Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 951-1000

Thứ hai - 25/02/2019 06:03
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 951-1000
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 951-1000
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 951-1000
Bùi-Tuần 951: TUẦN THÁNH THÁNH ĐỊA 24-03-2004. 2
Bùi-Tuần 952: MỘT THOÁNG PHỤC SINH 31-03-2004. 5
Bùi-Tuần 953: TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN 02-04-2004. 7
Bùi-Tuần 954: TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN 03-04-2004. 9
Bùi-Tuần 955: SỐNG LẠI TRONG CUỘC ĐỜI 08-042004. 11
Bùi-Tuần 956: ĐỨC MẸ DÂNG HOA 26-04-2004. 15
Bùi-Tuần 957: DÂNG MÌNH 06-05-2004. 18
Bùi-Tuần 958: ĐỨC MẸ ĐI THĂM VIẾNG 17-05-2004. 22
Bùi-Tuần 959: BÌNH AN VÀ VUI MỪNG TRONG CHÚA THÁNH THẦN.. 25
Bùi-Tuần 960: ĐÓN NHẬN 14-06-2004. 29
Bùi-Tuần 961: Ðồng Hành Ngày 29-6-2004. 32
Bùi-Tuần 962: ĐƯỜNG LÊN THIÊN ĐÀNG 15-08-2004. 34
Bùi-Tuần 963: BÌNH AN 22-8-2004. 38
Bùi-Tuần 964: Phục vụ 07-10-2004. 40
Bùi-Tuần 965: Niềm Tin Thánh Thể 01-11-2004. 43
Bùi-Tuần 966: CẢNH ĐỜI NÀY VÀ CẢNH ĐỜI SAU.. 45
Bùi-Tuần 967: HÔM NAY, ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ SINH RA CHO ANH EM... 48
Bùi-Tuần 968: BẤT NGỜ ẬP TỚI 26-12-2004. 51
Bùi-Tuần 969: THÁNG 6 VÀ TRÁI TIM THƯƠNG NGƯỜI 03-06-30004. 53
Bùi-Tuần 970: TÌM ĐỨC MẸ ĐỂ DÂNG HOA 12-05-2004. 56
Bùi-Tuần 971: NHÌN LẠI MỘT ĐỜI KẺ ĐƯỢC SAI ĐI 30-01-2005. 59
Bùi-Tuần 972: THÁNH LỄ CỦA TA TRONG THÁNH LỄ 24-03-2005. 64
Bùi-Tuần 973: Nhớ về Một Nhắc Nhở Xưa 18-04-2005. 66
Bùi-Tuần 974: LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ NƠI ĐỨC TÂN GIÁO HOÀNG.. 69
Bùi-Tuần 975: NHÂN CHỨNG BẤT NGỜ 10-06-2005. 72
Bùi-Tuần 976: TIẾNG KÊU TRONG HOANG ĐỊA 24-06-2005. 76
Bùi-Tuần 977: THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI 15-08-2005. 79
Bùi-Tuần 978: ƠN BÌNH AN 22-08-2005. 83
Bùi-Tuần 979: LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY.. 85
Bùi-Tuần 980: VIỆC TẠ ƠN CHÚA 29-09-2005. 88
Bùi-Tuần 981: LẠY CHÚA, CON ĐÂY 30-10-2005. 91
Bùi-Tuần 982: NHỜ ƠN ĐỨC MẸ KHÓC 11-11-2005. 95
Bùi-Tuần 983: CẠM BẪY TRONG MỤC VỤ TẠI VIỆT NAM HÔM NAY.. 98
Bùi-Tuần 984: MỘT CHUYẾN THĂM MỤC VỤ 20-11-2005. 101
Bùi-Tuần 985: MỪNG LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 105
Bùi-Tuần 986: CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 20-12-2005. 108
Bùi-Tuần 987: THIỆN TÂM 24-12-2005. 111
Bùi-Tuần 988: HIẾU THẢO ĐỐI VỚI CÁC CHỦ CHĂN VỀ HƯU.. 112
Bùi-Tuần 989: SỐNG LỜI CHÚA VỚI BA HÌNH ẢNH ĐẠO ĐỨC.. 114
Bùi-Tuần 990: CẦU NGUYỆN ĐẦU XUÂN 12-01-2006. 116
Bùi-Tuần 991: GIEO TRỒNG LỜI CHÚA 17-02-2006. 119
Bùi-Tuần 992: ƠN KHÔN NGOAN NƠI THÁNH GIUSE 19-03-2006. 123
Bùi-Tuần 993: XIN ĐỪNG SA THẢI VÀ BỎ RƠI CON 20-03-2006. 126
Bùi-Tuần 994: LÀM THEO Ý CHÚA 25-03-2006. 130
Bùi-Tuần 995: Những bông hoa thiêng trên chặng đường 17 năm qua. 133
Bùi-Tuần 996: Chúa Cha Giàu Lòng Thương Xót 03-04-2006. 136
Bùi-Tuần 997: Cảm nghĩ sau diễn trường quốc tế về "Trái Ðất Tương Lai". 138
Bùi-Tuần 998: Một kỷ niệm lớn. 144
Bùi-Tuần 999: MỘT GẶP GỠ QUÝ GIÁ 14-05-2006. 149
Bùi-Tuần 1000: CUỘC ĐỜI THANH VẮNG 18-05-2006. 152

Phân cách bài ĐC Bùi Tuần

Bùi-Tuần 951: TUẦN THÁNH THÁNH ĐỊA 24-03-2004

GB. Bùi Tuần

Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu đã sống trên đất nước Israel. Lúc 33 tuổi, đã có một ngày: 24-03-2004 Bùi-Tuần 951

Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu đã sống trên đất nước Israel.
Lúc 33 tuổi, đã có một ngày tưng bừng dành cho Người tại thủ đô Giêrusalem. Người vào thành thánh giữa rừng người đón tiếp tung hô.
Nhưng chỉ sau vài ngày, Người đi vào thảm kịch. Người bị giết nhục nhã trên thập giá.
Quyền đạo quyền đời dùng tự do của mình, để hại Chúa. Nhưng Chúa không cản, không tránh. Người chịu muôn vàn khổ đau, với mục đích cứu độ nhân loại.
Thánh địa.
Từ đó, những nơi Chúa Giêsu đã sống với mục đích cứu độ, thường được gọi là Thánh địa. Thực tế, Thánh địa này  là Israel.
Từ mấy chục năm nay, mảnh đất này và những mảnh đất xung quanh thường diễn ra những bất hoà, bất an, bất ổn.
Từ vài năm nay, mảnh đất danh tiếng đó đã bước thêm vào những xung đột gay gắt.
Từ mấy ngày nay, mảnh đất lừng danh ấy lại bị bao phủ trong bầu khí hận thù bừng bừng máu lửa. Bạo lực đã bắt đầu.
Đang khi đó, sau 2000 năm, đất nước Israel vẫn trung thành với Do Thái giáo, các nước xung quanh vẫn sùng Hồi giáo.
Đạo Công giáo vẫn chỉ là một thiểu số rất khiêm tốn tại quê hương Chúa Giêsu. Mảnh đất này vẫn gọi là Thánh địa, nhưng với một số người mà thôi.
Tôi được diễm phúc tham dự tuần thánh trên Thánh địa. Cảm động nhất là đêm thứ năm tuần thánh, những người hành hương qui tụ ở vườn Cây Dầu để canh thức, suy niệm. Quì bên tảng đá, nơi Chúa Giêsu đã quì cầu nguyện xưa, tôi cảm được một chút thế nào là bỏ ý riêng, để vâng phục thánh ý Chúa. Nhất là để biết xin vâng, hiến dâng chính mình làm của lễ, theo gương Chúa Giêsu.
Nỗi xúc động càng tăng thêm, khi tôi cùng nhiều người đi viếng đàng thánh giá. Chúng tôi đi trên chính con đường, mà xưa Chúa Giêsu đã vác thánh giá đi lên đồi Calvariô.
Đang khi chúng tôi tưởng niệm cuộc thương khó Chúa với biết bao xúc động và nước mắt, thì hai bên đường, các cửa tiệm buôn bán vẫn sinh hoạt bình thường. Đám đông người bản xứ nhìn đoàn hành hương với cặp mắt lãnh đạm.
Tôi thấy rõ: Người đồng hương với Chúa Giêsu hôm nay vẫn còn lãnh đạm với Chúa Giêsu, như thuở xưa.
Một chút tìm hiểu.
Khi tìm hiểu tại sao tình hình Đất thánh hôm nay vẫn chưa là công giáo, như nhiều người và tôi mong muốn, tôi tạm thấy thế này:
Nhiều dân tộc rất tự hào với tôn giáo truyền thống của họ. Bỏ tôn giáo truyền thống để theo một đạo khác, đối với họ, là một phản bội lớn.
Nhiều tôn giáo gắn liền với một số dân tộc. Hễ là người thuộc dân tộc nào thì đương nhiên tin theo tôn giáo của dân tộc đó. Liên hệ đó là một che chở thân thương của họ.
Nhiều cuộc chiến đã đụng độ đến nhiều dân tộc và tôn giáo. Cũng như nhiều dân tộc và tôn giáo đã bị lợi dụng trong các cuộc chiến. Những đụng độ như thế dễ đẩy con người vào tư thế tự vệ đối với các dân tộc khác và tôn giáo khác.
Nhiều văn hoá và nhiều nếp sống mang màu sắc tôn giáo này, tôn giáo nọ. Khi đã quen với nếp sống và văn hoá nào, thì đương nhiên không đặt vấn đề đổi đạo, tức đổi cả nếp sống và văn hoá sẵn có của mình.
Nhiều người theo một tôn giáo vẫn cảm nghiệm được sự bình an tâm hồn, được khích lệ làm lành lánh dữ, dấn thân vào việc thiện, cứu nhân độ thế. Vì vậy, họ không hề nghĩ tôn giáo của họ là thua kém tôn giáo khác, để cần phải đổi đạo. Đang khi họ thấy các người thuộc tôn giáo khác chẳng có gì hơn họ.
Trên đây chỉ là vài nhận xét thu lượm được từ dư luận, nhất là trong Năm Thánh Truyền giáo tại Việt Nam. Những nhận xét này, tuy sơ sài, nhưng cũng giúp tôi hiểu phần nào tình hình tôn giáo trên Đất thánh, quê hương Đấng Cứu Thế.
Vào thực tế.
Để đi vào một kết luận có tính cách thực tế hơn, tôi muốn nhìn vào Tuần thánh của tôi, trên Thánh địa của tôi hôm nay.
Tôi coi Thánh địa của tôi là nơi tôi đang sống đức tin. Cụ thể là Hội Thánh Việt Nam của tôi, giáo phận của tôi, cộng đoàn của tôi, gia đình của tôi.
Tôi tin Chúa đang ở những chốn này. Nơi nào có Chúa, thì nơi đó đáng gọi là nơi thánh, với một ý nghĩa rất rộng.
Nhưng ở những nơi này, vẫn có thể còn nhiều bất an, bất ổn, bất hoà, thậm chí vẫn có chia rẽ và nhiều lệch lạc.
Tuy nhiên, tuần thánh của tôi tại chốn này không vì thế mà thiếu sốt sắng. Trái lại, tôi lại thấy càng phải sốt sắng hơn.
Thánh địa của tôi đang có nhiều cơ may để nên thánh hơn, và cũng đang gặp nhiều nguy cơ làm suy giảm đạo đức một cách từ từ nhưng trầm trọng. Tôi tin hiến tế của Chúa Cứu thế sẽ cứu chúng tôi.
Tôi không có ảo tưởng: Sau tuần thánh, Thánh địa của tôi sẽ không còn bóng tối. Nhưng tôi tin chắc chắn: Nhiều người trong Thánh địa của tôi sẽ đón nhận được rất nhiều ơn lành của Đấng Cứu thế. Người được ơn này, người được ơn nọ. Nhất là ơn sám hối và ơn cậy tin gắn bó vào Thiên Chúa đầy tình yêu thương xót.
Người sẽ ở lại với chúng ta một cách âm thầm, để cứu độ ta, và để giúp ta phát triển đức tin, bằng cách mà chính Người đã hứa: “Thầy là cây nho. Các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

 

Bùi-Tuần 952: MỘT THOÁNG PHỤC SINH 31-03-2004

 GB. BÙI TUẦN
 

Chúa nhật Phục sinh được chuẩn bị bằng cách vượt qua ba ngày tưởng niệm. Ngày thứ Năm: 31-03-2004 Bùi-Tuần 952

Chúa nhật Phục sinh được chuẩn bị bằng cách vượt qua ba ngày tưởng niệm.
Ngày thứ Năm Chúa Giêsu bị bắt,
Ngày thứ Sáu Chúa Giêsu bị đóng đinh,
Ngày thứ Bảy Chúa Giêsu an giấc trong mồ.
Ngay lúc này, tôi đã nhìn thấy thấp thoáng cảnh vượt qua ở xung quanh tôi.
Bỡ ngỡ với tâm tình cảm tạ Chúa.
Cảnh vượt qua này làm tôi bỡ ngỡ. Số người vượt qua không lớn. Vì tôi nhìn họ giữa một Á châu rất hiếm công giáo, giữa một khối Đông Nam Á rất ít công giáo, giữa một nước Việt Nam chỉ một số nhỏ là công giáo.
Tuy người công giáo ở đây là một thiểu số rất khiêm tốn, nhưng họ hiên ngang đi theo Chúa Giêsu. Họ hiệp thông với Người, trên con đường tình yêu chấp nhận hy sinh, vượt qua đau khổ, để đến Phục sinh.
Họ mang chiều kích thiêng liêng nội tâm rộng lớn. Họ tin thánh giá Chúa Giêsu không chỉ là nơi để hiến dâng mình, mà còn là nơi diễn ra cuộc chiến giữa Hoả ngục và Thiên đàng.
Trên thánh giá Chúa Giêsu và thánh giá đời họ, họ phấn đấu, để sự tự do của họ đừng trốn tránh hạ mình xuống theo gương Chúa Giêsu. Họ nhận lấy thân phận người tôi trung của Thiên Chúa Cha, vâng phục thánh ý Người, sẵn sàng chịu chết một cách nào đó. Như vậy họ góp phần vào việc cứu mình và bao người khác khỏi phải bị ném vào hoả ngục vì tội lỗi, nhưng được lên thiên đàng.
Tất cả sự vượt qua ấy đều bởi tình yêu. Do đó, ý hướng vượt qua của họ là rất mạnh. Chiều kích thiêng liêng nơi họ là rất sáng.
Trong tình trạng như vậy, họ không quan tâm đến sự họ thuộc về đa số hay thiểu số. Họ mến Chúa hết lòng. Họ yêu thương mọi người, như Chúa yêu thương họ.
Đơn sơ thế thôi. Và cứ thế, họ vượt qua mọi thành kiến, mọi trở ngại. Họ vừa vượt qua, vừa ca tụng Chúa Giêsu là Chúa chiên lành: “Ta chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Thoáng nhìn họ, tôi rất bỡ ngỡ. Họ là chứng nhân sống động của đức tin. Tôi cảm tạ Chúa hết lòng.
Nhưng trong cái nhìn thoáng qua trải rộng, tôi bỡ ngỡ, mà cũng bàng hoàng.
Bàng hoàng với lòng thương cảm.
Tôi bàng hoàng, vì bên cạnh số người đang vượt qua đó, tôi thấy cũng có những người xem ra mất hướng.
Trong phạm vi tín lý, có người tin điều này, mà bỏ điều kia. Cả đến những điều hết sức quan trọng, như phép Thánh Thể, hoả ngục, phán xét, đời sau, cũng bị nghi ngờ.
Trong phạm vi luân lý, rõ ràng đang có những di chuyển trầm trọng. Có những người lỗi đức khiêm nhường, công bình, bác ái, bổn phận, mà vẫn bình thản, coi những nếp sống như thế là bình thường.
Trong phạm vi tu đức, phong trào hưởng thụ đang tạo ra một mẫu người “đạo đức” mới. Chạy theo tiền bạc, hội nhập vào tinh thần tục hoá, mà vẫn cho là vì lý do đạo đức.
Trong phạm vi ­truyền giáo, có những phô trương hình thức, tự mãn, gây cớ làm sống lại những vết thương lịch sử của thời ngoại bang lợi dụng Công giáo, đồng thời cũng gây dị ứng nơi vài tôn giáo bạn.
Trên đây là những sự kiện xảy ra đó đây, khiến tôi nghĩ rằng: Công giáo tại một số nơi đang di chuyển theo chiều hướng không lành mạnh.
Tôi bàng hoàng, nhưng rất thông cảm và cảm thương.
Nhưng, cũng may là trước tình hình đó, tôi thấy không thiếu người rất tốt, quyết tâm phấn đấu.
Phấn đấu với đức tin đầy hy vọng.
Trong phấn đấu, họ vâng theo lời dạy của thánh Phaolô: “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp, vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ... Hãy đứng vững: Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng hái loan báo Tin Mừng bình an; Hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ, và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Chúa. Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài, mà cầu nguyện luôn mãi” (Ep 6,10-18).
Cuộc chiến đấu, như vừa diễn tả, là rất âm thầm, nhưng quyết liệt. Chủ yếu là làm những việc lành nhỏ trong đời thường. Trung thành với Chúa trong từng giây từng phút, để đẹp lòng Chúa, như lời thánh Phaolô nói: “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5,9).
Số người đang phấn đấu như trên vì đức tin không phải là ít. Chúa Giêsu ở giữa họ. Người cùng phấn đấu với họ.
Như vậy, hy vọng công cuộc vượt qua thiêng liêng sẽ thành đạt. Một lễ Phục sinh đầy ơn đổi mới sẽ là một thực tế chắc chắn cho những ai phấn đấu trong Chúa Giêsu.
Chúa Phục sinh sẽ đến với ta. Chúng ta sẽ đón tiếp Người với lòng sám hối khiêm cung và tin tưởng. Tình thương cứu độ của Người sẽ ban cho ta ơn tha thứ, nhưng cũng sẽ đòi hỏi ta những cố gắng mới.
Như thế, mỗi lễ Phục sinh sẽ là một khởi đầu mới cho một giao ước mới của tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

 

Bùi-Tuần 953: TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN 02-04-2004

 GB. BÙI TUẦN
Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu tại nhà thờ Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang ngày 6 tháng 4 năm 2004
 

Thánh lễ Truyền Dầu là một lễ trọng của Tuần Thánh. Lễ này mang một tính cách riêng. Đó là: 02-04-2004 Bùi-Tuần 953

Thánh lễ Truyền Dầu là một lễ trọng của Tuần Thánh. Lễ này mang một tính cách riêng. Đó là biểu dương sự hiệp nhất. Vì thế, các linh mục trong giáo phận hôm nay đều đến đồng tế xung quanh Đức Giám Mục giáo phận.
Tất cả các ngài cùng với đông đảo tu sĩ, giáo dân đều nói lên sự hiệp nhất của mình với Chúa Giêsu. Chúng ta xin cho sự hiệp nhất với nhau và với Chúa càng ngày càng phát triển.
Tôi được Đức Cha giáo phận nhờ giảng. Tôi xin vui lòng cộng tác. Cộng tác của tôi sẽ là chia sẻ một chút kinh nghiệm, tuy bé nhỏ.
Kinh nghiệm thứ nhất là: Hiệp nhất nói ở đây chính là một ơn Chúa ban, chứ không phải là một công trình, ta tự nhiên một mình làm nên được.
Chính Chúa Giêsu đã cầu xin ơn đó với Chúa Cha: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha, mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11).
Sự hiệp nhất này được xây dựng trên một nền tảng siêu nhiên. Nền tảng đó là: Chúa ở trong ta và ở trong các người mà ta muốn hiệp nhất. Về điềm này, Chúa Giêsu nói rõ: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23).
Nếu đây là một điều kiện căn bản của sự hiệp nhất, thì ít là chính ta phải sống mật thiết với Chúa Giêsu. Phải gắn bó chặt chẽ với Người. Như lời Người phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,6).
Cầu nguyện cho ơn hiệp nhất không có nghĩa là chỉ một việc cầu nguyện là đủ, khỏi phải làm gì khác. Không đâu. Còn phải làm nhiều. Một việc làm rất quan trọng không thể bỏ qua, việc đó là thực hành bác ái. Vì thế, tôi xin nói về kinh nghiệm thứ hai.
Kinh nghiệm thứ hai là hiệp nhất bằng đời sống bác ái.
Sống bác ái là sống dấn thân. Đây là một dấn thân thúc bách. Như lời thánh Phaolô nói: “Đức ái của Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5,14). Lời trên đây của thánh tông đồ ví như tiếng còi gọi ta lên đường cấp cứu.
Mọi việc cấp cứu bác ái của ta sẽ được Chúa đánh giá thế nào, thì tôi chỉ xin nhắc qua hai đoạn Phúc Âm. Một là dụ ngôn người Samaritanô tốt lành đã cảm thương cứu giúp một nạn nhân bị kẻ cướp đánh bị thương nằm ở vệ đường (Lc 10,29-37). Hai là cảnh phán xét chung, trong đó, Chúa đánh giá từng người theo việc họ có cảm thương cứu giúp người khác hay không (Mt 25,31-46).
Theo cảm nhận của tôi, hiệp nhất thường được xây dựng bằng những việc yêu thương bé nhỏ, tế nhị, âm thầm, kín đáo, nhưng bền bỉ, đôi khi đau đớn. Do đó,
Kinh nghiệm thứ ba là hiệp nhất nhiều khi lại nở sinh từ những hy sinh và thất bại lâu dài.
Tìm hiệp nhất như một thành công phải thấy được ngay, đó là một ảo tưởng. Khi cộng tác với Chúa xây dựng hiệp nhất, tôi nhớ lời Chúa dạy: “Thật, Thầy bảo thật các con. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,29).
Hiểu như thế, tôi thấy hiệp nhất cũng giống như những dầu thánh. Những dầu này, sở dĩ có được, là do bao công phu lâu dài. Phải gieo trồng, phải chăm tưới, phải hái trái, phải ép ra dầu.
Vất vả và lâu ngày mới có được những dầu thánh này. Tương tự cũng vậy, phải vất vả và lâu ngày với những cố gắng, cả với những thất bại, mới có được sự hiệp nhất. Hiệp nhất không phải là một thứ hàng rẻ.
Tôi xin phép kết thúc tâm sự của tôi bằng nhắc lại lời nguyện hiệp nhất của Chúa Giêsu:
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11).

 

Bùi-Tuần 954: TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN 03-04-2004

GB. BÙI TUẦN
Bài giảng thánh lễ thứ năm Tuần Thánh  tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 8 tháng 4 năm 2004
 

Những năm trước đây, trong thánh lễ tối thứ năm Tuần Thánh, tôi thường chia sẻ với anh chị: 03-04-2004 Bùi-Tuần 954

Những năm trước đây, trong thánh lễ tối thứ năm Tuần Thánh, tôi thường chia sẻ với anh chị em về những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trong bữa tiệc ly.
Năm nay, trong thánh lễ này, tôi xin chia sẻ về những gì Chúa Giêsu đã làm và đã nói ở vườn Cây Dầu, sau bữa tiệc ly.
Cảnh vườn Cây Dầu xưa tối thứ năm Tuần Thánh có thể tả lại vắn tắt thế này: Chúa Giêsu đến đó cầu nguyện một mình. Người biết trước những gì đau đớn nhất, nhục nhã nhất đang đợi Người. Người xao xuyến, đau buồn, đến nỗi mồ hôi pha máu đổ ra. Tính tự nhiên Người muốn tránh cuộc tử nạn. Nhưng Người khiêm nhường, xin vâng ý Chúa Cha. Chúa Cha muốn Người dâng chính mình làm của lễ trong đớn đau để đền tội cho nhân loại.
Thêm vào đó, Chúa Giêsu lại thấy các môn đệ Người đang bị các cơn cám dỗ vây chặt. Như cám dỗ về chủ quan, về ỷ lại, về kiêu căng, về tham  vọng, về lười biếng, về trốn tránh bổn phận trung thành.
Biết thế, Chúa Giêsu càng thêm lo buồn. Người đến chỗ các môn đệ đang ngủ. Người tha thiết khuyên họ vắn tắt: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Mặc dầu được nhắc đi nhắc lại, các môn đệ đã không thực hiện lời Thầy, dù lúc đó tình hình đã khá trầm trọng. Kết quả là: khi Chúa Giêsu bị bắt, các môn đệ đã bỏ Thầy, chạy trốn. Thậm chí, người đứng đầu nhóm còn chối Thầy ba lần.
Trên đây là vắn tắt chuyện thê thảm xưa. Tôi thấy chuyện thê thảm xưa cũng đang diễn lại đó đây ở thời nay.
Thời nay, chuyện thê thảm phổ thông nhất, theo tôi, chính là sự lãnh đạm của rất nhiều người công giáo chúng ta đối với lời Chúa, đối với những thao thức của Chúa, và đối với những lo âu của Hội Thánh Chúa.
Khi sự lãnh đạm đó lại xảy ra nơi các người gọi là môn đệ được Chúa chọn cách riêng, thì thê thảm đó trở thành bi đát.
Nghĩ thế, mà tôi sợ cho chính tôi và cho tất cả chúng ta. Vì vậy, ít ra chúng ta hãy thực hành một cách nghiêm túc lời Chúa dạy trong vườn Cây Dầu là: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”.
Thực hành thế nào?
Tôi xin phép chỉ một cách bắt đầu đơn sơ là: Hãy khiêm tốn nhận mình chưa biết tỉnh thức và cầu nguyện. Sau đó, hãy xin Chúa giúp ta:
Cùng với Chúa Giêsu mà tỉnh thức,
cùng với Chúa Giêsu mà cầu nguyện.
Cứ kiên trì khiêm tốn cầu xin điều đó. Rồi dần dần ta sẽ thấy Chúa cho ta một trái tim đổi mới, để ta có một cái nhìn mới về thế giới ta, về Hội Thánh ta, về cộng đoàn ta, về chính mình ta. Ta sẽ nhìn mọi sự trong cái nhìn của Chúa. Lúc đó, ta mới thấy đâu đâu cũng cần được Chúa cứu độ, đâu đâu cũng kêu gọi sự cộng tác của ta vào việc cứu độ. Cộng tác bằng sự tôn thờ kính yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Cộng tác bằng sự phục vụ đồng bào, lối xóm và những người xung quanh một cách khiêm nhường. Cộng tác bằng sám hối và cảm thương.
Khi tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy một Chúa Cứu thế sống động đang mời gọi ta tìm cách băng bó những vết thương của đồng bào xa gần.
Khi tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy, nếu tự đắc, chúng ta có thể làm mồi cho những ác thần một cách dễ dàng, qua những cám dỗ của chúng đưa ta vào những lầm lạc trầm trọng, bế tắc, tối tăm. Nhưng ta sẽ vượt qua được nhờ ơn Chúa giúp.
Nhất là khi tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ hiểu tương lai sau cùng của ta sẽ rất sáng lạn, đầy bình an, đầy hạnh phúc, nhờ Chúa cứu độ giàu tình yêu thương xót giúp ta vâng phục thánh ý Chúa.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, đặc biệt là trong tình hình hiện nay, đang có nhiều dấu chỉ cho thấy sự xuống cấp về đạo đức, nhất là khủng hoảng về lương tâm.
Xin Chúa giúp ta. Amen.

 

Bùi-Tuần 955: SỐNG LẠI TRONG CUỘC ĐỜI 08-042004

 GB. BÙI TUẦN
 

Lễ Phục sinh chỉ vỏn vẹn một ngày. Nhưng mùa Phục sinh vẫn kéo dài. Trong lịch Phụng vụ: 08-042004 Bùi-Tuần 955

Lễ Phục sinh chỉ vỏn vẹn một ngày. Nhưng mùa Phục sinh vẫn kéo dài.
Trong lịch Phụng vụ, mùa Phục sinh kéo dài nhiều tuần lễ. Còn trong cuộc đời, mùa Phục sinh kéo dài mãi mãi.
Đời mỗi người có những sống lại riêng tư. Mỗi quãng đời một người lại có những sống lại mang màu sắc cụ thể của hoàn cảnh lịch sử riêng của nó.
Tôi nói như vậy, từ kinh nghiệm đời tôi. Kinh nghiệm cuộc đời là trường dạy khôn cho tôi, nhất là khi biết đọc những kinh nghiệm đó bằng ánh sáng Chúa Phục sinh. Tôi xin phép chỉ nhắc lại vắn tắt một quãng đời.
Một quãng đời như hấp hối.
Cách đây gần hai chục năm, tôi bị rơi vào tình trạng rất khó khăn. Bệnh tật kéo dài, lo âu chồng chất, tâm hồn nhiều khi như đi quờ quạng trong hầm tối.
Thấy vậy, một người bạn thân mời tôi sang Đức nghỉ ngơi.
Sáng thứ hai tuần thánh, tôi đi bệnh viện. Một phụ nữ người Đức đi theo. Khi thang máy sắp tự động đóng cửa, để lên tầng cao, thì một bà trong hành lang chạy vội lại, muốn kịp cùng đi chuyến thang đó. Chúng tôi chặn cửa thang máy, mời bà vào. Vừa nhìn thấy tôi, bà hỏi chị phụ nữ theo tôi: Linh mục này có phải Á châu không? Rồi bà kể: Cách đây 30 năm, một linh mục Á châu đã rửa tội cho con trai tôi tại Freiburg này. Đó là đứa con muộn màng. Tôi đã hứa với Chúa: Suốt đời sẽ cầu nguyện cho linh mục đó. Với ý nguyện: Xin cho con tôi được sống. Vì tôi hiếm hoi. Tôi đã giữ lời hứa. Và Chúa đã nhậm lời tôi. Tôi không biết linh mục đó bây giờ ở đâu? Tôi và con tôi hằng ngày cầu nguyện, mong được gặp lại linh mục thân yêu đó ít là một lần để cùng gia đình tôi tạ ơn Chúa.
Tôi hiểu những gì hai người đang nói. Tôi đột nhiên nhớ lại hoàn cảnh của bà. Tôi trả lời: “Linh mục đó chính là tôi đây. Tôi còn giữ tấm ảnh chụp lễ rửa tội”. Một giây phút gặp gỡ, sau 30 năm cầu nguyện. Một giây phút thôi. Nhưng một giây phút ấy đã được Chúa sắp xếp bằng trăm ngàn yếu tố khác nhau, băng qua không gian mấy đại dương, và trải qua thời gian mấy chục năm dài. Bà oà lên khóc. Còn tôi thì như người sống lại. Trong một tình trạng nặng trĩu lo âu, đau đớn, sự gặp gỡ vừa kể giúp tôi tin vững vàng vào Chúa. Tôi thấy Chúa rất gần, dẫn đưa tôi từng bước. Tôi như bước vào một thế giới hồng ân đặc biệt. Tôi thấy rõ Chúa rất yêu thương tôi.
Sau giải phẫu, tôi nằm trên giường bệnh suốt tuần thánh. Mỗi sáng, một chị nữ tu đem Mình Thánh tới. Mỗi chiều, mấy người bạn Đức ghé thăm. Thân mật nắm tay tôi, cùng nhau đọc một kinh Lạy Cha, rồi để lại một bông hồng. Chỉ thế thôi, nhưng họ như chuyền vào tôi hy vọng phục sinh cần thiết.
Sáng thứ ba, sau Phục sinh, một người khách lạ tới thăm. Họ  kể một tin vui: “Trong cuộc Đức Giáo Hoàng tiếp kiến phái đoàn người Đức dịp lễ Phục sinh, tôi trình với Ngài là tại Freiburg có một giám mục Việt Nam đang trị bệnh. Nghe thế, Đức Giáo Hoàng tỏ vẻ rất thương cảm. Sau khi đi một vòng thăm hàng trăm  người xếp hàng sẵn, Đức Giáo Hoàng trở lại chỗ tôi đứng. Ngài dặn tôi rất rõ:Khi về Đức, con hãy vui lòng chuyển lời Cha chào thăm vị giám mục Việt Nam đang đau bệnh. Cha chúc ngài mau khoẻ. Cha hứa cầu nguyện cho ngài, và mong gặp ngài”.  Họ kể với nhiều cảm xúc.
Khi được Đức Giáo Hoàng ưu ái gởi lời thăm riêng, tôi như được ơn sống lại, cả về thân xác lẫn về tâm hồn.
Ngày trở về Việt Nam, tại sân bay Ý tôi gặp rắc rối. Hãng máy bay khi xem giấy tờ của tôi, đã không đồng ý cho phép tôi lên máy bay, vì máy bay sẽ ghé lại Thái Lan, mà tôi thì thiếu chiếu khán của Thái Lan. Luật thời đó buộc mọi người Việt Nam, ghé Thái Lan, dù chỉ quá cảnh, cũng phải có chiếu khán Thái. Đang lúc bế tắc, thì một người Đức từ đâu tới. Khi nghe trường hợp của tôi, họ xin có ý kiến. Họ gọi điện thoại cho Toà Đại Sứ Toà Thánh tại Bangkok, mà họ quen, xin bảo lãnh cho tôi. Thế là tôi lên máy bay bình an. Tới Bangkok, Đức Tổng giám mục Đại sứ Toà Thánh đã chờ sẵn, để trao đổi với an ninh Thái, rồi đưa tôi về Toà Đại Sứ Toà Thánh tại Thái Lan.
Lại một lần nữa, tôi cảm thấy ơn Phục sinh của Chúa đến với tôi. Tôi như được sống lại, sau một thời gian thanh luyện.
Ơn Phục sinh.
Tất cả những sự kiện kể trên đều bất ngờ. Chúng mang lại ơn, mà tôi gọi là ơn Phục sinh. Đối với tôi, chúng thực sự không chỉ là những bất ngờ đánh động con tim, giúp tôi vượt qua thử thách, nhưng còn đi sâu vào đời tôi, với những ánh sáng thiêng liêng mới mẻ. Như:
- Tăng thêm niềm tin cậy vào Chúa.
- Xếp đặt lại trật tự trong tâm hồn.
- Tìm ra thánh ý Chúa một cách cụ thể trong từng giai đoạn mà Chúa sai mình vào.
- Hăng hái dấn thân thực hiện thánh ý Chúa, cho dù gặp muôn vàn trắc trở.
Ánh sáng thiêng liêng không phải chỉ đến từ hoàn cảnh cụ thể đời mình, mà đến từ Lời Chúa thông qua thực tế, nhờ Chúa Thánh Linh.
Như vậy, sự phân định điều nên làm, điều không nên làm, trong một thực tế lịch sử, xem ra đòi mấy yếu tố sau đây:
Đón nhận ơn Phục sinh.
Trước hết phải cầu nguyện suy gẫm thực nhiều.
Trong đạo, nhất là trong chức vụ mục tử, có những điều buộc phải giữ, và có những điều chỉ là lời khuyên.
Phúc Âm kể chuyện một thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu con đường trọn lành. Chúa trả lời: “Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết mọi sự anh có, đem tiền phát cho kẻ nghèo, rồi trở lại theo Thầy” (Mc 10,21). Nghe vậy, người thanh niên đã ra đi, không theo Chúa.
Nhiều người công giáo, kể cả các mục tử, cũng thuộc loại giàu. Có thể không giàu lắm về tiền của, nhưng giàu về nhiều tham vọng thế tục và ham được hưởng những lợi lộc bất chính giấu ẩn dưới hình thức đạo đức. Chúa khuyên bỏ những thứ đó đi. Nếu ít cầu nguyện và suy gẫm, thì không thiếu người sẽ không muốn bỏ. Họ sẽ buồn bã ra đi, cách này hay cách khác. Họ không còn thực sự theo Chúa. Vì thế Chúa phán: “Các con ơi, vào được Nước Chúa thật khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10,24-25). Như thế, thực là rất khó từ bỏ các thứ của cải, để vào Nước Trời. Cái khó nhất thiết tưởng là biết dùng sự tự do Chúa ban cho mình. Nhưng với ơn Chúa, cái khó sẽ trở thành dễ (Mc 10,27).
Ngoài sự cầu nguyện và suy gẫm, tôi thấy các ơn Phục sinh Chúa ban, cũng nhiều khi đòi có sự cộng tác của một số điểm tựa đạo đức.
Điểm tựa nói đây là những cá nhân, những nhóm, những cộng đoàn. Họ là những người không những giàu đức tin, mà cũng giàu tâm tình cảm thương, tế nhị, sẵn sàng nâng đỡ.
Tôi đã thấy một cử chỉ, một thái độ, một lời nói có thể giết chết hay cứu sống một người. Tuỳ cử chỉ đó, thái độ đó, lời nói đó mang ác cảm, lạnh lùng, ác độc, hay có tình yêu, chia sẻ, xót thương.
Để kết, tôi xin phép nói lên một cảm tưởng của tôi:
Trong lãnh vực siêu nhiên, nếu chúng ta không tỉnh thức và cầu nguyện, không biết nâng đỡ nhau, thì không chừng chính chúng ta tự huỷ mình, chính chúng ta tự treo cổ mình, chính chúng ta tự giết mình. Chúng ta là bản thân ta, là anh chị em của ta, là chính nội bộ của ta.
Trái lại, nếu chúng ta tỉnh thức cầu nguyện, biết nâng đỡ nhau, thì ơn Phục sinh sẽ được ban cho chúng ta một cách dồi dào, và ta sẽ biết đón nhận ơn Phục sinh một cách khiêm nhường, bình an, mang đầy sức sống truyền giáo.
Hãy cảm tạ Chúa vì bao ơn Phục sinh Chúa đã ban cho ta.
Hãy nhớ ơn bao điểm tựa đạo đức đã cộng tác vào các ơn Phục sinh đó.

 

Bùi-Tuần 956: ĐỨC MẸ DÂNG HOA 26-04-2004

GB. BÙI TUẦN
 

Người công giáo Việt Nam thường nói “Dâng hoa Đức Mẹ”. Nói thế thực rất đúng. Nhất là: 26-04-2004 Bùi-Tuần 956

Người công giáo Việt Nam thường nói “Dâng hoa Đức Mẹ”. Nói thế thực rất đúng. Nhất là trong tháng 5.
Còn tôi, khi dâng hoa lên Đức Mẹ, tôi lại nghĩ đến cảnh chính Đức Mẹ dâng hoa lên Chúa. Tôi cho rằng nghĩ thế cũng đúng sự thực.
Cảnh Đức Mẹ dâng hoa.
Sự thực đó xảy ra khi Đức Mẹ còn trẻ, mới được ơn chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần.
Những ngày đó, biến cố Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Mẹ khiến Đức Mẹ bỡ ngỡ và cũng bối rối, lo sợ.
Với tình trạng ấy, Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Isave. Bà Isave vừa mới được ơn thụ thai thánh Gioan Tiền hô, lúc tuổi đã già.
Thoạt mới nhìn thấy Maria bước vào nhà, bà Isave lập tức được ơn Chúa Thánh Thần, vội lên tiếng chào khen: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con mà em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân mẫu Thiên Chúa đến với tôi thế này?” (Lc 1,42-43).
Khi Đức Mẹ thấy bà chị họ mình được ơn Chúa cho biết những gì rất bí mật Chúa mới làm cho mình, Đức Mẹ như thoát khỏi cảnh lo âu. Lòng Đức Mẹ bỗng đầy hân hoan, tự nhiên bột phát những lời tri ân cảm tạ. Hội Thánh gọi những lời đó là Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat) (Lc 1,46-55).
Riêng tôi, ngoài tên đó ra, xin mạn phép được gọi bài ngợi khen đó là bài Đức Mẹ dâng hoa kính Chúa.
Trước khi đi vào bài ca Ngợi khen này, tôi xin dừng lại một chút ở đây, đưa chú ý đến cái chìa khoá đã mở lòng Đức Mẹ, để Đức Mẹ tuôn đổ tâm tình ngợi khen.
Chìa khoá nói đây chính là lời chào của bà thánh Isave. Lời chào đó chứa đầy giá trị đạo đức, như khiêm nhường, mến yêu Chúa và quí trọng kẻ được Chúa thương. Lời chào chân thành đó của bà chị họ lớn tuổi đã giải toả nỗi lo lắng cô đơn của người phụ nữ trẻ.
Đức Mẹ cảm thấy có người hiểu mình, đồng cảm với mình. Đó chính là một khích lệ quí báu, khiến Đức Mẹ nói lên bài ca Ngợi khen.
Nhận xét trên đây nhắc cho tôi điều này: Một cử chỉ tế nhị nhiều khi có sức cởi trói cho một tình hình, giúp cho nhiều tâm hồn được nhẹ nhõm, khích lệ họ dấn thân trong tin tưởng và bình an.
Bây giờ, tôi xin trở lại Bài ca Ngợi khen của Đức Mẹ. Trong đó, có nhiều thứ hoa thơm đẹp. Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý đến ba thứ hoa sau đây.
Mấy hoa nên chú ý
Hoa cảm tạ.
Mẹ cảm tạ Chúa trước hết về bản thân riêng của Mẹ. Mẹ nhìn bản thân Mẹ chỉ là một nữ tỳ. Mẹ coi nữ tỳ này khác với mọi nữ tỳ khác ở chỗ kém cỏi hơn họ, hèn mọn hơn họ. Thế mà Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ ngự đỉnh chốn cao xa, lại đã thương nhìn xuống nữ tỳ đó: “Phận nữ tỳ hèn mọn, được Chúa thương nhìn đến” (Lc 1,48).
Cái nhìn thương mến của Chúa đối với Mẹ là một bất ngờ không thể tưởng tượng nổi, khiến Mẹ hớn hở, vui mừng ngợi khen. Diễm phúc ấy sẽ được muôn thế hệ nhìn vào, để hiểu phần nào chương trình  nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Hoa nhận thức.
Chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa trong việc cứu độ nhân loại sẽ rất khác với chương trình của nhân loại. Thánh ý Chúa rất khác sự đánh giá và xếp đặt của con người.
Về đường lối của Chúa, Đức Mẹ nhận thức ba hạng người sẽ bị ném xuống, và ba hạng người sẽ được nâng lên.
Ba hạng người nếu lạm dụng sẽ bị Chúa ném xuống là: Kẻ kiêu căng, kẻ quyền thế, kẻ giàu sang.
Ba hạng người nếu biết sống tốt sẽ được Chúa nâng lên là: Kẻ khiêm nhường, kẻ hèn mọn, kẻ nghèo đói.
Nhận thức đó rất dứt khoát. Mẹ nói:
“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những kẻ quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay không” (Lc 1,51-53).
Nhận xét của Đức Mẹ sẽ được Chúa Cứu thế nói lại nhiều lần nhiều cách. Lịch sử cứu độ từ thuở xưa cho đến bây giờ có đôi chút nhân nhượng và đợi chờ, nhưng sau cùng vẫn kết thúc bằng sự đảo ngược những giá trị trần thế, mà đời hay tôn vinh. Chúng phải nhường chỗ cho những giá trị thiêng liêng có sức cứu độ đích thực.
Nhận thức trên đây về chương trình cứu độ xem ra chưa đủ, nếu không có tình thương của Chúa. Vì thế, cuối bài ca Ngợi khen, Đức Mẹ đã nói đến một bông hoa nữa, đó là nhớ lại lòng thương xót của Chúa.
Hoa nhớ lại.
Đức Mẹ nói: “Vì Chúa nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Ápraham, và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55).
Nói là Chúa nhớ lại lòng thương xót của Người, là để chính chúng ta đừng quên lòng thương xót của Chúa. Vì “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
Dâng hoa do Chúa Thánh Thần chỉ dẫn
Cái nhìn vắn tắt trên đây về việc Đức Mẹ dâng hoa giúp chúng ta thấy 3 điều sau đây nơi Đức Mẹ:
Một là Đức Mẹ dâng hoa với một đức tin sâu sắc. Đức tin ấy cho phép  nhìn Chúa, nhìn mình, và nhìn đời bằng một cái nhìn đúng Phúc Âm.
Hai là Đức Mẹ dâng hoa với một cái tâm rất bén nhạy, tế nhị và rất thương cảm đối với những ai nghèo túng, khổ đau, bị loại trừ.
Ba là Đức Mẹ dâng hoa với một tâm hồn chiêm niệm và cầu nguyện, sẵn sàng thực thi ý Chúa.
Cả ba thái độ vừa kể này nói lên sự mến yêu và thao thức của Đức Mẹ đối với Chúa, với nhân loại, và với sứ mạng được trao. Mến yêu và thao thức ấy đều do Chúa Thánh Thần ban cho.
ù
Tôi nghĩ rằng các cuộc dâng hoa kính Đức Mẹ trong tháng 5 chắc sẽ đẹp. Nhưng rất mong các việc đạo đức đó sẽ được đẹp hơn nữa, nếu biết nhập vào chính việc Đức Mẹ dâng hoa kính Chúa.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta, khi được Đức Mẹ dắt dìu, sẽ biết đi vào đời mình, như một vườn hoa, để hái lấy những gì là có giá trị Phúc Âm. Mẹ cũng sẽ giúp ta đặt những hoa thiêng đó trên bàn thờ trái tim ta, để dâng kính Chúa mọi ngày. Ta dâng và Mẹ cũng dâng với ta, trong tâm tình ngợi khen, khiêm nhường, đơn sơ.
Tôi có cảm tưởng: Thời gian Chúa ban cho chúng ta, để dâng hoa như Mẹ sẽ không kéo dài mãi mãi.
Chúng ta cần coi trọng những gì Đức Mẹ nhắc nhở. Đức Mẹ nhắc nhở rất rõ những địa chỉ cần đi tới, để tìm hoa dâng Chúa, nhất là trong Năm Thánh truyền giáo này.
Các địa chỉ ấy không phải là các nơi giàu sang, quyền thế, chức tước  và cao cả, nhưng là những nơi nghèo khổ, bé mọn, hèn kém, bị loại trừ.
Hãy đem thương cảm vào những nơi đó. Thiết tưởng đấy mới là một cách hành hương mang tính cách truyền giáo.
Đức Mẹ đợi chờ ta ở đó. Đức Mẹ muốn cùng ta dâng hoa lên Chúa tại những nơi mà chính Chúa đã chọn là địa chỉ ưu tiên, để loan báo Tin Mừng (Lc 4,18-19).

