----------------------------- Phúc Âm: Mc 6, 30-34: “Họ như đàn chiên không người chăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng đồng thời cũng để kiểm điểm: TN 16-B1
Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng đồng thời cũng để kiểm điểm lại, sau những cuộc hành trình truyền giáo đầy gian nan vất vả.
Với chúng ta cũng thế, giữa dòng đời huyên náo, bon chen và ồn ào với những âm thanh thừa thãi, chúng ta cũng hãy dành lấy những giây phút thinh lặng, để cầu nguyện và kiểm điểm về cuộc sống của mình, từ tư tưởng, lời nói cho đến việc làm, xem có điều chi sai quấy và đi trái với lệnh truyền của Chúa.
Sau đây, tôi xin gợi lên một vài điểm để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và xét mình.
Thứ nhất là về đời sống cá nhân:
Người ta thường nói:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt đựng những sai lỗi của người khác. Cái giỏ phía sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và lên tiếng phê bình chỉ trích gắt gao những sai lỗi của người khác. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa.
Vì vậy, người ngoài thường nhìn thấy rõ những khuyết điểm của chúng ta, còn chính chúng ta lại không nhìn thấy.
Hai người chửi nhau, đánh nhau và có khi kiện nhau, thì mấy khi có người nhận mình đã sai lỗi. Có những người không ưa chúng ta, thì kêu ca và trách móc, bảo chúng ta là thế nọ thế kia, nhưng chính chúng ta lại không nhìn thấy và không nhận lỗi. Mẹ chồng nàng dâu ai cũng bảo mình là phải, vì thế mới có mâu thuẫn, xích mích va chạm và chiến tranh.
Crexley là một tên cướp nổi tiếng ở Nữu ước với biệt hiệu là hai súng vì trong mình hắn lúc nào cũng có hai khẩu súng. Một hôm bị cảnh sát bao vây trên một cao ốc. Một tay hắn bắn lại, còn một tay thì nguệch ngoạc viết một hàng chữ như sau:
- Dưới lớp áo này, trái tim tôi vẫn ngập tràn tình thương và không muốn hại ai.
Trong khi đó, tòa án kết tội hắn là một tên giết người không biết gớm tay.
Bởi đó, phải biết dừng lại để kiểm điểm xem mình là ai và như thế nào, đồng thời đánh giá đúng mức dư luận người khác nghĩ về mình. Bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thày ta.
Thứ hai là về đời sống gia đình.
Vợ chồng có hòa thuận đoàn kết và yêu thương, hay ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, để rồi luôn có sự xích mích đôi co.
Với con cái, có biết lưu tâm dạy dỗ và giáo dục, nhất là về phương diện đạo đức và luân lý, như dạy bảo kinh bổn, nhắc nhở làm những việc thiêng liêng hay là chúng ta lại làm ngơ và thả lỏng.
Có một câu danh ngôn đã khuyên những bậc làm cha làm mẹ như sau:
- Thà rằng, hiện giờ con cái phải khóc vì được cha mẹ dạy bảo, còn hơn là sau này chính cha mẹ phải khóc vì con cái mình ngang bướng ngổ nghịch.
Thứ ba là về đời sống xã hội:
Chúng ta có biết tránh đi những chuyện gây bất hòa cho bà con lối xóm, như thả gà vịt, trâu bò, phá phách hoa màu người khác ? Có biết tránh đi thái độ bênh con cái, có bé xé ra to và thổi phồng những chuyện con nít hay không?
Khi hàng xóm có việc như ma chay cưới hỏi, chúng ta có biết chia vui sẻ buồn, giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy hay không ? Cùng sống trong một giáo xứ, chúng ta có biết góp phần xây dựng cho công ích, hay chỉ đứng ngoài làm giám độc, giám xúi chứ không dám làm. Tay chúng ta không làm, nhưng miệng chúng ta thì chỉ toàn phun ra những lời phê bình chỉ trích.
Chúng ta có biết yêu thương đùm bọc lấy nhau hay chia thành năm bè bảy mối, vu oan tố giác kẻ khác, cuối cùng cũng chỉ là làm cỗ cho thiên hạ xơi. Chúng ta có biết thông cảm, hòa giải và xích lại gần nhau, hay mượn cơ hội để trả thù và báo oán.
Sau cùng là về đời sống đạo đức.
Chúng ta có siêng năng đọc kinh tối sớm, xưng tội rước lễ, hay thảng hoặc mới tới nhà thờ. Chúng ta có thực sự là một tín hữu biết sống niềm tin của mình hay chúng ta chỉ là những kẻ mang danh hiệu Kitô hữu, có tên trong sổ Rửa tội mà không hề sống đạo.
Đó chỉ là mấy điều gợi ý để chúng ta kiểm thảo và nhìn rõ con người của mình, vì như người xưa vốn thường khuyên:
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo: TN 16-B2
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không ? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn chúng ta nhiều, nhưng chúng ta cao quí hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc ? tại sao chúng ta quí trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi, chiếm hết không ? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ sáng ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng nhọc mệt ấy… Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế, có người đã nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị áp huyết cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.
Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giãn, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn của mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy: TN 16-B3
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn của mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng yêu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư: “Bạn xoay xở thế nào để làm được việc với quá nhiều lần gián đoạn như thế ?”
Ông giáo sư trả lời. “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi”. Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời gian cho công việc riêng của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng vì là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường.
Lòng vị tha không bao giờ dễ dàng. Tuy nhiên, có lúc nó dễ dàng hơn những lúc khác. Nó dễ dàng hơn khi chúng ta có thể hoạch định công việc chúng ta thật tốt – Khi công việc do chính chúng ta chọn lựa hợp lý và ít gây ra khó chịu, giằng co. Trong những lúc khác, lòng vị tha đặc biệt khó khăn khi công việc do chính chúng ta chọn lựa, chúng ta không cảm thấy hợp lý và khi nó trào dâng lên trong chúng ta những rắc rối, khó xử. Trong trường hợp ấy, chúng ta phải quên chính mình và để sang một bên những cảm giác và dự định của chúng ta. Nó đòi hỏi một sự hy sinh thật sự.
Một hành vi nhân hậu được xét đoán không phải bởi sự quan trọng của nó nhưng bởi sự đột phá mà nó gây ra trong đời sống của người thực hiện hành vi ấy. Đó là một trắc nghiệm tấm lòng cao cả đối với người đang có nhiều dự tính, họ phải đặt qua một bên những dự định riêng của họ để giúp đỡ người khác.
Đối với chúng ta, biết được Đức Giêsu cũng phải đối phó với sự gián đoạn quả là một niềm an ủi. Người cũng gặp những lúc mà kế hoạch đã bị đảo lộn. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Người nhận được nhiều lời cầu xin đến nỗi Người và các tông đồ không có thì giờ để ăn uống. Tuy nhiên đến một lúc nào đó, Người đã quyết định như thế là đủ và đưa các tông đồ đến chỗ thanh tĩnh để nghỉ ngơi. Người không dành thời gian này cho mình và cho các tông đồ. Họ vừa mới trở về từ sứ vụ mà Người đã sai họ. Người đã nhìn thấy họ cần được nghỉ ngơi. Vì thế Người quyết định đưa họ đến nơi yên tĩnh. Những người chăm sóc kẻ khác cũng cần được chăm sóc.
Tuy nhiên sự việc diễn tiến không như dự kiến. Dân chúng đã đi theo các ngài. Đức Giêsu phản ứng như thế nào ? Không hề bực dọc, Người tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Người. Người xúc động vì thương xót họ. Người thấy họ như bầy chiên không người chăn dắt. Những bậc thầy chính thức không có thời gian dành cho dân thường. Nhưng Đức Giêsu dành thời gian cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Người. Quan tâm chăm sóc không bao giờ là việc dễ dàng. Một số người muốn chăm sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã trỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ ?
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu chăm sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Có nhiều dân tộc trên thế giới giống như bầy chiên không người chăn dắt. (Bạn hãy cho vài ví dụ). Khi chúng ta chăm sóc người khác, chúng ta đang sống Tin Mừng.
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta. Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói:
“Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và … Nào ai biết được? .. Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
A-mốt là một người chăn dắt một bầy gia súc lớn. Hôm nay, đến lượt ông làm người canh gác: TN 16-B4
A-mốt là một người chăn dắt một bầy gia súc lớn. Hôm nay, đến lượt ông làm người canh gác. Đêm lạnh lẽo cắt da, một làn sương mỏng bắt đầu rơi, ông phải kéo chiếc áo ấm nặng sát vào người. Trong lúc đang đứng run rẩy thì tâm trí ông quay trở về thuở ấu thơ.
Ngay từ khi còn trẻ. Ông yêu chiên cừu và muốn cống hiến đời ông cho chúng. Nhưng trong những ngày xa xưa ấy, ông rất ngây thơ. Tâm hồn trẻ trung của ông đầy những ý tưởng lãng mạn. Đối với ông, một mục tử là một người yêu thương đàn chiên và tận tụy vì chúng. Còn gì đơn giản hơn? Nhưng giờ đây, mắt ông đã mở ra. Nhiệm vụ chăn dắt đã chuyển thành một việc phức tạp và nhiều yêu sách hơn ông nghĩ.
Chỉ một việc ấy đã bao hàm nhiều việc khác. Những lúc đó, ông thích làm một người thợ xây hơn là một người mục tử, đến nỗi ông bỏ nhiều thời gian để xây dựng những bức tượng và những hàng rào. Những lần khác, công việc đòi hỏi ông khả năng dự báo thời tiết. Những lần khác nữa sự chăn dắt đòi ông phải có chuyên môn về giải phẫu thú y và kỹ năng của một người săn thú dữ chuyên nghiệp. Và tối nay, ông là người canh gác, mất hút trong sự thinh lặng của đêm tối.
“Thực tại và mơ mộng khác nhau biết bao”, ông tự nhủ. Nhưng lúc ấy có một tiếng nói khác vang lên “Giờ đây, bạn phó mình cho may rủi để nghiêm chỉnh trở thành điều mà bạn đã ngây thơ mơ mộng lúc khởi đầu. Không có ai sinh đã là mục tử. Người ta trở thành một mục tử”.
Một mục tử được dùng trong Kinh Thánh như một hình ảnh chăm sóc con người. Vì thế Thiên Chúa được mô tả như vị Mục Tử của dân Người. Và Thiên Chúa đã chỉ định những thủ lãnh. Họ sẽ trở thành những người chăn dắt dân Thiên Chúa. Trong bài đọc 1 hôm nay, rõ ràng họ đã không làm tròn bổn phận của họ.
Thiên Chúa tố giác các thủ lãnh của Israel bởi vì họ đã thờ ơ đối với dân chúng. Sự thờ ơ là một điều xấu. Vì thế đó là tiếng kêu khóc mà ngày nay, mà người ta vẫn thường nghe thấy: “Các ông không chăm sóc, lo lắng cho tôi”. Hoặc người ta có thể nói về các nhà lãnh đạo của mình. “Họ chỉ lo cho họ”. Một đôi khi, điều đó hơi thái quá, nhưng khổ nỗi phần lớn lại xác đáng.
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ, mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Xem ra các cụ có đủ những thứ cần thiết. Tuy nhiên khi mẹ rảo quanh một vòng, mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế.
Chị điều dưỡng đáp: “Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. “Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ “Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh mẹ Têrêxa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất.
Đôi khi, một người không còn sự chọn lựa nào khác hơn là đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là với tinh thần như thế nào. Một người có thể đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão để rồi bỏ rơi họ, trong khi người khác đến thăm cha mẹ một cách đều đặn.
Một Kitô hữu không chăm sóc đến người khác giống như một ngọn đèn không cho ánh sáng. Nhưng chăm sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Dù vậy, tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Điều cần đó là một tâm hồn rộng mở. Khi chúng ta chăm sóc là lúc chúng ta sống Tin Mừng.
Các cố vấn xã hội và các bác sĩ trị liệu được dạy rằng khi đối xử với bệnh nhân, lúc nào họ: TN 16-B5
Các cố vấn xã hội và các bác sĩ trị liệu được dạy rằng khi đối xử với bệnh nhân, lúc nào họ cũng phải làm chủ cảm xúc của mình. Họ phải duy trì một khoảng cách nào đó. Lời khuyên này rất ý nghĩa. Mặt khác họ có thể không kiên định giữ một quan điểm cần thiết. Họ có thể bị bệnh nhân hoặc đối tượng lôi kéo và nguy cơ bị “đốt cháy”. Vì thế, lúc nào họ cũng phải giữ sự lãnh đạm nghề nghiệp.
Vì thế sự lãnh đạm và cách biệt ấy có thể được đẩy quá xa. Phẩm chất của mối quan hệ giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân có thể còn quan trọng hơn các phương pháp và kỹ thuật. Thái độ lạnh lùng, cách biệt, không thiện cảm của người trị bệnh không có lợi cho việc chữa lành. Bệnh nhân phải cảm nghiệm sự ấm cúng, thiện cảm và sự chăm sóc mà khi đã lành bệnh, sẽ được thay thế bằng sự biến đổi và trưởng thành.
Những nhà tâm lý trị liệu thành công nhất là những người có khả năng bày tỏ sự ấm cúng và thấu cảm. Việc trị liệu tiến hành tốt nhất khi nhà trị liệu xúc động. Vì hoàn cảnh của bệnh nhân, và không ngần ngại cho bệnh nhân thấy điều đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Carl Jung nói “Tôi biết rằng chỉ những bác sĩ cảm nhận sâu xa nỗi xúc động do bệnh nhân gây ra mới có thể chữa lành”. Và Scott Peck, tác giả cuốn The Road Less Travelled, còn đi xa hơn khi nói rằng điều chủ yếu đối với nhà trị liệu là yêu thương bệnh nhân để việc trị liệu thành công.
Nếu bạn là bệnh nhân, khi bạn gặp một người dường như hiểu rõ bạn mà không cần phân tích bạn hoặc phán đoán về bạn, bạn thấy mình dễ dàng cởi mở hơn. Khi bạn biết rằng người mà bạn tin cậy cảm nhận nỗi đau của bạn, điều ấy làm bạn muốn mình khỏe lại.
Vẫn còn những nhà chuyên môn luôn đi qua với thái độ lạnh lùng với những người rất dễ bị tổn thương. Nhiều người không có khả năng ứng xử với sự đau khổ. Hẳn bạn từng nghe có người nói “Tôi sẽ không bao giờ làm bác sĩ hay y tá – Thấy người ta đau đớn tôi không chịu được”. Nhưng bác sĩ và y tá tốt nhất rõ ràng là những người không thể cam lòng nhìn người khác đau khổ, vì thế mà họ cố hết sức làm vơi nhẹ nỗi đau. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có những giới hạn.
Trong khi các nhà chuyên môn cố giữ khoảng cách thì những người làm công việc chăm sóc nghiệp dư thường quan tâm đến bệnh nhân nhiều hơn. Nhà chuyên môn hay coi thường người làm nghiệp dư, tuy vậy người làm nghiệp dư đôi khi lại làm được việc nhiều hơn. Điều này không làm bạn ngạc nhiên nhận ra rằng trong từ “nghiệp dư” (amateur) có ngữ căn của tiếng Latinh amare, có nghĩa là “yêu thương”. Xét về lâu dài, tình yêu thương là vật chữa lành.
Đức Giêsu không cách biệt với người bệnh. Người bày tỏ sự chăm sóc và lòng thương xót đối với những người đau khổ. Và Người không ngần ngại cho người bệnh thấy Người chăm sóc lo lắng cho họ. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một tấm gương về điều đó. Khi ra khỏi thuyền lên bờ, Đức Giêsu đã nhìn thấy một đám người rất đông, nhưng như một tập hợp những cá nhân. Mỗi người có những vấn đề và những nỗi lo âu. Đức Giêsu thương xót họ, chỉ vì họ mang thương tích và cần đến Người.
Việc chăm sóc chủ yếu là vấn đề của trái tim. Ngày nay những sự quan tâm, tận tụy ít làm người ta kiệt sức hơn nỗ lực tạo ra những rào chắn bảo vệ mình, vì rằng người ta biết làm thế nào để làm đầy lại nguồn năng lực dự trữ. Những người ban tặng chính mình đồng thời cũng tích chứa lại cho mình một cách nào đó.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa: TN 16-B6
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v… Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồn ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào căng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tĩnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê, miền biển, miền núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tĩnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chừng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào…Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán ! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tĩnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của thánh Phaolô trong thư ngài gửi giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay là lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân: TN 16-B6TN 16-B7
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ – nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
. Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi rao giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
. Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
. Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? Do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên “Eureka” (nghĩa là: “Tôi đã khám phá ra rồi”) và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng ! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: “Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thày dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v… tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép”.
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tang hoang, sinh mạng con người bị đe dọa từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá ra rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin Mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin Mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: “Chúng ta hãy sống Tin Mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin Mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin Mừng, từng câu, từng chữ”.
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như thánh Phanxicô thành Assisiô, câu “Phúc cho những người nghèo” đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét…
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quí chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn giấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quí ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục, không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới…Nếu chúng ta chỉ biết có các bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch Công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Cháu, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
Có một vài hình ảnh của thời Giáo Hội bị bách hại được tìm thấy trên vách của các hang toại đạo TN 16-B7
Có một vài hình ảnh của thời Giáo Hội bị bách hại được tìm thấy trên vách của các hang toại đạo tại La-mã, trong đó có hình vẽ Chúa Giêsu là một người chăn chiên trẻ, vác trên vai một con chiên. Chủ đề của hình ảnh cổ xưa nầy là Giáo Hội tiên khởi muốn dùng để diễn tả về bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu "thấy dân chúng thật đông, như đàn chiên không người chăn".
Trong bối cảnh các tông đồ trở về sau những ngày đi rao giảng mệt nhọc, Chúa Giêsu biết các môn đệ cần phải được nghỉ ngơi, Ngài cũng muốn nhân cơ hội này, đưa các môn đệ đến một nơi thanh vắng để tĩnh dưỡng, cầu nguyện và dạy dỗ thêm cho họ nhiều điều. Nhưng sự việc đã xảy ra ngoài dự tính của Ngài, khi đám đông dân chúng đoán được nơi Chúa và môn đệ sẽ tới, họ đã hối hả đến trước để đợi Ngài. Theo lẽ thường thì người ta có thể nghĩ rằng, Ngài sẽ bảo họ ra về vì không còn thì giờ cho họ nữa; nhưng trái lại, Ngài không thể làm ngơ mà không chăm sóc cho họ. Họ như đàn chiên đang cần người chăn dắt! Ngài động lòng thương. Không còn do dự, Ngài bắt đầu giảng dạy, chữa lành mọi bệnh tật, khử trừ ma quỷ, cứu giúp an ủi những người đau khổ. Vì dân chúng, Ngài đã đến thế gian. Vì cần đến Ngài, dân chúng đã không ngần ngại vượt qua bao khốn khó tìm đến với Ngài. Họ cảm thấy không thể thiếu Ngài.
Qua sự kiện nêu trên, chúng ta có thể rút tỉa được bài học về lòng thương xót của Chúa, khi Ngài đặt nhu cầu của kẻ khác trên nhu cầu của cá nhân mình. Thứ đến là chúng ta cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả.
Đời sống của người tông đồ là đời sống tận hiến, đầy những cam go, thử thách, gian lao cực nhọc. Điều quan trọng của người tông đồ là biết tìm những lúc thanh vắng trong cuộc sống để gặp gỡ Chúa qua lời cầu nguyện. Điều kiện thiết yếu để được nghe tiếng Chúa là những lúc yên tĩnh. Có nghe được tiếng Chúa, đời sống tinh thần chúng ta mới được bồi dưỡng, nhờ đó chúng ta mới được phục hồi sức lực để tiếp tục cuộc đời phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Nếu Chúa Giêsu thường tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện, thì chúng ta là những kẻ theo chân Ngài, cũng dành nhiều cơ hội để gặp gỡ Ngài bằng cách mở cửa tâm hồn để đón nhận Ngài, tức là đón nhận quyền năng và sức mạnh của Chúa để trợ giúp chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thinh lặng và cầu nguyện một mình với Chúa là điều cần thiết của người tông đồ. Đối diện với Ngài, chúng ta sẽ tự hỏi mình sẽ đi đâu và đang cố gắng để thực hiện điều gì. Nếu không dành cho Chúa một chỗ trong đời sống, thì chúng ta đang đánh mất thời gian một cách hoang phí.
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho: TN 16-B8
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày thứ năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
******
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc. Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức. Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
P. Doncocur đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công, mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”. Vâng, trong cuộc hành trình về quê trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
Cách đây một vài năm, tờ báo Wall Street Journal có cho đăng tải trên trang đầu một bài viết: TN 16-B9
Cách đây một vài năm, tờ báo Wall Street Journal có cho đăng tải trên trang đầu một bài viết với tựa đề "Ở một vài hãng sở, mỗi ngày đều có những dấu hiệu về việc đạo đức." Ví dụ: hãng Reynolds Industries, một hãng tại Salem, SC luôn có một nhà nguyện và một vị linh mục tuyên úy được trả lương. Hay tại hãng Midwest Federal Savings and Loan tại Minneapolis, MN, ban chấp hành đã thiết lập một nhà nguyện thay vì một nhà nghỉ ngơi cho các nhân viên.
Một bài báo khác trong tờ báo New York Times gần đây đã viết về những thương gia trong thành phố New York: "Các thương gia đã xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể thông cảm với nhau những khó khăn trong công việc hằng ngày."
Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan Plaza: "Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không."
Tất cả những điều nói trên của các nhà thương gia đều giống như điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài trong bài Phúc Âm: "Hãy đi... vào nơi hoang vắng và tìm chỗ nghỉ một chút."
Thánh Marcô đã tiếp tục giải thích tại sao Chúa Giêsu đã nói điều này với các môn đệ Ngài. Đó là vì có quá nhiều người đang đòi hỏi các môn đệ nhiều điều đến nỗi họ không có cả giờ để ăn uống.
Chúa Giêsu hướng đến một điểm mà ai trong chúng ta cũng cần phải có. Điều đó là chúng ta phải tìm giờ để lấy lại sức lực và tinh thần.
Nói rõ ràng hơn, Chúa Giêsu có ý nói chúng ta cần phải biết rút lui vào nơi hoang vắng để nhìn vào trong cung lòng của chúng ta, đặc biệt là tìm đến Thiên Chúa đang hiện diện ở trong đó.
Chúng ta luôn biết trở về với lòng mình, đi vào nội cung tâm hồn của mình, và gặp gỡ Thiên Chúa, Người đang hiện diện ở đấy. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng tinh thần của mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa để chúng ta có thể mạnh mẽ mà sống trong một thế giới hỗn tạp này.
Việc quan trọng là chúng ta cần phải biết dành ra khoảng chừng năm mười phút mỗi ngày để gặp gỡ Thiên Chúa, Người hằng mong muốn để nói chuyện với chúng ta và làm mới lại tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy làm cho nhịp tim con trở nên nhẹ nhàng bằng cách làm cho tâm trí con được thinh lặng... Xin hãy bẻ gẫy những căng thẳng trong các mạch máu và bắp thịt của con. Xin hãy giúp con biết được phép mầu để con có thể hồi phục lại khả năng ngủ nghỉ của con.
Sau một cuộc hành trình truyền giáo, các tông đồ phấn khởi trình bày cho Đức Giêsu những gì: TN 16-B10
Sau một cuộc hành trình truyền giáo, các tông đồ phấn khởi trình bày cho Đức Giêsu những gì mình đã làm và đã dạy.
Đức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết các tông đồ giờ đây cần gì. Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác. Họ cần một chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn, để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía trước, để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông, để sống tình thầy trò ấm áp.
"Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút...
Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày, để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình, để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà, để tôi có thể ngồi với tôi, trước nhan Chúa. Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi. Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc. Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.
Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày. Một chút êm ả khi ta đã làm mình rỗng không khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.
Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi. Phải ra khỏi chỗ mình đang sống.
Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành. Có lẽ vì ngược gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào. Đức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, hối hả của họ đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng. Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương họ.
Cái cần của tập thể thật cấp bách đến nỗi nhu cầu chính đáng của cá nhân phải hy sinh.
Đức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu, nhói đau trước sự bơ vơ của đoàn chiên.
Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời, nhất là của người trẻ hôm nay. Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá. Bơ vơ khi bị nghiền nát bởi những thủ đoạn gian manh. Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được. Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.
Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi, mặc cho mình bị kéo vào những cái bẫy nghiệt ngã.
Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu, để lấy lại niềm tin, để tìm được hướng sống, để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.
Tôi phải giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhưng tôi cũng phải trở thành một Giêsu gần gũi để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mỗi ngày kéo dài 288 lần 5 phút. Bạn có dám dành 1/288 của ngày để sống cho mình, sống rất riêng với Chúa không? Nếu bạn thường xuyên lặng lẽ như vậy, bạn có thấy được nâng đỡ không?
Bạn đã có lần rơi vào khủng hoảng, bơ vơ. Bạn làm gì hay nhờ ai mà ra khỏi tâm trạng bơ vơ đó?
Cầu Nguyện
Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại, xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng, giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt: TN 16-B11
1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài không?
2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử tốt không?
3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình, hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không?
Suy tư gợi ý:
1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng
Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ.
Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa». Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều». Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người chăn dắt». Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì.
2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương»
Ước gì mọi mục tử - là những người muốn noi gương Đức Giêsu một cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác - cũng có khả năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài!
3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương»
Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử - vốn là hiện thân của Đức Giêsu - cần phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38).
Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử - gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài - để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ!
4. Những «mục tử ghẻ»
Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12).
Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi. Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho» (Mt 11,28).
5. Số phận của những mục tử
Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3).
Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng «chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ».
Cầu nguyện
Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen.
Hình ảnh người chăn chiên xuất hiện thường xuyên trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ: TN 16-B12
Hình ảnh người chăn chiên xuất hiện thường xuyên trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã minh chứng Thiên Chúa luôn lo lắng cho dân như một mục tử nhân lành lưu tâm, săn sóc cho từng con chiên một và thánh vịnh 23 cũng nói lên nguồn cảm hứng sâu xa ấy: Thiên Chúa xuất hiện qua Con Người của Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài, Chúa Giêsu tự coi mình là Đấng Chăn chiên hiền lành chăm sóc, hướng dẫn đoàn chiên, ban lương thực cho chiên và nhất là đem Lời của Người để nuôi dưỡng đức tin cho đàn chiên của mình.
CHÚA THƯƠNG DÂN VÀ LUÔN NUÔI HỌ BẰNG CHÍNH LỜI CHÚA:
Thực tế, trong cuộc đời phục vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, cái ưu tư lớn nhất và khẩn thiết nhất của Ngài là nuôi dân đang khát khao nghe lời bằng chính lời của Ngài. Vì thế, khi các môn đệ vâng lệnh Chúa đi rao giảng, trở về bao quanh Chúa Giêsu, họ muốn kể lại mọi chuyện cho Chúa nghe, nhưng đám đông dân chúng cứ bám sát các Ngài, đòi Chúa phải thực hiện những điều ngoạn mục để họ hoan hô, tôn vinh. Còn Chúa, Ngài không bao giờ muốn dân chúng đề cao Ngài hay tôn vinh Ngài, Chúa chỉ làm bổn phận của mình vì Chúa Cha, vì tình hiếu thảo của Ngài đối với Cha của Ngài. Chúa muốn các môn đệ rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, dưỡng sức và thư giãn để tiếp tục sứ mạng rao giảng, nhưng dân chúng cứ ùa theo các Ngài khiến các Ngài không có giờ ngơi nghỉ và ăn uống, trời lại tối và cảnh tĩnh mịch, hoang liêu, xa nhà, xa làng, dân chúng lại đói, nên Chúa Giêsu đã nghĩ tới lương thực nuôi họ và như thế phép lạ hóa bánh ra nhiều đã xẩy ra. Ở đây, cuộc đời của Chúa Giêsu có thể gồm tóm trong câu:
"Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương”(Mc 6, 34) và Tin Mừng viết tiếp:” vì họ như bầy chiên không người chăn dắt và Người bắt đầu dậy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6, 34).
