Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống'”. Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Sau khi Kha Luân Bố khám phá Mỹ châu, một người Tây-ban-Nha tên là Ponce de Lion nghe đồn ở Tân thế giới có ngọn suối trường sinh. Ông liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ tìm. Và trước Chúa Giáng Sinh khoảng 2000 năm, hoàng đế Trung Hoa tên Tần Thủy Hoàng muốn được trường sinh bất tử. Ông nghe các nhà chiêm tinh nói ở biển Đông có hòn đảo thần, dân ở đó khám phá ra bí quyết trường sinh. Ông liền phái một số tàu thuyền chở đầy châu báu đến đó đổi lấy bí quyết trường sinh, nhưng dân chúng ở đó không chịu đổi…
*****
Những câu chuyện trên muốn nói lên điều gì? Nói lên con người thời nào cũng muốn trường sinh bất tử. Đó là ước mơ ngàn đời của loài người. Mỗi lần thấy một người nằm xuống là ước mơ này cũng dày vò con người mãnh liệt hơn.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Người là “Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời… Ai tin thì được sống đời đời” (Ga.6,50-51)
Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là hết. Còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt. Đó là cuộc sống trường sinh, cuộc sống vĩnh cửu.
Khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố “Người là Bánh trường sinh từ trời xuống”. Dân Do thái không tin, họ xầm xì phản đối, vì họ chỉ nhận Người là con ông Giuse thợ mộc nghèo khó mà họ quen biết. Mãi đến khi họ thấy Người từ cõi chết sống lại, họ mới nhận ra Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống cứu thoát họ khỏi chết, đem đến cho mọi người sự sống đời đời.
Chính vì tin nhận mầu nhiệm trường sinh này mà hôm nay chúng ta đến nhà thờ đây, để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, nhất là bằng Mình Máu thánh Người là “Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết’. (Ga.6,50).
Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Lion người Tây-ban-Nha đã khổ công đi tìm kiếm, bí quyết sống vĩnh cửu mà Tần Thủy Hoàng cho người đến tận các đảo thần tiên đổi lấy hiện đang ở trước mặt chúng ta trong Bí tính Thánh Thể.
Muốn được trường sinh bất tử, muốn sống đời đời trong tương lai, mỗi người chúng ta chỉ cần đến rước lấy Mình Máu Thánh của Đấng là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…
(Theo “Sunday Homilies”).
Trường sinh bất tử
Chuyện thần thoạt Hy-lạp kể:
Sivil là người phục vụ đền thờ, có nhiều công trạng. Khi được hỏi muốn được thưởng thế nào cho xứng với công khó của mình, bà trả lời:
– Xin cho tôi được trường sinh bất tử…
Thế là bà được toại nguyện. Tất cả người thân và bạn hữu bà đều chết hết, chỉ còn lại một mình bà. Nhưng dù không chết, thân bà ngày càng tàn tạ teo héo, bệnh tật ngày càng gia tang, nên bà không còn muốn được sống trường sinh nữa, chỉ muốn chết thôi.
*****
Con người thời nào và ở đâu cũng muốn được trường sinh bất tử. Nhưng trường sinh bất tử mà phải triền miên đau khổ bệnh tật thì nào có ích lợi gì, thà chết còn hơn…
Cuộc sống trường sinh Chúa Giêsu nói trong Tin mừng hôm nay không phải ở cõi đời này. Nó chỉ đến với con người trong cuộc sống mai sau. Để được sống trường sinh con người phải lìa bỏ đời này. Muốn được sống muôn đời, họ phải trải qua đau khổ, bệnh tật, chết chóc. Tuy nhiên không vì hướng đến cuộc sống vĩnh viễn đó mà họ được xao nhãng cuộc sống hiện tại. Trái lại họ phải biết rằng: hạt giống vĩnh cửu được gieo vãi và nảy mầm tại cuộc sống đời này. Họ phải làm sao cho hạt giống đó trổ sinh tươi tốt bằng đời sống lương thiện, yêu thương bác ái. Đặc biệt đối với các Kitô hữu, họ còn cần phải vun trồng cuộc sống trường sinh đó bằng tin cậy mến Chúa, bằng lắng nghe và thực hành Lời Chúa, bằng lương thực thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga.6,51) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập I).
Trên đường về quê
Lúc ông Theodore Roosevelt làm tổng thống Hoa Kỳ, một kỳ nghỉ hè ông sang Phi châu săn bắn hươu cao cổ để giải trí.
Lúc trở về Hoa Kỳ, ông cùng đi một chuyến tàu với nhà truyền giáo đã 40 năm hy sinh giảng đạo nơi vùng xa xôi hẻo lánh bên Phi châu. Khi tàu cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh các nhân vật trong chính phủ và dân chúng đứng sẵn trên bờ đón chào tổng thống đi săn về, không ai để ý đến ông. Ông lủi thủi một mình lên bờ, tủi phận nên phàn nàn với Chúa:
– Chúa có thấy không? Ông tổng thống đi nghỉ hè săn bắn trở về mà người ta còn tiếp rước nồng hậu như thế. Còn con đã hy sinh phục vụ Chúa 40 năm trời trở về, không một người nghĩ đến con. Thật là bất công tủi hổ cho con quá! Phải biết vậy, con không đi giảng đạo làm gì.
Chúa liền thầm thỉ trong lòng ông:
– Con chưa trở về quê hương thật của con mà…
*****
Có thể chúng ta cũng phàn nàn với Chúa như nhà truyền giáo đó. Chúng ta đã giảng đạo Chúa nhiều năm, chúng ta đã sống đạo Chúa nhiều ngày, nhưng cảm thấy mình chưa được Chúa thưởng công gì, mà lắm lúc còn phải khổ cực gian nan đủ thứ. Câu Chúa trả lời cho nhà truyền giáo trong câu chuyện trên cũng là câu trả lời của Chúa cho mỗi người chúng ta: “Con ơi! Con chưa trở về Quê Hương thật của con. Ngày nào con trở về Quê Thật, con sẽ thấy Cha tiếp đó con nồng nhiệt thế nào!…
Thế gian này chỉ là nơi chúng ta sống tạm để lập công nghiệp, để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu trường sinh hạnh phúc. Chúng ta cứ cố gắng hết khả năng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, thay vì bận tâm lo lắng tích lũy cho bản thân, ganh tỵ với may mắn của kẻ khác.
Đặc biệt chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta sẽ nhờ Thánh Thể Chúa Kitô mà đạt được cuộc sống trường sinh, như Lời Chúa Giêsu hứa với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,51).
“Sự sống muôn đời mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống thế nào, hành động ra sao, để đến giờ được Chúa gọi về Quê Hương Thật, chúng ta không lo sợ chi mà còn vững tâm an lòng đi vào cõi sống hạnh phúc trường sinh. Nhớ đến sự sống vĩnh cửu đời sau sẽ giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn, sống tốt đẹp cuộc sống đời này. Sở dĩ nhiều người sống buông thả vô luân là vì họ không thường nghĩ gì đến sự sống đời đời của họ. Thánh Phaolô đã khóc lóc than phiền hạng người đó:
“Như tôi đã nói với anh em, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cuộc là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu-Kitô từ trời đến cứu chúng ta”. (Pl.3,18-20) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).
Sống sung mãn từng giây phút
Ngụ ngôn Mông Cổ có câu chuyện sau:
Một hôm con phượng hoàng hỏi con quạ:
– Anh quạ ơi! Sao anh sống được 300 năm, còn chúng tôi chỉ sống được 33 năm tuổi?
Con quạ hỏi ngược lại:
– Thế tại sao bạn chỉ uống máu tươi, còn chúng tôi phải sống bằng xác chết?
Con phượng hoàng nghĩ ngợi:
– Hay là chúng tôi thử ăn xác chết như anh quạ xem sao! Coi có sống được lâu hơn không?
Thế là cả hai cùng bay lượn tìm mồi. Thấy con ngựa chết thúi, cả hai cùng lao mình xuống. Con quạ như trúng số độc đắc, nó ăn lấy ăn để cách ngon lành. Trong khi đó con phượng hoàng mổ một cái rồi dừng lại, nó rán thử một lần nữa, nhưng rồi lắc đầu bảo quạ:
– Anh quạ ơi! Tôi không thể ăn nữa được, thà một lần uống máu tươi, còn hơn 300 năm ăn đồ hôi thúi!…
*****
Bài học của câu chuyện trên là: một khoảnh khắc sống sung mãn có giá trị hơn một cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối. Có những cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối của trụy lạc, của tham lam, ích kỷ, hận thù, nhưng cũng có những cuộc sống tuy ngắn ngủi, mà sung mãn của những người biết sống xả kỹ, hy sinh, lương thiện…
Một người Do thái viết cuốn sách tựa đề “Khôn ngoan” như sau:
“Người đức nghĩa dầu chết sớm cũng tìm được an nghỉ. Tuổi thọ đáng kính đâu phải nhiều năm hay đo bằng số tuổi. Nhưng tuổi đời chính là sự khôn ngoan và một cuộc sống thọ là một cuộc sống không vết nhơ. Vì đẹp lòng Thiên Chúa, người đức nghĩa được Ngài yêu mến, bởi phải sống giữa những tội nhân nên được cất đi. Người ấy được cất đi kẻo sự dữ làm phôi phai trí khôn và quyến rũ tâm hồn. Bởi vì tật xấu làm mờ sự lành và đam mê quay cuống làm tiêu ma tinh thần chất phác”.
Thiên Chúa không để con người sống mãi trong cuộc sống tại thế, vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn. Đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cái trên thế giới, do đó giá trị của cuộc sống không phải là tuổi đời của cuộc sống, không phải là tuổi đời chồng chất, không phải là danh vọng hão huyền, mà là chính sự sống vĩnh cửu. Sống chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế. Và bí quyết dệt nên cuộc sống vĩnh cửu đó chính là nhận lãnh Thánh Thể Chúa Giêsu, như Lời Người đã xác quyết trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn bánh man-na trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi chết” (Ga.6,48-50) (Trích “Chờ đợi Chúa”).
Cuộc sống vĩnh cửu
Tại Phi luật Tân, cách thủ đô Manila chừng 200 cây số, có một trại tỵ nạn do quốc gia Hoa Kỳ tổ chức, nhằm chuẩn bị cho những người tỵ nạn Đông Dương chờ vào sống trong xã hội Mỹ.
Trại được tổ chức như một thành phố nhỏ: có trường học, chợ búa, đường xá, bưu điện… Tất cả cố gắng của người tỵ nạn đều được dồn vào hai mục địch: Đó là học Anh ngữ, và tập sống nếp sống một cách rất khít khao, để tạo cho người tỵ nạn cái cảm tưởng là họ đang sống trên đất Mỹ, nơi mà giờ rảnh được coi là xa xỉ.
*****
Cứu cánh tối hậu của con người là sự sống vĩnh cửu. Do đó cuộc sống tạm bợ trên trần gian này chỉ có giá trị khi nó là một chuẩn bị để bước vào vĩnh cửu. Chúng ta hãy tập sống làm sao để mỗi giây phút, mỗi việc làm, mỗi cuộc gặp gỡ của chúng ta đều là một sinh hoạt trong cuộc sống vĩnh cửu.
Đặc biệt chúng ta chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu đó bằng cách năng dọn mình rước Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Vì trong Tin mừng hôm nay, Người tự giới thiệu: Người là bánh ban cho chúng ta sự sống trường sinh: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,5).
Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu là giá trị sẽ mãi mãi tồn tại ở đời sau. Và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết, và tất cả những gì trói buộc con người trong giới hạn của cuộc sống này. Hãy sống mỗi phút giây của cuộc sống này như hương vị ngọt ngào của mai hậu.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể. Đây là một mầu nhiệm cao cả vượt quá trí hiểu của con người khiến dân chúng không dễ dàng đón nhận. Trước sự cứng lòng tin của họ, Đức Giêsu không nản lòng. Ngài kiên trì cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ và trích dẫn hình ảnh bánh Manna trong Cựu Ước, để liên hệ đến Manna mới từ trời xuống là chính thịt và máu Người.
Lần mò tìm về lịch sử, theo tiếng Do Thái, từ Man-na có nguồn gốc là từ Man hu (có nghĩa là: cái gì vậy?). Vì suốt bốn mươi năm trong sa mạc, mỗi sáng Thiên Chúa cho một lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Thấy thế, con cái Israel hỏi nhau: “Man hu? ” Nghĩa là: “Cái gì vậy? ” (x. Xh 16, 13-15). Rồi về sau dân Israel gọi bánh ấy là Man-na.
Có một nét gì đó tương đồng ở đây. Cũng thế, Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cực linh. Hẳn rằng chúng ta sẽ chẳng hiểu cho đủ mầu nhiệm ấy nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Lặng quì trước Thánh Thể, chúng ta cũng đã bao lần hỏi Chúa: Man hu, cái gì vậy?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con biết mắt phàm làm sao thấy được mầu nhiệm thanh cao. Vậy xin Chúa vén mở bức màn che khuất mà mặc khải cho chúng con hiểu thấu Thánh Thể tình yêu của Ngài, để lòng tin của con được thêm kiên vững. Xin tỏ cho trí hiểu non nớt của con biết máu thịt thực sự của Ngài trong Thánh Thể Chúa để lòng con thêm hớn hở vui mừng mỗi khi được đón Chúa ngự vào tâm hồn.
Lại nói về dân Israel, năm xưa dân Israel than trách với ông Môsê và Aharon vì ngày nào họ cũng chỉ được ăn một thứ bánh Man-na nhàm chán. Lúc này, họ hồi tưởng và ao ước được ăn thịt, cá, rồi cọng hành cọng tỏi… ở Ai Cập dù có phải làm nô lệ trong kiếp tù đày gian khổ. (x. Ds 11,4-6)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhân loại ngày nay cũng vậy. Người ta chán ngán việc đi lễ hằng ngày và chỉ được rước Thánh Thể Chúa dưới hình bánh miến đơn điệu. Lúc này, người ta lại thèm muốn những lạc thú trong cõi hồng trần giả dối, những cái hiện thực thấy được. Nếu năm xưa dân Israel muốn được ăn thịt hơn bánh Man-na Chúa ban, thì giờ đây nhân loại cũng hám danh, thèm lợi, thèm đi dự tiệc cưới, sinh nhật… hơn là đi tham dự thánh lễ và được hiệp thông trong tình yêu của Bí Tích Thánh Thể. Quả thực, trái cấm nào cũng ngọt ngào và đường dẫn đến địa ngục bao giờ cũng bằng phẳng và thênh thang.
Hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải rằng Ngài là Bánh Trường Sinh từ trời xuống. Và ai ăn Bánh ấy sẽ được sống muôn đời. Quả thực, cái gì bởi đất mà ra thì thuộc về đất là cõi phù du tạm bợ. Ví như tiền tài, danh vọng, hay thậm chí là cả thân xác của chúng ta cũng có ngày sẽ trở về cát bụi, là nơi nó đã xuất phát ra. Trái lại, cái gì bởi trời mà ra thì thuộc về trời, là vĩnh cửu và viên mãn. Bất cứ cái gì bởi trời thì tốt đẹp.
Quả vậy, Đức Giêsu là bánh bởi trời, Ngài đã trở nên như nguồn lương thực vĩnh cửu nuôi dưỡng ta, cho ta được trường sinh và dồi dào luôn mãi. Mỗi ngày, chúng ta được Giáo hội mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh. Và nơi đây Giáo hội tái diễn lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể tình yêu.
Như dân Israel năm xưa trong sa mạc khát cháy được Chúa ban Man-na cho no thỏa, thì ngày hôm nay, lòng trí khô héo cằn cỗi của chúng ta cũng được chan chứa niềm phấn khởi vui mừng nhờ được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con được đến dự Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày, để hồn chúng con được no thỏa và được hạnh phúc viên mãn khi đón nhận chính thân thể thực sự của Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin Ngài thương thứ tha cho bao lần con hờ hững trước Thánh Thể Ngài. Xin cho con không cố hiểu để yêu, nhưng là luôn cố yêu để hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể hơn nữa. Xin ban cho chúng con thấy được tầm quan trọng của Bí Tích Thánh Thể và cảm nghiệm được tình yêu chan chứa của Ngài; ngõ hầu chúng con càng được rước Chúa vào lòng, chúng con lại càng thêm yêu mến và khát khao Ngài hơn.
Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng êm xuôi như nước chảy một chiều; có lúc vui nhưng cũng không vắng những nổi buồn, khi thành công nhưng đôi khi thất bại, có lúc hăng say nhưng đôi khi chán trường…, phải chăng “đời là bể khổ?”. Ai trong chúng ta chẳng đã một lần cảm nhận được những ngày mệt nhọc, buồn rầu chán nản? trước mặt như có một khoảng trống không, sau lưng chồng chất cả một dĩ vãng nặng nề?
Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ Dồn dập tư bề như nước bao la Cận thân Chúa khiến lìa xa Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm.
Đó cũng là trường hợp của nhà tiên tri E-li-a mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc một. Ông cảm thấy cô đơn mệt mỏi, bởi vì nhìn xung quanh, ông thấy dân chúng, dân của Thiên Chúa, càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lổi. Chỉ còn lại một mình, lẻ loi trơ trọi. Ông tự hỏi: chiến đấu, hăm dọa làm gì, khi mà Thiên Chúa cứ để cho mụ đàn bà tên là Gêzabel, vợ vua Achal làm mưa làm gió!, trong lúc buồn rầu, ông lên đường vào sa mạc, vừa đi vừa nói: “Lạy Chúa! đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông chúng con”, mệt mỏi quá, ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng và ngủ thiếp đi. Chúa biết, không gì làm ích cho vị tông đồ, thần kinh căng thẳng, cho bằng một giấc ngủ, và Chúa đã để cho ông có một giấc ngủ dài. Sau đó Chúa lại dọn cho một bữa ăn, nhờ bữa ăn đó mà ông có sức. Rồi Chúa dạy ông hãy đi lên núi Khô-rếp, núi thánh, nơi mà xưa kia Mô-sê đã được gặp gỡ Chúa và trở về với bộ mặt sáng chói.
Thưa cộng đoàn!
Đời sống của người tín hữu cũng là một chuyến đi lâu dài và vất vả. Câu chuyện tiên tri E-li-a là tiền ảnh một vị tông đồ khác là Phao-lô: “Anh em hãy đi, hãy chạy trong lòng mến”. Trong thư gửi Ê-phê-sô mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc hai, Ngài dạy phải bắt chước Thiên Chúa, gương mẫu của chúng ta: “Anh em hãy sống trong tình bác ái. như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tự hương thơm ngào ngạt”. Qua đây Thánh Phao-lô muốn ám chỉ rằng cuộc sống của chúng ta cũng như của Chúa Giêsu là một cuộc “đăng sơn”. Vậy! anh em chúng ta hãy để lại dưới chân núi những: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, thóa mạ…, để rồi cùng nhau hít thở bầu không khí trong mát trên đỉnh cao sơn: “Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô”. Tình yêu là làn gió mát, là sức mạnh để chúng ta tiến bước.
Thưa cộng đoàn!
Chắc chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, đó là phần đầu của bài giảng về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu; Người đã phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi thân xác tức là manna trong Cựu Ước, bánh thiêng liêng nuôi hồn tức Thánh Thể Chúa Ki-tô trong Tân Ước, và bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, đồng thời cũng là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban “Mình” làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn bánh đó.
“Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời”
Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa dần đến mầu ngiệm “bánh ban sự sống”. Thế nhưng dân chúng không chịu mở tai để nghe, mở trí để hiểu. Họ cứ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất, không khác gì cha ông họ kêu trách trong sa mạc ngày xưa. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả; sao bây giờ ông ta lại nó: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”. Thật vậy, Bánh Hằng Sống: đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phục sinh luôn mãi. Vì thế, chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống vinh quang.
Thưa cộng đoàn!
Nguồn gốc, nhân vị, quyền năng của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm; “Ngài bởi đâu mà đến?”. Thưa: chỉ có đức tin, một ân huệ của Chúa Cha, mới có thể trả lời cho chúng ta biết. Chúa Giêsu đã bác bỏ những luận điệu quá tự nhiên ấy, Ngài còn khẳng định rằng: “Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể mạc khải cho chúng ta Chúa Giêsu. Thánh kinh là con đường dẫn chúng ta đến với con Thiên Chúa; nhất là đến tột điểm hôm nay dưới hình ảnh Ngài là Bánh Hằng Sống. Để kết thúc bài giảng Chúa đã khẳng định rõ ràng, không úp mở: “Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống!”.
Xin cộng đoàn nhớ điều này: Phép Thánh Thể chính là biểu hiện và cũng là sự thật, tình thương của Ngài đã hiến mình vì chúng ta dưới hình bánh rượu. Như E-li-a buồn rầu, chán nản, Chúa đã dọn cho một bữa ăn để có sức đi lên núi Chúa; thì nay Chúa cũng dọn cho chúng ta, chính Thịt và Máu của Người để bồi dưỡng linh hồn và thể xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Thưa cộng đoàn!
Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống; vì thế chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khỏe, bổn phận, vật chất…, để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta. Có một điều mà người kitô hữu không thể sao lãng đó là: chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng đức tin của chúng ta chỉ có sự sống khi chúng ta không có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng và mến yêu tha thiết, vì phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho chúng ta.
Ngôn sứ Êlia là một ngôn sứ phải chạy trốn. Sau khi ông ta thắng các ngôn sứ Canaan của thần Baal ở trên núi Carmel, ông ta phải chạy thoát. Vì hoàng hậu Jezebel tức giận. Chính hoàng hậu Jezebel là người đã đem các ngôn sứ thần Baal đến Israel. Hoàng hậu thề sẽ giết ông Êlia. Khi chúng ta gặp ông ta trong sa mạc, ông đã chạy kiệt sức. Không có gì làm cho ông lại sức được. Đến đó ông xin Thiên Chúa cho ông chết đi. Ông nói: “nay đã đủ rồi, lạy Đức Chúa, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì tổ tiên tôi.”
Thiên Chúa đặt Êlia làm ngôn sứ, ông ta đã làm điều mà Thiên Chúa bảo ông làm là trung thành rao giảng lỏ#i Chúa. Đến bây giỏ# ông ta cảm thấy ông ta tự nghi ngờ mình, ông ta có thể nói với Thiên Chúa “vậy đây có phải là tôi được cảm ơn hay không?” Mỗi khi người nào gặp hoạn nạn khó khăn, thường người đó tự hỏi có phải Thiên Chúa phạt họ vì họ đã làm điều gì trái với thánh ý Thiên Chúa hay không. Nhưng ông Êlia không làm điều gì sai cả. ông ta phải chịu đựng những phản bác, đe doạ như thường đã xãy ra cho các ngôn sứ. Cho đến ngày hôm nay có ngôn sứ còn chịu khổ hơn là bị giết vì họ đã trung thành phục vụ Thiên Chúa,
Trong hoang địa, dưới một cây kim tước, ông Êlia xin cho được chết, rồi ông ta nằm xuống ngù, ông ta thấy chiêm bao về Thiên Chúa. Một thiên thần đánh thức ông ta dậy cho ông thức ăn. Tới đây chúng ta biết câu chuyện sẽ đi về đâu phải không? Câu chuyện này nhắc đến câu chuyện dân Israel đi trong hoang địa. Trong sa mạc làm gì có của ăn, chỉ có Thiên Chúa cho chúng ta của ăn. Thật ra Thiên Chúa đã làm gì? Ông Êlia không còn sức để tiếp tục đi trong sa mạc nữa. Nhưng Thiên Chúa đã cho ông ta của ăn để ông ta có sức đi xa hơn nữa, ông ta không tránh khỏi khó khăn. Nhưng Thiên Chúa ban cho ông ta điều gì ông ta cần để phục vụ trong chặng đường tiếp theo. Thiên Chúa còn cần ông ta làm việc hơn nữa. Đến đây chúng ta lại nhớ dân Israel trong sa mạc. Ông Êlia có của ăn để đi trong sa mạc “40 ngày đêm cho đến núi Horeb, là núi của Thiên Chúa”. Trên núi Horeb là núi Sinai Thiên Chúa đã cho ông Môsê 10 điều răn, đó là thứ bánh khác cho những người đói trong sa mạc. Chủ đề nói về của ăn phần xác và phần hồn sẽ được nói đến trong phúc âm hôm nay.
Ông Êlia không tự ý lên đường đi trong sa mạc. Khởi đầu ông ta chạy trốn để tránh khỏi bị giết. Sau khi ông ta gặp một thiên thần, thì việc ông đi là như đi hành hương đến nơi thánh địa. Vậy đời sống chúng ta có giống như vậy không? Chúng ta gặp khó khăn hoạn nạn, khó lòng qua từng ngày một. Khi chúng ta cảm thấy chúng ta không làm gì được nữa chúng ta kêu gào xin ơn giúp đỡ. Thiên Chúa có cách nào đến thăm chúng ta trong sa mạc của chúng ta, cho chúng ta của ăn để chúng ta tiếp tục chặng đường. Sau cùng khi chúng ta nhìn thấy hoạn nạn khó khăn qua đi thì chúng ta nhận ra là Thiên Chúa có đó giúp đỡ chúng ta từng bước một. Cũng như ông Môsê và ông Êlia, chúng ta đã được dẫn đi qua hoang địa của chúng ta, và ở đó chúng ta gặp đươc Thiên Chúa.
Ông Êlia là nguồn khuyến khích của chúng ta; ông ta là một ngôn sứ đầy nhiệt huyết, sợ hãi và mạnh mẽ. Nhưng lúc ông ta thành công thì hầu như thế giới xung quanh ông ta bị sụp đổ và ông ta phải chạy thoát thân để cứu mạng sống mình khỏi bà hoàng hậu Jezebel, Ông ta sợ hãi, không biết rõ và kiệt sức. Dù vậy ông ta vẫn ở trong vòng tay Thiên Chúa. Mặc dù hoàn cảnh rối bời, Thiên Chúa không buông rơi ông ta, mà lại tìm đến ông. Ngay trong khi yếu đuối, khi chúng ta không làm gì được nữa thì Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa của chúng ta.
Êlia tường thuật để khuyến khích chúng ta tin tưởng vào tình yêu nhân từ của Thiên Chúa. Đây không phải là câu chuyện về một người đã “xứng đáng” được giúp đỡ từ Thiên Chúa. Mà là một câu chuyện về một người không thể tự giúp mình. Trong khi phải di chuyển nhiều nơi. Được Chúa giúp bánh và nước, để tiếp tục cuộc hành trình. Bánh của Êlia là hình ảnh dẫn chúng ta đến lời Chúa hôm nay.
Chúng ta đang ở trong diễn từ về “Bánh Hằng Sống” trong phúc âm của thánh Gioan. Đến đây đang còm sớm để nói về Bánh Thánh Thể. Đến câu cuối cùng chúng ta chuyển sang diễn từ về đức tin vào Chúa Giêsu và bánh là thịt Ngài. Trong đoạn phúc âm hôm nay “bánh bởi trời xuống” là Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa dạy chúng ta qua Chúa Giêsu; Chúa Giêsu là Lời ban sự sống. Thiên Chúa làm việc qua Chúa Giêsu như Ngài đã làm cho người Do thái trong sa mạc. Thiên Chúa cho chúng ta ăn qua Lời Ngài. Như chúng ta thấy trong sách Đệ Nhị Luật “Người ta không sống chỉ nhờ bánh mà còn nhờ mọi điều do miệng Đức Chúa phán ra” (Tl 8″3)
Chúa Giêsu vừa cho 5,000 người ăn. Và bây giờ Ngài sẽ dạy họ về bánh không phải như man-na cho tổ tiên họ ăn trong sa mạc từng ngày một. Nhưng chính là bánh cho chúng ta khỏi đói và cho chúng ta đời sống trong thời đại mới mà Chúa Giêsu đang triển khai. Chúa Giêsu không đối đáp với những người chống đối Ngài. Nếu nhũng người đó suy luận theo người phàm thì họ sẽ không bao giò trông thấy Chúa Giêsu. Họ đã nghe điều gì Chúa Giêsu nói với họ, lý luận không giúp họ gặp Chúa Kitô.
Dân chúng đến với Chúa Giêsu là bởi Chúa Cha “thu hút họ”. Nhìn qua cặp mắt đức tin là ân huệ bởi Thiên Chúa. Thật là một dịp lớn cho những người được thấy Chúa Giêsu trước mặt họ. Chúa Cha thu hút họ đến với Chúa Giêsu, nhưng họ không nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận Thiên Chúa tự họ. Họ phải được Thiên Chúa thu hút họ. Thiên Chúa là Đấng ban dức tin. Sự mời gọi đó luôn luôn ở trước mặt chúng ta. Vậy chúng ta có chấp nhận lần nữa hay không? Các nhà lãnh đạo tôn giáo bác bỏ bánh bởi trời xuống.
Chúng ta học nơi ngôn sứ Êlia và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta được mời gọi sống đức tin. Đức tin không tránh khỏi những lúc khó khăn trong đời sống thật. Ông Êlia phải trở lại gặp kẻ thù của ông ta. Chúa Giêsu không tránh những đau khổ và sự chết dành cho Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta không để Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho chúng ta. Đức tin chúng ta giúp chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa với cả sự an toàn và khuyến khích để chúng ta có thể làm việc mà chúng ta phải làm.
Thấy mà không tin (c. 36) Xầm xì (c. 41) Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian. Tôi là (c. 51) Bánh từ trời xuống Bánh Tôi sẽ ban tặng… Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ân ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 47-52) Mặc khải: (cc. 47-51)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (c,52)?
Sự mặc khải tiến dần theo cách thức Sêmit, theo hình xoắn ốc được lặp lại bằng cách đào sâu suy nghĩ. Các câu 33 và 51 song song nhau: vẫn là đức tin vào Chúa Giêsu trổi vượt hơn hết, Người là Đấng cho mình là Lời của Thiên Chúa từ trời xuống. Tuy nhiên trong 51, thình lình sự chết được nhắc đến, như nguồn mạch sự sống, được xác định: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” Từ “thịt” làm liên tưởng đến lời tựa 1,14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Chính là sự nhập thể, nhưng ở đây được diễn tả theo cách: sự chết của Chúa Giêsu như nguồn mạch sự sống cho mọi người.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm (1,14)
Thịt đã trở nên bánh (6,51)
Có sự liên tục giữa sự nhập thể, sự chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Chính trong câu này mà sự mặc khải tỏ hiện cho mọi người, cùng với nguy cơ bị từ khước: ở đây người Do Thái “tranh luận”, tím kiếm lý lẽ (“làm sao”) thay vì sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm.
- Dạ thưa, cha mẹ. - Đúng! Cha mẹ sinh ta chúng con. Cha mẹ sinh ra chúng con để chúng con làm gì? - Thưa để làm người. - Cũng rất đúng! - Cha hỏi thêm, khi chúng con được lãnh Bí Tích Rửa tội chúng con trở thành ai? - Thưa cha, chúng con trở thành Con Thiên Chúa. - Rất hay! Sau khi được chịu phép Rửa tội, chúng ta thành Con Thiên Chúa, tuyệt với quá. Mình là người mà lại được trở thành Con Thiên Chúa.
Như vậy là mỗi người chúng ta có hai tư cách: Một làm con người, một làm con Thiên Chúa!
1. Bánh của con người.
Khi làm người chúng ta mỗi người đều có một thân xác. Thân xác của chúng ta muốn sống thì phải ăn.
Trong bài nói truyện tại sở y tế thành phố HCM ngày 28.8.1980, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa cho biết: "Giống như cái cây cần hút chất nuôi dưỡng từ lòng đất để phát triển, con người cũng cần thông qua ăn uống, có đầy đủ chất dinh dưỡng mới có thể sống, phát triển và hoạt động bình thường.
Nhu cầu dinh dưỡng gồm 3 loại:
- Một là nhu cầu để tạo cơ thể. - Hai là nhu cầu để tạo nhiệt lượng cần thiết cho hoạt động. - Ba là nhu cầu bảo vệ cơ thể.
Không ăn uống con người không thể tồn tại.
Ăn uống không đủ thì con người không thể sống khỏe mạnh.
Con người không thể sống mà không có cơm bánh.
Đây là câu chuyện có thực. Câu chuyện về một nhà thám hiểm. Sau hai ngày lang thang trong sa mạc, nhà thám hiểm nọ đã cạn hết lương thực, cũng như cạn sức hết sức lực cùng niềm hy vọng. Ông ta cố gắng lê gót đi thêm một ngày nữa, nhưng chung quanh chỉ thấy cát và cát. Cuối cùng, ông cũng đã đến được một ốc đảo. Sau khi xoa dịu được cơn khát, ông lại bị cơn đói hành hạ. Chính lúc đó, ông chợt thấy một bị da đóng kín nằm lăn lóc nơi ông đang quằn quại vì đói. Ông hy vọng tìm được trong cái bị da mà ai đó đã vất lại, một chút gì để ăn, để rồi có thể đi cho hết cuộc hành trình qua xuyên sa mạc. Ông cố mở bị da ra và mắt ông hoa lên. Thay vì lương thực là điều bây giờ ông đang cần thiết nhất, thì ông lại chỉ thấy trong bị toàn là kim cương. Trong nỗi thất vọng ê chề của cơn hấp hối, ông đã cay đắng thốt lên: “Giữa chốn sa mạc tôi đang chết đói thế này thì kim cương mà để làm gì?”