 

Bùi-Tuần 957: DÂNG MÌNH 06-05-2004

 GB. BÙI TUẦN
 

Trong tháng dâng hoa kính Đức Mẹ, tôi thấy nghi lễ dâng hoa thường được tổ chức tại nhà thờ: 06-05-2004 Bùi-Tuần 957

Trong tháng dâng hoa kính Đức Mẹ, tôi thấy nghi lễ dâng hoa thường được tổ chức tại nhà thờ.
Dâng hoa là dâng bông hoa. Thường là những bông hoa đẹp, thơm và quí.
Cùng với dâng hoa là hát hoa và múa hoa. Nhiều tâm tình đạo đức được gởi vào đó. Hoa trở nên như những hoa cầu nguyện.
Riêng tôi, tôi kết hợp việc dâng hoa với việc dâng mình. Mình là bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là những vấn đề của riêng tôi.
Nơi tôi dâng mình có thể là nhà thờ, mà cũng có thể là nhà riêng. Thời gian rất tự do. Lúc nào cũng được.
Nếu việc dâng mình có kèm hoa thơm đẹp, thì sẽ là một dịp vui khích lệ. Nếu không có hoa thơm đẹp, thậm chí chẳng có hoa nào, thì việc dâng mình cũng vẫn thực hiện được.
Những gì tượng trưng cho đời tôi sẽ chẳng có giá gì về mặt kinh tế, nhưng sẽ có giá về mặt thực tế. Nghĩa là chúng nói lên thực tế bản thân tôi và cuộc đời tôi.
Với ý niệm đó, tôi thường đặt trước ảnh tượng Đức Mẹ những thứ rẻ tiền. Thí dụ:
Một khúc cây sậy.
Cây sậy là một loài cây thường mọc ở ven sông. Đặc tính của nó là mỏng manh, dễ bị giập. Khi bị gió đánh, nó nằm rạp xuống vì nó yếu đuối.
Kinh Thánh đã đôi lần nhắc đến cây sậy. Trong bài ca “Người tôi trung”, tiên tri Isaia đã ngợi khen Ngài là Đấng nhân lành: “Cây sậy bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy” (Is 42,3).
Tôi nhìn cậy sậy yếu ớt, bị gẫy, là hình ảnh chính bản thân tôi. Tôi nhiều lần bị gẫy. Nhưng Chúa vẫn thương xót tôi. Tôi dâng lên Mẹ cuộc đời tôi gẫy giập như cây sậy. Nhưng cây sậy đó là chứng tích của tình thương. Nó yếu hèn, mỏng manh, nhưng vẫn được nâng niu. Mẹ dạy tôi sự thực đó. Nên hoa mà tôi đặt trước mặt Mẹ, để Mẹ dâng lên Chúa, chỉ là thứ hoa thiêng. Nó là công trình của lòng thương xót vô biên của Cha trên trời.
Thánh sử Luca ghi lại lời Chúa Giêsu có lần nói tới cây sậy: “Anh em xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơi trước gió chăng? Hẳn là không...” (Lc 7,24). Đúng là chẳng ai đi tìm xem cây sậy. Sẽ chỉ mất công, tốn của, phí thời giờ. Nhưng, nếu đó là cây sậy làm chứng cho lòng thương xót Chúa, thì dù không ai để ý đến nó, tự nó vẫn là bài ca cảm tạ tình Chúa xót thương.
Ngoài vài khúc cây sậy, tôi vẫn thường dâng mình qua vài hạt lúa.

Vài hạt lúa.
Vài hạt lúa có là gì đâu? Muốn có mấy hạt lúa là có ngay. Dễ lắm. Nhưng, tôi quí mấy hạt lúa, vì một ý nghĩa của nó trong Kinh Thánh. Chúa Giêsu phán: “Thật, Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái” (Ga 12,24).
Tôi nhìn hạt lúa với lời Chúa nhắc nhở trên đây. Chúa nói lời đó cho các môn đệ. Chúa nói lời đó với tôi.
Đời tôi phải là hạt lúa sẽ phải chết đi. Cái chết của những môn đệ Chúa không phải là cái chết do tắt thở, khi hồn lìa xác. Nhưng là cái chết mỗi ngày do thực hiện lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không thể làm môn đệ Thầy” (Lc 19,27).
Thập giá đời mình là những phấn đấu, để sống theo thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa vễ mỗi người môn đệ Chúa sẽ không thể kể hết. Có những thánh giá coi như  nhỏ, nhưng đặt trên vai mới thấy nặng.
Trong một lối sống, mà tiền  bạc, địa vị, danh vọng, nhàn hạ đang trở thành những giá trị người ta phấn đấu, để cạnh tranh hưởng thụ, thì người môn đệ Chúa sẽ như hạt lúa có sứ mạng phải chết đi một cách thiêng liêng. Để được thế, họ hết sức cậy nhờ ơn Chúa, mới có hy vọng chu toàn ơn gọi đời mình. Nhất là khi bản thân mình càng ngày càng bước sâu vào tuổi già và bệnh tât, mệt mỏi, đau đớn triền miên. Những lúc đó, tôi có thể dâng mình qua những lễ vật tượng trưng khác như:

Cọng rơm khô héo.
“Cọng rơm khô héo”, đó là lời ông Gióp xưa đã thưa với Chúa về số phận ông. Ông nói: “Có phải điều Chúa muốn là làm run rẩy chiếc lá rụng gió thổi bay, hay theo đuổi một cọng rơm khô héo” (G 17,25).
Lời than trên đây rất buồn, nhưng vẫn là một lời cầu nguyện chân thành phát xuất tự đáy lòng tan nát đớn đau.
Sau này, thánh vương Đavít cũng sẽ có những lời cầu xin thảm thiết như vậy. Chẳng hạn:
“Rên siết đã nhiều, nên con mệt mỏi.
Trên giường ngủ những thổn thức năm canh, từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối” (Tv 6,7).
“Lạy Chúa, xin đoái thương vì con đang kiệt sức.
Xin chữa lành con, vì gân cốt rã rời” (Tv 6,3).
Nhưng tiếp theo những nguyện cầu than vãn là hy vọng cứu thoát. “Chúa đã nghe tiếng tôi cầu khẩn. Chúa đã nhậm lời tôi cầu xin” (Tv 6,10).
Cùng với thánh vương Đavít, tôi quả quyết hy vọng của tôi là ở nơi Chúa.
Dù tôi là cây sậy,
Dù tôi là hạt lúa,
Dù tôi là cọng rơm,
Tôi luôn tin tưởng. Vì cậy sậy ấy, hạt lúa ấy, cọng rơm ấy đã được Chúa đoái nhìn.
Chính Mẹ cầu bầu cho tôi. Tôi thường cầu với Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” (kinh Kính Mừng).
“Hỡi ơi, Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con” (kinh Lạy Nữ Vương).
“Xin chớ chê, chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan...” (kinh Trông Cậy) vv...
Được Mẹ cầu bầu và được Chúa thương yêu là hạnh phúc của tôi.
Hạnh phúc này cho tôi được một trực giác mới, để tôi nhận ra những ai là cây sậy, là hạt lúa, là cọng rơm như tôi giữa cuộc đời phồn hoa.
Cùng với trực giác mới đó, hạnh phúc được Mẹ cầu bầu và được Chúa thương yêu lại cho tôi một cảm thương  mới, để trong xã hội hưởng thụ, tôi biết hoà mình vào lớp người đông đảo đang là cây sậy, hạt lúa và cọng rơm luôn vất vả bới tìm hy vọng.
Việc dâng mình của tôi đơn sơ là thế. Nói để chia sẻ, chứ tôi không dám khuyên ai bắt chước làm theo. Trái lại, tôi vẫn mong ai cũng là hoa. Dâng hoa thiên nhiên và dâng hoa đời mình là việc đạo đức rất đẹp và rất đáng mong đợi.

 

Bùi-Tuần 958: ĐỨC MẸ ĐI THĂM VIẾNG 17-05-2004

GB. BÙI TUẦN
 

Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà: 17-05-2004 Bùi-Tuần 958

Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Isave.
Hằng năm, đến lễ này, tôi thường làm ba việc sau đây:
1- Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà thân mẫu của Gioan Baotixita. Nhờ cuộc viếng thăm này, Gioan Baotixita được thánh hoá, sau này trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế.
2- Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà mẹ già Isave. Nhờ đò Mẹ làm gương cho muôn đời: về sự người trẻ, dù chức cao quyền trọng, nên biết cộng tác với người già, trong chương trình cứu độ.
3- Nguyện cầu Mẹ vẫn tiếp tục đi thăm các con cái Mẹ,  nhất là thăm những đứa con nghèo túng, bệnh tật, lầm lạc, thiếu mọi phương tiện để hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra..
Tôi xin phép triển khai đôi chút ba việc kể trên.
Thánh hoá Gioan Baotixita.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria, và chào bà Isave. Bà Isave vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave như nhảy lên và bà được tràn đầy Thánh Thần. Bà liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng chị nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,39-45).
Rõ ràng, bà Isave đã được Chúa soi sáng cho biết người em họ còn rất trẻ của mình mới nhận một vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa. Chúa soi sáng cho bà qua một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là bào thai bà đang mang bỗng nhảy mừng, khi Đức Mẹ vừa cất tiếng chào.
Tôi thấy các dấu chỉ trên đây đều xảy ra một cách rất âm thầm. Sự hiểu được ý nghĩa các dấu chỉ này cũng rất âm thầm. Tất cả diễn ra trong bầu khí thanh vắng của nội tâm. Nếu nội tâm không có sự thanh vắng, chắc chắn những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ không thể được nội tâm đón nhận.
Xin cảm tạ Chúa đã cho Đức Mẹ và bà thánh Isave một thanh vắng êm đềm trong nội tâm sâu thẳm và nhạy bén.
Xin cảm tạ Chúa vẫn ban cho thời này những nội tâm như thế theo gương Đức Mẹ và bà thánh Isave.
Những việc thánh hoá như thánh hoá Gioan Baotixita vẫn được Chúa làm trong thời nay, cũng vẫn một cách âm thầm lặng lẽ như xưa.
Thế nhưng, thời nay, tại nhiều nơi, việc thánh hoá, thánh hiến, đang có vẻ đóng khung vào những cơ chế mang nặng hình thức, như lễ nghi rườm rà, y phục nhất định, kinh sách dài dòng, hát xướng huyên náo. Thêm vào đó là những tổ chức đón tiếp, trình diễn, mừng chúc, tiệc tùng, tặng quà, trong bầu khí náo động nhộn nhịp, ồn ào. Những khung cảnh như vậy có thể tốt với nhiều điều kiện. Nhưng xem ra đang có chiều hướng phát triển theo tinh thần thế tục. Nếu cứ vậy, thì sẽ không còn sự thanh vắng nội tâm cần thiết. Thay vào đó sẽ là một “sự thánh hoá, thánh hiến” ồn ào, hội nhập vào sự ồn ào của một thế giới hướng ngoại rất xa lạ với sự thánh hoá thực chất của Phúc Âm.
Cộng tác giữa trẻ với già.
Kinh Thánh tả việc Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một cuộc “lên đường vội vã” (Lc 1,39). Người vội vã lên đường chính là một người phụ nữ rất trẻ, mới mang thai Chúa Cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần.
Với niềm tin như thế, Đức Mẹ có thể tự hào, tự đắc, tự tin. Nhưng không. Đức Mẹ đã vội vã lên đường. Hướng đi là tìm đến người chị họ Isave. Bà Isave là người đàn bà mà chính thiên sứ Gabriel gọi là “đã già rồi” (Lc 1,36), nhưng mới được thụ thai con trai nhờ ơn Chúa thương ban.
Khi nhìn những bước đi thầm lặng, vất vả, vội vã của người phụ nữ trẻ Maria, Mẹ Đấng Cứu thế, tôi rất xúc động. Mẹ băng qua bao nhiêu dặm đường, để lên vùng núi, tìm thăm người chị họ đã già. Những bước đi vội vã đó đáng trân trọng hơn muôn vàn quà tặng.
Nhưng khi thấy trong giây phút vừa gặp nhau, người chị họ già lại là người chúc khen người em họ còn trẻ, tôi bàng hoàng bỡ ngỡ. Thánh Isave đã mở lòng Maria, để từ đó trào ra những lời tạ ơn Chúa.
Hình ảnh cuộc gặp gỡ thân thiết giữa một bà mẹ trẻ và một bà mẹ già là một gợi ý. Đối với tôi, đó là một gợi ý về sự cộng tác giữa trẻ và già. Hai bên cùng tự do cộng tác, không do áp lực nào. Nhưng cả hai cùng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Hai bên nói đây không phải chỉ hiểu về hai cá nhân. Nhưng cũng được hiểu về cả một thế hệ đi sau và thế hệ đi trước.
Sự cộng tác này hiện nay trở nên cần thiết, khi nhiều tổ chức xem ra đang có nguy cơ phá sản về kỷ cương, và các giá trị đạo đức truyền thống.
Mẹ tiếp tục đi thăm.
Để cứu nguy, nhiều nơi đang phát động việc hành hương đến những nơi Đức Mẹ hiện ra. Người ta vẫn tin những nơi đó linh thiêng. Vì những nơi đó được Đức Mẹ viếng thăm. Tôi rất hoan nghênh những cuộc hành hương đó.
Nhưng, khi suy gẫm về biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, tôi vẫn nghĩ rằng: Đức Mẹ có tấm lòng muốn chia sẻ Tin Mừng, muốn hướng về những người khác, muốn lên đường, ra đi cứu độ. Vì thế, tôi thường cầu xin Đức Mẹ thương đến thăm tôi, khi tôi không thể đi hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra. Tôi cũng xin điều đó cho  mọi người, không phân biệt họ là ai.
Tôi rất xác tín sự Đức Mẹ có lòng thương xót đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị trói buộc vào những hoàn cảnh éo le không sao gỡ được. Tôi xin Mẹ đoái thương đến thăm họ.
Hiện nay, nhiều người không công giáo và công giáo, hoặc công giáo bê bối, vẫn thích mang giữ ảnh tượng Mẹ trong nhà và trong mình. Hiện tượng đó cho phép tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ đang tìm cách đến thăm từng gia đình và từng người. Thăm một cách lặng lẽ, nhưng thân mật. Từ đó, nhiều người nhận thức dần dần về một thế giới thiêng liêng. Đồng thời họ khát mong gặp được một Đấng thiêng liêng, để đời mình khỏi mất hướng.
Tôi hy vọng những con cái Mẹ cảm nhận được điều đó, để biết bước theo Mẹ và thay Mẹ đến thăm cứu giúp những người đang chìm dần xuống cảnh khổ nguy.
Để kết, tôi xin phép kể một câu chuyện nhỏ:
Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ. Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng thực hiện từng chi tiết mẹ day. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.
Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó”. Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.

 

Bùi-Tuần 959: BÌNH AN VÀ VUI MỪNG TRONG CHÚA THÁNH THẦN

 22-05-2004
 GB. BÙI TUẦN
 

Từ nhỏ, tôi vẫn ước mong một cuộc sống an vui. Ước mong đó đã được đáp ứng một phần nhỏ: 22-05-2004 Bùi-Tuần 959

Từ nhỏ, tôi vẫn ước mong một cuộc sống an vui. Ước mong đó đã được đáp ứng một phần nhỏ. Bởi vì nhiều lúc, tôi đã nếm được những khoảnh khắc dạt dào an bình và vui sướng. Nhưng, khi những an bình và vui sướng ấy qua đi, tôi mới thấy rõ những cái an, những cái vui đó vẫn đan chen, pha trộn với những cái phù phiếm, cô đơn và bất hạnh. Chính bản thân những an vui đó cũng tầm thường và dễ tan vỡ.
Kinh nghiệm cay đắng như thế thúc đẩy tôi đi tìm một sự an vui khác. Tôi đã tìm được. Ít là phần nào. Và phần nào đó càng ngày càng hiện lên thành một sự thực cứu độ bao bọc tâm khảm tôi.
Sự bình an và sự vui mừng vừa nói đã đến với tôi từ Chúa Thánh Thần. Hay nói đúng hơn, sự bình an và vui mừng này chính là Chúa Thánh Thần. Người đến với tôi. Người ngự trong tôi. Nhờ Người mà tôi được tái sinh. Sự tái sinh này được coi là cần thiết. Chúa Giêsu quả quyết với ông Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,5).
Nhờ sự tái sinh này, tôi có một cái nhìn mới về bản thân mình và về nhân loại. Dưới đây, tôi xin phép chỉ kể ra vài cái nhìn mới đã góp phần đem lại cho tôi sự bình an và vui mừng.
Nhận biết mình được Chúa yêu thương.
Khi Chúa Thánh Thần đến trong tôi, Người đổi mới tâm hồn tôi. Một trong những đổi mới đáng kể là cho tôi một niềm tin mới về tình Chúa xót thương tôi. Không những Người cho tôi niềm tin, mà còn cho tôi một số hiểu biết và một số cảm nghiệm về tình xót thương Chúa dành cho tôi.
Người ban cho tôi tin và hiểu một cách cụ thể những lời Kinh Thánh nói xưa, nhưng nay thực sự là nói với riêng tôi. Như những lời sau đây: “Tình yêu Chúa cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa. Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10).
Thánh Phaolô còn nói mạnh hơn “Bẩm sinh chúng ta là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta. Nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,3-4).
Khi Chúa Thánh Thần đưa những lời Kinh Thánh trên đây vào tâm hồn tôi, tôi cảm thấy những lời đó là một Tin Mừng rất bất ngờ cho tôi.
Tôi bất ngờ nhìn thấy bẩm sinh tôi là rất yếu đuối.
Tôi bất ngờ nhận ra con người yếu đuối của tôi chứa nhiều xung đột kinh hoàng giữa các dục vọng. Tự sức mình, tôi đã không kiểm soát nổi chính mình. Tôi lúc lên lúc xuống. Vừa được chi phối bởi lý tưởng, vừa bị lừa dối bởi ảo tưởng. Có lúc hứng khởi vươn lên, có lúc an phận với tình trạng tầm thường. Tất cả những thăng trầm đó có lúc làm tôi bất an.
Tôi là thế. Nhưng Chúa vẫn thương tôi. Chúa thương tôi, dù tôi bất xứng. Niềm tin vào tình xót thương bao la của Chúa đã cho tôi sự bình an và vui mừng khôn tả.
Sự vui mừng và bình an này không cho phép tôi ỷ lại và lợi dụng. Trái lại càng giúp tôi phấn đấu.
Nhận biết mình được ơn Chúa giúp trong mọi phấn đấu theo ý Chúa.
Về điểm này, Chúa Thánh Thần nhắc cho tôi lời thánh Phaolô khuyên: “Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do, để sống theo xác thịt. Nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Nhưng nếu anh em cấu xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy” (Gl 8,13-15).
Ngoài sự phấn đấu để thực hiện bác ái, thánh Phaolô còn mở rộng sự phấn đấu sang một mặt trận rộng hơn. Đó là đam mê xác thịt.
Ngài viết: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí. Và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của xác thịt nữa. Vì xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với xác thịt. Đôi bên kình địch  nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 8,16-18).
Phấn đấu chống thói quen chiều theo đam mê xác thịt là điều chắc chắn phải thực hiện. Nhưng còn phải làm hơn thế nữa, để Chúa Thánh Thần ban cho tôi sự bình an và vui mừng. Đó là phấn đấu làm cho mình có những giá trị cao hơn. Như hiểu biết Chúa Giêsu nhiều hơn. Ở lại trong lời Chúa Giêsu và tình yêu Chúa Giêsu lâu hơn và thân mật hơn. Rao giảng về Đức Kitô rộng khắp hơn. Giới thiệu dung mạo Đức Kitô qua đời sống tu trì của mình một cách tích cực hơn. Nhất là làm hết sức mình để chu toàn bổn phận được trao, đặc biệt là bổn phận yêu thương theo giới răn  mới của Chúa Giêsu (Ga 14,34).
Kinh nghiệm cho tôi thấy những phấn đấu như vậy đã đem lại cho tôi sự bình an và vui mừng khó tả. Do đó, tôi xác tín rằng: Một đời sống phấn đấu âm thầm, cho Nước Chúa ngự trị mỗi ngày mỗi sâu hơn, dù chỉ trong chính bản thân ta, cũng là một niềm vui lớn. Đây sẽ là một ơn quí trọng hơn bất cứ mọi an vui nào trong phạm vi thế tục. Tất nhiên, đó là kết quả của ơn Chúa Thánh Thần. Nhất là khi tất cả mọi phấn đấu ấy được thực hiện trong tinh thần thơ ấu thiêng liêng.
Nhận biết mình luôn phải trở về tinh thần thơ ấu.
Chúa Giêsu đã quả quyết: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 16,17).
Áp dụng Lời Chúa dạy trên đây vào đời sống chính mình,tôi thấy cần một tinh thần đơn sơ khiêm tốn, đồng thời với sự phó thác tuyệt đối.
Hiện giờ, một trong những thực hiện tinh thần trẻ thơ nơi tôi là chấp nhận những giới hạn trong mọi phương diện. Những giới hạn tới dần dần, và càng ngày càng tới rất gần. Tôi càng ngày càng trở thành người yếu đuối. Tôi xin chấp nhận và phó thác. Nhiều việc trước đây tự làm được, bây giờ phải nhờ người khác. Nhiều thời gian trước đây tự mình sống một mình được, bây giờ phải sống nương tựa vào sự đỡ nâng của cộng đoàn và của bất cứ ai.
Yếu đuối và phó thác trong khiêm nhường đơn sơ. Có thể sẽ đến giai đoạn hoàn toàn sống như trong đêm tối của thời trẻ thơ khởi sự sống, nhưng chưa ra đời. Lúc đó, phải thực bé nhỏ, phải thực âm thầm. Âm thầm và bé nhỏ, nhưng vẫn cố gắng phục vụ những gì là bé nhỏ lặng lẽ nhất, tuỳ khả năng của mình.
Tôi nghĩ tinh thần thơ ấu thiêng liêng đơn sơ là như thế. Nhưng sống được như vậy, phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
Nói tóm lại, sự bình an và vui mừng trong Chúa Thánh Thần là kết quả của sự sống theo thánh ý Chúa, tín thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót.
Sống theo thánh ý Chúa không luôn dễ dàng. Có những thánh giá. Có những tối tăm. Có những đau đớn. Nhưng, với Chúa Thánh Thần, linh hồn vẫn sống bình an và vui mừng, vì luôn luôn và tuyệt đối tin vào tình Chúa xót thương. Đó là một sự bình an và vui mừng sâu lắng. Cho dù giữa những đợt sóng thử thách, để thanh luyện chính sự bình an và vui mừng đó.
Điều sau cùng thiết tưởng nên nhắc tới ở đây là cần phân định thứ bình an và vui mừng nào mới thực sự của Chúa Thánh Thần. Bởi vì thực tế cho thấy có nhiều bình an và vui mừng giả hiệu, không thực sự của Chúa Thánh Thần và do Chúa Thánh Thần.
Tôi xin thưa vắn tắt: Để phân định đúng, chúng ta cần:
1- Cầu nguyện nhiều một cách khiêm nhường với ý hướng ngay lành.
2- Học hỏi các môn có liên quan, như Kinh Thánh, Giáo phụ học, Thần học, Triết học, Tu đức học, Tâm lý học.
3- Bàn hỏi trao đổi với những cha linh hướng và các người có kinh nghiệm.
Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho nhau, để mỗi người chúng ta, nhất là các môn đệ Chúa, bất cứ ở địa vị nào, biết mang lại cho mọi người gần xa sự bình an và vui mừng thực sự và phong phú trong Chúa Thánh Thần.
Việc truyền giáo tại Việt Nam chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn, nếu mỗi nhà truyền giáo biết nhạy bén và tích cực hơn trên mảnh đất Quê Hương này đang thực sự khát khao và đón chờ Tin Mừng: Bình an và Vui mừng trong Chúa Thánh Thần.

 

Bùi-Tuần 960: ĐÓN NHẬN 14-06-2004

GB. BÙI TUẦN
 

Tháng 7 năm 1954, tại Việt Nam ta, đã bùng nổ một biến cố lớn. Biến cố lịch sử đó là cuộc di: 14-06-2004 Bùi-Tuần 960

Tháng 7 năm 1954, tại Việt Nam ta, đã bùng nổ một biến cố lớn. Biến cố lịch sử đó là cuộc di dân từ Bắc vào Nam. Số người vào Nam hồi ấy rất đông.
Tháng 7 năm 2004  là kỷ niệm 50 năm. Dịp này, tôi nhớ về sự đón nhận của miền Nam đối với chúng tôi. Tôi sẽ nhìn thực tế qua Lời Chúa.
Đón nhận thân thương.
Tôi nhớ sự đón nhận của miền Nam nói chung và Giáo Hội miền Nam nói riêng đối với chúng tôi là rất thân thương.
Sự đón nhận này có thể gọi được là một việc bác ái phi thường. Một cách nào đó, Chúa đã ghi nhận để trả ơn. Như lời Đức Kitô đã hứa: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé mọn này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,41-42).
Theo Lời Chúa trên đây, thì đón nhận không phải chỉ là đón nhận đơn thuần, mà còn là nhìn nhận đúng giá trị người mình đón nhận. Người ngôn sứ thì được đón như người ngôn sứ. Người công chính thì được tiếp như người công chính. Đến như những người rất hèn mọn, chỉ mang đôi chút thiện chí người môn đệ Chúa, cũng được đón nhận tử tế.
Tất cả mọi việc đón nhận như thế đều được Chúa thưởng bằng nhiều cách khác nhau.
Tôi đã thấy điều đó phần nào. Người Bắc công giáo vào Nam nhận được ở người Nam nhiều giá trị tinh thần và vật chất. Người Nam có dịp tiếp cận với một sức sống đức tin nhiều lo âu và phấn đấu của người công giáo Bắc. Giáo Hội miền Nam được thêm phong phú, vì có thêm nhiều người tham gia và phục vụ. Sự tham gia và phục vụ đã rất đa dạng. Nhờ đó, Tin Mừng được mở rộng trong hầu hết các lãnh vực xã hội, nhờ những người công giáo Nam Bắc cởi mở dấn thân.
Đón nhận chia sẻ.
Sở dĩ sự đón nhận thân thương đã đem lại nhiều hiệu quả tốt, một phần cũng vì sự đón nhận đó mang tinh thần chia sẻ.
Có nhiều thứ chia sẻ đáng khen ngợi. Nhưng có một thứ chia sẻ thiết tưởng đáng ca ngợi hơn hết, đó là chia sẻ gánh nặng của nhau.
Thánh Phaolô viết: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6.2). Nói về gánh nặng cho nhau, tôi có kinh nghiệm này: Nhiều khi tôi có thể thành gánh nặng cho những người khác, vì bệnh tật của tôi, vì tính tình của tôi, vì cách suy nghĩ của tôi, vì cách sống của tôi.
Từ kinh nghiệm bản thân như trên, tôi nghĩ rằng: Người từ nơi khác tới lập cư ở một địa phương rất có thể là gánh nặng cho những người bản xứ. Do những khác biệt của cá nhân cho đến khác biệt của các tập thể. Nhất là khi các tập thể lại là một số rất đông, rất đa dạng.
Ngay cách sống đạo, Bắc Nam cũng có đôi chút khác biệt. Đạo “Đàng Trong” và đạo “Đàng Ngoài”. Chẳng hạn Đàng Ngoài thích thể hiện ra bề ngoài. Đàng Trong ưa âm thầm bên trong.
Chỉ đôi chút khác biệt đó cũng có thể làm cho người di cư  trở thành gánh nặng cho người bản xứ. Tôi nói “có thể” thôi, chứ trên thực tế, bầu khí cộng đoàn vẫn tràn đầy tinh thần bao dung và bổ túc giữa các khác biệt.
Trong sự đón nhận mang tính cách chia sẻ, tôi thấy cảnh đẹp nhất là cùng nhau cầu nguyện. Chúa Giêsu phán: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Trước đó, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh và rõ: “Thầy bảo thật anh em: Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (Mt 18,19).
Khi đem những Lời Chúa hứa trên đây áp dụng vào thực tế, tôi cảm thấy được nhiều an ủi. Đi khắp giáo phận Long Xuyên này, bao giờ tôi cũng gặp những buổi cầu nguyện và hội họp gồm nhiều người. Những người này thuộc những gốc gác khác nhau. Nhiều gốc từ Bắc. Nhiều gốc từ Nam. Nhiều gốc từ Trung. Tất cả cùng bên nhau cầu nguyện và hoạt động cho một đức tin duy nhất. Những trường hợp như thế cho thấy những sự khác biệt có thể trở thành một cơ may cho Giáo Hội.  Từ đó, mọi người đều được chia sẻ trách nhiệm.
Đón nhận trách nhiệm.
Trách nhiệm nói đây không ám chỉ về tổ chức và cơ cấu. Trong đó, người ta thường để ý đến quyền chức, và thường đánh giá theo tiêu chuẩn hiệu năng. Thí dụ trong một cộng đoàn này nọ, việc phân phối trách nhiệm như địa vị, chức tước phải để ý đến yếu tố Nam Bắc. Nghĩ như vậy có thể đúng phần nào về mặt xã hội.
Nhưng ở đây, tôi muốn nói tới một thứ trách nhiệm khác. Đó là trách nhiệm thương yêu nhau, thông cảm nhau, nâng đỡ nhau. Bởi vì chính ở trách nhiệm đó, chúng ta dù từ gốc nào, sẽ làm chứng được một cách hữu hiệu chúng ta là môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô đã quả quyết: “Ở điểm này, mà mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con có lòng thương yêu nhau” (Ga 13,35).
Thương yêu nhau, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta “Thầy ban cho các con một điều răn mới là: Hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Trong suốt 50 năm được sống ở miền Nam nước Việt, tôi thấy trách nhiệm yêu thương nhau đã tiến rất nhiều, rất rộng, rất sâu. Hầu như mọi người tin Chúa trên Quê Hương Việt Nam này, đều làm chứng đức tin của mình bằng đời sống yêu thương chân thành, phục vụ khiêm tốn, đối xử tế nhị.
Hôm nay, suy nghĩ về biến cố di cư, tôi hiểu thánh ý Chúa rõ hơn về lịch sử cứu độ. Tôi cảm  tạ Chúa, và hy vọng vào Chúa.
Xin hết lòng cảm ơn mọi đón nhận đạo đức.
Người đón nhận và người được đón nhận cùng đồng hành về phía trước. Cùng nhau cộng tác với ơn Chúa xây dựng một Hội Thánh địa phương với những nét:
Nội tâm nhiều hơn.
Bác ái nhiều hơn.
Đơn sơ nhiều hơn.
Hy vọng mọi thiện chí sẽ được Thiên Chúa đón nhận vào Nước tình thương của Người.

 

Bùi-Tuần 961: Ðồng Hành Ngày 29-6-2004

(Bài giảng thánh lễ mừng 70 năm Linh mục của Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ
Ngày 29-6-2004 tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên.)

 

Ngày 29.6.2004, Giáo Hội toàn cầu mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Trong tâm tình hiệp Bùi-Tuần 961

Ngày 29.6.2004, Giáo Hội toàn cầu mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Trong tâm tình hiệp thông, hôm nay, nhiều nơi thuộc
Ngày 29.6.2004, Giáo Hội toàn cầu mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.

Trong tâm tình hiệp thông, hôm nay, nhiều nơi thuộc giáo phận Long Xuyên về tại nhà thờ Chánh Toà, để mừng lễ.

Trong lễ này, giáo phận Long Xuyên còn tạ ơn Chúa về 3 sự kiện riêng, có liên hệ chung đến toàn giáo phận:

 
  • Một là phong chức cho 13 tân linh mục.
  • Hai là kỷ niệm 5 năm thụ phong Giám mục của Đức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu.
  • Ba là mừng 70 năm linh mục của Đức Cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Để góp phần vào biến cố lớn này, tôi xin mạo muội nêu lên một hình ảnh chung về cuộc đời linh mục. Cuộc đời Linh mục được nhìn qua nhiều hình ảnh. Riêng tôi, tôi chọn một hình ảnh vừa hợp với kinh nghiệm của tôi, nhất là vừa hợp với Phúc Âm. Hình ảnh đó là đồng hành. Cuộc đời linh mục phải đồng hành với cuộc sống đoàn chiên. Và chính cuộc đời linh mục lại rất cần được Chúa Giêsu đồng hành. Đó là hai ý chính mà tôi sẽ khai triển vắn gọn dưới đây.

1- Trước hết, cuộc đời linh mục phải đồng hành với cuộc sống đoàn chiên.

Đồng hành ở đây tìm được ý nghĩa phong phú từ lời Chúa Giêsu phán: “Thầy chính là mục tử nhân lành. Thầy biết chiên của Thầy, và chiên của Thầy biết Thầy” (Ga 10,14).

Theo gương Chúa Giêsu, linh mục được sai đi làm mục tử, cũng cần phải có sự hiểu biết nhau giữa chủ chiên và đoàn chiên. Không phải sự hiểu biết khô khan, nhưng là sự hiểu biết chứa đầy yêu thương, cảm thông và chia sẻ. Hiểu biết đó là đồng hành. Đồng hành trong sự hiểu biết và yêu thương sẽ làm nên một cộng đoàn Dân Chúa. Trong cộng đoàn này, mỗi người giữ một địa vị. Tất cả đều liên đới với nhau, đều có trách nhiệm đối với nhau.

Riêng trách nhiệm của linh mục là rất quan trọng. Nhiệm vụ quan trọng đó là đổi mới cộng đoàn và từng con chiên. Đổi mới ở đây có nghĩa là một sự tái sinh, mà Chúa Giêsu đã nói nhiều lần trong Phúc Âm. Đổi mới hoặc tái sinh đoàn chiên đều do ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng vai trò của linh mục không phải nhỏ. Nhờ đó dần dần mỗi người nói riêng và cộng đoàn nói chung đều được Chúa ngự trị.

Sự đổi mới này không dễ chút nào. Vì thế nó trở thành một thao thức hàng đầu của linh mục trong suốt đời mình. Đến nỗi, người mục tử tốt lành có thể sẵn sàng chịu mọi khổ đau cho sự đổi mới cần thiết, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Thầy hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 15).

2- Một linh mục tha thiết với sự đổi mới đoàn chiên sẽ rất tha thiết với sự đổi mới chính mình. Một cách để đổi mới chính mình là được Chúa đồng hành với mình, Chúa Giêsu đồng hành với Linh mục một cách đặc biệt. Người hứa: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Kinh nghiệm cho tôi thấy: Nhiều khi cuộc đời linh mục rơi vào một hoàn cảnh bề ngoài coi như không có hy vọng gì cho Nước Trời. Nhưng Chúa Giêsu đồng hành với linh mục lại nói với ngài tương tự như xưa về Nước Trời: “Đây là thửa ruộng có chôn giấu kho báu” (Mt 13,44). Linh mục vâng nghe và kiên trì ở lại hoàn cảnh đó. Sau này ngài đã thấy đúng như Chúa báo trước.

Cũng có khi, cuộc đời linh mục gặp giông bão. Khiến ngài lo sợ sẽ phải chết chìm. Nhưng Chúa Giêsu đồng hành đã “đe gió và biển, biển liền lặng như tờ” (Mt 8,26).

Sự Chúa Giêsu đồng hành với linh mục một cách đặc biệt là một chân lý quí giá, khiến ta phải cảm tạ Chúa hết lòng.

Nhưng kèm theo sự thực đó là một đòi hỏi. Đó là linh mục cần biết tỉnh thức lắng nghe Chúa, biết đáp lại ơn Chúa soi sáng, biết gắn bó mật thiết với Đấng đồng hành với mình. Như lời Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho thật, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Đặc biệt biết đồng hành là nâng cao chất lượng tu hành. Như lời Chúa đòi hỏi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Thầy” (Mt 16,24).

Với vài gợi ý vắn tắt trên đây, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa vì Chúa đã đồng hành với các vị chủ chăn của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng cảm ơn các ngài đã đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Ngoài ra, chúng ta sốt sắng cầu xin Chúa cho mọi linh mục nói chung và cho các tân chức nói riêng được ơn đồng hành. Luôn biết đồng hành với dân, nhất là dân nghèo. Luôn biết đón nhận sự đồng hành của Chúa. Không phải chỉ hôm nay, mà suốt cuộc đời linh mục của mình.

Riêng Đức Cha Cố Micae, tôi vẫn nhìn Ngài như là cây thu lôi, không phải chỉ riêng cho Toà Giám Mục Long Xuyên, mà còn cho cả giáo phận. Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta luôn được Chúa che chở nhờ cây thu lôi thiêng liêng này. Dù ở nơi đâu, xin Đức Cha Cố vẫn mãi là cây thu lôi của đoàn con đang được đồng hành với Chúa, đồng thời cũng đang bị đồng hành với muôn vàn thử thách, với vô vàn yếu đuối, nhưng cũng luôn đồng hành với muôn vàn hy vọng

.+ Giám mục GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 962: ĐƯỜNG LÊN THIÊN ĐÀNG 15-08-2004

VietCatholic News (24-07-2004 )
 

Trong tháng 8 có lễ trọng mừng kính Đức Mẹ lên trời. Lên trời là lên thiên đàng. Đây là một dịp thuận 15-08-2004 Bùi-Tuần 962

Trong tháng 8 có lễ trọng mừng kính Đức Mẹ lên trời. Lên trời là lên thiên đàng.

Đây là một dịp thuận lợi, Chúa nhắc nhở chúng ta về con đường lên thiên đàng.

Muốn tới đâu, thì phải đi đúng con đường dẫn tới đó. Phương chi muốn tới thiên đàng, ta phải rất ý tứ đi theo đúng đường dẫn về thiên đàng. Lạc đường sẽ mang lại cho ta hậu quả vô cùng tai hại.

Vậy, con đường lên thiên đàng là con đường nào? Thưa, ta có thể tìm trong Phúc Âm và các sách giáo lý.

Ở đây, tôi chỉ xin tóm lược. Tóm lược này rút ra từ thư thánh Gioan tông đồ.

Sở dĩ tôi chọn thư thánh Gioan tông đồ làm tài liệu, vì: Một đàng tôi chắc chắn: Đây là những gì cần thiết do chính Đức Mẹ Maria đã dạy cho thánh Gioan, và thánh Gioan đã được thấy Đức Mẹ sống như vậy trong những năm mẹ con sống bên nhau, trước khi Mẹ lên trời. Một đàng tôi thấy đây là một con đường được vạch ra rất rõ, rất dễ hiểu và rất dễ nhớ.

Con đường này có ba đặc điểm sau đây:

1- Cố gắng xa lìa tội lỗi.

Thánh Gioan hết tình khuyên nhủ con cái mình đừng phạm tội. Ngài viết: “Hỡi các con là những người con bé nhỏ của Cha, Cha viết cho chúng con điều này, là chúng con đừng phạm tội nữa” (1 Ga 2,1).

Ngài còn nói mạnh: “Ai phạm tội, thì là người của ma quỉ, vì ma quỉ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỉ” (1 Ga 3,8).

Tuy nhiên, thánh Gioan rất ý thức về sự yếu đuối của chúng ta, nên Ngài khuyên dạy chúng ta cách khỏi tội. Ngài viết: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,1). Nghĩa là chúng ta cần sám hối và xin ơn tha tội nhờ Đức Kitô.

Lời khuyên trên đây và những lời dạy khác của thánh Gioan về tội rất đáng chúng ta lưu tâm. Bởi vì, hiện nay, lương tâm con người đang bị ru ngủ bởi phong trào tự do, chủ quan và hưởng thụ. Những phong trào này đang lừa dối các lương tâm. Chúng xúi rằng: Cứ sống theo những gì mình thích. Không cần đặt vấn đề tội hay không tội. Mình cho mình là không có tội, thì đó là chân lý, bất chấp Lời Chúa và các tiêu chuẩn Phúc Âm.

Tất nhiên, ta không nên ám ảnh về tội. Hãy sống thanh thản trong tự do của con cái Chúa. Nhưng không vì thế mà coi thường tội lỗi. Khi các lương tâm mất đi ý thức về tội, tình hình đạo đời tất sẽ ra xấu một cách nghiêm trọng.

Hậu quả đáng sợ nhất là sẽ lạc đường lên thiên đàng.

Sau yếu tố xa lìa tội lỗi, con đường lên thiên đàng do thánh Gioan vạch ra đã nhấn mạnh đến đặc điểm thứ hai, đó là giới răn yêu thương.

2- Yêu thương nhau.

Đối với thánh Gioan, giới luật yêu thương là rất quan trọng. Ngài đưa ra bốn diễn tả, để chứng minh sự quan trọng đó.

a) Yêu thương nhau là đi trong ánh sáng. “Nếu ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối. Họ không biết mình đi đâu, bóng tối làm cho mắt họ ra mù quáng” (1 Ga 2,9-10). Trái lại, “ai thương yêu anh em, thì ở trong ánh sáng” (1 Ga 2,9).

b) Yêu thương nhau là dấu có sự sống thiêng liêng. Ngài viết: “Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau” (1 Ga 3,14).

c) Yêu thương nhau là dấu chỉ của người con Chúa. Ngài quả quyết: “Chúng con hãy xem, Chúa Cha yêu chúng ta dường nào. Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). “Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ: Phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa. Ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy” (1 Ga 3,10).

d) Yêu thương nhau thì biết được Thiên Chúa. Ngài xác định: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).

Những lời khuyên dạy trên đây của thánh Gioan cho thấy con đường lên thiên đàng không thể thiếu vắng tình yêu thương nhau.

Thiết tưởng đây là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Bởi vì, tình hình xã hội hiện nay cho thấy liên đới giữa người với người đang có rất nhiều gai góc. Người ta lỗi bác ái không phải chỉ trong tư tưởng, lời nói, việc làm, mà nhất là vì thiếu sót. Trong ngày phán xét chung, Chúa kết án người ta hầu hết vì những thiếu sót trong yêu thương bác ái (x. Matthêu 25,31-46). Chính những thiếu sót đó đã không mở ra được lối vào thiên đàng.

Còn một đặc điểm nữa của con đường lên thiên đàng, mà thánh Gioan đã nhấn mạnh, đó là: Tin tưởng vào Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần.

3- Tin vào Đức Kitô.

Về đặc điểm này, thánh Gioan có những lời dứt khoát rõ ràng: “Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống đời đời. Và sự sống ấy ở trong Con của Ngài. Ai có Chúa Con, thì có sự sống. Ai không có Con Thiên Chúa, thì không có sự sống” (1 Ga 5,11-12).

Hơn nữa, “Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống”, như chính Chúa Giêsu đã quả quyết (Ga 14,6). Như vậy con đường lên thiên đàng làm sao lại thiếu được niềm tin vào Chúa Giêsu.

Tin vào Đức Kitô là bước theo Đức Kitô, Đấng luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, dù phải chết trên thánh giá để làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Cha và tình thương đối với nhân loại. Đặc điểm đó cũng đang là một vấn đề tu đức cần đặt ra lúc này. Bởi vì lúc này, việc bước theo Đức Kitô trên đường từ bỏ mình, để nên giống Người, xem ra không được để ý lắm.

Càng ngày người ta càng bị điều khiển bởi cái tôi không lành mạnh của mình, chứ không còn bởi Chúa Thánh Thần của Đức Kitô. Như thế, con đường lên thiên đàng sẽ thưa vắng. Trái lại, con đường xuống hoả ngục sẽ đông đảo không thể ngờ. Đức Kitô đã báo trước sự kiện đó: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).

Được lên thiên đàng không phải là chuyện dễ. Phúc thiên đàng không thể sắm bằng một giá rẻ mạt. Đức Mẹ đã được lên thiên đàng bằng một con đường đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều phấn đấu, nhiều ơn Chúa trợ giúp. Chúa ban phúc đặc biệt cho Đức Mẹ. Nhưng Đức Mẹ đã cộng tác với biết bao đau đớn và khiêm nhường vâng phục.

Chúng ta không có quyền nghĩ rằng: Mình sẽ lên thiên đàng bằng một con đường dễ hơn theo ý riêng mình muốn. Tất nhiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Nhưng ta phải biết đón nhận lòng thương xót Chúa một cách khiêm nhường.

Đừng dại dột sống buông thả. Bởi vì chúng ta chỉ chết có một lần. Có những việc chỉ một lần làm hư, là sẽ phải gánh hậu quả khốn khổ vô cùng vô tận, không bao giờ còn dịp sửa lại nữa.

Xin Đức Mẹ thương cầu bầu cho ta biết đi đúng con đường lên thiên đàng.