Đây là tất cả mạc khải về tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với con người. Trong thời Chúa Giêsu, nơi dân Do Thái có biết bao kẻ giỏi giang, thông thái, các luật sĩ, biệt phái là những người có đủ sức để dậy dỗ dân, nhưng những lời dậy dỗ của họ không phát xuất tự Thiên Chúa mà do họ bầy ra, những lời của họ đáng lẽ giải phóng dân, làm cho dân được cởi mở, nhưng trái lại những lời của họ sai sự thật, trái với lương tâm cho nên nó trở thành ách nặng nề đối với dân, dân Chúa vẫn đói, vẫn khao khát sự thật. Chính vì thế, nhân loại muôn thời sẽ hiểu tại sao dù bất cứ Chúa Giêsu và các môn đệ ở đâu, dân chúng cũng ùa tới với các Ngài, khiến các Ngài không còn một chút thì giờ để ngơi nghỉ, để ăn uống. Chúa Giêsu quả thực đã cho dân thấy rõ sự khác biệt giữa lời giảng dậy của Ngài, của các môn đệ Ngài với lời dậy dỗ của các ký lục, biệt phái và luật sĩ. Chúa Giêsu đã chỉ ra rằng lời giảng dậy của các luật sĩ, biệt phái, ký lục đưa dân tới chỗ chia rẽ, đẩy dân ra khỏi đền thờ, khỏi hội đoàn, khỏi xã hội loài người. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã cho dân tiếp xúc với tình thương, với con tim quảng đại, với sự nhạy cảm tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu đã đưa dân vào nước trời, vào tình thương vô biên của Chúa hay như ngôn sứ Giêrêmia và tác gỉa thánh vịnh 23 đã nói: “Chúa chính là Đấng chăn chiên lành đã dẫn chiên tới những cánh đồng xanh mát”. Chúa chính là mục tử nhân hậu Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
CHÚA VẪN TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ:
Chúa Giêsu đã không ngừng gặp gỡ dân của Ngài, mỗi lần tiếp xúc, mỗi lần giảng dậy, loan báo một sứ điệp, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ân cần, Ngài thấy trước những nhu cầu, những khát vọng của dân. Phép lạ vẫn xẩy ra khi con người có lòng tin, khi con người sẵn sàng cộng tác với Chúa. Chúa làm phép lạ cho cá và bánh hóa ra nhiều để nuôi đoàn lũ đông đảo dân chúng đi theo Ngài. Trước khi làm phép lạ, Chúa đã trao ban cho họ lời sự thật, lời hằng sống. Chúa trao cho dân những gì là quí nhất, những gì là đẹp nhất của Ngài. Ngài chạnh thương đám đông, đang náo nức kéo đến và háo hức gặp Chúa Giêsu cùng các môn đệ của Ngài vì thực ra họ không biết đi đâu. Đám đông dân chúng không biết phải nói gì, nhưng họ đang chờ đợi, và đợi chờ tất cả nơi Chúa. Sự nô nức, nôn nao, háo hức của đám đông dân chúng đã được Chúa đáp trả bằng tình thương của Ngài. Chúa đã nói với họ bằng lời sự sống, Ngài đã mở mắt cho họ và khơi dậy trong lòng họ ngọn lửa đức tin để họ nhận ra Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài. Ở muôn thời, Chúa vẫn tiếp tục làm phép lạ và phép lạ lớn nhất là chính phép lạ Chúa sống lại khải hoàn sau khi yêu nhân loại đến hy sinh cả mạng sống của mình. Chúa tiếp tục mời gọi nhân loại tin và sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống mới, sự sống vĩnh cửu của Ngài và sống theo ý của Ngài. Phép lạ đã xẩy ra sau khi Chúa thấy đám đông nhiệt tình theo Chúa để lắng nghe Chúa dậy bảo...Chúa không những nuôi nhân loại bằng Lời, nhưng còn cả bằng lương thực trần gian. Chúa là một con người rất thực tế, gần gũi và hiểu con người. Tin Mừng là con người, là Đức Giêsu Kitô và tin vào Đức Kitô, phép lạ vẫn tiếp tục xẩy ra trong cuộc sống...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm Chúa đang có mặt và đồng hành với chúng con từng phút giây trong cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ:
1. Bạn cảm nghiệm thế nào về: Chúa chạnh thương dân chúng ? 2. Tại sao Chúa lại tự coi mình là mục tử nhân lành ? 3.Bạn nghĩ sao về câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ:” Anh em hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút ?”.
Khi còn tại thế, Chúa Giê-su dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin: TN 16-B13
Khi còn tại thế, Chúa Giê-su dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin Thiên Chúa thánh hoá công việc họ làm. Sách Sáng thế ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, ta cần làm việc để nuôi thân và hộ đỡ gia đình. Ta bị gò bó vào giờ làm việc trong sở làm. Tuy nhiên nếu lúc nào ta cũng làm việc, và coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh là sa vào thuyết duy vật. Thuyết duy vật coi con người là dụng cụ sản xuất, và đánh giá con người theo năng lượng sản xuất.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy: Sau khi các tông đồ thuật lại mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy, Người bảo các ông hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi một chút (Mc 6:31). Và rồi Chúa Giê-su và các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ap dụng lời Chúa dạy, ta cầm tìm thời giờ nghỉ ngơi để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống. Việc nghỉ ngơi không có nghiã là việc mất thời giờ. Việc nghỉ ngơi đã được Thiên Chúa chúc phúc trong Phúc âm hôm nay. Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Chúa Giê-su sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là đạo Ki-tô giáo đã dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, để thờ phượng và cảm tạ Chúa thay vì ngày thứ bảy.
Có bao giờ bạn cảm thấy dù bận rộn việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu. . mà ta vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn ? Như Chúa khuyên các tông đồ cần tìm sự yên tĩnh, tìm bàu khí thinh lặng để ở một mình với Chúa, và để có thể lắng nghe tiếng Chúa. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng người ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa. Tại xứ này nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi. Trường hợp đó ta cần tìm nghỉ bù vào ngày khác để dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Thống kê trong cuốn sách Future Shock của Alvin Tofler có nhận định trung bình một người Mỹ cuối thế kỷ 20 thâu nhận từ mười tới hai mươi ngàn tiếng nói mỗi ngày từ báo chí, truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra mỗi ngày họ còn nghe truyền thanh chừng 70 phút, và coi truyền hình hàng giờ, và còn nhiều hơn nữa vào cuối tuần.
Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem mình đã dành cho Chúa được bao nhiêu thời giờ vào việc cầu nguyện và thờ phượng? Không những giáo sĩ mà cả giáo dân, mỗi người phải biết tìm những nơi thanh vắng, để tĩnh tâm, cầu nguyện, đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa. Hôm nay ta tụ họp trong nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về màu nhiệm nhập thể, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chủ nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa, và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Cuối tuần khi ta kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và sức mạnh thiêng liêng.
Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là: Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức: TN 16-B14
Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là:
Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục Berlin trước lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và chiến tranh lạnh thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên nhân lành, thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.
Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ súng xuống, sau hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ tịch Palestin đã về nước và tuyên bố: “Palestin và Israel cùng một tổ tiên”. Họ không còn những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng tín, tan nát. Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.
Người ta đã kể đến những vĩ nhân có công trực tiếp chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông Walesa: chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông Gorbachov: tổng bí thư Liên bang Xô viết và ông Reagan: tổng thống Mỹ. Thực ra, họ chỉ là những sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá bức tường chia rẽ hận thù giữa loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân tộc, giữa cá nhân với cá nhân.
Thánh Phaolô đã nói rõ vai trò đó của Đức Giêsu Kitô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “Trước kia anh em là những kẻ ở xa đối với Thiên Chúa, thì nay trong Đức Kitô, anh em đã trở nên những người ở gần … Chính Người đã liên kết dân Do thái và dân ngoại thành một. Người đã hiến thân để phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù. Như vậy, nơi bản thân, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới và thiết lập hòa bình. Nhờ thập giá, Người đã quy tụ đôi bên trong một thân thể duy nhất, và cho họ được giao hòa với Thiên Chúa”. Tin mừng hôm nay cho thấy tấm lòng của Chúa Giêsu thương mến đám đông dân chúng biết bao: “Đến nỗi dầu mỏi mệt, đói khát đến đâu Người vẫn sẵn sàng tiếp đón họ, dạy dỗ và cứu chữa họ, không để họ bơ vơ thất vọng”. Thiếu vắng Người, họ như đàn chiên không người chăn dắt. Dân Do thái và dân ngoại thời đó, giống như bầy chiên bơ vơ, lạc lõng. Đất nước bị quân La mã đô hộ. Vua quan như Hêrôđê chỉ là tay sai đế quốc bóc lột dã man. Hêrôđê có nhiều con, nhưng chính tay ông đã giết hết, chỉ còn bốn hoàng tử. Dân chúng hơi bị nghi ngờ là bắt giết. Một hôm vua giả dạng thường dân đến làng quê, gặp ông già, vua hỏi: “Ông nghĩ về vua thế nào ?”. Ông đáp: “Chim trời cũng là tình báo cho vua, còn ai dám nói điều gì” (Lm. Bửu Dưỡng, Ngôn hành dưới đất, 1965. tr. 37).
Đời đã bị xiết chặt, đạo cũng bị phân tán trăm bè bảy mối: phái Sađốc lo ăn chơi bám gót đế quốc; phái tư tế lo giữ địa vị, sợ đế quốc cách chức, dẹp bỏ; phái Pharisiêu bày đặt ra những luật tỉ mỉ, kiêng cữ bên ngoài để gò ép dân chúng sống khắt khe. Mỗi bè phái lôi kéo dân chúng theo mình. Dân chúng không còn biết chủ chăn nào chân chính, chủ chăn nào của Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa phán trong bài đọc một: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”.
Giờ đây, Đức Giêsu đến để cho họ nhận ra Người là chủ chăn của Thiên Chúa. Người nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống mình cho chiên … cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi … Tôi là cửa cho chiên ra vào, ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”.
Đức Giêsu còn dạy cho dân chúng biết kẻ chăn giả, không qua cửa mà vào, chúng chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy … chúng không thiết gì đến chiên. Khi sói đến, chúng bỏ chiên mà chạy, để mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn (Ga. 10, 1-14).
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu đang thực thi sứ vụ mục tử nhân lành, luôn luôn chỉ dẫn cho nhân dân thế giới biết những kẻ chăn chiên giả. Họ là trộm cướp, tham nhũng, bóc lột, đàn áp chiên để chiếm tài sản, danh vọng, chức quyền. Họ sống giàu sang phú quý, xa hoa như những ông hoàng bà chúa thời phong kiến độc tài. Dân chúng sống nghèo khổ, lại phải đóng góp thuế má mọi mặt, phải hạn chế sinh sản, lại tự do sống đồi trụy và phá thai. Dân chúng không còn chủ chăn chân chính mà chỉ có trộm cướp.
Trung tuần tháng 8 năm 1997, một mục tử nhân lành, dầu đã 77 tuổi, sức yếu, chân chồn, vẫn đến Paris, thủ đô nước Pháp, gặp gỡ, yêu mến, săn sóc và khuyến khích hàng triệu con chiên giới trẻ bơ vơ, biết mạnh mẽ sống yêu thương, đoàn kết, tin tưởng gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô, Chúa chiên nhân lành, trẻ trung, đã hy sinh cho họ được sống và sống dồi dào. Ngày nay, còn được bao nhiêu mục tử nhân lành như vậy ? Còn được bao nhiêu linh mục, thày dạy, cha mẹ biết thấy con chiên đông đảo bơ vơ thì chạnh lòng thương để hy sinh phục vụ con chiên như Chúa chiên lành Giêsu xưa ?
Lạy Chúa Giêsu, Người đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành mạnh, tin tưởng. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ thất bại trên thế giới hoang dã này, xin Chúa cho họ được thấy đường Người đi mà chạy đến gặp gỡ Người để được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu như một chiếc phao giữa biển mà nhiều người lênh đênh bám vào. Thánh Mác-cô: TN 16-B15
Chúa Giêsu như một chiếc phao giữa biển mà nhiều người lênh đênh bám vào. Thánh Mác-cô viết “Lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có` thời giờ ăn uống”.
Trong hoàn cảnh bận rộn như vậy, Chúa Giêsu làm sao ? Một mặt Ngài lo liệu cho các môn đệ Ngài được nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Mặt khác, về phần mình, Ngài hy sinh thời giờ nghỉ ngơi của mình để tiếp tục phục vụ cho dân.
Động cơ của cách cư xử đầy lòng nhân hậu ấy là tình thương của Ngài: “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương”.
B. ... nẩy mầm.
1. Sau khi làm việc mệt nhọc, tôi có quyền nghỉ ngơi. Chính Chúa Giêsu cũng đã kêu các môn đệ tìm chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi.
Vì tôi có quyền nghỉ ngơi, nên lúc tôi đã mệt mà người ta vẫn đến “quấy rầy”, tôi thường bực bội gắt gỏng. Hãy xem gương Chúa Giêsu: Ngài không hề gắt gỏng, trái lại Ngài động lòng thương và tiếp tục phục vụ.
Nếu tôi chưa được như Chúa hy sinh cả thời giờ nghỉ ngơi, thì ít ra tôi đừng gắt gỏng với người ta. Tôi phải học biết “động lòng thương” họ.
2. Khi Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng thì Ngài làm gì ? Việc trước tiên Ngài làm không phải là chữa bệnh, mà là “dạy dỗ họ nhiều điều”. Chúa thương người ta đau khổ, nhưng Chúa càng thương hơn vì người ta không biết Tin Mừng. Nói cho người ta một lời đem lại sức sống còn ích lợi hơn chữa cho người ta khỏi bệnh phần xác.
Tôi có sẵn những lời đó không ? Nếu tôi gặp một người đang đau khổ, tôi sẽ nói gì để người đó thực sự được an ủi và lạc quan hơn chứ không có cảm tưởng nghe một lý thuyết suông ?
3. Abraham Lincoln là vị Tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tông thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế, người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan tới chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình. (Chờ đợi Chúa)
Chủ đề: Khi trách nhiệm của chúng ta quá nặng nề, chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa.
Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là: TN 16-B16
Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo được hành triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ xem ông như vị anh hùng, người xướng ngôn đồng thời cũng là mục tử của họ. Nếu không có ông, vào những năm ấy đám dân da đen có lẽ chả khác gì đám dân bơ vơ lạc lõng được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Đám dân này được ví như bầy cừu không ai chăn dắt. Cũng giống như Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài thuở xưa, King và các đồng sự ông thường khó được yên thân đi tìm cho mình một chốn an bình vắng vẻ để nghỉ ngơi. Chẳng hạn, một đêm nọ, sau một ngày làm việc mệt nhoài trong vùng Montgomery thuộc bang Alabama, King leo lên giường ngủ bên cạnh bà Coretta vợ ông. Lúc này bà đã ngủ say. Nhưng ông vừa mới chợp mắt thiêm thiếp thì chuông điện thoại vang lên. Ông vội choàng dậy ngay để khỏi làm bà Coretta thức giấc. Lúc bấy giờ một giọng nói giận dữ bên đầu dây kia vọng ra: “Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh nữa, bắt đầu tuần tới xin ông vui lòng đừng bén mảng tới Montgomery nữa”& Nói thế rồi kẻ gọi điện cúp máy ngay. Bất thình lình bao nhiêu nỗi sợ hãi chụp xuống trên người Luther King như một toàn nhà đang đổ xuống. Lòng can đảm của ông hầu như bị tiêu tan. Ông đứng dậy đi vào nhà bếp pha một ly cà phê uống cho ấm dạ, đoạn ngồi xuống lặng lẽ suy nghĩ phương cách thoát ra khỏi cảnh ngộ ở Montgomery mà không mang tiếng là một kẻ hèn nhát.
Lúc bấy giờ với chút ít lòng can đảm còn sót lại, ông gục đầu khấn xin Chúa bằng những lời sau đây: “Lạy Chúa, con đang đảm nhận sứ vụ mà con nghĩ rằng chính đáng, nhưng giờ đây con vô cùng sợ hãi. Dân chúng đang mong chờ con lãnh đạo, và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì chính họ cũng sẽ trở nên yếu hèn nhát đảm. Nhưng con đang ở nẻo đường cùng và chẳng biết phải làm sao đây. Con không thể nào một mình đương đầu nổi trách nhiệm này nữa”.
Đoạn nổi bật nhất trong lời cầu nguyện của Tiến sĩ King là câu này: “Dân chúng đang trông chờ con lãnh đạo họ và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì họ cũng sẽ trở nên nhát đảm”. Nếu cần mượn lại cách diễn đạt của bài Phúc Âm hôm nay, lời cầu ấy có thể diễn tả cách khác như sau: “Họ sẽ trở nên như bầy chiên không người chăn”.
Tất cả các cha sở cha phó, các giáo sư, các bậc cha mẹ đều có thể dùng những lời cầu nguyện trên của tiến sĩ King để áp dụng cho chính mình. Thực thế, có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy không thể nào vác nổi gánh nặng đè trên chúng ta. Có nhiều lúc trong đời chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: “Cha ơi, nếu có thể được xin cất chén đắng này xa con”(Mt 26: 39)
Trong những cơn khủng hoảng như thế này, chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên làm điều Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta nên làm điều Martin Luther King đã làm. Chúng ta nên làm điều các Kitô hữu luôn luôn làm, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Ngay sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài trong vườn giêtsêmani, thì theo lời kể của thánh Luca: “Một thiên sứ từ trời hiện đến an ủi đỡ nâng Người”(Lc 22: 43). Và ngay sau khi Tiến sĩ King cầu khấn cùng Chúa vào cái đêm đáng ghi nhớ ở Montgomery đó, ông nói rằng ông đã cảm nhận được sự hiện diện nâng đỡ của Chúa mà trước đó ông chưa hề cảm thấy”.
Bài đọc này quả thực rõ ràng đối với chúng ta khi chúng ta cảm thấy bị đè bẹp dưới một gánh nặng nào đó, chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu và Martin Luther King dâng lời cầu nguyện lên cùng Chúa.
Một trong những vị chỉ huy quân đội Liên Bang trong cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ là tướng Sickles. Ông kể cho chúng ta biết ngay trước trận đánh ở Gettysburg, Tổng thống Lincoln cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên vai mình. Lập tức ông cầu nguyện với Chúa. Chính Lincoln đã nói về lần cầu nguyện ấy như sau: “Chưa bao giờ tôi cầu nguyện hăng say đến thế. Phải chi tôi có thể lập lại nguyên vẹn lời nguyện này. Tôi cảm thấy mình cần phải đặt tất cả niềm tín thác nơi Thiên Chúa tối cao. Chỉ một mình Ngài mới có thể cứu đất nước khỏi sự diệt vong sau khi quì gối đứng lên, tôi cảm thấy lời cầu xin đã được Chúa chấp thuận. Tôi chắc chắn rằng lời cầu nguyện đã có kết quả”. Cũng một cách thức tương tự nhưng hơi khôi hài hơn, Harry Truman đã kể cho các phóng viên sau ngày đầu tiên nhận chức Tổng thống của ông: “Các bạn thân mến, nếu các bạn đã từng cầu nguyện thì xin hãy cầu nguyện cho tôi lúc này đây. Tôi chẳng bíết quí bạn đã từng bị bó cỏ khô nào đè trên người chưa, chứ nếu các bạn hỏi tôi về những gì đã xẩy đến cho tôi ngày hôm qua, thì tôi xin thưa là tôi đã cảm thấy như mặt trăng, các vì sao và các tinh tú đổ sụp xuống trên tôi vậy”.
Khi cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên mình, cả bốn vị lãnh đạo: Chúa Giêsu, Abraham Lincoln, Harry Truman, Martin Luther King đều đã làm cùng một hành vi, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Và cả bốn vị đều được Chúa ban lòng can đảm và sức mạnh để tiếp tục bổn phận hướng đạo dân chúng. Đó là một sứ điệp thực tiễn đối với chúng ta. Có thể tóm tắt như sau: khi nào cảm thấy gánh nặng đè xuống trên mình, chúng ta cũng phải biết cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta như Ngài đã từng nâng đỡ bốn vị mục tử nói trên.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại Thánh vịnh đáp ca ngày hôm nay:
Chúa là mục tử tôi, tôi nào thiếu thốn chi. Ngài hướng dẫn tôi qua đường chính nẻo ngay vì danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn gánh nặng, tôi cũng không nao núng. Vì Chúa bước đi cạnh tôi. Ngài củng cố và tăng sức mạnh cho tôi. Khi đời tôi bước vào buổi xế chiều như mặt trời xế bóng, Ngài sẽ mang tôi vào nhà Ngài, để tôi được sống với Ngài muôn đời muôn kiếp.
Một linh mục du lịch bằng xe lửa qua Ái Nhĩ Lan đang hút một điếu xì gà. Tại một trạm xe, vị: TN 16-B17
Một linh mục du lịch bằng xe lửa qua Ái Nhĩ Lan đang hút một điếu xì gà. Tại một trạm xe, vị Giám mục nổi tiếng ở Duyer của địa phận Limerich đang đứng trên bục thềm đợi một chuyến xe khác. Ngài thấy vị linh mục hút khói, liền phê bình: “Cha thân mến, cha hút thuốc trước công chúng làm gương xấu cho người Ái Nhĩ Lan”. Vị linh mục đáp lại “Tôi không thấy gì là gương xấu khi hút 1 điếu xì gà”. Và vị linh mục hỏi tiếp: “Xin được phép hỏi: Ngài là ai ?”câu trả lời: “Tôi là Giám mục O. Dweyr địa phận Limerick. Hơi bối rối, vị linh mục kính cẩn nhìn vị Giám mục một lát rồi khi xe từ từ rời bến. Ngài lẩm bẩm: “Đức Cha có chức vụ cao, Đức cha cố gắng chu toàn”.
Vâng, Đức giám mục của chúng ta “Có chức vụ cao”ngài là đấng kế vị các tông đồ. Công việc của ngài thánh thiện và khó khăn. Một bổn phận của ngài là báo cáo đều đặn trực tiếp cho Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay kể rằng các Tông đồ trở về với Đức Giêsu và kể lại cho Người tất cả những gì các ông đã làm và đã giảng dạy.
Một tương tự. Đức giám mục năm năm một lần báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình trạng địa phận của ngài và sự liên đới với chính quyền dân sự. Cứ 10 năm giám mục đích thân đem báo cáo về Rôma.
Bản báo cáo này gồm: tình hình tôn giáo của địa phận: số họ đạo, linh mục, tu sĩ, nam nữ, giáo dân, giáo lý viên, học sinh công giáo trong trường công giáo, học sinh công giáo trong trường Công lập, số nhà thương, viện dưỡng lão, sổ hôn phối, tân tòng, số người rửa tội, số người chết, mọi vấn đề liên quan đến đời sống thiêng liêng.
Bản báo cáo cũng bao gồm lời xác nhận chính thức về sự điều hành địa phận; giới trẻ công giáo, báo chí địa phận hoạt động từ thiện, đời sống gia đình , việc truyền bá đức tin và những nhân viên cùng uỷ ban gíup sức giám mục.
Ngài cũng báo cáo về tình hình tài chính nữa. Các bạn biết rằng, mỗi năm cha sở phải báo cáo cho Đức giám mục tình hình tài chính và thiêng liêng của họ đạo. Tới lượt Đức giám mục báo cáo đầy đủ cho Đức Thánh cha.
Bởi vì, những bản báo cáo này từ khắp thế giới, nên Đức Giáo Hoàng - đầu hữu hình của Giáo hội, am tường tình hình diễn biến trên thế giới. Bạn và tôi có phần sống động quí giá trong bản báo cáo đó. Đức Thánh Cha quan tâm đến mọi phần tử trong gia đình nhân loại khắp mặt đất. Vì thế, mà Pranklin Rossevelt nài nỉ được đích thân làm quan sát viên cạnh Vatican.
Đức Giêsu sai phái các Tông đồ, và các ngài báo cáo lại cho Chúa. Đức Giáo Hoàng sai phái các Giám mục, các Ngài báo cáo lại cho Đức Giáo Hoàng. Đó thực là trở về sinh hoạt của các Kitô hữu lúc đầu.
Bản tường trình chính thức này cho những lời trong kinh nguyện Thánh Thể II ý nghĩa đặc biệt: “Lay chúa, xin nhớ đến hội thánh lan rộng khắp hoàn cầu. Để kiện toàn Hội thánh trong đức mến, cùng với Gioan Phaolô II, Đức Giám mục &. Giáo phận chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ. Bạn hãy cầu nguyện lời kinh này với ý nghĩa đó.
“Từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ tới nơi”.
Thế là các môn đệ đã trở về với Chúa. Ngài đã sai họ đi từng đôi một, không mang theo balô: TN 16-B18
Thế là các môn đệ đã trở về với Chúa. Ngài đã sai họ đi từng đôi một, không mang theo balô, cơm bánh hay tiền bạc. Chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy đường xa. Nhẹ thênh như làn gió của Thần Khí Thiên Chúa. Họ đã trừ được quỉ dữ và chữa lành các tật bệnh và kêu gọi mọi người hoán cải, bắt đầu một cuộc sống mới theo các giá trĐ Tin Mừng đề ra.
Thế là họ đã trở về, những nhà truyền giáo chân dép tay gậy. Họ có nhiều điều muốn kể, muốn "khoe" với Chúa. Và họ đã tụ tập quanh Ngài, kể lại cho Ngài mọi việc họ làm và mọi điều họ đã dạy. Họ đã không bằng lòng với những lời nói suông mà họ "miệng nói mình làm" theo đúng tác phong của Thầy. Tin Mừng là những lời phải loan báo, đồng thời còn là những việc phải làm để mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Họ được về nghỉ, Ngài nói với họ: "Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Nhóm nhỏ các ông cần được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Các ông cần được ngồi lại bên Chúa, bên nhau để hàn huyên tâm sự, để hâm nóng tình bạn, nạp thêm năng lượng làm mới lại mình. Thoạt đầu, Ngài đã chọn các ông "để các ông ở với Ngài" trước khi được sai đi truyền giáo. Rồi đây họ sẽ lại lên đường, nhưng lúc này, điều cần đối với họ là nghỉ ngơi, là ngồi lại với Ngài, để báo cáo với Ngài là hạt giống họ gieo đã bắt đầu nảy mầm, để nhìn lại quãng đường đã qua, tính sổ xem cái gì đã làm được, cái gì cần phải làm thêm hoặc sửa sai. Nhịp điệu cơ bản vẫn là nhịp hai, lên đường rao giảng để rồi lại rút về nơi bình yên thinh lặng của sa mạc nội tâm.
Đức Giêsu muốn tránh cho các tông đồ sự ồn ào náo nhiệt của quần chúng, cảnh tấp nập kẻ tới người lui, những cuộc trò chuyện, những công việc choán hết thì giờ. Nhưng Ngài chưa kịp giục các ngài xuống thuyền để chèo sang bờ vắng thì quần chúng đã trông thấy họ. Và khi họ chèo tới gần bờ, Đức Giêsu "đã thấy một đám rất đông người" đang chờ Ngài.
Chúa đã "chạnh lòng thương" đoàn dân, như trái tim từ ái của Ngài vẫn hằng xúc động trước nỗi khổ của con người. Họ như bầy chiên không người chăn, một đám đông đang loay hoay tìm hướng đi, đang chờ đợi một người lãnh đạo.
Từ đám quần chúng ấy, Đức Giêsu sẽ hình thành một dân tộc mới bằng cách dạy dỗ họ, bởi vì "người ta không chỉ sống nguyên vì cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa" (Thứ luật 8,3). Rồi đây Ngài sẽ làm cho bánh hoá nên nhiều, thứ manna thần lương mới dành cho một dân tộc đang trên đường xuất hành, hướng tới một tương lai rộng lớn.
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do Chúa: TN 16-B19
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do Chúa. Thánh Gioan Vianney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của cha Vianney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ, hy sinh; tôn sùng Thánh Thể, phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi toà giải tội.
Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, nói đây không phải chỉ là vịêc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các tông đồ hiểu; việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn. Nếu mình không học hỏi và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? thời gian nghỉ ngơi là lúc các tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các tông đồ cầu nguyện. Vì Cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm, cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.
Các tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện, cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho ngừơi khác, các tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.
Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi Lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.
Lay Chúa, xin tạo điều kiện cho chúng con được trở về với Chúa mỗi ngày, mỗi tuần trong việc gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Kinh và qua bí tích hoà giải; Nhờ đó chúng con được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho cuộc sống phục vụ hôm nay.
Trong số những hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma: TN 16-B20
Trong số những hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma, người ta thấy hình vẽ Đức Kitô dưới hình ảnh một người chăn chiên trẻ trung không để râu, vai vác một con chiên. Chủ đề rất cổ xưa này trong nghệ thuật Kitô giáo thời sơ khai được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta chứng kiến Đức Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông quần chúng như là những con chiên không có người chăn.
