Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống'”. Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Ở Chúa nhật trước, chúng ta thấy dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu không vì mong muốn khám: TN 19-B51
Ở Chúa nhật trước, chúng ta thấy dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu không vì mong muốn khám phá Chân lý, khám phá con người Giêsu cũng như những lời giáo huấn của Người mà chỉ vì mong được ăn uống no nê, mong được hưởng thụ cho sướng tấm thân. Lần đó, Chúa Giêsu đã dẫn họ đến với một thứ bánh không hề hư nát là Bánh Trường Sinh. Muốn có bánh đó thì điều kiện tiên quyết là “phải làm những gì Thiên Chúa muốn và tin vào Đức Kytô” (Ga 6, 29). Đến Chúa nhật này, chúng ta thấy người Dothái bắt đầu xầm xì thắc mắc về những dẫn giải của Chúa Giêsu. Lời của người này sao mà khó nghe quá! Không nản chí, Chúa Giêsu tiếp tục giảng giải cho họ về việc Người chính là Bánh Hằng Sống.
Thói xầm xì nhỏ to những chuyện khó ưa có thể nói là căn bệnh thâm căn cố đế của con người. Nhưng, để được lưu vào sử sách, người Dothái có lẽ phải đứng vào hàng “top ten”. Thật vậy, trong lịch sử thời Xuất hành, dân này đã nhiều lần xầm xì bất mãn. Bị đói: xầm xì; bị khát: càu nhàu; giặc giã, tai ương: trách móc, lẩm bẩm kêu ca (x. Xh 15,24 ; 16,2 ; 17,3 ; Ds 16,2 ; 20,4). Nay, thời Chúa Giêsu, họ cũng rơi vào căn bệnh “cha nào con ấy”. Ông này chẳng phải là, là, là… mà sao lại, lại, lại… Thế đấy! Căn bệnh này luôn tiềm ẩn trong lòng người và nó ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ của những ai dám coi thường nó.
Thắc mắc của người Dothái chỉ là thắc mắc, xầm xì của “người trần mắt thịt”, chỉ xem Chúa là một người bình thường, sống và sinh hoạt như họ không hơn không kém. Chúa Giêsu mạc khải cho họ về con người Thần linh của Người. “Chả ai đến được với tôi nếu Chúa Cha không lôi kéo, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”. Nói cách một cách nôm na, điều ấy - bánh Hằng sống - làm sao người phàm trần có thể hiểu được nếu như Chúa Giêsu không mạc khải và Thiên Chúa không lôi kéo mời gọi. Vì thế, việc người Dothái xầm xì cũng là việc dễ hiểu.
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho họ một thứ Bánh Trường Sinh. Thứ bánh này không phải như Manna xưa cha ông họ đã ăn và đã chết. Bánh Trường Sinh này chính Chúa Giêsu, bánh chính hiệu của Chúa Cha, ai ăn sẽ được sống đời đời. Chúa Giêsu quả quyết như vậy và chúng ta cũng xác tín mạnh mẽ như thế.
Bánh Hằng Sống chính là TIN vào Chúa Giêsu. “Ai tin thì được sống đời đời”. Chính vì Tin vào Chúa Giêsu, mà Bánh hằng sống – qua bí tích Thánh Thể- được Giáo hội long trọng cử hành mỗi ngày trên toàn thế giới, qua đôi tay của các vị Tư tế, để trở nên nguồn linh dược thần linh nuôi sống nhân trần. Chính vì Tin vào Chúa Giêsu, hai ngàn năm qua, nguồn linh dược thần linh này trở nên nguồn lương thực độc nhất vô nhị với đầy đủ hương vị thích hợp cho mọi người, bất kể họ là ai, thuộc chủng tộc, mầu da nào, hay khác biệt về phong tục tập quán, tất cả đều Tin và chia sẻ nguồn linh dược thần diệu này mà không chút nhàm chán.
Bánh Hằng Sống là ĐẾN với Chúa Giêsu. “Chẳng ai đến được với tôi…”; “Ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì đến với tôi”. Đến với Chúa Giêsu, sức hấp lực này dĩ nhiên không như những người Dothái đã làm - nghĩa là đến với Người chỉ để được ăn no mà thôi. Không! Chúng ta không đến với Chúa Giêsu chỉ vì những cái lợi tạm thời chóng qua, mau hư nát mà tìm đến với những giá trị mang ơn cứu độ, có giá trị vĩnh hằng. Đến với Chúa Giêsu, chúng ta ao ước được lắng nghe Lời Hằng sống và mong được lãnh nhận lương thực thần linh nuôi dưỡng linh hồn. Và, đến với Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Thể, chúng ta tin rằng sẽ được cùng với Người chiêm ngưỡng trước cuộc sống mai sau.
Bánh Hằng Sống chính là THỊT Chúa Giêsu. “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Vâng, không ai trong chúng ta hoài nghi về mầu nhiệm tuyệt vời này. Chúa Giêsu đã trở nên người phàm như chúng ta và giờ đây, chính thân xác ấy lại trở nên nguồn thần linh vô giá nuôi sống nhân trần. Mầu nhiệm Tình yêu này sẽ mãi là mầu nhiệm độc nhất vô nhị, khiến cho chúng ta một khi đã lãnh nhận thì mãi mãi vẫn còn khao khát được lãnh nhận nhiều hơn nữa.
Tạ ơn Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta không chỉ bằng Lời mà còn bằng chính Bánh Hằng sống từ trời. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận Lời và Bánh nguồn sống ấy trong tâm tình cảm tạ tri ân, đồng thời biết chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng và tinh tuyền để có thể đón nhận nguồn hồng ân vô giá này cách xứng hợp.
Đoạn Tin Mừng Gio-an chương 6 gây cho ta một thắc mắc: Đúng lý ra trình thuật Chúa hóa: TN 19-B52
Đoạn Tin Mừng Gio-an chương 6 gây cho ta một thắc mắc: Đúng lý ra trình thuật Chúa hóa bánh cá ra nhiều nuôi dân (x Ga 6,1-15), phải đi liền với diễn từ về mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể (x Ga 6,22t), để nói lên người ta phải tìm của nuôi linh hồn quan trọng hơn là bánh nuôi thân xác. Thế mà tác giả Gio-an lại viết chen phép lạ Chúa Giê-su đi trên mặt biển đến với thuyền các môn đệ đang gặp biển động quyền phong đốc thổi (x Ga 6,16-21).
Sở dĩ ông Gio-an viết chen phép lạ này giữa trình thuật hóa bánh và diễn từ Thánh Thể, là dấu chỉ báo trước cho các môn đệ biết: Nếu các ông thấy dân đói khát của ăn vật chất, họ phải chạy đi tìm kiếm các ông để xin giải quyết (x Ga 6,14.22-26), mà các ông thấy đó là việc phải làm quan trọng, rất thực tiễn, phải giúp họ tận tình mới là sống bác ái, để rồi các ông bỏ bê xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời là bổn phận chính của các ông, thì chắc chắn cộng đoàn sẽ gặp sóng gió, gây bất hòa với nhau (x Cv 6,1-7). Sóng gió này hơn thuyền các môn đệ gặp giông tố bão táp trên biển!
Vậy ta muốn được bình an đích thực, ta cần phải có Chúa Giê-su Phục Sinh hiện diện (x Ga 6,20 ; 20,19.26) từng ngày trong đời ta, để ta sống khác với dân ngoại, Ngài giúp ta canh tân đổi mới cuộc đời, cho ta được sống giống như Thiên Chúa (x Ep 4,17.20-24: Bài đọc II).
I. ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN ĐÍCH THỰC CẦN PHẢI CÓ CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH HIỆN DIỆN.
Chúa Giê-su Phục Sinh không bao giờ chúc bình an cho ai khi Ngài gặp họ không sống chung với các Tông Đồ trong ngày Chúa nhật! Nói cách khác, Ngài chỉ ban bình an cho cộng đoàn Ngài chọn họp nhau trong ngày Chúa nhật mà thôi! (x Ga 20,19.26)
Ta biết ngày Chúa nhật là ngày Chúa Giê-su hoàn tất giá trị Phụng Vụ, đó là kế hoạch Chúa cứu độ con người, nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su, và chỉ trong Phụng Vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa mới nói với chúng ta: “Mọi sự của Cha đều là của con” (x Ga 17,7-10 ; Lc 15,31), vì khi ta “CÓ” đầy đủ mọi sự Chúa ban cho,ta mới thực sự được bình an.
Ông Mô-sê được Chúa dùng dẫn dân Chúa thoát nô lệ Ai-cập, ông hỏi tên Chúa là gì, để ông về nói với dân theo ông ra khỏi Ai-cập. Chúa nói với ông: “TA LÀ” hay “TA CÓ” (x Xh 3,13-14). Suốt thời Cựu Ước dân Chúa cứ thắc mắc: “Chúa là gì? Hay Chúa có gì?” Vào thời Tân Ước, Con Thiên Chúa sinh làm người, Ngài mới mạc khải nội dung và ý nghĩa danh Gia-vê qua bảy lần Ngài nói:
Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta không còn đói khát (Ga 6,35). Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta không còn ở trong tối tăm, nhưng có ánh sáng sự sống (Ga 8,12). Ta là cửa ràn chiên (Chúa Giê-su dẫn ta vào Hội Thánh), ngoài Ta ai dẫn các ngươi nó là trộm là cướp! (Ga 10,7). Ta là Mục Tử tốt lành, Ta thí mạng sống vì chiên (Ga 10,10). Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25). Ta là đường và là sự thật, sự sống (Ga 14,6). Ta là cây nho đích thực (Ga 15,1).
Chúng ta lưu ý 7 lần Chúa Giê-su nói “Ta Là”, thì mở đầu (lần I): “Ta là bánh”, và kết thúc (lần VII): “Ta là nho”. Bánh và nho là dấu chỉ của Bí tích Thánh Thể. Như thế, qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su Phục Sinh tái tạo (số 7 dấu chỉ một tuần Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ) kẻ đón nhận Ngài mỗi ngày được nên hoàn hảo giống Thiên Chúa hơn. Đó là ý định ngàn đời Thiên Chúa muốn tạo dựng con người cách hoàn hảo trong Chúa Giê-su, như lời thánh Phao-lô nói:
“Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả được viên mãn đậu lại trong Chúa Giê-su” (Cl.1,19).
“Bởi vì Người đã chọn ta trong Ngài từ tạo thiên lập địa, để ta được nên thánh… nhờ máu Người đổ ra cho ta được ơn tha tội… Vì sự an bài của Người cho muôn thời được viên mãn, là thâu họp vạn vật dưới một đầu một mối trong Đức Ki-tô, vật ở trời cao, vật nơi dương thế” (Ep 1,4-10).
II. ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA CHỈ BAN “HÔM NAY” THÔI.
Trong giờ Kinh Phụng Vụ ban sáng, chúng ta thường đọc: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94,7). Nên Chúa kêu gọi: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha” (Mt 21,28). Bởi vì Chúa chỉ xét xử người ta trong giây phút hiện tại: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của nó, và làm điều bất chính, thì chính vì điều bất chính nó đã làm, mà nó phải chết ; còn kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó cứu được mạng sống nó” (Ed 18,26-27).
Ta nhớ 7 lần Chúa Giê-su đều xưng danh “Ta Là” (ở thì hiện tại) mà Tin Mừng Gio-an đã ghi lại, để diễn tả sự vô cùng giàu có của Chúa (ý nghĩa con số 7) trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su công bố ở thời hiện tại. Do đó xưa dân Chúa đi trong sa mạc, muốn có đủ sức tiến về miền đất Chúa hứa, thì mỗi ngày (hiện tại), họ phải đi lượm man-na để ăn cho đủ ngày hôm đó thôi (x Xh 16,2-15: Bài đọc I). Man-na đó là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể, Chúa thông ban sự sống đời đời của Ngài cho ta (x Ga 6,57). Thế mà ta không thèm ăn Man-na mới của Chúa Giê-su ban cho mỗi ngày, thì làm sao ta đủ sức tiến về Thiên Đàng, đấy mới là đích thực miền đất Chúa hứa cho dân Ngài, hơn xưa đất Ca-na-an Chúa hứa cho dân Do-thái.
III. TA ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CHÚA BAN CHO TA QUA BÍ TÍCH THÁNH THỂ.
Thánh Phao-lô trong Bài đọc II đã dạy chúng ta:
“Anh em đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ chỉ sống theo những tư tưởng phù phiếm” (Ep 4,17). Họ chỉ lo tìm kiếm của cải vật chất, vì chủ trương rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nghĩa là cứ có đầy đủ của cải là có dư thừa hạnh phúc! Đó thực là tư tưởng phù phiếm mà nhiều kẻ lại lấy đó làm thánh giáo! (x Mt 15,9)
“Anh phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối” (Ep 4,22), như dân Do-thái muốn trở lại kiếp nô lệ Ai-cập, mơ tưởng được ngồi bên niêu thịt mà ăn bánh thỏa thuê, nên họ kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập” (x Xh 16,3: Bài đọc I) ; còn dân Chúa hôm nay, chỉ mong ước được thỏa mãn các đam mê xác thịt, chấp nhận nô lệ cho sa-tan! Văn hào người Nga tên là Dostoeski nói: “Ngày nay nếu đặt trước mắt người ta tự do và bánh mì ; hoặc chân lý và quyền lợi, thì người ta sẽ chọn bánh mì và quyền lợi! Mặc dù lương tri con người ai cũng biết: Tự do và chân lý thì cao quý hơn quyền lợi và bánh mì!”
“Anh em phải để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4,23). Cụ thể như 11 môn đệ của Chúa, họ kiên nhẫn theo Thầy Giê-su đến cùng (x Mt 24,13), nên sau khi họ đã được rước lễ, Chúa biến đổi họ từ những mảnh đất vệ đường, đá sỏi, bụi gai (x Mt 13,19 = Mc 8,17-21 ; Mt 13,20-21 = Mc 14,50 ; Mt 13,22 = Mc 10,35-40), trở thành những mảnh đất tốt, làm cho hạt giống Lời Chúa đơm bông kết trái, cho muôn dân, mọi thời cho đến tận thế được no thỏa.
“Anh em phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Trong các bài giảng của Chúa Giê-su, chỉ có bài giảng về mầu nhiệm Thánh Thể là dài nhất (x Ga 6,26-59: 33 câu), như vậy Chúa Giê-su muốn nói về việc cử hành Thánh Thể: giáo dục dân bằng Lời Chúa là quan trọng nhất ; bởi lẽ mỗi Thánh lễ là một cuộc Sáng tạo mới trong Chúa Giê-su Phục Sinh, mà giáo dục ai, chính là tạo hình (formation) người ấy theo một khuôn mẫu, Thiên Chúa đã không chọn được một con vật nào mà Ngài đã dựng nên nó rất tốt đẹp, để làm mẫu tạo dựng loài người (x St 2,19-20), mà Thiên Chúa chỉ lấy hình ảnh Ngài làm khuôn mẫu tạo dựng loài người, để con người được đồng hóa với Thiên Chúa (x Gl 2,20). Chính vì thế mà khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa bàn bạc với nhau, để nhờ Lời của Ngài phán ra, con người được được Thiên Chúa nắn tạo theo hình ảnh của Ngài (x St 1,26-27). Cũng vì Chúa muốn qua mầu nhiệm Thánh Thể, dân Chúa phải được tái tạo hình (formation) theo mẫu Thiên Chúa bằng việc giáo dục Lời của Ngài. Đó là lý do Chúa Giê-su nhắc lại lời ngôn sứ I-sai-a chương 54, câu 13: “Con cái của ngươi (Giê-ru-sa-lem mới) hết thảy đều được Thiên Chúa giáo dục” (Ga 6,45).
Trong trình thuật Sáng tạo lần II, Thiên Chúa đã lấy đất sét nắn tạo nên loài người (x St 2,7). Nên mỗi khi ta dự Thánh lễ, ta như cục đất sét trong tay Đấng Sáng Tạo (x Is 64,8). Do đó mỗi lần ta đến dự lễ cách trọn vẹn, ta lại được Chúa Giê-su nắn tạo ta mỗi ngày nên hoàn hảo hơn. Thánh Phao-lô nói: “Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, họ là thụ tạo mới, con người cũ đã qua đi, và con người mới được tạo thành” (2Cr 5,17).
Nếu nắm đất sét trong tay người thợ gốm, ông chỉ nắn tạo tác phẩm có một lần trong ngày, thì tác phẩm đó chắc chắn là tầm thường. Trái lại, tác phẩm đó được người nắn tạo ra nó mỗi ngày ông sửa một chút, cho tới cả trăm năm mới xong, thì chắc chắn nó là một kiệt tác. Không biết một Ki-tô hữu chỉ giữ Luật rước lễ mỗi năm một lần vào mùa Phục Sinh, mà họ được Chúa cho sống tới 100 tuổi, thì họ chỉ được Chúa nắn tạo 100 lần, trong khi đó muốn Chúa nắn tạo họ 36.000 lần mà không được, thì liệu trong thời Phục Sinh, họ có phải là người “khuyết tật” không?! Mà đã trở thành kẻ “khuyết tật” vì lười rước lễ, nên vào ngày cánh chung, nó lết mãi mới tới Thiên Đàng, lúc ấy các thánh mạnh khỏe vào trước đã dự tiệc xong, ai cũng được no thỏa vui vẻ ra về, còn kẻ “khuyết tật” vào Thiên Đàng trễ, để đi dọn bàn hay rửa chén ư?!
Thánh Gio-an diễn tả: “Ngày cánh chung các thánh là những cô dâu mặc áo trúc bâu vào dự tiệc cưới, áo trúc bâu đó là công đức của các thánh” (Kh 19,7-8), mà kẻ lười rước lễ, chắc chắn là do thiếu đức tin, thiếu lòng mến Chúa, thì áo đó có phải là áo cưới của họ mặc không? Kẻ không mặc áo cưới mà vào dự tiệc, sẽ bị tống vào ngục tù! (x Mt 22,1-13)
Chúng ta cùng cầu nguyện: "Lạy Chúa, Chúa khiến man-na tựa hồ như mưa đổ xuống và ban bánh bởi Trời nuôi dưỡng con, kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gởi đến cho con dồi dào lương thực, Chúa dẫn đưa con vào miền đất thánh” (Tv 78/77, 24-25.54-55: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh (Ga 6,27)
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ những ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác,: TN 19-B53
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ những ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, những bất ngờ này tới bất ngờ khác,và như thế, con người luôn cảm phục một Thiên Chúa vô cùng cao cả, nhưng lại là một Thiên Chúa vô cùng gần gũi với con người.Thiên Chúa ấy đã sai con của Ngài là Đức Giêsu sống với, sống cho con người và sống vì con người.Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ, đã làm cho người chết sống lại, đã xua trừ ma quỷ, đã chữa mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền.Điều quan trọng nhất, Ngài đã từng bước hướng dẫn những người theo Chúa đi từ thứ bánh, đi từ lương thực hằng ngày, của ăn nuôi sống thể xác đến thứ bánh quí giá,thứ bánh nuôi sống linh hồn, thứ bánh mang lại sự sống trường sinh.Đức Giêsu đã đưa những người nghe Ngài về cái đói thể xác, cái đói về tâm linh, về tinh thần, cái ước vọng vô biên về sự sống đời đời. Để rồi, ai cũng vậy, nhất nhất những người đang nghe Ngài rao giảng đều nài nỉ Ngài: ” Xin cho chúng tôi của ăn đó “ và Ngài tuyên bố:” Ta là bánh hằng sống “.
“Tôi là Bánh trường sinh “( Ga 6,48 ).”Tôi là Bánh từ trời xuống”( Ga 6,51): Dân chúng theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy.Họ quên đi tất cả,quên thời gian, quên khó nhọc và quên cả cái đói, cái khát đang đè nặng trên họ.Tuy nhiên, Chúa luôn quan tâm tới dân chúng. Chúa luôn để ý tới đoàn lũ đông đảo đang cần tới lương thực, đang cần đến của ăn để lấp đầy cái đói, cái khát đang hoành hành họ. Ngài đã gợi ý cho các môn đệ, Ngài cần một Anrê giới thiệu một em bé, Ngài cần em bé dâng hay nói đúng hơn bán cho Anrê hai con cá và năm chiếc bánh. Ngài cần sự cộng tác của các môn đệ để chính các môn đệ ổn định dân chúng và rồi phép lạ đã xẩy ra. Nhưng điều quan trọng nhất qua phép lạ này, Ngài hướng dân chúng về một của ăn không bao giờ mất, một thứ lương thực trường sinh, ban cho dân chúng sự sống vĩnh cửu. Lương thực đó chính là Đức Giêsu,Con Thiên Chúa ( Ga 6, 32 – 33 ) mà Chúa Cha ban cho nhân loại, ban cho con người.
Dân Do Thái xưa chỉ dừng lại ở thứ bánh mau qua là Manna từ trời Thiên Chúa cho mưa xuống nuôi dân đi trong sa mạc. Nay,Chúa muốn cho dân thấy Chúa chính là Bánh trường sinh.Ước mơ được sống bất tử của con người luôn là vấn nạn ngàn đời của mỗi người. Cái chết là nỗi giày vò con người muôn thuở.Do đó, được Chúa hứa ban sự sống trường sinh, bất tử, dân chúng hồ hởi tuôn đến với Chúa để xin cho được thứ Bánh đó và thứ nước uống vào không khát nữa. Sự sống và cơn khát sẽ hết là chính Đức Giêsu, Ngài đang hiện diện giữa con người, giữa loài người, giữa chúng ta. Chúa hiện diện như lời Ngài nói: ” Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ”( Mt 18, 20 ). Chúa hiện diện với nhân loại, với chúng ta trong Kinh Thánh qua Lời của Người. Lời của Người đã nói cách đây hơn 2.000 năm cũng là Lời Người đang nói với con người, với nhân loại, với chúng ta trong Tin Mừng. Chúa hiện diện với thế giới, với con người qua các giáo huấn của Giáo Hội, qua các lời giảng giải và qua các Bí Tích mà các Linh mục trao ban. Chúa hiện diện với nhân loại, với chúng ta qua Bí Tich Thánh Thể: ” Ta là Bánh hằng sống…Ai ăn Bánh này sẽ được sống đời đời “ ( Ga 6, 52 ).
Của ăn nuôi sống thân xác không phải là không cần thiết. Bởi vì, chính Chúa Giêsu cũng đã bị ma quỷ, satan cám dỗ trong hoang địa khi Ngài ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày. Satan đã đánh ngay vào cái đói của Chúa để mong cám dỗ Chúa, cám dỗ ấy chúng ta vẫn thường gặp hằng ngày.
Cơm, bánh: của ăn thân xác sẽ bị hư nát và khi con người nhắm mắt xuôi tay sẽ không mang theo được bắt cứ cái gì, kể cả tiền bạc, vàng, đá quí vv…Như vậy, sự sống đời đời không phải là một lý thuyết viển vông, xa vời, nhưng là một thực tại đang ở trước mắt và đang triển nở thực sự trong đời sống của mỗi Kitô hữu.Mình Máu của Chúa Kitô, Lời của Chúa chính là lương thực nuôi người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể và để mỗi lần chúng con tham dự thánh lễ, mỗi lần chúng con rước Chúa vào lòng là chúng con nhận lãnh sự sống trường sinh. Amen.
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo: TN 19-B54
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần:
Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.
I. TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối:”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống” ? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố:”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
Truyện: Bé cái lầm
Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.
Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.
II. TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.
Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa:”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna. So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).
Đức Giêsu lại nói tiếp:”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.
Truyện: Phép lạ ở Lanciano.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).
III. BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.
Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau:
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây Thoát chốc mà già đã tới ngay.
Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa: ”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.
Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống... Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.
Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.
Truyện: Thuốc bất tử hay thuốc tử ?
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng:
Vị thuốc này có ăn được không ? Người ấy đáp:
Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng:
Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng:”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được ? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)
Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Ta là Bánh từ trời xuống... Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.
IV. THÁI ĐỘ CỦA TA.
1. Tin hay không tin.
Khi Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư ?
Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý ! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin: đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson) ?
2. Muốn được đến với Chúa.
Đức Giêsu phán tiếp:”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Truyện: Hồng y Newman.
Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau:”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng:”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.
3. Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.
Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói:”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào ? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).
Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).
Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao qúy ấy.
Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân: TN 19-B55
Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:
Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1300 thai nhi bị giết hại
Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì TN GT, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tan nạn giao thông.
Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS
Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn có gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.
Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.
Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?
Là người ky-tô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, ...tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?
Cuộc đời dương thế của Chúa Giê-su là chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.
Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình.
Nguyện xin Chúa Giê-su Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen
Chàng Rôbinsơn trong câu chuyện “Trên Hoang Đảo” của Daniel Defoe đã lấy làm kinh tởm khi thấy: TN 19-B56
Chàng Rôbinsơn trong câu chuyện “Trên Hoang Đảo” của Daniel Defoe đã lấy làm kinh tởm khi thấy người thổ dân moi tim kẻ thù để ăn. Sở dĩ họ moi tim kẻ thù để ăn, vì họ tin rằng: “Ăn gì bổ nấy, ăn cá thì giỏi bơi lội, ăn tim người thì thêm dũng cảm”. Đối với chàng Rôbinsơn thì việc làm của những người thổ dân này là man rợ, là không thể chấp nhận được (x. Lời Chúa 5 phút/ ngày, 11.4.2008).
Khi Chúa Giêsu tuyên bố thịt máu Ngài chính là của ăn nuôi sống con người, dân Do Thái cũng có phản ứng tương tự chàng Rôbinsơn. Bởi lẽ ăn thịt và uống máu người là điều nghịch với luân lý tự nhiên, nếu không muốn nói là dã man, là mọi rợ…. Điều này cũng đụng phải luật cấm của Dothái giáo. Tự hiến chính mình làm của ăn của uống để cho người khác được sống đời đời lại càng khó chấp nhận.
Thật ra, ngay khi Chúa Giêsu khẳng định “Ta là bánh từ trời xuống”, người Dothái đã lấy làm khó chịu, và họ đã xầm xì phản đối ra mặt. Họ xầm xì phản đối là phải. Vì chưng họ quá biết rõ gốc gác xuất thân của Chúa Giêsu. Họ cũng quá biết con người và sự nghiệp của Ngài ra sao. Lời xầm xì đó là gì ? Rất có thể là: “Giả như ông ta là một con người huyền bí như Daniel, hay Isaia xuất hiện trên cõi trần thì lời tuyên bố này còn nghe được. Đàng này ông ta là con một ông thợ quèn Giuse, gia thế bết bát. Bản thân ông ta cũng chẳng có gì đáng nói: 30 năm làm nghề mộc, sống tầm tầm nơi một làng quê vô danh tiểu tốt. Bà con anh em của ông ta cũng thế cả thôi. Vậy mà dám tuyên bố: ‘Ta là Bánh từ trời xuống’. Quả là ông này thuộc ‘họ nổ’, quê ở ‘Trảng Bom’ rồi !”, …v.v…
Phản ứng đó trở nên gay gắt hơn khi nghe Chúa Giêsu bộc bạch bánh đó là Bánh Trường Sinh, bánh đem lại sự sống đời đời, bánh trổi vượt hơn cả Manna thời Cựu ước. Nghe lời này, chắc hẳn có cảm thấ lùng bùng lỗ tai, bởi thực tế chưa có ai trên đời này mà không chết, kể cả các tổ phụ đáng kính của họ. Ngay như Môisê là vị sứ ngôn vĩ đại có khả năng “khiến” Manna từ trời rơi xuống cho dân chúng ăn, thế mà Môisê cũng đã chết. Rõ ràng đối với họ, ông Giêsu này vừa mới ăn gan hùm hoặc mới uống mật gấu nguyên chất, nên mới dám tuyên bố táo tợn như vậy. Không khéo, có kẻ còn muốn tới sờ trán Chúa Giêsu xem có phải bị sốt do cúm … H1N1 hay không mà dám ngoa ngôn mạnh mồm như thế nữa kìa !?
Chưa dừng lại ở đó. Khi Chúa Giêsu quả quyết thêm rằng Bánh hằng sống từ trời đó chính là thịt của ngài, dân Do thái thực sự đã bị “sốc”, sốc trầm trọng. “Bánh từ trời” hay “Bánh hằng sống” gì gì đó có thể họ tạm chấp nhận được, vì ít ra Ngài cũng đã từng làm phép lạ uy quyền hoá bánh ra nhiều và các phép lạ khác trước đó. Thế còn khẳng định “Bánh ta ban tặng chính là thịt ta đây” thì không thể nào chấp nhận nổi. Quả nhiên, đối với họ lúc này, Chúa Giêsu “mất trí” nặng rồi. Ăn thịt người là mọi rợ, là dã man. Hơn nữa, xưa nay chưa từng có ai tự lấy thịt mình làm của ăn nuôi sống người khác bao giờ.
Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu đã khẳng định rằng có lãnh nhận chính Đấng là nguồn mạch sự sống thì mới có thể có sự sống đời đời nơi mình được. Đây là một mạc khải lớn lao và siêu việt, vượt quá sức tưởng tưởng của con người đương thời. Tất nhiên, mạc khải không bao giờ là đối tượng của lý trí tự nhiên. Bởi vậy cần phải đón nhận bằng đức tin, bằng ân sủng đến từ Thiên Chúa Cha, như lời Chúa Giêsu xác quyết: “Chẳng ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy”.
Nói cách khác, để có thể chấp nhận “ăn Thịt và uống Máu Chúa”, dù là dưới hình Bánh và hình Rượu của bí tích, thì cũng cần phải có đức tin do Thiên Chúa ân ban. Không có đức tin, người ta sẽ coi Bí tích Thánh Thể như là phù chú, bùa ngãi… Không có đức tin, không thể nhận ra sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Tin là tin vào Lời của Chúa, là lời chân thật; tin là tin vào cái chết tự hiến, cái chết vì yêu của Chúa trên thập giá; và tin là tin vào sự phục sinh vinh quang của Ngài. Nếu ta tin những điều đó, ta sẽ nhận ra sự hiện diện thực sự của Chúa trong Thánh Thể, và ta có thể tiếp rước Ngài làm của ăn thiêng liêng mang lại sự sống đời đời.
Tôi vẫn thường tiếp rước Thánh thể Chúa bằng tâm tình nào, thái độ nào ? Bằng đức tin hay bằng lý trí, bằng ân sủng của thiên Chúa hay bằng sức riêng của con người ?
Sự thật của Bánh trường sinh cần thiết cho từng cá nhân và cho cả nhân loại. “Ai không ăn Bánh này thì không sống sự sống đời đời” (Ga 6, 51)
Bánh nuôi sống từng cá nhân:
Sự kiện bánh trần gian như một lương thực cần thiết cho từng người sống trên trần thế này; nhưng cũng có một thực tế khác vì miếng ăn trên trần gian này mà nhiều người phải chết. Là một điều cần thiết nhưng cũng là một nguy hiểm thật sự. Con người cần lương thực để sống, lương thực ấy xuất phát từ lao động, con người phải làm việc để có cái ăn. Lao động gắn liền với cái ăn thường ngày, cho nên cái ăn như thế nào để lao động không trở thành án tù khổ sai cho người có cái ăn? Mỗi cá nhân sẽ trả lời câu hỏi này để giải quyết vấn đề cho sự sống của mình. Chính vì đây là câu chuyện giải quyết của những cá nhân mà làm ra những xu hướng khác nhau.
