình, một giáo sư, một lối biện bác. Người nghe thường lưu tâm trước hết đến lời nói chân thành, mức độ thâm tín được bộc lộ trong cuộc sống, niềm vui tuôn tràn từ tận đáy lòng và mong được chia sẻ vì yêu thương của người rao giảng”.
Đức Phaolô VI: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy ấy là những chứng nhân”
Còn đức Hồng Y L.J. Suenens một trong những guơng mặt nổi bật nhất của Công Đồng chung Vaticano II thì quả quyết: “Người ta chỉ có thể tin vào sứ điệp Kitô giáo một khi môn đệ Chúa Kitô thực hiện đức tin của mình trong cuộc sống hằng ngày. Con người ngày nay chán ngán các lý thuyết ý thức hệ hoặc lối nói quảng cáo. Nên, việc loan báo Phúc âm phải nhập thể, phải gắn liền với thực tế.”
Chính đời sống đem lại cho lời nói sức thuyết phục. Mỗi Kitô hữu đều được gọi để trở nên một Phúc âm sống mà mọi người đọc được.
Khi diễn tả về những đòi hỏi phải làm chứng nhân bằng đời sống, Wallace E. Norwood đã bộc lộ tâm tình của mình qua một bài thơ khá hay làm cho nhiều người phải suy nghĩ. Bài thơ đó có tên “Chính bạn là Cuốn Phúc âm”.
Đây là câu truyện đẹp nhất kể cho nhân loại Đã được viết lại từ thuở thật xa xưa Bởi Máthêu, Marcô, Luca và Gioan Để mạc khải về Chúa Kitô và sứ mạng Ngài trên trần thế. Còn bạn, bạn cũng viết Phúc âm, mỗi ngày mỗi chương; Bằng chính cuộc sống của mình, tệ hại hay ngay lành là tuỳ ở bạn Khi kẻ khác đọc, họ sẽ nghĩ gì về cuốn Phúc âm do bạn viết? Phúc âm là truyện tình tuyệt diệu, Rạng chiếu nơi cuộc sống thần thánh Chúa Kitô. Ôi chân lý ấy ước gì còn kể lại qua truyện đời của bạn và của tôi. Bạn vẫn viết, viết cho người khác, mỗi ngày một chữ, Hãy cố làm sao cho chữ bạn viết thật ngay lành, Vì Phúc âm gần nhất mà người ta đọc được, Lại là Phúc âm mà chính đời bạn viết nên”.
Quả đúng như vậy thưa anh chị em. Mỗi người chúng ta phải là một cuốn Phúc âm sống. Đó là cách thức hay nhất qua đó chúng ta có thể đem Chúa Giêsu đến với mọi người.
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng:
– Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.
Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi:
– Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!.
Thánh Phanxicô đáp:
– Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan.
Chúng ta hãy rao giảng. Chẳng cần phải đi đâu xa. Hãy rao giảng ngay cho những người trong gia đình của chúng ta, những người trong khu xóm của chúng ta, trong chỗ chúng ta làm việc, với những người chúng ta có dịp gặp gỡ hằng ngày. Hãy rao giảng cho họ về một cuộc sống không phải là một cuộc sống giầu sang, nhiều tiền nhiều bạc, cũng không phải là một cuộc sống đầy ắp những tiện nghi vật chất, lúc nào cũng hợp mốt hợp thời, nhưng là một cuộc sống có ý nghĩa, đáng nể phục và là một cuộc sống đáng sống, đáng sống ngay tại đời này và nhất là đời sau khi chúng ta lìa bỏ tất cả để trở về với Chúa là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta. Amen.
-----------------------------
TN15-B149: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN. NĂM B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tông đồ là người được Đức Giêsu chọn gọi và sai đi để nhân danh Thiên Chúa, nói lời Thiên Chúa TN15-B149
Tông đồ là người được Đức Giêsu chọn gọi và sai đi để nhân danh Thiên Chúa, nói lời Thiên Chúa. Ơn gọi tông đồ hay ngôn sứ khởi đi từ Thiên Chúa. Chính Thiên chúa chon gọi, con người đáp lại bằng cách đi theo và truyền đạt ý định cứu độ của Chúa cho tha nhân. Ngôn sứ Amos đã trả lời với tư tế Amatgia một cách ấn tượng”Chính Đức Chúa bắt lấy tôi và đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Irael dân Ta”.