Bối cảnh hôm ấy là khi các tông đồ trở về từ chuyến đi truyền giáo đầu tiên. Các ông mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Đức Chúa Giêsu biết thế, nên Người đưa các ông đến một nơi yên tĩnh để các ông có thể nghĩ ngơi và cầu nguyện đôi chút. Nhưng mọi chuyện đã không xẩy ra như ý. Đám đông đã xác định được nơi Thầy trò sẽ đến, nên họ đã kéo nhau đến đó trước. Ắt hẳn một số môn đệ của Đức Chúa Giêsu nghĩ rằng Thầy mình nên bảo họ trở về nhà, vì ngày hôm đó Người cũng đã làm việc nhiều rồi, nhưng Đức Giêsu đã không quay lưng lại với hoàn cảnh. Tình cảnh dân chúng thật đáng thương và Người đã ý thức đến nhu cầu của họ.
Chúng ta có thể rút ra một bài học từ thái độ quảng đại của Đức Chúa Giêsu khi Người đặt nhu cầu của tha nhân lên trên nhu cầu của chính mình. Nếu Đức Chúa Giêsu không giữ lại cho chính mình, thì những người đi theo Chúa cũng thế thôi. Qua ơn gọi thanh tẩy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm Kitô Hữu, đều có phần nào đó trong việc chăn dắt những người Chúa trao cho chúng ta. Nhiều khi hình như chẳng ai để ý gì đặc biệt trong đời sống gia đình. Nếu con cái đang tuổi lớn không được chăm lo cẩn trọng và chỉ dẩn đúng hướng, chúng sẽ có nguy cơ lạc lối và lang thang vô vọng suốt đời vì không có mục đích nào cả. Trở nên người chăn chiên lành như ý Đức Kitô mong muốn thật là cả một chuỗi công việc vất vả khó khăn. Con đường Người muốn chúng ta đi theo là một con đường thẳng và hẹp của Thập Giới. Nếu như chúng ta không liên tục kết hợp với Đức Kitô trong lời cầu nguyện, chúng ta có nguy cơ loanh quanh luẩn quẩn rồi lại tìm những con đường khác hấp dẫn hơn.
Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tầm quan trọng của việc tìm một nơi yên tĩnh trong cuộc sống nơi mà chúng ta có thể một mình cầu nguyện với Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, nhiều khi chúng ta phải tìm cách thoát khỏi những tiếng gọi liên tục, khỏi những áp lực luôn đè nặng, ngõ hầu chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa dịu êm chữa lành và bồi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa rõ nhất trong những giây phút lặng lẽ. Khi và chỉ khi nào Đức Kitô có chỗ cư ngụ trong trái tim chúng ta, chúng ta mới được khai mở đón nhận sức mạnh Thiên Chúa đến hỗ trợ đỡ nâng cuộc sống chúng ta.
Cầu nguyện một mình trong thinh lặng với Thiên Chúa là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của chúng ta. Một mình đối diện với Ngài, chúng ta nên tự vấn mình sẽ đi đến đâu, sẽ cố gắng làm gì để đạt tới chỗ đó. Nếu chúng ta không tạo ra những khoảng trống dành cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ lãng phí thời gian và không thấy gì ngoài những sinh hoạt hiện tại của mình thôi. Tất cả cuộc sống của chúng ta đã được thánh hiến, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều này nếu như chúng ta không trở nên môi miệng của Chúa; qua những nơi những người chúng ta thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Lm Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Một hình ảnh được Thánh Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa: TN 16-B21
Một hình ảnh được Thánh Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đó là hình ảnh của người chăn chiên nhân lành. Tìm đọc những trang Cựu Ước thân thương đó, Chúa Giêsu cũng lại ví mình như những mục tử nhân lành săn sóc đoàn chiên. Điểm nổi bật về tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu là sự quan tâm, chăm sóc đến bày chiêm, từ việc dẫn chiên ra đồng, đến việc tìm đồng cỏ xanh tốt cho chiên ăn, từ việc chăm nom từng con chiên yếu đau bệnh tật, đến việc liều chết canh giữ bày sói rừng hung dữ...... Tất nói lên cái trách nhiệm lớn lao của một mục tử nhân lành.
Trách nhiệm của một Tổng thống cai trị một nước. Trách nhiệm của một Cha Xứ săn sóc một xứ đạo. Trách nhiệm của những người làm cha mẹ hướng dẫn và giáo dục một bày con trong gia đình...... thật lớn lao, thật quan trọng. Nhiều khi chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Cũng có lúc chúng ta cảm thấy một gánh nặng đè trên vai. Dân chúng làm reo, bổn đạo không phục quyền, con cái cãi lại cha mẹ. Đứng trước những khó khăn như thế trong đời, chúng ta phải làm gì ? Chúng ta nên làm điều mà Chúa Giêsu đã làm là "Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà cầu nguyện" (Mc.6:31). Khi cầu nguyện chúng ta sẽ cảm nhận được sự ủi an, sự khích lệ và nâng đỡ của Chúa để chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Cũng như xưa, khi Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu, thì "Một Thiên Sứ từ trời hiện xuống an ủi và nâng đỡ Người" ( Lc.22:43).
Khi ban hành một tài liệu mới, không những Đức Thánh Cha Gioan thứ 23, mà cả các Đức Thánh Cha khác nữa, các ngài đã để giờ đọc đi đọc lại tài liệu đó đó nhiều lần và để giờ cầu nguyện xin ơn soi sáng và khích lệ trước khi ban hành.
Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, kể lại:"Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, khi tôi còn là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa Giám Mục với xe tăng thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa Giám Mục cũng thắp có giới hạn. Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi vào bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu nguyện xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy tôi ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang. Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục, nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.
Số mạng tôi ở trong tay Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai, suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh của tôi". (Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức Hồng Y Benadô Law tại Boston).
Tổng Thống Bush nhận thấy trách nhiệm nặng nề trên vai trước khi hạ lệnh đánh Iraq để tiêu diệt quân khủng bố, ông đã để nhiều thời giờ thăm dò dư luận của giới lãnh đạo thế giới và đắn đo suy nghĩ về kế hoạch mình sẽ thực hiện, cũng như ông đã dùng nhiều giờ cầu nguyện để được lòng can đảm và sức mạnh tiếp tục thi hành một bổn phận nặng nề và nguy hiểm trước thế giới. Cầu nguyện đã trở nên một sứ điệp thực tiễn và cần thiết để được Chúa ban ơn và nâng đỡ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời (Thánh Vịnh 22: 1-3) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng (7/2003).
Một trong những hình ảnh về Chúa Giêsu mà tôi vẫn yêu thích từ hồi còn bé là bức ảnh Chúa: TN 16-B22
Một trong những hình ảnh về Chúa Giêsu mà tôi vẫn yêu thích từ hồi còn bé là bức ảnh Chúa chiên lành. Hồi đó tôi vẫn thường ước mơ được trở thành như con chiên nhỏ để Chúa vác trên vai. Sau này, mặc dầu đời sống đạo của tôi khô như ngói và nhất là trong những chuỗi ngày hoang dại của bước đầu sống ở Mỹ, bức ảnh Chúa chiên lành vẫn là bức ảnh đem lại cho tôi nhiều ấm áp và an ủi nhất. Lúc bấy giờ, mặc dầu tôi đã là con chiên già đầy ghẻ chốc nhưng giấc mơ thuở bé vẫn sống động như xưa. Và sau cùng giấc mơ đó đã thành sự thật khi tôi được những người đại diện Chúa vác trên vai và ôm ấp vào lòng. Chính vì vậy mà tôi có đủ can đảm từ bỏ kiếp đi hoang để làm lại cuộc đời.
Bài Phúc âm hôm nay cũng vẽ lại cách sống động bức ảnh này khi Chúa tỏ lòng xót thương dân chúng lang thang vất vưởng như chiên không người chăn. Sự việc bắt đầu khi Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện sau khi các ông trở về từ chuyến mục vụ đầu tiên. Tuy nhiên, vì đám đông dân chúng biết được nơi các ngài muốn đến nên đã kéo nhau đến đó trước chờ các ngài. Bình thường, chúng ta đoán là Chúa sẽ bảo dân chúng giải tán để các ngài có thể nghỉ ngơi đôi chút, nhưng Chúa Giêsu đã không làm như vậy. Nhìn thấy lòng thành của dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương và tiếp tục giảng dạy họ. Nói cách khác, Chúa Giêsu không có giờ nghỉ ngơi hôm đó và không cần phải nói, các môn đệ cũng chẳng được nghỉ tí nào.
Đây chính là bài học chúng ta cần để ý khi nhìn đến cuộc đời Kitô hữu của mình. Qua bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào thiên chức linh mục của Chúa Giêsu một cách phổ quát. Do đó, mỗi người chúng ta cũng phải gánh lấy một phần trách nhiệm trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Là bậc cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải dạy bảo con cái đi đúng đường lối, vì một đứa bé nếu không được chăm sóc và hướng dẫn sẽ phải sống một đời vất hưởng không định hướng. Thiết nghĩ không gì khổ cho bằng người phải sống một cuộc đời vô định không lý tưởng và mục đích. Ngay cả trong đám bạn bè với nhau, chúng ta cũng phải có bổn phận nhắc bảo khi thấy bạn bè bước lạc lối. Nói tóm lại, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống mỗi người chúng ta cũng có thể chu toàn nhiệm vụ chăn dắt mà Chúa trao phó cho mỗi người trong ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội. Con đường mà Chúa muốn chúng ta dẫn lối cho người khác là con đường tuy eo hẹp nhưng ngay thẳng của Mười Điều Răn. Và chỉ khi nào chúng ta nối kết cuộc sống chúng ta với Chúa Giêsu qua đời cầu nguyện liên lỉ thì chúng ta mới không sợ lầm đường lạc lối.
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói đến tầm quan trọng của việc tìm đến nơi thanh vắng của cuộc sống để có thể lòng bên lòng với Chúa trong việc cầu nguyện. Như Chúa Giêsu và các môn đệ, chúng ta cũng cần phải có những quãng thời gian riêng biệt để về lại với chính mình và có thể nghe được tiếng Chúa dạy bảo. Chỉ những ai có tâm hồn lắng đọng mới có thể nghe được tiếng Chúa rõ ràng. Có như vậy chúng ta mới biết được mình đang đi trên con đường nào và sẽ dẫn về đâu. Bằng không chúng ta chỉ phí công sức một cách vô ích và chẳng bao giờ nhìn cao hơn những gì chúng ta đang làm. Không gì quí bằng cuộc sống, nhưng cuộc sống sẽ ra vô ích và vô nghĩa nếu chúng ta không biết bồi dưỡng và tô đẹp cuộc sống, qua việc dành ra những quãng thời gian nghỉ ngơi nơi thanh vắng, để về lại với chính mình và gặp gỡ Chúa qua việc cầu nguyện như Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Ngài.
Danh từ Mục Tử và Đoàn Chiên là những danh từ rất thông dụng trong Thánh Kinh, Chúa thường: TN 16-B23
Danh từ Mục Tử và Đoàn Chiên là những danh từ rất thông dụng trong Thánh Kinh, Chúa thường dùng để chỉ các vị lãnh đạo trong Dân Riêng của Chúa. Chính Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, đến sống trên trần gian, rao giảng Tin Mừng, thực thi sứ mạng cứu thế, Chúa cũng tự ví mình như một Mục Tử nhân lành: "Ta là Mục Tử nhân lành, Ta đến để chiên Ta được sống và được sống sung túc. Mục Tử nhân lành hy hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên".
I. SỰ QUAN THIẾT PHẢI CÓ CHỦ CHĂN
Bài sách tiên tri Isaia hôm nay nói lên sự cần thiết phải có các vị lãnh đạo để quản trị và hướng dẫn Dân Chúa, như những vị Mục Tử để dẫn dắt Đoàn Chiên của Thiên Chúa theo đúng như thánh ý Ngài.
Như Chúa đã phán: "Khốn cho các Mục Tử làm tản mát và xâu xé Đoàn Chiên Ta". Chúa than phiền và chúc đữ cho những Mục Tử không tận tâm chăm nom, săn sóc và hướng dẫn Đoàn Chiên Chúa, Chúa sẽ xét xử những hành động gian ác của họ, vì họ đã không chu toàn nhiệm vụ được Chúa trao phó; trái lại, còn tác hại và làm chia rẽ Đoàn Chiên.
Vì thế, Chúa đã hứa: "Ta sẽ cho chúng những vị Chủ Chăn khác để chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, chúng sẽ không phải thiếu thốn". Hơn nữa, Chúa còn quả quyết: "Này đây, đã tới ngày Ta cho Đavít một mầm mống công chính, Ngài sẽ làm Vua thống trị, là Đấng Khôn Ngoan thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước"..."Người sẽ được gọi là Chúa Công Chính của chúng ta" (xem Jer 23:1-6).
II. CHÚA KITÔ, MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Bài Tin Mừng thuật lại, sau khi nghe các Tông Đồ thuật lại việc thi hành sứ vụ Tông Đồ của các ngài, Chúa đã truyền cho các ông rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi lấy lại sức một chút; rồi sau đó, đoàn lũ đông đảo dân chúng lại tuốn đến nghe Lời Chúa, Thánh Marcô viết: "Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ phải bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt, và Người dạy dỗ họ nhiều điều" (xem Mc 6:30-34).
Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc chúng ta và Người đã tự đặt mình như mẫu gương cho các nhà lãnh đạo, các vị Chủ Chăn noi theo bắt chước. Chính Người đã phán: "Ta là Mục Tử Nhân Lành; Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. Cũng như Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha. Ta lại hiến mạng sống Ta vì Đoàn Chiên Ta" (Jn 10:11-15).
Chúa còn phán: "Kẻ chăn chiên hiền lành hiến mạng sống mình vì con chiên; trái lại, kẻ chăn thuê, khi thấy muông sói đến, bỏ đoàn chiên mà trốn chạy, muông sói bắt chiên và đoàn chiên phải tán loạn" (xem Jn 10:11-12). Chúa còn căn dặn: "Như các con thấy: Thủ Lãnh trần gian lấy quyền thế cai trị dân; phần các con thì đừng làm như vậy, ai trong các con làm thủ lãnh thì hãy trở nên tôi tớ mọi người, cũng như chính Thầy, không đến để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10:42-45).
III. NHIỆM VỤ CỦA CHÚNG TA
Như chúng ta đã thấy, ngày nay nhiều nơi trong Giáo Hội thiếu Chủ Chăn, Đoàn Chiên Chúa thiếu người lãnh đạo. Ngay nước Việt Nam chúng ta hiện nay, tại Bắc Việt rất thiếu Linh Mục, có những Giáo Phận chỉ có một Đức Giám Mục và một Cha Xứ... tại các Giáo Phận Miền Nam cũng rất thiếu, công việc mục vụ của các Đức Giám Mục và Linh Mục rất vất vả, một Linh Mục coi 2, 3 xứ. .. Có nhiều Linh Mục, nhưng vì là cựu tuyên úy quân đội, sau khi được ra khỏi tù lại không được thi hành chức vụ.
Thế rồi, đau khổ cho Giáo Hội hơn nữa, nhiều nơi trên thế giới rất thiếu ơn gọi, thiếu người tình nguyện hiến thân làm vườn nho Chúa; lại còn cái nạn tệ hơn nữa có những vị Chủ Chăn lại phá hoại Đoàn Chiên, bằng những lời giáo huấn sai lạc cấp tiến, làm gương xấu cho Đoàn Chiên bằng một cuộc sống không mấy tốt đẹp.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi, và gây thêm mầm mống ơn gọi nơi con cái trong gia đình chúng ta, để Giáo Hội có nhiều người hiến thân cho Chúa làm việc tông đồ, trong ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ để xây dựng Giáo Hội Chúa.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho các vị Chủ Chăn biết khôn ngoan hướng dẫn Đoàn Chiên theo thánh ý Chúa, nhất là xin cho các ngài được sống đời thánh thiện, biết hy sinh cho Đoàn Chiên, theo gương mẫu đời sống thánh thiện của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành đã hy hiến mạng sống vì Đoàn Chiên.
Chúng ta cũng hãy nghĩ đến bổn phận của chúng ta là những bậc phụ huynh, là những vị Chủ Chăn trong đoàn chiên nhỏ là gia đình chúng ta, chúng ta hãy cố trở nên gương mẫu cho con cái chúng ta noi theo bắt chước. Đó là việc tông đồ, là lời cầu nguyện, là việc xây dựng, là việc cổ động, là việc củng cố và làm phát triển ơn gọi tông đồ tốt đẹp nhất.
Truyện Thánh Gioan Maria Vianney, một tấm gương phản chiếu trung thực mẫu gương Chúa Kitô, vị Chủ Chăn nhân lành. Khi còn theo học trong chủng viện với 200 Chủng Sinh, Gioan Vianney tuy lớn, nhưng điểm bao giờ cũng rốt bét. Nhiều lần anh em bạn Chủng Sinh khuyên Gioan nên rút lui khỏi chủng viện, vì không hy vọng theo kịp các lớp học để tiến tới chức Linh Mục được... Sau khi được "vớt" để lãnh chức Linh Mục, Bề Trên cử ngài đi coi một Giáo Xứ hẻo lánh là Xứ Ars. Một Linh Mục quen thân khuyên Ngài: "Cha ạ, tôi tưởng một người ít hiểu giáo lý như Cha, không nên ngồi tòa giải tội"... Thế mà rồi Giáo Xứ Ars đã được biến đổi, trở nên một Giáo Xứ đạo đức. Danh tiếng Cha Gioan Vianney đã lan rộng, ngài đã phải ngồi tòa 16 đến 18 giờ mỗi ngày. Dân chúng khắp nước Pháp và nhiều nơi trên thế giới tuốn đến nghe các giờ giáo lý ngài dạy, bàn hỏi việc tâm hồn và xưng tội với Ngài. Các công ty hỏa xa đã phải mở nhiều trục giao thông cho khách hành hương. Nhiều khách sạn được thiết lập để cung ứng cho mọi người. Sự kiện này đã khiến nhiều Linh Mục trong các Giáo Xứ lân cận không mấy bằng lòng, nên đã đồng lòng đệ đơn kiện lên Đức Giám Mục, xin ngài cứu xét việc này, vịn lý do một Linh Mục học thức kém cỏi như Cha Gioan Vianney, mà sao dám lôi kéo người ta đến xưng tội với mình như vậy.
Sau khi Đức Giám Mục đọc đơn kiện của các Cha, ngài quá bỡ ngỡ vì thấy sau chữ ký của các Cha lại có cả chữ ký của Cha Vianney nữa với dòng chữ: "Việc anh em nói trên đây rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào đơn đồng tình cùng anh em". Linh Mục được ủy thác trách nhiệm đem thơ trình bày lên Đức Giám Mục, lại là bạn thân của Cha Gioan Vianney, nên khi đi ngang qua Xứ Ars đã ghé vào thăm và cho Cha Vianney hay sự việc, ngài xin được đọc và chính tay ngài đã ký tên rồi viết thêm dòng chữ này. Đức Giám Mục với lòng thán phục và tự hỏi: Có khi nào lại có người cùng ký vào bản đơn kiện mình như thế được. Thế rồi, Đức Giám Mục đã nói: "Các Cha xem, Cha Vianney phản ứng cách rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ? Ngài thực là một Linh Mục thánh thiện. Thôi chúng ta cứ để xem. Nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền, ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ".
Kết Luận
Trước giáo huấn đầy khôn ngoan Chúa dạy và mẫu gương khiêm nhu Chúa đã để lại, Thánh Gioan Vianney, vị Chủ Chăn của Đoàn Chiên Chúa đã cố gắng họa lại cách trung thực trong đời sống của ngài, nên ngài đã đáng trở nên dụng cụ Chúa dùng, để Chúa được vinh danh và các linh hồn được cứu độ.
Vậy, là con cái Chúa, chúng ta cũng hãy cố gắng mô phỏng chân dung đích thực của Chúa Kitô nơi bản thân và đời sống chúng ta, để một phần nào chúng ta có thể hoàn thành được nhiệm vụ Chúa đã ủy thác cho mỗi người chúng ta, nhất là trong sứ mạng làm cha mẹ trong các gia đình con cái Chúa.
Một thanh niên mạnh khoẻ xin đốn cây để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Thấy anh có sức mạnh: TN 16-B24 (bài 1)
Một thanh niên mạnh khoẻ xin đốn cây để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Thấy anh có sức mạnh, ông chủ trao cho anh cái rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
-Anh thử đốn cây này tôi xem.
Anh đốn rất nhanh. Ông chủ liền nhận anh vào làm và định tiền công cho anh.
Anh cố gắng làm hết sức lực. Nhưng mới làm được có ba ngày, ông chủ gọi anh vào cám ơn, trả tiền công cho anh đủ một tuần. Anh vui mừng nhận lấy và thắc mắc hỏi:
-Sao ông chủ không để đến thứ bảy mà lại trả lương cho tôi hôm nay. -Tôi không mướn anh nữa, vì anh đốn cây càng ngày càng ít. -Thưa ông chủ, tôi đã đốn hết sức tôi. Cả giờ nghỉ tôi cũng không nghỉ ngơi. -Anh nói đúng, nhưng anh có "mài rìu" không ?
Anh tiều phu này có tinh thần làm việc rất dồi dào nhưng đã lỗi kỹ thuật, không khéo trong phương thức làm việc. Bớt chút thời giờ lo cho cây rìu được sắc bén thì công việc sẽ có kết quả hơn. Con người cũng vậy làm việc phải nghỉ ngơi, ăn uống, giải trí, tĩnh dưỡng mới có sức khoẻ dẻo dai lâu bền được. Linh hồn người ta phải còn phải hơn thế nữa, cần phải bổ sức bằng việc cầu nguyện, tĩnh tâm, sống thân mật với Chúa.... Chính vì thế Chúa nhắc nhở các tông đồ sau chuyến đi mục vụ: "Chính anh em hãy nghĩ ngơi".
Nghỉ ngơi cần thiết cho mọi người, mọi việc: Học sinh giải trí sau mỗi tiết học chừng ít phút, giải trí sau mỗi ngày chừng một giờ, hằng tuần lại có một ngày nghỉ ngơi, mỗi năm lại có mùa hè thư giãn. Đấy là chưa kể đến những dịp ngoại lệ như liên hoan, họp mặt, tết nhất, sau mỗi kỳ thi v.v. Các việc dù chân tay hay trí óc cũng cần phải có như cầu nghỉ ngơi tương tự.
Sau khi tạo trời đất trong sáu ngày, đến ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi. Tiếp diễn thời kỳ cựu ước mỗi tuần dân Do Thái có ngày nghỉ gọi là ngày Sabat. Hiện nay hằng tuần có ngày nghỉ ngơi vào ngày Chúa Nhật. Nghỉ ngơi để bồi dưỡng cho tinh thần, lo cho linh hồn sống với Chúa, sống theo đường lối Chúa. Ngày Chủ Nhật còn phải tham dự Thánh Lễ dâng Chúa. Những ai ham ước đời sống đời Kitô hữu hoàn hảo hơn, còn được các linh mục trên thế giới dâng Thánh Lễ hoặc tổ chức kinh nguyện mỗi ngày. Nhờ đó đoàn chiên của dân Chúa luôn được chăn dắt trong những cánh đồng cỏ non xanh tươi mâu mỡ và bên những dòng suối mát ngọt ngào.
Qua việc củng cố đời sống nội tâm, linh hồn lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa, đời sống Kitô hữu mới vững vàng vươn lên trên đường tiến về nước trời, tâm hồn mới say sưa hứng thú trong mọi công việc, tập tành nhân đức, nhẫn nại chịu đựng những đau khổ và thử thách.
Ngược lại nếu không được vun trồng bằng những chân lý Phúc Âm, mà chỉ vùi đầu vào công việc bề bộn suốt ngày, suốt tháng suốt năm. Con người sẽ chán ngấy cuộc đời, rồi đi tìm thú vui giả tạo trần gian: cờ bạc, rượu chè, trai gái, thuốc sái v.v.
Trong cuộc đời tông đồ cũng vậy, bản chất tông đồ rất đáng yêu, việc tông đồ là thực hành đức bác ái.
Thánh Giegorio nói: "việc làm là tang chứng lòng yêu". Chính vì lòng yêu mến Thiên Chúa say mê mà các vị tông đồ đã từ bỏ nọi sự thế gian để trau giồi con tim và trí tuệ, mong chờ ngày tung gieo hồng ân Thiên Chúa cùng làm ích cho tha nhân dưới nhiều hình thức.
Động lực cho các vị tông đồ phấn khởi khi nghe những lời khích lệ: "Đẹp thay bước chân người trên núi, kẻ loan báo tin mừng cứu độ". Và các ngài sẽ không hề mệt mỏi, sẵn sàng hy sinh, vất vả, đổ mồ hôi nước mắt cho việc thương giúp người đồng loại, lôi kéo các linh hồn về cho Chúa: vì đó là cuộc đời thánh thiện, là cách lập công trên nước trời. Các ngài tin rằng Thiên Chúa sẽ thưởng công nước thiên đàng cho kẻ làm phúc cho người anh em dù chỉ một bát nước lã.
Thực ra cánh đồng truyền giáo thật bao la bát ngát, công việc thật bề bộn với trăm ngàn thứ gian khổ, đôi khi còn nguy hiểm lớn lao, nhất là ở những vùng xa xôi hẻo lánh với nhiều đe dọa khủng khiếp. Thế mà Chúa lại nói: "Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng". Chúng ta không phải là những tội phạm bị giam tù. Chúng ta cũng không phải là những công nhân ngặt nghèo ở sở làm việc. Chúng ta là con cái nước trời, làm việc cho Chúa chất lượng quí gía nhiều ít tuỳ thuuộc vào lòng yêu Thiên Chúa. Chính vì thế Chúa nói với chúng ta: "Hãy nghỉ ngơi". Chỗ khác Chúa lại nói nhiều lời ngọt ngào hơn nữa: "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy".
Ước gì cuộc đời tông đồ của chúng ta luôn ôm ấp trong lòng bởi hai nhân tố:
-Yếu tố Thiên Chúa: Luôn khao khát tình yêu Thiên Chúa như con nai khát nước mong tìm về dòng suốt mát.
-Yếu tố tha nhân: Luôn tìm đến những nạn nhân xấu số, bị đánh đập đầy thương tích, bị bỏ rơi. Đó là hình ảnh Đức Kitô khổ đau mà tiên tri Isaia đã mô tả là không còn nhận ra được hình dung của Người nữa (Is. 53, 2-3).
Một tấm gương sống động mãnh liệt để chúng ta bắt chước là ngay ở những trang đầu sách Phúc Âm đã viết về Đức Mẹ: Sau khi tâm hồn Mẹ tràn ngập Đấng Cứu Thế trong ngày Mẹ nhận tin từ sứ thần Thiên Chúa, Mẹ liền cất bước lên đường đến miền núi để đem Chúa Giêsu cho bà chị họ Elisabet và bà đã được tràn ngập niềm vui trong Thánh Thần qua việc thăm viếng của Đức Mẹ.
Trích Dongcong.net - Br. BM Thiện Mỹ, CMC
TN 16-B25: Phúc trình về cuộc đời - Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Tôi đã từng đọc Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ. Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện: TN 16-B25
Tôi đã từng đọc Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ. Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của nhiều người. Mỗi lời nguyện đều chất chứa nỗi lòng, tình yêu, sự tha thiết của những con người thích chìm trong cầu nguyện.
Chẳng hạn, lời cầu nguyện số 4 gây trong tôi nhiều cảm động và ấn tượng. Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn lao, lòng yêu mến chất chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà Vérônique, một phụ nữ Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi, nhưng phải sống và làm bạn với căn bệnh cùi đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu nguyện của bà như sau: “Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con, thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn& Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm hồn&”. Và còn nữa&, còn nữa những lời tâm sự với Thiên Chúa của một con người bị coi là bất hạnh tột cùng, bị coi là tàn tạ không còn gì để đáng sống. Ấy vậy mà từ trong nội tâm của bà Vérônique, lại tỏ lộ một sức mạnh lớn lao của sự sống, một tình yêu và lòng tín thác dũng mãnh, mà không phải bất cứ một người bình thường nào cũng có thể có được, đừng nói chi đến một người tàn tật như bà. Bà Vérônique đã cầu nguyện, một lời cầu nguyện cho thấy một lòng mến Chúa mạnh đến nỗi không một bất hạnh nào có thể làm lung lay.
Hôm nay, đọc lại đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 thường niên này, tôi cảm thấy cần phả tự nhủ với chính mình rằng: Hãy tin Chúa giống như bà Vérônique, và cũng hãy yêu Chúa như bà.