+ Giám mục GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 963: BÌNH AN 22-8-2004

VietCatholic News (21-08-2004 )
BÌNH AN
(Bài giảng thánh lễ kính Đức Mẹ, Nữ Vương Hoà Bình,tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 22-8-2004)
 

Nhà thờ chánh toà Long Xuyên nhận Đức Mẹ làm Bổn Mạng. Đức Mẹ có nhiều tước hiệu. Nhà 22-8-2004 Bùi-Tuần 963

Nhà thờ chánh toà Long Xuyên nhận Đức Mẹ làm Bổn Mạng. Đức Mẹ có nhiều tước hiệu. Nhà thờ Long Xuyên kính Đức Mẹ mang tước hiệu Nữ Vương Hoà Bình.
Hoà Bình là một khát vọng thiết tha, nhưng lại là một thực tế mong manh.
Mong Manh.
Phúc Âm kể rằng: “Đang khi Đức Giêsu ra khỏi Đền thờ Giêrusalem, thì một môn đệ nói với Người: Thưa Thầy, Thầy xem: Đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!. Đức Giêsu đáp: con nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả sẽ bị phá đổ” (Mc 13,1-2).
Khi Chúa Giêsu phán những lời trên, tình hình còn rất ổn định, trong bình an, thịnh vượng. Nhưng chẳng lâu sau, lời Chúa đã ứng nghiệm. Không những đền thờ bị phá, mà dân của đền thờ cũng bị tan tác.
Sự kiện đó cho thấy: Hoà bình cũng như mọi sự gọi là hạnh phúc trên đời đều mong manh.
Suốt cuộc đời tôi như một hành trình dài, tôi đã thấy và đã cảm nghiệm sâu sắc tính cách mong manh, mà Chúa chỉ vào chính đền thờ Giêrusalem để nhắc nhở những người tin theo Chúa.
Bất ngờ.
Không những Chúa nhắc nhở về tính cách mong manh của hạnh phúc đời này, mà còn chỉ rõ tính cách bất ngờ của sự mất đi. Như dụ ngôn Chúa nói về nhà phú hộ. Đang khi ông ta đinh ninh chắc chắn những gì mình có sẽ bảo đảm hạnh phúc lâu dài cho ông, thì Chúa bảo ông: “Đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ông. Những gì ông thu tích sẽ về tay ai?” (Lc 12,20).
Mong manh và bất ngờ: Hai tính cách đó về cảnh đời Chúa đề cập đến không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta đừng lo cho cuộc sống đời này. Dứt khoát là không. Điều Chúa muốn dạy ta là hãy quan tâm nhiều hơn đến việc làm giàu trước mặt Thiên Chúa (x. Lc 12,21), để có bình an thực sự và vững bền.
Thế nào là làm giàu trước mặt Thiên Chúa để có bình an thực sự và vững bền?
Bình an thực và vững bền.
Thiết tưởng đơn sơ chỉ thế này: Có chính Đức Kitô ở trong ta. Người ở trong ta cùng với thánh giá cứu độ của Người. Như thánh Phaolô quả quyết: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá” (Gl 2,19). “Tôi cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ cõi chết” (Pl 3,10-11).
Những dấu chỉ.
Tại Việt Nam nói chung và tại địa phương này nói riêng, những người làm giàu trước mặt Chúa như vừa tả trên đây có đông không?
Tôi không biết con số chính xác. Nhưng tôi dám chắc con số đó không phải là ít. Tôi nhận ra họ ở mấy dấu chỉ này:
1- Họ thao thức đón nhận Đức Kitô. Qua việc tham dự thánh lễ, rước lễ, viếng Mình Thánh Chúa và cầu nguyện Lời Chúa.
2- Họ được Đức Kitô ban cho họ một trái tim nhạy bén, dễ xót thương những người đau khổ, những người còn xa Chúa và những người bỏ Chúa.
3- Họ được tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu chia sẻ cho họ tinh thần hy sinh phục vụ, để họ trở nên khí cụ bình an của Chúa, trong gia đình, xóm ngõ, nghề nghiệp của họ.
Tất cả ba dấu chỉ trên đây của họ thường được Chúa bảo vệ, trong nếp sống khiêm tốn, âm thầm.
Ba giá trị quý giá đó trong nếp sống khiêm nhường đòi nhiều cố gắng, và phấn đấu. Những cố gắng và phấn đấu đó ví như thánh giá. Thánh giá đó đến từ tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Thánh giá đó sẽ đưa ta tới vinh quang được chia sẻ từ vinh quang Chúa Giêsu.
Đức Mẹ đã trở nên Nữ Vương Hoà Bình qua con đường thánh giá đó. Vì thế, Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình của chúng ta cầm thánh giá trong tay.
Phó thác.
Khi nhìn Đức Mẹ, Nữ Vương Hoà Bình cầm thánh giá, và khi hiểu hoà bình là một ơn Chúa ban cho những ai đón nhận Đức Kitô và thánh giá của Người, chúng ta mới thấy một bí quyết sau cùng, để được bình an. Bí quyết đó là sống đơn sơ bé nhỏ, như trẻ thơ trong tay Mẹ. Tất cả đều được phó thác trong tình Mẹ bao la. Tất cả đều gói trọn trong niềm cậy tin của đứa con yếu đuối luôn sát bên trái tim Mẹ hiền.
Đời ta đã, đang và sẽ trải qua kinh nghiệm này: Xây dựng bình an là việc khó, nhưng bình an thường rất mong manh. Bình an dễ đổ vỡ bất ngờ. Nhưng ai đặt hy vọng vào Chúa, vào Đức Mẹ, sẽ được ơn bình an thực sự và vững bền.
 + GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 964: Phục vụ 07-10-2004

Phục vụ là một từ đã trở thành thông dụng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Nó được dùng nhiều 07-10-2004 Bùi-Tuần 964

Phục vụ là một từ đã trở thành thông dụng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Nó được dùng nhiều trong các phát biểu. Nó được viết to trên các bích chương. Nó được ghi đậm trên các bảng trước của tiệm. Nó được trân trọng đưa vào các tiêu chuẩn khen ngợi tung hô.
Trong đời tôi, nhất là trong thời gian tại chức Giám mục giáo phận, tôi đã phục vụ, đã được phục vụ, đã bị phục vụ. Vì thế tôi có đôi chút kinh nghiệm về phục vụ.
Chút kinh nghiệm này rút ra từ lý thuyết về trách nhiệm phục vụ trong mục vụ và thực tế thực hành trách nhiệm phục vụ trong mục vụ.
Lý thuyết về trách nhiệm phục vụ.
Sắc lệnh nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong Giáo Hội là một lý thuyết dài của Công đồng Vatican II.
Lý thuyết nhấn mạnh đến nhiệm vụ giáo huấn, thánh hoá và cai quản (Chương 2, số 11).
Từ những nhiệm vụ đó sẽ thấy những nhu cầu như:
•        - Phải qui tụ trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc Âm và Thánh Thể.
•        - Phải là chứng nhân của Chúa trước mặt mọi người, chẳng những săn sóc những kẻ đã theo vị Thủ Lãnh các chủ chăn, mà lại hết lòng hy sinh cho những người bất cứ lúc nào đã đi lạc đường chân lý, hay không biết Phúc Âm và lòng cứu chuộc của Chúa Kitô.
•        - Phải Loan báo cho mọi người biết Phúc Âm Chúa Kitô.
•        - Phải dựa theo giáo thuyết Giáo Hội, mà dạy cho tín hữu biết sống đời cho tốt như tôn trọng nhân vị, đời sống thể xác, gia đình, cộng đồng nhân sự, các vấn đề xã hội.
•        - Phải trình bày giáo thuyết Kitô giáo một cách thích hợp với những nhu cầu của thời đại.
•        Còn nhiều thứ “phải” nữa.
Lý thuyết về phục vụ dành cho tôi phải nói là rất hay. Các bài học lý thuyết vẫn hoạt động trong lý trí. Một lý trí nghiên cứu có thể rất hài lòng.
Ngoài các bài học đó, tôi học được nhiệm vụ tôi một cách cụ thể ở cuộc sống đàn chiên của tôi, ở địa phương của tôi, ở từng giai đoạn lịch sử của đất nước, mà tôi cùng với dân tộc tôi phải phấn đấu mỗi ngày.
Các bài học cụ thể đó được tiếp thu bằng trái tim, và làm rung động tấm lòng liên đới. Từ đó, tôi hiểu mục vụ của người môn đệ Chúa Giêsu là trước hết phải gần gũi với cuộc sống đồng bào. Phần đông họ còn nghèo và sống chật vật. Phải thương họ. Phải chia sẻ phần nào nỗi đau của họ. Họ là những trái tim đợi chờ.
Tự nhiên, trong thao thức đó, tôi thấy nhiệm vụ quan trọng của người mục tử là phải có cái tâm, giàu tình yêu thương và phải biết hy sinh. Lời sau đây của Chúa Giêsu đủ nói lên điều đó:
“Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28).
“Hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người”: Lời này xoáy vào hồn tôi mỗi ngày mỗi sâu.
Thực hành trách nhiệm phục vụ.
Khi thực hành trách nhiệm phục vụ trong mục vụ, tôi có một kinh nghiệm chung vắn gọn thế này:
Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, vào đúng lúc, với đúng cách.
Xin phép đưa ra vài thí dụ: Khi con chiên tôi đói rách, bệnh tật, nghèo khổ, thì phục vụ của tôi là ráng giúp cho cuộc sống đó bớt đi dần dần mức cam khổ. Ít ra bằng cách chia sẻ phần nào nỗi thương đau của họ. Ngày phán xét, Chúa cũng sẽ tra vấn tôi về cách phục vụ cụ thể như thế. “Ta đói, các con đã cho Ta ăn” vv... (x. Mt 25,31-46).
Khi giáo dân tôi khát khao được gặp Chúa, thì phục vụ của tôi là giúp họ mở lòng ra đón chính Chúa trong phép Thánh Thể, đón Lời Chúa trong Phúc Âm, đón thánh ý Chúa trong việc cầu nguyện và tỉnh thức để phân định các sự xảy ra hằng ngày. Bởi vì “Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, vào đúng lúc, và còn phải đúng cách. Đúng cách cũng là yếu tố phải quan tâm.
Tiện đây, xin phép kể lại một kinh nghiệm rất riêng tư. Kinh nghiệm này đã dạy tôi rất nhiều về cách phục vụ.
Sáng hôm đó, sau khi đồng tế với Đức Thánh Cha tại nhà nguyện riêng của Ngài, tôi được mời dùng bữa sáng với Ngài.
Ngài dẫn tôi vào phòng ăn của Ngài. Tôi ngạc nhiên, khi thấy Ngài nhìn qua bàn ăn, tới ghế giữa dành cho Ngài, Ngài không dừng lại, nhưng Ngài đến đầu bàn có mấy chiếc ghế để sẵn. Chính Ngài cầm một chiếc ghế, đưa về phía bên kia bàn ăn, rồi để ở chỗ đối diện với Ngài. Ngài mời tôi ngồi vào đó. Tôi ngạc nhiên hết sức trước cách phục vụ của Đức Thánh Cha.
Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa, khi gần cuối bữa, Đức Thánh Cha thân mật nói mấy lời cảm ơn tôi, vì tôi đã nhận lời mời đến dùng bữa và chia sẻ với Ngài.
Cách phục vụ của Đức Thánh Cha đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi. Đó là bài học về cách phục vụ khiêm tốn, yêu thương và tế nhị. Bài học đó quý hơn mọi lý thuyết về cách phục vụ.
Thực thành trách nhiệm phục vụ trong mục vụ đã đem lại cho tôi nhiều vui mừng, nhưng cũng nhiều cay đắng.
Tôi xác tín: Để phục vụ tốt, tôi rất cần nhiều ơn Chúa.
Dù vui mừng hay sầu khổ, dù khoẻ mạnh hay yếu liệt, tôi vẫn xin Chúa giúp tôi và mọi giám mục, linh mục luôn biết ẩn mình trong Chúa Giêsu, và cùng với Người mà nói: “Tôi sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27b). Phục vụ bằng hoạt động, và nhất là bằng những hy sinh, cầu nguyện âm thầm và tích cực đồng cảm với mọi thứ người nghèo túng, khổ đau.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 965: Niềm Tin Thánh Thể 01-11-2004

VietCatholic News (01-11-2004 )
Bài giảng khai mạc Năm Thánh Thể tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên
(17-10-2004)
 

Thư chung năm 2004 của Hội đồng Giám mục Việt Nam mang tựa đề: “Giáo Hội sống mầu nhiệm 01-11-2004 Bùi-Tuần 965

Thư chung năm 2004 của Hội đồng Giám mục Việt Nam mang tựa đề:
“Giáo Hội sống mầu nhiệm Thánh Thể”.
Đây là một nhắc nhở rất cần cho người công giáo Việt Nam lúc này.
Có nhiều lý do cắt nghĩa mức độ “rất cần ”. Ở đây tôi chỉ xin đưa ra một lý do đơn giản, rút ra từ Công đồng Tridentinô về mầu nhiệm Thánh Thể. Lý do đó cũng đang là thời sự của tình hình đạo Công giáo Việt Nam hôm nay. Theo tôi hiểu, thì lý do căn bản là để giữ vững đức tin, tăng thêm lòng mến đối với Chúa và mở rộng bác ái đối với mọi người.
Cách đây hơn 4 thế kỷ, Công đồng Tridentinô, sau một tháng bàn luận, đã đưa ra một nghị quyết quan trọng về phép Thánh Thể. Nghị quyết này đã được Đức Tổng Giám mục Sassati thay mặt Công đồng công bố trong thánh lễ long trọng ngày 11 tháng 10 năm 1551.
Nghị quyết có câu: “Công đồng tuyên bố rằng: Trong bí tích của bàn thờ, sau lời truyền phép trên bánh và rượu, Đức Giêsu Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người, liền hiện diện thực sự dưới hai hình bánh rượu”.
Công bố trên đây nhắm vào phép Thánh Thể. Nhưng đồng thời cũng nói tới thánh lễ và người mang thánh chức được quyền đọc lời truyền phép. Vì thế
Thánh Thể, < br> Thánh lễ, < br> Thánh chức,
trên thực tế đều đi theo nhau. Lòng mộ mến đối với một yếu tố thường kéo theo lòng mến mộ đối với hai yếu tố kia. Cũng vậy, khủng hoảng về một yếu tố cũng thường lôi hai yếu tố kia vào khủng hoảng.
Từ ít năm nay, nhiều giáo đoàn trên thế giới rơi vào khủng hoảng về Thánh Thể, về Thánh lễ và về Thánh chức. Đang khi đó, trong Giáo Hội Việt Nam, nhìn chung, tình hình lại khác. Cả ba yếu tố đều đang phát triển.
Vì thế, trong Năm Thánh Thể này, tôi mong muốn mọi người công giáo Việt Nam chúng ta nhìn vào từng yếu tố trên đây với lòng cảm tạ.
1- Thánh Thể tại Việt Nam đang được tôn sùng rộng khắp. Xin dâng Chúa lời cảm tạ.
Thực vậy, chưa bao giờ lòng tôn sùng Thánh Thể lại được thực hiện rộng rãi và dưới nhiều hình thức bằng hiện nay. Nếu tôi không lầm, thì không cộng đoàn nào lại không coi trọng việc chầu Mình Thánh, hoặc chung, hoặc riêng, trong bất cứ giờ nào thuận tiện. Nhờ vậy, nhiều người đi vào đời sống nội tâm sâu hơn.
Cảm động nhất là thấy mọi người công giáo Việt Nam, trong giờ lâm tử, đều khao khát rước Mình Thánh vào lòng mình như “của ăn đàng”.

2- Thánh lễ tại Việt Nam đang được mộ mến khắp nơi. Xin dâng Chúa lời cảm tạ.
Thực vậy, khắp nơi đều nảy sinh việc tu sửa nhà thờ, xây dựng nhà thờ, để thánh lễ được cử hành một cách xứng hợp. Thánh lễ Chúa nhật là một qui tụ hân hoan. Thánh lễ ngày thường là một thu hút những người có điều kiện. Nhờ vậy, thánh lễ bàn thờ dễ biến mỗi người trở thành thánh lễ sống động giữa cuộc đời.
Tiếng chuông nhà thờ báo hiệu thánh lễ mỗi ngày mỗi tăng, và mỗi ngày vẫn trở thành tiếng gọi linh thiêng.

3- Thánh chức tại Việt Nam đang được nâng đỡ bởi mọi tầng lớp dân Chúa. Xin dâng Chúa lời cảm tạ.
Thực vậy, tôi có cảm tưởng là người mang thánh chức linh mục hiện nay tại Việt Nam đang được coi là một hồng ân, không cho cá nhân họ, nhưng cho cộng đoàn dân Chúa. Dù trẻ hay già, trình độ cao hay thấp, khoẻ mạnh hay yếu đau, các ngài vẫn được nâng đỡ, vì các ngài là người của Hội Thánh, được sai đi để phục vụ Tin Mừng. Nhờ vậy, cộng đoàn trở thành gia đình ấm áp tình Chúa tình người.
Như vậy, tại Giáo Hội Việt Nam hôm nay
Thánh Thể, Thánh lễ, Thánh chức, < br>đều là 3 yếu tố đang phát triển. Cảm tạ Chúa về sự phát triển 3 yếu tố đó là điều không phải lợi cho Chúa, nhưng lợi cho chính chúng ta.
Tuy nhiên, để lợi cho chính chúng ta, đồng thời cũng để làm vinh danh Chúa hơn trong Năm Thánh Thể này, tôi xin chúng ta đừng quên lưu ý nhiều đến những nguy cơ đang rình làm suy yếu sự phát triển ba yếu tố trên.
Tôi thấy những nguy cơ đó là có thực. Thánh Thể có thể bị chi phối bởi thực dụng. Thánh lễ có thể bị lợi dụng. Thánh chức có thể bị lạm dụng. Từ “có thể” bị xúc phạm đến “thực sự” bị xúc phạm là con đường rất vắn, trong một thế giới đã đánh mất ý thức về sự thánh thiêng.
Với vài tư tưởng trên đây, tôi tha thiết xin mọi người chúng ta hãy đặt tin tưởng vào Đức Mẹ Maria, để cùng với Đức Mẹ chúng ta biết cảm tạ Chúa và biết tỉnh thức đón nhận nhiều ơn Chúa trong Năm Thánh Thể này.
ĐGM Gioan Baotixita Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 966: CẢNH ĐỜI NÀY VÀ CẢNH ĐỜI SAU

VietCatholic News (01-11-2004 )
 

Trong Phụng vụ, tháng 11 quen được gọi là tháng cầu cho những người đã qua đời. Khi nghĩ về những 02-11-2004 ùi-Tuần 966

Trong Phụng vụ, tháng 11 quen được gọi là tháng cầu cho những người đã qua đời.
Khi nghĩ về những người đã qua đời, tự nhiên tôi nghĩ tới chính tôi. Tới lúc nào đó, tôi cũng sẽ từ giã đời này, để sang đời sau.
Cảnh đời sau rất khác cảnh đời này. Thiết tưởng chúng ta cần biết sự khác biệt đó. Sự hiểu biết này, tuy vắn gọn, cũng sẽ là chân lý quan trọng. Quan trọng cho những người ta chăm sóc, nhưng nhất là quan trọng cho chính bản thân ta.
Chúng ta hãy tìm hiểu chân lý này trong Phúc Âm. Phúc Âm có nhiều chỗ nhắc tới chân lý này.
Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra Phúc Âm thánh Mátthêu và thánh Luca. Trong hai Phúc Âm này, tôi chỉ chọn mấy dụ ngôn, Chúa Giêsu đề cập đến cảnh đời này và cảnh đời sau.

1- Cảnh đời này không phân biệt rõ cái tốt cái xấu.
a) Dụ ngôn thứ nhất là dụ ngôn về khu đất gieo trồng (x. Mt 13,18-23).
Khu đất này có chỗ cỏ mọc kín,
có chỗ đầy sỏi đá,
có chỗ um tùm gai góc,
có chỗ bằng phẳng, mịn màng.
Người gieo giống gieo vãi hạt giống trên khắp khu đất ấy. Nhưng, khi phát triển, các chỗ khác nhau của khu đất phát triển khác nhau. Không đồng đều. Rất lộn xộn. Cảnh đó không đẹp. Nhưng người chủ đất cứ để vậy. Sau mới tính.
b) Dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn ruộng lúa có cỏ lùng (x. Mt 13,24-30).
Chủ nhà gieo toàn lúa tốt trong ruộng. Nhưng ban đêm, kẻ xấu lẻn vào rắc các loại cỏ xấu. Lúa cũng mọc lên. Các loại cỏ xấu cũng mọc lên. Hơn nữa, các loại cỏ này cũng được thừa hưởng phân bón nước non dành cho lúa.
Thế là lúa tốt sống chung với cỏ xấu. Cả hai cùng tươi tốt. Cảnh đó không hay. Nhưng người chủ cứ để vậy. Sau mới tính.
c) Dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
Chủ sai người đi chài cá. Chài bằng lưới. Lưới này bắt được nhiều thứ cá. Có cá tốt. Có cá không tốt. Cá tốt sống chung với cá xấu, thậm chí cá tốt cũng sống chung với rắn, ốc, đỉa. Cảnh đó lộn xộn. Nhưng chủ bảo người chài cứ để vậy mà chài. Sau mới tính.
d) Dụ ngôn thứ bốn là dụ ngôn ông phú hộ và người hành khất Ladarô (x. Lc 16,19-31).
Ông phú hộ sống quá sung sướng. Người hành khất sống quá nghèo khổ. Hai người không xa nhau về địa lý, nhưng rất xa nhau về bậc thang xã hội. Có thể nhiều người tưởng ông phú hộ được Chúa thương đặc biệt. Biết đâu chính ông cũng nghĩ thế.
Cảnh phân hoá đó thực ra rất khó coi. Nhưng rồi cũng quen. Chẳng mấy ai đặt vấn đề. Chúa cứ để vậy. Sau mới tính.
Qua 4 dụ ngôn trên đây, chúng ta thấy cảnh đời này là rất đa dạng. Dạng tốt có. Dạng xấu có. Chúng xen lẫn vào nhau. Nhiều khi khó phân biệt. Thậm chí, nhiều cái tốt bị đánh giá là xấu. Và ngược lại.
Nhưng sự xáo trộn sẽ không kéo dài mãi mãi. Đời sau sẽ phân biệt rõ ràng công minh.

2- Cảnh đời sau sẽ có sự phân biệt rõ ràng công minh.
Trong dụ ngôn khu đất gieo trồng, đời sau Chúa sẽ phân biệt rõ cho mọi người thấy: Chỗ nào là đất tốt, chỗ nào là đất xấu. Chúa còn phân biệt đến từng chi tiết. Có chỗ một hạt sinh thêm được 100, có chỗ một hạt sinh thêm được 60, có chỗ một hạt sinh thêm được 30 (x. Mt 13,23).
Trong dụ ngôn cỏ lùng, đời sau Chúa phân biệt với giọng tuyên án: Cỏ lùng bị gom lại, bó thành bó và đem đốt đi. Còn lúa thì thu lại, đem vào lẫm (x. Mt 13,30).
Trong dụ ngôn chiếc lưới, đời sau Chúa phân biệt rất kỹ: Cá tốt thì giữ lại, cá xấu thì bỏ đi (x. Mt 13,48-50).
Trong dụ ngôn người phú hộ và người hành khất, đời sau Chúa cho thấy một sự phân biệt rất bất ngờ: Người phú hộ phải ném xuống biển lửa. Còn người hành khất lại được hạnh phúc bên các tổ phụ dân Chúa trên cõi trường sinh (x. Lc 16,23).
Một cái nhìn sơ qua về những gì Chúa dạy trong 4 dụ ngôn trên cho tôi thấy:
1. Tôi phải khiêm nhường chấp nhận thực tế của cảnh đời này, mà Chúa muốn để vậy. Cảnh đời này ở trong Giáo Hội ta, trong địa phương ta, trong gia đình ta, trong chính bản thân ta. Thực tế đó luôn pha trộn ánh sáng và bóng tối, cái tốt và cái xấu. Khiêm nhường chấp nhận thực tế đó không có nghĩa là cứ để vậy, tới đâu thì tới, nhưng là luôn kiên trì phấn đấu làm tròn bổn phận Chúa trao giữa những thăng trầm và xáo trộn. Đời này là nơi thử thách, là chiến trường giữa thiện và ác.
2. Tôi nên khiêm nhường đặt niềm tin vào sự phán đoán sau cùng của Chúa về thực tế của cảnh đời hôm nay. Tốt hay xấu thực sự thì chỉ Chúa có quyền phân biệt rõ. Biết đâu có những người, mà thế gian coi thường như người hành khất Ladarô, bà goá nghèo (x. Mc 12,41-44), lại được Chúa khen thưởng, vì họ tốt. Còn người mà thế gian trọng vọng lại có thể bị Chúa loại bỏ, vì họ ham hưởng thụ, thiếu tình liên đới.
3. Tôi phải khiêm nhường biết trước sự phân định của Chúa ở đời sau là dứt khoát. Không có sơ thẩm, phúc thẩm. Không có thay đổi. Vì thế, tôi phải hết sức tỉnh thức và khiêm nhường, sống thực hành Lời Chúa ở đời này. Chứ lúc ra trước toà Chúa, tôi muốn chữa mình, sẽ quá muộn.
4. Tôi phải khiêm nhường biết trước là sự phân định của Chúa ở đời sau sẽ có nhiều bất ngờ. Có người bé nhỏ âm thầm chỉ là chút muối, sẽ được Chúa thưởng, vì góp phần đổi mới lòng người. Có người lớn lao như cây vả um tùm, nhưng sẽ bị loại, vì không sinh trái (x. Mt 21,18-22), hoặc nhận được nhiều nén bạc nhưng không sinh lời (x. Mt 25,14-30).
Xin Chúa nhân lành thương dẫn đưa chúng ta đến những sự thực cứu rỗi, và gắn bó với Đấng Cứu độ.
Đấng Cứu độ là chính Chúa Giêsu. “Người là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6).
ĐGM Gioan Baotixita Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 967: HÔM NAY, ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ SINH RA CHO ANH EM

25-12-2004
VietCatholic News (19-12-2004 )
Bài giảng thánh lễ Đêm Giáng Sinh năm 2004 tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên.
 

Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. I. Theo tôi, chúng ta mừng lễ Chúa Giáng sinh, không 25-12-2004 Bùi-Tuần 967

Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh.
I. Theo tôi, chúng ta mừng lễ Chúa Giáng sinh, không có nghĩa là chúng ta nhớ lại hoặc kỷ niệm một Noel đã xảy ra hơn 2000 năm trước đây. Mà là chúng ta đón nhận Chúa Giáng sinh đang đến với chúng ta hôm nay. Người thực sự đang đến với bản thân mỗi người chúng ta, đang đến với gia đình chúng ta, đang đến với Quê Hương chúng ta, đang đến với thế giới chúng ta, đang đến với Hội Thánh chúng ta. Người đang đến hôm nay. Người đang đến lúc này.
Tình hình hôm nay nói chung có nhiều điều tốt, nhưng cũng có nhiều điều đáng ngại. Đáng ngại nhất là về mặt bình an và về mặt đạo đức.
Chính trong một tình hình như thế mà Chúa đến với chúng ta.
Người đến vì mục đích gì? Thưa mục đích đó đã được khẳng định trong kinh Tin Kính: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã trừ trời xuống thế". Nghĩa là Chúa Giáng sinh xuống trần là vì mục đích cứu độ chúng ta. Đó là mục đích chúng ta rất mong chờ.
Mục đích của Chúa Giáng sinh là như thế. Còn hành trình ta đón nhận Người sẽ phải thế nào?
II. Theo tôi, hành trình của chúng ta cũng phải tương tự như hành trình các mục đồng ở Belem xưa. Các mục đồng ở Belem xưa có một hành trình đơn sơ gồm 4 điểm:
1- Họ lắng nghe thiên thần từ trời báo: "Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
2- Nghe vậy, các mục đồng liền vui mừng ra đi. Kinh Thánh nói: "Họ hối hả ra đi" (Lc 2,16).
3- Đến hang đá, họ ngạc nhiên thấy một Hài nhi nằm trong máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn. Tuy vậy, họ tin Hài nhi đó là Đấng Cứu thế. Kinh Thánh kể: "Họ vừa ra về, vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa" (Lc 2,20).
4- Họ cảm được sự bình an sâu lắng, mà các thiên thần hát khen trước đó: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14).
Trên đây là hành trình sơ lược của các mục đồng Belem xưa. Hành trình này cũng đang diễn lại tương tự nơi những ai muốn đón nhận Chúa Giáng sinh hôm nay.
Trong đời tôi, tôi đã gặp vô số trường hợp như vậy.
Trước hết, Chúa báo tin mừng cho họ qua một vài sự việc rất nhỏ. Như một gặp gỡ tốt, một trang sách đạo, một bài giảng gây chú ý, một tấm ảnh Chúa, một vài soi sáng nội tâm vv...
Được gợi ý, họ khát khao đi tìm Chúa. Có nhiều cách tìm, như: Cầu nguyện tự phát, làm quen với người sống đức tin, đi vào nhà thờ, gặp gỡ những người có vài nét như Đức Mẹ và thánh Giuse. Rồi, dần dần, họ được ơn đức tin.
Sau cùng, tâm hồn họ được bình an như một dấu chỉ họ đã có Chúa Cứu thế đến trong lòng họ.
Tất cả mọi chi tiết như thế đều diễn ra một cách âm thầm, không ồn ào, không tốn kém.
III. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi: Chính tôi đã thường được đón Chúa Cứu thế vào lòng tôi và đời tôi, cũng qua những chi tiết tương tự. Điều quan trọng là phải có thiện tâm, thiện chí.
Ơn cứu độ là một ơn rất trọng, Chúa sẵn sàng ban cho mọi người. Nhưng Chúa không áp đặt, không ép buộc ai phải nhận. Ai muốn nhận, thì phải biết lắng nghe tiếng Chúa kêu mời, phải chịu khó lên đường, phải khiêm tốn nhận ra Chúa Cứu thế, cho dù Người đến dưới hình thức nghèo hèn, ẩn dật. Sau cùng phải biết gìn giữ sự bình an Người ban cho.
Anh chị em thân mến,
Lễ Noel trước năm 1955, tôi đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều lo âu. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Lễ Noel trước năm 1975, tôi cũng đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều bất ổn. Tôi cũng đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Hôm nay, lễ Noel trước năm 2005, tôi có một cảm tưởng tốt hơn, nhưng cũng không vắng những lo âu về nhiều mặt. Nhất là lo âu cho sự bình an và đời sống đạo đức xã hội, gia đình, Hội Thánh và các cộng đoàn.
Nhưng trong tình hình lo âu, tôi vẫn nghe tiếng thiên thần báo tin "Hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
Tôi mong anh chị em cũng lắng nghe được lời báo đó, biết tìm đến Chúa Cứu thế, biết tin vào Chúa, và biết đón nhận ơn bình an Chúa chia sẻ cho những người thiện tâm, thiện chí.
Với vài tâm tình đơn sơ trên đây, cùng với Đức Cha Già Micae và Đức Cha Giuse, Đức Giám Mục giáo phận, tôi xin thân ái chúc anh chị em một lễ Giáng sinh và một mùa Giáng sinh tốt đẹp nhất.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 968: BẤT NGỜ ẬP TỚI 26-12-2004

 GM Bùi Tuần
 

Ngay sau lễ Noel 2004, sóng thần đã xuất hiện. Đây là biến cố hiếm thấy đã gây thảm hoạ kinh Bùi-Tuần 968

Ngay sau lễ Noel 2004, sóng thần đã xuất hiện. Đây là biến cố hiếm thấy đã gây thảm hoạ kinh hoàng sâu rộng. Nó tàn phá dữ tợn nhiều nơi. Nó ngang nhiên cất đi từng vạn mạng sống. Nhiều nước vì nó mà ngập tràn nước mắt.
Trong Phúc Âm
Không biết cảnh tang thương đó có được thực sự báo trước trong Phúc Âm hay không. Nhưng các Phúc Âm đã ghi lại lời Chúa Giêsu báo trước cảnh tương tự như thế bằng những lời đáng sợ. Như trong Phúc Âm thánh Matthêu, Chúa Giêsu phán: "Người ta không hay biết gì, đến khi nạn hồng thuỷ ập tới, cuốn đi hết thảy" (Mt 24,39).
Chúa Giêsu phán những lời trên đây, để nhắc lại nạn đại hồng thủy xưa đời ông Noe, và được áp dụng về những cảnh rùng rợn sẽ xảy ra trước ngày tận thế.
Trong lịch sử
Tôi nghĩ chưa tới tận thế đâu. Nhưng trong dòng lịch sử, vẫn có những biến cố bất ngờ ập tới như hồng thủy và như sóng thần gây nên những đột biến hãi hùng.
Đã có như thế trong lịch sử thế giới.
Đã có như thế trong lịch sử Giáo Hội toàn cầu và nhiều Giáo Hội địa phương.
Đã có như thế trong lịch sử nhiều cộng đoàn và nhiều gia đình.
Đã có như thế trong đời một người, một sự nghiệp.
Riêng trong lãnh vực Công giáo, chúng ta không thể không xót xa, khi nhắc tới những thứ sóng thần đã gây nên nhiều mất mát.
Còn đâu những giáo đoàn sốt sắng thời thánh Phaolô.
Còn đâu những giáo phận sầm uất ở châu Phi thời thánh Augustinô.
Còn đâu niềm vui lớn lao, khi Hội Thánh Chính Thống, Hội Thánh Anh giáo, Hội Thánh Tin Lành, Hội Thánh Rôma còn là một Hội Thánh hiệp nhất.
Còn đâu niềm tự hào chính đáng của những thời nhiều nước còn đông đảo tín hữu giữ đạo đàng hoàng, như tại Pháp, Ý, Tây Ban Nha!
Tại Việt Nam
Riêng tại Giáo Hội Việt Nam, hiện nay bề ngoài coi như phát triển hơn bao giờ hết. Tin tức hằng tuần và hàng đầu là các từ thánh đủ loại. Như: phong chức thánh, mừng chức thánh, mừng đền thánh, mừng năm thánh, hành hương thánh đường, xây dựng thánh đường, dự hội thánh, đồng tế hàng trăm linh mục trên cung thánh, quy tụ hàng ngàn giáo dân trong khuôn viên nhà thánh.
Bề ngoài có vẻ thánh. Nhưng ai dám quả quyết là bên trong không có những sóng ngầm, có khả năng biến thành sóng thần bất ngờ ập tới không?
Tới đây, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu khuyên nhủ: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con... Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người" (Lc 21,34-36).
Chúa Giêsu đề cập đến "chè chén say sưa, lo lắng việc đời" như những gì làm cho lòng các người trong đạo nên nặng nề. Điều đó quá đúng.
Nhưng, nay, nếu phải nói cụ thể hơn về "lo lắng việc đời" thì sẽ phải kể ra nhiều thứ. Như tiền bạc, quyền lợi, tranh chấp, cục bộ. Thêm vào việc lo lắng sự đời với những cụ thể đó, lại có chuyện lo lắng việc đạo, với nhiều thứ cụ thể lềnh kềnh lỉnh kỉnh, thì lòng chúng ta sẽ nên nặng nề gấp mấy.
Tỉnh thức
Mấy ngày nay, biến cố sóng thần gây tang tóc cho nhiều nước Á châu đã là đề tài suy nghĩ cho hầu hết mọi người tại Việt Nam ta. Hơn nữa, rất đông người có đạo cầu nguyện nhiều hơn. Họ như đọc được ý Chúa trong biến cố này. Nên họ nghĩ tới cuộc đời mong manh, và sự cần thiết phải lo cho phần rỗi mình khi còn thời giờ. Đang khi đó, chẳng may cũng có một số người vẫn ung dung, dửng dưng, vô cảm. Đây là điều làm tôi buồn. Tôi sợ cho họ, cho Hội Thánh và cả cho chính tôi. Riêng tôi, trong tình hình thảm khốc này, với lương tâm được đánh thức, tôi hay đọc lại lời Chúa Giêsu phán với các môn đệ về tương tai đền thờ Giêrusalem, Người phán: "Các con nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả đều sẽ bị phá đổ" (Mc 13,2).
Với lòng xót thương chân thành, chúng ta cầu nguyện cho mọi nạn nhân của nạn hồng thủy mới xảy ra. Chúng ta cũng hãy tỉnh thức, nghĩ tới chính mình và Giáo Hội Việt Nam ta, kẻo lỡ ra có ngày "Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào".
Nhưng cho dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thất vọng. Xưa Chúa Giêsu phán: "Những con cáo có hang, những con chim có tổ. Nhưng Con Người không có nơi để gối đầu và nghỉ ngơi" (Lc 9,58).
Các môn đệ Chúa thuở đó cũng vậy.  Trong ba thế kỷ đầu, hầu như Hội Thánh không xây dựng một đền thờ nào. Tín hữu quy tụ nơi nào thấy tiện. Không phải người ta đến với Hội Thánh, nhưng chính Hội Thánh đến với người ta.
Một Hội Thánh nghèo, thánh thiện, không bị gò bó vào những cơ sở nặng nề về vật chất hoặc tinh thần, sẽ dễ đến với mọi người thiện chí, nhất là đến với người nghèo khổ và bị loại trừ.

 

Bùi-Tuần 969: THÁNG 6 VÀ TRÁI TIM THƯƠNG NGƯỜI 03-06-30004

 GB. BÙI TUẦN
 

Những ngày sau thụ phong Giám mục (30-4-1975) là thời gian tôi mon men trên những bờ vực: 03-06-30004 Bùi-Tuần 969

Những ngày sau thụ phong Giám mục (30-4-1975) là thời gian tôi mon men trên những bờ vực thẳm.
Dù thức, dù ngủ, tôi vẫn bồn chồn sợ sệt cho chức vụ thiêng liêng Chúa mới trao.
Tôi nhớ, tháng 6 năm ấy kêu gọi tôi hãy cậy trông một cách quyết liệt hơn vào thánh tâm Chúa Giêsu.
Cậy trông là cầu nguyện, khát khao và đón chờ.
Rồi một sự đã xảy đến.
Một gặp gỡ.
Đêm đó, tôi chiêm bao một gặp gỡ hết sức bất ngờ.
Tôi đi một mình trên cánh đồng rộng bao la. Hai bên con đường nhỏ tôi đi là lúa bạt ngàn.
Nhìn về phía trước, tôi thấy một người đang từ một bờ ruộng đi ra. Người đó cũng đi một mình. Tôi cứ tiếp tục đi lên. Người đó cũng tiếp tục trẽ về phía tôi. Đến một chỗ hai con đường gặp nhau, thì hai người cũng gặp nhau.
Tôi biết ngay đó chính là Chúa Giêsu. Hình ảnh Ngài giống hệt hình ảnh các tượng ảnh trái tim Chúa, mà tôi thường nhìn ngắm để cầu nguyện.
Ngài đi cạnh tôi, cầm tay tôi, dẫn vào một thành. Qua nhiều đường phố, Ngài đưa tôi vào một nhà thương.
Các trại đều rất đông bệnh nhân. Kẻ nằm liệt, kẻ ngồi buồn bã, kẻ đi thất thểu.
Cảnh nhà thương thực đáng thương tâm. Ngài nắm chặt tay tôi. Tôi vịn vào Ngài. Trái tim tôi như tan vỡ. Tôi bừng tỉnh với lòng thương cảm vô bờ bến. Tôi không còn nhìn thấy Ngài trong chiêm bao. Nhưng tôi tin Ngài ở cạnh tôi trên đường ơn gọi của tôi. Từ giây phút ấy, tôi xác tín điều này: Tôi được sai đi làm chứng cho Chúa bằng trái tim thương người.
Để có một trái tim thương người, tôi cần đón nhận tình thương từ nguồn. Nguồn đó là trái tim Chúa Giêsu do Chúa Thánh Thần dẫn tới.
Tôi không thể nói hết được sự đón nhận đó phong phú thế nào. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc tới một số tính cách của tình thương ấy.
Những dòng tình thương.
Thương cảm. Thương cảm là thương bằng cảm nhận nỗi đau hoặc bất hạnh của người khác. Phúc Âm thuật lại chuyện viên đại đội trưởng ngoại đạo ở thành Caphácnaum đã rất thương cảm hoàn cảnh đau bệnh của người nô lệ của ông. Sự thương cảm của ông đã được Chúa Giêsu khen, và giúp đỡ (Lc 7,1-10).
Thương cứu. Thương cứu là tìm cách cứu người mình thương bằng các việc cần thiết. Dụ ngôn người Samari tốt lành là một thí dụ. Ông thương cứu người bị nạn bằng một chuỗi các hành động cụ thể: Xuống ngựa, lại gần nạn nhân, băng bó, dìu lên ngựa, đưa vào quán trọ, trả mọi chi phí thay cho nạn nhân (Lc 10,29-35).
Thương dẫn. Thương dẫn là dùng tình thương dẫn người khác vào hy vọng chính đáng đưa họ tới Nước Trời. Chúa Giêsu đã làm như vậy cho người phụ nữ Samari, mà Ngài gặp ở bờ giếng Giacóp (Ga 4,5-42).
Thương rửa. Thương rửa là dùng tình thương để rửa người ta cho khỏi tội, khỏi mặc cảm, khỏi thất vọng. Hình ảnh được tình thương Chúa rửa như vậy không hiếm. Thí dụ người con hoang đàng (Lc 15,4-7). Người đà bà bị còng lưng lâu năm (Lc 10,10-17).
Thương tha. Thương tha là dùng tình thương để tha tội cho những người có thiện chí ăn năn. Thí dụ chuyện ông Dakêu (Lc 19,1-10).
Thương chịu. Thương chịu là vì thương yêu, mà gánh phần khổ đau cho người khác. Như lời Kinh Thánh nói về Chúa Giêsu: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta. Và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17).
Thương chia sẻ. Thương chia sẻ là, vì tình thương mà chia sẻ Tin Mừng đã lãnh nhận. Như lời Chúa Giêsu phán với các môn đệ, trước khi lên trời: “Hãy nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,47).
Thương nâng đỡ. Thương nâng đỡ là nâng người yếu, giúp họ đứng dậy, là đỡ họ, khi họ vác nặng. Gương nâng đỡ như thế là ông Simon đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu trên đường lên núi Golgotha (Mc 15,21).
Nâng đỡ cũng được trái tim thương người áp dụng cả cho những người, mà nhiệm vụ của họ có thể gặp khó khăn bất cứ từ phía nào. Như gương Đức Mẹ và bà thánh Isave đã nâng đỡ lẫn nhau.
Trên đây là một số tình thương tôi đã lãnh nhận từ trái tim Chúa Giêsu. Trái tim Chúa ví như nguồn. Từ nguồn đó chảy ra những dòng sông tình yêu với tính cách khác nhau, nhưng tất cả đều là những dòng tình yêu cứu độ.
Tôi đã có nhiều lỗi lầm trong sự đón nhận. Như nhiều lúc dửng dưng, nhiều khi không tỉnh thức, nhiều trường hợp chủ quan hững hờ.
Vài cảm tưởng.
Nhưng, qua kinh nghiệm tu đức, mục vụ và truyền giáo, tôi có cảm tưởng này: Trái tim thương người có thể được gọi là dấu chỉ của thời đại hiện nay.
Chúa Thánh Thần đang đào tạo những trái tim thương người nơi thánh tâm Chúa một cách âm thầm, trong Hội Thánh Công giáo và ngoài Hội Thánh Công giáo.
Chính trái tim thương người mới là dụng cụ đổi mới Hội Thánh và thế giới.
Chính trái tim thương người mới làm chứng được cho Thiên Chúa là tình yêu (Ga 4,8).
Khi mà tình hình thế giới đang bị đe doạ bởi một chiến tranh vì đức tin của tôn giáo này, của tôn giáo khác, thì dụng cụ xây dựng hoà bình sẽ chính là trái tim thương người.
Các trái tim thương người do Chúa Thánh Thần đào tạo nơi thánh tâm Chúa sẽ vượt qua các thứ ranh giới. Vượt qua một cách âm thầm, nhưng mạnh mẽ và khôn ngoan sáng suốt. Vượt qua nhờ khiêm nhường khó nghèo, cầu nguyện, hy sinh.
Các trái tim thương người do Chúa Thánh Thần đào tạo nơi thánh tâm Chúa sẽ là những  ngọn lửa hy vọng thắp sáng lên những nơi thực sự là nơi truyền giáo do Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

 

Bùi-Tuần 970: TÌM ĐỨC MẸ ĐỂ DÂNG HOA 12-05-2004

 GB. BÙI TUẦN
 

Những khi muốn dâng hoa lên Đức Mẹ, tôi thấy việc tìm kiếm hoa là việc khá quan trọng: 12-05-2004 Bùi-Tuần 970

Những khi muốn dâng hoa lên Đức Mẹ, tôi thấy việc tìm kiếm hoa là việc khá quan trọng.
Nhưng đôi khi tôi có cảm tưởng rằng: Tìm Đức Mẹ, để dâng hoa, cũng là việc quan trọng không kém.
Tất nhiên, chỉ có một Đức Mẹ Maria. Nhưng Đức Mẹ Maria duy nhất của chúng ta vốn được gọi bằng nhiều tước hiệu, như Đức Mẹ Vô nhiễm, Đức Mẹ Mân côi, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Nữ vương vv...
Thiết tưởng mỗi người sẽ gọi Mẹ bằng tước hiệu nào, mà mình ưa thích nhất. Phần tôi, tôi quen gọi Mẹ Maria của tôi bằng những tước hiệu không mấy sang trọng. Như: Mẹ là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi. Mẹ là Đấng an ủi  kẻ âu lo. Mẹ là hy vọng của kẻ thất vọng.
Riêng những lần dâng hoa, tôi thường đặt hoa của tôi trước ảnh “Đức Mẹ Trái tim”. Tức là ảnh Đức Mẹ mở trái tim mình bốc lửa. Tôi hiểu lửa đó là tình yêu đau khổ.
Tôi dám chắc việc làm đó của tôi sẽ đẹp lòng Mẹ. Bởi vì tôi nhìn Đức Mẹ có rất nhiều đau khổ vì yêu mến Chúa và xót thương nhân loại.
Đức Mẹ đau khổ được nói trong Kinh Thánh.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại: Khi thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đem hài nhi Giêsu lên đền thờ, để tiến dâng cho Thiên Chúa theo Luật dạy, thì tiên tri Simeon đã nói với Đức Mẹ rằng: “Thiên Chúa đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34-o4
Ngay liền đó, thánh Luca đã ghi một chi tiết ứng nghiệm lời tiên tri Simeon. Chi tiết đó là biến cố Đức Mẹ và thánh Giuse phải đau đớn đi tìm con mình trong ba ngày. Khi gặp được Chúa Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ đã không giấu  nổi nỗi đau. Mẹ nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con” (Lc 2,48).
Phúc Âm cho thấy: Đức Mẹ đã phải cực lòng, không phải chỉ lần đó, mà phải cực lòng trong suốt cuộc đời cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Đức Kitô. Dấu ấn cực lòng nhất là cảnh Đức Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thánh Gioan chỉ tả lại vắn tắt: “Đứng gần thập giá Đức Kitô, có thân mẫu Người...” (Ga 19,25).
Như vậy, Mẹ đã đau khổ, vì chia sẻ trọn vẹn những đớn đau của Chúa Giêsu. Đó là một sự thực không thể thiếu được trong nhận thức của chúng ta.
Hơn nữa, Mẹ đã đau đớn, còn vì chia sẻ trọn vẹn những xót xa vô vàn của Chúa trước cảnh bao người tự huỷ mình trong mọi thời. Họ tự do chọn con đường tội lỗi dẫn xuống hoả ngục. Đó cũng là một sự thực ta không nên coi thường.
Đức Mẹ đau khổ trong lịch sử hiện nay.
Tâm tình khổ đau của Mẹ đã được chính Mẹ tỏ lộ trong những lần Mẹ hiện ra. Khi hiện ra tại La Salette, tại Lộ Đức, tại Fatima, Đức Mẹ đã chỉ nhắc đi nhắc lại lời khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối, hãy năng cầu nguyện và hy sinh, hãy trở về với Chúa. Mẹ nhắn nhủ bấy nhiêu đều với nét mặt buồn sầu.
Hơn nữa, Đức Mẹ không buồn sầu sao được khi nhìn vào một nền văn hoá biến chất đang chuyên chở một phần nhân loại. Nền văn hoá này đang có những khủng hoảng trầm trọng.
Khủng hoảng về thiếu chiều cao. Càng ngày càng bớt đi tình hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Càng ngày bổn phận tôn thờ Đấng Tạo Hoá càng bị quên lãng hoặc chối bỏ.
Khủng hoảng về thiếu chiều sâu. Rất nhiều người không hề tìm hiểu ý nghĩa đời mình, hướng đi đời mình, trách nhiệm đời mình. Mặc kệ đời sống mình trôi giạt trong khoảng trống mịt mù.
Khủng hoảng vì thiếu chiều ngang. Liên đới giữa người với người rất hẹp và căng. Cái tôi trở thành trung tâm. Xung quanh là bầu khí dửng dưng, thiên kiến, thù hận, sợ hãi, ganh tị, ghen ghét.
Khủng hoảng vì thiếu chiều kích nội tâm. Không quen, không thích và không có khả năng suy nghĩ, đào sâu tư tưởng, gạn lọc ước muốn, đối diện với các sự thực, nhất là sự thực về chính mình.
Khủng hoảng vì thiếu chiều kích tu thân. Thả lỏng nguồn khát vọng. Quên đi lời Kinh Thánh:
“Tuổi thọ đáng kính,
không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi.
Đối với con người, sự khôn ngoan còn quí hơn tóc bạc.
Sống không tì ố đã là sống thọ” (Kn 4,8-9).
Nền văn hoá với những khủng hoảng kể trên đang dần dần ảnh hưởng xấu đến tôn giáo.
Chúng ta còn nhìn thấy điều đó. Phương chi Đức Mẹ càng thấy rõ hơn. Đức Mẹ thấy, Đức Mẹ buồn, Đức Mẹ muốn cứu, nếu chúng ta có thiện chí, biết vâng lời Đức Mẹ.
Đức Mẹ khổ đau trong khát khao cứu độ.
Tuy khổ đau vì tội lỗi chúng ta, nhưng Đức Mẹ với trái tim bốc lửa vẫn mãi là nguồn hy vọng của chúng ta. Tôi tin vững vàng điều đó. Bởi vì Đức Mẹ rất thương chúng ta.
Ngoài ra, Đức Mẹ là Đấng đầy ơn Chúa Thánh Thần. Ngày truyền tin, thiên sứ đã nói với Đức Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà... Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,35-37).
Với những lời bảo đảm trên đây của thiên sứ, chúng ta tin tưởng, khi dâng hoa và đời ta lên Đức Mẹ.
Phần tôi, Đức Mẹ mở trái tim bốc lửa vẫn là hình ảnh gợi ý. Không những gợi ý, mà còn như cần thiết. Nhất là những lúc thân phận yếu đuối của tôi cảm thấy mình cần được gần gũi một tình mẹ đầy xót thương, giàu sức cứu độ. Đặc biệt là những khi trí khôn tôi đã quá mệt mỏi, hầu  như không còn khả năng tập trung suy nghĩ, thì sự nhìn một hình ảnh tình thương đẹp như hình ảnh Đức Mẹ Trái Tim sẽ được coi như rất hữu ích, để giúp tôi cầu nguyện với niềm tin vào lòng thương xót Chúa.
Hình ảnh Đức Mẹ Trái Tim không ở đâu xa. Tôi nhìn thấy gần tôi, hầu như ngay trong chính tim tôi.