Ít lâu sau, một đoàn thám hiểm khác băng sa mạc ngang qua chỗ ấy, họ thấy một bộ xương đang ôm chặt cái bị da, trong đó có cả một kho tàng nhưng nó đã trở nên vô ích đối với người chết đói trong sa mạc.
Câu chuyện Elia vừa nghe cho chúng ta thấy việc ăn uống cần thiết như thế nào.
Chuyện kể rằng sau khi đã chiến thắng 450 ngôn sứ Ba-an và tiêu diệt họ, ngài bị vua A-khap dùng tay bà I-de-ven lùng bắt. Thấy mạng sống mình lâm nguy, ngài đã bỏ trốn. Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ngài để đứa tiểu đồng lại đấy, còn ngài thì đi một ngày đàng trong sa mạc. Ngài đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ngài xin cho được chết và nói: "Lạy Ðức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con." Rồi ngài nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ngài và nói: "Dậy mà ăn!" Ngài đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ngài có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ngài ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của Ðức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ngài và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa." Ngài dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ngài đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa. (1Vua 19,4-8)
Như vậy chúng con thấy tiên tri Isaia nhờ được ăn bánh Thiên Chúa ban mà đi hết được đoạn dường dài để đến nơi Chúa chỉ định.
2. Bánh của những người là con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã nói cho chúng ta về một loại bánh mới mà Chúa gọi là bánh trường sinh: Bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6,50-51).
Thứ bánh mà Chúa nói đây là bánh cho linh hồn.
Nếu thân xác con người cần một thứ bánh vật chất để sống cuộc sống làm người trên trần gian này thì linh hồn con người cũng thế! Linh hồn cũng cần một thứ bánh mà Chúa gọi là bánh trường sinh để có thể sống cuộc đời làm Con Thiên Chúa ở đời và nhất là đời sau được hưởng cuộc sống đời đời với Chúa.
Như vậy chúng con thấy: Đối với Chúa, cả hai cuộc sống đều quan trọng. Nếu chỉ lo cho cuộc sống đời này mà đánh mất cuộc sống đời sau thì thật là thảm bại, chính Chúa đã cảnh cáo mọi người về điều đó. "Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?" (Mt 16,26)
Cuộc sống đời này sớm muộn gì cũng phải kết thúc bằng cái chết. Chẳng ai sống mãi trên cõi đời này. Khi sự chết đến thì tất cả đều phải nhường bước.
Vua Charles Quint (1519 - 1558) thân hành đến thăm vị quan trung thành nhất đang yếu nặng khó qua khỏi. Để tỏ ra biết ơn người đã suốt đời tận tụy với mình, Vua nói:
- Khanh có thể xin trẫm ơn nào cũng được. Trẫm muốn thưởng lòng trung thành của khanh và làm nhẹ phần nào cơn đau của khanh.
Nghĩ ngợi một lát kẻ liệt đưa mắt nhìn vua và nói:
- Tâu Hoàng thượng, hạ thần chỉ ao ước được sống thêm mấy ngày thôi, chẳng muốn xin gì khác nữa.
Vua Charles nói:
- Việc đó quá sức ta, vua chúa trên đời đều chịu, không tài nào kéo dài hơn sự sống thêm một giây.
Nghe vua trả lời như vậy, kẻ liệt quay vào vách, thở dài, và vừa rướm nước mắt vừa nói: “Tôi thực là ngu dại, tôi đã cống hiến cả một đời để phụng sự nhà vua, thế mà vua không thể cho tôi sống thêm một ngày. Giả như tôi khôn ngoan hơn đem cái đời dài ấy mà phụng sự Thiên Chúa thì chẳng những Chúa có thể cho sống thêm mà lại cho cả sự sống đời đời nữa.”
Bởi vậy mỗi người phải biết chăm lo cho cuộc sống đời đời mai sau. Làm sao để cho cuộc sống đời này chấm dứt, chúng ta được trở về trời với Chúa.
Để kết thúc cha muốn gửi đến chúng con câu chuyện này.
Một ngày nọ, triết gia Diogenes (412BC-323BC) của Hy Lạp đến giữa chợ thành Athène của nước Hy Lạp dựng lên một chiếc lều. Ngay trước lều ông gắn một cấm bảng có ghi đậm hàng chữ này: "Ở đây có bán sự khôn ngoan".
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo đó, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: "Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích".
Nhận được lời khôn ngoan đó, vị khoa cử thành Athène vô cùng thích thú nên ông đã cho viết và treo lên trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông cũng đều có thể đọc thấy..."Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích".
Mỗi người chúng ta cũng vậy. Hãy luôn nghĩ tới đời sau của mình, sống cho thật xứng đáng để mai sau khi Chúa đến gọi, chúng ta sẳn sàng để về Thiên đàng với Chúa. Amen.
Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.
1V 19: 4-8
Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.
Ep 4: 30-5: 2
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình.
Ga 6: 41-51
Tin Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)
Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).
1. Bối cảnh lịch sử:
Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.
Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.
Hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.
2. Cuộc hành trình đến núi thánh.
Ngôn sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.
Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.
Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.
Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).
Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.
1. Sống theo Thần Khí:
Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).
2. Bắt chước Thiên Chúa:
Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
3. Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:
Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.
Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.
TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)
Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.
Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi danh xưng “người Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).
1. Vấn đề đức tin:
“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.
Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”. Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.
2. “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:
Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).
Đức Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.
3. Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:
Những người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà hiểu cho được.
Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế.
Trong những cơn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930, hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, và hàng triệu người bị đói. Ở một số thành phố, những nhóm tu sĩ tổ chức phát chẩn cho những người bị đói, một trong những nhóm đó là tu viện Thánh Phanxicô ở số 1615 Vine street (Phố Cây Nho) tỉnh Cincinnati, tiểu bang Chio.
Mỗi ngày bánh mì kẹp thịt được phân phát cho hàng trăm người đói, đàn ông, đàn bà đứng xếp hàng đợi đến 5 giờ chiều để được phát bánh. Cả ngày, hai thầy dòng Phanxicô và năm, bảy người giáo dân trợ giúp, làm bánh mì kẹp thịt và gói lại.
Nhìn những người sa cơ lỡ thế ấy nhận bữa ăn tạm, tôi thấy: nhiều người nhận gói bánh mỉm cười và cám ơn, có người mắc cở, giật lấy gói bánh rồi lẩn mất, có người mở gói bánh ngay, ăn liền và vội vàng ra đi, có người cầm gói bánh đi vào một ngõ hẻm. Ít, rất ít người mở gói bánh ra, rồi liệng đi tất cả. Một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn một tấm bánh, một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn tấm bánh, một vài người ăn một phần, bỏ đi một phần, có người gói lại và để dành một phần.
Nhiều người gọn gàng bỏ giấy gói vào thùng rác. Những người khác thì xả rác bừa bãi trên đường. Thỉnh thoảng một vài người làm dấu thánh giá.
Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn, phần nào giống như cách thức những người nghe đón nhận lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: "Tôi là bánh sinh sự sống từ trời đến, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban là Thịt Tôi vì sự sống của thế gian".
Trong thời đại Chúa Giêsu và trong thời đại chúng ta có người lẩm bẩm: "Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn, và máu mình cho chúng ta uống". Họ quên rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Người khác đón nhận bánh của Người nhưng đức tin yếu ớt. Có người còn nói họ tin nhưng đức tin của họ yếu ớt. Có người nói họ tin nhưng việc làm của họ là từ chối. Họ không đón nhận thường hơn như họ có thể. Bạn có thể tưởng tượng một người đó ở Cincinnati lại lười biếng không đến nhận bánh Sandwich được cho không?
Có người Công giáo rước lễ với lòng biết ơn, có người nghĩ là họ làm ơn cho Đức Kitô, cho vị linh mục.
Một số lãnh nhận được rất ít sự bổ dưỡng thiêng liêng trong việc rước lễ. Vì họ đến bàn thánh thiếu chú ý và chuẩn bị cẩn thận. Cám ơn Chúa. Hầu hết những người Công giáo ý thức rằng của ăn thánh chúng ta đón nhận nơi đây, tại bàn thờ này sẽ giữ gìn chúng ta sống động và lành mạnh thiêng liêng.
Tất cả nhân loại đang đói khát Đức Kitô, có khi họ còn chưa được nghe nói về Người. Nhiều người thực sự đang khao khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì, hoặc ai sẽ thỏa mãn cơn đói của họ.
Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn, phát chẩn Thánh Thể để cho chúng ta, vâng, cho mỗi người chúng ta của ăn là chính Ngài, để thêm sức mạnh và giúp chúng ta sống mãi mãi.
Phúc âm tuần trước ghi lại đám đông dân chúng đi theo Ðức Giêsu sang bên kia bờ hồ Galilê. Họ TN 19-B109
Phúc âm tuần trước ghi lại đám đông dân chúng đi theo Ðức Giêsu sang bên kia bờ hồ Galilê. Họ nhắc lại chuyện tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc do Môsê ban phát (Ga 6:31).
Ðức Giêsu bảo họ bánh mà Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian (c. 33), họ liền xin cho được bánh đó (c. 34).
Dân chúng trong Phúc âm hôm nay đã phải nghe biết về phép lạ Ðức Giêsu làm khi biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana và phép lạ Người chữa con của viên sĩ quan cận vệ nhà vua cũng ở Cana miền Galilê, vì họ cũng là người Galilê. Và chính họ đã ăn bánh do phép lạ Ðức Giêsu làm ở bờ hồ Galilê khi họ đói. Thấy dấu lạ, họ bảo nhau ông này phải là vị ngôn sứ Thiên Chúa sai đến. Họ nói như vậy vì họ phải biết có những ngôn sứ trong Cựu ước cũng đã làm được phép lạ.
Tuy nhiên khi Ðức Giêsu phán tại Ca-phác-na-um, chính Người là bánh bởi trời xuống (Ga 6:41) thì họ lại tẩy chay Người. Họ cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Chúa. Theo họ thì Ðức Giêsu chỉ là con ông thợ mộc Giuse và bà Maria nội trợ, sống ẩn dật giữa họ hơn ba mươi năm nơi phố nhỏ tầm thường tại Nadarét. Như vậy thì làm sao Người có thể nói Người bởi trời mà xuống được (Ga 6:42)? Làm sao Người có thể mời gọi họ đặt niềm tin nơi Người? Làm sao Người có thể ban cho họ bánh hằng sống? Do đó mà người Việt nam mới truyền tụng những kiểu nói như: quen quá hoá nhàm để chỉ cho thấy không có gì mới lạ hay gần chùa gọi bụt bằng anh để chỉ thái độ coi thường người trên.
Ðể có thể chấp nhận lời giảng dạy của Đức Giêsu về bánh hằng sống trong Phúc âm hôm nay, khác với bánh man-na mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc, Ðức Giêsu muốn họ đặt niềm tin nơi Người là Ðấng từ trời xuống trước đã, nghĩa là họ phải tin Người là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên đối với họ, việc tin Người là con Thiên Chúa lại đặt ra một vấn đề gai góc cho họ. Từ trước đến nay người Galilê nói riêng và người Do thái nói chung chỉ thờ một Thiên Chúa. Tôn giáo của họ là tôn giáo độc thần. Vì thế khi Ðức Giêsu khẳng định Người từ trời xuống, và là con Thiên Chúa thì lại đưa vào đầu óc họ ý tưởng đa thần, nghĩa là có hơn hai thần, hơn hai chúa. Như vậy làm sao họ có thể chấp nhận hai chúa được?
Tuy nhiên Ðức Giêsu vẫn giữ lập trường giảng dạy mà nói rằng Người là bánh hằng sống từ trời xuống (Ga 6:41); ai được Chúa Cha lôi kéo đến cùng Người thì Người sẽ cho sống lại ngày sau hết (c. 44); ai tin vào Người thì có sự sống đời đời (c. 47). Nói như vậy là Ðức Giêsu coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Ðối với người không tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì đó là lời nói phạm thượng đến Thiên Chúa. Mà nếu Ðức Giêsu phạm tội phạm thượng thì làm sao Người có thể làm phép lạ được? Những người không tin, như những người trong Phúc âm hôm nay có thể trả lời: hoặc họ không hiểu, hay phép lạ là do sản phẩm của môn đệ của ông Giêsu bầy ra.
Không phải chỉ có những người Galilê mới từ chối việc tin tưởng vào Ðức Kitô là Con Thiên Chúa và là bánh hằng sống. Bài trích sách các Vua hôm nay mô tả nỗi chán nản của ngôn sứ Êlia, được sai đến vương quốc miền bắc là It-ra-en rao giảng tôn giáo thật, chống lại những quyền lực mà bà hoàng hậu I-de-ven ngoại đạo đã đưa vào đất nước. Nản chí vì dân cứng lòng tin và hoàng hậu I-de-ven còn tìm cách sát hại, Êlia trốn lên núi Khô-rếp, không còn muốn ăn uống. Thiên thần Chúa hiện ra đem bánh bảo ông ăn để lấy sức đi tiếp (1 V 19:4-8).
Vậy để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Nói cách khác người ta cần loại bỏ những thành kiến và định kiến về đạo và người giảng đạo. Có bao giờ ta chủ trương giữ đạo tại tâm, cho rằng không cần đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ, mà chỉ cần giữ đạo trong lòng là đủ không? Có bao giờ ta cho rằng việc đọc kinh, dự lễ là việc của đàn bà con nít chăng? Có bao giờ ta chỉ muốn giữ đạo theo sở thích, cá tính riêng của mình, hứng thì giữ đạo, không thì bỏ cuộc? Có bao giờ ta cho rằng đạo phải phù hợp với ước muốn cá nhân, đạo phải thế nọ thế kia chăng?
Hôm nay mỗi người cần xin Chúa giúp cho mình biết loại bỏ những thành kiến về đạo và người giảng đạo và ban cho được mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và Mình thánh Chúa, là bánh hằng sống, bánh làm no thoả những khát vọng thiêng liêng của tâm hồn, bánh đem lại sự sống vĩnh cửu.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn mở rộng tâm hồn trước quyền lực siêu nhiên:
Lậy Chúa Giêsu! Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa! Xin làm mới lại đức tin của con vào sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh thể. Xin loại bỏ tâm trạng ‘quen quá hóa nhàm’ nơi con. Và xin tha thứ những lần con đóng cửa lòng lại trước lời mời gọi của Chúa vào việc tin và ăn bánh hằng sống. Amen.
Giữa cuộc đời đầy xáo trộn bất an, người tín hữu rất cần có nguồn trợ lực siêu nhiên, để có thể đứng vững trước phong ba bão tố dồn dập bủa vây. Rất nhiều chứng từ cho thấy nhờ sức mạnh của Thánh Thể, mà người tin Chúa tìm được sức mạnh và hy vọng.
Thân xác con người cần phải được bồi bổ để đủ sức tồn tại và lớn lên mỗi ngày. Cũng vậy, đời sống linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng. Người tín hữu tin vào sức mạnh được Chúa ban qua bí tích Thánh Thể, là Thần Lương trợ lực để sống an bình, nhất là để vượt thắng mọi khó khăn thử thách. Nhờ Thần Lương này, người tín hữu còn được nếm trước vinh quang đời sau, tức là hạnh phúc Chúa dành cho các thiên thần và các thánh trên thiên đàng.
Bài đọc I kể lại việc ngôn sứ Elia trên đường chạy trốn trước sự rượt đuổi của vua Akháp. Ông mệt mỏi vì đường xa, lại thêm sự sợ hãi vì bị săn đuổi, nên ông đã buồn rầu và xin Chúa cho chết. Chúa đã sai thiên sứ mang cho ông bánh và nước. Nhờ thần lương này, ông đã đủ sức đi đến núi của Thiên Chúa, và nơi đây, ông được gặp gỡ Ngài. Hành trình của Elia cũng giống như hành trình của chúng ta. Mỗi ngày, chúng ta phải đối diện với biết bao thử thách gian nan. Có những lúc tưởng chừng chúng ta bị đè bẹp trước sức nặng của cuộc đời. Như Elia trong lúc kiệt sức, chúng ta hãy đón nhận lương thực thiêng liêng Chúa ban để lấy lại nghị lực, tiếp tục bước đi trong hành trình cuộc đời. Lương thực ấy là Thánh Thể, là Thần Lương giúp ta bền sức đi đến đích.
Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người đang nói tới. Cũng như người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu hứa ban. Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, chính Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống. Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người. Nếu màu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14”, thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51). Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm. Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế, là Thần Lương giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày.
Giữa cuộc đời đầy xáo trộn bất an, người tín hữu rất cần có nguồn trợ lực siêu nhiên, để có thể đứng vững trước phong ba bão tố dồn dập bủa vây. Rất nhiều chứng từ cho thấy nhờ sức mạnh của Thánh Thể, mà người tin Chúa tìm được sức mạnh và hy vọng. Khi chúng ta ăn uống và hưởng dùng lương thực phần xác, thì những thứ thực phẩm được nghiền nát, được tiêu hóa và trở thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể. Như thế lương thực trở thành máu thịt của ta. Tuy vậy, đối với bí tích Thánh Thể thì ngược lại: Khi ta rước lễ, Thánh Thể biến đổi tâm hồn ta để làm cho ta nên giống Chúa Giêsu, tức là làm cho ta trở nên “Thánh Thể” ngay trong đời sống hằng ngày. Thánh Augustinô viết: “Ta là thức ăn của người mạnh, hãy lớn lên và ăn Ta. Nhưng con không biến đổi Ta trong con như biến đổi một thức ăn, mà đúng ra là con sẽ được biến đổi thành Ta”. Qua cách giải thích của Thánh Augustinô, chúng ta tin rằng con người được thần linh hóa, được nên giống Chúa nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích này. Thánh Tôma Aquinô cũng khẳng định: “Hiệu quả đích thực của Bí tích Thánh Thể là chuyển đổi con người thành Thiên Chúa”. Nhờ năng kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc sống của chúng ta sẽ được canh tân đổi mới và có thể sống như Thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em hãy đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta” (Bài đọc II). Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, sống vì tha nhân, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian.
“Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Với lý trí tự nhiên và theo suy luận của con người, đây là điều không tưởng và khó chấp nhận. Chẳng có ai có thể làm cho thịt mình thành bánh tặng người khác. Chỉ có Thiên Chúa quyền năng mới có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Thiên Chúa quyền năng, nên đối với Người, mọi sự đều có thể. Thánh Thể là “Mầu nhiệm đức tin”, nghĩa là chỉ có đức tin mới giúp ta chấp nhận và tôn thờ Đấng Cao Cả đang ngự trong Hình Bánh và Hình Rượu. Người đang hiện diện giữa chúng ta. Hãy đến đón nhận để rồi chúng ta được Thần Lương ban sức mạnh trong cuộc lữ hành trần thế. Với nghị lực siêu nhiên được trao ban qua Bí tích Thánh Thể, như ngôn sứ Elia, chúng ta sẽ đến “núi của Thiên Chúa” để gặp gỡ và chiêm ngắm vinh quang của Ngài.
Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì ? Lấy đâu ra thứ lương thực đó ? Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.
Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết: Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm:”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.
Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống va øBánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1V 19,4-8.
Tiên tri Êlia đứng lên chống đối viêc thờ kính ngẫu thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2: Ep 4,30-32 – 5,2.
Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau ? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.
Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).
+ Bài Tin mừng: Ga 6,41-51.
Đức Giêsu đã tuyên bố:”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm: ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.
Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng: làm sao ông này có thể là bánh hằng sống từ trời xuống được ? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế ?
Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn được trường sinh bất tử
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần:
-Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
– Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
-Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.
TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối:”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống” ? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố:”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
Truyện: Bé cái lầm
Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.
Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.
TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.
Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa:”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna. So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).
Đức Giêsu lại nói tiếp:”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.
Truyện: Phép lạ ở Lanciano.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).
BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.
Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau:
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây Thoát chốc mà già đã tới ngay.
Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa:”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.
Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống… Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.
Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.
Truyện: Thuốc bất tử hay thuốc tử ?
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng:
– Vị thuốc này có ăn được không ?
Người ấy đáp:
– Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng:
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng:”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)
Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Ta là Bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.
THÁI ĐỘ CỦA TA.
Tin hay không tin.
Khi Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư ?
Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý ! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin: đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson) ?
Muốn được đến với Chúa.
Đức Giêsu phán tiếp:”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Truyện: Hồng y Newman.
Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau:”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng:”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.
Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.
Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói:”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào ? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).
Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).
Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao qúy ấy.
Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.
Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.
Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.
Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe được trích từ bài giảng Bánh hằng sống. Đây là một trong những bài giang khó cắt nghĩa nhất của Chúa Giêsu. Xin Chúa mở lòng mở trí cho chúng ta để chúng ta hiểu được một phần nào Lời của Người.
Bây giờ chúng ta đi thẳng vào chủ đề.
Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Ngày xưa Thiên Chúa đã ban cho Dân Do thái “bánh bởi trời”. Bánh ấy có tên là Manna. Theo Chúa Giêsu thì Manna chỉ là của ăn tạm bợ, mau hư nát. “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết”. Manna chỉ là hình bóng cho một thứ lương thực khác mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Chúa Giêsu gọi lương thực đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Bánh đó trổi vượt và kỳ diệu hơn Manna xưa rất nhiều. “Tôi là bánh trường sinh… là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Tất cả những lời đó được nói ra với một sự quả quyết sắt đá xem chừng như không có gì làm thay đổi được. Nó đòi hỏi người nghe phải xác định một thái độ. Xem chừng như Chúa Giêsu không còn chờ đợi thêm nữa. Đã đến lúc trắng phải ra trắng đen phải ra đen.
Và quả đúng như thế. Người Do thái đã bắt đầu không còn cảm tình với Chúa nữa. Họ xầm xì về những gì Chúa nói. Mối quan hệ tốt đẹp giữa Chúa với họ trước đây bây giờ không còn. Nó đã bắt đầu trở nên mỗi ngày một xấu đi để rồi từ sự ngộ nhận này đến sự ngộ nhận khác người ta đã bắt đầu đi tới thái độ không chịu hiểu và sau đó là chống đối. Sự thay đổi và chống đối càng ngày càng trở nên quyết liệt.
Mặc kệ cho những lời xầm xí phản đối, Chúa Giêsu đã không nhường bước. Không những không nhẹ giọng, Ngài còn lên tiếng mạnh mẽ và quả quyết rằng Ngài từ Thiên Chúa mà đến, – rằng chỉ mình Ngài là người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Ngài có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ thuộc vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Ngài. Tin chính là khởi đầu đi từ dấu chỉ để học cho biết cách nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến… Và đó hẳn không phải là chuyện con người có thể một mình mà làm được. Nhưng chỉ có những ai được Chúa Cha lôi kéo mời đến được với Đức Kitô mà thôi: “Chẳng ai đến được với Tôi, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, lôi kéo người ấy…”.
Sau đó dựa vào những lời hứa và hình ảnh đã được tiên báo trong Cựu ước, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi chính bản thân Ngài.
Isaia xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Đức Giêsu khẳng định chính bây giờ là lúc lời hứa ấy được ứng nghiệm. Ngài còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy của tôi là lời dạy của Chúa Cha; Người mà các ông chỉ muốn coi là “Con ông Giuse” lại chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo từ trước.
Manna, lương thực lạ lùng thật, nhưng chỉ là tạm bợ, không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “Bánh hằng sống”, Bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ tặng ban, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, với những lời này Đức Giêsu đã muốn loan báo trước về cái chết của Ngài như một ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyện chuyển tiếp qua phần hai của “diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
Kính thưa anh chị em. Đó là nội dung những gì tôi muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay. Rất căng nhưng cũng rất sòng phẳng để từ đó chúng ta phải có một thái độ rõ ràng đối với Chúa. Chúa không thích thái độ nửa chừng mà “Nóng thì ra nóng, lạnh thì ra lạnh, hâm hâm nguội nguội ta sẽ mửa ngươi ra”
Ferdowsi (925–1020), thi sĩ người Ba tư sống vào thế kỷ 11 có kể một câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là một đoàn tùy tùng rất đông. Họ mang theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Và từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Tức khắc người ta thấy ngay được sự tham muốn đến tột độ bừng lên trong những con mắt của những người đi theo hộ giá nhà vua.
Bằng một cử chỉ rất vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:
– Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác mà quay về.
Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.
Đang đi bỗng ông nghe thấy có tiếng chân theo sau mình. Quay lại, và ông nhận ra đó người hầu cận được tiếng là trung thành nhất. Ông hỏi:
– Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng với số vốn ấy ngươi sẽ trở nên giàu sang ư?
Người hầu cận trung thành trả lời:
– Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.
Chúng ta hãy lặp lại một lời tương tự như thế đối với Chúa đi các bạn. “Lạy Chúa, đối với con, Chúa là kho tàng quí giá nhất vì Chúa là Thiên Chúa. Vâng Chúa là tất cả của con”
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề ; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy ; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo. Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Con người có 2 phần: phần xác và phần hồn”. Hằng ngày, chúng ta cộng tác với ơn Chúa lao động để kiếm của ăn nuôi dưỡng thân xác, thì phần hồn cũng cần có lương thực dưỡng nuôi như vậy. Nhưng có một điều đáng lưu tâm là, của ăn dành cho thân xác thì chóng qua tạm bợ, còn của ăn linh hồn thì trường tồn vĩnh cửu, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, bánh Ta sẽ ban chính là cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Dân Do thái thời Chúa Giêsu, họ mơ ước được trường sinh bất tử, không bao giờ chết. Cho nên, khi thấy một người thân ra đi, thì niềm mơ ước ấy này càng tác động mãnh liệt hơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng và nói về bánh hằng sống, thì dân chúng kéo nhau tìm đến học hỏi.
Bài đọc I kể lại, sau những tháng ngày kiên trì đi theo Chúa, chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ Chúa trao. Cuối cùng, Êlia đã bị kẻ thù tìm cách thủ tiêu. Quá chán nản, ông xin cho mình chết trong hoang địa, khỏi rơi vào tay kẻ thù. Ông cầu xin rằng: Lạy Chúa đã đủ rồi, xin cất mạng tôi đi, vì tôi chẳng hơn gì các tổ phụ. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi người tôi tớ trung thành, Ngài sai thiên thần mang bánh và nước cho ông ăn, để lấy sức đi tiếp tục đi hết chặng đường về núi Horep, núi Thánh của Thiên Chúa, nơi dành cho những người Chúa chọn.
Nếu như ngày xưa Chúa sai thiên thần đem lương thực cho Êlia ăn để ông đủ sức đi về Núi Thánh của Chúa thế nào, thì ngày nay Thiên Chúa cũng ban bằng Bánh hằng sống, cho linh hồn chúng ta đủ sức tiến về quê trời như vậy.
Hơn nữa, Giáo lý Hội thánh dạy: chúng ta đang sống trên đường lữ hành đức tin, và chết không phải là hết, vì linh hồn bất tử, sẽ tiếp diễn sự sống mai sau. Nhưng để đạt được cuộc sống mai sau ấy, thì ngay ở đời này, linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng, đó chính là Mình và Máu thánh Chúa Kitô ban tặng.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: những ai được liên kết với Đức Kitô, với Bánh Trường Sinh, thì cần phải sống yêu thương, hi sinh cho người khác, như chính Đức Kitô đã vì yêu thương, trở nên của lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa Cha, và trở nên của ăn Thần Linh nuôi sống linh hồn nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta qui tụ nơi đây dâng thánh lễ thể hiện hành động của đức tin. Lời Chúa hôm nay dạy về cuộc sống vĩnh cửu, về thần dược trường sinh, vậy tâm tình chúng ta thế nào khi lắng nghe lời mời gọi của Chúa.
Tần Thuỷ Hoàng tốn đã tốn bao nhiêu tiền của, mong tìm được bí quyết trường sinh. Biết bao người trên trần gian này cũng đã tốn bao nhiêu công sức, tiền của, để mong có cuộc sống sung túc, đầy đủ và kéo dài cuộc sống trên dương gian này nhưng không thể nào có được. Vì sinh lão bệnh tử là kiếp nhân sinh.
Trong khi đó vị lương y mang tên Giêsu hôm nay giới thiệu và ban cho chúng ta thần dược trường sinh, dòng suối bất tử là chính Thịt Máu của Ngài. Vậy chúng ta có trân quý và siêng năng đến đây đón nhận thần dược trường sinh Chúa ban không?.
Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo. Êlia về được đến Núi Thánh là nhờ bánh Thiên Thần. Chúng ta chỉ có thể đến được Núi Thánh của Thiên Chúa là hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta biết sống theo giáo huấn của Chúa, và siêng năng lãnh nhận Bánh hằng sống mà thôi.
Đón nhận bánh hằng sống là chính Đức Kitô, sẽ làm cho linh hồn chúng ta được lớn lên trong dòng máu thánh của Ngài. Lúc ấy, chúng ta cần loại trừ khỏi bản thân những tính hư tật xấu như: sự biếng nhác trong việc đọc kinh dự lễ; sự giận hờn chia rẽ…. thay vào đó là siêng năng lãnh nhận các Bí tích, sống hiền hoà, bao dung và tha thứ như Chúa đã làm gương cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta thấy được tầm quan trọng bánh hằng sống, là chính Thịt Máu của Chúa, để rồi chúng ta cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa và dọn mình xứng đáng để được Chúa đến với tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Amen.
Cuộc đời là một hành trình dài, có một định hướng, mục tiêu và ý nghĩa là để đi về nhà Cha, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống vô tận. Cuộc đời không phải chỉ là một nơi dừng chân hay bến nghỉ để chúng ta ở lại mãi để tận hưởng mọi hạnh phúc sung sướng của nó. Trong câu chuyện của bài đọc trích sách các Vua quyển thứ nhất tường thuật cuộc hành trình của tiên tri Êlia lên núi Horép. Trên đường lên núi Hôrép là núi của Thiên Chúa, tiên tri Êlia cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi tất cả, muốn chết vì đoạn đường dài quá và sức của ông thì có hạn. Thiên Chúa đã sai thiên thần hiện ra an ủi và ban cho ông bánh và nước. Ông đã ăn bánh và uống nước và ngủ một giấc thật sâu, bồi dưỡng lại sức khoẻ rồi hăng hái lên đường đi đến núi của Thiên Chúa. Ông đã đi bốn mươi đêm ngày để đến núi Thiên Chúa.
Trái với thái độ của tiên tri Êlia trong Cựu ước, trong câu chuyện Phúc âm, những người do thái thì thầm và nghi ngờ nói với nhau khi Chúa Giêsu mạc khải người là Bánh hằng sống từ trời. Họ không thể tin và chấp nhận Đức Giêsu là bánh bởi trời cũng như không thể chấp nhận người từ trời như người đã mạc khải. Điều khiến họ nghi ngờ đó là họ tự cho mình biết rõ về nguồn gốc gia cảnh của Đức Giêsu, biết rõ người là Giêsu, con của Giuse thợ mộc mà người ta quá biết rõ, biết rõ về cha mẹ của người. Chúa Giêsu phải nhấn mạnh và giải thích cho họ rõ chính Chúa Cha là Đấng đã sai người và cũng chính Chúa Cha lôi kéo mọi người đến với người và người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Để đón nhận được Đức Giêsu, mọi người cần phải có lòng tin chân thực để được Thiên Chúa cũng là Cha của người đón nhận và lôi kéo họ đến với Chúa Con; và đến với người Con này thì không phải thất vọng vì người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giêsu đã qui cho Chúa Cha là nguồn gốc của mọi thẩm quyền và quyền năng mà Chúa Giêsu đang thi hành và muốn mọi người đón nhận. Những người do thái chỉ có cái nhìn thiển cận nên không thể nhận ra nguồn gốc quyền năng chân thật của Chúa Giêsu. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải khẳng định cho họ rõ thẩm quyền của người là do bởi chính Chúa Cha là Đấng quyết định và hành động mọi sự nơi người: chính Chúa Cha là Đấng đã sai người, cũng như chính Chúa Cha là Đấng lôi kéo mọi người đến với người. Những người do thái nghi ngờ vì họ không thể vượt qua đường nhận thức giới hạn của mình cũng như không thể đạt thấu mầu nhiệm cao cả của Chúa Giêsu: “Tôi là bánh sự sống, ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”. Chúa Giêsu nhấn mạnh và thúc đẩy mọi người đến với người để đón nhận sự sống đời đời. Hay nói cách khác, “mọi người được Thiên Chúa giáo huấn sẽ đến với người, bởi vì chỉ có người là Đấng đã thấy Chúa Cha”. Thiên Chúa là nguồn sự sống đích thực, và chỉ có đến với Thiên Chúa mới có được sự sống đời đời. Thế nhưng không ai đã thấy hay đến được với Thiên Chúa Cha, chỉ trừ Đức Giêsu người con một Thiên Chúa đã thấy và biết Cha nên người tự nhận có sự sống đời đời của Thiên Chúa và ban tặng sự sống đời đời bởi vì chỉ có người là Đấng đã biết Cha và đã thấy Cha và đã ở với Cha. Chúa Giêsu đã vận dụng lời Chúa để trả lời và giải thích cho những người do thái nghi ngờ. Người nói hết những người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn và những ai lắng nghe Chúa Cha thì sẽ đến với người. Có một sự thống nhất nơi Thiên Chúa cũng như nơi mọi người trung thực. Sự thống nhất nơi Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha là nguồn mọi sự sống chân thực, nhưng Chúa Cha chỉ ban sự sống chân thực này qua Chúa Con, và chính Chúa Con là Đấng ban tặng sự sống chân thật của Chúa Cha cho mọi người, cũng như mọi người muốn có sự sống chân thật của Cha phải đến và đón nhận sự sống đời đời này bởi Chúa Con. Người ta không thể đón nhận được sự sống đời đời nếu phủ nhận Chúa Con. Để giải thích rõ hơn nữa, Chúa Giêsu đã nhắc lại sự kiện manna và cha ông của những người do thái. Cha ông những người do thái đã ăn manna, tức là bánh Thiên Chúa ban. Nhưng rồi họ cũng đã chết, manna mặc dù là bánh Thiên Chúa ban, nhưng chưa phải là bánh bởi trời ban tặng sự sống đích thực, manna chỉ phục vụ mục đích giới hạn là giúp cho người do thái trong hành trình vượt qua sa mạc để đi về đất hứa. Trái lại, Chúa Giêsu mới là bánh đích thực từ trời để những ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời.