Bài Tin Mừng này tiếp nối bài Tin Mừng tuần trước. Tuần trước, thánh Marcô cho biết Chúa sai các tông đồ ra đi giảng đạo cho dân chúng. Tuần này, thánh Marcô cho biết các tông đồ trở về phúc trình lại những gì mình đã làm. Thánh Marcô viết: “Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nếu các tông đồ tụ về bên Chúa báo cáo lại cả một cuộc hành trình truyền giáo mà các ngài đã thực hiện, thì chúng ta cũng thế. Tất cả mọi người không trừ ai, không chỉ là hành trình truyền giáo của từng người mà thôi, tất cả đều có lúc phải ra trước tòa Chúa để báo cáo về chính cuộc đời của mình.
Nếu trong hành trình truyền giáo của mình, các tông đồ đã làm được nhiều việc, đã giảng dạy nhiều điều, cuộc đời của mỗi người cũng là một hành trình dài. Không biết khi đến tòa phán xét, chúng ta sẽ mang gì để phúc trình? Có phải đã làm được nhiều điều như các tông đồ hay không? Điều ta phúc trình có phải là lòng yêu mến Chúa, hay lúc đó phơi bày cả một lối sống trong đời toàn là nhữ bê tha, vô trách nhiệm? Không! Bạn và tôi đừng như thế. Ta là người Công giáo, đời sống của ta phải là một cuộc đời được ấp ủ trong tình yêu và trao ban tình yêu.
Bà Vérônique suốt đời không làm được chuyện gì hết, làm sao bà làm được cái gì khi mà những ngón tay co quắp như que củi, đôi chân cũng không còn, đôi mắt cũng chẳng nhìn thấy, cái đầu cũng nhẵn nhụi, không có lấy một sợi tóc. Đúng, bà không làm được cái gì hết, trừ một điều rất quý giá, không có bất cứ cái gì đánh đổi được: đó chính là TÌNH YÊU! Chính vì trao hết tình cho Chúa, yêu hết mình với Chúa, bà đã có thật nhiều điều để kể cho Chúa nghe. Chính vì yêu mến Chúa, bà lấy làm hạnh phúc khi chấp nhận tất cả nỗi bất hạnh lớn lao trên thân xác mình.
Cũng thế, bạn và tôi hãy yêu mến Chúa để cảm nhận hạnh phúc trong cuộc đời. Có yêu, ta mới đủ can đảm, đủ nghị lực chấp nhận mọi nghịch cảnh. Mỗi một ngày sống, nhờ lòng yêu mến Chúa, ta sẽ nhận ra đó chính là một chuỗi ơn lành Thiên Chúa tặng ban. Chính vì tình yêu, ta sẽ dâng lên Chúa nỗi lo âu, vất vả, mồ hôi và nước mắt. Tình yêu mến Chúa sẽ dạy ta biết phó thác khi thương đau và biết cảm tạ khi hạnh phúc. Chỉ có tình yêu, ta mới thấy Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chỉ có tình yêu mời giúp ta có thật nhiều cái hay, cái tốt để phúc trình cho Chúa nghe.
Chúa nhật 16 Thường Niên-B / 16th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: MỤC TỬ VỚI ĐOÀN CHIÊN
* A Shepherd tends His Flock *
Sấm ngôn của Đức Chúa: Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải: TN 16-B26
BÀI ĐỌC 1: Giêrêmia 23, 1- 6 = Sấm ngôn của Đức Chúa: Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải tan tác./ Woe to the shepherds who mislead and scatter the flock of my pasture, say the Lord.
BÀI ĐỌC 2: Êphêsô 2, 13- 18 = Chúng ta trong một Thần Khí duy nhất: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần./ We have in one Spirit: Peace to you who were far off, peace to those who were near.
BÀI TIN MỪNG(Gospel): Mác-cô 6, 30-34 = Đức Giêsu người Mục Tử: Ra khỏi thuyền Người thấy một đám người rất đông thì chanh lòng thương./ Jesus the Shepherd: Upon disembarking Jesus saw a vast crowd. He pited them.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh Đức Kitô người Mục Tử như sau: “...Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt...”Người thi hành chức ngôn sứ đem lại cho đòan chiên lương thực thiêng liêng là Lời Chúa., nhiều dân chúng tụ họp quanh Ngài tượng trưng Cộng đồng Dân mới. Những khó khăn về Phúc âm hóa hiện nay trong môi trường sống của tôi?
He saw the vast crowd, His heart was moved with pity for them, for they were like sheep without a shepherd. (Mc. 6, 34)
2/ Trong bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia viết: “...chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác, các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng...”Bạn thử xét xem mình có lỗi phạm như vậy không từ trong Gia đình cho đến ngoài xã hội. Cái gì đã làm cho Gia đình bạn phải xào xáo; lộn xộn nơi làm việc bạn không thèm để ý đến. Tại sao bạn chưa chịu sửa mình khi có bao nhiêu người nhắc nhở? (Tu đức)
You have scattered my sheep and driven them away. You have not cared them... (Gr. 23, 2)
3/ Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã quả quyết: “...Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và Dân ngoại thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét.”Tôi có phân biệt người này với kẻ khác không? Tôi có gây được hòa hợp giữa mình với anh em tôn giáo bạn? ( Hành đạo)
He who made both one and broke down the dividing wall of enmity, through His flesh. (Êph. 2, 14)
4/ Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần.”Chúa đã đến với người Ở Xa là Dân ngoại, và những người Ở Gần là người Do Thái, như vậy là Một trong Thánh Thần. Việc làm và ý nghĩ của bạn thế nào? (Thánh thiện)
He came and preached peace to you who were far off and peace to those were near. (Êph,2, 17)
B.Câu Kinh Thánh đánh động tôi Sống sửa mình tuần này: ( The Best GodỴs Word)
...CHÍNH CÁC NGƯƠI ĐÃ LÀM CHO ĐOÀN CHIÊN CỦA TA PHẢI TAN TÁC... (Gr. 23, 2)
You have scattered my sheep and driven them away...
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì theo Lời Chúa dạy hôm nay: ( So what am I doing / For Action )
1/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
2/ Tôi quyết hàn gắn ngay cái do tôi làm đổ vỡ, chia rẽ trong Gia đình, nơi Giáo xứ hay ngoài Xã hội.
D.Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và thực hành diều tôi cầu xin: (Pray and Practice / Pray in Action)
1/ Tôi dựa vào 4 câu Kinh Thánh trên để thú tội với Chúa và tỏ ý chí quyết tâm thay đổi lối sống cũ.
2/ Bạn nên cầu nguyện liên tục để Chúa giúp thực hiện. Vì không Cầu nguyên sẽ không có Sức mạnh.
Lời hay ý đẹp: HÃY MỞ TAI VỚI CHÚA TRƯỚC KHI BẠN MỞ MIỆNG VỚI NGƯỜI KHÁC
Open your ears to God before you open your mouth to others
Chúa nhật 16 Thường niên Năm B cho chúng ta thấy tấm lòng mục tử của Thiên Chúa đối với: TN 16-B27
Chúa nhật 16 Thường niên Năm B cho chúng ta thấy tấm lòng mục tử của Thiên Chúa đối với dân Ítraen. Vì thương dân Ítraen, Thiên Chúa đã giao phó công việc chăm sóc dân cho một số người. Những người này được gọi là mục tử của dân vì được Thiên Chúa chia sẻ trọng trách chăn dắt và chăm lo cho dân được ví như là đoàn chiên. Nhưng các mục tử này đã không chu toàn trách nhiệm của mình khiến Thiên Chúa nổi giận và quyết định loại bỏ họ và thay thế họ bằng các mục tử đích thực. Đứng đầu và trên tất cả các mục tử chân chính là Con Một Thiên Chúa, Đấng xuất thân từ dòng tộc Đa vít và qui tụ tất cả mọi người thành một đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Gr 23,1-6: Là những lời sấm của Thiên Chúa về các mục tử không chu toàn trách nhiệm được giao “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác& Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi”Và cũng là những lời sấm về kế hoạch chấn chỉnh tình hình của Thiên Chúa: “Chính Ta sẽ qui tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng, họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa”Tột điểm của kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa là việc Con Một Người là Đức Giêsu Nadarét được gửi đến: “Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Ítraen được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy là “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”.
1.2 Bài đọc 2: Ep 2,13-18: Là những lời Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Ephêsô về những việc làm cụ thể mà Đức Giêsu đã thực hiện để ứng nghiệm các sấm ngôn của Thiên Chúa trong Giêrêmia về Vị Vua mà Người sẽ làm cho nẩy sinh từ dòng dõi Đavít: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một. Người đã hy sinh thân mình đề phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy khi thiết lập hòa bình Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 6,30-34: Cũng là sự ứng nghiệm sấm ngôn của Thiên Chúa trong Giêrêmia: Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa gửi đến, xuất thân từ dòng dõi Đa vít quả là Vị Mục Tử nhân hậu và vô cùng nhạy bén trước nỗi khổ của đám đông dân chúng: “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Không những Đức Giêsu thương đám đông dân chúng mà Người còn rất tế nhị trong đối xử với các môn đệ khi thấy họ vất vả vì công cuộc loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”Phúc âm Máccô phác thảo một chân dung đầy tính nhân bản của Vị Mục Tử Giêsu. Chạnh lòng thương dân, nên Đức Giêsu dạy dỗ họ nhiều điều. Chúng ta có thể khẳng định là Đức Giêsu đã dạy dân chúng về Nước Trời và về Tình Yêu của Thiên Chúa về cách sống đẹp lòng Thiên Chúa. Cũng vì chạnh lòng thương dân mà Đức Giêsu chữa lành các bệnh nhân, xua đuổi ma quỉ và làm các phép lạ. Nhất là vì chạnh lòng thương dân chúng mà Đức Giêsu đứng về phía họ, bênh vực quyền lợi của họ, làm bạn với hạng thứ dân và tội lỗi và sau cùng là chết trên thập giá vì mọi người. Đó là Vị Mục Tử mẫu mực mà hết mọi người chúng ta phải noi gương bắt chước.
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Mọi Kitô hữu đều là mục tử: Vào thời gian này trong năm, khắp các giáo phận thường có các đợt phong chức cho các tân linh mục. Cộng đồng dân Chúa lại được dịp hân hoan mừng các tân linh mục mới được giao tác vụ. Đồng thời có thời cơ và điều kiện thuận tiện để suy nghĩ và cảm nhận niềm vinh dự lớn lao và trách nhiệm nặng nề của người mục tử. Dĩ nhiên những người được gọi là mục tử chính danh trước hết là các Giám mục, linh mục, các bề trên các Nhà Dòng, các người phụ trách các cộng đoàn tín hữu. Nhưng mọi người đã chịu phép rửa tội đều đã được tham dự vào 3 chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Giêsu Kitô. Và nhờ vậy mà mọi Kitô hữu đều được mời gọi làm mục tử của cộng đoàn dân Chúa, tức được giao sứ vụ chăn dắt hướng dẫn và chăm lo cho người khác. Người cha người mẹ là mục tử đối với con cái. Người anh người chị là mục tử đối với các em. Các anh chị huynh trưởng là mục tử đối với đàn em trong hội đoàn, trong giới.
2.2 Được chọn làm mục tử là một niềm vinh dự lớn lao: Ba bài Sách Thánh Chúa nhật 16 thường niên năm B hôm nay cũng tập trung vào đề tài người mục tử của dân Chúa. Không phải tự nhiên mà một người trở thành mục tử. Chính Thiên Chúa đã có sáng kiến lập ra các mục tử để giao cho họ công việc chăn dắt và chăm lo cho đoàn chiên của Người là những con người, thay cho Thiên Chúa. Đó là một niềm vinh dự lớn lao không gì sánh bằng. Thật vậy, họ được diễm phúc đóng vai người thay thế chính Thiên Chúa để lo cho đồng loại, cho anh em mình. Họ chỉ việc thể hiện tấm lòng mục tử của Thiên Chúa đối với những người Thiên Chúa đã giao cho họ. Bằng các việc làm cụ thể và thiết thực. Nhưng trong lịch sử Cựu Ước đã có không ít mục tử vô trách nhiệm, thậm chí gian ác: họ chẳng những đã không thể hiện lòng yêu thương đối với dân chúng mà còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị để làm khổ, làm hại, bóc lột và hành hạ dân. Làm thế họ đã phản bội sự tin tưởng của Thiên Chúa và sứ vụ mà Thiên Chúa đã giao cho họ. Trước tình trạng tồi tệ ấy của các mục tử thời Cựu ước, Thiên Chúa lập lại chương trình lúc ban đầu của mình bằng việc loại bỏ các mục tử bất trung, bất lương để lập nên các mục tử mới. Và trên hết tất cả là Thiên Chúa gửi Con Một Người đến để chăm sóc và chăn dắt loài người. Vì Người là Thiên Chúa, đến từ nơi Thiên Chúa nên Người diễn tả được hết tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa và nhậy cảm với nỗi khổ của dân. Người đã làm hòa con người với Thiên Chúa và làm hòa con người với nhau. Người đã liên kết người ở trong và kẻ ở ngoài, người ở gần và kẻ ở xa thành một cộng đoàn, một gia đình. Người đã đánh tan sự thù ghét là bức tường ngăn cách giữa các tâm hồn. Người đã đem bình an và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Người thực hiện những kỳ công ấy bằng cách hy sinh chính mạng sống mình. Vì thế Người trở thành mẫu mực của tất cả các mục tử trên trần gian này.
2.3 Được chọn làm mục tử là một trách nhiệm nặng nề: Vinh dự càng cao thì trách nhiệm càng lớn - onus honor - đó là châm ngôn của người xưa. Thật vậy để thực thi sứ mạng mục tử những người được chọn phải biết hy sinh và quên mình để chăm lo cho tha nhân đồng loại. Sống hy sinh quên mình và phục vụ cách vô vị lợi là một cách sống ngược đời, không phải ai cũng hiểu gía trị và cũng có khả năng thực hiện. Con người chúng ta luôn có khuynh hướng ích kỷ chỉ biết phục vụ chính bản thân mình mà thôi. Con người luôn có xu hướng mưu tìm hạnh phúc và lợi lộc của cá nhân và gia đình hay phe nhóm. Mở rộng tấm lòng và bàn tay với những người không phải ruột thịt là một việc vô cùng khó. Hơn nữa, con người dễ bị lôi cuốn bởi những hấp lực vật chất và thuộc lãnh vực cảm giác. Để sống và thực thi ơn gọi làm mục tử người được chọn phải tập chết mỗi ngày tức tập từ bỏ ý riêng, sở thích, tiện nghi, thời gian, của cải&.. để phục vụ con người.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương và nhân ái. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã luôn quan tâm đến con người, đến chúng con. Cha không chỉ ban mọi ơn lành cho chúng con mà Cha còn dùng nhiều tôi tớ của Cha chăm lo, săn sóc và giúp đỡ chúng con. Nhất là Cha đã ban Chúa Giêsu cho chúng con, để nhờ Người mà chúng con được hòa giải cùng Cha và hòa giải với nhau. Chúng con xin cảm tạ tấm lòng mục tử của Cha. Chúng cũng xin xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì ơn được làm mục tử mà Cha đã ban cho chúng con để chúng con được làm người chăm lo cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu là Vị Mục tử tốt lành. Chúa đã chạnh lòng thương thân phận yếu đuối và tội lỗi của dân chúng. Chúa đã đem Tin Mừng Cứu độ cho họ và cho chúng con. Chúa đã chết vì mọi người để mọi người được sống. Chúa đã làm gương cho chúng con trong việc yêu thương và chăm lo cho người khác. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con quyết tâm noi theo gương lành của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con. Amen.
Đức Giêsu là một mục tử tốt lành. Người luôn lo lắng săn sóc đàn chiên là các môn đệ và đám: TN 16-B28
Đức Giêsu là một mục tử tốt lành. Người luôn lo lắng săn sóc đàn chiên là các môn đệ và đám đông dân chúng nô nức theo Người. Trước sự lao nhọc vất vả của các môn đệ phục vụ dân chúng đến nỗi không có cả thì giờ ăn uống, Người ra lệnh cho các ông phải vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Nhưng khi xuống thuyền, thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến đang chờ sẵn thì Người đã “chạnh lòng xót thương”và đã tận tình rao giảng Tin Mừng và chữa các bệnh tật cho họ.
2) CHÚ THÍCH:
- Các tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẵng có thì giờ ăn uống nữa (Mc 6,30-31):
+ Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu và kể lại cho Người biết mọi việc: Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã trở về họp lại quanh Thầy để báo cáo về những gì các ông đã làm và đã dạy là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối”(x Mc 6,12). Những việc các ông đã làm là: “trừ quỷ, xức dầu nhiều người đau ốm và chữa cho họ khỏi bệnh”(x Mc 6,13). Đây là hai việc Đức Giêsu đã làm và truyền cho các ông làm khi sai họ đi thực tập truyền giáo.
+ Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Đức Giêsu cảm thông với các Tông Đồ đã chịu nhiều nỗi vất vả trong hành trình truyền giáo. Người quan tâm đến chính bản thân các ông là những cộng tác viên của Người. Ơ đây Nhóm 12 Tông Đồ là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu. Họ có bổn phận dấn thân hoạt động thừa sai truyền giáo, nhưng cũng cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền.
+ Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống: Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đi theo Môsê trong hoang địa Xinai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông Đồ: Các ông đã làm cho người ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, rồi khao khát tìm kiếm Người để được Người ban ơn Cứu Độ.
- Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài (Mc 6,32-33):
+ Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng: Đức Giêsu muốn cho các Tông Đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được bồi dưỡng thêm.
+ Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài: Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán được nơi các ngài sắp đến miền Bétsaiđa và Giulia lân cận, xa chừng 10 cây số. Dân chúng không quản ngại đường xa, đã đi bộ ven bờ và đến nơi trước thầy trò. Điều này cho thấy: Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời thánh Phaolô: “Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng tôi “ (2 Cr 5,14).
- Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6,34):
+ Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương: “Chạnh lòng thương”hay “Động lòng trắc ẩn”là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng nhiều lần đã thuật lại các phép lạ Đức Giêsu làm do “động lòng thương”như: Chữa hai người mù tại Giêricô (x Mt 20,34); Phục sinh con trai bà goá thành Nain (x Lc 7,13); Chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh bị ma quỷ ám (x Mc 9,22).
+ Vì họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt: Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người có bổn phận dạy dỗ dân là các tư tế và các kinh sư. Nhưng họ đã lười biếng và chỉ lo tìm tư lợi, nên đã không chu toàn bổn phận như lời Ngôn sứ Edêkien tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao ? Sữa cho các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên các ngươi lại không lo chăn dắt: Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm”(x Ed 34,1-6).
+ Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Dạy nhiều điều là những điều gì ? Tin mừng Luca đã trả lời như sau: “Đức Giêsu tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa”(Lc 9,11).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) ANH EM HÃY LÁNH RIÊNG RA NƠI THANH VẮNG MÀ NGHỈ ĐÔI CHÚT (c 31)
CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH TINH THẦN CỦA CHA SỞ XỨ ÁT-SƠ (ARS):
Một người có học lực kém, nhưng đã trở thành một vị thánh đặc biệt là thánh Gioan Maria Vianney. Ngài sinh tại Đa-đi-di nước Pháp vào năm 1786 trong một gia đình nông dân nghèo nhưng rất đạo đức. Vì nghèo nên Gioan không được đến trường như các trẻ khác. Nhưng bù lại, Gioan có cha mẹ đạo đức nên đã được quan tâm giáo dục về đức tin ngay từ khi còn nhỏ. Gioan tỏ ra trổi vượt hơn các trẻ em khác đồng lứa tuổi về lòng đạo đức, lòng tôn sùng yeu mến Đức Mẹ và tình thương dành cho người nghèo. Mãi đến năm 18 tuổi, Gioan mới biết đọc biết viết và được Cha Ben-lây dạy dỗ chuẩn bị vào chủng viện. Nhưng đến tuổi nhập ngũ, nên Giaon đành phải bỏ dở học hành. Rồi sau đó bị ngã bệnh nặng, nên Gioan được giải ngũ và được tiếp tục học trong chủng viện. Đến năm 1815, dù học kém, nhưng trổi vượt về lòng đạo đức, nên Gioan được thụ phong Linh mục. Sau ngày thụ phong, tân linh mục Gioan được sai về làm phó cha xứ Ben-lây và 2 năm sau được bổ nhiệm làm cha sở họ At-sơ (Ars), một họ đạo vừa nhỏ bé nghèo nàn, lại vùa khô khan nguội lạnh vì lâu ngày không có linh mục coi sóc. Trong ngày nhận nhiệm sở mới, việc đầu tiên cha Gioan làm là vào nhà thờ cầu nguyện, xin Chúa giúp chu toàn nhiện vụ chủ chăn, và ngài còn xin cho giáo dân họ At-sơ này sớm ăn năn hối cải trở nên đạo đức hơn.
Sống giữa đoàn chiên, cha Gioan luôn nêu gương hãm mình đền tội, sốt sắng cầu nguyện và khiêm tốn phục vụ. Ngay từ sáng sớm, cha đã đến cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể trước nhà tạm. Cha ăn uống rất đơn sơ, luôn hãm mình để cầu xin cho đoàn chiên sớm cải thiện đời sống. Trước gương sáng đạo đức thánh thiện và được ơn Chúa ban, giáo dân họ At-sơ đã được ơn biến đổi. Những người trước đó lười biếng thì nay trở nên siêng năn hơn, họ đi xưng tội và rước lễ hàng ngày cách sốt sắng. Tiếng thơm nhân đức của cha sở họ At-sơ đã khiến nhiều người từ nơi khác kéo đến xin xưng tội và nhờ hướng dẫn về thiêng liêng. Hàng ngày cha Gioan thức dậy ngay từ 1 giờ sáng. Ngài dành nhiều giờ để đọc kinh nguyện gẫm và dâng Thánh lễ. Sau đó ngồi toà giải tội mỗi ngày trung bình 16 giờ đồng hồ. Vì làm việc nhiều, nên cuối cùng bị kiệt sức, ngài ngã bệnh nặng liệt giường và qua đời năm 1859, thọ 73 tuổi. Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô 11 đã phong cha Gioan lên bậc hiển thánh và đặt làm bổn mạng của các cha sở.
SUY NIỆM:
+ Cuộc đời của cha sở xứ At-sơ cho ta thấy rằng: sức mạnh thiêng liêng chinh phục được tâm hồn người ta không phải là tài trí giỏi giang, nhưng là do ơn Chúa nâng đỡ. Thánh Gioan Vianney tuy không tài giỏi, nhưng rất tích cực làm việc và có đời sống nội tâm sâu xa. Hoạt động mục vụ của cha xây dựng trên ba trục chính như sau: Một là sống khắc khổ qua việc hãm mình hy sinh; Hai là tôn sùng phép Thánh Thể và yêu mến Mẹ Maria; Ba là hăng hái rao giảng Tin Mừng, kêu gọi tội nhân sám hối nơi toà giải tội.
+ Trong việc mục vụ, người ta chỉ có thể đạt được thành quả tốt đẹp khi biết kết hiệp với Chúa. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi nghe các Tông Đồ báo cáo thành quả đã đạt được, Đức Giêsu đã truyền cho các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi, cho dù khi ấy dân chúng đang nô nức kéo nhau tới rất đông. Việc nghỉ ngơi không chỉ là sự giải lao bình thường, nhưng còn để được bồi dưỡng về tinh thần. Thời gian tĩnh tâm là dịp để các Tông Đồ ở bên Chúa, được kết hiệp với Chúa, hầu được gia tăng lòng yêu mến Chúa. Thời gian nghỉ ngơi là lúc kiểm điểm đời sống để sửa chữa những lỗi lầm thiếu sót, bồi dưỡng về đức tin để chuẩn bị đi truyền giáo đạt kết quả tốt hơn. Nơi thanh vắng cũng là một điều kiện thuận lợi để nhờ đó, việc tông đồ sẽ phát sinh hiệu quả tốt đẹp.
QUYẾT TÂM: Tĩnh tâm để kiểm điểm, học hỏi, suy nghĩ và cầu nguyện là những việc đạo đức mà mỗi tín hữu phải làm trong đời sống đức tin của mình. vậy trong những ngày này, mỗi ngày tôi phải làm gì để “vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”, như lời Chúa dạy các Tông Đồ trong bài Tin Mừng hôm nay ? 2) ĐỨC GIÊSU THẤY MỘT ĐÁM NGƯỜI RẤT ĐÔNG THÌ CHẠNH LÒNG THƯƠNG VÀ NGƯỜI BẮT ĐẦU DẠY DỖ HỌ NHIỀU ĐIỀU: CÂU CHUYỆN: CẦN TẾ NHỊ VÀ KHÔN NGOAN KHI LÀM VIỆC TÔNG ĐỒ: - Prơ-ma-năng (Premanand) là một Kitô hữu thuộc tầng lớp quí tộc An độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật như sau: _Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là: “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau: Bản thân tôi hay bất cứ ai trong các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người An có trình độ văn hóa cao, theo đạo rồi hay chưa, mà khi tiếp xúc với họ lại tỏ ra nóng nảy miễn cưỡng &với lý do là không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghĩ trưa& thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giờ còn quay trở lại nữa !”.
- Prơ-ma-năng tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị Giám Mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Ben-gal (Băng gan) thuộc An độ như sau: Một hôm, ông Păng-đi Vi-đi-sa-ga (Pandit Vidyasagar), là sáng lập viên trường cao đẳng An độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ong được các người theo An Giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Công Giáo mà vị Giám mục là đại diện. Nhưng sự việc xảy ra thật đáng tiếc: Vị Giám Mục đã không ra tiếp, mà chỉ sai một linh mục thư ký gặp gỡ qua loa, khiến ông Păng-đi ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ rằng mình bị vị Giám mục kia coi thường. Sau đó, ông ta đã đứng ra thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như: Người thì thuộc lớp quí tộc, người khác lại giới trí thức, cũng có nhiều người giàu có và đầy thế lực xin gia nhập& Họ thề sẽ hợp tác với nhau chống lại Giáo Hội Công Giáo, và tìm cách ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo tại nước An độ….
SUY NIỆM:
+ Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách xử sự thiếu mềm dẻo, tế nhị và khôn ngoan của một người có trách nhiệm mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua ! Chính sự câu nệ hình thức và quan liêu của vị Mục tử của Giáo Hội địa phương lúc đó, đã biến một người có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm sau này của Giáo Hội.
+ Thực ra, đây không phải là một trường hợp cá biệt. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự tương tự của một vài vị Mục tử khiến cho nhiều người bất mãn và có ác cảm với Giáo Hội. Chẳng hạn: Có vị Mục tử không tiếp khách đến xin liên hệ về hôn phối, dù là khách từ nơi xa, nếu họ đến không đúng ngày giờ trong tuần dành riêng cho việc làm các thủ tục hôn phối ! Có nơi ngoài các thủ tục chính thức, còn bày ra thêm nhiều lệ riêng của giáo xứ, gây nhiều phiền hà cho các người muốn kết hôn. Chẳng hạn: đòi đương sự dù đang sống và làm việc xa nhà cà hàng ngàn cây số, phải trở về giáo xứ quê mình để đích thân xin giấy chứng Rửa Tội và còn độc thân, đang khi có thể cấp qua thân nhân của họ !. Có nơi buộc mọi thanh niên nam nữ muốn kết hôn, phải học các khóa giáo lý hôn phối kéo dài nhiều tháng tại nhà xứ, đang khi có thể linh động giải quyết cho họ được học tại nơi nào khác thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống của họ !&
+ Một câu chuyện có thật đã xảy ra tại một giáo xứ nọ: Một anh thanh niên Công Giáo kia đã bị người có trách nhiệm gây khó dễ đủ điều khi xin chịu phép hôn phối. Anh ta rất bất mãn và sau đó quyết định bỏ đạo, không còn đi dự Thánh lễ Chúa Nhật tại nhà thờ giáo xứ mình, mà đưa vợ con đến tham dự các buổi giảng Thánh Kinh tại nhà thờ Tin lành gần đó. Về sau, khi được một bà cô khuyên bảo thì anh đã nói như sau: “Thưa cô, cháu phải thú thật với cô rằng: từ khi bỏ không đến nhà thờ Công Giáo đến giờ, cháu cảm thấy tâm hồn thầt thoải mái, giống như đã trút bỏ được một gánh nặng nề trên vai. Cháu cám ơn cô đã khuyên bảo. Nhưng về vấn đề này, xin cô thông cảm và cho cháu được tự do làm theo ý cháu !”.