Bánh của người no đủ là tấm bánh của những cá nhân biết sử dụng đúng những gì mình có và những phần còn lại chia cho người khác theo cách của mình. Những cá nhân biết dùng đủ cho mình thôi là những con người ở tầng lớp trung gian nối hai bờ giàu nghèo gần lại. Thứ bánh dành cho những cá nhân này cũng là thứ bánh khác với thứ bánh của trần gian. Bởi thực chất của bánh trần gian luôn mang tính hấp dẫn cho thèm khát, rình mồi, tranh lấy. Bánh chia cho nhiều người vừa là tấm bánh mình làm ra có được vừa là tấm bánh bởi trời. Tính chất của Bánh Bởi Trời là Tấm Bánh đích thật cho mọi người. Dù cá nhân con người sẻ chia với tâm thức tôn giáo nào vẫn là Tấm Bánh đích thực ấy. Điều này xuất phát từ một ý nghĩa cơ bản của tấm bánh chia sẻ, đó là tấm bánh của sự trong sạch làm ra chứ không do cướp lấy của người này chia cho người khác hay do việc bất chính làm ra. Chính vì tấm bánh làm ra từ sự trong sạch mà chỉ có tấm bánh từ trời mới hội đủ điều kiện ấy. Bởi vậy, Chúa Giêsu trả lời cho người Do Thái “Làm công việc không vì của ăn hư nát” (Ga 6, 27).
Tấm bánh kẻ thừa mứa.
“Kẻ ăn không hết, kẻ lần không ra”. Khi tấm bánh thừa mứa không đem chia cho ai hết hoặc có đem chia phải có điều kiện trao đổi, đấy là tấm bánh làm hư nát nhiều khía cạnh khác của trần thế này. Tấm bánh này người xưa thường gọi là “tấm bánh của ô nhục”. Chính vì cái lõi ô nhục của nó mới phải gói tấm bánh ấy lại bằng nhiều thứ tiện nghi cao cấp, xa xỉ để bọc lấy nó. Dù nó có hình thức bề ngoài sang trọng và đắt giá như thế nào chăng nữa đó cũng chỉ là tấm bánh đã thối rữa từ trong ruột. Tấm bánh này là thứ bánh của trần gian hoàn toàn và là mối băng hoại nhiều cá nhân muốn có nó. Chúng ta cũng thường thấy nhiều con người vì tấm bánh này mà mất hết nhân cách, cốt lõi nhân phẩm của một con người và cũng làm cho các giá trị tốt đẹp bị hoen úa, băng hoại.
Tấm Bánh cần thiết cho mọi người:
Đó là tấm bánh bởi trời. Tấm bánh ấy là Tấm Bánh đã được ban cho nhân loại là Chúa Giêsu Kitô, Tấm Bánh của đau khổ là người vô tội lại mang lấy thân phận của những người tội lỗi: “khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình” (Rm 8, 3 ). Tấm Bánh được bẻ ra cho nhân loại trên Thập Giá và cũng là Tấm Bánh Phục Sinh để cho con người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tấm Bánh Bởi Trời cần thiết cho từng cá nhân trong nhân loại phục hồi sự sống đã đánh mất vì tội lỗi. Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II phát biểu: “Khi thiếu bánh chân lý, thứ bánh tinh thần thì con người trở nên suy nhược bệnh họan. Trong thế giới lộn xộn này con người lấy sự dữ làm sự thiện, lấy sai lầm làm chân lý, lấy vấp phạm làm quyền lợi” Cần thiết Tấm bánh chân lý cho đời.
Tấm Bánh cho nhân loại:
Thánh Gioan trình bày hai chủ đề quan trọng trong Phúc Âm của Ngài: Lời Hằng Sống và Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là Bánh Bởi Trời ban xuống. Tấm Bánh mà từ nguyên thủy đã là Lời phát nguyên mọi sự, “Mọi sự được tác thánh trong Lời” (Ga 1, 3). Lời nhập thể “trở nên người phàm ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Từ sự kiện Thánh Gioan trình bày đã cho thấy tính hoàn vũ được quy tụ trong Chúa Giêsu Kitô và đặc biệt hơn nữa Chúa Giêsu Kitô lại trở nên tấm Bánh cho người đón nhận. Tính hoàn vũ được tuôn chảy trong tâm hồn người đón nhận Thánh Thể, đó là mầu nhiệm Đức Tin đang được thực hiện trong Thánh lễ mỗi ngày được dâng lên.
Đối với người tiếp nhận Chúa Thánh Thể mỗi ngày, chúng ta sẽ thấy một mầu nhiệm sự sống thực sự đang tuôn đổ trên người lãnh nhận. Sự sống chúng ta đón nhận trong Thánh Thể không chỉ là sự sống của hiện tại mà mang chiều kích của Sự Sống của quá khứ, hiện tại và cả tương lai, một sự sống mà Chúa Giêsu giới thiệu là A và Ώ. Khởi nguyên và cùng tận tuôn chảy vào con người giới hạn là một mầu nhiệm không thể tưởng nổi, là bình sành hữu hạn dễ vỡ mà đón nhận nguồn sống vô biên vô hạn, Chúng ta sống Sự Sống tuôn chảy này thế nào? Đây là một câu hỏi luôn gợi lên một nghĩa sống dồi dào và phong phú.
Chúng ta mang trong mình sự quy tụ của Chúa Giêsu Kitô khi đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể. Người nối chúng ta với quá khứ trong giây phút hiện tại và dẫn chúng ta trên đường tương lai. Người thông qua chiếc bình nhỏ bé của chúng ta mà thực hiện công trình quy tụ của Người. Thấy được phần nào của mầu nhiệm này, chúng ta cũng sẽ thấy niềm vui khôn tả mà Đức Maria diễn tả “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hớn hở trong Thiên Chúa của tôi, vì Người đã đoái thương phận nhỏ này” (Lc 1, 46 – 48). Suy nghĩ điều này làm cho chúng ta thật hạnh phúc, hạnh phúc thật sự mà Chúa đã cho chúng ta nếm thử Nước Trời ngay trên trần gian này. Tạ Ơn Thiên Chúa và hằng Tạ Ơn Thiên Chúa.
Trong tâm tình tạ ơn chúng ta sẽ sống mầu nhiệm thu họp trong Tấm bánh Chúa Giêsu ban cho trần gian một cách tích cực. Ý nghĩa này được triển khai từ chất liệu bánh và rượu do lao công của con người. Từ tấm bánh cho mọi người được thu họp từ những chiếc bánh lao công của con người, Chúa Giêsu thật sự đang mong muốn chúng ta để cho Người hiện diện trong tất cả mọi sự trên trần thế này, xuyên suốt trong mọi thời gian. Từ năm chiếc bánh và hai con cá là đại diện cho cuộc đời con người của chúng ta, một trăm năm có sánh là gì với hàng tỷ năm con người xuất hiện, một chút lao công trong bốn mươi hay năm mươi năm làm việc của con người có sánh gì với công trình tạo dựng từ tạo thiện lập địa cho đến ngày sau hết. Thế mà Thiên Chúa vẫn mời gọi đem năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Người. Lao công của con người không vì của ăn hư nát mà được trở nên chính thân thể Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Gánh nặng của lao động được trở nên công việc của Thiên Chúa nghĩa là tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, đưa tất cả vào trong sự bền vững. Chính vì ý thức vào công trình sáng tạo mà con người đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày sẽ trở nên những con người thật tích cực với hết nhiệt tâm xây dựng trần thế này trở thành nơi Thiên Chúa ngự đến. Xin chúc tụng Thiên Chúa của con, và không ngừng chúc tụng.
Sức lan tỏa Chúa Giêsu Kitô đến tận cùng mọi hoạt động theo màu trắng của Thánh Thể lan tỏa theo nhãn quan của cha Pierre Teilhard de Chardin, có thể diễn tả theo cách khác là từ trong mỗi tâm hồn đón nhận lan đi cùng mọi hoạt động của họ đến cùng với vật liệu chất liệu của họ đụng chạm tới, một màu trắng tinh khôi chạm tới các thụ tạo trên trần thế làm tràn ngập Chúa Giêsu Kitô hiện diện. Chúa Giêsu Kitô Đấng sẽ thâu họp tất cả để nên Một trong Người mà dâng lên Chúa Cha trong hy lễ của chính Người. Vai trò thánh hóa có sự cộng tác của con gười tiếp nhận làm cho trần thế được biến đổi trong Chúa Thánh Thần nơi thân thể nhiệm màu của Chúa Kitô. Chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thể từ Tấm Bánh bẻ ra là Chúa Kitô đang nâng đỡ thế giới này và cũng đang cộng tác tiến tới hoàn thành công trình cứu độ của Chúa Kitô. Như vậy, chiều kích nhân loại được thực hiện được thực hiện nơi chúng ta những con người tiếp nhận và từng ngày như thế hoàn thành.
Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ: TN 19-B58
Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ chỉ nhìn thấy nơi Ðức Giêsu là con ông Giuse, một con người như biết bao nhiêu người khác. Ðức Giêsu hiểu được sự cứng lòng ấy; Người khẳng định người ta cần phải được Thiên Chúa giáo huấn, dạy dỗ để có thể đón nhận "Ðấng Chúa Cha sai đến" vì "không ai đến được với Tôi nếu Cha là Ðấng sai Tôi không lôi kéo họ"; và ai được lãnh nhận Bánh Chúa Giêsu ban là chính Thịt của Người thì mới có thể được sống muôn đời.
Ðức Giêsu Ðấng Thiên Sai từ trời xuống để trở nên Ơn Cứu độ cho con người. Người là Lời Thiên Chúa gửi đến để giáo huấn nhân loại; "phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi" và Người là Bánh để nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa trong nhân loại, "Bánh Tôi ban chính là Thịt Tôi để cho thế gian được sống".
Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Ðối với những người tin, tức là những người gắn bó với Ðức Giêsu, thì Lời của Người hướng dẫn họ trong cuộc sống trần gian, giúp họ đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian có biết bao điều mờ tối, lừa gạt, cám dỗ; nên Thiên Chúa muốn ban Lời của Người để "hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ". Khi mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa chỉ dẫn những khi rối rắm. Gắn bó cuộc đời với Ðức Giêsu, thì chúng ta bước theo đường lối của Thiên Chúa và tìm thấy bình an, hạnh phúc.
Ðối với những người đón nhận Thánh Thể, Bánh mang lại sự sống đời đời, thì chính Ðức Giêsu đến và biến đổi họ. Thánh Thể là nguồn nghị lực để chiến thắng cám dỗ của ích kỷ, là nguồn tình yêu để vuợt qua những gian nan trên hành trình sa mạc cuộc đời.
Dường như chúng ta vẫn chưa cởi mở và sẵn sàng đủ để lắng nghe Lời giáo huấn của Thiên Chúa ? Dường như chúng ta chưa đón nhận Thánh Thể như một quà tặng của Tình yêu Thiên Chúa ?
Lạy Chúa, Trên con đường trần gian, biết bao lần chúng con bị lầm lạc vì chạy theo những loại "bánh hay hư nát". Trên con đường trần gian; biết bao lần chúng con cảm thấy mệt mỏi và chán nản vì những trò đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm đến Chúa, là Lời Giáo huấn khôn ngoan và là Bánh Hằng Sống đời đời.
Đời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến: TN 19-B59
Ðời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến với con người. Biết bao người đã không leo đến đỉnh núi … Chính vì thế, Ðức Giêsu đã mạc khải con đường sáng dẫn đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.
Ðức Giêsu đã đi vào một trần gian đầy những con người thiển cận. "Chúa họ thờ là cái bụng." (Pl 3:19) Ði từ nhu cầu cấp thiết và căn bản nhất, Ðức Giêsu muốn mạc khải về chính bản thân: "Tôi là bánh từ trời xuống," (Ga 6:41) để đem lại sự sống vĩnh cửu. Quả thực, "Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6:51) Nói khác, để lên "núi của Thiên Chúa," (1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang lại sự sống đời đời.
Chính nguồn gốc và năng lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho "người Do thái xầm xì phản đối," (Ga 6:41) vì họ không tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Ðức tin này vượt quá nhận thức về thực tại và nguồn gốc tầm thường của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì trước khi đón nhận nước và manna trong sa mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). "Xầm xì là một điển hình về 'lòng bất tín.'" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong tục thời đại. Nói khác, đó là phản ứng của con người tự nhiên.
Rõ ràng đức tin không phải là thái độ tự nhiên. "Không phải con người, nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong công cuộc cứu độ." (Life Application Study Bible 1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi sáng, không ai có thể tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có thể đi đến một lựa chọn quyết liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu. Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha. Chính Ðức Giêsu quả quyết: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Ðấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy." (Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp điển hình. Ông đã từng chống đối quyết liệt niềm tin vào Ðức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn thân theo Chúa.
Trên hành trình về nhà Cha, nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh liệt. Trước hết, họ "được Thiên Chúa dạy dỗ"(Is 54:13; Gr 31:34) để có thể đặt tất cả niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô. Những tia nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con người chứng tỏ mức độ tự do cao cả nhất. Thực tế, không phải cứ biết là tin. Ðức Giêsu chứng minh: "Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi." (Ga 6:45) Có nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe, đón nhận những gì hợp sở thích và quyền lợi riêng. Họ "thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất." (Ga 3:31) Trái lại, "chỉ có Ðấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Ðấng ấy đã thấy Chúa Cha" (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Ðạt tới đỉnh cao ấy, con người phải trải qua một hành trình rất dài, dài hơn "cuộc hành trình lên núi Khôrếp" (1 V 19:4) của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có lương thực ? Thực tế, không có một thứ lương thực trần gian nào có thể giúp con người đi đến cùng đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái đã cho Ðức Giêsu thấy: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết." (Ga 6:49)
Không có bánh trường sinh là chính Ðức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa ? Không những "ai ăn (bánh này) thì khỏi phải chết" (Ga 6:50), mà còn "được sống muôn đời" (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy, Ðức Giêsu trở thành lương thực vô cùng cần thiết. Người còn nói rõ: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà Cha. Muốn được thế, Ðức Giêsu "đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt," (Ep 5:2) và trở thành "bánh hằng sống" (Ga 6:51) bổ dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia, "bánh hằng sống" có khả năng làm cho tín hữu "sống lại trong ngày sau hết." (Ga 6:44)
Như thế "bánh hằng sống" vừa là của ăn đàng vừa giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành trình trần gian, nhờ "bánh hằng sống", người tín hữu có khả năng "bắt chước Thiên Chúa" (Ep 5:1) để "sống trong tình bác ái." (Ep 5:2) Nói khác, nhờ "bánh hằng sống", các tín hữu hiệp nhất với nhau. Thật thế, "bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17)
Hiệp nhất lớn nhất tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể. Thật vậy, "cầu nguyện đem lại niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của Người. Ðây là sức mạnh lời cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn cứu độ." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín hữu liên kết với Chúa Cha và "có thể đón nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn vẹn sự sống của Người." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Không được "bánh hằng sống" ấy bổ dưỡng, không thể có sức mạnh vượt qua những cơn đau buồn và sẽ "lâm vào cảnh cô độc và chết chóc, vì Chúa là nguồn sống." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, "bánh hằng sống" là một mối lợi lớn nhất giúp người lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.
- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP Ga 6, 41-51 Có một thứ bánh khác
Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: TN 19-B60
Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: "Tôi là Bánh ban sự sống, bánh tiêu diệt sự chết."
Lời loan báo này dựa trên một biến cố huy hoàng: năm chiếc bánh được hoá nên nhiều, làm cho cả đám đông được ăn no. Các thính giả coi biến cố này là một cử chỉ của một vị ngôn sứ, của một ông vua. Họ nghĩ rằng, cuối cùng, Ðức Giêsu là vị thủ lãnh, chỉ nhờ quyền năng của lời, đã có thể nuôi đám đông đang bị đói, đồng thời hiệp nhất cả đám đông. Phải tôn Người làm vua, không chờ đợi gì cả. Nhưng Ðức Giêsu đã từ chối, Người trốn đi một mình.
Sau đấy, Người đã tuyên bố chính Người là bánh trường sinh, và cố gắng giải thích điều lạ lùng này cho dân chúng.
Quả thật, Ðức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, quy tụ những kẻ theo Người thành một dân. Bánh này không chỉ là man-na Ðức Chúa ban cho dân đang ở trong hoang địa thuộc giao ước cũ. Bánh này chính là Thiên Chúa tự hiến thành của ăn, của ăn đàng, tức là lương thực cho người đang hành trình. Thiên Chúa trở thành bánh cho con người: một mặc khải tuyệt vời, hoàn toàn vượt quá óc tưởng tượng của các thính giả.
"Tôi là bánh trường sinh."
Lời tuyên bố không thể chấp nhận nổi.
Ðể hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của mặc khải này, người ta không thể tách rời diễn từ về bánh trường sinh với những điều Ðức Giêsu thực hiện trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trong cả hai trình thuật này, có ba thực tại luôn đan kết với nhau như là những yếu tố của một mầu nhiệm duy nhất: bánh, đức tin và sự sống - Ăn, tin và chiến thắng sự chết.
Với cuộc phục sinh, Ðức Ki-tô sẽ thực hiện việc hoá bánh ra nhiều đích thực: không chỉ là bánh ăn thông thường, nhưng là bánh ban sự sống. Từ nay, qua các buổi cử hành lễ tạ ơn, dấu chỉ này về cuộc phục sinh - tức là bánh ban sự sống luôn có tính hữu hiệu và có chiều kích phỗ quát. Nó không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Hai mươi thế kỷ sau,một Charles de Foucauld trong sa mạc Tamanrasset, hay bất cứ một vị linh mục nào, cũng đều thực hiện cử chỉ kỳ diệu này, cử chỉ đem lại sự sống, bắt đầu từ lời và hành động Ðức Giêsu đã thực hiện.
Quả thế, mổi thánh lễ vẫn là một lời khẳng định dứt khoát rằng quyền lực tử thần không thể là tiếng nói cuối cùng. Lời khẳng định này được nói lên khi các Ki-tô hữu đang cùng nhau chia sẻ tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Ðức Ki-tô, mặc dù họ vẫn đang bị cầm giữ trong thân xác, vẫn đang bị cơn đói hành hạ và vẫn đang bị cái chết đe doạ. Từ giữa những bóng tối của cuộc đời, họ cử hành mầu nhiệm về bánh ban sự sống và nhờ đó họ có thể dần dần thoát ra khỏi quyền lực của sự chết.
Có lẽ các Ki-tô hữu cần suy gẫm câu nói của Bernanos: "Ki-tô giáo của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu ... Chúng ta yêu quý sự sống, chúng ta tin vào sự sống. Chúng ta biết rằng sự sống ấy không lừa dối chúng ta, và các lời hứa về sự sống sẽ không phai tàn."
Phải tin mới hiểu được
Ðức Giêsu vừa tuyên bố Người là bánh ban sự sống và các địch thủ từ chối bước theo Người vào trong lãnh vực Người muốn đưa họ vào. Theo họ, Ðức Giêsu chỉ là một người khoa trương: "Chúng tôi biết rõ ông ấy." Tóm lại, họ muốn lôi Người vào trong những sắp xếp của họ. Theo họ, Ðức Giêsu chỉ là con ông Giu-se. Thế thôi ... chấm hết.
Thế nhưng, Ðức Giêsu vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính cách nghịch thường của những khẳng định Người đã nêu ra, đồng thời tố cáo quan niệm của các đối thủ. Quan niệm này chỉ là những suy nghĩ bình thường của con người, chứ không phải là quan điểm của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đề nghị họ phải thay đổi nhãn quan, thay đổi cách nhìn - có thể nói như thế - và đó là đức tin.
Biết bao lần người ta giản lược đức tin thành một chuổi những khẳng định cần được lặp lại mà không cần hiểu. Người ta tưởng rằng như thế là đủ và tự nhận mình thuộc về một nhóm ưu tuyển và do đó có quyền được thưởng. Người ta đâu biết rằng khi quan niệm như thế, họ đã biến đức tin thành một hành động mà không có sự tham dự của lý trí.
Theo Ðức Ki-tô, đức tin là sức mạnh đem lại sự sống và mở ra những nhãn quan diệu kỳ. Ðức tin không đề ra những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề của con người, nhưng làm thay đổi quan niệm, cách nhìn vấn đề của họ. Ðức tin cho họ thoáng thấy một thứ ánh sáng mà họ sẽ không ngừng tiếp cận. Nhờ ánh sáng này, người tín hữu bước đi, khám phá và sống.
Như vậy, đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban. Nó không đến do lý luận hay do nôỵ lực của ý muốn con người. Chỉ có thể hiểu được đức tin khi chấp nhận đó là kết quả của ân ban. Dĩ nhiên, nỗ lực và thiện chí của con người sẽ giúp phần nào tiến trình này, nhưng cuối cùng, đó là chấp nhận mở ra trước ánh sáng được bày tỏ cho mình.
Chỉ có đức tin như thế mới giúp hiểu Ðức Giêsu là bánh ban sự sống đích thực. Ðức tin ấy đưa con người tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm hiệp thông, vào cuộc trao đổi. Ai hiểu được điều này, người ấy đạt được sự sống vĩnh cửu, bởi vì họ hiểu được thực tại sâu xa của tình yêu, một tình yêu mà ngay cả đến sự chết cũng không tiêu diệt được. Nói thế, vì tình yêu chính là nền tảng của thực tại.
Ðể cho Thiên Chúa lôi kéo
Giữa Ðức Giêsu và các thính giả, có một khoảng cách khá xa, hay nói đúng hơn, một sự hiểu lầm.
Trước khi tự nhận là bánh trường sinh, Ðức Giêsu đã muốn chia sẻ hương vị bánh của con người: ba mươi năm chuẩn bị với những bữa ăn hằng ngày, những bữa ăn trong ngày tang chế cũng như trong những ngày vui ; ba mươi năm để cố gắng giúp con người hiểu được đâu là cơn đói thực sự, đổng thời làm cho họ nhận ra của ăn chính yếu Người trao tặng cho họ. Ba mươi năm để rổi nghe được một nhận xét đầy mỉa mai: "Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giu-se đó sao ? Sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống."
Tâm hồn của người không tin, có lẽ cũng là của chúng ta, đó là chỉ nhận ra Ðức Giêsu là người chia sẻ bánh của con người chứ không muốn đón nhận Người là Ðấng qua tấm bánh, muốn chia sẻ cuộc sống của chính họ. Dường như chúng ta chỉ muốn lãnh nhận bánh từ tay Ðức Giêsu, chứ không muốn đón nhận chính Người.
Ðàng khác, chúng ta thường có thói quen giản lược hành trình tôn giáo vào những cố gắng của riêng mình. Chúng ta nghĩ rằng mình là người đưa ra sáng kiến, và chúng ta chỉ quan tâm đến việc chiếm lấy Thiên Chúa. Thực ra, chính Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Người qua Ðức Giêsu. Thiên Chúa đến với chúng ta qua Con của Người. Ðức Giêsu là Lời và là bánh từ trời xuống để chia sẻ cuộc sống với chúng ta trước khi chúng ta có sáng kiến về chuyện này. Qua Ðức Giêsu, Ðấng đã ăn bánh của con người trong ba mươi năm, Thiên Chúa dạy chúng ta biết rằng: có một thứ bánh để nuôi sống trong cuộc đời này, và có một thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu. Một bên là bánh của người phàm, một bên là bánh của Thiên Chúa. Hai thứ bánh này khác nhau.
Qua sự nhập thể của Ðức Giêsu và qua bí tích Thánh Thể, chúng ta có biết để Thiên Chúa lôi kéo và hướng dẫn ? Chúng ta có tin Ðức Giêsu là bánh từ trời xuống ? Chúng ta có dám tin vào lời hứa ban sự sống của Ðức Giêsu ?
Lạy Chúa, mặc dù Chúa rất xa chúng con, nhưng nhờ tình yêu, chúng con vẫn gần với Chúa. Không hề có phân ly giữa chi thể với vị thủ lãnh nhiệm mầu !
***
Chúa cho mọi người được dự tiệc khi cử hành lễ tạ ơn. Chính Chúa đã nói rằng con có thể ăn thịt là Mình Chúa. Ðiều ấy đã được viết lại, không phải tự ý con nghĩ ra. Thế mà có lúc tại sao con nghi ngờ trong khi Lời Chúa quá rõ ràng như thế ?
Ta là bánh ban sự sống. Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ban phát và: TN 19-B61
Ta là bánh ban sự sống. Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ban phát và nuôi sống dân chúng ngay khi Ngài còn ở giữa họ, không phải từ những tấm bánh cho bao nhiêu ngàn người ăn để rồi họ cũng chết như tổ tiên họ. Nhưng Ngài đã ban chính mình Ngài cho dân chúng, qua tất cả những phép lạ như một quà tặng cho nhân loại.
Ngài ban chính mình Ngài qua tình thương mà con người thấy được ở lời nói và hành động của Ngài. Ngài đã ban chính mình Ngài qua cái chết trên thập giá như một dấu chứng cho tình yêu, cho chân lý và cho chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã ban tất cả những gì cao quí nhất, cả đến mạng sống cho mọi người, như thế Ngài đã trở nên bánh ban sự sống cho chúng ta. Tình thương, lời Chúa và cuộc sống của Ngài vẫn luôn luôn là nguồn sống cho chúng ta, là động lực cho muôn người nối gót Ngài đi cải tạo thế giới bằng tình thương. Chính vì thế mà những ai sống trong Ngài, tin vào Ngài thì đã có sự sống đời đời. Lẽ tất nhiên, Chúa còn hứa ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể.
Nhưng ở đây chúng ta muốn nói đến Ngài như tấm bánh đem lại sự sống. Ngài là Đấng bị ăn. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Ngài đã phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Ta. Thế nhưng, chúng ta không phải được kết hiệp với Ngài qua Bí tích Thánh Thể, mà còn một cách khác Ngài đã muốn chúng ta dùng để được kết hiệp thực sự với Ngài: Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.
Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Chúa là tấm bánh cho ta, thì ta cũng phải là tấm bánh bẻ ra cho những người anh em.
Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân: TN 19-B62
Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.
Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.
Cũng thế, Tần Thuỷ Hoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.
Thưa anh chị em,
Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.
Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.
Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.
Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.
Anh chị em than mến,
Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?
Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chuá Nhật.
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống". Họ nói: TN 19-B63
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống".
Họ nói: "ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những "thính giả đầu tiên" của Đức Giêsu đã "phản đối" khi họ nghe nói về “Thánh Lễ" chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo "lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống". Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ . Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời"?
Đức Giêsu bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ". Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là "ân sủng" hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu 'hiểu được những việc của Thiên Chúa, để "đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận "Lời Chúa", lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ "chẳng có gì hấp dẫn", bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của "sự hiện diện", tiếng Hêbrơ gọi là "Shekinnar" có nghĩa là "sự cư ngụ thực sự" của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc "bình ca" hay nhạc "tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một "hồng phúc của Thiên Chúa". Một thứ ân sủng: "Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa".
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
- Vai trò ưu tiên của "ân sủng", một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha "lôi kéo", "dạy bảo” và "đề nghị". Nhưng con người có thể "lắng nghe" và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận "lắng nghe lời dạy của Chúa Cha" mới có thể bước vào mầu nhiệm "Bánh hằng sống". Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: "Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: "Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ". Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp" (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng...
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. "Ngôi vị Thiên Chúa" đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là "Đấng duy nhất" biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một "lỗ hổng"... một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc "sáng tạo đầu tiên từ hư không".
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: "Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: "Tôi sẽ cho người ấy sống lại".
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là "Đấng hiện hữu YAHVEH". Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: "Tôi hiện hữu”, "Tôi là Bánh hằng sống".
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Ở đây chỉ đặt vấn đề "sự sống". Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống" (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về "Bánh hằng sống" (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do "cây hằng sống" mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. "Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa". Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử", sự sống không chết "này nhờ đức tin" đã được ban cho những người, không còn phải ăn "cây hằng sống”, nữa mà là "bánh hằng sống": Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình": Không ai đã thấy cái "vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một "sự sống" vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực "lý trí". Nhưng tại sao chúng ta không để cho "Chúa Cha dạy bảo"? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự "dâng hiến" siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: "Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt" (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để "ban cho" chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người? Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống. Ân sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên "cảm thấy được"; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: "Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn .
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
"Làm sao bấy giờ ông ấy dám bảo: Ta đã từ trời mà xuống?"
Điều Chúa Giêsu vừa nói về nguồn gốc thiên giới của Người xem ra quá phóng đại. Làm sao một: TN 19-B64
Điều Chúa Giêsu vừa nói về nguồn gốc thiên giới của Người xem ra quá phóng đại. Làm sao một kẻ mà thiên hạ biết rõ họ hàng lại dám gán cho mình một nguồn gốc thiên giới. Những ý nghĩ này giúp chúng ta biết các dư luận phổ biến lúc ấy về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây không phải là quan niệm của thánh sử và người ta cũng chẳng lấy được gì từ đó để chống lại tín điều về sự sinh hạ đồng trinh của Chúa Giêsu. Và cũng không có gì cho phép giả thiết là thánh Giuse lúc đó còn sống. Gioan chẳng nói đến điều đó bao giờ. Có lẽ là thánh Giuse đã chết trước khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai.
"Các ngươi đừng kêu ca với nhau tranh luận chỉ tổ vô ích; chỉ có hoạt động của Chúa Cha mới hướng dẫn những kẻ tin Ngài đến với Đấng có mặc khải viên mãn (3,21). "Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (xem 1,18).
Với câu này, Gioan loại trừ mọi lối giải thích sai lạc có thể có về câu trích dẫn (16,45 chết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa), chính nhờ Chúa Giêsu, Đấng duy nhất biết Chúa Cha cách trực tiếp và hoàn toàn, mà lời hứa trên sẽ được thực hiện.
KẾT LUẬN
Khi nói về thịt (sarx) Người sẽ bị nộp để ban sự sống cho thế gian, rồi xa hơn về máu Người, Chúa Giêsu mặc nhiên loan báo Người sắp bị sát tế thành hy lễ, và các tín hữu của Người sẽ có thể tham dự vào hy tế ấy bằng cách ăn thịt của Tế vật, hầu nhờ đó lãnh nhận sự sống thần linh. Việc thịt Người sẽ trở nên phong phú sự sống và việc Chúa Giêsu sẽ đích thân trao ban nó, rõ rệt bao hàm điều này là: qua cái chết hy tế, Người sẽ tìm lại sự sống bằng sự Phục sinh. Khi để thịt Người, thân xác Người (và đồng thời cả bản thân vinh hiển Người) dưới hình thức bánh để các kẻ tin Người ăn uống, Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ cho thấy rõ ràng Người thật là bánh bởi trời, của ăn thiêng liêng cho nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhiều lần nói “Ta là": "Ta là" ánh sáng, mục tử tốt lành, cửa chiên, sự sống lại và sự sống, đường, sự thật và sự sống, cây nho thật. Dưới mắt người Do thái, các danh xưng này có giá trị như những hồng ân của Thiên Chúa. Chúa Giêsu quả quyết Người chính là ân huệ thực sự và chung quyết của Thiên Chúa hôm nay.