Thánh Marcô ghi rõ: “Khi ấy Chúa Giêsu gọi nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng 2 người một” (Mc 6, 7). Đức Giêsu đã nhiều lần nói với các tông đồ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và sai anh em đi”.
Người tông đồ được sai đi để thi hành một sứ vụ của Thiên Chúa. Trước hết nhân danh Thiên Chúa truyền đạt ý định của Chúa cho mọi người.. Đó chính là sứ vụ ngôn sứ mà cựu ước gọi là đi tuyên sấm hay nói tiên tri: “Hãy đi tuyên sấm cho Irael dân Ta” và tân ước gọi là đi rao giảng Tin mừng, rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, cải tà quy chánh, xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, phục sinh kẻ chết.
Người tông đồ ra đi loan báo Tin mừng phải có tinh thần khó nghèo, siêu thoát khỏi của cải vật chất: “Đừng mang gì, ngoài cây gậy…” để hoàn toàn phó thác cho Chúa quan phòng và ưu tiên cho việc rao giảng lời Chúa. Hơn nữa người tông đồ sẵn lòng từ bỏ mọi sự theo gương Đức Giêsu, kể cả những gì thiết thân nhất, những nhu cầu cần thiết: “không mang bánh, tiền bạc…”. Tất cả vì nước Trời và phần rỗi của anh em. Tiền bạc, của cải vật chất, cơm ăn, áo mặc… là nhu cầu cần thiết đối với con người. Nhưng nếu đem lòng dính bén, quyến luyến của cải thì nó trở nên vật cản bước người tông đồ trên con đường truyền giáo. Cồng kềnh với những phương tiện để hưởng thụ, thì làm sao có thể nhiệt tình loan báo Tin mừng được. Ham mê của cải trần gian thì không thể nào đi theo Chúa được: “không ai có thể làm tôi hai chủ được, hoặc Thiên Chúa hoặc tiền bạc”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa phải ý thức cách tích cực hơn về sứ mạng truyền giáo của mình trong xã hội hôm nay.
– Như Đức Giêsu yêu mến, tôn trọng giúp đỡ những người anh em lương dân đang sống bên chúng ta.
– Như Đức Giêsu, yêu mến phục vụ những người đau yếu, bệnh hoạn tật nguyền, những người bị xã hội bỏ rơi, những người đau khổ tinh thần và vật chất.
– Như Đức Giêsu, yêu mến và hết mình phục vụ những người nghèo hèn thiếu thốn, cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Yêu mến, giúp đỡ, tôn trọng anh em lương dân, những kẻ đau ốm bệnh tật, những anh em nghèo nàn đau khổ là chúng ta đã làm việc truyền giáo một cách thuyết phục nhất. Bởi vì truyền giáo là bày tỏ tình thương của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Kitô cho anh em. Theo Công đồng Vatican II, truyền giá là bổn phận, nghĩa vụ của mọi Kitô hữu: “Những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa tội đều có bổn phận làm việc truyền giáo. Vì bản chất của Giáo hội lữ hành là truyền giáo”.
Người Kitô hữu phải thao thức truyền giáo: ra đi đến với lương dân. Từ thao thức muốn anh em lương dân trở về với Chúa, chúng ta mới hăng say loan báo Tin mừng bằng chính cuộc sống chứng nhân giữa đời, để nước chúa được lan rộng khắp nơi. Công đồng Vatican II dạy:
“Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động ở những nơi và trong mọi hoàn cảnh mà nếu không có giáo dân, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối trần gian” (GH 33).
Người ta xác định: “Có bột mới gột nên hồ”. Tay không mà làm nên chuyện mới là người tài giỏi TN15-B150
Người ta xác định: “Có bột mới gột nên hồ”. Tay không mà làm nên chuyện mới là người tài giỏi. Chẳng dễ gì đối với con người, nhưng đối với Thiên Chúa thì “không thể thành có thể” (Mt 19:26; Lc 1:37), điển hình minh nhiên là công cuộc tạo thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Loại “thuận ngôn” luôn “nghịch nhĩ”. Thế nên người Việt thường nói: “Sự thật mất lòng”. Thời nào cũng vậy, điều tốt ít được người ta chăm chú, nhưng điều quấy lại được người ta “chú ý”. Nói như vậy không có nghĩa là điều tốt bị coi thường, mà vì cái xấu như cái gai dễ nhận ra lắm. Lời ngay thẳng và chân thật làm người ta “khó chịu”, còn lời nịnh bợ hoặc tâng bốc lại làm người ta thích thú. Tuy nhiên, lời thật rất quan trọng: “Nói lời ngay thẳng bằng ăn chay cả tháng” (tục ngữ).