+ Những cách xử sự cứng rắn và thiếu thông cảm của một số các vị chủ chăn nói trên thật không giống chút nào với thái độ yêu thương cảm thông của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Trước sự khao khát chạy đi tìm kiếm Chúa của đám đông dân chúng, Đức Giêsu đã “ chạnh lòng xót thương”, vì họ giống như một đàn chiên không người chăn dắt. Rồi người đã bỏ dự tính nghỉ ngơi ở nơi thanh vắng, “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Ước chi các mục tử đang có chăn dắt các linh hồn có được tâm tình giống như Đức Giêsu, vị Mục Tử tối cao. Mỗi khi bị người khác đến làm phiền, thay vì có những biểu hiện khó chịu qua nét mặt cau có hay thái độ thiếu thân thiện của mình, thì các ngài biết nhẫn nại chịu đựng và vui vẻ tiếp đón họ như người mục tử tìm kiếm những con chiên lạc.Nhất là trong Thánh lễ An Táng hay Hôn Phối có nhiều thân nhân không Công Giáo đi tham dự, vị Linh mục Chủ Tế cần ý thức rằng: đây là cơ hội thuận lợi nhất để rao giảng Tin Mừng và được người ta lắng nghe. Do đó cần thận trọng từng thái độ và cử chỉ trong khi cử hành Thánh lễ. Nhất là bài giảng, để gây thiện cảm với họ và giúp họ hiểu biết tình thương của Chúa và đi theo Người.
QUYẾT TÂM: Tôi quyết tâm giữ nét mặt vui tươi mỗi khi giao tiếp với tha nhân.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Con xin cảm tạ tình thương bao la của Chúa: Trái tim từ bi nhân hậu của Chúa đã luôn rộng mở để yêu thương con và mọi người; Tâm hồn của Chúa luôn nhạy bén trước những nhu cầu của tha nhân đang cần được đáp ứng, những bệnh nhân đang cần được chữa lành, những người đau khổ đang cần được sẻ chia an ủi !
Lạy Chúa Giêsu. Hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi người tín hữu chúng con hôm nay. Ơn gọi của con là trở nên khí cụ bình an của Chúa, là mau mắn đến với tha nhân, hiểu biết những tâm tư nguyện vọng của họ để phục vụ với tâm tình của Chúa. Con muốn sống đời bác ái yêu thương theo lời mời gọi của Chúa. Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói khát cơm bánh vật chất, đang khao khát nghe giảng Tin Mừng để con đáp ứng với hết khả năng. Xin giúp con luôn có tâm tình “chạnh lòng xót thương”để nên giống Chúa trong cuộc sống hôm nay.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ)Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Khi xưa, trong ngày truyền tin, vừa được sứ thần cho biết bà chị họ Elisabét đã có mang được sáu tháng. Mẹ liền hiểu biết nhu cầu của bà, nên đã vội vã lên đường viếng thăm chia sẻ niềm vui ơn cứu độ, khiến trẻ Gioan còn trong dạ mẹ đã nhảy mừng hân hoan. Mẹ đã tình nguyện ở lại ba tháng trước ngày Elisabét sinh con, để động viên giúp đỡ bà và âm thầm phục vụ gia đình bà, như một cô em gái thân thương sẵn sàng dấn thân và khiêm nhường phục vụ bà chị của mình. Lạy Mẹ Maria, xin giúp con hôm nay có được tâm hồn yêu thương nhạy cảm như Mẹ xưa. Noi gương Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, xin Mẹ giúp chúng con không chỉ bằng lòng với việc cảm thông và nói lời an ủi suông, mà còn tích cực yêu thương bằng hành động cụ thể là mau mắn đáp ứng nhu cầu của tha nhân với hết khả năng của mình.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
1. Khả năng “chạnh lòng thương” và hy sinh cho dân chúng
Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử: TN 16-B29
Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc một, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người Mục Tử, đặc biệt khả năng “chạnh lòng thương” như Đức Giê-su trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ.
Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giê-su giảng dạy “như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” ( Mt 7, 29 ), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giê-su và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các Môn Đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài “chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giê-su từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Tại sao ? Vì Ngài luôn luôn “chạnh lòng thương” trước nỗi cùng khốn của họ, “họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì.
2. Mọi mục tử cần có khả năng “chạnh lòng thương”
Ước gì mọi mục tử – là những người muốn noi gương Đức Giê-su một cách đặc biệt và triệt để hơn những Ki-tô hữu bình thường khác – cũng có khả năng “chạnh lòng thương” trước những nỗi cùng khốn của những “con chiên” mình chăn dắt. “Chạnh lòng thương” để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm... khi họ cần mình giúp đỡ.
Tôi có quen và rất cảm phục một Linh Mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến Xức Dầu hoặc Giải Tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các Linh Mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với người kia về sự sẵn sàng của vị Linh Mục nhiệt tâm ấy, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng “chạnh lòng thương” của ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: làm cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong Giáo Phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều Linh Mục như ngài !
3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta “chạnh lòng thương”
Đức Phật nói: “Đời là bể khổ”. Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử – vốn là hiện thân của Đức Giê-su – cần phải có khả năng “chạnh lòng thương” hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giê-su đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” ( Cv 10, 38 ).
Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để “thi ân giáng phúc” như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử – gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng “Mục Tử” của Ngài – để thay Ngài và nhân danh Ngài “thi ân giáng phúc” cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ !
4. Những “mục tử ghẻ”
Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những “con chiên ghẻ” thì thời nào cũng có những “mục tử ghẻ” như Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a mô tả trong bài đọc I. Những “mục tử ghẻ” là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt ( x. Ed 36, 26 ), không có khả năng “chạnh lòng thương” như Đức Giê-su. Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình.
Họ được Đức Giê-su mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” ( Ga 10, 12 ).
Tệ hơn nữa, nhiều “mục tử ghẻ” lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ “đức tin chết” ( Gc 2, 26; x. 2, 17 ), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi.
Trong một xã hội phi nhân và bất công, “đàn chiên” của những “mục tử ghẻ” ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. Ki-tô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giê-su: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho” ( Mt 11, 28 ).
5. Số phận của những Mục Tử
Nếu những Mục Tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói về số phận các mục tử xấu ấy: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi” ( Gr 23, 1 – 2 ). Ngôn sứ Da-ca-ri-a cũng viết: “Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử” ( Dc 10, 3 ); “Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan” ( 11, 3 ).
Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được ? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết “chạnh lòng thương” và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những Mục Tử biết “chạnh lòng thương”. Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a ( Gr 23, 4 ). Amen.
Phải hy sinh vì nếu ta không hy sinh: Đời sống thiêng liêng của ta trở nên nguội lạnh: TN 16-B30
Phải hy sinh vì nếu ta không hy sinh:
Đời sống thiêng liêng của ta trở nên nguội lạnh. Đó là dấu ta chưa mến Chúa, chưa thánh thiện.
Hy sinh là:
Dấu chỉ chúng ta có tình yêu đích thực. Điều kiện thống nhất được hồn xác. Phương thế giúp chiến thắng mọi tội lỗi. Dấu chứng của niềm hy vọng vào Chúa Giê-su Phục Sinh và Quang Lâm.
2. PHẢI HY SINH NH”NG GÌ ?
Phải hy sinh:
Những gì làm ta xa Chúa, nhất là chính giác quan của ta. Từ những việc nhỏ đến cả những việc lớn như hy sinh mạng sống. Chính mình chứ không phải kẻ khác.
3. PHẢI HY SINH THẾ NÀO ?
Phải hy sinh:
Cách chân thật theo tinh thần Phúc Âm Vì Chúa và vì các linh hồn Cách âm thầm trong cả cuộc sống.
4. ĐÂU LÀ NH”NG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ TA PHẢI HY SINH ?
Đây là vài trường hợp cụ thể ta phải hy sinh:
Mau mắn trỗi dậy lúc ban sáng.
Tươi cười với một người nói móc họng thinh lặng trước một vu cáo bất công, yêu thương một người bạn phản bội, không nói một lời hóc búa trả đũa.
Khi sống giữa những người khác lập trường, quan điểm.
Khi gặp người làm khó, làm hại ta.
5. ĐỨNG TRƯỚC HY SINH TA PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO ?
Đứng trước hy sinh, ta phải có thái độ can đảm chấp nhận thay vì nhát sợ, trốn tránh.
Thập Giá đời Tu Sĩ
Thánh Louis de Gonzaga là một Tu Sĩ Dòng Tên sống đời trinh khiết, siêu việt như thiên thần. Tuy nhiên, vì vẫn là con người, nên ngài không thể không cảm thấy thấm thía những Thánh Giá do đời sống cộng đoàn đem lại: đó là những xích mích, va chạm không làm sao tránh khỏi. Và ngài đã chấp nhận vác lấy cách khiêm tốn, vui tươi, coi đó là một dịp đền tội, như lời ngài nói: “Việc đền tội lớn nhất của tôi là đời sống cộng đoàn”.
Hy sinh và nguyện ngắm đi đôi: nếu con không hy sinh, con đừng phàn nàn vì nguyện ngắm nguội lạnh ( ĐHV 148 ).
Con phải hy sinh nhiều khi sống giữa những người khác chính kiến con, khác địa vị con, khác lý tưởng con. Hãy xem gương Chúa Giê-su là Thiên Chúa, Ngài sống giữa loài người tội lỗi, 33 hy sinh liên lỉ ( ĐHV 149 )
Nếu con không hy sinh bên ngoài, không ai tin con hy sinh bên trong. Hy sinh giác quan rất quan hệ, Đa-vít đã sụp đỗ vì không giữ mắt ( ĐHV 160 ).
Những hy sinh của vị Thánh nhỏ
Trong truyện “Một Tâm Hồn”, Thánh Nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su có thuật lại một hy sinh rất đẹp của Thánh Nữ: “Một lần kia tại nhà giặt, con ngồi giặt trước mặt chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào con. Thoạt đầu con muốn lùi lại lau mặt cho chị ấy biết để đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghĩ lại như thế là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng mình một cách đại lượng, và con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa, con lại cố nén mình để ước ao nước bẩn ấy bắn lên con nhiều hơn nữa. Qua nửa giờ con đã cảm thấy sự vui thú được vấy nước bẩn”. Ở một đoạn nhật ký khác, chị viết: “Với lòng kính mến Chúa, thì dù cúi xuống nhặt một cái kim nhỏ, ta cũng cứu được một linh hồn”.
Một lần nọ, chị coi nhà liệt khuyên ngài nên đi bách bộ ngoài vườn 15 phút. Ngài coi lời khuyên đó như một mệnh lệnh. Bữa kia, vào lúc quá trưa, một chị trông ngài bước đi khó khăn quá, mới thương hại bảo rằng: “Chị về nằm nghỉ có lẽ lợi hơn đi bách bộ, đi như thế chỉ mệt thêm”. Ngài thưa lại: “Vâng chính thế ! Nhưng chị có biết em lấy sức gì để đi được như thế không ? Em đi để làm ích cho một vị truyền giáo, với ý nghĩ: Ở cõi xa xăm kia, có vị truyền giáo dường như đã kiệt sức vì mải miết theo đuổi công cuộc mở mang Nước Chúa; em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để vị Tông Đồ ấy đỡ nhọc mệt”.
Gặp một người làm khổ, con có thể có hai thái độ: “Người này hại tôi; người này thánh hóa tôi” ( ĐHV 150 ).
Đừng hy sinh kiểu biệt phái Pha-ri-sêu, hãy hy sinh theo Phúc Âm ( ĐHV 154 ). Không hy sinh nơi những việc nhỏ, con sẽ đầu hàng trước những hy sinh lớn lao (ĐHV 164 ).
Để thúc đẩy con, mỗi lần hy sinh, con định rõ một mục tiêu: cứu một linh hồn; dâng cho một bệnh nhân; cầu cho Hội Thánh ở một địa phương gây cấn ( ĐHV 165 ).
Một chứng tích tình yêu
Cha Maximilien Kolbe, người Balan, một Tu Sĩ Dòng Phan-xi-cô rất hăng say hoạt động. Ngài đã tình nguyện sang truyền giáo ở Nhật, đặc biệt chuyên ngành ấn loát sách báo để truyền giáo, người cũng đã có dịp ghé qua Sai-gòn, nhưng vì bệnh lao phổi, phải trở về Ba-lan điều trị. Tại quê nhà, cha Kolbe vừa chữa bậnh vừa hoạt động không ngừng. Ngài dùng sách báo để truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ. Ngài quá trông cậy, kính yêu Đức Mẹ đến nỗi được người ta gán cho biệt hiệu: “Người con điên của Đức Mẹ”.
Lúc Phát-xít Đức chiếm đóng Ba-lan, chúng thấy ảnh hưởng ngài trên quần chúng quá mạnh nên đã tống ngài vào ngục. Một ngày nọ, trại giam của ngài có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh thấy mất một người, viên sĩ quan áp dụng ngay luật lệ của người Phát-xít Đức: hễ một tù nhân trốn thoát, mười người tù khác phải đền mạng.
Trên sân nhà tù, ai nấy đều thinh lặng và khiếp đảm. Viên sĩ quan coi tù ngục vừa giận dữ rảo bước đưa tay chỉ định: tên này... tên này... Những ai đã bị điểm mặt phải sang sắp hàng một bên. Chợt có một tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ”. Giữa bầu khí thinh lặng và rùng rợn ấy, một tù nhân bước ra khỏi hàng, đứng im cách nghiêm nghị. Viên sĩ quan Đức quát hỏi:
Mi là ai ?
Maximilien Kolbe, Linh Mục Công Giáo !
Mi muốn gì ?
Tôi xin tình nguyện chết thay cho anh bạn tù này ( ngài đưa tay chỉ vào người vừa la thất thanh ), vì anh còn con thơ vợ dại.
Muốn ngu thì cho ngu ! Vào sắp hàng thế, còn tên kia được tha !
Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngẩn, ngạc nhiên, thán phục... Viên sĩ quan Đức hô lớn: “Sắp sẵn ! Đi !” Mười người lặng lẽ đi vào phòng giam đói của nhà ngục. Theo lời các tù nhân thuật lại, thường những kẻ bị giam đói khóc lóc, chửi rủa cho đến khi tắt hơi. Cha Kolbe luôn miệng khuyến khích, thúc giục mọi người cầu nguyện. Các tù nhân bên ngoài nghe tiếng họ hát và đọc kinh, ban đầu lớn, càng về sau càng yếu đi, rồi đến một lúc thì hoàn toàn im lặng. Ngày thứ mười hai, của phòng giam đói được mở ra. Mọi người đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân hình tàn rũ. Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuộc độc ân huệ. Vị Linh Mục chết ngay. Họ đưa xe đến xúc xác ngài và các bạn tù đổ vào lò đốt.
Mấy mươi nam sau, vào năm 1972, Tòa Thánh đã tôn phong ngài lên bậc chân phước, sau khi cứu xét kỹ lưỡng các nhân đức anh hùng của vị Linh Mục. Giây phút cảm động nhất trong Thánh Lễ do Đức Phao-lô 6 chủ tế trong buổi tôn phong ấy là hồi dâng lễ vật: một đoàn người tiến lên mang bánh, rượu, nến và hoa hồng trắng đỏ: hoa hồng trắng chỉ sự trinh khiết, hoa hồng đỏ chỉ sự hy sinh Tử Đạo. Đoàn người dâng lễ gồm có người Ba-lan, đồng hương của ngài, và vài thiếu nữ mặc quốc phục Nhật-bản, nơi ngài đã đến truyền giáo. Cảm động hơn cả là lúc Đức Thánh Cha ôm hôn ông già bưng cái chén thánh tiến lên: đó chính là tù nhân đã được cha Kolbe thế mạng. Trong lúc ấy, toàn thể cộng đoàn hát vang khúc tình ca: “Không có tình yêu nào cao quý bằng chết thay cho bạn hữu”. Chứng tích sờ sờ trước mắt khiến nhiều người hôm ấy không cầm nổi giọt lệ...
Hy sinh con, đừng hy sinh kẻ khác ( ĐHV 158 ).
“Vì Chúa yêu thương môn đệ, Ngài đã yêu thương đến cùng”. Tận cùng ấy là Thánh Giá. Hy sinh của con phải trọn vẹn, phải là lễ toàn thiêu, nếu “yêu tận cùng” ( ĐHV 161 ).
Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình ? Anh hùng thinh lặng khó lắm ! ( ĐHV 171 ).
Cha Damien, Tông Đồ Người Cùi
Hòn đảo xa xăm ấy nằm cô đơn giữa lòng Thái Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người cùi: cụt tay, đứt chân, mắt đui mày lở, răng rụng... Một hôm Đức Giám Mục đặc trách quần đảo gióng tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khỏe mạnh hăng hái đáp lời: đó là cha Damien, người về sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ Người Cùi”.
Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ đông nghẹt những người cùi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc, Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu với Giáo Dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Damien, một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết. Các con có sung sướng không ?” Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Damien đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tí nào. Rồi họ từ từ tiến lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Damien càng nhìn thấy họ đến gần càng sởn tóc gáy. Họ trông như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây ? Họ tiến đến bên cha sờ vào mặt, vào tay, vào áo cha... Cha hỏi Đức Giám Mục: “Họ làm gì thế ? nói gì thế ?” Đức Cha trả lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con thân thiết gì với họ, còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như cha, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mẽnh đất cùng khốn này. Họ không thể tin mắt mình nên mới đến sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị phung cùi như họ không. Rồi họ nói với nhau: Không, cha đẹp trai quá !”
Dần dần, cha Damien hòa đồng được với họ. Ngài không còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn, ngài đã quá yêu Chúa Giê-su bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn thấy e sợ, gớm ghiếc chi ! Một ngày kia, đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi. Thân hình cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày cha sù sì, đen đủi, u nần trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha mô tả sự hy sinh vĩ đại của cha. Bà cụ của cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào hình cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu. Bà hỏi con cháu: “Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy ?” Con cháu trả lời: “Một người cùi bên đảo Molokai của anh Damien đó !” Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ.
Cha Damien đã sống với người cùi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Nếu biết chế ngự bằng hy sinh: linh hồn và xác con là hai người bạn đoàn kết và vô địch. Nếu không biết chế ngự: hồn và xác con là hai kẻ thù không bao giờ lìa xa nhau được ( ĐHV 168 ).
Có những người hy sinh mà muốn mọi người biết mình hy sinh; có những người không hy sinh mà muốn mọi người biết mình hy sinh; có những người hy sinh luôn mà không muốn ai biết mình hy sinh ( ĐHV 170 ).
Con có thể hy sinh mạng sống, hy sinh cả cuộc đời, vì hy vọng chan chứa với Chúa Giê-su: “Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên Trời, Người sẽ trở lại trong vinh quang... Nước Người sẽ không bao giờ cùng” ( ĐHV 174 ).
Viên đá đầu tiên dính đầy máu đỏ
“Viên đá đầu tiên dính đầy máu đỏ !” Đó là lời của một Linh Mục Thừa Sai thốt lên vào năm 1896 trên mảnh đất lương dân nghịch đạo ở Cayenne, vùng Saint Oueen. Khi vừa thấy chiếc áo Dòng thâm của vị Thừa Sai xuất hiện, một người đàn bà lấy đá ném thẳng vào vị Linh Mục Thừa Sai. Ngài bình tĩnh cúi xuống nhặt viên đá dính đầy máu và thốt lên câu nói bao dung ấy.
Thời gian trôi qua, vị Linh Mục vẫn bền chí hy sinh, tiếp xúc, cầu nguyện, gặp gỡ, rao giảng... cho đến một hôm, viên đá dính đầy máu đỏ xưa kia trở thành viên đá đầu tiên của ngôi Nhà Thờ xây trên xứ ấy để dâng kính Đức Mẹ. Hội Thánh Chúa luôn luôn lớn lên từ những hy sinh của con cái mình. Thiên hạ nói: “Người này là mối họa cho tôi !” Con phải nói: “Người này là khí cụ Chúa dùng biến đổi tôi !” ( ĐHV 151 ).
Không hy sinh, không có nhân đức thánh thiện. Ai chưa “bỏ mình vác thánh giá” thì chưa “theo Thầy” được. Đó là điều kiện tiên quyết ( ĐHV 157 ).
Người hy sinh biết rộng lượng trước kuyết điểm của người và nghiêm khắc trước khuyết điểm của mình ( ĐHV 169 ).
Hy sinh để cám ơn Chúa
Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý qua Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công Đồng Vatican 2 về, có một cô chiêu đãi viên rất đẹp. Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không là của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh của nước Mỹ. Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám Mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nhgiêm trang nửa bông đùa: “Cô đẹp lắm ! Cô hảy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp !”
Vài hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen, cô chiêu đãi viên hôm nọ xuất hiện. Nàng vào đề ngay:
Câu nói của Đức Cha làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa như thế nào ?
Cô biết trại phong cùi Di Linh ở Việt nam không ?
Vâng, con đọc báo có nghe đến !
Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người cùi ở đó mà ban cho cô. Cô hãy tình nguyện qua bên đó mà an ủi họ.
Chỉ từng ấy ! Cô chiêu đãi viên sau đó trút bỏ cả tương lai huy hoàng, khoác bộ áo nữ tu, và sau một thời gian tập sự học hỏi, đã tình nguyện sang Việt Nam phục vụ, ngay giữa những người cùi Di Linh, để cám ơn Chúa vì đã ban cho mình sắc đẹp (Chú thích của Gospelnet: Chúng tôi đã hỏi thăm các Soeurs Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn, và được biết chị Nữ Tu nêu trên tên là Marie Louise Banet, người Pháp, sau khi đành phải rời Việt Nam sau năm 1975, đã tiếp tục xin đi truyền giáo phục vụ người phong tại Phi Châu, và đã qua đời ngày 14.3.1982 vì căn bệnh ung thư ).
Con nghĩ rằng con không có gì để hy sinh cho Chúa, nhưng Chúa thấy con bỏ quá nhiều dịp: tươi cười với một người nói móc họng con; thinh lặng trước một vụ vu cáo bất công; yêu thương một người bạn phản bội; không nói một lời hóc búa trả đũa. Mọi giây phút đều có dịp hy sinh ( ĐHV 153 ).
Vì yêu thươg sẵn sàng hy sinh tất cả: “Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy trỗi dậy và ra đi !” ( ĐHV 159 ).
Đôi mắt trao tặng kẻ mù
Cuối năm 1955, tại một bệnh viện, người ta nghe tiếng cha Don Gnochi thì thầm với bác sĩ: “Khi tôi mất rồi, xin bác sĩ móc hai mắt tôi để ghép vào cho hai đứa trẻ mù mà tôi đã nuôi nấng”.
Sau mấy uần làm việc, bác sĩ đã thành công: hai đứa trẻ bắt đầu thấy ánh sáng và càng ngày, các em càng được trông thấy rõ. Bác sĩ tìm hết cách hỏi hai em về mối dây liên hệ giữa hai em với Linh Mục Don Gnochi. Hai em cho biết là chẳng có họ hàng gì. Thì ra trong suốt cuộc đời làm Linh Mục, cha Don Gnochi chuyên kiếm tìm những trẻ tàn tật đem về nuôi dưỡng, săn sóc, huấn luyện... Quá cảm kích trước tấm gương hy sinh vĩ đại, vị bác sĩ đã quyết định hiến dâng cả cuộc đời mình phục vụ các người xấu số. Gương hy sinh lôi kéo nhiều kẻ hy sinh.
Ai cũng kính trọng những người được in Năm Dấu Thánh, nhưng ai cũng sợ Chúa in Năm Dấu Thánh trên mình bằng hy sinh ( ĐHV 152 ).
Giọt nước mắt tha thứ
Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quý vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực, tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny.
Ngày nọ, một thương binh người Đức được chở đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: “Đúng đây là tên lính Đức đã giết con trai mình !” Nhưng kìa, một mãnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống, bà Litrry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: “...Mẹ yêu quý ! Con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng qua bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con...”
Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc người lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai... !
Người thực sự yêu thương, luôn luôn hy sinh mà không bao giờ kể công ( ĐHV 155).
Người lính già khó tính
Nữ Tu Antoinette vẫn thường gọi thế khi nhắc tới ông lính già kỳ chướng, khó tính nhất trong bệnh viện. Gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ; có chuyện gì khó chịu ông ta la lối rùm beng. Ngày kia đang mải mê phục vụ, chị Antoinette nghe tiếng ông ta hét lên: “Đem cho tôi quả trứng !” Antoinette tươi cười đem đến. Ông ta nhăn nhó bảo: “Trứng chưa chín đủ mà cũng đem cho tôi à ?” Chị Antoinette vẫn tươi cười đem trứng đi luộc lại.
Lần này thì “Trứng chín quá ! Luộc gì mà luộc vô hậu đến thế !” Antoinette chẳng biết làm sao, chị bèn đi lấy lò kê một bên giường và trao cho người lính khó tính một quả trứng để ông luộc lấy cho vừa ý ông. Ông già thấy thế nổi cơn thịnh nộ, đạp đổ lò bếp, quăng trứng xuống nền nhà, miệng quát lớn: “Cô không biết tôi là bệnh nhân sao ? Bệnh nhân mà đi luộc trứng à ?”
Chị Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ thinh lặng cúi xuống thu nhặt, quét dọn... Lát sau, chị lại đem đến cho ông lính già một cái trứng khác: “Ông cố gắng dùng thử cái này, tôi luộc vừa chín thôi !” Bất giác ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: “Tôi ăn quả trứng mà cũng là ăn lòng tốt của chị nữa”.
Chúa thương gửi hy sinh đến những người Chúa yêu, những hạng người được Chúa yêu ít lắm, vì không mấy ai chấp nhận hy sinh ( ĐHV 163 ).
Thánh thiện và tội lỗi, lắm lúc chỉ do thắng bại của một phút hy sinh ( ĐHV 172 ).
Đức Cố Hồng Y FX. NGUYỄN VĂN THUẬN ( Lm. Huỳnh San gửi về từ Úc )
Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”
(Yên tĩnh để cầu nguyện)
Dù công việc rao giảng về Nước Trời rất cấp bách và bận rộn, nhưng đức Giêsu hiểu rõ con người: TN 16-B31
Dù công việc rao giảng về Nước Trời rất cấp bách và bận rộn, nhưng đức Giêsu hiểu rõ con người có nhu cầu thiết thực là cần nghỉ ngơi tỉnh dưỡng, và nhất là để cầu nguyện giữ mối liên lạc mật thiết với Thiên Chúa; vì chính bản thân Ngài vẫn làm như thế và dạy các môn đệ hãy thực hành như vậy. Bởi vì rao truyền Tin Mừng là công việc của Chúa, là _businessỴ của Nước Trời, còn con người chỉ là những đầy tớ vô dụng được Chúa ban cho vinh dự cộng tác với Ngài. Do đó chúng ta không thể quá say mê với công việc mà bỏ quên không ngó ngàng gì tới chính _Ông ChủỴ của công việc. Muốn giữ mối liên lạc khắng khít với _Ông ChủỴ, ta cần dành thì giờ trong tỉnh lăng để cầu nguyện tìm hiểu tôn ý Ngài, báo cáo công tác cho Ngài, xin Ngài ban ơn trợ giúp để vượt qua những gian nan thử thách, để có thể trung thành với sứ mạng đầy khó khăn đòi hỏi nhiều hy sinh quên mình. Nếu người môn đệ đi rao giảng Tin Mừng mà không có đời sống cầu nguyện làm căn cứ hay cơ sở để phát triển liên kết mật thiết với Chúa, thì người đó thật sự chỉ mượn danh nghĩa của Thiên Chúa để huênh hoang về cái tài vặt vãnh của chính mình. Một khi đã cậy dựa vào sức riêng mình, thì người môn đệ ấy hoặc không còn trung thành với sứ điệp của buổi đầu, hoặc sẽ quỵ ngã giữa đường khi phải đối đầu với muôn vàn thách đố!
Khi suy tưởng về tính cốt thiết, hay tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, tôi nghĩ rằng không có hình ảnh nào rõ ràng hơn là kinh nghiệm đắc giá trong tù biệt giam của đức cố hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận: Tại sao con ray rứt như thế? Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và các công việc của Chúa. Tất Cả những gì con đã làm và muốn tiếp tục làm. . . đều là những việc rất tốt và dúng là công việc của Thiên Chúa, nhưng không phải là Thiên Chúa! Nếu Chúa muốn con rời bỏ tất cả những việc đó, hãy bỏ ngay, và hãy tín thác nơi Ngài! Thiên Chúa có thể làm những việc đó tuyệt đối tốt đẹp hơn con. Ngài sẽ giao việc của Ngài cho những người khác có khả năng hơn con. Con đã chọn chỉ một mình Chúa, mà không phải những công việc của Chúa! (Chứng nhân hy vọng, trg 89-90).Lạy Chúa, xin đừng để con vì lòng ham mê lo lắng công việc của Chúa, mà không còn thì giờ dành cho Chúa là Ông Chủ của mọi công việc; nhưng xin giúp con nhờ công việc của Chúa mà biết liên kết khăng khít với Chúa là cứu cánh duy nhất của đời con.