2. Khi phán bảo: "Bánh sự sống chính là Ta", Chúa Giêsu biết rằng Người sẽ gây ra thắc mắc, sự cứng tin và cả thái độ công phẫn. Thật vậy, cách nói "Ta là" lúc bàn về sự sống, ánh sáng... gợi lên trong não trạng của các thính giả Người một ý niệm về tuyệt đối. Thiên Chúa mới có quyền bảo "Ta là”. Con người chỉ có thể nói: Tôi là kẻ này người nọ, nhưng không được bảo: Ta là bánh, là ánh sáng, là chân lý, là sự sống. Thế mà Chúa Giêsu đã làm vậy. Một xác quyết ntlư thế gây nên sự công phẫn hay đức tin. Chúng ta may mắn thuộc về những kẻ đáp lại bằng đức tin.
3. Diễn từ bánh sự sống thu hút chúng ta nhờ những lời quả quyết mạnh mẽ và đồng thời để chúng ta phân vân trước nỗi cô đơn mà Chúa Giêsu tạo ra quanh người qua những xác quyết đó. Ta tự hỏi tính cách đích thực của cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người Do thái đã là gì. Một điều chắc chắn là người Do thái không thể nâng mình lên bình diện mà Chúa Giêsu đang ở và từ đó Người đang nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Người Do thái lưu ý tới Người lập tức, nhưng không phải để theo vị sứ giả của Thiên Chúa, mà là để hắt lây Người hầu thỏa mãn những khát vọng trần tục của họ. Khuynh hướng sâu xa của họ ngược lại với khuynh hướng Chúa Giêsu. Họ muốn kéo Chúa Giêsu vào trong lãnh vực thế trần với họ; còn Chúa Giêsu. Người cố gắng đỡ nâng họ lên bình diện của Thiên Chúa. Trong vấn đề này, Chúa Kitô không có ngoại giao. Người xác quyết mình là ai, cho dù người Do thái chỉ muốn thấy trong người kẻ mà họ biết rõ cả cha lẫn mẹ.
4. Như tổ tiên của họ ngày xưa trong sa mạc, người Do thái kêu ca phàn nàn. Đây là một thái độ phức tạp, nhưng chủ yếu phát xuất từ một sự từ chối không tin, một sự bất lực đương đầu với số mệnh, và từ một nhu cầu muốn an thân này đó. Đấy là phản ứng hết sức nhân loại. Chúng ta chấp nhận đi theo Thiên Chúa bao lâu Ngài còn phục vụ hạnh phúc chúng ta, còn phục vụ quan niệm hạnh phúc của chúng ta; nhưng khi Ngài hay Giêsu, Đấng Ngài sai đến, muốn cắt đứt chúng ta khỏi những cái hiển nhiên thường nhật, khỏi lòng ham muốn tiện nghi và thỏa mãn của chúng ta, thì chúng ta chống chọi, phản kháng. Bấy giờ các "dấu chỉ" Thiên Chúa đã thực hiện trong đời chúng ta không còn giá trị gì nữa; chúng ta làm như chẳng có gì đã xảy ra; chúng ta dấy nẩy và trở lại dùng ân huệ của Thiên Chúa để chống lại Ngài (x. Ds 11,4-6), chúng ta gây gổ với Ngài và bịa ra nhiều cớ để khỏi tin; chúng ta quả là những người có tà ý.
5. "Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó". Phải hiểu cho đúng lời này của Chúa Giêsu. Nó chẳng có nghĩa là Thiên Chúa chỉ lôi kéo một số người và bỏ rơi những kẻ khác. Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Ngài không chọn lựa cách tiên thiên, ngay từ đầu, một phần nhân loại để cứu rỗi và bỏ rơi phần khác. Ngài đặt trong lòng mỗi con người một bản năng quy hướng họ về định mệnh hạnh phúc mà vì đó họ được tạo ra. Bản năng thiêng liêng này có nhiều hình thái và chỉ mình Thiên Chúa biết lúc nào nó thức dậy trong tâm thức mỗi người. Hãy nhớ rằng mỗi một con người, cho dù chỉ hiện hữu trong chốc lát thôi, cũng được kêu gọi để trở thành con Thiên Chúa.
6. "Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta”. Hãy lưu ý: Chúa Giêsu không nói ở thì quá khứ mà là hiện tại. Không phải đã nghe lời giáo huấn của Cha, đã được Ngài giảng dạy và đã đến với Chúa Giêsu, thì sau đó đạt mục đích. Đây là một thực tại hiện tại mà ta phải củng cố gia tăng thêm không ngừng. Mỗi ngày cần phải đặt mình vào tình trạng lắng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Ngài và đến với Chúa Giêsu. việc Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta là một thực tại luôn luôn tác động bên trong chúng ta không ngừng không dứt. Cũng vậy, việc chúng ta tiến về Chúa Giêsu việc chúng ta tin vào Người và gắn bó với Người, cũng là một sự tiến triển sống động ngày càng hơn. Tìm đâu năng lực nội tại để luôn tiến về Chúa Giêsu Kitô như thế? Tìm trong bánh sự sống, Thánh Thể.
Tại giáo xứ Bùi Phát, cha xứ luôn luôn thấy một ông già râu tóc bạc phơ, ngày nào cũng vào khoảng: TN 19-B65
Tại giáo xứ Bùi Phát, cha xứ luôn luôn thấy một ông già râu tóc bạc phơ, ngày nào cũng vào khoảng 12 giờ trưa, ông vào nhà thờ cầu nguyện, rồi vài phút sau ông ra về. Thấy ông ra vào rất nhanh, cha thắc mắc hỏi ông thì ông trả lời:
"Con không thể cầu nguyện lâu giờ được, nhưng mỗi ngày vaò lúc nghỉ trưa, con vào nhà thờ đề thưa với Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, Con đây!", xong tôi nán lại đôi ba phút, rồi ra về".
Bẵng đi một thời gian không thấy ông già đâu, vì ông bị tai nạn nên được đưa vào bệnh viện. Vì không thân nhân, không họ hàng đưa về, nên phải chạy chữa ngay ở trong nhà thương, và ở đây ngày nào cũng vậy ông được Chúa đến thăm. Ông cũng chỉ nói những lời giống như ông thường đến thăm Chúa trong nhà thờ: "Lay Chúa Giêsu, con đây!"
Các nữ tu coi sóc bệnh nhân, thấy từ ngày ông già vào đây thì hoàn cảnh vật đều đổi thay, vì ông thường đi thăm hỏi và nói chuyện tếu táo với mọi người, khiến các soeurs cũng cảm thấy thay đổi. Các soeurs hỏi ông thì ông thưa lại:"Có người đến thăm con hàng ngày, sao con lại không vui được ?". Hỏi mãi ông mới gạn trả lời:"Chúa Giêsu đến thăm con." Bởi thấy Chúa là nguồn vui dến thăm, khiến ông đã không quàn ngại chia sớt cái niềm vui ông được cho các bệnh nhân đang cùng điều trị chung phòng với ông.
Câu chuyện "Niềm vui đuợc Chúa viếng thăm" là niềm vui mà ông già đã lãnh nhận, ông đã chia sẻ với mọi người. Niềm vui được Chúa đến với mình lúc tham dự thánh lễ, và nhất là khi rước lễ, cũng phải là niềm vui thúc đẩy chúng ta thực hiện tất cả những gì Đức Giêsu đã làm! Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nói:"Chúa Giêsu vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong việc cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người Linh Mục...Nhất là trong Phép Thánh Thể, trong các Bí Tích Thánh. Ngài còn hiện diện qua Phúc Âm, qua Lời Chúa...." (Constitutin on the Sacred Liturgy). Điều này được giải thích cách rõ ràng trong bài Phúc Âm:"Ta là bánh hằng sống.... Bánh từ trởi xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống". Như thế, chính là Chúa phục sinh ngự đến với ông già.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa hiện diện nơi người anh em chúng con .
Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho: TN 19-B66
Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh: Bánh Sự Sống đây chính là bản thân Người, và việc ăn bánh đây, trên hết và trước hết, là tin vào Người. Tuần này, tiếp tục cùng đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mạc khải hơn nữa về Bánh Sự Sống: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống”, một lời minh định làm thính giả hết sức thắc mắc và đầy kinh hoàng, thậm chí trong cả thành phần môn đệ của Người, như bài Phúc Aâm hai tuần nữa cho thấy. Thật vậy, tất cả những điều Người mạc khải ở bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần trước và tuần này cũng như tuần sau đều là một mầu nhiệm, mầu nhiệm thần linh vượt tầm mức hiểu biết tự nhiên của con người, một mầu nhiệm chỉ có đức tin mới thấu triệt, một mầu nhiệm chỉ có chính Đấng mạc khải mới làm cho con người chấp nhận dù không hiểu. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định “không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không cho phép”.
Đúng thế, một đàng con người trần gian hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu triệt được Thiên Chúa, đúng như Ngài là, nếu chính Ngài không tỏ mình Ngài ra cho họ biết. Thế nhưng, chính lúc Ngài tỏ tất cả bản thân của Ngài ra qua Con Người Giêsu Nazarét thì nhân loại, qua dân Do Thái, cũng không thể nào hiểu nổi: Làm sao Thiên Chúa có thể trở thành một con người? Thiên Chúa thực sự cần phải hóa thành nhục thể vô cùng thấp hèn hay sao? Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Thiên Chúa hay sao? Đó là lý do trong bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này dân chúng đã đặt vấn đề về nguồn gốc của Đấng công khai tuyên nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”, ở chỗ, trước mắt họ Đấng ấy chỉ là một con người như họ, đã từng sống với họ, một con người có cha mẹ anh chị em họ hàng họ đều quen biết, thế mà họ lại nghe Người phán Người từ trời mà xuống.
Nếu trước thời điểm và biến cố Lời Nhập Thể con người tự bản chất hướng về tín ngưỡng có khuynh hướng đa thần và tôn thờ ngẫu tượng thế nào, thì sau khi “ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người càng ngày càng bớt mê tín dị đoan, càng bớt đa thần như vậy. Tuy nhiên, sau khi “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), một hiện tượng tôn giáo khác đã xuất hiện, trực tiếp liên quan đến Kitô giáo và thuộc nội bộ Kitô giáo, đó là, con người càng văn minh khoa học lại càng trở thành vô thần, lại càng trở nên thành phần phản kitô, anti-christ, tức là thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (x 2Jn 7; 1Jn 4:2), hay không chấp nhận Con Người Giêsu là Đức Kitô. Hiện tượng này hiện nay đã quá hiển nhiên ở thế giới Tây Phương, thế giới Kitô giáo, một thế giới đã từng truyền bá đức tin, truyền bá hạt giống Kitô giáo khắp nơi trên thế giới, nhất là vào thời kỳ tân thế giới cuối thế kỷ 16, lại là một thế giới đang phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, đang sống như không hề có Thiên Chúa. Họ chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống, bằng cách dẹp bỏ lề luật tự nhiên và luân lý của Ngài, như việc hợp thức hóa vấn đề ly dị và phá thai, mà còn thay thế Ngài bằng các thứ ngẫu tượng hiện đại là chủ nghĩa duy nhân bản và duy thực dụng, chủ nghĩa chỉ biết pro choice theo quyền làm người vô lối của mình, chỉ biết cá nhân và hưởng thụ, như việc cho phép hôn nhân đồng tính phái và việc thực hiện các phương pháp tạo sinh ngoại nhiên (cấy thai, cloning v.v.).
Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (xem Mtù. 20:18-19; 16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!
Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Kitô hữu chúng ta có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem Mt.16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức còn khuynh hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.
Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là 4 dấu hiệu cho thấy đâu là thành phần kitô giả hay tinh thần kitô giả, thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt, được thể hiện hay bộc lộ qua những dấu hiệu, thứ nhất, tỏ ra không tôn phục con người đại diện Người trên trần gian; thứ hai, tỏ ra không tôn kính bí tích Thánh Thể; thứ ba, tỏ ra không tôn sùng Mẹ Maria là Vị đã thụ thai và hạ sinh Người; thứ bốn, tỏ ra không tôn trọng thành phần anh em hèn mọn của Người trong xã hội loài người, hay ghê tởm thánh giá đau khổ Chúa gửi đến cho.
Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.
Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.
Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) thực sự làm người nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), và Lời Nhập Thể thực sự là Bánh Sự Sống từ trời xuống, là Mạc Khải Thần Linh, thì quả thực, đúng như Người đã khẳng định: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống”. Vì qua xác thịt của Người, một Thánh Thể Vượt Qua, thế gian đã được cứu độ, một Giáo Hội đã được hạ sinh, một nhân loại sẽ được canh tân “trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24).
Giáo lý của Chúa Kitô, nói chung, được nhiều người chấp nhận vì tính cách "hợp tình hợp lý": TN 19-B67
Giáo lý của Chúa Kitô, nói chung, được nhiều người chấp nhận vì tính cách "hợp tình hợp lý" của nó. Nhưng khi mặc khải về nguồn gốc thần linh của mình và về bí tích Thánh Thể, Ngài đã gặp những phản ứng hoàn toàn bất lợi. Thánh Gioan ghi lại rằng khi Ngài nói: "Ta là bánh bởi trời", thính giả đã xì xèo: "Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Chúng ta biết rõ cha mẹ của ông. Vậy tại sao ông ta lại nói: Ta là bánh bởi trời xuống?"
Trước những phản ứng tiêu cực đó, Chúa Giêu đã không rút lại lời tuyên bố, trái lại, tiếp tục giải thích: "Tôi là bánh từ trời. Cha ông anh em đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Chính tôi đây mới là bánh từ trời để ai ăn thì không phải chết. Bánh đó chính là thịt tôi để nhân loại ăn mà được sống." Những lời giải thích đã không đủ sức thuyết phục người nghe, trái lại còn gây thêm rắc rối, đến mức độ họ phải kêu lên: "Lời gì mà nghe thật chói tai. Làm sao ông ta có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn đươc?" Và họ bỏ đi. (Xem Gioan 6:60,66)...
Quả thực, bí tích Thánh Thể là một điều khó tin, khó chấp nhận, vì đây là một việc vượt xa lý luận và khả năng con người. Nói cách khác, đây là một phép lạ, một sự việc hoàn toàn nằm trong lãnh vực đức tin. Chính vì thế, mỗi khi đọc xong lời truyền phép, linh mục chủ tế lớn tiếng tuyên bố với chúng ta: "Đây là màu nhiệm đức tin". Cũng vậy, trước mỗi lần lãnh phép lành Mình Thánh Chúa, chúng ta nói với nhau "Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì" (Ca khúc Pange lingua, đoạn cuối).
Đúng thế, bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, nên con người không thể dùng lý trí để suy luận, cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận. Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao chúng ta chấp nhận bí tích Thánh Thể? Chúng ta tin rằng Đức Kitô chính là Thiên Chúa tòan năng và chân thật. Là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điếu gì Ngài muốn. Là Thiên Chúa chân thật, Ngài không bao giờ dối trá và sai lầm. Lời Ngài là chân lý; Ngài nói là phải có, phải đúng. Căn cứ vào hai ưu điểm này của Ngài, chúng ta xác tín rằng:
- Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể.
- Bánh hằng sống từ trời ban xuống chính là thịt Ngài.
- Muốn có sự sống đời đời, con người phải ăn thịt Ngài.
Chính qua niềm tin đó,và tuân theo lệnh truyền của Chúa "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày", Giáo Hội Công Giáo luôn cử hành Thánh Thể, đồng thời khuyến khích chúng ta rước lễ và chầu Mính Thánh Chúa khi có thể. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II năm ngoái đã gởi đến chúng ta một thông điệp về bí tích Thánh Thể, mang tên "Ecclesia de Eucharistica" (Giáo Hội từ Thánh Thể Chúa) và đặt năm 2005 là Năm Thánh Thể. Với thông điệp này và năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha cống hiến cho chúng ta một cơ hội thuận tiện để đào sâu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, đồng thời khơi lên tâm tình yêu mến Thánh Thể nơi tâm hồn chúng ta. Năm Thánh Thể đã chấm dứt, nhưng niềm tin và tâm tình đối với Thánh Thể cần phải được tiếp tục trong suốt cuộc sống của mỗi người.
Vững tin vào lời quả quyết của Chúa Giêsu và sự khích lệ của Giáo Hội, ước gì chúng ta luôn đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm cuộc sống của mình, bằng cách lợi dụng mọi cơ hội, đặc biệt ngày Chúa Nhật, để đến với Thánh thể, nhờ đó, chúng ta được nuôi dưỡng và thêm sức mạnh.
Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam đã từ trần ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại bệnh viện Val de: TN 19-B68
Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam đã từ trần ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại bệnh viện Val de Grace, Paris, hưởng thọ được 83 tuổi. Đã có cuốn phim nổi tiếng về "Vị Vua cuối cùng của Trung Hoa" (The last Emperor of China) thì chắc cũng phải có một cuốn phim về vị vua trong thời Việt Nam rối loạn và đen tối nhất này.
Trong một bài phê bình, sau nhiều phân tích về những lầm lỡ và khúc mắc của nhà Nguyễn qua các triều vua, nhất là trong những năm cuối cùng của vua Bảo Đại, Lữ Giang cũng đã công minh nhận xét: "Qua cuốn hồi ký Le Dragon d’ Annam, chúng ta thấy Bảo Đại là một người ngay thẳng, công bình, khoan hòa và có lòng yêu nước. Mặc dầu đã phải trải qua nhiều thăng trầm trên chính trường, ông vẫn giữ được một thái độ ung dung của người quân tử, không giận kẻ chống mình, không chê trách những người phò tá làm hỏng việc và cũng không lên án đối phương. Ông tường thuật những chuyện đã xẩy ra một cách vô tư và thoải mái, không hề cố ý đánh bóng cá nhân mình. Vì thế, ông đã cung cấp cho sử gia một tài liệu có giá trị, góp phần vào việc đánh tan các phịa sử. Năm 1982, khi Bảo Đại từ Pháp đến thăm California, cụ Cao Xuân Vĩ có hỏi Bảo Đại nghĩ thế nào về việc bị ông Diệm truất phế năm 1955, Bảo Đại trả lời rất tự nhiên: "Việc thế thì phải thế thôi!".
Trong khi một số người muốn dùng ông như một lá bài để trở lại nắm chính quyền ở Việt Nam ít năm trước đây, Bảo Đại không nghĩ rằng ông có thể còn đóng một vai trò nào đó trong nền chính trị Việt Nam nữa. Ông bắt đầu lo đến đời sống tinh thần của mình.
Ngày 17.4.1988 ông đã xin chịu phép rửa tội gia nhập đạo Công Giáo. Trong thư đề ngày 31.3.1995 gởi xin yết kiến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bảo Đại đã viết: "Đây sẽ là dịp hạnh phúc cho chúng tôi được quỳ bên cạnh Đấng kế vị Thánh Phêrô để cầu nguyện cho Việt Nam và Giáo Hội đang chịu đau khổ ở đó, và qua sự kiện chúng tôi đã chịu phép Thánh Tẩy (Rửa tội) đem lại cho đồng bào chúng tôi niềm xác tín vào tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng an ủi những người đau khổ". (báo Dân Chúa Âu Châu số 155 tháng 9-1995). Ngày 24.6.1995 ông và phu nhân đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại phòng khách điện Vatican.
Điều đặc biệt là chính những vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, nhất là Minh Mạng và Tự Đức, đã cấm đoán đạo Chúa, sát hại biết bao người công Giáo, thì nay một người con cháu, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam đã tìm ra nguồn sống thật là đạo Chúa. Lịch sử thật lắt léo nhưng cũng đầy huyền nhiệm, mà Thiên Chúa là vị dẫn đầu lịch sử đó.
SỨC BỪNG MỞ
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận có kể truyện trong cuốn Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng về một sức bừng mở thật hy hữu trong trại học tập như sau:
Một phóng viên báo chí người Anh bị cầm tù trong những tháng năm cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, lúc được thả tự do, có viết một bài báo nhan đề: "Thánh Lễ Giáng Sinh của Linh Mục Shah". Trong đó ông thuật lại một câu truyện vô cùng cảm động:
Tôi bị giam trong một trại ở miền Nam Trung Quốc. Trong trại có một người đàn ông trạc 40 tuổi tên là Shah. Người ta biết ông là một linh mục dòng Xi-tô, người Trung Quốc, trong trại ăn uống rất kham khổ, kỷ luật thì khắt khe, công tác lao động lại nặng nề. Chúng tôi phải đào đất và gánh những gánh thật nặng lên đổ trên một ngọn đồi cao. Lại còn phải khẩn trương không thì roi đòn vọt tới tấp, bị kỷ luật làm kiểm điểm. Linh mục Shah là một người rất có lòng bác ái. Ông không khỏe, nhưng ai mệt liền được ông gánh giúp. Ai gáng nặng không nổi thì ông đổi cho gánh nhẹ của mình. Ông luôn luôn vui vẻ, động viên anh em. Trong trại ai cũng đem lòng mến.
Tôi là người Công Giáo, nhưng suốt bao tháng năm tôi chẳng sống đạo tí nào. Tôi khô khan lắm. Không hiểu sao ông Shah biết tôi là người có đạo. Lạ quá! Một hôm, giữa trời đông giá rét, vào giờ giải lao, ông Shah cầm tay kéo tôi đi theo và nói:
- Anh là người Công Giáo phải không?
- Phải.
- Hôm nay là lễ gì, anh có biết không?
- Tôi không biết!
Lễ Giáng Sinh. Chắc anh nhớ gia đình, nhớ bao kỷ niệm. Thôi, đi theo tôi, ta cùng xuống hố đất đàng kia. Tôi sẽ cùng anh dâng Thánh Lễ.
Có một một sức gì nơi ông thu hút tôi khiến chân tôi phải bước. Cả hai chúng tôi xuống một hố sâu. Chung quanh miệng hố, đất đào lên được đắp cao thành hai mô vững chắc. Tôi chẳng hiểu làm sao, ông lại có một tí rượu nho trong cái bát nhỏ và một mẩu bánh mì. Ông để cả hai trên mô đất, giữa cảnh hoang tàn giá rét. Đôi tay ông giang ra. Ông cầu nguyện rồi đưa Mình Thánh lên cao. Nét mặt ông sáng ngời. Tôi chăm chú nhìn, rồi tự nhiên đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi quì. Tôi cũng cầu nguyện. Tôi ăn năn sám hối. Ông cho tôi rước lễ. Mắt tôi nhòa lệ. Lòng tôi cũng như lòng ông ấm áp hẳn lên. Và chúng tôi vội vàng trở về chỗ cũ.
Một tên lính gác thấy chúng tôi tiến lại liền chạy ngay đến tóm cổ linh mục Shah và hỏi: "Mày đi đâu đàng kia?" Ông thẳng thắn đáp lời: "Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Giờ giải lao tôi đi cầu nguyện". Tên lính liền vụt cho ông một trận đòn chí tử. Ông làm thinh chịu đựng. Hắn dẫn ông đi. Và từ hôm ấy, tôi không còn gặp lại ông ta nữa. Nhưng trong suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm ấy: một dáng người cao cao, hai tay giơ lên, gương mặt gầy gò, nhưng toát vẻ thánh thiện, áo quần rách nát tung bay theo chiều gió, giữa trời và đất, ông Shah với Chúa! Chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ trong đời tôi có một thánh lễ Giáng Sinh sốt sắng như thế. Cũng từ ngày ấy, Đức Tin sống lại trong tôi.
TIN VUI GỬI NGƯỜI MỆT LẢ
Sức gì lôi kéo làm thay chuyển hướng đi cả một đời người vậy? Đó là sức bừng mở con mắt niềm tin thấy được chính Chúa vẫn tiếp tục hiện diện, dẫn dắt và dưỡng nuôi. Ngài mới là sức sống thực. Tiên tri Êlia khi đã quá mệt mỏi không còn đủ sức chạy trốn những kẻ lùng bắt nữa thì chỉ còn nghĩ tới việc xin Chúa cất về đời sau thôi. Nhưng Chúa đã sai thần sứ mang bánh và nước cho ăn uống lại sức: "Hãy chỗi dậy mà ăn vì đường ngươi phải đi còn xa."
Đức Chúa Trời luôn biểu hiện là nguồn sống thật, như lời Chúa Giêsu đã nói: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sức Sống". Chính Ngài đang dâng lễ, đang dùng quyền năng biến đổi mọi sự, tất cả mọi biến cố lịch sử hay trong cuộc đời riêng mỗi người, tất cả những buồn vui đắng ngọt, đều là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người, cùng dâng trên bàn thờ cuộc sống để trở nên của ăn và của uống trường sinh bất tử, như lời Ngài đã nói rõ:
"Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngưới đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi Trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời".
Vua Bảo Đại đã tìm ra lẽ sống sau những lầm lẫn của chính cha ông mình, và đã bước vào nguồn sức sống của Đạo Chúa sau những mệt mỏi rã rời của lịch sử và cuộc đời. Một ký giả người Anh đã tìm lại sức bừng mở của niềm tin khi chạm đến được chính Chúa vẫn đang hiện diện với đầy quyền năng qua mỗi thánh lễ mang của ăn đích thực:
"Trong suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm ấy: một dáng người cao cao, hai tay giơ lên, gương mặt gầy gò, nhưng toát vẻ thánh thiện, áo quần rách nát tung bay theo chiều gió, giữa trời và đất".
Cách đây không lâu, dân chúng tại thủ đô Paris đã bàn tán xôn xao vì một mẩu tin khủng: TN 19-B69
Cách đây không lâu, dân chúng tại thủ đô Paris đã bàn tán xôn xao vì một mẩu tin khủng khiếp: Một sinh viên gốc Nhật, đã giết một cô gái, chặt ra từng khúc, rồi bỏ vào tủ lạnh định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta đã khai như sau: Cô gái ấy là người yêu của tôi. Tôi yêu cô đến độ muốn biến cô ấy thành máu thịt của tôi, cho nên đã giết đi và ăn thịt cô ấy. Chỉ tiếc rằng mới ăn được có vài ngày thì đã bị phát giác.
Mẩu chuyện trên khiến cho chúng ta cảm thông được thái độ của người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Vấn đề không gây ra một ngộ nhận nào, Ngài đã lặp đi lặp lại lời xác quyết ấy.
Cô gái nói trên hẳn không bao giờ có được cái ý tưởng điên khùng là trở nên của ăn cho người mình yêu, hầu hai người trở nên một. Thế nhưng cái sáng kiến điên khùng ấy đã được Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Ngài đã để cho mình bị giết và trở nên lương thực cho những người mình yêu quý. Trước một cái gì quá sức tưởng tượng, con người bỗng trở nên dửng dưng vì vậy hiện nay có biết bao nhiêu người chịu Mình Thánh Chúa mà không hề cảm thấy được hiệp nhất trong tình yêu. Máu thịt Đức Kitô không chỉ là Mình Thánh trong bí tích Thánh Thể, mà còn là lời Chúa bởi vì “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”. Ngày hôm nay Chúa phán: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời. Đây không phải là một lời hứa nhưng là một lời xác quyết, một lời khẳng định.
Thế nhưng, rất nhiều người đã từng nghe lời Chúa, đã từng rước lễ mà sao đời sống nội tâm vẫn cứ èo uột. Có thể vì họ không gắn bó với Chúa. Có thể họ chưa bao giờ đọc Lời Chúa với tâm trạng của một người yêu đọc bức thư tình. Có thể họ chưa đủ tin như người Do Thái ngày xưa.
Phúc Âm cho chúng ta thấy: Người đàn bà mắc chứng bệnh băng huyết, đã chạm đến gấu áo Ngài với niềm tin mãnh liệt và rồi bà đã được chữa khỏi, bởi vì sức mạnh từ Ngài được chuyển thông cho bà.
Với chúng ta cũng vậy, đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì e rằng miếng bánh ấy không bổ dưỡng bằng thức ăn vật chất. Đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì sợ rằng nó không hấp dẫn và hữu hiệu bằng một đoạn sách tầm thường. Ngôi Lời đã làm người. Và con người ấy đã trở nên lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Nếu ngày hôm nay, bản thân chúng ta chưa tìm được sự bình an, và cuộc đời chúng ta vẫn còn nặng nề và mệt nhọc. Nếu cõi lòng chúng ta vẫn dửng dưng trước tiếng gọi của anh em, thì lỗi chắc chắn không phải là do Chúa. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Phải chăng tôi quá ốm yếu để không dùng nổi thứ lương thực trường sinh này?
Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng: TN 19-B70.
Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng trở nên tầm thường! Tình yêu được sống ngày này qua ngày nọ, không ồn ào. Người ta ít nhận ra nó, người ta không quý trọng nó đúng mức. Sức khỏe của chúng ta được xem như một điều quá bình thường… Vậy nói về nó làm gì? Những gì tuyệt vời trong thiên nhiên, người ta không còn nhìn thấy nữa. Có nhiều món trên bàn ăn, ba lần mỗi ngày, có gì tự nhiên hơn đâu? Tại sao phải tạ ơn vì những món ăn đó?
Người ta cũng quen với những thực tại thiêng liêng, thần thiêng và chẳng thiếu gì những lúc người ta còn xem những thực tại ấy là tầm thường nữa. Ta hãy nêu một ví dụ, đó là việc rước lễ. Một Chúa Nhật, hay có lẽ nhiều hơn nữa, chúng ta được đón tiếp tại bàn tiệc của Thiên Chúa. Bánh Thánh được trao cho chúng ta, chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Sự sống của Con Một Thiên Chúa tràn vào tâm hồn chúng ta, thật không tầm thường chút nào!
Nhưng chúng ta rước lễ ra sao? Chúng ta quý trọng Thánh Thể như thế nào? Thánh Thể dùng để làm gì cho chúng ta? Thực sự, nguy cơ trở nên quen thuộc với Bánh Thánh thật là lớn, cũng như người ta quen thuộc với bánh người ta đặt trên bàn ăn gia đình mỗi ngày. Vậy phải phản ứng: Phải mở mắt ra. Hôm nay là dịp tốt để làm điều này, vì Tin Mừng nói với chúng ta về Bánh Thánh, cũng như hôm Chúa Nhật vừa rồi.
Bánh trong sa mạc: Tiền vị của Thánh Thể.
Để cho người ta hiểu giá trị của nó, Chúa Giêsu nhắc đến manna được ban cho dân Chúa trong sa mạc, Ngài nói: Bánh Thánh Thể vượt xa hơn manna nữa. Nó còn phong phú vô cùng hơn nữa.