Hành động quyết định của Thiên Chúa ban tặng sự sống cho con người là gửi người Con một của người để những ai đón nhận người con này sẽ có sự sống đời đời. Và đây là mạc khải mới, bánh bởi trời này để ban tặng sự sống cho con người không phải là không có cái giá phải trả, bởi vì bánh bởi trời là thịt máu Chúa Giêsu, thịt máu mà người sẽ phải đổ ra trong cái chết thập giá để ban tặng sự sống cho những ai đón nhận. Bánh bởi trời, cũng là bánh sự sống là bánh tự hiến thân mình chết cho mọi người. Tin và đón nhận Đức Giêsu cũng là đón nhận con người và con đường thập giá mà người khai mở cho nhân loại. Đó cũng chính là lý do tại sao Tin mừng là lời mời gọi đi vào con đường hẹp, con đường dẫn tới sự sống ngang qua cái chết thập giá. Con người chúng ta rất yếu hèn, chán nản thất vọng là những cám dỗ luôn làm cho mỗi người dễ buông xuôi và mất đi định hướng của cuộc đời. Lời mời gọi của Chúa Giêsu thúc đẩy mỗi người hãy có can đảm như tiên tri Êlia, đón nhận bánh Thiên Chúa ban tặng để bồi dưỡng sức khoẻ của mình để rồi tiếp tục cuộc hành trình đi lên núi Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đi trước chúng ta trên con đường này, con đường Vượt qua từ sự chết đến sự sống và người mời gọi mỗi người cũng phải biết đón nhận mầu nhiệm thập giá, dám chết đi để đạt đến sứ sống muôn đời. Bánh mà người ban tặng để ban sự sống đời đời là chính thịt máu người, thịt máu đã đổ ra trên thập giá để nên giá cứu chuộc nhiều người: “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi để ban tặng sự sống cho trần gian”. Để trở nên bánh nuôi sống muôn người, người đã chấp nhận chịu chết trên thập giá và thôi thúc chúng ta bước vào con đường Vượt qua này. Chỉ có người mới ban tặng sự sống đời đời.
Một trong những biến cố còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người dân miền Bắc là biến cố TN 19-B116
Một trong những biến cố còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người dân miền Bắc là biến cố “Năm Đói Ất Dậu” (1945). Người ta ước tính có khoảng 2 triệu người chết đói trong năm ấy. Thật là một thảm họa chưa từng xảy ra tại Việt Nam !
Một bà cụ 72 tuổi được hỏi: điều gì đã gây ấn tượng nhất cho bà trong năm đói ấy. Bà cụ trả lời: “Năm ấy tôi mới 11 tuổi. Tôi nhìn thấy người chết khắp nơi: trong nhà, ngoài ngõ, trên đồng, dưới ruộng… Thật hãi hùng ! Nhưng điều gây ấn tượng cho tôi nhất, đó là một hôm, tôi nhìn thấy một người mẹ đang nằm trên đường cùng với đứa con còn rất nhỏ. Đứa bé trai gầy gò đang bò trên bụng mẹ và đang bú sữa mẹ. Người mẹ nằm bất động, còn đứa bé vẫn bú mẹ. Tôi bước lại gần để xem tại sao người mẹ lại nằm im lặng như thế. Đến gần tôi mới biết: người mẹ đã chết ! Còn đứa bé vẫn đang bú xác người mẹ với bầu sữa đã cạn kiệt !”
Quả thật, hình ảnh đứa bé nằm bú trên xác người mẹ đã chết vì đói là điều thật bi thảm. Điều đó cho thấy: một trong những thảm họa đáng sợ đối với con người là sự đói khát. Vì thế, một vấn nạn lớn luôn ám ảnh nhân loại hôm nay: đó là liệu trong tương lai lương thực có đủ dùng cho con người trên hành tinh này không ?
Cơm bánh luôn là nhu cầu bức thiết của con người và không thể thiếu trong cuộc sống của nhân loại. Chính vì ý thức được tầm quan trọng như thế, Chúa Giêsu đã tinh tế nhận ra nhu cầu của những người đi theo Ngài: họ đang đói. Và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Thế nhưng, ngoài tấm bánh vật chất đó, còn có một thứ bánh khác cao quý hơn nhiều: đó là “Bánh Hằng Sống” từ trời xuống như lời Chúa giới thiệu trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay. Khởi đi từ tấm bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Bánh Hằng Sống là chính Ngài.
Những tấm bánh vật chất
Thánh Kinh nhắc nhiều đến “bánh”, vì đó là ân huệ của Thiên Chúa và là nguồn sinh lực cho con người. Trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng một thứ “bánh” đặc biệt từ trời rơi xuống: đó là “manna”. Thế nhưng, “manna” đã không làm thỏa mãn cơn đói của dân chúng, nhất là họ không tìm được ở nơi loại lương thực này sự trường sinh. Như Chúa đã khẳng định trong bài Tin Mừng: họ ăn manna nhưng họ vẫn chết.
Khi nhìn thấy đám đông theo Chúa đang đói khát, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi họ ăn. Thế nhưng, sau khi ăn no nê, dân chúng tiếp tục đi tìm kiếm Chúa Giêsu để tôn Chúa lên làm vua. Thực chất họ muốn có bánh và cá ăn mãi để không phải đói, nhất là không phải làm lụng gì nữa. Vì biết rõ điều đó nên Ngài đã trốn đi nơi khác (Ga 6, 15).
Như thế, “manna” hay những tấm bánh trong phép lạ hóa bánh ra nhiều đều không làm cho dân chúng no thỏa và được trường sinh bất tử. Vì thế, Chúa Giêsu đã hướng dân chúng đến một thứ bánh cao qúi hơn: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Chúa Giêsu còn quả quyết: ai ăn bánh này thì không phải chết, nhưng được sống đời đời. Nghe thế, dân chúng rất phấn khởi vì nghĩ rằng Chúa sẽ ban cho họ một loại bánh như phương thuốc trường sinh bất tử. Nhưng sau đó Chúa xác định: “Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta”. Nghe điều đó, dân chúng đã thất vọng và bỏ đi. Họ đã không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả, mà chỉ là con của “bác thợ mộc Giuse” tầm thường. Làm sao Ngài có thể ban cho họ “bánh trường sinh ?”. Làm sao Ngài có thể ban cho họ sự sống đời đời ?Chính sự cứng lòng tin đã làm cho người Do Thái không đón nhận Chúa và vì thế họ cũng khước từ sự sống đời đời từ nơi tấm Bánh Hằng Sống là chính Chúa.
Bánh Hằng Sống
Trong lúc con người chỉ chú tâm tìm kiếm bánh vật chất và lương thực nuôi sống thể xác, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng đôi mắt đức tin để nhận ra Ngài chính là bánh ban sự sống. Dĩ nhiên Ngài là bánh không phải để nuôi sống thân xác chúng ta. Nhưng ngoài sự sống thể xác, Chúa mời gọi chúng ta hướng đến sự sống cao hơn: sự sống của tâm hồn. Chính sự sống này sẽ đặt nền tảng và hướng dẫn sự sống thể xác. Chỉ khi nào ta khao khát lãnh nhận Bánh Hằng Sống, sự no đủ của thân xác ta mới có ý nghĩa thật sự.
Ngày nay, Bánh Hằng Sống được trao ban cho ta từng ngày nơi bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là tấm bánh thần linh được bẻ ra và trao cho ta như lương thực nuôi dưỡng ta trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi khi dự thánh lễ, ta hãy ý thức: “lương thực hằng ngày” mà ta cầu xin trong kinh Lạy Cha chỉ có ý nghĩa khi ta được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh là chính Chúa nữa.
Ngoài tấm bánh Thánh Thể, chúng ta còn có tấm bánh Lời Chúa cũng được trao ban cho chúng ta từng ngày. Tấm bánh Lời Chúa cũng là bánh ban sự sống đời đời cho những ai sẵn sàng đón nhận, như lời Chúa phán: “Thầy có những lời ban sự sống đời đời”
(Ga 6, 68). Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon, nếu chúng ta biết lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống. Càng sống lời Chúa, chúng ta càng gặp được ánh sáng và sức mạnh nâng đỡ chúng ta trước sóng gió cuộc đời. Tấm bánh Lời Chúa toả ánh sáng soi dẫn để chúng ta cũng tìm được tấm bánh vật chất hằng ngày.
Bài đọc I, trích sách Các Vua quyển thứ nhất, kể lại câu chuyện ngôn sứ Êlia giết các sư sãi của thần Baal. Ông bị hoàng hậu Giêsabel truy đuổi gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Hôreb. Nhưng dọc đường vì quá kiệt sức, ông đã nằm dưới gốc cây tùng xin được chết đi. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông, để ông tiếp tục cuộc hành trình lên núi Horeb gặp gỡ Thiên Chúa.
Chúng ta cũng đang đi trên cuộc hành trình đức tin nhiều thử thách và gian nan. Chúng ta cũng phải băng qua sa mạc cuộc đời với biết bao hiểm nguy và thách đố. Có những lúc phải đối mặt với những thất bại và khổ đau, chúng ta cũng từng xuôi tay muốn đầu hàng cuộc sống. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa Thánh Thể vẫn đồng hành với chúng ta. Ngài vẫn đang bẻ tấm bánh đời mình để trao hiến cho chúng ta. Ngài vẫn bẻ tấm bánh lời Ngài để nuôi dưỡng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có can đảm để đứng dậy tiếp tục cuộc hành trình hay không.
Người ta kể rằng: khi chết, cuốn sách gối đầu giường của Lênin chính là cuốn truyện “Tình Yêu Cuộc Sống” của nhà văn Mỹ Jack London. Sở dĩ cuốn sách đã cuốn hút Lênin và trở thành tư tưởng hướng dẫn cuộc sống ông, là vì trong cuốn sách đó đã thuật lại cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một người đi đào vàng ở Alaska và con chó sói. Người đi đào vàng đã kiệt sức, nằm gục trên băng tuyết và sắp chết vì đói. Bên cạnh là một con chó sói đang nằm thoi thóp, cũng sắp chết vì đói. Hai bên gầm gừ chờ đợi đối thủ của mình chết đi để xông đến ăn thịt. Cuối cùng, con người đã thắng con vật: anh ta đã dùng hết hơi tàn sức kiệt của mình để vật chết con sói, tất cả vì sự sống còn của mình.
Trong cuộc đấu tranh giữa đời, chúng ta cũng mong tìm kiếm sự sống và niềm hạnh phúc. Chúa là Bánh Hằng Sống, sẵn sàng ban cho ta sự sống và niềm hạnh phúc ấy, nếu ta biết tìm đến với Ngài.
Có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai đã lên Trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Đó là Ngài nói về Ngài, thế thì đích thực Ngài là “người cõi trên”, thuộc thượng giới, thế nhưng Ngài lại tự nguyện sống và làm việc ở hạ giới – trần gian. Chuyện khó tin mà có thật. Và cũng vì “khó tin” nên “không tin”, cụ thể là người Do Thái, tới nay mà họ vẫn không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta – Đấng Emmanuel.
Chúa Giêsu mặc xác phàm nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, đặc biệt là có hai bản tính – thần tính và nhân tính. Về nhân tính, Ngài trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nghĩa là Ngài cũng có nhu cầu ăn uống, và Ngài cũng cảm thấy đói (Mt 4,2; Mt 21,18).
Ăn uống cần thiết để duy trì sự sống, nhưng ăn không phải là bỏ vô miệng rồi nhai và nuốt, mà còn cần biết thực phẩm đó có hóa chất hoặc độc tố hay không, đặc biệt là phải bảo đảm đủ dưỡng chất. Điều đó liên quan vấn đề dinh dưỡng. Dinh dưỡng là gì? Dinh dưỡng là khoa nghiên cứu mối liên quan giữa thực phẩm và cơ thể, đó là quá trình cơ thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống, sinh trưởng và phát triển bình thường của các mô và cơ quan, và để sinh năng lượng, cũng như các phản ứng của cơ thể đối với việc ăn uống, sự thay đổi khẩu phần và các yếu tố khác có liên quan bệnh lý.
Chất dinh dưỡng rất cần thiết trong việc phát triển cơ thể hợp lý và khỏe mạnh. Chất dinh dưỡng là chất bổ dưỡng, là vitamin, nếu thiếu nó thì cơ thể suy yếu và sinh bệnh tật, nhưng nếu nó nhiều quá cũng bất lợi cho sức khỏe, do đó mà phải có mức cân bằng hợp lý với cơ thể. Nói đến dinh dưỡng có “dính líu” tới ẩm thực, tức là ăn uống.
Sau một ngày đường trong sa mạc, ông Êlia đến ngồi dưới một gốc cây kim tước (ulex europaeus – loài cây bụi thường xanh, lưu niên và có gai, mọc thành bụi rậm rạp. Cây này mọc phổ biến ở những khu vực đất đã được khai khẩn, trên thảm cỏ, ở bìa rừng, ven biển và những vùng đất hoang. Loại cây này phát triển tốt và khó tiêu diệt khi chúng đã thích nghi và phát triển). Ông xin cho được chết và nói: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19,4). Câu này cho thấy ông khiêm nhường và tự cảm thấy hổ thẹn vì cũng chẳng hơn gì ai. Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng có một thiên sứ đụng vào người ông và gọi ông dậy ăn (1V 19,5).
Giật mình thức giấc, ông ngơ ngác đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Quá đã! Buồn ngủ gặp chiếu… hoa (chứ chẳng phải “chiếu manh” đâu). Đang đói, ông liền ăn bánh và uống nước, nhưng rồi lại nằm xuống – không phải để ngủ mà… chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa” (1V 19,7). Ông lại dậy, lại ăn bánh và uống nước. Đúng là thần lương, ăn vô thấy khỏe re. Cũng nhờ loại lương thực đặc biệt nhiều dưỡng chất đó mà ông đủ sức đi ròng rã suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm để tới Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.
Hằng ngày chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Lương do Chúa ban – loại thực phẩm đặc biệt “Made in Heavens” (làm tại Nước Trời), không chỉ cho cơ thể mà quan trọng hơn là cho linh hồn. Đó là những hồng ân, Lời Chúa, và đặc biệt là Thánh Thể. Vì thế, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, chúng ta phải chân thành quyết tâm như tác giả Thánh Vịnh: “Tôi sẽ KHÔNG NGỪNG chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người CHẲNG NGỚT trên môi” (Tv 34,2), đồng thời làm nhân chứng cho Thiên Chúa: “Linh hồn tôi HÃNH DIỆN vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã TÌM KIẾM Chúa, và Người đáp lại, GIẢI THOÁT cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34,3-5).
Thật vậy, bất cứ “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34,6), và với kinh nghiệm dày dạn, tác giả Thánh Vịnh minh định: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, CHƯA THẤY người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ” (Tv 37,25).
Chắc hẳn không ai lại không đã từng hơn một lần được nhận ơn lành của Chúa – thậm chí là nhận quá nhiều, vì thế chúng ta lại càng phải minh chứng: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34,70). Và cũng chắc chắn rằng “sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người” (Tv 34,8). Cứ thật lòng suy nghĩ xem điều đó có đúng hay không. Nếu thực sự đúng, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm phải chia sẻ với người khác: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34,9). Không ai có thể phủ nhận. Và điều đó có liên quan vấn đề mà tiểu thuyết gia René François Bazin (người Pháp, 1853-1932) đề cập: “Con người, dù là người không tin, cũng có một nhu cầu được thánh thiện, ngay khi họ nhận ra sự thánh thiện, họ liền chạy theo”. Thật lạ!
Cuộc sống luôn có tính liên đới. Do đó, ai càng lãnh nhận nhiều thì càng “mắc nợ” Chúa, và tất nhiên càng phải làm chứng về Ngài. Việc chúng ta ca tụng Chúa không thêm gì cho Chúa nhưng sinh ích lợi cho chính chúng ta (Kinh nguyện Thánh Thể). Thánh Phaolô khuyến cáo: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30). Không chỉ bổn phận đối với Chúa, Thánh Phaolô còn nói về bổn phận yêu thương đối với đồng loại: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,31-32).
Thế nhưng, trong đời sống thường nhật, chúng ta chưa thể hiện đúng mức, thậm chí có khi còn “trái ngược” với đức yêu thương, ngay cả lúc chúng ta mệnh danh là người hoạt động trong các hội đoàn. Chưa thương xót người thân cận thì làm sao có thể yêu kẻ thù (x. Mt 5,44; Lc 6,27) và tha thứ “bảy mươi lần bảy” (x. Mt 18,22) như Chúa Giêsu đã truyền dạy? Thánh Gioan gọi là “nói dối” (1Ga 2,4; 1Ga 4,20).
Đề cập nhiệm vụ yêu thương, Thánh Phaolô giải thích: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, Người đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5,2). Rất dễ hiểu!
Vô cùng kỳ diệu vì vượt quá trí hiểu phàm nhân khi Chúa Giêsu đã có cách độc nhất vô nhị là “lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta”. Không thể nào chúng ta khả dĩ hiểu hết sự mầu nhiệm này. Vì thế, người Do Thái đã xầm xì phản đối khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ Trời xuống” (Ga 6,41).
Nghe “sốc” quá, muốn lộn gan và muốn điên lên được! Rồi họ đặt vấn đề: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Ui da, nghe mà nổi da gà và khó tin quá đi, bởi vì “anh chàng” Giêsu này ở cùng xóm lao động với họ, hằng ngày ra vào chạm mặt nhau, thế mà bây giờ bỗng dưng “nói rước” lên về mình thái quá. Ai mà chịu nổi chứ? Nhà Chú Giuse và Cô Maria nghèo rớt mồng tơi, ai còn lạ gì trong xóm nhỏ ở cái làng Nadarét bằng cái bàn tay ấy? Quen mặt, biết tên hết trơn!
Thế nhưng Chàng Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!” (Ga 6,43). Ôi, lạ thế nhỉ? Họ nói thầm với nhau mà Chúa Giêsu cũng biết. Lạ lùng thật! Rồi Ngài nói tiếp: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,44). Hết bất ngờ này tới bất ngờ khác, chắc lúc đó họ ngẩn người trông ngố còn hơn “chú Tàu nghe kèn”.
Miệng chữ O, mắt chữ A, họ chưa hết kinh ngạc thì lại nghe Ngài nói: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6,45-47). Lạ lùng lắm, lạ tới mức chịu không nổi nữa!
Sự thật vẫn là sự thật, mặc dù người ta không tin. Chúa Giêsu lặp lại và giải thích: “Tôi là BÁNH TRƯỜNG SINH. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là BÁNH TỪ TRỜI xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là BÁNH HẰNG SỐNG từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,49-51). Lại càng khó lọt tai hơn. Ai lại ăn thịt sống và uống máu sống chứ? Nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Và điều đó chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ làm được. Chúng ta cũng phải đấm ngực và bắt chước viên đại đội trưởng mà thốt lên: “Đúng người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Và rồi từ đó tới nay, đã có nhiều phép lạ Thánh Thể để củng cố Đức Tin cho chúng ta.
Có câu chuyện lý luận về Thánh Thể như thế này...
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Một hôm, một vị thầy lãnh đạo một cộng đoàn Hồi Giáo mời một Linh Mục Công Giáo đến để công khai tranh luận về Bí Tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên.
Vị thầy hỏi: "Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?"
Vị Linh Mục trả lời: "Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Vậy thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được?"
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp: "Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?"
Vị Linh Mục trả lời: "Thầy hãy nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô?"
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm: "Làm sao có thể cử hành nhiều Thánh Lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi Thánh Lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?"
Vị Linh Mục đáp: "Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được…"
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị Linh Mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị Linh Mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
"Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào? Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được?"
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô mà Giáo Hội cử hành Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh Lễ? Hãy nghe Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta qua Thánh nữ Faustina:
“Ta rất đau lòng khi các linh hồn lãnh nhận bí tích yêu thương này như một thói quen, hầu như họ không nhận thức được của ăn này, cho nên họ không có niềm tin hay tình yêu đối với Ta trong trái tim họ. Ta bước vô những tâm hồn đó với tất cả sự miễn cưỡng, thà rằng họ đừng rước lễ thì hơn” (Nhật Ký, số 1258).
“Niềm vui thích lớn lao của Ta là được kết hợp với các linh hồn… Khi họ rước lễ, Ta đến ngự trong tâm hồn họ. Bàn tay Ta đầy những ân sủng mà Ta muốn ban cho họ, nhưng họ không để ý đến Ta. Họ để Ta thui thủi một mình và bận bịu với những ý nghĩ riêng tư của họ. Ôi, buồn biết mấy vì những linh hồn không nhận biết tình yêu của Ta! Họ đối xử với Ta như một vật chết” (Nhật Ký, số 1385).
“Thật đau đớn cho Ta, rất ít linh hồn biết kết hợp với Ta trong lúc đón rước Ta. Ta chờ đợi họ, nhưng họ rất lãnh đạm thờ ơ với Ta. Ta muốn ban rất nhiều ơn cho họ nhưng họ không muốn nhận lãnh” (Nhật Ký, số 1447).
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã sai Con Một Ngài đến trần gian để cứu độ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng với hồng ân được lãnh nhận và luôn biết quyết tâm noi gương Đức Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh, xin giúp chúng con chuẩn bị chu đáo để xứng đáng lãnh nhận Bánh Thánh Giêsu và được phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
-----------------------------------
TN 19-B118: Lời và Thánh Thể giúp ta sống giống Chúa
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Phim Hàn Quốc ‘Cuộc Đời Lớn’ kể rằng trong một đất nước văn minh giàu có, có 2 gia đình ông TN 19-B118
Phim Hàn Quốc ‘Cuộc Đời Lớn’ kể rằng trong một đất nước văn minh giàu có, có 2 gia đình ông Chô-bin-son trí thức giàu có, gia đình Quan-ti-súp cũng giàu có, trí thức. Ấy thế chẳng hạnh phúc gì, cha con thù hằn, đòi giết nhau chẳng còn tính người. Có người nói rằng phim ảnh chỉ là hư cấu mà thôi không có ở ngoài đời. Không! Có tích mới dịch ra tuồng chứ! Cụ thể, theo thống kê của trang điện tử www.tin24.com cho biết mỗi ngày Việt Nam có trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại, mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông, mỗi ngày có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS, và mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn…Như vậy, con người có còn là "nhân chi sơ tính bản thiện" hay đã bị thoái hóa mất tính người? Tại sao hằng ngày con người đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành làm mất đi luân thường đạo lý, tại sao lại dễ dàng làm điều xấu, hại người hơn là làm điều tốt? Tại sao con người văn minh như thế đáng lý ra phải cứu sống thay vì giết chết?
Con người là hình ảnh Thiên Chúa. Con người vượt lên trên muôn loài muôn vật vì "Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7). Như vậy, con người có tương giao với Thiên Chúa, và với nhau. Con người bởi Thiên Chúa mà ra, mà Thiên Chúa là toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ. Cho nên, chúng ta phải giống Chúa về thiện và mỹ. Nhưng cuộc đời đầy khó khăn và gian khổ, con người luôn bị cám dỗ bởi dục vọng, dục tính. Vì con người chẳng thua kém thần linh là mấy cho nên chúng ta phải chiến đấu để cuộc sống này bình an và lành thánh và mai sau được hạnh phúc sống đời đời với Chúa. Vậy, để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách này, Thiên Chúa đã ban cho dân Ít- ra-en khi xưa và chúng hôm nay chính là Tấm Bánh bởi trời, đó chính là Đức Giêsu Kitô, cụ thể hơn là Lời Chúa và Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi trả lời ma quỉ cám dỗ Ngài: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Lời Chúa tạo thành vũ trụ. Lời Chúa đem lại sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Chúa tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Chúa hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Lời Chúa đưa tất cả những người chết trong tội lỗi trở về sống trong thánh thiện. Lời Chúa giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống cho đời mình. Và Lời Chúa ban ban lại cho con người có một sức sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi rằng: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (Ga 6,44-45).
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta và ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Từ đây, ta sống cùng sự sống của Người đồng thời có cùng tư tưởng, lời nói và hành động như Chúa. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy rằng: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4,30).
Mỗi Thánh lễ, Chúa ban cho ta Lời Chúa và Thánh Thể Ngài. Lời Chúa chỉ cho ta con đường đưa đến hạnh phúc, bình an, yêu thương và sự sống. Khi rước Thánh Thể Chúa vào lòng, ta được kết hiệp mất thiết với Ngài, xóa bỏ tội nhẹ và giúp ta xa tránh tội trọng. Thế nhưng, chúng ta đời sống chúng ta phải luôn kết hiệp với Chúa thật sự không chỉ qua Bí tích Thánh Thể, mà còn ở Lời Chúa. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.
Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: “Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh. Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn” (Ep 5,1-4).
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống với Chúa ngay ở đời này và đời sau nữa. Amen.
Tin Mừng Ga 6: 41-51: Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh.
1. Bánh Hằng Sống
Từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết TN 19-B119
Từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết, thì niềm mơ ước bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu thì dân chúng liền ùa đến nghe Ngài nói.
Đám đông dân chúng Do Thái rất chú tâm đến vấn đề này vì kể từ thời Abraham và Moisen họ triền miên sống trong mù mịt, chẳng hiểu chút gì về những điều xảy đến cho những người đã chết. Họ tin rằng có một "thế giới của người chết", nhưng họ chẳng có một khái niệm gì về thế giới ấy, vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào sự bí nhiệm này. Khi nói: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống", Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Nhưng còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trường sinh.
2. Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể
Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ «ăn» và «uống», «thịt» và «máu» theo nghĩa tâm linh. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu.
Bản chất của Đức Giêsu là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể «ăn» và «uống» Mình Máu Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là một vị thần linh. «Ăn» và «uống» Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên như Ngài, nói cụ thể hơn là giống như Ngài, trở nên một với Ngài.
Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã nói: Ai uống nước tôi cho, «nước» ở đây chính là bản thân Ngài, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn «vọt lên». Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
3. Bánh Hằng Sống chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống
"Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh Ta ban là chính Thịt Ta để cho thế gian được sống". Có lẽ chúng ta vẫn chưa xác tín vào lời của Chúa. Chúng ta vẫn chưa tin đủ mỗi khi chúng ta rước lễ, chính là lúc chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thì đây là một bằng chứng cụ thể để củng cố đức tin của chúng ta nơi bí tích Thánh Thể.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano, nước Ý. Cha Basiliô, đã dâng Thánh Lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa, thì Chúa đã làm một phép lạ như một bằng chứng cụ thể về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi cha Basiliô truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên Máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Một cuộc khảo sát khoa học được thực hiện vào năm 1971 cho biết, thịt đây là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu của một người thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713 và thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban đức tin cho chúng con. Amen.
Tin Mừng Ga 6: 41-51: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng. Suy niệm:
Con người lao động cực nhọc cốt để có được lương thực nuôi sống bản thân. Nhưng loại lương TN 19-B120
Con người lao động cực nhọc cốt để có được lương thực nuôi sống bản thân. Nhưng loại lương thực mà con người thường khao khát tìm kiếm chỉ là tạm bợ, cũng như không thể dưỡng nuôi con người luôn mãi. Vậy rất cần nguồn lương thực có thể đem lại cho con người sự sống dài lâu.
Trên hành trình vào đất hứa, khi dân than đói khát, Môisen đã xin Thiên Chúa ban lương thực nuôi sống dân. Và Chúa đã dùng manna nuôi dân bốn mươi năm trường trong sa mạc. Cũng như trong Bài đọc I, chúng ta thấy hình ảnh tiên tri Elia trên đường lên núi Hôrép, khi lương thực cạn kiệt, ông đã cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi. Thế rồi Thiên Chúa đã sai thiên thần đem lương thực đến giúp ông lại sức và bước tiếp: “Hãy chỗi dậy mà ăn vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông đã ăn bánh để có đủ sức khoẻ đi đến núi của Chúa.
Chính Thiên Chúa đã nuôi dân Chúa vượt qua cơn đói khát. Nhưng manna Chúa ban cho Môisen hay lương thực mà Chúa cho tiên tri Elia chỉ là của ăn tạm bợ, trong khoảng thời gian bốn mươi ngày hay cùng lắm là bốn mươi năm. Và Chúa Giêsu muốn họ chấp nhận sự thật là “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết”. Lương thực ấy chỉ là hình bóng cho loại lương thực khác mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no thỏa. Nhưng tìm kiếm Bánh trường sinh ở đâu?
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng; chính Mình và Máu Người sẽ trở nên lương thực nuôi sống dân Thiên Chúa cách vĩnh viễn.
Chúng ta là loài thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương, được tạo dựng nên mang hình ảnh của Thiên Chúa. Và như người ta thường nói vui “ăn gì bổ nấy”, thì chúng ta cũng rất cần được dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa thường xuyên để Bánh trường sinh ấy nuôi sống linh hồn chúng ta. Nhờ đó mà niềm mong ước sự sống trường sinh nơi chúng ta được hiện thực hóa khi được Thiên Chúa biến đổi chúng ta nên thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Kitô giáo là một tôn giáo thật hấp dẫn bởi được chính Đấng Thần thiêng nhập thể làm người, đồng hành với con người. Hơn thế nữa, chính Đấng Sáng lập đã dùng chính Mình và Máu của Ngài nuôi các tín hữu: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”, điều mà chưa có bất kỳ tôn giáo nào có giáo lý đó. Vâng, Chúa Giêsu Nhập Thể chính là câu trả lời cho mọi nhu cầu của con người. Cho người đói, Chúa chính là của ăn; cho người khát, Chúa chính là mạch nước Hằng sống; cho người mù, Chúa chính là ánh sáng soi đường; cho người lạc lối, Chúa chính là Con Đường; cho người kiếm tìm chân lý, Chúa chính là Sự Thật; cho người chết, Chúa chính là sự Phục sinh, cho các tội nhân, Chúa chính là Đấng Nhân lành.
Vậy lạy Chúa, để có Chúa là nguồn Lương thực Trường sinh, xin cho chúng con biết sống như lời thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Êphêsô: Hãy loại ra khỏi mình mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác; ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau; bắt chước Thiên Chúa, sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng con. Amen.
Có một câu chuyện kể rằng: Vào những lúc con người mới phát minh ra động cơ, con người vui TN 19-B121
Có một câu chuyện kể rằng: Vào những lúc con người mới phát minh ra động cơ, con người vui mừng vì sự tiến bộ vượt trên tưởng tượng của mình. Chính vì thế có nhiều người không thể tin được. Có một cụ già nọ, nghe các sinh viên kể lại về chiếc tàu hỏa chạy mà không cần phải nhờ đến trâu, bò, hay ngựa kéo, nhưng nhờ động cơ máy mà nó hoạt động và chạy rất nhanh. Cụ già không tin. Các thanh niên tìm cách đưa cụ già đến một nhà ga xe lửa để cụ nhìn xem tận mắt.
Khi đoàn tàu từ từ tiến đến và dừng lại, các thanh niên đến bên cụ, với vẻ mặt vui mừng, định hỏi xem cụ tin chưa. Bổng nhiên từ toa chở hàng, người ta mở cửa và dẫn một đàn bò từ trên toa xuống. Cụ già nhìn thấy đàn bò, nở một nụ cười tự mãn và chỉ vào đám thanh niên, cụ nói: "chúng bây đã bị mắc lừa". Cụ quay lưng bỏ đi không chịu nghe các thanh niên giải thích là toa này chở bò mà thôi!