Những năm gần đây cứ vào mỗi dịp hè, sinh viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh được mời: TN 16-B32
Những năm gần đây cứ vào mỗi dịp hè, sinh viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh được mời tham gia vào chiến dịch “Mùa hè xanh”. Các bạn được đến các vùng sâu vùng xa để sống với bà con nông dân nghèo khổ. Các bạn dạy chữ cho các trẻ em và người lớn mù chữ, giúp sửa sang nhà cửa, lợp mái, đào mương làm cống, làm đường trong những khu xóm nông thôn. Qua một tháng trời sống với người dân nghèo, các bạn học được một bài học quý giá về tinh thần sống vì người khác.. Năm nay chúng ta thấy khẩu hiệu của các bạn sinh viên tình nguyện tham gia chiến dịch mùa hè xanh là: “Ở dân thương, làm dân tin, đi dân nhớ.”Sau một chuyến đi chắc chắn các bạn sẽ có những kỉ niệm khó quên thấm đượm tình ngườiBài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ tinh thần sống cho người khác. Sống vì người khác là một đòi hỏi Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ phải thực hiện trong suốt đường đời sứ vụ tông đồ. Bởi vì đã là người thì ai cũng có mối liên hệ nào đó với người khác. Không ai có thể sống một mình, và chỉ lo cho cuộc sống mình được dư dật. Người ta thường nói: “không ai là một hòn đảo giữa đại dương mênh mông”cho nên con người chỉ sống có ý nghĩa thật sự khi biết sống cho người khác. Mộ người có thể sống vì mọi người. Vì qua hành động sống cho người khác chúng ta tìm được niềm vui. Vì hạnh phúc của tha nhân cũng là hạnh phúc của chính mình.
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi người Kitô hữu sống liên đới và hiệp nhất với tất cả mọi người. Hình ảnh người mục tử mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ra chính là hình ảnh của một con người sống vì người khác và vì mục đích của cộng đồng. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về đời sống phục vụ tha nhân. Ngài lại không ngừng đi đây đi đó rao giảng Tin Mừng, chữa lành các bệnh tật, thăm viếng gặp gỡ dân chúng. Những việc làm của Ngài tựu chung chỉ muốn giúp cho đời sống họ được thăng tiến về mọi mặt, nhất là đời sống thiêng liêng. Chúa và các môn đệ bận rộn với dân chúng đến nỗi không có cả thời gian nghỉ nghơi. Ngài động lòng trắc ẩn khi thấy dân chúng đi theo mình. Thay vì để cho các ông nghỉ ngơi như dự định, Đức Giêsu lại tiếp tục làm việc, tiếp tục giảng dạy cho dân chúng. Hơn ai hết Chúa Giêsu thấy được lòng mong mỏi lắng nghe Tin Mừng của dân chúng. Quả thật Ngài là vị mục tử tốt luôn thao thức những nhu cầu cấp bách của con người. Do đó Ngài mong muốn đem đến cho người ta những điều chân thật..Lời giảng của có giá trị Cứu độ con người. Ai tin và sống theo lời Ngài dạy sẽ trở thành con của Cha trên trời. Tinh thần chung của những lời dạy của Chúa là tinh yêu thưong và phục vụ .
Thật vậy,Đức Giêsu không ngừng làm việc là chứng tỏ tấm lòng mục tử của Ngài đối với dân chúng. Mục tử tốt chính là người sống vỉ đàn chiên, sống cho đàn chiên và dẫn đưa đàn chiên tới thượng nguồn của sự sống và niềm hạnh phúc đích thực. Chỉ qua Chúa Giêsu con người mới được cứu độ. Một cách nào đó, mỗi người Kitô hữu cũng là mục tử của nhau qua việc sống biết chăm lo cho người khác. Chúa Giêsu đòi hỏi họ sống cho và vì người khác thay vì luôn sống ích kỷ, vụ lợi, tranh giành quyền lợi và nghĩa vụ với người khác.Ngày nay trong một xã hội con người đang chạy theo biết bao nhiêu hình thức sống theo cá nhân chủ nghĩa,người môn đệ của Chúa Giêsu phải dám “lội ngược dòng đời”để sống theo lời Chúa dạy. Trong cuộc sống của người môn đệ phải dành chỗ cho tha nhân bằng với một tấm lòng yêu thương chân thật. Đi đến đâu người Kitô hữu phải làm sáng tỏ ra dấu hiệu của mình khi biết quên mình vì lợi ích của tập thể, của mỗi cá nhân. Người Kitô hữu trở thành mục tử khi có hành động tương trợ giúp đỡ và trao ban cho người khác những gì mình có. Danh hiệu Kitô hữu không phải là một đặc quyền đặc lợi để chúng ta đóng kín tấm lòng mình trước tha nhân. Niềm hạnh phúc của chúng ta là biết trao ban cả những gì có thể mình quý trọng nhất cho tha nhân. Có trao ban tất cả chúng ta mới có tất cả và có cả điều quý giá nhất là Nước Trời. Khi nghĩ đến việc sống cho người khác chúng ta tưởng chừng như rất khó thực hiện. Nhưng điều đó nằm trong tầm tay của mỗi người. Với ơn Chúa, với sự vươn lên và luôn hạnh động cho người khác cùa mỗi người chúng ta, chắc chắn nhiều người sẽ bớt đau khổ hay túng thiếu Sự bận rộn của Chúa Giêsu và các môn đệ xưa kia ngày nay người Kitô hữu cũng phải bận rộn như vậy. Điều mà chúng ta có thể rao giảng chính là cuộc sống vì tha nhân của chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng hãy nghĩ đến tha nhân trước khi hành động một việc gì đó Có như thế người ta mới tin và theo Chúa Giêsu nhiều hơn. Mỗi người tùy theo khả năng có thể làm điều gì đó tốt cho tha nhân. Khi thấy người ta đang cần mình giúp đỡ viêc gì chúng ta cầm mau mắn”ra tay”Cộng đồng xã hội sẽ tốt đẹp hơn khi có những con người biết sống cho người khác.Lạy Chúa cả cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng Chúa lúc nào cũng bận rộn vì dân chúng. Chúa cũng chết vì tội lỗi loài người chúng con. Xin cho mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn giáo xứ biết thực hiện những chương trình bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo có nhà ở, có cơm ăn áo mặc, và trẻ em được học hành tới nơi tới chốn. Vì nhờ đó chúng con làm sáng danh Chúa giữa cuộc đời này.Amen
Người được sai đi là người được cấp trên tín nhiệm, là người được anh em chị em trong cộng đoàn: TN 16-B33
Người được sai đi là người được cấp trên tín nhiệm, là người được anh em chị em trong cộng đoàn tin tưởng, đó là một vinh dự, một hãnh diện của người được sai đi, vì đó là hoa quả của lòng nhiệt thành, vâng phục và yêu thương của người được sai đi...
Không ai sai phái người kiêu căng và nóng tính vào một cương vị lãnh đạo, vì như thế cũng có nghĩa là “đàn chiên sẽ tan tác không phải vì sói rừng, mà là vì người chăn dắt quá kiêu căng; không ai sai phái một người chỉ biết đến nhu cầu của mình mà không biết đến nhu cầu của người hoặc công việc nơi được sai đến, vì như thế sẽ phát sinh nhiều tiêu cực trong cộng đoàn mà họ được sai đến.
Các Tông Đồ đã được sai đi và các ông đã trở về với những thành quả thu gặt được, Chúa Giêsu nghe các môn đệ của mình báo cáo xong, thì Ngài không khen cũng không chê, Ngài chỉ nói: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút là câu nói rất tình cảm của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài, là câu nói đầy quan tâm và yêu thương của Ngài dành cho các môn đệ sau những ngày vất vả làm việc tông đồ.
Có một số giáo dân rất bức xúc và bực mình khi có các linh mục vịn vào câu nói này để “nhàn du”nơi bãi biển, nơi các khu vui chơi, nơi các li rượu với bạn bè...
Họ bức xúc vì có một số nơi các cha sở được nghỉ ngơi một ngày trong tuần, thường là ngày thứ hai, trong ngày này điện thoại nhà reo các ngài không nghe, điện thoại di động các ngài không mở, không phải vì các ngài tĩnh tâm cầu nguyện để lấy lại sức, cũng không phải các ngài bị bệnh, nhưng các ngài bận đi chơi, và có khi các ngài ở nhà nhưng không thèm nghe điện thoại, giáo dân muốn xức dầu thánh tìm không ra các ngài, giáo dân muốn xưng tội hay có chuyện liên quan đến linh hồn cũng không gặp được cha sở, các ngài đã trở thành người làm thuê trong một ngày...
Các tông đồ vâng lời Chúa dạy chèo thuyền đi tìm một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng dân chúng vẫn cứ ùn ùn kéo đến mà các tông đồ không nói: “Đây là giờ nghỉ ngơi của chúng tôi, các ông về đi ngày mai tới lại”, trái lại, Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ, và mặc dù đang nghỉ ngơi Ngài vẫn cứ dạy dỗ họ nhiều điều...
Anh chị em thân mến,
Có những lúc chúng ta làm việc tông đồ như một công chức viên của chính phủ, làm theo giờ hành chánh, hết giờ thì hết việc hết trách nhiệm, cho nên chúng ta chưa thể thu hút được người khác đến với Chúa Giêsu.
Làm việc tông đồ thì phải có hi sinh, hi sinh những giây phút nghỉ ngơi khi có người anh em chị em cần đến mình, hi sinh những giây phút bên li cà phê nóng với với những nụ cười vui với bạn bè khi có người muốn trò chuyện với mình về cuộc sống của họ...
Cha Vincent Lebbe Ợngười Bỉ, sáng lập 4 tu hội- đã dạy các đệ tử của ngài rằng: “Các anh em, chúng ta không nghỉ ngơi, thay đổi công việc chính là nghỉ ngơi(1).
ghỉ ngơi đôi chút không có nghĩa là không nghe điện thoại, không có nghĩa là trong ngày ấy không được phép đi xức dầu bệnh nhân, nghỉ ngơi đôi chút không có nghĩa là ngày đó nằm ngủ li bì hay coi phim video mà không ngó ngàng đến bổn phận mục tử của mình...
Chỉ có những người Pharisiêu mới làm như thế trong ngày sabát...
Nhưng, nghỉ ngơi mà vẫn cứ sẵn sàng làm việc, nghỉ ngơi mà vẫn là một mục tử coi sóc linh hồn anh em, nghỉ ngơi mà vẫn là một Kitô hữu nhạy bén trong công tác tông đồ. Đó chính là tinh thần nghỉ ngơi của Chúa Giêsu đặt biệt được áp dụng trong thời đại hiện nay của chúng ta.
Họ sẽ “như bầy chiên không người săn sóc”nếu chúng ta đặt sự nghỉ ngơi để thân xác hưởng thụ lên trên linh hồn của người anh em, thì chúng ta không phải là mục tử, mà là kẻ làm thuê theo giờ hành chánh.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng Chủ Nhật 16 Thường Niên tại nhà thờ Chúa Thánh Thần-Taiwan.
(1)Xem "Xuân Phong Thập Niên", bản dịch Việt ngữ của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Giả sử hôm nay tôi mời anh chị em học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chắc anh chị em sẽ giật: TN 16-B34
Giả sử hôm nay tôi mời anh chị em học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chắc anh chị em sẽ giật mình, trố mắt nhìn tôi, và tự hỏi, không biết hệ thần kinh của tôi có được ổn hay không. Xin anh chị em bình tĩnh: Người mời gọi anh chị em học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là tôi, nhưng là chính Đức Tổng Giám Mục chúng ta trong văn thư gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân trong toàn giáo phận, thư đề ngày 2 tháng 7 năm 2003, tức là cách đây chưa tới ba tuần lễ, kèm theo bản góp ý chính ngài gửi các vị lãnh đạo cao cấp nhất của Quốc Hội, Đảng và Nhà Nước, và nhất là kèm theo sắc lệnh số 234 đề ngày 14-06-1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhưng những chuyện đó có ăn nhằm gì với Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay, phải không anh chị em ? Vậy thì trước hết, chúng ta hãy đi vào nội dung của 3 bài đọc.
Lời Chúa trong Thánh Lễ
Trong bài đọc 1, sau khi hạch tội các mục tử làm cho đoàn chiên thất lạc và tan tác, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Dân Ngài một vị mục tử xuất thân từ dòng tộc Đa-vít. Trong bài đọc 2 thì thánh Phao-lô nói rõ: Đức Ki-tô đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tưởng ngăn cách là sự thù ghét,.... đã đến loan Tin Mừng bình an. Cả hai bài đều chuẩn bị chúng ta đón nhận bài Tin Mừng. Còn bài Tin Mừng thì cho thấy các Tông Đồ đang bao quanh Đức Giê-su, hăm hở kể cho Ngài nghe mọi việc các ông đã làm: Đức Giê-su nghe xong liền quyết định: thầy trò cùng nhau đi đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Lý do là vì theo như tác giả Tin Mừng nói: Kẻ lui người tới quá đông, đến nỗi các ông không còn thì giờ ăn uống nữa. Thế nhưng, Tin Mừng nói: Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau đi theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Thế rồi sao ? Tin Mừng kể tiếp: Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Anh chị em thấy đó: Chúa Giê-su và các môn đệ đã quyết định tránh quần chúng để nghỉ ngơi. Nhưng khi thấy người ta tìm đủ cách để đến với mình, thì Chúa Giê-su chạnh lòng thương. Trong Kinh Thánh chạnh lòng thương là một động từ rất mạnh diễn tả tâm tình của Thiên Chúa đối với con người. Để diễn tả nỗi lòng của Thiên Chúa đối với Dân Ngài, sách Hô-sê đặt trong miệng Chúa những lời sau đây: Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. (Hs 11,8). Còn trong sách I-sai-a chúng ta đọc chẳng hạn:
Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ?
Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên người bao giờ.(Is 49,14-15)
Tôi trích dẫn mấy câu Sách Thánh trên đây để giúp anh chị em hiểu điều tác giả Tin Mừng muốn nói khi ông viết: thấy đám đông dân chúng thì Đức Giê-su chạnh lòng thương. Thế rồi sao. Tác giả Tin Mừng viết tiếp: Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Và bài Tin Mừng chấm dứt ở đây. Thay vì đi vào chi tiết để nói với chúng ta rằng hôm đó Đức Giê-su nói với dân chúng những gì, thì Mác-cô như một nhà đạo diễn, chỉa ống kính vào Đức Giê-su và dừng lại đó, để mời mọi người hướng về Đức Giê-su như môn đệ hướng mắt lên thầy mình. Như thế, dưới ánh sáng của hai bài đọc, và nhất là dưới ngòi bút của Mác-cô, Đức Giê-su xuất hiện như một vị mục tử hy sinh tính mạng vì đoàn chiên, một ngôn sứ đến loan Tin Mừng bình an, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, và đặt biệt hơn nữa, một bậc thầy giáo dục dân chúng.
Lời Chúa với chúng ta hôm nay
Đối diện với quần chúng như đoàn chiên không người chăn dắt, Đức Giê-su không xua đuổi, cũng chẳng tránh né, nhưng chấp nhận đối diện với họ để tỏ bày lòng thương cảm. Chúa an ủi những người cần được ủi an, soi sáng cho những ai biết mình u mê tăm tối. Và sứ mạng của Hội Thánh là tiếp nối công trình cứu độ của Chúa Giê-su.
Đoàn chiên không người chăn dắt trong bài Tin Mừng không thể không làm chúng ta liên tưởng đến con người, đến xã hội, đến môi trường chúng ta đang sống. Tham nhũng, hối lộ, ăn cấp của công.... là chuyện cơm bữa. Ông chống ma tuý thì đi buôn ma tuý, ông chống tội phạm thì tiếp tay cho tội phạm, thay vì học làm người thì học làm con vẹt, chuyện cơm tù chưa xong lại đến chuyện xe cướp, hết nạn yếu sinh lý, thì đến nạn khoan cắt bê tông, v.v. Bao chí nêu ra mặt nổi của tảng băng, nhưng người ta chưa đi đến tận gốc rễ của vấn đề. Hình như chưa có một công trình nghiên cứu nào phân tách và tổng hợp các vấn đề xã hội như lá thử ngỏ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi cho các cơ quan lập pháp của Nhà Nước mà tôi đã đọc một phần quan trọng cho anh chị em nghe cách đây mấy tháng tại chính nhà thờ này.
Vậy thì đối diện với các vấn đề xã hội, Hội Thánh phải làm gì để bày tỏ lòng thương cảm theo gương Chúa Giê-su ? Nói cách khác Hội Thánh có thể và phải làm gì để đóng góp vào việc xây dựng con người và xã hội trên đất nước chúng ta ? Nhưng một khi đặt vấn đề vai trò của Giáo Hội thì chúng ta gặp một vấn đề khác, căn bản hơn, đó là vấn đề tự do tôn giáo. Tôi chỉ nêu lên một ví dụ. Mùa này là mùa thi cử: nạn phao, nạn bằng giả, nạn thi thuê, thậm chí nạn đánh thầy cô, đánh giám thị coi thi.... cho thấy trong lãnh vực giáo dục, chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề khủng khiếp như thế nào. Phải chi hôm nay chúng ta có những trường Bồ-đề, những trường Tư thục Công Giáo, những đại học Vạn Hạnh, những đại học Công Giáo Đà-lạt, v.v.... chắc chắn các tôn giáo đã có phần đóng góp đáng kể vào sự nghiệp giáo dục, tức là chuẩn bị lớp người cho tương lai đất nước, cho tương lai dân tộc.
Thế nhưng hoạt động của các tôn giáo rất giới hạn. Một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với trên dưới 6 triệu tín đồ, phải mất nhiều năm chờ đợi mới ra được một tờ nội san 2 tháng 1 lần, kể từ tháng 7 năm 2001. Khổ giấy được ấn định là A4, tức là 21 x 29,7 cm, số trang tối đa là 50, và số lượng ấn bản tối đa là 100. 100 số báo cho 6 triệu người, nghĩa là 1 số cho 60 000 người. Nội bấy nhiêu chi tiết cũng đủ cho người tín hữu thấm thía như thế nào là tự do tôn giáo.
Nay chính quyền đang chuẩn bị ra Pháp lệnh về Tôn giáo. Các bản dự thảo đã được gửi đi để tham khảo ý kiến, và các thư trả lời phải được gửi về cho Quốc Hội hạn chót là ngày 7 tháng 7 đã qua. Và đúng 5 ngày trước khi hết hạn, Đức Tổng Giám Mục chúng ta đã gửi các văn thư tôi nói lúc nãy.
Vấn đề là trong thời gian gần đây, chúng ta nghe nói khá nhiều đến tư tưởng Hồ Chí Minh, và các giới đồng bào được kêu gọi học tập tư tưởng đó. Xin thú thật với anh chị em, đây là lần đầu tiên tôi đọc Sắc lệnh về Tôn giáo ra đời ngày 14-06-1955 nghĩa là cách đây gần nửa thế kỷ. Càng đọc, tôi càng ngạc nhiên và phấn khởi, khi thấy 50 năm về trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có một đường lối vô cùng cởi mở đối với Tôn giáo. Qua Sắc lệnh đó, ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương:tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng cũng như tự do không tín ngưỡng,
* Tôn trọng việc nội bộ của các tổ chức Tôn giáo, * Tôn trọng tài sản của các tổ chức Tôn giáo, * Tôn trọng các sinh hoạt và sự tham gia của các tổ chức Tôn giáo vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong tài liệu gửi đến tất cả các thành phần Dân Chúa trong Giáo phận, Đức Tổng Giám Mục chúng ta không chỉ cho biết ý kiến riêng của ngài, nhưng ngài còn cho biết ý kiến của một cán bộ cao cấp của Nhà Nước, đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Quang Hưng, thuộc viện Nghiên cứu Tôn giáo. Trong tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 3 năm 2002, giáo sư tiến sĩ Đỗ Quang Hưng là tác giả bài Hồ Chí Minh và nền tảng luật pháp ở nước ta. Trong bài đó, tác giả khẳng định: Sắc lệnh 234 của Hồ Chủ tịch “là văn bản có tính luật pháp tiêu biểu và hoàn chỉnh nhất cho những cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh trên chặng đường đầu tiên xây dựng luật pháp tôn giáo ở Việt Nam”(bđd. trg 7), và rằng Sắc lệnh nói trên “của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiều điều khoản phong phú, hệ thống, liên quan đến các hoạt động tôn giáo, lần đầu tiên phản ánh rõ quan điểm, thái độ của Nhà Nước ta trong việc thể chế hoá chính sách tự do tôn giáo của mình, đồng thời cũng đã bộc lộ những tư tưởng nhân văn, có tình có lí, giải quyết vấn đề tôn giáo theo cung cách Việt Nam.”(nt. Trg.11). Cuối cùng, tác giả đề nghị: “Hôm nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải _tìm đến ngọn nguồnỴ cho bước đi kế tiếp.”(trg.12).
Kính thưa anh chị em,
Chắc chắn không phải chỉ có Đức Tổng Giám Mục chúng ta, nhưng tất cả chúng ta đều nhất trí với nhận định của giáo sư tiến sĩ Đỗ Quang Hưng liên quan đến chính sách Tôn giáo được thể hiện trong Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vậy thì người tín hữu Công Giáo cũng như tất cả mọi người Việt Nam có tín ngưỡng, có quyền chờ đợi một Pháp lệnh về Tôn giáo trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, để hai chữ tự do có nghĩa thực sự là tự do, chứ không phải chỉ là tự do xin phép.
Hôm nay tôi nói hơi nhiều về tự do Tôn giáo, và hẳn anh chị em đang tự hỏi tại sao. Thưa vì đây là vấn đề thời sự. Trong một tương lai gần, Pháp lệnh về Tôn giáo sẽ được ban hành. Cho nên chẳng phải ngẫu nhiên mà Đức Tổng Giám Mục chúng ta mời gọi chúng ta suy nghĩ và góp ý. Thêm vào đó, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta: Để Chúa Giê-su hôm nay có điều iện bày tỏ lòng thương cảm đối với bất cứ ai đến với Ngài, thì Hội Thánh của Ngài phải được tự do, phải thực sự có tự do Tôn giáo.
Để kết luận, tôi xin nói rõ với anh chị em: Tôi không vui thú gì khi nói những chuyện tôi vừa nói. Nhưng cũng như nhiều linh mục khác, đã hơn một lần than phiền rằng các vị giám mục của chúng ta sao làm thinh trước bao nhiêu vấn đề cần lên tiếng. Nay đến lúc các ngài lên tiếng, nếu linh mục chúng tôi lại làm thinh, thì hoá ra chúng tôi không biết mình muốn gì. Còn nếu như có ai thắc mắc vì có những người lên tiếng, thì tôi xin mượn lời Chúa Giê-su để trả lời: Chúng tôi mà thinh lặng, thì sỏi đá sẽ kêu lên.
Nhà thờ Phan-xi-cô Đa-kao, 20-07-2003 Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
Những hoạt động của chuyến công tác đầu tiên của mười hai tông đồ đã gây hoảng sợ cho: TN 16-B35
Những hoạt động của chuyến công tác đầu tiên của mười hai tông đồ đã gây hoảng sợ cho hêrôđê, dân chúng vừa kinh ngạc vừa chạy theo các ông đến nỗi khi các ông về Cá-phác-na-um để báo cáo lại cho thầy thì dân chúng vây quanh làm rộn không cón có đến thời giờ ăn uống nghĩ ngơi. Tại miền Galilê này, khó mà có thể ở một mình, lánh xa đám đông. Galilê là một xứ nhỏ, khoảng tám mươi cây số từ Bắc xuống Nam, và bốn cây số từ Đông sang Tây. Sử giả Josephus cho biết rằng trong thời gian của ông, vùng đất nhỏ đó có tới 204 thành phố và làng mạc, và không nơi nào có dưới mười lăm ngàn dân. Trong một vùng đông dân như vậy không dễ gì tìm được một nơi yên tĩnh dầu chỉ trong một thời gian ngắn. Tuy vậy, phiá bên kia bờ hồ thì yên tĩnh và bề rộng nhất của hồ chỉ khoảng mười ba cây số. Những người thân cận của Chúa Giêsu hầu hết là dân đánh cá, nên chỉ cần leo lên một chiếc thuyền của họ sang bên kia bờ hồ là có thể tìm được một chỗ nghỉ ngơi. Nhưng Chúa không thực hiện ý định được, người ta dễ dàng trông thấy chiếc thuyền chèo đi, đóan được nơi mà nó sẽ đến. thế là đám đông ùn ùn chạy vòng qua bên kia hồ để đợi Ngài.
Câu chuyện dạy ta:
1. Chúa quan tâm đến sự nghỉ ngơi của các môn đệ.
Là những con người các môn đệ cần được nghỉ ngơi sau một thời gian làm việc mệt nhọc. Chính Chúa bảo phải nghỉ, chọn nơi và cùng đi với các ông. Tại đây chúng ta thấy điều có thể gọi là nhịp điệu của đời sống Kitô hữu. Vì đời sống Kitô hữu là hành trình liên tục đi từ chỗ gặp mặt loài người đến nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để rồi từ nơi gặp mặt Thiên Chúa trở về gặp mặt loài người. Nó tương tự như nhịp điệu của giấc ngủ và công việc. Chúng ta sẽ không thể làm việc, nếu không có đủ thời giờ nghỉ ngơi thích hợp, nhưng chúng ta cũng sẽ không thể ngủ nếu chưa làm việc cho tới khi mệt mỏi.
Trong nếm sống hàng ngày, có hai nguy cơ. Một là có cơ nguy hoạt động quá sức. Không ai có thể làm việc mà không nghỉ ngơi, cũng khi chẳng ai có thể sống riêng biệt với Thiên Chúa. Có thể tất cả các rắc rối của đời sống là do chúng ta không dành thời giờ để nghe Chúa phán dạy mình, vì chúng ta không biết yên lặng lắng nghe. Chúng ta không để Thiên Chúa có thời giờ bồi bổ năng lực thuộc linh cho mình, vì chúng ta không dành thời giờ nào riêng ra để chờ đợi, trông mong nơi Ngài cả. làm thế nào chúng ta có thể đương đầu được với các gánh nặng của đời sống, nếu không được tiếp xúc với Đấng vốn là Chúa tể của mọi đời sống tốt đẹp? Làm sao chúng ta làm nổi công việc cho Chúa nếu không được sức lực của Ngài ban cho? Và làm sao chúng ta có thể nhận được sức lực ấy nếu không yên tịnh tìm cầu để gặp gỡ Thiên Chúa trong chỗ riêng tư? Hai là, có nguy cơ của việc thoái thác quá nhiều. Sự tin kính mà không tạo ra được hành động thì không phải là sự tin kính đích thực. Chúng ta đừng bao giờ đi tìm sự thông công với Chúa để tránh sự thông công với loài người, nhưng phải nhằm tự thích ứng chúng ta với việc làm ấy cách tốt hơn. Nhịp điệu của đời sống Kitô hữu là luân phiên gặp gỡ Chúa trong nơi kín đáo, phục vụ người ta ngoài phố chợ. Lại nữa, những giờ phút nghỉ ngơi yên tịnh khi mà chúng ta ở một mình với Chúa hay nhóm lại với một ít bạn thân được lựa chọn, để tiếp xúc với Ngài thường giúp chúng ta rất nhiều để phục vụ có kết quả hơn.