 

Bùi-Tuần 971: NHÌN LẠI MỘT ĐỜI KẺ ĐƯỢC SAI ĐI 30-01-2005

VietCatholic News (30-01-2005 )
(Bài chia sẻ với các linh mục giáo phận Long Xuyên, dịp tĩnh tâm đầu năm 2005
 

Đối với tôi, bước sang một năm mới, là bước gần đến ngày ra đi. Vì thế, tôi nghĩ đến một cách, 30-01-2005 Bùi-Tuần 971

Đối với tôi, bước sang một năm mới, là bước gần đến ngày ra đi.
Vì thế, tôi nghĩ đến một cách, để thể hiện tinh thần hiệp thông với Đức Cha Giuse và anh em linh mục, đang khi chúng ta còn được gặp nhau. Cách đó là tâm sự về vài điều tôi nhận thấy, khi nhìn lại cuộc đời tôi được Chúa sai đi. Nhất là cuộc đời Giám mục của tôi.
Các điều tôi ghi nhận về cuộc đời Chúa sai tôi đi, thì khá nhiều. Hôm nay, tôi chỉ xin chia sẻ 2 điều:
•        I- Cảm nghiệm về thánh ý Chúa khi tôi được sai đi, trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
•        II- Cảm nghiệm về cách thực hiện những thánh ý đó.
Tôi xin nói vắn, nhưng rõ, với hy vọng chia sẻ này sẽ được đón nhận như một món quà thân thương.
I. Cảm nghiệm về thánh ý Chúa, khi tôi được Chúa sai đi.
Khi Chúa sai tôi đi, Chúa không hiện ra nói cho tôi biết, Chúa sai đi vì những mục đích riêng nào. Nhưng, trong khi tôi hoang mang, sợ hãi, thì Chúa trấn an tôi, bằng cách cho tôi cảm thấy thánh ý Chúa dành riêng cho tôi là thế này:
1- Trước hết, tôi cảm nghiệm Chúa sai tôi đi, để tôi hiện diện ân cần giữa đoàn chiên, như người mục tử nhân lành gắn bó với đoàn chiên, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn.
Dù không làm được gì, chỉ hiện diện như một người cha, một người mẹ, thì cũng đã là một lò lửa toả ấm và tin tưởng cho cả gia đình, trong cảnh lạnh lẽo, hoang mang.
Từ kinh nghiệm đó, tôi cho rằng: Sự các linh mục hiện diện thường xuyên một cách ân cần gắn bó với nơi mình được sai đến là điều thánh ý Chúa coi như trách nhiệm đầu tiên.
2- Tôi cảm nghiệm Chúa sai tôi đi, để tôi cùng với đoàn chiên đón nhận sự Chúa thanh luyện Hội Thánh Việt Nam nói chung, và từng cộng đoàn, từng tín hữu nói riêng.
Sự thanh luyện thời 1975 là rất mới mẻ, đau đớn và lâu dài. Qua kinh nghiệm đó, tôi hiểu rõ hơn vai trò của người mục tử trong việc chia sẻ sự thanh luyện, mà Chúa thường thực hiện cho Hội Thánh.
Khi Hội Thánh bị thử thách, hầu như ai cũng phải rơi vào cơn khủng hoảng. Lúc đó, nếu được Chúa giúp, người ta sẽ được ơn dứt bỏ ý riêng, để bám vào Chúa, và vui lòng thuận theo ý Chúa. Trong những trường hợp như vậy, người mục tử sẽ giữ vai trò đặc biệt, để giúp đoàn chiên đón nhận ơn thanh luyện.
3- Tôi cảm nghiệm thấy, Chúa sai tôi đi là để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Thời gian 1975, chúng ta thấy làm chứng cho Chúa tình yêu là điều khó có thể làm được. Đầy nghi kỵ, đầy thiên kiến, đầy thù hận. Nhưng với ơn Chúa, tôi thấy nhiều tín hữu đã làm chứng được bằng một đời sống cụ thể. Dần dần, nhiều người khác cũng cùng làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Kết quả lan rộng và đi sâu.
Kinh nghiệm đó dạy tôi rằng: Làm chứng cho tình yêu Chúa là việc luôn khó. Nhưng bao giờ cũng có kết quả, nhờ cậy tin vào Chúa. Khởi đi từ người đứng đầu Hội Thánh địa phương.
4- Tôi cảm nghiệm thấy, Chúa sai tôi đi, là để gieo trồng Lời Chúa.
Hoàn cảnh lúc đó, tôi gặp nhiều khó khăn trong việc rao giảng. Nhưng chính vì thấy khó, nên tôi luôn giảng Lời Chúa, chứ không giảng lời ai khác. Sau cùng, việc gieo trồng Lời Chúa đã mở rộng ra xa và thành thói quen.
Kinh nghiệm trên đây rất quý cho tôi. Nó cũng nhắc cho các linh mục hãy luôn đào sâu Lời Chúa.
5- Tôi cảm nghiệm thấy, Chúa sai tôi đi, để góp phần nào vào việc giúp cho liên hệ giữa Việt Nam và Toà Thánh được cải thiện dần dần.
Tình hình sau 1975 hết sức căng giữa Đạo và Đời, giữa Việt Nam và Toà Thánh.
Nhưng, Chúa thương, dần dần đã có những bước tiến nhỏ. Về việc này, tôi thấy nhiều người, cho tới bây giờ, vẫn chưa thấy sự tế nhị của vấn đề. Vấn đề không đơn giản chút nào. Như vụ phong thánh. Theo tôi, cầu nguyện và hy sinh vẫn hơn là giải thích.
6- Sau cùng, tôi cảm nghiệm thấy, Chúa sai tôi đi, để trở thành một phần nhỏ bé của Hy Lễ cứu độ do Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha.
Nhận thức trên đây giúp tôi dâng thánh lễ trên bàn thờ không phải chỉ là nghi thức bí tích, mà còn phải dâng lên Chúa chính mình và đời sống tôi, với những đớn đau, vất vả, lo âu hồn xác hằng ngày.
Kinh nghiệm dâng mình làm của lễ mọi ngày và suốt đời giúp tôi hiểu, kẻ được sai đi phải nhớ mình được sai đi vác thánh giá và bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá. Suốt đời mình phải là một Hy lễ trên thánh giá.
Trên đây là những gì tôi cảm nghiệm về thánh ý Chúa, khi tôi được Chúa sai vào một giai đoạn lịch sử.
Những cảm nghiệm đó cho phép tôi nghĩ rằng: Mỗi mục tử, khi được sai đi, cần lắng nghe thánh ý Chúa. Xem Chúa muốn gì.
Có những thánh ý Chúa không được ghi rõ trong bài sai. Mỗi mục tử phải tự mình khám phá ra những nhu cầu khẩn thiết đang đặt ra nơi mình được sai đến, và ở giai đoạn lịch sử mình được sai vào.

II. Cảm nghiệm về cách thực hiện các thánh ý Chúa
Nhờ những năm làm Linh Hướng trong chủng viện, tôi nhớ những bài tu đức của các bậc khôn ngoan dạy, về cách thực hiện thánh ý Chúa.
Tôi xin nêu lên vài việc chính yếu cụ thể như:
1- Phúc Âm hoá những chiều sâu của chính mình.
•        a) Siêng năng cầu nguyện, gẫm suy Lời Chúa, dâng lễ sốt sắng. Để sống tốt tương quan với Chúa.
•        b) Không tự cho mình quyền xét xử người khác và đổ lỗi cho ai. Để sống tốt tương quan với người khác.
•        c) Chấp nhận mình yếu đuối, dễ lỗi lầm, có nhiều giới hạn. Thực lòng thống hối, khiêm cung. Để sống với mình trong sự thực.
•        d) Cảnh giác với những ước muốn, những thao thức và những đối tượng mình mơ tưởng.
•        e) Luôn xin Chúa Giêsu là trung tâm đời mình.
2- Đi sâu vào tầm xa của các dự đoán tôn giáo.
Cần có những dự đoán đúng về tình hình tôn giáo trong tương lai. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Tại Việt Nam, trước 1955 và 1975, nhiều đấng bậc đã có những dự đoán rất sai về tình hình, kể cả tình hình về Công giáo. Dự đoán sai, nên chuẩn bị sai, đầu tư sai.
3- Mở rộng cái nhìn về những giá trị được đánh giá là cần được vun trồng sớm.
Nhìn rộng trong các lãnh vực xã hội, tôn giáo và tu trì, xem sự phục vụ nào là đang cần. Như sự chăm sóc đến tầng lớp nghèo, sự chính người tu cũng cần chia sẻ cảnh nghèo của dân, sự đào tạo đúng đắn tinh thần Giáo Hội và tinh thần Dân Tộc.
4- Tỉnh thức phân định ý Chúa
•        khác ý thế gian
•        khác ý ma quỷ
•        khác ý xác thịt.
Đồng thời tỉnh thức nhận ra những sự lạ lùng Chúa làm hằng ngày. Thường có rất nhiều ảo tưởng, hoang tưởng về ý Chúa và việc của Chúa.
5- Luôn nâng cao hơn mãi trình độ trí thức cần cho người mục tử thời nay.
Sẽ rất là thiệt hai cho mục vụ, khi trình độ trí thức thấp, yếu về suy tư, lại phải đối thoại với nhiều loại tư tưởng phức tạp, chống đạo, nghịch đạo, phản đạo. Nhất là không nhận ra vấn đề nào trong một tình hình đầy những vấn đề.
6- Chấp nhận sự hèn mọn của mình, để:
•        - biết cộng tác với người khác
•        - biết rời công việc, khi mình không còn đủ sức
•        - biết phó thác tuyệt đối vào Chúa, trong mọi trường hợp
•        - biết luôn bắt đầu lại.
•        Nhưng, không vì phó thác nơi Chúa, mà rơi vào buông xuôi, lười biếng, ù lỳ, nguội lạnh.
Kết
Trên đây là một chia sẻ đơn giản, riêng tư.
Qua chia sẻ này, tôi xin có một kết luận vắn gọn, đó là: Người môn đệ được Chúa sai đi phải lấy tu đức làm chính, làm nền.
Tu đức nói đây phải hiểu là tu đức của Phúc Âm. Chứ không mạo hiểm bám vào những thứ tu đức dễ dãi, lệch lạc.
Đạo đức của cộng đoàn lên hay xuống, một phần do các mục tử. Các mục tử có là một thứ máng chuyên chở ơn thánh xuống cho cộng đoàn hay không, một phần vì các ngài có còn là người của Chúa hay không.
Và nếu các ngài muốn là người của Chúa, thì dứt khoát các ngài phải sống theo tu đức Phúc Âm.
Tu đức cả trong nội tâm. Tu đức cả ở thái độ, tư cách bên ngoài.
Chúng ta hãy khiêm nhường, kiên trì tập luyện tu đức Phúc Âm hằng ngày, suốt đời cho đến chết, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Coi tu đức là bổn phận ưu tiên.
Tương lai Hội Thánh Việt Nam sẽ gặp những thử thách mới.
Riêng tôi, khi nhìn lại đời mình, tôi thấy đời mình có nhiều thiếu sót, lỗi lầm về tu đức. Xin Chúa xót thương tha thứ. Xin mọi người rộng lượng thứ tha.
Trong tinh thần hiệp thông, tôi trông cậy nơi Hội Thánh, và hoàn toàn phó thác mình trong trái tim Chúa giàu lòng thương xót, nhờ Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 972: THÁNH LỄ CỦA TA TRONG THÁNH LỄ 24-03-2005

CỦA CHÚA GIÊSU
 
24-03-2005
+ GM Bùi Tuần
(Bài giảng thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 24 tháng 3 năm 2005)
 

Trong thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh, chúng ta thường được nghe nhắc lại những việc quan 24-03-2005 Bùi-Tuần 972

Trong thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh, chúng ta thường được nghe nhắc lại những việc quan trọng, mà Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, đó là:
•        Lập Bí tích Thánh Thể,
•        Lập Bí tích Truyền chức,
•        Rửa chân cho các môn đệ,
•        Trối lại điều răn mới là yêu thương nhau.
Những việc trên đây được coi là rất quan trọng. Hôm nay chúng ta nghe nhắc lại, chúng ta tưởng nhớ lại.
Tâm tình chúng ta lúc này là tạ ơn, là đón nhận, là cầu xin, là thống hối.
Để những tâm tình đạo đức trên đây tăng chất lượng tốt, chúng ta nên để ý thực hiện thêm hai việc sau đây:

1. Thứ nhất là hãy gặp gỡ Chúa Giêsu
Ngài đang hiện diện trong thánh lễ này. Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta một cách âu yếm. Ngài đang ở bên ta. Ngài đang âm thầm nói với lòng ta lời Ngài nói xưa trong bữa tiệc ly: "Chúa Cha đã yêu Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy" (Ga 15,9). Chúa đã phán như thế, thì sự thực đúng là như thế.
Xin anh chị em hãy tin vững vàng vào tình yêu Chúa. Ai càng cảm thấy lòng mình đang chất chứa những gánh nặng, càng nên đến gặp gỡ Chúa Giêsu với lòng tin cậy. Bởi vì chính Ngài đã phán: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28).
Hiện nay, hiện tượng thất vọng đang tăng. Hiện tượng bế tắc đang chuyển sang nhiều ngả tiêu cực. Trước tình hình này, chúng ta, những người tin theo Chúa, càng phải phấn đấu. Một đàng hãy xin ơn vững tin vào tình yêu Chúa. Một đàng hãy lắng nghe tiếng tình yêu của Chúa mời gọi, và thực hiện với tất cả thiện chí của ta.
Việc Chúa mời gọi cách riêng chiều nay là điều răn mới của Ngài. Như vậy:

2. Việc thứ hai nên để ý là đón nhận lời Chúa Giêsu trối trong bữa tiệc ly:
"Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con" (Ga 13,39).
Về điều răn yêu thương, chúng ta đã nghe nhiều. Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý anh chị em chi tiết này là: Hãy biết tế nhị và dấn thân hơn đối với những người đau khổ, bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi, sống trong cảnh tăm tối bất cứ về phương diện nào.
Đức tin, dù mạnh tới đâu, nếu không được phiên dịch ra bằng thái độ và việc làm yêu thương đối với người xung quanh, nhất là đối với những người bé mọn, yếu đuối, túng nghèo, thì đức tin đó kể như chết. Càng ngày giá trị đạo đức của mỗi người càng được cân đo bằng tấm lòng từ thiện, bằng tình người, bằng sự dấn thân phục vụ con người một cách khiêm nhường, quảng đại cho đi và chia sẻ cuộc sống những người cùng khổ.
Trên đây, tôi nhắc tới hai việc:
•        Một là gặp gỡ Chúa Giêsu và tin vào tình yêu của Ngài.
•        Hai là yêu thương người khác như Chúa yêu thương ta.
Hai việc đó, nếu được thực hiện chu đáo, sẽ biến bản thân ta thành một thánh lễ sống động. Ta đem thánh lễ cuộc đời ta kết hợp vào thánh lễ Chúa Giêsu dâng trên thánh giá. Nhờ đó, ta sẽ thực hiện một cách thiêng liêng lời Chúa Giêsu dạy trong bữa tiệc ly: "Thầy là cây nho, các con là cành... Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng vậy" (ga 15,1-4).
Thánh lễ đời ta trong thánh lễ của Chúa Giêsu, như cành với cây. Đó là một hướng ta nhắm đi tới, hôm nay và suốt đời. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể thương dắt ta đi về hướng đó trong tình yêu của Ngài. Tình hình Hội Thánh tại Việt Nam đang rất cần mọi người chúng ta đi về hướng đó.
+ GM BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 973: Nhớ về Một Nhắc Nhở Xưa 18-04-2005

+ GM GB Bùi Tuần
 

Thuở nhỏ, tôi được nhắc nhở nhiều điều về đạo. Một trong những nhắc nhở đó, là nhắc nhở về: 18-04-2005 Bùi-Tuần 973

Thuở nhỏ, tôi được nhắc nhở nhiều điều về đạo. Một trong những nhắc nhở đó, là nhắc nhở về Satan.
Một nếp sống chống Satan
Thực vậy, từ bé, tôi đã có thói quen tập làm dấu thánh giá trên mình với chút nước thánh trong tay. Mục đích là để lãnh phép lành và cũng để trừ ma quỷ.
Đến thời được giúp lễ, tôi thấy lễ Misa được kết thúc bằng việc linh mục quỳ đọc 3 kinh Kính Mừng, và kinh xin Đức Tổng lãnh thiên thần Micae giúp Hội Thánh được thắng trận trong cuộc chiến với ma quỷ.
Khi nghe về Linh mục, tôi được biết là Linh mục có 7 chức thánh. Trong đó có chức trừ quỷ. Khi được thụ phong Linh mục, tôi cũng được trao quyền trừ quỷ.
Nhưng hiện nay, nếp sống chống Satan xem ra chỉ còn là một kỷ niệm.
Một Kinh Thánh chống Satan
Khi đọc Cựu Ước và Tân Ước, tôi thấy quỷ đúng là một kẻ thù ghê gớm.
Ngay khi Chúa vừa dựng nên các thiên thần, thì một nhóm đã phản loạn. Chúng lập thành một lực lượng theo thủ lĩnh Luciphe, để chống Chúa. Chúng gọi là lũ quỷ.
Ngay khi Chúa vừa dựng nên tổ tông Adong-Evà, thì quỷ đã xuất hiện lường gạt hai ông bà. Quỷ đã thắng lớn.
Ngay khi Chúa Giêsu vào sa mạc cầu nguyện ăn chay, chuẩn bị đi rao giảng, thì quỷ đã đến cám dỗ. Nhưng sau cùng, quỷ bị thảm bại.
Trong suốt ba năm kêu gọi người ta thống hối và tin vào Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần giáp mặt với bọn quỷ quấy phá. Bao giờ Người cũng thắng. Nhiều người đã bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã cứu họ, bằng cách xua đuổi quỷ ra khỏi họ.
Khi sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho các ngài được quyền trừ quỷ. Trừ quỷ là một dấu chỉ đi kèm với Tin Mừng.
Mới nhất, khi đọc sự lạ Fatima, tôi lại được nghe ba trẻ thuật lại y như Kinh Thánh nói. Các em thấy ma quỷ bị hành hạ trong hoả ngục, và chúng lại hành hạ các kẻ dữ trong hoả ngục một cách hết sức ghê gớm.
Những nhắc nhở sống động về Satan
Trên đây là một phần những gì tôi đã được nghe, được học, được đọc về Satan.
Đó là những nhắc nhở:
•        Nhắc nhở thứ nhất là thực sự có từng đoàn lũ quỷ dữ vô hình.
•        Nhắc nhở thứ hai là thực sự chúng luôn lôi kéo con người về đàng tội lỗi.
•        Nhắc nhở thứ ba là, muốn chiến thắng chúng, thì phải vâng lời Chúa và Đức Mẹ: tỉnh thức cầu nguyện, khiêm nhường đền tội, đổi mới bản thân trong Chúa Thánh Thần.
•        Nhắc nhở thứ bốn là, nếu không vâng lời Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thì sẽ xảy đến những hậu quả kinh hoàng, không sao lường được.
Thế nhưng, càng về cuối đời, tôi càng thấy những nhắc nhở trên đây bị coi thường, bị quên lãng tại nhiều nơi. Đang khi đó, quỷ như đang ung dung hưởng chiến thắng ở nhiều người, ở nhiều địa phương.
Những ung dung của quỷ hiện nay
Thực vậy, quỷ hiện nay rất ung dung.
Cái ung dung của chúng là chúng hiện diện, trà trộn hết sức thoải mái, mà người ta cứ tưởng không hề có chúng.
Cái ung dung của chúng là chúng được đón tiếp, chứ không bị chống trả.
Cái ung dung của chúng là cũng có người nghĩ đến việc chống trả, nhưng lại tránh dùng những khí giới mà Chúa và Đức Mẹ đã truyền dạy, đó là cầu nguyện, hãm mình đền tội, và đổi mới mình trong Chúa Thánh Linh.
Cái ung dung của chúng là đã tiến tới một tôn giáo thờ Satan. Một Đức Giám Mục người Đức nói với tôi là: Một tôn giáo thờ Satan là chuyện có thực trong chính giáo phận của Ngài.
Tôn giáo thờ Satan có những lễ nghi riêng, có những thề hứa riêng, có những dấn thân riêng, có những phần thưởng và hình phạt riêng dành cho những ai lập công với quỷ hay phản bội quỷ.
Mới rồi, tình cờ, tôi đọc một cuốn sách nói về Đức Mẹ, tôi cũng thấy viết về một "Giáo hội của Satan đang được thành lập". Giáo hội này đang từ trong bí mật xuất hiện dần ra công khai. Thế lực rất mạnh. Nó xâm nhập vào Hội Thánh của Chúa một cách nhẹ nhàng, dịu dàng, rất dễ chịu, với nhiều hưởng ứng của nhiều thành phần.
Một ước vọng
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã viết trong tông thư ngày 28-9-1888: "Hiện nay, Satan đang lại rảo khắp hoàn cầu. Nó mang những vẻ bề ngoài của thiên thần ánh sáng. Con rắn độc đó đang phun ra như dòng suối dơ bẩn, thứ thuốc độc của sự dữ trên nhân loại mù quáng và sa đoạ, thứ não trạng dối trá, vô luân và phạm thượng, thứ hơi độc của đồi truỵ và đủ các thứ nết xấu tục tằn".
Những điều Đức Giáo Hoàng Lêô XIII viết trên đây đã đúng cho thời đó. Mà thời đó được coi là khá nề nếp. Phương chi những lời như thế về Satan, nếu viết về thời nay, thì chắc sẽ nặng nề hơn.
Hôm nay, tôi nhớ lại những nhắc nhở xưa về Satan, mà nghe lòng mình xao xuyến. Tôi quá bé nhỏ để giải quyết một tình hình Hội Thánh đang có nhiều thách đố cam go. Đối với tôi, cam go bậc nhất là trận chiến với Satan vô hình.
Chúng ta cầu nguyện, xin Chúa trợ giúp Đức Tân Giáo Hoàng.
Không cần Đức Tân Giáo Hoàng được coi là có một phong cách "siêu sao", nhưng thực sự Ngài có một sức mạnh thiêng liêng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ dẫn đưa Hội Thánh vào tinh thần vâng phục thánh ý Chúa một cách triệt để. Và nhờ thế, Nước Chúa sẽ đẩy lùi quyền lực Satan, cho dù Satan sẽ rất tàn bạo, kiêu căng và quỷ quyệt trong thời điểm này.
Còn mỗi người chúng ta, hãy luôn nhớ lời Chúa Giêsu đã nhắn nhủ các tông đồ xưa ở vườn cây Dầu: "Các con hãy cầu nguyện, kẻo sa chước quỷ cám dỗ" (Lc 22,40).

 

Bùi-Tuần 974: LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ NƠI ĐỨC TÂN GIÁO HOÀNG

 28-04-2005
+ ĐGM. Bùi Tuần
 

Sau khi vừa được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Benedictô XVI đã ra chào dân chúng. Lời chào rất 28-04-2005 Bùi-Tuần 974

Sau khi vừa được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Benedictô XVI đã ra chào dân chúng. Lời chào rất vắn. Cuối lời chào, Ngài kết thúc bằng tâm tình phó thác nơi Đức Mẹ. Ngài nói: "Đức Mẹ Maria, Mẹ dấu yêu của Chúa Giêsu luôn đứng bên cạnh chúng ta".
Những lời trên đây trong giây phút trọng đại của lịch sử đời Ngài rất đáng ta chú ý.
Tôi nghĩ đó là những lời nói lên một nếp sống đức tin của Ngài. Một nếp sống rất tự nhiên, rất hồn nhiên. Một nếp sống đã có từ nhiều năm, thường xuyên, sống động như hơi thở của Ngài.
Mới rồi, tôi đọc cuốn sách của Ngài, tựa đề: "Đây là Thiên Chúa của chúng tôi", tới đoạn nói về Đức Mẹ Maria, tôi thấy Ngài có lòng kính Đức Mẹ từ hồi còn thơ ấu.
Tôi xin phép tóm tắt năm điều mà tôi tự rút ra từ sách đó về lòng sùng kính Đức Mẹ nơi Ngài.

1- Nhờ Mẹ mà ta được gần gũi với Chúa
Thực vậy, nếu Thiên Chúa cứ ngự trên trời cao thăm thẳm, thì loài người sẽ cảm thấy Chúa rất xa cách, rất cao vời. Nhưng khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế, trở thành con một người phụ nữ, thì tự nhiên khoảng cách gần lại. Nhất là khi người phụ nữ này lại xưng mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1,38), sống cuộc đời đơn sơ, nghèo nàn, giữa dân thường. Nhờ vậy Thiên Chúa càng trở nên gần gũi với mọi người. Mọi người, dù bé nhỏ, nghèo hèn tới đâu, cũng có thể gần gũi với Thiên Chúa được.
Như thế, đúng là nhờ Mẹ Maria mà mọi người chúng ta được gần gũi Thiên Chúa tình yêu.

2- Nhờ Mẹ mà ta cậy trông vào Chúa
Đức Thánh Cha nhắc lại một kinh lâu đời mà Giáo Hội Việt Nam vẫn thường quen đọc, đó là kinh "Hãy nhớ": "Lạy thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van, chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ là Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu thế, xin chớ bỏ lời con kêu van, một dủ lòng thương mà nhận lời con cầu. Amen".
Từ nhỏ, Đức Benedictô XVI đã quen đọc kinh đó. Nhờ cậy trông Đức Mẹ mà Ngài đã thêm lòng cậy trông Chúa.

3- Nhờ Mẹ mà ta đi vào trưởng thành nội tâm
Đức Giáo Hoàng hay lần chuỗi Mân côi và hay đi đàng thánh giá. Ngài coi hai nơi đó là trường dạy Ngài biết mình và biết sửa mình. Hai nơi đó đã biến đổi Ngài nên người sống nội tâm, biết thương Chúa Giêsu, biết thông cảm với những người đau khổ, nghèo túng.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến vai trò đau khổ trong việc làm cho con người trở nên trưởng thành. Trưởng thành về nhân bản và trưởng thành trong đời sống thiêng liêng.
Con người từ bỏ mình vì Chúa và yêu thương phục vụ con người không thể tránh được hy sinh, đau khổ. Nếu Đức Mẹ không chịu đau khổ như được nhắc lại trong chuỗi Mân côi và đàng thánh giá, thì Đức Mẹ sẽ không thể minh chứng được tình yêu của Mẹ đối với Chúa và tình thương của Mẹ đối với loài người.

4- Nhờ Mẹ mà ta biết chúc tụng Chúa
Đức Benedictô XVI nhắc lại hai lời chúc tụng trong kinh Kính Mừng. Hai lời này do bà thánh Isave nói với Đức Mẹ: "Bà được chúc phúc hơn mọi người nữ. Và Con trong lòng Bà cũng được chúc phúc" (Lc 1,42). Kinh Kính Mừng bằng tiếng Latinh dùng chữ Benedicta cho Đức Mẹ và chữ Benedictus cho Chúa Giêsu.
Theo quan điểm của Đức Benedictô XVI, thì Đức Mẹ được chúc tụng là vì Đức Mẹ có Chúa ở cùng, và vì Đức Mẹ được cứu độ trước do công phúc cứu độ của Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, con Mẹ, được chúc tụng, vì Ngài làm chứng cho tình yêu cứu độ.
Từ đó mọi việc chúc tụng, chúc phúc, chúc lành, đều quy chiếu về tình yêu Chúa cứu độ. Thí dụ, khi tôi làm dấu thánh giá chúc lành cho ai, thì tôi chúc họ được ơn Chúa yêu thương và cứu độ.
Không biết có phải vì lời chúc phúc, chúc tụng, chúc lành vốn có trong kinh Kính Mừng đã ảnh hưởng đến việc Đức Tân Giáo Hoàng lấy tên là Benedictô không.

5- Nhờ Mẹ mà ta cởi mở theo ý Chúa
Đức Benedictô XVI kể lại hai chi tiết này. Chi tiết thứ nhất là Đức Mẹ đến tìm Chúa Giêsu đang giảng cho dân. Thấy vậy, Chúa Giêsu nói: "Phàm những ai làm theo ý Cha Ta, đều là mẹ ta và anh em Ta" (x. Lc 11,27-28). Chi tiết thứ hai là, trước khi tắt thở trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan. Trong lời trối, Chúa Giêsu không dùng tiếng "thưa Mẹ" mà dùng tiếng "thưa Bà" (x. Ga 19,25-27).
Đức Benedictô XVI đã suy nghĩ về hai chi tiết trên đây, để cắt nghĩa cho sự cởi mở của Hội Thánh.
Đức Mẹ đã được Chúa Giêsu dẫn qua giới hạn gia đình riêng nhỏ bé, để bước vào một gia đình rộng hơn. Gia đình đó là cả nhân loại, là tất cả những ai làm theo ý Chúa. Hội Thánh cũng phải cởi mở như vậy.
Trên đây là một thoáng nhìn về lòng sùng kính Đức Mẹ nơi Đức Tân Giáo Hoàng. Mỗi người chúng ta đều có thể tiếp thu được bài học này. Bài học đơn sơ mà sâu sắc.
Điều quan trọng không phải là tiếp thu một nội dung, mà là nhờ nội dung này mà gặp gỡ Đức Mẹ. Khi sự gặp gỡ Đức Mẹ đã trở thành sống động, thì cuộc sống chúng ta sẽ biến đổi rất nhiều. Chúng ta sẽ có khả năng yêu thương nhiều hơn. Yêu thương nhiều hơn đối với Chúa. Yêu thương nhiều hơn đối với mọi người.
Lúc đó cuộc sống đạo sẽ sáng lên lửa yêu thương. Và đó chính là ước mơ về một Hội Thánh tương lai, mà Đức Tân Giáo Hoàng muốn hướng tới.
Ngài lớn tuổi, sâu sắc về truyền thống các tông đồ, già dặn về kinh nghiệm, sắc sảo trong nhận định tình hình. Nhưng Ngài lại rất đơn sơ, khiêm tốn, theo gương Đức Mẹ, bên trong tâm hồn và cả bên ngoài trong lời nói, cử chỉ, thái độ.
Chúng ta tin tưởng nơi Đức Tân Giáo Hoàng của chúng ta. Học sùng kính Đức Mẹ theo gương Ngài là điều tôi thực hiện, nhất là trong tháng hoa Đức Mẹ. Tháng hoa này, chúng ta sẽ chúc tụng Chúa và Đức Mẹ một cách đặc biệt.
Tháng hoa này, chúng ta sẽ xin Chúa và Đức Mẹ chúc phúc đặc biệt cho Hội Thánh Việt Nam, dân tộc Việt Nam và Tổ Quốc Việt Nam của chúng ta.

 

Bùi-Tuần 975: NHÂN CHỨNG BẤT NGỜ 10-06-2005

VietCatholic News (10-06-2005)
 

Năm nay, đặc biệt là những tháng này, dịp kết thúc những khoá đào tạo, tôi nhận được nhiều tin 10-06-2005 Bùi-Tuần 975

Năm nay, đặc biệt là những tháng này, dịp kết thúc những khoá đào tạo, tôi nhận được nhiều tin vui về chức Linh mục. Như: Lễ phong chức Linh mục, lễ Tạ ơn của các Tân chức, lễ nhận nhiệm sở của các tân Linh mục được sai đi.
Những tin vui này trước kia thường được đón nhận với niềm phấn khởi đơn sơ đều khắp. Nhưng nay khác rồi. Cũng có mừng. Đồng thời cũng có lo. Thậm chí cũng có dửng dưng.
Lý do rất khác nhau. Ngay trong nỗi mừng niềm vui về Linh mục cũng có cái lành và cũng có cái không lành, khi tinh thần tục hoá xem ra đang trở nên bình thường trong nhiều lãnh vực tôn giáo.
Bên cạnh những ồn ào về chức quyền linh mục trong cơ chế, tôi thấy có những nhân chứng âm thầm của Đức Giêsu đang hoạt động nhẹ nhàng nhưng sâu sắc giữa đời. Họ không được phong chức, không được trao quyền, không mang văn bản được sai đi. Họ chỉ là những người tình nguyện ra đi theo gợi ý của Chúa.
Để hiểu họ phần nào, tôi xin phép nêu lên một điển hình rút ra từ Phúc Âm. Điển hình đó là một phụ nữ ở Samari. Đây là một nhân chứng đầy những bất ngờ.

1. Bất ngờ ở nơi Chúa sai đi
Phúc Âm kể: "Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đây có giếng của ông Giacóp. Đức Kitô mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó khoảng 12 giờ trưa.
Có một người phụ nữ Samari đến múc nước. Đức Giêsu nói với chị ấy: "Xin chị cho tôi chút nước uống" (Ga 4,5-7).
Chi tiết trên đây là một bất ngờ. Chúa Giêsu biết mình sẽ làm một việc quan trọng là chọn người đi loan báo Tin Mừng. Nhưng Người không tìm nơi sang trọng để làm chỗ xuất phát. Như là nhà thờ, mà là một bờ giếng. Chiếc giếng công cộng. Chiếc giếng của thường dân. Chiếc giếng của tập thể dân nghèo.

2. Bất ngờ ở người được sai đi
Phúc Âm cho biết: Sau khi nghe Chúa Giêsu xin nước uống, người phụ nữ Samari đã trả lời: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao? Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samari" (Ga 4,9).
Chi tiết trên đây là một bất ngờ lớn. Chúa chọn một người không cùng tôn giáo với dân Do Thái. Hơn nữa, người đó thuộc loại, mà dân Do Thái loại trừ. Loại trừ đến nỗi phải xa tránh, không được phép giao thiệp trong bất cứ liên hệ gì. Một người như thế lại được Chúa chọn. Sự bất ngờ sẽ càng rất lớn, khi biết thêm sự sai đi của Chúa.

3. Bất ngờ ở lời sai đi
Phúc Âm kể tiếp về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ. Đang khi trò chuyện, Chúa Giêsu đột nhiên bảo chị: "Chị hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây. Người phụ nữ đáp: Tôi không có chồng. Đức Giêsu bảo: Chị nói: Tôi không có chồng là phải. Vì chị đã 5 đời chồng, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng" (Ga 4,16-18).
"Chị hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây": Đây là một lời sai đi. Lời sai đi này của Chúa đã mở mắt lương tâm chị. Bỗng chốc, chị biết nhìn nhận sự thực về mình, một sự thực chẳng đẹp chút nào. Đồng thời với sự khiêm tốn biết mình, chị đoán ra người sai chị đi là ai. Chị nói: "Tôi thấy ông thật là một tiên tri" (Ga 4,19).
Đối với tôi, lời sai đi trên đây của Chúa cũng là một bất ngờ dạy tôi rất nhiều. Trước khi Chúa sai tôi đem Tin Mừng cho người khác, Người đã sai tôi đi vào chính mình, để tôi biết chuẩn bị đón nhận Tin Mừng dành cho tôi. Cách chuẩn bị cần nhất là chân thành nhìn nhận mình quá xấu xa.

4. Bất ngờ ở sự tế nhị
Phúc Âm tiếp tục kể lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari: "Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây. Giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thật" (Ga 4,21-23).
Chi tiết trên đây đã trấn an người phụ nữ tội lỗi. Chúa Giêsu không một lời chê trách chị. Người cũng không một lời đề cao người Do Thái. Người cho chị biết: Cách thờ phượng, mà Chúa muốn, không phải là gắn bó với nơi này nơi nọ. Như dân Do Thái gắn bó với Giêrusalem, và như dân Samari gắn bó với núi Garizim. Cách thờ phượng mà Chúa muốn là tôn trọng chân lý và đi sâu vào tinh thần. Theo tôi, đó là gắn bó với Chúa Cứu thế, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống tinh thần (x. Ga 14,6).

5. Bất ngờ ở sự nhiều người đã nhờ chị phụ nữ này mà tin vào Chúa Giêsu
Phúc Âm còn kể dài về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari. Chị tin người mà mình gặp gỡ chính là Đấng tiên tri, và còn hơn là tiên tri. Chị về thành kể lại cho nhiều người nghe. Nghe tin ấy, "Có nhiều người Samari trong thành đã tin vào Chúa Giêsu... Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người ở lại đó 2 ngày. Số người tin vào Đức Giêsu còn đông hơn thế nữa" (Ga 4,39-40).
Chi tiết trên đây là một bất ngờ lớn lao. Người rao giảng Tin Mừng là một phụ nữ ngoại đạo, vướng mắc nhiều điều không tốt cả về phương diện đời lẫn phương diện đạo. Thế mà, chị đã được Chúa chọn. Chị đã hiểu ý Chúa là muốn chị làm chứng cho Tin Mừng. Hiệu quả thực hết sức bất ngờ. Bao người đã đến với Chúa Giêsu. Bao người đã đón Chúa Giêsu. Bao người đã tin Chúa Giêsu.

6. Bất ngờ sau cùng là tính cách vô danh
Thiết tưởng, chuyện của chị phụ nữ này phải được xếp vào loại chuyện khác thường. Thế nhưng, Phúc Âm vẫn không hề để ý xem chị tên là gì. Trước mặt Chúa, người phụ nữ này ngoại đạo, mang tiếng xấu, vô danh, lại đã là một nhân chứng sáng ngời về Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Một nét đạo đức của chị là vô danh chìm sâu trong âm thầm.
Chuyện trên đây đã thuộc về quá khứ, nhưng vẫn diễn lại tại Việt Nam hôm nay bằng nhiều cách.
Bên cạnh những xuất hiện linh đình, rầm rộ, tưng bừng của những vị có chức quyền, địa vị thuộc về cơ chế tôn giáo, tôi thấy vẫn có những bước đi âm thầm, khiêm tốn, chất phác của những người hèn mọn.
May mắn cho tôi là tôi đã được nâng đỡ bởi nhiều người như thế. Tôi cũng đã học được ở họ nhiều điều tốt.
Thực ra, sự tôi được Chúa chọn và sai đi cũng là một bất ngờ lớn. Bởi vì tôi không xứng đáng chút nào.
Chúa vẫn làm nhiều điều bất ngờ trong thế giới hôm nay.
Xin ngợi khen Chúa với tất cả tâm hồn phó thác tin yêu.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 976: TIẾNG KÊU TRONG HOANG ĐỊA 24-06-2005

 Gm. Bùi Tuần
 

Thánh Bổn Mạng của tôi là Gioan Baotixita. Vị thánh này được gọi bằng nhiều tên, như Gioan Tiền 24-06-2005 Bùi-Tuần 976

Thánh Bổn Mạng của tôi là Gioan Baotixita. Vị thánh này được gọi bằng nhiều tên, như Gioan Tiền Hô, Gioan Tẩy Giả. Riêng tôi, tôi thích gọi Ngài bằng một tên đơn giản hơn. Tên này do tiên tri Isaia đặt cho Ngài từ ngàn năm trước. Đó là "Tiếng hô trong hoang địa" (Lc 3,4; Mc 1,2; Mt 3,3; Ga 1,23). Chính thánh Gioan Baotixita cũng tự xưng mình bằng tên đó:
"Tôi là người hô trong hoang địa:
Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1,23).
Ngài là thế. Tôi cũng muốn bắt chước Ngài được như thế.
"Hô trong hoang địa". Nghe thì đơn giản. Nhưng thực hành mới thấy không đơn giản chút nào. Bởi vì phải biết:
Hô điều gì?
Hô cách nào?
Hô lúc nào?
Hôm nay, gần hết đời người, và sau 50 năm linh mục, tôi thấy công việc tôi "hô trong hoang địa" vẫn còn như mới bắt đầu. Nghĩa là còn kém, còn non, còn dở, còn đầy thiếu sót, còn cần mãi mãi học thêm.
Tôi đã học ở đâu? Và còn sẽ tiếp tục học ở đâu?
Tôi xin thành thực kể ra vắn tắt những trường quan trọng dạy tôi:
1- Trường Lời Chúa
Lời Chúa là trường dạy tôi. Tôi học ở đó. Bằng nhiều cách, như suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện Lời Chúa, đọc những bài cắt nghĩa Lời Chúa, đào bới những khoa môn liên quan đến Lời Chúa.
Lời Chúa in trên sách là tài liệu bên ngoài. Nhưng Đấng làm cho tài liệu Lời Chúa biến thành ánh sáng, sự sống và lửa bên trong lòng tôi chính là Chúa Thánh Thần.
Trường Lời Chúa không ở nơi nào nhất định. Trường đó ở bên tôi. Trong trường này, tôi cảm thấy rất tự do. Luôn có những điều mới. Như một kho tàng vô cùng phong phú. Điều tôi mong không phải là sẽ hiểu biết tất cả. Nhưng từ Kinh Thánh tôi mong sẽ nghe được một tiếng gọi dành riêng cho mình.
Từ rất sớm, tôi nhận ra tiếng gọi dành riêng cho tôi là: Hãy cùng với 10 người phong cùi kêu van Chúa Giêsu: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng con" (Lc 17,12-13). Những người cùi đó đã hô lớn tiếng (Lc 17,13). Tôi cũng bắt chước, mà hô lớn tiếng như vậy. Nhập bọn với những người cùi, mà cầu xin Đấng Cứu thế, đó là việc đơn sơ, rất thích hợp, mà tôi đã học được ở trường Lời Chúa.
Lời cầu xin ấy, tôi hô lên, dù tất cả xung quanh tôi, và chính đời tôi chỉ là hoang địa hỗn độn, ồn ào.
Ngoài trường Lời Chúa, tôi cũng học được nhiều điều ở cuộc đời.

2- Trường cuộc đời
Cuộc sống ví như một hành trình. Hành trình cuộc sống gồm một chuỗi những bước thăng trầm. Luôn có những biến cố xảy tới chen giữa những quãng bình lặng vắn vỏi.
Theo kinh nghiệm của tôi, bất cứ biến cố nào xảy đến cũng đều là những thử thách được đặt ra. Thí dụ hôm qua, biến cố xảy đến cho tôi là một thành công tốt đem lại niềm vui. Hôm nay biến cố xảy đến cho tôi là một thất bại xấu gây nên nỗi buồn. Ngày mai có thể sẽ là thời gian bình lặng.
Niềm vui, nỗi buồn và bình lặng ấy đều được coi là những thử thách. Nếu tôi lạm dụng thành công để niềm vui kéo tôi đến chỗ kiêu căng, thì thử thách thành công này sẽ đưa tôi trẽ vào con đường nguy hiểm. Ngược lại, nếu tôi biết lợi dụng thất bại, để nỗi buồn dẫn tôi đến sự khiêm tốn biết mình để cố gắng phấn đấu thêm, thì thử thách thất bại này sẽ đưa tôi vào con đường hy vọng vươn lên.
Cũng thế, bình lặng cũng có thể được dùng cho lựa chọn tốt, và cũng có thể lạm dụng cho lựa chọn xấu.
Kinh nghiệm cho thấy: Trong cuộc đời có những thành công mà là thất bại. Trái lại có những thất bại mà lại trở thành thành công.
Vì thế, nhiều trường hợp được coi là thành công hay bình lặng chắc chắn, tôi đừng nông nổi chủ quan. Nhưng hãy cầu nguyện "Xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con." Còn mọi trường hợp thất bại đắng cay, tôi cũng đừng bi quan. Nhưng càng phải hô lên lời van "xin Chúa xót thương con". Như thế, xét cho cùng, lời xin Chúa xót thương lúc nào cũng cần.
Cùng với trường Lời Chúa và trường cuộc đời, tôi đã học được rất nhiều ở trường đời Chúa.
3- Trường đời Chúa Giêsu  
Đời sống Chúa Giêsu đâu có êm ả như phần đông tưởng. Một đoạn thư gởi Do Thái sau đây cho thấy phần nào:
"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Kitô đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục." (Dt 5,7-8).
Suy gẫm đoạn thư trên, rồi nhìn suốt cuộc đời Chúa Giêsu, từ hang đá Belem đến thánh giá trên núi Sọ, tôi thấy 33 năm của Người toàn là hy sinh và cầu nguyện, để biết vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Vâng phục thánh ý là việc khó như thế đó. Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ và đã cầu nguyện, kêu van, khóc lóc thảm thiết, mới thực thi được bài học vâng phục. Phương chi tôi và chúng ta. Đừng ảo tưởng. Nhưng phải theo gương Người, mà kêu lên lời cầu: "Xin Chúa dủ lòng thương xót."
Tôi thấy thánh Gioan đã hô trong hoang địa Israel với biết bao ơn Chúa Thánh Thần. Ngài biết đúng cách, biết đúng lúc, với tinh thần vâng phục. Nhưng sau cùng, Ngài đã bị chém đầu.
Hiệu quả bề ngoài thực bẽ bàng.
Nhưng qua cõi đời này, Thánh Gioan Baotixita đã bước vào một hoang địa khác, đó là mọi thế hệ nhân loại sau này, và mãi mãi âm thầm thúc giục các lương tâm hãy: "Xin Chúa dủ lòng xót thương chúng con."
Mỗi tôn giáo có cách cầu nguyện của mình.
Mỗi người có cách kêu van của mình.
Tôi hy vọng lời cầu chân thành nào cũng sẽ được Chúa đón nhận. Tôi càng tin điều đó, khi chính tôi nhận mình là một người phong cùi, chỉ biết hô to lời nguyện "xin Chúa luôn dủ lòng xót thương chúng con," "Xin Chúa luôn dủ lòng thương xót chúng con". Đó là lời cầu pha trộn thống hối và cậy trông. Tôi tin Chúa không bỏ tôi.
Niềm tin của tôi đôi khi cũng được an ủi. Như, mới rồi, tôi nhận được thư riêng của Đức Hồng Y SODANO, Quốc vụ khanh Toà Thánh (No 007, 16-5-2005). Trong thư, Ngài báo tin rằng: Đức Thánh Cha Benedictô XVI rộng lòng ban phép lành yêu dấu của Toà Thánh cho tôi. Phép lành ấy cũng được ban cho mọi người gần gũi của tôi.
"Tiếng kêu trong hoang địa" là những con người mọn hèn đang đi theo thánh Gioan Baotixita. Xin hết lòng cảm tạ Chúa muôn đời.