Cụ già quá tự mãn về sự hiểu biết của mình, và cụ đã đóng khung nó lại. Thế giới đối với cụ chỉ có đối với những gì cụ hiểu biết. Ngoài những điều đó ra, tất cả đều không tồn tại. Nên cụ không thể nghe những gì người khác nói, cho dù đó là sự thật đang xảy ra trong thế giới hiện đại.
Những người Do Thái ngày xưa cũng không thể tin được Chúa Giê-su lại là bánh bởi trời. Càng khó tin hơn khi nghe Chúa nói ăn chính Chúa sẽ không chết bao giờ! Họ không thể chấp nhận. Bởi họ đã quen thuộc Chúa Giê-su. Quen quá đến nỗi không thể tin vào những việc lạ Chuá đã làm là do bởi Thiên Chúa. Vi đầu óc thành kiến nên họ không tìm hiểu, không lắng nghe. Phải chăng điều này cũng là lối suy nghĩ nông cạn của chúng ta?
Cuộc sống con người, ai cũng có một chút tự hào về chính mình: tự hào về nghề nghiệp, tự hào về sự hiểu biết, tự hào về địa vị bản thân, tự hào về con người của mình. Nhưng nếu quá cố chấp mà chỉ sống trong sự tự hào đó, thì chúng ta chỉ làm trò cười cho bao nhiêu người chung quanh. Còn biết bao nhiêu điều chúng ta chưa biết, và cũng còn rất nhiều điều chúng ta không thể biết và không thể hiểu được!
Nhất là trong đời sống đức tin chúng ta càng cần khiêm tốn để xin Chúa dạy chúng ta qua từng biến cố thời đại, và qua sự văn minh nhân loại cho ta khám phá ra biết bao điều vĩ đại, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra quyền năng Chúa trên vũ trụ và con người luôn nhỏ bé trước quyền năng Thiên Chúa.
Và trong cuộc sống hôn nhân gia đình muốn hạnh phúc bền lâu cũng đòi hỏi mỗi người biết khiêm tốn nhìn nhận điều tốt, điều hay nơi nhau, đừng vì thành kiến mà đánh giá thấp về nhau, nhưng hãy biết tôn trọng và khích lệ nhau. Nếu cứ đánh giá thấp về nhau chúng ta sẽ làm tổn thương nhau.
Có một người hàng xóm hỏi cô vợ:
– Ai đánh vỡ kính ở cửa sổ lớn nhà chị vậy? – Tay chồng hèn nhát của tôi đấy! – Anh ta hiền như đất cơ mà? – Nhưng hắn đứng đó và tránh được cái chậu hoa tôi quăng vào mặt hắn! Cũng may cho hắn mà xui cho chậu hoa!
Theo các chuyên gia tâm lý, coi thường bạn đời là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Vì khi trong lòng bạn đã chất đầy sự coi thường bạn đời, bạn sẽ có những lời nói khó nghe dành cho nhau, đôi khi cả những hành động miệt thị nhau. Chắc chắn khi đã xem thường nhau thì họ cũng mong sớm được giải thoát hơn là vun đắp cho cuộc sống hôn nhân hiện tại.
Trong hôn nhân, việc đánh giá thấp về nhau là điều không thể chấp nhận được. Vì con người vốn có nhu cầu cố hữu là được cảm thấy mình có ích, có giá trị với xã hội và những nỗ lực của mình được thừa nhận. Khi giá trị của mình không được thừa nhận ngay trong gia đình sẽ mang tới cảm giác thất vọng và không còn muốn vun đắp hạnh phúc chung.
Những người Do Thái đồng hương của Chúa Giê-su đã không có cơ hội nhận ơn lành của Chúa vì họ xem thường Chúa. Và có lẽ, vợ chồng nếu xem thường nhau cũng thiệt thòi vì không bao giờ nhận được sự trợ giúp nhiệt tình của người bạn đời. Đôi khi vì sự xem thường mà đánh mất đi hạnh phúc lứa đôi.
Ước gì các đôi hôn phối biết sống khiêm tốn trong cách ứng xử để kính trọng bạn đời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết giúp nhau thăng tiến thay vì chì triết, xem thường nhau. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm kiếm Chúa là nguồn sống đời đời để nhờ đó chúng ta thêm sức mạnh để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại hôm nay. Amen.
Thông thường ăn là để sống, chứ đâu phải ăn để chết, thế nhưng trước thời buổi làm ăn chộp giật TN 19-B122
Thông thường ăn là để sống, chứ đâu phải ăn để chết, thế nhưng trước thời buổi làm ăn chộp giật, chỉ cần có lợi là việc gì cũng làm như hiện nay thì nhiều khi ăn lại là để chết.
Có lẽ chưa bao giờ mà cả xã hội lại lo ngại, thậm chí hoang mang về chất lượng thực phẩm như hiện nay. Ăn gì, uống gì và dùng gì cũng sợ. Gạo nhựa, trứng giả, mực cao su, rau quả ngâm thuốc kích thích, bún, bánh phở có chứa formol… thôi thì đủ cả! Đến giấy lau miệng và chén đũa cũng mang độc hại chết người!
Hàng năm, Việt Nam có từ 100.000 - 150.000 người mắc ung thư và khoảng 70.000 người tử vong do căn bệnh này. Theo bác sĩ Đặng Huy Quốc Thịnh, phó giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, có nhiều lý do khiến số người mắc bệnh ung thư gia tăng trong những năm gần đây như số người hút thuốc, uống rượu bia tại nước ta còn cao, tình trạng ô nhiễm môi trường… Song, còn có một nguyên nhân khác nữa chính là vấn đệ ngộ độc thực phẩm không chỉ gây bệnh ung thư mà nhiều bệnh lý khác.
Nhìn những gì đang diễn ra tại Việt Nam khiến tôi nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn về con Sư tử, con Gấu và con Hươu. Chuyện kể rằng: Con Hươu non bị chết tươi vì ăn phải bã độc.
Sư tử và Gấu nhìn thấy xác Hươu liền tranh nhau miếng mồi. Hai con mãi đánh nhau nên không thấy Cáo cũng mò đến. Lợi dụng lúc Sư tử và Gấu không chú ý tới mình, Cáo tha Hươu vào bụi ăn một bữa no rồi ngấm độc ngã lăn ra chết.
Vật nhau một hồi, Sư tử và Gấu không thấy Hươu đâu nữa liền buông nhau đi tìm mới thấy Cáo chết vì thịt Hươu nhiễm độc. Sư tử và Gấu lúc đó mới bảo nhau rằng:
- Đáng đời cho con Cáo láu lỉnh và tham lam kia, nhờ nó mà hai ta khỏi chết.
Xem ra ăn gì cũng chết. Nên dường như ai bây giờ cũng nhắm mắt ăn đại, ăn cho xong vì đàng nào cũng mang mầm bệnh tật vào thân. Xem ra chẳng còn ai nghĩ ăn để sống nữa, vì mọi cái có thể ăn được đều đã bị đầu độc!
Hôm nay Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta một của ăn không độc hại, không dẫn đến tiêu vong. Chúa giới thiệu cho chúng ta một của ăn để được sống đời đời chính là bánh Thánh Thể, là bánh trường sinh thỏa mãn niềm khao khát sống đời đời của nhân loại. Chúa bảo tổ tiên đã ăn Manna từ trời xuống rồi cũng chết, còn ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời.
Thật hạnh phúc khi ở đời còn có của ăn không chết. Đây là của ăn thuần khiết vì là bánh thần linh. Đây là bánh thanh sạch vì được làm nên từ chính Máu Thịt Chúa. Đây là bánh không bao giờ hư nát vì là chính Thánh Thể phục sinh của Chúa. Thế nên, ai rước bánh này sẽ sống đời đời. Ai ăn bánh này sẽ được trường sinh.
Vâng, mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa nhật XIX/TN-B (Ga 6, 41-51), thánh sử Gio-an trinh thuật sự kiện TN 19-B123
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa nhật XIX/TN-B (Ga 6, 41-51), thánh sử Gio-an trinh thuật sự kiện “Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống." Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?” Sở dĩ đám người Do-thái thắc mắc rồi xầm xì phản đối, bởi họ thấy Đức Giê-su là một con người rất bình thường, vì Người xuất thân từ một gia đình nghèo khó tại một miền quê hẻo lánh. Đối với họ, thật khó mà chấp nhận Người là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện công nhận Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống. Lý do khiến họ không chấp nhận là bởi họ nhìn vấn đề theo nhãn quan trần thế. Họ đã hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: Một người từ trời xuống có nghĩa là một người phải thật sự bay “từ trời xuống” như kiểu “mưa man-na” trong Cựu Ước, chớ không phải là một người sinh ra từ trong bụng một người mẹ ở trần gian như bao người khác. Từ cách hiểu trần tục đó, họ không chấp nhận được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” một chút nào.
Người Do-thái tin vào lời các ngôn sứ lưu truyền về hiện tượng Đức Chúa “khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.” (Tv 78, 24); “Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai.” (Đnl 8, 15-16). Man-na thực sự là vật chất (“Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” – Ds 11, 7; ”Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.” – Xh 16, 31), nên đã đổ từ trời xuống như mưa. Nhưng khi Đức Ki-tô nói “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6, 41) thì họ không thể tin nổi vì Đức Ki-tô là một con người bình thường như bao người khác, không phải và không thể là vật chất như man-na, đồng thời Người do bà Maria sinh ra chớ đâu có rơi từ trời xuống như man-na.
Với con người thì lúc nào cũng đòi được “thực mục sở thị” mới tin, nhưng đến khi được nghe thấy, trông thấy nhãn tiền thì lại chỉ hiểu theo những thành kiến, định kiến của loài người. Cũng vì sự non kém, bất toàn đó, nên Thiên Chúa phải mạc khải cho con người hiểu được những công trình kỳ diệu của Người. Mà muốn hiểu được những mạc khải, thì điều tiên quyết là phải có đức tin. Đám nguời Do-thái ngày xưa cũng như không ít con người ngày nay vì cứng lòng không tin, nên chỉ hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen và nghe Lời Chúa bằng đôi tai nghễnh ngãng. Chính vì thế nên không lạ khi thấy họ cho rằng chỉ có đồ điên mới đại ngôn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51).
Nhưng nếu họ hiểu rằng Lời Chúa phải lắng nghe bằng tâm linh, chớ không thể nghe bằng hai lỗ tai của cái vỏ bằng đất là xác thịt nặng nề (“cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” – Kn 9, 15). Với Lời Đức Ki-tô Thiên Chúa, lại càng cần phải lắng nghe bằng nội tâm kết hợp với lời cầu nguyện xin ơn soi sáng, thì mới hy vọng hiểu được, vì Người luôn dùng dụ ngôn với “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời), thậm chí có nhiều lúc Người còn dùng sự tương phản trong cách nói ẩn dụ để nhấn mạnh ý chủ đạo (Vd: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-35; "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" – Lc 9, 60; “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” – Lc 17, 33).
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, với đám người Do-thái thì quả là phi lý khi một con người bằng xương bằng thịt bình thường lại dám nói mình là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ được sống đời đời”; bởi đây là lần đầu họ nghe nói và cũng vì những sự kiện minh hoạ cho lời nói đó chưa xảy ra. Họ không tin cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, khi minh chứng hùng hồn đã thực sự xảy ra là chính Người nói câu nói kỳ dị ấy đích thị là Thiên Chúa từ trời xuống thế, chịu khổ hình thập giá và sống lại hiển vinh, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin; thì sau đó cả hàng ngàn năm cũng vẫn còn nhan nhản những kẻ cứng lòng, vẫn cho Lời nói ấy là chướng tai, là phi lý. Ấy cũng chỉ vì họ cũng không hơn gì đám người Do-thái, chỉ hiểu Lời Chúa bằng nghĩa đen, nghĩa vật chất, không chịu loại suy để tìm đến chiều kích vũ trụ của Lời (“Truyền thống tư duy Ki-tô Giáo vốn khai triển yếu tố chủ chốt trong bản hòa tấu lời này. Như Thánh Bonaventura, chẳng hạn, người vốn theo truyền thống các Giáo Phụ Hy Lạp mà nhìn ra mọi khả thể sáng thế trong Logos, đã nói rằng “mọi tạo vật đều là lời Chúa, vì nó công bố Người”. Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã tổng hợp các dữ kiện ấy khi cho rằng “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và duy trì mọi vật bằng chính lời của Người (Ga 1:3), đã cho ta chứng cớ mãi mãi về chính Người ngay trong các thực tại tạo dựng.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 7).
Tấm màn đã được vén lên (mạc khải), mọi sự đã rõ ràng: Để hiểu được Lời Chúa thì điều kiện tiên quyết là phải có đức tin (“Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ lời Chúa Ki-tô” – Rm 10, 17). Lời Chúa Ki-tô đích thị là Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể (“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống, là Ngôi Lời.” – 1Ga 1, 1-3; “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời trở nên xác phàm.” – Ga 1, 1-14). Rõ ràng Ngôi Lời đã từ trời xuống mặc lấy xác phàm để cứu độ nhân loại bằng chính thân thể Người bị bầm giập vì đòn roi, chết treo trên thập giá còn bị lưỡi đòng của sự dữ đâm thâu trái tim khiến máu chảy ra đến giọt cuốí cùng. Thân xác ấy, dòng máu ấy há chẳng phải là nguồn ơn cứu độ đem lại sự sống vĩnh hằng cho những kẻ tin đó sao? Và như vậy, Lời dạy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51) đã là hiện thực 100%.
Liên tục 2 Chúa nhật XVIII và XIX, bài Tin Mừng đều được trích trong “Bài giảng tai hội đường Ca-phac-na-um” (Ga 6, 21-66) trình thuật về Bánh Hằng Sống. Đó cũng chính là phép Thánh Thể được Ngôi Lời thiết lập vào bữa Tiệc Ly trước ngày khổ nạn, và cũng chính vì thế mới gọi là Bí tích Thánh Thể (dấu tích bí nhiệm ẩn tàng Lời Chúa). Bí tích nhiệm mầu này được tái hiện hàng ngày hàng giờ trên bàn thánh ở khắp năm châu bốn biển để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Muốn được Lời Chúa dưỡng nuôi trên hành trình đức tin tiến về quê trời, không gì bằng chạy đến với MẸ CỦA LỜI, “vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” (Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”,, số 20).
Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần gia tăng lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và để mỗi lần chúng con tham dự thánh lễ, mỗi lần chúng con rước Chúa vào lòng, là chúng con được nhận lãnh bánh trường sinh ban sự sống đời đời. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của Lời Hằng Sống, Mẹ Đức Tin, xin Mẹ cho chúng con được ở trong cung lòng của Mẹ, để chúng con được “nhờ Mẹ, đến với Chúa” và tin vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Vâng, thưa quý vị, các bạn, không một thứ lương thực nào tồn tại vĩnh cửu ngoài “Thần lương TN 19-B124
Vâng, thưa quý vị, các bạn, không một thứ lương thực nào tồn tại vĩnh cửu ngoài “Thần lương“ từ Thiên Chúa. Nhưng, thứ “Thần Lương“ ấy là bánh từ trời “manna”, cũng không tồn tại. Vì con người trần gian phải ra công làm việc để có cái ăn nuôi thân xác. Vì thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng vốn vĩnh hằng cùng với linh hồn siêu nhiên. Nhưng, từ khi con người nghe theo quỷ chống lại Thiên Chúa, mang sự phản nghịch, bất trung. Vì thế, thân xác con người phải chịu nô lệ cho sự “phản nghịch “ ấy.
Vì vậy, tuy manna là lương thực từ trời, nhưng cũng chỉ là thứ lương thực nuôi sống “tạm thời“ thân xác của con người trong thời hữu hạn. Không phải là “thần lương“ nuôi lấy sự sống tạm bợ nơi thân xác đã chịu sự nô lệ của tội phản nghich, bất trung.
Vì thế, khi con người chứng kiến Con Thiên Chúa từ Trời đến, con người vốn dửng dưng không thể thấu hiểu “ân ban“ ơn cứu độ trọng đại là “Lương Thực“ nuôi linh hồn. Vâng, một “Thần Lương“ đích thực, một nhu cầu cao cả, mục đích tái tạo lại sự sống vĩnh hằng nơi loài thọ tạo bất trung.
Như vậy, khi Chúa Giêsu nói: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh“ (Ga 6, 35). Người ta thật sự ngỡ ngàng, khó hiểu, đầy sự nghi ngờ, bán tín, bán nghi. Vì sự khác biệt giữa thân xác và linh hồn, cũng như lương thực của thân xác và Thần Lương nuôi linh hồn, con người thật không thể hiểu một cách đơn thuần được.
Từ đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không bác bỏ sự sống nơi thân xác, nhưng Người kiện toàn ý nghĩa siêu nhiên nơi thân xác con người. Vâng, đây đích thị là ân sũng ”Thần Lương“, là Lời của Ngôi lời Thiên Chúa, cũng là một thứ “Thần Lương“ đích thực nơi Đấng Tạo Thành ban cho loài thụ tạo. Vì, Thiên Chúa chính là nguồn của sự sống, ngoài Thiên Chúa không có sự sống đích thực nào khác. Vì vậy, lương thực nuôi thân xác hằng ngày, mà người ta gọi là đồ ăn, cái ăn, miếng ăn nhằm chỉ để nuôi sự tạm bợ. Nên chi, Chúa Giêsu nói: việc làm lụng hằng ngày để kiếm cái ăn nuôi thân xác. Nhưng, cái ăn nuôi thân xác ấy để hướng đến sự sống viên mãn, chứ không phải dừng lại cái ăn nuôi thân xác.
Vâng, tai sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, nếu chỉ có cái ăn nơi thân xác mà thôi, thì mãi maĩ không có sự sống, hay nói cách khác, sự sống nơi thân xác không tồn tại. Vì, nguyên lý của sự sống không dừng lại nơi miếng ăn. Chỉ có chân lý và tình yêu mới là nguồn của sự sống, sự sống viên mãn, đích thực. Vì, chân lý đó, Thiên Chúa luôn ân ban sự sống cho con người. Sự sống đích thực, đó là sự “trao ban“ trọn vẹn sự sống từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô, Đấng Cứu Độ con người. Bởi vì, sự sống đích thực chính là ”Lương Thực Thần Linh”, mà chỉ có từ nơi Thiên Chúa mà thôi.
Khi chúng ta nghiền ngẫm Lời Chúa hằng ngày chính là khi linh hồn chúng ta được no thỏa nhu cầu công chính là sự sống đích thực.
Để dễ chấp nhận chân lý trên, chúng ta cùng nhau đưa ra một dẫn chứng cụ thể vể lương thực cho thân xác và lương thực cho linh hồn.
Người ta thường tin rằng lương thực cho thân xác là nhu cầu của sự sống, nhưng, khi chúng ta ăn uống no say từ ngày này qua ngày khác, thì sự sống của chúng ta không còn là sự sống đích thực nữa, mà là “sự chết”. Bởi vì, không ai sống trên đời mà cứ nằm rồi ăn, ăn rồi nằm. Nếu thực sự sự sống chỉ có thế thì không còn là sự sống, đó chính là sự chết, một sự chết đích thực.
Thứ đến, nếu sự sống chỉ có vậy, thì không mang một ý nghĩa siêu nhiên, tháp nhập vào Thiên Chúa được. Vì vậy, Chúa Giêsu đã hướng con người đến một một đích tối thượng đó là được tháp nhập vào sự sống vĩnh cửu nơi nguồn sống Thiên Chúa. Đó là của ăn, lương thực bất tử, sự sống siêu phàm từ Đấng vô biên.
Như vậy, lương thực là thức ăn cho sự sống nơi con người không phải duy nhất là cơm bánh, mà chính là Chúa Giêsu, vì khi con người không có Thiên Chúa, thì không bao giờ họ có được sự sống đích thực. Vì, khi con người chỉ có của ăn nuôi thân xác mà thôi, thì sự chết sẽ tiêu diệt họ. Cứ kẻ mạnh giết kẻ yếu và cuối cùng sự chết ngự trị, vì kẻ mạnh cuối cùng cũng phải chết.
Theo đó sự sống nuôi sống đích thực là chính Thiên Chúa, từ đó cho thấy sự giáo huấn của Chúa Giêsu chính là lương thực cho sự sống vĩnh hằng. một sự sống mà nơi đó Người đã tự hiến trọn vẹn cho con người.
Qua ba tuần lễ liên tiếp, chủ đề lời Chúa Chúa Nhật hôm nay minh họa cho chúng ta một sự tự hiến trọn vẹn của Chúa Giêsu, Đấng đã đến vì con người, trao ban trọn vẹn Thiên Tính và Nhân tính và chỉ có Người mới thực sự là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống từ Thiên Chúa được trao ban cho con người mà thôi.
Chúa Giêsu không hứa hẹn trao ban của cải vật chất cho những kẻ đi theo Người, vì của cải của thế gian vốn có sẵn, nhưng không mang lại sự sống đích thực là chính Thiên Chúa. Theo đó, Thiên Chúa muốn ban cho con người chính Ngài, vì vậy, Người đã từ trời xuống thế…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian để chỉ cho nhân loại một con Đường của sự Sống, một Con Đường Hằng Sống, đó là Lương Thực trường sinh, thứ Thần Lương vĩnh cửu là chính Người. Xin thương ban cho nhân loại nhận ra tình Chúa yêu thương, và trọn vẹn dâng hiến, hầu bước theo và được nhận lãnh./. Amen.
Tần Thủy Hoàng là một ông vua giầu có, nắm trong tay quyền uy muốn làm gì cũng được, nhưng TN 19-B125
Tần Thủy Hoàng là một ông vua giầu có, nắm trong tay quyền uy muốn làm gì cũng được, nhưng ông lại rất sợ chết. Ông tìm mọi cách để cho mình được sống trường sinh bất tử. Ngày kia các nhà chiêm tinh và thầy pháp thưa ông rằng ở Biển đông có một hòn đảo địa đàng, dân cư ở đấy đã khám phá ra được bí thuật trường sinh. Nghe thế Tần Thủy Hoàng truyền lấy mấy chiếc tầu chở trân châu ngọc qúi và cho người đi tìm hòn đảo đó để đổi lấy cái bí thuật sống trường sinh bất tử. Truyện kể rằng đoàn tầu thám hiểm đó đã tìm thấy hòn đảo, nhưng dân cư ở đấy nhất định không chịu đổi bí thuật trường sinh bất tử bằng những món đồ qúi gía, nhưng dưới mắt họ lại chỉ là tầm thường rẻ mạt so với cuộc sống đời đời. Thực ra hòn đảo địa đàng kia làm gì có. Chẳng qua là do trí tưởng tượng, hoặc mưu kế của các nhà chiêm tinh và thầy pháp bày ra để trấn an sự sợ chết, để làm dịu bớt cái khát vọng sống bất tử của Tần Thuỷ Hoàng.
Nhưng cái bí thuật trường sinh bất tử mà dân cư trên hòn đảo trong câu chuyện không muốn đổi cho Tần Thủy Hoàng thì Chúa Giêsu lại ban tặng cho ta nhưng không (free gift). Chính Ngài giới thiệu và mời gọi ta đến lãnh nhận sự sống đời đời. Ngài tuyên bố thật rõ ràng: “Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6: 51). Như vậy, để đạt được sự sống đời đời thì phải tin Ngài là bánh ban sự sống bởi trời xuống. Phải lấy lòng tin mà ăn thịt và uống máu Ngài. Điều này không phải là dễ đối với những người Dothái thời Chúa Giêsu vì thế có một số người xầm xì: “Lời nói đó chói tai quá! Ai mà nghe được?” (Ga 6: 60), nên họ đã rút lui không theo Ngài nữa. Họ bảo Chúa Giêsu chỉ là con bác phó mộc Giuse, mẹ Ngài là Maria và anh em Ngài đang sống giữa họ. Cũng vậy, ngày nay có nhiều người cũng sống hoàn toàn theo lý trí tự nhiên. Họ nhìn Thánh Thể chỉ là một tấm bánh thường, làm bằng chút bột miến có thế thôi. Và số đó có cả một số người Công giáo nữa mới đáng buồn!
Vì thế Chúa Giêsu nói rõ ai được Chúa Cha ban cho thì mới có thể đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (Ga 6: 44). Cần phải được Chúa ban ơn cho, ta mới có thể nhận ra Chúa Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Cần phải có đức tin mới có thể nhận ra dưới hình bánh nhỏ mọn có thật Chúa Giêsu hiện diện, một Chúa Giêsu với trót cả bản tính Thiên Chúa và nhân loại.
Nếu rước lễ nên ta được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Chúa đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6: 56). Như giọt nước hòa tan với rượu nho trong chén thánh, ta cũng được tan hòa với Chúa Kitô như vậy. Rước lễ còn chuẩn bị thân xác ta sẵn sàng đón nhận cuộc phục sinh vinh hiển: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 55). Khi kết hiệp với ta trong lúc rước lễ, Chúa Giêsu đặt trong ta mầm sự sống vinh quang, như mầm sống trong hạt giống nằm sẵn đó chờ ngày đâm chồi phát triển thành cây xanh tươi mang đầy hoa trái.
Vậy, để đáng Chúa ban ơn trường sinh bất tử, ta hãy dọn mình xứng đáng và kính cẩn đến rước Chúa với lòng tin yêu mạnh mẽ. Sau khi rước lễ, ta hãy cầm trí cám ơn Chúa tử tế. Nhưng rất tiếc, nhiều lần ta đã rước Chúa một cách máy móc, và vừa mới rước Chúa ngự vào lòng đã chia trí lo ra, chẳng nói với Chúa được một lời, chẳng biết bày tỏ với Người những nhu cầu, những ước vọng, chẳng biết thưa với Người những nỗi băn khoăn lo lắng trong cuộc sống xin Người hướng dẫn để ta biết sống đẹp ý Chúa.
Nói tóm lại, để việc rước Chúa sinh công hiệu tốt, ta phải gắng cất những ngăn trở: những tội lỗi, những dịp tội, những hành vi, cử chỉ, lời nói bất xứng. Trong khi rước lễ, ta lại phải giục lòng tin cậy, t ô n t hờ, yêu mến Chúa cách mạnh mẽ. Nhưng tự sức ta, ta khó có thể làm được cách hẳn hoi. Vậy ta hãy cậy nhờ Mẹ Maria và thánh Giuse đón tiếp Chúa và cám ơn Chúa với ta và thay cho ta.
Phúc âm tuần này là phần hai của cuộc tranh luận giữa Đức Kitô và đại diện đám đông những người TN 19-B126
Phúc âm tuần này là phần hai của cuộc tranh luận giữa Đức Kitô và đại diện đám đông những người chống đối giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài nói Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống. Tuần trước chúng ta không biết đám đông là ai nhưng tuần này Phúc Âm ghi rõ đám đông là người Do Thái. Dân Do Thái thời đó là nhóm mãnh liệt chống đối Đức Kitô bằng cả tranh luận lẫn cố tình gài bẫy mong Đức Kitô một lúc nào đó vô tình không chuẩn bị sẽ sập bẫy họ gài ra.
Tuần trước Phúc âm nhấn mạnh đến vai trò của Đức Kitô là món quà Chúa Cha trao tặng nhân loại để ai đón nhận Ngài sẽ nhận được sự sống trường sinh. Phúc Âm tuần này cho biết thêm Đức Kitô chính là trung tâm điểm của niềm tin Kitô hữu. Qua giáo huấn của Đức Kitô con người nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Hai chủ đề trên là hai chủ đề riêng biệt nhưng chúng liên kết mật thiết với nhau. Sau khi nghe Đức Kitô tuyên bố Ngài đến từ trời nhóm chống đối Đức Kitô kịch liệt phản đối. Người Do Thái xì xầm phản đối, bởi vì Đức Kitô nói
'Tôi là bánh từ trời xuống'. c. 42
Họ chống đối Đức Kitô viện cớ họ biết rõ gia phả Ngài. Họ coi Ngài là một người bình thường như những người khác trong xóm bởi họ biết Đức Kitô là con ông Giuse và bà Maria và thân thuộc của Ngài họ đều rõ nên họ không chấp nhận Ngài từ trời xuống. Mâu thuẫn lớn ở điểm người Do Thái nhận biết con người Giêsu trần thế bằng hiểu biết trần gian; trong khi Đức Kitô lại nói về khôn ngoan của niềm tin khi nhận biết con người Giêsu là Con Thiên Chúa. Đối với người Do Thái một khi đã sinh ra trong trần gian thì thuộc về trần gian và không thể nào khác hơn được. Đức Kitô nói rõ cho họ biết Đức tin Ngài ban tặng không thể dùng sự hiểu biết trần gian để nhận biết mà cần đến đặc sủng Chúa ban. Thực ra không phải hiểu biết trần gian ngăn cản họ nhận ra Con Thiên Chúa mà chính là lòng họ ra chai đá, không chấp nhận bất cứ thay đổi nào. Họ đòi hỏi đức Kitô làm thêm phép lạ. Đối với họ phép lạ chữa bệnh cho bao người và phép lạ hoá bánh ra nhiều chưa đủ để cho họ tin, họ muốn có thêm nữa. Vấn đề khác xảy ra là do so sánh. Họ so sánh manna tổ tiên họ đã ăn trong samạc với bánh hằng sống Đức Kitô hứa ban. Khi có so sánh thế nào cũng có chọn thứ này, lựa thứ nọ và bỏ thứ khác. Nếu chọn theo Đức Kitô người Do Thái phải bỏ truyền thống tổ tiên và đó là việc làm đòi hy sinh rất lớn. Vì thế họ chọn theo truyền thống tổ tiên và loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô. Để giúp họ nhìn thấy cái sai lầm của họ Đức Kitô mặc khải thêm cho họ biết
Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44
Loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô không chỉ đơn thuần chối bỏ Ngài mà chính là chối bỏ Chúa Cha Đấng sai Ngài đến trong thế gian. Những ai đón nhận giáo huấn của Đức Kitô được hưởng hai thành quả của niềm tin. Thứ nhất người đó trở thành thành viên của đại gia đình Chúa nơi trần gian, nhận được của ăn ban sự sống trường sinh là chính Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Thành quả thứ hai người đó nhận được khi hoàn thành cuộc lữ hành trần thế, họ sẽ không chết cô đơn một mình. Họ chết trong Đức Kitô. Những ai chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài cho sống lại, hưởng vinh quang Phục Sinh của chính Đức Kitô. Được chính Đức Kitô hướng dẫn và đón nhận vào Thiên Quốc chung hưởng sự sống trường sinh Thiên Chúa dành riêng cho họ.
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44
Bánh trường sinh Đức Kitô ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Ngày nay chúng ta hiểu giá bánh trường sinh Đức Kitô cao trọng ngoài dự đoán của con người. Giá đó là chính sự sống đời Ngài ban cho nhân loại bằng cách tự nguyện, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá trở thành bánh nuôi sống tâm hồn. Hiến tế đó ngày nay được lập lại trên bàn thờ mỗi khi linh mục đọc kinh truyền phép trong thánh lễ hàng ngày. Chúng ta hãy cúi đầu cảm tạ và kính cẩn thờ lậy.
Hằng năm cứ vào những Chúa Nhật cuối tháng 7 và đầu tháng 8, nhiều linh mục thấy oải vì TN 19-B127
Hằng năm cứ vào những Chúa Nhật cuối tháng 7 và đầu tháng 8, nhiều linh mục thấy oải vì Hội thánh dọn bàn tiệc Lời Chúa cứ xoáy mãi vào đề tài Thánh Thể. Dĩ nhiên, mầu nhiệm Thánh Thể là khôn dò và thật khó tát cạn, nhưng đó là trong đức tin, còn với sự hạn chế của con người thì khi nói mãi một vấn đề hẳn sẽ gây nhàm chán không chỉ cho thính giả mà cho cả người trình bày. Dẫu vậy, dựa trên những bài đọc Lời Chúa của Chúa Nhật XIX TN B, xin cùng xem xét đôi điều về chân lý và những hệ luỵ của nó.
1. Là chân lý thì không thể chấp nhận tình trạng thoả hiệp hay nước đôi: “Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra không được có thần nào khác” (x.Dnl 6,4-7). Đây chính là lệnh truyền của Giavê cho dân được tuyển chọn, một lệnh truyền được lặp đi lặp lại nhiều lần nói lên tầm quan trọng của nó. Vào thời Vua Akhap cai trị đất nước, vua đã cưới nhiều bà vợ ngoại bang và hệ quả là vua quan, dân chúng đã bỏ Giavê để tôn thờ thần Baal, vị thần hoàng hậu Giêgiaben tôn thờ. Ngôn sứ Êlia đã khẳng khái lên án tình trạng này. Và Ngài đã dám thách thức 450 sư sãi Baal làm một cuộc đọ sức trên núi Cácmêlô để xem Giavê hay là Baal, ai là Thiên Chúa thật. Câu chuyện làm thịt bò rồi xin thần cho lữa từ trời xuống thiêu đốt của lễ thì chúng ta ít nhiều đã nghe. Dĩ nhiên Êlia đã thắng, vì chỉ có Giavê là Thiên Chúa thật mới cho lữa từ trời xuống thiêu huỷ lễ vật. Tuy nhiên ở đây chúng ta muốn nhắc với nhau lời cảnh tỉnh của Êlia với dân Chúa xưa khi họ vì theo hoàng hậu nên bỏ Giavê mà tôn thờ thần Baal: “Các ngươi đi hàng hai cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa thì hãy theo Người; còn là Baal thì cứ theo nó!” (1V 18,21). Phải rõ ràng, không được lập lờ kiểu nước đôi khi phải đối diện với chân lý. Dân Do thái thời bấy giờ không bỏ Giavê nhưng lại tôn thờ thần Baal.