2. Chúa quan tâm đến nhu cầu của quần chúng.
Nhưng Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài đã không tìm được sự nghỉ ngơi mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ họ đến nơi riêng biệt mà Chúa Giêsu với các môn đệ vừa tới cách xa bốn dặm đường vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ vòng bờ hồ thì đường dài đến mười dặm. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đường này phải tốn khá nhiều thời gian, con người khoẻ chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và có thể đến nơi trước khi thuyền cập bến. Đó chính là việc đã xảy ra ở đây. Cho đến lúc Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đoàn dân mà mọi người muốn lánh mặt để tìm thời giờ nghỉ ngơi đã chờ sẵn đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Ngài có thể ban cho họ. Rất dễ bực bội với đám đông, dễ có thể cảm thấy họ đã gây phiền toái cho Ngài. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Ngài bằng những đòi hỏi liên tục như vậy? Ngài không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Chúa Giêsu không màng tới điều đó, chẳng những Ngài không thấy họ gây phiền hà mà còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu An Độ, đã viết lại trong tập tự thuật của ông: ‘từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người. Đúng thế chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tỏ ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình”. Ông ghi tiếp: “Tôi kinh nghiệm được một điều là khi tôi hay bất cứ giáo sỹ An độ nào mệt mỏi hay suốt ruột trước những vị khách tín hữu hay ngoại đạo có học và biết suy nghĩ, và cố làm cho họ hiểu rằng chúng tôi có ít thời giờ, hay đã đến giờ ăn trưa hay giải lao, chúng tôi không thể đợi được…thì chúng tôi mất ngay vị khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa! Chúng ta không bao giờ vừa tiếp khách vừa nhìn lên đồng hồ như muốn đuổi họ đi cách lịch sự. Premanand tiếp tục kể lại một câu chuyện mà đáng lẽ ra có thể làm thay đổi toàn bộ chiều hướng truyền đạo tại Bengal: “Người ta ghi lại rằng Giám Mục đầu tiên của An độ đã không chịu gặp Pandit Vidyasagar của Bengal cách chính thức. Ông Pandit được phái đi làm người phát ngôn cho cộng đồng An độ giáo ở Calcutta để thiết lập quan hệ thân hữu với vị Giám Mục và với Giáo hội Kitô Hữu. Ong là người sáng lập trường cao đẳng An độ giáo ở Calcutta, là nhà cải cách xã hội, một tác giả, và nhà giáo dục có tiếng, đã trở về bất mãn vì không gặp được vị Giám Mục. Ông thành lập một Đảng mạnh gồm toàn những người giàu có và trí thứ ở Calcutta để chống đối Giám Mục và Giáo hội Kitô, ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo..,.Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức nghi lễ, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến đời sống riêng tư của mình mà đã làm mất một số cơ hội cho Chúa, Chúa Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ; họ quá ư là nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được, dưới mắt Ngài họ như chiên không có kẻ chăn. Ngài ngụ ý muốn nói gì?
a. Một con chiên không có người chăn không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Thi sỹ Dante có một câu nói rằng: “tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
b. Một con chiên không người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta ra khỏi chính mình và vườt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm nó ở nơi khác, tâm trí chúng ta sẽ chưa thoả mãn, tấm lòng chúng ta chưa được yên nghỉ, linh hồn chúng ta chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
c. Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ với trộm cướp và đám thú rừng. Nếu cuộa đời dạy khôn chúng ta điều gì đó là chúng ta không thể sống một mình, phải biết rõ không thể tự mình mà sống. không ai có thể tự vệ với những cám dỗ tấn công mình, với điều ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.
Thấy các rông đồ mệt nhọc, suốt ngày bị chen lấn trong cảnh ồn ào, tấp nập, Chúa Giêsu thúc: TN 16-B36
Thấy các rông đồ mệt nhọc, suốt ngày bị chen lấn trong cảnh ồn ào, tấp nập, Chúa Giêsu thúc giục các ông: "Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút".
Lời khuyên này diễn tả một qui luật chẳng nhũng cho đời sống thân xác mà còn cho cả đời sống tâm linh của chúng ta. Thân xác cần có những lúc nghỉ ngơi để phục hồi sức lực. Tinh thần càng cần hơn những khoảnh khắc yên tĩnh, thoát khỏi cảnh ồn ào bên ngoài để hồi tâm, suy nghĩ, gặp chính mình, sống cho những điều chính yếu nhất và nhất là để có thể găp chính Thiên Chúa.
MÔI TRƯỜNG BẤT LỢI
Hiện nay chúng ta đang sống trong một nền văn minh tốc độ và tiếng động. Mặc dầu có sẵn trong tay những phương tiện thông tin liên lạc hữu hiệu nhất, người thời nay luôn có nhu cầu xê dịch. Phải di chuyển nhiều: đi nhiều, đi xa, đi nhanh. Nhiều người sống ngoài đường nhiều hơn trong nhà. Nhịp sống khẩn trương, vội vã. Chỗ nào cũng đầy người, đường lúc nào cũng kẹt xe, lúc nào cũng thấy mình trễ giờ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy lại hết ngày.
Khủng khiếp hơn nữa là tiếng động, một thứ ô nhiễm môi trường khó tìm được cách khắc phục. Đời sống, nhất là ở đô thị rất ồn ào. Xe tải, xe hơi, xe lam, xe ba gác và xe cyclo máy chạy rầm rầm từ sáng sớm tới khuya. Tiếng động cơ, tiếng các thứ loa phóng thanh, tiếng cassette, radio, tivi mở hết công suất, tiếng hát Karaokê liên tục hành h thần kinh vốn đã căng thẳng của mọi người.
Nhịp sống ồn ào đó dễ làm con người mệt mỏi, khó sống thanh thản, mất khả năng tập trung để suy tư. Trái lại thường bị cuốn hút bởi cái nhận nhịp bên ngoài. Con người bị dòng đời lôi cuốn, khó sống chủ động như mình muốn, sống như mình phải sống, một cách đầy ý thức.
GẶP CHÚA TRONG YÊN TĨNH
Trong một môi trường bất lợi như trên chúng ta rất khó gặp Chúa. Thinh lặng là điều kiện tiên quyết cho cuộc gặp gỡ này. Thinh lặng có một giá trị tôn giáo, là bước đầu của đời tôn giáo, là một con đường, đưa tới Chúa. Một người không tự to cho mình một không gian thinh lặng nội giới, luôn để cho những cái ồn ào bên ngoài lôi cuốn không thế gặp Thiên Chúa.
Tôn giáo chủ yếu là cái gì thuộc về nội giới, nằm trong tâm hồn con người. Tương quan với Thiên Chúa trước hết là tương quan nội giới. Chính tâm hồn chúng ta phải giao tiếp với Chúa. Cử chỉ bên ngoài sẽ vô nghĩa nếu không đâm rễ sâu bên trong. Chúa ngự ngay trong tâm hồn mỗi người. Chỉ khi nào chúng ta trở về với chính mình, đi sâu vào chính lòng mình thì mới có cơ may tìm thấy Chúa. Vậy phải dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn mình, một khoảnh khắc dành riêng để chỉ sống với Ngài. Nếu không Thiên Chúa chỉ là một cái bóng mờ, một tình cảm mông lung, một ảo ảnh chập chờn, một người luôn khiếm diện trong cuộc đời chúng ta.
Thánh Augưstinô đã nói lên một kinh nghiệm bản thân rất sâu sắc. Ngài bảo: Chúa ở gần con mà con không hay. Trước đây con đi tìm Chúa khắp nơi mà chẳng thấy. Để khi con trở về với chính mình thì con đã thấy Chúa ở đấy. Chúa vẫn ở đấy và luôn đợi con ở đấy. Chúa gần con hơn chính con gần con.
LUI VÀO THANH VẮNG
Nếu chúng ta tin thật đời tôn giáo là cần thiết và muốn sống đời tôn giáo thật nghiêm túc, có chiều sâu thì trước hết phải chăm lo đời sống nội tâm của mình.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta có biết bao nhiêu bổn phận, lo âu, mệt nhọc. Nhịp sống lôi cuốn chúng ta như dòng nước lũ mà mình lại hầu như không vững tay chèo thành ra bị trôi dt, sống không định hướng. Phải phấn đấu hết sức mình chống lại nguy cơ chết đuối ấy, dành những khoảnh khắc phẳng lặng, một góc tâm hồn yên tĩnh, thoát mọi lo âu giao động, để suy nghĩ, cầu nguyện, đối diện với Chúa và sống với Ngài.
Có thể linh hồn ta mới thoát chết ngạt, mới ngoại lên được để hít lấy dưỡng khí mà sống, mà tồn tại. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời khuyên: Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút".
Sau cuộc đi thực tập truyền giáo trở về, các tông đồ đã sung sướng kể lại những thành quả tốt: TN 16-B37
Sau cuộc đi thực tập truyền giáo trở về, các tông đồ đã sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa Giêsu đã mời gọi các ông vào nơi thanh vắng, như Ngài vốn làm, để nghỉ ngơi, để cầu nguyện cũng như để kiểm điểm về những biến cố mà họ đã gặp và đã sống.
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi muốn chia sẻ về việc kiểm điểm đời sống để biết rõ chính bản thân của mình.
Con người ngày nay biết được nhiều sự, nhưng có một sự cần biết hơn cả thì họ lại mù tịt, đó là biết chính bản thân mình. Con người ngày nay khám phá ra nhiều thứ, từ những bí mật dưới lòng biển cả cho đến những tinh tú trên bầu trời cao, nhưng có cái cần khám phá hơn cả thì họ lại quên lãng, đó là khám phá chính tâm hồn của mình.
Từ xưa, người ta đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc biết mình.
Đông phương thì bảo:
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến báchthắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.
Còn Tây phương thì khuyên:
- Connais-toi, toi-même. Hãy biết chính mình bạn.
Sở dĩ như vậy vì không biết mình thì khó mà khiêm nhường, không khiêm nhường thì khó mà nhân đức, không nhân đức thì khó mà được vào nước trời. Không biết những sai lỗi thì làm sao có thể uốn nắn mà trở nên hoàn thiện.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ, bởi vì như một thi sĩ đã bảo:
- Con người khó mà đo được tâm hồn của mình một cách chính xác, bởi vì cái thước họ dùng luôn sai lạc, hoặc ngắn quá hoặc dài quá.
Một người đã sạch thì chỉ một vết nhơ nhỏ mọn cũng đã đủ để cảm thấy bức rức khó chịu rồi tắm gội lại ngay. Trái lại, một người đã lem luốc bẩn thỉu, dính đầy dầu mỡ, thì dù bùn đất có dính vào thì cũng chẳng cảm thấy chi. Cái bi đát là ở chỗ người say thì chẳng bao giờ nhận mình là say. Còn kẻ tội lỗi thì chẳng nhận thấy mình có tội lỗi gì.
Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ đằng trước đựng những sai lỗi của kẻ khác còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Do kiêu ngạo, chúng ta thiếu nhận biết về bản thân cùng những sai lỗi của mình. Trái lại, những khuyết điểm của người khác thì chúng ta lại biết rất rõ và kết án một cách rất là nghiêm khắc.
ởi đó chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:
- Tôi là ai và tôi như thế nào ? Đâu là những cám dỗ tôi thường gặp, đâu là những tật xấu tôi thường vấp mắc và đâu là những tội tôi thường phạm ?
Tất cả những câu hỏi trên, chúng ta chỉ có thể tìm thấy được câu trả lời một cách xác thực nhất trong thinh lặng, cầu nguyện và kiểm điểm đời sống.
Bởi đó, giữa giòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, để tính sổ cuộc đời với Chúa, và nhìn lại những bước đường đã đi.
Qua những giây phút thinh lặng ấy, chúng ta sẽ trở về nguồn và từ đó xác định rõ hơn mình đang ở đâu và mình đã đi tới đâu rồi ? Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng uốn nắn lại đường đi nước bước của mình.
Đồng thời, chúng ta sẽ lãnh nhận được một nguồn sinh lực và ơn sủng dồi dào nhờ việc kết hợp và gắn bó mật thiết với Chúa.
Chính vì thế, người ta đã đưa ra một kinh nghiệm sống như sau: Tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều hơn trong hành động và trong cuộc sống.
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy: TN 16-B38
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư nhưng cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Như vậy, hai nhịp chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm, Người đã bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống thể xác, con người phải làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình. Vì sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó.
Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng, bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện là tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp, mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
Kiểm Điểm Đời Sống
1) Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2) Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3) Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống? 4) Gia đình bạn có cầu nguyện chung với nhau trước khi đi ngủ không?
Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị Mục Tử của chúng ta: TN 16-B39
Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị Mục Tử của chúng ta.
Chúa Giêsu đã sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để thực hiện những việc Chúa đang làm: “Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ, xức dầu và chữa lành cho các bệnh nhân”. Khi trở về, họ hết sức phấn khởi về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu đã thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm của chủ nghĩa duy hoạt động, họ không còn thời giờ để ăn nữa. Vì vậy, Chúa bảo họ: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị mục tử nhân lành bảo các môn đệ hãy nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của Thần Khí. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón nhận sức sống từ Thiên Chúa.
Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ vội vã đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người đã giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng Mêsia.
Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt động. Họ đang ngây ngất với những thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là “các tôi tớ phục vụ Lời”, nếu họ muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa Giêsu, Thầy của mình. Lạy Chúa Giêsu, là vị Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của Chúa.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục: TN 16-B40
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đavid để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, cần phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mukedi, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bênarét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại ?” Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không ? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?” Mukedi thưa: “Thưa thầy con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.
Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, rađiô, tivi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy ?” Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phanxicô Xaviê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì ? Sẽ đi về đâu ? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Kitô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn: TN 16-B41
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy”. Nhà hiền triết trả lời: “Ta tìm con người”. Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy nghẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.
Bài Tin Mừng thánh Mác-cô cho thấy: Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên không người chăn dắt. Sao lại không có người chăn dắt ? Họ là người Israel có vua quan, có chức quyền, có nhà nước cai trị mà. Phải mà không phải vậy. Bởi lẽ vua Hê-rốt và quần thần của ông ta thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn phải dựa vào thế lực của đế quốc Rôma để sinh tồn. Điều suy nhất họ vẫn cần mẫn chu toàn là giáng xuống đồng bào khốn khổ của họ, siêu cao thuế nặng để có của cống nạp cho quan tề nước lớn. Đồng thời không từ một biện pháp chuyên chính đẩm máu nào để chèn ép mọi manh nha phản kháng nổi dậy của dân chúng.
Nhưng dù gì thì dù, người Israel vẫn cứ là dân riêng của Chúa. Họ có tôn giáo, có đền thờ, có các bậc lãnh đạo tinh thần, những vị này đâu hết rồi. Có chủ chăn song cũng như không. Một số các vị gồm tư tế và kinh sư chạy theo thời cuộc dấn sâu vào chính trị. Tôn giáo đối với họ chỉ là thứ để tạo thế lực đổi chac1t với nhà cầm quyền. Một số các vị khác đặc biệt như nhóm tư tế đền thờ đã tận dụng vai trò “thầy cúng” của họ để làm giàu, thậm chí biến nhà Chúa thành thị trường kinh doanh trục lợi. Cũng chính vì tham vọng tiền và quyền họ thi nhau xén lông vắt kiệt sữa chiên trong khi không hề bận tâm lo cho chiên nắm cỏ, ngụm nước . Bóc lột chiên chán chê họ quay ra ẩu đả cắn xé lẫn nhau. Đó là bức tranh thảm thương của dân chúng thời ngôn sứ Giê-ri-mi-a vừa được tái hiện hầu như nguyên vẹn trước mắt Đức Giêsu. Không đau lòng Đấng Cứu Thế sao được, không xót dạ vị Thiên Sai sao được, nổi đau vừa do số phận đáng thương của đàn chiên và vì tính cách bất xứng vô đạo của các chủ chăn chiên. Đây là thời điểm Thiên Chúa bị chủ chăn tối cao hành động. Ngài sẽ nghiêm khắc trừng trị đám chủ chăn gian ác bất xứng. Người đem đàn chiên của người khỏi tay chúng để trao cho vị mục tử nhân lành chăm sóc. Vị mục tử này giàu lòng cảm thương vừa lo cho chiên ăn mạnh trong đàn vừa lặn lội đi tìm chiên lạc.
Và như thánh Phaolô miêu tả vị mục tử chính nhân đó sẽ thí mạng đổ máu trên thập giá để hòa giải liên kết chiên thành một để biến đổi mọi kẻ xa lạ thành người nhà bà con ruột rà với nhau và với Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa đến với mỗi người, mỗi cộng đoàn Hội thánh cũng như với đất nước ta hôm nay làm sống lại niềm hy vọng gần như tàn lụi giữa bao khó khăn truyền miên trong lịch sử và trong hiện tại. Thiên Chúa vẫn luôn để mắt đến dân của ngài. Đức Giêsu Kitô vị mục tử nhân lành đầy lòng trấn ẩn luôn dẫn dắt bảo vệ và nuôi dưỡng đàn chiên của người.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự: TN 16-B42
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các hoạt động sôi nổi không kiểm soát được của các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, không ngăn chặn sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biết mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh hoạ điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng. Cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu trước hết và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều; Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin mừng cho người nghèo. Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
Mùa Hè là Mùa Phong Chức. Lễ Phong Chức (phó tế hay linh mục) là niềm vui chung của cả Giáo: TN 16-B43
Mùa Hè là Mùa Phong Chức. Lễ Phong Chức (phó tế hay linh mục) là niềm vui chung của cả Giáo Hội, vì những người được chọn làm phó tế, linh mục hay giám mục đều là để phục vụ Cộng Đoàn Dân Chúa. Càng có nhiều người được phong chức thì Giáo Hội càng có nhiều mục tử. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy không phải mục tử nào cũng thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình mà chỉ có các mục tử tốt lành mới làm được như thế.
Các bài Sách Thánh Chúa Nhật 17 Thường Niên Năm B hôm nay giúp mọi thành phần - mục tử cũng như đoàn chiên – hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người. Các bài Sách Thánh hôm nay cũng giúp mọi người hiểu được tinh thần và cách phục vụ mà Thiên Chúa muốn thấy nơi các mục tử của Giáo Hội.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Gr 23,1-6: Vị Vua tương lai
1 Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - 2 Vì thế, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau để lên án các mục tử, những người chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. 3 Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. 4 Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
5 Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. 6 Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta."
(2) Bài đọc 2: Ep 2,13-18:
13 Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. 14 Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; 15 Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. 16 Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. 17 Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. 18 Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 6,30-34: Đức Giê-su chạnh lòng thương đám đông vì họ lầm than vất vưởng như bày chiên không người chăn dắt.
30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Gr 23,1-6) là những lời sấm của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nói về những mục tử không chu toàn trách nhiệm được Thiên Chúa giao phó, vì họ đã làm cho đoàn chiên của Chúa phải tan tác, đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Lời sấm còn loan báo Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh kế hoạch là sẽ quy tụ đoàn chiên còn sót lại từ khắp mọi miền, sẽ đưa chúng về đồng cỏ tốt tươi; sẽ giao chúng cho các mục tử tốt lành chăn dắt. Đoàn chiên sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều và các mục tử xấu sẽ bị trừng phạt vì hành vi gian ác của họ. Tột đỉnh của kế hoạch này là Con Một Thiên Chúa - là Đức Giê-su - sẽ được gửi đến để chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (Ep 2,13-18) là những lời Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Ê-phê-sô về những việc làm cụ thể mà Đức Giê-su, Vị Vua xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, đã thực hiện nhằm thay đổi mọi thực tại nhân sinh và nhân linh một cách tuyệt diệu để xây dựng Vương Quốc của Thiên Chúa.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 6,30-34) là tường thuật của Thánh Mác-cô về tấm lòng chăm lo cho đoàn chiên của Chúa Giê-su: “Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.” Chúa Giê-su là hình ảnh ‘trung thực’ của Chúa Cha là Đấng không muốn một con chiên nào bị bỏ rơi và phải khổ sở; trái lại Người muốn tất cả mọi con chiên đều được yêu thương và chăm sóc tận tình. Vì chạnh lòng thương đoàn chiên mà Đức Giê-su chữa lành các bệnh nhân, xua đuổi ma quỉ và làm các phép lạ. Vì chạnh lòng thương dân chúng mà Đức Giê-su đứng về phía thứ dân, bênh vực quyền lợi của họ, làm bạn với hạng tội lỗi và sau cùng là chết trên thập giá để cứu chuộc tất cả nhân loại.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và chăm lo cho mọi người. Người mời gọi chúng ta cộng tác và tíếp tay với Người trong việc chăm lo ấy. Nhất là Người đã sai Con Một Người là Chúa Giê-su đến trần gian để yêu thương và quy tụ mọi người thành một đoàn chiên duy nhất. Những ai được Chúa giao phó sứ vụ “mục tử” phải biết học cùng Chúa Giê-su mà “chạnh lòng thương” khi đứng trước nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống Lời Chúa hôm nay là thực thi sứ điệp mà Chúa đã gửi cho tôi qua ba bài Sách Thánh. Cụ thể là:
* Tôi có học biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và chăm lo cho mọi người không?
* Tôi có học cùng Chúa Giê-su mà biết “chạnh lòng thương” khi đứng trước nhu cầu vật chất và tinh thần của những người sống chung quanh tôi không?
* Tôi có cộng tác và tíếp tay với Thiên Chúa trong việc chăm lo cho con người, nhất là cho những người nghèo và kém may mắn không?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Vị Mục Tử tốt lành mà Chúa Cha đã gửi đến trần gian để yêu thương chăm sóc chúng con và mọi người.
Chúa đã chạnh lòng thương đối với thân phận yếu đuối và tội lỗi của chúng con và của mọi người.
Chúa đã đem Tin Mừng Cứu độ cho chúng con và cho mọi người.
Chúa đã chết vì chúng con và vì mọi người.
Chúa đã làm gương cho chúng con trong việc yêu thương và chăm lo cho người khác.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con quyết tâm sống theo gương lành của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con! Xin Chúa giúp chúng con!
Quảng cáo xe Toyota thật là hấp dẫn. Sau khi đã biểu diễn các màn “an toàn trên xa lộ: TN 16-B44
Quảng cáo xe Toyota thật là hấp dẫn. Sau khi đã biểu diễn các màn ”an toàn trên xa lộ” bằng xe Toyota, mấy người theo điệu nhạc bài ”Tố-giô-tà” vút cánh bay lên như chim, nét mặt tươi sáng rạng rỡ... Làm như cứ chạy xe Toyota thì đời sẽ vút bay vậy đấy.
Có lần nhìn bảng quảng cáo giầy L.A. Gear bên xa lộ, tôi mới chợt sợ kỹ thuật quảng cáo bây giờ: cả tấm bảng rực lửa, có vẻ đầy nhiệt lực, và ngay giữa là đôi giầy L.A. Gear.
Thì ra các lái buôn ngày nay đã nghiên cứu tâm lý miền sâu rất kỹ: học để mà đánh lừa, với kỹ thuật cao độ, ấn sâu vào máu, vào tiềm thức, trở thành phản ứng tự động. Gợi lên từ tiềm thức những hình ảnh uyên uyên, tức là những hình ảnh vốn nằm sẵn trong ước mơ của con người, rồi trong khi hào hứng nhất thì đưa cái món hàng muốn bán ra, để người xem tự nhiên đồng hóa cái biểu tượng ước mơ với món hàng.
KỸ THUẬT CHIÊU DỤ
Tò mò về cái kỹ thuật trên, có lần tôi đi dự một khóa cuối tuần về ”Làm Chủ Kỹ Thuật Thuyết Phục" (Mastering Persuasion Techniques) của Anthony Robbins. Nguyên tắc căn bản của khóa: người ta mua món hàng không phải là món hàng, mà mua cái điều đang mơ ước trong lòng. Người bán hàng giỏi là người gãi đúng chỗ ngứa đó. Không phải là người van xin người ta mua hàng, nhưng phải là người làm ơn, đáp ứng những ”nhu cầu” căn bản nhất của con người. Người ta mua là mua cái ”nhu cầu” đó. Mua về rồi có được như vậy hay có dùng tới không lại là một chuyện khác. Người ta đã khéo đánh lừa để thấy đôi giầy hay chiếc xe là một giải đáp đúng lúc con người đang khao khát tìm vào được nguồn hạnh phúc, và đương nhiên sẽ trở nên thật ”ngầu” chứ không ”dổm” như hiện trạng. Nhưng rồi lại thấy đây chỉ "nói vậy mà chẳng phải vậy", sẽ chẳng dẫn tới độ bay cao hay rực lửa nhiệt lực như quảng cáo!
Theo Anthony Robbins trong cuốn ”Khơi nguồn tiềm năng trong lòng” (Unleash the Power within) thì cái giá trị khách quan của một món hàng chỉ thật sự có 7%. Còn 93% là do gợi lên được hình ảnh đang mơ ước bên trong của người mua hàng, với những cử điệu diễn tả. Trong quảng cáo xe Toyota, lái buôn đặt trọng tâm vào biểu tượng chim bay (93%) chứ giá trị của xe như bền và đỡ tốn xăng chỉ chiếm 7% mà thôi. Trong quảng cáo giầy L.A. Gear, hình ảnh rực lửa đúng là kỹ thuật đánh lừa tinh vi tột độ, vì chạm tới biểu tượng sâu xa của con người, như đã tìm được ”Lửa Thánh Thần” đo mà. Làm như là đi giầy L.A. Gear thì bạn sẽ đầy nhiệt lực, sẽ đầy ơn Thánh Thần rồi còn gì! Dại gì mà không mua, chỉ có $49.95 tiền Mỹ thôi, có cần gì phải học giáo lý hay đi nhà thờ! Uống một chai Pepsi là thấy đời mình tươi trẻ dẻo dai như anh chàng Michael Jackson. Có ngờ đâu người ta đã trả 15 triệu để trả cho anh chàng này cầm chai Pepsi nhảy múa điệu breakdance giật giật thật hấp dẫn và khích động tuổi trẻ. Kỹ thuật đánh lừa là đây: cái điệu múa nhảy ăn khách của Michael Jackson chẳng ăn nhập gì với nước ngọt Pepsi, nhưng tâm lý con người luôn liên kết hai hình ảnh lại với nhau.
Cách thức đắc nhân tâm này ngày xưa Dale Carnegie đã viết thành sách hẳn hòi, nhưng vẫn còn chỉ là lý thuyết suông. Còn bây giờ Anthony Robbins đưa vào kỹ thuật khoa học đàng hoàng, và bắt thực hành tại chỗ. Thẩy hàng ra là đắt như tôm tươi, chôm tiền ào ào. Chẳng lạ gì trẻ con bên Mỹ vào tiệm Toys R Us là đòi mua ngay những gì chúng đã được hay bị ám ảnh hằng ngày trên TiVi trong những chương trình hoạt họa rất thích thú. Đàng sau màn ảnh hoạt họa TiVi là những lái buôn đã nghiên cứu tâm lý trẻ rất kỹ lưỡng, nên đứa trẻ hầu như không thể cưỡng lại được mà không đòi cha mẹ phải mua cho bằng được những thứ làm vui thỏa kia.
Thậm chí hãng rượu JBL còn dám đưa ra một quảng cáo quái đản hơn nữa. Hình chai rượu được chụp với vẻ chiều sâu huyền nhiệm như có sức chữa mọi thương đau con người, và bên cạnh là một hàng chữ thôi miên: "hôm nay, ít ra còn một điều làm bạn tìm lại được dịu êm". Quảng cáo có ý nói rằng bạn đã quá mệt mỏi căng thẳng vì cuộc sống, chỉ có một giải pháp êm đẹp nhất, đó là mua một chai rượu mạnh về nhấm nháp là quên hết thương đau buồn tủi:
Một xị mở mang trí hóa, Hai xị giải phá cơn sầu.
Đúng là thời điểm kỹ thuật đánh lừa lên tới cao độ. Càng đánh lừa giỏi càng bán hàng chạy. Người bán hàng được huấn luyện để luôn nở nụ cười tươi trên môi chào đón khách hàng. Thì khách hàng cũng đã phải trả giá cho cả nụ cười đó rồi. Khách hàng là nhất, có bẳn gắt khó tính thì vẫn được lắng nghe và niềm nở kiên nhẫn chờ đáp ứng những gì đang cần như người mẹ hiền kiên tâm săn sóc. Mục đích là moi được tiền khác hàng, thế thôi!
Cứ thế, cứ thế. Các lái buôn luôn sẵn lòng cung ứng những giải pháp thần tốc cho những nỗi đói khát của con người thời đại. Và biết bao người đã trở thành con thiêu thân cho những nhu cầu dường như bất tận của cái xã hội tiêu thụ này. Riết rồi sinh căng thẳng về mức độ leo thang… Những quảng cáo nơi nghỉ hè thật hấp dẫn như đi vào vườn địa đàng sung mãn. Vậy mà nhiều người trước khi đi nghỉ hè đã phải ngủ để lấy sức, và sau khi về lại phải tìm giờ mà ngủ để bù sức lại vì quá mệt mỏi! Đúng là ngủ để lấy sức nghỉ!