Thánh Vịnh gia xác định: “Lời Chúa phán là lời chân thật, như bạc nấu trong lò đã bảy lần tinh luyện” (Tv 12:7). Nhưng người ta không vui vẻ đón nhận, thậm chí còn tìm mọi cách để tránh né hoặc “dập tắt”, bởi vì Lời Chúa nói thẳng nói thật, “xoáy sâu” và “chạm” vào những nhược điểm của con người, những điều mà người ta chỉ muốn “sống để bụng, chết mang theo”. Và do đó, người ta tìm mọi cách chèn ép, đàn áp, hành hạ và bắt bớ những người “dám” nói và dám sống đúng Lời Chúa.
SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG
Thời nào cũng vậy, xưa cũng như nay, cứ thấy ai có “tính thẳng thắn thật thà” thì người ta tỏ vẻ khó chịu, không ưa, tìm cách gièm pha hoặc xa tránh. Bóng tối chẳng bao giờ ưa ánh sáng. Thời Cựu Ước, các ngôn sứ thường bị ghét chỉ vì có những câu nói thật rất nhức nhối – chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê hoặc A-mốt. Thật thế, ông A-mát-gia đã nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (Am 7:12-13). Một lời nói rất… “sốc”! Danh từ “thầy chiêm” thường có nghĩa là “chiêm tinh gia”, nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa đó mà có thể nghĩa là “thầy chiêm bao”, ý nói người đó không thực tế, mơ hồ hoặc ảo tưởng.
Nhưng với lòng khiêm nhường, ông A-mốt liền trả lời thẳng thắn: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung” (Am 7:14). Ôi, lời nói rất thật, rất thẳng, rất rõ ràng, và cũng rất khiêm nhường. Rồi ông cho biết rằng chính Đức Chúa đã bắt lấy ông khi ông đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho ông: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta” (Am 7:15). Ông A-mốt dễ thương quá chừng luôn!
Vâng, ông A-mốt chỉ là một người bình thường mà thôi, có thể bình thường nhất trong những người bình thường, là dân lao động nghèo, là người vô sản “chính hiệu”, nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn ông và trao cho ông sứ vụ “tuyên sấm cho dân Ít-ra-en”. Tất nhiên ông ông thể thoái thác, vì không ai có thể cưỡng lại Thiên Chúa, nhưng ông cũng không miễn cưỡng chấp nhận trọng trách, mà vì Thiên Chúa đã “nhẹ nhàng ép buộc” ông, như Thánh Phaolô đã từng thổ lộ: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5:14). Đó là cách “triệt buộc” thú vị, như kiểu người ta thích gọi tình yêu là “Thú Đau Thương” (tên ca khúc của Nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ của Thi sĩ Lưu Trọng Lư).
Như có ý nói về ngôn sứ A-mốt, Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Ngài, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Ngài” (Tv 85:9). Thiên Chúa không cần biết người đó là ai, thuộc giai cấp nào, mà Ngài chỉ cần người đó TRUNG TÍN và CHÂN THẬT, Ngài “sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Ngài, để vinh quang của Ngài hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:10). Để nhờ đó, “tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85:11-12). Đất nước an bình vì tôn trọng công lý, không có công lý thì không thể có hòa bình đích thực: “Khốn cho ngươi, hỡi đất nước có vua cai trị là một thằng nhãi con, có người lãnh đạo là những đứa mới sáng ra đã lo chè chén” (Gv 10:16).