Tuy nhiên manna đã là một cái gì lạ lùng rồi. Mỗi ngày khi thức dậy, người ta có thể đi nhặt bánh đó đầy giỏ. Vui thích biết bao được nuôi dưỡng bằng thứ bánh ấy! Không có nó không thể nào tiếp tục bước đi giữa sa mạc, ngày này qua ngày nọ, tiến về đất hứa được. Chính manna đã cứu dân Chúa trong sa mạc. Manna đã là một thứ bánh làm cho sống, một thứ bánh giải phóng.
Manna đối với người Do Thái như thế nào, thì bánh Thánh Thể đối với chúng ta cũng thế ấy. Và còn hơn nữa! Như Manna, Thánh Thể sẵn có cho chúng ta mỗi ngày. Được ban nhưng không. Được ban dư dật. Tuy có điều này đặc biệt: Sự sống mà bánh Thánh Thể ban không chỉ là thể lý, sẽ chấm dứt bởi cái chết, nhưng là sự sống vĩnh cửu. “Trong sa mạc, cha ông anh em đã ăn manna, và họ đã chết, nhưng bánh này từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không chết… Họ sẽ sống đời đời”.
Lời khẳng định tuyệt vời. Chúng ta có sẵn một lương thực cho phép chúng ta sống mãi. Khi chúng ta tự nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, chính là lúc chúng ta tháp mầm sống vĩnh cửu vào xác thịt của chúng ta.
Lý do được diễn tả cách rõ ràng. Bánh Thánh Thể không phải là một thứ bánh của trần thế. Đó là bánh từ trời xuống. Chứa đựng Đấng phát xuất từ thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.
Qua trung gian bánh Thánh Thể, Chúa Kitô hiển thắng và Phục Sinh được ban cho chúng ta. Mình và Máu Ngài, được Chúa Thánh Thần biến đổi, đã được ban cho chúng ta. Những gì của Thiên Chúa đi vào lòng chúng ta, sự sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta. Vậy nên nhờ bánh này, chúng ta đạt được khả năng sống đời đời.
Sự giàu sang lạ lùng! Sự phong phú lạ lùng của bánh Thánh Thể! Chúng ta phải coi chừng, đừng tầm thường hóa thứ bánh cao cả dường ấy.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Đôi khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa nhân: TN 19-B71
Đôi khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa nhân lành; tội lỗi thì xấu xa, đơn giản là nhưng câu nói trực tiếp những gì thật sự là quan trọng trong đời sống làm cho chúng ta dừng lại hoặc làm chúng ta chú ý.
Trong hội đường Caphanaum Chúa Giêsu đã quyết định nói thẳng về bản chất của một sự thật cốt yếu. Ngài đã muốn cho những thích giả của Ngài chú ý. Ngài muốn cho chúng ta dừng lại để suy nghĩ về chân lý nơi những lời của Ngài.
Ngày hôm trước, Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông dân chúng với năm chiếc bánh, Ngài đã trông đợi họ nhìn thấy phép lạ này như một dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ một điều gì đó hơn nữa, một điều gì đó lớn hơn là bánh cho toàn thể thế giới. Ngài sẽ hiến tặng chính mình Ngài để làm của ăn thiêng liêng.
Những người lãnh đạo trong dân đã không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ chỉ thấy Ngài là một người quá bình thường mặc dầu những dấu hiệu Ngài đã ban cho họ trong việc hoá bánh ra nhiều. Họ vẫn giữ ý kiến: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Không phải chúng ta đã biết cha và mẹ của ông ấy sao?”
Chúa Giêsu đã nghe những lời bàn tán đồn thổi nhưng không hề giận về điều ấy và Ngài từ chối cúi mình, coi thường sự làm ngơ của họ. Ngài nhấn mạnh: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Hễ ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.” Tiếp đó với lời lẽ đơn giản trực tiếp, một tuyên bố chứa đựng một chân lý cốt yếu cho đức tin Công Giáo của chúng ta, một lời loan báo được thúc đẩy bằng một sự quan tâm đáng yêu của một Thiên Chúa nhân lành. Một lời tuyên xưng của giáo lý mà nhưng người nam và những người nữ qua muôn thế hệ đã hiến dâng mạng sống mình để tử đạo, để bảo vệ một lời hứa đã tiết lộ tình yêu tuyệt vời nơi trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nói: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Không có lời nào thẳng thắn hơn. Không có điều gì diễn tả một cách rõ ràng hơn. Tất cả đã không phải là một sự hùng biện. Chúa Giêsu không nói bánh thì giống như là Thịt của Ngài, điều đó sẽ gợi lên nhắc nhở đến thịt của Ngài. Ngài nói một cách rất rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài chịu nạn. Vì các môn đồ của Ngài và các môn đồ kế tiếp đã đi theo Ngài, đang theo Ngài và sẽ theo Ngài đến tận cùng thế giới, Ngài đã thiết lập hy tế Thánh nhân, mọi người của mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá, đã được kêu gọi tới bàn của Chúa chúng ta. Hạnh phúc biết bao cho những người được mời đến, và phúc cho những ai đã đáp trả lời mời gọi đó trong đức tin. Bánh và rượu với những hình thức bên ngoài của Thánh Thể, có vẻ quá bình thường, đơn giản trong đôi mắt của nhiều người nhưng đối với những người có đức tin, họ nhìn thấy đây là một đặc ân rất lớn lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người.
Chúng ta cầu nguyện xin lương thực này, chúng ta không phải chỉ xin thực phẩm duy trì sự sống của chúng ta trên mặt đất này nhưng còn là của ăn trên trời, thức ăn mà sẽ dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Chúng ta không làm điều gì lầm lạc, chúng ta tiếp tục trung thành với đức tin Công Giáo của chúng ta, bánh mà Đức Kitô đã ban chính là Thịt và Máu của Người để cho thế gian được sống.
(Sách Các Vua I 19,4-8; Thư Êphêsô 4,30-5,2; Tin Mừng Yoan 6,41-51)
Phúc Âm: Ga 6, 41-52
"Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống". Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'".
Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
"Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Suy Niệm:
Chúa Nhật XIX Thường Niên Năm B
Sách Các Vua I 19,4-8; Thư Êphêsô 4,30-5,2; Tin Mừng Yoan 6,41-51
Câu truyện Êlia đi trong sa mạc, lời Đức Yêsu tuyên bố về bánh ban sự sống, huấn từ của Phaolô: TN 19-B72
Câu truyện Êlia đi trong sa mạc, lời Đức Yêsu tuyên bố về bánh ban sự sống, huấn từ của Phaolô về nếp sống hòa hợp, tất cả đều đã quen thuộc đối với chúng ta. Và chúng ta có thể coi chủ đề của ba bài Kinh Thánh hôm nay là Thánh Thể. Việc Êlia được nuôi ăn nơi hoang địa sẽ báo trước việc Đức Yêsu hiến thân làm lương thực nuôi dưỡng các linh hồn khiến họ đã cùng ăn một bánh thì cũng phải biết sống hiệp nhất với nhau. Cho rằng ý chính của Lời Chúa hôm nay là như vậy, chúng ta vẫn còn cần đọc lại các bản Thánh Kinh để nhận ra sự phong phú của việc huấn giáo trong Hội Thánh. 1. Lương Thực Đi Đường
Trở lại bài sách Các Vua, chúng ta dễ nhận ra Êlia là biểu tượng của mỗi người chúng ta đang hành trình trần gian. Cũng như ông, có lẽ chúng ta có những lần thành công và phấn khởi trong cuộc đời. Nhưng như bông hoa sớm nở tối tàn, những thành công phấn khởi ấy ít khi kéo dài. Chúng ta chưa kịp vui hưởng, đã gặp ngay những khó khăn thất bại và chán chường cô đơn. Những lúc này, ước gì chúng ta biết đọc lại câu chuyện Êlia.
Ông là một tiên tri vĩ đại. Chiến thắng của ông ở trên núi Camêlô rất ngoạn mục. Một mình ông đã đương đầu hiển hách được với 450 tiên tri Baal được triều đình và dân chúng ủng hộ. Mặc cho họ kêu cầu cả ngày, lễ vật nằm trên bàn thờ tà giáo trở nên ươn thối dần. Lúc ấy, chỉ một lời nguyện của Êlia, lửa trời đã xuống đốt lễ vật ông dâng, làm chứng đạo của ông là chính giáo.
Nhưng Êlia chưa kịp vui hưởng thành quả thì đã phải tất tưởi ra đi, hướng thẳng về sa mạc để tránh sự trả thù ghê gớm của hoàng hậu Yêzabel, người đỡ đầu tà giáo trong nước. Êlia đi mãi cho đến khi mệt mỏi chân chùn. Gặp được một bóng cây ở giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, chán nản ê chề. Sống làm gì nữa, ông nghĩ vậy? Và ông xin Chúa cất lấy linh hồn ông, để ông chết đi cho rồi, giống như các tổ phụ ngày trước cũng đã chết nơi sa mạc này (Ds 14,22-23) và không được vào Hứa Địa. Có lẽ ông đã nhớ tới trường hợp của Môsê nhiều hơn cả. Ít nhất tác giả bài sách hôm nay đã muốn so sánh ông với vị tiên tri đã lãnh đạo dân ra khỏi Aicập.
Quả vậy Êlia đang làm lại cuộc hành trình của Môsê. Ông này lớn lên ở trong đền vua Aicập. Một ngày kia xuất du vãng cảnh, Môsê gặp một tên Aicập hành hạ một người Dothái. Ông nhảy xổ vào, hạ sát tên Aicập trước sự ngưỡng mộ hào hứng của giới đồng bào với ông. Chưa kịp hưởng hết âm vang của hành vi nghĩa hiệp hào hùng, hôm sau Môsê đã phải tất tưởi bỏ trốn vào sa mạc kẻo bị luật pháp Aicập trị tội. Nhưng lần này, Môsê gặp hên hơn Êlia hôm nay. Ông đã được Chúa hướng dẫn tới núi Horeb và được Người mạc khải Danh Thánh ở đó, cũng như được lãnh nhận sứ mạng đi cứu dân. Từ ngày ấy Horeb đã trở thành chốn hành hương. Và Êlia hôm nay đang hướng về núi thánh này.
Nhưng Êlia không còn sức mạnh như Môsê khi lên núi Horeb. Thất vọng, chán nản, mệt nhọc, ông tự ví mình như Môsê không phải như hồi Môsê vừa hạ sát tên Aicập, nhưng như khi Môsê đưa dân đi trong hoang địa. Ngoài những mệt nhọc do cảnh cát nóng, thiếu ăn, thiếu uống gây cho thân thể, hằng ngày Môsê còn rũ rượi, nặng nề, ngao ngán vì bao lời kêu trách, xỏ xiên, chọc tức của dân. Êlia nghĩ đến Môsê ở giai đoạn này. Và ông muốn được an nghỉ như Môsê nơi sa mạc. Ông muốn lịch sử xưa lập lại y hệt. Ông muốn đầu hàng trước tử thần. Ông là biểu tượng của con người muốn xuôi tay trước thất bại và thất vọng.
Nhưng Thiên Chúa không dựng nên con người để chết, mà là để sống. Người cứu sống họ khỏi miệng tử thần. Đó là mạc khải quý hóa của Lời Chúa hôm nay.
Thật vậy, đã có một thần sứ đến lay Êlia dậy: "Ăn đi để còn lên đường". Cựu Ước dùng danh từ thần sứ vì không dám dùng đích danh Thiên Chúa, chứ thật ra chính Người đến ban lương thực đi đường cho con người mệt mỏi. Êlia ăn rồi lại ngủ, vì đã quá mệt. Nhưng Chúa lại đánh thức ông, giục ông ăn thêm. Và nhờ thức ăn bồi dưỡng này, Êlia đã đi trọn 40 đêm ngày và tới Núi Thánh của Thiên Chúa.
Tác giả Kinh Thánh dùng con số 40 để ám chỉ cuộc hành trình của Dân Chúa nơi sa mạc từ khi ra khỏi Aicập tới ngày vào Hứa địa là 40 năm. Nó đã trở thành biểu tượng của thời gian con người hành trình ở trần gian này. Và đối với chúng ta, nó nói lên thời gian sống ơn gọi làm con cái Chúa ở trần gian, từ ngày rửa tội tới khi về thiên đàng.
Và như vậy lương thực Êlia đã nhận được cũng trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho chúng ta trong suốt cuộc hành trình trần gian. Đó là ý tưởng mà phụng vụ hôm nay muốn cho chúng ta nhớ về câu truyện Êlia, để đi vào bài Tin Mừng. Chúng ta ghi nhớ nhưng không quên cuộc hành trình của Êlia có rất nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Ông là hiện thân của mỗi người. Các thế hệ Kitô hữu đã sớm coi ông như võ sĩ vô địch về đức tin. Và các khuynh hướng tu trì nhìn ông như vị tiền phong của mọi phong trào muốn từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa vô hình. Đó là con đường cam go, nhưng trên con đường ấy chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí. 2. Bánh Ban Sự Sống
Đây không còn phải là một ước nguyện kể từ ngày Đức Yêsu giảng trong hội đường ở Capharnaum. Người đã đem thần lương từ trời xuống cho loài người đang hành trình trần gian. Lạ lùng hơn nữa, thần lương ấy lại là chính Người.
Tính cách lạ lùng này làm cho người Dothái thắc mắc. Hơn thế nữa, họ khó chịu và trở nên gay gắt, thù địch. Để diễn tả mối bất bình càng ngày càng lớn lên ở trong lòng họ, tác giả Yoan không gọi họ là quần chúng hay lũ đông như từ trước tới giờ nữa. Người gọi thẳng tên họ là "người Dothái". Và trong tác phẩm của người, danh từ này ám chỉ những người Dothái chống đối Đức Yêsu và sẽ giết Người.
Vậy, người Dothái bực mình khi nghe Đức Yêsu tuyên bố Người là bánh từ trời xuống. Họ chưa thèm để ý quan niệm Người là bánh, vì nó trừu tượng khó hiểu quá đối với họ. Họ chỉ cần bắt bẻ ngay tư tưởng "từ trời xuống". Họ thì thầm bảo nhau: Ông ta là con của ông Yuse và bà Maria mà lại nói mình từ trời xuống! Đức Yêsu nghe biết giọng chống đối hằn học. Người lại như nhìn thấy đoàn người Dothái ngày xưa khi ở sa mạc với Môsê... Và lòng Người cũng đau đớn thấm thía như nhà tiên tri này và cũng như Êlia trong bài sách Các Vua hôm nay. Cảm giác bị phản đối và công kích bị khước từ và phủ nhận sứ mạng trào lên trong môi miệng Người.
Người bảo họ: "Thôi đừng thầm thì làm chi! Ta biết rồi, chỉ những ai được Chúa Cha kéo lại mới đến được với Ta là phái viên của Người... Những kẻ ấy sẽ được Ta cho sống lại trong ngày sau hết". Có lẽ Người đã nghĩ, trước hết tới Môsê, Êlia và những người như các tiên tri này. Họ là những người đã chết trong niềm tin ở sứ mệnh đã được Thiên Chúa sai phái. Đức Yêsu sẽ làm cho họ sống lại. Nhưng Người cũng đã nghĩ tới những thế hệ đến sau. Đó là những người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ như lời các tiên tri đã hứa (Is 54,13; Yr 31,33-34), tức là những kẻ sẽ nghe và sẽ đón nhận lời của Người như của Đấng từ Chúa Cha mà đến và nói những gì đã thấy nơi Chúa Cha. Nghĩa là họ sẽ đón nhận Người như sứ giả của Chúa Cha; họ sẽ tin Người từ trời mà xuống; họ sẽ tin bản tính Thiên Chúa ở nơi Người. Và như vậy họ sẽ được sống đời đời. Và chính đức tin sẽ là lương thực đi đường của họ. Và bánh bởi trời ban sự sống trước hết chính là Lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa nhập thể, cũng là chính Đức Yêsu Kitô là Ngôi Lời đã làm người.
Không dừng lại ở đây, Đức Yêsu còn đi xa hơn nữa. Người Dothái đã lấy óc thực tế ra để tranh luận với Người, thì Người sẽ thách thức óc thực tế của họ. Người bảo họ: cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn ai ăn bánh bởi trời sẽ không chết. Và bánh bởi trời xuống chính là Ta... Và bánh Ta sẽ ban là Thịt Ta sẽ được ban cho nhân loại được sống.
Không thể có thách thức nào lớn hơn, vì cũng không thể có mạc khải và giáo lý nào khó chấp nhận rằng: người ta có thể công nhận Đức Yêsu đã từ trời xuống. Người mang lời ban sự sống đến; kẻ giữ lời ấy có thể được sống đời đời. Nhưng tin Người sẽ ban thịt máu mình để nuôi sống con người cho đến sự sống vĩnh cửu thì thật khó quá. Ngay ngày nay đã thấy Người ban sự sống mình làm hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thánh giá, nhiều người vẫn còn khó tin ở mầu nhiệm Thánh Thể ban sự sống vĩnh cửu. Nhưng chính sự khó tin này khiến người ta phải tự hỏi về niềm tin trước... Có thật người ta đã tin đúng mức Đức Yêsu là Lời ban sự sống chưa? Hay họ mới chỉ tin Người như một tiên tri mang lời nuôi sống của Thiên Chúa đến cho loài người? Không, Người không phải là tiên tri được Chúa Cha sai đến theo kiểu đó. Người là Ngôi Lời, là chính Ngôi-Lời-Thiên-Chúa nhập thể. Người là Manna đích thực ban sự sống đời đời. Manna ấy trước hết là Lời của Người, là chính Người với tư cách là Ngôi-Lời-Nhập-Thể. Ai tin và nhận lấy Người như vậy là ăn Manna đi đường trần gian dẫn đến Hứa Địa thực là Thiên Đàng. Nhưng ai đã tin như vậy và đồng hóa với Người như lương thực nuôi sống sẽ có khả năng đón nhận lời mạc khải cuối cùng về Người rằng: Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta được ban để thế gian có sự sống. Vì khi người ta đã tin Đức Yêsu là Thiên Chúa thì không lẽ nào họ có thể từ chối tin một lời Người khẳng định rõ ràng như vậy.
Do đó mấu chốt của vấn đề là lòng tin, là thái độ có muốn được Thiên Chúa dạy dỗ và có sẵn sàng chấp nhận mọi lời của Người hay không? Sự khác biệt giữa những người như Môsê và Êlia một bên, còn bên kia là những người Dothái luôn luôn có thái độ thì thầm, chống đối, bất vâng phục, là ở niềm tin vào Lời Chúa. Không phải là niềm tin chọn lọc lời này ý kia, vì làm như vậy là đặt mình và sự khôn ngoan của mình lên trên cả ý của Thiên Chúa; nhưng là niềm tin tận hiến trọn vẹn để được chính Chúa ban sự khôn ngoan và sự sống của Người cho thân phận và đời sống bé bỏng yếu đuối của mình.
Chúng ta lựa chọn thái độ của Môsê và Êlia hay thái độ của người Dothái? 3. Nếp Sống An Bình
Dĩ nhiên chúng ta muốn được như các vị tiên tri là những con người đích thực của Chúa. Thế thì chúng ta đừng thì thầm, càm ràm như người Dothái thời Môsê và thời Đức Yêsu. Đó chính là điều thánh Phaolô hôm nay khuyên chúng ta ở đầu bài thư của ngài: "Anh em đừng gây phiền muộn cho Thánh Thần của Thiên Chúa (là) ấn tín anh em được niêm đợi ngày cứu độ".
Ngày xưa dân Dothái gây phiền muộn cho Chúa. Rồi họ đã gây phiền muộn cho Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể. Bây giờ chúng ta có thể gây phiền muộn cho Thánh Thần là ấn tín của Thiên Chúa niêm ở nơi chúng ta. Có thể nói được rằng ngày xưa Lều Giao ước là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân; và họ đã ăn ở bất tín đến nỗi Người đã lấy hình khói, mây bay ra khỏi Đền thờ; rồi sự hiện diện của Đức Yêsu đã nói lên Thiên Chúa ở cùng loài người (Emmanuel) và họ đã đem Người ra khỏi Thành để đóng đinh. Ngày nay việc ơn Thánh Thần tuôn đổ trong ngày Người hiện xuống và khi chúng ta nhập đạo là bằng chứng Thiên Chúa đến lưu lại nơi chúng ta. Và chúng ta có thể làm phiền muộn Người. Thánh Phaolô bảo chúng ta đừng làm như vậy. Và người chỉ bảo những việc phải tránh để điều ấy khỏi xảy ra.
Bài thư hôm nay nói đến toàn những hành vi gây hấn, bất bình, khó chịu với anh em. Tại sao muốn đừng làm phiền muộn Chúa Thánh Thần chúng ta lại phải tránh những thái độ bất hòa với anh em? Không khó hiểu lắm đâu. Ở cuối bài thư, thánh Phaolô đã muốn giải thích. Chúng ta được ơn Thánh Thần khi "Đức Kitô đã yêu mến ta và đã phó nộp mình vì ta, làm lễ vật hy sinh, hinh hương dâng lên Thiên Chúa" để ban cho chúng ta ơn tha thứ, ơn giải hòa, ơn bình an, mà ơn Thánh Thần là bảo chứng. Người là ấn tín niêm trên các kẻ đã được chọn để họ trở thành con cái của bình an, của tha thứ, chứ không còn để họ trở thành con cái của lôi đình và thù nghịch nữa. Như vậy nếp sống hòa hợp, hòa giải là lẽ tự nhiên trong cuộc đời của họ. Và ngược lại, mọi lời nói việc làm và thái độ bất bình khó chịu xung khắc với anh em sẽ phá ấn tín bình an trên họ; và như thế họ làm phiền muộn Thánh Thần. Nói một cách dễ hiểu hơn, Thiên Chúa chỉ lưu lại nơi những tâm hồn được tha thứ. Vậy khi ai không có nếp sống tha thứ, họ chứng tỏ không còn giữ Chúa lưu lại trong mình. Họ đa làm phiền muộn Người đến nỗi Người đã phải bỏ đi.
Chúng ta có dễ tin những lời trên này không? Hay chúng ta vẫn còn nhiều khuynh hướng thì thầm, chống đối như Israel ngày trước? Chắc chắn chúng ta tin vững vàng thịt máu Chúa là lương thực ban sự sống đời đời. Nhưng chúng ta có tin mọi lời từ miệng Chúa phán ra cũng là bánh hằng sống không? Nếu tin thì chúng ta đã phải giữ tất cả. Thế nhưng dường như chúng ta không sẵn sàng thi hành mọi lời Chúa truyền dạy như sẵn sàng chịu lấy Thịt Máu Chúa. Có lẽ vì vậy mà chúng ta ít tiến bộ về mặt đạo đức bởi vì như trên đã nói, khi người ta chưa tin và nhận lấy Lời Chúa như bánh hằng sống, thì người ta cũng khó tin và nhận lấy đúng Mình Máu Thánh Chúa. Khi ấy người ta sẽ chịu lễ với ít lòng tin và lòng mến. Người ta có thể làm phiền muộn Chúa hơn là làm đẹp lòng Người.
Ước gì chúng ta luôn tin vào Lời Chúa như Êlia và Môsê để khi rước lễ chúng ta cảm thấy được bổ dưỡng thật sự như hai ông khi nhận được Manna và lương thực đi đường. Và phải hơn hai ông nữa, vì Manna và lương thực đi đường đích thực chính là Thịt Máu Chúa ban cho thế gian được sống và ban cho chúng ta được sống an bình ở thế gian để hành trình về Nước Trời. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đám đông dân Do Thái đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để: TN 19-B73
Đám đông dân Do Thái đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi họ khi họ tụ tập nơi hoang vu, đồng không mông quạnh nghe Chúa giảng dạy. Đúng là cái đói, cái khát đã làm cho họ sung sướng, hạnh phúc vì được Chúa nuôi ăn, cho uống. Qua phép lạ này, Chúa muốn cho họ hiểu được rằng đây là dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ điều gì lớn hơn, điều gì quí hóa hơn là bánh họ vừa ăn. Chúa sẽ hiến tặng chính mình máu của Người để làm của ăn thiêng liêng.
Những người dân với tầm hiểu biết có hạn chúng ta không hề chấp nhất với họ. Tuy nhiên những Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái những người được xem như có học, có trí thức, đã có ấn tượng không tốt về Chúa Giêsu vì ích kỷ, vì không có đức tin.Họ không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ nhìn Ngài như một con người bình thường, một người dân làng Nagiarét quê mùa, một người thợ mộc và là con của bác thợ mộc Giuse, con của bà Maria nội trợ ( Ga 6, 42 ). Chúa Giêsu đã nghe tiếng bàn tán xôn xao của họ, nhưng Ngài vẫn tỏ cho họ thấy Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Ngài nói:” Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời “ ( Ga 6, 51 ). Sau đó, Đức Giêsu bằng lời tuyên bố thật đáng yêu, thật đáng trân trọng của một Thiên Chúa đầy nhân hậu. Một lời hứa đã tiết lộ tình yêu vô biên, tuyệt vời nơi trái tim của Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã nói:” Và bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống “ ( Ga 6, 51 ). Chúa Giêsu không diễn tả một cách vu vơ, mơ hồ. Nhưng Ngài đã nói một cách rõ ràng, thẳng thắn. Chúa Giêsu không nói bánh giống như thịt của Ngài, nhưng Ngài nói minh bạc, thật trong sáng, thật rõ:” …Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây “. Bánh là chính thịt chứ Chúa không nói bánh giống như thịt của Ngài. Thật không có lời nào rõ, minh bạch và thẳng thắn như lời Đức Kitô diễn tả.
Trong chiều thứ năm tuần thánh trong Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể. Bánh và rượu trở nên Mình, Máu của Chúa Giêsu. Chính Đức Kitô đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài đi chịu nạn. Bí Tích Thánh Thể mà Đức Kitô thiết lập qua muôn thế hệ cho đến ngày tận cùng thế giới vẫn luôn là bí Tích Tình Yêu, Lương Thực vĩnh cửu nuôi sống những ai có đức tin. Bởi vì trước mắt người đời, trước mắt những người không có đức tin, Bánh và Rượu đối với họ chỉ là tầm thường như bánh, rượu bình thường.Tuy nhiên, đối với những người có đức tin, Bí Tích Thánh Thể là một ân huệ lớn lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người là Đức Kitô. Đây là Bí Tích nuôi sống, Bí Tích ban lương thực vĩnh cửu cho con người.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với nhân loại, với chúng ta: “ Phúc cho các ngươi biết bao khi các ngươi thấy được những điều các ngươi đang thấy ! Ta nói cho các ngươi biết nhiều tiên tri và vua chúa từng ao ước thấy điều các ngươi đang thấy, nghe được điều các ngươi đang nghe, mà không được “ ( Lc 10, 23-24 ).
Vâng, đứng trước mầu nhiệm lớn lao như thế chúng ta chỉ biết dâng lời cảm tạ tri ân vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, cho nhân loại một ân huệ lớn lao như thế. Chúng ta cũng chỉ có thể nói như các tông đồ:” Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy có những Lời ban sự sống đời đời “ ( Ga 6, 68 ).
Chúng ta cùng nhau cầu nguyện:” Lạy Cha, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận biết Mình Thánh Con của Cha trong tấm bánh hiện giờ chúng con đang chuẩn bị chia sẻ cùng nhau. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô, nhờ Người, với Người và trong Người, một ngày kia chúng con được sống với Cha cùng với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Phép lạ bánh và cá ám chỉ tới phép lạ nào Chúa sẽ làm ? 2.Tại sao những Kinh sư, va Pharisêu lại không tin Chúa ? 3.Chúa đã để lại cho nhân loại phép lạ nào lớn lao nhất ? 4.Tại sao Chúa không nói bánh Ngài sẽ trao giống như thịt Ngài ? 5.Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thúc nào và ở đâu ?
(41) Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”. (42) Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống”? (43) Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy. Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thật, tôi bảo thật các ông: Ai tin thì được sự sống đời đời. (48) Tôi là Bánh Trường Sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
2. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân: TN 19-B74
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ nghĩ rằng họ quá biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức Giêsu vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt Máu mình làm lương thực đi dường, để ai năng lãnh nhận bí tích này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ vè được quê trời hưởng hạnh phúc đời đời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 41-42:
+ Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giêsu từ hoang địa về thành Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán vì Người đã tuyên bố mình là Bánh từ trời mà đến.
+ Ông này chẳng phải là Giêsu, con của ông Giu-se đó sao?....: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã quá biết rõ về Người và về cha mẹ của Người.
- C 43-44:
+ Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức Giêsu biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì họ chỉ nghĩ về nhân tính của Người.
+ Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo...: Người cho họ biết đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho.
+ Và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống mãi mãi.
- C 45-46:
+ “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54,13), và lời sấm của Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31,33-34).
+Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
+ Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng vô cùng (x. Ga 4,24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Thời Xuất hành, dù được thường xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng Mô-sê cũng chỉ thấy được sau lưng của Đức Chúa chứ không nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33,23). Nhưng Đức Giêsu, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy Chúa Cha và có thể mặc khải Ngài cho chúng ta.
- C 47-51:
+ “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giêsu), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
+ “Tôi là Bánh Trường Sinh”: Đức Giêsu tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay “Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ lập sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16,16), và của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6,9).
+ Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị hư nát (x. Xh 16,19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải chết do tội đã phạm (x. Tv 78,29-31) và không được sống đời đời (x. Ga 6,58).
+ Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết: Đức Giêsu mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6,50), nhưng “được sống muôn đời” (x Ga 6,51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6,56), “được sống nhờ Chúa Cha” (x. Ga 6,57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”: Nói câu này, Đức Giêsu đã liên kết 5 chiếc bánh trong phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích Thánh thể (x. Mt 26,26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức Giêsu biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của Người (x. Ga 6,51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin (x. Ga 6,51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống đời đời (x. Ga 6,58).
HỎI: 1)Dân Do thái xàm xì phản đối Đức Giêsu về câu nói nào của Người ? Tại sao ? 2)Đức Giêsu dạy đức tin có bởi đâu ? 3)Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được gì? 4)Câu “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tòm lược tuyên sấm của hai ngôn sứ nào và 2 lời đó như thế nào ? 5)Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh danh là gì ? Ai mới thấy được Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho chúng ta ? 6)Ai tin vào Đức Giêsu sẽ được hưởng ơn gì ? Thánh Phao-lô đã so sánh giữa A-đam với Đức Giêsu thế nào ? 7)Khi ví mình là Bánh Trường Sinh, Đức Giêsu muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ lập sau này ? 8)Man-na la lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en thời kỳ nào và có hiệu lực đem lại sự sống đời đời không ? 9)Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ được những ơn ích thiêng liêng nào ? 10)Đức Giêsu hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể như thế nào ? Với mục đích gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”(Ga 6,51).-“Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44).-
2.CÂU CHUYỆN: CẢI GIÁO NHỜ TIN VÀO BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Hồng y NIU-MÂN (Newman) trước kia đã từng giữ chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù thuộc tầng lớp quí tộc và thuộc hàng chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy, nhưng ngài vẫn luôn bị lương tâm dày vò về đức tin không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ so sánh, tìm hiểu kỹ lưỡng sự khác biệt đức tín giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài đã quyết định từ bỏ mọi chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến xin ngài nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm cũng không được hưởng nữa!” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời: “Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì nếu đem so với những điều tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là Bánh đem lại phúc trường sinh”. Sở dĩ Niu-mân có suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta sẽ không hiểu nổi các chân lý đức tin, nhất là giáo huấn về bí tích Thánh Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay đã không chấp nhận.
3. SUY NIỆM:
Trên đường về với Chúa, người ta cần có lương thực bổ sức như sau:
+ MAN-NA NUÔI DÂN DO THÁI TRONG THỜI KỲ XUẤT HÀNH:
Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và con cháu ông (x. St 12,5-7). Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân Ít-ra-en không có bánh ăn nước uống như ở Ai Cập, nhưng họ đã được Đức Chúa nuôi dưỡng bằng man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16,15) và bằng nước từ tảng đá chảy ra (x Xh 17). Nhờ đó họ đã đủ sức để vượt qua sa mạc suốt bốn mươi năm để về tới Đất Hứa.
+ BÁNH VÀ NƯỚC BỔ SỨC CHO NGÔN SỨ Ê-LI-A VỀ TỚI NÚI CHÚA:
Sau khi ra tay tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men (x. 1 V 18,20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy đuổi, nên ông phải chạy đến Núi Khô-rép để nhờ Đức Chúa bảo vệ. Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt mỏi và tuyệt vọng đã chỉ muốn được chết đi cho xong. Nhưng lúc thiếp ngủ dưới một gốc cây, ông đã được một thiên sứ đánh thức và mang cho ông bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước này mà Ê-li-a đã hồi phục sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình lên Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19,1-8).
+ THÁNH THỂ: MAN-NA MỚI TRÊN ĐƯỜNG XUẤT HÀNH VỀ TRỜI:
Manna xưa là hình ảnh tiền trưng của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giêsu thiết lập. Người đã tự hiến làm lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời mà xuống. Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để cho thế gian được sống” (Ga 6,48.51). Lương thực đó còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta (x Ga 1,14), trở thành con đường duy nhất nối liền giữa đất với trời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
+ ĐÓN NHẬN BÁNH THÁNH THỂ ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG ƠN CỨU ĐỘ:
Ngày nay Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể để tưởng niệm sự chết và phục sinh của Người và mời gọi mọi người năng lãnh nhận để được tham phần hưởng hạnh phúc đời đời như Đức Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
4. THẢO LUẬN: 1.-Bạn sẽ tham dự thánh lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban ? 2.-Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để đem Chúa đi giới thiệu cho tha nhân, nhất là cho những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ là được sống đời đời ?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Mỗi lần dự lễ là con được Chúa mời ăn Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa khoản đãi. Khi lên rước lễ là con được đón nhận cả nhân tính và thần tính của Chúa. Xin giúp con siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo huấn và được Mình Thánh Chúa dưỡng nuôi. Xin cho con biết mở rộng vòng tay đón nhận hết mọi người sống chung trong một mái nhà, cùng một khu xóm, cùng làm việc trong cơ quan hay nhà náy... Xin cho con biết chấp nhận không những người thân thương và cả những người đối xử không tốt với con. Xin giúp con được ơn Thánh Thần biến đổi ngày một nên con thảo đẹp lòng Chúa Cha, nên môn đệ sống khiêm tốn quảng đại phục vụ tha nhân, và tích cực chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho mọi người.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:41-51)
Chấp nhận một điều vượt trên sự hiểu biết của chúng ta là việc khó và đòi chúng ta phải co: TN 19-B75
Chấp nhận một điều vượt trên sự hiểu biết của chúng ta là việc khó và đòi chúng ta phải có thái độ khiêm nhường. Đó cũng là vấn đề của những người Do-thái trong bài Tin Mừng hôm nay khi họ nghe Chúa Giê-su tuyên bố một thực tại về chính Người: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Chúa Giê-su đã trả lời thắc mắc của người Do-thái là tại sao Người lại nói mình bởi trời mà xuống. Suy niệm về lý do tại sao này giúp chúng ta quý trọng sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta.
Trong diễn từ tại hội đường Ca-phác-na-um sau phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa Giê-su muốn đưa người ta sang một lãnh vực khác: từ bánh ăn hằng ngày giúp duy trì sự sống phần xác tiến đến bánh lời Chúa mang lại sự sống đời đời; nói khác đi, vì họ đã được ăn bánh Người ban do phép lạ, nên Chúa Giê-su mời gọi họ hãy tin Người là bánh thiêng liêng do Chúa Cha từ trời ban xuống cho họ. Trước hết Chúa Giê-su nêu lên lý do tại sao Chúa Cha sai Người đến. Thiên Chúa Cha muốn dạy bảo mọi người. Thực ra Thiên Chúa đã dạy bảo tổ tiên người Do-thái từ thuở xưa nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ (Do-thái 1:1). Từ thời Áp-ra-ham cho đến giao ước Xi-nai và sau đó là thời các ngôn sứ, Thiên Chúa đã không ngừng dạy dỗ dân Người và dẫn dắt họ đi theo đường lối của Người. Vậy mà dường như bia đá Xi-nai khắc ghi luật Chúa, các sấm ngôn và sứ điệp do các ngôn sứ đem đến đều không thể thuyết phục được Ít-ra-en sống như Thiên Chúa muốn và giữ mối tương quan tốt đẹp với Người. Trái lại, họ dễ dàng chạy theo những quyến rũ của lối sống đi ngược Lề Luật và thờ kính các thần ngoại thay vì phụng thờ Chúa.
Trước “thất bại” này, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất để tiếp tục dạy bảo, đó là sai Con Một là chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đến trần gian, để “Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Thiên Chúa đã lôi kéo mọi người đến với Chúa Giê-su, ban cho mọi người không trừ ai khả năng và cơ hội gặp gỡ Chúa Giê-su, để nghe lời giáo hóa của Chúa Cha (Gio-an 6:44). Chính Chúa Giê-su cũng nhấn mạnh đến điều này: “Vậy nếu ai muốn nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (6:45). Như thế, rõ ràng Chúa Giê-su là tiếng nói nhân loại của Thiên Chúa Cha phán dạy chúng ta, chứ không còn là tiếng sấm hay tiếng thiên thần nữa. Đúng vậy, Lời và tiếng Thiên Chúa đã được gửi đến nhân loại qua những bài giảng, những dụ ngôn, những lời khích lệ, cả những lời tố cáo hoặc quở trách của Chúa Giê-su. Giờ đây tiếng Thiên Chúa nói với người què: “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà”, hoặc với người phong cùi: “Tôi muốn, anh hãy được sạch đi”, hoặc với người tội lỗi: “Tội con đã được tha”… Giờ đây bàn tay nhân loại của Thiên Chúa chạm đến những vết thương của con người khi Chúa Giê-su chạm tới người bệnh tật, kẻ khổ đau vì đứa con đã chết…
Nhìn vào những lý do tại sao Chúa Giê-su từ trời xuống, chúng ta thấy Người được Chúa Cha sai đến trần gian không phải để làm nhà phù thủy biến bánh hóa nhiều cho dân chúng được no nê, làm chính trị gia hay kinh tế gia đại tài để cứu nguy dân tộc, nhưng làm “bánh bởi trời” chứa đựng tình yêu bao la của Thiên Chúa. Mục đích Người được sai đến là để chúng ta được sống, sống đầy đủ ý nghĩa cuộc sống của người con Chúa (Gio-an 10:10), và nhất là để được Người đem chúng ta trở về sống đời đời trong nhà Cha trên trời của chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”. Tin vào Chúa Giê-su không phải là một đức tin mù mờ, nhưng là tin vào chính Thiên Chúa làm người phàm để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của loài người. Lời Chúa và nhất là những lời sách Tin Mừng phải được chúng ta đón nhận như những “lời giáo hóa” của Chúa Cha dạy chúng ta phải thay đổi và trở nên giống như Chúa Giê-su. Vì thế chúng ta không chỉ là những người nghe lời Chúa, mà còn là những người thi hành hoặc sống lời Chúa nữa. Mong thay!
Gio 6:41-51: 41 Người Do thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống." 42Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống? " 43 Đức Giê-su bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! 44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45 Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 46 Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.47 Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48 Tôi là bánh trường sinh.49 Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết.50 Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."
Đoạn 6:41-51 nằm trong diễn từ về Bánh ban sự sống (6:32-59); gồm: - Chúa Giêsu là Bánh thật: TN 19-B76
Đoạn 6:41-51 nằm trong diễn từ về Bánh ban sự sống (6:32-59); gồm: - Chúa Giêsu là Bánh thật bởi trời (cc. 32-35); - Đòi hỏi lòng tin (cc. 36 - 40); - Hai lời xầm xì của người Do thái: về Chúa Giêsu là bánh bởi trời (cc. 41-51) và Chúa cho xác của Người để ăn (cc. 52-59). Đoạn 6:41-51 có thể được chia thành hai: - Trả lời về nguồn gốc “bởi trời” của Người (cc. 41-47); - Trả lời về chính Người là Bánh ban sự sống (cc. 47-51).
Những người đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu được gọi là “người Do thái” (cc. 41.52), thay vì “dân chúng”. Gioan thường dùng hạn từ nầy để chỉ những người không tin vào Người trong Israel (x. 5:10.16.18). Họ thường tỏ thái độ phê bình, chỉ trích những việc Thiên Chúa làm (x. Xh 15:24; 16:2; 17:3; Ds 11:1; 14:1-3). Ở đây, họ chỉ trích câu nói của Chúa Giêsu, khi nói Người là Bánh đến từ trời; trong khi họ nghĩ là biết rõ ràng và chắc chắn về gốc gác của Người (cc. 41-42).
Thắc mắc của người Do thái được trả lời trong hai phần: a- Chúa Giêsu là Bánh, b- đến từ trời. Cụm từ “đến từ trời” xuất hiện đến 7 lần trong chương 6, liên quan đến manna - bánh. Gioan phân biệt rõ ràng: - Bánh đến từ trời là do Thiên Chúa ban cho (c. 32); là bánh thật (c. 32.55) và làm cho sống (c. 33); bánh nầy đồng hóa với Chúa Giêsu (c. 41); ăn bánh nầy thì được sống (c. 51); - Đối lại là manna trong hoang địa; ăn manna vẫn phải chết (c. 49). Vì Chúa Giêsu đã xác định rõ nguồn gốc của Người là “bởi trời”, mặc dù vẫn còn nghi ngờ giữa người Do thái (x. 7:27; 41; 1:21), trong những câu tiếp theo Người nhấn mạnh đến việc cần được Thiên Chúa giáo huấn để có thể nhận biết và tin vào bản tính thần linh của Người (cc. 44-47). “Đến với” Chúa Giêsu có nghĩa là tiếp cận Người và nhận biết Người là ai. Câu điều kiện “Nếu không được Cha Thầy kéo đến” (c. 44) hàm ý không ai có khả năng tự mình đi đến cùng Chúa Giêsu, nên phải để Thiên Chúa “kéo đến”, xích họ lại gần Người (x. 12:32). Mọi người cần được Thiên Chúa dạy dỗ để có thể tin là Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Về phía con người, cần lắng nghe Thiên Chúa và học hỏi từ Thiên Chúa, mới có thể nhận biết nhận ra Người trong đức tin (cc. 45-47).
Đoạn 6: 48-51 trở lại đề tài “bánh” đã được nói đến trong những câu 32-35. Những điều được khai triển và nhấn mạnh ở đây là: - Bánh làm cho sống (cc. 48.50.51), - ăn bánh (cc. 49.50.51). Dùng cách nói “Ta là” (cc. 48.51), Chúa Giêsu gọi Người là bánh của sự sống (c. 48; nước của sự sống 4:10). Bánh nầy có thể làm cho những ai ăn từ bánh ấy sống muôn đời (c. 51). Đến lúc nầy, Chúa Giêsu vẫn nói về chính mình như là bánh của sự sống, từ trời mà đến (6:32) do Chúa Cha ban cho (ở thì hiện tại), và mang lại sự sống cho thế gian (6: 33). Nhưng trong câu kết của đoạn nầy, Chúa Giêsu xác định bánh của sự sống chính là “thịt” của Người, mà chính Người sẽ ban (ở thì tương lai) để cho thế gian được sống (c. 51). Sự chuyển đổi thì của động từ “cho”, “ban” (c. 51) gợi lên ý tưởng là chính Chúa Giêsu sẽ thực hiện việc trao ban tự nguyện thân xác của Người trong cuộc thương khó; đồng thời, câu nói về điều ấy gây ra một vấn nạn khác cho người Do thái, sẽ được nêu lên trong phần kế tiếp (6:52). Bánh được ban để mà ăn. Kết quả đối nghịch giữa manna và bánh của sự sống là: cha ông ăn manna và chết, trong khi ai ăn bánh của sự sống thì không phải chết mà còn được sống muôn đời.
Tin vào Chúa Giêsu (c. 47) và ăn bánh Người ban (c. 51) liên hệ mật thiết với nhau. Cả hai đều đưa đến sự hiệp thông và đồng hóa với Người; điều nầy sẽ được khai triển trong đoạn 6:52-58. Hiệp thông trọn hảo với Chúa Giêsu là đã hưởng sự sống muôn đời.
Đoạn thư hôm nay là huấn dụ thứ hai (4:25-5:2) trong ba huấn dụ nhỏ, khích lệ tín hữu Ê-phê-xô: TN 19-B77
Đoạn thư hôm nay là huấn dụ thứ hai (4:25-5:2) trong ba huấn dụ nhỏ, khích lệ tín hữu Ê-phê-xô sống sao cho phù hợp với Tin Mừng họ đã nhận lãnh. Với tính duy nhất của Giáo Hội, Ki-tô hữu học sống hiệp nhất với nhau để thể hiện sự hiệp nhất của Giáo Hội. Với sự thánh thiện của Giáo Hội, Ki-tô hữu thực thi đúng theo căn tính Ki-tô hữu của mình để “thực sự sống công chính và thánh thiện.” Để quảng diễn thêm những phạm trù căn bản của đời sống Ki-tô hữu, thánh Phao-lô hướng về đời sống cộng đoàn để mời gọi tín hữu hãy nỗ lực làm cho đời sống cộng đoàn được mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Các phần tử của Giáo Hội có trách nhiệm đối với nhau, vì họ đều là chi thể của cùng một thân thể Chúa Ki-tô. Họ thuộc về nhau là vì họ thuộc về Đức Ki-tô. Nói về đời sống cộng đoàn, thánh Phao-lô không thích lý thuyết dài dòng, nhưng ngài nhìn vào những gì thường xảy ra và căn cứ vào kinh nghiệm mục vụ của mình để đưa ra một số kết luận thực hành hết sức thực tế.
a) Làm tổn thương đời sống cộng đoàn là “làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa.”
Chúa Thánh Thần là mối dây độc nhất liên kết mọi chi thể trong nhiệm thể Chúa Ki-tô. Nếu hiểu Thánh Thần là Đấng ghi dấu ấn trên tín hữu để họ thực sự thuộc về Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tưởng tượng Thánh Thần sẽ “buồn lòng” biết mấy khi dấu ấn ấy bị làm phai mờ đi do lối sống không phù hợp với lối sống và Tin Mừng của Đức Ki-tô. Chúa Thánh Thần không tách rời với cộng đồng Ki-tô. Sự hiện diện của Người nơi mỗi Ki-tô hữu là dấu ấn bảo đảm họ sẽ được cứu chuộc nếu họ giữ dấu ấn ấy cho tới khi Đức Ki-tô trở lại với họ.
Vai trò của Thánh Thần đã được thánh Phao-lô nói đến trước đây trong vinh tụng ca mở đầu: “Vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1:13-14). Có hai điểm được nói đến ở đây. Trước hết ân huệ Thánh Thần là bảo chứng cho phần rỗi chúng ta. Thứ hai, vì Thánh Thần xác định căn tính của các tín hữu là những kẻ sẽ được cứu chuộc, nên lối sống vô luân là lối sống đi ngược lại căn tính của họ. Người ta sẽ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa khi họ tuy đã có phận được cứu chuộc mà lại còn sống theo con người cũ của mình.
Vậy để khỏi làm phiền lòng Thiên Chúa, theo lời khuyên của thánh Phao-lô, tín hữu “hãy bắt chước Thiên Chúa.” Lời khuyên có vẻ khác thường, gần như không ăn nhập gì với ý tưởng “đừng làm phiền lòng Thánh Thần.” Thực ra thì lời khuyên “hãy bắt chước Thiên Chúa” là câu trả lời đi thẳng vào vấn đề. Thánh Thần hướng dẫn chúng ta sống theo lối sống mới, tức là sống bác ái, yêu thương, hiệp nhất... Mà tất cả những điều này chúng ta sẽ học được ở nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi trao ban Con Một cho chúng ta. Đó là bài học để chúng ta làm đẹp lòng Thánh Thần khi chúng ta sống trong tình bác ái.
b) Sống trong tình bác ái
Bác ái là then chốt của đời sống cộng đoàn. Chúng ta trở lại với hai câu 31-32 chương 4 để lắng nghe những lời khuyên thực tế của thánh Phao-lô về đời sống cộng đoàn. Về phương diện tiêu cực, chúng ta tránh những thái độ tai hại sau: chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, la lối thóa mạ. Chắc chắn chúng ta ai cũng từng có những kinh nghiệm về những hành vi kể trên, hoặc mình là chủ nhân hoặc là nạn nhân! Những hành vi này phá hoại tình bác ái thật trầm trọng, nhiều khi vĩnh viễn không sao hàn gắn hay hòa giải được. Chúng đi ngược hẳn với đức ái đích thực (1 Cr 13:4-7) hoặc sinh ra những hoa trái ngược lại với những hoa trái của Thần Khí (Gl 5:22-23a).
Về phương diện tích cực, thánh Phao-lô khuyên tín hữu hãy đối xử tốt với nhau, biết thương xót và tha thứ cho nhau. Sống giữa dòng đời, đối xử tốt với người khác thường bị coi là để cho người ta lợi dụng mình. Thương xót và tha thứ được coi là nhu nhược. Não trạng của người đời là vậy. Nhưng não trạng Ki-tô thì khác. Không phải chỉ thương xót tha thứ thôi đâu, mà còn phải đi xa hơn nữa, đó là yêu thương kẻ thù là điều Thiên Chúa đã dạy con cái Người qua Đức Ki-tô.
c) Hướng về đời sống cộng đoàn
Hơn lúc nào hết, cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại quê nhà cũng như hải ngoại cần phải bước ra khỏi lối sống cá nhân, đèn ai nhà nấy rạng, để dấn thân vào đời sống cộng đoàn nhiều hơn. Chúng ta không truyền giáo một cách đơn độc, cá nhân, nhưng như một cộng đoàn. Đời sống yêu thương bác ái là một bài giảng hùng hồn nhất và một chứng từ có sức mạnh lớn lao nhất. Phải chăng Thánh Thần của Thiên Chúa ít được chúng ta để tâm tới cho nên chúng ta cứ “làm phiền lòng” Người? Phải chăng chúng ta không nhận ra những dấu chỉ của sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần giữa cộng đoàn, nên chúng ta tưởng cộng đoàn là của riêng chúng ta và chúng ta muốn làm gì thì làm, bất kể bác ái yêu thương là gì, miễn là chúng ta không bị “làm phiền lòng”!
Lời khuyên của thánh Phao-lô tuy ngắn gọn, nhưng vô cùng thâm sâu và cốt lõi, đi thẳng vào những nhược điểm của con người. Lời khuyên càng ngắn gọn và rõ ràng thì sứ điệp càng mạnh mẽ và thúc giục chúng ta thực hành dễ dàng hơn. Mong được như vậy nơi mỗi anh chị em Ki-tô hữu chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nhận định về đời sống cộng đoàn của tôi một cách khiêm nhượng và thẳng thắn. Tôi rút được những bài học nào về sự chia rẽ rạn nứt và về bác ái yêu thương nhau?
Thái độ nào của tôi dễ làm tổn thương tình bác ái cộng đoàn nhiều nhất? Tôi có ý thức điều ấy trước đây không? Tôi phải làm gì để sửa đổi?
Não trạng của tôi là não trạng nào? Của người đời hay của Chúa Ki-tô? Tôi học hỏi và tập sống não trạng Ki-tô ở đâu và như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài “Đâu có tình yêu thương”. Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nói thế, tưởng đúng, mà lại sai. Vì có ai biết được, mình sẽ sống tới bao nhiêu tuổi rồi chết đâu. Khối TN 19-B78
Nói thế, tưởng đúng, mà lại sai. Vì có ai biết được, mình sẽ sống tới bao nhiêu tuổi rồi chết đâu. Khối gì người đau lâu ốm dài, ước mong được chết, mà cứ sống hoài; trong khi, có những người tuổi xuân phơi phới, béo tốt khỏe mạnh, bỗng lăn đùng ra chết. Rõ ràng, sự sống có ở trong tay mình đâu. Đấy là ở góc độ thân xác. Còn ở góc độ tâm linh, thì lại khác: Sự sống chết là ở trong tay mình.
Ta xác quyết thế, không phải là tự bịa ra, mà là dựa vào những lời dạy của Thầy Giêsu dấu ái của ta. Ngài nói: Ai tin thì được sự sống đời đời. Một chân lý mới mở ra: Sự sống của linh hồn là sự sống vĩnh cửu. Được sự sống đời đời, có nghĩa là được tháp nhập vào nguồn cội của sự sống, đó chính là sự sống của Thiên Chúa. Mất sự sống đời đời, không có nghĩa là phải chết như thân xác, mà là bị tách rời với Thiên Chúa, là chính sự sống, đồng thời cũng là sự sáng. Và chân lý thứ hai mở ra: Muốn có được sự sống đời đời ấy, chỉ có một điều kiện duy nhất: là Tin.
Nhưng là niềm tin nào? Không phải là một niềm tin vu vơ, mà là một niềm tin son sắt vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu, là trụ cột, và là con đường duy nhất để có được sự sống vĩnh cửu.
Nhưng thế nào là tin vào Đức Giêsu? Tin là tuyệt đối tin tưởng, và hoàn toàn phó thác đời mình vào trong tay Chúa Giêsu. Chấp nhận một cách vững chắc những lời dạy của Ngài. Và trong chữ Tin ấy, nó có hòa lẫn một tình yêu mến thực sự và chân thành. Vừa tin, vừa yêu. Và vì vừa yêu như thế, cho nên ta luôn cố gắng, tìm thánh ý của Ngài để thi hành; thi hành một cách tự nguyện, vui vẻ và hạnh phúc. Và cái đỉnh cao nhất của niềm tin nơi Đức Kitô, là tin vào sự hiện diện của Ngài nơi Bí tích Thánh Thể. Phải có một niềm tin tuyệt đối, mới có thể chấp nhận được sự hiện diện mầu nhiệm này. Và khi đã đón nhận Chúa Kitô trong bí tích này rồi, đức tin của ta, sẽ được đẩy lên cao hơn, và sâu xa hơn: Ta được kết hiệp mật thiết với Ngài. Và nhờ sự kết hiệp này, sự sống vĩnh cửu nơi Chúa Giêsu, sẽ ở lại trong ta, để dần dần mỗi ngày, ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Nhưng, đây chỉ là một lời mời chân thành. Chúa luôn tôn trọng tự do và quyết định của ta; không hề ép buộc. Ta có thể từ chối. Nhưng khi làm thế, ta phải chấp nhận những hệ lụy đi theo. Không phải Chúa phạt, mà là chính ta chọn lựa cho mình. Vì: ai không ăn bánh này, sẽ phải chết đời đời. Chính ta chọn cái chết cho ta, đừng đổ oan cho Chúa.
Câu hỏi:
1- Trong cuộc đời, ai là người mà bạn tin tưởng nhất để đồng hành với bạn trong những tình huống của cuộc đời. 2- Xin bạn nhìn lại, trong linh hồn bạn, đã có mầm sống vĩnh cửu cắm rễ chưa?
Tần Thuỷ Hoàng là người đã xây Vạn Lý Trường Thành, dài hơn 2000 dặm. Đây là một kiến trúc duy TN 19-B79
Tần Thuỷ Hoàng là người đã xây Vạn Lý Trường Thành, dài hơn 2000 dặm. Đây là một kiến trúc duy nhất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Ông rất sợ chết. Ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông. Dân cư ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là ông bèn phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu, lên đường tiến tới hòn đảo ấy với hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh. Tuy nhiên dân cư ở đây lại nhất định không chịu đổi.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã từng ước mơ được sống mãi và chẳng bao giờ phải chết. Nào là những viên thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, nào là những trái đào bất tử. Ngày nay, ngành y dược đã biến bộ, người ta tìm thấy những phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Nhưng rồi cuối cùng con người vẫn cứ phải chết.
Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu, thì dân chúng bèn kéo đến để nghe. Dân Do Thái vốn tin rằng có một thế giới của người chết, nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Bởi đó họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào dọi soi vào mầu nhiệm này.
Thế nhưng, họ đã lắc đầu khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban cho chính là thịt Ta. Dân chúng bắt đầu lẩm bẩm: Người này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Thế mà anh ta lại dám mạo nhận là bánh từ trời xuống.
Còn chúng ta thì sao? Cũng chính vì chấp nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã tụ tập với nhau để nghe Chúa nói về cuộc sống vĩnh cửu, cũng như để được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, bánh ban sự sống. Cái bí quyết được trường sinh, cái viên thuốc bất tử hiện đang ở giữa chúng ta... ngay trong ngôi thánh đường này. Đó là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, nguồn mạch trường sinh.
Ngài ở với chúng ta bằng thần trí như Ngài đã nói: Bất cứ ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ.
Ngài còn ở với chúng ta bằng lời của Ngài. Điều Ngài đã nói cách đây 2000 năm với dân chúng cũng là điều Ngài vừa nói với chúng ta quan đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Cuối cùng Chúa Giêsu hiện diện với chta trong bí tích ban sự sống như lời Ngài đã xác quyết: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đứng trước mầu nhiệm tuyệt vời ấy chúng ta hãy bắt chước các môn đệ mà kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin nhỏ bé của chúng con.
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là TN 19-B80 Lượng
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.
I. Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần
Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.
Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.
Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.
II. Đức Giêsu là bánh từ trời
Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!
Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.
Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.
III. Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa
Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.
Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.
Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô. Câu hỏi gợi ý chia sẻ 1. Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi? 2. Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.
Chúng ta không phủ nhận sự kiện có nhiều người muốn chối bỏ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mà họ đang TN 19-B81
Chúng ta không phủ nhận sự kiện có nhiều người muốn chối bỏ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mà họ đang nắm giữ chưa phải là Thiên Chúa thật, đó mới chỉ là một phác họa của trí tưởng tượng, một phản ứng của những ước muốn nơi con người. Không chiều theo sở thích của họ thì họ sẽ sẵn sàng chối bỏ. Muốn khám phá ra một Thiên Chúa thật, con người phải tìm về cội nguồn là Đức Kitô, như lời dạy của Ngài qua tường thuật của thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, có nhiều cách nghe và nhiều cách phản ứng trước điều đã nghe. Có người nghe để rồi phê bình chỉ trích, có người nghe rồi chán nản bực mình, nghe để khiếp sợ xa lánh hoặc nghe chỉ vì không có cơ hội để nói. Tất cả các cách nghe này đều không phải là cách nghe mà Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: "Ai nghe và học nơi Cha thì đến với Ta".
Nghe và học là đáp trả đối với tình yêu Thiên Chúa. Vì Lời của Thiên Chúa như mưa tuyết từ trời sa xuống, nó sẽ không trở lên trời lại nếu đã không thấm nhuần đất đai, nếu không làm cho đất đai sinh sản nẩy mầm và cho người gieo có giống cùng cơm bánh cho người ta ăn.
Lời Chúa là lời phát sinh hiệu quả. Hiệu quả ấy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc kết tinh của ước muốn. Nếu chỉ gặt hái được những kết quả như thế khi tiếp xúc với Thiên Chúa, sớm muộn gì con người cũng sẽ chối bỏ Ngài.
Muốn gặp được Thiên Chúa thật, con người phải đến với Đức Giêsu: "Không ai xem thấy Cha trừ ra Đấng bởi từ Thiên Chúa Cha mà ra. Đấng ấy đã thấy Cha và Đấng ấy cũng là Thiên Chúa".
Tìm đến với Ngài là tìm gặp được Thiên Chúa. Nghe và học ở nơi Ngài không chỉ là việc tiếp nhận từ Ngài các kiến thức khô khan, như các công thức toán học, vật lý hoặc văn chương triết học. Nghe và học ở Ngài là đón nhận cả con người của Ngài. Thân thể Ngài trở nên của ăn, Máu Ngài trở nên của uống nuôi sống trần gian: "Ai đến với Ngài sẽ không hề đói. Ai tin vào Ngài sẽ không hề khát bao giờ".
Con người vẫn còn than trách hoặc chối từ Thiên Chúa, vì họ còn giữ mãi cho mình hình ảnh của một Thiên Chúa do họ nắn tạo ra. Cần phải phá bỏ hình ảnh đó đi, họ mới có cơ may gặp được Thiên Chúa thật. Người Do Thái đã không từ chối hình ảnh của Đấng Cứu Thế theo những gì họ nghĩ tưởng. Thế nên, đứng trước một Đấng Cứu Thế thật, họ cũng chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Biệt phái nghe để phê bình, luật sĩ nhìn để bắt bẻ, thì làm sao có thể nghe và nhìn để học hỏi nơi Đức Giêsu. Người tín hữu hôm nay cũng thế, nếu không biết nghe và học, họ sẽ không gặp được Thiên Chúa. Nghe và học đòi buộc họ phải đến với Chúa Giêsu, đến với Ngài đòi buộc họ phải đón nhận Ngài. Vì hiểu biết Thiên Chúa không phải chỉ là mớ kiến thức, nhưng hiểu biết về Ngài là một cảm nghiệm, một đối thoại trao đổi không ngừng.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta vượt qua hình ảnh về Thiên Chúa mà bấy lâu nay mỗi người trong chúng ta đã đúc sẵn cho mình. Có thể đó là một Thiên Chúa nhớ đến lúc nguy nan hoặc như nhãn hiệu gắn bên ngoài để che mắt người đời. Có như thế, chúng ta mới gặp được Thiên Chúa thật, Đấng hằng mong chờ chúng ta đến để sống với Ngài, để hưởng sự sống đời đời bên Ngài. Amen.
Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên TN 19-B82
Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.
1. Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc
Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.
Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).
Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.
Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).
2. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep
Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ; 2V 13).
Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.
Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 - 40).
Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.
Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Đó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
3. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.
Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.
Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.
Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.
Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.
Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.
Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nến hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.