 

Bùi-Tuần 977: THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI 15-08-2005

Gm. GB. Buøi Tuaàn
 

Đức Mẹ Maria đã được lên trời. Mừng lễ này, tôi có một nguyện ước thiết tha. Đó là: Sẽ đến 15-08-2005 Bùi-Tuần 977

Đức Mẹ Maria đã được lên trời. Mừng lễ này, tôi có một nguyện ước thiết tha. Đó là: Sẽ đến một ngày, tôi cũng được Mẹ dẫn về quê trời, để cùng với Mẹ, chia sẻ hạnh phúc trường sinh từ Thiên Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót.
Nguyện ước thiết tha trên đây trở thành một lời cầu nguyện thường xuyên.
Trong tâm tình cầu nguyện này, tôi cảm nghiệm đời tôi là một cuộc hành hương với Đức Mẹ.
Từng ngày, mỗi giờ là những bước đi. Bước đi nhỏ thôi, nhưng nhạy cảm với những gì Đức Mẹ âm thầm chỉ bảo.
Đức Mẹ không dạy gì khác, ngoài Phúc Âm. Đặc biệt là Phúc Âm thánh Gioan. Tôi tin thánh Gioan là người con quý yêu của Mẹ đã ghi lại những điều Mẹ đã dạy ngài, trong suốt thời gian Mẹ ở với ngài, sau khi Chúa Giêsu thăng thiên. Có thể nói: Những gì Thánh Gioan viết chính là hành trang của Mẹ trong cuộc hành hương về trời.
Hành trang này gồm ba việc, mà Chúa Giêsu đã trối lại trong bữa tiệc ly:
- Một là phép Thánh Thể,
- Hai là điều răn yêu thương,
- Ba là việc Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ.
Ba việc trên đây ví như hơi thở của người hành hương với Đức Mẹ. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút những gì tôi cảm nghiệm được về ba việc đó.
1- Phép Thánh Thể
Đối với người hấp hối, phép Thánh Thể là "của ăn đàng". Nhưng đối với người hành hương, phép Thánh Thể là "của ăn đàng" thường xuyên mỗi ngày.
Để phép Thánh Thể trở thành "của ăn đàng" cho người hành hương, tôi phải đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể như Đức Mẹ đã đón nhận xưa.
Xưa, Đức Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu với tinh thần khiêm tốn xin vâng.
Mẹ xin vâng chọn cuộc sống vất vả như Chúa Giêsu.
Mẹ xin vâng chia sẻ cuộc sống của lớp dân nghèo.
Mẹ xin vâng cùng với Chúa Giêsu từ bỏ mình, vác thánh giá mình, dâng hiến chính mình làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Mẹ xin vâng tuyệt đối quên mình, để chính nhờ Chúa Giêsu, cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, mà quy hướng mọi vinh quang lớn nhỏ về Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời.
Đức Mẹ hành hương về trời với Chúa Giêsu Thánh Thể trong tâm tình luôn tạ ơn và luôn đền tội.
Như vậy, tôi hành hương về trời với Đức Mẹ, cũng phải rất quan tâm đến việc kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu đang sống động. Như lời Chúa Giêsu phán: "Thầy là cây nho, các con là cành" (Ga 15,5). Có thể nói: Chúa đang kêu gọi chúng ta hãy kết hợp với Người, hãy tiếp tục chương trình cứu độ của Người cho thế giới hôm nay.
Phúc Âm thánh Gioan nói rất ít về phép Thánh Thể, nhưng lại đề cao giới răn mới là giới răn yêu thương. Tôi có cảm tưởng là thánh Gioan đã có chọn lựa độc đáo đó, chính vì đã được Đức Mẹ dạy dỗ nhắc nhở nhiều, trong thời gian Đức Mẹ âm thầm sống chặng đường cuối của cuộc hành hương. Đức Mẹ muốn việc tôn sùng Thánh Thể luôn phải đi kèm với việc yêu thương, phục vụ.
Việc đi kèm này là rất quan trọng cho việc tôn sùng Thánh Thể.
2- Điều răn yêu thương
"Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con." (Ga 13,34). Lời trối trên đây được coi là rất cần cho người hành hương.
Thực tế cho thấy: Trên đời này, sống với nhau là điều không dễ, yêu thương nhau lại càng không dễ, yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta lại càng không dễ chút nào.
Chính vì không dễ, nên cuộc hành hương với Đức Mẹ về trời sẽ là một chuỗi dài những nhịp đập của trái tim yêu thương rướm máu như trái tim Mẹ.
Thực vậy, có những rướm máu do phải hy sinh cho việc thăng tiến những người mình yêu. Yêu một cách chính đáng bao giờ cũng đòi hỏi người mình yêu phải phấn đấu nên tốt hơn mỗi ngày về mọi mặt. Không phấn đấu, không đón nhận sự giúp đỡ thăng tiến, cam sống trôi nổi, không định hướng, không hợp ý Chúa, đó là những lưỡi đòng đâm vào trái tim người sống giới luật yêu thương của Chúa.
Thời sự hằng ngày hiện nay là một bức ảnh khá đau buồn cho những tình yêu thăng tiến. Không những bao người đang khước từ thăng tiến, mà cũng bao người muốn thăng tiến nhưng không sao nhìn được ánh sáng hy vọng. Do thiếu điều kiện cần thiết.
Lại có những rướm máu do những vòng xoáy hận thù của bao thế hệ nối tiếp nhau. Hận thù giữa các gia đình và dân tộc. Hận thù giữa cả các tôn giáo. Chỉ nói riêng về phía Công giáo, những người sống giới luật yêu thương làm sao quên được bao hành vi đối xử bất kính, bạo tàn mà một số con cái Hội Thánh đã làm cho những người đạo khác mà mình kết án một cách kiêu căng.
Bao vết thương vẫn còn đó, làm nhức nhối cuộc hành hương của những người con Đức Mẹ. Ta phải hết sức hàn gắn lại bằng trái tim tế nhị của tình Mẹ xót thương, nhất là bằng trái tim khiêm tốn phục vụ, mà Chúa Giêsu, Con Mẹ, đã đề cao trước khi phó mình chịu chết để đền tội cho nhân loại.
3- Rửa chân cho nhau
Cũng thánh Gioan đã thuật lại tỉ mỉ việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Tôi nghĩ ngài làm như vậy cũng do Đức Mẹ nhắn nhủ. Bởi vì đối với Đức Mẹ hành hương về trời, việc các môn đệ Chúa phục vụ nhau một các khiêm nhường là yếu tố quan trọng. Chúa Giêsu phán: "Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,14-15).
Thực vậy, việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ dạy ta phải phục vụ nhau một cách khiêm nhường.
Khiêm nhường phục vụ mà Chúa dạy vừa đề cao nội dung phục vụ, vừa lưu ý đến cách phục vụ, vừa nhắc nhở đến người được phục vụ.
Những người chúng ta phục vụ một cách đặc biệt sẽ ưu tiên là những người thấp hèn, những người không được bằng ta, những người kém cỏi.
Nội dung chúng ta phục vụ một cách đặc biệt sẽ là những việc mọn hèn, nhất là việc tha thứ cho nhau, rửa mặc cảm cho nhau.
Cách chúng ta phục vụ một các đặc biệt sẽ khiêm tốn, chân thành, kín đáo, tế nhị.
Riêng tôi, tôi thực hiện các việc trên đây suốt cuộc hành hương về trời một cách đơn sơ.
Thực hiện đơn sơ là sống tinh thần thơ ấu trong tay Đức Mẹ. Với tinh thần thơ ấu, tôi đón nhận Nước Trời là Chúa Giêsu của tôi. Người đến với tôi dù dưới bất cứ hình thức nào, tôi cũng vẫn nhìn Người là Tin Mừng của tôi. Tin Mừng này luôn mới, vì tình Mẹ dành cho tôi giúp tôi khám phá ra chân trời mới càng ngày càng đẹp. Mẹ chỉ cho tôi hướng đi về đó, Mẹ dắt tôi đi theo hướng đó.
Cuộc hành hương của tôi về trời không còn là cuộc hành hương của riêng tôi, mà là cuộc hành hương của Đức Mẹ dắt tôi và bao người bé nhỏ khác luôn phó thác ở tình Mẹ xót thương, vừa bước đi, vừa ca ngợi Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

 

Bùi-Tuần 978: ƠN BÌNH AN 22-08-2005

Họ đạo nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên nhận Đức Mẹ Maria, Nữ Vương Bình An, làm Bổn Mạng. 22-08-2005 Bùi-Tuần 978

Họ đạo nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên nhận Đức Mẹ Maria, Nữ Vương Bình An, làm Bổn Mạng.
Sống lâu năm dưới sự che chở của Đức Mẹ, tôi xác tín điều này: Bình an là một ơn Chúa ban nhờ Đức Mẹ. Chúa ban ơn đó. Đức Mẹ cầu bầu cho ta ơn đó. Nhưng chúng ta phải biết đón nhận ơn đó, bằng sự cộng tác vào ơn đó.
Cộng tác bằng cách nào? Đó là đề tài tôi xin được chia sẻ. Chia sẻ của tôi là vài suy nghĩ rút ra từ Phúc Âm.
1- Suy nghĩ thứ nhất là hãy sống như chim trời
Chúa phán: "Các con hãy xem chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Các con chẳng quý hơn các chim trời sao?" (Mt 6,26).
Suy gẫm Lời Chúa trên đây, tôi thấy ý Chúa có thể là thế này:
Chim trời không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Nhưng để sinh tồn, chúng tỏ ra rất chăm chỉ, rất hoạt động, rất lanh lẹ, rất tỉnh thức và cũng rất thông minh. Đó là điều chúng cộng tác với thiên nhiên, với môi trường, với thực tế một cách bình an. Tôi gọi sự cộng tác bình an đó là cách Cha trên trời nuôi chúng. Chúng ta cũng hãy sống như vậy. Nghĩa là chúng ta phải ráng chăm chỉ, hoạt động, lanh lẹ, thông minh trong việc chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người, thì sẽ có hy vọng đón nhận được ơn bình an.
2- Suy nghĩ thứ hai là hãy sống như hoa huệ ngoài đồng
Chúa phán: "Các con hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng... Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho các con biết: Ngay cả vua Salomon được vinh quang tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy" (Mt 6,28).
Suy gẫm Lời Chúa phán trên đây, tôi thấy ý Chúa có thể là thế này:
Cây huệ, để có thể nở hoa, nó cũng phải kiên trì vất vả khiêm tốn. Như việc nó phải bám vào đất, đâm rễ sâu rộng xuống đất. Nó phải hút lấy từng chút dinh dưỡng từ đất, từ nước, từ ánh sáng, từ sương. Nó phải chịu mưa, chịu gió, chịu nắng, chịu bão. Nó phải chờ đợi lớn lên từng phút, từng giờ. Tất cả những việc đó là cách nó cộng tác với thiên nhiên, với môi trường, với thực tế một cách bình an. Tôi gọi sự cộng tác bình an đó là cách Cha trên trời nuôi nó. Chúng ta cũng hãy sống như vậy. Nghĩa là chúng ta phải ráng chịu khó, kiên trì khiêm tốn, trong việc chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người, thì sẽ có hy vọng đón nhận được ơn bình an.
3- Suy nghĩ thứ ba là hãy ưu tiên tìm Nước Chúa
Chúa phán: "Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công bình của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ ban cho sau" (Mt, 6,33).
Suy gẫm Lời Chúa phán trên, tôi thấy sự cộng tác quan trọng nhất Chúa đòi, là sự ưu tiên tìm Chúa, ưu tiên tìm thực thi ý Chúa, ưu tiên sống đạo đức, ưu tiên sống đời sống nội tâm. Cộng tác như thế là cách đón nhận được ơn bình an.
Nhìn vào Đức Mẹ, chúng ta thấy Đức Mẹ đã cộng tác hết sức mình với ơn bình an của Chúa, bằng đủ mọi cách mà Chúa muốn.
Giờ đây, chúng ta hiểu: Ơn bình an mà chúng ta lãnh nhận, sẽ được cảm nhận, không phải như một sự an nhàn, nhưng như một cuộc phấn đấu sáng suốt trong sự trung thành phó thác theo con đường Chúa muốn ta đi, để phượng thờ Chúa và phục vụ con người.
Cuộc chiến đấu ấy, tuy gay go, nhưng vì diễn ra trong ơn nghĩa Chúa, nên sẽ đem lại sự bình an sâu sắc cho ta.
Chúng ta hiện nay đang sống trong một thế giới bị đe doạ bởi nhiều bất ổn, bất an. Chúng ta yếu đuối. Chính chúng ta cũng dễ tự tạo cho mình nhiều bất ổn, bất an. Thí dụ: dại dột để vòng xoáy khát vọng trần thế đẩy đưa . Nhưng chúng ta được may mắn có Đức Mẹ. Mẹ rất thương con cái Mẹ. Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta ơn bình an. Còn chúng ta, chúng ta đừng quên cộng tác vào ơn bình an. Cộng tác không những bằng cầu nguyện sám hối, mà còn bằng những việc đã nói trên và những việc khác Chúa soi cho, cả bằng việc vác những thánh giá Chúa trao.
Xin tạ ơn Mẹ, vì ơn bình an trong hiện tại. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta được ơn bình an trong tương lai và mãi mãi.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 979: LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

18-09-2005
 

Kinh "Lạy Cha" có câu: "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày". Câu đó tôi thuộc lòng 18-09-2005 Bùi-Tuần 979

Kinh "Lạy Cha" có câu: "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày". Câu đó tôi thuộc lòng từ nhỏ. Có thể nói: Chính lời cầu đó đã trở thành lương thực hằng ngày của tôi.
Thông thường, tôi dùng lời cầu đó, để xin Chúa ban cho tôi và mọi người được những sự cần thiết, đủ nuôi dưỡng phần xác phần hồn cho từng ngày suốt đời sống trần gian.
Nhưng, từ lâu, tôi có thói quen cũng dùng lời cầu đó, để xin Chúa ban cho tôi ơn biết thi hành thánh ý Chúa. Sở dĩ tôi chuyển ý sang hướng đó, là vì tôi đọc Phúc Âm thánh Gioan, thấy có chỗ ghi lời Chúa Giêsu quả quyết: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,34).
Càng cầu nguyện theo hướng đó, khi đời mình càng lênh đênh chìm nổi giữa trùng dương khổ ải, tôi càng nhận ra lương thực thánh ý Chúa mà tôi rất cần, chính là lòng thương xót Chúa.
    Nhận ra lòng thương xót Chúa,
    đón nhận lòng thương xót Chúa,
    làm chứng cho lòng thương xót Chúa,
tôi nghĩ đó là những việc Chúa muốn tôi thực hiện như lương thực hằng ngày của tôi.
Tôi đã và đang thực hiện điều tôi cho là Chúa muốn. Nên, cũng dễ làm chứng cho lòng thương xót Chúa, tôi xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.
1- Nhận ra lòng thương xót Chúa
Chúa đã thương xót tôi, khi tôi còn trong lòng mẹ. Lòng Chúa xót thương được tôi nhận ra tuỳ theo tuổi và tuỳ theo từng hoàn cảnh đời mình. Còn bé, tôi nhận thức theo tầm cỡ nhỏ. Trưởng thành, tôi nhận thức theo một hướng rộng. Về già, tôi nhận thức theo một chiều sâu nào đó.
Trong hoàn cảnh vui, mọi sự được như ý, tôi cảm nhận lòng Chúa xót thương một cách đôi khi nông nổi. Trong hoàn cảnh đớn đau, mọi sự xảy ra trái ý, tôi cảm nhận lòng Chúa xót thương với đức tin giàn giụa nước mắt.
Nhìn lại cuộc đời dài đã qua, tôi thấy sự nhận ra lòng Chúa xót thương là một hành trình. Chuyến đi này vất vả hơn là nhẹ nhõm, dễ dàng, thoải mái. Chuyến đi này là một chuỗi dài những khám phá. Khám phá của một người đi tìm. Đi tìm, rồi gặp những bất ngờ. Bất ngờ nhất là gặp được Chúa giàu lòng thương xót đàng sau những thất bại, đau đớn, tối tăm và thất vọng.
Chúa mời gọi. Chúa đợi chờ. Nhưng chỉ trong những khoảnh khắc thinh lặng, chiêm niệm và nguyện cầu, tôi mới nhận ra tiếng Người.
2- Đón nhận lòng thương xót Chúa
Khi đã nhận ra tiếng Chúa yêu tôi, tôi sẽ đón nhận Người vào đời tôi.
Khi đón nhận Người, tôi mới thấy rõ hơn Người xót thương tôi dưới nhiều hình thức khác nhau.
Có thể là dưới hình thức thánh giá.
Hiện nay, hình thức thánh giá của Người, mà tôi nhận ra rõ nhất, chính là: "Thầy hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,15), "Thầy là cây nho, các con là cành" (Ga 15,5).
Với việc biết mình là một thành phần của Thầy Giêsu tự nguyện "hy sinh vì đoàn chiên", tôi nhận ra dễ dàng ý nghĩa của lời thánh Phaolô đã nói: "Tôi bổ khuyến nơi thân xác tôi những gì còn thiếu trong cuộc thương khó của Đức Kitô, để Hội Thánh là thân xác của Người được nhờ" (Cl 1,24).
Thánh Phaolô đã nói thế nào, thì tôi cũng nói như vậy. Khi lời tôi nói đó là một đón nhận sự thương khó của Chúa Giêsu, tôi cảm nhận được tôi đang đau đớn trong Chúa Giêsu, và Người đang cùng đau đớn trong tôi, cho một kế hoạch chung là cứu độ loài người. Tất cả đều do lòng thương xót.
Sau hình thức thánh giá, lòng thương xót Chúa đã đến với tôi dưới hình thức ủi an dịu dàng. Tất nhiên hình thức này sẽ dễ được đón nhận, đôi khi nó cũng hữu ích để đỡ nâng một tâm hồn đang vật vã với bệnh nạn.
Mới rồi, dịp kỷ niệm 50 năm linh mục của tôi, tôi nhận được thư chúc mừng của Bộ Truyền Giáo. Nội dung thư đó đã mang lại cho tôi nhiều an ủi. Và cũng vừa rồi, tôi lại nhận thêm một an ủi khác từ Toà Thánh. Lần này là những dòng mừng chúc của chính Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI. Điều làm tôi rất ngạc nhiên là chữ ký của Ngài. Ký như viết. Với những nét nhỏ, khiêm tốn, đơn sơ.
Nội dung Ngài gởi, nhất là cử chỉ Ngài bày tỏ, đã là một dấu chỉ của lòng thương xót Chúa dành cho một tâm hồn bé nhỏ cần được đỡ nâng.
Những việc xót thương tế nhị đó càng làm cho tôi xác tín rằng: Làm chứng cho lòng Chúa xót thương bằng những việc bác ái sống động và đời sống chia sẻ của mình chính là cách rất tốt của việc rao giảng Tin Mừng.
3- Làm chứng cho lòng thương xót Chúa
Có nhiều cách làm chứng cho Chúa và cho đạo của Chúa. Như dạy giáo lý, tổ chức hội đoàn, xây dựng đền thờ, quy tụ quần chúng để biểu dương đức tin, đi lễ đọc kinh, công đức của cải vào các tổ chức lễ vv... Nhưng một loại việc được coi là có sức truyền cảm nhất, chính là bác ái.
Bác ái được thực hiện dưới nhiều hình thức. Trong những hình thức ấy, việc xót thương con người được coi là có giá trị nhất. Xót thương là đồng cảm với mọi người khổ đau, là chia sẻ nỗi khổ của người cùng khổ.
Gương mẫu xót thương là Chúa Giêsu. Người chia sẻ thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi. Người gánh tội cho nhân loại, đền tội cho nhân loại.
Tác giả thư Do Thái viết: "Vị thượng tế của chúng ta không phải là sống không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta. Người đã chịu thử thách về mọi phơng diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 5,8).
Vì thế, từ  thánh giá, Đức Kitô luôn gởi tới chúng ta lời kêu gọi:
Hãy nhận ra lòng Chúa xót thương,
hãy đón nhận lòng Chúa xót thương,
hãy làm chứng lòng Chúa xót thương.
Những lời kêu gọi đó đang trở nên khẩn thiết tại Việt Nam hôm nay.
Mỗi lần, tôi cầu xin: "Lạy Chúa, xin thương xót con", tôi lại được nghe Chúa Giêsu trả lời:
Chúa xót thương con,
Con hãy biết xót thương người khác như Chúa xót thương con.
Đó là lời kêu gọi đặc biệt cần được thực hiện trong thời điểm này. Thực hiện hằng ngày như lương thực hằng ngày.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 980: VIỆC TẠ ƠN CHÚA 29-09-2005

Tạ ơn Chúa là một việc rất quen trong đạo. Được ơn nào, dù nhỏ dù lớn, chúng ta vẫn thường cảm 29-09-2005 Bùi-Tuần 980

Tạ ơn Chúa là một việc rất quen trong đạo. Được ơn nào, dù nhỏ dù lớn, chúng ta vẫn thường cảm tạ Chúa.
Cách tạ ơn được thực hiện tự do.
Đơn sơ như dâng một bông hoa, một cây nến, một chút tiền để trên bàn thờ.
Trọng thể như tổ chức thánh lễ, kiệu tượng ảnh, dựng bia kỷ niệm.
Âm thầm như những lời chân thành tự đáy lòng, hoặc những việc hy sinh lặng lẽ kèm với tâm tình cảm tạ.
Để mọi việc tạ ơn Chúa được chắc chắn là những việc lành, không dễ bị lạm dụng, tôi xin phép đưa ra mấy ý rút ra từ Phúc Âm. Ở đây, Chúa Giêsu dạy ta đâu là những ơn ta cần cảm tạ đặc biệt.
1- Tạ ơn Chúa vì được làm người con bé mọn của Cha trên trời
Phúc Âm thánh Luca kể: "Nhóm Bảy Mươi hai trở về, hớn hở nói: Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con. Đức Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho các con quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù. Tuy nhiên, các con chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục các con, nhưng hãy mừng vì tên các con đã được ghi trên trời" (Lc 10,17-20).
Qua lời Chúa dạy trên đây, chúng ta thấy cách Chúa đào tạo các môn đệ. Các môn đệ hớn hở vì được Chúa ban quyền chức lớn. Thái độ hớn hở ấy không phải xấu, nhưng dễ làm cho các môn đệ tự phụ. Nên Chúa nhẹ nhàng cảnh giác họ nhớ rằng: Cũng vì kiêu ngạo tự phụ, mà Satan đã từ trời phải sa xuống vực thẳm. Cho nên, đừng dại dột mừng vì chức lớn quyền cao. Nhưng hãy mừng vì tên của mình được ghi trên trời. Được ghi do lòng thương xót Chúa. Lòng thương xót Chúa là Cha đoái nhận những kẻ bé mọn làm con của Cha.
Kẻ bé mọn được thương thế nào, thì Phúc Âm thánh Luca kể tiếp: "Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vậy, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Lc 10,21).
Khi biết chắc chắn Chúa Cha rất thương những ai khiêm tốn, đơn sơ, hèn mọn, chúng ta sẽ an tâm chọn cách sống đó. Phần thưởng Chúa dành cho những ai sống như vậy sẽ là: Được làm con Cha, được ghi danh trên trời.Đó là ơn rất quý trọng.
Đây là điều rất an ủi  cho mọi người, đặc biệt là những ai không có chức quyền, không có địa vị trong xã hội và Giáo Hội. Họ chỉ được là con Chúa. Thế là quá đủ. Đó là điều chúng ta phải nhớ tạ ơn Chúa ưu tiên và suốt đời.
2- Tạ ơn Chúa, vì được tin vào Chúa Giêsu là Đấng đem lại sự sống và sự sống lại
Phúc Âm thánh Gioan kể dài biến cố Chúa Giêsu làm phép lạ cho ông Ladarô sống lại.
Trước khi làm phép lạ này, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói:
"Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân đứng xung quanh đây, nên con đã nói, để họ tin là Cha đã sai con" (Ga 11,41).
Nói xong, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho Ladarô chết đã 4 ngày được sống lại.
Câu chuyện trên đây cho ta thấy rằng: Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đi, để làm chứng cho lòng thương xót Chúa.
Lúc đó, gia đình Ladarô đang đau khổ, đám đông đang sầu buồn. Tất cả đều tưởng nỗi đau buồn ấy là cảnh vĩnh biệt sau cùng. Chúa Giêsu đã đến chia sẻ. Không những thế, Người đã cho Ladarô được sống lại. Thái độ này đã làm cho nhiều người tin vào Chúa Giêsu.
Qua câu chuyện này, ta thấy thái độ đồng cảm của Chúa Giêsu dành cho những người đau khổ thất vọng đã là một cách làm chứng cho lòng thương xót Chúa. Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha vì thái độ đó.
Thực tế xưa và nay vẫn quý trọng những ai xót thương người đau khổ. Những ai đem lại cho người khác sự sống và sự sống lại một cách nào đó bao giờ cũng ví được như những hy vọng dẫn về Thiên Chúa.
Chúng ta và cộng đoàn ta hãy là những người có cái tâm đồng cảm, xót thương. Được thế, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho ta ơn đó một cách dồi dào.
3- Tạ ơn Chúa, vì được phục vụ và hy sinh cho người khác
Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể như sau: "Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: Các con cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy uống chén này. Vì đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26,26-28).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho ta thấy: Trước khi Chúa Giêsu hy sinh mạng sống mình trên thánh giá, và trước khi Người hy sinh mình, để trở thành lương thực bé mọn dưới hình thức bánh và rượu, Người đã tạ ơn Chúa Cha.
Người tạ ơn Chúa Cha, vì Người được hy sinh để làm chứng cho tình yêu Chúa Cha đối với nhân loại tội lỗi.
Người tạ ơn Chúa Cha, vì Người được làm chứng cho việc thi hành thánh ý Chúa Cha đến cùng độ.
Người coi sự hy sinh như vậy là làm vinh quang cho Chúa Cha, và cũng là một vinh dự cho chính Người. Người coi đó là con đường để trở về cùng Cha, Đấng đã sai Người. Chúng ta cũng hãy như vậy. Khi được như vậy, chúng ta hãy tạ ơn Chúa.
Trên đây là ba lý do đã được Chúa Giêsu nói lên lời tạ ơn Chúa Cha. Có thể có nhiều lý do khác nữa đã khiến Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn. Chắc là thế. Nhưng chúng ta vẫn nên coi ba lý do kể trên như những chỉ hướng quan trọng, mời gọi chúng ta hãy tạ ơn Chúa  một cách đặc biệt.
Tôi thiết nghĩ, ba chỉ hướng đó rất cần cho ta, để đời tạ ơn của chúng ta có cơ sở vững chắc.
Tâm tình tạ ơn
Trong mọi việc tạ ơn, ta không thể không để ý đến những tâm tình. Một tâm tình được coi là hết sức quan trọng trong tạ ơn, đó là khiêm tốn.
Thánh Phaolô nói: "Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi... Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,9-10).
Như vậy, việc tạ ơn vừa ca tụng quyền năng của Chúa, mà cũng vừa xác nhận sự yếu đuối của ta.
Giữ được tâm tình như thế trong bản thân ta đã là việc khó. Phương chi giữ được tâm tình đó trong một tập thể đông đảo, nhất là khi việc tạ ơn được thực hiện bằng việc tổ chức với nhiều khâu phức tạp. Xác thịt, thế gian, ma quỷ không dễ gì để ta tạ ơn Chúa một cách thánh thiện đâu. Chúng có thể biến việc tạ ơn thành dịp phát sinh đủ thứ tội lỗi. Vì thế, việc tạ ơn Chúa luôn đòi sự tỉnh thức đi đôi với lòng khiêm tốn.
Giữ được tâm tình như thế, chúng ta mới thực hiện được lời thánh Phaolô khuyên ta: "Trong mọi hoàn cảnh và trong mọi sự, các con hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha" (Ep 5,20).
+ Gm. GB. Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 981: LẠY CHÚA, CON ĐÂY 30-10-2005

Mỗi sáng, khi vừa thức dậy, nhiều người tín hữu thường có thói quen thực hiện một việc thờ phượng 30-10-2005 Bùi-Tuần 981

Mỗi sáng, khi vừa thức dậy, nhiều người tín hữu thường có thói quen thực hiện một việc thờ phượng vắn tắt.
Việc thờ phượng rất tự do. Như: Làm dấu thánh giá trên mình, dâng lên Chúa đôi lời cảm tạ và phó thác.
Với tâm tình hướng về Chúa, tôi cũng vẫn thường làm như vậy.
Nhưng, có một sáng, không biết vì sao, khi vừa thức giấc, tôi buột miệng: "Lạy Chúa, con đây". Đây là lời xửa xưa cậu bé Samuen đã thưa với Chúa, khi Chúa gọi cậu giữa đêm, thời cậu đang phục vụ Chúa trong đền thờ dưới quyền thầy cả Êli (1 Sam 3).
Lắng nghe
"Lạy Chúa, con đây". Thế là khởi đầu một thói quen mới nơi tôi. Thói quen ấy nhấn mạnh đến việc lắng nghe Chúa hơn là nói với Chúa. Cậu bé Samuen thưa: "Lạy Chúa, con đây, xin Chúa phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe" (1 Sam 3,10).
Tôi không được diễm phúc nghe Chúa phán bằng lời, nhưng Chúa luôn nhắc lại những gì đã ghi trong Kinh Thánh. Không phải tất cả, cũng không phải chung chung. Nhưng Chúa phán với tôi bằng cách kéo tâm hồn tôi nhìn thấy một lời nào đó trong Kinh Thánh bỗng sáng rực lên, như một chỉ dẫn cho thời sự cụ thể đang xảy ra.
Lời Kinh Thánh đó bừng sáng như  ngọn đèn. Hiện tượng ấy làm tôi nhớ lại lời thánh vương Đavid xưa:
    "Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
    Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ,
    Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù" (Tv 18,29).
Thực tế đúng là như vậy. Có nhiều lúc, đời tôi thực tăm tối mịt mù. Xung quanh tôi như thể đang dần dần thực hiện lời Chúa Giêsu xưa đã nói với các môn đệ của Người trong bữa tiệc ly:
    "Nếu thế gian ghét các con,
    các con hãy biết rằng:
    Họ đã ghét Thầy trước.
    Giả như các con thuộc về thế gian,
    thì thế gian yêu thích các con như những gì thuộc về họ.
    Nhưng vì các con không thuộc về thế gian.
    Và vì Thầy đã chọn, đã tách các con ra khỏi thế gian.
    Nên thế gian ghét các con.
    Hãy nhớ lời Thầy đã nói với các con:
    Tôi tớ không lớn hơn chủ" (Ga 15,18-20).
Thế gian nói đây được hiểu chung về mọi người cố tình sống theo ý mình, quy chiếu vào xác thịt, trần thế, như mẫu gương đời sống.
Càng nhận thức tình hình là thế, tôi càng thêm ước nguyện Chúa sẽ thương đến Hội Thánh ta bằng cách thúc giục mọi người trong Hội Thánh hãy sống theo ý Chúa và thuộc về Chúa.
Đã từ lâu và nhất là hiện nay, tôi chia sẻ tâm thức của thánh vương Đavid:
    "Ngay từ sớm, Ngài đã nghe tiếng con,
    ngay từ sớm, con tỏ bày ước nguyện,
    rồi chăm chú đợi trông" (Tv 5,4).
Đợi trông
Thực vậy, tôi rất đợi trông Chúa, khi nói: "Lạy Chúa, con đây". Tạ ơn Chúa, Chúa vẫn đến với lòng đợi trông của tôi. Người đến bằng Thánh Thần của Người
    - qua lời Kinh Thánh,
    - qua kinh nghiệm quá khứ của lịch sử tôn giáo,
    - và qua chính những biến cố đời tôi.
Qua những ngả đường đó, Chúa luôn nhắn nhủ tôi là hãy sám hối ăn năn về mọi lỗi lầm, hãy luôn trở về với Chúa và Phúc Âm của Người. Người nhắc đặc biệt đến việc phải sống điều răn mới, mà Chúa đã trối lại trong bữa tiệc ly, đó là: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Điều Chúa nhấn mạnh nhiều trong lời trối này là: "Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương". Nghĩa là yêu thương với hy sinh, khôn ngoan, nhất là với sự cầu nguyện tha thiết cho những người tội lỗi và biết chia sẻ tích cực với những người nghèo khổ. Không những Chúa nhắc lại cho tôi điều răn yêu thương, phải coi điều răn đó là rất quan trọng, mà Chúa còn cho tôi cảm thấy tính cách của điều răn yêu thương là rất khẩn thiết cho tình hình hiện nay.
Khẩn thiết
Tôi cảm thấy rõ: Thực sự yêu thương như Chúa yêu thương sẽ là thuốc thần cứu độ. Không thực hiện điều đó sẽ là tai hoạ khủng khiếp.
Tôi nói lời trên đây dựa theo cơ sở:
Một đàng tôi nhìn thấy lửa hận thù ghen ghét và lòng nghi ngờ hiềm khích ích kỷ hiện nay đang lan rộng trên toàn cầu. Những đám lửa loại đó, mà người ta nhìn thấy được, đang càng ngày càng lớn. Còn những đám lửa loại đó, mà người ta không nhìn thấy được, cũng đang ngấm ngầm âm ỷ một cách không kiểm soát nổi dưới nhiều hình thức.
Ngoài ra, tôi nhìn lại quá khứ lịch sử, những năm tháng mà sự loại trừ nhau được coi là bình thường trong bầu khí tôn giáo và xã hội .
Đã có thời, người ta công khai khinh miệt những người khác đạo, khác giai cấp, khác sắc tộc, khác quan điểm.
Đã có thời người ta quyết liệt không đội trời chung giữa hữu thần và vô thần. Quyết liệt trong chủ trương và triệt để trong hành động.
Khi  nhớ về những cảnh đau thương, mà chính tôi đã chứng kiến, tôi rất buồn. Buồn nhất là thấy những việc thời nay cho là ác độc, thì thời đó lại coi là đạo đức. Từ lâu nay não trạng quá khích đã dần dần dịu đi trong đạo ngoài đời tại Việt Nam ta.
Tuy nhiên, những kỷ niệm đau buồn xưa vẫn làm tôi lo sợ cho hiện tại và tương lai. Bởi vì đạo đức đang xuống dần trong nhiều lãnh vực một cách ngang nhiên, bình thường.
Với tâm thức đó, tôi xin mượn lời thánh vương Đavid mà cầu xin Chúa.
Cầu xin
    "Lạy Chúa, xin dạy con cho biết:
    Đời sống con chung cuộc thế nào.
    Ngày tháng con đếm được mấy mươi,
    để hiểu  rằng kiếp phù du là thế" (Tv 38,5).
Chúa như trả lời tôi: Đời sống mỗi người chung cuộc sẽ tốt, ngày tháng mỗi người sẽ đếm bằng thiện chí, kiếp phù du sẽ được bước sang cõi hạnh phúc đời đời, miễn là người ta biết khiêm nhường sám hối trở về với Chúa và giới răn yêu thương của Người.
Phải thực hiện ngay, kẻo sẽ quá muộn. Vì ngày Chúa đến sẽ rất bất ngờ.
Chúa nhắc lại lời dặn dò xưa: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con. Vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát được mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người" (Lc 21,34-36).
Trong tinh thần đó, tôi xin Chúa cho tôi và mọi người được luôn sẵn sàng đón Chúa với lòng sám hối khiêm nhường và chân thành yêu thương vị tha quảng đại. "Lạy Chúa, con đây, xin thương xót con".
+ Gm. GB. BÙI TUẦN 

 

Bùi-Tuần 982: NHỜ ƠN ĐỨC MẸ KHÓC 11-11-2005

TÂM SỰ VỀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN NỘI TÂM
 

Chúng ta là những người đang sống. Những người đang sống thường trao đổi tư tưởng và tâm 11-11-2005: Bùi-Tuần 982

Chúng ta là những người đang sống. Những người đang sống thường trao đổi tư tưởng và tâm tình với nhau. Hệ thống trao đổi gồm lời nói, chữ viết, cử chỉ, thái độ, cả đến những cách huyền bí như thôi miên, thần giao cách cảm.
Còn những người đã chết thì sao?
Truyền thống hầu khắp nơi đều để lại niềm tin này: Những người ở bên kia cõi chết vẫn có những liên hệ mật thiết với người còn sống, mà họ thân thương. Những liên hệ đó thường xuyên là vô hình, nhưng thỉnh thoảng hiện thành hữu hình. Hữu hình dưới nhiều hình thức.
Riêng đối với Đức Mẹ Maria, hình thức hữu hình thông thường nhất được ghi nhận từ trước tới nay là những phép lạ Đức Mẹ làm cứu độ người ta và những hiện tượng Đức Mẹ hiện ra nơi này nơi nọ.
Những ai sùng kính Đức Mẹ một cách đặc biệt thường có những kỷ niệm riêng tư giữa bản thân mình với Đức Mẹ.
Tôi cũng vậy. Một trong những kỷ niệm riêng tư loại đó là những chuyển biến nội tâm xảy ra trong tôi nhờ Đức Mẹ.
Một trong những nguồn tuôn đổ vào hồn tôi ơn chuyển biến là đền kính Đức Mẹ khóc ở La Salette.
Đức Mẹ hiện ra ở La Salette
La Salette là một nơi hẻo lánh thuộc vùng đồi núi trong nước Pháp. Nơi đó xưa kia chẳng ai để ý tới. Nhưng từ năm 1848, nó đã trở thành nơi thu hút khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới.
Hồi du học ở Âu châu, tôi đã tới đó. Ấn tượng đầu tiên và duy nhất in vào hồn tôi, khi tôi tới và ở lại trong khu đền Đức Mẹ La Salette là bầu khí cầu nguyện sám hối.
Nơi đây, có những sách báo và chứng từ của Giáo quyền xác nhận sự kiện Đức Mẹ đã hiện ra tại đây. Đức Mẹ hiện ra dưới hình thức một phụ nữ đẹp, đeo tượng Chúa chuộc tội, ngồi trên một tảng đá, hai bàn tay úp vào mặt và khóc. Hai em bé là Mélanie và Maximin đang ở gần đó thấy vậy, tưởng bà nào trong làng, gặp chuyện buồn gia đình, nên ngồi khóc. Hai em tiến lại hỏi thăm. Sau trao đổi, hai em bỡ ngỡ nhận ra người phụ nữ ngồi đó khóc chính là Đức Mẹ. Đức Mẹ đã khóc, vì thương loài người sẽ gặp nhiều khốn khó, nếu không sám hối, bỏ đàng tội lỗi.
Mục đích cuộc hành hương của tôi không phải là tra cứu sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở đó, nhưng là để xin ơn đổi mới tâm hồn mình, cải thiện tình hình Hội Thánh, và đánh thức lương tâm xã hội, để mọi người biết ghê tởm tội lỗi, trở về lối sống đạo đức Phúc Âm.
Giữa cảnh thanh vắng của núi rừng, tôi ngồi bên tượng Đức Mẹ khóc, như đứa con nhỏ ngồi bên người mẹ hiền đang khóc thương những đứa con hư. Tự nhiên hồn tôi biến chuyển. Biến chuyển không do lý luận nào, không do áp lực nào, nhưng do một nguồn lực thiêng liêng vừa mạnh, vừa êm đềm.
Tôi rời La Salette đã nhiều năm, nhưng biến chuyển tâm hồn mỗi ngày mỗi mới.
Đức Gioan Phaolô II và Đức Mẹ La Salette
Biến chuyển tâm hồn tôi được mới cách đặc biệt hơn nhờ lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết, dịp kỷ niệm 150 năm sự lạ La Salette. Lá thư có đoạn viết:
"Đức Maria, người Mẹ đầy tình yêu đã tỏ ra ở La Salette nỗi đau buồn của Người trước sự ác luân lý của nhân loại. Qua những nước mắt của Mẹ, Mẹ giúp chúng ta hiểu hơn sự nghiêm trọng đau đớn của tội lỗi, của sự từ bỏ Thiên Chúa. Đồng thời cũng qua những nước mắt ấy, Mẹ nói lên sự trung thành say mê của Con Thiên Chúa đối với những anh em mình. Chúa Giêsu, là Đấng Cứu chuộc, nhưng tình yêu của Người bị thương tích bởi sự quên lãng và chối từ của nhân loại... Mẹ thương xót cho những khó khăn của các con cái Mẹ. Mẹ đau đớn thấy nhiều con cái Mẹ xa lìa Hội Thánh Đức Kitô, đến nỗi quên hẳn hoặc từ chối sự hiện diện của Chúa trong đời sống mình".
Những dòng thư trên đây của Đức Gioan Phaolô II về Đức Mẹ khóc ở La Salette đã đưa những nước mắt của Đức Mẹ vào thời sự hôm nay, một thời sự có những bóng tối gieo tai hoạ khủng khiếp.
Đức Hồng Y Martini và Đức Mẹ La Salette
Tâm tư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về Đức Mẹ khóc ở La Salette sau đó đã được nối tiếp bởi những bài suy gẫm của Đức Hồng Y Carlô Martini, dịp Ngài đứng đầu  phái đoàn nước Ý đi hành hương La Salette.
Dịp này, Đức Hồng Y Martini đưa người hành hương đến những đoạn Phúc Âm nói về nỗi đau của Đức Mẹ và Chúa Giêsu như:
- Đoạn ghi những lời ông Simêon đã nói với Đức Mẹ, lúc Đức Mẹ dâng con trong Đền thánh: "... Một lưỡi đòng sẽ đâm qua lòng Bà..." (Lc 2,33-35).
- Đoạn tả lại cảnh Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu: "Cạnh thánh giá Đức Giêsu có Mẹ Người, chị mẹ Người, bà Maria, vợ ông Clopas và Maria Magdala" (Ga 19,25).
- Đoạn thư gởi Do Thái: "Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời cầu nguyện..." (Dt 5,7).
Suy gẫm trong thinh lặng những đoạn Kinh Thánh trên đây bên cạnh Đức Mẹ khóc, tôi cảm thấy lòng mình chuyển biến rõ rệt.
Những chuyển biến nội tâm nơi tôi
Những chuyển biến đó có thể diễn tả như sau:
1- Năng hỏi chính mình xem có tởm gớm xa tránh tội lỗi, để an ủi  Chúa Giêsu và Đức Mẹ không?
2- Năng hỏi chính mình xem có tâm tình xót thương những người  tội lỗi, lầm lạc và đau khổ đủ loại vì nhiều lý do không?
3- Năng hỏi mình xem có chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, để cứu chuộc nhân loại không?
4- Năng hỏi mình xem đã hiểu được tới đâu mầu nhiệm của đau khổ, của thánh giá, của nước mắt, trong tình yêu cứu độ?
Những chuyển biến như thế trong tâm hồn tôi cũng được coi là sứ điệp Đức Mẹ La Salette gởi cho tôi, và nhắc lại cho tôi qua những thời sự xảy ra đó đây.
Những sứ điệp này đều bắt nguồn từ Phúc Âm. Không có gì mới lạ. Nếu có gì gọi được là mới lạ, thì chính là sự nhắc nhở sứ điệp dưới một hình thức dễ hiểu, dễ rung động lòng người.
Với những chuyển biến tâm hồn mà tôi nhận được từ việc hành hương La Salette, nơi Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình thức người mẹ khóc, tôi cảm tạ Chúa, tôi cho đó là một ơn Chúa ban cho Hội Thánh, cho nhân loại và cho tôi.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN  

 

Bùi-Tuần 983: CẠM BẪY TRONG MỤC VỤ TẠI VIỆT NAM HÔM NAY

15-11-2005
 

Cuối tháng 11-2005 này, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Bộ trưởng Bộ Truyền giáo của Toà Thánh 15-11-2005 Bùi-Tuần 983

Cuối tháng 11-2005 này, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Bộ trưởng Bộ Truyền giáo của Toà Thánh Vatican, sẽ tới Việt Nam.
    Đây là một chuyến thăm mục vụ.
    Giáo Hội Việt Nam sẽ hân hoan đón tiếp Ngài, cũng trong tinh thần mục vụ.
    Hiệp thông với Giáo Hội Việt Nam, và với Ngài, tôi xin góp phần nhỏ bé trong biến cố này bằng cách dâng lên Chúa đôi chút suy nghĩ về vài vấn đề mục vụ tại Việt Nam hôm nay.
    Trong lý thuyết và trên thực tế, mục vụ là lãnh vực bao la, chứa đựng vô vàn tư tưởng và hoạt động đa dạng. Trên thực tế, Giáo Hội Việt Nam đã và đang tiến về phía trước với nhiều thành quả tốt. Tuy nhiên, con đường sống đạo chẳng bao giờ thiếu cạm bẫy. Trước thực tế đó, tôi nghĩ rằng: Nếu đề cập đến một vài nguy cơ cạm bẫy, thì đó cũng chính là một cách yêu mến Giáo Hội. Vì thế, ở đây, tôi tự giới hạn suy nghĩ của tôi vào vài điểm, mà tâm tư riêng của tôi cho là có cạm bẫy trong tình hình sống đạo tại Việt Nam hiện giờ.
    1. Những đổi mới thiếu bề sâu Phúc Âm
    Ở đây, tôi xin miễn bàn tới việc đổi mới trong xã hội Việt Nam. Tôi cũng không nói tới những đổi mới sâu rộng tại nhiều nơi trong Giáo Hội Việt Nam, nhờ đó nhiều cá nhân và nhiều cộng đoàn đang trở thành những mẫu gương đạo đức cho xã hội. Tôi chỉ xin nói qua về vài thứ đổi mới đáng ngại đang phát triển tại một số nơi trong Giáo Hội địa phương chúng ta.
    Đó là những thứ đổi mới không theo Phúc Âm, mà chỉ theo phong trào đời. Do đó tinh thần thế tục đang lẻn vào trong nhiều lãnh vực, nhất là:
    Trong lãnh vực xây dựng. Trong lãnh vực tổ chức lễ lạy và nếp sống tôn giáo. Trong lãnh vực sử dụng tự do. Trong lãnh vực mở mang uy tín.
    Nhìn sơ qua việc đổi mới trong các lãnh vực trên đây, nhiều người đã thấy có cạm bẫy cài trong đó. Cạm bẫy này đang làm giảm tinh thần Phúc Âm một cách rõ rệt, nếu không tỉnh thức và cầu nguyện.
    Riêng tôi, càng ngày tôi càng xác tín rằng: Sự đổi mới cần thiết cho Giáo Hội Việt Nam lúc này hệ tại ở sự làm cho các tín hữu, nhất là hàng giáo sĩ, tu sĩ, vươn dần tới tình trạng trưởng thành thiêng liêng .
    Thế nào là trưởng thành thiêng liêng? Xin thưa rất vắn tắt:
    Một đàng cần phát triển tốt các nguồn lực tự nhiên Chúa ban cho mình, như trí khôn, ý muốn, trí nhớ, trí tưởng tượng. Các tài năng này, khi phát triển tốt, sẽ là thửa vườn có đất tốt, dễ đón nhận các hạt giống của sự sống thiêng liêng.
    Một đàng là sự sống mới do Chúa Thánh Thần ban sẽ được gieo và đâm rễ trên thửa đất nhân loại đã được chuẩn bị. Các hạt giống của ơn Chúa Thánh Thần sẽ dần dần mọc lên, giúp cho các tài năng nhân loại nơi con người có một cái nhìn mới, những ước muốn mới, những nhân đức mới, những ân sủng mới, những dấn thân mới.
    Những con người được đổi mới như trên sẽ rất khiêm nhường. Họ sẽ là men, là muối, có vai trò rất lớn trong mục vụ.
    Hiểu như thế, tôi e ngại: Một khủng hoảng về sự đổi mới sẽ xảy ra, nếu sự đổi mới chỉ dừng lại và tập trung vào những việc bề ngoài, hoặc bị lạm dụng.
    Ngoài vấn đề "đổi mới" đang có nguy cơ đi vào khủng hoảng, tôi thấy còn một vấn đề nữa cũng có cạm bẫy, đó là vấn đề quy tụ cưu mang nguy cơ phân hoá.
    Tại Việt Nam hiện nay, việc quy tụ là việc rất dễ thực hiện. Chỉ cần một chút quyền, một chút lợi, một chút mới lạ, một chút vui, một chút áp lực là có thể quy tụ một số đông đến cả mấy chục ngàn người. Nhưng trong mọi quy tụ đều có nguy cơ gài bẫy phân hoá.
 