Sau khi đã cho dân chúng no nê bánh và cá, Chúa Giêsu cũng đã rõ ràng với đoàn dân theo Ngài: “Các người tìm ta chỉ vì cái bụng của các ngươi. Hãy ra sức làm việc vì của ăn đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,27). Để sống thì cần phải có lương thực cơm bánh, nhưng hơn các loài vật, con người không nguyên chỉ sống bằng cơm canh cá thịt. Đây là một chân lý mà lắm khi chúng ta tránh né cách này hay cách khác. Cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý, thế mà lắm khi chúng ta không dám đối diện với sự thật này. Tin thì vẫn cứ tin nhưng ta vẫn cứ hàng hai trong cách sống. Tin Chúa thì vẫn tin, bỏ đạo thì không không dám bỏ nhưng ta lại cứ sống như người không biết Chúa, không tin Chúa. Ta vẫn cứ bon chen cách tinh quái, hơn thua cách xảo quyệt như người đời. Một kiểu đi hàng hai như dân Do Thái thưở nào.
2. Công bố chân lý nhiều khi phải chấp nhận sự lẻ loi: Nói lên sự thật về căn bệnh giả dối trong giáo dục nước nhà ta, nhà giáo Đỗ Việt Khoa đã từng cảm nghiệm sự cô đơn, lẻ loi. Elia mặc dù chiến thắng các sư sãi Baal cách oanh liệt trên núi Cácmêlô thế mà vẫn phải chịu cảnh đơn chiếc một mình. Trước sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben, Ngài đã phải trốn chạy vào trong hoang địa. Vị ngôn sứ đã như thất vọng và thầm xin: “Lạy Chúa, đủ rồi! Xin cho con chết quách đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Số phận của những người làm chứng cho chân lý rất lắm khi như vô vọng vì thấy công sức của mình thật như muối bỏ biển. Chúng ta đừng quên, nhà giáo Đỗ Việt Khoa khi mạnh dạn nói lên sự thật về chuyện gian dối trong thi cử ở Hà Tây cũng từng có tâm trạng này.
Khi trình bày sự thật về đám dân theo Ngài và về căn tính của chính mình, chắc hẳn Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm sự lẻ loi, cô đơn cách nào đó. Tin Mừng tường thuật khi nghe Chúa Giêsu giới thiệu Ngài chính là bánh ban sự sống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài là của uống đem lại sự sống trường sinh thì dân chúng đã bỏ Ngài mà đi, kể cả nhóm môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Còn chúng con, chúng con có bỏ Thầy mà đi không?” Đằng sau câu hỏi nay hẳn nhiên bàng bạc một nổi buồn cô đơn. Ôi, số phận của người rao truyền chân lý! Sợ phải một mình, sợ phải cô đơn, chắc chắn sẽ khó mạnh dạn nói lên sự thật, sẽ khó can đảm làm chứng cho chân lý.
3. Bảo vệ chân lý thì không bao giờ đơn độc, vì chân lý là tuyệt đối nên luôn có người tiếp nối để bảo vệ, để rao truyền: Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý. Êlia những tưởng mình đơn độc trong cuộc chiến vì chân lý nhưng ông có ngờ đâu, vẫn còn đó 7000 người không hề bái lạy thần Baal. Nỗ lực bảo vệ chân lý của ngài ngôn sứ không hoài công vì sẽ có đó sứ ngôn Êlisêu tiếp bước Ngài, sẽ có đó Giêhu, con của Nimsi thay thế Akhap. Điều này thì Chúa Giêsu biết rõ hơn Êlia. Bánh sự sống, bánh ban sự sống đời đời mà Chúa Giêsu ban tặng sẽ mãi mãi ở với nhân loại qua nhóm Muời Hai và những người kế vị cũng như những người cộng tác. “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Chính lời này nhắc nhở chúng ta rằng luôn có đó, luôn còn đó người rao truyền chân lý, ngưòi bảo vệ chân lý, vì chân lý thì bất diệt, chân lý thì không thể bị dập tắt.
Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta (x.Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời. Cuộc đời con người không chỉ có ở đời này. Giêsu là Chân Lý. Lời Ngài là Chân lý và là sự sống. Thịt Máu Ngài là lương thực trường sinh. Đã tin thì xin đừng có đi nước đôi, xin đừng “bắt cá hai tay”, lập lững, nửa vời. Cũng xin hãy cầu nguyện cho những ai rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý được kiên vững trong gian truân, bền chí trong khi gặp thất bại, nhất là nhẫn nại khi thấy mình lẻ loi.
Rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý là một bổn phận của Kitô hữu. Thánh tông đồ dân ngoại đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9,16). Trước Thượng Hội Đồng Do Thái năm nào, Phêrô và Gioan đã khẳng khái rằng phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta vì các ngài không thể không nói lên sự thật mắt thấy, tai nghe (x.Cvtđ 4,18-20). Xin đừng viện cớ sự “khôn ngoan” để che giấu lối sống nửa với hay nước đôi.
Một hiện thực của cuộc đời: Không ai được ở mãi trên các tầng mây. Sau phút giây vinh quang, thành TN 19-B128
Một hiện thực của cuộc đời: Không ai được ở mãi trên các tầng mây. Sau phút giây vinh quang, thành công, sốt sắng là một chuỗi ngày vất vả, truân chuyên lẫn nhàm chán của đời thường, và chưa kể đến biết bao trở ngại phải đương đầu và cả những thất bại phải chuốc lấy cách này cách khác. Thời kỳ sốt mến sau ngày chịu chức linh mục, giai đoạn thánh thiện sau ngày tuyên khấn trong Hội dòng, tháng ngày mặn nồng sau lễ hôn ước, khoảng thời gian sau khi nhận một nhiệm sở, một chức vụ…sao mà chẳng thể được lâu. Thế rồi ta phải hạ cánh với các cảnh ngộ cuộc đời dù chẳng mong và thường không như ý.
Cảnh ngộ của Ngôn sứ Êlia qua bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật XIX TN B là một minh chứng. Trước mặt vua Akhap, một mình thách đấu với 450 ngôn sứ thần Baal trên núi Carmel, ngài Êlia thật can trường và đáng khâm phục. Êlia đã chiến thắng, khi cầu khẩn Thiên Chúa và được Người nhậm lời cho lửa từ trời xuống thiêu hủy lễ vật. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải tôn thờ, ngoài Người ra, tất thảy đều là “sản phẩm do tay loài người làm nên”. Êlia hãnh diện về niềm tin của mình. Ngài phấn khởi về chiến công của mình.
Thế nhưng Êlia đã phải lập tức rời bỏ vinh quang của chiến thắng lẫy lừng ấy để chạy trốn khỏi sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben. Chỉ mỗi một tiểu đồng cùng chung cảnh ngộ với ngài. Nhưng khi vào sa mạc, thì ngôn sứ Êlia chỉ còn một thân một mình. Một mình một thân trong cảnh tình của kẻ chiến bại giữa hoang mạc khô cằn. Êlia buồn bã, thất vọng, Ngài xin Chúa cất mạng sống mình đi: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! bây giờ, xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Thành công thì chốc lát, nhưng khó khăn, cảnh gập ghềnh thì ít thoảng qua. Cuộc đời làm con Chúa, cuộc đời người tông đồ không ít lần rơi vào cảnh “đêm tối của đức tin”. Tha nhân vẫn có đó mà ta như bước đi một mình. Như Êlia, đã đôi lần ta muốn thiếp ngủ đi.
Chúa lại đến đánh thức ta. “Chổi dậy mau, vì đường vẫn còn xa!”(x. 1V 19,7) Thiên Chúa không để một ai chịu thử thách quá sức mình. “Ơn Ta đủ cho con” (x.2 Cor 12,9). Nguồn trợ lực không phải ở dưới trần này mà là từ trên cao. Khi trao cho vị ngôn sứ bánh và nước, sứ thần muốn khẳng định với Êlia và với chúng ta rằng Chúa chính là nguồn sống đích thực đời ta, là năng lực giúp ta tiến bước trên cõi lữ thứ này.
Nguồn sống từ trời cao không còn là thứ bánh vật chất thưở nào cho dân đi trong hoang mạc 40 năm về đất hứa hay cho Êlia đủ sức tiếp bước trong 40 ngày để đến núi Horeb gặp Chúa. Nguồn sống ấy nay đã được tỏ bày cách minh nhiên là chính Đấng từ trời xuống, Giêsu Kitô. “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 50-51). Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày một sự thật cho dù nó đi ngược với quan niệm thời bấy giờ. Người Do Thái vẫn hằng quan niệm ăn thịt ai, là xem người đó như kẻ thù (x.Tv 27,2; Dcr 11,9), và uống máu là một trọng tội đáng bị tru diệt (x.St 9,4; Lv 3,17; Dnl 12,23). Chắc chắn Chúa Giêsu biết rõ điều này, thế mà Người vẫn minh nhiên công bố thì ta đủ thấy tầm quan trọng của chân lý được tuyên.
Khi tuyên bố mình chính là bánh hằng sống, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là nguồn sống của chúng ta. Ai muốn được sống, sống đời đời thì phải đón nhận Người, vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người. (x.Ga 14,6). Người là lẽ sống, là nguồn sống của đời chúng ta. Người là nguồn trợ lực giúp chúng ta vững trước trước gian nan, khốn khó. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Thực tế đã có đó nhiều người vững vàng trong cảnh lao tù, khốn khó, nhờ sức mạnh của Thánh Thể Chúa. Đã có đó nhiều vị tông đồ lấy lại được sức mạnh mà kiên trì với sứ mệnh nhờ những phút giây hiện diện trước Thánh Thể. Cành nho chỉ có thể sinh trái, đơm hoa nhờ kết liền với thân nho. Không có Người thì chúng ta chẳng thể làm được sự gì tốt đẹp (x. Ga 15,1-8). Kitô hữu chúng ta ít nhiều đều xác tín và cảm nghiệm chân lý này ngay trong cuộc đời của mình.
Sau khi Chúa Kitô truyền hãy cầm lấy bánh mà ăn, hãy cầm lấy chén mà uống, thì Người đã truyền rằng hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (x. 1Cor 11,23-25). Đón nhận Chúa Kitô là bánh hằng sống, là lương thực trường sinh, là nguồn trợ lực trong những cơn gian nan, khốn khó, cô đơn, thất vọng, để có thể tiếp tục hành trình dương thế, thì chính chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh trao ban sự sống, nguồn trợ lực cho tha nhân. Thiết tưởng cũng thật cần thiết kiểm điểm xem sự hiện diện của chúng ta có đem lại sự bình an, sức sống, nguồn trợ lực cho những người mà chúng ta gặp gỡ hay đang chung sống với chúng ta như thế nào?
Êlia, vị ngôn sứ dùng cả cuộc đời mình để chiến đấu chống lại sự thờ ngẫu tượng đang lan rộng TN 19-B129
Êlia, vị ngôn sứ dùng cả cuộc đời mình để chiến đấu chống lại sự thờ ngẫu tượng đang lan rộng trong thời kỳ đó. Điều này dẫn ông đến chỗ xung đột với hoàng hậu I-da-ven là người muốn giết ông. Vì thế ông đã chạy trốn vào trong sa mạc để thoát nạn. Nhưng ở đó ông bị nỗi phiền muộn dày vò. Ông đã cho đi tất cả, giờ đây ông cảm thấy mình kiệt sức. Vì thế ông phủ phục xuống đất và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi phiền muộn sẽ không còn nữa.
Êlia có lẽ là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Tuy nhiên ở đây, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ và chỉ muốn chết. Thay vì sửng sốt khó chịu bởi việc đó, chúng ta không nên bận tâm. Êlia là một vĩ nhân. Nhưng sự cao cả vĩ đại không thể được phong tặng, người ta phải thực hiện nó. Và khi thực hiện sự cao cả, vĩ đại, người ta không tránh khỏi những khó khăn, trái lại còn phải đương đầu và vượt qua chúng. Nhưng cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những lúc yếu đuối, sợ hãi, hồ nghi như tất cả chúng ta.
Êlia đã chạy trốn khỏi những gì đuổi theo ông. Nhưng thay vì đáp ứng mong ước của ông. Thiên Chúa đã sai một thiên thần mang lương thực và nước uống đến cho ông. Biến cố này không hẳn là một sự kiện siêu nhiên. “Thiên thần” có lẽ là người tôi tớ của ngôn sứ và ông đã để lại phía sau không xa. Dù gì, đó cũng là một cách diễn tả sự chăm sóc mà Thiên Chúa đã dành cho Êlia. Trong bất cứ tình huống nào, được lương thực từ trời làm mạnh sức, Êlia có thể tiếp tục lên đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.
Ở núi Khô-rếp ông đã có một kinh nghiệm về Thiên Chúa. Mục đích của kinh nghiệm này không phải để khuyến khích ông đào tẩu, thoát ly, nhưng để an ủi và làm ông thêm mạnh mẽ để có thể trở về và đối đầu với tình trạng lộn xộn và nguy hiểm ông đã để lại phía sau. Và đó chính xác là điều ông đã làm.
Cầu nguyện và tôn giáo không có nghĩa là một sự đào tẩu khỏi đời sống nhưng để được giúp đỡ đối đầu với nó. Chúng ta thường xuyên quay về đời sống cầu nguyện và các bí tích từ cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa mỗi ngày và trong nỗ lực sống đời Kitô hữu. Tuy nhiên không phải để trốn tránh và đào tẩu, nhưng để được tái tạo và đổi mới lòng can đảm và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể lại dấn thân vào cuộc hành trình.
Tôn giáo là để an ủi chúng ta trong những lúc phiền muộn và những khi đau buồn. Nhưng nếu tôn giáo không làm hơn thế, thì trong trường hợp ấy, tôn giáo không bao hàm nguy cơ và sự căng thẳng. Nó phải đem lại một điều gì để nâng chúng ta lên, một lý do tốt để chúng ta thêm mạnh mẽ. Tôn giáo phải thách thức và kéo căng chúng ta khỏi những giới hạn của mình và vượt qua chúng, để sau đó chúng ta có những tiêu chuẩn phán đoán chính mình.
Có một tôn giáo của lòng sùng tín và một tôn giáo của sự cam kết. Đức tin có thể là cây nạng hoặc một đôi cánh.
Đời sống Kitô hữu không nhắm đến đào tẩu thoát ly, những quan điểm mềm yếu, sự an ủi. Nó nhắm đến điều trái ngược với những điều đó. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, mong mỏi điều tốt nhất cho chúng ta, Người không mong chờ điều gì thấp kém hơn.
Thiên Chúa cho chúng ta một lương thực đặc biệt nuôi dưỡng chúng ta. Lương thực mà Êlia nhận được, giúp ông có thể tiến lên núi của Thiên Chúa. Lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong thánh lễ có thể cho chúng ta năng lực tiến lên trên con đường đến Nước trời vĩnh cửu.
Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng TN 19-B130
Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng cháy, đói khát, vất vả. Họ muốn quay lại Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã ban bánh Manna từ trời rơi xuống cho họ ăn và nước từ tảng đá hóa cương chảy ra cho họ uống.(x Đệ Nhị Luật 8, 2-3, 14b-16a).
Tiên tri Elia tìm đến núi Horeb còn gọi là Núi của Thiên Chúa để trốn thoát sự truy lùng của Vua Ai cập. Ông phải mất 40 ngày đêm đói khát trong hoang địa đến độ kiệt sức và nản chí nói “Đủ rồi đó Chúa ơi! Chúa cất mạng tôi đi”. Nhưng Thiên Chúa đã sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông để ông đủ sức tiến về núi Thánh (x I Rg 19:7)
Những người ăn Manna và cả Elia ăn bánh của các Thiên thần, thảy đều đã chết. Đúng như lời Chúa Giê-su nói hôm nay: “Ta là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
Thịt và Máu
Bánh và Nước của Cựu Ước là hình ảnh tiên báo Chúa sẽ ban loại Bánh và Nước mới trong Tân Ước, chính là Thịt và Máu của Chúa Giê-su, như chính Chúa đã nói: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời . Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã thực hiện điều Ngài đã nói trên đây, khi Ngài cầm tấm bánh, nâng chén rượu đọc lời chúc tụng và trao cho các tông đồ: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình ta, sẽ bị nộp vì các con” “Hãy cầm lấy mà uống vì nầy là Máu ta, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”
Ngay sau đó, Ngài còn ủy thác cho các tông đồ “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Đó là lễ phong chức linh mục đầu tiên trong Hội Thánh Công Giáo. Như vậy, ngay sau lời truyền phép của Linh Mục, bánh và rượu đã trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su cho chúng ta ăn và uống để được sống đời đời.
Sự Sống Đời Đời
Nếu Manna đã nuôi dân tiến về Đất Hứa, thì Mình Thánh Máu Thánh Chúa là của ăn của uống cho chúng ta đủ sức tiến về quê trời, về sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy, chính là cung lòng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ấy vậy, mà chúng ta vẫn gọi Mình Thánh Máu Thánh Chúa là “của ăn đàng”, của ăn trên đường đi. Và khi rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, có thể nói, chúng ta rước lấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị trong lòng.
Nếu nhờ Bánh Thiên Thần mà Elia đã đủ sức vượt khỏi sự truy lùng của Vua Ai-cập, thì những ai yêu mến và siêng năng rước lễ cũng đủ sức thắng vượt những cơn cám dỗ, những sự truy lùng của sa tan, của tội lỗi, để xứng đáng hưởng sự sống đời đời.
Sự sống đời đời mà chúng ta nhận lãnh nơi Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giê-su, không chỉ là sự sống sau cái chết phần xác, nhưng còn là sự sống trong linh hồn ta ngay lúc nầy, khi còn sống trên dương thế. Đó còn là sự sống đầy tình bác ái huynh đệ của con cái Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giải thích rằng: cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, chúng ta cùng trong một thân thể của Chúa Giê-su Kitô. “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. (x.1cor 10, 16-17)
Lương thực trên đường lữ hành
Theo Thánh Phao-lô, cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, cùng sống trong một thứ “Lương Thực trền đường lữ hành về Quê Trời”, mà từ nhà đạo thường gọi là “Của Ăn Đàng”, chúng ta sống trong cùng một “thân thể”. Vậy nếu Mình Máu Thánh Chúa Giê-su đã trở nên của ăn đàng cho bạn, cho tôi, và trở nên mối dây hiệp nhất tôi bạn và mọi người trong cùng một nguồn sống, thì thiết nghĩ, bạn và tôi cũng phải trở nên “của ăn đàng” cho mọi người.
Tình yêu thương nhau, lòng bác ái, sự khiêm tốn phục vụ anh em là tấm bánh bẻ ra cho đời, là hình ảnh sự sống đời đời đang sống động trong cuộc đời dương thế
Những cố gắng hy sinh của cha mẹ đến độ gầy hư đi, hao mòn đi để bảo đảm cho con cái sự sống phần xác, chắc chắn sẽ mang một ý nghĩa thánh thiện, ý nghĩa hy tế, nếu những hy sinh ấy kết hiệp ước muốn của Chúa Giê-su là chia sẻ của ăn đàng cho nhau, chia sẻ tình yêu cho nhau.
Một chiếc bánh, một chén cháo, một tô hủ tiếu, một viên thuốc, một viên gạch, một tấm áo, một tấm chăn, một vài trăm ngàn đều… có thể có giá trị thánh thiện, và thiết tưởng, chỉ có giá trị thánh thiện khi ta cho đi với sự thôi thúc tự bên trong của Tình Yêu Chúa Giê-su Thánh Thể: Tình yêu đòi dâng hiến, đòi cho đi vì hạnh phúc của người khác.
Thánh Thể Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng, của ăn đàng cho linh hồn, đã cụ thể sống động thành những của ăn phần xác, thành cơm bánh, thành áo mặc, thành nhà cửa, thành thuốc men, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, thành những của lễ dâng trong thánh lễ thường ngày mà bạn và tôi đang cử hành trên hành trình dương thế.
Thánh Phaolô còn cụ thể tấm bánh bẻ ra ấy bằng một đời sống yêu thương, hiền hòa: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4, 30) và “hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta”. (Ep 5, 2)
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa đã ban Thịt và Máu Chúa cho linh hồn chúng con được sống và sống đời đời. Xin cho chúng con biết sống trước đời sống phục sinh ngay trên dương gian này bằng việc vui lòng trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống, bằng tình yêu thương, bác ái và hiệp nhất huynh đệ trong Chúa. Amen.
Lời Chúa trong sách Các Vua kể với chúng ta việc ông Êlia chạy trốn vua Akáp. Là người thực thi TN 19-B131
Lời Chúa trong sách Các Vua kể với chúng ta việc ông Êlia chạy trốn vua Akáp. Là người thực thi sứ mạng Chúa trao, ngôn sứ Êlia đã nhiệt thành can đảm, dám đương đầu với 450 tiên tri của thần Baal. Kết quả là 450 tiên tri này đã bị giết chết. Sự thua cuộc bẽ bàng đã khiến cho hoàng hậu Zerabel nối giận và thề giết cho được Êlia. Nghe tin dữ đó, Êlia đã chạy trốn. Trong tâm trạng buồn chán, ông xin Chúa cho mình được chết đi. Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai dấn thân phụng sự Ngài. Chính vào lúc Êlia đang buồn chán thì Chúa can thiệp. Ngài đã sai sứ thần đem đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ bánh và nước này mà vị ngôn sứ của chúng ta có đủ sức trong 40 ngày trên đường tiến về núi Horeb. Bánh và nước đã ông sức mạnh để tìm về núi Hôreb, là núi của Thiên Chúa, để tìm ở đó nguồn sức mạnh.
Nếu ngôn sứ Êlia được Chúa nuôi dưỡng trên đường lên núi Horeb ngày xưa, thì hôm nay Chúa cũng đang nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình trần thế. Cuộc sống của con người, theo nhãn quan Kitô giáo, cũng là một hành trình vượt sa mạc để lên núi của Thiên Chúa. Cuộc hành trình và lên núi này đòi hỏi chúng ta phải có đủ sức mạnh thể lý và tinh thần, vì đây là hành trình đầy gian nan và cám dỗ. Lương thực mà Chúa ban cho chúng ta chính là Thánh Thể và Lời Chúa. Nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên này mà chúng ta có thể tiến bước trong bình an và hạnh phúc.
Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người sẽ ban. Người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu nói tới. Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống. Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là chính Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người. Nếu màu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14), thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51). Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm. Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế. Đây là lương thực thiêng liêng, là lương thực giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày trong hành trình lên núi của Thiên Chúa về quê trời.
Cơn đói bánh là nỗi lo của con người mọi thời đại. Những xung đột và chiến tranh xảy ra cũng nhằm để giải quyết cơn đói này. Đâu là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nhắn gửi nhân loại, khi hiến trao thân mình Người cho chúng ta? Đó là sứ điệp của sự sẻ chia, dấn thân phục vụ. Thánh Thể là bài học yêu thương. Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự và trao phó cho con người quản lý. Nếu biết phân phối công bằng, thì của cải trên thế giới đủ để nuôi sống tất cả mọi người. Nghèo đói, bất công là con người ích kỷ, chỉ biết chiếm hữu cho mình mà quên tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Sự phân phối bất công của cải vẫn tồn tại, tạo nên tình trạng tội lỗi mang tính xã hội, tình trạng ấy kêu thấu trời xanh và làm cho quá nhiều anh chị em chúng ta không có khả năng đạt được một cuộc sống đầy đủ hơn.”Nghĩa cử quảng đại chia sẻ sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc, vì “Chỉ khi nào biết xả thân cho người khác, chúng ta mới thành công trong đời sống và mới cảm nghiệm được nỗi vui mừng của Thiên Chúa”(Michel Quoist).
Được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể, cuộc đời người Kitô hữu phải được canh tân. Thánh Phaolô nói với giáo dân Êphêsô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô”. Vị Tông đồ dân ngoại cũng khuyên các tín hữu hãy chia sẻ quảng đại theo gương Đức Giêsu: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.” (Bài đọc II).
Trong những ngày này, qua các phương tiện thông tin, chúng ta được biết có hàng ngàn hàng vạn người dân nghèo vội vã rời bỏ các đô thị có dịch để trở về quê, tránh đại dịch Covid-19. Nhiều cảnh đời rất đáng thương, vạ vật bên đường. Không chỉ những người trên đường về quê, có nhiều nơi đang phải cách ly, phong toả và giãn cách. Họ đang cần lắm những “sứ thần” mang đến cho họ sự giúp đỡ. Nếu không có khả năng giúp đỡ vật chất, chúng ta đều có thể cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho những người nghèo khó và đau khổ được ơn nâng đỡ nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên. Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, Chúa có thể làm những điều kỳ diệu để nâng đỡ chúng ta. Ngài chính là nghuồn trợ lực siêu nhiên đối với những ai tin tưởng trông cậy nơi Ngài, như tác giả Thánh vịnh chia sẻ với chúng ta: “Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ”.
Sợ người có chức quyền, thích làm bạn với kẻ sang giầu, nể phục bậc hiền tài, kính trọng người đức TN 19-B132
Sợ người có chức quyền, thích làm bạn với kẻ sang giầu, nể phục bậc hiền tài, kính trọng người đức độ, uy tín, không phải là điều khó hiểu nơi cuộc sống đầy phức tạp này. Người xưa có những kinh nghiệm hết sức cao quý: cho dù con đi trật đường sai hướng lâu như thế nào, con luôn có lựa chọn quay đầu trở lại. Khôn ngoan tài giỏi, tỉ lệ thành công bao giờ cũng cao, người khiêm tốn, chân tình, chắc chắn sẽ có nhiều bạn hiền, nhưng tất cả đều phải chịu trách nhiệm về sự tự do của mình. Hãy chịu khó, chứ đừng khó chịu. Dù biết và hiểu quy luật: sinh – lão – bệnh – tử, nhưng ai cũng được mời gọi sống sao cho có tình có nghĩa, để không phải hổ thẹn với tổ tiên thiên địa. Hãy vui vẻ với điều kiện, khả năng ta đang có, nhưng chớ đòi người khác phải dành ưu ái cho mình.
Đám đông dân chúng xưa kia có bước khởi đầu đến với Đức Giêsu rất mông lung, rồi bước kế tiếp họ được nghe, được xem thấy phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ, được no cơm bánh, được vừa đủ tình yêu thương, mở ra một tương lai hạnh phúc thật lớn cho họ. Đừng nghi ngờ lòng tốt của cha mẹ, hãy tin Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, dù mắt xác phàm và tâm trí của ta còn nhiều giới hạn. Biết tìm kiếm sự sống đời đời, biết thao thức có được “Bánh trường sinh”, quả thực, bạn đã là người khôn ngoan rồi. Tài giỏi hơn một chút ở đời này, họ sẽ áp dụng tiêu chí: ai thương, ta tìm tới, ai ghét, ta lánh thân. Hạnh phúc hơn nữa, là ai nghe, hiểu, tin, và biết thực hành lời Đức Giêsu phán dạy: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”, thì quả là tuyệt vời.
“Hãy tin tôi”, cơm bánh vật chất chỉ nuôi được thân xác, Bánh Giêsu, mới đúng thật là thứ bánh mang lại sự sống đời đời. Mỗi người trước hết, tự mình phải trả lời có thứ bánh trường sinh bất tử không ? Khi đủ khôn để gật đầu thưa có, hẳn ta đừng “lăn tăn” đòi hỏi một kiểm chứng, hãy tin lời sách tiên tri quả quyết: “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo”. Người “si tình” thường được diễn tả hết sức dại khờ: hãy yêu tôi, nếu không tôi sẽ chết. Kẻ độc ác lại điên khùng nói: hãy yêu ta, nếu không ta sẽ giết ngươi ! Đức Giêsu không ủy mị, không bạo lực, Ngài mở ra cho mỗi người sự tự do chọn lựa: “thật, Ta bảo thật các ngươi: ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống”.
Hãy tin tôi, có phải là ưu tư của bạn không ? Vâng, tin và sống niềm tin “Bánh Giêsu”, chính là thao thức của người khôn ngoan biết tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm sự sống đời đời, dù họ không có cơ hội để truyền kinh nghiệm cho ta. Nhà vật lý “đại tài” Ac-xi-met, có một câu khá thuyết phục: hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên. Bậc thánh hiền không cần phải “đại tài”, nhưng phải “đại đức”, người tin Đức Giêsu không cần “đòn bảy mưu trí”, nhưng cần “điểm tựa Giêsu”, qua đó, ta sẽ thắng được tính kiêu căng và nết xấu của mình, hầu đạt tới niềm vui bất tử trong tình yêu Giêsu. Hãy tin Đức Giêsu là bánh trường sinh, tin giáo hội được Đức Giêsu thiết lập trên nền tảng yêu thương và hiệp nhất, tin sự hiện diện của Đấng Kitô nơi người anh chị em mà ta gặp gỡ.
Sách có câu: đừng lấy dạ tiểu nhân để đo lòng người quân tử ! Cũng vậy, người ta không thể lấy tiền của và tình yêu thương, đổ đồng như nhau, bằng nhau. Không ai có thể lấy cơm bánh để nuôi linh hồn, hoặc lấy bánh tình thương để nuôi thân xác. Không ai lại lấy danh lợi thú ở đời, mà so sánh với giáo huấn của Đức Giêsu. Tin Đức Giêsu là bánh hằng sống, không phải ta sẽ có một cuộc sống dễ dãi, nhưng tin yêu Đức Giêsu là sống tình liên đới, hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu, hầu được dẫn dắt tới niềm vui hạnh phúc đời đời. Cơm áo gạo tiền nuôi xác, không ai thắc mắc làm gì, bánh Giêsu nuôi hồn, đem lại sự sống đời đời, không hề dễ đối với những ai cậy dựa vào năng lực tính toán của mình. Người Do-thái tìm đến Đức Giêsu hay nhân loại tìm đến Đức Giêsu, đều tùy thuộc vào tình yêu, niềm tin và hành động riêng nơi mỗi người.
Hãy tin tôi, nếu bạn không thể là mặt trời, xin cũng đừng có ý tưởng là đám mây. Đức Giêsu chiếu soi vào từng tâm hồn mỗi người một ơn ban: của ăn nuôi xác và của ăn mang lại sự sống trường tồn, đều phát xuất bởi tình yêu Thiên Chúa. Gặp Đức Giêsu bằng mắt xác thịt, bằng mắt đức tin, nghe Đức Giêsu giáo huấn trực tiếp hay gián tiếp, đều là ơn ban, là cơ hội để giúp con người đạt tới đức ái vẹn toàn. Biết Đức Giêsu là con bác thợ mộc thì không sai, tin con bác thợ mộc là Thiên Chúa cứu độ, là Bánh trường sinh, nhất định phải trải qua giai đoạn biến đổi tâm tính, thay đổi lập trường sống tín thác vào Đấng đang hiện diện. Trường sinh bất tử hay trẻ mãi không già, là mơ ước đúng, đẹp, nhưng nếu chỉ dừng lại ở khao khát vu vơ, sao được gọi là khôn ngoan, là tin yêu ? Phân biệt bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể là Bánh Giêsu, là của ăn nuôi hồn, còn mở lòng ra bày tỏ niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, tùy tự do của từng người chúng ta. Amen.
Chúng ta sẽ cảm nhận bài Tin Mừng sâu hơn khi quay lại với bối cảnh thời Cựu Ước, lúc Ítraen TN 19-B133
Chúng ta sẽ cảm nhận bài Tin Mừng sâu hơn khi quay lại với bối cảnh thời Cựu Ước, lúc Ítraen vừa đặt chân vào đất Canaan. Ở đó đã có sẵn một tôn giáo thờ thần Baan, là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của sự phú túc. Đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống nông nghiệp lúc bấy giờ. Thế là Irael bắt đầu tiêm nhiễm thứ đạo ngoại lai ấy, và ngày càng gia tăng cho tới thời vua Akhát.
Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đức tin, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật: Giavê hay Baan? Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa, và phép lạ đã xảy ra. Điều đó cho thấy Thiên Chúa của Ítraen mới là Chúa tể các năng lực thiên nhiên, và là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17- 40). Thế nhưng sau đó, Êlia phải chạy bán mạng trước sự trả thù của Ideven. Trên đường trốn tránh, Êlia đói lã, chán nản, thất vọng, nên xin cho mình chết đi. Sứ thần Chúa đã mang đến cho ông bánh và nước. “Nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrép, ông được gặp Đức Chúa, lấy lại được niềm tin và sức mạnh tinh thần để tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Các Giáo phụ nhận ra những chiếc bánh mà sứ thần đem đến cho Êlia là hình ảnh tiên báo về phép Thánh Thể, để nuôi dưỡng tín hữu trên đường về quê trời. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như chiến sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của sự nỗ lực từ bỏ nếp sống trần tục, đi vào trong thinh lặng nội tâm để tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng ban lương thực trường sinh.
Lương thực trường sinh đó chính là Đức Giêsu, Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, và Ngài đã nói rõ cho người Do Thái biết: “Tôi là bánh từ trời xuống… là bánh trường sinh”. Người ta khó mà lãnh hội được ngay mạc khải sâu nhiệm ấy? Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Con cái Ítraen cũng đã từng xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao ban. Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái một lần nữa xầm xì, nói lên sự hoài nghi của họ về con người của Đức Giêsu. Đối với họ, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình mà không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên những lý lẽ như vậy, người Do Thái thấy mình hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.
Ngài liền cho họ biết: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Quả thật, nếu người Do Thái dám để cho lòng họ mở ra với những dấu chỉ của Thiên Chúa, họ sẽ được lôi kéo đến với Đức Giêsu. Ngôn sứ Isaia đã từng nói: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ này về phía bên ngoài cho thấy chính Đức Giêsu đang ở giữa họ, và phía bên trong là Thiên Chúa đang hành động trong trái tim họ, nhưng rồi họ vẫn khép lòng mình lại. Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: vấn đề không chỉ là tin vào Ngài để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói về Bí tích Thánh Thể, nhưng còn muốn nêu bật giá trị cái chết của Ngài trên thập giá, là chính Ngài hiến dâng mạng sống mình để cho thế gian được sống.
Trường sinh bất tử là ước mơ của con người qua muôn thế hệ, nhưng con người không thể sống mãi với thân xác từ bụi cát này. Nó phải trở về cát bụi, nhưng cát bụi sẽ trở thành con người mới trong sự sống muôn đời, do quyền năng của lòng Chúa thương xót. Sự sống đời đời không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng sự sống linh hồn để ta đủ sức đi về cõi trường sinh.
Cầu nguyện
Lạy Cha là Thiên Chúa! Dù trước mắt sự thật đã rành rành, nhưng rồi thiện ác vẫn phân tranh, người lành vẫn luôn bị xử tệ, kẻ dữ xem ra luôn thắng thế.
Ai bảo vệ sự thật đều điêu đứng, ngôn sứ Êlia cũng buồn sầu thất vọng, chỉ khi được ăn bánh của thiên thần, mới tiếp cuộc hành trình đầy phấn chấn.
Chúng con cũng băng qua sa mạc đời, phải đối đầu với thử thách không ngơi, nhất là trước lòng dạ của người đời, khiến chúng con phải nhiều phen chới với.
Dù tuổi trẻ hăng say và mạnh mẽ, nhưng rồi cũng lắm kẻ phải buông xuôi, khi không được chia sẻ nỗi ngậm ngùi, một mình phải thui thủi trong sầu não.
May mắn cho đời con có Chúa đây, Đấng không chỉ ở trên chín tầng mây, Đấng không chỉ ở Lời Ngài phán dậy, mà còn chính Đức Giêsu Con Cha nữa, là Tấm Bánh Cha ban xuống cho nhân thế, bánh trường sinh là Thánh Thể nhiệm mầu.
Ít khi con cảm nhận sự thâm sâu, sức mạnh linh thiêng của Mình Máu Chúa, là sự sống không tàn úa của đời con, bao lần con đón nhận như thói quen, khiến tâm trí đời con vẫn khô cằn, thiếu sức mạnh vượt qua những khó khăn.
Xin cho con lòng cảm mến vô vàn, ân huệ cao vời mà Cha đã thương ban, để con hân hoan vững bước đường đi tới, về nơi vinh phúc chốn quê Trời. Amen.
Saigon đang dịch bệnh bùng phát, sự dữ lan tràn, nhưng ta lại nghe kể nhiều về những nghĩa cử TN 19-B134
Saigon đang dịch bệnh bùng phát, sự dữ lan tràn, nhưng ta lại nghe kể nhiều về những nghĩa cử cao đẹp, về tình cảm tốt, thái độ tử tế, và tấm lòng rộng rãi của người này người kia đối với người, với nơi bị phong tỏa , chúng ta gọi đó là lòng tốt của sự thương cảm giữa người với người dành cho nhau.
Ở lúc khó khăn này người ta mới thấy cần đến tình người để bao bọc, để chia sẻ, để nương tựa nhau là cần thiết. Khi Covid chưa đến thì con người xa cách nhau, và luôn cảm thấy đồng tiền và quyền lực sẽ bảo vệ mình, và sẽ cho mình một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Rồi bỗng nhiên một buổi sáng ngôi nhà bị phong toả, con hẻm bị giăng dây, và có khi cả khu phố bị rào chắn, tự dưng mình lại trở thành như những tù nhân thiếu thốn mọi sự, hoang mang đủ điều . . . Lúc này, con người mới thấy cần lắm tình người dành cho nhau, giầu nghèo lúc này đều như nhau. Có tiền cũng không mua được tiện nghi cho mình. Có quyền lực cũng không cho mình sự bình an. Con người thực sự cần đến bình an.
Nhưng có thật là khi con người quây quần bên sẽ mang lại bình an cho nhau không?
Thưa không, vì những sự quan tâm chia sẻ cho nhau chỉ làm giảm bớt lo lắng và phần nào yên tâm về thể lý, hoặc tâm lý. Nó không mang lại bình an thực sự. Sự bình an thực sự chỉ có ở nơi Đấng có thể chiến thắng sự dữ mới giúp cho con người an toàn khi nương nhờ nơi Ngài.
Đó chính là lòng xót thương của Thiên Chúa. Con người lúc này cần Thiên Chúa xót thương và giải cứu. Cần Thiên Chúa cúi xuống để che chở. Cần Thiên Chúa cúi xuống để băng bó vết thương cho con người. Đây là điều mà Chúa Giê-su đã mặc khải cho thánh nữ Maria Faustina về sự bình an cho thế gian chỉ có khi nào con người quay trở về nương ẩn nơi Lòng Chúa Thương Xót . Trong NK LTX số 699 viết:
“Các linh hồn đừng sợ đến gần Cha, ngay cả khi tội lỗi nó đỏ tươi như máu. Lòng thương xót Cha rộng rãi vô biên đến nỗi trí khôn của con người hoặc của thiên thần cũng không có thể đo lường được. Nhân loại sẽ không được bình an cho đến khi chúng quay về Suối Nguồn Tình Thương của Cha”.
Nhìn vào cuộc Cuộc đời dương thế của Chúa Giê-su đã chứng minh Ngài đến để mang bình an cho nhân thế. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.
Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Ứơc gì nhân loại hôm nay tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa và quay trở về nương ẩn nơi Lòng Thương Xót Chúa để được cứu chữa. Ước gì khi chúng ta nhận ra Lòng Chúa Thương Xót dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình. Amen
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục nói với ta về diễn từ “Bánh hằng sống”. Người chính là bánh hằng TN 19-B135
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục nói với ta về diễn từ “Bánh hằng sống”. Người chính là bánh hằng sống dưỡng nuôi nhân loại. Người chia sẻ với ta cơn đói thể xác khi hóa bánh nuôi dân chúng, Người cũng dẫn ta hướng đến một thứ lương thực dưỡng nuôi linh hồn ta, đó chính là Mình và Máu Thánh Người. Để khi được rước chính Thánh Thể Chúa, ta sẽ được no thỏa, được tham dự vào sự sống thần linh, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57).
Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 41-42). Họ lại tập trung cái nhìn của mình về nguồn gốc, xuất thân của Thầy Giêsu. Họ nghĩ rằng mình biết rõ về ông Giêsu này, và họ hoài nghi về lời Chúa Giêsu mạc khải cho họ. Trong dịp về thăm quê, Chúa Giêsu cũng đã đứng lên đọc sách Thánh, giảng lời cho dân chúng nhưng những người đồng hương đã không tin Người, vì họ biết quá rõ về xuất thân của Người. Cũng giống như những người Do thái này, ta tự khép mình trong những suy nghĩ hạn hẹp, những thành kiến và cả những ảo tưởng về những người thân của ta hay về những người ta quen biết. Ta luôn nghĩ mình hiểu hết về họ, ta đi guốc trong bụng họ nhưng kỳ thực ta không hiểu họ. Ta dễ xét đoán và khó đón nhận người khác.
Đến với Chúa, đã bao lần ta cũng mang trong mình cách hành xử ấy. Ta chưa mở lòng mình ra trước Lời của Người. Có những bài Tin Mừng chỉ nghe mấy câu đầu, ta đã biết đằng sau đó là gì và ta dừng lại, không nghe nữa, hay tai ta vẫn nghe nhưng không nghe thực sự, vì ta đang chia trí lo ra. Lòng ta không cưu mang lời Chúa. Lắng nghe Chúa là điều rất quan trọng. Mỗi khi ta chia trí lo ra, Chúa Giêsu cũng đang nói với ta: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!”. Ta đang ‘xầm xì” với những bận tâm của ta về công việc, về một người nào đó. Ta cũng nghĩ “mình biết cả rồi” và Lời Chúa trở nên thật nghèo nàn trong tâm hồn ta. Hãy lắng nghe tường tận từng điều Chúa đang nói với ta, ngay trong tâm hồn ta. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 44). Muốn đến với Chúa phải có ơn Chúa. Ơn Chúa vẫn tuôn đổ xuống trên ta, điều cần thiết là ta hãy mở lòng ra trước ân sủng của Người. Chúa Cha vẫn không ngừng lôi kéo ta trong từng phút giây: “Đây là Con ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người” (x. Mc 9, 7). Kinh nghiệm yêu thương trong gia đình cho ta thấy: ta có thể yêu thương người khác dù ta không hiểu hết về họ. Bố mẹ yêu thương con, hy sinh cả cuộc đời cho con. Dù có lúc, những đứa con than trách rằng bố mẹ không hiểu mình, nhưng dù không hiểu hết về con nhưng tình yêu họ dành cho con thì không hề suy giảm. Yêu thương là điều kiện để giúp ta đến với người khác. Càng yêu họ bao nhiêu, ta sẽ dần hiểu hơn về họ, và ta đón nhận họ như họ là. Hãy yêu mến Thiên Chúa bằng cả con người mình, ngay trong chính những yếu đuối và giới hạn của mình. Chính khi yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn của mình, Thiên Chúa là Cha nhân lành sẽ đích thân dạy dỗ ta.
Lạy Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, và cũng là lời hằng sống dưỡng nuôi con! Cảm tạ Chúa đã dưỡng nuôi con bằng Thánh Thể của Người và bằng chính Lời Chúa. Xin Chúa không ngừng thanh luyện tâm hồn con, những ước muốn trong con, để con không bao giờ ước muốn điều mất lòng Chúa. Cảm tạ Chúa đã luôn ban Chúa Thánh Thần cho con, để Người mở ra trong trái tim con một con đường tình yêu, con đường dẫn con đến với Chúa là nguồn sống của linh hồn con. Bất chấp sự giới hạn và bất toàn của con, tình yêu Chúa vẫn không ngừng mở ra cho con những con đường mới, nâng con lên, dẫn con đến với Chúa giữa những bất ổn của thế giới hôm nay. Amen.
Thánh Gioan thuật lại cho chúng ta nghe câu chuyện những người Do Thái xầm xì phản đối khi TN 19-B136
Thánh Gioan thuật lại cho chúng ta nghe câu chuyện những người Do Thái xầm xì phản đối khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Trước sự phản kháng dữ dội của người Do Thái, Đức Giêsu không những không lùi bước mà còn quả quyết hơn về lời tuyên bố của mình. Người mặc khải rõ hơn về chính mình, mặc khải tình yêu của Người dành cho nhân loại: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
“Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Đó là lời loan báo của sư thần Chúa trong đêm Hài nhi Giêsu chào đời. Sau những năm tháng lưu lạc nơi đất khách quê người, gia đình Thánh gia trở về quê hương. Biến cố Giáng sinh của Hài nhi Giêsu dường như chẳng còn ai nhắc đến. Những mục đồng được phúc chiêm ngắm Hài nhi Giêsu năm nào có còn chăng? Cuộc sống ẩn dật nơi ngôi làng Nadaret đã nuôi dưỡng Hài Nhi ấy lớn lên như bao đứa trẻ khác. Bản tính Thiên Chúa dần dần ẩn khuất nơi bản tính con người của Thầy Giêsu. Thật dễ hiểu khi người Do thái thắc mắc: Ông này chẳng phải là ông Giêsu đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ‘Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42).
Giả như chúng ta ở vào thời của Đức Giêsu, khi nghe những lời tuyên bố của Ngài, chắc gì chúng ta đã tin. Thật khó hiểu, khó tin khi một người đang sống với chúng ta tuyên bố rằng chính họ là bánh từ trời, là bánh trường sinh và kêu mời chúng ta đến với họ để ăn “thịt” của họ. Điều đó thật kinh khủng. Kể cả ngày hôm nay, khi nghe những câu chuyện “ăn thịt người”, chúng ta cũng không khỏi ớn lạnh trong mình. Nhưng, quả thực, điều đó có thật. Lời tuyên bố và mời gọi của Đức Giê su vẫn vang lên, thôi thúc chúng ta lắng nghe, đón nhận chân lý mạc khải của Ngài. “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Như xưa Đức Chúa đã dùng bánh nuôi dưỡng ngôn sứ Êlia, giúp ông có đủ sức đi tiếp bốn mươi ngày đêm, nay qua Đức Giêsu, Thiên Chúa tiếp tục nuôi dưỡng mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể, là chính Mình và Máu Thánh của Ngài.
Phải chăng, vì biết rằng, nếu để chúng ta ăn thịt của Ngài theo kiểu ăn thịt của các loài động vật, điều đó thật khó khăn cho chúng ta vì không phải ai cũng có điều kiện để ăn thịt nên Ngài đã sáng kiến biến bánh và rượu, là sản phẩm ruộng vườn trở nên chính Mình và Máu Thánh Ngài. Điều này cũng tựa như việc biến dòng máu nơi người mẹ thành dòng sữa trắng tinh tuyền nuôi đứa con thơ. Dù trong hình thức nào, chúng ta vẫn luôn xác tín rằng, qua bí tích Thánh Thể, chúng ta thật sự được đón rước, được ăn chính Thịt và Máu của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Điều đó cũng xảy ra ngay cả lúc ta đón rước Người một cách thiêng liêng khi tham dự thánh lễ trực tuyến hay bất cứ thời khắc nào trong ngày. Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, chỉ cần chúng ta thật sự khao khát kết hiệp với Ngài, khao khát đón rước Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được phúc đón rước Ngài vào lòng, được nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Thánh của Ngài. Xin cho chúng con, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn biết kết hiệp với Chúa, khao khát Chúa như khao khát được hít thở. Bởi chính Chúa là nguồn sống, là lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để chúng con đón rước Chúa cách hờ hững, theo thói quen hay trong tình trạng tội lỗi nặng nề. Chúng con xác tín rằng, chính Chúa Cha là Đấng đã lôi kéo chúng con đến với Ngài, cùng giúp chúng con sống bác ái, yêu thương nhau trong mọi hoàn cảnh. Amen.
Đã bao lâu rồi, chúng ta không được đến nhà thờ, kể từ khi đại dịch COVID bùng phát lần thứ 4 TN 19-B137
Đã bao lâu rồi, chúng ta không được đến nhà thờ, kể từ khi đại dịch COVID bùng phát lần thứ 4 tại Việt Nam?
Đã bao lâu rồi, chúng ta hít thở khí trời qua chiếc khẩu trang, và giấu mình trong những lớp quần áo bảo hộ khi có dịp đến nơi công cộng?
Đã bao lâu rồi chúng ta sống trong lo lắng, sợ hãi khi nhắc đến F0, F1, F2?
Và hơn bao giờ hết, trong những ngày cuối tháng bảy vừa qua, đã có rất nhiều những cảnh tượng đau thương diễn ra trước mắt chúng ta, dù là trước màn ảnh nhỏ, hay ngay cạnh nhà mình: người người bị đem đi cách ly, dù đó là người già hay trẻ nhỏ, những cảnh chết chóc diễn ra trong buồn bã… Rồi trên những con đường Sài Gòn xô bồ, nhộn nhịp bao đời, giờ im ắng tiếng còi xe. Từng đoàn người tứ xứ vào Sài Gòn lập nghiệp, giờ cũng vội vã trở về quê, mang theo bên mình những rủi ro, vì đường xa, mà lương thực lại ít. Chiếc xe máy chở cả gia đình và những chắc chiu dành dụm bao ngày…Đã bao lâu rồi, chỉ cần được thở thôi mà khó khăn đến vậy?
Tấm Bánh Hằng Ngày- Tình Yêu Thời COVID
Trong những cảnh hỗn độn, đầy hoang mang và chông chênh đó, chúng ta lại thấy tình người thật ấm áp. Những siêu thị mini và những quán ăn không đồng mọc lên, những cửa hàng rau củ không người bán, chỉ có vỏn vẹn tấm bảng ghi dòng chữ: “Ai cần đến lấy!” Rồi trong những ngày Sài Gòn “bệnh nặng”, không làm gì được, thì chúng ta lại bắt gặp những chuyến xe chở thực phẩm từ miền Trung và miền Tây tấp nập vào chia sẻ yêu thương. Những chuyến xe nhân ái ấy đã nuôi sống anh chị em mình từng ngày trong lúc khốn khó. Rồi có người không ngại chạy xe máy vào các con hẻm nhỏ, trao tận tay những ổ bánh mì cho người vô gia cư. Đơn giản vậy thôi, những “tấm bánh hằng ngày” thời COVID.
Tấm Bánh Hằng Sống- Tình Yêu Muôn Đời
Hình ảnh “bánh hằng ngày” này làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh Bánh Hằng Sống mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Cả hai đều cùng một mục đích hướng tới, đó là nuôi sống con người. Tuy nhiên, Bánh Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng không làm từ bột mì, hay từ hoa màu ruộng đất, nhưng là từ chính Mình và Máu Thánh của Ngài. Đối với những tấm lòng quảng đại, thì cho đi những gì mình có không khó. Những trận bão lụt, thiên tai, hay đại dịch vừa qua cho chúng ta xác tín điều đó, và niềm tin vào tình người vẫn luôn đong đầy. Họ có sợ, có lo đó, nhưng tình yêu thương đã giúp họ vượt qua những cảm xúc sợ hãi để dấn thân vì người khác.
Chúa Giêsu, Chúa chúng ta còn hơn vậy nữa. Ngài không chỉ cho những gì Ngài có trong tay, trong tâm trí. Ngài không chỉ muốn dấn thân, mà còn muốn hiến thân cho con người. Bí Tích Thánh Thể là minh chứng cho điều Ngài muốn. “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.” (Ga 6,52). Hằng ngày, nơi nhà tạm nhỏ bé, và trong thánh lễ, chúng ta được nhắc nhở: Có một tình yêu đã hiến thân cho nhận loại, như tấm bánh được bẻ ra và trao ban cho hết mọi người, hầu tất cả được nuôi dưỡng và sống đời đời. Còn cách diễn đạt nào trong tình yêu mà quyết liệt hơn, độc đáo hơn, và tuyệt đối như cách mà Chúa Giêsu đã làm cho con người chúng ta?
Con người Hôm Nay và Lương Thực Hằng Ngày
Tình Chúa là thế. Yêu thương là thế. Gắn bó từng giây phút bên con người là thế. Nhưng đến tận bây giờ, con người vẫn không ngừng hỏi: Thiên Chúa ở đâu trong đại dịch COVID 19? Đọc bài đọc một Chúa Nhật hôm nay, (1V.19, 4-8), chúng ta thấy cuộc đời của tiên tri Ê-li-a như là hình ảnh sống động nhất để chỉ về những gì đang xảy ra nơi anh chị em chúng ta trong những ngày dịch bệnh hoành hành: tuy không nói là bị trục xuất khỏi nơi làm việc, nhưng họ đang phải cuốn gói lên đường trở về quê nhà, một sự trở về vội vã, mạo hiểm. Ăn bờ, ngủ bụi, vất vả nhất là những ai có con nhỏ…
Tạ ơn Chúa là giữa những lúc như vậy, họ không đơn độc. Như Ê-li-a được thiên thần Chúa hiện ra và ban lương thực cho ông. Ông đã được ăn, được uống, và trở nên mạnh mẽ, rồi tiếp tục cuộc hành trình 40 đêm ngày để đến núi Horeb. Ngay lúc này đây, tại quê hương Việt Nam chúng ta, cũng có những thiên thần dễ thương với trái tim và đôi bàn tay hướng về người nghèo, người lâm cảnh túng thiếu. Họ chia sẻ những tấm bánh, chai nước trên đường đi. Những trái tim và những đôi bàn tay đó chính là hiện thân của Chúa, để đồng hành cùng những ai vất vả dặm trường. Đó là đức ái Ki-Tô hữu mà Thánh Phao-lô trong bài đọc hai đã mời gọi mỗi người chúng ta, hãy bắt chước và sống thực hành điều đó với anh chị em mình. (Ep. 4: 30-5: 2).
Hãy là Tấm Bánh Yêu Thương
Để mở lối cho việc sống thực hành bác ái theo gương Chúa Giêsu, Thánh Tê-rê-sa Avila có nói thế này: “Hôm nay Đức Ki-tô nhìn người khác bằng mắt chúng ta, yêu người khác bằng trái tim chúng ta, đến với người khác bằng đôi chân chúng ta và phục vụ người khác bằng đôi tay của chúng ta”. Vậy để trả lời cho câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu trong cơn đại dịch này? Chúng ta hãy cùng nhau phản ảnh dung mạo và tình yêu của Đức Ki-tô bằng chính đời sống mình:
Trong cầu nguyện xin được ơn can đảm Trong phục vụ xin được ơn khiêm nhường Trong hy sinh xin thêm lòng yêu mến Trong chia sẻ xin tìm thấy niềm vui. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể luôn là nguồn khởi đầu mọi hành động của chúng con, để trong mọi điều chúng con nghĩ, mọi lời chúng con nói, và mọi việc chúng con làm, đều nhằm mục đích cho mọi người nhận ra sự hiện diện của Chúa. Qua tấm bánh cuộc đời chúng con được bẻ ra và trao tặng cho nhau, xin dung mạo Chúa được phản ảnh bây giờ và trong sự tiếp nối mỗi ngày. Amen.
Cái gì cũng có giới hạn, rồi cũng hư hỏng, không thể tồn tại mãi. Có những thứ mau hư, có TN 19-B138
Cái gì cũng có giới hạn, rồi cũng hư hỏng, không thể tồn tại mãi. Có những thứ mau hư, có những thứ lâu hư. Thực phẩm tươi sống phải được bảo quản mới có thể không mau hư hỏng. Những thứ mau hư hỏng lại tiếp sức đạt tới những gì lâu dài, bất diệt.
Tục ngữ nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Câu này càng thấy đúng trong thời gian dịch bệnh thế này. Người nghèo bao giờ cũng khổ – khổ đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức, cả thể lý lẫn tinh thần. Đáng quan ngại là đói thể lý có thể dẫn tới đói tinh thần, lo sợ lắm: “Thân phận bồ câu, xin đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài.” (Tv 74:19)
Vì nghèo khổ mà phải tha phương cầu thực, rồi vì dịch bệnh mà phải về quê. Thật xót xa khi thấy những người đi bộ về quê cả trăm cây số, có những người đi xe đạp hoặc xe máy về quê cả ngàn cây số. Không thể tưởng tượng nổi có hàng trăm, hàng ngàn người tháo chạy, cực khổ lắm nhưng không còn cách nào khác. Dọc đường có những người tiếp sức bằng thứ này, thứ nọ, kể cả tiền mặt. Thật ấm áp tình người!
Vì kiệt sức mà phải tiếp sức. Cái đói khát cấp bách lắm. Trình thuật 1 V 19:4-8 cho biết: Một mình ông Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, rồi ông đến ngồi dưới gốc một cây Kim Tước. [1] Mệt mỏi vì đường xa và vì đói khát, có lẽ nản lòng nên ông cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Nói rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi, an tâm chờ… chết.
Bất ngờ, một thiên sứ đến đánh thức ông và bảo ông dậy mà ăn. Ông nhìn thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông lại dậy, ăn bánh và uống nước. Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới Khô-rếp – tức là núi Sinai, núi của Thiên Chúa. Chỉ ăn uống như thế mà ông Êlia đủ sức đi ròng rã bốn mươi đêm ngày.
Điều đó không chỉ lạ lùng mà là kinh ngạc. Bánh thiên thần có khác. Bốn mươi là con số quen thuộc nhưng khá đặc biệt, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh. [2] Bốn mươi cũng là khoảng thời gian kỳ lạ – dù là ngày, tháng, hoặc năm. Với con người, bốn mươi năm là độ tuổi trung niên, cần phải thực sự trưởng thành toàn diện tâm sinh lý.
Bánh thiên thần hoặc thần lương chỉ có thể là bánh do Thiên Chúa ban tặng. Ngài biến bánh thường hóa thành thần lương. Thần Lương nhắc nhớ tới Bánh Thiêng là Thánh Thể – Mình Máu Chúa Giêsu Kitô. Có Thần Lương nuôi dưỡng phần xác thì cũng có Thần Lương nuôi dưỡng phần hồn. Đã có những vị thánh chỉ sống nhờ Thánh Thể suốt vài chục năm.
Thánh Vịnh gia rất biết ơn vì được nuôi dưỡng cả xác hồn: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.” (Tv 34:2) Không chỉ vậy, Thánh Vịnh gia còn phải lên tiếng xác nhận và chia sẻ chân thành: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34:3-4) Thánh Vịnh 34 là một Thánh Vịnh “đẹp” về cả ngôn từ và ý nghĩa.
Thật vậy, Thánh Vịnh này khiến người ta cảm thấy ấm lòng. Chứng cớ được viện dẫn và lý giải rạch ròi: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:5-8) Ước gì mỗi chúng ta cũng khả dĩ cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, và luôn biết nhắn nhủ lẫn nhau: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9)
Không thể không hành động khi cảm nhận được điều tốt lành. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.” (Ep 4:30-31) Cái “tôi” là cái tồi tệ, nó luôn muốn vùng lên bất cứ lúc nào, vì cứ tưởng mình là “số dzách” (số một, đệ nhất, number one) Có biết yêu mình thì mới biết yêu người khác, nhưng yêu mình quá hóa tự ái, tự ái dẫn tới ích kỷ, ích kỷ dẫn tới bất chính, đúng như cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính.”
Ngày xưa, Saolô hung hăng, hiếu chiến, háo thắng, tự cho mình “ngon lành” nên tìm mọi cách chống lại danh Đức Giêsu. Ông đã từng giận dữ mà rảo khắp các hội đường, cưỡng bức người ta phải nói lộng ngôn, sang cả nước ngoài mà bắt bớ những người tin theo Đức Kitô, (x. Cv 26:11) nhưng chính ông đã khốn khổ vì “châu chấu mà muốn đá voi” và dám “giơ chân đạp vào mũi nhọn.” (Cv 26:14) Tội to lắm, nặng lắm, nhưng Thiên Chúa đã “triệt buộc” ông. Và rồi một Saolô ngang ngược đã biến thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô.
Với kinh nghiệm “xương máu” như vậy, Thánh Phaolô chia sẻ: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.” (Ep 4:26) Không làm điều xấu vẫn là tiêu cực, cũng chưa xong bổn phận, mà còn phải tích cực làm điều tốt, nghĩa là “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, NHƯ Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô.” (Ep 4:32)
Bác ái cần lắm, vì hạnh phúc là biết yêu và được yêu. Thánh Phaolô kết luận: “Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.” (Ep 5:1-2) Bác ái là đức ái, một trong ba nhân đức đối thần, cần thiết cho cả đời này và đời sau. Đó là một loại lương thực nuôi dưỡng tinh thần mà ai cũng cần sử dụng để khả dĩ duy trì sự sống tâm linh.
Bánh vật chất đời thường mau hư, cần cho sự sống thân xác, gợi nhớ tới bánh tinh thần bất hoại, cần cho sự sống thiêng liêng, và còn cần hơn nữa là Bánh Thánh – loại Bánh Trường Sinh chỉ có được từ Đức Giêsu Kitô. Đó chính là Mình Máu Ngài, Thần Lương tiếp sức cho chúng ta suốt cuộc lữ hành trần gian.
Thánh Gioan cho chúng ta biết “đặc sản” duy nhất là Bánh Trường Sinh này qua trình thuật Ga 6:41-52.
Sau khi nghe Chúa Giêsu nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh, người Do Thái cảm thấy “chói tai” và xầm xì phản đối, bởi vì Ngài đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Chắc chắn rằng, từ cổ chí kim, cả hiện tại và tương lai, hoặc bất cứ dân tộc nào, không ai dám nói như vậy, và cũng chẳng ai dám tự xưng là Thiên Chúa. Quả thất, rất “khó lọt lỗ tai” vì chúng ta chỉ là phàm nhân, không thể hiểu nổi những gì cao hơn vầng trán bé nhỏ của mình. Nhưng điều Chúa Giêsu nói hoàn toàn là sự thật.
Lúc đó, người Do Thái đặt vấn đề với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” Ngày nay chúng ta không còn tranh luận về “sự lạ” Thánh Thể vì chúng ta đã thừa kế di sản đức tin tông truyền, nếu chúng ta sống thời đó và lần đầu nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta không chỉ nổi da gà, nổi gai óc, mà còn nổi nóng như ngọn lửa bùng cháy. Tuy nhiên, dù đã hơn hai ngàn năm qua, những người vô thần hoặc theo tôn giáo khác, kể cả một số hệ phái thuộc Kitô giáo, người ta vẫn không chấp nhận Bí tích Thánh Thể, cho rằng người Công giáo chỉ ảo tưởng. Sự thật mãi là sự thật, dù người ta không tin sự thật là sự thật thì sự thật cũng không thể biến thành điều gì khác.
Biết rõ người Do Thái đang lùng bùng lỗ tai và máu đang bốc lên tới chỏm đầu, Chúa Giêsu nói: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Hết cú sốc này tới cú sốc khác, chắc là họ muốn điên lên được. Thế nhưng Chúa Giêsu không thể chuyển hướng khác, và Ngài dẫn chứng: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.” Như vịt nghe sấm, không hiểu gì, cứ nghe ông Giêsu nói kiểu này thì họ điên mất thôi!
Ai điên thì điên. Mặc kệ. Sự thật không thể khác. Chúa Giêsu “sang số” và “tăng ga” tiến tới: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Nghe những lời này, người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ tức giận lắm, nhất là mấy “ông lớn” – mặt to, tai to, miệng to, quyền to, chức to – thế nhưng họ vẫn không thể làm gì được Ngài.
Có lẽ hôm đó xảy ra ẩu đả vì ai cũng cho mình là đúng. Một số người rút lui mặc dù đã đi theo Ngài một thời gian. Không hiểu thì không tin, không tin thì không thích, không thích thì không thể theo. Lẽ thường là như thế.
Đối với người Do Thái, cả chính quyền và các vị lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giêsu là “cái gai nhọn” cần phải nhổ, càng sớm càng tốt. Vì thế, họ luôn tìm mọi cách bắt bẻ, gài bẫy, để có cớ bắt giết Ngài, nhưng giờ của Ngài chưa đến thì không ai có thể làm gì được.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin gia tăng các đức đối thần và đối nhân, xin ban Thần Khí Ngài để chúng con có thể hiểu đúng những điều siêu nhiên, xin ban cho chúng con lương thực cần thiết cho xác hồn để chúng con đủ sức vượt qua mọi chướng vật trong cuộc lữ hành và được đến Cõi Trường Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
------------------------------
[1] Cây Kim Tước thuộc họ đậu, hoa màu vàng ươm, nở vào mùa Xuân, còn gọi là “Cây Hoa Chuỗi Vàng” – Golden Chain Flowers. Tất cả các bộ phận của cây kim tước đều độc, có thể gây tử vong. Tuy nhiên, cây cũng được dùng để làm giảm nhịp tim và kích thích lợi tiểu.