Nếu chúng ta gặp một người tuyên bố rằng: “Ta từ trời mà đến”, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có tin TN 19-B83
Nếu chúng ta gặp một người tuyên bố rằng: “Ta từ trời mà đến”, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có tin được không? Đứng trước những lời tuyên bố lạ thường của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng không thể tin được, tất nhiên họ phản đối. Vì thế, họ xầm xì với nhau: “Ông này là con ông Giuse, tại sao ông ấy dám tuyên bố là Bánh bởi trời xuống?” Họ biết cha mẹ và dòng họ của Ngài. Có lẽ Chúa Giêsu muốn gây “sốc” để từ đó tạo ra một thắc mắc và sau đó giải quyết vấn đề.
Chúng ta cũng thế thôi. Chúng ta thường căn cứ vào “lý lịch”, hay căn cứ vào những gì mình đã biết, nhất là vào thời của chúng ta: phải có lý lịch mới được công nhận. Đó là căn bản.
Khi Ngài về Nadareth, quê hương của Ngài, không mấy ai tin Ngài, vì nơi đó lý lịch của Ngài quá rõ, không ai có thể chấp nhận sự thông thái của Ngài vì họ biết, Ngài chỉ là một anh thợ mộc dốt nát.
Lý lịch trở thành một rào cản không cho phép người ta đi xa hơn. Nó ràng buộc một con người trong khung cảnh nhỏ hẹp của họ. Ngài là con ông thợ mộc, thì suốt đời Ngài cũng chỉ là con ông thợ mộc mà thôi.
Điều này không gây trở ngại cho Chúa Giêsu. Ngài khẳng định: “Anh em biết tôi là con ông thợ mộc, nhưng không chỉ là con ông thợ mộc. Đó chỉ là lý lịch thôi. Tôi vượt xa hơn thế.”
Ngài tuyên bố những lời rất “khó nghe”: “Các ông đừng xầm xì nữa. Chẳng ai đến được với tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”.
“Không ai đến được với tôi”, tức là tôi không thuộc về mảnh đất này, môi trường này, tôi thuộc về nơi khác, tôi ở nơi Chúa Cha. Ngài muốn ám chỉ mối liên hệ sâu xa của Ngài với Chúa Cha. Chính Chúa Cha “kéo” chúng ta đến với Ngài chứ không phải chúng ta tự mình đến với Ngài. Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến, thì chính Chúa Cha cũng kéo chúng ta đến với Ngài.
Dân Do Thái thắc mắc về lý lịch của Ngài và không muốn vượt qua rào cản đó, vì họ không được Chúa Cha lôi kéo. Họ dừng lại ở những dữ kiện bên ngoài mà quên những yếu tố bên trong. Con người là một huyền nhiệm vì họ mang một thực tại siêu linh và một sự sống thiêng liêng mà con mắt phàm trần không thể nhìn thấy. Đánh giá một người dựa trên lý lịch là một sự thiển cận tai hại.
Ông Giêsu Nadareth, ông thợ mộc ấy không chỉ là ông thợ mộc. Nếu chúng ta dừng lại nơi những sự kiện vật chất, chúng ta sẽ không thể khám phá huyền nhiệm của Ngài.
Để trả lời cho những thắc mắc của người Do Thái, Chúa Giêsu mạc khải Chúa Cha. Nhiều lần, Ngài đã tự xưng mình là Con của Chúa Cha, nhất là trong những lần tranh luận với đám Pharisêu. Nhưng họ có hiểu đâu! Và họ lại ném đá Ngài.
Trong xã hội hôm nay, người ta chỉ căn cứ vào lý lịch để đánh giá một người. Trong Giáo Hội lắm khi cũng vậy, chúng ta đánh giá theo lý lịch. Lý lịch đôi khi cũng giúp chúng ta tìm hiểu về nhân cách hay nguồn gốc của một người, nhưng còn những yếu tố khác cũng quan trọng, giúp chúng ta khám phá ra tâm hồn của một người. Thường chúng ta dán nhãn cho một người và xếp hạng họ vào một loại nào đó mà quên rằng con người có thể biến đổi, chúng ta không nhìn thấy những hy sinh, chịu đựng của một người để sống tốt hơn. Chúng ta căn cứ vào những lỗi lầm của dĩ vãng mà không nhìn thấy những đổi mới nơi một người. Trong Giáo Hội mọi thời vẫn có những người như thánh Âutinh, những Charles de Foucauld, những Mađalêna … Những con người trở về từ rất xa. Cần cố gắng nhìn những hồng ân của Chúa nơi người khác.
Bè phái Pharisêu sai lầm và không thoát ra được khỏi sự lầm lạc của mình và họ đã đi đến sai lầm cuối cùng là đóng đinh Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu vẫn không ngại tuyên bố, không úp mở về chính Ngài: Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến. Ngài là người đã “thấy Chúa Cha”. Con người duy nhất đã thấy Chúa Cha và mạc khải Người cho chúng ta. Và Ngài đòi hỏi phải tin vào Ngài mới có sự sống đời đời.
Chúng ta có tin không? Niềm tin của chúng ta được đánh giá bằng gì? Bằng một vài hành động đạo đức, bằng việc dự lễ, rước lễ và vài ba câu kinh hấp tấp?
Tin vào Chúa Giêsu chính là sống như Ngài đã sống, khiêm nhượng và hiền lành, yêu thương không tính toán, là sống trong tình yêu của Chúa Cha.
Tin là ăn lấy Ngài vì Ngài chính là Bánh Trường Sinh. Chỉ có Ngài mới làm cho sống. Ngài đã tuyên bố mạnh mẽ rõ ràng: “Tôi là Bánh từ trời xuống… Và Bánh tôi ban tặng chính là Thịt Tôi đây”.
Chỉ có Ngài mới dám tuyên bố những lời như thế mà không sợ bẽ mặt, vì Ngài nói và làm đúng như đã nói. Ngài là Thiên Chúa quyền năng đã đến trong trần gian. Con người của chúng ta hồ nghi vì chúng ta đã quá quen với những lời tuyên bố trống rỗng, chúng ta trở nên đa nghi. Người Do Thái xưa cũng đa nghi và họ không thể tin vào ai được vì có quá nhiều tiên tri giả.
Chúng ta vẫn có thể vững tin dù cho mọi người không dám tin. Chúng ta là những người đến sau, chúng ta có đủ bằng chứng để không thể hồ nghi. Đó là Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Niềm tin của chúng ta được đặt trên sự sống lại vinh hiển của Ngài chứ không còn thắc mắc như dân Do Thái xưa kia nữa; nhưng chúng ta vững tin rằng, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống.
Hãy đến ăn lấy Ngài trong tin tưởng và hân hoan: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bàn tiệc thiên quốc đang mời gọi mỗi Kitô hữu. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu và loan truyền Tình Yêu.
Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đó là lời thiên sứ của Thiên Chúa thúc dục ngôn sứ Êlia TN 19-B84
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đó là lời thiên sứ của Thiên Chúa thúc dục ngôn sứ Êlia, sau khi ông đã được thiên sứ cung cấp bánh và nước cho ăn no sau cuộc vượt thoát khỏi hoàng hậu Ideven đang tìm giết ông; vì ông đã chiến thắng trong cuộc thách đố với 450 ngôn sứ của thần Baan. Ăn no, ông lại tiếp tục ngủ.Thiên sứ lại hiện ra, dục ông dậy mà ăn, vì đường lên núi Khôrếp, núi Thiên Chúa còn xa.
Lương thực cho Êlia
Ngôn sứ Êlia là người được Thiên Chúa sai đến với dân chúng để làm chứng cho họ nhận biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ phải tôn thờ, nhưng dân chúng không nghe; ông đã khiển trách toàn thể con cái Israen trên núi Cácmen: “Các ngươi nhảy khập khiểng cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; còn nếu là Baan, thì cứ theo nó!”(1V 18: 21); và ông đã mạnh dạn thách thức với 450 ngôn sứ của thần Baan trên núi Cácmen: cả hai bên cùng dâng hy lễ để chứng minh Đấng nào là Thiên Chúa chân thật. Thiên Chúa đã nhậm lời ông để cho dân chúng nhận ra Thiên Chúa là Đấng nào và ông đã giết chết 450 ngôn sứ của thần Baan; vì thế, hoàng hậu Ideven thề sẽ lấy mạng sống ông. Ông thất vọng, chán nản, buông xuôi. Ông trốn chạy và đã xin với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Rồi ông nằm dưới cây kim tước mà ngủ thiếp đi”(1V. 19: 4). Được thiên sứ của Chúa cung cấp đồ ăn, đồ uống; nhưng ăn xong, ông lại nằm ngủ tiếp.
Một mình chống chọi với các thế lực tà thần làm ông trở nên yếu đuối, mệt mỏi, mất tinh thần, hoảng sợ vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông trốn chạy để cứu mạng sống. Ông muốn bỏ cuộc: ăn no, ông lại ngủ tiếp!
Thiên sứ trở lại lần thư hai, đánh thức ông dậy và nói:“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Và nhờ lương thực từ trời bổ dưỡng, ông đã đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khôrếp, là núi của Thiên Chúa”(1V. 19: 7-8)
Lương thực cho chúng ta
Trên con đường hành trình đi về núi Thiên Chúa, Êlia chán nản, thất vọng: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Chúa Giêsu Nadarét bị đồng hương khinh bỉ, rồi lo buồn sầu não trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này”. Và Hội Thánh hôm nay bị xoi mói, biêu rếu…Và chúng ta là dân Thiên Chúa đang hành trình trong đức tin về miền đất hứa của sự sống đời đời. Suốt cuộc hành trình ấy, chúng ta cũng không tránh khỏi những thất vọng, khó khăn, hoài nghi, chán nản, mất niềm tin khi gặp khó khăn, khốn khổ.Cũng có lúc, chúng ta dựa vào thế lực của trần thế hơn là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con cái của Ngài.
Ngày xưa, cha ông chúng ta đã ăn manna trong hoang địa; tiên tri Êlia được Thiên sứ cho một thứ lương thực bồi dưỡng giúp ông đi suốt bốn mươi ngày đêm lên tới núi Thiên Chúa mà không mõi mệt.
Và chúng ta ngày nay, vì “còn phải đi đường xa”, chúng ta sẽ ăn gì đây để có đủ sức mạnh tiến về núi Thiên Chúa?
Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực mới, không như manna mà cha ông chúng ta đã “ăn trong sa mạc nhưng đã chết”, nhưng là một thứ “bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lương thực ấy, thứ bánh ấy chính là Thịt và Máu Chúa Kitô:“Tôi là bánh trường sinh. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây. Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thìđược sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đây cũng là lời Thiên Chúa thúc dục chúng ta trên con đường lữ hành về Nước Trời. Đường cònxa!
Qua bài Tin Mừng của thánh Gioan (Ga. 6: 41-51) vào ngày Chúa nhật 19 thường niên, năm B , Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta về thân thế và sứ vụ của Ngài trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Người Con ở cùng Người Cha. Chắc chắn Người Con biết rõ về Người Cha, Người Con biết rõ rằng “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”; do đó, ai nghe và đón nhận giáo huấn Người Cha, thì sẽ đến với Người Con. Nếu Người Cha không lôi kéo người ấy, thì chẳng ai đến được với Người Con; và ai đến được với Người Con, thì Nguời Con sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Người Con từ trời xuống thế gian theo ý của Người Cha. Người Con tự hiến tế đã trở thành bánh trường sinh bằng chính thịt và máu mình. Ai tin, và ăn thứ bánh hằng sống Người Con ban cho sẽ được sống đời đời.
Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Chỉ trong Ngài, con người mới thấy được Thiên Chúa như lời Ngài đã nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”.
Vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một; cho nên, nếu muốn được sống đời sống thần linh, chúng ta phải sống bằng chính sự sống của Chúa Giêsu, phải được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy như tôi sống nhờ Chúa Cha”.
Chúa Giêsu là “bánh từ trời xuống”, bánh được ban xuống cho con người để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Chúng ta tiếp nhận Thịt và Máu Chúa Giêsu là để được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, được sống kết hợp với Ngài.
Sẽ không được sống đời đời, sẽ không có sự sống đích thực, sẽ không được sống lại trong ngày sau hết, nếu không ăn thịt và uống máu Con Người: “Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”
Và sẽ không đến được với Con Người, nếu không đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, không tin vào Con Người, không tin vào tình yêu Thiên Chúa: “Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”. Và “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thiên Chúa mà chúng ta quy tụ nhân danh Chúa Giêsu Kitô không chỉ là đích đến của cuộc hành trình về Nhà Cha mà Ngài còn là người bạn đồng hành, là một lương thực cần thiết trên con đường lữ hành ấy.
Điều kiện đến với Người Con để được sống đời đời là tin và phó thác vào Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài, là tin và sám hối theo Tin Mừng
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, cho con người làm con cái của Ngài. Ngài muốn con người được sống hạnh phúc. Ngài ban cho con người tự do; nhưng vì có tự do, con người đã đánh mất vị thế làm con, đánh mất cuộc sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng.
Thay vì lên án, hủy diệt con người đã bất trung bội phản, nhưng vì yêu thương, Ngài đã không bỏ mặc những ai tin tưởng nơi Ngài, đã làm mọi cách để lôi kéo con người khỏi vòng bủa vây của sự diệt vong, khỏi sự lôi kéo của thần chết.
Thiên Chúa vẫn luôn tín trung với tình yêu của Ngài. Với những người tin tưởng và phó thác vào Ngài, Ngài chẳng bao giờ bỏ rơi họ như dụng ôn về con chiên lạc và dụ ngôn người con hoang đàng.
Trong cuộc hành trình tiến về núi Thiên Chúa, có những lúc, những giai đoạn chúng ta sẽ gặp những khó khăn, chán nản, thất vọng, cô đơn như trường hợp của ngôn sứ Elia. Nhưng những ai tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ luôn quan phòng và không để họ thoát khỏi tình yêu của Ngài.
Chúng ta đã có một thứ lương thực trường sinh cho cuộc hành trình đi về với Chúa Cha: Đó là Thịt máu Chúa Kitô trong phép Thánh Thể. Khi đón nhận Bánh Hằng Sống là lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa và từ đó lan toả sang cho tha nhân để đưa mọi người về với Ngài.
Tin và thực hành những điều Thiên Chúa dạy là bước khởi đầu dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta chính thức trở thành công dân Nươc Trời khi chúng ta sát nhập với Chúa Kitô, khi chúng ta ăn “ bánh hằng sống từ trời xuống” là chính Chúa Kitô. Ngài là nguyên lý sự sống đích thực và là trung tâm thu hút mọi người tìm về.
Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống đích thực cuộc sống của mình. “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”.
Con đường Hiroshi Igarashi đến với Giáo Hội bắt đầu từ trong tù, nơi anh được giới thiệu về Kitô giáo – và -B85
Con đường Hiroshi Igarashi đến với Giáo Hội bắt đầu từ trong tù, nơi anh được giới thiệu về Kitô giáo – và nhất là Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Anh có lòng sùng kính sâu sắc nữ thánh nhân này kể từ đó, và trong những ngày này anh dọn chỗ trên vách tường căn hộ nhỏ ở Tokyo để treo những bức ảnh của thánh nhân. Một số ảnh trước đây được anh treo trong phòng giam. Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép. Có tiền án hình sự ba lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. “Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả. Vì thế họ cảm thấy tuyệt vọng. Thời gian ở tù chỉ làm họ tổn thương thêm và khiến họ tồi tệ hơn.”
Igarashi nói ra những điều này từ kinh nghiệm của mình vì anh cũng đã từng cảm thấy tuyệt vọng. Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe.
Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta ?" ( Cv 9, 4 ) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta ?” Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa !”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Một quản giáo nghĩ anh muốn tự tử, nên đã làm mọi việc có thể để an ủi con người tuyệt vọng này. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng từ trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn đi học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số Tu Sĩ Dòng Thừa Sai Bác Ái do ngài sáng lập.
Anh gặp nhiều người khác trong Giáo Hội trước khi mãn hạn tù, trong đó có các Giám Mục, Linh Mục và Nữ Tu. Đức cố Hồng Y Seiichi S. Hirayanagi mở khóa học Giáo Lý Tân Tòng giới thiệu Đức Tin Công Giáo cho anh. Một luật sư Tin Lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến Đức Tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập "Nhà Mẹ". Đức Tổng Giám Mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Trong những ngày này điện thoại bắt đầu reo từ sáng sớm đến suốt ngày, người ta gọi đến hỏi thông tin về "Nhà Mẹ". Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. ( Ucanews.com, Câu chuyện của một tù nhân Nhật và Chân Phước Têrêsa ).
Lời thầm thì của Chúa qua Tin Mừng đã tái sinh anh Hiroshi Igarashi ngay trong ngục tù. Cộng thêm gương chứng nhân của Mẹ Têrêsa đã tiếp sức cho anh cải tà quy chánh, làm lại cuộc đời mới. Câu chuyện của anh minh họa sống động Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Phàm ai nghe và dón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” Nhưng dân Do Thái thời ấy lại thì thầm bất tín, bất bình Lời Chúa. Chỉ vì họ đố kỵ ganh ghét, chỉ vì theo tà tâm, mong đợi Đấng Messia theo khuôn mẫu, thần tượng, một anh hùng giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị Rôma, một đại ân nhân hào phóng cho họ thỏa thuê xôi thịt. Không được như ý, họ liền thì thầm ngấm ngầm chống báng Đức Giêsu.
Thầm thì đố kỵ
"Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi Trời mà xuống.” Dân Do Thái tỏ ra phản đối, chống lại Người, không phải không thấy những phép lạ nhãn tiền, hay không phải không được nghe những lời giảng dạy cao quý của Đức Giêsu, mà họ chỉ nại đến một lý do đơn giản đến bất ngờ: lý lịch của Người. Tầm thường, nghèo khó, xuất thân chẳng quyền cao, chức trọng, không danh tiếng, cũng chẳng xuất chúng. Cộng với tánh đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, làm sao họ chấp nhận Người trổi vượt họ cả trăm ngàn lần ? Sao dám chấp nhận Người là Đấng Mêsia ngàn đời mơ ước ?
Tuy nhiên, họ chỉ dám thầm thì vì danh bất chính ngôn bất thuận. Không dám nói to lên để tranh luận thẳng thắn, vì biết sẽ thua lý, thua tình. Vì ngay các Luật Sĩ, các Tư Tế, các thầy Pharisiêu cũng từng bị đuối lý, thua trắng tay, khi công khai tranh luận với Người về luật lệ, giáo lý, và nhất là về Kinh Thánh.
Đức Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết". Thiên Chúa đặt vào lòng người từ khi sơ sinh, lương tâm cùng với tình cảm và trí khôn, để phân biệt đâu là sự lành, sự dữ, điều tốt, cái xấu, việc đúng, lỗi sai. Nhân chi sơ tánh bản thiện. Thiên Chúa giao cho mỗi người những vốn liếng cao quý đó, để có thể tự điều chỉnh, như lời Ngôn Sứ Isaia: “Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo” ( Is 54, 13 ).
Theo thời gian, lương tâm có thể thay đổi, biến dạng, lệch lạc vì chịu ảnh hưởng môi trường gia đình, giáo dục và xã hội, nhưng vẫn còn trí khôn có thể phán đoán, nhận biết lý lẽ, sự thật và vẫn còn con tim biết yêu chuộng, thích thú điều tốt lành, lánh xa điều dữ. Nên con người không thể dễ dàng tha hóa, nếu không cố tình sa đọa, cố ý gian tham, bất nhân, độc ác. Vậy chỉ vì sống vị kỷ, kiêu căng, tự phụ, nuông chiều theo ý riêng xác thịt, người ta mới bưng tai, bịt mắt, từ chối lý lẽ, sự thật, đường công chính, mà lìa xa Thiên Chúa, cội nguồn sự sống, tình yêu và lòng thương xót.
Thầm thì tà tâm
Sống trong không gian ba chiều, con người thường bị giam hãm, bị đóng khung trong tầm nhìn hữu hạn, thường hâm mộ những cái hữu hình to lớn, kỳ quan kiến trúc, công trình xây dựng quy mô, đồ sộ, phô trương, choáng ngợp, mà hầu như quên đi những gì bé nhỏ, tầm thường, tự nhiên và gần gũi, thân thiện, như sông biển, núi non, rừng thẳm, thiên nhiên hùng vĩ. Hay không muốn quan tâm, hướng đến những điều quan trọng hơn, cao siêu hơn, linh thiêng và bất biến, như Đấng Tạo Hóa. Vì coi thường, nên người ta không tiếc thương bạc đãi, khai thác, gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, để rồi chịu những cơn nổi giận của Mẹ Trái Đất bị xúc phạm, như mưa lũ, lụt lội, sạt lở, hạn hán, sóng thần…
Con người tham lam khai thác đất đai đến kiệt quệ và sa mạc hóa. Không đoái hoài cho đất đai nghỉ ngơi, tái tạo độ phì nhiêu màu mỡ, như Luật dạy phải tuân thủ Năm Sabát ( Lv 25, 1-7 ). Hiện nay, hàng vạn mẫu đất chuyên trồng cây bông bên Trung Quốc bị sa mạc hóa vì quá tận canh, tận thu, phá vỡ cân bằng sinh thái. Vì tà tâm, rủ nhau suy tôn, thờ lạy con bò vàng, thiên hạ bất tuân Lề Luật Thiên Chúa, mới thầm thì bất bình, bác bỏ, lìa xa Lời Chúa.
"Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta". Thiên hạ đâu chịu nghe lời răn dạy của Thiên Chúa, nên dĩ nhiên xoay lưng lại Lời Đức Giêsu rao giảng, để bây giờ phải lãnh những hậu quả nhãn tiền.
Thầm thì chống đối
Người ta thầm thì chống báng, cũng chỉ vì cái tôi quá lớn, kiêu căng cao ngất trời xanh, che khuất cả vầng sáng mặt trời rực rỡ, nên tự hóa ra tối tăm, hẹp hòi, hoang tưởng, u mê như ếch ngồi đáy giếng. Chỉ nhìn thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình, thì lại không để ý tới ( Lc 6, 41 ).
Vẫn biết cơ cấu tổ chức nào cũng đều bất cập, bất toàn, kể cả Tòa Thánh Vatican, vẫn biết cá nhân các đấng bậc, từ Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, đến Giáo Dân nam nữ, trẻ già, đều là con người, không thể vẹn toàn đức hạnh, thánh thiện, nhưng thiên hạ vẫn nại cớ vào đó để bài bác Nước Chúa. Không những không tin, hay nhẹ tin, hoặc nghi kỵ, bất tuân phục Giáo Lý Chúa, mà còn báng bổ, đả kích và xúc phạm thô bạo, vì những thiếu sót, những bất cập trong Giáo Hội Công Giáo. Ngụy biện, suy diễn, quy nạp những tiểu tiết, chuyện nhỏ, mà vô tình hay hữu ý bác bỏ những điều vĩ đại vô song của đạo Chúa, như Tình Yêu Cứu Chuộc, Lòng Thương Xót bao dung và quảng đại của Thiên Chúa, thì còn gì đáng chê trách hơn ?
Chẳng hề chấp nhất những lời thì thầm của thiên hạ bất bình, bất kính, lẫn bất mãn, vụng trộm kích động, phản đối, xúi giục, xúc phạm, Đức Giêsu vẫn điềm đạm dạy bảo toàn dân: “Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
Chớ thì thầm với nhau
Đức Giêsu ôn tồn khuyên, đừng thì thầm đố kỵ, tà tâm hay chống đối, mà hãy hoàn toàn tin cậy và phó thác vào Người, để được ban sự sống. Hơn nữa Người còn tự hiến thân, hy sinh trở nên tấm bánh dưỡng nuôi và che chở con người lữ hành trên đường hy vọng. “Ta là Bánh ban Sự Sống. Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết.” Lời Chúa và Mỉnh Máu Chúa đã trở nên lương thực trường sinh, bất tử cho những ai đói khát sự công chính, sự thật và sức sống viên mãn.
“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin, ” và ban sức mạnh đức tin cho con” ( Đường Hy Vọng, số 373 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một xã hội bát nháo, cơ hội, duy vật, thực dụng, ráo riết chối bỏ và chống báng Thiên Chúa, trong môi trường chỉ biết cúc cung bái thờ lạy cái bụng mà thôi. Kính xin Lời Chúa đến thức tỉnh, cảnh giác, giải thoát chúng con khỏi những tiếng thì thầm êm ái, ngọt ngào quyến rũ đến chết người. Xin ban Thánh Thể đến cải hóa, đổi mới và tăng sức mạnh cho chúng con can đảm dấn thân đi theo Chúa trọn đời.
Lạy Mẹ Maria Thánh Thể, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ đường dẫn lối chúng con trung kiên đi theo Chúa, thoát khỏi những cạm bẫy của thân xác, thế gian và ma quỷ, đố kỵ, tà tâm, bất mãn giăng lên khắp ngả đường. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống TN 19-B86
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh bất lão. Vì khát khao vậy, nên người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao nhiêu có thể. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực trường tồn là chính Chúa: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” ( Ga 6, 51 ).
Bánh trong sa mạc
Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải chết đói ( x. Xh 16, 3 ). Môsê đã xinThiên Chúa ban cho Manna từ trời xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường ( x. Xh 16, 1- 36 ).
Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông ( x. 1V 17, 1-15 ). Và trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” ( 1V 19, 8 ).
Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời.
Bánh Giêsu
Thật không phải dễ để giúp những người Do Thái thời Chúa Giêsu đón nhận Chúa là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm, và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn để sống vĩnh viễn. Chính vì thế, từ phép lạ hóa bánh ra nhiều làm thỏa mãn cái đói thể xác của họ một cách lạ lùng, Người chuẩn bị họ đón nhận lời loan báo, Người chính là bánh từ Trời xuống ( x. Ga 6, 41 ) làm thỏa mãn một cách vĩnh viễn: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” ( Ga 6, 51 ).
Trong hành trình dài nơi sa mạc, toàn dân Do thái đã sống kinh nghiệm Manna, bánh từ trời xuống dưỡng nuôi họ cho tới khi vào đất hứa. Thật đáng ngưỡng mộ Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” ( Tv 77, 25 ). Tuy nhiên, những người ăn bánh này trong sa mạc đều đã chết. Nay, Chúa Giêsu là bánh đích thực do Thiên Chúa Cha ban xuống từ trời, ai ăn sẽ khỏi phải chết muôn đời, bánh đó chính là thân mình Chúa Giêsu, Người quả quyết: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” ( Ga 6, 51 ). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, là chính Chúa ngự trên các tầng trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” ( Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ kêu trách: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: "Ta bởi trời mà xuống” ( Ga 6, 42 ). Họ không vượt qua được các nguồn gốc trần gian, và vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Phần chúng ta giờ này đây phải tự hỏi xem chúng ta có thật sự tin Chúa là bánh hằng sống, có cảm thấy đói Lời Chúa, đói bánh Giêsu không ? Nếu chúng ta cảm thấy đói thực sự, chúng ta hay tin vào Chúa và để Thiên Chúa lôi kéo. Vì chỉ có ai được Thiên Chúa Cha lôi kéo, chỉ có ai lắng nghe Người và để cho Người dậy dỗ, mới có thể tin nơi Chúa Giêsu, găp gỡ Người và nuôi dưỡng mình bởi Người, và như thế tìm ra sự sống thật, tìm ra con đường sự sống, công lý, sự thật và tình yêu. Vì thật ra, ai ăn bánh hằng sống thì tin nơi Chúa, và ai tin thì ăn và trong một cách vô hình họ được no thỏa.
Ngày hôm nay, qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy đến để đón nhận bánh ban sự sống, bánh bởi Trời đích thực là chính thân mình Người: “Đây là Mình Thầy”; “Đây là Máu Thầy”; “Ai tin và đón nhận sẽ được sống muôn đời”.
Xin cho mỗi người chúng ta có lòng tin yêu Chúa hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể, để qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được sống trường sinh. Amen.
Với người Việt Nam, bánh chỉ là “món ăn chơi”, ít khi là thực phẩm chính. Nhưng với nhiều dân tộc TN 19-B87
Với người Việt Nam, bánh chỉ là “món ăn chơi”, ít khi là thực phẩm chính. Nhưng với nhiều dân tộc trên thế giới, bánh là thực phẩm chính – như cơm là thực phẩm chính của Việt Nam vậy.
Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Thân phận bồ câu, xin đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài” ( Tv 74, 19 ). Người nghèo bao giờ cũng khổ. Khổ tư bề, khổ đủ thứ, khổ đủ kiểu, khổ đủ mức, từ thể lý đến tinh thần, lao tâm khổ tứ suốt ngày thâu đêm. Đói thể lý có thể đẫn tới đói tinh thần. Tục ngữ Việt Nam thâm thúy lắm: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Ẩm thực Việt Nam luôn đậm đà hương vị, mang tính cộng đồng như chấm chung một chén nước mắm, dùng đôi đũa chứ không dùng một chiếc muỗng để ăn. Đến bữa, cả nhà cùng quây quần chứ không mạnh ai nấy ăn. Gia đình rất quan trọng, không chỉ cùng chia sẻ lương thực vật chất mà còn chia sẻ lương thực tinh thần, thể hiện tình yêu thương bao dung: “Trời đánh tránh bữa ăn”. Đó là một dạng Tân Phúc Âm hóa.
Trình thuật 1V 19, 4-8 cho biết: Một mình ông Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, rồi ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước ( 1 ). Mệt mỏi vì đường xa, lại vừa đói vừa khát, có lẽ ông nản lòng nên ông cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi ! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Nói rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi.
Nhưng một thiên sứ đến đánh thức ông và bảo ông dậy mà ăn. Ông nhìn thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống chờ... chết ! Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Ông lại dậy, ăn bánh và uống nước. Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới Khô-rếp – tức là núi Si-nai, núi của Thiên Chúa.
Quá đỗi lạ lùng, vì ông Êlia ăn có một bữa với món bánh đó mà cầm cự được bốn mươi đêm ngày. Thần lương có khác. Con số bốn mươi là con số quen thuộc nhưng khá đặc biệt, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh ( 2 ). Bốn mươi cũng là khoảng thời gian kỳ lạ – dù là ngày, tháng, hoặc năm. Với con người, bốn mươi năm là độ tuổi trung niên, cần phải thực sự trưởng thành toàn diện tâm sinh lý.
Thần lương chỉ có thể là bánh do Thiên Chúa ban tặng. Bánh thường mà hóa Thần Lương. Thần Lương nhắc nhớ tới Bánh Thiêng là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Có Thần Lương nuôi dưỡng phần xác thì cũng có Thần Lương nuôi dưỡng phần hồn.
Được nuôi dưỡng cả xác cả hồn, tác giả Thánh Vịnh vô cùng biết ơn: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi” ( Tv 34, 2 ). Không chỉ vậy, tác giả Thánh Vịnh còn phải lên tiếng xác nhận và chia sẻ chân thành: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người” ( Tv 34, 3-4 ). Chứng cớ được viện dẫn và lý giải rạch ròi: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người” ( Tv 34, 5-8 ). Thánh Vịnh 34 [33] là một Thánh Vịnh “đẹp” – đẹp cả ngôn từ và ý nghĩa. Đọc Thánh Vịnh này khiến người ta cảm thấy ấm lòng. Ước gì mỗi chúng ta cũng khả dĩ cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, và luôn biết nhắn nhủ lẫn nhau: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người !” ( Tv 34, 9 ).