Bất cứ ai cũng cần công lý, cần được đối xử bình đẳng. Người quyền thế và giàu sang có thể không cần công lý, vì họ luôn sống ung dung, an nhiên tự tại, muốn gì được nấy, thâm chí chính họ còn là kẻ coi thường công lý, bất chấp đạo lý mà áp bức người khác. Còn người nghèo khổ luôn cần công lý, vì họ luôn bị đàn áp, bị bóc lột, bị khinh miệt, bị hành hạ, bị chèn ép,… Họ “thấp cổ, bé miệng”, có kêu cũng chẳng ai thèm nghe, nhưng họ vẫn cương quyết đòi lại công lý, đòi lại công bình xã hội, vì đó là quyền căn bản của con người (nhân quyền) và họ cũng có đầy đủ phẩm giá của con người (nhân phẩm). “Con giun xéo lắm cũng quằn” và “con chó bị dồn đến chân tường cũng phải cắn lại”. Đó là tự vệ, là nhân quyền cơ bản để sinh tồn. Vì nghèo mà hóa hèn, họ khổ lắm, khổ trăm đường. Kinh Thánh phân tích rạch ròi: “Cái khôn của người nghèo bị khinh dể, lời người ấy nói chẳng ai chịu lắng nghe” (Gv 9:16).
“Khốn cho ai lơ là với công việc của Đức Chúa!” (Gr 48:10). Ngược lại, ai hăng say nhiệt thành thì được Thiên Chúa chúc phúc, hứa “sẽ tặng ban phúc lộc và đất trổ sinh hoa trái” (Tv 85:13). Người ta nói: “Đất lành chim đậu”. Dĩ nhiên rồi, bởi vì đất không lành làm sao chim dám đậu? Chim sợ hãi vì “đất không lành, đất nhậu luôn chim”. Khắp nơi trên thế giới ngày nay không ngừng xảy ra xung đột vì vắng bóng công lý, thiếu sự tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền. Chúa biết vậy nên Ngài mới bảo mọi người “ra khơi” và “lên đường” để loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người vô sản: “Công lý đi tiền phong trước mặt Ngài, mở lối cho Ngài đặt bước chân” (Tv 85:14).
Cần lắm sự sẵn sàng. Có sẵn sàng thì mới mau mắn, có mau mắn thì mới có thể nhiệt thành làm việc cho Thiên Chúa, vì Nước Trời. Đó là sứ vụ chung của mọi tín nhân – những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
THI HÀNH SỨ VỤ
Sứ vụ là sứ mệnh, nhiệm vụ, sự sai phái,… cách hiểu của Công giáo là truyền giáo hoặc loan báo Tin Mừng. Phúc Âm chuyển tải sứ mệnh giải thoát người ta khỏi mọi bất công – xã hội và tinh thần. Những người cần được giải thoát, tức là cần biết Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu, là giai cấp vô sản, là dân lao động, là những người thuộc giai cấp hạ lưu, “ăn bữa nay, lo bữa mai”, không có gì dư, luôn sống khổ sở và đầy nỗi lo lắng, không biết ngày mai ra sao. Yêu thương người nghèo là điều cần thiết, vì đó là thực hiện điều Chúa Giêsu đã dạy. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên coi chừng vì có thể chúng ta vẫn LỢI DỤNG hoặc BÓC LỘT NGƯỜI NGHÈO ngay khi chúng ta có những động thái tưởng chừng là yêu thương giúp đỡ họ. Lòng tốt vẫn có thể “ẩn khuất” sau tấm-bình-phong-của-lòng-bác-ái. Thật đáng quan ngại!
Theo Chúa Giêsu vừa dễ vừa khó. Ngài đã từng cảnh báo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62). Thật vậy, điều kiện theo Chúa “khắc nghiệt” lắm: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26). Không chỉ vậy, Ngài còn bắt buộc rõ ràng và dứt khoát: “Hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Bất cứ vấn đề gì “chạm” đến cái tôi đều rất khó, khó lắm, nhưng chính lúc có thể từ bỏ chính mình cũng là lúc thanh thản vác thập giá mình mà bước theo Chúa.
Đồng tiền liền khúc ruột. Kho tàng ở đâu thì lòng ở đó (Lc 12:34). Tài sản có ít nhất hai ý nghĩa – nghĩa đen và nghĩa bóng. Tài sản là vật chất còn khó bỏ huống chi tài sản là những “ý riêng” của chính mình – loại “tài sản” đặc biệt và vô cùng “quý giá”. Và như vậy, chưa hẳn là người giàu vật chất khó theo Chúa, và người nghèo vật chất dễ theo Chúa. Nhưng dù giàu hay nghèo, về tinh thần hay vật chất, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi và truyền lệnh “từ bỏ mọi sự mà theo Ngài”, nhất là phải “từ bỏ chính mình”.