[2] Số 40 được đề cập trong một số câu Kinh Thánh:
a). Sau 40 ngày lụt Đại Hồng Thủy, (St 7:17) có nhân loại mới, tượng trưng bằng gia đình ông Nôê.
b). Khi 40 tuổi, ông Môsê đã đến thăm dân đang sống kiếp nô lệ ở Ai Cập; (Cv 7:23) sau 40 năm ở tại Mađian, ông được Thiên Chúa kêu gọi đi giải phóng dân Israel, (Cv 7:30) ông đã hướng đạo dân Israel đi trong sa mạc suốt 40 năm.
c). Sau hai lần ở trên núi Sinai 40 ngày đêm cầu nguyện, (Xh 24:18; Xh 34:28) ông Môsê nhận được Luật Giao Ước để tổ chức đời sống cho Dân Chúa.
d). Sau 40 năm đi trong sa mạc, (Ds 14:22; Đnl 1:3) đoàn dân vào Đất Hứa, thoát kiếp nô lệ, được sống tự do.
e). Sau 40 ngày đêm đi trong sa mạc, (1 V 19:8) ngôn sứ Êlia đến núi Khôrép (Sinai) để gặp Thiên Chúa và được Người củng cố trong sứ mạng.
f). Sau 40 ngày ăn chay hãm mình đền tội, dân thành Ninivê được Thiên Chúa tha thứ. (Gn 3:10)
g). Sau 40 ngày ăn chay trong sa mạc, (Mt 4:2) Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ.
h). Sau khi sống lại 40 ngày, Đức Giêsu dạy dỗ các tông đồ, chuẩn bị cho các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được thiết lập, và các ông can đảm ra đi truyền giáo. (Cv 1:3)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Vì tầm quan trọng của TN 19-B139
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Vì tầm quan trọng của bí tích này, phụng vụ Lời Chúa tuần này tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm về diễn từ “Bánh hằng sống” trong chương VI của Tin Mừng Gioan. Dưới ánh sáng của trích đoạn này, hôm nay, chúng ta tìm hiểu về ba điều quan trọng nhất nơi bí tích Thánh Thể bằng việc trả lời ba câu hỏi này:
1) Làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa? 2) Chúa Giêsu hiện diện thực sự nơi Thánh Thể không? 3) Chúng ta phải chuẩn bị thế nào là để rước lễ?
1- Bánh rượu trở thành Mình – Máu Chúa
Trước hết, chúng ta phải nói rằng bí tích Thánh Thể là sự mới mẻ nhất do Chúa Giêsu mang lại, nhưng đồng thời cũng là mạc khải khó tin nhất đối với con người mọi thời. Quả thế, khi Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Người Do Thái đã sốc khi nghe những lời này. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52). Đối với chúng ta hôm nay, khi dự thánh lễ, câu hỏi đầu tiên mà chúng ta thường được đặt ra là làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu thánh Chúa? Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Giáo Lý Công Giáo, theo đó, khi linh mục truyền phép, chính Chúa Thánh Thần là Đấng ngự xuống trên các lễ vật, nhờ quyền năng thần linh mình, Người biến đổi bánh thành Mình Chúa Kitô và rượu thành Máu Chúa Kitô. Theo ngôn ngữ thần học, đây là sự biến thể (transubstantiatio), nghĩa là một sự biến đổi từ bên trong, bản thể của bánh rượu không còn là bánh rượu nữa, nhưng trở thành bản thể của Chúa Kitô, thành Thịt và Máu Người. Thánh Cyrillô thành Giêrusalem (313-387) giải thích về sự biến thể này như sau: “Bánh này không còn là bánh, dù bằng chứng của vị giác thế nào đi nữa, nhưng là thân mình Chúa Kitô. Rượu này không còn là rượu dù giác quan có nói thế nào đi nữa, nhưng chính đây là máu Chúa Kitô” (Giáo Lý Nhiệm Huấn IV, 9) Bởi vậy, khi chủ tế đọc lời khẩn cầu (epiclesis) chính là lúc Chúa Thánh Thần thực hiện sự biến đổi kỳ lạ này: “Chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hoá những của lễ này, để trở nên cho chúng con, Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.” Sau đó, chủ tế mới đọc: “Này là Mình Thầy… Này là chén Máu Thầy… sẽ đổ ra cho các con…” (Kinh Nguyện Thánh Thể II). Như thế, qua linh mục, Chúa Thánh Thần dùng quyền năng thần linh của Người biến đổi bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
2- Sự hiện diện đích thực
Câu hỏi thứ hai mà chúng ta thường thắc mắc là Chúa Giêsu có hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể không? Đây cũng là “hòn đá vấp chân cho nhiều người.” Đối với những người Tin Lành và Anh Giáo, họ chỉ tin và cử thành thánh lễ như là sự tưởng nhớ; bánh và rượu chỉ là biểu tượng về sự hiện diện thiêng liêng của Chúa; họ không tin rằng Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Đối người Công Giáo, di sản quý báu nhất mà Giáo Hội có được chính là niềm tin vào bí tích Thánh Thể. Theo đó, chúng ta xác tín và tuyên xưng rằng: “Trong bí tích Thánh Thể cực trọng, sự hiện diện “Mình và Máu, cùng với linh hồn và thần tính, của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và vì vậy, Đức Kitô được ẩn chứa cách đúng đắn, chân thật và bản thể” (Giáo Lý, số 1374). Thế nên, Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, dầu giác quan con người không thấy. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hiện tại hóa hy tế thập giá xưa của Chúa Giêsu trong mỗi thánh lễ được cử hành. Nên mỗi thánh lễ là một phép lạ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Thánh Thể quả là “mầu nhiệm Đức Tin”; Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quý!” Bởi thế, để đến với Thánh Thể, chúng ta cần có đức tin. Nhờ cặp mắt đức tin, chúng ta tin nhận rằng Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Thánh Thể, Người ban Thịt và Máu Mình làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Về điều này, trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều phép lạ Thánh Thể xảy ra để cũng cố niềm tin cho chúng ta. Ở Lanciano, nước Italia, vào thế kỷ thứ VIII, có một linh mục, thuộc Dòng thánh Basiliô, rất giỏi về khoa học, nhưng lại yếu đức tin, ngài thường nghi ngờ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thánh lễ. Một ngày nọ ngài đi hành hương ở Rôma. Trên đường về, ngài dâng lễ tại một nhà Dòng, sau khi truyền phép, một phép lạ xảy ra ngay tại bàn thờ, bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu thật Chúa Giêsu. Ngày nay, người ta còn lưu giữ dấu tích cục máu đông tại Lanciano, được các nhà khoa học kiểm chứng thuộc nhóm AB như là bảo chứng của niềm tin vào Thánh Thể.
3- Chuẩn bị xứng đáng để rước lễ
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ nhưng Người còn mời gọi chúng ta chuẩn bị xứng đáng để rước lễ. Liên quan đến vấn đề này, trong văn kiện Bữa Tiệc Thánh, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói đến ba hạng người lên rước lễ: 1) Hạng người thứ nhất lên rước lễ chỉ vì phong trào, họ sợ người ta nghĩ mình không đạo đức hay thấy người khác lên, mình cũng lên, nhưng họ không có lòng yêu mến Thánh Thể. Họ rước lễ cách bất xứng. 2) Hạng người thứ hai là những người đang mắc tội trọng, nhưng đã đánh mất cảm thức về tội, không xưng tội, nhưng vẫn lên rước Mình Thánh Chúa. Họ rước lễ cách bất xứng và thêm tội phạm thánh. Giáo Hội dạy phải xưng tội trọng trước khi lên rước lễ. 3) Hạng người thứ ba lên rước lễ với tâm hồn sạch tội và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Họ đón nhận được muôn vàn phúc lành đến từ Thánh Thể. Chúng ta thuộc hạng người nào trong ba hạng người trên? Tôi không có quyền xét đoán và xếp loại ai, nhưng tôi để cho mỗi người xét mình và tự trả lời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ, rước Mình Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời, xin giúp chúng con luôn ý thức rằng bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và mỗi người chúng con. Amen!
Trong đời, ai cũng muốn sống khỏe, sống lâu, sống mãi. Muốn sống vậy, người ta để ý đến TN 19-B140
Trong đời, ai cũng muốn sống khỏe, sống lâu, sống mãi. Muốn sống vậy, người ta để ý đến ăn: không chỉ là ăn no, ăn ngon, mà là ăn có lợi cho sức khỏe. Như để đáp lại điều đó, Phúc Âm các Chúa Nhật dịp này vang lên như tiếng rao lặp đi lặp lại: Ai bánh hằng sống đây!
1. Đói khát bánh. Bài đọc 1 kể chuyện trong hành trình sứ mạng của mình, ngôn sứ Êlia đói khát buồn chán đến độ muốn xin được chết. Cũng thế, trong dịch Covid-19, nhiều người đói khát buồn chán. Hành trình theo Chúa của người môn đệ cũng không tránh khỏi những lúc chán nản xuống tinh thần.
2. Cho nhau bánh. May thay, sứ thần của Chúa đã đem bánh và nước đến mời Êlia ăn. Nhờ đó ngôn sứ có đủ sức đi suốt 40 ngày đêm tới núi của Thiên Chúa. Lúc này, Chúa cũng muốn mỗi người là những “sứ thần” đem lương thực bổ dưỡng, nâng đỡ tiếp sức cho nhau tiến bước hành trình.
3. Trở thành bánh. Bài đọc 2 thánh Phaolô mời gọi chúng ta trở thành bánh thơm hương yêu thương qua việc sống tình bác ái như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta đến độ tự nộp mình làm hy lễ ngào ngạt hương thơm dâng lên Thiên Chúa. Cụ thể, bánh ấy không có mùi cháy khét của chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay những hành vi gian ác. Trái lại, bánh ấy thơm hương yêu thương của đối xử tốt đẹp và tha thứ cho nhau.
4. Bánh hằng sống. Để có thể thỏa mãn những đói khát sâu xa nhất của con người, để có thể quảng đại cho nhau bánh ăn, để có thể dấn thân hy sinh trở thành bánh, thì chúng ta rất cần một thần lương là bánh hằng sống từ trời nuôi dưỡng, là chính Chúa Giêsu.
Trong lịch sử, nhiều khi con người giết nhau vì tranh giành bánh, còn Chúa Giêsu lại tự hiến mình thành bánh nuôi nhân loại sống muôn đời. Chúa mời gọi chúng ta ăn bánh hằng sống để có thể sống yêu thương trao ban như Ngài. Amen.
Ngày xưa, Ngọc Hoàng sai tiên ông xuống trần quan sát dân chúng. Tiên ông giả làm người ăn TN 19-B141
Ngày xưa, Ngọc Hoàng sai tiên ông xuống trần quan sát dân chúng. Tiên ông giả làm người ăn mày quần áo rách rưới và đi lang than. Vào buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông gõ cửa nhà chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão rách rưới, nó nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Ông lão đến gõ cửa nhà con cáo. Nó chửi mắng thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa nhà của thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa. Thỏ vội mời vào và đưa ông đến bên đống lửa, hong quần áo cho ông. Ông rên rỉ:“Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ nói: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài, rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết, nhưng cụ yên trí, cháu sẽ tìm thức ăn đãi cự”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên thì thỏ nhảy vào đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, mùi thơm tỏa lan cả căn nhà. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời báo cáo với Ngọc Hoàng Ngọc Hoàng liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên cung trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc gọi mặt trăng là Ngọc Thố. Đây là câu chuyện không có thật, nhưng đáng để chúng ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì bỏ lỡ cơ hội và không thể trở thành thần tiên. Cơ hội không bao giờ trở lại với chúng ta nữa. Phải chăng dân Do thái nói riêng và mỗi chúng ta nói chung cũng đang rơi vào tình trạng này?
Tại sao chúng ta chối bỏ Đức Giê-su?
Thái độ khinh thường, thành kiến, là thái độ khó chấp nhận Thiên Chúa và đón nhận tha nhân. Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể đã hiện thân nơi một con người đơn sơ mộc mạc, chất phác bằng nghề thợ mộc thành Nazareth nhưng dân Do thái đã không nhận ra Ngài lại còn có thái độ khinh miệt và loại trừ Ngài. Thái độ đó được diễn tả trong bài Tin mừng hôm nay: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ‘Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 41-42). Họ đã hiểu theo tinh thần thế gian, xác thịt, thì không thể nhận ra được Thiên Chúa hiện diện nơi trần gian, vì tư tưởng Thiên Chúa khác với tư tưởng con người, khác với tư tưởng thế gian. Vì tính chai lì và cứng đầu cứng cổ nơi con người nên sinh ra cố chấp và khó lòng đến với người khác phương chi là với Thiên Chúa.
Mặt khác, cũng vì lòng tham và sự ích kỷ của con người, nên không muốn tìm đến chân lý cũng như sự thật. Con người hầu như mong tìm kiếm cái dễ dại, chóng qua, thực tiễn, cụ thể,… nên sự bình an, niềm hạnh phúc và ngay cả sự sống đời đời làm sao có thể sở hữu được. Họ tìm kiếm cái ăn mau qua hơn là cái ăn trường sinh. Họ khó chịu và thấy chướng tai gai mắt khi Chúa Giê-su nói về bánh trường sinh, nói về việc trao Mình Máu của Ngài cho họ. Họ chối từ sự lôi kéo của Thiên Chúa nên họ không thể gặp gỡ và đón nhận Đức Giê-su. Vì ai đến được với Đức Giêsu đều bởi sự lôi kéo của Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su cũng đã khẳng quyết như vậy: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.”(c.46).
Vì sự từ chối đó nên người Do thái nghe mà không nghe, nhìn mà không thấy, lại còn tìm cách hãm hại và gài bẫy Đức Giê-su, thậm chí tìm cách bắt bớ và giết chết Ngài. Quả thật, sự sống và ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ đến với những ai có lòng khát khao và khiêm tốn đón nhận. Ngược lại, ơn cứu độ và sự sống đời đời của Thiên Chúa sẽ bị cản ngăn, không muốn nói là không bao giờ đến được với những ai kiêu căng và chối từ. Như vậy, con người từ chối Đức Giêsu Kitô là từ chối Bánh Hằng Sống từ Trời, mà từ chối Bánh Hằng Sống từ Trời tức là từ chối sự sống đời đời. Thật vậy, để có ơn cứu độ và sự sống đời đời của Thiên Chúa, con người phải đón nhận ‘Bánh hằng sống’ từ Trời, là Đức Giêsu Kitô.
Đón nhận Đức Giê-su là đón nhận sự sống đời đời.
Chúng ta tin rằng ngoài Danh Đức Giêsu Kitô không có danh nào có thể đem lại ơn cứu độ cho con người. (x.Cv 4,12). Thật vậy, đón nhận Bánh Trường Sinh là đón nhận chính Thiên Chúa, là đón nhận sự sống đời đời. Thiên Chúa không bao giờ để con người cô độc, cô đơn và thiếu thốn. Nơi bài đọc I, ngôn sứ Êlia đã được Chúa nuôi dưỡng khi ông tưởng chừng như là đã chết. Do đó, Thiên Chúa sẽ luôn luôn dõi theo và chăm sóc những ai Ngài tuyển chọn. Dù con người có bỏ Thiên Chúa đi chăng nữa, thì Ngài vẫn luôn trung thành và yêu thương con người. Thánh Vịnh 26, 10 cũng đã minh định: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.”
Quả thật, vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách thể để ở lại và đồng cảm với thân phận yếu đuối cũng như đau khổ của con người. Ngài đã hiện thân làm người giống chúng ta mọi đàng ngoài trừ tội lỗi ngang qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa yêu con người và muốn con người hưởng nếm ơn cứu độ và được sống đời đời. Thế nhưng mấy ai nhận ra được sự hiện diện, sự hóa thân cũng như yêu thương đó của một vị Thiên Chúa hết sức đơn sơ và giản dị nơi Con Người Giê-su. Chỉ những ai biết lắng nghe và khiêm tốn đón nhận sự lôi kéo của Thiên Chúa thì mới dễ dàng đón gặp được Đức Giêsu Kitô. Trong đời sống thường ngày, có bao nhiêu cơ hội, bao nhiêu dịp thuận tiện mà chúng ta đã bỏ lỡ và lãng quên vì thái độ xem thường và khinh nhờn. Bao nhiêu dấu chỉ, bao nhiêu phép lạ vẫn diễn ra ngay trong cuộc sống đời thường mà chúng ta đã không hay biết, chẳng hạn hơi thở mà chúng ta đang sử dụng, sức khỏe mà chúng ta đang có, thời gian mà chúng ta đang sở hữu, nhất là sự sống mà chúng ta đang hưởng dùng,..tất cả đều là ân ban của Thiên Chúa.
Ngoài ra, Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự. Ngài thấu suốt tâm can con người. Nhưng Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Vì sự tự do mà con người đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Vì sự tự do, con người đã tự cho mình có thể giải quyết được tất cả mà không cần sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Chính vì thế, trong mọi biến cố, nhất là trong bối cảnh hiện tại nhân loại đang đối diện với ‘cơn sóng dữ dội’ bởi đại dịch Covid, con người dường như hoàn toàn thất bại. Con người đã tìm đủ mọi cách và mọi phương thế để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Nhưng xem ra con người đã không thể làm được gì nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thật vậy, trong gần hai năm qua, cả nhân loại đang phải chiến đấu với đại dịch Covid: Số người nhiễm bệnh và tử vong rất là cao. Đứng trước biến cố nghiêm trọng này, con người dường như tuyệt vọng và hết đường giải thoát. Ngay lúc này, đối với con người, tiền bạc, tài năng, khôn ngoan, kiêu hãnh, giàu có, thông minh, từ cao tự đại,… đã không thể giúp cho họ thoát khỏi cơn đại dịch nguy hiểm này. Sự chết chóc đã bao phủ họ. Sự sợ hãi và hoang mang đang vây quanh họ. Sự khát khao và tìm kiếm sự sống trong lúc này hết sức quan trọng và cấp thiết đối với họ. Dưới nhãn quan Đức tin, chúng ta biết rằng chúng ta chẳng làm được gì nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế, đứng trước mọi thử thách và gian nan, con người được mời gọi hãy tìm kiếm Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn tất cả mọi sự Ngài sẽ ban cho.(x.Mt 6,33). Vì thế, con người cần cầu nguyện liên lỉ và năng chạy đến với Thiên Chúa ngang qua việc lắng nghe Lời Chúa và đặc biệt là dọn mình sốt sắng để rước lấy Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Quả thật, Đức Giêsu đã phán: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51). Thật vậy, sự sống đời đời chỉ có được nơi Đức Giêsu Kitô. Hay nói cách khác, nơi Đức Giêsu Kitô, tất cả mọi sự trong cuộc đời của con người sẽ được giải thoát. Đó là niềm tin của chúng ta.
Trao ban Đức Giê-su cho tha nhân như thế nào?
Chúng ta được đón nhận nhưng không thì cũng phải cho nhưng không.(x.Mt 10,8). Đức Giê-su trở thành tấm bánh bẻ ra cho mỗi chúng ta để chúng ta được bình an, được hạnh phúc và được đón nhận sự sống đời đời. Đến lượt chính mình, chúng ta cũng được mời gọi trở nên tấm bánh đời mình cho anh chị em đồng loại bằng cuộc sống đượm tình bác ái yêu thương. Một lời nói nhỏ nhẹ đầy tình mến là đã trở nên tấm bánh cho đời. Một cử chỉ quảng đại, phục vụ hy sinh và dấn thân không mệt mỏi, nhất là trong bối cảnh Đại dịch Covid-19 này là chúng ta đang trở nên hiện thân của Chúa Giê-su nơi tha nhân. Như vậy, chúng ta sẽ là tấm bánh hữu ích và ‘dễ ăn’ cho anh chị em khi chúng ta dám chấp nhận từ bỏ chính mình, từ bỏ lối sống ích kỷ, lòng tham lam, sự kiêu căng,… Sẽ là ‘tấm bánh thơm ngon và thi vị’ cho muôn người trên đường đời nếu chúng ta biết liên đới hơn là loại trừ, biết bao dung – thứ tha hơn là hận thù – ghen ghét, biết đối thoại – gặp gỡ hơn là khép mình – bảo thủ. Nơi bài đọc II, chính Thánh Phaolô Tông đồ đã căn dặn chúng ta như thế này: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô. Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”(Ep 4, 31-32.5, 1-2). Phải chăng sống được như thế là chúng ta đang trở nên tấm bánh tuyệt vời cho anh chị em đồng loại, nhất là cho những ai đang đói khát, nghèo khổ và bệnh hoạn tật nguyền trong môi trường sống của chúng ta?
Những ngày qua, từng đoàn người hối hả rời những thành phố tâm dịch covid để về quê, cuộc hồi TN 19-B142
Những ngày qua, từng đoàn người hối hả rời những thành phố tâm dịch covid để về quê, cuộc hồi hương vào “Mùa hè đỏ dịch”. Nhìn những bức ảnh “tháo chạy về quê”, thật xót cho thân phận người dân nghèo lao động. Ly hương ra thành phố với hy vọng đổi đời, nay thành phố đại dịch, họ không tiền bạc, tứ cố vô thân, phải tháo chạy. Quê hương, hai chữ sao vừa ấm áp lại vừa đắng cay. Sài Gòn “miền đất hứa”, bao dung và cưu mang biết bao thế hệ, biết bao cuộc đời. Sài Gòn ôm cả tình người mênh mông, nơi gặp gỡ những dòng người từ mọi miền đất nước…! Nhưng những ngày qua, bao tang thương, bao mất mát đã làm cho Sài Gòn như tê liệt quỵ ngã, và không ai nghĩ rằng Sài Gòn sẽ có một cuộc tháo chạy như những ngày này! May mắn thay, trên đường hồi hương, họ được đồng bào tiếp tế lương thực trên mọi nẻo đường “hành trình vạn dặm” như cơm, bánh mì, trái cây, nước, xăng, tiền bạc đến vá bơm sửa xe… Dân thương dân, dân đùm bọc lấy dân qua cơn khốn khó. Khi nhiều người an lành trốn dịch trong nhà, hãy nhớ ngoài kia còn biết bao mảnh đời bất hạnh, còn biết bao số phận không may, còn biết bao người đang thiếu ăn và khổ đau vì đại dịch. Và thật đẹp, nghĩa đồng bào, ứa nước mắt vì tình cảm đồng bào giúp nhau, tự trái tim, tự tình yêu, dọc suốt chặng đường hàng trăm, hàng ngàn cây số, ở đâu cũng có những tổ chức, cá nhân hảo tâm hỗ trợ người về. Như “mana” từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Do thái, nay “lương thực đi đường” từ những người hảo tâm đã tiếp thêm sức lực và yêu thương cho bà con trên đường trở về quê nhà.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của hoàng hậu Ideven, người đỡ đầu tà giáo trong nước. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh nước và thúc dục: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep
Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ; 2V 13).
Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel. Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 – 40).
Êlia chưa kịp vui hưởng thành quả thì đã phải tất tưởi ra đi, hướng thẳng về sa mạc để tránh sự trả thù của hoàng hậu Ideven. Êlia đi mãi cho đến khi mỏi gối chùn chân. Gặp được một bóng cây ở giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, chán nản ê chề. Sống làm gì nữa, ông nghĩ vậy? Và ông xin Chúa cất lấy linh hồn ông, để ông chết đi cho rồi. Êlia thất vọng, chán nản, mệt nhọc, Ông muốn đầu hàng trước tử thần. Nhưng một thần sứ đến lay Êlia dậy: “Ăn đi để còn lên đường“. Và nhờ thức ăn bồi dưỡng này, Êlia đã đi trọn 40 đêm ngày và tới Núi Thánh của Thiên Chúa.
Tác giả Kinh Thánh dùng con số 40 để ám chỉ cuộc hành trình của Dân Chúa nơi sa mạc từ khi ra khỏi Aicập tới ngày vào Hứa địa là 40 năm. Nó đã trở thành biểu tượng của thời gian con người hành trình ở trần gian này. Và đối với chúng ta, nó nói lên thời gian sống ơn gọi làm con cái Chúa ở trần gian, từ ngày rửa tội tới khi về thiên đàng. Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nỗ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Ðó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.
Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.
Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.
Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng cho con người.
Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể
Câu nói “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử Nạn Thập Giá và Phục Sinh.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu Thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục Sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều gói trọn trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang. Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha nên mới ban Bí tích Thánh thể làm lương thực thần thiêng cho chúng ta được kết hợp với Người. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể. Từ Thập giá-Phục sinh đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh Thể. Hiểu như thế để khi dâng thánh lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta hãy tham dự tích cực linh động với tất cả trí lòng tin yêu.
Chúng ta đang lữ hành tiến về vĩnh cửu nên cũng có “lương thực đi đường”, không phải là manna từ trời rơi xuống và nước chảy ra từ tảng đá, hay chiếc bánh lùi và bình nước của thiên thần, nhưng là thần lương cao quý: Mình Máu Chúa Kitô trong Thánh Thể.
Để được ăn bánh Chúa ban, mỗi người phải chấp nhận sự thay đổi hoàn toàn: từ con người cũ thành con người mới; từ suy nghĩ, hành động cũ trở thành con người mới với suy nghĩ và hành động mới theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 đã gợi ý cụ thể: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần, đừng bao giờ chua cay, gắt gỏng, hờn giận, la lối, chửi rủa, gian ác, nhưng phải đối xử tốt với nhau và có lòng thương xót, biết tha thứ cho nhau. Hãy theo gương Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình vì chúng ta”.
“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin,” và ban sức mạnh đức tin cho con.” (Đường Hy Vọng, số 373).
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày có “lương thực đi đường” là được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen
Chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu tình huynh đệ, đói tình thương, khao khát hòa bình TN 19-B143
Chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu tình huynh đệ, đói tình thương, khao khát hòa bình. Nguyên nhân chính đưa đến thảm trạng nầy là con người có những nhận định sai lầm về người khác.
Có một số nhận định sai lầm về người khác đưa đến hậu quả tai hại như sau:
Thứ nhất: Tha nhân là người xa lạ.
Nhiều người cho rằng tha nhân là người xa lạ, chẳng liên quan gì đến mình. Hậu quả là họ theo chủ nghĩa “mác-kê-nô” (mặc kệ nó), sống chết mặc bây, mạnh ai nấy sống, không hề quan tâm giúp đỡ nhau.
Thứ hai: Tha nhân là nguồn lợi béo bở cần khai thác triệt để.
Trong chế độ nô lệ, người chủ khai thác sức lao động của nô lệ, bắt họ làm việc quần quật ngày đêm như trâu cày, ngựa kéo… để hầu hạ, phục dịch mình.
Trong thời buôn bán nô lệ ngày xưa, có nhiều người khốn khổ bị buôn đi bán lại như súc vật và cho đến hôm nay, nạn buôn người, buôn bán nội tạng con người…vẫn còn đang tiếp diễn.
Ngoài ra, trên phạm vi toàn cầu, một số nước lớn tìm cách thống trị những nước yếu hơn, chiếm đoạt lãnh thổ, vơ vét tài nguyên phong phú của họ về cho mình.
Thứ ba: Tha nhân là kẻ thù cần tiêu diệt.
Dựa theo quan điểm nầy, một số quốc gia theo đuổi chiến tranh, chạy đua vũ trang, đua nhau chế tạo những thứ vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt, chế tạo nhiều tên lửa liên lục địa mang đầu đạn nguyên tử có sức công phá dữ dội, có sức hủy diệt kinh hoàng…
Đau lòng thay, đây là một chọn lựa mà nhiều quốc gia trên thế giới xem là khôn ngoan và được đa số người dân đồng thuận.
Chính những nhận định, những chủ trương sai lầm và tai hại như thế là nguyên nhân gây ra vô vàn đau thương cho nhân loại, là động cơ xô đẩy nhân loại đến bên bờ hủy diệt.
Như thế, đe dọa lớn nhất, nguy cơ lớn nhất đối với nhân loại hôm nay không phải là thiếu đói cơm bánh vật chất, nhưng là thiếu tình huynh đệ, đói khát tình thương.
Chính vì thế, khát vọng mãnh liệt nhất của nhân loại qua bao thời là được sống trong hòa bình, trong hiệp thông huynh đệ, trong tình yêu thương.
Tiếc thay, không ai trong loài người có thể đáp lại khát vọng sâu xa mãnh liệt nầy.
Mong đợi “Bánh bởi trời”
Khi con người không thể tự cứu mình, khi bánh từ lòng đất không thể cứu loài người khỏi cơn đói khát tình thương… thì Thiên Chúa đã ban cho nhân loại “Bánh bởi trời” để giải thoát họ khỏi cơn đói nầy. Bánh đó là Chúa Giê-su, như lời Chúa phán: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Chính Chúa Giê-su là “Bánh” Chúa Cha ban xuống để cứu con người khỏi cảnh đói khát tình thương, khỏi cảnh nồi da xáo thịt, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, khỏi hận thù chiến tranh, đồng thời mang lại cho con người cuộc sống hạnh phúc đời nầy và đời sau.
Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” cứu loài người khỏi “đói” tình huynh đệ bằng cách vén mở cho họ biết rằng mỗi người trên dương thế thật sự là con yêu quý của Thiên Chúa Cha, do đó, mọi người đều là anh chị em con cùng một Cha trên trời, vì thế, phải yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà.
Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” cứu loài người khỏi đói khát tình thương khi bày tỏ cho họ biết mỗi người là một chi thể của Ngài, mỗi người là hiện thân của Ngài, vì thế, những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, yêu người là yêu Chúa nên sẽ được ban thưởng đời sau; ghét người là ghét Chúa nên phải mang án phạt đời đời… Khi nhận ra sự thật nầy, người ta sẽ không còn oán ghét hay làm hại nhau, trái lại sẽ tận tình yêu thương phục vụ lẫn nhau. Bấy giờ, thế giới nầy sẽ là trời mới đất mới nơi hòa bình và công lý ngự trị; trái đất nầy sẽ trở thành một đại gia đình huynh đệ ấm áp tình người.
Và đặc biệt hơn hết, Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” khi Ngài trao ban Thân mình Ngài cho nhân loại, để những ai đón nhận “Bánh nầy” sẽ được kết hợp nên một với Ngài và được sống muôn đời với Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Thế giới chỉ thực sự được hòa bình, nhân loại chỉ thực sự được hạnh phúc, khi muôn dân muôn nước đón nhận và được nuôi dưỡng bằng “Lời hằng sống” là thứ “Bánh bởi trời” do Chúa tặng ban.
Xin ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại để Ngài soi sáng tâm hồn mọi người biết quý trọng và đón nhận bánh vô cùng cao quý nầy. Amen.
Thân xác con người cần phải được bồi bổ để đủ sức tồn tại và lớn lên mỗi ngày. Cũng vậy, đời TN 19-B144
Thân xác con người cần phải được bồi bổ để đủ sức tồn tại và lớn lên mỗi ngày. Cũng vậy, đời sống linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng. Người tín hữu tin vào sức mạnh được Chúa ban qua bí tích Thánh Thể, là Thần Lương trợ lực để sống an bình, nhất là để vượt thắng mọi khó khăn thử thách. Nhờ Thần Lương này, người tín hữu còn được nếm trước vinh quang đời sau, tức là hạnh phúc Chúa dành cho các thiên thần và các thánh trên thiên đàng.
Bài đọc I kể lại việc ngôn sứ Elia trên đường chạy trốn trước sự rượt đuổi của vua Akháp. Ông mệt mỏi vì đường xa, lại thêm sự sợ hãi vì bị săn đuổi, nên ông đã buồn rầu và xin Chúa cho chết. Chúa đã sai thiên sứ mang cho ông bánh và nước. Nhờ thần lương này, ông đã đủ sức đi đến núi của Thiên Chúa, và nơi đây, ông được gặp gỡ Ngài. Hành trình của Elia cũng giống như hành trình của chúng ta. Mỗi ngày, chúng ta phải đối diện với biết bao thử thách gian nan. Có những lúc tưởng chừng chúng ta bị đè bẹp trước sức nặng của cuộc đời. Như Elia trong lúc kiệt sức, chúng ta hãy đón nhận lương thực thiêng liêng Chúa ban để lấy lại nghị lực, tiếp tục bước đi trong hành trình cuộc đời. Lương thực ấy là Thánh Thể, là Thần Lương giúp ta bền sức đi đến đích.
Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người đang nói tới. Cũng như người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu hứa ban. Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, chính Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống. Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người. Nếu màu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14”, thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51). Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm. Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế, là Thần Lương giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày.
Giữa cuộc đời đầy xáo trộn bất an, người tín hữu rất cần có nguồn trợ lực siêu nhiên, để có thể đứng vững trước phong ba bão tố dồn dập bủa vây. Rất nhiều chứng từ cho thấy nhờ sức mạnh của Thánh Thể, mà người tin Chúa tìm được sức mạnh và hy vọng. Khi chúng ta ăn uống và hưởng dùng lương thực phần xác, thì những thứ thực phẩm được nghiền nát, được tiêu hóa và trở thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể. Như thế lương thực trở thành máu thịt của ta. Tuy vậy, đối với bí tích Thánh Thể thì ngược lại: Khi ta rước lễ, Thánh Thể biến đổi tâm hồn ta để làm cho ta nên giống Chúa Giêsu, tức là làm cho ta trở nên “Thánh Thể” ngay trong đời sống hằng ngày. Thánh Augustinô viết: “Ta là thức ăn của người mạnh, hãy lớn lên và ăn Ta. Nhưng con không biến đổi Ta trong con như biến đổi một thức ăn, mà đúng ra là con sẽ được biến đổi thành Ta”. Qua cách giải thích của Thánh Augustinô, chúng ta tin rằng con người được thần linh hóa, được nên giống Chúa nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích này. Thánh Tôma Aquinô cũng khẳng định: “Hiệu quả đích thực của Bí tích Thánh Thể là chuyển đổi con người thành Thiên Chúa”. Nhờ năng kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc sống của chúng ta sẽ được canh tân đổi mới và có thể sống như Thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em hãy đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta” (Bài đọc II). Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, sống vì tha nhân, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian.
“Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Với lý trí tự nhiên và theo suy luận của con người, đây là điều không tưởng và khó chấp nhận. Chẳng có ai có thể làm cho thịt mình thành bánh tặng người khác. Chỉ có Thiên Chúa quyền năng mới có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Thiên Chúa quyền năng, nên đối với Người, mọi sự đều có thể. Thánh Thể là “Mầu nhiệm đức tin”, nghĩa là chỉ có đức tin mới giúp ta chấp nhận và tôn thờ Đấng Cao Cả đang ngự trong Hình Bánh và Hình Rượu. Người đang hiện diện giữa chúng ta. Hãy đến đón nhận để rồi chúng ta được Thần Lương ban sức mạnh trong cuộc lữ hành trần thế. Với nghị lực siêu nhiên được trao ban qua Bí tích Thánh Thể, như ngôn sứ Elia, chúng ta sẽ đến “núi của Thiên Chúa” để gặp gỡ và chiêm ngắm vinh quang của Ngài.
Cảnh tìm kiếm lợi nhuận, thủ thế thủ thân, bồi bổ sức lực, hoặc tìm thoả mãn nhu cầu riêng tư TN 19-B145
Cảnh tìm kiếm lợi nhuận, thủ thế thủ thân, bồi bổ sức lực, hoặc tìm thoả mãn nhu cầu riêng tư, rồi từ kẻ bình thường trở nên“đại gia”, từ nghèo vươn lên thành những người có của ăn của để, khách quan mà nói, họ đã thành công. Quy luật tự nhiên cho thấy: thuyền to sóng lớn, người tài giỏi, có chức vị, xã hội vẫn nhìn nhận họ là quan trọng, cần được bảo vệ ; khi lắm tiền nhiều của, người ta dễ nghĩ đến việc “kín cổng cao tường”, hoặc thuê vệ sĩ trợ giúp. Cha ông chúng ta truyền lại một quy luật bất thành văn: của biếu là của lo, của cho là của nợ, hiểu đơn giản là người nhận sự trợ giúp không thể không ưu tư, người hưởng của biếu xén được coi như nợ đồng lần. Rõ ràng, tiền nhân khuyên con cháu làm việc bác ái, nhưng lại không hề có ý cổ võ việc ngồi chơi xơi nước, đợi của biếu của cho bao giờ.
Tâm lý chung, ai chẳng muốn mình có phần có phúc, được thừa hưởng gia tài vật chất, tinh thần, của tổ tiên dòng tộc, dù trong thâm tâm họ dư biết “muốn và được” đang ở trong tầm tay của mỗi người. Số đông dân chúng năm xưa họ đại diện cho dân tộc, cho nhân loại, đến với Đức Giêsu tìm kiếm hạnh phúc, họ được nghe, được đối thoại, còn sở hữu phần phúc đức, họ phải quyết định lựa chọn, vượt qua thành kiến để nhận ra“Con Bác thợ mộc” chính là Thiên Chúa. Tư tưởng có hay không thứ bánh trường sinh, có thật Mình và Máu Đức Giêsu đủ chia sẻ và nuôi sống con cái nhân loại không, nhiều người Do-thái, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bị ám ảnh bởi sự nghi ngờ đó !
Kinh nghiệm của tiền nhân: tài ra ngoài mới lớn, lính ra trận mới nên công. Nếu thông thái tài giỏi, vàng bạc dư thừa, nhưng lại nhốt chúng trong tủ, như thế sao gọi là giỏi, là giầu, là khôn ngoan ? Nếu người ta lấy đất đá nuôi sống được thân xác, sẽ chẳng còn ai nghĩ đến chuyện đi làm. Nếu dùng tiền vàng, hoặc cơm bánh, nuôi sống được linh hồn, chắc không ai tới nhà thờ, cũng không còn cảnh người tìm gặp Đức Giêsu làm chi nữa ! Trong đối thoại cầu nguyện, Chúa Giêsu chỉ cho đám đông hôm xưa và còn đang chỉ cho chúng ta: Bánh trường sinh chính là Tôi đây, tuy nhiên nhiều người đã phản ứng dữ dội. Đúng, làm sao người ta có thể hiểu, Đức Giêsu chính là của ăn nuôi linh hồn, là Bánh trường sinh, khi họ lẫn lộn thứ bánh vật chất và Bánh Giêsu hoàn toàn giống nhau.
Triết lý ở đời cho rằng: muốn ăn ngon, phải có tiền, muốn sức khoẻ tốt, phải sống điều độ, muốn thừa hưởng phúc đức của tổ tiên dòng tộc, nhất định họ phải là người đã từng sống hiếu sống thảo, và còn đang hiệp thông sống lời răn dạy của tiền nhân. Gặp được niềm vui hạnh phúc đời đời, ai chẳng mơ ước có được bí quyết đó, đám đông Do-thái và chúng ta hôm nay, đủ dư hiểu biết Đấng ban phát Bánh trường sinh, Đấng là Đường, là Sự thật, chính là Đức Giêsu. Lý do từ chối, vì người ta không muốn hiểu, cố tình không tin Đức Giêsu là Bánh ban sự sống, vì họ lấy tai mắt thể xác để cân đo đong đếm, lấy tài trí khôn ngoan của mình để hiểu Mầu nhiệm Thiên Chúa. Thời nào cũng vậy, biết tìm kiếm sự sống trường sinh đã là hợp lý, là một ơn ban rồi, nhưng nhận ra Bánh hằng sống, người ta phải gặp phải tin Đức Giêsu, để Ngài biến đổi tâm tính, thay đổi quan niệm về tình yêu thương.
Bộ phim Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã được chúng ta xem nhiều lần, Vị Đường Tăng không hề tuyên bố “ta là của ăn bất tử”, thế mà lộ trình của Cao Tăng đi tới đâu cũng bị “yêu quái” rình rập ăn thịt, vì chúng nghĩ là ăn nhậu Đường Tăng sẽ được trường sinh. Phúc đức ở đời này và phúc đức ở sau, luôn ở trong tầm tay mỗi người, đó là sự tự do chọn lựa, là cơ hội sống và tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến. Người sẵn lòng cho đi, sẽ khiến phúc đức ngày càng đến nhiều, người biết chia sẻ vật chất, tinh thần với người khác, càng ngày họ càng có nhiều bạn, có được hiểu biết và sống tốt đẹp như thế, nhất định họ phải có tình yêu thương của Đức Giêsu.
Phúc đức ở quá khứ, hiện tại, tương lai là có thật, cuộc sống thành đạt còn mãi ở phía trước, nghiên cứu phát minh về của ăn thức uống, trẻ mãi không già sẽ còn ở tận cuối chân trời, khi mà con người vẫn ảo tưởng về tài sức riêng của mình. Tại ngôi thánh đường này, chúng ta có tin hay không tin Đức Giêsu là Bánh trường sinh, có đến gặp Đức Giêsu vì mục đích khác, Ngài vẫn thực sự là của ăn thức uống như đã quả quyết: “ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”. Trường sinh bất tử bao giờ cũng là mầu nhiệm, đối với người xưa và cả chúng ta hôm nay, quà tặng của Thiên Chúa trước sau vẫn là một, không bao giờ có sự sống đời đời, nếu người ta không đến gặp Đức Giêsu. Phúc đức ở đời này và phúc phức ở đời sau, chỉ Đức Giêsu mới có lời giải thích rõ ràng cụ thể, tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, người ta mới hiểu, Đức Giêsu là Bánh trường sinh được ban cho nhân loại. Amen.
Ba đứa trẻ chạy ùa ra cổng khi thấy mẹ đi chợ về. Chúng ríu rít như chim non trong tổ chờ chim TN 19-B146
Ba đứa trẻ chạy ùa ra cổng khi thấy mẹ đi chợ về. Chúng ríu rít như chim non trong tổ chờ chim mẹ bón mồi:
Mẹ ơi ! Mẹ có mệt không? Mẹ ơi ! con đói quá ! Mẹ có mua quà bánh cho con không? Các con ở nhà chơi ngoan không? Vào nhà rồi mẹ lấy bánh cho. Hoan hô hoan hô ! Cám ơn mẹ nhiều ! Hôm nay, Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng: “ Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41). Nghe điều này, họ liền xầm xì phản đối. Họ không chấp nhận rằng Đức Giêsu là Đấng từ trời xuống, bởi họ biết rõ Đức Giêsu là con ông thợ mộc Giuse. Họ biết rõ gốc gác của Đức Giêsu. Thế mà Chúa Giêsu lại nói Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến và còn mạc khải rằng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51a). Không ai có thể hiểu được điều này nếu không có ơn Thiên Chúa ban.
Thuở bé, ta hồn nhiên đón nhận chiếc bánh mẹ mua cho mỗi lần đi chợ về. Ta không hề biết rằng đó là món quà mà mẹ chắt chiu dành dụm tiền để mua cho ta. Lớn lên rồi, khi nhìn giọt mồ hôi mẹ rơi, thấy nụ cười của mẹ, ta thấy thương yêu mẹ thật nhiều. Nhớ về chiếc bánh ngày xưa, ta đã thổn thức bởi tình mẹ thương ta thật bao la. Từ ngày được Rước lễ, ta cũng đón nhận món quà của Thiên Chúa ban tặng, cũng là một tấm bánh trắng tinh nhưng gói gọn tình yêu Thiên Chúa. Đó không phải là tấm bánh đơn thuần, nhưng là Thánh Thể, là chính Máu Thịt Chúa Giêsu, là chính Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn ta.
Người Do Thái không đón nhận Chúa Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến. Còn ta, ta đã đón nhận Chúa Giêsu bằng một đức tin tinh tuyền, thánh thiện. Đức tin là một hồng ân nhưng không mà Chúa Giêsu ban tặng. Nhờ có đức tin, ta tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể, ta ao ước đón rước Chúa ngự vào trong tâm hồn. Mỗi lần rước Chúa, ta cung kính đón rước Chúa vào lòng, thờ lạy Chúa, tạ ơn Chúa và tâm sự với Chúa. Chúa Giêsu đã tự nguyện trở nên một hy lễ của tình yêu qua Thánh Thể. Hy lễ Thánh Thể là chính Máu Thịt của Chúa Giêsu nuôi dưỡng tâm hồn người tín hữu và cho họ được sống dồi dào hơn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể ! Xin Chúa đến ngự vào trong tâm hồn con và cho con cảm nếm vị ngọt được Chúa yêu thương. Xin cho con khát khao được Chúa ngự vào tâm hồn, rước Chúa với niềm xác tín, hân hoan và cùng với Chúa, con dâng hiến hy lễ của đời con hiệp với hy lễ Thánh Thể của Chúa, để cuộc đời con cũng trở thành tấm bánh thơm ngon chia sẻ cho anh chị em.
Bánh trời hằng sống nhiệm mầu, Ban cho nhân loại, nhu cầu thần lương. Nuôi hồn chữa xác tựa TN 19-B147
Bánh trời hằng sống nhiệm mầu, Ban cho nhân loại, nhu cầu thần lương. Nuôi hồn chữa xác tựa nương, Thông ban sự sống, miên trường khát khao. Đây là Thịt Máu Chúa trao, Bởi trời mà xuống, biết bao ân tình. Mấy người Do-thái bực mình, Có cha có mẹ, bình sinh sống đời. Mẹ cha sống với mọi người, Xì xầm to nhỏ, bởi trời là sao? Quyền năng phép tắc trên cao, Nghe lời giáo hóa, truyền rao tín điều. Ta là sự sống cao siêu, Ai tin sẽ được, thiên triều phúc vinh. Thịt Ta lương thực thần linh, Hiến thân nuôi dưỡng, chúng sinh trong đời.
Chúa Giêsu đã phán rằng: Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống. Bánh hằng sống mà Chúa Giêsu ban cho nhân loại chính là Thịt và Máu Thánh Chúa. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu hiện diện thật trong tấm bánh nhỏ và chén rượu nho. Làm sao gọi là bánh hằng sống? Tấm bánh mà chúng ta rước lễ mỗi ngày có một sức sống vô biên biến đổi và dưỡng nuôi cả hồn lẫn xác.
Theo cái nhìn trần tục hoặc phân tích khoa học dinh dưỡng, tấm bánh hằng sống không có giá trị bao nhiêu. Nó không đủ để nuôi sống được con người. Thế nhưng tại sao chúng ta cung kính và chăm chú tham dự thánh lễ và rước lễ. Người lớn cũng như trẻ em cùng chia nhau một tấm bánh nhỏ bé và một chén rượu nho. Đây là mầu nhiệm đức tin. Với tấm bánh nhỏ đã được truyền phép trong thánh lễ đã trở nên thần lương đem sức sống thiêng liêng. Tấm bánh nhỏ chứa đựng trọn vẹn Chúa Giêsu cả thần tính và nhân tính.
Ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể chính là lễ Tạ Ơn. Chúa Kitô đã hiến thân chịu chết trên thánh giá để cứu độ và chuộc tội cho chúng ta. Chúa đã chết vì tình yêu. Một tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện. Thánh Thể là thân thể của Chúa được trao ban cách nhưng không. Chúa dùng chính Thịt Máu mình trong bí tích Thánh Thể để dưỡng nuôi chúng ta cũng như người mẹ dùng chính sữa của mình mà nuôi con.
Truyện kể rằng một người mẹ dẫn con qua đường. Vừa sang tới lề đường bên kia, gặp một người ăn mày đang ngửa tay xin bố thí. Để tập đức thương người, bà đưa cho đứa con một tờ giấy bạc để cho người ăn xin. Đứa con cầm tiền nhưng rụt rè không đưa. Bà mẹ đứng chờ mãi không thấy con đưa tiền vào đôi tay của người ăn xin. Bà khom xuống dí ngón tay vào tay của con cho tiền rơi xuống. Đi một quãng, bà hỏi con: Sao con không cho ông ta. Con sợ à. Đứa con trả lời: không, con không sợ. Con chờ ông ta đưa tay ra lấy. Mẹ bảo: Thường khi ông ăn mày sẽ không cầm lấy mà ông chỉ ngửa tay, mình cho bao nhiêu cứ bỏ vào lòng bàn tay ông. Người ăn xin ngửa hai bàn tay ra xin bố thí. Ai cho nhiều hay ít gì cứ tự nhiên bỏ vào. Ngửa tay chờ đợi và nói lời cám ơn.
Chúng ta đến với Chúa đưa hai bàn tay ngửa xin ơn lành. Tin tưởng vào lòng nhân hậu và đại lượng của Chúa. Chúa sẽ ban ơn phúc lành cho chúng ta. Chúng ta nhận lấy và cám tạ ơn Chúa. Hãy đến với Chúa bất cứ khi nào chúng ta muốn, nhất là khi chúng ta mệt mỏi, chán nản và thất vọng. Đừng vì thất vọng mà chúng ta xa Chúa. Chỉ có nơi Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn sinh lực. Chỉ có Chúa mới giải trừ được mọi nỗi khát mong của tâm hồn. Chúa chính là thần lương và là bánh tự trời xuống.
Chủ đề phụng vụ lời Chúa hôm nay là bánh hằng sống. Bánh nuôi phần xác và bánh thiêng nuôi phần TN 19-B148
Chủ đề phụng vụ lời Chúa hôm nay là bánh hằng sống. Bánh nuôi phần xác và bánh thiêng nuôi phần hồn đều cần thiết cho cuộc sống người Kitô hữu. Không ai sống ở đời mà không phải ăn, cần có bánh ăn để sống. Phần hồn cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng mới đạt được sự sống đời đời.
Bài đọc I sách Các Vua thuật lại cuộc hành trình lên núi Horeb gặp Thiên Chúa của tiên tri Elia. Sau khi chiến thắng các sư sãi thần Baal trên núi Carmel, Elia đã tiêu diệt khoảng 300 sư sãi Baal, ông đã bị vua Achab và hoàng hậu Giêzabel truy lùng tìm cách giết ông trả thù. Nên ông phải trốn vào rừng vắng. Ông chán nản thất vọng, cầu xin cho được chết… Thiên sứ đem đến cho ông bánh và nước để ông dùng. Nhờ bánh Thiên Thần và nước, ông đã lấy lại được sức, lấy lại được nghị lực, ông đi bộ suốt 40 ngày đêm tới núi Horeb, là núi của Thiên Chúa để gặp Thiên Chúa. Nếu không có bánh các Thiên Thần, Elia đã quỵ ngã và bỏ cuộc giữa đường.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu hướng chúng ta về bánh hằng sống và kêu gọi mọi người lãnh nhận bánh đó để được sống đời đời. Bánh thiêng đó chính là Ngài: “Ta là bánh ban sự sống… Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6, 52).
Trong sa mạc Sinai suốt cuộc hành trình về đất hứa. Dân Do Thái nghi ngờ đối với Môsê. Họ kêu trách, than vãn, từ chối không tin vào sứ mạng thần linh của Môsê, không tin rằng ông có khả năng bảo đảm cho họ bánh ăn và nước uống như cha ông của họ, người Do Thái hôm nay kêu trách Chúa Giêsu vì Người tự xưng là “Bánh Hằng Sống từ trời mà xuống”,họ không tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu. Họ chỉ biết dừng lại ở nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu: con bác thợ mộc Giuse. Vì thế họ không tin những lời rao giảng của Đức Giêsu, không công nhận Đức Giêsu là bánh trường sinh, họ khó chịu về những lời khẳng định của Chúa, nên Ngài nhấn mạnh: “Ai tin thì được sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh… và bánh Tôi sẽ ban tặng. Chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”(Ga 6, 51-52).
Chúa Giêsu hướng chúng ta tới bánh trường sinh là chính Ngài trong bí tích Thánh Thể.
Ở trên đời, ai cũng muốn sống mãi, muốn không phải chết, ước muốn trương sinh bất tử là khát vọng của con người ở mọi thời đại. Vua Tần Thủy Hoàng đã truyền xây dựng Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm; một kỳ quan của thế giới cổ đại. Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầy quyền lực, giàu sang, nhưng ông rất sợ chết và muốn sống mãi để hưởng vinh quang trần gian.
Một hôm các nhà chiêm tinh kể cho vua nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư trên đảo đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Vua liền sai quan quân đem vàng bạc châu báu đến đây để đổi lấy bí quyết trường sinh của họ, thuốc trường sinh bất tử. Nhưng không tìm được thuốc trường sinh, khi mọi người nhận ra rằng trường sinh bất tử là hảo huyền, nên đã trốn đi không quay trở lại với nhà vua. Họ sợ phải chết dưới lưỡi gươm của bạo vương Tần Thủy Hoàng vì không thể đưa thuốc cải lão hoàn sinh về cho vua muốn trường sinh; được trường sinh bất tử như vua Tần Thủy Hoàng chỉ là một ước mơ không bao giờ hiện thực, dù con người đã làm mọi cách để tìm kiếm.
Chỉ có Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa mới có thể làm cho con người trường sinh bất tử bằng việc tiếp nhận Ngài trong bí tích Thánh Thể “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
Muốn được sống muôn đời, người Kitô hữu phải tin vào Đức Giêsu và đón nhận Ngài vì Ngài là của ăn nuôi sống nhân loại.
Thánh Phaolô mời gọi người Kitô hữu sống đức tin bằng việc thức thi đức ái trong cuộc đời: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 4, 30; 5,2).
Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình thương. Tin nhận Chúa Giêsu thánh Thể phải được bộc lộ bằng những việc bác ái phục vụ anh em trong đời thường. Nói một cách khác, sống mầu nhiệm Thánh Thể là trở nên tấm bánh cho anh em, như Đức Giêsu Kitô đã trở nên lươnhg thần nuôi sống nhân loại.
Có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).
Đó là Ngài nói về Ngài, thế thì đích thực Ngài là “người cõi trên”, thuộc thượng giới, thế nhưng TN 19-B149
Đó là Ngài nói về Ngài, thế thì đích thực Ngài là “người cõi trên”, thuộc thượng giới, thế nhưng Ngài lại tự nguyện sống và làm việc ở hạ giới – trần gian. Chuyện khó tin mà có thật. Và cũng vì “khó tin” nên “không tin”, cụ thể là người Do Thái, tới nay mà họ vẫn không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta – Đấng Emmanuel.
Chúa Giêsu mặc xác phàm nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, đặc biệt là có hai bản tính – thần tính và nhân tính. Về nhân tính, Ngài trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nghĩa là Ngài cũng có nhu cầu ăn uống, và Ngài cũng cảm thấy đói (Mt 4:2; Mt 21:18).
Ăn uống cần thiết để duy trì sự sống, nhưng ăn không phải là bỏ vô miệng rồi nhai và nuốt, mà còn cần biết thực phẩm đó có hóa chất hoặc độc tố hay không, đặc biệt là phải bảo đảm đủ dưỡng chất. Điều đó liên quan vấn đề dinh dưỡng. Dinh dưỡng là gì? Dinh dưỡng là khoa nghiên cứu mối liên quan giữa thực phẩm và cơ thể, đó là quá trình cơ thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống, sinh trưởng và phát triển bình thường của các mô và cơ quan, và để sinh năng lượng, cũng như các phản ứng của cơ thể đối với việc ăn uống, sự thay đổi khẩu phần và các yếu tố khác có liên quan bệnh lý.
Chất dinh dưỡng rất cần thiết trong việc phát triển cơ thể hợp lý và khỏe mạnh. Chất dinh dưỡng là chất bổ dưỡng, là vitamin, nếu thiếu nó thì cơ thể suy yếu và sinh bệnh tật, nhưng nếu nó nhiều quá cũng bất lợi cho sức khỏe, do đó mà phải có mức cân bằng hợp lý với cơ thể. Nói đến dinh dưỡng có “dính líu” tới ẩm thực, tức là ăn uống.
Sau một ngày đường trong sa mạc, ông Ê-li-a đến ngồi dưới một gốc cây kim tước (ulex europaeus – loài cây bụi thường xanh, lưu niên và có gai, mọc thành bụi rậm rạp. Cây này mọc phổ biến ở những khu vực đất đã được khai khẩn, trên thảm cỏ, ở bìa rừng, ven biển và những vùng đất hoang. Loại cây này phát triển tốt và khó tiêu diệt khi chúng đã thích nghi và phát triển). Ông xin cho được chết và nói: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1 V 19:4). Câu này cho thấy ông khiêm nhường và tự cảm thấy hổ thẹn vì cũng chẳng hơn gì ai. Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng có một thiên sứ đụng vào người ông và gọi ông dậy ăn (1 V 19:5).
Giật mình thức giấc, ông ngơ ngác đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Quá đã! Buồn ngủ gặp chiếu… hoa (chứ chẳng phải “chiếu manh” đâu). Đang đói, ông liền ăn bánh và uống nước, nhưng rồi lại nằm xuống – không phải để ngủ mà… chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa” (1 V 19:7). Ông lại dậy, lại ăn bánh và uống nước. Đúng là thần lương, ăn vô thấy khỏe re. Cũng nhờ loại lương thực đặc biệt nhiều dưỡng chất đó mà ông đủ sức đi ròng rã suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm để tới Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.
Hằng ngày chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Lương do Chúa ban – loại thực phẩm đặc biệt “Made in Heavens” (làm tại Nước Trời), không chỉ cho cơ thể mà quan trọng hơn là cho linh hồn. Đó là những hồng ân, Lời Chúa, và đặc biệt là Thánh Thể. Vì thế, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, chúng ta phải chân thành quyết tâm như Thánh Vịnh gia: “Tôi sẽ KHÔNG NGỪNG chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người CHẲNG NGỚT trên môi” (Tv 34:2), đồng thời làm nhân chứng cho Thiên Chúa: “Linh hồn tôi HÃNH DIỆN vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã TÌM KIẾM Chúa, và Người đáp lại, GIẢI THOÁT cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34:3-5). Thật vậy, bất cứ “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:6), và với kinh nghiệm dày dạn, Thánh Vịnh gia minh định: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, CHƯA THẤY người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ” (Tv 37:25).
Chắc hẳn không ai lại không đã từng hơn một lần được nhận ơn lành của Chúa – thậm chí là nhận quá nhiều, vì thế chúng ta lại càng phải minh chứng: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:70). Và cũng chắc chắn rằng “sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người” (Tv 34:8). Cứ thật lòng suy nghĩ xem điều đó có đúng hay không. Nếu thực sự đúng, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm phải chia sẻ với người khác: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9). Không ai có thể phủ nhận. Và điều đó có liên quan vấn đề mà tiểu thuyết gia René François Bazin (người Pháp, 1853-1932) đề cập: “Con người, dù là người không tin, cũng có một nhu cầu được thánh thiện, ngay khi họ nhận ra sự thánh thiện, họ liền chạy theo”. Thật lạ!
Cuộc sống luôn có tính liên đới. Do đó, ai càng lãnh nhận nhiều thì càng “mắc nợ” Chúa, và tất nhiên càng phải làm chứng về Ngài. Việc chúng ta ca tụng Chúa không thêm gì cho Chúa nhưng sinh ích lợi cho chính chúng ta (Kinh nguyện Thánh Thể). Thánh Phaolô khuyến cáo: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4:30). Không chỉ bổn phận đối với Chúa, Thánh Phaolô còn nói về bổn phận yêu thương đối với đồng loại: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:31-32). Thế nhưng, trong đời sống thường nhật, chúng ta chưa thể hiện đúng mức, thậm chí có khi còn “trái ngược” với đức yêu thương, ngay cả lúc chúng ta mệnh danh là người hoạt động trong các hội đoàn. Chưa thương xót người thân cận thì làm sao có thể yêu kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27) và tha thứ “bảy mươi lần bảy” (x. Mt 18:22) như Chúa Giêsu đã truyền dạy? Thánh Gioan gọi là “nói dối” (1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20).
Đề cập nhiệm vụ yêu thương, Thánh Phaolô giải thích: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, Người đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5:2). Rất dễ hiểu!
Vô cùng kỳ diệu vì vượt quá trí hiểu phàm nhân khi Chúa Giêsu đã có cách độc nhất vô nhị là “lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta”. Không thể nào chúng ta khả dĩ hiểu hết sự mầu nhiệm này. Vì thế, người Do-thái đã xầm xì phản đối khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6:41). Nghe “sốc” quá, muốn lộn gan và muốn điên lên được! Rồi họ đặt vấn đề: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6:42). Ui da, nghe mà nổi da gà và khó tin quá đi, bởi vì “anh chàng” Giêsu này ở cùng xóm lao động với họ, hằng ngày ra vào chạm mặt nhau, thế mà bây giờ bỗng dưng “nói rước” lên về mình thái quá. Ai mà chịu nổi chứ? Nhà Chú Giuse và Cô Maria nghèo rớt mồng tơi, ai còn lạ gì trong xóm nhỏ ở cái làng Nadarét bằng cái bàn tay ấy? Quen mặt, biết tên hết trơn!
Thế nhưng Chàng Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!” (Ga 6:43). Ôi, lạ thế nhỉ? Họ nói thầm với nhau mà Chúa Giêsu cũng biết. Lạ lùng thật! Rồi Ngài nói tiếp: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:44). Hết bất ngờ này tới bất ngờ khác, chắc lúc đó họ ngẩn người trông ngố còn hơn “chú Tàu nghe kèn”. Miệng chữ A, mắt chữ O, họ chưa hết kinh ngạc thì lại nghe Ngài nói: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6:45-47). Lạ lùng lắm, lạ tới mức chịu không nổi nữa!
Sự thật vẫn là sự thật, mặc dù người ta không tin. Chúa Giêsu lặp lại và giải thích: “Tôi là BÁNH TRƯỜNG SINH. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là BÁNH TỪ TRỜI xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là BÁNH HẰNG SỐNG từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:49-51). Lại càng khó lọt tai hơn. Ai lại ăn thịt sống và uống máu sống chứ? Nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Và điều đó chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ làm được. Chúng ta cũng phải đấm ngực và bắt chước viên đại đội trưởng mà thốt lên: “Đúng người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54). Và rồi từ đó tới nay, đã có nhiều phép lạ Thánh Thể để củng cố đức tin cho chúng ta.
Có câu chuyện lý luận về Thánh Thể như thế này…
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Một hôm, một vị thầy lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
– Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
– Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Vậy thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được?
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
– Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
– Thầy hãy nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
– Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
– Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
– Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào? Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô mà Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Hãy nghe Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta qua Thánh nữ Faustina:
– “Ta rất đau lòng khi các linh hồn lãnh nhận bí tích yêu thương này như một thói quen, hầu như họ không nhận thức được của ăn này, cho nên họ không có niềm tin hay tình yêu đối với Ta trong trái tim họ. Ta bước vô những tâm hồn đó với tất cả sự miễn cưỡng, thà rằng họ đừng rước lễ thì hơn” (Nhật Ký, số 1258).
– “Niềm vui thích lớn lao của Ta là được kết hợp với các linh hồn… Khi họ rước lễ, Ta đến ngự trong tâm hồn họ. Bàn tay Ta đầy những ân sủng mà Ta muốn ban cho họ, nhưng họ không để ý đến Ta. Họ để Ta thui thủi một mình và bận bịu với những ý nghĩ riêng tư của họ. Ôi, buồn biết mấy vì những linh hồn không nhận biết tình yêu của Ta! Họ đối xử với Ta như một vật chết” (Nhật Ký, số 1385).
– “Thật đau đớn cho Ta, rất ít linh hồn biết kết hợp với Ta trong lúc đón rước Ta. Ta chờ đợi họ, nhưng họ rất lãnh đạm thờ ơ với Ta. Ta muốn ban rất nhiều ơn cho họ nhưng họ không muốn nhận lãnh” (Nhật Ký, số 1447).
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã sai Con Một Ngài đến trần gian để cứu độ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng với hồng ân được lãnh nhận và luôn biết quyết tâm noi gương Đức Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh, xin giúp chúng con chuẩn bị chu đáo để xứng đáng lãnh nhận Bánh Thánh Giêsu và được phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật XVIII Thường Niên, dân chúng đã nói với Chúa Giê-su rằng: “Thưa TN 19-B150
Trong Tin Mừng Chúa Nhật XVIII Thường Niên, dân chúng đã nói với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.”. Chúa Giê-su trả lời: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ.”(Ga 6, 34-35). Nghe những lời Chúa Giê-su nói xong, một số người Do thái trong đám đông liền quay lại xầm xì với nhau. Họ xầm xì về những gì?
Họ đã nói với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”? Họ xầm xì với nhau về những chuyện mà họ thấy, họ biết. Họ chỉ nhìn ở phía bên ngoài của cuộc sống. Đối với họ, người từ trời xuống phải là một người cao trọng nào đó, chứ không phải là một người thấp hèn, khổ cực được. Họ chỉ nói to nhỏ cho nhau nghe thôi. Vậy mà, Chúa Giê-su đã nghe được điều họ nói, liền đáp rằng: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!”(Ga 6,43). Người bắt đầu nói với họ về sự lôi kéo của Chúa Cha nơi những ai đến với Ngài. Và từ nơi Ngài, mọi người sẽ được hưởng sự sống vĩnh cửu bởi Bánh Hằng Sống. Tổ tiên họ ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết, còn bánh Ngài trao là bánh đem sự sống muôn đời (x. Ga 6, 44-51). Nhưng rồi người Do thái có chịu tin không? Thái độ xầm xì với nhau về Chúa Giê-su của họ, đã tỏ lộ một sự khó tin, khó chấp nhận.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có xầm xì khi đến với Chúa không? Khi đến tham dự Thánh lễ, chúng ta mang tâm tình, thái độ nào? Một thái độ sốt sắng hay hờ hững hoặc ở trước mắt Chúa nhưng ta vẫn làm việc ta. Đó là một kiểu xầm xì tinh vi mà có khi chúng ta không hay biết. Ngày hôm nay, Giáo hội đang gặp khó khăn trước vấn đề Đức tin nơi các mọi Ki-tô hữu. Những lời xầm xì của thế gian đang len lỏi vào tâm hồn của mỗi người, khiến cho mọi người càng khó tin Chúa Giê-su là bánh Trường Sinh và ngay cả chính bản thân chúng ta cũng không ý thức đủ. Vậy chúng ta phải làm sao? Nhớ lại lời Chúa Giê-su nói: “Ai tin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” Mỗi chúng ta cùng tha thiết xin Chúa Giê-su thêm tình yêu, sự khao khát, ơn biến đổi nơi chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ có cơ hội tham dự vào sự sống trường sinh là Nước Trời.
Lạy Chúa, chúng con đang lần bước trên đường đời, đi tìm sự sống giữa những u tối. Xin ánh sáng chân lý Chúa soi dẫn lý trí chúng con. Để nhờ đó, chúng con ý thức hơn khi đến với Ngài và tin Ngài là bánh Trường Sinh. Amen.