Cảm nhận được điều tốt lành thì phải thực hành điều tốt lành. Không thể hành động cách khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” ( Ep 4, 30-31 ). Cái “tôi” là cái tồi tệ, nó luôn muốn vùng lên bất cứ lúc nào, vì ai cũng cho mình là “số dzách” ( số một, đệ nhất, number one ). Có biết yêu mình thì mới biết yêu người khác. Đúng. Không sai. Nhưng yêu mình quá hóa tự ái, tự ái dẫn tới ích kỷ, ích kỷ dẫn tới “tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”.
Chính Saolô đã hung hăng, hiếu chiến, háo thắng, tự tin là mình “ngon lành” nên tìm mọi cách chống lại danh Đức Giêsu. Ông đã từng giận dữ mà rảo khắp các hội đường, cưỡng bức người ta phải nói lộng ngôn, sang cả nước ngoài mà bắt bớ những người tin theo Đức Kitô ( x. Cv 26, 11 ), nhưng chính ông đã khốn khổ vì “châu chấu mà muốn đá voi”, thậm chí còn dám “giơ chân đạp vào mũi nhọn” ( Cv 26, 14 ). Tội to lắm, nặng lắm, nhưng Thiên Chúa đã “triệt buộc” ông. Và rồi một Saolô ngang ngược đã biến thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về danh Đức Kitô. Với kinh nghiệm “xương máu” như vậy, Thánh Phaolô chia sẻ: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” ( Ep 4, 26 ). Không làm điều xấu vẫn là tiêu cực, cũng chưa xong bổn phận, mà còn phải tích cực làm điều tốt, nghĩa là “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, NHƯ Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô” ( Ep 4, 32 ).
Thánh Phaolô kết luận: “Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” ( Ep 5, 1-2 ). Bác ái là Đức Ái, một trong ba nhân đức đối thần, cần thiết cho cả đời này và đời sau. Đó là một loại Bánh Thiêng nuôi dưỡng tinh thần mà ai cũng cần sử dụng để khả dĩ duy trì sự sống tâm linh. Bác ái cần lắm: Yêu và được yêu là hạnh phúc nhất !
Từ bánh vật chất đời thường, chúng ta đi tới bánh tinh thần cần cho đời sống tâm linh, và còn cần hơn nữa là Bánh Thánh – loại Bánh Trường Sinh chỉ có được từ Đức Giêsu Kitô.
Trình thuật Ga 6, 41-52 cho chúng ta biết rõ về loại Bánh “đặc sản” duy nhất này: Bánh Trường Sinh. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh, người Do Thái liền xầm xì phản đối, họ “chói tai” vì Ngài đã xác nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Chắc chắn rằng, từ cổ chí kim, cả hiện tại và tương lai, hoặc bất cứ dân tộc nào, không ai dám nói như vậy, và cũng chẳng ai dám tự xưng là Thiên Chúa. Quả thất, rất “khó lọt lỗ tai” vì chúng ta chỉ là phàm nhân, không thể hiểu nổi những gì cao hơn vầng trán bé nhỏ của mình.
Và rồi người Do Thái bàn tán với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống ?” Ngày nay chúng ta không còn tranh luận về “sự lạ” Thánh Thể vì chúng ta đã thừa kế di sản đức tin tông truyền, nếu chúng ta sống thời đó và lần đầu nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta không chỉ nổi da gà, nổi gai óc, mà còn nổi nóng như ngọn lửa bùng cháy. Tuy nhiên, dù đã hơn hai ngàn năm qua, những người vô thần hoặc theo tôn giáo khác, kể cả một số hệ phái thuộc Kitô giáo, người ta vẫn không chấp nhận Bí tích Thánh Thể, cho rằng người Công giáo ảo tưởng. Sự thật vẫn mãi mãi là sự thật mà thôi, dù người ta không tin sự thật là sự thật thì sự thật cũng không thể biến thành điều gì khác.
Chúa Giêsu biết người Do Thái đang lùng bùng lỗ tai và máu đang bốc lên tới chỏm đầu, nên Ngài bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau ! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”. Hết cú sốc này tới cú sốc khác, họ muốn điên lên được. Thế nhưng Chúa Giêsu không thể chuyển hướng khác, và Ngài dẫn chứng: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Chả hiểu gì, cứ nghe ông Giêsu này nói thì điên thật mất thôi !
Mặc kệ. Ai điên thì điên. Sự thật không thể che giấu. Chúa Giêsu “sang số” và “tăng ga” tiến tới: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” ( Ga 6, 51 ). Nghe những lời này, người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ tức giận lắm, nhất là mấy “ông lớn” – mặt to, tai to, miệng to, quyền to, lực to – thế nhưng họ vẫn không thể làm gì được Ngài. Rất có thể hôm đó có xảy ra ẩu đả nhau vì ai cũng muốn theo lý luận của mình, còn một số người đã theo Ngài một thời gian, nay họ rút lui, chấp nhận về quê cắm câu vậy.
Trước mắt người Do Thái, kể cả chính quyền và những người lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giêsu đúng là “cái gai” cần phải nhổ càng sớm càng tốt.
Lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ mặc con khi đức tin của con bị lung lay. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng để con đủ sức hiểu những gì siêu nhiên. Xin ban cho mọi người đủ bánh nuôi phần xác và biết đón nhận Bánh Thiêng là Lời Chúa và Thánh Thể, để có đủ sức mạnh mà ngoan cường trong cuộc chiến tâm linh hằng ngày trên đường lữ thứ trần gian này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU ----------------------------------------------- ( 1 ) Cây Kim tước thuộc họ đậu, hoa màu vàng ươm, nở vào mùa Xuân, còn gọi là “cây hoa chuỗi vàng” ( Golden Chain Flowers ). Tất cả các bộ phận của cây kim tước đều độc, có thể gây tử vong. Tuy nhiên, cây cũng được dùng để làm giảm nhịp tim và kích thích lợi tiểu.
( 2 ) Một số câu Kinh Thánh đề cập con số bốn mươi: – Sau 40 ngày lụt Hồng Thủy ( St 7, 17 ), có nhân loại mới, tượng trưng bằng gia đình ông Nôê. – Khi 40 tuổi, ông Môsê đã đến thăm dân đang sống kiếp nô lệ ở Ai Cập ( Cv 7, 23 ); sau 40 năm ở tại Mađian, ông được Thiên Chúa kêu gọi đi giải phóng dân Ítraen ( Cv 7, 30 ), ông đã hướng đạo dân Ítraen đi trong sa mạc suốt 40 năm. – Sau hai lần ở trên núi Sinai 40 ngày đêm cầu nguyện ( Xh 24, 18; Xh 34, 28 ), ông Môsê nhận được Luật Giao Ước để tổ chức đời sống cho Dân Chúa. – Sau 40 năm đi trong sa mạc ( Ds 14, 22; Đnl 1, 3 ), đoàn dân vào Đất Hứa, thoát kiếp nô lệ, được sống tự do. – Sau 40 ngày đêm đi trong sa mạc ( 1V 19, 8 ), ngôn sứ Êlia dến núi Khôrép ( Sinai ) để gặp Thiên Chúa và được Người củng cố trong sứ mạng. – Sau 40 ngày ăn chay hãm mình đền tội, dân thành Ninivê được Thiên Chúa tha thứ ( Gn 3, 10 ). – Sau 40 ngày ăn chay trong sa mạc ( Mt 4, 2 ), Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ. – Sau khi sống lại 40 ngày, Đức Giêsu dạy dỗ các tông đồ, chuẩn bị cho các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được thiết lập, và các ông can đảm ra đi truyền giáo (Cv 1, 3 ).
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:41-51)
Tôi là bánh từ trời xuống”, hoặc “Tôi từ trời xuống”. Nếu chúng ta là một người trong đám dân TN 19-B88 Dalat
“Tôi là bánh từ trời xuống”, hoặc “Tôi từ trời xuống”. Nếu chúng ta là một người trong đám dân chúng Do-thái nghe lời tuyên bố trên, chắc chúng ta cũng “xầm xì phản đối” như họ thôi! Lời tuyên bố trên xem ra đã thật vô lý đối với người không quen biết Chúa, huống chi là những người biết rõ Chúa Giê-su là con ông Giu-se và biết rõ tông ti họ hàng của Chúa. Chắc chắn người ta không thể hiểu những lời trên theo nghĩa đen, nhưng theo ý nghĩa thiêng liêng. Đó cũng là ý nghĩa Chúa Giê-su muốn chúng ta hiểu khi Người giải thích thêm.
Điều chắc chắn trước tiên là muốn hiểu ý nghĩa của “bánh từ trời xuống”, người ta phải nhận biết sứ mệnh của Chúa Giê-su là gì. Do đó, Chúa Giê-su sẽ từ từ giải thích cho họ về xuất thân và sứ mệnh của Người. Trước hết Chúa Giê-su khẳng định rằng hiểu được việc Người từ trời xuống, hay nói khác đi, là “đến với Người”, thì không phải là điều tự khả năng con người làm được, nhưng phải có sự giúp đỡ hay “lôi kéo” của Thiên Chúa Cha. Điều ấy là đương nhiên, vì chính Thiên Chúa Cha đã sai Con của Người là Chúa Giê-su đến trần gian, và Người “lôi kéo” mọi người đến với Chúa Giê-su. Chúa Cha lôi kéo cũng có nghĩa là Người muốn nhân loại phải đón nhận Chúa Giê-su và Người ban cho họ khả năng và cơ hội đến với Con của Người.
Nhưng tại sao chúng ta phải đến với Chúa Giê-su? Chúa Giê-su trả lời: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”. Đúng vậy, thời kỳ Thiên Chúa dạy dỗ chúng ta qua các vị ngôn sứ đã qua rồi. Giờ đây Người dạy dỗ chúng ta qua Con Một của Người (Do-thái 1:1-2). Ngoài việc dạy dỗ chúng ta lối sống qua lời giảng và gương mẫu của Chúa Giê-su, Chúa Cha còn muốn cho chúng ta biết về Người. Vì Chúa Giê-su là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, nên muốn biết Thiên Chúa là Đấng nào, chúng ta cứ nhìn vào Chúa Giê-su. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, Chúa Giê-su đã nói với tông đồ Phi-líp-phê như vậy. Giáo huấn và sự sống Thiên Chúa đã được Chúa Cha cho nhập thể nơi con người Chúa Giê-su để chia sẻ cho nhân loại. Do đó, mang sứ mệnh dạy dỗ chúng ta và mặc khải Thiên Chúa cho chúng ta, Chúa Giê-su quả thực là “bánh trường sinh” được Chúa Cha ban xuống từ trời để chuẩn bị cho chúng ta được sống đời đời với Người.
Để diễn tả tính trường sinh của bánh bởi trời, Chúa Giê-su đã so sánh mình với man-na thời tổ tiên dân Ít-ra-en trong sa mạc. Man-na chỉ là của ăn vật chất giống như các thức ăn khác. Nó giúp con người duy trì sự sống một thời gian ở đời này và cuối cùng con người cũng phải chết. Khác hẳn với man-na, Chúa Giê-su là thứ bánh thiêng liêng chuyển tải giáo huấn và chính sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa đến chúng ta, cho nên “ăn uống” Chúa Giê-su là chúng ta hấp thụ giáo huấn và sự sống của Thiên Chúa, sự sống đời đời.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có bao giờ bạn lên rước Mình Máu Chúa Giê-su mà nghĩ tới những hình ảnh “bánh hằng sống” và “từ trời xuống” không? Dĩ nhiên không phải loại bánh mang nhãn hiệu bạn có thể mua ngoài chợ, mà là bánh hằng sống được Chúa Cha từ trời ban xuống cho chúng ta. Chúng ta không phải mất tiền mua bánh trường sinh này, nhưng chỉ cần “đến” và đón nhận Chúa vào lòng. Sự sống bánh này đem lại là sự sống đích thực, không những phát sinh mọi sự sống khác mà còn là sự sống không bao giờ mất đi. Bánh ấy là những lời Chúa Giê-su rao giảng và dạy dỗ chúng ta. Nếu chúng được thể hiện qua hành động, thì những lời ấy đã sinh hoa trái ngay ở đời này và hoa trái ấy sẽ tồn tại muôn đời. Vì thế, bánh ấy mới mang tên là bánh hằng sống.
Cũng vậy, hình ảnh “từ trời xuống” cho chúng ta thấy giá trị không thể đo lường của thứ bánh ấy. Hình ảnh đó còn nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Cha chúng ta ở trên trời, Đấng quan phòng cho đời sống chúng ta dưới trần gian, lại còn chuẩn bị cho chúng ta có được sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Người thương yêu chúng ta và muốn chúng ta ở bên Người mãi mãi, cho nên đã tìm đủ cách để chúng ta đạt được mục đích cao cả ấy. Vậy trước khi rước lễ, bạn hãy lắng nghe: Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa!
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục quảng diễn bài giảng của Chúa Giê-su về bánh trường sinh. Trong TN 19-B89
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục quảng diễn bài giảng của Chúa Giê-su về bánh trường sinh. Trong phần giới thiệu của bài giảng Chúa Giê-su đã đưa ta đi từ man-na, bánh bởi trời, đến chính bản thân Người là bánh trường sinh do Thiên Chúa ban cho nhân loại. Phần cốt yếu của bài giảng trong bài Tin Mừng hôm nay trình bày hiệu quả hay mục đích của bánh trường sinh: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
1. Lương thực cho cuộc hành trình lên núi Khô-rếp của ngôn sứ Ê-li-a (bài đọc Cựu Ước – 1 Vua 19:4-8)
Sau cuộc đấu sức lòng tin với các ngôn sứ của thần Ba-an và tiêu diệt chúng, ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven trả thù. Để trốn khỏi cuộc bách hại của bà, ngôn sứ phải chạy trốn lên núi Khô-rếp. Đường sa mạc cực khổ, đói khát và chán nản khi nghĩ đến phận bạc bẽo làm ngôn sứ, Ê-li-a thất vọng và xin Chúa cho ông được chết đi cho xong. Nhưng Chúa cho sứ thần đem bánh và nước tới cho ông ăn uống. Ông nằm ngủ để lấy lại sức. Thiên sứ đánh thức ông dậy và ông ăn uống thêm lần nữa. Kết luận của câu truyện là: “Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Đức Chúa” (1 V 19:8).
Câu kết này đã nói lên hiệu quả của lương thực thần diệu bởi trời ấy. Dĩ nhiên Thiên Chúa có thể làm phép lạ ban cho vị ngôn sứ một thức ăn lạ lùng như vậy. Nhưng ta nên chú ý tới ý nghĩa lương thực ấy muốn nói lên, hay nói khác đi, chú ý tới ý nghĩa biểu tượng của lương thực. Trước hết, lời Kinh Thánh quả quyết về hiệu năng của lương thực, tức là tính chất bổ dưỡng, cung cấp sức mạnh. Nhu cầu của ngôn sứ Ê-li-a trong tình huống này là sức lực, cả thể xác lẫn tinh thần. Ông đang đi trong vùng sa mạc và đã tiêu hao hết sinh lực vì đường xa và khí hậu khắc nghiệt. Ông cũng đang ở trong tình trạng tuyệt vọng khi nghĩ về những đau khổ tinh thần một vị ngôn sứ phải hứng chịu do việc thi hành sứ mệnh. Vì thế, bánh và nước là những vật dụng cần thiết nhất cho sự sinh tồn. Cũng vậy, sức mạnh tinh thần và an ủi tâm hồn chẳng khác nào như bánh và nước sẽ vực ông dậy cho khỏi bị suy sụp về tâm lý. Tuy nhiên hình ảnh bánh và nước chỉ là hình bóng ám chỉ đến một thứ lương thực có hiệu năng hơn và cần thiết hơn cho con người trong một hành trình gian khó hơn. Đó là hành trình đức tin của Ki-tô hữu.
Vậy hiệu quả của lương thực Thiên Chúa ban cho ngôn sứ Ê-li-a là giúp ông hoàn tất cuộc hành trình tới Khô-rếp. Con số bốn mươi ngày và bốn mươi đêm là con số biểu tượng, nói lên sự tròn đầy của một cuộc hành trình, không nửa chừng hay bị ngắt quãng. Lần này, người của Thiên Chúa đến núi Khô-rếp là để lãnh nhận những thánh chỉ của Thiên Chúa cho sứ mệnh ngôn sứ của ông. Ông sẽ trở về với cộng đồng dân Chúa, đem cho họ những sứ điệp của Người. Khô-rếp là “núi của Thiên Chúa”, là nơi con người được gặp gỡ với Thiên Chúa. Tất cả những biểu tượng rõ ràng này cũng đúng để nói lên cuộc hành trình của Ki-tô hữu trên trần gian. Nó cũng phải là một hành trình để chu toàn một sứ mệnh, một hành trình gian khổ đòi hỏi phải có sức mạnh và ủi an của Thiên Chúa từ một thứ lương thực quý báu và vô cùng đặc biệt. Sức mạnh và ủi an ấy chỉ có thể tìm thấy nơi Chúa Giê-su Ki-tô, bánh trường sinh mà Thiên Chúa ban cho ta từ trời xuống.
Bài đọc Tin Mừng sẽ nói với ta về bánh trường sinh ấy qua bài giảng của Chúa Giê-su. Điệp khúc “Tôi là bánh trường sinh” được lập đi lập lại nhiều lần, nhưng mỗi lần là để khai triển một khía cạnh mới về vai trò của Chúa Giê-su đối với hành trình đức tin của ta tiến về nhà Thiên Chúa.
2. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (bài Tin Mừng – Gio-an 6:41-51)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ là cơ hội để Chúa Giê-su dẫn ta đến với một thực tại vô cùng cao cả và đậm tình yêu thương. Điệp khúc “Tôi là bánh trường sinh” được lập lại nhiều lần, nhưng mỗi lần đều giới thiệu một đề tài mới có liên hệ đến Mầu nhiệm Đức Ki-tô. Đoạn đầu của bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới xuất xứ “từ trời xuống” đã khiến cho người nghe “xầm xì phản đối”, vì họ biết Người là “ông Giê-su, con ông Giu-se”. Đến khi Chúa Giê-su khẳng định bánh hằng sống Người sẽ ban là “thịt” của chính Người, thì việc phản đối lên tới cao độ, đến mức mọi người đều bỏ đi, chỉ còn lại các Tông đồ quyết tâm theo Chúa. Người sẽ nói rõ hơn về ý nghĩa “thịt” khi lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly.
Vậy trong Thánh lễ, ta nghe chủ tế đọc lời truyền phép: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”. Từ sarx trong Hy-ngữ có nghĩa là thịt, thân xác, hay một Chúa Ki-tô bằng xương bằng thịt đã thi hành sứ vụ rao giảng và đã chịu đóng đinh thập giá. Còn từ sôma nói về con người toàn diện của Chúa Ki-tô, gồm trí khôn, linh hồn, ý chí và cả thân xác nữa; đó là ý nghĩa của “Mình Thầy” như ta nghe trong lời truyền phép. Tóm lại, dù ta có hiểu theo cách nào, thì bánh trường sinh cũng vẫn có ý nghĩa là Chúa Ki-tô, Ngôi Lời xuống thế mặc lấy thân phận phàm nhân. Điều quan trọng hơn và là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đó là vai trò hoặc sứ mệnh của Chúa Ki-tô đối với nhân loại.
Chúa Ki-tô được Chúa Cha sai đến trần gian là để giúp mọi người “được sống lại trong ngày sau hết”, nói khác đi là “được sống muôn đời” (Ga 6:44.51). Tuy nhiên muốn đi hết hành trình “tin để được sự sống đời đời” (Ga 6:47), ta cần hai điều: thứ nhất là được dạy dỗ (Ga 6:45), và thứ hai là “ăn” để được sống muôn đời (Ga 6:51).
Thiên Chúa muốn dạy dỗ mọi người biết sống theo Lề Luật và thánh ý Người. Trong quá khứ, Người đã dạy dỗ cha ông ta qua Lề Luật Mô-sê và các vị ngôn sứ. Nhưng giờ đây Người muốn đích thân dạy dỗ ta bằng chính Ngôi Lời, Con Yêu Dấu của Người (Dt 1:1). Do đó, Người cho Ngôi Lời nhập thể sống giữa nhân loại, để Thiên Chúa nói với ta qua lời giảng của Chúa Ki-tô, chữa lành ta qua bàn tay hay lời phán của Chúa Ki-tô, tỏ lòng từ bi nhân hậu với ta qua trái tim của Chúa Ki-tô. Lời giảng và việc làm của Chúa Ki-tô là sự dạy dỗ và gương mẫu cho ta. Ta cần sự dạy dỗ của Chúa như cần cơm bánh (Đnl 8:3). Nhưng ta phải đón nhận sự dạy dỗ ấy như thế nào? Đơn giản thôi. Chỉ cần ta tin vào uy quyền của lời giảng và sống lời giảng, nói tóm lại là ta phải “tin” vào Người, vì tin vào Người là con đường duy nhất để được sự sống đời đời (Ga 6:47).
Chúa Ki-tô “ở lại” với ta trong Lời Người, nhưng Người cũng ở lại với ta trong sức mạnh của Thánh Thể. Hành trình đức tin là hành trình sa mạc, tựa như dân Ít-ra-en đi qua sa mạc mà về đất hứa. Họ đã gặp bao nhiêu gian nan khó khăn và thử thách, nhiều khi chán nản thất vọng đến độ phàn nàn Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai-cập. Thiên Chúa đã hiện diện với họ qua những dấu chỉ. Trong cuộc đời ta, nhiều khi ta cũng không tránh khỏi tình huống ấy. Ta cần một sức mạnh nâng đỡ, giống như bánh bởi trời đã phục hồi sức lực cho ngôn sứ Ê-li-a hoặc như bánh và cá đã làm cho đám đông dân chúng theo Chúa được no nê bên bờ Biển Hồ. Sức mạnh ấy chính là sức mạnh Thánh Thể. Sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong ta qua Bí tích Thánh Thể thật vô cùng ý nghĩa đối với hành trình đức tin của ta. Không chỉ là cột mây, cột lửa, hòm bia thánh hay lều tạm là những dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng là sự hiện diện thực của Thiên Chúa “ở lại với ta cho đến ngày tận thế”. Thịt và Máu Chúa Ki-tô sẽ là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật tới.
3. “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta” (Bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 4:30-5:2)
Lời dạy dỗ và lương thực thiêng liêng Thiên Chúa ban cho ta là chính Chúa Ki-tô. Ta tiếp nhận và “ăn” Chúa Ki-tô là để trở nên giống như Người, sống như Người, suy nghĩ như Người. Tóm lại lãnh nhận “bánh bởi trời” sẽ biến đổi con người của ta dần dần và sống một cuộc sống mới theo Thánh Thần. Con người mới ấy đã được thánh Phao-lô phác họa trong đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô.
Trước hết, thánh Tông đồ nài xin ta phải sống làm sao để “đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa” (Ep 4:30). Thánh Thần được ban xuống cho ta như “dấu ấn” biểu lộ căn tính con cái Chúa của ta. Cho nên nếu ta sống không đúng với căn tính ấy, ta sẽ phản bội Thánh Thần. Vậy sống thế nào cho đẹp lòng Thánh Thần? Thánh Phao-lô đề ra một vài điểm thực hành rất thực tế trong cách đối xử với những người chung quanh. Ngài kể ra một ít điều “không” nên làm: chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, la lối thóa mạ, làm điều gian ác. Tất cả những điều này đều đi ngược với Thánh Thần hoặc tinh thần của Thiên Chúa, bởi vì chính Thiên Chúa luôn luôn xử tốt với ta, thương xót và tha thứ cho ta. Do đó, ta “hãy bắt chước Thiên Chúa” mà sống yêu thương, vì ta là “con cái được Người yêu thương” (Ep 5:1). Có lẽ bảo ta hãy bắt chước Thiên Chúa là điều ta khó tưởng tượng nổi, nên thánh Phao-lô không quên dạy ta “hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương ta” (Ep 5:2). Chúa Ki-tô là tấm gương sống động và gần gũi, nên ta không thể nại lý do gì để từ chối không bắt chước được.
Sống Lời Chúa
Vì yêu thương ta, Thiên Chúa tìm đủ cách để giúp ta được hưởng hạnh phúc đời đời với Người. Người sai Con Một đến ở giữa nhân loại, làm Thầy dạy dỗ ta và làm lương thực thiêng liêng giúp ta đủ sức vượt qua sa mạc đời này mà tiến về nhà Cha. Chúa Ki-tô là quà tặng Thiên Chúa ban cho ta để tỏ lòng yêu thương ta. Bổn phận của ta là đáp lại lòng yêu thương ấy bằng cách lắng nghe và sống Lời Chúa, đồng thời cũng cố gắng kết hiệp với Chúa Ki-tô khi ta cử hành và lãnh nhận Thánh Thể. Việc tiếp nhận Chúa Ki-tô cần phải được thể hiện qua lối sống theo gương Người, đặc biệt trong cách đối xử bác ái và yêu thương anh chị em.
Suy nghĩ: Những điều thực tế thánh Phao-lô đề ra trong cách đối xử với anh chị em, như đừng chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn..., tôi đã thực hành được chút nào chưa? Tôi phải sống thế nào để “đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa”?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con đã được phúc gọi Chúa là Cha; xin cho chúng con ngày cang thêm lòng hiếu thảo, hầu đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 19 mùa Thường niên).
Đây là câu chuyện giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang nghe Ngài lúc đó. Câu chuyện TN 19-B90
Đây là câu chuyện giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang nghe Ngài lúc đó. Câu chuyện tiếp nối về diễn từ Bánh Hằng Sống.
Diễn từ Bánh Hằng Sống kéo dài trọn chương 6 trong Tin Mừng thánh sử Gioan, từ biến cố hóa bánh ra nhiều cho đến lời tuyên xưng của Phêrô.
Cụ thể - ở Phụng vụ Lời Chúa chu kỳ năm B này - diễn từ Bánh Hằng Sống được nối tiếp từ Chúa nhật 17 thường niên năm B đến Chúa nhật XXI thường niên năm B, nghĩa là chúng ta có năm Chúa nhật để theo dõi diễn từ Bánh Hằng Sống.
Chúa nhật 17 thường niên năm B nói đến việc Chúa Giêsu rao giảng. Dân chúng tuôn đến nghe Ngài. Ngài thương họ và quyết định - từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá - Ngài nuôi họ một bữa ăn no nê.
Chúa nhật 18 thường niên năm B nói về dân chúng - tức là những người đã được no nê bánh và cá - đi tìm Chúa và Chúa nhìn thấy tâm và óc của họ. Họ tìm Ngài không phải vì Ngài, mà vì họ nghĩ sẽ được Ngài tiếp tục nuôi sống họ bằng phép lạ. Chúa bắt đầu diễn từ Bánh Hằng Sống.
Chúa nhật 19 thường niên năm B hôm nay là cuộc trao đổi khá gay gắt vì không có được một sự gặp gỡ trong tư tưởng giữa đôi bên. Mà những nhà chuyên môn, khi nghiên cứu về Kinh Thánh, nhìn thấy kỹ thuật Chúa dùng để dẫn đưa những người đến với Ngài, từ lãnh vực này đến lãnh vực khác, ở đây là lãnh vực bánh nuôi thân xác đến lãnh vực bánh nuôi linh hồn. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Dĩ nhiên, đối với những người Do Thái nghe Chúa lúc đó, họ khó chấp nhận. Thế nhưng, đối với chúng ta hôm nay hiểu ngay và hạnh phúc vì chúng ta nhờ mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa nơi Người Con yêu dấu của Người.
Chúa nhật 20 thường niên năm B đi đến cao điểm của diễn từ: Chúa Giêsu là Bánh Từ Trời mà Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại. Nhận Bánh Từ Trời thì được sống và được sống mãi.
Chúa nhật 21 thường niên năm B tường thuật rất nhiều người nghe, trong đó có cả các môn đệ của Chúa nữa, không thể chấp nhận và họ bỏ Ngài mà đi. Chúa trở lại với Nhóm Mười Hai và ông Simon Phêrô đã thay mặt anh em ông lúc đó cũng như chúng ta lúc này để tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời… Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6, 68 - 69).
Chúng ta cùng nhau có một cái nhìn tổng quát như thế về diễn từ Bánh Hằng Sống, để rồi dừng lại ở đoạn Tin Mừng Chúa nhật 19 thường niên năm B hôm nay, đón nhận bài học Chúa muốn gửi đến cho chúng ta trong tuần này.
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật này có thể gom lại mấy điểm sau:
- Dân xầm xì khó chịu về việc Chúa tuyên bố: Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống.
- Chúa nói đến tương quan giữa Chúa Cha và Ngài đồng thời cho chúng ta biết: việc đón nhận Ngài cũng là một hồng ân Chúa Cha ban. - Chúa khẳng định: Ngài là Bánh Từ Trời, Bánh Hằng Sống và Bánh Ban Sự Sống Đời Đời.
Với tất cả những người tin Chúa, chúng ta hạnh phúc vì chúng ta nhận được sự tỏ bày đầy đủ của Chúa Cha cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô làm người, rao giảng, chết và sống lại. Đồng thời, chúng ta cũng tin nhận Đức Giêsu là Bánh Từ Trời ban cho chúng ta khi Ngài quyết định lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ở lại giữa chúng ta, ở lại trong chúng ta giúp chúng ta hành trình trong niềm tin, cậy, mến giữa những rối rắm của cuộc sống này cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang.
Và dĩ nhiên bản thân mỗi chúng ta phải là dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Là dấu chỉ như thế nào? Cần phải:
- Siêng năng dâng thánh lễ và đón nhận Mình Máu Thánh Chúa.
- Giúp cho mọi người chúng ta gặp gỡ trong ngày sống nhận ra một dấu nét nào đó của Chúa qua cử chỉ, lời nói và tâm tình của chúng ta.
- Đến với Chúa Thánh Thể để đón nhận nơi Ngài nguồn an ủi, nguồn sinh lực cần thiết giúp chúng ta đi qua từng ngày đời.
- Và tìm nơi Chúa Thánh Thể niềm hy vọng cho mình và cho mọi người...
Với cuộc sống nặng nề nhiều mặt hôm nay, sống được những gì chúng ta muốn như trên thật không dễ...
Lạy Chúa Thánh Thể - Bánh Từ Trời , Bánh Hằng Sống , Bánh Ban Sự Sống - điều không dễ với chúng con. Nhưng có Chúa: tất cả đều có thể …
Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp - Chánh xứ Cầu Bảo, GP Nha Trang
Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp TN 19-B91 Dalat
Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá con người Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, sức mạnh của Lời Chúa, ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa nhật một khía cạnh khác nhau. Từ Bánh Bởi Trời là Chúa Giêsu đến Bánh Ban Sự Sống, Tấm Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa.
Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn cho chúng ta bầu không khí tại quê nhà của Chúa Giêsu và thái độ của những người đồng hương đến nghe Chúa giảng. Sau khi đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, kèm theo lời giải thích cho dân chúng về ý nghĩa của "dấu chỉ" ấy xong, Chúa Giêsu tuyên bố: « Ta là hằng sống bởi trời mà xuống » (Ga 6,51). Câu này khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Họ đâu có đón nhận Lời này. Họ coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết: " Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống" (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói: "Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy", và Người thêm: "Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 44.47).
Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào ? Bánh từ trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời ? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không? Sự chống đối mà Chúa Giêsu đã gieo vào giữa những người Do Thái cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày hôm nay nếu chúng ta không trả lời được câu hỏi căn bản "Chúa Giêsu là ai?" trong đời sống kitô giáo của mình.
Trước chúng ta, nhiều người nam cũng như nữ đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này, và cá nhân họ đã có câu trả lời, họ đã đến với Chúa, đi theo Chúa và tận hưởng một cuộc sống vô tận tràn đầy tình yêu như Chúa hứa: "Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (x. Ga 6, 44). Juan Casiano đã nói với các môn đệ mình rằng, "Hãy đến gần Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ đến gần anh em vì 'không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta không lôi kéo kẻ ấy' ". Lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng vẫn thúc bách chúng ta hôm nay, "Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng" (Mt 11,28).
Những lời này không chỉ dành cho một số người, không, Chúa nói những lời ấy là dành cho tất cả mọi người, những ai đang mệt mỏi với gánh nặng, những ai cảm thấy mình bị loại ra khỏi lời mời gọi của Chúa. Chúa thấu hiểu cuộc sống này nặng tới mức độ nào và Chúa còn thấy bao điều mệt mỏi trong tâm hồn chúng ta như: thất vọng, vết thương trong quá khứ, lầm lỗi trong hiện tại, những bất định và lo âu về tương lai. Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy đến! ".
Đón nhận Lời Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu mỗi ngày và đi vào trong sự hiệp thông thân tình với Chúa, ăn thịt Chúa, vì như Orgene nói: "Của ăn đích thực là mình Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời, nhập thể làm người giữa chúng ta". Hãy đến với Chúa Giêsu, vì chính Người là Đấng được Chúa Cha đã sai vào thế gian làm Lương thực trường tồn, và vì điều này mà Chúa Giêsu đã hiến tế mạng sống mình, hiến trao thịt và máu Người làm của ăn cho chúng ta.
Vì thế, trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, những người đang lữ hành trên bước đường dương thế để nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái nơi mình, như xưa Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus. Hơn nữa, Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đạt tới chân lý và bình an. Mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng trong đức tin, đức cậy và đức mến; an ủi chúng ta giữa những thử thách của cuộc đời.
Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh.
Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống mật thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ -----------------------------------
Người Do Thái, đặc biệt người làng Nazarét đã được sống gần gũi Chúa Giêsu.Họ đã được chứng TN 19-B92
Người Do Thái, đặc biệt người làng Nazarét đã được sống gần gũi Chúa Giêsu.Họ đã được chứng kiến các phép lạ Ngài làm,những lời chân thật của Ngài, gương sáng Ngài nêu, họ cứ tưởng với
đôi mắt, với lỗ tai phàm nhân họ đã biết rõ thân thế của Chúa Giêsu. Họ không có đức tin, do đó họ không nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu và không tin lời Người nói. Họ tin vào Thiên Chúa và lời Kinh Thánh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai đang sống giữa họ thì họ không tin chỉ vì họ thiển cận, nông cạn nhìn với con mắt bình thường, nên không không thể nào tin nhận Chúa là Con Thiên Chúa. Họ chỉ biết Chúa Giêsu là người thợ mộc, Cha của Người là bác Giuse thợ mộc và con của bà Maria nội trợ, anh em họ hàng của Người đang sống giữa họ, làm những nghề tầm thường trong xã hội vv… Tuy nhiên khi nói về cuộc sống vĩnh cửu thì ai ai cũng muốn có được cuộc sống ấy…
Chúa Giêsu đã hướng con người về kho tàng không hư nát, về cuộc sống trường sinh. Chúa nói:” Ai đến với ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát “. Chúa đã đưa con người từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác của cuộc sống .Ngài không chê trách con người tìm kiếm của cải, lương thực để nuôi sống, tiền tài dự trữ cho lúc ốm đau vv…Ngài muốn con người đừng quá bám víu lấy những của cải ở trần gian mà quên đi sự sống vĩnh cửu, quên đi kho báu là Nước Thiên Chúa. Con người ai cũng muốn được trường sinh bất tử, nên khi Ngài nói về Nước Hằng Sống thì người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacóp đã xin cho bằng được Ngài ban cho thứ nước đó và chị loan báo cho nhiều người trong làng đi gặp Chúa để xin thứ nước đó. Cuộc sống vĩnh cửu hôm nay, Chúa đã mạc khải:” Ta là Bánh ban Sự Sống…Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời “ ( Ga 6, 47 ). Sự sống đời đời rất nhiều người đang tìm, đang muốn có. Nên, họ tuôn đến nghe Chúa Giêsu giảng dạy.Bánh Trường Sinh Chúa xác nhận là chính Đức Giêsu, nguồn mạch trường sinh. Đức Kitô đang hiện diện với nhân loại, với chúng ta qua Bi Tích Thánh Thể.Ngài hiện diện mọi ngày trong nhà chầu. Ngài hứa:” Nơi đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ “ ( Mt 18, 20 ). Chúa hiện diện với nhân loại qua Lời của Người. Người hiện diện nơi các Vị lãnh đạo qua Bí Tích Truyền chức thánh:” Ai nghe các con là nghe Ta “ ( Lc 10, 16 ). Người hiện diện trong Giáo Hội và ở cùng Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế. Chúa hiện diện với chúng ta như Ngài nói trong bài Tin Mừng hôm nay:” Ta là Bánh Hằng Sống, ai ăn Bánh này sẽ được sống đời đời:” Và khi chúng ta hiểu rõ những lời này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta:” Phúc cho các ngươi khi các ngươi thấy được các điều các ngươi đang thấy ! Ta nói cho các ngươi biết nhiều tiên tri và vua chúa từng ao ước thấy điều các ngươi đang thấy, nghe được điều các ngươi đang nghe, mà không thể được “ ( Lc 10, 23-24 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban cho chúng con. Chúa đã nuôi dưỡng chúng con không chỉ bằng cơm bánh, mà Chúa còn dùng chính Mình Máu Thảnh là chính Thân Xác của Chúa để nuôi chúng con. Chúa đã ban cho chúng con sự sống đời đời vì chính Chúa đã quả quyết:” Ta là Bánh Trường Sinh…Ta là Bánh ban Sự Sống “. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng, tín thác vào Chúa vì Chúa chính là ơn cứu độ cho chúng con.Xin giúp chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của trong Kinh Thánh vì đọc Lời Chúa là nghe Chúa đang nói với chúng con. Xin cho chúng con luôn mến yêu và tôn kính Bí Tích Thánh Thể vì chính Chúa đang nuôi sống và ban cho chúng con sự sống vĩnh cửu. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sự Sống vĩnh cửu là gì ? 2.Chúa đã quả quyết Chúa là ai ? 3.Chúa hiện diện ở những nơi nào ? 4.Tại sao người Do Thái không nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia ? -----------------------------------
Ta là bánh từ trời xuống ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đức Kitô là bánh bởi trời, nhưng TN 19-B93
Ta là bánh từ trời xuống ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đức Kitô là bánh bởi trời, nhưng không phải đã rớt xuống như manna trong sa mạc. Trái lại cũng như tấm bánh được hình thành qua nhiều giai đoạn. Trước hết phải có hạt giống, phải có người gieo trồng, phải có người làm cỏ và bón phân. Rồi phải có mưa có nắng, phải có người gặt, phải có người xay bột và sau cùng phải có người làm bánh và khi ăn chúng ta phải bẻ, phải cắt ra từng miếng.
Đức Kitô tấm bánh chúng ta bẻ ra hôm nay trong bàn tiệc Thánh Thể cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn hình thành như thế. Có thể nói ngài là hạt lúa miến tinh tuyền đã được gieo cấy trong trần gian. Ngài đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời của xứ Nadarét, đã vươn lên trên nhân loại tội lỗi này, tựa như cây lúa vươn lên giữa khoảng bùn lầy. Rồi Ngài đã bị gặt hái, nghĩa là bị bắt, bị đánh đập, bị nghiền nát. Cuối cùng Ngài bị nướng trong lò nghĩa là đóng đinh, bị bẻ ra nghĩa là bị đâm thấu tận trái tim. Do đó trong tấm bánh bẻ ra hôm nay chúng ta phải thấy được Đức Kitô chịu chết như lời thánh Phaolô: Mỗi lần ăn và uống chén này là anh em loan truyền việc Chúa chịu chết. Đức Kitô không thể trở thành bánh nuôi chúng ta nếu Ngài không chấp nhận cái chết trên thập giá bởi vì Ngài có chết thì mới làm cho chúng ta được sống.
Đồng thời như chúng ta thường thấy: Bữa cơm quy tụ mọi người trong gia đình thế nào thì bàn tiệc Thánh Thể cũng quy tụ những người con cái Chúa như vậy. Ngay từ những ngày đầu tiên Giáo Hội đã ý thức rằng Thánh Thể là bí tích, là dấu chỉ sự sự hiệp nhất: Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể. Bởi đó nếu chúng ta đến nhà thờ mà không có sự chia sẻ hiệp thông thì bàn tiệc Thánh Thể chẳng còn ý nghĩa gì mấy. Chúng ta rước lấy Chúa vào lòng cũng giống như kẻ ngồi vào bàn ăn, nếu chỉ biết có mình với chén cơm, thì bữa ăn cũng chẳng còn ý nghĩa sâu xa tốt đẹp.
Do đó, phải luôn ý thức rằng Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp nhất và chúng ta chỉ thực sự có quyền đón nhận Thánh Thể khi yêu thương hiệp nhất với anh em. Đưa tay đón nhận Thánh Thể Chúa cũng chính là mở rộng bày tay đón nhận tất cả mọi anh em là chỉ thể của Ngài. Mở rộng lòng đón rước Chúa là mở rộng trái tim đón nhận mọi anh em. Chúng ta đã thực sự sống tình bác ái yêu thương và hiệp nhất mà bí tích Thánh Thể đòi hỏi hay chưa?
Điểm quan trọng ở đây là các lý do khiến người Do Thái chối bỏ Chúa Giêsu, mà chối bỏ Ngài TN 19-B94:
Điểm quan trọng ở đây là các lý do khiến người Do Thái chối bỏ Chúa Giêsu, mà chối bỏ Ngài là họ chối bỏ cả sự sống đời đời.
Họ xét theo các giá trị của loài người và theo các tiêu chuẩn bên ngoài.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Chúa, nêu ra sự kiện Ngài là con nhà thợ mộc, họ biết Ngài sống ở Nadaret. Làm sao họ hiểu được một người thợ mộc tầm thuờng lại có thể trở thành một sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Chúa Giêsu vì đã xem xét Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
T.E.Lawrence là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không Lực Hoàng Gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn mặc thường mặc quân phục thợ máy khi đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà Thị Trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm ấy là ai, bà tỏ vẻ khó chịu quay sang bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền, “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa hề ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrence nói với bà bằng tiếng Pháp “Xin lỗi bà, tôi có thể là thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết tiếng Pháp”. Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã nhầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là nhầm lẫn của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu. Chúng ta phải thận trọng, đừng bao giờ xem thường một sứ điệp của Thiên Chúa vì chúng ta khinh dể hay chẳng đếm xỉa gì đến vị sứ giả. Không ai từ chối tấm ngân phiếu 1.000 Anh kim, chỉ vì nó được bỏ vào một phong bì không phù hợp với tiêu chuẩn về giấy tờ của hạng người quý phái. Thiên Chúa có nhiều sứ giả khác nhau. Sứ điệp quan trọng nhất của Ngài đến từ một người thợ mộc xứ Galilê, mà cũng chính vì thế nên người Do Thái đã xem thường.
Người Do Thái than phiền và cãi nhau. Họ mải lý luận và bị lôi cuốn vào đó, đến nỗi chẳng để ý đến quyết định của Thiên Chúa.
Họ nóng nảy muốn cho ai nấy biết họ nghĩ gì về vấn đề ấy, nhưng chẳng cần biết Thiên Chúa đã nghĩ gì. Trong một hội nghị hay hội đồng, khi ai nấy đều muốn bắt buộc người bên cạnh phải chấp nhận ý kiến của mình, tốt hơn hết chúng ta nên yên lặng cầu xin Thiên Chúa xem Ngài nghĩ gì và muốn chúng ta làm gì. Dù chúng ta có nghĩ gì đi nữa cũng chẳng quan trọng, những gì Thiên Chúa nghĩ mới thật quan trọng, vậy mà chúng ta lại rất ít chịu khó để tìm biết Ngài nghĩ gì!
Người Do Thái lắng nghe, nhưng không chịu học hỏi.
Có nhiều cách nghe: có lối nghe của nhà phê bình, lối nghe của người thù ghét, lối nghe của cấp trên, có lối nghe dửng dưng, lối nghe của người đành chịu vì chưa có cơ hội để nói. Cách nghe thích hợp duy nhất là lắng nghe để học hỏi, không có cách nào khác hơn để được nghe Thiên Chúa.
Người Do Thái chống lại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chỉ những người được Thiên Chúa kéo lại với Chúa Giêsu mới tiếp nhận Ngài. Từ mà Gioan dùng mô tả động tác kéo rất thú vị, đó là chữ được dùng trong bản dịch Do Thái sang Hy Lạp. Khi Giêrêmia nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Ta đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến” (Gr 31,3), nhưng điều thú vị trong từ này (Belkuein) là có ý nói về một sức kháng cự. Đó là chữ dùng mô tả sự “kéo một tay lưới nặng vào bờ hồ” (Ga 21,6.11). Đó cũng là chữ dùng chỉ việc Phaolô và Sila bị kéo đến các quan tòa tại Philipphê (Cv 16,19). Đó cũng là chữ chỉ việc rút gươm ra khỏi dây thắt lưng hay khỏi vỏ (Ga 18,10). Nó luôn luôn ngụ ý kháng cự lại. Thiên Chúa lôi cuốn người ta đến, thế nhưng sức kháng cự của con người có thể làm thất bại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là bánh sự sống. Như thế chúng ta hiểu Chúa là nhu cầu thiết yếu cho đời sống, vậy khước từ lời mời gọi và mệnh lệnh của Chúa Giêsu là đánh mất sự sống và phải chết. Người Pharisêu nói: “Thế hệ ở trong sa mạc chẳng có phần gì ở đời sống mai sau”. Trong câu chuyện xưa của sách Dân số, sau khi nghe các thám tử báo cáo, số người hèn nhát, từ chối mạo hiểm đi vào Đất Hứa đều bị kết án phải lưu lạc trong sa mạc cho đến chết. Vì họ không chấp nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nên cánh cửa vào Đất Hứa đã đóng vĩnh viễn. Khước từ đề nghị của Chúa là từ chối phần thiết yếu cho đời sống, do đó mất luôn sự sống đời này lẫn đời sau. Trong khi đó, tiếp nhận đề nghị của Chúa Giêsu là tìm được sự sống, một sự sống đích thực ở đời này và vinh hiển ở đời sau.
Khái niệm thực phẩm chức năng (Functional foods *) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong những TN 19-B95
Khái niệm thực phẩm chức năng (Functional foods *) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong những năm 1980, để chỉ những thực phẩm chế biến có chứa những thành phần tuy không có giá trị dinh dưỡng, nhưng giúp nâng cao sức khoẻ cho người sử dụng. Theo Viện Khoa học và Đời sống Quốc tế (International Life Science Institute – ILSI) thì thực phẩm chức năng là những thực phẩm, hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khoẻ nhiều hơn giá trị dinh dưỡng cơ bản. Thực phẩm chức năng có thể là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, hoặc là thực phẩm trong quá trình chế biến được bổ sung thêm các chất “chức năng”.
Hiện nay các nước phát triển có xu hướng ưa chuộng dùng các TPCN hơn dùng thuốc. Chính vì vậy, đa số các tập đoàn sản xuất thuốc đang chuyển sang sản xuất TPCN và tìm được đối tượng tiêu thụ lớn hơn. Theo dự báo của chuyên gia, thì “thức ăn của con người trong thế kỷ 21 là TPCN”. Thức ăn không chỉ đảm bảo đủ calo, ăn ngon ăn sạch, mà còn phải được bổ sung các hoạt chất sinh học nguồn gốc tự nhiên cần cho sức khỏe và sắc đẹp, không chỉ có tác dụng phòng một số bệnh, mà còn tạo ra cho con người khả năng miễn dịch chống sự lão hóa và điều khiển được chức năng của từng hệ cơ quan trong cơ thể. (Wikipedia)
Dẫu thế, thực phẩm chức năng cũng chỉ có thể giúp con người chậm trễ đến cái chết, chứ không thể giúp vượt qua cái chết. Trong khi Chúa Giêsu lại giới thiệu một thực phẩm đặc biệt, không có gì sánh nổi, để nuôi dưỡng con người chiến thắng sự chết.
1- Bánh Thiên Sai
Trong sách Các Vua, quyển thứ nhất, hình ảnh Tiên tri Elia buông xuôi, chờ chết, được cứu sống bởi bánh từ trời, dẫn tín hữu đến gần với Bánh Từ Trời chánh thức giá trị vô song, đó chính là Đức Chúa Giêsu nhập thế. Người công khai mặc khải: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.” (Ga 6, 48 – 49)
Với tình yêu vô biên, lòng thương xót hải hà, Chúa Giêsu lấy chính thân mình, tự dâng hiến trở thành lương thực cứu rỗi con người khỏi cái chết mục nát. Hơn nữa, còn ban cho đời sống vĩnh cửu.
2- Bánh Lời Chúa
Lời Chúa cũng được coi là Bánh Hằng Sống như ngôn sứ Amos đã cảnh báo dân Chúa: Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Đức Chúa. (Am 8, 11)
Bởi vì “Lời Chúa là là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng đường con đi” (TV 118,115).
Hơn nữa Chính Đấng Thiên Sai còn xác nhận công khai: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4) Những lời khẳng định trên đều cho thấy, Lời Chúa là tấm Bánh không thể nào thiếu trong cuộc đời sống đạo ngày hôm nay, để giao hòa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, hầu được cứu rỗi khỏi cạm bẫy thế gian.
3- Bánh Thánh Thể
Trước phong ba sự dữ dồn dập tấn công hiện nay, nhân đức Tin, Cậy, Mến cũng dễ bị chao đảo, sa sút hay khủng hoảng, nếu không có siêu lương thực Mình Máu Chúa dưỡng nuôi, cứu giúp và tăng lực. Bởi chưng chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, đã chính thức công khai tiết lộ cho con người sự hào phóng vô biên: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”(Ga 6, 51)
Thánh Thể mặc khải cho trí hiểu biết Mầu Nhiệm nước trời sẽ đến sau này và sát nhập dân Chúa vào Mầu Nhiệm nước trời. Đức Tin không thể tồn tại nơi người Công Giáo sống ngoài Thánh Thể. (ĐHV, 379)
Lạy Chúa Giê su, con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng, vì đã ban cho con Bánh Trường Sinh, để con được sống viên mãn.
Lạy Mẹ Maria, con xin hiệp ý cùng Mẹ trong kinh Magnificat, để tán dương, tri ân Thiên Chúa đã ban cho con lương thực Trường Sinh, hầu vững bước về Quê Trời. Amen. ------------ (*) Functional foods, Food suplement, Alicaments, Nutraceutics.
Diễn từ của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống hấp dẫn chúng ta vì sức mạnh của những lời quả quyết TN 19-B96
Diễn từ của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống hấp dẫn chúng ta vì sức mạnh của những lời quả quyết và đồng thời cũng làm cho chúng ta phân vân về sự cô đơn mà Chúa Giêsu đã tạo ra chung quanh Người vì những lời quả quyết đó. Người ta tự hỏi tính chất cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các người Do thái thực ra như thế nào?. Một điều hiển nhiên là những người Do thái không thể vươn lên tới trình độ của Chúa Giêsu hiện hữu và từ đó Người nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều. Ngay lúc ấy, người Do thái chú ý đến Chúa, nhưng không phải là để đi theo vị sứ giả của Thiên Chúa, họ chỉ muốn trưng dụng Chúa vào mục đích tư lợi là thoả mãn các ước vọng thế tục của họ. Dụng tâm sâu sắc của họ ngược hẳn lại với dụng ý của Chúa Giêsu. Họ, họ muốn kéo Chúa về với họ trong địa hạt trần thế, còn Chúa Giêsu, Người lại muốn đưa họ lên cao đến trình độ Thiên Chúa. Trong công việc này, Chúa không áp dụng chính sách ngoại giao. Người quả quyết Người là ai, dầu cho dân Do thái chỉ muốn nhìn nhận nơi Người là người mà họ biết cha và mẹ, theo lời họ nói.
Để suy gẫm, chúng ta có thể từ bối-cảnh đó rút tỉa ra hai điều đặc biệt sau đây:
1) ‘Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi cuốn nó’.
Cần phải hiểu rõ lời ấy của Chúa Giêsu. Nó không có nghĩa là trong xã hội loài người, Thiên Chúa lôi kéo một số người này, gạt bỏ một số người khác. Thiên Chúa muốn cho hết thảy được cứu rỗi. Ngay từ lúc khởi sự, Thiên Chúa không tiên thiên chọn phần này của nhân loại và bỏ rơi phần kia. Người đã đặt vào thâm tâm mỗi người, bản năng nội tại, luôn hướng họ về với số mệnh mà con người tạo dựng. Bản năng thiêng liêng ấy mang nhiều hình thức, và chỉ có Thiên Chúa biết lúc nào trong cuộc đời con người, nó sẽ chỗi dậy trong lương tâm mỗi cá nhân. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng hết thảy mọi chúng sinh-dầu cho có kẻ sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn một giây phút-cũng đều được kêu gọi trở nên con Chúa. Ơn gọi ấy luôn diễn ra bên trong 1 cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Lời Chúa Giêsu phán ở trên có nghĩa là loài người tự mình bất lực để tiến đến cùng Chúa Giêsu, hết thảy không trừ một ai, phải nhờ Chúa Cha dẫn dắt mới đến được cùng Chúa Giêsu. Không ai đến cùng Đức Kitô do sáng kiến nhân-loại, nhưng mọi người chỉ có thể đến với Đức Kitô nhờ Chúa Cha. Mầu nhiệm của cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô với mỗi người, nói riêng không thể nào hiểu thấu được. Đối với chúng ta là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, vấn đề được đặt ra là phải lo đi sâu vào đức tin. Nhưng bằng cách nào?
2) ‘Ai nghe và học lấy giáo huấn của Cha, thì đến cùng Ta’.
Chúng ta cần lưu ý, Chúa Giêsu phán các lời đóở thì hiện tại, chớ không phải ở thì đã qua. Vấn đề không phải là đã được nghe, đã được giác ngộ và đã đến được với Đức Kitô, sau đó mục tiêu được đạt tới. Đây là một thực- tế hiện hữu mà chúng ta phải bành trướng không ngừng. Điều quan trọng là hằng ngày chúng ta phải ở trong tình trạng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Lời Người và tiến đến cùng Chúa Giêsu.
Việc Chúa Giêsu đến với chúng ta trong đời sống là một thời sự nội tâm luôn luôn hành động, không hề dừng lại, không chấm dứt. Cũng vậy, hành động của chúng ta tiến tới Chúa Giêsu, cuộc ‘gặp gỡ với Chúa Giêsu’, đức tin, sự kết hiệp của chúng ta với Người, là một sự tiến bộ sống động luôn luôn vươn tới sự gia tăng về đức tin, về sự kết hiệp với Chúa. Vậy tìm đâu ra sinh lực nội tại để nuôi dưỡng sự tiến bộ tới cùng Chúa Giêsu?. Xin thưa, phải tìm nơi Bánh hằng sống, tức Thánh Thể.
Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành TN 19-B97
Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành trình tới núi Khô-rep.
Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.
Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết…. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)
Bánh thần thiêng
Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá… được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.
Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu khải thị điều này trong câu chuyện nói với Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Hình tượng Thịt và Máu
Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.
Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”
Canh bạc điên rồ
Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ.
Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.
Kết luận
Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào?
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là TN 19-B98
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ’nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.
Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.
Từ chối nhận
Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,
‘Tôi là bánh từ trời xuống’
Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.
Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.
Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.
Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.
Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.
Căn bệnh tự mãn
Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.
Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.
Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.
Cửa tâm hồn
Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.
Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.
Cường điệu
Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.
Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.
Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi….. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh c.43
Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do TN 19-B99
Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giêsu đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ – những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giêsu lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”
Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ – là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giêsu đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giêsu quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!
Đối với Kitô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!
Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?
Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. Amen.
ĐƯỢC CỨU THOÁT KHÔNG PHẢI BẰNG MỘT CÔNG THỨC NHƯNG NHỜ MỘT CON NGƯỜI.
Một lần nữa, như ta đã nghe trong Chúa nhật tuần trước, một sứ điệp với lời hứa sẽ được dưỡng TN 19-B100
Một lần nữa, như ta đã nghe trong Chúa nhật tuần trước, một sứ điệp với lời hứa sẽ được dưỡng nuôi trong cuộc hành trình phía trước. Điều này đặc biệt rõ rệt trong đoạn văn trong Sách Các Vua quyển thứ nhất. Trong sứ điệp này, ta nghe câu truyện về Ngôn sứ Êlia hành trình trong sa mạc. Điều quan trọng là xem thấy bối cảnh câu truyện diễn ra.
Êlia trên đường đến Khôrếp – “núi của Đức Chúa”. Chính trong cái hang ở đó Thiên Chúa đã tự mặc khải cho vị Ngôn sứ, không phải trong gió, trong một trận động đất hoặc ngọn lửa mà trong một “tiếng thì thầm”. Trước đó, trước khi lên đường, Êlia chứng minh cho Vua dân Israel và mọi người thờ thần ngoại, kể cả các thầy cúng Baal, rằng chỉ có một Thiên Chúa chân thực duy nhất, không phải chỉ ở Israel nhưng mà trong khắp cả thế giới.
Bây giờ, ta trở lại sứ điệp ngày hôm nay, Êlia đang chạy thục mạng. Tuy nhiên, ông không cô đơn. Thiên Chúa ở với ông, dưỡng nuôi ông trong cuộc hành trình.
Trong Thư Thánh Phaolô gửi các Tín hữu Êphêxô, ta nghe một bài khuyến thiện hãy noi gương Thiên Chúa – hãy sống bằng tình yêu. Thánh Phaolô khích lệ cộng đoàn Kitô hữu tại Êphêxô hãy hướng đến một sự thánh thiện mới bởi tặng ân đức tin mà họ đã lĩnh nhận.
“Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô soi sáng cho những nguyên tắc luân lý là “nền tảng duy nhất và không thể thay thế được của sự ổn định và an bình, của trật tự nội tâm và ngoại giới, trật tự riêng và chung, mà chỉ nền tảng đó mới có thể làm nảy sinh và bảo đảm sự thịnh vượng của các quốc gia”. Đời sống trong xã hội phải dựa trên nền tảng kế hoạch của Thiên Chúa vì “chiều kích thần học cần thiết cho việc giải thích lẫn việc giải quyết những vấn đề hiện nay trong xã hội loài người”. Trước sự hiện diện của những hình thức bóc lột và bất công xã hội trầm trọng, có “một nhận thức ngày càng rộng khắp và nhạy bén hơn về nhu cầu đổi mới triệt để cá nhân và xã hội để có thể bảo đảm công lý, tình liên đới, sự trung thực và cởi mở. Chắc chắn, có cả một con đường dài và khó khăn phía trước; việc đem lại một sự đổi mới như thế đòi hỏi nỗ lực to lớn, đặc biệt khi xét đến số lượng và tính trầm trọng của những nguyên nhân làm phát sinh và làm trầm trọng thêm những tình huống bất công đang hiện diện trong thế giới ngày nay. Nhưng, như lịch sử và kinh nghiệm cá nhân cho thấy, không khó để khám phá ra tại đáy của những tình huống này các nguyên nhân gọi cho đúng là về ‘văn hoá’, gắn kết với những cách nhìn nào đó về con người, xã hội và thế giới. Quả vậy, tại tâm điểm của vấn đề văn hoá, chúng ta tìm thấy nhận thức luân lý, đến lượt mình, nhận thức này được đâm rễ và hoàn thành trong nhận thức tôn giáo”. Về “vấn đề xã hội”, chúng ta không được để mình bị quyến rũ bởi “niềm mong ước ngây thơ rằng đối diện với những thử thách lớn lao của thời đại chúng ta, ta sẽ tìm thấy một công thức thần kỳ nào đó. Không, chúng ta sẽ không được cứu thoát bằng một công thức nhưng nhờ một Con Người, và sự bảo đảm mà Con Người đó ban cho chúng ta: Thầy ở với anh em! Vì thế, vấn đề không phải là phát minh ra một ‘chương trình mới’. Chương trình có sẵn rồi: đó là kế hoạch được tìm thấy trong Tin Mừng và trong Truyền Thống sống động, mãi mãi sẽ như vậy. Cuối cùng, chương trình đó có tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng phải được nhận biết, được yêu thương và được noi theo, để trong Người, chúng ta có thể sống đời sống của Ba Ngôi, và cùng với Người, chúng ta biến đổi lịch sử cho đến khi lịch sử hoàn thành nơi Giêrusalem trên trời” (Sách Tóm lược HTXHCG, 577).
Đức Giêsu tiếp tục bài đã được gọi là “diễn từ Bánh Hằng sống”. Người bảo đám đông rằng “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Người nói điều này khi một vài người trong đám đông phản đối việc Đức Giêsu nhận mình là “bánh từ trời xuống”.
Một lần nữa, biến cố này xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông. Lại vẫn giống như những người Israel trong Cựu Ước, có sự thiếu hiểu biết. Không những thế, có cả sự thiếu sẵn sàng để cho phép tặng ân đức tin được vào trong tâm hồn và tâm trí của họ.
Trong đoạn văn, Đức Giêsu đưa ra một số lời hứa mà đã trở thành một bộ phận chính yếu trong đức tin của chúng ta. Người bảo họ rằng Người sẽ cho những người tin sống lại trong ngày sau hết. Người đoan chắc với họ rằng họ có thể đến với Người nếu họ nghe tiếng Chúa Cha và học được từ lời đó. Sau cùng Người hứa rằng những ai tin, những ai được gọi, những ai được thông phần vào việc ăn “bánh hằng sống từ trời xuống” sẽ sống muôn đời.
Đây là lời hứa của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta. Ta hãy cầu nguyện cho ta được nghe tiếng của Chúa Cha và được đến gần Đức Kiô hơn, Đấng là bánh hằng sống và chia sẻ sự sống của Người với chúng ta.