  1.   Những quy tụ cưu mang nguy cơ phân hoá
    Nếu căn cứ vào quy tụ như một hình thức hiệp nhất, thì sẽ lầm to. Bởi vì dưới hình thức quy tụ vẫn có nhiều phân hoá. Hơn nữa, trong quy tụ nhiều khi lại có cạm bẫy phân hoá, do nhiều phía đặt sẵn. Trên thực tế, tại Việt Nam, tôi thấy mấy thứ phân hoá đau lòng sau đây:
    1. Thứ nhất là phân hoá giữa giàu và nghèo. Khoảng cách giữa giàu và nghèo xem ra càng ngày càng lớn. Ngay trong giới nhà tu.
    Sửa chữa khoảng cách này không phải là chia đều của cải, nhưng là sửa lại cách đối xử với người nghèo. Thí dụ:
    - Quan tâm nhiều hơn đến việc giúp đỡ khẩn cấp và trực tiếp người nghèo.
    - Để ý nhiều hơn đến việc xoá bỏ dần chính những nguồn gốc sinh ra cảnh nghèo.
    - Giúp họ và cộng đồng nhận thức được thiện chí và những đóng góp bé mọn của họ.
    Chúng ta không ca tụng sự nghèo khổ. Nhưng chúng ta kính trọng những người nghèo và đánh giá các việc tốt của người nghèo theo cái nhìn của Chúa.
    2. Thứ hai là phân hoá giữa những cá nhân và những cộng đoàn. Hiện tượng này xảy ra cả nơi những người đạo đức và những cộng đoàn truyền giáo. Lý do rất phức tạp. Như tính tình khác nhau, quyền lợi khác nhau, định hướng khác nhau.
    Giải quyết các thứ phân hoá này, nếu không tế nhị khôn ngoan, sẽ đưa đến những hậu quả tai hại không lường trước được. Lịch sử Giáo Hội và các cộng đoàn đã chứng minh điều đó.
    3. Thứ ba là phân hoá giữa những nhận định và đánh giá. Hiện nay, không thiếu người tốt bị kết án là xấu, không thiếu hành vi xấu lại được coi là vô tội, không thiếu đường lối sống đạo được kẻ khen người chê.
    4. Thứ bốn là phân hoá giữa những gốc gác, phe nhóm và cấp bậc. Người cùng gốc, cùng phe, cùng cấp bậc gây thành một khối quyền lực riêng, với những định hướng riêng, với những loại trừ riêng.
    Thứ phân hoá đáng ngại nhất là thứ phân hoá ngấm ngầm, được che giấu dưới những hình thức quy tụ lớn, nhất trí cao, nhưng chỉ là bề ngoài mong manh, giả tạo.
    Quy tụ cưu mang phân hoá, nếu không được khám phá kịp thời, có thể sẽ gây nên một khủng hoảng cho Giáo Hội và xã hội.
    Đổi mới sai hướng và quy tụ cưu mang phân hoá là hai vấn đề thời sự lớn trong mục vụ tại Việt Nam hôm nay. Cả hai cùng có cạm bẫy.
    Mọi cạm bẫy không bao giờ để lộ nguyên hình, công khai và có báo trước. Riêng trong mục vụ, đặc biệt là ở phòng trào đổi mới và quy tụ, cạm bẫy sẽ rất tinh vi và kín đáo.
    Tôi quá bé nhỏ để đưa ra một cách giải quyết toàn diện. Tôi chỉ xin chia sẻ một ý hướng, mà tôi cho là nền tảng trong mọi cách giải quyết. Ý hướng đó là những người mục tử nên tăng cường đời sống đạo đức nội tâm. Đời sống nội tâm này phải thực sâu. Với đời sống này, tôi sẽ được Chúa ở lại trong tôi. Người sẽ dẫn đưa tôi trong sứ vụ sống phục vụ cho tha nhân. Nghĩa là tôi sống với Chúa và tôi sống phục vụ cho tha nhân. Phải thực sự đúng như vậy trong đức Ái thẳm sâu. Từ đó sẽ đi vào những việc cụ thể, theo nhu cầu cụ thể, hợp với khả năng cụ thể, dưới ánh sáng Lời Chúa dẫn đưa.
Những suy nghĩ trên đây là một của lễ hèn mọn, xin dâng lên Chúa giàu lòng thương xót, trong tay Mẹ Maria nhân từ.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 984: MỘT CHUYẾN THĂM MỤC VỤ 20-11-2005

 Đức Hồng Y Crescenzio Sepe
 

Trong nguyệt san "30 ngày" số 8-2005, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe đã trả lời phỏng vấn về 20-11-2005 Bùi-Tuần 984

Trong nguyệt san "30 ngày" số 8-2005, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe đã trả lời phỏng vấn về chuyến đi Việt Nam, mà Ngài sắp thực hiện.
Trả lời của Ngài rất vắn tắt. Xin trích đoạn Ngài xác định mục đích chuyến đi này:
"Chuyến đi này có mục đích hoàn toàn và duy chỉ là mục vụ. Nó sẽ gồm những cuộc viếng thăm các Đức Giám mục và các cộng đoàn công giáo. Cũng sẽ có những cuộc gặp các vị đại diện chính quyền.
Tôi hy vọng chuyến đi này sẽ là một khích lệ cho mọi người, để họ sống đức tin với niềm vui. Nhưng tôi cũng không quên sự dấn thân của Hội Thánh vào việc hỗ trợ sự phát triển tôn giáo, và cả đến văn hoá, xã hội và nhân đạo trong đại quốc gia Việt Nam".
Những lời trên đây của Đức Hồng Y Bộ Truyền giáo của Toà Thánh Vatican là những xác định khôn ngoan toả ra những hy vọng rộng mở.
Chúng ta trông đợi chuyến viếng thăm của Ngài tại Việt Nam sẽ thành công tốt đẹp.
Thế nào là một chuyến thăm mục vụ thành công tốt đẹp? Mỗi người có thể nghĩ khác nhau, tuỳ cái nhìn của mình.
Riêng tôi, tôi đã thực hiện nhiều chuyến viếng thăm mục vụ. Những chuyến viếng thăm này tất nhiên, ở mức thấp, trong phạm vi nhỏ. Tuy nhiên, cũng từ đó đã hình thành trong tôi hình ảnh về một chuyến viếng thăm mục vụ gọi được là thành công. Tôi xin phép chia sẻ.
Theo tôi, thành công của một chuyến thăm mục vụ sẽ tuỳ thuộc ở ba yếu tố chính yếu sau đây:
1- Nội dung cuộc viếng thăm là tình yêu Chúa
Thực vậy, những cuộc viếng thăm hoàn toàn và duy chỉ là mục vụ bao giờ cũng chủ ý trao tặng tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa nói đây không phải là một chủ trương, một kế hoạch, một hệ thống lý thuyết, nhưng là một tình yêu của Thiên Chúa sống động, vô cùng quý giá, vô cùng cần thiết cho hạnh phúc con người.
Tình yêu này là một mời gọi, một quà tặng. Nó hiện diện êm đềm kín đáo trong người thăm viếng. Người thăm viếng mục vụ ra đi với tư cách người được Chúa sai đi, mang theo tình yêu của Chúa.
Chính Chúa Giêsu cũng đã được Chúa Cha sai vào thế gian, để mạc khải tình yêu Thiên Chúa. Người mạc khải bằng lời nói, việc làm và chính cuộc sống của Người.
Người rất ý thức sứ vụ của Người là như thế. Người mong muốn mọi người cũng hiểu như thế. Nhưng chẳng may, nhiều người đã hiểu sai.
Sự hiểu sai nội dung cuộc viếng thăm là một sự kiện đáng buồn. Sự kiện này ảnh hưởng nhiều đến sự thành công của việc viếng thăm mục vụ.
Vì thế, có thể nói thành công của một chuyến viếng thăm mục vụ tuỳ thuộc khá nhiều vào việc những người được viếng thăm có nhận ra đúng nội dung cuộc viếng thăm đó không.
Hiểu đúng, đó đã là một yếu tố đáng mừng. Nhưng chưa đủ. Cần một yếu tố nữa. Đó là đón nhận nội dung ấy. Như trên đã nói, nội dung chuyến viếng thăm là tình yêu Chúa.
2- Đón nhận tình yêu Chúa trong cuộc viếng thăm
Tình yêu Chúa là một quà tặng. Quà tặng này có những mời gọi. Như mời gọi người nhận hãy để Chúa cứu họ ra khỏi xiềng xích tội lỗi, và như mời gọi họ hãy phấn đấu sống trong sạch, thánh thiện, để càng ngày càng nên xứng đáng là con Thiên Chúa.
Những mời gọi như thế của tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi người đón nhận phải phấn đấu, phải sống một đời sống biết vui với những giá trị cao đẹp của thánh giá cứu độ và của Tám Mối phúc, chứ không phải một đời sống vui với những thoả thích thấp hèn của xác thịt, trần gian theo hướng hưởng thụ.
Chính vì những đòi hỏi thánh thiện của tình yêu Thiên Chúa, mà tình yêu Chúa trao tặng có thể được người ta đón nhận và cũng có thể bị người ta từ chối.
Bởi vì Chúa cho con người được tự do. Người không ép buộc, không áp đặt.
Tự do đón nhận cũng có nhiều cách.
Tự do từ chối cũng có nhiều cách.
Cách tự do đón nhận đáng quý nhất là đón nhận thực tình, hân hoan, biết ơn và quyết tâm thực hiện mọi điều tình yêu Chúa đòi hỏi.
Cách tự do đón nhận đáng buồn là chỉ mang tính cách xã giao, thiếu thiện chí, bôi bác cho qua.
Hiện tượng từ chối cũng rất thường xảy ra. Nó được thực hiện dưới nhiều hình thức, từ lộ liễu đến tinh vi.
Hiểu như trên, ta thấy thành công của một chuyến viếng thăm mục vụ không thể chỉ căn cứ vào những đón tiếp linh đình hoặc vài kết quả bề ngoài.
Như vậy, thành công đích thực tuỳ thuộc ở yếu tố nhận ra đúng quà tặng tình yêu Chúa và biết đón nhận quà tặng đó.
Theo thiển ý của tôi, còn một yếu tố nữa sẽ giúp cho thành công cuộc viếng thăm được hoàn thiện. Yếu tố đó là phát triển tốt hạt giống tình yêu Chúa tặng.
3- Phát triển tốt hạt giống tình yêu Chúa
Tôi quan niệm một cuộc viếng thăm mục vụ chính là một việc gieo trồng những gì tình yêu Chúa gởi tặng cho những con người một vùng, một nước.
Việc gieo chỉ là việc của một thời gian vắn. Nhưng việc mọc mầm, lớn lên thành cây là việc của thời gian dài.
Trong thời gian dài đó, hạt giống được gieo vào đất cần được chăm sóc ân cần. Nếu không, hạt giống sẽ bị chim chóc ăn đi, hoặc bị cỏ dại lấn át làm chết dần.
Sự chăm sóc đòi nhiều tỉnh thức và khôn ngoan của ơn Chúa Thánh Thần. Nếu không, thành quả tốt ban đầu của cuộc viếng thăm mục vụ sẽ qua đi như mây khói. Thay vào đó, sẽ là những đổi mới không còn trên nền tảng Phúc Âm và những quy tụ chỉ gây nên chia rẽ. Thay vì hướng về tình yêu Chúa cứu độ, con người sẽ lạc hướng, tìm về những tình yêu tai hại.
Vài suy nghĩ trên đây đã rút ra từ những kinh nghiệm hơn là những lý thuyết.
Kinh nghiệm còn cho tôi thấy:
Những cuộc viếng thăm mục vụ đã là dịp để biết người, biết ta, biết những sự lạ lùng Chúa làm trong thế giới các tâm hồn, và biết những rào cản vô hình khác nhau chặn lối vào Nước Trời.
Với những tâm sự chân thành trên đây, tôi cầu nguyện và xin mọi người công giáo Việt Nam cầu nguyện cho chuyến đi mục vụ đầu tiên của Đức Hồng Y Bộ Trưởng Bộ Truyền giáo trên quê hương Việt Nam chúng ta.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 985: MỪNG LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

08-12-2005
 

Một trong những tước hiệu cao quý mà Hội Thánh mừng khen Đức Mẹ Maria, là "Vô nhiễm nguyên 08-12-2005 Bùi-Tuần 985

Một trong những tước hiệu cao quý mà Hội Thánh mừng khen Đức Mẹ Maria, là "Vô nhiễm nguyên tội". Lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được cử hành hằng năm vào ngày 8 tháng 12.
Ngày này không xa trước lễ Chúa Giáng sinh. Đó cũng là một lựa chọn khôn ngoan của Phụng vụ. Như thể Phụng vụ muốn nhắc cho mọi thành phần Dân Chúa nhớ: Đức Mẹ là gương cho những ai được Chúa chọn mang Đấng Cứu thế đến các tâm hồn.
Như Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu vào thế gian từ tấm lòng trong sáng thế nào, thì những người muốn mang Chúa Giêsu đến với các linh hồn cũng hãy có lòng trong sáng như vậy.
Gợi ý trên đây nên được chúng ta đón nhận cách đặc biệt.
Thế nào là đón nhận một cách đặc biệt?
Tôi có một vài suy nghĩ về vấn đề này, xin được chia sẻ.
Theo tôi, đón nhận gợi ý mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách đặc biệt là nên hiểu những điểm sau đây:
    1. Tình hình hiện nay rất cần những gương trong sáng.
    2. Những gương trong sáng thời nay cần một số nét nổi bật.
    3. Mỗi người đều có thể đóng góp cho việc nêu gương sáng trong hoàn cảnh hiện nay.
1- Tình hình hiện nay rất cần những gương sáng
"Chuyển biến, cải cách, đổi mới, thay thế" là những từ được tung ra từ mấy năm nay. Tung ra như những hứa hẹn và khẳng định. Kết quả có tốt, có xấu.
Riêng trong lãnh vực tự do, kết quả của quá nhiều thứ chuyển biến dẫn mỗi người đến thói quen tự chủ, tự chọn, tự quyết, tự tin. Tiếp đến một bước nữa là thay đổi giới hạn niềm tin. Mỗi người xem ra chỉ tin vào một số người nhất định.
Chuyển biến niềm tin diễn ra hằng ngày. Dần dần nó gây nên khủng hoảng niềm tin trong mọi lãnh vực. Từ xã hội, Giáo Hội, đến cơ quan, bạn bè, gia đình. Người nào cũng chỉ muốn an phận, mình biết mình. Vẫn giao tiếp nhưng dè dặt, thận trọng, chừng mực.
Mất niềm tin là một hiện tượng tiêu cực. Nhưng đàng sau điều đáng ngại đó, lại ngầm mọc lên một sự kiện tích cực, đó là khát vọng gặp được những ai mình có thể đặt trọn niềm tin.
Những người như thế thường đẹp ở trong mộng, trước khi gặp được trong thực tế. Họ đẹp nhất ở cái tâm. Cái tâm của họ trong sáng, không bị tội lỗi khống chế, nhưng rạng rỡ tình yêu cứu độ. Cái tâm đó là những gương sáng. Sáng, nhưng không phô trương, bởi vì sáng mà rất khiêm nhường. Sáng, nhưng không khinh thị tối tăm của ai, bởi vì sáng mà rất yêu thương.
Những gương sáng như thế thời nay cần những nét nổi bật nào?
2- Những nét nổi bật của gương sáng thời nay
Theo tôi, những gương sáng trong đạo thời nay cần nổi về ba điểm sau đây.
Điểm thứ nhất là chiều kích hướng trần.
Tôi tạm gọi chiều kích hướng trần là một tấm lòng rộng mở về phía phát triển các giá trị trần thế để phục vụ con người. Thí dụ, tôi được phân công phục vụ một Hội Thánh địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, thì cái tâm của tôi phải chia sẻ những lo âu và những hy vọng của địa phương này. Chia sẻ trong mọi khía cạnh của cuộc sống cụ thể của đồng bào tôi. Tôi thực tình chia sẻ theo yêu cầu của cuộc sống và theo khả năng của tôi. Nhất là tôi phải quan tâm nhiều đến những cuộc sống nghèo khổ.
Điểm thứ hai là chiều kích hướng thượng.
Tôi hiểu chiều kích hướng thượng là một tấm lòng khao khát những giá trị đạo đức. Như lòng yêu mến sự thực, lòng chân thành, lòng hiếu thảo, lòng yêu nước, lòng từ thiện, lòng vị tha, lòng sẵn sàng hy sinh cho lợi ích chung, lòng liên đới với số phận những người cùng khổ, lòng mơ tìm một hạnh phúc sau khi chết trong cõi đời sau.
Tại địa phương này, tôi đã nhận được nhiều giá trị đạo đức như trên. Những người đạo đức như thế đã là gương sáng cho tôi.
Tuy nhiên, một gương sáng, mà tôi mơ ước có phần nào theo gương Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, nên bước thêm một bước nữa, đó là tìm đến tận nguồn.
Điểm thứ ba là tìm đến nguồn của hai chiều kích nói trên.
Nguồn chảy ra ơn thánh giúp phát triển hai chiều kích trên là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Thiên Chúa giàu lòng thương xót được mặc khải trong Đức Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời Nhập thể. Người sống giữa lớp người nghèo khó. Từ sinh ra trong hang đá Bêlem cho đến chết trên thánh giá tại đồi Calvariô, Đức Kitô đã giới thiệu dung mạo thật của Thiên Chúa. Người chỉ là tình yêu. Người chỉ là quà cứu độ ban tặng. Tình yêu ấy là một cuộc chiến đấu cam go với sự ác. Một cuộc chiến mang rất nhiều hy sinh. Hy sinh vì tình yêu.
Khi đã hiểu sơ qua về gương trong sáng Chúa muốn có nơi chúng ta, để chúng ta bắt chước Đức Mẹ, mỗi người chúng ta nên có những đóng góp nào?
3- Đóng góp của mỗi người chúng ta
Mỗi người có thể và nên đóng góp theo nhu cầu hoàn cảnh và khả năng của mình. Tôi xin phép kể một mẩu chuyện nhỏ:
Ngày nhà giáo, 20 tháng 11 năm nay, tôi được một niềm vui rất bất ngờ. Hôm đó, bất ngờ, tôi được người coi cửa phòng tôi báo cho tôi biết là có một người ngồi xe lăn xin đến thăm tôi. Tôi mời vào. Tôi rất ngạc nhiên nhận ra người ngồi xe lăn chính là một cô giáo bị bệnh từ nhiều năm. Đã từ rất lâu rồi, tôi không gặp cô. Hôm nay cô đến thăm tôi. Quà tặng là một đoá hoa hồng và một tràng hạt bằng cây Ôliu do cháu cô đi Fatima mua gởi về cho cô. Cô nói: Cô thăm tôi vì tôi là thầy giáo của cô. Tôi thưa: Tôi không hề dạy học cô bao giờ. Cô nói: "Đức Cha là thầy của con, vì con học được rất nhiều bài học quý giá Đức Cha viết trên báo Công Giáo và Dân Tộc".
Tôi rất cảm động. Vì cô là người không công giáo, nhưng đã từ rất lâu mỗi ngày, cô vẫn trung thành cầu nguyện Đức Mẹ Maria bằng lần chuỗi Mân côi và năng làm từ thiện.
Tôi coi đây là một đóng góp quý giá Chúa nhắc nhở cho tôi. Dù bệnh tật, dù là người ngoài công giáo, cô vẫn cầu nguyện, làm việc từ thiện và khích lệ tôi hãy cố gắng giúp đời, khi còn có thể.
Từ chuyện nhỏ trên đây, tôi nhận thức điều này: Ai cũng có khả năng làm một số việc lành phúc đức, nhất là cầu nguyện, làm từ thiện, dâng hy sinh cho Chúa, và khích lệ người khác hãy làm điều thiện.
Để kết, tôi xin Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội thương đến mỗi người chúng ta. Xin Mẹ gởi đến Việt Nam nhiều gương sáng đạo đức. Nhất là xin Mẹ thương giúp chính chúng ta trở thành gương sáng. Cho dù chúng ta chỉ làm được những việc lành nhỏ, trong phạm vi nhỏ, âm thầm giữa những tâm hồn bé mọn.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 986: CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 20-12-2005

Gm. Bùi Tuần
 

Đối với chúng ta, lễ Chúa Giáng sinh được coi là một lễ đặc biệt trọng thể, gây ấn tượng sâu đậm 20-12-2005 Bùi-Tuần 986

Đối với chúng ta, lễ Chúa Giáng sinh được coi là một lễ đặc biệt trọng thể, gây ấn tượng sâu đậm cho con người và cho đời ta.
Lễ này cũng là cái mốc lịch sử cho cả thế giới.
Noel là lễ Đạo. Nhưng dần dần lễ này được mừng kính với nhiều yếu tố đời. Đến nỗi, tại nhiều nơi, lễ Giáng sinh nay đang mất dần ý nghĩa thánh thiêng. Noel trở thành lễ hội hơn là lễ thánh.
Để tránh bị biến chất đau buồn như thế có thể xảy ra cho chúng ta và cộng đoàn chúng ta, chúng ta nên tỉnh thức bảo vệ sự thánh thiêng của lễ trọng này.  Để bảo vệ, tôi xin gợi lên vài chuẩn bị tâm hồn.
 1- Hãy chuẩn bị bằng sự khát khao tìm đến Đấng Cứu Thế
          Phúc Âm thánh Matthêu kể một chi tiết đáng suy nghĩ sau đây: Ba Vua ngoại đạo từ phương xa vất vả đi tìm Đấng Kitô mới sinh. Đến Giêrusalem, các ngài vào hỏi vua Hêrôđê, để biết nơi nào là nơi Đấng Kitô sinh ra. "Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sĩ trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bêlem, xứ Giuđêa" (Mt 2,9).
          Các thượng tế và kinh sĩ trả lời đúng. Điều đó đáng mừng. Nhưng điều đáng buồn là các ngài trả lời, chỉ lối. Xong rồi thôi. Chứ không đi với ba Vua để tìm đến Đấng Cứu Thế.
        Tôi sợ điều đáng buồn đó cũng có thể xảy ra nơi chính chúng ta hôm nay. Chúng ta trả lời chỉ lối đúng sách, đúng bài. Nhưng xong rồi thôi. Chúng ta không cảm thấy có bổn phận đi tìm đến Đức Kitô. Mặc dầu chúng ta nhận rõ:
•        Nhân loại đang mắc vào bao nguy cơ,
•        Hội Thánh đang rơi vào bao thảm hoạ,
•        Cộng đoàn đang bị đẩy vào bao khó khăn,
•        Gia đình đang vật lộn với bao khốn khó,
•        Bản thân ta đang chìm nổi giữa thao thử thách.
Trước cảnh đáng lo ngại đó, đáng lẽ chúng ta phải đem hết sức hết lòng tìm đến Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Chính Người đã giáng sinh, vì mục đích cứu đời, cứu ta. Nhưng chúng ta không quan tâm.
•        Thái độ của ba Vua ngoại đạo là một gương sáng cho ta.
•        Hãy tìm đến Đức Kitô với lòng khao khát thực sự chân thành.
•        Hãy tìm đến Đức Kitô với những việc lành trong khả năng của ta.
•        Hiện nay, các trào lưu tục hoá đang là một sức mạnh lôi kéo chúng ta khao khát những gì xung quanh hang đá, và nhân danh hang đá.
•        Còn chính Đức Kitô trong hang đá, thì nhiều khi chúng ta coi là yếu tố phụ.
                   Chúng ta hãy sốt sắng tìm đến Người. Người là tình yêu cứu độ. Người sẽ cứu độ chúng ta, nếu chúng ta tỏ thiện chí. Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay đầy những xáo trộn và đe doạ.
2- Hãy chuẩn bị bằng sự đón nhận Đức Kitô
          Trong những lời mở đầu Phúc Âm thánh Gioan có một câu rất buồn về lễ Noel: "... Người đã đến nhà của mình. Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người" (Ga 1,11).  Sự kiện đáng buồn đó đã xảy ra thuở ấy. Nhưng chẳng may sự kiện này vẫn tiếp tục xảy ra đó đây hiện nay.
          Lý do "người nhà của Chúa chẳng chịu đón nhận Chúa", thiết tưởng là vì thế này: Người ta tưởng Chúa sẽ đến trong cảnh sang trọng giàu có, vinh quang lẫy lừng, thành công rực rỡ, uy quyền hùng mạnh. Thế mà Chúa lại đến trong thân phận khó nghèo, hèn mọn, bé bỏng, khiêm hạ.
          Chúa Giêsu cứ như thế trên đường đến với nhân loại. Thánh giá vẫn là một cách Chúa đến. Phép Thánh Thể cũng là một cách Chúa đến. Vẫn trong thân phận khó nghèo, bé mọn, khiêm tốn, chôn vùi, kín đáo.
          Chúa Giêsu vẫn như thế trên đường đến với mỗi người chúng ta hằng ngày. Và qua những ơn phần hồn phần xác âm thầm, riêng tư.
          Hiện nay, chúng ta đang bị cảnh ồn ào náo động cản ngăn việc nhận ra Chúa và lắng nghe ý Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực sự có thiện chí đón nhận Chúa và thánh ý Chúa, chúng ta sẽ được Chúa giúp đỡ để đón nhận Chúa, dưới bất cứ hình thức nào, dù rất bất ngờ.
 3- Hãy chuẩn bị bằng cách lắng nghe lời chúc Bình an
          Phúc Âm thánh Luca kể rằng: "Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa, sứ thần Chúa đứng bên họ... Sứ thần bảo họ: Anh em cứ dấu này mà nhận ra Đấng Kitô; anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm." (Lc 2,8-14).
          Suy nghĩ đoạn Thánh Kinh trên đây, tôi thấy thế này: Bình an là lời chúc từ trời. Đó là lời chúc quý nhất, cần nhất. Lời chúc bình an đêm Chúa Giáng sinh được hát lên trong đêm thanh vắng, giữa cánh đồng thanh vắng, trong bầu trời thanh vắng. Gợi ý rằng: Lời chúc bình an bởi trời sẽ nghe được bởi những người có tâm hồn thanh vắng.
          Trong tâm hồn thanh vắng, lời chúc bình an từ trời gởi xuống sẽ được đón nhận bởi những tấm lòng hướng thiện.
           Hướng thiện nhất là hướng về Chúa Cứu Thế. Luôn đặt Người làm trung tâm đời mình. Ta hãy coi các mục đồng. Trên đường đến hang đá, họ đã không để ý đến mục tiêu nào, ngoài hài nhi mà sứ thần diễn tả. Và khi tới đó, các mục đồng cũng chỉ để ý đến Hài nhi Giêsu như trung tâm chuyến đi của mình. Họ tin Hài nhi đó. Họ coi Hài nhi đó là Tin Mừng của họ. Họ nhận Hài nhi đó là Đấng cứu độ của họ.
Tôi nghĩ thiện tâm của các mục đồng là như vậy. Và tôi coi đó là mẫu gương thiện tâm. Khi tôi điều chỉnh lòng tôi,
để lòng tôi luôn hướng về sự thiện, và đặt Chúa Giêsu làm trung tâm mọi sự thiện trong đời tôi, thì tôi sẽ đạt được lời
chúc bình an của đêm Noel.
   Với gợi ý trên đây, tuy dù vắn gọn, nếu được thực hành, sẽ chuẩn bị cho chúng ta một lễ Giáng sinh an vui, thánh thiện.
     Trong một tình hình mà hạnh phúc trở thành quá mong manh, lễ Giáng Sinh sẽ là niềm hy vọng cho những ai biết khát khao Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ, biết đón nhận Chúa Giêsu là Đấng đến ở giữa chúng ta, biết lắng nghe và thực hành lời chúc bình an với ý nghĩa là biết đặt Chúa Giêsu làm trung tâm đời mình.

 

Bùi-Tuần 987: THIỆN TÂM 24-12-2005

Bài giảng mừng Chúa Giáng sinh Tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, Đêm 24-12-2005
 

Lễ Noel tại Việt Nam năm nay tự nhiên phát triển theo hai hướng: Hướng tưng bừng tại các 24-12-2005 Bùi-Tuần 987

Lễ Noel tại Việt Nam năm nay tự nhiên phát triển theo hai hướng: Hướng tưng bừng tại các nhà thờ, và hướng ấm cúng tại các tư gia.
1- Dù ở nhà thờ dù ở tư gia, bầu khí tôn giáo đều sốt sắng, chân thành. Chân thành đối với Chúa, chân thành đối với mọi người xung quanh. Nhất là chân thành trong việc cầu nguyện.
Tôi thấy rất nhiều người đã cầu nguyện và tiếp tục cầu nguyện. Các ơn người ta cầu xin dịp Noel được kể như đủ thứ. Nhưng có hai ơn thường được nhiều người cầu xin cách đặc biệt, đó là ơn bình an và ơn thiện tâm.
Riêng tôi, tôi nhấn mạnh đến ơn thiện tâm. Bởi vì có thiện tâm mới có bình an. Như lời các thiên thần đã hát xưa trên trời Bêlem: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14).
Như thế, thiện tâm là một điều kiện căn bản để có bình an. Cho nên ở đây tôi xin chia sẻ vắn tắt về điều kiện căn bản đó.
2- Vậy, thế nào là thiện tâm?
Theo tôi, nói chung thiện tâm là cái tâm yêu sự thiện, chọn sự thiện và sống theo sự thiện. Nói một cách cụ thể, thiện tâm là chọn sống theo Lời Chúa Giêsu và noi gương cuộc đời Chúa Giêsu. Vì "Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6).
Như thế, thiện tâm là cái tâm có một chọn lựa tuyệt vời. Bởi vì chọn lựa của nó nhắm vào những giá trị cao đẹp nhất, mà chính Chúa Giêsu đã chọn để dẫn con người vào bến bình an cứu độ. Cứ nhìn vào hang đá Bêlem, chúng ta sẽ thấy:
Hài nhi Giêsu là tình yêu cao cả chấp nhận mọi đau khổ, để đền tội  cho nhân loại.
Hài nhi Giêsu là tình yêu cao cả chấp nhận mọi thiếu thốn, để chia sẻ cuộc sống dân nghèo.
Hài nhi Giêsu là tình yêu cao cả chấp nhận vâng phục ý Chúa Cha, để làm chứng rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu.
3- Khi ta noi gương hài nhi Giêsu, thì ta có thiện tâm. Thiện tâm này cần phải bền vững suốt đời. Bởi vì thiện tâm này sẽ không ngừng phải giao tranh với vô số sự ác và vô số cái tầm thường.
Nói cho đúng, thì thiện tâm là một hành trình vất vả, với nhiều chiến đấu cam go. Phải chiến đấu với ngoại cảnh. Nhất là phải chiến đấu với chính mình.
Kinh nghiệm cho tôi thấy: Cản trở mạnh nhất luôn hăm doạ thiện tâm chính là cái tôi: Cái tôi ích kỷ, cái tôi kiêu ngạo, cái tôi hẹp hòi, cái tôi an phận.
4- Vì thế, khi cầu xin Chúa ban cho ta ơn thiện tâm, chúng ta đừng lấy làm lạ, nếu Chúa soi sáng cho ta biết: Ơn thiện tâm chỉ được ban cho tấm lòng khiêm tốn, biết tin cậy vào tình yêu thương xót Chúa. Khiêm nhường và tin cậy là hai cánh cửa để đón ơn thiện tâm. Nhờ khiêm nhường và tin cậy, mà thiện tâm của ta sẽ kết hợp với công trình cứu độ của Chúa. Nó sẽ đồng hành với Chúa Giêsu, để cùng với Người và trong Người, mà ta được sống bình an và xây dựng bình an.
Tình hình cho ta thấy: Có bình an là điều khó, Giữ thiện tâm luôn vững bền là điều không dễ dàng.
Tuy nhiên, ta cảm tạ Chúa đã gởi đến cho ta nhiều người thiện tâm. Họ giúp cho sự bình an của ta bớt mong manh, và tránh nguy cơ sụp đổ.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Giáng sinh và một mùa Giáng sinh tốt đẹp nhất.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 988: HIẾU THẢO ĐỐI VỚI CÁC CHỦ CHĂN VỀ HƯU

27-12-2005
Bài giảng thánh lễ tại nhà thờ Cầy Xây ngày 27 tháng 12 năm 2005
 

Hôm nay, khu nhà Hưu Dưỡng linh mục giáo phận Long Xuyên tại Cần Xây bớt vắng vẻ. Vì 27-12-2005 Bùi-Tuần 988

Hôm nay, khu nhà Hưu Dưỡng linh mục giáo phận Long Xuyên tại Cần Xây bớt vắng vẻ. Vì đang có một cuộc viếng thăm tập thể, thân mật ấm cúng.
Quy tụ này là một sáng kiến đạo đức. Nhắm mục đích thể hiện lòng hiếu thảo đối với các linh mục về hưu.
Thánh lễ đồng tế là một phần của chương trình thăm viếng. Tôi được mời tham dự và chia sẻ. Tôi xin cảm ơn Cha Sở Cần Xây và anh chị em.
Những gì tôi chia sẻ ở đây đều là những tâm tình rất chân thành, rất thực. Bởi vì tôi cũng trong số giáo sĩ về hưu, do tuổi cao và yếu bệnh. Tâm sự của tôi có thể cũng hợp với mọi linh mục trong hoàn cảnh khó khăn.
Để diễn tả tình trạng giáo sĩ về hưu hoặc trong tình trạng khó khăn, tôi tạm đưa ra một hình ảnh. Đó là hình ảnh một người bệnh nạn, mệt mỏi, phải tiếp tục đi bộ, hướng về quê an nghỉ.
Trong chuyến đi này, người giáo sĩ về hưu luôn cảm thấy mình phải đối diện với hai thực tế.
Thực tế thứ nhất la lòng khát khao trung thành với lý tưởng đẹp tươi mình đã chọn. Lý tưởng đó là cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Cộng tác bằng đời sống dâng hiến trọn vẹn, bằng đời sống vâng phục đức tin, bằng đời sống cầu nguyện, bằng đời sống đền tạ.
Lý tưởng cộng tác với Chúa như thế là một thực tế rất đẹp. Người giáo sĩ về hưu luôn tha thiết với thực tế đó, trên quãng đường đời còn lại.
Nhưng bên cạnh thực tế tốt đẹp ấy, giáo sĩ về hưu lại phải đối diện với một thực tế khác. Thực tế này không nhẹ nhàng, không dễ chịu. Đó là những sa sút về sức khoẻ, những mòn mỏi về nghị lực, những giảm suy về khả năng phục vụ, nhất là những bệnh tật đủ thứ thuộc thể xác và tâm hồn. Thêm vào đó còn có những nghĩ ngợi, những lo âu, những chán nản đôi khi pha trộn cay đắng. Tất cả những thứ nhọc nhằn trên đây làm nên một khối nặng đeo vào cuộc sống người hưu.
Như vậy người giáo sĩ về hưu có 2 hành trang trong hành trình về quê: Một thực tế kéo lên, một thực tế lôi xuống. Người giáo sĩ về hưu buộc mình phải phấn đấu, để luôn vươn lên vùng trời ánh sáng, đừng để mình rơi xuống cõi âm u.
Cuộc phấn đấu không luôn dễ. Chúng tôi luôn phải xin ơn Chúa giúp đỡ, luôn phải bám vào tay Đức Mẹ, luôn phải cậy trông vào sự nâng đỡ của mọi người thân xa gần.
Vì thế, nhân dịp này, tôi xin tận tình cảm ơn các cha, các tu sĩ, các giáo dân về mọi nâng đỡ đã, đang và sẽ dành cho chúng tôi, đặc biệt là thứ nâng đỡ đậm đà tình nghĩa, tình thương, tình hiếu thảo.
Chúng tôi không mong gì hơn là: cuộc đời mong manh của chúng tôi luôn được sống bình an trong ơn nghĩa Chúa, mọi phút, mọi giờ. Để trong quãng đời còn lại có nhiều thử thách, chúng tôi vẫn mãi bước đi trong tinh thần dâng hiến, vâng phục ý Chúa, luôn luôn lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói xưa: “Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha”. Amen.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 989: SỐNG LỜI CHÚA VỚI BA HÌNH ẢNH ĐẠO ĐỨC

09-01-2006
 

Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi chúng ta sống Lời Chúa một cách đặc biệt. 09-01-2006 Tôi Bùi-Tuần 989

Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi chúng ta sống Lời Chúa một cách đặc biệt.
Tôi đón nhận lời kêu gọi này với lòng vâng phục. Lời Chúa gồm cả Kinh Thánh. Nên tôi xin Chúa soi cho tôi biết: Chúa muốn tôi để ý đến những điểm nào được coi là rất cần cho tôi lúc này, tại đây.
Tôi cầu xin nhiều lần. Lần nào tôi cũng lắng nghe Chúa trả lời. Kết quả là Chúa trả lời rất vắn. Người trả lời bằng cách đưa lòng trí tôi nhớ lại 3 hình ảnh trong Phúc Âm. Ngài khuyên tôi hãy làm như thế. Tôi xin phép chia sẻ đại khái.
1/ Hình ảnh người cầu nguyện đẹp lòng Chúa
Chúa Giêsu kể dụ ngôn sau đây: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con'.
"Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'.
"Thầy nói cho mọi người biết: Người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàn ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 18,10-14).
Với hình ảnh người thu thuế trên đây, Chúa thầm dạy tôi về sự khiêm nhường trong việc cầu nguyện và thống hối ăn năn. Đừng tự cho mình là vô tội, đừng đổ lỗi cho ai, đừng kết án ai, đừng khinh dể ai. Nếu người khác thực sự có tội, thì ta tha thiết cầu xin cho họ sớm được ơn hoà giải.
Sống Lời Chúa là trước hết hãy biết cầu nguyện với lòng sám hối thực sự khiêm nhường và yêu thương.
2/ Hình ảnh cầu cứu đẹp lòng Chúa
Phúc Âm thánh Luca thuật lại chuyện sau đây: Khi Chúa Giêsu vào thành Caphácnaum, một viên đại đội trưởng ngoại đạo nhờ mấy ông kỳ mục đến với Chúa Giêsu, xin Người thương làm phép lạ chữa lành tên nô lệ đầy tớ ông bệnh nặng. Chúa Giêsu đồng ý. Ngài lên đường hướng về nhà viên đại đội trưởng. Nghe tin Chúa Giêsu đang trên đường đến nhà mình, ông đại đội trưởng liền xin bạn hữu ông đến đón Chúa và thưa: "Thưa Ngài, tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi... Nhưng Ngài chỉ nói một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh". Thấy vậy, Chúa rất khen ông đại đội trưởng. Và Ngài đã chữa đầy tớ ông (x. Lc 7,1-10).
Với thái độ trên đây của ông đại đội trưởng, Chúa Giêsu nêu lên gương khiêm nhường và lòng tin cậy của người cầu cứu. Những ai cầu cứu với Chúa, thì cần khiêm nhường và tin cậy. Khiêm nhường và tin cậy là điều đẹp lòng Chúa. Nên dù điều ta xin có vẻ khó đến thế nào, Chúa cũng sẽ thương ban.
Sống Lời Chúa là hết lòng khiêm tốn xin Chúa ban ơn bình an cho ta và gia đình ta. Đôi khi hoàn cảnh coi như quá thê thảm. Nhưng, nếu ta cầu cứu Chúa, với lòng khiêm nhường và tin cậy, thì Chúa sẽ cứu ta qua khỏi cơn khốn khó một cách dễ dàng.
3/ Hình ảnh kẻ trộm cướp ăn năn đẹp lòng Chúa
Trên núi Sọ, cảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá là một biến cố coi như đẩy Chúa Giêsu vào thế thất bại nhục nhã, chấm dứt công trình cứu độ của Người. Nhưng chính trong cảnh tối tăm đó, một người bị đóng đinh bên hữu Chúa đã dám lên tiếng cầu xin Chúa: "Ông Giêsu ơi, khi ông về Nước của ông, xin nhớ đến tôi với. Và Chúa Giêsu đã nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng" (Lc 23,42-43).
Với hình ảnh kẻ trộm cướp ăn năn trên đây xin được theo Chúa, Chúa Giêsu dạy ta về sự ăn năn đơn sơ vắn tắt, nhưng với lòng khiêm tốn và tin cậy được đi theo Chúa. Kết quả thực quá sức tưởng tượng.
Sống Lời Chúa là hãy ăn năn đơn sơ, nhưng hết lòng chân thành tin cậy và khiêm tốn, xin được theo Chúa.
Tại Việt Nam hôm nay, giữa thời điểm này, việc giữ đạo nhiều nơi đang đi về hướng tự mãn, phô trương và hình thức. Hướng đó đưa người tín hữu dần dần xa rời việc cầu nguyện, hoặc nếu còn cầu nguyện, thì lại thiếu khiêm nhường, thiếu ăn năn sám hối, thiếu ý muốn được đi theo Chúa.
Nếu giữ đạo cứ theo thói quen đó, thì không lâu đâu, lòng đạo sẽ xuống.
Cũng vậy, nếu muốn sống Lời Chúa mà không thực sự từ bỏ ý riêng mình, thì việc sống Lời Chúa cũng dễ trở thành phong trào trôi nổi, chẳng đưa đến kết quả thay đổi được tâm hồn theo ý Chúa.
Hy vọng 3 hình ảnh trên đây sẽ là một khởi đầu Sống Lời Chúa một cách thiết thực.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 990: CẦU NGUYỆN ĐẦU XUÂN 12-01-2006

Tại Việt Nam, cầu nguyện ngày đầu Xuân là một truyền thống. Người nào cũng cầu nguyện. Nhà 12-01-2006 Bùi-Tuần 990

Tại Việt Nam, cầu nguyện ngày đầu Xuân là một truyền thống. Người nào cũng cầu nguyện. Nhà nào cũng cầu nguyện. Cầu nguyện với hương hoa, đèn nến, lễ bái, hát kinh và nhiều hình thức hướng về thế giới linh thiêng.
Tôi cũng làm thế. Nếu có gì khác, thì cái khác đó chính là nội dung. Nội dung lời cầu đầu Xuân của tôi chính lại là xin ơn trung thành với việc cầu nguyện. Tôi xin Chúa ban cho tôi và mọi người Việt Nam luôn biết cầu nguyện trong suốt năm Bính Tuất này và suốt cả cuộc đời.
Lý do cụ thể là vì xã hội Việt Nam và Hội Thánh Việt Nam đang bước vào một giai đoạn cực kỳ quan trọng. Quan trọng ở những điểm nào? Ở đây tôi chỉ xin nêu lên vài điểm. Cũng xin chỉ nói về Hội Thánh Việt Nam.
1/ Chọn nhân sự
Hội Thánh Việt Nam đang có nhiều cơ may, nhiều nguy cơ và nhiều thách thức. Tình hình đó đòi Hội Thánh nhiều bén nhạy, nhiều sáng kiến, nhiều khôn ngoan, nhiều thăng tiến về trí thức, nhất là về đạo đức. Xin nhấn mạnh đến đời sống nội tâm. Đặc biệt là các nhân sự nòng cốt, như các mục tử, các tu sĩ và các tông đồ giáo dân.
Các nhân sự này thường được đào tạo ở nhiều trường sở. Nhưng đào tạo là một chuyện. Chọn lựa là chuyện khác. Kiên trì với ơn gọi qua các tình huống thi hành chức vụ lại là chuyện khác.
Rất nhiều việc phải làm cho việc huấn luyện, chọn lựa và bồi dưỡng. Nhưng việc cầu nguyện phải kể là quan trọng nhất.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu chọn tông đồ như sau: "Trong những ngày ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện. Người thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là tông đồ" (Lc 6,12-13).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho thấy Chúa Giêsu coi việc tuyển chọn tông đồ là việc rất quan trọng. Tầm quan trọng này phải được giải quyết ưu tiên bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện lâu dài. Cầu nguyện thiết tha. Trong quá trình cùng với nhau đi đây đó rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu vẫn tiếp tục bồi dưỡng các tông đồ bằng sự siêng năng cầu nguyện chung và riêng.
Thế mà kết quả vẫn không khỏi có phần bi đát, có phần hỏng, có phần hư.
Nhân sự do chính Chúa Giêsu tuyển chọn và huấn luyện còn như thế. Phương chi nhân sự do nhân sự của cộng đoàn Hội Thánh  chọn và đào tạo, nếu cả hai cùng không quan tâm đủ đến việc cầu nguyện, thì kết quả sẽ ra sao?
2/ Làm việc bác ái
Hội Thánh Việt Nam hiện nay đang mở ra trong lãnh vực bác ái. Bác ái được thực hiện nhiều cách, từ những việc tặng cho không cho đến việc thu phí phải chăng. Nhưng đừng quên kèm theo cầu nguyện.
Phúc Âm thánh Matthêu kể hai lần Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho dân ăn, Người đều cầu nguyện trước.
"Người cầm lấy 05 cái bánh và 02 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông... Số người được ăn có tới 5 ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con" (Mt 14,19-21). Đó là lần thứ nhất.
"Người cầm lấy 07 chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông... Số người ăn có tới mấy ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con" (Mt 15,36-39). Đó là lần thứ hai.
Việc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi làm việc bác ái dạy ta điều này:
Làm việc bác ái là việc tốt. Nhưng cần kèm theo việc cầu nguyện. Trước hết để chính việc bác ái được trở thành việc trong sáng, mến Chúa yêu người thực sự. Thêm vào đó, việc bác ái cũng có sức mở lòng người nhận lãnh trở nên đạo đức hơn phần nào. Bởi vì, kinh nghiệm cho thấy: Nhiều việc bác ái có thể sinh hiệu quả tốt cho người làm, nhưng vẫn không làm cho mọi người nhận đều được trở nên tốt. Phúc Âm đã ám chỉ điều đó trong chuyện Chúa Giêsu chữa 10 người phong cùi. Tất cả 10 người đều được khỏi. Nhưng chỉ một người tạ ơn Chúa. Mà người đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17,11-18).
Hiện nay, nhiều nhà đạo đức đã đưa ra ý tưởng này: Làm bác ái là một nghệ thuật. Lòng tốt mà thiếu thông minh, sáng tạo, có thể rơi vào nguy cơ thiếu kính trọng, tế nhị đối với người mình phục vụ.
Thiết tưởng, đó cũng là một nhắc nhở về việc bác ái nên kèm theo lời cầu nguyện, để nhờ ơn Chúa, lòng bác ái tránh được sự vụng về, khờ khạo, gây phản chứng.
3/ Chịu thử thách đớn đau
Hiện nay, Hội Thánh Việt Nam nói chung xem ra không còn trong cơn sóng gió. Nhưng từng cá nhân tín hữu, nhất là từng cá nhân người môn đệ đích thực của Chúa, vẫn sẽ còn tiếp tục con đường Chúa dành cho họ. Con đường đó là con đường khổ nạn.
Con đường khổ nạn mà Chúa Giêsu đã đi được mô tả là hết sức đau đớn. Con đường ấy, Người đã đi đến cùng. Với tình yêu, với khiêm nhường, với lòng vâng phục ý Chúa Cha, với lòng khoan dung tha thứ.
Giữ lòng mình được như vậy là nhờ cầu nguyện.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại cảnh bi đát đó bằng những dòng viết sau đây:
"Chúa Giêsu đi lên núi Ôliu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.
"Rồi Người đi cách các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá. Người quỳ gối cầu nguyện rằng: Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha... Bấy giờ Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi,  nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất" (Lc 22,39-44).
Trên con đường cứu rỗi nhân loại và làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa, Đức Kitô đã tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn nhục nhã đớn đau. Chúa đi trước để làm gương. Nếu hôm nay, những môn đệ Chúa được ơn gọi tiếp nối sứ mạng đó, thì hãy vững tin: Được chia sẻ phần nào những đớn đau nhục nhã của Đấng Cứu thế, thì đó là một vinh dự. Hơn nữa, đó là dấu ấn  để nhận ra người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, xin thương ban cho chúng con ơn biết cầu nguyện, để chúng con ít ra còn giữ được lòng trung thành hiếu thảo và biết ơn, đối với Chúa, đối với Hội Thánh, đối với Quê Hương, và đối với mọi người đang cùng được Chúa gọi phục vụ Hội Thánh trong giai đoạn cực kỳ quan trọng này.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 991: GIEO TRỒNG LỜI CHÚA 17-02-2006