TIN VUI TÌM CHỖ NGHỈ HÈ
Cũng chính vì nhìn rõ thực trạng của dân chúng đang bị đánh lừa bởi nhiều thứ kỹ thuật dụ dỗ làm cho đời sống thêm căng thẳng và mệt mỏi mà Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ: "Các con hãy vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút" (Mc 6:30). Và "Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn dẫn" (Mc 6:34). Ngài nói rõ Ngài mới là Đường, là Sự Thật và là Sức Sống". Nơi thanh vắng để nghỉ hè đúng nghĩa nhất là chính Chúa. Ngài suối nước trong, là đồng cỏ xanh tươi.
Mỗi người đang thực sự cảm thấy đói khát một cái gì trong đời sống. Thánh Vịnh 63 diễn tả tâm tư lúc này:
Lạy Chúa, chính Chúa là Thiên Chúa của con Con đang khắc khoải tìm Chúa. Hồn con khát khao hướng về Chúa. Xác con cũng hao mòn, như đất hạn hán, nẻ khô khát nước…
Mình có thể là "một cây trồng bên dòng nước sinh hoa trái đúng mùa và cành lá không bao giờ tàn úa" (Thánh Vịnh 1), hay cũng có thể đang là một cây khô cằn vì rễ không bén sâu chạm được đến mạch nước bên dưới.
Khám phá lại đời sống cầu nguyện là một vấn đề sinh tử, vấn đề của những ai đang bước đi trong sa mạc cố tìm niềm vui trong một thế giới chán chường. Hoàng Tử Ti Hon của Saint Exupéry đã bảo: Thời giờ đáng quí trọng nhất là thời giờ dành ra để thong thả bước tới dòng nước mát. Đó là cách nghỉ ngơi đúng nhất.
Vâng, con xác tín như thế cùng với Thánh Âu-Tinh trong lời Tự Thú:
"Tâm hồn tôi khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Chúa."
Tháng Bảy mưa Ngâu, đó là những gì người xưa dùng để chỉ sự bất hạnh mà cặp vợ chồng: TN 16-B45
Tháng Bảy mưa Ngâu, đó là những gì người xưa dùng để chỉ sự bất hạnh mà cặp vợ chồng Ngưu Lang – Chức Nữ do quá đắm say mà bê trễ công việc Nhà Trời giao, để rồi bị đày xuống Sông Ngâu, mỗi người một bờ cách xa, đến đầu tháng bảy hằng năm mới có chim Ô Thước bắc cầu cho gặp nhau, sau đó lại chia cách mỏi mòn. Nước mắt của họ đã thành mưa Ngâu. Thực tế, nằm hai bên dải Ngân Hà, Sao Ngưu Lang cách trái đất mười sáu năm ánh sáng; còn Sao Chức Nữ xa hơn nữa với hai mươi ba năm ánh sáng. Sao Ngưu Lang gấp đôi Sao Chức Nữ và cả hai đều lớn hơn, nóng hơn mặt trời.
Chuyện cổ tích, nhưng dù sao mỗi đầu tháng bảy âm lịch hoặc mỗi khi nhớ lại, ngước nhìn bầu trời, không khỏi nhớ đến hai nhân vật thần thoại và nhất là hai chòm sao mang tên họ. Chiêm tinh Đông phương cho rằng mỗi người đều có một ngôi sao hộ mạng và nhà văn Vũ Trọng Phụng đã diễn tả niềm tin bình dị ấy trong câu: “Tôi ra đời dưới một ngôi sao xấu... !”
Nhìn những vì sao hình thành giống như chữ T ở trên trời, Thánh Nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su thuở bé thơ đã chỉ cho người cha mình thấy và nói: “Bố hãy nhìn xem: tên con đã được viết ở trên trời”. Và đó cũng là tâm tình mà Chúa Giê-su muốn dạy cho các môn đệ hiểu: dù ở đâu, làm gì, thì quan trọng nhất vẫn là làm sao để có tên trong danh sách “công dân Nước Trời”.
Vui mừng vì thành quả đạt được từ nỗ lực cá nhân trong công việc thường nhật hoặc từ những việc tinh thần, đạo đức, thiêng liêng, là một tâm tình rất bình thường, nhưng dừng lại ở đó, để thoả mãn hoặc không thấy được ý nghĩa sâu xa hơn, lại là một thiếu sót lớn đáng chê trách. Vì thế, điều các ông phải thật sự hân hoan, ấy là sau khi nhờ có ơn Chúa mà hoàn thành bổn phận với kết quả tốt đẹp, các ông được nhận phần thưởng trên Trời, như những tôi tớ trung tín. Thành quả thuộc về ông chủ, nhưng phần thưởng lại được ban cho người thực hiện ý chủ, dù rằng mọi phương tiện, mọi năng lực, ...đều được ông chủ cung cấp đầy đủ.
Bây giờ đã hai năm rõ mười điều mà một Kitô-hữu phải ghi tâm khắc cốt để cố gắng hoàn tất tốt đẹp trong cuộc đời mang danh “Ki-tô thuộc” của mình: SỐNG ĐẠO, trở thành “sao”, nghĩa là có tên ghi ở trên trời và TRUYỀN GIÁO, trở thành những “con quạ đen” bắc cầu Ô Thước – Ơn Phúc cho nhiều người đến được với Chúa, và không chỉ một lần trong năm hay trong đời. Chúa Giê-su đã tóm tắt mục tiêu và ý nghĩa của hai công việc song hành này, trong câu: “để mọi người nhìn thấy anh em, mà ngơi khen Cha anh em ở trên Trời”. Do đó, sống đạo là để ĐẾN ĐƯỢC VỚI CHÚA; trong khi truyền giáo là để GIÚP ANH EM ĐẾN ĐƯỢC VỚI CHÚA, để mọi người đều có tên trong Sách Hằng Sống.
Đến với Chúa vốn đã chẳng dễ dàng gì, nhưng đến với tha nhân còn khó khăn hơn nhiều, vì phải biết nhìn nhận giá trị con người và con Chúa nơi anh em, để chấp nhận anh em và đủ can đảm dũa gọt những góc cạnh, những sù sì trong con mắt, trong tâm hồn, trong hành xử của chúng ta, sao cho những gai góc, dôi dư từ tính mê nết xấu, từ kiêu căng ích kỷ, từ ý chí bá chủ của chúng ta, không làm đau anh em, không làm cho anh em nhìn nhận sai lệch về Chúa Ki-tô và Tin Mừng qua chính con người và cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta. Quả thực rào cản khiến ta khó đến với Chúa, một phần lớn cũng chính là rào cản ngăn trở ta đến với anh
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
Bài tình ca Chúa dạy con hát hôm nay có tựa đề “CHẠNH LÒNG THƯƠNG”, là khẩu hiệu của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội khi Ngài được chọn làm giám mục giáo phận Lạng Sơn. Đứng trước một vùng biên cương mênh mông, với chỉ một linh mục già, một nữ tu gần đất xa trời và số giáo dân ít oi mà sự hiểu biết Đạo Thánh và Giáo Lý sơ sài đến mức ấu trĩ, nhưng niềm tin thì kiên vững hơn cả Nàng Tô Thị ôm con hoá đá vì mỏi mòn đợi chồng về: họ hiểu Chúa “chạnh lòng thương” họ, không bỏ rơi họ và vì thế họ vẫn trung tín sắt son.
Trước đám đông, Chúa đã không khỏi cảm thấy trái tim thắt lại. Những đau khổ cơ cực tinh thần và vật chất, nhất là tội lỗi, đang đè nặng trên những người dân hiện diện. Đời còn hơn cả bể khổ. Chúa muốn con cũng phải biết “chạnh lòng thương”, không phải chỉ có trái tim bằng thịt, mà máu lưu thông trong tim con phải là Máu Thánh Chúa, Máu đã đổ ra cũng chỉ vì Chúa đã “chạnh lòng thương”, để rồi sự “chạnh lòng thương” này nơi con, sẽ như “chiếc cầu Ô Thước” bắc cho tha nhân thấy được, hiểu được và đến được với Chúa.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 06
Trong kho tàng khôn ngoan Ấn giáo, có một câu chuyện minh triết kể về vị đạo sĩ và người: TN 16-B46
Trong kho tàng khôn ngoan Ấn giáo, có một câu chuyện minh triết kể về vị đạo sĩ và người học trò.
Vị đạo sĩ hỏi người học trò: “Đâu là lằn mức giữa đêm và ngày ? Lúc nào ngày bắt đầu ? Lúc nào đêm chấm dứt ?” Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới nào là hết đêm.
Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt ?
Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư: “Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày”.
Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò: “Phân biệt con chó khác con mèo nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không ?”
Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp: “Đấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Đủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre ? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo ?”
Sau cùng, người học trò tự thú: “Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm”.
Vị đạo sĩ trầm tư: “Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy ?”
Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ: “Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không ?”
“Đúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Điều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Điều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt ? Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lụi dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia...”
Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe. Lâu thật lâu, thời gian trôi trong thinh lặng, đến một lúc nhà đạo sĩ nhỏ nhẹ bảo người môn sinh: “Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt !”
Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò: “Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ !”
Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò:
“Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Đế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Đế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Đế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi...
Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt ? Không trả lời được con ạ. Đâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Đế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Đời quá đẹp con ạ !”
Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe. “Con ạ, Thượng Đế nói cho linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Đế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày ! Lúc nào Thầy nhìn người khác mà tức giận, ghen ghét, tham lam, thù hận, thì đấy là đêm! Ánh sáng để phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu. Đi giữa ban ngày mà trong trái tim trĩu nặng, u hoài thì vẫn vẫn là bóng đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung”.
Vị đạo sĩ nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia. Ông đã chết. Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu. Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ đã chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.
Câu chuyện gợi lên những ý tưởng giúp suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Vị đạo sĩ dành cả đời mình để khám khá ra nguồn ánh sáng: gặp ai cũng thấy là anh em, đó là ngày. Nói theo ngôn ngữ của Chúa Giê-su: ai cũng là anh em, ai cũng là bạn hữu, yêu thương anh em ( Ga 15, 2 ) và yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình (Mt 6,44). Đó là đường lối của Đấng “là đường là sự thật và là sự sống”. Theo Chúa Giê-su, làm người luôn phải biết “chạnh lòng thương”. Đây là ánh sáng Tin mừng. Gia sản quý báu mà Chúa để lại là nghĩa cử hy sinh mạng sống chính mình vì yêu nhân loại. Tình yêu ấy trở nên một giới răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu đến hiến mạng để sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới. Bởi đó: “Tình yêu cao quý nhất là hy sinh tính mạng vì bạn hữu” ( Ga 15, 13 ).
Tin mừng hôm nay kể câu chuyện về tình thương của Chúa Giê-su. Sau một chuyến đi thực tập truyền giáo trở về, các Tông đồ sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa bảo các môn đệ vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Thầy trò lên thuyền, ngược gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào. Chúa thật sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, những thao thức hối hả của họ đã khiến Chúa rung động tận cõi lòng. Chúa đã “chạnh lòng thương” vì “họ như đàn chiên không người chăn dắt”. Tình thương vô bờ bến đã khiến Chúa Giê-su nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Chúa không nghỉ ngơi nữa mà tiếp tục giảng giải cho họ nghe.
Chúa đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Người luôn giúp đỡ, không bao giờ từ chối: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” ( Cv 10, 38 ). Đối với Chúa Giê-su, con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và yêu nhau. Làm người cần có lòng nhân ái, sống cho mọi người, cảm thương mọi người kể cả thù địch, ưu ái những người khổ đau nghèo khó và bị khinh khi áp bức. Ánh sáng để phân biệt đêm và ngày chính là lòng nhân ái .
Là Thiên Chúa làm người, Chúa Giê-su là bậc thầy dạy môn sinh với phương pháp sư phạm độc đáo. Bài học quan trọng nhất, tuyệt vời nhất là bài học “chạnh lòng thương”, bài học về Tình Yêu. Con người không thể nào hiểu được Mầu Nhiệm Thiên Chúa là Tình Yêu, ngày nào họ chưa biết yêu thương và chưa thực hành yêu thương.
Chúa đã dạy các môn sinh yêu thương từng bước một, chỉ cho thấy ánh sáng phân biệt đêm và ngày dọc theo năm tháng trên mọi nẻo đường truyền giáo. Những ngày đầu theo Thầy, các môn đệ học bài học căn bản “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” ( Mt 22, 39 ). Sau một thời gian Thầy trò sống bên nhau, Chúa nâng các môn đệ lên một tầm cao mới của yêu thương. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” ( Mt 25, 40 ). Một tình yêu vô vị lợi với tha nhân.
Tâm huyết của Thầy cũng là giới răn mới Thầy để lại cho môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15,12 ). Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: Như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu thương nhau.
Sự viên mãn của Chúa Giê-su là viên mãn của tình yêu và sự sống. Sống để yêu, sống trọn vẹn và yêu trọn vẹn. Sống là yêu, yêu là sống. Yêu và sống là một thực tại, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa, Người là sự sống và là tình yêu.
Tình yêu của Chúa lớn lao hơn trời, mênh mông hơn biển. Vì thế Chúa có thể mời gọi chúng ta: “Hãy ở trong tình yêu của Thầy” ( Ga 15, 9 ). Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì thì phải giữ các điều răn, mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Muốn ở trong Thầy thì phải ở trong nhau.
Yêu thương trọn vẹn là sống trọn vẹn. Lòng nhân ái mãi luôn là ánh sáng đưa con người vào khung trời hạnh phúc.
Hẳn chúng ta đã biết một người nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vào khoảng: TN 16-B47
Hẳn chúng ta đã biết một người nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vào khoảng thập niên 50, đó là mục sư Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo hàng đầu được cả triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ coi ông như một vị anh hùng. Mà quả thật, nếu không có ông, thì họ sẽ bơ vơ như đàn chiên không ai chăn dắt.
Một đêm nọ vào lúc một giờ sáng, ông bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Khi ông cầm máy lắng nghe, thì một giọng nói giận dữ vang lên: Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh. Anh đừng bén mảng đến phần đất của chúng tôi nữa. Nghe giọng nói đầy đe dọa này, ông đã thực sự hoảng sợ, và với chút can đảm còn sót lại, ông đã gục đầu kêu xin Chúa: Lạy Chúa, con đang đảm nhận một sứ vụ rất chính đáng, thế nhưng giờ đây, con vô cùng sợ hãi. Con không biết phải làm thế nào nữa. Một mình con không thể đương đầu nổi với trách nhiệm nặng nề này.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm đã lãnh nhận. Chúng ta dường như không thể vác nổi gánh nặng đè xuống trên chúng ta. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Cây dầu: Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này xa con. Noi gương Chúa Giêsu cũng như noi gương mục sư Martin Luther King, trong những lúc gặp khó khăn, trong những khi thất vọng nản chí, chúng ta hãy chạy đến với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Phúc âm kể lại, sau khi Đức Kitô cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây dầu, thì một thiên thần từ trời hiện đến an ủi và nâng đỡ Ngài. Còn mục sư Luther King cũng vậy, sau khi cầu khẩn cùng Chúa trong cái đêm đáng ghi nhớ ấy, ông đã ghi nhận được sự nâng đỡ của Chúa mà trước đó, ông chưa hề thấy.
Tóm lại, mỗi khi chúng ta cảm thấy gánh nặng của bổn phận, của trách nhiệm đè xuống trên mình, chúng ta hãy biết cầu nguyện, hãy biết tìm về với Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta nguồn sức mạnh, nâng đỡ chúng ta trên vạn nẻo đường đời, như lời Thánh vịnh đã viết: Chúa là mục tử, tôi chẳng còn thiếu thốn chi, Ngài dẫn tôi qua đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn vàn gánh nặng, tôi cũng không nao núng.
Hay như lời Chúa đã kêu gọi: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Bởi vì, có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Thánh Marcô kể lại việc Đức Giêsu tiếp đón các Tông đồ lúc họ đi rao giảng về. Thánh Marcô: TN 16-B48
Thánh Marcô kể lại việc Đức Giêsu tiếp đón các Tông đồ lúc họ đi rao giảng về. Thánh Marcô không nói Đức Giêsu đã làm gì lúc họ đi vắng. Tuy nhiên có một chữ có thể soi sáng chúng ta: cả các con nữa, hãy đến mà nghỉ ngơi một chút. Chữ ‘cả các con nữa’ hình như ám chỉ rằng Đức Giêsu đã để ra một khoảng thời gian nghỉ ngơi, tĩnh tâm. Ngài muốn đến lượt các Tông đồ cũng được hưởng ân huệ đó. Nhưng lời van xin của đám đông đã cản trở ý định này. Đức Giêsu chiều theo lời van xin này, vì Ngài có trước mắt Ngài một đám đông bơ vơ, lạc lõng và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Giai thoại này gợi ra cho ta hai điều: con người có một nhu cầu học hỏi và họ cần một thứ giáo huấn thấm nhuần chiêm niệm.
1) Ngài động lòng thương đám đông, vì họ như đàn chiên không người chăn và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Đám đông không thiếu người hướng dẫn, nhưng đặc điểm của các người hướng dẫn là sớm muộn gì cũng đưa đám đông đến nỗi thất vọng.
Đám đông tuôn đến cùng Đức Giêsu, cũng đã bị thất vọng trước rồi. Họ cảm thấy nơi Ngài một Đấng đem lại 1 sứ điệp mới, có một sức mạnh và một mệnh lệnh vượt lên trên những gì họ đã nghe cho đến bây giờ. Con người, khi không được dạy bảo cho đứng đắn, giống như đàn vật, sẽ xảy ra những chuyển động khi thì theo hướng này khi thì theo hướng khác. Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo hội đã thấy rằng, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường. Cho nên Giáo hội đã bắt đầu rao giảng nhiều điều qua công đồng Vaticanô II.
Nhưng các mục tử không giấy ủy nhiệm, thiếu khả năng và ít lo lắng khơi dậy nơi đám đông việc lắng nghe lời Đức Kitô, đã cố tâm làm dậy lên, thường là trong chiều hướng các định kiến mới, những lực lượng phi lý đang hoạt động trong các nhóm nhân loại. Họ lèo lái dư luận và đôi khi lại là chính dư luận bên trong Giáo hội. Những Kitô hữu ưu tú chỉ muốn được Đức Kitô dạy bảo, đã chứng tỏ một lương tri sáng suốt khi nghe theo tiếng nói thuộc quyền Giáo hội và bỏ rơi một số những tiếng nói khác ít nhiều ăn bám hoặc dị đồng.
2) ‘Cả các con nữa, hãy lui vào nơi vắng vẻ’.
Đức Giêsu mời các môn đệ hãy lui vào một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là để lấy lại sức. Sự nghỉ ngơi của vị Tông đồ cũng là để lấy lại nghị lực về mọi phương diện: thể lý, tinh thần, thiêng liêng. Trong giai thoại vừa kể; Đức Kitô và các Tông đồ đã chìu theo lời van xin của đám đông. Điều này cho thấy có những trường hợp mà tình bác ái, tình thương, sự tận tụy đòi hỏi phải hành động mặc dầu đang mệt nhọc. Những dự định của Chúa là lôi kéo các Tông đồ vào nghỉ ngơi vẫn còn. Cái nhịp thông thường của đời sống Tông đồ, chiến sĩ bao gồm cả những thời gian tĩnh tâm, lấy sức, chiêm niệm, ‘hâm nóng lại’. Gương của Đức Kitô và của các Tông đồ minh chứng cho thấy hoạt động chiến sĩ không thể tự mình mang lại lương thực đầy đủ.
Những người hoạt động hữu hiệu trên bình diện thuần túy nhân loại, cũng biết để ra những thời giờ dài ngắn trong yên tĩnh và suy gẫm. Huống hồ là Tông đồ của Đức Kitô, họ phải dành ra những giây phút dài lâu để lấy lại sức mạnh thiêng liêng, nhờ việc sống thân mật với Ngài, riêng biệt trong một nơi vắng vẻ, như Phúc âm nói. Người tông đồ hữu hiệu truyền đạt cho kẻ khác điều mình đã lâu giờ học hỏi nơi Đức Kitô. Và chính là điều này mà con người đòi hỏi.
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những: TN 16-B49
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm 1942, đưa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: ‘Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều có thể cho được’. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các phép lạ”.
Anh chị em thân mến,
Những dòng nhật ký trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu. Họ đến do nhiều động lực khác nhau thúc đẩy: vì tò mò, hiếu kỳ, vì mốn được xem phép lạ, hoặc để được phép lạ, nếu là những bệnh nhân. Nhưng chắc chắn không ít người đến với Chúa Giêsu vì muốn nghe Ngài giảng dạy, vì đói khát chân lý Tin Mừng. Và Chúa Giêsu muốn đáp ứng trước tiên nhu cầu này của họ, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nhiều lần trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một chương trình, bỏ một dự tính, để dừng lại bên một đám tang, bên một bệnh nhân, bên một bờ giếng… Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thời giờ thích thú nghe các Tông Đồ báo cáo kết quả chuyến đi truyền giáo. Ngài có thể dẫn các Tông Đồ đi đến một nơi riêng không bị ai quấy rầy, để nghỉ ngơi. Nhưng Ngài đã huỷ bỏ cuộc nghỉ để trước hết đáp ứng cơn đói khát của dân chúng. “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”.
Thật vậy, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều. Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thuỷ múa máy cây đũa thần của mình. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loé mắt thiên hạ. Phép lạ dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ nhập thể làm người và sống thân phận con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Đây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa cũng biết thế nào là đau khổ, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chuá như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Cộng Đồng Vatican II trong Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” đã nói: “Chỉ trong ánh sáng của màu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ”. Con người bởi đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? Chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn biết phải sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người sống không chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí mà thôi. Trên thế giới có lẽ ít người tự tử vì nghèo đói hơn là vì không tìm ra ý nghĩa cuộc đời: Tại sao mình phải sống? Chết rồi sẽ ra sao?... Nói cách khác, cái túng thiếu, quẫn bách, nghèo đói, chưa phải là động lực cuối cùng xô đẩy người ta liều mạng sống cho bằng vì người ta cảm thấy không tìm ra giá trị nào cho cuộc đời của mình: cuộc đời phi lý, vô nghĩa, không đáng sống! Chúa Kitô giảng dạy cho chúng ta biết rõ đích điểm của cuộc đời mình và biết đường đi đến đích. Con người không được Lời Chúa hưỡng dẫn sẽ giống như đàn vật bơ vơ lạc lõng, không biết đời mình sẽ đi về đâu? Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo Hội đã nhận thấy điều đó, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường, mất hướng. Giáo Hội phải rao giảng Lời Chúa, đem chân lý đến cho loài người, như Chúa Giêsu giảng dạy cho đám đông dân chúng đi theo Ngài: “Ngài đã giảng dạy cho họ nhiều điều”.
Thưa anh chị em, ngày nay, đứng trước hàng tỷ, hàng triệu con người sống nhung nhúc ở những lục địa Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu hoặc trước hoàn cảnh của các Kitô hữu không có chủ chăn, lời Chúa đã thốt ra cách đây gần 2000 năm vẫn là vấn đề thời sự: “Ta chạnh lòng xót thương đám đông dân chúng, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”. Vì thế, Giáo Hội hôm nay nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng, đều có sứ mạng đem Lời Chúa và giúp người khác thực thi Lời Chúa, đó là cách Giáo Hội đóng góp cho con người, cho công cuộc xây dựng thế giới loài người. Lời Chúa không thể nào dung tha những gian dối, bất công, hận thù, chia rẽ, ích kỷ. Lời Chúa đòi người ta phải sống cho sự thật, phải tranh đấu cho công bình, phải mở rộng vòng tay đón nhân anh em, làm cho mọi người được sống hạnh phúc.
Là Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn chăm sóc chúng ta. Ngài tập họp chúng ta xung quanh Ngài để nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bằng Bánh ban sự sống. Hãy tìm đến với Ngài để lãnh nhận nguồn sinh lực mới. Tìm đến với Ngài, chúng ta sẽ tìm gặp anh em cùng với Ngài: không thể tránh né anh em để chỉ tìm một mình Ngài. Tập họp chung quanh Ngài, chúng ta cùng cộng tác với Ngài để chiến đấu với tội ác, ích kỷ, bất công, hận thù, để cho Tin Mừng cứu độ giải thoát loài người.
Khi các môn đệ hoàn thành sứ mạng trở về, họ phúc trình công tác với Chúa Giêsu. Nhu cầu: TN 16-B50
Khi các môn đệ hoàn thành sứ mạng trở về, họ phúc trình công tác với Chúa Giêsu. Nhu cầu của quần chúng muốn được nghe Chúa Giêsu thì rất lớn, đến nỗi các ông chẳng có thì giờ dùng bữa; cho nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ tìm một nơi vắng vẻ phía bên kia bờ biển hồ để thầy trò có thì giờ yên tĩnh nghỉ ngơi.
Tại đây chúng ta thấy điều có thể gọi là nhịp điệu của đời sống. Vì đời sống là một hành trình liên tục từ chỗ gặp loài người đến nơi gặp Chúa, để rồi từ nơi gặp Chúa trở về gặp loài người. Nó tương tự như nhịp điệu của giấc ngủ và công việc. Chúng ta sẽ không thể làm việc, nếu không có đủ thì giờ nghỉ ngơi thích hợp, nhưng chúng ta cũng không thể ngủ nếu chưa làm việc cho đến khi đi mệt mỏi.
Trong nếp sống hằng ngày, có hai nguy cơ. Một là có cơ nguy hoạt động quá sức. Không ai có thể làm việc mà không nghỉ ngơi, cũng như chẳng ai có thể sống đạo nếu không dành thì giờ để được sống riêng biệt với Chúa. Có thể tất cả rắc rối của đời sống là do chúng ta không dành thì giờ để Chúa phán dạy mình, vì chúng ta không biết yên lặng lắng nghe. Chúng ta không để Chúa bồi bổ lại năng lực cho mình, vì chúng ta không dành thì giờ nào riêng ra để chờ đợi, trông mong nơi Ngài cả. Làm thế nào chúng ta có thể đương đầu nổi các gánh nặng của đời sống, nếu không được tiếp xúc với Đấng là Chúa tể của mọi đời sống? Làm sao chúng ta làm nổi công việc cho Chúa nếu không được sức lực Ngài ban cho? Và làm sao chúng ta có thể nhận được sức lực ấy nếu không gặp gỡ riêng với Thiên Chúa? Hai là, có nguy cơ của việc thoái thác quá nhiều. Lòng tin kính mà không tạo ra được hành động thì không phải là tin kính đích thực. Chúng ta đừng bao giờ đi tìm hiệp thông với Chúa để trốn tránh hiệp thông với con người. Nhịp điệu của đời sống là luân phiên gặp gỡ Chúa trong nơi kín đáo, phục vụ người ta ngoài phố chợ.
Nhưng Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài đã không tìm được sự nghỉ ngơi mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ họ đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ vừa tới cách xa bốn dặm đường vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ đường vòng thì đường dài đến mười dặm. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đuờng này phải tốn khá thời gian. Còn một người khỏe chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và sẽ đến nơi trước khi thuyền cặp bến. Đó chính là việc đã xảy ra ở đây. Cho nên lúc gặp Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đám đông mà các Ngài muốn tránh mặt đẻ tìm thì giờ nghỉ ngơi, họ đã chờ đợi sẵn đó rồi.
Nếu là một người thường chắc phải cảm thấy hết sức phiền hà. Chúa Giêsu đang rất cần được nghỉ ngơi và rất đáng được nghỉ ngơi, lại không được cho nghỉ ngơi. Đời sống riêng tư của Ngài đã bị xâm phạm. Nếu là người thường, chắc không được vui, nhưng Chúa Giêsu lại rất cảm động và thương xót đám đông. Ngài nhìn họ, họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ có Ngài mới ban cho họ được, họ cần quá nhiều điều mà một mình Ngài không đáp ứng kịp, dưới mắt Ngài thì họ như chiên không có kẻ chăn. Ngụ ý muốn nói gì? 1/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Hiệu trưởng Cairns nói về những người họ cảm thấy “như trẻ con đi lạc trong mưa”. Dante có một câu nói rằng “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bị bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn, chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
2/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta cần sức lực để có thể vững buớc, cần có nguồn cảm hứng để nâng chúng ta vượt ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm ở những nơi khác, tâm trí chúng ta chưa thể thỏa mãn, tấm lòng chúng ta vẫn chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực cho đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
3/ Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu cuộc đời dạy khôn chúng ta điều gì, thì đó là chúng ta không thể sống một mình, phải biết rõ không thể tự mình mà sống. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ tấn công mình, với điều gian ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà giữ được áo xống mình khỏi ô nhiễm của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.