Phải công nhận rằng dù sao chúng ta cũng là những người may mắn vì được biết Chúa và đi theo Chúa, dù mức độ khác nhau, được quyền tự do theo Ngài chứ không bị bắt buộc, và hạnh phúc được thân thưa: “Abba! Cha ơi!”. Người Cha đó là chính Thiên Chúa, là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Niềm hạnh phúc đó càng gia tăng gấp bội! Thánh Phaolô nói: “Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Ngài đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước Thánh Nhan Ngài, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài” (Ep 1:3-4). Phàm ngôn không thể diễn tả hết niềm vui sướng lớn lao như thế!
Đúng như vậy, Thánh Phaolô xác định rằng “theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho chúng ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:5-6). Thánh nhân đưa ra cách giải thích thật tuyệt vời: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Ngài” (Ep 1:7). Đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ Thiên Chúa thương xót mà chúng ta mới được làm thân nhân của Ngài, chứ chúng ta hoàn toàn bất xứng, và cũng không có quyền đòi hỏi chi cả.
Hơn thế nữa, Ngài còn cho chúng ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này chính là kế hoạch yêu thương mà Ngài đã tiền định trong Đức Kitô (Ep 1:9). Thánh Phaolô xác định: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1:10). Mọi sự đều không ngoài “kế hoạch của Thiên Chúa”, và chính trong Đức Kitô, chúng ta đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ chúng ta. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh chị em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1:13-14).
Vì thế, việc “rao truyền Nước Chúa” hoặc “loan báo Tin Mừng” không chỉ là lời mời gọi của Đức Kitô mà còn là trách nhiệm của mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng là Thiên-Chúa-Con-Người.
Một hôm, Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Đó là những “hạt giống” được gieo vào “đất thế gian”. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỷ và ra chỉ thị cho họ: “KHÔNG được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; KHÔNG được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng KHÔNG được mặc hai áo” (Mc 6:8-9). Đó là “chỉ thị ba không” Chúa trao làm kim chỉ nam khi họ ra đi làm nhiệm vụ. Vật chất, tiền bạc, danh vọng, địa vị, chức tước,… là những thứ có ma lực khiến người ta thoái hóa mau chóng. Ai “dính líu” những thứ đó sẽ khó “đứng vững”, dù đó là ai. Chúa Giêsu không muốn ai sa vào “bẫy tinh vi” của ma quỷ nên Ngài muốn chúng ta phải sống “tinh thần nghèo khó” như những người vô sản chân chính. Sống thật chứ không nói suông hoặc lý luận biện hộ, từ xưa Thiên Chúa đã khuyến cáo “rát tai” về nhiều thứ (Am 5:10-15), nhất là kiểu phụng tự hình thức (Am 5:21-24).
Ngoài ra, Ngài còn dặn dò các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6:10-11). Chúa Giêsu cho phép “phản đối” điều sai trái hoặc người cố chấp. Giáo huấn Xã hội Công giáo cũng đề cập trách nhiệm phải TỐ GIÁC ĐIỀU ÁC theo tinh thần đó. Vâng lệnh Đức Kitô và theo thể thức Ngài dạy, “các ông đi rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối; các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6:12-13). Đúng ý Chúa thì tất cả đều “mát mái, xuôi chèo” và “thuận buồm, xuôi gió”, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Chắc chắn là như thế!
Trong Kinh Thánh có nhiều “mối khốn”, một trong số đó là vấn đề liên quan chân lý và công lý: “Khốn cho những ai biến LẼ PHẢI thành ngải đắng, và vứt bỏ CÔNG LÝ xuống đất đen” (Am 5:7). Đó là vấn đề luôn nóng bỏng và mang tính thời sự, nhất là trong xã hội Việt Nam ngày nay. Cứ hành động theo linh hứng của Chúa Thánh Thần, còn kết quả thế nào là do Thiên Chúa định đoạt: Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên (2 Cr 3:6).
Lạy Thiên Chúa công minh chính trực, xin ban thêm sức mạnh để chúng con đủ can đảm mà hành động theo đúng Tôn Ý Ngài, hành động trong sự thật mọi lúc và mọi nơi, làm gì cũng chỉ để vinh danh Ngài và cứu rỗi các linh hồn, chứ không có ý đánh bóng chính mình. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.