Để việc gieo lúa trồng cây đem lại thu hoạch tốt, thì phải chuẩn bị ruộng vườn cho thực kỹ. Cũng 17-02-2006 Bùi-Tuần 991

Để việc gieo lúa trồng cây đem lại thu hoạch tốt, thì phải chuẩn bị ruộng vườn cho thực kỹ. Cũng vậy, để chương trình Lời Chúa đem lại một mùa màng thiêng liêng phong phú, thì phải quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị lòng những người, mà ta gieo trồng Lời Chúa.
Có ba chuẩn bị tôi cho là rất cần, để Lời Chúa gieo trồng vào lòng người được đâm rễ sâu, trở thành cây tốt.
Chuẩn bị thứ nhất là tinh thần khiêm nhường
Gieo Lời Chúa vào lòng người cũng có thể ví như việc ta tham gia vào mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể rất nổi về nét khiêm nhường. Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã viết:
    "Đức Giêsu Kitô
    vốn dĩ là Thiên Chúa
    mà không phải nhất quyết duy trì
    địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
    nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
    mặc lấy thân nô lệ,
    trở nên giống phàm nhân
    sống như người trần thế,
     Người lại còn hạ mình,
    vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
    chết trên cây thập giá.
    Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
    và tặng ban danh hiệu
    trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2,6-9).
Đoạn thư trên đây tả Ngôi Lời nhập thể là một Chúa rất mực khiêm nhường.
Hiểu như vậy, chính ta và mọi người nhận Lời Chúa cũng phải biết đón nhận Chúa khiêm nhường một cách khiêm tốn.
Chẳng may, trong nhiều trường hợp, việc gieo trồng Lời Chúa lại không như thế. Bởi vì, người gieo trồng, cách gieo trồng, lễ nghi gieo trồng nhiều khi tạo nên nơi tâm hồn được gieo trồng một ảo ảnh xa lạ với Ngôi Lời. Ảo ảnh đó thường dễ làm cho người ta trở nên tự phụ. Thí dụ, đang khi học Lời Chúa, tôi có thể bị cám dỗ tự phụ vì được tham gia vào một tổ chức tôi cho là thánh thiện, quyền lực, uy tín hơn mọi cơ chế khác. Có tự phụ lành mạnh và có tự phụ không lành mạnh.
Ngoài ra, khi đón nhận Lời Chúa, nhiều người bị dụ dỗ nghĩ  đến những tổ chức sinh hoạt Lời Chúa mang hình thức vui nhộn. Tưởng đó là đúng, nên họ sống Lời Chúa theo một hướng sai lạc. Sai lạc ở chỗ, thay vì Lời Chúa nhắm vào việc biến đổi con người nên khiêm nhường hơn, phục vụ người nghèo khổ hơn, thích cầu nguyện hơn thì lại nhắm vào những hình thức đạo đức trống vắng nội dung thiêng liêng.
Vì thế, trong mọi chi tiết khiêm nhường cần có trong việc gieo trồng Lời Chúa, ta nên nhấn mạnh đến việc sám hối, cảm tạ và cầu nguyện trong thân mật với Lời Chúa.
Chuẩn bị thứ hai là óc phán đoán phải sát sự thực
Gieo trồng Lời Chúa vào tâm hồn con người là giúp con người sống sự thực. Nhất là khi sống Lời Chúa chủ yếu là sống với Chúa Giêsu, Đấng đã phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thực và là sự sống" (Ga 14,6).
Sự thực là một lãnh vực mênh mông. Như sự thực khoa học, sự thực lịch sử, sự thực luân lý, sự thực về các tôn giáo, sự thực về các nền văn minh, sự thực về lịch sử Đất Nước, thế giới và Hội Thánh, vv...
Thời nay, người ta rất cần những bộ óc biết trọng sự thật, biết phán đoán sát sự thực. Trong nhiều trường hợp, óc phán đoán sát sự thực là một chứng từ thuyết phục tôn vinh người sống Lời Chúa.
Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý về vài chi tiết phán đoán có liên hệ nhiều đến việc gieo trồng và sống Lời Chúa.
Chi tiết đầu tiên là nên xem xét tinh thần nào thường hướng dẫn các phán đoán của ta trong đời sống thường ngày.
Đáng lý ra, mọi phán đoán trong đời sống thường ngày của ta, đặc biệt là về tu đức, truyền giáo và luân lý phải được hướng dẫn bởi tinh thần của Đức Kitô. Nhưng thực tế cho thấy nhiều phán đoán của ta thuộc những lãnh vực đó lại bị tinh thần thế tục, ma quỷ, xác thịt và cơ hội khống chế. Những phán đoán đó sai sự thực, từ gốc đến ngọn. Hoặc chỉ đúng ở ngọn, còn ở gốc thì sai. Hoặc đúng và sai pha trộn với nhau.
Ngoài ra, một chi tiết khác cũng rất cần được xem xét, để mọi phán đoán được sát sự thực. Chi tiết đó là phán đoán phải dựa trên những dữ kiện khách quan và tương đối đầy đủ.
Người hay phán đoán theo thành kiến và dựa trên những dữ kiện mơ hồ, sẽ không thể minh chứng được mình sống Lời Chúa. Điều rất đáng buồn là những phán đoán như thế lại có liên quan tới các vấn đề thuộc Kinh Thánh, Tín lý, Luân lý và Tu đức.
Chuẩn bị thứ ba là nhạy cảm đạo đức, nhất là trước thân phận những người nghèo túng, bệnh nạn
Phúc Âm thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về sự nhạy cảm đạo đức. Một người bị quân cướp trấn lột, bị đánh trọng thương, nằm bên vệ đường. Thầy tư tế đi qua, nhìn thấy nạn nhân, nhưng vô cảm bỏ đi. Thầy Lêvi cũng đi qua, cũng nhìn thấy nạn nhân, nhưng cũng vô cảm bỏ đi. Còn người ngoại đạo Samari, khi đi qua, chợt nhìn thấy nạn nhân, liền thương cảm. Ông xuống ngựa, lo chăm sóc cho nạn nhân (x. Lc 10,29-37).
Chúa Giêsu khen người ngoại Samari đó. Ông này là người nhạy cảm đạo đức. Thực ra, thầy tư tế và thầy Lêvi cũng nhạy cảm. Nhưng nhạy cảm của họ hướng về chế độ đền thờ, như bảo vệ lễ nghi, luật lệ, giờ giấc phục vụ đền thờ và bổng lộc nhờ đền thờ. Còn ông ngoại đạo Samari thì nhạy cảm trước thân phận con người đau khổ.
Lời khen của Chúa Giêsu đề cao sự nhạy cảm đạo đức của người ngoại đạo Samari vẫn có giá trị ở mọi thời mọi nơi.
Tại Việt Nam hôm nay, sự nhạy cảm đạo đức trước thân phận những người khổ đau khó nghèo vẫn được coi như thước đo tinh thần, để phân loại người tốt người xấu, bất luận họ là ai.
Riêng người công giáo chúng ta càng phải xa tránh thói quen vô cảm trước cảnh khổ của người nghèo. Xin nhớ lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về ông phú hộ và người hành khất Ladarô. Khi cả 2 người cùng chết, thì thưởng phạt Chúa dành cho 2 người làm ta bỡ ngỡ. Ông phú hộ bị ném vào hoả ngục, chỉ vì suốt đời, ông đã sung sướng một cách vô tư vô cảm trước cảnh khổ đau của người ăn mày nằm ở cổng nhà ông (x. Lc 16,19-31).
Chia sẻ trên đây đề cập đến ba việc: Tinh thần khiêm tốn, phán đoán theo sự thực, nhạy cảm trước cảnh khổ đau của nhân loại nói chung và của đồng bào nghèo nói riêng. Đó là những đức tính nhân bản thông thường. Đó là những chuẩn bị phải được thực hiện hằng ngày cho việc gieo trồng Lời Chúa. Những ai sống Lời Chúa như vậy kèm theo cầu nguyện sẽ phản ánh được phần nào dung mạo Thiên Chúa giàu lòng thương xót đang sống động trong họ giữa xã hội hôm nay. Họ gieo trồng Lời Chúa chủ yếu bằng các phương tiện đạo đức và nhờ ơn của Thiên Chúa tình yêu.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN 

 

Bùi-Tuần 992: ƠN KHÔN NGOAN NƠI THÁNH GIUSE 19-03-2006

Thánh Giuse là một vị thánh âm thầm. Nhưng tại Giáo Hội Việt Nam, Ngài rất được yêu mến 19-03-2006 Bùi-Tuần 992

Thánh Giuse là một vị thánh âm thầm. Nhưng tại Giáo Hội Việt Nam, Ngài rất được yêu mến với cái nhìn thân thương.
Thực vậy, trong Hội Thánh Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính trong hầu hết các nhà thờ, trong hầu hết các cộng đoàn, trong hầu hết các gia đình. Ngài rất gần gũi với các tâm hồn, đặc biệt là với các thân phận nghèo khổ bệnh tật, cô đơn.
Khi tình hình trở nên khó khăn, người công giáo Việt Nam hay chạy đến thánh Giuse. Ngài luôn đáp trả rộng lượng những ai cậy tin Ngài, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa.
Nếu cần ca tụng thánh Giuse, tôi xin dựa vào kinh nghiệm riêng của tôi.
Quả thực, đời tôi đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử phức tạp. Xét về phương diện người được Chúa sai đi phục vụ Hội Thánh, cuộc đời của tôi đến nay có thể coi là khá dài. Cuộc đời đó luôn như trên đường mạo hiểm, với những khúc lầy lội, tăm tối, hiểm nguy.
Biết mình được sai đi với sứ mạng phục vụ Tin Mừng, nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi hay cầu xin thánh Giuse thương giúp đỡ tôi. Ơn tôi thường tha thiết nài van là ơn khôn ngoan.
Xưa thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách khôn ngoan. Nay xin Ngài cũng thương giúp tôi biết phục vụ Hội Thánh một cách khôn ngoan.
Thánh Giuse nhậm lời tôi. Ơn khôn ngoan, mà tôi cảm nhận đã được phần nào nhờ sự cầu bầu của thánh Giuse, có thể tóm tắt vào một điều. Điều đó là: Hãy vâng phục thánh ý Chúa.
Theo Ngài, vâng phục thánh ý Chúa là một ơn Chúa ban. Nó không dựa trên lý luận, nhưng dựa trên một xác tín về liên hệ thân mật giữa Chúa và kẻ được Chúa thương yêu.
Khi đi vào cụ thể, xác tín đó được nổi bật lên trong những điểm sau đây:

1/ Nhận biết Chúa Giêsu là quà tặng lớn nhất không gì sánh được
Thánh Giuse đã nhận thức được điều đó. Nên Ngài sung sướng phục vụ Chúa Giêsu. Nhất là khi thánh Giuse được thiên thần cho biết Chúa Giêsu là Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1,23), "Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Mt 1,21).
Chúa Giêsu ở giữa dân Người một cách khiêm nhường và đầy chia sẻ. Như tác giả thư gởi dân Do Thái sau này đã viết: "Vị thượng tế (Chúa Giêsu) của chúng ta không phải là không biết cảm thương nỗi yếu hèn của chúng ta. Vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15).
Không những Chúa Giêsu ở giữa loài người một cách khiêm nhường, mà còn tự nguyện chịu mọi đau khổ vì loài người. Về điểm này, thánh Phaolô nói một cách rất rõ ràng dứt khoát: "Hồi còn giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá" (1 Cr 2,2).
Thánh Giuse còn hơn thánh Phaolô trong sự gắn bó với Chúa Giêsu là tình yêu Thiên Chúa cao cả, cho dù thánh Phaolô đã dám nói: "Tôi coi tất cả là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi" (Pl 3,8).
Suốt đời tôi, tôi coi sự gắn bó mật thiết và tuyệt đối với Chúa Giêsu chính là điều Chúa muốn để nên người khôn ngoan, nhất là trong lãnh vực tu đức, mục vụ và truyền giáo.
Từ sự gắn bó với Chúa Giêsu, thánh Giuse đưa tôi đến một sự khôn ngoan khác, đó là hãy theo gương Ngài biết sống đức ái với mọi chi tiết cao đẹp.

2/ Biết sống đức ái với mọi chi tiết cao đẹp
Về điểm này, thánh Giuse cũng chẳng viết gì. Nhưng khi đọc thư thánh Giacôbê, tôi thấy thánh tông đồ xem như nói thay thánh Giuse. Ngài viết: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước hết là thanh khiết, sau là hiền hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị cũng không giả hình" (Gc 3,17).
"Nếu trong anh em có sự ghen tương hay chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại, nói dối, trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ (Gc 3,14-15).
Đời sống của thánh Giuse giữa những người xung quanh không những là hài hoà, khiêm tốn, mà còn tích cực nâng Ngài lên thế giới các nhân đức cao cả. Như bài ca đức ái của thánh Phaolô tông đồ đã diễn tả:
"Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù.
Không mừng khi thấy sự gian các,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13,4-7).
Những chi tiết cao đẹp trên đây nói về đức ái, khi áp dụng vào đời sống của thánh Giuse, tôi có cảm tưởng là còn chưa đủ. Có được những tâm tình tốt là điều hay, nhưng biết diễn tả những tâm tình tốt là một đòi hỏi quan trọng. Thánh Giuse đã biết diễn tả khôn khéo, tế nhị những tâm tình tốt đối với đủ mọi thứ người trong suốt cuộc đời bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Đây là một ơn khôn ngoan, mà tôi thấy rất cần cho mọi người công giáo nói chung, và các nhà truyền giáo nói riêng. Nhất là trong những hoàn cảnh lịch sử phức tạp. Tôi thấy đôi khi chỉ một vài sơ suất nhỏ đã có thể gây nên đại hoạ. Giống như một tàn lửa có thể gây nên một đám cháy lớn. Thời sự hiện nay về nguy cơ nghi kỵ và xung đột tôn giáo là một nhắc nhở về sự khôn ngoan đối xử trong việc diễn tả thái độ đối với nhau.
Yếu tố sau cùng của ơn khôn ngoan nơi thánh Giuse là tỉnh thức và cầu nguyện.

3/ Tỉnh thức và cầu nguyện
Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Ngài biết mình mong manh, hoàn cảnh đời đạo phức tạp, ý Chúa nhiệm mầu, biết được ý Chúa là điều không dễ, thực thi ý Chúa càng không dễ chút nào. Nên Ngài coi việc tỉnh thức và cầu nguyện là điều cực kỳ quan trọng cho ơn gọi của Ngài.
Mặc dầu chức cao quyền trọng, Ngài đã chọn cách sống âm thầm nghèo khó. Sẽ không thể có lựa chọn đó, nếu Ngài không tỉnh thức và cầu nguyện. Trong tỉnh thức và cầu nguyện của Ngài luôn có tạ ơn, xin ơn và phó thác khiêm nhường. Còn đối với chúng ta, tỉnh thức và cầu nguyện còn đòi phải thêm sám hối ăn năn.
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh Việt Nam đang rất cần những vị lãnh đạo khôn ngoan. Chúng ta tha thiết cầu xin ơn đó, đặc biệt trong tháng Ba này là tháng kính thánh Giuse, Quan Thầy Hội Thánh Việt Nam.
+ GM Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 993: XIN ĐỪNG SA THẢI VÀ BỎ RƠI CON 20-03-2006

Từ xa xưa, thánh vương Đavít đã để lại trong Kinh Thánh rất nhiều lời cầu nguyện. Lời cầu nào 20-03-2006 Bùi-Tuần 993

Từ xa xưa, thánh vương Đavít đã để lại trong Kinh Thánh rất nhiều lời cầu nguyện. Lời cầu nào của Ngài cũng đều tha thiết. Đọc lên, đôi khi tôi nghe như tiếng nức nở hoà trong nước mắt.
Riêng thời gian này, tôi thích đọc đi đọc lại những lời Ngài nói với Chúa, khi Ngài thấy mình tuổi già sức yếu. Thí dụ những lời sau đây:
"Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng.
Chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn" (Tv 71,9).
Đây là những lời xem ra nói lên đúng hoàn cảnh của tôi. Thiết tưởng hoàn cảnh của tôi cũng là hoàn cảnh của nhiều người.
Tâm tư buồn trong hoàn cảnh buồn
Xưa chính trong tình huống ấy, thánh vương Đavit đã gởi nơi Chúa một tâm sự chân thành. Nay, tôi mượn lại lời đó, để cầu nguyện và để suy tư.
Cầu nguyện, rồi lắng nghe.
Suy tư, rồi tìm hiểu.
Cầu nguyện và suy tư là những việc tôi đã, đang và sẽ còn thực hiện, khi đọc những lời trên của thánh vịnh 71.
Ngay lúc này, tôi đang thấy câu trả lời: Chúa không sa thải và bỏ rơi những ai tuổi già sức yếu. Trái lại Chúa còn ban cho nhiều người trong họ cảm được hạnh phúc khác thường. Như những ơn sau đây:

1/ Hạnh phúc vì được yêu mến
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28).
Kinh nghiệm cho thấy: Tuổi già sức yếu, và bao điều đi theo tuổi già sức yếu đều là những xuống cấp gây nên do luật tự nhiên một cách thông thường. Những sa sút đó không phải là dấu Chúa sa thải, bỏ rơi. Trái lại, những ai khiêm tốn vâng phục ý Chúa, chấp nhận chuyển biến tự nhiên đó, sẽ cảm thấy thanh thản. Hơn nữa, nếu họ đón nhận với lòng mến Chúa, với ý thức mình được Chúa yêu thương, thì họ sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc này Chúa dành riêng cho những ai chịu thử thách mà vẫn trung thành.
Thánh Phaolô viết: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?...
"Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta" (Rm 8,35-37).
Tuổi già sức yếu và những đau đớn đủ loại theo sát có thể gọi là những thử thách cho nhiều người. Nhưng những thử thách đó rất có giá trị về nhiều mặt, nhất là về mặt đạo đức.
Ngoài ra thánh vương Đavit đã nhắc đến một hạnh phúc khác, mà tuổi già sức yếu của Ngài đã cảm được, đó là hạnh phúc khi Ngài được kể lại những ơn Chúa đã làm cho Ngài.

2/ Hạnh phúc vì được kể lại những ơn Chúa đã thương ban, Thánh vương nói:
"Cả lúc con già nua, da mồi tóc bạc,
lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con
để con tường thuật quyền năng của Chúa
cho thế hệ này được rõ,
và dũng lực của Ngài
cho thế hệ mai sau" (Tv, 71,8).
Có rất nhiều ơn thánh vương kể lại, nhưng Ngài nhấn mạnh hơn đến ơn cứu độ:
"Ngài đã bắt con nếm mùi tân khổ,
chính Ngài đã cho con được hoàn sinh
và kéo con ra khỏi vực sâu lòng đất.
Phần vinh hoa, Ngài sẽ ban nhiều
và trở lại vỗ về an ủi " (Tv 71,20).
Mỗi người tín hữu, khi về già, đều có vô số chuyện để kể, làm chứng về sự Chúa đã cứu độ mình. Niềm vui của họ là cảm được sự hiện diện của Đấng đã cứu họ. Nay Ngài nay đang sống động trong họ. Như thánh Phaolô kể: "Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi" (Gl 2,20).
Nếu được kể lại một số ơn đặc biệt Chúa đã ban cho tôi, chắc tôi cũng không ngần ngại tập trung vào loại ơn cứu độ.
Về loại ơn cứu độ, có những ơn chung và có những ơn riêng. Trong các ơn riêng, sẽ hiện ra những ơn dễ tả, và cũng sẽ thoáng nhìn thấy những ơn nên chỉ để suy gẫm trong lòng.
Sau cùng, trong thời gian gần đây, khi cầu nguyện với Chúa: "Xin đừng bỏ rơi con", tôi cảm nhận được mờ mờ trong tận cõi lòng sâu thẳm một trả lời êm dịu từ lòng thương xót Chúa.

3/ Hạnh phúc vì được chứng kiến những sự lạ lùng của lòng thương xót Chúa
Tuổi càng trên đà xế bóng, sức lực lúc càng vơi cạn, tôi càng như khám phá ra một bầu trời mới: Bầu trời của lòng thương xót Chúa.
Trong bầu trời này, tình xót thương Chúa như cơn mưa đổ xuống những mảnh đất khô cằn nhất. Vô số những người tội lỗi được ơn tha thứ. Vô số những người dưới hố sâu truỵ lạc được dắt lên. Chỉ cần họ thành thực nhìn nhận sự thực về mình và thống hối ăn năn.
Danh dự của họ là không dối mình, bản thân mình xấu xa thế nào thì mình nhìn nhận như vậy. Thiện chí của họ là không tìm sự sống trong cái giả dối, nhưng cố phấn đấu tìm sự sống trong mọi sự thực, cho dù sự thực là sự yếu đuối hèn hạ của mình.
Những người trọng danh dự và có thiện chí như trên đang trở thành một cánh đồng đợi chờ lòng thương xót Chúa.
Tôi thấy cánh đồng ấy đang nẩy nở vô vàn hạnh phúc, dưới nhiều hình thức. Với những người không xấu hổ vì danh dự và thiện chí như trên, cục diện thế giới sẽ đổi, Hội Thánh cũng sẽ có những đổi mới thực sự theo ơn Chúa Thánh Thần.
Với chút kinh nghiệm trên đây, tôi muốn gởi chia sẻ tới những ai đang cảm thấy tuổi đà xế bóng và đang đau mệt với sức lực suy tàn.
Chuyện người già chúng tôi cũng là chuyện người trẻ cần biết. Thực ra, đó cũng là chuyện của mọi người con của Thiên Chúa tình yêu.
Riêng tôi, khi tuổi già xế bóng quá, và khi sức lực suy tàn quá, chắc tôi sẽ không còn làm được những việc như trước và nay đang làm. Tình hình đó sẽ đến. Lúc đó, tôi hy vọng sẽ đón nhận được hạnh phúc dưới hình thức khác, mà Chúa sẽ ban cho, do tình yêu thương xót của Người.
Để kết, thiết tưởng cũng nên nghĩ tới trường hợp lời cầu "Xin chớ bỏ rơi con" của vua Đavit, sẽ thay thế bằng lời than "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" của Chúa Giêsu trên thánh giá (x. Mt 15,34).
Trường hợp như thế sẽ là một thử thách đớn đau kinh hoàng. Mọi sự khốn khó đều có thể xảy ra cho ta. Hạnh phúc lúc đó sẽ là hoàn toàn phó thác nơi Chúa giàu tình yêu thương xót. Người là Cha, còn chúng ta là những người con bé nhỏ.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 994: LÀM THEO Ý CHÚA 25-03-2006

Sắp đến lễ Truyền Tin. Khi cử hành lễ trọng này, các chủ tế thường giảng về lời Đức Mẹ "xin 25-03-2006  Bùi-Tuần 994

Sắp đến lễ Truyền Tin. Khi cử hành lễ trọng này, các chủ tế thường giảng về lời Đức Mẹ "xin vâng", cộng đoàn cũng hay đồng ca lời "xin vâng" của Đức Mẹ.
Đến nay, lời "xin vâng" của Đức Mẹ trong biến cố truyền tin đã trở thành một gương mẫu "Sống Lời Chúa" cho nhiều tín hữu tại Việt Nam ta.
Nhận xét này báo cho chúng ta một tin vui. Để góp phần nhỏ vào tin vui này, tôi xin phép được chia sẻ kinh nghiệm về cách sống "xin vâng". Tất nhiên chia sẻ này sẽ rất giới hạn. Nó được diễn tả như một hành trình. Hành trình này có những chặng như sau:

1/ Nhận thức về bổn phận "phải làm theo ý Chúa"
"Xin vâng" không phải là nói theo công thức đạo đức, mà là một lời hứa sẽ làm theo ý Chúa.
Chúa Giêsu phán: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7,24-27.
Lời Chúa trên đây dạy ta phải chú trọng đến thực hành. Đừng xin vâng như một lễ nghi. Nghe rồi, nói rồi, hứa rồi, là kể như xong. Xin vâng kiểu đó chỉ là một cách giữ đạo hình thức. Kết quả sẽ rất tai hại. Phải đặt trong lời xin vâng một quyết tâm làm theo ý Chúa. Làm thực sự, làm đến nơi đến chốn.

2/ Nhận thức mình yếu đuối, tội lỗi, tối tăm
Quyết tâm làm theo ý Chúa là điều khởi đầu không được thiếu. Nhưng liền sau quyết tâm đó sẽ không phải là động lực tự phụ, tự đắc. Nhưng là một nhận thức khiêm nhường về bản thân mình.
Nhận thức khiêm nhường đó có thể diễn tả như lời tự thú của thánh Phaolô xưa: "Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại làm... Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi. Tôi thực là người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 7,15-26).
Lời tự thú trên đây của thánh Phaolô là một sự thực sống động. Mỗi người trong chúng ta đều đã và đang cảm nghiệm sự thực đó nơi bản thân mình.
Cảm nghiệm này cần được ta nói lên với Chúa một cách khiêm nhường. Riêng tôi, hằng giờ và từng phút, tôi vẫn nhìn lên Chúa, với tấm lòng của trẻ thơ yếu đuối, rất xác tín lời Chúa phán xưa: "Không có Cha, chúng con không thể làm gì được" (Ga 15,5). Tôi không thể làm được điều gì tốt, nhưng lại rất có thể làm được nhiều điều không tốt trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Nhất là những thiếu sót thì vô số kể.
Nhận thức mình yếu đuối, hèn hạ, tối tăm sẽ không là một cái nhìn bi quan bệnh hoạn, nhưng sẽ là một cái nhìn đúng sự thực, lành mạnh, đưa tới một nhìn nhận mang tính cách cứu độ.
3/ Nhìn nhận mình cần đón nhận Chúa và ở trong Chúa cứu độ
Chúa Giêsu phán: "Thầy là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Thầy, thì không ở lại trong bóng tối" (Ga 12,48).
Tôi tin lời Chúa trên đây. Từ niềm tin ấy, tôi khao khát cầu xin Chúa đến với tôi. Đời tôi trở thành một thao thức đợi chờ. Đợi chờ một Thiên Chúa đang đến.
Khi Người đến, gặp thấy lòng con người thao thức về sự cứu độ, Người sẽ thương đốt lên trong lòng họ lửa tin mến nồng nàn. Họ sẽ được Người chia sẻ cho dần dần kế hoạch làm theo ý Chúa.
Họ sẽ làm. Chúa cũng sẽ làm với họ. Họ cảm nghiệm được một sự an ổn thiêng liêng. Cho dù nhiều lúc, họ không tránh được đau khổ. Nhất là khi họ thấy một lời Chúa phán xưa sẽ phải được thực hiện nơi họ: "Thật, Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trơ một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Cùng đi sâu vào con đường cứu độ, mà Chúa Giêsu đã đi, kẻ muốn làm theo ý Chúa càng cảm thấy cần phải gắn bó với Người. Gắn bó chặt chẽ và sống động như cành cây với thân cây. Như Chúa Giêsu đã quả quyết: "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5).
Từ kinh nghiệm ấy, sự luôn ở lại trong tình thương của Chúa trở thành một vấn đề bức xúc. Nó sẽ có liên hệ mật thiết với sự bình an, mà Chúa hứa ban riêng cho những ai làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu đã hứa: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng" (Ga 14,27).
Ai đã được nếm sự bình an này, sẽ rất chân thành nhìn nhận: Khi mình làm theo ý Chúa, thì có sự bình an. Sự bình an mà mình được, hoàn toàn không do công phúc của mình, nhưng do Chúa ban cho mà thôi.
Chia sẻ trên đây chẳng có gì lạ. Tuy nhiên, hy vọng nó cũng được coi là một nhắn gởi của một người lớn tuổi, đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử rất phức tạp. Nhìn lại đời mình, tôi thấy: Chỉ có sự thao thức làm theo ý Chúa mới đáp lại được ơn gọi Chúa đã dành cho mình. Tôi nhìn lại với tâm tình cảm tạ và vô vàn thống hối ăn năn.
Hiện nay, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng đang rất mạnh. Nó dụ dỗ những người tin Chúa hãy sống theo ý riêng mình, hãy đua đòi làm theo ý thế gian. Tình hình này rất nguy hiểm cho tương lai đạo đức Phúc Âm.
Vì thế, lời "xin vâng" của Đức Mẹ nên được coi là một nhắn gởi tha thiết. Rất mong các môn đệ Chúa hãy đón nhận, để suốt đời mình sẽ là một dòng thiện chí tuyệt đối phó thác làm theo ý Chúa, mặc dù ý Chúa thường rất khác ý thế gian và ý riêng ta.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 995: Những bông hoa thiêng trên chặng đường 17 năm qua

Tháng 5 quen gọi là tháng Hoa Ðức Mẹ. Bởi vì trong tháng này các họ đạo quen làm nhiều việc Bùi-Tuần 995

Tháng 5 quen gọi là tháng Hoa Ðức Mẹ. Bởi vì trong tháng này các họ đạo quen làm nhiều việc lành dâng kính Ðức Mẹ, đặc biệt là việc các em nhỏ ca hát dâng tiến Ðức Mẹ những bông hoa tươi, tượng trưng tâm tình thảo hiếu.
Trong bầu khí hiếu thảo này, tôi muốn nhìn lại 17 năm qua. Từ tháng Hoa năm ấy, 1975, tới tháng Hoa năm nay, 1992, đời sống đức tin tại Việt Nam là một chặng đường rất mới, khác hẳn những chặng đường trước kia của lịch sử Giáo hội Việt Nam.
Riêng trên chặng đường này của giáo phận Long Xuyên, tôi đang nhìn thấy nhiều bông hoa thơm đẹp. Nhìn ngắm những bông hoa ấy để cùng với Ðức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa, đó là mục đích của tôi qua những tâm tình chia sẻ gởi tới anh chị em.
 Loại hoa thứ nhất là những thành quả nở ra từ tinh thần trở về
Ðối với tôi, 17 năm qua là thời gian thanh luyện. Kết quả là có vô số cuộc trở về. Trở về với Ðức Kitô, và trở về với Công đồng Vaticăng II.
Phân tích các cuộc trở về, tôi để ý trước tiên đến sự trở về của các lịch sử đức tin. Lịch sử đức tin là những khởi đầu và tiếp đó là những đổi thay, chuyển biến, thăng trầm, mà đức tin mỗi tín hữu đã trải qua. Nhìn những lịch sử ấy, tôi thấy có đủ hạng người. Có người từ đạo khác trở về. Có người từ tình trạng bỏ đạo trở về. Có người từ tình trạng khô khan trở về. Có người từ tình trạng khá tốt cũng trở về. Theo tôi thấy, thì trên hành trình trở về, người nào cũng đã trải qua một số biến cố, hoặc lớn hoặc nhỏ, dọn tâm hồn họ, để họ dễ đón nhận ơn trở về. Các biến cố đã giúp họ không những tin có Chúa, mà còn tin vào Chúa. Niềm tin là cuộc xuất hành. Con người bước ra khỏi cái tôi hẹp hòi ích kỷ, để cậy trông phó thác nơi tình thương và quyền năng Chúa. Cụ thể Chúa của kẻ trở về là Ðức Kitô, Ðấng cứu độ loài người và cứu độ họ. Ðức tin trở thành sự gặp gỡ Ðức Kitô. Họ chọn lựa Ngài. Họ gắn bó với Ngài. Ðức tin không chỉ là chấp nhận những chân lý cứu độ, mà chủ yếu là sự cam kết với một Ðấng thiêng liêng, một Ðấng rất thương mình, và mình rất thương. Ðức tin ấy là một sự sống, luôn luôn đổi mới, luôn luôn trở về.
Bên cạnh vô vàn lịch sử đức tin đã và đang đi vào chặng trở về, còn có những cuộc trở về của những lịch sử tôn giáo. Tôi tạm gọi dưới tên lịch sử tôn giáo, một tổng hợp những tổ chức, lễ nghi, giảng dạy, lập trường, tập quán của giáo đoàn. Thời gian qua, lịch sử tôn giáo hiểu theo nghĩa đó, đã là đối tượng của nhiều chỉ trích, cũng như đã bị canh chừng bởi nhiều hạn chế. Trong tình hình ấy, nhiều giáo đoàn đã biết lợi dụng cái khó để thanh luyện lịch sử tôn giáo của mình. Thực sự cũng cần thanh luyện. Bởi vì qua thời gian dài, lịch sử tôn giáo nhiều nơi đã có nhiều tiến hoá cũng như nhiều thoái hoá. Nay họ đã đổi mới. Ðổi mới bằng cách tăng thêm trình độ cái thực, cái đúng, cái thiện, cái đẹp, cái hay vào các tổ chức, lễ nghi, giảng dạy, lập trường tập quán của mình.
Cả hai loại trở về trên đây đều có sự khiêm nhường thanh thản và sự can đảm đơn sơ, do biết thuần phục ơn Chúa Thánh Thần. Các cuộc trở về này đã đem lại nhiều thay đổi trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội. Có nhiều cái khác hơn trước. Khác ở chỗ tốt hơn. Con người trở về và cộng đoàn trở về có những cái nhìn mới về cuộc đời, về các biến cố và về các giá trị trần gian. Một nhân-sinh-quan mới được hình thành do cuộc sống kết hợp với Ðức Kitô tử nạn và Phục sinh. Cái đẹp nhất nơi họ là sự họ có Ðức Kitô trong mình và trong cuộc đời mình. Sức mạnh là ở chỗ đó. Nhìn những tia sáng phát ra từ sự sống Ðức Kitô nơi các lịch sử đức tin trở về, và nơi các lịch sử tôn giáo trở về, tôi có cảm giác như đứng giữa một rừng hoa thơm muôn màu. Tôi cho đây là một mùa xuân thiêng liêng như một lời tiên tri báo trước về một Mùa Xuân của Nước Trời sẽ đến với những ai biết đón nhận ơn thanh luyện để trở về.
 Loại hoa thứ hai là những thành quả của tinh thần Tiên tri
Ơn tiên tri nói đây là ơn loan báo về một cuộc sống mà Nước Trời sẽ mang lại. Ðó là một nền văn minh của tình yêu, phát xuất từ nguồn tình yêu Thiên Chúa, rồi chan hoà sang các dây liên đới của cuộc đời. Nước Trời chính là Ðức Kitô. Ngài đang đến, để chia sẻ cho từng cá nhân, từng cộng đoàn tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu phục vụ, một tình yêu tha thứ, một tình yêu thăng tiến, một tình yêu sáng tạo. Một nền văn minh của tình yêu như vậy đang được thực hiện dần dà, tuỳ theo mức độ các cá nhân và các cộng đoàn đón nhận Ðức Kitô và Phúc Âm của Ngài. Ðón nhận vào lòng mình. Ðể Ngài là hồn của linh hồn mình, trái tim của trái tim mình, trí khôn của trí khôn mình, ý chí của ý chí mình. Sống khắng khít với Ðức Kitô như vậy, kẻ tin sẽ biết ứng xử với bất cứ hoàn cảnh nào. Nghĩa là dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, họ vẫn gieo rắc được hạt giống tình yêu Thiên Chúa. Họ biết chắc, những hạt giống tình yêu Thiên Chúa chính là một nhu yếu phẩm mà nhân loại thời điểm này cũng như thời điểm đang tới sẽ khao khát tìm tòi, mà không dễ gặp được.
Nhìn lại 17 năm qua, tôi thấy vô số người đã sống ơn tiên tri ấy. Một đặc điểm của những tinh thần sống ơn tiên tri nói trên là gương Ðức Kitô, biết vận dụng tính lịch sử của từng thời điểm, của từng địa phương. Ðọc Phúc Âm, ta thấy Chúa Giêsu rất nhạy bén với tính lịch sử của từng chặng cuộc đời. Có lúc Ngài nói: “Chưa đến giờ”. Có lúc Ngài nói: “Ðã đến giờ”. Có nghĩa là Ngài không cứng ngắc. Ngài mềm dẻo, tỉnh táo nắm bắt tính lịch sử. không phải lúc nào Ngài cũng làm phép lạ. Không phải lúc nào Ngài cũng muốn các người được phép lạ tung hô Ngài. Không phải ai cũng là kẻ Ngài muốn tỏ lộ vinh quang của Ngài trên núi Tabô. Không phải ai cũng được Ngài cho tham dự vào lễ Lên Trời của Ngài. Nhưng lúc nào và bất cứ với ai, Ngài luôn luôn chứng tỏ Ngài là tình yêu. Nếu Ngài có khí giới, thì khí giới của Ngài cũng là tình yêu.
Cũng như ơn trở lại, ơn tiên tri là một ơn Chúa Thánh Thần thông ban cho. Ơn Chúa Thánh Thần ví như lửa, như gió, luôn động, luôn uyển chuyển. Mềm mà mạnh vô chừng. Ða dạng mà có sức tác tạo tuyệt vời.
Với nhận thức trên, tôi thấy vô vàn thành quả do các tinh thần sống ơn tiên tri mang lại trên chặng đường 17 năm qua. Như là luồng gió tình thương, luồng gió hoà hợp, luồng gió cổ võ tinh thần liên đới, luồng gió từ thiện, đang thổi rộng khắp. Ðúng là một rừng hoa thơm đẹp, loan báo hướng đi của Nước Trời đang mang đến trong lòng nhiều người Việt Nam.
 Loại hoa thứ ba là những thành quả của tinh thần Truyền giáo
Không thiếu người cho rằng: Chặng đường 17 năm qua là chặng đường bế tắc về mặt truyền giáo. Ý kiến đó có thể đúng cho một nơi nào đó nhất định, với những hoàn cảnh nhất định nào đó, chứ không đúng cho tất cả mọi nơi trên Ðất Nước này. Bởi vì hôm nay, nhìn lại 17 năm qua, tôi thấy nhiều giáo phận đã bước được nhiều bước truyền giáo thực vững mạnh, đem lại kết quả rất đáng mừng. Giáo phận Long Xuyên cũng trong số các giáo phận đáng mừng ấy. Tôi chỉ xin đưa ra vài con số tiêu biểu. Từ tháng Hoa 1975 đến nay, số linh mục được thụ phong là 77 vị. Số giáo đoàn trước giải phóng không có linh mục ở thường xuyên, mà bây giờ đã có, nay đếm được là 41. Số địa điểm túng nghèo ở vùng sâu trước đây không có Nhà Nguyện, để giáo dân thực hiện việc phụng tự chung, mà bây giờ đã có, nay đếm được là 11. Nhân sự tăng, cơ sở tăng, sinh hoạt tăng, liên hệ tốt tăng.
Ðiều đáng mừng hơn cả trên con đường truyền giáo, đó là nhiều người được nghe Tin Mừng, và cảm nghiệm được Tin Mừng. Tin Mừng, đó là tin họ được Thiên Chúa yêu thương. Tin Mừng, đó là tin họ được Ðức Kitô cứu độ. Tin Mừng, đó là tin họ được Hội Thánh phục vụ. Yêu thương phục vụ bằng các việc bé nhỏ âm thầm, và bằng đời sống phản ánh Tám-Mối-Phúc-Thật. Chỉ đơn sơ thế thôi, nhưng kết quả thực lạ lùng. Có nơi, số người tham dự lễ Chúa nhật có đến 1/3 là người lương. Rồi biết bao người lương, đã cùng với người giáo, tích cực lo các việc từ thiện dành cho kẻ nghèo. Không thiếu người lương đã rất tích cực trong việc xây dựng hoà hợp giữa đời và đạo, cả ngay trong việc xây dựng nhà thờ. Ðang khi loan báo Tin Mừng cho người lương, tôi thấy người lương cũng đã loan báo lại cho người Công giáo nhiều giá trị đẹp của nếp sống họ.
Nhìn qua những nơi truyền giáo, tôi có cảm tưởng là Chúa Thánh Thần đang hoạt động rất mãnh liệt một cách tự do thoải mái trên một cánh đồng đầy mầu mỡ. Ngài có nhiều người cộng tác. Họ có đủ thành phần: Giáo sĩ có, tu sĩ có, giáo dân có, lương dân có. Nhìn chung, tôi coi đó là một cánh đồng hoa thơm, loan báo về một Nước Trời không phải là nước thế gian này, nhưng là một tình trạng đạo đức có tinh thần Phúc Âm đang được xây dựng trong lòng nhiều người Việt Nam hôm nay.
Trên đây là những cái nhìn của tôi về tình hình giáo phận trên chặng đường 17 năm qua. Tất nhiên còn vô số cái chưa tốt. Nhưng nói chung, những kết quả tốt do ba tinh thần: Trở về, Tiên tri và Truyền giáo, đang có chiều hướng tăng.
Sự thực ấy nói lên điều này: Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, người ta vẫn có thể đón nhận được vô vàn ơn Chúa. Chúng ta chẳng có gì. Chúng ta chẳng là gì. Chúng ta chỉ đón nhận. Chúng ta chỉ là những kẻ tham dự vào lời “Xin vâng” của Ðức Mẹ. Vinh quang hoàn toàn là của Chúa. Quyền năng hoàn toàn là của Chúa.
Cùng với Ðức Mẹ, chúng ta khiêm tốn ngợi khen lòng thương xót Chúa đến muôn đời.
Long Xuyên, tháng 5/92

 

Bùi-Tuần 996: Chúa Cha Giàu Lòng Thương Xót 03-04-2006

Ga 17, 14-16
 

Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã nói về Chúa Cha và với Chúa Cha, Ngài gọi Chúa Cha là người: 03-04-2006 Bùi-Tuần 996:

Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã nói về Chúa Cha và với Chúa Cha, Ngài gọi Chúa Cha là người cha gìn giữ con cái: “Lạy Cha, xin gìn giữ chúng khỏi mọi sự dữ”. Người gọi Đức Chúa Cha là người cha thánh hóa con cái: “Lạy Cha, xin thánh hóa chúng trong chân lý”.
Đọc Phúc Âm chúng ta thấy: Đức Giêsu nói về Đức Chúa Cha rất nhiều lần, và lần nào cũng nói bằng những lời thật âu yếm. Có lần Đức Kitô gọi Đức Chúa Cha, chỉ vì muốn gọi tên người mình thương mến. “Abba, Cha ơi”. Có lần Đức Kitô nói về Đức Chúa Cha, để tuyên xưng chính Đức Chúa Cha đã sai Người: “Như Cha đã sai Con vào thế gian thế nào, thì Con cũng sai chúng vào thế gian như vậy”. Có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha, để đề cao thánh ý Chúa Cha lên hàng đầu: “Lạy Cha, Con xin đến để làm theo ý Cha... Lạy Cha xin đừng làm theo ý Con, mà hãy làm theo ý của Cha”. Rồi có lần Chúa Kitô nói đến sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con: “Lạy Cha, cũng như Cha và Con là một, thì xin cho các môn đệ của Con cũng hợp nhất với chúng ta”. Rồi có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha để cảm tạ ơn Cha: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu những điều này với những người khôn ngoan, hiền triết, mà chỉ tỏ ra cho những người hèn mọn”.
Ngoài những lời nói về Chúa Cha một cách thân thương, Chúa Kitô còn đưa ra những hình ảnh về Đức Chúa Cha. Thí dụ: Hình ảnh người cha nhân từ, đi đón người con phung phá trở về. Hoặc là người chăn chiên tận tình, đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được nó thì vác nó trên vai. Hoặc là hình ảnh người cha trên trời quảng đại, làm mưa xuống, làm mặt trời mọc lên, để phục vụ kẻ tốt cũng như kẻ xấu.
Khi hiểu biết giáo lý về Đức Chúa Cha như vậy, Thánh Phaolô Tông Đồ đã gọi Đức Chúa Cha là người cha giàu lòng nhân ái, giàu lòng thương xót. Và thánh Gioan Tông Đồ đã cắt nghĩa tình yêu thương xót của Chúa Cha thế này: Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta chưa nhận biết Người. Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi. Thương xót ở chỗ Người đã sai Con Một mình xuống thế gian, để gánh tội, đền tội, xóa tội cho ta.
Khi tôi hiểu biết như vậy, và nhất là, khi tôi cảm nghiệm được phần nào lòng thương xót của Chúa Cha, tôi bao giờ cũng cậy trông phó thác nơi tình yêu Thiên Chúa là “Cha giàu lòng thương xót”. Cậy trông, phó thác không phải vì mình có công phúc gì, mà chỉ vì Chúa là Cha nhân lành, mà mình là người con, cha thì thương con, con thì cậy vào Cha, và nhất là vì Chúa là Cha nhân từ, quyền năng, rất thương yêu những kẻ bé mọn, yếu đuối. Nên càng ý thức mình yếu đuối, hèn mọn bao nhiêu thì càng phó mình vào tay Thiên Chúa bấy nhiêu. Và tôi phải nói thật với anh chị em điều này, là khi tôi cậy trông, phó thác nơi Chúa như vậy, thì Chúa sẽ làm tất cả và ở trong tất cả đời tôi. Có những vấn đề tôi tưởng rằng không giải quyết được, nhưng rồi Chúa đã giải quyết cho tôi. Có những khó khăn tôi tưởng không bao giờ vượt qua được, nhưng rồi Chúa đã làm cho những khó khăn ấy tan đi một cách dễ dàng. Có những ước vọng tôi tưởng không bao giờ đạt được, nhưng rồi những ước vọng ấy đã đạt được quá sự tôi mong ước.
Đúng là như lời Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ: Đối với Chúa, không có gì là không thể được. Và đúng như lời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: Người ta chẳng bao giờ quá cậy trông vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng và rất nhân từ.
Anh chị em thân mến.
Càng lớn lên, càng nhiều tuổi, chúng ta càng thấy cuộc đời là chuyến đi dài. Trong đó có những chỗ tốt, có những chỗ xấu, có ánh sáng và có bóng tối, có thành công và có thất bại, có nhân đức và có tội lỗi. Nhưng, đối với một người hy vọng vào Chúa, phó thác nơi Chúa, thì sự cậy trông phó thác ấy sẽ là một hành trang quý giá, giúp cho chuyến đi về tới nơi, tới chốn.
Lúc nãy, khi tôi vừa tới bên nhà xứ, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát ca tụng lòng thương xót Chúa và yêu cầu mọi người hãy cậy trông vào lòng thương xót Chúa. Đúng lúc ấy, tôi đang suy nghĩ về sự cậy trông Chúa, và tôi nói với Chúa rằng: Ước chi người ta không phải nghe lời cậy trông Chúa qua tiếng loa, hay qua lời con giảng trong nhà thờ, mà mỗi người hôm nay, tự đáy lòng mình, hãy chân thành nói với Chúa rằng: Hôm nay, ngày mai, suốt cả đời con, con tin vào lòng thương xót Chúa. Con hết lòng cậy trông ở lòng thương xót Chúa, con phó thác toàn thân con, trọn đời con ở lòng thương xót Chúa. Và suốt đời, con sẽ ca tụng lòng thương xót Chúa, không phải bằng tiếng ca, bằng đàn cầm, mà bằng tất cả tấm lòng, bằng tất cả trí khôn, bằng tất cả linh hồn con.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin Chúa Thánh Linh, ban cho mỗi người trong chúng ta, nhất là các em chịu phép Thêm Sức được ơn từ nay trở đi, biết tin vào lòng thương xót Chúa, biết phó thác mình vào tay nhân lành của Người Cha nhân từ, luôn luôn yêu mến chúng ta, luôn luôn gìn giữ chúng ta, và luôn luôn sẵn sàng cứu chúng ta khỏi tội, và đưa chúng ta tới chỗ bình an. Amen.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 997: Cảm nghĩ sau diễn trường quốc tế về "Trái Ðất Tương Lai"

Sân bay Le Bourget cạnh thủ đô Pháp, đã biến thành diễn trường quốc tế, trong ba ngày 5,6,7 tháng Bùi-Tuần 997

Sân bay Le Bourget cạnh thủ đô Pháp, đã biến thành diễn trường quốc tế, trong ba ngày 5,6,7 tháng 6, 1992. Diễn trường này do CCFD (Uỷ Ban Công Giáo chống đói và hỗ trợ phát triển) tổ chức. Chủ đề của nó là ” TRÁI ÐẤT TƯƠNG LAI”.
Ðịa hình 52 ngàn mét vuông được chia thành 13 khu vực, dành cho các đơn vị lớn: Châu Á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Liên Hiệp Quốc, Chính trị, Văn hoá, Kinh tế, Tôn giáo, Truyền thống, Ngân hàng, các tổ chức không chính phủ. Mỗi đơn vị lớn có những gian hàng trưng bày các hình ảnh và các tài liệu về phát triển.
Tham dự diễn trường có 700 tổ chức và trên 60.000 khách. Hơn 100 cuộc thảo luận đã được thực hiện.
Diễn trường quốc tế này được tổ chức song song với Hội nghị Riô tại Brésil. Ðiểm giống nhau, đó là cả Riô lẫn Le Bourget đều nhắm tới vấn đề phát triển. Ðiểm khác nhau, đó là Riô nhấn mạnh đến môi sinh và tụ họp các chính phủ, còn Le Bourget đề cao tình liên đới và là nơi gặp gỡ các tổ chức không chính phủ (Organisation non gouvernementales, viết tắt là ONG).
Tại diễn đàn "Trái Ðất Tương Lai”, năm châu đã gần gũi bên nhau. Tự do, thoải mái, chân tình. Có thể coi năm châu ở đây như một ngôi làng lớn. Tôi đã tạm gọi nó bằng tên ” Ngôi làng thế giới”. Ba ngày tại ngôi làng thế giới này đã gợi cho tôi một vài cảm nghĩ, xin được chia sẻ ở đây với anh chị em.
 Hoà mình vào một thế giới nhiều băn khoăn
Nghe bài đón tiếp của Ông René Valette, chủ tịch CCFD, và bài diễn văn khai mạc của Ông Pierre Bérégovoy, Thủ tướng Pháp, tôi thấy diễn trường này không phải là những ngày lễ hội, mà là một dịp nhận thức về một thực tế đang gây nhiều nhức nhối. Thực tế đó là cái hố sâu giữa các nước giàu và các nước nghèo. Nghèo chiếm đại đa số, còn giàu thuộc về một thiểu số rất nhỏ.
Cái hố ấy đang gây ra nhiều nguy cơ đủ loại. Nguy cơ nào cũng tai hại. Thủ tướng Pháp đã rất thực tế, khi nêu lên một số nguy cơ sẽ xảy đến cho các nước giàu. Thí dụ dân số tại các nước nghèo ngày càng tăng. Nạn đói kém sẽ gây nên những cuộc di dân tràn vào các khu vực giàu. Nhưng tại đây nạn thất nghiệp cũng đang tăng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng đang cạn, thêm vào đó lại đang xuất hiện những loại nghèo nàn mới.
Ðể khơi lên ý thức trách nhiệm về thực trạng ấy, diễn trường đã có những cuộc tranh luận lớn, từng ngàn người dự. Như các chủ đề: Châu âu với thế giới thứ ba. Nước pháp đã góp phần thế nào cho việc phát triển các nước kém mở mang. Ngoài ra, tại quảng trường chính, đã dựng nên những bức chân dung lớn của Gandhi (Ấn độ), của Rômêô (Mỹ châu La-tinh), của Tutu (Phi Châu). Như muốn nói với mọi người rằng: Những băn khoăn về chênh lệch giàu nghèo đang trở thành những băn khoăn rải rộng khắp nơi trên thế giới. Ðã có những vị như các vị này suốt đời đấu tranh không mệt mỏi vì những băn khoăn đó. Tinh thần các vị ấy còn đang tiếp tục hoạt động. Những băn khoăn trước thực trạng hố sâu giữa giàu và nghèo có thể gây nên những trận bão khốc liệt trong từng triệu triệu lương tâm.
Theo dõi dư luận trên báo chí, trong các cuộc tranh luận, và qua tiếp xúc tại diễn trường Le Bourget, tôi thấy có nhiều phản ứng đáng suy nghĩ.
Hầu hết cho rằng: Cái hố giữa các nước giàu và các nước nghèo là rất lớn. Trách nhiệm nghiêng về các nước giàu hơn là về phía các nước nghèo. Bởi vì đã có những bất công đối với các nước nghèo, đã có những nước giàu giúp phát triển kinh tế cho các nước nghèo mà không giúp phát triển con người của họ (Báo La Vie, n0 2439, 28 Mai 1992). Ðã có những dịch vụ từ thiện hơn là tấm lòng bác ái. Báo Le Monde ngày 9 tháng 6 năm 1992 đã dùng một từ rất gợi ý “Charité-business”. Ðã có những xuất khẩu lối sống tự do hưởng thụ giúp phát triển tội lỗi hơn là phát triển kinh tế và văn hoá cho các dân nghèo.
Tài liệu “Sommet Planète Terre” của Liên Hiệp Quốc số 6, tháng 4/1992, cho biết: Thiểu số bé nhỏ các nước kỹ nghệ đã làm ô nhiễm khí trời, nước mưa, nước biển, hơn gấp bội các nước nghèo cộng lại. Cũng theo tài liệu này, Hoa Kỳ mỗi năm đã đổ đi hơn một triệu tấn chén bát còn tốt, là một số lượng có thể giúp ích hàng năm cho 6 lần tổng số nhân loại. Tài liệu Liên Hiệp Quốc “Sommet Planète Terre” số 5, Aviril 1992, cũng cho thấy: Lá phổi của trái đất là rừng cây đã và đang bị cắt đi từng mảng, một phần lớn do các nước giàu. Khai thác gỗ là một kỹ nghệ mang lại khoảng 85 tỷ đôla hàng năm. Vì thế, mỗi năm có hơn 3 tỷ thước khối cây bị lấy đi khỏi rừng. Quá nửa số này là từ Hoa Kỳ, Canađa và Liên Xô cũ.
Bên cạnh những phản ứng trên, đã có những phản ứng hướng về các nước nghèo. Có những lo ngại cho các nước nghèo, khi được mở ra, thấy cảnh giàu là ham, muốn làm giàu với bất cứ giá nào, dù với cách đầu tư truỵ lạc. Có những lo ngại cho các dân nghèo, không quen chọn lựa và không quen đề kháng, nên trước khi học được cái hay cái tốt của các dân giàu, thì lại vội học cái dở và nhiễm lấy cái xấu của họ. Có những lo ngại cho các nước nghèo nay thèm khát nền văn minh hưởng thụ, đang khi những người đã tận hưởng nó lại thất vọng nó, bởi lẽ nó đang dẫn đến nhiều bế tắc cho các khát vọng bề sâu của con người.
Băn khoăn được nhắc đến nhiều nhất cho các nước nghèo, đó là dân số tăng một cách không hợp lý, đang khi đó đất đai trồng trọt tại nhiều nơi lại giảm đi. Theo ước lượng của tổ chức quốc tế FAO, thì đến năm 2100 sẽ mất đi khoảng 65 phần trăm đất trồng trọt tại Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh, do các chương trình mở mang đô thị và chăn nuôi. Còn về dân số, thì tại các nước giàu, cứ khoảng 146 năm dân số mới tăng gấp đôi, còn tại các nước nghèo, cứ khoảng 37 năm đã tăng gấp đôi. Có nước rất nghèo, như Zambia, cứ sau 18 năm, dân số đã vọt lên gấp đôi. Người đông thêm, đất hẹp lại, trí thức kém, với những điều kiện như thế, tránh sao khỏi cảnh chậm phát triển.
 Chia sẻ với một thế giới đi tìm giải đáp
Tham dự các sinh hoạt của Làng Thế Giới, tôi thấy một hiện tượng nổi bật, đó là khách thăm và quần chúng rất ham chuộng cái gì là độc đáo của mỗi dân tộc. Cái lôi cuốn họ tại mỗi gian hàng không phải là cái đẹp chung chung của nền văn hoá thế giới, mà là cái riêng biệt của từng dân tộc. Chỗ này, ngoài công viên, người ta bu lại vòng trong vòng ngoài. Gì thế? Thưa là để tán thưởng một nhóm nghệ sĩ Châu Mỹ Latinh đang vừa ca vừa vũ, với điệu múa dân tộc, với y phục dân tộc, với nhạc cụ dân tộc. Chỗ kia, trong hội trường lớn của Châu Á, có từng trăm người đang chen chúc nhau. Cái gì vậy? Thưa là để theo dõi các tiết mục ảo thuật, võ thuật của nhóm Trung Quốc, của nhóm Triều Tiên. Những lúc ấy, tôi thấy bất cứ nước nào cũng có thể trở thành những vì sao sáng. Một dân tộc dù rất nghèo, vẫn có những cái đẹp riêng của mình, đủ mà hấp dẫn, vẫn có những cái hay riêng của mình, đủ mà tự hào.
Hiện tượng đó gợi ý cho tôi nghĩ rằng: Các dân tộc nghèo, nên để ý phát triển những cái hay cái đẹp sẵn có của mình. Không nên đua đòi, cạnh tranh với cái hay cái đẹp, mà nơi khác đã có hơn mình. Học hỏi người ta, hợp tác với người ta, nhưng mình vẫn phải là mình, với những nét đẹp riêng của mình. Ðó là một giải pháp tốt. Những giải pháp như vậy đòi nhiều nghiên cứu, với ý chí cầu tiến.
Ý kiến trên đây cũng đã được nhà thần học Bruno Chenu, gợi ý trong một cuộc luận đàm tại diễn trường, khi nói đến vai trò của thần học đối với công trình phát triển. Ðề tài buổi luận đàm hôm đó là Thần học của thế giới thứ ba. Cha Chenu nói lên sự xuất hiện các phong trào thần học tại các nước nghèo, đặc biệt là tại Châu Mỹ La Tinh, và tại Châu Phi. Riêng tại Châu Á, sự xuất hiện đó mới chỉ nhận thấy ở vài điểm nhỏ như Sri-Lanca, Triều Tiên. Các phong trào thần học này là những suy nghĩ Kinh Thánh khởi đi từ các vấn đề bức thiết của mỗi dân tộc trên con đường phát triển. Cha Chenu cho rằng: cách suy nghĩ như vậy rất đáng khen. Theo ngài, các phong trào thần học thế giới thứ ba đang làm cho các nhà thần học Châu Âu phải suy nghĩ lại nhiều vấn đề. Ðúng là có nền thần học chung, đồng thời cũng nên có những nền thần học riêng. Không đối chọi nhau, nhưng bổ túc cho nhau.
Cũng trong buổi tranh luận này, một số vị đại diện Hồi giáo, Phật giáo tại Châu Phi và Châu Á đã chia sẻ kinh nghiệm của mình về việc các suy nghĩ của tôn giáo đã hỗ trợ cho việc phát triển con người và đời sống, cho việc xây dựng hoà giải và hoà bình trong nước và trong khu vực.
Trong những ngày tham dự diễn đàn, tôi đã có một cuộc trao đổi dài với Ðức Cha Fu tie Shan, Giám Mục Bắc Kinh. Ngài cho biết: Các linh mục của ngài, sau khi thụ phong, thường được gởi đi các đại học nhà nước để học biết một ngành nghề. Mục đích là để các linh mục ấy có thể góp phần hữu hiệu vào việc phát triển nơi mà họ đến làm mục vụ. Có nghĩa là để giúp phần phát triển, người ta cần có một trình độ trí thức và chuyên môn, chứ không phải là thiện chí.
Nhiều cơ quan viện trợ nước ngoài đã nói với tôi rằng: Người thiện chí tại Việt Nam thì vô kể, nhưng người có khả năng chuyên môn với trình độ trí thức và tinh thần trách nhiệm, mới là người chúng tôi tìm để hợp tác trong các chương trình phát triển tại Việt Nam.
Ðúng là như vậy. Phát triển không đơn thuần chỉ là sản xuất làm ra nhiều của cải, mà là phát triển chính con người toàn diện, trong đó việc phát triển các giá trị tinh thần đóng một vai trò không gì thay thế được.
Khi tôi ghé vào gian hàng của Bộ Hợp tác và Phát triển, tôi càng thấy rõ trình độ tinh thần cần thiết thế nào trong việc hợp tác với nước ngoài, để thực hiện các dự án phát triển tại nước mình. Chính phủ Pháp có hẳn một Bộ, mang tên "Bộ Hợp tác và phát triển”. Tại đây tôi để ý nhiều đến ưu tiên mà Bộ Hợp tác và phát triển dành cho các dự án. Ðó là ưu tiên cho các chương trình nghiên cứu. Mà để nghiên cứu, thì phải có trình độ trí thức và mức độ chuyên môn khả quan. Rõ ràng là rất cần nghiên cứu, để các công trình phát triển có được tính cách lâu dài, nhằm xây dựng con người hơn là xây dựng cơ sở, và đạt được lợi ích cho dân chúng, chứ không phải lợi ích cho một cơ chế tôn giáo hay cho một thể chế chính trị. Chương trình phát triển dễ trở thành bi kịch khi không được bảo đảm về khả năng trí thức chuyên môn và trình độ lương thiện.
 Ðồng hành với một thế giới phát triển tình liên đới
Mỗi sáng, tại các cửa đi vào Làng Thế Giới, có phát những bản tin liên quan đến diễn trường. Nội dung gồm tin tức ngày hôm trước, như tóm lược các bài báo khắp nơi đã nói về diễn trường, các khách đã đến thăm, một số ý kiến quan trọng đã được nêu lên về Trái Ðất Tương Lai. Qua các bản tin này, tôi thấy rõ hơn những gì đã xảy ra tại diễn trường. Vì nó mênh mông quá. Tuy nhiên có một điều tôi nhận thấy rất rõ, dù không đọc các bản tin. Ðó là trong Làng Thế Giới này, kẻ giàu người nghèo đều đồng hành với nhau trong một chuyến đi chung về tương lai. Trên chuyến đi này, chẳng ai quá giàu đến nỗi không cần đến những người nghèo, chẳng ai quá nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người giàu. Mọi người đều liên đới với nhau trong hạnh phúc và trong rủi ro.
Tinh thần liên đới, đó là một nét đạo đức nhân bản, mà mọi khuynh hướng xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế, tôn giáo đều đã đề cao trong diễn trường này.
Chính bản thân CCFD cũng đã được sinh ra và lớn lên do tinh thần liên đới. Tháng Giêng năm 1961, một nhóm gồm 15 phong trào, được thúc đẩy bởi tinh thần liên đới và dưới sự ủng hộ của Ðức cha Menager đã khởi xướng chiến dịch chống nạn đói. Khẩu hiệu đầu tiên là: “Bao người đang đói. Các bạn phải làm gì cho họ ?”. Các năm tiếp đó, chiến dịch vẫn là chống đói, nhưng được phát động rộng rãi hơn tại các nước giàu. Khẩu hiệu đưa ra là: “Bao người đang đói. Chúng ta hãy chia sẻ”. Năm 1966, chiến dịch chống đói bước thêm một bước mới, đó là vừa chống đói và vừa phát triển. Khẩu hiệu gởi đi là: “Xoá nạn đói, nhường chỗ cho phát triển. Chúng ta hãy chia sẻ“. Những năm thập niên 70, chiến dịch nhắm vào một số nước nghèo như Chilê, Ấn độ, Guinee, Guatemala, Mali, Sri-Lanca, Brasile, vùng sông Mêkông. Những năm thập niên 80, chiến dịch được tập trung vào việc phát triển học đường, đào tạo nhân sự chuyên môn. Những năm gần đây, phong trào chống đói và hỗ trợ phát triển do CCFD thực hiện đã trở thành một tổ chức với qui mô lớn. Cuối năm 1991 với một quỹ tiền là 189 triệu francs Pháp, CCFD đang hỗ trợ cho 450 dự án phát triển tại hầu hết các nước đang phát triển.
Một tổ chức mới 30 tuổi, mà đã bước vào được hầu hết các nước trên thế giới. Như đã chứng tỏ, động lực phát triển, mục tiêu phát triển và phương tiện phát triển không hẳn chỉ là phát triển của cải vật chất, mà trước hết là phát triển các giá trị tinh thần, đặc biệt là tinh thần liên đới.
Tinh thần liên đới cũng chính là điều mà các học sinh Pháp đã được học tại Làng Thế Giới này. Có hơn 15.000 học sinh từ 600 trường đã tới Le Bourget. Qua các gian hàng, chúng đã thấy tận mắt thế nào là tình liên đới giữa các nước giàu nghèo.
Trong bức điện văn gửi cho Diễn trường “Thế giới tương lai” Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã hô hào các người tham dự hãy phát huy tinh thần liên đới với các dân tộc trên thế giới. Tình liên đới mà Ðức Thánh Cha nêu lên đã dựa trên một cơ sở thần học sâu sắc. Ðức Thánh Cha viết: “Mỗi Kitô hữu là một chi thể của Mình Mầu Nhiệm Ðức Kitô, nên họ được mời gọi hiến thân cho các anh em mình. Những khả năng của mỗi người hãy dùng để phục vụ mọi người”.
Thủ tướng Pháp, Pierre Bérégovoy, trong diễn văn trước diễn trường, đã khẳng định: "Cái thời của các quốc gia khép kín không còn nữa. Trước tiên bởi vì quan niệm về nhân loại đã phát triển trong các lương tâm. Ngoài ra, bởi vì trên bình diện cụ thể, sự ích kỷ không những là vô luân lý, mà còn là một việc tự sát”.
Trong thánh lễ bế mạc tại Làng Thế Giới trưa 7 tháng 6, 1992, Ðức Hồng Y Roger Etcheragay đã nói: “Tình liên đới còn hơn là một chiến lược, và còn hơn là một nhu cầu, nó đang là một sự thực hiển nhiên, là một đam mê, được nuôi dưỡng bởi một cái nhìn về mối hiệp nhất gia đình nhân loại, mà mỗi người đều bình đẳng và được Cha trên trời yêu thương như nhau”.
Trong bữa tiệc khoản đãi các Ðức Giám Mục và các quan khách ngày bế mạc, đã có nhiều phát biểu thân tình. Trong đó có một phát biểu được mọi người hoan nghênh, gây ấn tượng sâu sắc: “Trong 3 ngày nay, tôi đã được nghe biết bao điều hay ho đạo đức. Tôi mong những điều hay ho đạo đức ấy sẽ được thực hiện, dù chỉ một phần thôi, để những người nghèo khó như chúng tôi được bớt khổ trên trái đất hôm nay này”. Ðó là lời chân thành của anh bồi bàn.
Tôi từ giã Làng Thế Giới, và cầu nguyện cho ước vọng trên đây của một người nghèo được thực hiện. Trái đất tương lai đang bắt đầu từ trái đất hôm nay.
Long Xuyên, tháng 8/1992

 

Bùi-Tuần 998: Một kỷ niệm lớn

Ngày 12 tháng 10 năm nay, 1992, là một kỷ niệm lớn của Châu Mỹ Latinh và Tây Ban Nha. Có người Bùi-Tuần 998

Ngày 12 tháng 10 năm nay, 1992, là một kỷ niệm lớn của Châu Mỹ Latinh và Tây Ban Nha. Có người gọi kỷ niệm này là kỷ niệm 500 năm truyền giáo Châu Mỹ. Có người gọi kỷ niệm này là kỷ niệm 500 năm khám phá Mỹ Châu. Có người gọi kỷ niệm này là kỷ niệm 500 năm gặp gỡ giữa Châu Âu và Châu Mỹ.
Ðài BBC, chiều ngày 8 tháng 8 vừa qua, khi nói tới kỷ niệm này, đã nhiều lần nhắc tới quyền lực Thiên Chúa giáo. Lịch sử còn ghi lại nhiều sự kiện mang mầu sắc ấy.
 Những bước đi của quyền lực
Ngày 2/1/1492, Tây Ban Nha xua đuổi thành công các người Hồi giáo ra khỏi nước mình.
Ngày 31/3/1492, tất cả mọi người Do thái đều bị trục xuất ra khỏi Tây Ban Nha.
Triều đình Tây Ban Nha bấy giờ là một triều đình rất Công giáo, với Nữ hoàng Isabella mang biệt danh là Nữ hoàng Công giáo.
Ngày 3/8/1492, được sự chấp thuận của Nữ hoàng, Ông Christophe Colomb, rời Tây Ban Nha, ra khơi, đi tìm đất mới. Ông này là người gốc Ý, quốc tịch Tây Ban Nha, theo đạo Công giáo. Ðoàn thuỷ thủ dưới quyền ông gồm 90 người theo đạo Công giáo.
Ba chiếc tàu của đoàn thám hiểm đều căng những chiếc buồm gắn huy hiệu thánh giá.
Ngày 12/10/l492, đoàn đặt chân lên Châu Mỹ Latinh, nơi hiện nay gọi là El Salvador. Lập tức, các thuỷ thủ đã cắm lên vùng đất mới những cây thánh giá lớn, để nói lên niềm tin của mình và cũng để đánh dấu sự mở rộng ranh giới của quyền lực nước mình.
Năm 1494, hiệp định Tordesillas phân chia Tân-thế-giới ra hai phần. Một phần dành cho Tây Ban Nha, và một phần dành cho Bồ Ðào Nha.
Năm 1519, Hernando Cortes đem quân chiếm thủ đô Tenochtitlan của nước Aztèque, thuộc Trung Mỹ, bắt sống vua Montezuna.
Năm 1532, Francois Pizarro đánh chiếm nước Inca, nắm quyền kiểm soát một vùng đất mênh mông gồm các nước Columbia, Peru và Equador hiện nay.
Cũng vào thời đó, Bồ Ðào Nha xua quân tràn vào phía tây Châu Mỹ Latinh, đánh chiếm vùng đất bao la sau này là nước Brasil. Mục đích của các cuộc thám hiểm và các cuộc viễn chinh là tìm kiếm các kim loại quý và tìm đường mở rộng việc buôn bán với các nước ngoài. Công cuộc truyền giáo tại Châu Mỹ đã bắt đầu từ đó.
Những bước đi của quyền lực trên đây đã được phản ánh phần nào trong cuộn phim “Christophe Colomb” được trình chiếu năm rồi tại Việt Nam. Như đã thấy ở trên, lịch sử năm 1492 của Tây Ban Nha mang khí thế thừa thắng xông lên. Khí thế ấy đã mang lại những gì cho các dân bản xứ Châu Mỹ Latinh? Hẳn là đã có những cái tốt, nhưng cũng đã có rất nhiều cái không tốt.

 Khai phá và tàn phá
Tạp chí Présence Mariste, số 191, 2e trimestre, 1992, với chủ đề: “500 năm Phúc-Âm-hoá Châu Mỹ Latinh” đã cho thấy một tình hình như sau:
Năm l492, số thổ dân tại Hispaniola, nơi Christophe Colomb đã đổ bộ lên, ước lượng là 300.000 người. Nhưng chỉ 50 năm sau, số đó giảm xuống còn chừng 1.000 người.
Chỉ trong một thế kỷ, số thổ dân tại Mexico đã từ 25 triệu giảm xuống còn hơn một triệu. Và tại Pêru, cũng trong thời gian ấy, số thổ dân đã từ 10 triệu giảm xuống còn 1 triệu 3. "Tính tổng cộng, sự đụng độ giữa các người thổ dân với các người Âu Châu mới tới đã làm biến đi khoảng 75 triệu người Amérindiens tại Châu Mỹ Latinh trong vòng 50 năm” (Tạp chí nói trên, trang 10).
Lý do sự tàn lụi này là vì các thổ dân một phần bị các người thuộc địa bắt đi, đem bán làm nô lệ tại các nước Âu Châu, một phần bị khống chế lao động trong các điều kiện cực kỳ tồi tệ, một phần bị chết do các thứ bệnh dịch đem tới từ Âu Châu.
Như thế có nghĩa là Châu Mỹ Latinh, mà người ta gọi là Ðất-Ðược-Khám-Phá năm 1492, thực ra là những đất vốn có chủ. Chủ là từng triệu thổ dân. Họ mọi rợ, nhưng sống có nề nếp gia đình, trật tự xã hội theo truyền thống của họ. Họ có tín ngưỡng và văn hoá riêng của họ. Nhất là họ có tự do, độc lập và chủ quyền. Bỗng dưng có những người văn minh tới, chiếm đất nước họ, bất họ làm nô lệ, gọi là để khai phá. Khai phá kiểu đó, đối với họ, chính là tàn phá. Vì thế, đối với họ lịch sử từ năm 1492 trở đi là một đêm dài đầy tủi nhục. Cuộn phim nhiều tập mang tựa đề: “Nô tỳ Isaura” phản ánh khá đúng tình hình thời hậu-khám-phá Châu Mỹ Latinh.
May mà trong đêm dài hãi hùng ấy đã loé lên nhiều tia sáng. Ðó là sự xuất hiện những người Công giáo tốt, nhất là các vị Thừa sai. Họ can đảm bênh vực các thổ dân bị áp bức, cố gắng đấu tranh cho một trật tự xã hội công bình. Tiêu biểu là Linh mục Montésinos, dòng Ðaminh, năm 1511, và sau đó là Bartolomé de las Casas năm 1545. Nhờ họ chiến đấu mà chính quyền thực dân đã phải ban hành luật tôn trọng quyền lợi dân bản xứ, nhưng các luật này không được thi hành nghiêm chỉnh.
Từ năm 1817 tới năm 1825, do ảnh hưởng phong trào tự do của các cuộc cách mạng tại Âu Châu, các dân gốc Âu Châu tại các thuộc địa Châu Mỹ đã nổi dậy, chống lại các Mẫu quốc, thành lập các quốc gia độc lập. Nhưng không vì thế mà những bất công xã hội đã được giải quyết. Cho tới nay, cảnh bất công xã hội vẫn là một tình hình bình thường tại đa số các nước Châu Mỹ Latinh.

 Những cố gắng mới về Phúc-Âm-hoá
Cảnh bất công xã hội tại Châu Mỹ La-tinh đã bị Ðức Giáo-Hoàng Gioan-Phaolô II nêu lên trước thế giới. Ngài nói: “Năm thế kỷ Phúc Âm có mặt tại Châu Mỹ La-tinh đã không thực hiện được việc phân chia của cải trái đất một cách công bình. Ðiều đó đang được cảm thấy với biết bao đau dớn, khi người ta nghĩ tới những người nghèo nhất trong những người nghèo, các nhóm thổ dân và những người vùng quê. Họ bị thương tổn về danh dự, bởi vì họ bị tước đoạt quyền được hưởng những lợi lộc sơ đẳng nhất về những của cải dành chung cho mọi người. Hoàn cảnh của những người này là anh chị em chúng ta đang kêu gào công bình lên Thiên Chúa" (Thư Mùa Chay 1992).
Cùng với cảnh bất công xã hội, còn có vô số hiện tượng phức tạp đang diễn ra tới tấp. Thí dụ: Nạn buôn bán ma tuý, nạn khủng bố, sự bùng nổ các giáo phái, phong trào quần chúng bỏ Hội Thánh, não trạng tục hoá tôn giáo, não trạng tương-đối-hoá các chân lý đức tin, não trạng mê tín dị đoan, não trạng tự do hưởng thụ, não trạng khai thác phái tính, vv... Trong bản nghiên cứu tình hình chuẩn bị cho Hội nghị thứ IV của Liên Hội Ðồng Giám Mục các nước Châu Mỹ La-tinh sẽ khai mạc tại Santo-Domingo ngày 12 tháng 10 này, người ta thấy sau 500 năm truyền-giáo, Châu Mỹ La-tinh hôm nay đang chịu những sức tàn phá mới.
Trước một thực tế như vậy, các thành phần Công giáo tốt đã và đang phản ứng mạnh mẽ. Ðiển hình như đường hướng mục vụ dành ưu tiên cho người nghèo, được Liên Hội Ðồng các Giám mục Châu Mỹ La-tinh (CELAM) chọn lựa. Thư chung Hội nghị Medellin 1968 và thư chung Hội-nghị Puebla 1979 là những bằng chứng hùng hồn. Ưu tiên cho người nghèo cũng là đường hướng tu đức mà Liên tu sĩ Châu Mỹ La-tinh (CLAR) đã chọn. Thư của Hội Ðồng các dòng tu Nam Mỹ tại Fusagatuga, Columbia, tháng 8, 1991 là một tài liệu tu đức mang dấu ấn thời đại của Châu Mỹ La-tinh. Rồi đã mọc lên một thứ thần học giải-phóng mà Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II đã khen là “Không những thức thời mà còn là ích lợi và cần thiết" (Thư gửi Hàng Giám mục Brasil, tháng 4, 1986). Rồi đang thổi lên những luồng gió canh tân, nhằm vào việc xây dựng các cộng đồng cơ bản, vào việc học hỏi Thánh kinh, vào việc cầu nguyện, vào việc dấn thân thực hành công tác từ thiện, vào việc đào tạo lớp người ưu tú, đặc biệt là các linh mục, vào việc phát triển một nền tu đức về liên đới và hiệp thông, vv...

 Những hướng dẫn tế nhị
Ðôi chút trên đây về tình hình đạo tại Châu Mỹ La-tinh xưa và nay giúp ta nhận thức được tính chất phức tạp của ngày kỷ niệm 500 năm đang tới. Nếu coi đây là một kỷ niệm đáng mừng, thì mừng cho ai, mừng vì sao và mừng thế nào? Còn nếu coi đây là một kỷ niệm chỉ nên nhớ lại mà thôi, thì ai nên nhớ, nhớ những gì và nhớ để làm gì? Dù với cách nhìn nào, kỷ niệm 500 năm này cũng đang đặt ra một câu hỏi lớn. Câu hỏi đó có thể diễn tả như sau:
Tại Châu Mỹ La-tinh, với một số dân Công giáo chiếm gần nửa tổng số Công giáo hoàn cầu, với những Hội thánh địa phương tương đối có nhiều tự do và nhiều quyền lợi, với những chính quyền địa phương hầu hết là Công giáo, với một thời gian Phúc-Âm-hoá dài 5 thế kỷ, có thời điểm nào phần lớn dân chúng đã thực sự sống tốt, với những điều kiện khả quan của một cuộc sống tốt, theo tinh thần thăng tiến công bình bác ái của Phúc Âm không? Con người ở đó và cuộc sống ở đó, khi so sánh với con người và cuộc sống ở các nước ngoài Công giáo, có thể được coi là tốt hơn không? Hay là ngang bằng hoặc là thua kém? Chắc là sẽ không có câu trả lời chính thức nào cả.
Tuy nhiên, người ta có thể nhận ra thái độ đầy khiêm tốn và sáng suốt trong các hướng dẫn của Hàng Giáo Phẩm về kỷ niệm 500 năm này.
Ðể gợi ý cho việc kỷ niệm 500 Phúc-Âm-hoá Châu Mỹ, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã đưa ra ba cái nhìn như sau :

1/. Quá khứ có nhiều điều cần phải sám hối.
2/. Hiện tại còn nhiều mâu thuẫn cần phải hoà giải.
3/. Tương lai có nhiều người nghèo cần phải thăng tiến.
Ðang khi đó, Liên Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La-tinh đã đưa ra ba nhận định sau đây :
a) Có những sự kiện mới đòi phải đổi mới việc Phúc Âm hoá.
b) Có những sự kiện mới đòi phải đổi mới việc thăng tiến con người.
c) Có những sự kiện mới đòi phải đổi mới việc xây dựng văn hoá Thiên Chúa giáo.
Trong tất cả 6 đường hướng trên đây có một điều được nhận thấy rất rõ, đó là các Hội đồng Giám mục Châu Mỹ đã không tự mãn. Hơn nữa, do tinh thần liên đới lịch sử, các ngài còn chính thức xin lỗi các thổ dân, vì những bất công họ đã phải chịu, vì những thành kiến đối với họ, vì những thái độ dửng dưng trước số phận hiện nay của họ.
Một điều khác cũng dễ nhận thấy trong các chỉ dẫn trên, đó là các vị lãnh đạo Hội Thánh đã không nhìn Hội Thánh như một toà nhà được xây dựng và bảo vệ, chỉ để giữ gìn các chân lý đức tin cho toàn vẹn. Nhưng các ngài đã nhìn Hội Thánh như nhóm môn đệ Chúa được sai đi, để lấy đời sống tin yêu, công bình, bác ái Phúc Âm, mà làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu.
Những đường hướng mục vụ trên đây chứng tỏ Hội thánh Châu Mỹ đang sống trong bầu khí tân-Phúc-Âm-hoá, mà Ðức Thánh Cha đã hô hào. Theo Ðức Thánh Cha, tân-Phúc-Âm-hoá hệ tại ở sự khơi dậy một nhiệt tình mới, tìm ra những cách diễn tả mới, sáng kiến ra những phương pháp mới (Bài giảng tại Haiti, 9/3/l983).
Và như vậy, phải chăng ngày kỷ niệm 500 năm truyền giáo Châu Mỹ La-tinh sẽ là điểm xuất phát một cuộc truyền giáo mới.
Và thiết tưởng, đây cũng là dịp để dân nước nghèo suy nghĩ về các cuộc mở rộng thị trường của các quyền lực xưa và nay. Ðã có những khai phá và đã có những tàn phá.
Long Xuyên, tháng 9/1992

 

Bùi-Tuần 999: MỘT GẶP GỠ QUÝ GIÁ 14-05-2006

Tuần vừa qua (12-5-2006) đại lễ Phật Đản đã được tổ chức long trọng khác thường trên khắp: 14-05-2006 Bùi-Tuần 999

Tuần vừa qua (12-5-2006) đại lễ Phật Đản đã được tổ chức long trọng khác thường trên khắp Việt Nam. Lý do vì năm nay là một mốc lịch sử quan trọng đối với đạo Phật.
Dịp này các báo chí và các đài truyền thanh, truyền hình đã đưa đồng bào gần lại với Phật giáo.
Được đọc, được nghe, được xem những chương trình giới thiệu sinh hoạt Phật giáo, rất nhiều người đã cảm thấy vui, một niềm vui nhẹ nhàng đắp bồi cho cuộc sống.
Dịp Đại Lễ vừa qua đã cho thấy nhiều đặc tính dễ thương của Phật giáo Việt Nam trong việc hành đạo, như tính hài hoà, tính tổng hợp, tính thiết thực, tính trung hiếu, tính linh hoạt, tính cộng đồng, tính phổ biến một cách hoà bình.
Mấy đặc tính sau đây rất được đề cao: Lòng từ bi, lo cho kẻ nghèo, sự gắn bó với dân tộc, việc tu hành dưới nhiều hình thức.
Những đoạn phim chiếu lại sinh hoạt của các ngôi chùa và của các tu viện Phật giáo Việt Nam tại ngoại quốc đã khơi dậy được tình cảm gần gũi thân thương nơi nhiều khán giả. Nhất là khi thấy bầu khí chùa chiền và thiền viện luôn gợi nhớ đến quê hương.
Riêng tôi, tôi cho đây là một dịp gặp gỡ quý giá. Tôi nói như thế, dựa trên Công đồng Vatican II. Ở đây, tôi chỉ xin trích vài đoạn nhỏ có liên quan:

1/ Giáo Hội Công giáo trân trọng những giá trị đạo đức của các tôn giáo khác
"Giáo Hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo khác. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng là "Đường là Sự Thật và và Sự Sống" (Ga 10,6) nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình.
Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo" (Trích "Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo" số 2).

2/ Công đồng khuyên chủng sinh học hỏi về các tôn giáo bạn
"Phải mở đường cho chủng sinh biết các tôn giáo khác hiện đang quảng bá trong mỗi miền, để họ nhận thấy rõ hơn những gì tốt lành và chân thật do Thiên Chúa an bài, đang tiềm tàng nơi các tôn giáo ấy, để họ biết luận bác những sai lầm và để có thể thông truyền ánh sáng chân lý đầy đủ cho những kẻ chưa được đón nhận ánh sáng ấy" (Trích "Sắc lệnh về đào tạo Linh mục" số 16).

3/ Công đồng khuyến khích mọi tín hữu làm chứng về Chúa Kitô giữa các tôn giáo bằng tình bác ái và liên đới thân thiện
"Để có thể làm chứng về Chúa Kitô một cách hữu hiệu, chính các Kitô hữu phải lấy lòng kính trọng và tình bác ái mà liên kết với những người ấy, phải biết mình là thành phần của nhóm người mình chung sống, và tham gia đời sống văn hoá, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong đời sống nhân loại, lại phải làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn giáo của những người ấy; phải lấy làm sung sướng và kính cẩn mà khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ. Đồng thời, các Kitô hữu phải chú ý đến sự biến đổi sâu xa nơi các dân tộc, và phải nỗ lực làm cho những người thời nay còn quá chú tâm đến khoa học và kỹ thuật của thế gian hiện đại đừng bỏ quên những việc linh thiêng, mà trái lại còn nhờ đó mà khao khát mãnh liệt hơn chân lý và tình thương Chúa đã mạc khải. Như chính Chúa Kitô đã dò xét tâm hồn con người và đối thoại với họ đúng theo kiểu loài người để dẫn họ đến ánh sáng thần linh, thì các môn đệ của Người đã thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, cũng phải hiểu biết người họ chung sống, và phải đàm thoại với họ, để nhờ chính việc đối thoại chân thành và nhẫn nại đó, các môn đệ học biết những ân huệ phong phú mà Thiên Chúa đã rộng ban cho các dân tộc; đồng thời các môn đệ phải cố gắng đem ánh sáng Phúc Âm chiếu soi những ơn huệ đó, giải thoát chúng và đem chúng về quy phục Chúa Cứu Thế" (Trích "Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội" số 11).
Trên đây là một vài đón nhận dịp đại lễ Phật Đản vừa qua.
Với những đón nhận này, tôi nhìn về tương lai Đất Nước.
Hiện nay, sự phát triển Đất Nước trong tương lai đang được xây dựng từ hai cái nhìn đôi khi có vẻ nghịch nhau.
Một cái nhìn đặt nặng vào những tiến triển vật chất, như công nghệ, khoa học, của cải.
Một cái nhìn khác đặt nặng vào những tiến triển tinh thần, như các giá trị đạo đức, văn hoá, tôn giáo.
Hai cái nhìn trên đây nhiều khi trở thành những lực lượng xa rời nhau.
Đang khi đó, không thiếu người chủ trương phải kết hợp hai cái nhìn lại với nhau. Một kỷ nguyên mới về phát triển sẽ thành hình. Trong đó các giá trị vật chất sẽ được khuyến khích. Song song với nó là sự bảo tồn và phát triển các giá trị tinh thần.
Nếu suy nghĩ trên đây sẽ thành hiện thực, thì các giá trị tôn giáo cần phải được tôn trọng.
Sự tôn trọng các giá trị tôn giáo sẽ đem lại chân lý và hoà bình.
Các giá trị này cần được gieo vào các tâm hồn qua một nền giáo dục đúng đắn. Một nền giáo dục vừa để ý đến trí khôn, vừa để ý đến trái tim. Nó sẽ dấn thân cho việc đào tạo những con người tự do và có tinh thần trách nhiệm, vừa biết tìm chân lý vừa biết tranh đấu bảo vệ quyền lợi cho con người.
Tôi có cảm tưởng rằng: Âm vang của cuộc đại lễ Phật Đản vừa qua còn kéo dài và sâu rộng trên đất nước Việt Nam.
Phải chăng quang cảnh trọng thể khác thường của đại lễ năm nay cũng là một dấu chỉ về dòng chảy của lịch sử, khi xung quanh Việt Nam như Lào, Campuchia, Thái Lan đều là những nước rất sùng Phật giáo. Và chính tại Việt Nam, Phật giáo vốn là một tôn giáo lớn, từ xa xưa cho tới bây giờ.
+GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1000: CUỘC ĐỜI THANH VẮNG 18-05-2006

Tuần báo "Công Giáo và Dân Tộc" hai số liền vừa qua đã loan hai tin "từ chức" quan trọng: 18-05-2006 Bùi-Tuần 1000

Tuần báo "Công Giáo và Dân Tộc" hai số liền vừa qua đã loan hai tin "từ chức" quan trọng.
Số báo 1558 đưa tin Đức Giáo Hoàng đã nhận đơn từ chức của Đức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh, Giám mục Đà Nẵng, vì lý do tuổi tác.
Số báo 1559 loan tin Đức Cha Giuse Nguyễn Tích Đức, Giám mục Buôn Ma Thuột, đã xin hưu vì lý do sức khoẻ và đã được Toà Thánh chấp thuận.
Tôi có cảm nghĩ là: Mọi tín hữu khắp nơi tại Việt Nam, khi đọc hai bản tin này, đều hướng lòng về hai Đức Cha đáng kính, với tâm tình cảm mến sâu xa.
Riêng đối với tôi, hai bản tin này không những gợi lên trong lòng hình ảnh hai vị chủ chăn đáng kính nói trên, mà còn gợi nhớ đến tất cả các vị hồng y, giám mục và linh mục tu sĩ đã về hưu. Các ngài đang sống hiệp thông giữa Hội Thánh Việt Nam vừa hoạt động, vừa thầm lặng. Gánh nặng trách nhiệm đã trao nay được cất khỏi vai các ngài. Nhưng gánh nặng về bệnh tật thân xác và về khổ đau tâm hồn nhiều khi lại mỗi ngày mỗi tăng thêm.
Với những gánh nặng âm thầm ấy, nhiều vị sống cuộc đời hưu thanh vắng.
Trong cuộc sống thanh vắng ấy, nhiều giáo sĩ và tu sĩ về hưu đã là những thành phần thực sự phục vụ hữu ích, ngay trong hoàn cảnh bại liệt.
Sự phục vụ hữu ích được thực hiện nhiều cách. Ở đây, tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm rút ra từ nhiều vị giáo sĩ và tu sĩ về hưu đây đó, để chỉ nêu lên sự phong phú thiêng liêng của cuộc đời thanh vắng nơi các ngài. Sự phong phú này không những sinh ích lợi cho các ngài, mà cũng rất ích lợi cho Hội Thánh.
Lắng nghe sự thanh vắng
Trong sách Khải Huyền, Chúa phán: "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh 3,20).
Trong đời hoạt động của người giáo sĩ và tu sĩ, Chúa thường đứng bên lòng họ, và gõ cửa lòng họ. Lúc gõ nhẹ, lúc gõ mạnh. Nhưng thực tế đã cho thấy: Những tiếng gõ ấy nhiều khi không được luôn đón nhận. Do đó, Chúa đã không vào được lòng người. Hoặc không ở được lâu trong lòng người. Lý do vì đời say mê hoạt động dễ gây nên quá nhiều bận tâm, ngoài thánh ý Chúa. Lúc nào cũng ồn ào, bận bịu. Còn nội tâm lại trống vắng.
Nhưng, trong cuộc đời thanh vắng của người hưu, nếu các ngài năng cầu nguyện và suy niệm, các ngài sẽ nghe được tiếng Chúa rõ hơn trước. Chúa vẫn gọi các ngài cũng một lời như xưa: "Hãy theo Ta". Mặc dầu hưu, các ngài vẫn đi theo Chúa bằng cách thích hợp mà Chúa soi cho các ngài. Các ngài sẽ đồng hành với Chúa Giêsu, Đấng đã quả quyết: "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất" (Lc 19,17).
Nhiều vị về hưu đã chia sẻ cho tôi biết sự các ngài nghe tiếng Chúa gọi các ngài trong đời hưu. Do đó đời hưu không là nghỉ chơi thoải mái, mà là phục vụ một cách khác. Nhờ vậy, các ngài đã phần nào khám phá ra kho tàng châu báu của sự thanh vắng.
Khám phá sự thanh vắng
Trong sách tiên tri Hôsê, Chúa phán: "Ta sẽ đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2,16).
Lời Chúa phán trên đã được nhiều vị về hưu cảm nghiệm rất sâu sắc. Đời hưu, đối với nhiều vị đạo đức, đã trở thành một sa mạc thiêng liêng. Trong sa mạc nội tâm, các ngài nếm được những tâm tình của Thiên Chúa tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa nhiều khi đã đến qua thánh giá. Lúc ấy, các ngài hiểu thấm thía lời ca rút từ tinh thần của thánh Phaolô: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta".
Trong sa mạc của đời hưu, biết bao vị giáo sĩ và tu sĩ đã đọc đi đọc lại thánh vịnh 138 của vua Đavít:
"Lạy Chúa, Người đã dò xét con và Người biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Người thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Người quen thuộc cả...
Người bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Người, Người đặt trên con" (Tv 138,1-5).
Với những lời thân mật trên đây, nhiều vị về hưu cho thấy, các ngài đã khám phá được nhiều sự thực quý giá, mà trước kia, các ngài không rõ lắm.
Với những khám phá như trên, nhiều vị về hưu đã thưởng thức được sự thanh vắng với một tinh thần đạo đức mới.
Thưởng thức sự thanh vắng
Điều mà nhiều vị hưu được thưởng thức hầu như thường xuyên, đó là niềm cậy tin phó thác tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa.
Các ngài hiểu rõ vai trò của mình theo chương trình của Chúa. Trong vườn nho Chúa có kẻ gieo, có kẻ tưới, có kẻ nhặt cỏ, có kẻ thu hoạch. Chúa trao cho mình một nhiệm vụ. Có thể chỉ là gieo, có thể chỉ là chăm sóc, dù rất âm thầm, mình luôn xin vâng. Sự xin vâng ấy được tan hoà vào tâm tình xin vâng của Đức Mẹ Maria. Trong thanh vắng cuộc đời, nhiều vị về hưu đã sống lời "xin vâng" với nhiều phấn đấu nội tâm. Nhưng các ngài thưởng thức được niềm hy vọng sâu thẳm của con người phó thác, nhất là khi ý thức mình chỉ là dụng cụ hèn mọn, với bao tội lỗi.
Niềm hy vọng này dựa vào một lòng khiêm tốn chân thành.
"Lạy Chúa là Thiên Chúa cứu độ con,
trước thánh nhan, đêm ngày con cầu cứu.
Nguyện cho lời kinh vọng tới Người,
xin lắng nghe tiếng lòng con thổn thức" (Tv 88,2-3).
Với những lời cầu như thế, nhiều người hưu chỉ đặt hy vọng vào lòng thương xót Chúa mà thôi. Luôn luôn, họ lặp lại lời Chúa Giêsu đã phó thác xưa trên thánh giá:
"Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).
Trên đây là một vài cảm tưởng của tôi về đời thanh vắng của nhiều vị hồng y, giám mục, linh mục và tu sĩ về hưu.
Mặc dù những cảm tưởng này còn rất yếu ớt, tôi vẫn muốn nhờ đó để nói lên đôi chút về vẻ đẹp và sức mạnh thiêng liêng của Hội Thánh tại Việt Nam.
Cùng với nhiều giáo sĩ và tu sĩ về hưu luôn thiết tha với lý tưởng, rất nhiều giáo dân cũng đang hợp ý cầu nguyện, hy sinh và dấn thân âm thầm. Với sức sống thiêng liêng đó, Hội Thánh Việt Nam nhiều lúc nhiều nơi coi như thầm lặng, nhưng thực sự đang mang tiềm năng một lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Hy vọng đây chính là một góp phần kéo ơn Chúa xuống cho xã hội hôm nay và tương lai.
Xin trân trọng cảm ơn những cuộc đời thanh vắng đó đang gần gũi, mà cũng đang dần dần đi xa.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Tác giả: + GB. Bùi-Tuần

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây