1. Ngày 11 tháng 11 năm 2011 được nhiều người cho là một mốc thời gian mang ý nghĩa linh thiêng. Riêng đối với tôi, mốc thời gian đó đánh dấu sự khởi đầu một giai đoạn lịch sử sẽ rất khác thường. Khác thường ở ba điểm sau đây: - Sẽ có nhiều khủng hoảng. - Sẽ có nhiều đổ vỡ. - Sẽ có nhiều bất ngờ. 2. Đề cập đến khủng hoảng, chúng ta nghĩ ngay đến những bất ổn đang xảy ra trong nhiều lãnh vực, nhất là trong các lãnh vực kinh tế, đạo đức và trật tự xã hội. Những khủng hoảng đó phải được coi là nghiêm trọng. Nhưng từ nay trở đi, những khủng hoảng đó sẽ phát triển dưới nhiều hình thức không kiểm soát nổi. Hậu quả có thể sẽ rất khủng khiếp. Trong các khủng hoảng hiện nay, tôi lo ngại nhất đến khủng hoảng trong lãnh vực đào tạo. Cái làm cho đào tạo trở thành khủng hoảng chính là tính cách sản xuất bao trùm áp đảo hệ thống đào tạo ở rất nhiều nơi. Mục tiêu đào tạo là trở thành con người sản xuất giỏi. Mô hình đào tạo là những người sản xuất thành công ở nhiều lãnh vực. Phương tiện đào tạo là đủ thứ tài liệu được sản xuất càng nhiều càng tốt. Tiêu chuẩn để lượng giá con người là khả năng sản xuất. Các lớp đào tạo khích lệ những sáng kiến sản xuất theo nhu cầu quần chúng và theo luật cạnh tranh. Tính cách sản xuất, khi bao trùm và áp đảo lãnh vực đào tạo, sẽ gây nên khủng hoảng về đạo đức. Khủng hoảng về đạo đức kéo theo khủng hoảng về đức tin. 3. Đức tin dạy chúng ta phải đào tạo mình nên con người sống yêu thương và theo chân lý. Nhưng còn được mấy người có đức tin không bị ảnh hưởng bởi tinh thần tục hoá. Trong đó có khuynh hướng đề cao giá trị sản xuất, hơn cả giá trị đức tin? Có thể nói, khủng hoảng trong lãnh vực đào tạo hiện nay cũng đang xảy ra trong lãnh vực tôn giáo. Nét khủng hoảng nặng nhất là người ta giảm bớt niềm tin nơi chính những người đào tạo tôn giáo. Chưa bao giờ, lời giáo huấn của giáo quyền bị coi rẻ như hiện nay, nhất là tại Âu Mỹ. Khủng hoảng trong lãnh vực đào tạo hiện nay gợi ý cho tôi nhớ lại khủng hoảng trong lãnh vực đào tạo của đạo cũ thời Chúa Giêsu. Bầu khí đào tạo thời đó là lề luật. Hãnh diện vì có nhiều luật. An tâm vì giữ được hình thức luật. Đánh giá theo sự có giữ luật một cách tỉ mỉ hay không. Chúa Giêsu không chấp nhận việc đào tạo như thế. 4. Những khủng hoảng trên đây đang gây nên nhiều đổ vỡ đớn đau. Đổ vỡ đớn đau đang xảy ra khắp nơi là đổ vỡ trong lãnh vực gia đình. Ly dị càng ngày càng nhiều. Hiếu thảo với cha mẹ càng ngày càng bớt đi. Ngay trong nội bộ gia đình, nề nếp nhân nghĩa lễ trí tin giữa bà con thân thuộc đâu còn mặn mà như xưa. Một đổ vỡ nguy hiểm nữa cũng đang xuất hiện, đó là đổ vỡ về các thực chất đàng sau các hình thức đẹp đẽ bên ngoài. Thời nay là thời bùng nổ các thứ hình thức. Hình thức là các lời khấn hứa, các tuyên thệ, các lễ phục, các nghi thức, các chức tước, các địa vị. Những hình thức đó có lợi ích của nó. Nhưng nếu đàng sau những hình thức đẹp đẽ bề ngoài đó, thực chất đáng lý phải có lại không được đẹp, thì đó là một đổ vỡ tai hại. Xưa, Chúa Giêsu nói với các thầy kinh sư và các người Pharisêu rằng: “Các ngươi giống như mồ mả tôi vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ thối tha” (Mt 23,27). Lời Chúa Giêsu phán xưa tố cáo một sự đổ vỡ nguy hiểm trong đạo thời đó. Lời tố cáo đó xem ra đang vang vọng tới nhiều nơi của Hội Thánh hôm nay. Đó cũng là một bất ngờ nên biết. 5. Sẽ còn nhiều bất ngờ khác nữa. Những bất ngờ đó đã được Chúa Giêsu báo trước. “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn. Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em. Anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng, kẻ nào bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 24,7-13). Những tai hoạ đau đớn, mà Chúa Giêsu đã báo trước, khi xảy ra thực sự, vẫn là những bất ngờ đối với chúng ta. Những bất ngờ đó xem ra đã bắt đầu xảy đến. Bất ngờ quá sức bất ngờ là sẽ xảy ra như lời Chúa phán: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại, hai người đàn bà đang kéo xối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt 24,40-41). 6. Nếu, hôm nay nhìn vào thời sự, chúng ta thấy liên tiếp xảy ra những khủng hoảng, những đổ vỡ, những bất ngờ, thì chúng ta có thể tiên đoán giai đoạn đang tới của lịch sử sẽ không dễ dàng. Nếu gọi giai đoạn đó là một thời kỳ rất khó khăn, thì thiết tưởng không phải là quá đáng. Tiên đoán này dựa trên Lời Chúa. Lời Chúa là chân lý. Nếu sống Lời Chúa, chúng ta sẽ được cứu độ. 7. Cái nhìn trên đây của tôi không có tính cách bi quan. Trái lại, nó giúp tôi biết nhìn Hội Thánh của tôi một cách cởi mở. Sẽ không nghĩ Hội Thánh của tôi phải ở trong một cái khuôn làm sẵn. Nhưng Hội Thánh của tôi sẽ phải có những sáng kiến thích hợp với từng thời điểm và từng địa phương theo loan báo của Lời Chúa. Nếu giai đoạn mới của lịch sử tại Việt Nam được tiên báo là có những khủng hoảng, những đổ vỡ, những bất ngờ, thì Hội Thánh của tôi phải thực sự đổi mới, để có thể làm chứng được cho Chúa trong giai đoạn khó khăn đó. Tôi hy vọng là sẽ được như thế, nhờ Thánh Thần giúp chúng ta sống Lời Chúa một cách khiêm nhường, can đảm và phó thác.
Trong tuần lễ vừa qua, một biến cố nhỏ đã đến với tôi. Biến cố riêng tư đó xảy ra trong một biến cố lớn. Cuộc tĩnh tâm linh mục Long Xuyên năm nay (14-18/11/2011) có 240 linh mục tham dự là một biến cố lớn. Anh em linh mục chúng tôi cùng nhau cầu nguyện, suy tư, bàn hỏi, để đưa ra đường hướng tu đức, mục vụ, truyền giáo phù hợp với hoàn cảnh mới theo Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa, của Hội Đồng Giám mục Việt Nam. Tôi hiệp thông với cuộc tĩnh tâm chủ yếu bằng cầu nguyện. Cầu nguyện tha thiết. Cầu nguyện liên lỉ. Tôi cầu nguyện nài xin Chúa chỉ một điều: “Xin Chúa cho con biết đường lối của Chúa”. 2. Đêm thứ tư, lời nguyện đó làm tôi trăn trở. Suốt đêm tôi cầu nguyện như một người mỏi mệt, vật vã trong sự khó nghèo tột độ. Tôi hơi thiếp đi. Đột nhiên, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu. Người từ xa bước gần lại bên tôi. Dung mạo hiền lành, đầy máu. Người nói với tôi: “Con xin Ta chỉ cho con đường lối tu đức mục vụ và truyền giáo. Đường lối đúng chính là Ta đây. Ta là Giêsu, Đấng cứu chuộc loài người. Để cứu chuộc nhân loại khỏi tội, khỏi hoả ngục, khỏi quỷ Satan, Ta đã tự nguyện chịu mọi khổ đau, trở thành của lễ đền tội. Con cũng hãy là của lễ đền tội với Ta và như Ta”. Tôi nói với Chúa Giêsu: “Vâng, con xin bước đi theo Chúa”. Chúa Giêsu trả lời: “Bước theo mà thôi chưa đủ. Con hãy đón chính Ta vào trong con. Chính Ta sẽ làm cho con nên của lễ như lòng Ta mong muốn”. Trong giây lát, tôi nhớ lại hình ảnh Đấng Cứu Thế, mà tiên tri Isaia xưa đã mô tả: “Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội. Chính Người đã bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Người đã bị sửa trị, để chúng ta được bình an, Người đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Hình ảnh của lễ đó đang đứng trước mặt tôi. Tôi xúc động vô vàn. 3. Tôi bừng tỉnh. Đây là một biến cố, tuy nhỏ và riêng tư, nhưng đã gây ấn tượng sâu đậm trong tôi. Cho tới phút này, dung mạo Chúa Giêsu hiền lành đầy máu me vẫn còn rõ nét, những lời Người nói vẫn còn sống động. Với dung mạo đó và với những lời nhắn nhủ đó, Chúa Giêsu đang giúp tôi triển khai ý muốn của Người qua các gương sáng, mà tôi được gặp về của lễ cứu độ. 4. Kinh nghiệm, mà tôi cho là cao quý nhất do các gương sáng để lại cho tôi, đó là việc họ đón Chúa Giêsu vào con người của họ và vào cuộc đời của họ. Họ cầu nguyện rất nhiều. Khi con đường họ đi là chính Chúa Giêsu, thì con đường đó không là một hệ thống tư tưởng, một lý thuyết, mà là một sự sống. Sự sống của Chúa Giêsu, khi được đón nhận vào trong họ, sẽ chia sẻ cho họ những tâm tình của Chúa, những chân lý của Chúa, những cái nhìn của Chúa. Tâm tình nổi nhất là hiền lành và khiêm nhường. Chân lý nổi nhất là yêu mến vâng phục ý Chúa Cha và luôn theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cái nhìn nổi nhất là cái nhìn yêu thương và chuyển tải ơn thánh cứu độ. Tất cả những gì họ đón nhận được từ Chúa Giêsu đã được thực hiện do sáng kiến chủ động của Chúa. Chúa ban cho họ một cách nhưng không. Phần họ phải đóng góp là sự biết đón nhận. Họ đón nhận với tâm hồn nghèo khó và khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Như vậy họ được đổi mới thường xuyên. Đổi mới ấy có thể gọi là một sự trở về với Chúa mỗi ngày, từng giờ, từng phút. Đổi mới ấy cũng là một sự khám phá ra những cái mới lạ do Chúa làm cho từng thời, cho từng nơi, cho từng người. 5. Với bản thân được đổi mới như vậy, họ trở nên của lễ, khi họ phục vụ con người, nhất là những người bé mọn, nghèo khó. Của lễ trong phục vụ của họ là yêu thương một cách hiền lành khiêm tốn, chấp nhận mọi hy sinh. Hy sinh thường xuyên trong phục vụ của họ là trở nên nghèo khó, vui làm những việc thấp kém, âm thầm với thân phận của người đầy tớ. Khi chia sẻ những nhọc nhằn, khổ nhục của những người khác, họ vẫn tỉnh thức không để bất cứ ai lôi kéo vào những mưu đồ nghịch với Phúc Âm, trái lại họ tìm cải hoá hoàn cảnh theo chân lý và tâm tình của Đấng Cứu Thế. Khi chủ trương như vậy, họ phải chịu nhiều đau khổ. Họ chấp nhận những khổ đau ấy, để trở thành của lễ cùng với Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. 6. Họ còn trở thành của lễ vì nhiều lý do khác. Trong số những lý do thường xảy ra, không thiếu lý do là trong chính nội bộ. Thiếu nhân bản, thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu tế nhị hầu như vẫn có phần nào trong các cộng đoàn. Sự khác biệt về tính tình, về quan điểm, về ý hướng, về lối sống thường gây nên những va chạm trong cộng đoàn. Vẫn thương yêu nhau mà vẫn phải khổ vì nhau. Do đó, hạnh phúc của đời sống trong cộng đoàn đòi hỏi mỗi người phải trở thành của lễ. Nhiều người đã hưởng được hạnh phúc đó, nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu
1. Một việc tôi cho là rất quan trọng, khi mừng Chúa Giáng Sinh, đó là cầu nguyện. Cầu nguyện này được gợi ý từ Kinh Thánh. Kinh Thánh soi sáng cho tôi biết: Chúa Giáng Sinh nhắm mục đích được ở với loài người (x. Mt 1,23). Nhờ soi sáng đó, tôi hiểu Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ đợi mỗi người chúng ta hãy đón Người về căn nhà của mình. Nhà mà Người muốn đến thăm không phải là căn nhà vật chất, mà là tấm lòng của mỗi người chúng ta. Với nhận thức như trên, tôi cầu nguyện với Chúa một cách hồn nhiên, “Lạy Chúa, xin mời Chúa đến căn nhà của con. Căn nhà của con là một tấm lòng hèn mọn. Xin Chúa ở lại đó. Xin Chúa coi đó như là căn nhà Chúa ngự”. Tôi cầu nguyện như thế với tất cả tâm tình khao khát đợi chờ. Tôi tin Chúa sẽ nhận lời tôi. Và, thực sự Chúa không chê bỏ ý nguyện chân thành tha thiết của tôi. Tôi nhận được sự trả lời của Chúa qua cuộc trao đổi thân thương trong nội tâm sâu thẳm. Chúa nói, tôi trả lời. Tôi nói, Chúa trả lời. Nói và trả lời như những bước đi nhẹ nhàng của hai tình yêu, mặc dầu hai tình yêu ấy rất khác nhau. Tôi xin ghi lại ở đây vắn tắt những bước đi nhẹ nhàng đó. 2. Trước hết, Chúa cho tôi biết: Để đón Chúa vào căn nhà của tôi, thì căn nhà đó phải sạch sẽ. Lời Chúa dạy làm tôi nhớ lại những gì thánh Gioan Tiền Hô đã giảng về bổn phận sám hối và sửa mình để đón Chúa (x. Lc 3,4-6). Ơn Chúa dắt tôi xem lại căn nhà của tôi, tôi thấy căn nhà đó không sạch sẽ chút nào. Lý trí không sạch, ý muốn không sạch, trí nhớ không sạch, trí vẽ không sạch, tình cảm không sạch, giác quan không sạch. Cảnh tội lỗi trong tôi khiến tôi khiêm tốn. Sự khiêm tốn đã giúp thánh vương Đavít cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (Tv 50,3). “Xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 50,12). Tôi cũng mượn lời trên đây của thánh vương Đavít để tỏ bày sự sám hối của tôi. Hơn nữa, tôi còn dựa vào lời khuyên của thánh Phêrô mà thưa với Chúa rằng: “Xin Chúa dùng máu châu báu của Chúa đã đổ ra, mà cứu chuộc con khỏi tội lỗi” (x. 1 Pr 1,19). Khi tôi thưa với Chúa những lời trên đây, tôi nhận ra sự thực này: Làm cho tâm hồn mình nên sạch sẽ không chỉ là việc của thiện chí mà thôi, nhưng còn phải nhờ vào ơn Chúa. Tôi phải nhờ vào ơn Chúa, đó mới là yếu tố chính. Tôi dâng nhận định ấy lên Chúa. Tôi cảm nhận được sự dâng lên đó được Chúa đoái nhận như một của lễ đẹp lòng Chúa. Tôi cảm thấy Chúa gần lại sát bên tôi. 3. Chúa cho tôi biết thêm ý Chúa: “Căn nhà sạch sẽ là một điều kiện tốt. Nhưng để Chúa đến và ở lại trong đó, tôi phải tỉnh thức”. Lời nhắn bảo vắn tắt về tỉnh thức gói ghém rất nhiều điều Chúa đã dạy trong Phúc Âm. Được Chúa cho biết: Chúa sẽ đến căn nhà của tôi vào lúc bất ngờ. Chúa cũng sẽ đến đó dưới nhiều hình thức bất ngờ. Bất ngờ, nghĩa là Chúa đến không theo giờ tôi định cho Người, mà theo giờ nào Chúa muốn. Bất ngờ, nghĩa là Chúa đến không theo hình thức mà tôi tưởng, như dưới hình thức cao sang, nhưng dưới hình thức mà chính Người chọn, có thể như dưới hình dạng của một người thân thương, hay như một biến cố thảm thương. 4. Tôi hiểu sự tỉnh thức mà Chúa nhắn bảo là điều kiện xác đáng và rất quý giá. Nhưng, khi nhìn vào chính mình, tôi thấy mình quá yếu đuối. Tôi nhớ lại các tông đồ Chúa tối ngày thứ Năm Tuần thánh. Sau khi được chịu chức thánh và được dự thánh lễ tiệc ly, với bao nhiều điều Chúa dặn dò tâm huyết, các ngài đã cùng với Chúa vào vườn Cây Dầu. Ở đó Chúa yêu cầu các ngài hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Nhưng các ngài đã ngủ. Không phải vì các ngài không muốn vâng lời Chúa. Nhưng vì các ngài quá yếu đuối, không sao cưỡng lại được nhu cầu nặng nề của thân xác. Tôi lạm phép đưa ra trường hợp yếu đuối trên đây của các tông đồ, để thưa với Chúa về sự yếu đuối của tôi. Sự yếu đuối của tôi còn nặng nề và đáng trách hơn sự yếu đuối của các tông đồ. Sự yếu đuối của tôi là một thứ bệnh tật rất khó trị, hầu như không thể chữa khỏi. Tôi sực nhớ lời Chúa phán: “Người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Lc 9,12). Lời Chúa cho tôi niềm tin vào lòng xót thương Chúa. Với niềm tin vững vàng, tôi xin Chúa đến chữa trị bệnh thiếu tỉnh thức của tôi. Tôi vui mừng được Chúa thương chữa trị. Chữa trị của Người là sự tha thứ đầy xót thương. Trong giây lát, tôi cảm nhận được Chúa chính là Đấng Cứu độ. Người là Đấng giàu lòng thương xót. Người đi vào tâm hồn tôi một cách âm thầm. 6. Dần dần tôi cảm thấy trong tôi một thứ lửa thiêng bừng cháy. Tôi nhớ lại lời Chúa phán xưa: “Ta đến đem lửa vào mặt đất. Và Ta những ước mong phải chi lửa ấy bùng lên” (Lc 12,49). Lửa ấy bừng cháy trong tôi làm cho tôi xác tín: Tôi được Chúa thương, tôi được Chúa cứu, tôi được Chúa gọi, tôi được Chúa sai đi, Chúa chính là Tin Mừng của tôi. Để đáp lại tình Chúa xót thương vô vàn, tôi chỉ biết thưa với Chúa rằng: “Nàycon xin đến, để làm theo ý Chúa” (Dt 10,9). Lời cầu xin phó thác ấy được Chúa trả lời tôi: Ý Chúa về tôi là tôi hãy tiếp tục ơn gọi của Đấng Cứu thế, đó là sống như một của lễ. Của lễ đó sẽ âm thầm, như lời Chúa phán xưa: “Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó thối đi, nó mới sinh ra nhiều hạt khác” (Ga 12,24). 6. Trên đây là chia sẻ của một người yếu đuối. Thiết tưởng nó thích hợp với mọi người bé mọn. Nó là một kỷ niệm cho tôi. Nó là một nhắn gởi cho những người bé mọn Chúa thương. Chúa Giáng sinh sẽ đến và ở lại trong lòng mỗi người chúng ta. Miễn là chúng ta biết đón nhận Người. Người sẽ làm cho những người yếu đuối bé mọn trở thành nhân chứng tình yêu của Người. Người sẽ đưa chúng ta về Nhà Cha bằng con đường đơn giản là gắn bó mật thiết với Người. Gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, để cùng với Người, trong Người và nhờ Người, chúng ta phục vụ yêu thương theo chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa, xin thương đến thăm con và ở lại trong con.
1. Trong năm, nhất là cuối năm, các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay hay nhắc cho các tín hữu bổn phận phải cảm tạ Chúa về các ơn hồn xác Chúa đã thương ban. Chính các môn đệ Chúa trong chức vụ mục tử càng ý thức về tầm quan trọng của việc cảm tạ Chúa. Bởi vì các ngài rất biết Chúa đã ban cho mình và cho cộng đoàn của mình biết bao ơn lành cao quý. Cùng với mọi tín hữu, đặc biệt là trong tinh thần hiệp thông với các mục tử, tôi đến với Chúa Giêsu để cảm tạ Người. Với đức tin, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trước mặt tôi. Chúa Giêsu trước mặt tôi cũng chính là Chúa Giêsu mà thánh sử Luca mô tả trong đoạn 10 của Phúc Âm Ngài. Theo đoạn đó thuật lại, Chúa Giêsu lắng nghe các môn đệ kể ra những thành tích các ngài đã đạt được do những việc các ngài làm nhân danh Chúa. Nghe xong, Chúa Giêsu không khen các ngài. Nhưng nhân dịp ấy, Chúa khuyên dạy các ngài mấy điều quan trọng phải quan tâm thực hiện, để cảm tạ Chúa. Chúa cũng nhắc lại cho tôi những điều quan trọng đó, khi tôi kể ra những ơn Chúa đã ban. Tôi xin phép được chia sẻ vắn tắt. 2. Điều quan trọng thứ nhất Chúa Giêsu nhắc bảo tôi là hãy làm các việc đạo đức dưới cái nhìn của Cha trên trời. Khi thấy các môn đệ vui sướng vì nhiều thành tích, Chúa Giêsu liền nói với họ: “Các con chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục các con, nhưng hãy mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20). Với lời Chúa phán trên đây, tôi hiểu điều tôi nên mừng là phần thưởng trên trời. Việc tên tôi được ghi trên trời là do Chúa. Chính Chúa nhìn thấy việc tôi làm. Chính Chúa đánh giá việc tôi làm. Chính Chúa thưởng công cho tôi. Chỉ có Chúa mới có quyền ghi tên tôi trên trời. Nên, khi tôi làm bất cứ việc gì, nhất là các việc đạo đức, tôi phải có ý hướng trong sáng. Nghĩa là ý hướng của tôi phải hướng về Chúa một cách trọn vẹn. Phải làm vì Chúa mà thôi. Chứ, nếu làm để tìm tiếng khen đời này, thì Chúa sẽ không thưởng công. Trái lại, Chúa sẽ nói với tôi, như xưa Chúa đã nói với dân chúng khi họ bố thí cầu nguyện và ăn chay mà có ý phô trương: “Anh em đã được thưởng công rồi” (x. Mt 6,1-18). Tôi cảm tạ Chúa đã dạy tôi điều quan trọng trên đây. Tôi đem Lời Chúa soi vào các việc đạo đức tôi làm, thì thấy ý hướng của tôi nhiều khi bị vẩn đục, do chủ ý thì ít mà do vô tình thì nhiều. Tôi khiêm tốn thành khẩn xin Chúa tha thứ cho tôi. 3. Điều quan trọng thứ hai Chúa Giêsu nhắc bảo tôi là hãy làm các việc đạo đức với ý thức mình là kẻ bé mọn. Phúc Âm thánh Luca viết: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21). Với lời cầu nguyện trên đây, Chúa Giêsu cho các môn đệ Người thấy rõ sự thực này: Nếu các ngài làm được các việc đạo đức đúng theo thánh ý Chúa, thì chính vì ơn Chúa thương. Mà Chúa thương các ngài, không phải vì các ngài thông thái khôn ngoan, nhưng chỉ vì các ngài bé mọn. Sự thực trên đây mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ xưa, được Người nhấn mạnh với tôi một cách tha thiết và dứt khoát. Bởi vì tôi được đào tạo, xem ra để nên người khôn ngoan thông thái. Đào tạo đó nhiều khi không chủ ý chuẩn bị cho việc sống bé mọn. Hơn nữa, môi trường văn hoá xã hội luôn đề cao người thông thái khôn ngoan. Thêm vào đó, là giáo sĩ, tôi thuộc về một bậc cơ chế được coi là quyền cao chức trọng, phải có trình độ cao. Với thực tế trên đây, tôi sẽ sống bé mọn thế nào theo ý Chúa? Và, cho dù biết sống bé mọn theo lý thuyết, nhưng sẽ phải làm thế nào, để đưa lý thuyết đó ra thực hành trong cuộc sống? Tôi nhớ lời Chúa phán: “Không có Cha, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Với tất cả sự nghèo khó nội tâm, tôi xin Chúa xót thương tôi, để biết thực thi ý Chúa. Chính từ việc cầu nguyện như thế, tôi bắt đầu sống bé mọn. Nhưng đó mới là một bước khởi đầu. 4. Điều quan trọng thứ ba Chúa Giêsu nhắc bảo tôi là: Chúa sẽ mạc khải cho tôi nhiều điều huyền nhiệm về Chúa, khi tôi phục vụ những người bé mọn. Lời Chúa phán: “Chúa mạc khải cho những người bé mọn” có ý khuyên tôi phải bé mọn. Ngoài ra lời đó cũng còn dạy tôi là hãy phục vụ những người bé mọn, thì sẽ được Chúa mạc khải cho nhiều điều về Chúa. Tôi nhớ tới nhiều người môn đệ Chúa phục vụ các người nghèo khổ bé mọn. Họ không coi mình là dụng cụ chuyển ơn thánh cho những người khổ đau. Trái lại, họ nhận thức là chính họ nhận được nhiều ơn Chúa qua những người nghèo khổ bé mọn. Chính vì thế, họ phục vụ như người đầy tớ. Họ ca ngợi những việc lạ lùng Chúa làm nơi những người bé mọn, nghèo khó. Họ học nơi người bé mọn nghèo khó nhiều giá trị cao quý. Riêng đối với tôi, giá trị mà tôi cho là cao quý nhất tôi học được nơi họ, chính là nhiều người trong họ sống như một của lễ. Hơn nữa, họ thường có đức tin đơn sơ và rất mạnh, hay chạy lại với Chúa, đem gánh nặng đời mình đặt vào tay Chúa. Họ vui mừng nhận ra Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Đúng như lời Chúa phán: “Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,28-29). Với cái nhìn trên đây, tôi cảm tạ Chúa đã sai tôi đi phục vụ những người bé mọn nghèo khổ. 5. Ba điều quan trọng trên đây thường được Chúa nhắc nhở tôi, trong những lễ tạ ơn và trong mọi cuộc hồi tâm có mục đích tạ ơn Chúa. Nghe những nhắn nhủ của Chúa, tôi thường thầm thĩ van xin: “Lạy Chúa, xin thương ban thêm đức tin cho con”. Bởi vì tôi thấy rõ ràng: Tôi chỉ có thể thực hành những điều Chúa dạy như trên nhờ tin vào Chúa mà thôi. Tôi thường kết thúc việc tạ ơn bằng lời cầu xin dâng lên Chúa Cha. Lời đó cũng chính là lời cầu xin của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22,43). Lời cầu của Chúa Giêsu trên đây đem lại cho tôi sự bình an. Tôi ra đi, dấn thân vào một tình hình hỗn độn. Hiện nay, rất nhiều ý riêng tự phong là ý Chúa. Nhiều lễ tạ ơn bị Chúa chê bỏ (x. Dt 10,8). Tôi chỉ tạ ơn Chúa thực sự, khi tôi tập trung vào Chúa, và với tất cả sự tự do mà nói với Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10). Và như thế, suốt đời tôi là thánh lễ tạ ơn.
Đất Nước Việt Nam chúng ta đang bước sang năm Nhâm Thìn. Năm Mới này sẽ ra sao? Nói thiệt là: Ngay ngày mai, chúng ta cũng không dám chắc sẽ thế nào. Phương chi tương lai một năm dài, ai mà biết được chắc chắn những gì sẽ xảy tới. Tuy nhiên, Kinh Thánh và kinh nghiệm cho phép ta dự đoán trong Năm Mới này sẽ xảy ra những sự sau đây tại quê hương ta và trên thế giới. Dự đoán thứ nhất là: Trong năm mới này sẽ xảy ranhiều bất ngờ. Có những bất ngờ dễ chịu và có những bất ngờ khó chịu. Nhưng tất cả mọi bất ngờ xảy ra đều sẽ gây bàng hoàng. Kinh Thánh quyển Giảng Viên đã đưa ra 4 hình ảnh sau đây để gợi ý: - Một dây bạc bị đứt đột ngột. - Một bình vàng bị vỡ đột ngột. - Một thùng kín nước bị bể đột ngột. - Một cuộn dây kéo nước bị hư đột ngột (x. Gv 12,6). Những hình ảnh trên đây ám chỉ những sụp đổ bất ngờ, những xung đột bất ngờ, những tai nạn bất ngờ, những mâu thuẫn bất ngờ. Những biến cố đó tự nó không nói. Nhưng khi những bất ngờ như thế xảy ra, thì Chúa nói trong những biến cố đó. Lời Chúa nói âm thầm, nhưng có thể dự đoán là Chúa kêu gọi người ta hãy cầu nguyện với Chúa, hãy hồi tâm sám hối trở về đàng lành. Nhất là hãy tỉnh thức. Như lời Chúa phán xưa: “Các con hãy canh thức, vì các con không biết ngày nào Chúa các con sẽ đến” (Mt 24,42). Hậu quả những bất ngờ gây nên cho ta sẽ tuỳ vào sự ta có nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa nhắn gởi hay không? Hậu quả ấy có thể sẽ rất lớn lao, liên hệ đến hạnh phúc đời này, nhất là đến số phận đời sau. Dự đoán thứ hai là: Trong năm mới nàysẽ bùng nổ một lối sống hướng mạnh về phô trương hình thức, chạy theo dư luận hồ đồ và hướng mạnh về cạnh tranh giữa các giá trị vật chất, để hưởng thụ bất chính. Trong xã hội, trào lưu đó sẽ pha trộn tốt xấu. Trong đạo, nhiều người sẽ bị ảnh hưởng. Và nếu không cảnh giác, tinh thần đạo sẽ dần dần rời xa Phúc Âm. Trước viễn tượng này, chúng ta nên nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã dạy xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Theo lời Chúa trên đây, chúng ta phải nắm chắc điều căn bản để được vào Nước Trời. Điều đó là vâng theo ý Chúa Cha, thi hành ý Chúa Cha. Vì thế, bất cứ việc gì của ta, bất cứ lời nào của ta, bất cứ tư tưởng nào của ta, đều phải được xem xét dưới ánh sáng Lời Chúa, xem có hợp ý Chúa Cha không. Nếu hợp thì hãy thi hành. Nếu không hợp thì dứt khoát phải bỏ đi. Điều rất đáng ngại, đó là nơi một số người chúng ta, tình mến Chúa yêu người không tan biến hẳn một lúc, nhưng mỗi ngày biến chất đi một chút. Cứ đà đó, lương tâm trở thành quen với thói xấu, không còn bén nhạy nhận ra mình đi sai. Đến lúc sụp đổ, thì đã quá muộn. Dự đoán thứ ba là: Trong năm mới nàysẽ khơi động trong nhiều tâm hồn tâm tình ca ngợi lòng thương xót Chúa. Tuy sự ác sẽ mạnh làm cho lòng đạo nhiều người và nhiều cộng đoàn trở nên sa sút, nhưng những ai khiêm tốn sẽ được Chúa đào tạo, thanh luyện để trở thành công trình của lòng thương xót Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ sẽ luôn tỏ ra mình là người con bé nhỏ của Chúa. Trong khi khoẻ mạnh hay được may mắn, cũng như khi đau ốm hay gặp khó khăn, họ vẫn nhận ra tình Chúa yêu thương họ, họ vẫn đọc được tín hiệu của trái tim Chúa gởi cho họ. Họ vẫn để Chúa dắt đi, cho dù phải qua những đoạn đường hiểm nguy tăm tối, khổ đau. Họ vẫn nhận mình khiếm khuyến yếu hèn, để sám hối trong tin cậy. Riêng đối với tôi, tôi vẫn mượn hình ảnh trong Thánh Vịnh sau đây của vua Đavít mà chúc tụng Chúa: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, Tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm, Tội ta phạm, Chúa cũng ném thật xa. Như người Cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103,11-13). ù Để kết bài chia sẻ vắn tắt đầu năm, tôi xin cùng với tất cả đại gia đình chúng ta, hết lòng phó thác năm mới này cho Chúa. Một năm sẽ có những bất ngờ, một năm sẽ có nhiều thử thách, nhưng cũng sẽ là một năm chúng ta được Chúa thôi thúc: - luôn cậy trông Chúa. - luôn tuân phục ý Chúa. - luôn phấn đấu thuộc về Chúa. - luôn đi về với Chúa. - luôn gắn bó với Chúa. - luôn tín thác nơi Chúa. - luôn là nhân chứng của tình thương Chúa qua phục vụ và tha thứ. Và như thế, cuộc đời ta năm nay sẽ là một đóng góp âm thầm vào việc phát triển Nước Trời và Quê Hương ta. Đóng góp ấy sẽ là một ca khúc nội tâm tán tụng lòng thương xót Chúa muôn đời.
Người già có cái nhìn của tuổi già. Người đau yếu có cái nhìn của thân phận đau yếu. Với hai cái nhìn đó, tôi xác tín cuộc đời cần phải có một ý nghĩa. Ý nghĩa đó, tôi đã nhận ra từ lâu, nhờ đức tin. Nhưng càng về già và càng đau yếu, tôi càng thấy rõ hơn. Ý nghĩa cuộc đời là mỗi người hãy sống sao cho tốt để, khi chết rồi, được Chúa thưởng hạnh phúc trường sinh. Như vậy câu hỏi đặt ra sẽ như sau: “Thế nào là sống tốt?”. Tôi hỏi mình tôi. Nhất là tôi cầu xin Chúa cho tôi biết điều đó. Với tất cả tấm lòng khát khao khiêm tốn, tôi cầu xin điều đó nhiều lần. Chúa trả lời tôi, bằng cách đưa trí khôn tôi nhớ lại Chúa phán dạy trong Phúc Âm thánh Luca. - “Anh em hãy có lòng xót thương, như Cha anh em là Đấng hay thương xót. - Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. - Anh em đừng lên án, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa lên án. - Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. - Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38). Lời Chúa trên đây rất đơn giản. Qua lời Chúa dạy, tôi hiểu ý nghĩa cuộc đời là yêu thương. Yêu thương làm nên giá trị cuộc đời. Chúa sẽ căn cứ vào yêu thương của mỗi người, để thưởng công cho họ. Yêu thương, mà Chúa nói, gồm những việc sau đây: 2. Việc thứ nhất của yêu thương là biết xót thương (Lc 6,36). “Anh em hãy có lòng xót thương, như Cha anh em là Đấng thương xót”. Qua Phúc Âm và qua kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy xót thương của Chúa dành cho tôi là tình yêu nhưng không, vượt quá mọi tình yêu. Tôi là kẻ tội lỗi, thế mà Chúa đã đi tìm tôi. Như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc với tất cả tình âu yếm (x. Lc 15,4-7). Như người cha đón người con hoang đàng với mọi cưng chiều đặc biệt (x. Lc 15,11-24). Không chỉ có thế, Chúa luôn cứu độ tôi. Chúa còn gọi tôi và sai tôi đi. Chúa luôn ở với tôi mọi ngày. Trước tình yêu nhưng không Chúa dành cho tôi, tôi nhận ra bổn phận phải tạ ơn và biết ơn Chúa. Việc tạ ơn và biết ơn tốt nhất tôi nên làm, là tôi hãy sống xót thương những kẻ khác, như Chúa đã xót thương tôi. Chúa hay nhắc nhủ tôi điều đó, bằng Phúc Âm và cũng bằng thời sự. Cách đây mấy ngày, đài truyền hình An Giang giới thiệu một mô hình người xót thương. Người đó là một nông dân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Giáo lý của ông đơn giản chỉ là: Xót thương bất cứ ai cần được giúp đỡ. Biết ơn bất cứ ai giúp đỡ mình, dù việc rất nhỏ. Cụ thể là từ lâu nay, ông làm nhà sửa nhà, cho những đối tượng nghèo. Có năm ông bỏ ra tới 100 triệu. Số nhà mới và nhà sửa mỗi năm không dưới 10 căn. Nghe và thấy gương sáng đó, tôi nhận ra là Chúa vẫn hoạt động mạnh mẽ nơi nhiều người, không phân biệt tôn giáo. 3. Việc thứ hai của yêu thương là đừng xét đoán và đừng lên án (Lc 6,37). Ở đây, Chúa có ý nói về sự xét đoán và lên án những cá nhân, kẻ này người nọ. Chúa biết việc xét đoán và lên án một người là những việc rất khó. Hơn nữa, những việc đó còn gây nên nhiều hậu quả có thể nguy hiểm về phần rỗi cho chính kẻ chủ động xét đoán và lên án, vì họ sẽ dễ phạm đến công bình bác ái và khiêm tốn. Để cảnh báo, Chúa khuyên: “Đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Đừng lên án, để khỏi bị Thiên Chúa lên án”. Khi áp dụng lời Chúa trên trên đây vào thực tế, tôi nghĩ thế này: Không xét đoán và lên án, khi không có bổn phận phải xét đoán và lên án. Không xét đoán và lên án, khi không biết đúng luật phải căn cứ vào mà xét đoán và lên án. Không xét đoán và lên án, khi không có đủ dữ kiện đầy đủ và chính xác. Không xét đoán và lên án, khi lòng mình không bình tĩnh, thiếu tinh thần công bình bác ái, bị áp lực bởi những thành kiến và dư luận vô trách nhiệm. Tôi thấy việc xét đoán và lên án người khác là việc rất phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng. Vì thế, khi bất đắc dĩ phải xét đoán và lên án ai, chúng ta sẽ làm việc đó trong tinh thần kết hợp với trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. 4. Việc thứ ba của yêu thương là biết tha thứ (Lc 6,37). Biết tha thứ là một yêu cầu căn bản của bác ái Phúc Âm. Hãy tha thứ như Chúa tha thứ. Có tha thứ cho người khác thì mới được Chúa tha thứ cho mình. Tha thứ cho người khác là điều kiện để được Chúa thứ tha. “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đức Giêsu đáp: Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Chúa có ý nói là phải luôn tha thứ. Tôi thấy tha thứ là việc không dễ dàng. Nhưng nhiều người luôn cố gắng. Với ơn Chúa, họ tha thứ thực sự cho tất cả những ai đã làm khổ họ bất cứ cách nào. Đón nhận sự tha thứ của họ hay không, đó là sự tự do của mỗi người. Khi tha thứ, lòng chúng ta được nhẹ nhàng. Nhất là chúng ta được Chúa tha thứ cho ta. Đặc biệt là khi tha thứ cho người khác, chúng ta cũng xin mọi người tha thứ cho chúng ta. 5. Việc thứ bốn của yêu thương là cho đi (Lc 6,38). Nếu ai hỏi tôi có gì để cho đi lúc này. Tôi không ngại trả lời rằng: Tôi cho đi chỉ những giọt nhỏ tình yêu và hy sinh, trong cầu nguyện, hiến dâng mình và chia sẻ tâm tư. Thân tôi như hạt lúa gieo vào lòng đất. Tất cả đều là hồng ân Thiên Chúa. Hồng ân lớn nhất là tôi tuy dầu tội lỗi, nhưng được Chúa tha thứ và yêu thương, được Chúa cho tham gia vào chương trình cứu chuộc của Chúa, được cùng với Chúa phục vụ những người đau khổ, nghèo hèn bé mọn. Tôi rất hạnh phúc vì ơn trọng đại đó. Chia sẻ hạnh phúc đó cũng là cho đi. Tôi biết tôi cho đi chẳng được bao nhiêu. Khả năng phục vụ của tôi là rất giới hạn. Nhưng, tôi hy vọng Chúa là Cha giàu lòng thương xót sẽ dủ thương chấp nhận của lễ hèn mọn tôi dâng. 6. Nhìn xung quanh, tôi thấy vẫn có những người nêu gương sáng cho tôi về yêu thương, mà Chúa dạy. Qua những gương sáng đó, tôi nhận ra tiềm năng con người Việt Nam hôm nay là rất phong phú. Họ mở ra được nhiều mối liên hệ cao đẹp với người xung quanh. Họ mở ra được cái nhìn sâu sắc về cuộc sống đời sau. Họ mở ra được một sự hiệp thông gắn bó với Thiên Chúa là Cha trên trời. Những người như thế ví như những vì sao bé nhỏ, chiếu toả tình yêu với chiều kích liêng thiêng của sự cứu độ. Họ góp phần không nhỏ vào việc phát triển Đất Nước và Hội Thánh Việt Nam. Xin ngợi khen và cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 02 tháng 02 năm 2012
Tình hình hiện nay biến chuyển từng ngày. Các biến chuyển xảy ra theo nhiều hướng khác nhau. Xem ra hướng gây lo ngại mạnh hơn hướng đem lại an tâm. Xét theo chủ quan, lòng người hiện nay phần đông là bất an. Nỗi lo theo sát từng ngày. Nỗi sợ doạ nạt khắp nơi. Nỗi nghi ngờ có mặt ngay cả trong các quan hệ tình nghĩa. Đó chỉ là vài bất ổn cạnh bên nhiều bất ổn khác. Tất cả những bất ổn lớn nhỏ đang làm nên một cơn thử thách đáng ngại cho mọi người Việt Nam. Đối với người công giáo trên Đất Nước Việt Nam hôm nay, cơn thử thách chung của dân tộc cũng là thử thách của họ. Thêm vào đó, họ còn đang gặp những thử thách riêng. Các thử thách về đức tin, về đức vâng lời, về đức bác ái, về đức khiêm nhường đang xuất hiện dưới nhiều hình thức. 2. Thánh Giacôbê tông đồ viết cho các giáo đoàn của Ngài đang trong cơn thử thách: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui, khi gặp thử thách trăm chiều. Và như anh em biết: Đức tin có vượt qua thử thách, mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có gì đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4). “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách. Vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Gc 1,12). Những lời khuyên dạy trên đây của thánh Giacô bê giúp tôi có một cái nhìn tích cực về những thử thách đang xảy ra hiện nay. Để có sức vượt qua cơn thử thách bằng sự kiên trì được Chúa tôi luyện, chúng ta cần phải nhờ ơn Chúa. Theo kinh nghiệm, tôi thấy thời gian ơn Chúa ban dồi dào cho chúng ta trong cơn thử thách là Mùa Chay. Bởi vì Mùa Chay là thời gian kính nhớ chặng đường Chúa Giêsu bị thử thách gay gắt nhất. Vì thế, những ai sống tốt Mùa Chay, đã cảm nhận được niềm vui, mà thánh Giacôbê đã nói về những người bị thử thách. Dưới đây, tôi xin được phép chia sẻ đôi chút. 3. Niềm vui thứ nhất là họ được liên kết mật thiết với Chúa Giêsu. Trong Mùa Chay, họ gần gũi với Chúa Giêsu hiện diện trong nhiều sinh hoạt đạo đức. Khi cầu nguyện trước Chúa Giêsuchịu đóng đinh trên thánh giá, nhất là khi viếng chặng đàng thánh giá, biết bao người đã được ơn yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu của họ là tình yêu đáp trả một tình yêu nhưng không của Chúa đã tự nguyện hy sinh để cứu chuộc họ. Yêu mến Chúa Giêsu là bước theo Chúa Giêsu, là tuyệt đối tin cậy nơi Chúa Giêsu. Tình yêu gắn bó và dấn thân của họ biến đổi họ ra con người mới. Nhờ đó, họ nhận ra rằng: căn tính của người công giáo nơi họ chính là liên kết mật thiết với Chúa Giêsu. Họ hiểu thấm thía lời Chúa Giêsu phán xưa trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho thật, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). 4. Niềm vui thứ hai là họ nhận ra được kế hoạch yêu thương của Chúa. Trong Mùa Chay, nhiều người siêng năng dự thánh lễ Misa và chầu Thánh Thể. Trong những dịp đó, Chúa ban cho họ được hiểu phần nào những gì thánh Phaolô đã chia sẻ: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Nhờ ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta, cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu. Thiên ý Người là kế hoạch yêu thương, Người đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1,7-9). Trong kế hoạch yêu thương của Chúa, chúng ta xác tín, chúng ta được cứu độ chính là do ân sủng của Chúa. Thánh Phaolô khẳng định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin, mà anh em được cứu độ, đây không phải bởi anh em, mà là một ân huệ của Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2,8). Những lời trên đây của thánh Phaolô đã làm cho bao người không những được an tâm, mà còn được vui mừng. Họ không còn vất vả đi tìm kế hoạch cứu độ ở những sáng kiến của họ, mà sẽ tin tưởng đi theo kế hoạch tình thương của Chúa. Họ không còn tự hào với những phấn đấu của họ, để rồi có thể sẽ phải thất vọng và cay đắng vì những thất bại. Nhưng họ hoàn toàn tin tưởng sự cứu độ là do ân sủng Chúa ban mà thôi. Họ sẽ làm hết sức mình. Nhưng làm với lòng khiêm tốn tự hạ. 5. Niềm vui thứ ba là họ được chia sẻ sự khiêm nhường cứu độ của Chúa Giêsu. Sự khiêm nhường tự hạ là một giá trị có sức cứu độ. Điều đó, bao người đã được nhìn thấy, khi họ sám hối. Lời thánh Phaolô sau đây thay đổi lòng họ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chết, chết trên thánh giá” (Pl 2,6-8). Nhận thức về giá trị của sự khiêm nhường tự hạ đã cởi gỡ bao người khỏi những cưỡng chế của kiêu ngạo do Satan, xác thịt và thế gian trói buộc. 6. Ba niềm vui trên đây được giới thiệu bởi Lời Chúa và được xác định bởi bao chứng nhân của Mùa Chay. Những chứng nhân Mùa Chay hết lòng tạ ơn Chúa đã ban cho họ ơn biết mình. Họ nhận biết mình rất yếu đuối, rất hèn hạ, rất thiếu thốn. Cảnh hèn mọn ấy không làm cho họ chán nản, nhưng làm cho họ càng biết ơn Chúa đã thương yêu cứu độ họ. Những chứng nhân Mùa Chay, khi chia sẻ niềm vui của mình, sẽ không phủ nhận những đau đớn của mình. Họ nói lên những đau đớn ấy, khi xét là nên nói, để làm chứng cho kế hoạch tìnhyêu của Chúa. Thử thách hôm nay sẽ còn tiếp diễn. Nhưng cũng sẽ tiếp tục xuất hiện những chứng nhân của Mùa Chay. Họ sẽ góp phần đem lại tin tưởng cho những ai đang bị thử thách. Long Xuyên 23-02-2012
Đầu năm là thời gian bề bộn. Bề bộn nhất đối với tôi là vì thấy qúa nhiều vấn đề của Hội Thánh và của Đất Nước. Tình hình chuyên chở vào Năm Nhâm Thìn một đống vấn đề cao ngất. Những vấn đề đó gởi tới mọi người thiện chí như một mời gọi thân tình. Các vấn đề đó đều phức tạp. Chính bản thân tôi cũng đã có sẵn bao nhiêu phức tạp. Nên, khi nhìn thấy những vấn đề phức tạp của tình hình Đời Đạo, tôi bối rối tự hỏi: Phải bắt đầu suy nghĩ từ đâu? Trong băn khoăn thao thức, tôi cầu nguyện với Chúa một cách tha thiết, xin Chúa ban cho tôi một lời an ủi. Chúa thương trả lời tôi. Tôi nghe tiếng Chúa phán trong lòng tôi rằng: “Con ơi, hãy trở về”. Với lời gọi trên đây, Chúa cho tôi nhớ lại những gì là căn bản Chúa đã dạy trong Phúc Âm. 2. Trước hết, Chúa gọi tôi hãy trở về với Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá. Đức Giêsu Kitô đã quả quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Tôi hiểu: Người là con đường tôi phải đi, là sự thực tôi phải tin, là sự sống tôi phải chia sẻ. Tất cả sẽ được thực thi, khi tôi gặp được chính Người. Khi gặp được chính Người, tôi nhận thấy Người dùng con đường của Người, sự thực của Người, sự sống của Người, để cứu chuộc tôi. Công việc cứu chuộc được Người thực hiện trên thánh giá. Thánh giá là nơi Người biểu lộ tình yêu ở mức độ cao nhất. Vì thế, gặp gỡ Chúa Giêsu cũng phải gặp gỡ thánh giá của Người. Trở về với Chúa Giêsu cũng là trở về với thánh giá của Người. Để rồi, như thánh Phaolô quả quyết: “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,2). Khi thực sự trở về gặp gỡ Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá, tôi cảm nghiệm được phần nào sự xác tín nồng cháy của thánh Phaolô, Đấng đã quả quyết: “Thánh giá của Đức Giêsu Kitô chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1 Cr 1,17-25). Tôi hiểu sức mạnh và sự khôn ngoan của tình yêu mà chúng ta cần có trong mình để làm chứng cho Chúa qua tu đức, mục vụ và truyền giáo sẽ không thể xa rời hy sinh tự hạ, tự nguyện từ bỏ mình. Thế nhưng, thực tế sống đạo hiện nay có vẻ lại rất khác. Tuy còn nói tới việc trở về, nhưng là trở về với một thứ giáo lý như một hệ thống tư tưởng, chứ không nhấn mạnh đủ đến việc gặp gỡ chính Chúa Giêsu. Hoặc có nói đến việc gặp gỡ Chúa Giêsu, nhưng lại không quan tâm đủ đến thánh giá của Người. Thực tế sống đạo hôm nay xem ra đang tìm sự cứu độ ở sức mạnh và sự khôn ngoan của những giá trị nào đó, rất xa lạ với giá trị của thánh giá. Thánh giá là tình yêu hy sinh tự hạ xuống chỗ khó nghèo khổ đau để cứu chuộc. Chúa thấy cảnh bi đát đó. Nên Chúa khuyên: Con ơi, hãy trở về. Nghĩa là hãy trở về với Đức Giêsu Kitô chịu đựng trên thánh giá. 3. Điều thứ hai, Chúa gọi tôi trở về là hãy trở về đời sống nội tâm. Chúa Giêsu Kitô nhắn nhủ: “Các con hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con” (Ga 15,4). “Ở lại và ở trong”, mà Chúa nói đây chính là đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm được hiểu là đời sống kết hợp mật thiết với Chúa. Kết hợp mật thiết như cành nho gắn kết chặt chẽ với thân cây nho. Sự kết hợp mật thiết này là nguồn mạch mọi thành công trong tu đức, mục vụ và truyền giáo. Chúa khẳng định: “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ bị khô héo” (Ga 15,5-6). Để gắn kết mật thiết với Chúa, chúng ta cần một đời sống nội tâm, biết nhìn, biết lắng nghe và biết khám phá dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa hiện diện một cách kín đáo và khiêm nhường trong mọi sự xảy ra xung quanh ta. Chúng ta sẽ nghe được tiếng Chúa nhẹ nhàng gọi ta hãy vượt qua những ảo tưởng và những yếu đuối của ta. Chúng ta sẽ khám phá được những dấu chỉ của Chúa lặng lẽ ẩn mình ở những gì rất bé mọn, như một chút men, một hạt cải, mà Chúa đã nói xưa. Chúng ta sẽ chỉ nhìn được như thế, lắng nghe được như thế, khám phá được như thế, nếu chúng ta có được bầu khí tương đối thinh lặng, cả bên trong lẫn bên ngoài, ngọt ngào tâm tình cầu nguyện, và đậm đà ý chí tìm một chiều kích thiêng liêng sâu sắc. Thế nhưng, thực tế tôn giáo hiện nay xem ra đang có vẻ đi xa hướng đó. Đời sống nội tâm bị coi nhẹ. Không những thế, đời sống nội tâm còn bị cản trở. Tôn giáo của tôi có vẻ đang biến thành tôn giáo lễ hội và tôn giáo lễ nghi. Khổ tâm hơn cả là vì sự biến chất đó được coi là bình thường, hơn nữa lại được coi là một thành công do những hoành tráng bên ngoài, đang khi bên trong thì trống rỗng. Tình hình như thế là một bi đát. Chúa gọi tôi: “Con ơi, hãy trở về”. Trở về ở đây có nghĩa là trở về đời sống nội tâm. 4. Điều thứ ba, Chúa gọi tôi trở về là hãy trở về giới răn yêu thương. Chúa Giêsu Kitô phán: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Yêu thương là điều căn bản của đạo Chúa. Thánh Gioan quả quyết: “Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó” (1 Ga 3,15). Trong ngày phán xét, Chúa sẽ căn cứ vào các việc yêu thương làm cho những người đau khổ để phân định kẻ lành kẻ dữ. Kẻ làm việc yêu thương cho người khốn khổ sẽ được xếp vào số người được chọn, để được hưởng phúc thiên đàng. Kẻ không làm việc yêu thương cho người cùng khổ sẽ bị liệt vào số tội nhân bị kết án, phải ném vào lửa hoả ngục đời đời (x. Mt 25,31-46). Yêu thương là căn tính của người tin Chúa. Hơn nữa, đó còn là dấu chỉ, để người ta nhận biết ai thuộc về Chúa Kitô: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương yêu nhau” (Ga 13,35). Chúa dạy yêu thương là như vậy. Thế nhưng, giữa những lời Chúa dạy và thực tế sống đạo hôm nay xem ra đang có một khoảng cách lớn. Khoảng cách đó được nhận thấy trong các cá nhân, trong các gia đình, trong các cộng đoàn tôn giáo. Điều đáng buồn là nhiều người đang dùng chiêu bài đạo đức để gieo rắc hận thù. Tại nhiều nơi, thực tế đó đang trở thành bi đát. Trước cảnh đáng thương đó, Chúa gọi tôi: “Con ơi, hãy trở về”. Trở về ở đây có nghĩa là trở về với giới răn yêu thương của Chúa. 5. Tôi hiểu lời Chúa gọi tôi trở về cũng gởi tới mọi con cái Chúa. Tôi cũng hiểu việc trở về mà Chúa muốn không phải việc dễ dàng. Nhất là khi chúng ta đã đi quá xa. Sức cản ngăn ở trong chính ta. Sức cản ngăn cũng ở trong những người xung quanh ta. Nhưng, nếu chúng ta khiêm nhường khao khát trở về, và thực tình cầu xin ơn trở về, thì chắc chắn Chúa sẽ giúp chúng ta trở về. Với lời Chúa gọi trở về, tôi xác tín việc trở về là việc quan trọng nhất cần phải thực hiện. Trở về là vấn đề ưu tiên. Giải quyết được vấn đề ưu tiên đó, chúng ta sẽ biết giải quyết các vấn đề khác của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi vui mừng tin tưởng sự trở về đó là cách tốt nhất chuẩn bị cho chúng ta trở về Nhà Cha ở cuối đời mình. Nói một cách đơn giản, trở về nói đây chính là trở về với yêu thương đích thực. Yêu thương chính là mùa Xuân. Mùa Xuân yêu thương đem lại hạnh phúc cho ta ở đời này và đặc biệt là ở đời sau, bên cạnh “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Nếu không còn yêu thương, Hội Thánh sẽ rơi vào nguy cơ không còn là Hội Thánh của Chúa Giêsu nữa. Lúc đó, trách nhiệm thuộc về ai? Cập nhật ngày 30 tháng 1 năm 2012.
Đời tôi là một cuộc chiến đấu triền miên. Chiến đấu vì nhiều mục đích. Mục đích quan trọng nhất là để chọn lựa những gì Chúa muốn. Những gì Chúa muốn tôi chọn trên đường làm chứng cho Chúa không luôn dễ dàng. Những gì Chúa muốn tôi chọn trên đường truyền giáo càng không luôn nhẹ nhàng. Chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa là một khuyến cáo. 1/ Gương Chúa Giêsu Phúc Âm thánh Luca viết: "Đức Giêsu được đầy Thánh thần, từ sông Giođan trở về, được Thánh thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả. Hết thời gian đó, Người thấy đói. Bấy giờ quỷ nói với Người: 'Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh'. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: 'Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh'. "Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, nó chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: 'Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang lợi lộc các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông'. Đức Giêsu đáp lại: 'Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi'. "Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: 'Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy mà nhảy xuống đi. Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn'; Lại còn chép rằng: 'Thiên sứ sẽ ra tay đỡ nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá'. Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: 'Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi'. "Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ" (Lc 4,1-12). Chúng ta có thể thấy: Cả ba cám dỗ đều nhắm vào quyền lực. Biến đá thành bánh là quyền lực kinh tế. Chiếm đoạt các nước là quyền lực chính trị. Nhảy từ cao xuống là quyền lực thần thiêng, thắng mọi hiểm nguy, kể cả sự chết. Cả ba quyền lực đó có vẻ rất thuận lợi, để làm chứng cho Chúa, và mở rộng đạo Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã chối từ dứt khoát. Người không coi quyền lực là chiến lược làm chứng cho Chúa và truyền giáo. Dùng quyền lực không là ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha trên đường làm chứng cho Chúa và truyền giáo là: - Cầu nguyện, - Sám hối, - Chay tịnh, - Yêu thương đến cùng, dù phải chịu chết. Gương Chúa Giêsu là thế. Gương đó đề cao những lựa chọn theo thánh ý Chúa. Để lựa chọn đúng, Đức Kitô đã phấn đấu. Phấn đấu ấy có những từ bỏ không dễ dàng. 2/ Trước gương Chúa Giêsu Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, trước khi Người lên đường rao giảng Tin Mừng. Thiết tưởng, khi ghi lại chuyện đó trong Phúc Âm, Chúa muốn nhắn gởi các môn đệ Người một điều quan trọng. Điều quan trọng đó là: Suốt đời, trên đường thi hành sứ vụ, người rao giảng Tin Mừng sẽ là người bị ma quỷ theo sát và mời mọc. Cám dỗ thường xuyên nhất ma quỷ đưa ra sẽ là: - ham mê tiền bạc, của cải, - ham mê địa vị, danh vọng, - ham mê quyền phép phi thường thắng vượt mọi thứ cản trở. Những cám dỗ đó thường rất ngọt ngào, có vẻ hợp lý, có thể trở thành chiến lược truyền giáo. Chúa Giêsu biết trước sự yếu đuối mê muội của ta, nên đã nêu gương sáng bằng cách chống lại những cám dỗ đó, thay vào đó là hãy ưu tiên dùng sự cầu nguyện, chay tịnh, sám hối, bác ái đến cùng. Nhưng, trong chiều dài lịch sử, nhất là hiện nay, không thiếu những người lại chấp nhận ba cơn cám dỗ của Satan. Có loại người đón nhận ba quyền lực mà quỷ đề nghị, chỉ vì động lực mưu tìm tư lợi. Có loại người đón nhận hoặc cả ba quyền lực, hoặc từng quyền lực tuỳ theo hoàn cảnh, vì động lực có vẻ đạo đức. Như là để mở rộng Hội Thánh, để chiến thắng những người cạnh tranh về đạo, để làm chứng cho Chúa. Một khi đã say mê với con đường quyền lực, người ta sẽ dễ ơ hờ với cầu nguyện, sám hối, chay tịnh và bác ái, hy sinh từ bỏ cái tôi của mình. Nhất là khi con đường quyền lực lại được biện minh bằng những lý do đạo đức, người ta sẽ dễ rơi vào cạm bẫy của Satan. Cạm bẫy của Satan thường rất tinh vi và thâm độc. Hậu quả cay đắng nhất là họ trở nên cứng lòng trong thói quen sai lầm. Họ bị quỷ xiềng xích trong mưu chước của nó, khó gỡ ra được. Tôi lo sợ điều xấu ấy xảy ra cho chúng ta. Nên phải luôn khiêm tốn. Khiêm tốn là một phấn đấu cam go. Mỗi ngày có những cám dỗ riêng của ngày đó. Mỗi ngày có những phấnđấu mới hợp cho ngày đó. Phấn đấu quan trọng nhất là phấn đấu với chính mình, để trở nên con người mới. Nhờ thế, càng ngày càng sáng lên nơi ta hình ảnh của Chúa Giêsu sống động, là Đấng Cứu Thế giàu lòng thương xót. Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
Hiện nay, thời sự thế giới về tôn giáo có nhiều bùng nổ. Riêng về công giáo toàn cầu tình hình cũng sôi động. Tin tức về Đức Thánh Cha Beneđictô XVI đang gây những tiếng vang. Có những rò rỉ chấn động Toà Thánh. Có những tin đồn về âm mưu sát hại Đức Thánh Cha. Có những phê phán gay gắt nhắm vào những người thân cận của Ngài. Với tuổi già, Ngài không khỏi đau khổ, do tinh thần trách nhiệm và lòng mến yêu Hội Thánh Chúa. Tôi chia sẻ những đau đớn của Đức Thánh Cha. Tôi thấy tình hình phức tạp đang xảy ra cho Đức Thánh Cha cũng đang xảy ra một cách nào đó cho nhiều Đấng kế vị các thánh tông đồ tại Việt Nam hôm nay. Với tâm tình hiệp thông sâu sắc, tôi cầu nguyện rất nhiều. Cầu nguyện của tôi càng ngày càng mang theo những khổ đau hồn xác. Cầu nguyện như thế có đẹp ý Chúa không? Tôi hỏi Chúa. Và Chúa trả lời tôi bằng cách đưa lòng trí tôi nhớ lại những lời cầu nguyện thấm đặm khổ đau rải rác trong Phúc Âm. 2. Trước hết là những lời cầu đầy khổ đau của Chúa Giêsu. Tác giả thư gởi Do Thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục. Và khi bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9). Đoạn thánh thư trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Sở dĩ Chúa Giêsu đã “kêu van khóc lóc”, là vì Người “phải trải qua nhiều đau khổ”, do thân phận của con người, như mỏi mệt, đói khát, chán nản. Thêm vào đó là sự yếu đuối muốn trốn tránh thánh ý Chúa Cha. Như chính Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ trong vườn Cây Dầu: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái. Nhưng xác thịt thì yếu đuối” (Mt 26,41). 3. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với nỗi sầu buồn lo âu, đau đớn. “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Cũng trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với nỗi đau đớn băn khoăn ray rứt: “Cha ơi, nếu có thể, xin cho con khỏi chén đắng này. Tuy nhiên, xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với nỗi đau khổ cô đơn cực độ. “Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma-xa-bác-tha-ni! Nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). 4. Như thế, cầu nguyện của Chúa Giêsu đã mang nặng nhiều đau đớn. Những đau đớn ấy làm chứng rằng: Người chia sẻ những đau đớn của tôi, và của chúng ta. Như thánh Phaolô viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta. Vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện, cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Chúa Giêsu khi chịu mọi thứ đau khổ, đã dâng những đau khổ đó lên Chúa Cha, để đền tội cho tôi và cho nhân loại. Chúa Cha đã nhận lời Người. Một điều rất đạo đức mà Chúa Cha đã nhận lời Người, và là điều đẹp ý Chúa Cha nhất, chính là: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22,42). Tuy, bị chìm trong biển khổ, Đức Giêsu chỉ xin được vâng theo ý Chúa Cha. Đó là một lời cầu đầy khiêm tốn, đầy phó thác, nhất là tuyệt đối hiếu thảo đối với Chúa Cha. 5. Tới đây, tôi thấy cầu nguyện với những nỗi đau buồn là thứ cầu nguyện có giá trị. Chính Chúa Giêsu đã làm chứng điều đó. Khi suy gẫm những lời cầu mang nặng khổ đau trên đây của Chúa Giêsu, tôi nghe Chúa hỏi tôi hai điều: 1/ Chúa đã cầu nguyện và đau khổ, để đền tội cho con và cho nhân loại. Còn con, đối với tội lỗi, con có ghê tởm, có sám hối, và có phấn đấu chống lại tội lỗi không? 2/ Chúa đã cầu nguyện và đau khổ, để chia sẻ những nỗi bất hạnh của con người. Còn con, đối với những gì đang gây nên thảm cảnh cho nhiều người, như nạn đói, bệnh tật, nghèo túng, độc ác, chiến tranh, bạo lực, hận thù, vv..., con đã khổ đau thế nào? Con có mang chúng vào lòng, để kéo từ sự ác ra sự thiện, nhờ cầu nguyện và hy sinh không? 6. Bây giờ, nhìn sang Đức Mẹ Maria, tôi thấy Đức Mẹ cũng muốn nói với tôi về cuộc đời của Đức Mẹ: Một cuộc đời cầu nguyện và hy sinh. Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời tiên tri Siméon đã nói với Đức Mẹ, dịp Đức Mẹ dâng Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong đền thờ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu trên hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34-35). Tôi rùng rợn trước lời tiên tri nói: “Chúa Giêsu là một dấu hiệu bị người đời chống báng”. Lý do là vì sự độc ác của con người. Tôi run sợ trước lời tiên tri nói: “Chúa Giêsu sẽ là duyên cớ để nhiều người phải vấp ngã”. Lý do là vì sự cứng lòng của con người. Tôi có cảm tưởng là Đức Mẹ còn đau khổ vì những lời đó hơn tôi nhiều. Đau khổ của Mẹ được tiên tri ví như một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn. Đức Mẹ đã cầu nguyện trong đau khổ sâu xa. Những cầu nguyện và đau khổ ấy chính là cái giá phải trả, để Mẹ trở thành người cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. 7. Đức Mẹ sầu bi cho tôi thấy hiện nay Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người cũng đang là cớ vấp phạm cho nhiều người, luôn bị một số người chống báng. Tình hình như thế có thể đang trở nên tồi tệ ở một số nơi trên thế giới. Nếu chúng ta không thể cản được những biến chuyển tồi tệ đang tiếp tục phát triển, thì chúng ta phải phấn đấu rút ra được cái tốt từ những cái xấu. Phấn đấu, mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ dạy chúng ta, là hãy cầu nguyện và hy sinh. Với tất cả sự khiêm tốn, tôi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay, tôi phải tạ ơn Chúa, vì nhiều người môn đệ Chúa đang cầu nguyện và hy sinh. Họ có thể nói như thánh Phaolô xưa: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, thì tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Đăng ngày 02 tháng 03 năm 2012
Satan là nhân vật hay được nhắc đến trong Kinh Thánh. Hay được nhắc đến, không phải vì Satan giữ chức vụ quan trọng nào trong chương trình cứu độ, nhưng vì Satan luôn làm công việc phá hoại bất cứ công trình nào của Chúa. Satan là nhân vật có thực. Nhân vật đó là một số đông. Ban đầu chúng cũng là những thần lành được ở trên trời. Nhưng vì kiêu căng, bất phục tùng, chúng bị tống xuống hoả ngục. Sách Khải Huyền gọi chúng là “ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ” (Kh 12,9). 2. Không những quỷ Satan lo chuyện mê hoặc thiên hạ, mà nó còn cả dám cám dỗ chính Chúa Giêsu. Phúc Âm kể: “Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1). Đối với Chúa Giêsu, quỷ dùng thứ cám dỗ “cao cấp”, nghĩa là nó gợi ý cho Chúa Giêsu hướng về mục đích xây dựng uy tín. a) Làm cho hòn đá trở thành bánh, để được uy tín kinh tế. b) Nắm quyền trên mọi dân nước, để được vinh quang chính trị. c) Từ nóc đền thờ nhảy xuống đất, để minh chứng quyền lực thần thiêng. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng lời Kinh Thánh để thắng những cám dỗ đó. 3. Còn đối với phần đông thiên hạ, Satan cám dỗ bằng cách đồng hành một cách quỷ quái với những mong muốn của từng người. Thí dụ: Với những người ham danh đạo đức, Satan mớm cho họ những thứ đạo đức giả. Với những người câu nệ vào luật, Satan xúi đẩy họ đưa đời sống đạo vào cái khung luật lệ bề ngoài khắt khe, nhưng bên trong lại thiếu mến Chúa yêu người. Với những người ưa hưởng thụ, Satan kéo lòng trí họ về những chỗ khoái lạc sai trái. Với những người thích địa vị quyền thế, Satan đẩy họ vào những dấn thân giả danh công ích. Với những người ngại biết mình và sửa mình, Satan làm cho họ ác cảm với việc cầu nguyện và hồi tâm. Với những người bất cần, Satan làm cho họ nghĩ rằng ma quỷ là chuyện chẳng có gì phải sợ. 4. Thánh Phêrô dùng một hình ảnh đáng sợ, để ám chỉ Satan. Ngài viết: “Ma quỷ là thù địch của anh em, nó như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Với lời trên, thánh Phêrô quả quyết Satan cám dỗ chỉ để làm hại con người mà thôi. 5. Trước những cám dỗ của Satan, chúng ta phải cương quyết chống lại. Nhưng có một việc ghê gớm quỷ ra tay, mà người ta sẽ rất phải khổ tâm, đó là việc quỷ nhập. Hiện tượng quỷ nhập được mô tả là rất đa dạng. Có trường hợp nhẹ. Có trường hợp nặng. Phúc Âm ghi lại chuyện một người ở Ghêrêxa bị quỷ ám được đưa đến Chúa Giêsu, để xin Người cứu chữa. Chúa hỏi quỷ đang trong người đó tên là gì? Nó thưa: “Đạo binh”. Nghĩa là trong người đó có từng trăm từng ngàn quỷ chiếm đóng (x. Lc 8,26-31). Khi bị Chúa Giêsu đuổi ra khỏi người đó, lũ quỷ đã xin nhập vào đàn heo gần đấy. Phúc Âm thánh Marcô viết: “Chúa cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo chừng hai ngàn con từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó” (Mc 5,13). Khi Satan nhập vào con người, thì hoặc nó nhập vào toàn thể, hoặc nó nhập vào từng phần. Trường hợp nhập vào từng phần là rất phổ quát. Bề ngoài thì con người coi còn tỉnh táo, nhưng một số chức năng nào đó trong họ thì bị quỷ thống trị. 6. Những ai dễ bị quỷ nhập? Không có câu trả lời nào được coi là xác đáng. Tốt hơn cả là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn, đừng tự đắc coi mình là chắc chắn được miễn trừ. Hãy xem trường hợp tông đồ Giuđa. Ông Giuđa được Chúa gọi, rồi được Chúa chọn làm tông đồ. Trong bữa Tiệc ly, ông được nhận chức thánh, được rước Mình Máu Thánh, được Chúa rửa chân. Nhưng, liền sau đó, ông bị quỷ nhập. Phúc Âm thánh Gioan viết như sau: “Chúa Giêsu tuyên bố: ‘Thật, Thầy bảo thật anh em, có một người trong anh em sẽ nộp Thầy’. Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. Trong số các môn đệ, có một người được Chúa Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Ông Simon-Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: ‘Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?’ Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: ‘Thưa Thầy, ai vậy?’ Đức Giêsu trả lời: ‘Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy’. Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Itcariốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y” (Ga 13,21-27). Đúng là quỷ nhập vào ông Giuđa một cách coi như quá bất ngờ. Nó nhập vào một người là tông đồ Chúa, nhập vào ngay sau lúc ăn bánh Chúa trao ban, nhập vào ngay trước mặt Chúa, nhập vào ngay giữa cộng đoàn các tông đồ, nhập vào ngay trong giờ Chúa lập phép Mình Thánh và phép Truyền Chức Thánh. 7. Nhìn sơ qua sự việc xảy ra không ngờ trên đây, chúng ta không khỏi băn khoăn lo sợ. Càng băn khoăn lo sợ, chúng ta càng cần phải khiêm tốn đón nhận ơn Chúa và cộng tác vào ơn Chúa. Nếu không, một ơn Chúa ban thêm, lại có thể thêm cơ hội, để con người thêm bất trung, làm dịp cho Satan xâm nhập vào lòng. Những gì đã xảy ra thời Chúa Giêsu, có thể nay vẫn còn. Con người vẫn yếu đuối. Satan vẫn hung hăng. Chúa vẫn trọng sự tự do của mỗi người. Nhưng Chúa luôn vẫn sẵn sàng cứu chúng ta, miễn là chúng ta biết cộng tác với Chúa. Cộng tác bằng cách nào? Chúa nói rõ “Hãy cầu nguyện và ăn chay” (Mt 17,21). 8. Thêm vào hai việc đó, chúng ta đừng quên tỉnh thức. Phải hết sức cảnh giác. Bởi vì hiện nay, Satan đang phá Nước Trời bằng nhiều cách tinh vi. Từ những cách mang danh nghĩa đạo đức đến cách tôn sùng Satan với hình thức lễ nghi như một thứ tôn giáo. Quyền lực của Satan đang phát triển mạnh và khắp nơi. Trong một tình hình nguy hiểm như thế, nếu chúng ta tưởng thắng được Satan bằng những hoạt động tôn giáo nặng về hoành tráng, ồn ào, màu mè, lễ hội, thì chúng ta sẽ vô tình lại rơi vào bẫy Satan. Đôi khi tôi có cảm tưởng là Satan tỉnh thức hơn rất nhiều người con cái Chúa. Nó và đạo binh của nó luôn có mặt khắp nơi. Chúng luôn nắm bắt bất cứ cơ hội nào thuận tiện, để lôi các linh hồn vào đàng tà dẫn xuống vực thẳm hoả ngục. Đang khi đó, nhiều người chúng ta vẫn dửng dưng đối với phần rỗi linh hồn. Ngay cả những lời cảnh báo thảm thiết của Đức Mẹ Fatima cũng chẳng được quan tâm đúng mức. Mùa Chay này đang kêu gọi chúng ta sám hối. Thời sự phức tạp hiện nay sẽ được chúng ta suy nghĩ, để chúng ta biết trở về với Chúa. Ơn cứu độ chỉ đến với ta từ Chúa Giêsu. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà chúng ta thắng được Satan, để được giải cứu, hầu đi về tới bến thiên đàng bình an hạnh phúc đời đời. Đăng ngày 29 tháng 02 năm 2012
1. Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí thinh lặng âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan. Sự thinh lặng của thánh Giuse là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Có nhiều thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv... Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực. 2. Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin. Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế. Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài. Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục. Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin. Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27). Thánh Giuse cũng tin như vậy. Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã vâng phục đức tin. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín. 3. Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới. Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng. Ông Môisen vào sa mạc Madian. Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê. Thánh Phaolô vào sa mạc Syria. Thánh Benedictô lên núi Subiacô. Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi. Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày. Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa. Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn. Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ. 4. Sau cùng tôi thấy sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự Ngài âm thầm tu thân giữa đời. Tu thân nơi thánh Giuse là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo trong lòng mình. Tu thân nơi thánh Giuse là hằng ngày tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Tu thân nơi thánh Giuse là tự nguyện sống khó nghèo, giữa những người nghèo khó, để chia sẻ thân phận lầm than vất vả với những người khổ đau. Tu thân nơi thánh Giuse là thinh lặng phấn đấu thường xuyên với chính mình, để luôn luôn thuộc về Chúa, và cũng để biết sống tế nhị với mọi người xung quanh. Tu thân nơi thánh Giuse là luôn kết hợp với Chúa, để biết rõ mình. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ, nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó, mình phải chết đi cho chính mình, để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong khắp con người của mình. 5. Những điều suy nghĩ trên đây không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt nhất việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm. Chọn lựa của ta phải thực sự khiêm tốn, hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa. 6. Riêng tôi, trong tình hình hiện nay, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta - biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa và suy niệm Lời Chúa, - biết thinh lặng hơn để dâng mình làm của lễ, - biết thinh lặng hơn để biết cộng tác vào chương trình cứu độ, - biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn, - biết thinh lặng hơn để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt. Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
Cha Trương Bửu Diệp là một nhân vật công giáo Việt Nam rất được mộ mến. Ngài sinh ngày 01 tháng 01 năm 1897 tại họ đạo Cồn Phước thuộc giáo phận Long Xuyên, Ngài chết ngày 12 tháng 3 năm 1946 tại Tắc Sậy, trong thời kỳ lộn xộn căng thẳng giữa các lực lượng chính trị tôn giáo tại địa phương. Hiện nay Ngài an nghỉ tại nhà thờ Tắc Sậy thuộc giáo phận Cần Thơ. Từ nhiều năm nay, số người hành hương đến Cha Diệp là vô số kể. Họ thuộc đủ mọi thành phần xã hội, với đủ mọi màu sắc tâm linh, đến từ đủ mọi miền đất nước. Đây là những cuộc hành hương tự phát tự nguyện. Họ có chung một cái nhìn: Cha Diệp là người từ tâm, chuyên cứu nhân độ thế. Riêng tôi, tôi nhìn Cha diệp như một nhà truyền giáo của thời tân Phúc Âm hoá. Truyền giáo nơi Ngài là làm chứng bằng chính con người của mình. 2. Cha Trương Bửu Diệp làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa là Cha thương xót mọi người. Vẻ đẹp nhất nơi Cha Diệp là tình yêu thương đối với đoàn chiên nói riêng và đồng bào xung quanh nói chung. Tình yêu này được diễn tả bằng hai mặt: Phục vụ và hy sinh. Phụcvụ là đáp ứng nhu cầu của dân, cách riêng là thương cảm, chia sẻ những nỗi khổ của dân, và chỉ vạch cho họ con đường dẫn tới hạnh phúc thực. Hy sinh là chịu gian khổ cùng với dân, chịu đau khổ thay cho dân, gắn bó với dân, hy sinh mạng sống mình để cứu dân. Ngài phục vụ một cách từ tốn. Ngài hy sinh một cách khiêm nhường. Với hai nét phục vụ và hy sinh, Cha Diệp gợi nhớ lại hình ảnh Người đầy tớ Đức Giavê được Isaia nói tiên tri trong Cựu Ước (x. Is 53). Tiên tri gọi người đầy tớ này là người đầy tớ khổ đau. Đầy tớ ở đây là phục vụ. Khổ đau ở đây là hy sinh thay cho người khác. Với hai nét phục vụ và hy sinh, Cha Diệp vẽ lại hình ảnh chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Ngôi Hai xuống thế, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Làm chứng bằng khiêm tốn phục vụ, đem lại cho nhân loại sự sống thực, và làm chứng bằng khiêm tốn hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại. Với hai nét phục vụ và hy sinh, Cha Diệp trở thành hình ảnh gần gũi và thân thương. Người ta cảm thấy Cha gần gũi họ, như một người thân, người thương của họ. Trong gần gũi thân thương, Cha giúp cho họ tìm được hy vọng đẹp trong những thử thách, và nhìn thấy sự sống mới đằng sau cái chết. Bên Cha, họ cảm nhận thấy cuộc sống là một chuỗi dài những tiếng gọi yêu thương, phục vụ và hy sinh, cuộc sống là một hành trình đi về tuyệt đối, cuộc sống là một huyền nhiệm chứa đựng bao tiềm năng rực sáng. Cha Diệp không lý luận về Thiên Chúa là tình yêu. Cha chỉ làm chứng một cách sống động bằng chính con người. Những ai có trực giác lành mạnh sẽ cảm nhận được sự thực sống động đó. 3. Cha Trương Bửu Diệp làm chứng cho tình yêu của người con Hội Thánh địa phương đối với dân tộc. Sự thực là: Những người đến với Cha Diệp từ trước đến nay đa số là ngoài công giáo. Ngoài công giáo có nghĩa là không có đạo hoặc có đạo nhưng không phải công giáo. Họ là một khối lớn đa dạng, giống như một mảng của dân số trên đất nước Việt Nam này. Đến bên Cha Diệp, đám đông đa dạng này, tuy với nhiều khác biệt, nhưng họ đã gần lại với nhau. Tôi có cảm tưởng là Cha đang xây dựng những liên hệ tốt đẹp nhất với mọi hạng người, và Cha cũng đang giúp cho Hội Thánh địa phương góp phần hữu hiệu vào việc thiết lập những tương quan tốt đẹp trong xã hội hôm nay. Xã hội hôm nay đang rất cần những người có khả năng biến đổi những tương quan chia rẽ, hiềm khích, nghi kỵ thành những tương quan hoà hợp, yêu thương, tin tưởng. Cha Diệp đã xuất hiện như một người có khả năng đó. Hoạt động tình thương của Cha là một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng những tương quan an hoà trong dân tộc Việt Nam. Thành công và động lực của việc xây dựng những liên đới tình thương này là do sự Cha thuộc về Đức Kitô, và liên kết với Đức Kitô. Xã hội hôm nay cũng đang rất cần những người có khả năng nâng cao dân tộc lên về chiều kích thiêng liêng và trong lãnh vực các giá trị tinh thần. Cha Diệp đang được chứng minh là người có khả năng đó. Thái độ bao dung, khiêm hạ của Cha, nhất là tấm lòng yêu thương quảng đại của Cha đang khơi dậy từng triệu lương tâm xa gần. Họ nghĩ tới Đấng mà Cha tôn thờ. Họ nhớ về Hội Thánh Đức Kitô, mà Cha phục vụ. Họ nhận ra tình thương đạo Chúa là không biên giới, luôn mở rộng đón nhận mọi người. Tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình không phải dễ, yêu thương kẻ ghen ghét mình càng không đơn giản. Làm ơn cho kẻ hại mình lại càng rất khó. Thế mà Cha Diệp trước kia cũng như bây giờ đã thực hiện được như thế. Đúng như lời Chúa Giêsu dạy. Đó là tấm gương sáng ngời của Hội Thánh địa phương trước lịch sử dân tộc. 4. Cha Trương Bửu Diệp làm chứng cho tình yêu của con người có đức tin đối với cuộc sống đồng bào. Càng ngày tôi càng thấy hình ảnh Cha Diệp đi xa đi rộng. Cha có mặt trong các nhà ở, trong các cửa hàng, trong chợ, trong quán, trong xe. Cha hiện diện đều khắp từ phố phường thành thị cho đến nông thôn hẻo lánh. Tôi tìm hiểu tại sao đông đảo đồng bào đã đón Cha Diệp vào cuộc sống một cách thân mật như thế. Câu trả lời tổng hợp là: Vì Cha lo cho cuộc sống của đồng bào. Thực vậy, trước ảnh Cha Diệp, người ta nói với Cha về đủ mọi vấn đề cuộc sống. Họ nói một cách rất tự nhiên. Với một cách nào đó, Cha Diệp cũng thân tình chia sẻ với họ về những vấn đề cuộc sống mà họ quan tâm. Qua thái độ của Cha, tôi nhớ lại hình ảnh người mục tử tốt lành trong Kinh Thánh. Tìm cánh đồng nào có cỏ xanh non để chiên ăn. Tìm chỗ nào có bóng mát để chiên nằm nghỉ. Tìm dòng sông nào có nước sạch trong để chiên uống (x. Tv 22,1-3a,3b - 4,5-6). Người lo cho cuộc sống đồng bào như vậy không chỉ cần có thiện tâm, thiện chí, mà cũng cần có trình độ trí thức, kinh nghiệm sống. Nhất là trong thời buổi văn minh này. Điều độc đáo của người có đức tin, khi lo cho cuộc sống, là còn tìm nuôi sống mình bằng Lời Chúa, cầu nguyện và biết mình. Những ai tới Cha Diệp, cho dù để xin Ngài giúp đỡ các chuyện vật chất, cũng đều cảm thấy mình phải cầu nguyện, phải biết mình, phải hướng về Chúa, để hứa mình sẽ cố gắng nên tốt hơn. Cuộc sống hôm nay đang có nhiều bước đi lên, nhưng cũng không thiếu nhiều bước đi xuống. Sự xuống dốc đạo đức và sự thành hình những giai cấp giàu nghèo mới sẽ trở nên trầm trọng trong vài năm tới. Trong một tình hình như thế, nếu truyền giáo dành nhiều đầu tư cho việc nâng cao đời sống vật chất, trí thức, mà không quan tâm đủ đến việc bảo trì, phát triển nếp sống luân lý và công bình xã hội, thì hậu quả sẽ không lường được. 5. Cha Trương Bửu Diệp làm chứng cho tình yêu của người có Thánh Thần Đức Kitô đối với những chuyển biến lịch sử. Khi hỏi thăm những người được Cha Diệp giúp đỡ, tôi được biết điều này: Mỗi người đều được Cha giúp. Nhưng giúp chừng nào, khi nào, cách nào, thì mỗi người nhận được khác nhau. Sự kiện đó chứng tỏ rằng: Cha Diệp rất nhạy bén với các tình tiết của con người và xã hội. Và đó chính là nghệ thuật truyền giáo. Mỗi thời điểm có những vấn đề riêng của nó. Mỗi giai đoạn lịch sử có những khát vọng riêng của nó. Mỗi trình độ văn minh có những phong cách riêng của nó. Mỗi địa phương, mỗi người có những thuận lợi và nguy cơ riêng của mình. Nếu chúng ta không nắm bắt được những điểm đó, để rồi cứ truyền giáo bằng cách nhai lại những vấn đề lỗi thời, với những giọng điệu lỗi thời, thì sẽ tạo ra cho đạo mình một bộ mặt ấu trĩ lạc hậu xấu xí, khiến người ta muốn xa tránh. Thánh Kinh nhắc bảo: “Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời ở dưới bầu trời. Thời để sinh và thời để chết, thời để trồng và thời để nhổ lên, thời để giết chết và thời để chữa lành, thời để phá và thời để xây,... thời để nín thinh và thời để lên tiếng, thời để yêu và thời để ghét, thời giặc giã và thời bình an. “Lợi gì mà làm điều khiến mình chỉ tổn công lao nhọc... Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời hợp cảnh” (Gv 3,1-11). Nhạy bén với thời điểm là điều mà Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh như một điều kiện để truyền giáo. Muốn có điều đó, chúng ta phải trở nên dễ dạy đối với Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha dạy: “Chúa Thánh Thần bảo đảm cho sứ điệp Tin Mừng được luôn tươi trẻ và hợp thời, để việc rao giảng khỏi phải lặp đi lặp lại theo hình thức một cách nhàm chán và cứng nhắc. Thật vậy, các sứ giả Tin Mừng phải coi mình là những người phục vụ ‘giao ước mới’. Không phải là giao ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống (2 Cr 3,6). Đây không phải là quảng bá cho việc phụ vụ theo bản văn cũ của Lề Luật, mà là theo tinh thần mới của Thánh Thần (x. Rm 7,6). Đòi hỏi này là một vấn đề sống còn của Tân Phúc Âm hoá” (Đức Gioan Phaolô II, Giáo lý Năm Thánh 2000, bài 22). 6. Cha Trương Bửu Diệp là một nhà truyền giáo của Tân Phúc Âm hoá. Tân Phúc Âm hoá là giới thiệu Phúc Âm với cách diễn đạt mới, với phương pháp mới, với phong cách mới, với cường độ mới, với lửa tin yêu mới. Âm thầm mà lan rộng thấm sâu. Khiêm tốn mà lôi cuốn thuyết phục. Bởi vì đức tin của Cha được phiên dịch ra tình yêu thương quảng đại đối với con người, phục vụ rộng cho con người và hy sinh cao cho con người. Đó là ngôn ngữ hợp thời, mà người Việt Nam hôm nay dễ hiểu. Đó chính là ngôn ngữ Tin Mừng, được chính Chúa Giêsu dùng, để giới thiệu Thiên Chúa và để đổi mới tôn giáo của dân Người. 12 tháng 3 năm 2012 - Ngày giỗ
Mùa chay năm nay khác các mùa chay trước đây. Khác ở chỗ mùa chay năm nay có nhiều báo động. Báo động ở nhiều lãnh vực. Riêng trong lãnh vực đạo đức, báo động được coi là khẩn cấp và nghiêm trọng. Nghiêm trọng đến nỗi những người có trách nhiệm dám quả quyết: Nếu không chấn chỉnh đạo đức, sẽ không tránh được những sụp đổ có liên quan đến Non Sông và Dân Tộc. Đó là một báo động công khai trong xã hội Việt Nam hôm nay. Còn trong Hội Thánh Việt Nam, chính tình hình thực tế về đạo đức hiện nay đang là một báo động. Một chiếc xe đứt thắng, đang trên đường nguy hiểm, bên bờ vực thẳm, thế mà các người trong xe vẫn ngủ ngon, người lái xe vẫn say mê nghe nhạc chiến thắng, đó chính là hình ảnh về tình hình đạo đức ở một số nơi. Hình ảnh đó là một báo động khẩn cấp. Chính bản thân tôi cũng đang cảm nhận sâu sắc một sự thực đau buồn, mà thánh Phaolô xưa đã tự thú: “Sự thiện tôi muốn làm, thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). 2. Nhận thức đúng về một tình hình có nhiều báo động không cho phép chúng ta dửng dưng vô cảm. Nhưng tôi cảm thấy mình quá yếu đuối, để có thể cứu vãn được tình hình. Với tâm tình khiêm tốn và khó nghèo, tôi chạy lại bên Đức Mẹ Maria. Mẹ dẫn tôi vào Mùa Chay, đặc biệt là Tuần Thánh của Mẹ. Tuần Thánh là thời gian đề cao việc Chúa cứu chuộc nhân loại. Mẹ nói với tôi một cách nhẹ nhàng. Đúng hơn là Mẹ không nói, mà chỉ chia sẻ tâm tình. Một sự chia sẻ không thực hiện bằng lời nói, mà bằng cảm nhận tự sâu thẳm đáy lòng. 3. Chia sẻ bao trùm và tập trung nhất, mà Mẹ ban cho tôi, đó là sự cứu độ chỉ đến từ Chúa Giêsu. Mẹ giúp tôi tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong chương trình cứu độ, Chúa Giêsu chú ý nhất đến sự cứu nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi và án phạt ghê gớm do tội lỗi gây nên. Công việc cứu thế của Người là chuỗi dài những lời nói và việc làm khuyên dạy người ta mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Đỉnh cao nhất của công trình cứu độ là sự Chúa Giêsu tự nguyện dâng mình làm của lễ trên thánh giá. Sự tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, khi trở thành một sự sống thiêng liêng được Đức Mẹ chia sẻ cho, đã làm cho tôi gắn kết mật thiết hơn với Chúa Giêsu. Tôi bước theo Người, là tôi cầu nguyện như Người cầu nguyện. Tôi bước theo Người, là tôi dâng mình làm của lễ như Người đã dâng mình. 4. Khi Chúa Giêsu đã trở thành trung tâm đời sống của tôi, tôi hiểu dễ dàng hơn thái độ của Mẹ, khi Mẹ theo Chúa Giêsu vác thánh giá, và khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Thái độ của Mẹ trong suốt thời gian Chúa Giêsu, Con Mẹ, phải chịu khổ cực, là thinh lặng, một sự thinh lặng anh hùng và thánh thiện. 5. Mẹ thinh lặng trước những lời nói hung hăng và những quyết định độc ác của các thượng tế, luật sĩ đối với Chúa Giêsu. Không những Mẹ không một lời phản đối, thách thức, chửi rủa họ, Mẹ còn nuốt những đớn đau và nhục nhã vào lòng đầy yêu thương của Mẹ. Yêu thương của Mẹ cũng là yêu thương của Chúa Giêsu. Một yêu thương sẵn sàng tha thứ. Yêu thương đó cũng còn là cầu nguyện cho những kẻ làm khổ mình. Hơn thế nữa, yêu thương đó lại âm thầm đền tội thay cho những kẻ bắt bớ mình. Thinh lặng như thế là một thái độ rất tích cực, góp phần cứu độ những gì coi như không thể cứu độ bằng những phương tiện tự nhiên. Thinh lặng đó là một thứ đối thoại không lời mà bao sâu thẳm. 6. Mẹ thinh lặng trước sự thay lòng đổi dạ của quần chúng. Quần chúng là đám đông đã tưng bừng đón mừng Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem mấy ngày trước đó. Quần chúng là từng trăm ngàn người đã được nghe những lời chân thật yêu thương Chúa giảng, đã được thấy những phép lạ giải cứu đầy xót thương của Chúa, đã được chia sẻ cuộc đời thánh thiện của Chúa. Nhưng quần chúng đông đảo đó đã để mình bị khích động một cách dễ dàng. Họ đã nông nổi nghe theo nhóm quyền lực xấu, để hò hét lên án Chúa Giêsu. Mẹ không trách họ. Mẹ thinh lặng để cho những làn sóng vô ơn bạc nghĩa tràn vào lòng Mẹ. Lòng Mẹ vẫn dạt dào yêu thương, tha thứ. Lòng Mẹ vẫn cầu nguyện và đền tội thay cho những kẻ lỗi lầm. Như thế thinh lặng của Mẹ là một thái độ tích cực, chứa đầy ơn cứu độ. Thinh lặng đó là một thứ đối thoại âm thầm của trái tím dâng hiến. 7. Mẹ thinh lặng trước tình trạng coi như phá sản của 12 tông đồ. Mẹ không mắng trách họ. Mẹ đón nhận cảnh tan rã thê thảm của các tông đồ vào lòng Mẹ. Lòng Mẹ vẫn dịu dàng xót thương. Lòng Mẹ vẫn rộng mở, chở che những người con yếu đuối lỗi lầm. Lòng Mẹ vẫn quảng đại, sẵn sàng đền tội thay cho đàn con khờ dại. Như thể, thinh lặng của Mẹ là một thái độ tích cực, có sức thánh hoá. Thinh lặng đó là một thứ đối thoại dịu dàng của tấm lòng hiền mẫu. 8. Mẹ thinh lặng trước bản án sai trái của quan Philatô và trước những độc ác của quân quốc thi hành bản án đối với Chúa Giêsu. Mẹ có thể phản kháng. Mẹ có thể nguyền rủa. Mẹ có thể xin Chúa trừng phạt những kẻ lạm quyền. Nhưng Mẹ đã thinh lặng. Mẹ để cho những độc ác của các quyền lực đâm nát trái tim Mẹ. Mẹ đau đớn. Nhưng trong đau đớn, Mẹ vẫn yêu thương tha thứ, vẫn dâng mình đền tội thay cho mọi tội nhân. Như thế, thinh lặng của Mẹ là một thái độ rất tích cực, chứa đầy ơn thánh cứu độ. Thinh lặng đó là một thứ chọn lựa anh dũng cao thượng, vượt trên mọi đối thoại trần gian. 9. Với những chia sẻ trên đây, Đức Mẹ dẫn tôi tới La Salette. Nơi đây, Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình ảnh một người phụ nữ ngồi khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi loài người. Mẹ khóc vì loài người sẽ không tránh được hình phạt do tội lỗi, nếu loài người không ăn năn sửa mình. Trong tâm tình cảm tạ, tôi xin nói ngay là: Chia sẻ của Đức Mẹ đã làm cho tôi thức tỉnh. Tôi nhận ra mình thực sự hèn yếu. Tôi không thể tự cứu mình. Tôi càng không thể cứu được bất cứ ai. Huống chi tôi đâu có thể cứu được một tình hình Hội Thánh và Đất Nước. Nhưng Mẹ chỉ cho tôi cách đón nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Mẹ đã làm gương về cách đón nhận đó. Cách đó là yêu thương tự hạ trong cầu nguyện, sám hối và tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa. Sự thinh lặng của Mẹ còn dạy tôi về sự nhã nhặn và sự kềm chế của tu đức. Sự thinh lặng của Mẹ nhắc nhở tôi chú ý nhiều đến sự thanh vắng nội tâm, kết hợp với Chúa Giêsu, lắng nghe Người, âm thầm bước theo Người, nhất là cùng với Người dâng mình làm của lễ trên thánh giá. Số người đứng bên Đức Mẹ dưới chân thánh giá Chúa Giêsu ngày Chúa chịu nạn rất ít. Nhưng số người đó mỗi ngày mỗi tăng thêm. Xin hết lòng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ đã cho phép tôi được cùng với họ bám chặt lấy Đức Mẹ là nguồn sản sinh sự sống, niềm vui và lòng trông cậy.
1. Chúa Giêsu đã chịu chết và đã phục sinh. Đó là điều tôi tin và tuyên xưng suốt đời. Riêng lễ Phục Sinh, tôi tham dự các nghi thức đầy cảm động tưởng niệm biến cố Phục Sinh. Hơn nữa, tôi còn gởi cho những người thân lời chào chúc Phục Sinh thắm thiết. Tất cả những việc trên đây đều tốt. Nhưng có một việc còn tốt hơn, đó là việc gặp gỡ chính Chúa Phục Sinh. Với hết lòng khiêm tốn và cảm tạ, tôi xin được phép chia sẻ việc gặp gỡ đó. Chúa Giêsu Phục Sinh không hiện ra với tôi bằng hình dáng hữu hình. Nhưng Người đến với tôi bằng sự hiện diện thiêng liêng đầy hấp dẫn. Ở đây, tôi mạo muội nói lên những gì tôi cho là hấp dẫn nhất đã cải hoá bản thân tôi. 2. Hấp dẫn thứ nhất là Chúa Phục Sinh đến với tôi một cách âm thầm, nhẹ nhàng đầy tế nhị. Thường là những lúc tôi hồi tâm hoặc lúc bị thử thách, tôi chợt nghe tiếng Người gọi. Tôi nhớ lại lời Kinh Thánh nói: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Người gõ nhè nhẹ cửa lòng tôi. Người đợi chờ kiên nhẫn và khiêm tốn. Người chỉ bước vào, khi tôi mở cửa đón Người vào. Tôi cảm thấy rất rõ sự Người đến với tôi là một món quà quý giá riêng tư Người dành cho tôi. 3. Hấp dẫn thứ hai là Chúa Phục Sinh đến với tôi, đem lại cho tôi bầu khí bình an. Biết bao lần lòng tôi đang sợ hãi, lo âu, bối rối. Chính lúc đó Chúa Phục Sinh đến. Người không nói gì với tôi. Nhưng sự hiện diện của Người đã dẹp tan sóng gió trong lòng tôi. Tôi cảm thấy mình được bình an sâu lắng. Tôi nhớ lại những lần xưa Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, Người đã chào chúc các ngài một lời vắn tắt: “Bình an cho anh em” (Ga 20,21; Lc 24,36). Lời chào chúc đó đã mở mắt các tông đồ nhìn rõ hình ảnh đúng về bản thân mình, đó là các ngài là những con người yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi, được Chúa thứ tha. Đối với tôi cũng vậy, sự bình an mà Chúa Phục Sinh ban cho tôi cũng đã làm cho tôi nhận biết mình là kẻ cần được Chúa tha thứ cứu độ. Thực sự Chúa đã tha thứ và cứu độ tôi. Đó là ơn ban nhưng không. 4. Hấp dẫn thứ ba là Chúa Phục Sinh ban cho tôi một hình ảnh Thiên Chúa rất gần gũi và thân thiện. Chúa Phục Sinh hiện diện trong tôi. Tôi chia sẻ với Người đủ mọi chuyện của đời tôi. Người đồng hành với tôi trên mọi chặng đường. Tôi nhớ lại cảnh Chúa Phục Sinh đã cùng đi với hai môn đệ trên đường Emmau. Chúa Phục Sinh đã tỏ ra rất gần gũi với các ngài (x. Lc 24,13-33). Chúa Phục sinh cũng đã rất thân tình với các môn đệ, khi Người cùng ngồi chung với các môn đệ trên bờ biển hồ Tibêria, để cùng ăn bánh và cá nướng với nhau (x. Ga 21,12-14). Sự gần gũi Chúa dành cho tôi giúp tôi cảm nhận được “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu ấy ở nơi Chúa Phục Sinh. Tình yêu ấy được tôi cảm nghiệm sâu sắc. Bởi vì tình yêu ấy rất gần gũi, đến nỗi, một cách nào đó, tôi có thể nói như thánh Gioan tông đồ: “Chúng tôi đã nghe, chúng tôi đã thấy tận mắt, chúng tôi đã chiêm ngưỡng, chúng tôi đã chạm đến” (1 Ga 1,1). 5. Hấp dẫn thứ bốn là Chúa Phục Sinh ban cho
tôi thấy sự Người tin tưởng nơi tôi. Tôi hèn hạ lắm. Tôi tội lỗi lắm. Tôi kém cỏi lắm. Tôi nhận biết mình chỉ là một thứ sâu bọ. Thế mà, chính trong tình trạng nhận thức đó, tôi được Chúa Phục Sinh đến. Người trao cho tôi trách nhiệm làm chứng về Chúa. Người tin tưởng nơi một kẻ yếu đuối hèn mọn. Điều đó làm tôi ngỡ ngàng. Tôi chỉ biết phó thác mọi sự nơi Chúa. Tôi nhớ lại: Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã chọn thánh Phêrô, một người chối Chúa, để trao trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Chúa (x. Ga 21,15-17). Sự chọn lựa đó của Chúa Phục Sinh chứng tỏ Chúa chọn kẻ Chúa muốn (x. Mc 3,13). Họ sẽ là người thuộc trọn vẹn về Chúa, trước khi làm những việc của Chúa. 6. Hấp dẫn thứ năm là Chúa Phục Sinh đã chia sẻ cho tôi về chương trình cứu độ một cách rất chân thực. Một thao thức thường xuyên sống động trong tôi là làm thế nào để cứu mình và cứu những người khác khỏi tội lỗi. Trả lời cho thao thức đó là vô số giải pháp. Giải pháp kinh tế, giải pháp chính trị, giải pháp văn hoá, giải pháp giáo lý, giải pháp cơ chế, vv... Khi tôi trình bày với Chúa Phục sinh về những cố gắng đó, Chúa Phục sinh luôn trả lời tôi một cách rất chân thực về chương trình cứu độ của Người. Người bảo tôi hãy nhìn vào hai bàn tay của Người còn dấu đinh đóng. Người cho tôi xem trái tim của Người còn dấu lưỡi đòng đâm qua. Tôi nhớ lại cảnh Chúa Phục sinh bảo môn đệ Tôma hãy đặt tay vào cạnh sườn Người bị lưỡi đòng đâm (x. Ga 20,27). Người rất chân thực cho thấy: Người cứu độ tôi và nhân loại bằng chính đời sống khó nghèo, khiêm hạ, và tự nguyện chịu khổ nạn và hy sinh mạng sống vì yêu thương theo thánh ý Chúa Cha. Người muốn tôi hãy theo Người, và cùng với Người mà làm như vậy. 7. Những gì tôi gọi là hấp dẫn trên đây chắc chắn chỉ là một số rất nhỏ trong vô số những hấp dẫn khác nơi Chúa Phục Sinh. Tuy nhiên, những hấp dẫn nhỏ đó cũng giúp tôi biết mình và biết Chúa Phục Sinh. Tôi là con người tội lỗi cần được cứu chuộc. Còn Đấng Cứu chuộc tôi là chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Đến đây, tôi xin hết lòng ca ngợi và cảm tạ Chúa Phục Sinh đã ban cho tôi ơn được gặp Người. Tôi không quên chân thành cảm ơn tất cả những người đã dạy tôi về sự gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Tôi xin thân ái cầu chúc mọi bạn bè gần xa một lễ Phục Sinh đầy ơn Chúa, nhất là được gặp gỡ Chúa Phục Sinh là Đấng Cứu thế rất nhân lành của chúng ta.
Đêm lễ Phục Sinh, trong các nhà thờ, khi Phụng vụ vừa công bố xong lời “Chúa đã sống lại”, thì nhiều chậu hoa tươi liền được đưa lên cung thánh. Cung thánh trở thành một vườn hoa tươi thơm đẹp, bao quanh bàn thờ rực sáng, làm nên một cảnh tưng bừng, chào mừng Chúa Phục Sinh. Nay là thế. Còn xưa kia, khi Chúa Giêsu bước ra khỏi mồ, bầu khí vẫn ảm đạm. Nhưng giữa không gian lặng lẽ đó, đã có một đoá hoa sống động chờ đón Chúa. Đoá hoa ấy đơn độc, nhưng giá trị hơn cả một rừng người. Theo tôi, đoá hoa đó là thánh nữ Mađalêna. Đoá hoa đó rất đẹp. Tất nhiên đẹp nói đây phải hiểu là những giá trị cao quý thuộc lãnh vực đạo đức. Tôi xin được nói lên một số giá trị đó. 2. Trước hết, Mađalêna tôn thờ Chúa bằng những của lễ cao quý riêng tư, vượt xa khuôn khổ cộng đồng. Thờ Chúa theo khuôn khổ cộng đồng là mình đọc những kinh mà cộng đồng đọc, là mình làm những việc mà cộng đồng làm. Mọi người đều thờ phượng Chúa theo những lễ nghi như nhau, theo những công thức như nhau. Như thế được coi là đủ. Còn Mađalêna thì khác. Của lễ bà dâng lên Chúa là tất cả tình yêu riêng tư đầy cảm xúc, đầy gắn bó, đầy trung tín và hy sinh. Phúc Âm viết: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, Maria Mađalêna đi đến mộ Chúa” (Ga 20,1) Những người khác không đi. Nhưng bà cứ đi, bất chấp mọi rủi ro. Động lực khiến bà đi đến mộ Chúa Giêsu chính là tình yêu. Đối với bà, Chúa Giêsu là không gian trong lành để thở, là căn nhà bình an để ở, là cột trụ vững bền để tựa. Trong trái tim bà, Chúa Giêsu có một chân dung riêng, mà chỉ mình bà đã cảm nghiệm được. Bà tôn thờ Chúa Giêsu bằng tất cả một tâm hồn được thuyết phục bởi những chân lý cứu độ, mà Chúa đã dành riêng cho bà. Như thế, mối quan hệ giữa bà và Chúa Giêsu có những gì rất thắm thiết, rất riêng tư, rất sâu thẳm. Đó là một vẻ đẹp thiêng liêng vượt xa khuôn khổ cộng đồng. Vẻ đẹp đó càng thêm rực sáng, khi tình hình đang trở thành đen tối, vì mọi người lúc ấy xem ra đều xa tránh Chúa. Mặc cho cộng đồng có thái độ loại trừ, Mađalêna vẫn theo tiếng gọi riêng tư, quyết băng qua đêm tối, để đến mộ, với hy vọng ít ra cũng được xức thuốc thơm trên xác Chúa. Đẹp thay những giá trị của tình yêu riêng tư ấy. 3. Trong nếp sống đạo đức cộng đồng, mỗi người dễ trở thành một con số. Người nọ có thể thay thế người kia. Nhưng trong đạo đức cá thể của Mađalêna, tình yêu của bà là một giá trị độc đáo, không gì thay thế được. Phúc Âm viết: “Bà Maria Mađalêna đứng gần bên mộ mà khóc” (Ga 20,11). Giọt nước mắt của bà mang cả một đại dương tình yêu cao cả. Không gì trong cộng đoàn có thể thay thế được giọt nước mắt ấy. Nước mắt ấy quả là một của lễ riêng tư rất đẹp lòng Chúa. Riêng tư, mà vẫn trong cộng đồng. 4. Ngoài ra, Mađalêna còn dâng lên Chúa sự tự do của mình như một sự hiện diện luôn đợi chờ lắng nghe tình yêu Chúa. Phúc Âm kể: “Đức Giêsu gọi bà ‘Maria’. Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: ‘Rapboni!’. Nghĩa là ‘Lạy Thầy’”. (Ga 20,16). Cuộc đối thoại giữa Chúa Phục Sinh và Mađalêna đã bắt đầu một cách đơn giản. Chúa gọi bà bằng chính tên của bà. Bà trả lời Chúa bằng cách gọi Chúa là Thầy. Với câu trả lời rất hồn nhiên, tự phát, Mađalêna muốn xác định mình là người môn đệ hiện diện, sẵn sàng lắng nghe Thầy. “Lạy Thầy”, có nghĩa là: “Này con đây”. Lời đó, với ý nghĩa đó, diễn tả thái độ quen thuộc của những người được Chúa gọi, còn ghi trong Kinh Thánh. Kinh Thánh cũng đã chép về chính Đức Kitô: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10,5-7). Mađalêna, khi nói: Lạy Thầy, thì cũng như nói: Này con đây. Câu trả lời vắn gọn đó thiết tưởng cũng đủ nhắc lại tất cả bài học, mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Người. Người môn đệ Chúa là người luôn hiện diện trước Chúa. Nói cách khác, người môn đệ Chúa là người luôn ở trước mặt Chúa, để lắng nghe Chúa, để sẵn sàng thực thi ý Chúa. Với thái độ ấy, Mađalêna hiến dâng trọn vẹn sự tự do của mình cho Chúa. Nói cho đúng, bà có một sự tự do mới. Bà thoát ra khỏi chính mình, để được hoàn toàn tự do thuộc về Chúa. Với thái độ “Này con đây” bà nhấn mạnh ưu tiên đến là hơn làm. Bà muốn mình là người môn đệ đích thực của Chúa, luôn sống trước mặt Chúa. Thái độ “Lạy Thầy, này con đây” của Mađalêna đúng là một giá trị cao quý, làm cho Mađalêna trở thành một đoá hoa thơm đẹp, dâng kính Chúa Phục Sinh. 5. Thêm vào những vẻ đẹp trên đây, Mađalêna còn có một vẻ đẹp nữa, đó là chuyển trao ý Chúa cho các tông đồ Chúa, như một người cộng tác khiêm nhường. Phúc Âm kể lời Chúa Phục Sinh nói với Mađalêna: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em. Bà Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ: Tôi đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà” (Ga 20,17-18). Lúc đó, chắc chắn Mađalêna biết rõ tình hình đen tối đã và đang xảy ra có liên quan đến các tông đồ. Có người đã bán Chúa, có người đã chối Chúa, có người đã bỏ Chúa mà trốn. Họ đang sợ hãi. Tình hình như thế có thể ảnh hưởng tiêu cực đến Mađalêna. Cho dù có thể, nhưng khi nghe Chúa Phục Sinh gọi các tông đồ là anh em của Người với những lời rất thân thương, Mađalêna đã hiểu Chúa vẫn dành yêu thương và tin tưởng đặc biệt cho các ngài. Vì thế bà đã rất thông cảm những yếu đuối của các tông đồ. Bà tế nhị chuyển lời của Chúa cho các ngài với tư cách người cộng tác khiêm nhường. Rồi bà âm thầm rút vào bóng tối. Vẻ đẹp của đoá hoa Mađalêna thực là trọn vẹn. 6. Với những suy gẫm trên đây, tôi thấy việc cần làm để đón Chúa Phục Sinh là bản thân mỗi người chúng ta hãy là đoá hoa thiêng thiêng. Mọi thứ hoành tráng bề ngoài có thể sẽ trở thành trống rỗng, nếu bản thân con người chúng ta không là những bông hoa thơm đẹp do những giá trị Phúc Âm. Tình hình đạo đức lúc này rất cần được đổi mới một cách sâu sắc. Việc đổi mới ấy có thể thực hiện được, với sự góp phần của những đoá hoa Phục Sinh sống động.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu trao cho các tông đồ một lời sai đi. Lời sai đi đó rất vắn gọn, rất thân tình, rất dễ hiểu. Theo Phúc Âm thánh Matthêu, lời sai đi của Chúa Phục Sinh là thế này: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Phúc Âm thánh Marcô diễn tả lời sai đi của Chúa Phục Sinh như việc loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Phúc Âm thánh Luca kết lời Chúa Phục Sinh sai đi bằng việc phải làm chứng: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,48). Phúc Âm thánh Gioan khẳng định chính Gioan là chứng nhân đích thực: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (Ga 21,24). 2. Với những lời dặn dò trên đây được ghi trong Phúc Âm, Chúa Phục Sinh muốn việc rao giảng về Chúa phải đi kèm với việc làm chứng. Làm chứng, mà Chúa muốn, không phải là bằng lý thuyết, mà bằng kinh nghiệm của chính những người rao giảng. Nhận thức trên đây giúp tôi rao giảng về Chúa. Điều tôi muốn rao giảng chính là một Tin Mừng. Tin Mừng mà tôi muốn chia sẻ, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ là một biến cố trong lịch sử, nhưng chính Người đang sống động bên tôi và trong tôi. Tôi làm chứng sự thực Tin Mừng đó bằng chính kinh nghiệm của tôi. Một trong những kinh nghiệm, mà tôi cho là rõ nhất về sự Chúa Phục Sinh ở bên tôi, đó là kinh nghiệm về lời Chúa căn dặn sau đây: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 16,9). Lời căn dặn trên đây đối với tôi, vừa là một kêu gọi, vừa là một trả lời. Sống lời căn dặn đó, tôi đã đón nhận được tình thương cứu độ, để rồi cùng với Chúa, tôi góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa. 3. Tôi xin được phép đi vào vài chi tiết. “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Tôi đọc lời đó trong Phúc Âm. Nhưng hằng ngày, Chúa nhắc lại với tôi lời đó một cách thân tình: “Con hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Chúa nói nhỏ nhẹ vào trái tim tôi. Lời nói đó đến từ tận bên trong sâu thẳm của tâm hồn tôi. Lời nói đó không có chút gì áp đặt. Mà chỉ là một mời gọi tự do. Lời nói đó cũng không có chút gì là trả giá và mặc cả. Mà đó chỉ là một tình yêu nhưng không, hết sức trân trọng. Với một sự hiểu biết thô sơ như thế, tôi nói với Chúa một cách hồn nhiên thế này: “Chúa bảo con hãy ở lại trong tình thương của Chúa, nhưng đâu là tình thương của Chúa, để con biết nơi đó mà ở lại?”. Chúa trả lời tôi cũng một cách nhỏ nhẹ và từ từ. Thú thực là Chúa cắt nghĩa cho tôi không bằng những lý luận, những lý thuyết, những tư tưởng trừu tượng, nhưng bằng những gì cụ thể, dễ hiểu, thích hợp với trình độ thấp của những con người bé mọn. 4. Thực vậy, Chúa cho tôi nhận ra tình thương của Chúa là rất sống động, và tình thương ấy đã và đang cứu độ tôi bằng nhiều ngả khác nhau, với nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một vài thí dụ. Tôi nhận ra tình thương cứu độ của Chúa qua nhiều biến cố. Có nhiều biến cố xảy ra cho riêng tôi, có nhiều biến cố xảy ra cho chung Hội Thánh và dân tộc. Nhiều biến cố đó rất khắc nghiệt. Nhưng tôi đã được cứu, nhờ tình thương của Chúa. Tôi nhận ra tình thương cứu độ của Chúa qua nhiều người gần xa. Họ có thể là những người tôi quen biết. Họ cũng có thể là những người tôi không quen biết. Họ đã cứu độ tôi khỏi những hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo. Việc họ làm để cứu tôi, nhiều khi rất âm thầm, nhỏ bé. Âm thầm mà hữu hiệu. Nhỏ bé mà chứa đầy hy sinh. Qua những người ấy, tôi đã nhận ra tình thương của Chúa dành cho tôi. Tôi nhận ra tình thương của Chúa cứu độ tôi chính trong những yếu đuối của tôi. Tôi cảm thấy mình yếu đuối. Và thực sự tôi yếu đuối hơn tôi tưởng. Yếu đuối của tôi là những tội lỗi và nghèo nàn sức thiêng, thêm vào đó là những tự mãn và ảo tưởng. Nhưng Chúa đã cứu tôi. Người vẫn chọn tôi, vẫn sai tôi đi, vẫn dắt đưa tôi vào chính lộ là Đức Giêsu Kitô. Tôi nhận thấy Chúa Giêsu là con đường tôi phải đi. Con đường đó có một trái tim. Tôi nhận ra tình thương của Chúa cứu độ tôi, khi tôi cảm thương những đau khổ của người khác, và dấn thân cứu giúp họ. Tình thương tôi cho đi lúc ấy đến từ Chúa, bởi vì nó phản chiếu tình yêu hiến thân của Chúa Giêsu để cứu nhân loại. Tôi nhận ra tình thương của Chúa cứu độ tôi, nhất là khi tôi suy gẫm Lời Chúa, cầu nguyện, tham dự các bí tích, và hiệp thông với Hội Thánh. 5. Trên đây là một số những cách khác nhau và những ngả đường khác nhau Chúa đã dùng, để giúp tôi nhận ra tình thương của Chúa. Nếu phải tìm một nét chung cho những cảm nghiệm về tình thương đó, thì theo tôi, nét chung đó là sự xót thương. Sự xót thương ấy có tính cách cứu độ. Bởi vì nó mang trong mình sự khiêm hạ, sự tha thứ và từ bỏ mình, sẵn sàng hy sinh cả đến mạng sống, để cứu người khác, trong tinh thần hiệp nhất với sự hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. 6. Với sự xót thương như vậy, tình thương của Chúa, mà tôi được đón nhận có ba chiều kích. Một là chiều kích nội tâm. Nội tâm của tôi nhiều khi đầy đau khổ, nhưng chính trong tình trạng đó, khi tôi cầu nguyện, tôi đã gặp được Chúa. Chúa mà tôi gặp lúc đó không nhất định phải ở một nơi nào, một nhà thờ nào. Nhưng Người là Cha giàu tình xót thương sẵn sàng đến với những ai thiếu thốn nhất. Hai là chiều kích tha nhân. Tôi đã gặp Chúa trên mọi ngả đường của con người. Bất cứ chỗ nào con người chịu đau khổ, phải lầm than, phải nhọc nhằn vất vả, tôi đều thấy ở đó có Chúa đồng hành với họ. Chia sẻ khổ đau của họ là tôi gặp được Chúa. Tôi nghe Chúa nói “Bất cứ sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn này, là làm cho chính Thầy” (Mt 25,40). Ba là chiều kích siêu nhiên của ơn thánh. Nhờ ơn thánh, tôi biết phân định tình yêu nào thực sự có sức cứu độ mình phải gắn bó. Và để thực hiện tình yêu đó, tôi phải phân định đúng những cách được dùng theo ý Chúa. Nhất là tôi phải nhờ ơn thánh để đổi mới trái tim tôi, hầu tôi có thể yêu thương như Chúa yêu thương. 7. Với một chút kinh nghiệm trên đây về tình thương của Chúa, tôi hiểu phần nào lời Chúa căn dặn tôi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Ở lại đó là biết đón nhận sự xót thương của Chúa. Ở lại đó là biết xót thương người khác, như Chúa xót thương tôi. Tôi dâng lên Chúa sự hiểu biết sơ sài đó cùng với lời cầu nguyện: “Xin Chúa giúp con biết đón nhận. Xin Chúa giúp con biết cho đi. Con xin ở lại trong tình thương của Chúa. Nhưng xin Chúa luôn mãi ở lại với con, cho dù có lúc con dại dột như không ở lại với Chúa”. Tôi không nghe tiếng Chúa trả lời. Nhưng tôi thấy lòng tôi lắng xuống trong biển cả bình an sâu thẳm. Đột nhiên, tôi hiểu Chúa đang hiện diện trong tôi. Chúa Phục Sinh vẫn là Đấng khiêm nhường và tế nhị. Người ở lại trong tôi. Tôi ở lại trong Người. Đời tôi sẽ là một bài ca cảm tạ và phó thác đi về với Chúa. Tôi coi đó là Tin Mừng được làm chứng bằng kinh nghiệm chính bản thân tôi. Tôi gieo rắc Tin Mừng đó bằng mọi cách có thể. Cho dù chỉ có vậy, tôi vẫn hy vọng việc gieo rắc Tin Mừng như thế sẽ được Chúa thương chấp nhận như một việc thi hành lời Chúa sai đi.
Một thời gian dài sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là dịp khiến tôi suy nghĩ rất nhiều về Hội Thánh tại Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi. Kính trọng mà nói, Hội Thánh của tôi đã nhạy bén với dấu chỉ của thời đại. Nhờ ơn Chúa, Hội Thánh của tôi đã khiêm tốn để Chúa thanh luyện. Biến cố không phải là thánh. Nhưng nhờ Chúa, Hội Thánh đã rút ra được từ đó những cơ hội để chấn chỉnh chính mình theo lời mời gọi của Phúc Âm. Từ thời sự, Hội Thánh đã đi tìm về Nguồn. Nguồn là Lời Chúa. Nhờ Lời Chúa để phân biệt đúng sai. Cái sai thì bỏ, cái đúng thì giữ lại và phát triển. Ở đây, tôi xin được nói lên vắn tắt nhận xét của tôi về mấy nét đẹp đã làm sáng lên Tin Mừng trên con đường Hội Thánh trở về Nguồn. Tất nhiên không phải đều khắp, nhưng nơi nhiều nơi ít, nhất là tại địa phương tôi. 2. Nét đẹp thứ nhất là đề cao yêu thương. Tôi rất nhớ cảnh yêu thương trong Hội Thánh địa phương của tôi sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Mọi người đều gần gũi nhau. Người nọ nương tựa vào người kia để sống. Gánh nặng của người này được người kia chia sẻ. Nhìn bầu khí yêu thương đó, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô quả quyết: “Mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn lề luật” (Gl 6,2). Lúc đó, quan hệ giữa các thành phần trong Hội Thánh là quan hệ yêu thương phục vụ. Hầu như không có phân biệt trên dưới, giàu nghèo. Cảnh đó cho tôi nhận ra sức mạnh liên kết của bác ái như Lời Chúa dạy: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14). Ở một số nơi, đã có những chia sẻ cho nhau đất đai, nhà cửa, lúa gạo, tiền bạc, đồ đạc, quần áo. Chia sẻ cụ thể đó thực hành lời thánh Gioan khuyên: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,18). Tại nhiều nhà thờ và nhiều cộng đoàn, kể cả các tư gia, người ta khuyến khích nhau sống bác ái. Họ tin tưởng sống bác ái là đúng Phúc Âm nhất và cũng đáp ứng nhu cầu thời cuộc một cách thiết thực nhất. Tin tưởng đó không sai, vì thánh Phaolô quả quyết: “Hiện nay, đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 3,13). Một bổn phận của đức mến được chúng tôi đề cao là bổn phận yêu thương kẻ khác, dựa theo lời thánh Gioan: “Ai không yêu thương người anh em, mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Theo tôi, bầu khí yêu thương nhau tuy còn nhiều hạn chế, vẫn làm cho Hội Thánh tại địa phương tôi phần nào được nên giống Hội Thánh các tông đồ xưa. Bầu khí đó toả hương thơm thần thánh, ảnh hưởng nhiều đến việc giới thiệu Tin Mừng cứu độ. 3. Nét đẹp thứ hai là tập trung vào Chúa Giêsu trên thánh giá. Phải nói thật điều này: Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã là một thử thách lớn đối với đức tin nhiều người công giáo Việt Nam. Thử thách đó đã khiến chúng tôi kiểm tra lại lòng đạo của chúng tôi. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng tôi thấy một điều phải chấn chỉnh ngay, đó là phải xây dựng lòng đạo trên nền tảng đích thực. Nền tảng đó là Đức Giêsu Kitô, như thánh Phaolô quả quyết: “Ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất, vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt là Đức Giêsu Kitô” (1 Cr 3,11). Thánh Phaolô xác định thêm: Đức Giêsu Kitô mà Ngài muốn nói chính là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. “Hồi tôi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô trên thánh giá” (1 Cr 2,2). Chính trên thánh giá, Chúa đã mạc khải cách rõ ràng tình yêu thương xót của Chúa. Chính trên thánh giá, Chúa đã tẩy xoá tội lỗi. Chính trên thánh giá, Chúa đã thắng sự chết. Chính trên thánh giá, Chúa đã cứu chuộc nhân loại. Chính trên thánh giá, Chúa đã dạy một cách hùng hồn và thiết thực nhất về giá trị của tình yêu dâng hiến, chấp nhận hy sinh. Sự tập trung vào Chúa Giêsu trên thánh giá và cầu nguyện với Người đã giúp chúng tôi rất nhiều trong thời gian ngập tràn những thử thách đớn đau. Hội Thánh đi từ thử thách này đến thử thách khác một cách bình tĩnh, bởi vì Hội Thánh ý thức mình không cô đơn, nhưng chình nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô mà Hội Thánh vượt qua mọi khó khăn, để tới mọi chiến thắng thiêng liêng liên quan đến Nước Trời. 4. Nét đẹp thứ ba là tu thân, đi vào đường hẹp. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 được nhiều người của Hội Thánh chúng tôi coi là một cơ hội, để trở về con đường hẹp. Chúa phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Từ bỏ mình, vác thập giá mình là đi vào cửa hẹp, đi trên đường hẹp. Chúa Giêsu cảnh báo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào (Nước Trời) vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14). Trên lý thuyết, hầu như mọi người chúng tôi đều thuộc lòng những Lời Chúa dạy trên đây. Nhưng từ lý thuyết đến thực tế nhiều người, đã có một khoảng cách xa, nhất là khi thực tế cuộc sống là một môi trường mà Chúa nói là cửa rộng và đường thênh thang. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 thực tế cuộc sống thay đổi. Sự thay đổi của thực tế cuộc sống được chúng tôi coi là dịp, để sống Lời Chúa một cách trung thực hơn về việc từ bỏ mình, và vác thập giá mình. Có thể nói, chúng tôi sống đời tu thân một cách hữu hiệu hơn và nhạy bén hơn với thánh ý Chúa. 5. Ba nét đẹp trên đây đã hình thành ở nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam. Đó là công trình của Chúa. Với ba nét đẹp đó, Hội Thánh địa phương mang một tầm vóc khả kính khi dấn thân truyền giáo. Tuy nhiên, theo dòng thời gian với những chuyển biến của lịch sử trên lãnh vực văn hoá, kinh tế, chính trị, ba nét đẹp đó đang có vẻ biến chất ở một số nơi do ảnh hưởng của những trào lưu thế tục. Thí dụ: Hội Thánh yêu thương bác ái xem như bị đẩy xuống, nhường chỗ cho một Hội Thánh cơ chế với những luật lệ mới, những ban bệ mới, những hình thức mới nặng về phô trương và phân hoá. Hội Thánh Đức Kitô trên thánh giá xem như bị che phủ bởi một Hội Thánh tôn vinh các thành công của các phương tiện trần thế. Hội Thánh tu thân và nhạy bén xem ra đang bị lấn lướt bởi một Hội Thánh quyền lực, xơ cứng, coi nhẹ đời sống nội tâm. Cái nhìn trên đây của tôi khuyên bảo tôi không bao giờ được bằng lòng tự mãn với những gì tốt đang có, nhưng phải chịu khó đợi chờ và tìm tòi những sáng kiến mới. Nhất là tôi phải luôn cầu nguyện và tỉnh thức. Tình hình hiện nay rất phức tạp. Trước tình hình này, tôi nghe thấy tiếng Hội Thánh kêu mời: “Hãy nâng tâm hồn lên”. Và đám đông trả lời: “Chúng con đang hướng về Chúa”. Tôi nhớ lại lời thánh vương Đavít nói: “Phúc cho tất những ai tin tưởng nơi Chúa” (Tv 2,13b).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người nhiều điều quan trọng. Trong những điều quan trọng ấy có một điều được kể là quan trọng hơn hết, đó là điều răn yêu thương. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Lời Chúa trên đây là một mời gọi gởi tới mọi môn đệ Chúa ở khắp nơi, thuộc mọi thời. Chúa đợi mỗi môn đệ hãy trả lời Chúa. Với nhận thức mình được Chúa yêu thương, tôi đã trả lời: “Vâng, con xin đón nhận điều răn mới Chúa ban. Con coi đời sống yêu thương là dấu chỉ con thuộc về Chúa và là con đường cứu độ”. Trả lời của tôi là một thứ cam kết, giữa tình yêu tôi và tình yêu Chúa. Cam kết ấy ban đầu mới chỉ là một lời hứa chung chung. Nhưng, khi sống lời cam kết ấy trong dòng lịch sử, tôi dần dần nhận thấy lời cam kết ấy có một dung mạo. Ở đây, tôi xin phép mô tả vài nét của dung mạo đó nơi nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Những nét đó được thành hình nhờ ơn Chúa từ những biến cố lịch sử. Ở đây, tôi xin đề cập đến biến cố 30 tháng 4 năm 1975. 2. Nét thứ nhất là tinh thần nghèo khó. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một biến cố đã giúp rất nhiều người môn đệ Chúa trở về với tinh thần nghèo khó. Ban đầu sự nghèo khó được cảm nhận như một sự mất mát: Mất của cải, mất danh dự, mất các điểm tựa trong đời sống xã hội. Sự mất mát như thế nói lên thực trạng của những đổ vỡ. Đổ vỡ đau xót nhất là đổ vỡ những niềm tin. Khi những niềm tin bị sụp đổ, người ta dễ cảm thấy mình cô đơn, lẻ loi, bị loại trừ. Trước cảnh hoang tàn và tan nát, người môn đệ Chúa, được ơn Chúa giúp, đã biến đổi sự mất mát và bị tước đoạt, trở thành một cơ hội để cởi gỡ khỏi những áp lực không thuận lợi cho việc đi vào Nước Trời. Từ sự cởi gỡ đó, họ được Chúa đưa vào tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm (x. Mt 5,3). Tinh thần nghèo khó của Phúc Âm cho họ một sự tự do thiêng liêng, mở rộng lòng họ, hướng về một chân trời mới, để họ biết gần gũi hơn với những người nghèo khổ. 3. Nét thứ hai là tăng cường tinh thần cầu nguyện. Với nhận thức mình bần cùng rất mực thiếu thốn, người môn đệ Chúa bám vào Chúa một cách tuyệt đối và trọn vẹn. Họ cầu nguyện với Chúa một cách chân thành hết sức hồn nhiên. Họ tin Chúa là Đấng thiêng liêng sống động, giàu lòng thương xót. Họ chắc chắn Chúa thấy được tình cảnh của họ. Họ đặt tất cả hy vọng nơi Chúa. Mọi lời cầu nguyện của họ đều mang hương vị phó thác của tâm tình thánh vương Đavít xưa: “Chúa ơi, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Người” (Tv. 15). Xin bảo toàn con, là xin Chúa giúp con giữ trọn lời cam kết với Chúa: Cam kết sống yêu thương, để thuộc về Chúa và để tham gia vào chương trình cứu độ. Xin bảo toàn con, là vì con thấy sống yêu thương như Chúa yêu thương là việc không dễ chút nào. Những trở ngại là rất nhiều. Những chống đối là vô kể. Chúng đến từ mọi phía. Có thứ đến từ xã hội, có loại đến từ nội bộ Hội Thánh, cũng có lực lượng xấu xuất phát ngay từ chính bản thân con. Nghịch cảnh là thế. Mà bản thân con thì bần cùng. Con xin phó thác con cho Chúa, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Người. 4. Nét thứ ba là nương tựa vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, để biết yêu thương trong mọi nghịch cảnh. Khi người môn đệ Chúa thực tình tìm nương tựa vào Chúa để sống yêu thương, họ đã được nhận lời. Chúa nhận lời họ bằng cách đưa họ đến với Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá, và bảo họ hãy tựa vào Người. Khi vâng lời Chúa, mà tựa vào Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá, người môn đệ bần cùng nhưng phó thác nơi Chúa đã đón nhận được một dòng tình yêu mới từ Chúa chia sẻ cho. Đó là một tình yêu tự hạ, một tình yêu gần gũi và cảm thương những thân phận khổ đau. một tình yêu tha thứ, một tình yêu hiến dâng, bằng lòng chịu mọi khổ đau để làm giá cứu chuộc nhân loại. Được Chúa chia sẻ cho tình yêu Chúa trên thánh giá, người môn đệ Chúa hiểu rõ sự thực này là: Trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn tứ bề chống đối, người môn đệ Chúa vẫn phải yêu thương, và vẫn có thể yêu thương. Chúa Giêsu đã yêu thương như thế, thì người môn đệ Chúa cũng sẽ bắt chước Chúa mà yêu thương như vậy. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha đến cùng. Cho dù có lúc Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ (x. Mc 15,39), Người vẫn một mực phó thác linh hồn mình cho Chúa Cha (x. Lc 23,46). Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại đến cùng. Cho dù bị người ta loại trừ một cách nhục nhã, Chúa Giêsu vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ, và vẫn bênh họ với một tấm lòng quảng đại không thể ngờ: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Dựa vào Chúa chịu đóng đinh, người môn đệ Chúa mới thấy: Để sống yêu thương như Chúa yêu thương, họ phải gắn kết mật thiết với Chúa. Lúc đó yêu thương của họ hoà trộn vào yêu thương của Chúa. Hay có thể nói: Trái tim của họ được Chúa đổi mới, để mọi lời nói, mọi thái độ, mọi tâm tình, mọi lựa chọn của họ đều phát xuất một cách tự nhiên từ trái tim đổi mới đầy ắp tình yêu Chúa. Dựa vào Chúa chịu đóng đinh, người môn đệ Chúa còn nhận ra một điều rất mới, đó là giá trị của đau khổ chịu vì yêu thương. 5. Nét thứ bốn là nhận ra giá trị của đau khổ vui chịu vì yêu thương. Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá đã chịu rất nhiều đau khổ ghê gớm. Người biết đau khổ là điều mọi người muốn tránh. Chính Người cũng xin Chúa Cha cứu Người thoát khỏi cuộc tử nạn, nếu đẹp ý Chúa Cha. Nhưng Người đặt sự vâng phục ý Chúa Cha lên hàng ưu tiên (x. Lc 22,42). Mà ý Chúa Cha là muốn Con mình hy sinh trở thành của lễ cứu chuộc nhân loại. Nên Người đã tự nguyện bước vào cuộc tử nạn đầy đau khổ, với nhận thức chịu đau khổ vì yêu thương có giá trị đền tội thay cho muôn người và có giá trị cứu độ muôn người. Nhận thức trên đây được người môn đệ Chúa cảm nghiệm một cách thấm thía. Nhờ đó, họ coi đau khổ vui chịu vì yêu thương, dù trong một việc rất nhỏ, đều có giá trị thiêng liêng cao quý, để rồi, họ có thể quả quyết: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”. Hơn nữa, họ cũng có thể nói như thánh Phaolô: “Hiện nay, tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu trong cuộc thương khó của Đức Kitô, để Hội Thánh là thân xác của Người được nhờ” (Cl 1,24). 6. Chia sẻ trên đây phác hoạ dung mạo của một số cuộc đời sống ơn gọi yêu thương trong lịch sử Việt Nam hiện nay. Có thể có những dung mạo khác. Nhưng chỉ với dung mạo được phác hoạ trên đây, tôi cũng nhận thấy rõ ràng và chắc chắn Chúa đã và đang gởi vào Hội Thánh Việt Nam nhiều nhân chứng sống động. Họ thuộc đủ mọi hạng người. Với đời sống yêu thương theo gương Chúa, họ đang gieo rắc Tin Mừng cứu độ trong môi trường họ sống. Không phải là không có khó khăn. Nhưng dù hoàn cảnh rất phức tạp, và cho dù chính Chúa xem ra cũng vắng mặt, họ vẫn âm thầm sống yêu thương, ít là như một của lễ như Chúa Giêsu trên thánh giá. Kết quả cứu độ chắc chắn sẽ không phải là nhỏ cho Hội Thánh và cho Quê Hương Việt Nam yêu dấu. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.
Lịch sử có thể thay đổi. Tại Việt Nam, quá khứ và hiện tại minh chứng điều đó. Lịch sử Đất Nước thay đổi. Lịch sử Hội Thánh chuyển biến. Lịch sử từng người đổi thay. Nhưng, khi lịch sử đã thay đổi rồi, hậu quả của lịch sử thường vẫn còn. Cái “vẫn còn” khó xử lý nhất là những vết thương trong lòng. Có những vết thương được lành với thời gian và nhờ hoàn cảnh thuận lợi. Có những vết thương tưởng đã lành, nhưng khi đụng tới, vẫn cảm thấy đau. Có những vết thương tạm gọi là bị nhiễm độc, gây nên đau đớn âm ỉ, đưa người ta tới những lựa chọn nguy hại, đôi khi tới chỗ bùng nổ dưới nhiều hình thức. Ở đây, tôi muốn đề cập tới loại vết thương nhiễm độc. Loại này đang xảy ra như một sự kiện tâm lý khá phổ biến tại Việt Nam ta. 2. Thực vậy, trong các cuộc tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp dưới hình thức chiến tranh nội bộ, bên thua dễ mang những vết thương trong lòng. Khi vết thương đó trở thành nguồn gốc gây nên cay đắng triền miên, thì cay đắng ấy là dấu chỉ vết thương lòng đã bị nhiễm độc. Trong cuộc sống cạnh tranh, kẻ tưởng mình phải hơn người, nếu chẳng may lại bị thất bại, thì thất bại đó dễ gây nên vết thương. Nếu vết thương đó được cảm nghiệm như một nguồn bất mãn triền miên, thì bất mãn ấy là dấu chỉ vết thương trong lòng đã bị nhiễm độc. Trong cuộc sống chung, sự thiếu tế nhị và những thành kiến thường dễ làm tổn thương nhiều người. Sự tổn thương này, nếu tạo ra nơi họ thái độ xa tránh, phân hoá và xơ cứng, không thể hoà giải, thì đúng là vết thương ban đầu đã bị nhiễm độc thê thảm. Trong một nền văn hoá đặt nặng lý thuyết và vẻ bề ngoài hào nhoáng, những người chờ đợi các giá trị đạo đức nhiều khi cảm thấy thất vọng. Thất vọng của họ dễ trở thành vết thương. Nếu vết thương ấy biến thành phẫn nộ, ác cảm, khinh khi, thì đúng là vết thương đã bị nhiễm độc. Trong Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy: Sự thành công của Đavít đã gây nên cho vua Saolê một vết thương lòng rất sâu, rất nặng. Thành công của Đavít là một xúc phạm. Vua cảm thấy mình phải loại trừ Đavít. Chứng tỏ vết thương của vua Saolê đã bị nhiễm trùng trầm trọng. Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người như mang những vết thương thầm kín nào đó, khiến họ giảm niềm tin vào các cơ chế đạo đời, thậm chí cũng chẳng còn dám tin vào những người xung quanh. Họ khép kín, dựng nên những bức tường vô hình để ẩn mình trong đó với nhiều thất vọng dồn nén. Đúng là có những vết thương nhiễm độc trầm trọng. 3. Như vậy, nguyên do gây nên những vết thương lòng có thể là khách quan, và cũng có thể là chủ quan. Dù do nguyên nhân nào, những vết thương lòng bị nhiễm độc bao giờ cũng dễ gây nên những hậu quả tai hại. Hậu quả tai hại nhất là người ta bị thúc đẩy đi vào những hướng xa rời đạo đức. Những hướng xa rời đạo đức thường dễ nhận ra là: - Hướng hận thù, tìm hạ người khác xuống. - Hướng tìm tạo cho mình những hào quang giả. - Hướng tìm cách khẳng định mình bằng thói quen thích tố cáo, kết án người khác. Khi những vết thương nhiễm độc lại thuộc về cả một tập thể, thì người ta không loại trừ bùng nổ những cuộc nổi loạn. Hiện nay, có vài sự kiện đang xảy ra đó đây trong Hội Thánh, mà tôi gọi là một thứ nổi loạn. Thí dụ: sự kiện công khai chống đối các giáo lý trong đạo, sự kiện công khai phỉ báng các bề trên trong đạo, sự kiện công khai lìa bỏ các bí tích trong đạo, sự kiện công khai bỏ công giáo để gia nhập các giáo phái. Nguyên do đưa tới những thứ nổi loạn trên đây một phần là những vết thương trong lòng những con người và những tập thể thuộc về Hội Thánh. Những vết thương đó không luôn là do lỗi Hội Thánh. Nhưng Hội Thánh ghi nhận mình cũng phải liên đới với chuyện đau lòng xảy ra cho con cái của mình. 4. Riêng đối với tôi, những thứ nổi loạn trên đây đã và đang gây ra trong lòng tôi những vết thương phải nói là rất đau. Tôi cố gắng, không để cho những vết thương đó bị nhiễm độc. Đồng thời phải tìm cách lợi dụng chúng để đi vào hướng tốt. Làm thế nào đây? Thưa cách chữa lành tốt nhất, đối với tôi, là cậy nhờ ở Chúa. Con đường cậy nhờ Chúa được tôi thực hiện và cảm nhận cụ thể như sau: Tôi để lòng mình tĩnh lặng. Đi vào nơi tĩnh lặng, để hồi tâm. Tôi cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Trong suy gẫm Lời Chúa, tôi để ý nhiều đến khát khao được nghe ý Chúa. Khi sự khao khát ấy được hình thành trên sự khiêm tốn, khó nghèo nội tâm và tin tưởng ở Chúa, tôi cảm được sự Chúa đến với tôi. Người đến trong thẳm sâu linh hồn tôi. Tôi có cảm tưởng là Người đã ở sẵn đó. Người luôn gõ nhẹ lòng tôi. Người chỉ đợi tôi mở cửa lòng mình bằng sự khiêm nhường cầu khẩn. 5. Khi được gặp Chúa, tôi nhìn nhận rõ hơn những vết thương lòng tôi. Tôi nhận ra những vết thương mà có thể tôi đã vô tình gây nên cho kẻ khác. Tôi nhận ra sự thực ghê gớm này là: những vết thương, nếu bị nhiễm độc, sẽ đưa người ta vào những hướng gây nên đủ loại sự chết. Chết sự tự do, chết căn tính người môn đệ Chúa, chết phần rỗi linh hồn. Chúng sẽ gây tai hại chồng chất, khi người ta đi tìm lối thoát khỏi vết thương bằng những cách nhằm thoả mãn ý riêng. Trong bầu khí tình thương, Chúa cho tôi nhìn ra Chúa là Đấng cứu độ. Người rửa các vết thương lòng tôi bằng máu châu báu của Người. Người lấy tình yêu của Người mà băng bó những vết thương ấy. Người chia sẻ cho tôi chính sự sống của Người. Những gì tốt trong tôi đã chết đều được Người cho sống lại. Tôi cảm nhận một cách thắm thiết Chúa là tình yêu cứu độ. Tình yêu ấy được tỏ hiện khi Người yêu tôi là kẻ tội lỗi. Tôi thấy ứng nghiệm nơi tôi lời thánh Phaolô xưa: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8). 6. Từ cảm nghiệm được Chúa yêu thương và chết cho mình là kẻ tội lỗi, tôi được Chúa căn dặn là hãy biết yêu thương những người khác, cho dù họ tội lỗi. Tình yêu cứu độ không bao giờ áp đặt. Vì thế, tôi nên tránh những cách áp đặt đạo đức bằng quyền lực. Áp đặt đạo đức bằng quyền lực thường sinh ra trong lòng kẻ bị áp bức những vết thương tai hại, nhất là thời nay. Được tình yêu cứu độ của Chúa dạy dỗ, tôi cảm thấy bình an và vui mừng. Tôi muốn được đau khổ thay cho người khác hơn là bắt người khác đau khổ thay cho tôi. Hạnh phúc sau cùng của tôi là chính Đức Kitô và thánh giá của Người. Hạnh phúc đó làm cho những vết thương lòng tôi trở thành niềm hy vọng và là mối hiệp thông với các môn đệ Chúa. Những môn đệ ấy đang mang những vết thương trên thân xác và trong tâm hồn của họ. Nhưng họ hân hoan vì có Chúa trong lòng họ. Tôi cảm tạ Chúa vì những vết thương của chúng tôi được thánh hoá do tình yêu thương xót Chúa. Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2012
Theo Phúc Âm, thánh Gioan Baotixita được gọi là “Tiên tri của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76). Vị tiên tri này được Chúa chọn một cách đặc biệt và được Chúa đào tào một cách khác thường. Nhờ đó, khi bước vào thời gian thi hành sứ vụ tiên tri, Gioan đã có sẵn trong mình một chiều kích thiêng liêng trổi vượt. Chiều kích thiêng liêng này được nhận ra bởi ba dấu ấn sâu đậm: Một là nếp sống chiêm niệm của sa mạc. Hai là cách ăn ở khó nghèo tránh xa hưởng thụ. Ba là khả năng bén nhạy lắng nghe ý Chúa. Với nguồn sức thiêng đó, thánh Gioan thi hành sứ vụ tiên tri một cách đơn sơ, đầy xác tín. 2. Sứ vụ đó tóm gọn thế này: Khuyên mọi người hãy bỏ đàng tội, và hãy đón nhận Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại khỏi hình phạt đời đời do tội gây nên. 3. Khi khuyên người ta bỏ đàng tội, Gioan đã rất dứt khoát và thẳng thắn. Ngài nói: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và bị quăng vào lửa” (Lc 3,9). Nghĩa là kẻ có tội mà không hối cải sẽ bị án phạt rất khủng khiếp. 4. Khi khuyên người ta đón nhận Chúa Giêsu, Gioan đã rất nhẹ nhàng với một hình ảnh dễ hiểu. Ngài hướng về Chúa Giêsu mà nói: “Đây là Con Chiên của Thiên Chúa, đây là Đấng xoá tội cho trần gian” (Ga 1,29). Nghĩa là Chúa Giêsu hiền lành như con chiên. Hãy tin vào Người, để được Người xoá tội. 5. Một thoáng nhìn trên đây về thánh Gioan Baotixita cho phép tôi nghĩ rằng: Sứ vụ của người dọn đường cho Chúa Cứu Thế phải rất rõ ràng và mạnh mẽ trong việc khẳng định: Nguy cơ tệ hại nhất chính là tội lỗi. Bất cứ ai có tội đều như cây xấu, sẽ bị Chúa chặt đi và bị ném vào lửa. Vì thế, phải mau sám hối, bỏ đàng tội và tin cậy vào Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Nếu không, hình phạt nặng nề sẽ phải tới. 6. Chắc chắn sứ vụ người tiên tri là phải như thế, nên tôi không thể không nhận ra rằng: Thi hành sứ vụ đó là chuyện không dễ. Vì khó tránh được đụng chạm, nhất là đụng tới lớp người hưởng thụ. Để có sức dấn thân vào sứ vụ khó khăn đó, người tiên tri rất cần ơn Chúa dồi dài phong phú, nhờ chiêm niệm, nhờ sống thanh thoát tách lìa hưởng thụ, nhất là khiêm nhường bén nhạy lắng nghe ý Chúa. 7. Khi đưa nhận thức trên đây soi vào mình, tôi thấy tôi mắc rất nhiều thiếu sót. Thiếu sót thứ nhất là tôi không nhấn mạnh đủ đến tội là nguy cơ lớn nhất đang đưa người ta tới vực thẳm hoả ngục. Thiếu sót thứ hai la tôi không tập trung đủ vào Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc duy nhất có thể cứu nhân loại khỏi nguy cơ đang lao mình xuống vực thẳm diệt vong. Thiếu sót thứ ba là tôi không có đủ chiều kích thiêng liêng để đương đầu với Satan và mặt trận tội lỗi đang tràn lan rất mạnh và rất rộng. Ba thiếu sót này là một suy thoái đạo đức trầm trọng, có thể dẫn tới thảm hoạ. 8. Vì thế, trong lễ kính thánh Gioan Baotixita, tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi và Hội Thánh được thánh Gioan Baotixita, đồng thời, tôi không được quên khiêm nhường tạ tội với Chúa, vì bao nhiêu lỗi lầm thiếu sót trong nhiệm vụ dọn đường cho Chúa. Việc tạ tội này, tôi cũng thực hiện đối với Hội Thánh của tôi. 9. Khi tạ ơn và tạ tội, tôi luôn đặt mình dưới bóng Đức Mẹ Maria. Mẹ cho tôi biết ý của Mẹ như sau: Xưa, nhờ Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, Gioan đã được thánh hoá ngay khi còn trong lòng mẹ. Sự thánh hoá đó đã giúp cho Gioan biết thi hành sứ vụ tiên tri dọn đường cho Chúa Cứu Thế một cách khiêm nhường như Mẹ. Mẹ thi hành sứ vụ của Mẹ như một người nữ tì của Chúa. Gioan cũng thi hành sứ vụ của mình như một người đầy tớ của Chúa. Người nữ tì cũng như người đầy tớ, trên đường theo Chúa Giêsu, “chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5,9). Sự đẹp lòng Chúa nhất là được cùng với Chúa Giêsu đưa nhân loại về hoà giải với Thiên Chúa. 10. Hoà giải bằng sự sám hối, bỏ đàng tội và đón nhận ơn tha tội và đền tội của Chúa Giêsu trên thánh giá (x. 2 Cr 5,18-21). Sứ vụ hoà giải như thế của Mẹ cũng như của Gioan đã không tránh được khổ đau. Khổ đau có lúc rất là ghê gớm, nhất là khi lời kêu gọi bỏ đàng tội lại hướng về những người hưởng thụ có chức có quyền trong đạo cũng như ngoài đời. Hãy nhìn cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá. Hãy nhìn nỗi đau của Mẹ dưới chân thánh giá. Hãy nhìn cái đầu của Gioan bị chặt đặt trên cái mâm. Thời thế hôm nay là thời phong trào hưởng thụ đang dâng cao. Những ai chống đối con đường hưởng thụ thường sẽ bị chỉ trích, sẽ bị khai trừ, và có thể sẽ bị xử tử bằng cách này hay cách khác. 11. Nhưng Mẹ khuyên các con Mẹ hãy tin tưởng. Phần thưởng của các con Mẹ là chính Chúa, chứ không phải những thành công ở đời này. Điều mà các con của Mẹ cần tạ ơn Chúa cách riêng, trong dịp kính thánh Gioan Baotixita, đó là các con Mẹ biết nhận ra những thiếu sót, những yếu đuối, những lỗi lầm của chính bản thân mình, để thực tâm sám hối, trở về với Chúa. Đây chính là của lễ rất đẹp lòng Chúa. 12. Lạy Mẹ Maria nhân lành, xin Mẹ giúp chúng con biết bỏ đàng tội, để bước theo Mẹ trên đường thánh giá, hầu được cùng Chúa Giêsu đền tội thay cho những người thân, thay cho đồng bào, thay cho nhân loại yêu quý của chúng con. Xin hết lòng cảm tạ Mẹ đã cho chúng con được niềm vui và hy vọng trong sự hiện diện của Mẹ ở giữa chúng con, dịp chúng con mừng kính thánh Gioan Baotixita, người con thiêng liêng của Mẹ.
Hôm nay, tôi xin nói về Lời Chúa đang giúp tôi sống ơn gọi trong tình hình hiện nay. Hiện tình Đất Nước và Hội Thánh lúc này là một giai đoạn mới, rất phức tạp, với nhiều vấn đề nghiêm trọng, với nhiều nguy hiểm trầm trọng, như suy thoái đạo đức, suy giảm niềm tin. Trong tình hình phức tạp hiện nay, tôi tin Chúa vẫn thương muốn cứu chúng ta, Hội Thánh chúng ta, Đất Nước chúng ta. Nhưng tình yêu cứu độ Chúa đòi chúng ta một điều, đó là chúng ta phải biết đón nhận tình yêu cứu độ ấy. Để dễ hiểu, tôi xin dựa vào tình yêu của Chúa Giêsu đối với người bại liệt nằm trên bờ hồ Bet-da-tha (x. Ga 5,1-16). Chúa thương anh, nhưng Chúa không cứu chữa anh ngay, trái lại Chúa nói với anh vắn tắt vài lời, xem anh có sẵn sàng đón nhận tình thương của Chúa không? 2. Trước hết, Chúa hỏi người bại liệt: “Con có muốn khỏi bệnh không” (Ga 5,6). Chúa cũng hỏi câu đó với mỗi người chúng ta. Xưa người bại liệt đã đón nhận câu hỏi đó một cách khiêm nhường và biết ơn. Anh ta thưa có. Còn chúng ta thì sao? Xem ra có dư luận cho rằng: Tình hình hiện nay đang xấu đi là do tội lỗi những người khác. Còn chính chúng ta thì cho mình là vô tội. Thực sự, trong bất cứ tình hình nào, nếu dám nói với Chúa là mình không có tội gì cần được Chúa cứu, thì quá sái. Thái độ như thế là không đón nhận tình thương cứu độ của Chúa. Tiếp theo, Chúa bảo người bất toại rằng: “Con hãy đứng dậy” (Ga 5,8). Chúa cũng bảo như thế với mỗi người chúng ta. Xưa người bất toại đã đón nhận lời bảo của Chúa mà đứng dậy một cách tin tưởng. Còn chúng ta thì sao? Xem ra có trào lưu xúi chúng ta dửng dưng, bất cần, tự mãn, không muốn khiêm tốn tin vào Chúa mà đứng dậy. Thái độ như thế là không đón nhận tình thương cứu độ của Chúa. Sau cùng, Chúa bảo người bại liệt là: Hãy vác chõng mà bước đi” (Ga 5,8). Chúa cũng bảo như thế với mỗi người chúng ta. Vác chõng mà bước đi là vác trên mình dấu vết của một quá khứ nặng nề mà bước đi, để biết khiêm nhường tạ ơn Chúa. Người bại liệt đã khiêm nhường vâng lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Xem ra có xu hướng thúc đẩy chúng ta chỉ muốn mang trên mình những hào quang tự tạo, chứ không chịu mang một thứ dấu vết nào coi không đẹp, dễ bị người đời thắc mắc khinh khi. Thái độ như thế là không đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa. 3. Với những suy nghĩ trên đây, tôi hiểu là: Chúa đang yêu thương chúng ta, như Chúa đã yêu thương người bại liệt đó. Tình yêu Chúa là nhưng không. Nhưng chúng ta phải biết cộng tác vào tình yêu đó. Sự cộng tác quan trọng nhất là biết khiêm nhường đón nhận tình yêu của Chúa. Đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa là khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi, xin được Chúa cứu. Đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa là khiêm nhường tin tưởng ở Chúa, mà bỏ đàng tội, đứng lên đón nhận ơn Chúa thứ tha. Đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa là khiêm nhường mang trên mình những dấu vết của quá khứ tội lỗi, mà bước đi trong tâm tình biết ơn Chúa. Vắn một lời: Để đón nhận tình yêu Chúa, thì phải khiêm nhường, rất khiêm nhường, thực sự khiêm nhường. Khôngkhiêm nhường, thì không những không đón nhận được tình yêu Chúa, mà còn bị Chúa chống lại như lời thánh Phêrô dạy: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). 4. Tôi xin nói thêm một lần nữa là: Tình hình hiện nay rất phức tạp, và đang diễn biến rất nguy hiểm, theo hướng khủng hoảng lương tâm lan rộng. Chúa giàu lòng thương xót sẽ cứu chúng ta. Nhưng chúng ta phải biết đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa, và biết giúp nhau đón nhận tình yêu ấy. Kinh nghiệm cho thấy: Khiêm nhường đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa là chuyện không dễ chút nào. Vì thế, xin anh chị em thương cầu nguyện nhiều cho tôi. Chúng ta cũng luôn cầu nguyện cho nhau: “Lạy Chúa, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa ở Ngài” (Tv 15).
Thời nay, người ta viết rất nhiều. Tuy có bị lợi dụng, văn hoá viết vẫn là một phương tiện hữu ích để bảo tồn và truyền bá những giá trị xây dựng con người. Đức Thánh Cha Beneđictô XVI là một người nổi tiếng viết khoẻ. Nhiều thánh tông đồ cũng đã viết. Các thánh giáo phụ đã để lại nhiều tác phẩm như những kho tàng quý báu cho Hội Thánh mọi thời mọi nơi. Còn Chúa Giêsu thì sao? Chúa có viết không? Thưa có. Phúc Âm thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu viết trong hoàn cảnh sau đây. 2. “Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại Đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa rồi nói với Người: ‘Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Moisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?’. Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: ‘Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’. Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn một mình Đức Giêsu và người phụ nữ đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: ‘Này chị, họ đâu cả rồi. Không ai lên án chị sao?’. Người đàn bà đáp: ‘Thưa ông, không có ai cả’. Đức Giêsu nói: ‘Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi, chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa’” (Ga 8,2-11). 3. Đoạn Phúc Âm trên đây cho thấy Chúa Giêsu có viết. Nhưng, “Người lấy ngón tay mà viết trên đất”. Tôi tự hỏi: Chúa viết như thế có ý nghĩa gì? Suy đi nghĩ lại trong cầu nguyện, tôi thấy đại khái thế này: Chúa lấy chính ngón tay của Chúa mà viết trên trái tim người phụ nữ tội lỗi đang sám hối coi mình xấu xa như mảnh đất hèn bị người ta giày đạp, khinh khi. Thực vậy, lúc đó, người phụ nữ bị lôi vào đền thờ như một phạm nhân bị bắt. Chị thấy mình hèn hạ, bần cùng, khổ sở, mất hết danh dự, mất hết hy vọng. Hơn nữa, chị thấy: Chỉ còn ít phút nữa, chị sẽ bị trói vào cột, sẽ bị trăm ngàn hòn đá thi nhau ném vào chị. Chị sẽ chết trong đau đớn nhục nhã. Có thể, lúc đó chị đã được ơn Chúa ban, để sám hối và cầu nguyện. Chúa Giêsu thấy tâm hồn chị bắt đầu chuyển biến, nên Người cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Thời gian viết khá dài, đủ để cho người phụ nữ cảm thấy trong trái tim mình một hy vọng của tình thương cứu độ đến từ Chúa. Khi mọi chuẩn bị đã được sắp xếp xong, Chúa Giêsu mới nói với chị: “Tôi cũng không kết án chị. Chị hãy về bình an, và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Nghe những lời đó, người phụ nữ như đọc được cũng những lời đó đã được Chúa Giêsu viết trên trái tim mình vài phút trước. 4. Những suy nghĩ trên đây của tôi không phải chỉ là những tư tưởng rút ra từ tu đức nội tâm, nhưng cũng còn là những sự thực tôi đã gặp được trên con đường mục vụ. Thực vậy, tôi đã gặp nhiều người như chị phụ nữ tội lỗi vừa kể trong Phúc Âm. Họ đã lỡ lầm. Họ bị luật đời luật đạo kết án. Họ bị dư luận loại trừ. Chính họ cũng ghê tởm họ. Họ như mảnh đất bị chúc dữ. Đời họ tan nát. Lòng họ cô đơn thất vọng. Trong tình trạng thê thảm đó, họ được gặp Chúa Giêsu. Họ đã cầu xin Chúa với lòng khiêm nhường sám hối. Và Chúa Giêsu đã lấy ngón tay viết trên trái tim họ những lời an ủi. Họ được cứu. Họ gửi cho tôi sứ điệp của tình yêu thương xót Chúa. Chính tôi cũng vậy. Chúa đã viết trên trái tim tôi những lời ủi an có sức cứu độ tôi trong những hoàn cảnh bi đát nhất. 5. Từ những kinh nghiệm như trên, tôi nhận ra rằng: Những người tội lỗi, mà khiêm nhường, đã gặp được Chúa cứu độ. Xem ra Chúa cứu độ ưa thích đi vào lịch sử nhân loại qua ngả khiêm nhường, cho dù khiêm nhường đó lại ở nơi những người tội lỗi. Cảm nghiệm của tôi trên đây được rõ nét hơn, khi tôi đọc Phúc Âm thánh Luca, đoạn Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người cầu nguyện. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Phariêsu. Còn người kia làm nghề thu thuế. Người Phariêsu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác. Họ tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con’. Còn người thu thuế, thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực, vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, là kẻ tội lỗi’. Tôi nói cho biết: Người thu thuế này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người Pharisêu kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14). 6. Như thế đã rõ rồi. Người tội lỗi mà khiêm nhường sẽ được Chúa cứu. Người đạo đức mà kiêu căng sẽ bị Chúa loại bỏ. Lời Chúa và kinh nghiệm dạy tôi là phải rất tỉnh thức trong việc đón nhận Chúa cứu độ. Nếu Chúa chỉ đến với những người khiêm tốn, thì tôi phải hết sức cảnh giác trước những việc dễ làm cho tôi trở nên tự đắc. Có nhiều thứ tự đắc và do nhiều lý do khác nhau. Thậm chí có những tự đắc vì thực hiện được tội ác ghê tởm. Thực là khủng khiếp, khi các thượng tế, kinh sư, luật sĩ trong đạo xưa đã tự đắc vì giết được Chúa Giêsu. Nói chung, tự đắc nào cũng có thể là cơ hội thuận lợi để thần dữ Luciphe lôi người ta vào bẫy. Bẫy của nó là nọc độc kiêu ngạo. Nó hay gieo rắc nọc độc đó vào các thái độ sống và các việc đạo đức ẩn tàng khuynh hướng phô trương, thích tìm cho mình cái danh cái lợi. Với tâm tình trên đây tôi đến với Đức Mẹ Maria. Tôi cầu nguyện với Mẹ bằng lời kinh đơn sơ, mà cha mẹ tôi đã viết trên trái tim tôi, hồi tôi còn thơ ấu: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Khi tôi thành thực nhìn nhận tôi là kẻ có tội, tôi cảm thấy tràn vào trong tâm hồn tôi một làn gió thiêng đầy bình an, sự sống và hy vọng. Xin cảm tạ Mẹ nhân lành.
Cậy trông phó thác vào lòng thương xót Chúa là điều rất tốt. Nhưng để sự cậy trông phó thác ấy được Chúa chấp nhận, tôi phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường nhất là ở sự nhận biết mình đứng trước những vực thẳm hết sức nguy hiểm. Với sức riêng mình, tôi không vượt qua được. Chỉ Chúa xót thương mới cứu được tôi. Ở đây, tôi xin nêu lên một số khoảng cách đầy khó khăn, ví như những vực thẳm tôi gặp trong đời sống đạo. 2. Khoảng cách giữa lý thuyết về bác ái và thực tế về bác ái. Phúc Âm thánh Luca đề cập đến khoảng cách này, khi ghi lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về người Samaria tốt lành (x. Lc 20,29-37). Một người bị kẻ cướp trấn lột và bị đánh trọng thương, nằm bên vệ đường. Một thầy tư tế và một thầy Lêvi trong đạo đi qua. Cả hai đều nhìn thấy người bị thương khốn khổ, nhưng cả hai đều bỏ đi. Chỉ có một người Samaria vô đạo đã dừng lại, chăm sóc người bị thương đến nơi đến chốn. Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người có địa vị trong đạo, biết nhiều về đạo, chuyên giảng dạy về từ bi bác ái. Thế nhưng, họ không giữ điều họ nói. Từ lý thuyết đến thực tế nơi họ là cả một khoảng cách rất đáng sợ. Nếu không được Chúa giúp, tôi cũng thế thôi. 3. Khoảng cách chủ quan giữa mình và người khác. Khoảng cách này được Phúc Âm thánh Luca nhắc tới, trong dụ ngôn Chúa nói về hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14). Người Pharisêu là người đạo đức tự hào nói: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Còn người thu thuế là người tội lỗi thì khiêm nhường van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Kết quả là người thu thế thì được Chúa thương, còn người Pharisêu thì bị Chúa ruồng bỏ. Rõ ràng là khoảng cách, mà người Pharisêu tự tạo ra giữa mình với người thu thuế, tưởng là một tự hào mạnh, nhưng thực sự lại quá yếu. Cái yếu nguy hiểm nhất là sự tự hào đó đã đưa họ đi xa Chúa, đến chỗ bị Chúa ruồng bỏ. Nếu không tỉnh thức, tôi cũng sẽ như người Pharisêu đó. 4. Khoảng cách giữa các việc đạo đức bề ngoài với việc thi hành thánh ý Chúa. Tưởng cứ làm các việc đạo đức bề ngoài là đủ, đang khi Chúa lại đánh giá mỗi người theo sự thi hành thánh ý Chúa. Điểm nguy hiểm này được thánh sử Matthêu nhắc tới, khi ghi lại những lời rất quyết liệt của Chúa Giêsu. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). Rõ ràng là giữa những việc đạo đức bề ngoài và việc thi hành thánh ý Chúa nhiều khi có một khoảng cách rất xa. Nếu thánh ý Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa trong thời điểm này bằng sự thực hành Lời Chúa: “Hãy đi qua cửa hẹp và đi vào đường hẹp” (Mt 7,13-14), tức là đề cao việc tu thân, nhưng chúng ta lại chỉ thích phát triển cuộc sống tự do theo ý riêng mình, thì đó là một sai lầm nguy hiểm. Sai lầm đó rất có thể đang phát triển nơi tôi, nếu tôi không được Chúa cứu. 5. Khoảng cách giữa phần thưởng trước mắt do thế gian cho và phần thưởng sau này do chính Chúa ban. Khoảng cách này được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Với kẻ làm việc từ thiện, mà phô trương, Chúa nói: “Chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,2). Với kẻ cầu nguyện với hình thức khoe khoang, Chúa cũng nói: “Chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,5). Với kẻ ăn chay, mà kể công để kéo chú ý, Chúa cũng nói: “Chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,16). Chúa nhấn mạnh đến phần thưởng mà, “Cha Ta trên trời, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho” (Mt 6,4.6.18). Phần thưởng đó sẽ cao quý vô cùng và bền vững đời đời. Tìm phần thưởng trước mắt là những tiếng khen và những bổng lộc, đó là một nguy hiểm rất dễ xảy ra. Nguy hiểm đó không xa lạ đối với tôi, nếu tôi không tỉnh thức nhờ ơn Chúa. 6. Khoảng cách giữa chức danh đạo đức và thực chất đạo đức. Khoảng cách này được Chúa Giêsu cảnh báo nghiêm khắc trong một loại “Khốn cho các ngươi” (Mt 23,13-29). Chúa nhắm vào những người mang chức danh đạo đức, nhưng thực chất đạo đức thì lại không có. Họ chỉ lo tìm danh lợi. Nguy hiểm đó là trầm trọng. Thế mà lại được coi là bình thường trong đạo. Hiện tượng đó như một vực thẳm, tôi chỉ tránh được nhờ ơn Chúa. 7. Những nguy hiểm trên đây là có thực trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Chúng đang xuất hiện rải rác, với những mức độ khác nhau. Thế nhưng, bao người đang ở trong các nguy hiểm, mà vẫn ung dung. Nếu là cố tình, thì đó là một sự vô cảm đáng gọi là một sự cứng lòng cực kỳ nguy hiểm. Biết đâu tôi cũng trong số những người vô cảm đó. Vì thế, sự cảm thấy lo âu trước những nguy hiểm, và sự cảm thấy đau đớn trước những hậu quả của chúng đang xảy ra trong Hội Thánh, nên được coi là một ân huệ Chúa ban. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán: “Anh em hãy sợ Đấng có thể ném cả xác cả hồn vào trong hoả ngục” (Mt 10,38). Từ hình phạt hoả ngục đến hạnh phúc thiên đàng là cả một khoảng cách vô tận rất đáng sợ. Như lời Chúa phán: “Được mọi sự thế gian, mà mất linh hồn, nào được ích gì” (Mt 16,26). Những lo âu đó, và những nỗi đau đó, khi kết hợp với trái tim Mẹ Maria, sẽ trở thành của lễ đền tạ. Của lễ đền tạ không những không làm cho chúng ta khinh khi và kết án ai, trái lại sẽ làm cho chúng ta biết nhạy bén hơn với những mất mát ghê sợ đang xảy ra cho bao người anh em chúng ta, do sự họ xa lìa Lời Chúa. Những lo âu và những nỗi đau ấy cũng làm cho chúng ta thêm khiêm nhường cầu xin ơn trở về cho chính mình và cho người khác. Nơi chúng ta được mời gọi trở về chính là Chúa Giêsu trên thánh giá. Sự trở về này là rất khó. Trong nhiều trường hợp, phải có một biến cố đau đớn xảy ra mới làm cho người ta tỉnh giấc. Lúc đó với ơn Chúa, người ta mới chịu trở về. Lạy Mẹ nhân lành, có thể con biết nhiều, nhưng thực hành lại ít. Bởi vì con rất yếu đuối. Rất nhiều khi, sự hiểu biết của con lại sai lầm, rồi thực hành lại sai lầm thêm. Bởi vì con ngu dại. Bao nhiêu khoảng cách hiểm nguy, bấy nhiêu vực thẳm. Xin Mẹ thương ra tay cứu giúp con. Con hết lòng cậy trông ở tình xót thương của Mẹ.
Những ngày tháng hiện nay, tại Hội Thánh Việt Nam, một sự kiện đang được đề cao và đang được phổ biến. Đó là số linh mục tăng thêm khá nhiều. Trước sự kiện này, tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Xưa chính Chúa Giêsu nói lời sai đi. Còn nay, lời sai đi của Chúa Giêsu được gởi tới các tân linh mục qua các vị đại diện của Hội Thánh tại mỗi địa phương. Tin vào lời sai đi đó là việc của mỗi người. Nhiều người không tin. Nhiều người hoài nghi. Nhiều người dửng dưng. Nhiều người tin, nhưng với mức độ khác nhau. Tiếng nói của Bề trên trong đạo trong việc sai đi không áp đặt được niềm tin. Những thái độ khác nhau của quần chúng trong xã hội trước lời sai đi đó càng ngày càng phức tạp. Nhiều phức tạp cũng do chính nội bộ chúng ta. Ở đây, tôi xin nêu lên một số phức tạp. 2. Hiện nay lời sai đi thường được đề cao bằng một thánh lễ phong chức. Thánh lễ này vẫn còn được thực hiện một cách sốt sắng ở một số nơi. Nhưng chiều hướng biến thánh lễ phong chức thành một thứ biểu diễn đang lan dần. Khi có những diễn biến làm thất vọng những tâm hồn khao khát gặp Chúa và cõi thiêng liêng, thì một thánh lễ bị tục hoá sẽ khó làm cho người ta tin lời sai đi của Chúa trong thánh lễ đó. Hơn nữa, hiện nay, nhiều nơi các lễ tạ ơn sau lễ phong chức được tổ chức với nhiều hình thức quá đáng, dễ bị hiểu lầm như một cuộc ăn mừng nặng về danh lợi. 3. Hiện nay, lời sai đi cũng thường được đề cao bằng những lời ca tiếng hát chúc tụng linh mục. Thí dụ ngài là nhân chứng Nước Trời, là đèn sáng soi khắp trần gian, là người có xác hồn trắng tinh, là người có trái tim nồng cháy, là người có đôi chân đẹp rảo khắp nẻo đường, để loan báo Tin Mừng, là Chúa Kitô khác. Những lời ca tụng như vậy có thể sẽ làm cho nhiều vị linh mục hết sức xấu hổ. Các ngài nhớ tới lời Chúa phán xưa: “Chúng đã được thưởng công rồi” (Mt 6,2.5.16). Nhất là các ngài nhớ tới lời Chúa phán xưa: “Ta không biết các ngươi là ai” (Mt 25,12). Thái độ của quần chúng hiện nay trước những lời ca tụng đó, nếu là dửng dưng, thì còn đỡ ngại. Rất tiếc là có một sự phản tác dụng trong nhiều trường hợp. 4. Hiện nay, các linh mục được nhiều người nhìn với nhiều cái nhìn nâng lên, nhưng lại không mấy thiện cảm.. Thí dụ ngài trở thành người của một giai cấp đặc quyền đặc lợi, từ nay một mình nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong họ đạo. Ngài từ nay thuộc loại người được các thế lực ngoại bang quan tâm chiếu cố. Ngài từ nay trở thành chủ chăn, được đoàn chiên tùng phục. Những cái nhìn như có thể gây khó cho các tân linh mục. Cái khó đó dễ trở thành nguy hiểm gây hại cho các ngài. 5. Thực sự những ác thần của hoả ngục đang hết sức nhiệt tình giúp cho các linh mục được nhiều thành công bề ngoài, để biến chất các ngài. Và thực sự đang có nhiều dư luận làm cho dung mạo người linh mục được sai đi tại Việt Nam hôm nay có thể bị xấu đi, không gây được niềm tin nơi quần chúng. Tuy nhiên, vẫn có những dấu chỉ cho thấy hy vọng đang thực sự phát triển trong lớp các tân linh mục. Nhiều dấu chỉ của hy vọng đang xuất hiện rõ nét. Ở đây, tôi chỉ xin nêu một số dấu chỉ đó. 6. Một dấu chỉ đáng coi là chắc chắn mang hy vọng nhất, đó là các tân linh mục nhận ra điều này: Mình được sai đi. Bài sai được viết ra, có chữ ký của Bề trên, để làm chứng. Nhưng, để làm chứng là mình được chính Chúa sai đi, thì không căn cứ vào bài sai, mà phải căn cứ vào chính lối sống của mình. Lối sống của người được Chúa sai đi là bước theo Chúa. Chúa bước đi trên con đường yêu thương, thì mình cũng phải bước theo bước của Ngài. Bước yêu thương của Chúa có dấu ấn khiêm nhường, khó nghèo và hy sinh. Bước đi của mình cũng phải vậy. 7. Một dấu chỉ nữa rất đáng coi là mang nhiều hy vọng, đó là các tân linh mục nhận ra sự thực này: Tình hình hiện nay đang bị đe doạ bởi nhiều nguy cơ. Nguy cơ lớn nhất chính là sự suy thoái về đạo đức. Nguy cơ này sẽ chỉ giải quyết được bằng ơn cứu độ của Chúa Giêsu trên thánh giá. Để cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu, linh mục sẽ coi những đau khổ của thánh giá là một danh dự lớn của đời mình. 8. Một dấu chỉ nữa cũng rất đáng coi là mang nhiều hy vọng, đó là các tân linh mục nhận ra chính bản thân mình rất yếu đuối. Nên các ngài luôn cậy tin vào Chúa. Đồng thời, các ngài luôn thông cảm với những người yếu đuối. Cùng với họ, các ngài luôn chạy đến tìm nương tựa nơi lòng thương xót Chúa. 9. Ba dấu chỉ trên đây đang làm cho các tân linh mục biết sống khiêm nhường. Khiêm nhường nói đây sẽ đi đôi với sự khó nghèo. Một cuộc sống khiêm nhường và khó nghèo, bước theo con đường yêu thương của Chúa Giêsu, đó chính là bài sai, mà người linh mục giới thiệu mình với đồng bào Việt Nam hôm nay. Đồng bào Việt Nam hôm nay đợi chờ ở các tân linh mục những giá trị đạo đức và một luồng gió thánh thiện. Họ khao khát gặp được Chúa Cứu Thế qua chính những người được Hội Thánh sai đi. Họ rất mong đời sống họ được đổi mới sâu rộng bởi một Đấng Thiêng Liêng giàu lòng thương xót, qua những người nhận mình là người được Chúa sai đến với họ và gần gũi họ. Họ mong chờ được yêu thương, nhất là khi họ lâm cảnh lầm than khốn khổ không nơi nương tựa. Với những tâm tình trên đây, tôi xin cầu chúc các tân linh mục thân yêu đang được sai đi biết luôn sẵn sàng được Chúa đào tạo thêm, cũng như sẽ không ngại được Chúa thanh luyện bằng những thử thách thường xuyên và bất ngờ. Phần thưởng dành cho các người được Chúa sai sẽ không phải là những thành công, mà là chính Chúa: “Chúa là gia nghiệp đời con”. Long Xuyên, ngày 18 tháng 6 năm 2012.
Trong tình nghĩa gia đình, anh chị em đến đây, để cùng tôi lắng nghe Chúa. Phần tôi, được phép của Chúa, tôi xin giãi bày đôi chút tâm tình của tôi, có liên quan đến ơn gọi của tôi và của anh chị em lúc này, để chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý Chúa trong tình hình hiện nay. 2. Thưa anh chị em, Trước hết, tôi xin nói về ơn gọi của tôi. Ơn gọi của tôi lúc này, về bản chất, không khác ơn gọi của tôi ngày tôi thụ phong linh mục và giám mục. Trong cả hai lần thụ phong, tôi đều nghe Chúa nói với tôi lời ông Dacaria đã nói với con trẻ Gioan xưa: “Con hãy đi trước mặt Chúa” (Lc 1,17). Khi đi trước mặt Chúa, tôi đón nhận được ý Chúa cho từng hoàn cảnh. Xin nói thêm điều này: Đi trước mặt Chúa, như Gioan xưa, luôn kèm theo bầu khí yên tĩnh của sa mạc. 3. Hiện nay, tôi vẫn đi trước mặt Chúa như vậy. Với tấm lòng thao thức, tôi đón nhận được ý Chúa cho hoàn cảnh hiện nay. Ý Chúa cho hoàn cảnh hiện nay được Chúa gởi vào lòng tôi qua ba câu hỏi gợi ý cụ thể sau đây: Con có sám hối và đền tội không? Bởi vì tội lỗi đang đẩy con và nhân loại xuống vực thẳm. Con có cảm thương và chia sẻ những đau khổ của đồng bào của con không? Bởi vì sự cảm thương chia sẻ đang rất cần để chứng tỏ tinh thần phục vụ. Con có tham dự vào thánh giá Chúa Giêsu không? Bởi vì sự tham dự đó rất cần để đưa người ta đến phục sinh. 4. Tôi trả lời Chúa bằng nhiều việc làm mà chúng ta thường làm. Nhưng Chúa không hài lòng. Ý Chúa là tôi cũng như các môn đệ Chúa phải làm thêm một việc lành khác. Một việc lành âm thầm, nhưng rất cần cho tình hình hiện nay. Việc đó là: “Hãy sống ơn gọi hạt giống gieo vào lòng đất”. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). 5. Hạt lúa gieo vào lòng đất, bị chôn vùi và bị thối đi. Đó là ơn gọi của Chúa Giêsu trong những ngày cuối đời trên trần thế. Hạt lúa gieo vào lòng đất, bị chôn vùi và bị thối đi. Đó cũng là ơn gọi của thánh Gioan Baotixita trong thời gian cuối đời. Hiện nay, tôi cảm nhận được ơn gọi đó một cách thấm thía và sống động. Tôi thấy rõ sự thực về con người như thế. Họ là của lễ. Họ phải cố gắng lắm. Cố gắng lặng lẽ. Cố gắng kiên trì. Cố gắng với kinh nghiệm phũ phàng về sự yếu đuối nặng nề của chính bản thân mình. Cố gắng với những đau xót vô vàn trước cảnh bao người hằng ngày lìa xa Chúa và trao mình cho ma quỷ. Cố gắng với những phấn đấu triền miên, nhiều khi với những đêm dài cô đơn của Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, đôi khi với những lời than thảm thiết như Chúa Giêsu xưa trên thánh giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mt 27,46). Cố gắng với những đớn đau ngập tràn. Niềm vui của họ là được vâng phục thánh ý Chúa, vừa để đền tội, vừa để liên đới với những người khổ đau và vừa để tham dự vào thánh giá Chúa Kitô. Niềm vui đó rất sâu lắng, rất thanh cao, loan báo Mùa Xuân thiêng liêng cho Nước Trời. 6. Anh chị em thân mến, Những gì tôi vừa chia sẻ cũng có thể xảy ra cho từng người anh chị em. Kẻ nhiều người ít, đã, đang và sẽ là hạt lúa bị chôn vùi và bị thối đi. Thiết tưởng, đó là một ơn gọi Chúa đang gởi đến cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Chúa gởi một cách khẩn thiết. Ơn gọi trên đây nên được các linh mục ôm ấp vào lòng mình, với tất cả tâm tình khiêm nhường và dâng hiến. Được là của lễ mọn hèn, như hạt lúa thối đi trong lòng đất, đó là một hồng ân Chúa ban. Chúng ta hãy khiêm tốn cảm tạ Chúa về hồng ân đó. Chúng ta cũng hãy khiêm nhường xin lỗi Chúa vì bao lần đã không đón nhận hồng ân đó. Sau cùng, chúng ta cũng hãy tha thiết cầu nguyện cho nhau được biết sống trọn vẹn và trung thành với hồng ân được là hạt lúa bị chôn vùi và bị thối đi, như một của lễ âm thầm. Satan sẽ làm hết sức, để thúc giục chúng ta chối từ ơn gọi đó. Vì thế, chúng ta hãy tỉnh thức khiêm nhường. Với tất cả tâm tình muốn thuộc trọn về Chúa, chúng ta giờ đây hãy dâng mình cho Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Gioan Baotixita. Ngài là hạt lúa bị chôn vùi và bị thối đi, Ngài là của lễ. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết đón nhận ơn gọi của Chúa như Ngài. Amen.
Hầu như mỗi ngày, tôi vẫn thường tự hỏi: “Ngày mai tôi sẽ ra sao? Ngày mai nói chung là tất cả tương lai đang tới. Ngày mai nói riêng là ngày tôi sẽ ra trước toà Chúa phán xét. Dù ngày mai được hiểu thế nào, tôi vẫn thấy mình có trách nhiệm phải chuẩn bị đi vào đó một cách tốt nhất. Cách chuẩn bị tốt nhất để đi vào tương lai là hãy sống tốt ngay chính hôm nay. 2. Thế nào là sống tốt ngay chính hôm nay? Thưa là hằng ngày hãy như cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. Hình ảnh trên đây được rút ra từ Phúc Âm. Chúa Giêsu phán: “Cứ xem một một người sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai... Cây tốt thì sinh trái tốt” (Mt 7,17-20). Tin vào Lời Chúa, tôi cố gắng mỗi ngày trở thành một cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. 3. Thế nào là trái tốt, mà Chúa muốn tôi phải sản sinh? Chúa trả lời tôi qua bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12). Trong bài giảng này, Chúa nêu lên những đức tính tốt được Chúa chúc phúc. Đó là “nghèo khó, hiền lành, chịu khổ, khát khao điều công chính, biết xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, chịu bách hại vì lẽ công chính” (Mt 5,3-11). 4. Tất cả những đức tính tốt trên đây đều phát xuất từ cái tâm. Do đó, nếu tôi muốn sinh được những trái tốt trên đây, tôi phải để ý đào tạo cái tâm của tôi. Việc đào tạo này đòi tôi phải tập luyện thường xuyên, trong cuộc sống hằng ngày, với những thực tế cụ thể. Thường ngày, thực tế có những mời gọi hãy có những việc cụ thể đối với những người khác. Những việc cụ thể đó sẽ thể hiện những liên đới tốt, như hiền lành, khiêm nhường, biết xót thương, xây dựng hoà bình. Phải làm những việc tốt đó nhiều lần, thường xuyên, hằng ngày, mới có thể thành một lối sống ví như cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. Tất nhiên, để được như thế, chúng ta phải phấn đấu rất nhiều. Sẽ có những trắc trở và những khổ đau. Một người thường xuyên có nếp sống tốt như vậy được Chúa chúc phúc. 5. Tới đây, tôi nhớ lại trường hợp xưa Chúa mắng cây vả không có trái. Phúc Âm kể: “Sáng sớm, khi trở vào thành, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Trông thấy cây vả ở bên đường, Chúa lại gần, Người không tìm được trái nào cả, chỉ thấy toàn lá thôi. Người nói: Từ nay không bao giờ mày có trái nữa. Cây vả liền chết khô ngay” (Mt 21,18-20). Chuyện trên đây giúp tôi hiểu thêm về sự tôi phải là cây tốt sinh ra trái tốt. Trước hết, phải sinh trái tốt, chứ chỉ sinh ra lá tốt sum sê thì không đủ. Hơn nữa phải sinh trái tốt, lúc Chúa đến, dù bất ngờ. Chứ mùa sinh trái mà lại không có trái để Chúa hái, thì sẽ bị Chúa phạt. Phúc Âm nói về sự Chúa phạt cây không có trái tốt thế này: “Cây không sinh trái tốt, thì sẽ bị chặt đi và sẽ bị quăng vào lửa” (Mt 7,19). Hình phạt như thế là rất đáng phải sợ. 6. Tôi phải là cây tốt, sinh ra trái tốt đúng mùa như Chúa muốn, đó là một trách nhiệm tôi không được coi thường. Bởi vì hậu quả sẽ rất quan trọng. Sinh trái tốt, sẽ được thưởng đời đời. Không sinh trái tốt, sẽ bị phạt muôn kiếp. Kinh nghiệm về Lời Chúa cho tôi thấy: Để cái tâm của tôi sinh được nhiều trái tốt, tôi rất cần đón nhận ơn Chúa giúp. Chúa Giêsu nói rõ: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh được nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho khô héo. Người ta sẽ nhặt lấy nó, quẳng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15,5-6). Như vậy, đón nhận ơn Chúa giúp là phải kết hợp mật thiết với Chúa một cách khăng khít và thường xuyên. 7. Tới đây, tôi thấy rõ điều này: Đời mỗi người phải có một hướng đi. Hướng đi đó là nhắm tới được cõi Phúc. Hướng đi về cõi Phúc chính là hướng làm cho đời mình có ý nghĩa. Để đi về đúng hướng đó, đồng thời cũng để cho đời mình có ý nghĩa, con người phải làm những việc có giá trị. Những việc có thực chất giá trị là những việc tốt từ cái tâm, như Chúa đã dạy, như biết yêu thương, biết xót thương, biết sống khiêm tốn hiền lành, biết sống hoà bình. Như thế, có thể nói: Con người có giá trị thực sự phải là con người biết thiết lập những dây liên đới tốt, với Chúa và với những người khác. 8. Có những giá trị của Chúa do trực tiếp nhận được từ Chúa. Có những giá trị của Chúa do gián tiếp nhận được từ những người khác. Có những giá trị của Chúa do mình sáng kiến tạo nên từ những tư liệu Chúa ban. 9. Để diễn tả ý tôi vừa nói, tôi xin được phép đưa ra một ví dụ có tính cách rất riêng tư. Đó là những bài tôi chia sẻ. Mỗi bài tôi chia sẻ đều được tôi cầu mong sẽ là một việc nhỏ thực hiện ý muốn bản thân tôi được trở thành một cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. Khi nhắm mục đích đó, tôi hình thành bài chia sẻ với tinh thần nghèo khó. Tôi lấy đề tài từ cuộc sống dưới ánh sáng Lời Chúa. Tôi cầu nguyện nhiều, tôi suy gẫm Lời Chúa lâu. Tôi suy tư rất tập trung. Tôi vận động tất cả những gì tôi đã học qua sách báo và qua kinh nghiệm cuộc sống để tìm hiểu vấn đề. Rồi tôi chọn lựa, sắp xếp những gì là chân thành nhất từ nội tâm luôn quy chiếu vào Lời Chúa. Tôi làm trong bầu khí thinh lặng dạt dào yêu thương, rất nhiều khi có pha trộn đớn đau. Khi đã thành hình, tôi phó thác bài chia sẻ cho Chúa, với ý thức rằng: Bài của tôi có nhiều thiếu sót. Tuy sao, xin Chúa cũng thương đoái nhận thiện chí của tôi. Thiện chí này là rất chân thành. Chính thiện chí này cũng do Chúa đỡ nâng đào tạo. Nhờ vậy, nhiều khi phải bắt đầu lại, để rồi lại bắt đầu lại mấy lần nữa. 10. Với những việc bé nhỏ như thế, tôi chuẩn bị cho ngày mai. Ngày mai bắt đầu từ hôm nay, với sự cố gắng thường xuyên trở thành một cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. Kinh nghiệm về bản thân như thế đôi khi cũng đặt ra trong tôi một câu hỏi về những cộng đoàn có liên hệ đến tôi: Ngày mai họ sẽ ra sao? Thiết tưởng, câu trả lời một phần lớn đang nằm trong những vị lãnh đạo cộng đoàn và những người có trách nhiệm đào tạo. Tôi sợ ngày mai sẽ bi đát, - nếu không đào tạo cái tâm, mà chỉ lo đào tạo cái trí. - nếu không bám sát vào những việc cụ thể mà chỉ lo ôm đồm những lý thuyết. - nếu không thực hiện những liên đới tốt với những người xung quanh, mà chỉ lo thực hiện những nghi thức hoành tráng và những lời tuyên thệ chiếu lệ, những hoạt động ồn ào khích động. 11. Hiện nay, cái bi đát nhất chính là tình trạng vô tâm. Thấy người ta khổ, mình vẫn vô tâm, coi đó là chuyện bình thường. Thấy người ta chìm sâu trong tội lỗi, mình vẫn vô tâm, coi đó là chuyện không nên quan trọng hoá. Thấy thánh lễ bị tục hoá, mình vẫn vô tâm, coi đó là chuyện hợp thời. Còn bao nhiêu thứ vô tâm khác đang làm cho cái tâm của nhiều người có đạo trở thành chai cứng. Khi sự chai cứng đó lại được coi là chuyện bình thường, không nên quan trọng hoá, thì đó chính là một thảm hoạ. Bởi vì người ta không còn tin vào Lời Chúa. Chứng tỏ hiện tượng mất đức tin đang xảy ra dưới hình thức được chấp nhận. 12. Vì thế, điều tôi tha thiết cầu mong cho mọi anh chị em gần xa của tôi là: Hãy đi vào ngày mai của mình bằng cái tâm có Chúa ở cùng, cố gắng làm những việc tốt hằng ngày, để mỗi ngày trở thành cây tốt có khả năng sinh ra trái tốt. Lạy Chúa, chúng con rất yếu đuối. Xin Chúa thương xót chúng con.
Ngày 02 tháng 7 năm 1955, tôi được thụ phong linh mục. Thấm thoát đã 57 năm. Những kỷ niệm về ngày đó đến nay vẫn không phai. Ấn tượng sâu nhất mà sự kiện thụ phong linh mục đã để lại trong tôi, chính là nỗi lo sợ. Tôi còn nhớ lắm một biến cố nhỏ, tối ngày 01 tháng 7 năm 1955, tại Nhà Dòng Đaminh trên đồi Rosary Hill bên Hồng Kông. Trong bầu khí tĩnh tâm, tôi đến quỳ trước cha linh hướng, để trình bày nỗi sợ của tôi. Tôi sợ lãnh chức linh mục, vì tôi thấy mình quá bất xứng. Tôi xin rút lui. Nghe tôi giãi bày, cha linh hướng an ủi và có lúc như truyền dạy tôi hãy vâng lời Bề trên mà tiến lên. Tôi vâng lời, nhưng vẫn sợ. 2. Nỗi sợ ấy chỉ được trấn an, khi Đức Mẹ Maria khuyên tôi hãy luôn luôn thuộc về Chúa như Đức Mẹ. Luôn thuộc về Chúa như Đức Mẹ là luôn tỉnh thức đón nhận Lời Chúa, là luôn khiêm tốn thực thi ý Chúa, là luôn liên kết mọi thái độ trong ngoài của mình với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Tôi thụ phong linh mục với nỗi sợ được giải đáp như thế. Giải đáp đó cho phép tôi nghĩ rằng: Nếu tôi thực sự thuộc về Chúa, thì chính Chúa sẽ giúp tôi sống ơn gọi linh mục một cách hợp thánh ý Chúa, dù hoàn cảnh có phức tạp đến đâu. 3. Sáng ngày 11 tháng 7 năm 1955, tôi dâng thánh lễ đầu tiên tại Long Phước thôn, hồi đó thuộc về Thủ Đức. Trước thánh lễ, tôi xưng tội với Cha Minh Đăng. Tôi cũng trình bày với Ngài tình trạng tâm hồn tôi hay sợ hay lo trước ơn gọi làm linh mục. Ngài khuyên tôi hãy cậy trông nơi Đức Mẹ. Có một điều Ngài khuyên tôi hôm đó mà hôm nay tôi vẫn nhớ, đó là hãy sẵn sàng chịu đau khổ, bởi vì đau khổ sẽ giúp linh mục thuộc về Chúa Giêsu vác thánh giá và chết trên thánh giá, để làm của lễ đền tội cho nhân loại. 4. Như vậy, sự kiện tôi thụ phong linh mục đã diễn tiến nơi tôi với những bước khởi đầu rất rõ nét: Lo sợ, hãy thuộc về Chúa và sẵn sàng chịu khổ đau. Ba bước khởi đầu trên đây đã được tiếp nối cho tới hôm nay. Hôm nay nhìn lại quãng đường 57 năm qua của ơn gọi linh mục, tôi thấy thế này: 5. Thứ nhất, tôi không biết tôi đã cho đi được gì, nhưng tôi biết chắc là tôi đã nhận lãnh được rất nhiều. Một điều tôi nhận lãnh đã làm tôi bỡ ngỡ chính là tôi khám phá thấy Chúa hiện diện nơi những người cùng khổ, yếu hèn. Họ không có của cải nào cho tôi, nhưng họ đã cho tôi tình thương liên đới, nhất là gương sáng của họ về niềm tin cậy trong những phấn đấu của họ trên cuộc sống đã nát tan. Tiếp xúc với họ, tôi thức tỉnh nhận rõ điều này: Chỉ có tình yêu mới có thể xây dựng được những dây liên đới căn bản nhất. Chỉ có tình yêu chấp nhận khổ đau mới có sức cứu độ. Chỉ nhìn người khác với đôi mắt của trái tim mới thấy được những giá trị ẩn tàng trong họ. 6. Thứ hai, tôi dần dần nhận ra rằng: Những người nghèo khổ là một thứ kho tàng của Hội Thánh. Nghèo khổ nói đây phải hiểu một cách rộng rãi. Nhiều người có quyền có chức, nhưng vẫn nghèo vẫn khổ về một số phương diện kín đáo. Nhiều người giàu sang, nhưng cũng khổ cũng nghèo về nhiều mặt âm thầm. Khi tôi được dịp gặp những người nghèo khổ, bất cứ họ là ai, và nghèo khổ về phương diện nào, tôi thường gắn kết tôi lại với họ, bằng cách tôi nhận mình cũng có những nỗi đau như họ, cũng có những nỗi sợ như họ, cũng có những yếu đuối như họ. Sự gắn kết đó luôn đi đôi với sự gắn kết của tình yêu thương. Ngoài việc gắn kết, tôi còn chia sẻ. Chia sẻ của tôi không luôn là về của cải, nhưng chủ yếu là về hy vọng. Hy vọng nơi chính bản thân họ. Hy vọng nơi Chúa và Đức Mẹ. Nếu tôi được họ coi như một hy vọng, thì chỉ là một hy vọng mờ nhạt, để rồi tôi dẫn người ta đến với một cộng đoàn dân Chúa giàu tình thương bác ái. Tôi phải rất tỉnh thức, biết nắm bắt mọi cơ hội để gắn kết và chia sẻ, vì mục đích phục vụ Tin Mừng. 7. Thứ ba, tôi nhận ra một điều khiến tôi luôn phải để ý, đó là không những tôi phải gắn kết và chia sẻ, mà còn phải cho đi chính mình. Là linh mục, tôi phải noi gương Chúa Giêsu mà cho đi chính mình. Có quyền nghỉ ngơi, nhưng tôi tự ý bỏ quyền đó, để chăm sóc người khác. Có quyền hưởng thụ, nhưng tôi tự ý bỏ quyền đó,để phục vụ ích chung. Có quyền sống thoải mái với những tự do về thời giờ, về của cải, nhưng tôi tự ý bỏ quyền đó, để gắn bó và chia sẻ với thân phận những người thiếu thốn. Tôi cũng cố gắng chịu mọi thứ đớn đau xác hồn để cầu nguyện cho các người Chúa muốn tôi góp phần vào chương trình cứu độ của Người. Sự cho đi chính mình của linh mục vốn được coi là một dấu chỉ chắc chắn của con người thuộc về Chúa. 8. Thứ bốn, tôi xác tín điều này là những việc tôi phải cố gắng làm gồm hoạt động bên ngoài và đời sống nội tâm. Nhưng phải ưu tiên cho đời sống nội tâm. Nhờ đó, điều đáng được coi là có giá trị thực sự nơi tôi sẽ không phải là việc tôi làm bề ngoài cho bằng cách tôi làm và thái độ của tôi đối với Chúa khi làm việc. Với nhận thức đó, tôi thấy, cho dù một cử chỉ nhỏ, như một cái nhìn, một nụ cười, ngay cả một sự thinh lặng cảm thông, nếu làm với Đức Kitô, việc nhỏ đó vẫn có giá trị phong phú. 9. Mấy nhận xét trên đây đang giúp tôi cảm ơn Hội Thánh đã không ngừng đào tạo tôi trong ơn gọi linh mục. Tôi cảm tạ với tất cả lòng kính mến, khiêm nhường và gắn bó. Tôi rất biến ơn mọi bạn hữu gần xa đã nâng đỡ tôi trong đời linh mục. Tới đây, tôi sực nhớ lại một lời của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Có lần Ngài nói với tôi rằng: Có những linh mục không biết sợ. Không sợ giáo dân. Không sợ giám mục. Không sợ chính quyền. Không sợ cả Chúa. Điều mà Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolô nói là có thực. Sự thực đó có thể là không nhiều. Tuy sao vẫn là một báo động. 10. Điều tôi mong muốn nhất lúc này là những gì Chúa Giêsu nói xưa về chủ chiên cũng đang được suy nghĩ tại Việt Nam thân yêu: “Tôi là mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên... Tôi còn có những chiên khác, không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử” (Ga 10,14-16). Càng suy nghĩ về gương Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, tôi càng thấy mình bất xứng. Tôi lo sợ cho sự bất xứng của tôi. Tôi muốn luôn thuộc trọn về Chúa, nhưng tôi thấy mình vẫn yếu đuối. Tôi cố gắng hy sinh chính mình cho đàn chiên, nhưng tôi thấy mình chưa hy sinh trọn vẹn. Tôi tha thiết xin Chúa tha thứ cho tôi. Tôi lo sợ, nên càng phó thác cậy trông nơi lòng thương xót Chúa. Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, xin thương ban cho Hội Thánh Việt Nam những linh mục biết luôn thuộc về Chúa một cách trọn vẹn, nhất là luôn biết hy sinh, cho đi chính mình trong cuộc sống hiện nay đầy cảm dỗ và không còn biết sợ. Long Xuyên, ngày 01 tháng 7 năm 2012.
Đức Mẹ Maria đã lên trời. Cả hồn lẫn xác Đức Mẹ đang trên cõi trời đầy hạnh phúc. Cõi trời nói đây chính là thiên đàng. Đức tin dạy tôi thiên đàng là nơi dành cho những người được Chúa thương. Chết rồi, mà không được vào đó thì sẽ phải khổ vô cùng. Vì thế, tôi rất muốn sẽ được lên Trời. Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi, để có ngày cũng được Chúa cho phép lên Trời, sẽ cùng Đức Mẹ hưởng phúc trường sinh. Đức Mẹ nhận lời. Đức Mẹ dạy tôi hãy đi theo con đường mà Mẹ đã đi. Con đường Mẹ đã đi có những đặc điểm sau đây. 2. Khiêm nhường. Sự khiêm nhường của Mẹ được nhận thấy rất rõ trong thái độ Mẹ bối rối sợ hãi trước lời chào của Đức Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel. Mẹ luôn nhận mình hèn yếu, nên khi thấy Chúa đoái nhìn đến phận hèn sâu thẳm của mình, Mẹ rất sợ hãi và bối rối. Những lời trấn an “Đừng sợ” của Đức Tổng Lãnh Thiên Thần càng làm cho Mẹ nhận thấy mình bất xứng. Nhận thức mình bất xứng, nên, sau khi hiểu ý Chúa muốn mình mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ chỉ biết nói lời Xin vâng, với tư cách một nữ tỳ hèn mọn. Đức tính khiêm nhường của Đức Mẹ chính là vẻ đẹp cao quý, để xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Thế là Đấng khiêm nhường. Đức Kitô khiêm nhường đến cùng độ, như thánh Phaolô đã viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cậy thập giá” (Pl 2,6-8). Đức Giêsu Kitô khiêm nhường, là con của Đức Mẹ Maria khiêm nhường, Người đã không ngại cho biết sự khiêm nhường là đặc điểm của mình, khi Người quả quyết: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Sau này, Hội Thánh đã quả quyết điều này: Sở dĩ loài người sa ngã được nâng lên, chính là nhờ Đức Giêsu Kitô khiêm nhường hạ mình xuống. “Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên” (Lời nguyện nhập lễ, thứ hai, CN IV Phục Sinh). Như vậy, khiêm nhường là một đặc điểm đầu tiên kể như cần thiết của con đường Đức Mẹ đã đi, để cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa và để lên Trời. Suốt đời trên trần thế, Đức Mẹ đã bước những bước khiêm nhường. Một thứ khiêm nhường không những sâu đậm trong lòng, mà cũng rất cụ thể bên ngoài. Cụ thể như lối sống khó nghèo, vất vả với những người lam lũ, âm thầm giữa những người thấp kém. 3. Tin vào Lời Chúa. Đức Mẹ tin vào Lời Chúa, đó là điều thánh Isave đã nói với với Đức Mẹ khi bà được Đức Mẹ đến viếng thăm: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Tin vào Lời Chúa, đó là việc Đức Mẹ thực hiện thường xuyên, không phải trong những hoàn cảnh đặc biệt, mà là trong đời sống thường ngày. Thường ngày, Đức Mẹ sống tám mối phúc mà Chúa Giêsu giảng trên núi. Khi sống nghèo khó, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, Đức Mẹ tin Chúa thấy, Chúa ghi và Chúa thưởng như Chúa đã hứa. Sự tin vào Lời Chúa như vậy trong đời thường đã mở lòng Đức Mẹ, để đón nhận được tình thương vô vàn của Chúa. Đức Mẹ nhận thấy mình được Chúa yêu thương, được Chúa kêu gọi, được Chúa thánh hoá, được Chúa sai đi. Sống như thế là một dấu chỉ có Chúa ngự trong Đức Mẹ. Có Chúa trong mình, đó là một hạnh phúc tuyệt vời. Niềm tin lúc đó đã trở thành sự sống. Tin vào Chúa trong đời thường sẽ giúp Đức Mẹ tin vào Chúa trong những thử thách cam go khác thường trên đường theo Con mình vác thánh giá và bị đóng đinh trên thánh giá. 4. Chịu đau khổ để giải cứu. Dịp Đức Mẹ và thánh Giuse tiến dâng hài nhi Giêsu trong đền thờ, tiên tri Simeon đã nói với Đức Mẹ rằng: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35). Với những lời tiên tri trên đây, chúng ta thấy nỗi đau của Đức Mẹ là rất khủng khiếp. Đau tận đáy tâm hồn. Đau với vết thương sâu trong trái tim bị đâm thâu qua. Căn cớ làm cho Đức Mẹ đau đớn như thế chính là tội lỗi loài người. Nhiều người đã từ chối, không đón nhận Đấng đến để cứu chuộc họ. Thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,10-11). Nhiều người không những đã từ chối Chúa Giêsu, mà còn ghét bỏ và chống đối Người. Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly đã nói: “Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được. Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy. Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi, mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy” (Ga 15,22-24). Đau đớn vì tội lỗi của nhân loại, nhất là của những người được nhiều ơn Chúa, đó là một sự nhạy bén đặc biệt, mà chỉ ai có lòng mến Chúa yêu người thực sự tha thiết mới có được. Do sự thường xuyên chịu đau đớn như vậy, vì mến Chúa yêu người Đức Mẹ đã trở thành của lễ, một của lễ hy sinh chính mình, để góp phần vào của lễ Chúa Giêsu dâng trên thánh giá. Đó là bác ái ở đỉnh cao nhất. Mọi việc bác ái khác, như việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Isave, và như việc Đức Mẹ xin Chúa làm phép lạ ở tiệc cưới Cana, đều xuất phát từ bác ái biến thân làm của lễ. 5. Suy niệm để khám phá. Phúc Âm thánh Luca viết: “Riêng Mẹ, Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Ghi nhớ của Đức Mẹ không phải là lưu trữ các kỷ niệm, nhưng là khám phá ra những sự kỳ diệu của thánh ý Chúa trong các biến cố xảy ra cho Đức Mẹ. Nhìn lại đời mình, Đức Mẹ không khỏi bỡ ngỡ nhận ra những ơn Chúa đã ban cho mình. Bỡ ngỡ nhiều nhất là khám phá thấy một trật tự mới về các giá trị. Trật tự mới này được Đức Mẹ nói lên trong bài ca “Ngợi khen Chúa”. “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng, Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay không” (Lc 1,50-53). Một trật tự mới hết sức quan trọng mà Đức Mẹ thấy chính là điều răn mới tức điều răn yêu thương. Phải yêu thương như Chúa yêu thương. Khám phá của Mẹ về yêu thương như Chúa yêu thương đã giúp cho Mẹ nhận thánh Gioan và Hội Thánh Chúa làm con của Mẹ. Yêu thương là hiện diện, là gắn bó, là sống chết cho những người Chúa trao phó cho mình. Mẹ đã qua đời trong tình yêu thương tha thiết ấy. 6. Tới đây, tôi hiểu rõ hơn ý nghĩa đời tôi trên cõi đời này, tôi cũng nhận thấy con đường mà Đức Mẹ đã đi để lên Trời là con đường không dễ dàng. Không dễ dàng đối với Đức Mẹ. Càng không dễ dàng đối với tôi. Tôi phải cầu nguyện nhiều, tỉnh thức nhiều, phấn đấu nhiều. Dù vậy, chắc chắn tôi vẫn còn vô vàn yếu đuối. Vì thế, điều căn bản cần thiết nhất đối với tôi là phải rất khiêm nhường tin vào lòng thương xót Chúa. Tôi làm tất cả những việc đó cho tôi và cũng cho những người khác, để họ cũng được lên Trời với Đức Mẹ. Ngoài ra, khi đi trên con đường về Trời theo gương Đức Mẹ, tôi sẽ hết sức xa tránh tham gia vào bất cứ thái độ nào xúc phạm đến Đức Mẹ. Như lợi dụng danh nghĩa Đức Mẹ để chia rẽ, để trục lợi. Cũng là xúc phạm đến Đức Mẹ, khi làm những ảnh tượng Đức Mẹ với hình dáng xa lạ hoặc phản lại với Phúc Âm. Sau cùng, tôi không quên đối phó với Satan. Rất đông quỷ dữ không ngừng quấy phá những ai đi theo Đức Mẹ. Lạy Mẹ Maria, xin thương dẫn dắt con về Trời. Tình hình hiện nay là rất phức tạp và con thì rất yếu đuối. Nhưng nếu Mẹ thương giúp con, con tin thế nào con cũng sẽ được lên Trời với Mẹ.
Tôi vừa đi từ giã một linh mục mới qua đời. Rất mệt mỏi và đau đớn, tôi được dìu vào một không gian tang chế đầy linh thiêng. Tại đây tai tôi nghe những lời kinh và những bài thánh ca cầu nguyện cho kẻ qua đời. Mắt tôi nhìn thấy những khăn tang, những bó hương, những vòng hoa và những dòng Kinh Thánh tuyên xưng niềm tin. Đầy cảm xúc, lòng tôi gặp được người quá cố. Ngài thinh lặng từ giã tôi. Ngài từ giã tôi trong tư thế khiêm nhường. Nằm gần đất, bất động. Ngài từ giã tôi trong cảnh nghèo khó. Chẳng có gì mang theo. Chỉ còn tấm vải quấn quanh mình, trong một quan tài đơn giản. Cảnh từ biệt, tuy buồn, nhưng chan chứa tình nghĩa và niềm hy vọng. Chúa dùng cảnh từ biệt này, để nhắc nhở tôi nhiều điều quan trọng, có liên quan đến ơn gọi người môn đệ Chúa. 2. Không phải chỉ khi chết, mà trong suốt cuộc đời, người môn đệ Chúa phải sống tinh thần từ biệt. Chúa phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Hơn nữa, Chúa còn quả quyết: “Ai yêu mến cha hay mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Khi nhớ lại lời Chúa trên đây và nhìn vào vị linh mục đang từ biệt cõi đời, tôi hiểu cuộc sống của tôi cũng phải trải qua nhiều từ biệt. Từ biệt là một cái chết. Cái chết nào cũng là từ biệt. Từ biệt nào cũng là chết đi. Nhưng những cái chết đó sẽ đưa tôi vào cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Những từ biệt ấy sẽ giúp tôi và những gì tôi từ biệt trở thành tình yêu dâng hiến, mang giá trị cứu độ. 3. Không phải chỉ khi chết, mà trong suốt cả cuộc đời, người môn đệ Chúa phải sống khiêm nhường. Khiêm nhường trong cách nói, như lời ngôn sứ Isaia nói về Chúa Giêsu: “Người sẽ không cãi vã, không kêu to. Chẳng ai nghe tiếng Người lớn tiếng giữa phố phường” (Mt 12,19). Khiêm nhường trong việc kính trọng và tế nhị đối với những ai yếu đuối, sa ngã, lầm lạc. Cũng như lời tiên tri Isaia nói về Đấng Cứu Thế: “Cây lau bị dập, Người không đành bẻ gẫy. Tim đèn leo lắt, Người chẳng nở tắt đi” (Mt 12,20). Khiêm nhường còn là tự nguyện mang vào mình những khổ đau của người khác. Cũng như lời tiên tri Isaia nói về Chúa Giêsu: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Lời Chúa trên đây được gợi ý do thân phận người linh mục qua đời. Lời Chúa khuyên tôi hãy khiêm tốn mang lấy gánh nặng bệnh tật và những cô đơn, để chia sẻ với Đấng Cứu Thế và với những khổ đau. Lời Chúa khuyên tôi cũng hãy biết đón nhận cái chết như một ân huệ, khi tôi vì lý do nào đó trở thành gánh nặng cho cộng đoàn. 4. Không phải chỉ khi chết, mà trong suốt cả cuộc đời, người môn đệ Chúa phải sống khó nghèo. Thứ nghèo khó mà người môn đệ Chúa phải sống một cách triệt để, chính là sự nhìn nhận mình yếu đuối, cần được Chúa xót thương. Ở đây, tôi nhớ lại lời cầu của thánh vương Đavít: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trước mắt Ngài... Xin ngoảnh mặt, đừng nhìn bao tội lỗi, và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm. Xin ban cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51 [50]). Lời thánh vương Đavít được nhớ lại bên cạnh người linh mục quá cố đã mở mắt linh hồn tôi, để tôi nhìn rõ thân phận tôi. Tôi chẳng là gì, chẳng đáng gì, hơn nữa, tôi mắc nhiều tội lỗi. Tôi ăn mày lòng thương xót Chúa. 5. Người môn đệ Chúa, không chỉ khi chết, mà suốt cả cuộc đời, phải sống niềm tin. Tôi nhớ lại lời thánh tông đồ Phêrô nói về niềm tin của người môn đệ Chúa: “Anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ. Có đức độ thì lại thêm hiểu biết. Có hiểu biết thì lại thêm tiết độ. Có tiết độ thì lại thêm kiên nhẫn. Có kiên nhẫn thì lại thêm đạo đức. Có đạo đức thì lại thêm tình huynh đệ. Có tình huynh đệ thì thêm đức ái” (2 Pr 1,6-7). Lời thánh Phêrô trên đây được tôi nhớ lại, do cái chết đột ngột của vị linh mục quá cố. Tôi nghĩ đến hành trình đức tin trong đời ngài và trong đời tôi. Sống đức tin không đơn giản chỉ là chấp nhận những điều phải tin, mà chủ yếu là thực thi tất cả những gì Lời Chúa dạy, để sau cùng tới được đức ái. Như vậy, người môn đệ Chúa sống và giảng về đức tin, sẽ không giới thiệu niềm tin như một dấn thân anh hùng, mà là một thái độ trung tín thường ngày, âm thầm khiêm tốn, đi từ việc lành nhỏ bé này đến việc lành bé mọn kia, thêm vào đó là một thái độ tỉnh thức trước mọi bất ngờ. Để giữ được thái độ ấy, người môn đệ Chúa phải phấn đấu nhiều lắm với chính mình. Khi sống như vậy, tôi thấy đức tin đang giúp tôi đi vào cái chết sau cùng một cách bình an thanh thản. Niềm tin đang giúp tôi sống bám vào Chúa qua những phấn đấu cam go. Niềm tin ấy cũng sẽ giúp tôi phó thác linh hồn tôi trong tay Chúa, khi cuộc vĩnh biệt sau cùng xảy tới bất cứ lúc nào, cách nào. 6. Đứng trước thi hài vị linh mục đã sống với nhiều thử thách đớn đau cả về thân xác lẫn về tinh thần, tôi cảm thấy mình bé nhỏ, hèn mọn. Tôi từ biệt ngài với lòng thương mến sâu xa. Tôi cảm ơn ngài. Tôi xin ngài cầu nguyện cho tôi. Tôi ra về, với tâm tình tạ ơn Chúa. Tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi nếm được một chút hương vị linh thiêng. Hương vị linh thiêng này toát ra từ sự gặp gỡ liên hệ - giữa cõi đời này và cõi đời sau. - giữa thân xác và linh hồn, - giữa những gì chóng qua và những gì bền vững đời đời, - giữa người ra đi và những người còn ở lại, - giữa con người và Thiên Chúa. Trên xe về Toà Giám Mục, suốt chuyến đi lâu hai tiếng đồng hồ, từ Rạch Giá đến Long Xuyên, tôi tự nhiên cứ nghe lòng nhắc đi nhắc lại lời Chúa Giêsu phán xưa với các môn đệ trước giờ từ biệt: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì người mình thương” (Ga 15,13). Chúa Giêsu đã chết như thế. Tôi cũng khát khao được chết như Người. Tôi nghĩ nhiều đến những người thân thương, đến Hội Thánh Việt Nam của tôi và Quê Hương Việt Nam của tôi, là những mối tình cao cả mà tôi gắn bó. Long Xuyên, ngày 19 tháng 8 năm 2012
Khi tôi nhớ Quê Hương, Quê Hương không hiện lên như một tư tưởng, nhưng hiện lên như một toàn cảnh. Toàn cảnh này mang một tính chất rất riêng biệt đối với tôi. Bầu trời ấy, với những chân trời ấy có những vẻ đẹp riêng. Không đâu thay thế được. Cánh đồng ấy, với những màu xanh và làn gió thơm mát riêng. Không đâu thay thế được. Những con sông ấy, với những dòng nước lên xuống, chuyên chở tôm cá và tắm gội cho cỏ cây, súc vật và những con người một cách thân thương riêng biệt. Không đâu thay thế được. Những âm thanh ấy, linh thiêng của chuông nhà thờ và chuông đền chùa, ủi an của những tiếng mẹ ru con, gắn kết của những trò chuyện từng nhóm người đi làm ăn vất vả. Tất cả đều đọng lại trong lòng tôi một hương vị đặc biệt. Không gì thay thế được. Những con người ấy, hầu hết là lam lũ, sống với nhau, sống cho nhau và sẵn sàng cứu nhau. Tấm lòng của họ hồn nhiên, mang vẻ đẹp thiên nhiên, toả sáng một sức sống bình dị xinh đẹp. Không gì thay thế được. Những cảnh đẹp trên đây đã và đang in sâu vào ký ức tôi. Những kỷ niệm êm đềm ấy chìm xuống cõi vô thức của tôi, làm nên một thế giới thầm kín, vô hình mà sống động. 2. Quê Hương tôi còn có một lịch sử riêng. Lịch sử ấy có những chuyển biến. Đã có nhiều biến cố theo nhau xảy ra trên Quê Hương. Những biến cố đã và đang đổi thay cuộc sống trên Quê Hương tôi thuộc nhiều loại. Để đơn giản hoá, tôi gọi những biến cố lớn là những cuộc cách mạng. Cách mạng chính trị, Cách mạng văn hoá, Cách mạng khoa học, Cách mạng kỹ thuật, Cách mạng công nghệ, Cách mạng nông thôn. Những cuộc cách mạng này đã đem lại nhiều hiệu quả. Đặc biệt là chúng tạo ra nhiều mô hình mới về cuộc sống. Từ đó đã nảy sinh ra nhiều nhu cầu mới, nhiều ham muốn mới trong từng người. Đang khi đó lại có nhiều mời gọi mới, hướng về nhiều cái mới về mọi lãnh vực. Trong một tình hình như thế, phân biệt cái đúng cái sai, cái tốt, cái xấu không là việc dễ. Nơi mỗi người vẫn có những xung đột nội tâm, để chọn điều tốt, xa tránh điều xấu. Trong gia đình, xã hội cũng không tránh được những xung đột khi phải lựa chọn những gì mình ưa thích. Xung đột quá nhiều sẽ gây nên khủng hoảng. Bên cạnh những khủng hoảng hiện nay, còn có vô số những vết thương cũ do chiến tranh gây nên trong lòng đồng bào. 3. Đến một lúc nào đó, với những ngổn ngang khó tránh, khi đạo đức xuống, tình hình sẽ trở nên bất ổn. Bất ổn trong lòng mỗi người, bất ổn trong các gia đình, bất ổn trong xã hội về nhiều mặt. Bất ổn nguy hại nhất là bất ổn trong lãnh vực đạo đức. Khủng hoảng này là rất nghiêm trọng. Nhận thấy tình hình bất ổn trên Quê Hương là một khủng hoảng phức tạp, tôi rất thương đồng bào của tôi. Tôi để ý cách riêng đến khủng hoảng về đạo đức. Khủng hoảng đạo đức luôn xảy ra trong lịch sử. Nhưng nguy hiểm nhất là khi khủng hoảng đó bị coi thường. Nó gây nên các thứ sạt lở trong lương tâm. Nhưng bao người vẫn coi đó là bình thường. Nó gây nên những lốc xoáy, giông bão trong nội tâm. Nhưng người ta vẫn coi đó là không có gì đáng lo. Chính thái độ vô tâm đó làm tôi lo sợ. 4. Tôi đem những lo sợ của tôi trình bày với Chúa. Chúa biến đổi nó thành tình yêu. Vốn đã yêu thương đồng bào, thì nay tôi càng yêu thương hơn. Chúa dạy tôi hãy yêu thương như Chúa yêu thương. Nghĩa là: Ưu tiên hãy đến với những người nghèo khó, bệnh tật, bé mọn, khổ đau. 5. Đến với họ, tôi sẽ không giới thiệu với họ những gương cao siêu của những người thông thái, những người biết được nhiều điều bí ẩn, những người chuyển núi dời non, những người can đảm để mình bị thiêu, những người quảng đại bố thí hết cả gia tài của mình. Nhưng tôi đến với họ bằng tất cả tình yêu thương. Tôi làm như thế, theo lời dạy của thánh Phaolô: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì. “Giả như tôi có đem hết cả cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Thánh Phaolô dạy tôi hãy tập trung vào yêu thương, khi đến với người khác. “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. “Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,1-7). 6. Khi tìm hiểu ý nghĩa lời dạy “chịu đựng tất cả”, tôi được Chúa cho biết là hãy theo gương Chúa Giêsu, mà cùng chịu đau khổ với người đau khổ, nhất là dám hy sinh chịu đau khổ thay cho họ một cách khiêm nhường. Chúa nhấn mạnh đến sự khiêm nhường trong chịu đựng theo gương Chúa. 7. Tới đây, tôi hiểu tình yêu Quê Hương của tôi phải là một cuộc dấn thân, một cuộc dấn thân lặng lẽ và tế nhị cho đồng bào của tôi. Tôi nắm lấy tay họ. Tôi ở bên họ. Tôi lắng nghe tim họ đập. Tôi có cảm tưởng những người khổ đau, bé mọn là bậc thầy dạy tôi nhiều điều căn bản. Tình yêu Quê Hương như thế chính là một đồng hành. Đồng hành trong những cơn đau. Có thể là đồng hành đi tới một cái chết nào đó không sao tránh được. Nhưng đi tới đó với một niềm hy vọng và một niềm tin. Trong suốt cuộc đồng hành, luôn có tình yêu tha thiết, một tình yêu chấp nhận hy sinh đau đớn. Trong tình yêu Quê Hương, cái tâm là quan trọng nhất. Cái tâm đó phải rất hiền lành và khiêm nhường, theo gương trái tim Chúa Giêsu. Hiền lành và khiêm nhường, nên phải quên mình, để hy sinh cho người khác. Đó là một chứng từ của trái tim đã gặp được Chúa Giêsu, là cửa để vào Nước Trời. Chúa phán: “Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Ta nói cho các con biết: Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13,24). Lời Chúa cho thấy: Tình yêu Quê Hương đúng như ý Chúa không phải việc dễ. Nhờ ơn Chúa, tôi bắt đầu lại mỗi ngày với sự trở về không ngừng của cái tâm. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn ở bên con trên con đường yêu thương Quê Hương Việt Nam, mà con gắn bó, đúng theo ý Chúa đã sai con đi.
Cũng như mọi người, tôi biết phân biệt ngày và đêm. Ngày thì sáng, đêm thì tối. Thường thì trong 24 tiếng đồng hồ, sáng dài hơn tối. Khi áp dụng sáng và tối vào tình hình, tôi thấy rất nhiều trường hợp, tối lại nhiều hơn sáng, đêm lại dài hơn ngày. Tình hình có thể là của một xã hội, của một Giáo Hội. Tình hình cũng có thể là của một tâm hồn con người. Tình hìnhxã hội Việt Nam hôm nay đang bị che phủ bởi nhiều bóng tối mang chất độc. Nhưng trong bóng tối ấy vẫn tìm được ánh sáng lành mạnh. Tình hìnhGiáo Hội Việt Nam hôm nay cũng đang bị che phủ bởi nhiều đám mây mù ảm đạm và nhiều bóng đêm hãi hùng. Nhưng trong đó, vẫn tìm được ánh sáng hy vọng. Tình hìnhtâm hồn con người Việt Nam hôm nay nói chung rất phức tạp. Có bóng tối và có ánh sáng. Mức độ rất khác nhau. Theo tôi, bóng tối xem ra đang có chiều hướng tăng thêm. 2. Những cái làm nên bóng tối phải nhận là rất nhiều, như: Những đau đớn, những sợ hãi, những lo âu, những bất bình, những thất vọng, những chán nản, vv... Một trong những thành phần bóng tối mà tôi sợ nhất, là giảm lòng tin và mất lòng tin. Người ta không còn tin nhau như trước. Không tin vào những lời nói tốt, lời hứa đẹp. Không tin vào những thái độ có vẻ niềm nở, những cử chỉ có vẻ dấn thân. Không tin đau đớn nhất là mất tin tưởng nơi những người mình đặt nhiều tin tưởng nhất. Khi đi sâu vào bóng tối của lòng người, tôi thấy bàng hoàng, choáng váng. 3. Trước một tình hình như vậy, câu hỏi đặt ra cho tôi là tôi phải cứu tôi thế nào, và tôi phải làm thế nào để cứu người khác cho khỏi bóng tối. Khi nói, để cứu tôi, thì tôi đã tự thú nhận là chính tôi cũng đang có những bóng tối trong lòng mình. Tôi trình bày ý muốn của tôi lên Đức Mẹ sầu bi. Mẹ sầu bi dần dần cho tôi thấy là: Tôi hãy làm như Mẹ. Trước hết, như Mẹ, khi lòng tôi bị bóng đêm che phủ, tôi đừng đổ lỗi cho ai, đừng trách móc chửi bới ai, cũng đừng than trách bực bội với chính mình. Tôi phải rất khiêm nhường, nhìn vào Mẹ sầu bi. Tôi thấy Mẹ là Đấng rất thánh. Nhưng lòng Mẹ đầy những đớn đau do tội lỗi nhân loại. Đớn đau chính là một thứ bóng tối. Trong bóng tối đớn đau, Mẹ không kết án ai. Mẹ cũng không cay đắng với chính mình. Mẹ khiêm nhường để mình chìm trong bóng tối khổ đau. Mẹ đau nhất là vì chính những bóng tối tội lỗi đang làm đau lòng Chúa. Mẹ chịu đau để đền tội thay. Bóng tối cơn đau của Mẹ là do tội lỗi nhân loại. Còn bóng tối cơn đau của tôi có một phần do tội lỗi của chính tôi. Nên tôi càng phải rất khiêm nhường, nhìn nhận sự yếu đuối của mình và cầu xin Chúa cứu. Khi đau như thế trở thành vết thương trong trái tim, tôi thấy vết thương đó cứu tôi. Cứu ở đây không phải là cứu cho khỏi đau khổ, nhưng là cứu cho sự tôi phải đau khổ không trở thành vô ích, hay thêm tội. Trái lại, đau đớn của tôi thành một giá trị thanh luyện. Khi kết hợp với đau khổ của Chúa Giêsu và của Đức Mẹ, nó có sức cứu các linh hồn. Như vậy, trong bóng đêm dày đặc, tôi đã tìm thấy ánh sáng. 4. Được như vậy, tôi cảm tạ Chúa và Đức Mẹ hết lòng. Nhưng tôi không thể dừng lại ở đó. Nhìn xung quanh tôi, tôi thấy vô số tâm hồn cũng đang bị bóng đêm bao phủ. Tôi có thể làm gì để cứu họ? Tôi lại hỏi Đức Mẹ Maria sầu bi. Mẹ sầu bi lại trả lời tôi là hãy làm như Mẹ. Mẹ cứu con người bằng tình yêu thương. Tình yêu thương đó phải rất cụ thể, chân thành. Tới đây, tôi chợt nhớ một câu chuyện do một nhân chứng kể lại: Một bà mẹ có con dại, vì mắc tội, bị toà án tuyên phạt 15 năm tù. Trong nhà giam, đêm đó, bà vật vã khấn trời van đất hãy thương đến bà. Bà thiếp đi. Trong giấc ngủ, bà thấy một Bà rất hiền từ hiện ra, nói với bà: “Ba năm nữa, con sẽ được ra khỏi tù”. Đúng ba năm sau, bà được tha. Việc đầu tiên bà làm là đi các chùa xem vị thần nào giống Bà đã hiện ra cứu bà. Vì bà theo Phật giáo. Bà không thấy. Một hôm, một người xe ôm công giáo chở bà đến nhà thờ. Lập tức, bà chỉ vào Đức Mẹ và quả quyết: Bà hiện ra cứu tôi chính là Đức Mẹ đây. Chuyện này xảy ra ở Việt Nam. 5. Câu chuyện trên đây cho tôi thấy: Bắt chước Đức Mẹ, là hãy thương xót con người cụ thể, bằng việc cụ thể. Cả khi họ không biết đạo, không biết tôi là ai. Trong chuyến đi cuộc đời, không thiếu người mong muốn tìm được ai có thể là quán trọ, để họ nghỉ lại, tránh được mưa gió, ít là cho qua cơn nguy hiểm. Trong hành trình dài cuộc sống, không thiếu người đi tìm ai đó có thể là điểm tựa, để họ tin tưởng, ít là trong những thử thách cam go. Tôi tự hỏi mình có thể là một quán trọ, một điểm tựa nhỏ bé cho những người bé nhỏ không? Cái khó trong vấn đề này là phải rất cụ thể bằng tâm tình, bằng việc làm, được minh chứng qua sự hy sinh, quên mình. Thiết tưởng, dù hèn yếu đến đâu, nhưng với một tấm lòng quảng đại đạo đức, bất cứ ai cũng có thể là điểm tựa và quán trọ một cách nào đó cho một số người. Nhìn vào Quê Hương Việt Nam nói chung và Giáo Hội Việt Nam nói riêng, tôi thấy mặc dầu bóng tối là rất nhiều, nhưng trong bóng tối ấy vẫn tìm được những ánh sáng. Ánh sáng là những con người có trái tim yêu thương quảng đại, mặn nồng tha thiết. Trái tim họ đáng tin cậy để người ta chọn là quán trọ, là điểm tựa. Những quán trọ ấy, những điểm tựa ấy rất lặng lẽ. Họ sống chôn vùi. Chôn vùi mà vẫn toả sáng nhờ tình yêu thương chân thành, tế nhị, có Chúa ở cùng. Rất may, mà Hội Thánh Việt Nam vẫn có những con người là ánh sáng tình thương như thế. Chứ nếu thời sự công giáo chỉ toàn là các chương trình đẹp, các công trình xây cất lớn lao, các hội họp tưng bừng, các nghi thức long trọng, các đón tiếp hoành tráng, các con số phô trường, các trang giấy chửi đời nịnh đạo, thì thiết tưởng các bóng tối vẫn còn đó, có khi lại tăng thêm. Xin Mẹ Maria thương đến chúng con đang phải đối mặt với nhiều thứ bóng tối.
Hôm nay là lễ Giỗ Cha Giuse Nguyễn Quốc Vận. Chúng ta vẫn gọi ngài bằng một tên gần gũi thân thương: Bác Sáu Vận. Tôi nhớ về Bác Sáu trong tình bạn cùng lớp, cùng đã nhiều năm sống bên nhau, cùng đã nhiều năm làm việc với nhau. Tôi cũng nhớ về Bác Sáu trong tình biết ơn, bởi vì Bác Sáu đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành những cơ sở quan trọng đầu tiên của giáo phận Long Xuyên. Nếu nhìn thoáng qua, tôi sẽ thấy Bác Sáu là một bậc thầy. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, tôi sẽ thấy Bác Sáu còn là một người biết học. Theo thiển ý của tôi, điều mà Bác Sáu đã chăm chỉ học suốt đời, đó là học vâng phục thánh ý Chúa. 2. Vâng phục thánh ý Chúa trước hết là phải biết ý Chúa muốn gì. Biết đúng ý Chúa, biết rõ ý Chúa, trong một tình hình cụ thể là điều Bác Sáu thấy không dễ dàng gì. Cho dù biết đúng, biết rõ ý Chúa rồi, thì vẫn chưa phải là vâng phục ý Chúa. Mà còn phải thực thi trọn vẹn ý Chúa. Thực thi ý Chúa một cách trọn vẹn là điều Bác Sáu càng thấy rõ là rất khó, đầy cản trở. Biết như vậy, nhưng Bác Sáu vẫn khát khao sống vâng phục ý Chúa. Chúa vui nhận thiện chí đó của Bác Sáu. Chính Chúa dạy Bác Sáu qua những đào tạo và thanh luyện. Những đào tạo và thanh luyện của Chúa không là những lý thuyết cao siêu, hay những thành công theo ý riêng mỗi người, nhưng là những đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã là gương cho Bác Sáu. 3. Trong Tân Ước, tác giả thư gởi Do Thái đã viết về Chúa Giêsu thế này: “Chính Chúa Giêsu, cũng đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Bác Sáu cũng học được thế nào là vâng phục ý Chúa, nhờ trải qua nhiều đau khổ. Đau khổ là những thử thách đủ loại xảy đến trái ý mình. Với ơn Chúa, chính nhờ những thử thách đó, mà Bác Sáu nhận ra ý Chúa. 4. Ý Chúa gởi các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay là thế này: - Phải làm chứng cho Chúa hơn là rao giảng về Chúa. - Phải làm chứng cho Chúa bằng lời nói, thái độ, nhất là đời sống của mình. - Tất cả phải mang chất lượng cao về ba điều này: Một là về sự gắn bó mật thiết với Chúa. Hai là về sự yêu thương trong hy sinh, kính trọng và khiêm tốn hoà nhã đối với người khác, đặc biệt là gần gũi với những người nghèo khổ. Ba là về sự tu thân khổ chế với chính bản mình. Ý Chúa như thế không có gì là mới. Nhưng để ý Chúa như thế thấm nhập sâu vào tâm hồn, Bác Sáu đã phải trải qua nhiều thử thách. Nhất là khi thực thi ý Chúa như thế, Bác Sáu phải phấn đấu rất nhiều. 5. Những thử thách và những phấn đấu ấy không tránh được nhiều đau khổ. Đau khổ do chịu đựng hoàn cảnh không thích hợp. Đau khổ do phải từ bỏ ý riêng và lợi ích riêng. Đau khổ do gặp phải những thất bại, thất vọng, những bội bạc vô ơn, những hiểu lầm. Đau khổ do tội lỗi, những yếu đuối bệnh tật và những giới hạn của mình. Đau khổ do những hy sinh mình tự nguyện nhận lấy thay cho người khác. Đau khổ do thấy những đau khổ, mà muôn vàn người gần xa phải chịu. Đau khổ do những bóng tối, Chúa cho phép tràn vào tâm hồn mình. Những thử thách đau đớn trên đây và nhiều thử thách đau đớn khác đã dần dần tôi luyện Bác Sáu, để từ cái tôi đầy quyền lực, Bác Sáu trở thành con người đầy khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa. 6. Anh chị em thân mến, Cuộc đời Bác Sáu là một chuyến đi dài. Trong chuyến đi dài ấy, Bác Sáu đã học, và đã biết học ở trường học đau khổ. Tôi thấy là càng về cuối đời, Bác Sáu càng cảm thấy sự từ bỏ ý riêng, để vâng phục thánh ý Chúa chính là con đường dẫn tới hạnh phúc. Hạnh phúc được thuộc trọn về Chúa. Hạnh phúc ngay ở đời này, nhất là hạnh phúc trọn vẹn bền vững ở đời sau. 7. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa đã giúp Bác Sáu được theo Chúa Giêsu, mà học vâng lời nhờ trải qua nhiều đau khổ. Nếu trong hành trình dài cuộc đời, Bác Sáu có những lầm lỗi nào còn phải được thanh luyện ở đời sau, thì xin Chúa nhân từ thương tha thứ cho Bác Sáu. Trong thánh lễ này, chúng ta xin Chúa cho chính chúng ta cũng biết học vâng phục thánh ý Chúa nhờ những đau khổ mà chúng ta gặp hằng ngày. Xin Bác Sáu cũng cầu nguyện cho chúng ta. Chúng ta sẽ cầu nguyện rất nhiều cho nhau. Bởi vì tình hình hiện nay rất phức tạp. Những người đau khổ thì nhiều, nhưng những người học được đạo đức nhờ đau khổ thì lại quá ít. Hiện tượng đó xem ra đang báo động một sự cứng lòng nguy hiểm có thể dẫn tới một sụp đổ kinh hoàng. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.
Trong đời tôi, chưa bao giờ, tại Việt Nam, số linh mục được tăng thêm nhiều như hiện nay. Cũng chưa bao giờ, tại Việt Nam, vấn đề đào tạo linh mục được bàn tới nhiều như hiện nay. Nhưng cũng chưa bao giờ, tại Việt Nam, hình ảnh người linh mục lại bị tục hoá nhiều như hiện nay. Khi tình hình Đất Nước đang bị khủng hoảng về đạo đức, thế mà hình ảnh linh mục lại bị tục hoá, thì đó là vấn đề rất đáng lo ngại, gây xót xa và bức xúc cho những ai yêu thương Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam. 2. Với tất cả tinh thần trách nhiệm trước mặt Chúa, tôi nghĩ về ơn Chúa gọi tôi và sai tôi đi. Tôi xin được chia sẻ chân thành. Thường ngày, Chúa Giêsu gọi tôi qua lời Người trối lại trong bữa Tiệc ly: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Tôi coi đó là một lời Chúa gọi chính tôi. Thêm vào lời gọi thường ngày đó, Chúa lại gọi tôi một cách khẩn thiết hơn, bằng một lời vắn gọn trong nhiều hoàn cảnh khác thường. Lời vắn gọn khẩn thiết đó được Chúa gởi tới tôi từ thánh giá trong lúc Người sắp tắt thở. Đó là lời: “Ta khát” (Ga 19,28). Tôi hiểu là Chúa Giêsu khát khao được chia sẻ tình yêu của Người cho tôi. Người khao khát tôi yêu mến Người. Người khao khát tôi đón nhận tình yêu của Người. 3. Điều mà tôi dần dần hiểu rõ, là yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương ở đỉnh cao nhất chính là hy sinh mạng sống, như Người thực hiện trên thánh giá. Chúa Giêsu nói với ai về việc hy sinh mạng sống mình? Thưa Chúa Giêsu nói với các tông đồ là những người đã được Chúa ban chức thánh để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Chúa Giêsu nói về sự hy sinh mạng sống mình trong trường hợp nào? Thưa Chúa nói trong trường hợp Người nói về mục tử nhân lành. Trong bài nói đó, Chúa nhấn mạnh đến bốn lần việc người mục tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. - “Mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). - Khi nói về những chủ chiên bỏ chiên mà chạy trốn, lúc chiên gặp khó, Chúa nói về chính mình: “Tôi hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,16). - Khi nói về lý do tại sao Chúa Cha yêu mến Người, Chúa Giêsu nói: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống tôi cho đoàn chiên” (Ga 10,17). - Khi nói về tính cách tự nguyện hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, Chúa Giêsu nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được. Nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). 4. Như vậy đã rõ Chúa Giêsu kêu gọi các mục tử hãy biết hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, không phải chỉ những lúc cần bảo vệ chiên khi có sói tấn công chiên, mà còn cả những lúc tự nguyện, khi sự hy sinh mạng sống của mình có lợi cho chiên, để họ được cứu độ. Đã hẳn, bổn phận của người mục tử là biết chăn nuôi, biết bênh vực, biết dẫn dắt, biết quy tụ. Nhưng không phải chỉ có thế. Chúa Giêsu còn nhấn mạnh đến việc hy sinh mạng sống. Như thế, việc hy sinh mạng sống là đức tính cao quý nhất của người mục tử theo mẫu gương Chúa Giêsu. Hy sinh mạng sống mình, đó là dấu chỉ chắc chắn nhất, để nhận ra ai là mục tử đích thực, mà Chúa Giêsu mong muốn. 5. Càng đi sâu vào cuộc đời mục tử, tôi càng khám phá ra sự hy sinh mạng sống mình nơi người chủ chiên là một đòi hỏi suốt cả đời mình, dù ở tuổi nào, dù ở nơi nào, dù còn tại chức hay đã về hưu. Hy sinh mạng sống mình nơi người mục tử thường là những hy sinh không đổ máu. Không đổ máu, nhưng vẫn là hy sinh. Nghĩa là có đau đớn, vì cuộc sống mình như bị chết đi một cách nào đó. Nhưng tự nguyện chấp nhận vì yêu thương. Tôi nghĩ tới nhiều thứ xảy đến cho tôi như những cái chết. Chết nhiều, chết ít, tất cả mọi cái chết đều đến một cách nghiêm khắc, không chút khoan dung. Điều quan trọng là tôi biết chấp nhận với tình yêu thương. Về điều này, xin chớ bao giờ đưa lý thuyết ra mà nói là sẽ dễ dàng. Bởi vì thực tế cho thấy: Chịu đau khổ mà vẫn biết yêu thương như Chúa Giêsu, quả là không dễ chút nào. 6. Có thể gọi được là dễ về phương diện đức tin mà thôi. Diễn tiến sẽ thế này: Tôi tin: Tình yêu Chúa Giêsu là mục đích đời tôi. Đón nhận tình yêu Chúa Giêsu, sống trọn vẹn cho tình yêu ấy, đó là căn bản ơn gọi của tôi. Tôi tin: Khi phải hy sinh mạng sống mình, mà vẫn yêu thương được như Chúa muốn, là điều rất khó. Nhưng tôi sẽ thực hiện được, nếu tôi có chính Chúa Giêsu trong tôi. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Tôi tin: Hoa trái của sự hy sinh mạng sống mình vì tình yêu theo gương Chúa Giêsu sẽ là hoa trái của một của lễ. Của lễ của tôi sẽ kết hợp với của lễ của Chúa Giêsu, để cứu độ nhân loại: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta. Không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,2). Như vậy, những cái chết, và những khổ đau vẫn có thể dùng để phục vụ cho tình yêu. Chính nhờ đó, mà hy sinh mạng sống mình, theo gương Chúa Giêsu, sẽ làm vinh danh Chúa Cha và có sức cứu các linh hồn. Hành trình đức tin như thế đòi tôi phải chiến đấu với chính mình rất nhiều. 7. Đến đây, tôi thấy thái độ mục tử của tôi đối với đoàn chiên cần phải xem xét lại. Hiện nay, lối sống thực dụng, lối sống thoải mái, lối sống hưởng thụ, đang làm cho một số không ít các mục tử xa dần lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Nếu làm mục tử, chỉ được để dâng lễ trên bàn thờ, với những bổng lộc, chức tước và hình ảnh cao trọng của người cai trị, thì chắc chắn tôi không đáng gọi là mục tử của Chúa. Nếu làm mục tử, để có danh dự gọi là tu thân theo Chúa, nhưng lại có lối sống tự do thoải mái sung sướng hơn đoàn chiên, thì chắc chắn tôi càng không đáng gọi là mục tử của Chúa. Nếu làm mục tử, để nhắm vào những thành công về tổ chức, về xây cất, về các hoạt động bề ngoài, về tiền bạc, về sức khoẻ, tự coi đó như những dấu chỉ của người môn đệ Chúa, sinh được kết quả làm rạng danh Chúa và cứu các linh hồn, thì chắc chắn tôi cũng không là mục tử, mà Chúa muốn. Chúa khát các linh hồn. Chúa khát tình yêu của Người được đón nhận và được chia sẻ. Một tình yêu luôn tự nguyện hy sinh mạng sống mình dưới mọi hình thức, để làm vinh danh Chúa Cha và để cứu các linh hồn. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá! Lạy Chúa Giêsu, xin thương giúp con biết đón nhận và cộng tác vào sự thanh luyện, mà Chúa đang muốn thực hiện nơi các mục tử của Chúa tại Việt Nam hôm nay.
Lừa dối là một hiện tượng xấu đang phát triển mạnh trong mọi hình thức. Lời nói lừa dối. Hành động lừa dối. Thái độ lừa dối. Nếp sống lừa dối. Lừa dối cũng đang lan rộng trong nhiều lãnh vực. Lừa dối trong lãnh vực chính trị và trong lãnh vực kinh tế, thì đã là tai hại. Nhưng lừa dối cả trong những lãnh vực cao quý như tình nghĩa, tình yêu, thì đó là thảm hoạ. Nếu lừa dối lại xảy đến trong lãnh vực tôn giáo, ở những người mang danh thánh thiện, ở những việc gọi là thánh thiêng, ở những nơi gọi là đã thánh hoá, thì quả là quá tồi tệ. Mình lừa dối người khác. Mình bị người khác lừa dối. Mình tự lừa dối chính mình. Cả ba hình thức lừa dối đó đều đang xảy ra một cách không ngờ, rất phức tạp. Xem như lừa dối đang được coi như chuyện bình thường. Với đà này, đạo đức sẽ đi về đâu? Ở đây tôi xin bắt đầu bằng sự chính mình tự lừa dối mình. 2. Xin được nêu lên vài thí dụ. Tôi tưởng điều gì tốt thì tôi sẽ làm được, điều gì xấu thì tôi sẽ tránh được. Nhưng tưởng như thế là tự lừa dối mình. Bởi vì thực tế bắt tôi phải thú thực như thánh Phaolô xưa: “Muốn điều thiện, thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn làm, thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). 3. Tôi tưởng những ai được ở bên Chúa Giêsu, những ai có lòng tốt với các tông đồ Chúa, đều không thể bị quỷ Satan khống chế. Nhưng tưởng như thế là tự lừa dối mình. Bởi vì thực tế cho thấy đã có những trường hợp những người ở bên Chúa Giêsu và phục vụ các tông đồ đã bị quỷ Satan lôi kéo. Hơn nữa, Kinh Thánh còn quả quyết: Họ bị quỷ Satan nhập tâm. Thánh sử Gioan viết về tông đồ Giuđa Iscariôt: “Y vừa ăn xong miếng bánh Chúa mời ăn, thì quỷ Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27). Tông đồ Công vụ viết về ông Khanania là người bán đất của mình, rồi đưa tiền dâng cúng cho các tông đồ, nhưng giấu giữ lại một phần. Ông bị thánh Phêrô mắng: “Anh Khanania, sao anh để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần” (Cv 5,2). 4. Tôi tưởng Hội Thánh của tôi đang tiến bước một cách êm ả, với tinh thần canh tân toàn diện. Nhưng tưởng như thế là tự lừa dối mình. Bởi vì thực tế cho thấy đang có những suy thoái trầm trọng, không những nơi những cá nhân, mà cả nơi cơ chế. Đức cố Hồng Y Carôlô Martini dám nói lên sự thực đó với lời lẽ xót xa: “Giáo Hội chậm trễ đến 200 năm” (x. Tuần báo CG&DT số 1874, trang 23). Tự lừa dối mình, đó là một sự thực đau lòng và nguy hiểm. Tình trạng như thế không được phép kéo dài. Chúng ta phải làm gì? 5. Thưa, trước hết chúng ta phải coi tình trạng tự lừa dối mình là có thật. Nếu chối là không có, thì lại thêm một sự lừa dối mình nữa. Và sự lừa dối đó sẽ dẫn tới hậu quả rất trầm trọng có liên quan đến tồn vong của Hội Thánh địa phương, và liên quan đến cả phần rỗi đời đời của ta và của nhiều người. Chính mình lừa dối mình, đó là điều rất nguy hiểm, phải khiêm tốn nhìn sự thực ấy. Đó là bước đầu cần thiết. Bước tiếp theo là gì? 6. Theo thiển ý của tôi, mọi bước tiếp theo đều sẽ là: Tất cả những gì gọi là lừa dối đều phải xa tránh. Kinh nghiệm cho thấy: Lừa dối nào cũng xấu. Lừa dối này kéo theo lừa dối kia. Kẻ quen lừa dối, sẽ không ngại lừa dối mình, lừa dối người dưng, lừa dối người thân, lừa dối dư luận, lừa dối cả Thiên Chúa. Động cơ lừa dối thường là tìm lợi ích riêng. Lợi ích riêng gồm nhiều thứ, như tiền của, địa vị, danh vọng, tình cảm, tình yêu, chức tước. Khi lợi ích riêng vượt khả năng mình, hoặc đụng chạm đến lợi ích chung hoặc lợi ích người khác, nhưng người ta cứ muốn tìm nó về cho mình bằng bất cứ giá nào, thì sẽ khó tránh được lừa dối, thủ đoạn và xung đột, nếu thiếu đạo đức. Quá tìm lợi ích riêng đã là không tốt. Phương chi còn dám tìm lợi ích riêng bằng lừa dối thì quả là xấu quá. 7. Satan xưa đã lừa dối ông Adong và bà Evà trong vườn địa đàng. Satan xưa cũng đã muốn lừa dối Chúa Giêsu, khi Chúa ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Satan vẫn mãi dùng sự lừa dối để làm hại con người, nhất là phá hoại Hội Thánh Chúa. Vì thế chúng ta hãy luôn luôn cảnh giác, đừng để mình đi vào sự lừa dối, bất cứ dưới hình thức nào.
8. Những gì tôi vừa nói trên đang xảy ra rải rác trong Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Những chỗ nào có liên quan đến chức tước, địa vị, tiền bạc, danh vọng, tranh đấu, sùng mộ, đều có nhiều cơn cám dỗ rình rập. Cám dỗ nhìn những chỗ đó như cơ hội tốt, để tìm kiếm lợi ích riêng. Cám dỗ sáng kiến ra những cách nhằm đạt được lợi ích riêng. Cám dỗ những sáng kiến đó chấp nhận nhiều ít lừa dối được che giấu một cách tinh vi. Phải nói ngay là rất nhiều người đã can đảm và trong sáng trước những cơn cám dỗ như thế. Nhưng bên cạnh những gương sáng ấy, chẳng may cũng có những người sa ngã.Số kẻ lừa dối người khác thì không đông. Nhưng số người bị lừa dối thì vô kể. Họ rất tốt và rất đáng thương. Satan sẽ kiên trì trong việc lừa dối. Xin hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Đồng thời hãy luôn nhớ lừa dối là điều rất xấu. 9. Lúc này, với tâm tình tin tưởng, tôi xin được chia sẻ ba điều sau đây, mà tôi đã thực hiện để đối phó với các cám dỗ lừa dối của Satan. Một là tôi biết tôi rất tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, như một vực thẳm hôi tanh. Chính sự nhìn nhận này đã giúp tôi nhìn lên Chúa với lòng cậy trông vô bờ. Hai là tôi biết tình yêu thương của Chúa rất bao la, như một vực thẳm thơm ngát rộng hơn gấp ngàn lần vực thẳm của tôi. Nếu tôi bám vào lòng thương xót Chúa, chắc chắn Chúa sẽ cứu tôi. Tôi nhớ Lời Chúa gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Tôi đã đến với Chúa, đã đặt gánh nặng đời tôi vào lòng Chúa. Và thực sự Chúa đã đỡ nâng tôi. Tôi rất tin vào lòng thương xót Chúa. Ba là tôi biết Đức Mẹ chẳng bao giờ bỏ những đứa con bệnh nạn cậy trông ở Mẹ. Chính do Đức Mẹ cầu bầu mà tôi nay được ơn biết trân trọng niềm tin vào Đức Kitô và được đau khổ cùng với Đức Kitô, như lời thánh Phaolô xưa: “Nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ với Người” (Pl 2,29). Lạy Chúa, xin thương cứu chúng con.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho các môn đệ của Người. Người nhắc đi nhắc lại tư tưởng này: “Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con. Bởi vì họ thuộc về Cha... Họ không thuộc về thế gian” (Ga 17,9-14). Trong lời cầu trên đây, Chúa Giêsu phân ra hai loại người: Loại người thuộc về Chúa và loại người thuộc về thế gian. Cái nhìn của Chúa thực dứt khoát. 2. Chỉ có Chúa mới dứt khoát được như vậy. Chứ trên thực tế, tôi thấy đâu có rõ ràng, nhất là khi mỗi người chúng ta lại thuộc về nhiều thứ. Thực vậy, trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay, ai cũng có nhiều “thuộc về” này nọ, như: Thuộc về một giáo phận, một giáo xứ, một khu xóm, một gia đình, một uỷ ban, một hội đoàn, một nhóm, một cơ quan, một bề trên, có khi cũng còn thuộc về một người mình yêu thương sùng mộ. Tất cả mọi thuộc về đó có thực sự thuộc về Chúa không? Chắc là khó mà biết được. 3. Phúc Âm soi sáng cho tôi. Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23). Như vậy, nếu có ngày, tôi và một số người của Hội Thánh thưa với Chúa rằng: Con đã nhân danh Chúa mà tổ chức nhiều thánh lễ một cách linh đình rầm rộ. Con đã nhân danh Chúa mà xây cất nhiều cơ sở của Hội Thánh với công sức và tốn phí lớn lao. Con đã nhân danh Chúa mà hăng hái, dồn hết sức mình vào công việc làm kinh tế và tranh đấu cho lợi ích của Hội Thánh. Và nhân danh Chúa mà làm bao nhiêu việc khác nữa. Biết đâu Chúa sẽ tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi là ai! Nghĩa là Chúa sẽ không nhận chúng tôi là những người thuộc về Chúa. Chắc gì điều đó sẽ không xảy ra. 4. Tôi tưởng tôi thuộc về Chúa. Nhưng nếu Chúa lại coi tôi là thuộc về thế gian, thì đó là điều rất đáng sợ. Tôi nên sợ và phải sợ. Bởi vì sự thuộc về Chúa là điều không đơn giản, không dễ dàng. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện tha thiết cho những ai thuộc về Chúa, để họ khỏi sai lầm mù quáng trong nhận thức, trong chọn lựa, trong việc làm, đưa họ tới chỗ trở thành người thuộc về thế gian trong lúc không ngờ. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng: Khao khát thuộc về Chúa một cách trọn vẹn đã là một điều không dễ. Phương chi phấn đấu vượt qua mọi trở ngại để thuộc trọn về Chúa một cách gắn bó, một cách trung tín, càng là điều không dễ chút nào. Các trở ngại quan trọng đã được tu đức Phúc Âm nêu lên gồm: Xác thịt nặng nề, thế gian quyến rủ, ác thần lừa dối. Ba cản trở trên đây là rất mạnh. Đối phó với chúng bằng những lý luận là rất sai lầm. Khẳng định mình thắng được chúng bằng ý chí là đã bắt đầu thua chúng. Tự hào mình biết chắc chắn mình luôn luôn thuộc về Chúa là đã ở trong bẫy của Satan rồi. Khó khăn rất nhiều và rất phức tạp trong việc được thuộc về Chúa. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện để chúng ta cũng hãy cầu nguyện. 5. Chúa nhấn mạnh đến sự thuộc về Chúa. Sự Chúa nhấn mạnh đó khiến tôi phải suynghĩ nhiều. Thế nào là thuộc về Chúa? Chúa Giêsu làm gương bằng sự chính Người thuộc về những kẻ thuộc về Người. Chúa Giêsu đã gắn bó với họ, đã hy sinh mạng sống cho họ, đã tìm cách ở lại với họ khi phải xa họ. Nhưng đó mới chỉ là tình yêu một chiều. Chúa coi là không đủ. Chúa đòi chiều đền đáp. Chúa muốn những kẻ thuộc về Chúa cũng hãy gắn bó với Chúa, hy sinh vì Chúa, ở lại trong Chúa. “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Ở lại nói đây phải là một gắn bó mật thiết. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). 6. Như thế, những người thuộc về Chúa phải là những trái tim bừng cháy lửa yêu thương. Họ cũng yêu thương nhau như vậy, theo lời Chúa dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Cộng đoàn các tín hữu đầu tiên của Hội Thánh gồm những người thuộc về Chúa một cách chan hoà như thế đó. Họ cảm nhận đời sống thuộc về Chúa như thế là một đời sống luôn luôn hiệp thông, không ngừng cầu nguyện với Chúa và chia sẻ của cải cho nhau (x. Cv 2,42-47). 7. Hồi đó là như thế. Còn nay thì sao? Nay thì rất khác. Tôi xin nói về thời nay của Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Hiện nay, nhiều tín hữu, thay vì chỉ lo thuộc về Chúa, thì thường lại lo thuộc về các đối tượng mang danh Chúa. Những đối tượng đó thường là các tổ chức và các chức vụ. Như một cộng đoàn, một nhóm, một cơ sở từ thiện, một phong trào đạo đức, một địa vị, một công trình. Trên thực tế, nhiều tổ chức và chức vụ trở thành cơ hội để tìm kiếm lợi riêng cho mình hơn là lợi cho Chúa. Lợi riêng cho nhóm đã đành, nhưng cũng còn kiếm lợi ích cá nhân. Trong hướng đó, việc mến Chúa yêu người dễ bị coi nhẹ, nhường chỗ cho việc mến yêu những thứ khác. Do đó đã nảy sinh ra những tranh chấp gây chia rẽ, nghi kỵ và phân hoá. Gây gương xấu nhiều nhất hiện nay là mang danh nghĩa Chúa và công ích để thu gom tiền bạc của cải và uy tín cho riêng cá nhân mình, bất chấp luật công bằng và bác ái. Thiệt hại nghiêm trọng gây ra cho đạo Chúa không phải thuộc về lãnh vực vật chất, mà là lãnh vực tinh thần. Nhiều người bị các gương xấu đó trong Đạo chi phối, đã giảm bớt lòng tin tưởng vào Đạo và các người theo Đạo. 8. Tới đây, vấn đề đặt ra cho tôi là tôi phải làm hết sức mình để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn và đích thực. Thêm vào đó, tôi phải làm hết sức mình để mến Chúa yêu người như Chúa Giêsu đã dạy và đã nêu gương. Làm hết sức mình nói đây sẽ đặt nặng việc khiêm nhường cầu nguyện và khiêm nhường tỉnh thức, như Chúa đã dạy. Lạy Chúa, con biết mình con rất yếu đuối. Xin Chúa thương giúp con được luôn trở về với Chúa.
Lúc này, Chúa Giêsu hay nói với tôi một lời, mà xưa Người đã nói tại nhà người thu thuế Matthêu: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Với câu nói đó, Chúa Giêsu an ủi tôi rất nhiều, vì lúc này tôi cảm nhận mình có quá nhiều yếu đuối tối tăm. Với câu nói đó, Chúa Giêsu cũng đã cho tôi hiểu rõ hơn một số điều quan trọng trong việc chúng ta phải cộng tác vào công việc Chúa cứu độ chúng ta. 2. Điều quan trọng thứ nhất là chúng ta phải nhận biết mình cần được cứu. Tự mình nhận ra mình là kẻ tội lỗi, đó là điều đã xảy ra nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn. Nhưng chẳng may rất nhiều người và nhiều cộng đoàn đã không tự mình có được nhận thức đó. Số trường hợp không nhận ra như thế là rất đông. Điều này đã xảy ra thời Chúa Giêsu giảng đạo tại Israel. Theo Phúc Âm, một việc mà Chúa Giêsu đã rất để ý làm cho những người dân Chúa thời đó, là cho họ thấy loại người xấu trong dân Chúa là rất đông một cách không ngờ. - Mười người phong cùi đều được Chúa chữa lành. Nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Mà người đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17,11-19). - Ba người cùng đi đường cùng thấy một nạn nhân bị kẻ cướp trấn lột và đánh nằm bị thương bên vệ đường. Một người là thầy tư tế, một người là thầy Lêvi, một người là người ngoại đạo Samari. Nhưng chỉ có người ngoại đạo đó đã làm việc bác ái, lo chăm sóc nạn nhân (x. Lc 10,29-37). - Cửa rộng và đường rộng sẽ đưa người ta đến diệt vong. Thế mà số người chọn cửa rộng và đường rộng lại rất đông. Còn cửa hẹp và đường hẹp đưa đến sự sống thì lại được ít người chọn (x. Mt 7,13-14). Chọn việc xấu hơn việc tốt, đó là một sự thực đau đớn. Nhưng còn một sự thực đau đớn hơn nhiều, đó là chọn người xấu hơn người tốt. Trong dinh tổng trấn, khi được quan Philatô hỏi: Muốn tha tên cướp Baraba hay là Giêsu, thì các thượng tế sách động đám đông đòi quan tha cho Baraba, và giết Chúa Giêsu (x. Mc 15,8-12). Khi Chúa Giêsu bị khổ nạn, số người trung thành gắn bó với Chúa tới phút sau cùng là quá ít. Hầu hết các tông đồ của Chúa cũng đã thất trung. Thực tế ấy đã cho dân Chúa hồi đó thấy: Phần đông họ chọn việc xấu hơn việc tốt, chọn người xấu hơn người tốt, chọn đường xấu hơn đường tốt. Trước thực tế đó, đáng lẽ họ phải mở mắt ra, mà khiêm nhường nhận mình sai trái. Nhưng phần lớn không nhận ra. Không nhận mình sai trái tất nhiên đi tới chỗ tin mình không cần được cứu. Thế là bế tắc. 3. Chúa đến để kêu gọi mỗi người hãy nhận ra mình cần được cứu. Chúa kêu gọi, chứ không cưỡng ép. Chúa tôn trọng sự tự do của mỗ người. Mỗi người sẽ phải chịu trách nhiệm về thái độ cho mình là không cần được cứu. “Chúng tôi không cần được cứu”. Xem ra nhiều người dám nói như vậy. Hiện tượng thê thảm đó cũng xảy ra trong Hội Thánh ở mọi nơi mọi thời. Thảm hoạ đó cũng có thể đang xảy ra nơi chính chúng ta và cộng đoàn chúng ta. Rất có thể chúng ta không ưa thích việc lành, mà lại ưa chuộng việc xấu. Rất có thể chúng ta đang tránh đường hẹp ngay chính, mà dấn thân vào đường rộng tội lỗi. Rất có thể chúng ta đã bỏ người Chúa chọn, mà chọn người Chúa không chọn. Chúng ta sai, nhưng chúng ta không chịu nhận mình sai. Chúng ta tự lừa dối mình, rồi lại tin những lừa dối đó là chân lý đem lại hạnh phúc. Thành ra ta đâu có nhận ra mình cần được cứu. Tình trạng mù quáng đó là cực kỳ nguy hại. 4. Điều quan trọng thứ hai là chúng ta phải xin được Chúa cứu. Rất may là hiện nay, nhiều người cũng đã nhận ra mình tội lỗi, sai lầm. Nhưng họ muốn cứu mình bằng ý chí và bằng các phương pháp tự nhiên. Phần tôi, tôi không phủ nhận vai trò của ý chí và của các phương pháp tự nhiên, nhưng tôi cho là không đủ. Để cứu tôi khỏi tội lỗi, tôi thấy mình cần phải xin Chúa cứu. Tôi tin điều đó. Tôi xác tín điều đó. Tôi khẳng định điều đó. Tôi nghĩ là chúng ta đã có nhiều lỗi lầm. Chúng ta biết chúng ta lỗi lầm, nhưng chúng ta vẫn chưa sửa mình được. Lý do chính là vì chúng ta yếu đuối. Thánh Phaolô nói: “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19). Tôi càng phải thú nhận như vậy. Thú nhận đó làm tôi an tâm. Tôi càng được an tâm, khi tôi thú nhận thêm như thánh Phaolô: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,24,25). Sự tin nhận Chúa Giêsu sẽ cứu được tôi đã đem lại cho tôi sự bình an ngọt ngào. 5. Sự bình an ấy đang được dần dần tăng lên, khi tôi xin Đức Mẹ cứu tôi. Tôi được Đức Mẹ dạy tôi là không những tôi cần được cứu khỏi những tội lỗi mà cũng rất cần được cứu khỏi những thói quen xấu, tục lệ xấu và phong trào xấu. Thực sự, hiện nay, có nhiều thói quen xấu, tục lệ xấu và phong trào xấu xem ra đang được bảo trì và phát triển một cách trân trọng hơn là Lời Chúa. Thí dụ thói quen sống theo ý riêng mình, dễ dàng coi ý riêng mình cũng hợp với thánh ý Chúa. Thí dụ thói quen dửng dưng vô tâm trước những cảnh báo Chúa đang gởi đến bằng nhiều cách, về khả năng sẽ xảy ra những khốn khó kinh hoàng, nếu người ta cứ tiếp tục cứng lòng đi theo đường sai trái. Thí dụ tục lệ pha trộn nhiều thứ trần tục vào lãnh vực thánh, dần dần việc tục-hoá lễ thánh, bàn thánh, đền thánh, chức thánh được coi như bình thường. Thí dụ tục lệ bảo vệ và phát triển những lợi ích cục bộ, gây nên phân hoá và chia rẽ. Thí dụ phong trào quá tin vào những sự phù du đời này, mà lơ là với hạnh phúc vững bền đời sau. Thí dụ phong trào đi tìm những hạnh phúc mới, thôi thúc bởi động lực nguỵ tạo tốt, tự lừa dối mình và lừa dối người khác. 6. Để thấy mình cần được cứu và xin được cứu, Đức Mẹ dạy tôi hãy sống đời thơ ấu. Trẻ nhỏ lúc nào cũng thấy mình cần được mẹ cứu và luôn xin mẹ cứu. Tôi hiểu Đức Mẹ muốn dạy tôi phải rất khiêm nhường. Chúa đến tìm tôi, kêu gọi tôi trở về với Chúa. Nếu tôi khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi, sai lầm, muốn được trở về, và xin ơn trở về, sẵn sàng đón nhận ơn trở về, thì Chúa sẽ cứu tôi. Tới đây, tôi nhận ra sự thực này: Khiêm nhường là điều kiện rất quan trọng, trong việc nhận ra mình cần được cứu và xin được Chúa cứu. Càng được Đức Mẹ dạy về khiêm nhường, tôi càng thấy rõ điều này: Cái mà tôi cần xin Chúa cứu tôi thoát khỏi hơn hết, chính là cái tôi của tôi, đó là cái tôi thuộc về thế gian, thích theo ý riêng mình. Để rồi tôi sẽ được trở thành cái tôi thuộc về Chúa, luôn ngoan ngoãn vâng phục thánh ý Chúa. Nếu trong tháng Mân Côi này, tôi có một quyết tâm riêng về khiêm nhường, chăm chú tập luyện sự khiêm nhường, và xin ơn khiêm nhường, thì thiết tưởng đó là một quyết tâm tốt cho cả ba lãnh vực tu đức, mục vụ và truyền giáo của tôi. Tôi tin Chúa sẽ ban ơn cứu tôi. Nhưng tôi cũng biết là ơn Chúa cứu tôi không miễn cho tôi khỏi phấn đấu và hy sinh. Lạy Chúa, con muốn được cứu và tha thiết xin được Chúa cứu khỏi những tội lỗi, khỏi những sai lầm và khỏi những nguy cơ. Cúi xin Chúa thương giúp con biết cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa.
Tôi sống đức tin đã nhiều năm. Nếu hỏi tôi, trong suốt thời gian dài ấy, điều gì đã gây ấn tượng mạnh nhất và rõ nhất về đức tin, thì tôi xin thưa: Điều đã gây ấn tượng mạnh nhất và rõ nhất về đức tin trong cuộc sống của tôi, chính là: Chúa, mà tôi tin, luôn gần gũi với tôi. 2. Xin được phép kể ra một số trường hợp: Có những lúc tôi ở trong vòng tội lỗi. Chính lúc đó, Chúa đã đến với tôi. Người đi tìm tôi, như lời Người đã nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Ở đây, gần gũi của Chúa là tìm đến. Có những lúc tôi ở trong tình trạng bị kết án, như bị đóng đinh và như bị treo lên. Chính lúc đó, Chúa đến với tôi. Người ở bên tôi, trong hình ảnh bị đóng đinh và bị treo lên giữa hai tên trộm cướp (x. Mt 27,38). Người nói với tôi: “Cha cũng bị đóng đinh, để ở bên con”. Ở đây, gần gũi của Chúa là cùng chịu khổ nhục với tôi, để được ở bên tôi. Có những lúc tôi mải lo việc này việc nọ, không nghĩ gì đến Chúa. Chính lúc đó, Chúa chủ động đến gọi tôi đi theo Chúa, như xưa Chúa đã gọi các tông đồ (x. Mt 4,18-22). Ở đây, gần gũi của Chúa là Chúa nghĩ tới tôi, khi tôi không nghĩ gì tới Chúa. Có những lúc tôi yếu đuối lỡ lầm. Chính lúc đó, Chúa nhìn tôi như xưa Chúa đã nhìn thánh Phêrô chối Chúa(x. Lc 22,61). Ở đây, gần gũi của Chúa là kéo tôi về với Chúa bằng tình thương tế nhị. Có những lúc tôi rơi vào tình trạng tối tăm. Chính lúc đó, Chúa đồng hành với tôi, nhẹ nhàng soi sáng cho tôi, như xưa Chúa đã làm cho hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). Ở đây, gần gũi của Chúa là đồng hành với tôi. Có những lúc tôi sợ hãi, khép kín lòng mình lại, như các tông đồ xưa sau biến cố Chúa bị tử nạn, đã giấu mình trong căn phòng đóng kín. Chính lúc đó, Chúa đã đến với tôi như đã đến với các tông đồ (x. Ga 20,19). Ở đây, gần gũi của Chúa là ban ơn bình an, xoá tan nỗi sợ. 3. Trên đây là một ít trường hợp nói lên những cách khác nhau Chúa đã dùng, để thực hiện sự Chúa gần gũi tôi. Tất cả mọi gần gũi đó đều đem lại cho tôi tình thương cứu độ và chân lý cứu độ. Nhờ sự Chúa gần gũi, tôi nhận ra sự thực về tôi gồm những yếu đuối và tội lỗi, đồng thời tôi nhận ra sự thực về Chúa là tình yêu của người cha giàu lòng thương xót. Nhờ sự Chúa gần gũi, nên tôi hiểu Chúa, tôi tin Chúa và tôi yêu Chúa. Tôi hiểu, nên tôi tin, nên tôi yêu. Và ngược lại, tôi yêu, nên tôi tin, nên tôi hiểu. Ba việc đó tác động sang nhau, nhờ sự Chúa gần gũi. Hiểu Chúa, tin Chúa, yêu Chúa, đó là ba việc khác nhau, nhưng cả ba đều trà trộn với nhau trong việc tôi gần gũi với Chúa. 4. Khi gần gũi với Chúa, tôi thấy ba việc hiểu Chúa, tin Chúa và yêu Chúa đã giúp tôi cảm nhận được điều này: Điều đang làm cho Chúa phải đau lòng, không phải là sự người ta không hiểu Chúa và không tin Chúa, mà là sự người ta xúc phạm đến tình yêu Chúa, mặc dù đã biết Chúa và tin Chúa. Ngay giữa con người với con người, việc xúc phạm đến tình yêu của nhau, phải coi là điều gây đau xót nhất. Phương chi giữa con người với Chúa, việc con người xúc phạm đến tình yêu Chúa càng phải coi là điều gây đau đớn nhất cho Chúa. Cảm nhận trên đây khiến tôi để ý nhiều hơn đến việc yêu Chúa. Tôi nhớ lại lời thánh Phaolô quả quyết: “Giả như tôi có cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cr 13,2). 5. Với tâm tình con thảo, tôi thiết nghĩ rằng: Chúa sẽ không phiền trách tôi, nếu tôi không hiểu biết đủ các mầu nhiệm của Chúa. Chúa cũng sẽ không buồn tôi, nếu tôi không tin đủ tất cả những gì thần học dạy về Chúa. Nhưng Chúa sẽ rất đau lòng với tôi, nếu tôi không yêu mến Chúa đủ, theo như Chúa muốn, và hết khả năng của tôi. Yêu Chúa thì tôi phải coi Chúa là hạnh phúc lớn nhất của tôi. Yêu Chúa thì tôi phải coi Lời Chúa là lương thực hằng ngày của tôi. Yêu Chúa thì tôi phải phấn đấu cùng với Chúa cứu rỗi các linh hồn. Yêu Chúa thì tôi phải cố gắng sống hiền lành khiêm tốn theo gương Chúa. Yêu Chúa thì tôi phải sống gần gũi mật thiết với Chúa. 6. Khi đặt nặng việc yêu Chúa trong đời sống đức tin, trước hết tôi nhớ tới thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Người nữ tu trẻ tuổi ấy đã là nhân chứng của đức tin qua một tình yêu nồng nàn, khiêm tốn và đầy hy sinh, trong chính đời thường. Tôi cũng nhớ tới linh mục PhanxicôXaviêTrương Bửu Diệp.Vị linh mục trẻ tuổi ấy đã là nhân chứng của đức tin qua một sự lựa chọn chan chứa tình yêu thắm thiết. Chọn chết để cứu đoàn chiên. Chọn chết vì tin tưởng ở Chúa. Chọn chết, mà vẫn yêu thương chính những kẻ gây nên cho ngài cái chết đớn đau, cô đơn, thê thảm. Tôi cũng nhớ tới nhiều cuộc đời đang là nhân chứng của đức tin tại Việt Nam hôm nay. Họ thuộc đủ mọi thành phần đang sống với những lựa chọn đề cao tình yêu Chúa. Họ tự chọn sống gần gũi với lớp người nghèo khổ, để đồng hành, để chia sẻ, có lúc còn để chịu khổ thay. Họ tự chọn gần gũi với những người lầm lạc, tội lỗi, để lấy tình thương thắng hận thù, để lấy hy sinh cứu chuộc các linh hồn, để chôn vùi mình, như hạt lúa chịu thối đi, với hy vọng sẽ có một mùa màng bội thu. Họ tự chọn gần gũi với những người phải chịu mất mát đủ mọi thứ, chỉ vì dám làm chứng cho tình yêu đối với Chúa, với Hội Thánh và với các linh hồn. 7. Tới đây, tôi thấy việc làm chứng cho đức tin tại Việt Nam hôm nay nên hết sức thực tế. Nghĩa là làm chứng trong đời sống thường ngày, bằng những lựa chọn theo đúng mến Chúa yêu người, với tinh thần trách nhiệm, tỉnh thức, khôn ngoan, nhất là trong những bất ngờ. Thực tế cho thấy là làm chứng cho đức tin như thế cũng không dễ dàng chút nào. Một người mới nói với tôi thế này: “Con biết là con có những chọn lựa sai. Nhưng nếu con không theo những lựa chọn sai đó, thì con không thể sống được! Ai sẽ nuôi con? Cha có nuôi con không?” Tôi gởi lời nói chân thành đau xót đó vào trái tim Chúa. Chúa trả lời tôi là: Phấn đấu hết mình và chịu khó làm ăn một cách lương thiện ngay chính, đó chính là cách làm chứng cho đức tin rất cần cho thời buổi này. Chúa sẽ giúp họ. Phần tôi, tôi thấy là Chúa gần gũi bên tôi, nên tôi sống rất bé nhỏ, như một của lễ hèn mọn, với tất cả tình yêu cũng như với tất cả sự yếu đuối, để phục vụ Chúa và Quê Hương bằng những đóng góp nhỏ. Tôi rất vui được làm chứng cho đức tin một cách đơn sơ cụ thể như vậy. Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã luôn gần gũi bên con, để cứu độ con, nhất là trong những bất ngờ.
Bùi-Tuần 1189: TÂM SỰ VỀ MỘT HƯỚNG ĐI CỦA ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Năm Đức Tin kêu gọi tôi nhìn lại hướng đi của đời sống đức tin nơi tôi. Từ thuở nhỏ, cha mẹ tôi đã mớm cho tôi một hướng đi cho cuộc đời của tôi. Hướng đó là: Phải làm hết sức để cứu mình và cứu những người khác cũng nghèo khổ như mình và còn nghèo khổ hơn mình. Càng lớn lên, tôi càng thấy rõ, việc cứu khổ càng trở thành hướng đi của đời tôi. Hướng đó làm nên ý nghĩa cuộc đời. Nạn đói và những năm chiến tranh tàn khốc nhiều khi thúc đẩy tôi hãy lo cứu khổ cho người khác hơn là lo cứu khổ cho mình. Tôi thấy rất nhiều đồng bào xung quanh tôi hồi đó cũng cảm nghĩ như vậy. 2. Tôi được may mắn sống trong bầu khí đức tin rất sớm. Bầu khí đức tin của gia đình được tiếp nối với bầu khí đức tin của giáo xứ, rồi của các chủng viện. Những bầu khí đức tin ấy đã cho phép tôi hấp thụ được một sự sống linh thiêng và mãnh liệt. Sự sống này đã làm cho hướng đi cứu khổ của đời tôi trở thành linh thiêng hơn và mãnh liệt hơn. Sự trở thành đó được thực hiện từ từ nhờ sự tôi được gặp gỡ Chúa Giêsu. 3. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, tôi được Người cho thấy dung mạo của Người sáng chói tình thương cứu độ. Người đến để cứu tôi và giúp tôi cứu những người khác. Càng được Người cho gần gũi, tôi càng thấy Người chính là con đường cứu độ. Từ đó, tôi thấy con đường cứu độ của tôi không nằm trong các văn kiện, mà là ở chính Đức Giêsu Kitô. Con đường ấy ở trong tôi. Con đường ấy là một Đấng thiêng liêng, sống động. Người dẫn tôi đi bằng cách Người đồng hành với tôi. Người in con đường cứu độ của Người vào trái tim tôi, bằng cách Người cho trái tim tôi biết đau cái đau của người khác. Người cho tôi nhìn người khác bằng con mắt của trái tim thương xót của Người. Người in con đường cứu độ của Người vào trí khôn tôi bằng việc Người soi sáng cho tôi, biết cố gắng áp dụng tình thương cứu độ vào từng trường hợp cụ thể, sao cho đúng thời, đúng nơi, đúng người, đúng cách, theo thánh ý Chúa. Người in con đường cứu độ của Người vào lòng muốn của tôi, bằng việc dạy cho tôi phải cân nhắc các lựa chọn, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần và trong sự hiệp thông với Hội Thánh. Điều quan trọng là tôi phải khiêm tốn đón nhận Người. 4. Khi con đường cứu độ chính là Đức Giêsu Kitô, thì không những tôi gặp được con đường đó trong tôi, mà tôi cũng gặp được con đường đó trong Hội Thánh, và cả nơi các người thiện chí. Chúa kêu gọi công việc cứu độ trong mọi lịch sử cách này hay cách khác. Điều quan trọng nên để ý là người ta có nghe tiếng gọi của Chúa không? Nghe được tiếng Chúa kêu gọi, đã là chuyện không dễ. Quyết tâm vâng theo tiếng Chúa gọi lại càng là chuyện không dễ chút nào. 5. Chúa Giêsu là con đường cứu độ. Người hay nhắc cho tôi thế này: “Con hãy đi về với Cha trên trời. Trên chuyến đi này, con phải biết đón nhận ơn Chúa cứu con. Không những thế, con còn phải cùng với Chúa cứu những người khác. Cứu bằng một tình yêu thương chấp nhận hy sinh, như tình yêu thương của Đấng Cứu Thế. Hướng đi của đời con phải là như vậy. Hướng đi của cuộc sống đức tin nơi con càng phải là như thế”. 6. Khởi đầu Năm Đức Tin, khi nhìn lại quãng đường dài đã qua, với tinh thần sám hối, tôi xin thú nhận là tôi đã có nhiều thiếu sót và lỗi lầm. Một trong những lỗi lầm thiếu sót, mà tôi cho là cần phải chấn chỉnh một cách quyết liệt, đó là tinh thần cầu nguyện và tỉnh thức. Tôi thấy đời tôi chỉ có giá trị thực sự, khi biết đón nhận ơn Chúa cứu tôi và cùng với Chúa Giêsu tôi cố gắng cứu người khác khỏi vòng vây sự ác, để họ được tự do đi về với Cha trên trời. Tôi thấy hướng đi của đời sống đức tin nơi tôi như thế là đã rõ. Nhận thức đó giúp tôi phải cố gắng trở thành khiêm nhường trong tay Chúa. Để được như thế, tôi phải thực hiện hai việc quan trọng này: một là tôi phải rất gần gũi với Chúa, hai là tôi phải đi tới con người, nhất là những người khổ đau, nghèo túng. 7. Tới đây, tôi nhớ lại một sự việc đã xảy ra cho tôi cách đây gần ba chục năm. Chiều hôm đó, tôi làm phép Thêm Sức ở Kiên Lương. Thánh lễ được cử hành sốt sắng, long trọng, với rất đông tín hữu xa gần. Lễ tan, sau bữa tối, tôi ngồi nghỉ trên bậc thềm nhà thờ. Tôi thấy đàng xa có một người co ro giấu mình ở một góc sân thánh đường. Đó là một người ăn xin. Họ ngồi thinh lặng, như đợi chờ và cũng như van xin. Tôi đang tư lự, thì một giáo dân tiến lại, nhỏ nhẹ nói với tôi: “Thưa Đức Cha, biết đâu người ăn xin đó chính là Chúa Giêsu”. Tôi đi đến người ăn xin đó. Ngồi xuống bên cạnh ông, tôi lắng nghe. Chỉ vài phút sau, tôi hiểu được sứ điệp Chúa gởi cho tôi qua ông ăn mày vô danh đáng kính ấy. Bỗng chốc, tôi nhận ra là: Tôi không phải chỉ tiến lên bàn thờ Chúa, mà còn phải đi xuống những con người nghèo khổ. Người nghèo khổ là một địa chỉ quan trọng, Chúa đợi chờ tôi ở đó. Đời tôi chỉ có ý nghĩa khi cùng đồng hành với Chúa đi xuống những con người đau khổ. 8. Đi lên bàn thờ là việc tôi thấy không khó. Nhưng đi xuống con người nghèo khó, tôi thấy đó là việc khó. Nhất là đi xuống để ở lại bên họ, chia sẻ với họ, và tìm cách cứu họ. Theo thiển ý của tôi, người nghèo khổ nên được hiểu là những người thiếu thốn khổ đau về bất cứ phương diện nào. Cứu họ là việc làm rất khó khăn, nhiều khi cực kỳ phức tạp. Tôi biết mình yếu đuối, có quá nhiều giới hạn. Nên tôi thường lo cứu người bằng cách sống như hạt lúa gieo vào lòng đất (x. Ga 12,24). Tôi thấy nhiều người đã làm gương cho tôi như thế. Gương sáng đó đang xuất hiện nơi nhiều tâm hồn bé mọn. Hướng đi của đời họ được sáng lên như những hy vọng có sức cứu độ. Ai cũng có thể bắt chước được gương sáng của họ ít là phần nào. Nếu đúng là như vậy, thì Năm Đức Tin sẽ là dịp, để tôi cảm tạ Chúa cách đặc biệt. Bởi vì Chúa đã dùng đức tin Chúa ban mà cứu tôi không biết bao lần. Tôi cũng sẽ cảm tạ Chúa, vì Chúa cũng cứu biết bao người nhờ đức tin. Riêng tôi, tôi xác tín điều này: Những gì tôi cho là tốt đẹp nhất và tưởng là dễ thực hiện, đều không thực hiện được, nếu không có ơn Chúa giúp. Vì thế, tôi hết lòng trông cậy ở lòng thương xót Chúa. Xin Chúa dùng chính sự yếu đuối của tôi để làm chứng cho đức tin. Thực vậy, chính nhờ đức tin, mà tôi không ngã lòng thất vọng về những yếu đuối của tôi. Chính nhờ đức tin, mà tôi được can đảm đến gần Chúa để dâng cho Người những của lễ rất yếu đuối hèn mọn của tôi. Đến muôn đời, con cảm tạ ơn Chúa. Long Xuyên, ngày 15 tháng 10 năm 2012
Bùi-Tuần 1190: TÔI TIN VỮNG VÀNG Ở ĐẤNG YÊU THƯƠNG TÔI
Rất nhiều lúc, tôi lo sợ và chán nản trước tình trạng yếu đuối của tôi. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện. Trong một phút không ngờ, tôi nghe Lời Chúa văng vẳng trong tận đáy lòng tôi: “Còn tình yêu nào cao quý hơn là tình yêu, người liều mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Với Lời Chúa trên đây, Chúa nâng tâm hồn tôi lên với Chúa. Tôi nhận ra Chúa Giêsu. Người yêu thương tôi, đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình, để cứu chuộc tôi. “Người đã hiến thân làm lễ vật đền tội” (Is 53,1). “Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách, như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15). Người đã để mình bị mọi thứ đau đớn hành hạ mình, chỉ vì yêu thương tôi, muốn cứu chuộc tôi. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tôi cảm nhận thấy tình yêu thương của Chúa Giêsu trở nên sống động, dành cho chính bản thân tôi. Tôi chợt thấy lòng mình được nhẹ đi. Tôi đem hết cả mọi yếu hèn của tôi đặt trong tay Chúa. Người lấy lửa tình yêu cứu độ đốt cháy hết. Người lấy máu của Người lau chùi mọi vết thương của tôi. Tôi trở thành con chiên bé nhỏ, được Người vác trên vai của Người (x. Lc 15,5). 2. Bỗng chốc, lòng tôi cảm thấy bình an và vui sướng. Có một biến cố lạ thường đã xảy ra trong tôi. Có một sự đổi mới thẳm sâu xuất hiện trong tôi. Tôi như được sống lại từ cõi chết. Tôi tin Chúa yêu thương tôi. Tôi tin Chúa cứu chuộc tôi. Tôi tin Chúa đổi mới tôi. 3. Đức tin của tôi như thế là một gặp gỡ thân mật với Chúa. Khi nhìn vào mình, tôi như muốn ói mửa, vì những tội lỗi của mình. Nhưng khi nhìn vào Chúa, tôi được an tâm. Một sự an tâm hoàn toàn dựa vào tình yêu cứu độ của Chúa. 4. Đức tin như thế nơi tôi được tôi cảm nhận như một ơn Chúa ban. Nghĩa là đức tin ấy không do lý luận của trí khôn mà có. Đức tin là một ơn Chúa ban. Thường thì bắt đầu như một tia sáng nhỏ. Tia sáng nhỏ đó dần dần lớn hơn và mạnh hơn, do cầu nguyện thêm nhiều. Ở đây, tôi nhớ lại một người đã nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi tin. Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24). Thực sự, tôi đã không thể tin vào Chúa và đến với Chúa bởi sức riêng của tôi. Nhưng chính Chúa Thánh Thần đã gọi tôi qua Phúc Âm. Chính Người đã soi sáng cho tôi và giữ gìn tôi trong đức tin. 5. Kinh nghiệm trên đây đưa tôi tới mấy việc làm sau đây: Việc thứ nhất tôi phải làm là cảm tạ Chúa đã ban đức tin cho tôi. Đức tin là một ơn lớn lao, có quan hệ đến tất cả cuộc đời của tôi, nhất là đến phần rỗi đời đời của tôi. Vì thế, việc cảm tạ Chúa vì ơn đức tin sẽ không bao giờ được coi là đủ. Đức tin ấy phải rất khiêm nhường. Với sự khiêm nhường, tôi khám phá thấy sự phong phú dồi dào của đức tin là vô tận. Sự phong phú dồi dào ấy được nhận thấy một cách rõ rệt, ở những con người đơn sơ, coi đức tin như bầu khí thiêng liêng, mà mình hít thở từng giờ từng phút. Tôi rất cảm ơn Hội Thánh và tất cả mọi người cộng tác với Chúa đã gieo vào lòng tôi ơn đức tin, và đã bồi dưỡng nâng đỡ ơn đức tin của tôi, nhất là trong những hoàn cảnh tôi gặp khó khăn. 6. Việc thứ hai tôi phải làm là điều chỉnh lại trật tự trong tâm hồn tôi. Khi tôi đã được biết Chúa là Đấng yêu thương tôi, đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình vì tôi, thì tôi phải coi Chúa là tình yêu cao quý hơn hết. Tôi không được phép dừng lại ở bất cứ tạo vật nào. Nhưng phải tập trung vào Chúa, trao phó trọn vẹn hồn xác mình cho tình yêu của Người. Tôi điều chỉnh lại chính mình, với tinh thần sám hối chân thành của người con bé nhỏ của Chúa. 7. Việc thứ ba tôi phải làm là tăng cường sự cầu nguyện, và suy gẫm Lời Chúa. Dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, tôi thấy rõ: Đức tin rất cần được nuôi dưỡng, bồi bổ bởi cầu nguyện và Lời Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho Lời Chúa trở thành biến cố và thời sự một cách rất tự do. “Thánh Thần thổi đâu tuỳ ý Người” (Ga 3,8). Tự do như lửa và như gió, vượt mọi khuôn khổ, tạo nên những bất ngờ. Thánh ý Chúa nhiều khi rất khác ý nghĩ của con người. 8. Việc thứ bốn tôi phải làm là dâng mọi sự khốn khó tôi gặp, để cùng với tình yêu, tôi cũng sẽ được là một của lễ đền tội cho mình và cho những người khác. Tôi làm như thế trong sự hiệp nhất với của lễ đền tội của Chúa Giêsu. Của lễ của tôi là những việc rất nhỏ thường ngày, chủ yếu là cố gắng gắn bó với phần rỗi các linh hồn. 9. Với những cảm nghiệm trên đây, tôi nhìn vào Năm Đức Tin tại Việt Nam hôm nay. Tôi vui mừng và hy vọng, vì có những dấu chỉ tốt. 10. Trước hết, những người cầu nguyện hiện nay tại Việt Nam là một số đông xem ra càng ngày càng tăng. Dù cho rằng có những người cầu nguyện chỉ xin được các ơn đời này mà thôi, thì cũng là một khởi đầu tốt. Bởi vì cầu nguyện như thế của họ cũng là một gặp gỡ với Chúa. Phúc Âm kể lại biết bao người cũng đã tin vào Chúa, khởi sự từ việc đến xin Chúa chữa bệnh và trừ quỷ. Tất nhiên tuyệt đối không có vấn đề xin Chúa giúp mình trong những việc bất chính, hoặc những việc không hợp thánh ý Chúa. Nếu đúng là việc cầu nguyện phải đi liền với đức tin, thì tôi có lý để lo ngại cho những tín hữu dửng dưng với việc cầu nguyện. Có thể nói, những người như thế đã hoặc đang mất đức tin. 11. Thêm vào số người cầu nguyện đang tăng, tôi thấy số người suy gẫm Lời Chúa cũng đang tăng. Họ suy gẫm Lời Chúa, không phải để trau dồi kiến thức, nhưng để sống Lời Chúa. Khi Lời Chúa trở thành sự sống trong họ, họ sẽ nói về đức tin một cách đơn giản, nhẹ nhàng và hồn nhiên. Khác với những người chỉ học Lời Chúa theo giáo án, chỉ để thi lấy điểm. Rất may là càng ngày các linh mục của chúng ta càng quan tâm hơn đến Lời Chúa trong các bài giảng dạy. Những mục tử suy gẫm Lời Chúa và sống Lời Chúa thực sự không phải là không gặp khó khăn. Nhưng họ vẫn là những người làm chứng cho đức tin, bằng đời sống hy sinh từ bỏ mình, không kém một sự tử vì đạo bằng máu đào đổ ra. 12. Hơn nữa, còn một dấu chỉ khác cũng được kể như hy vọng cho Năm Đức Tin tại Việt Nam hôm nay, đó là vẫn có nhiều người âm thầm chịu mọi sự khó,để làm của lễ đền tộitheo gương Chúa Giêsu. Cũng vẫn có nhiều người chịu mọi nhọc nhằn, để được chia sẻ với những người nghèo khổ. Họ tự nguyện sống nghèo, và tự nguyện đến với những người nghèo, để cùng với Chúa Giêsu đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ. Họ tự nguyện chịu mọi đớn đau, để cùng với Chúa, đem lại sự hoà giải, an bình, yêu thương cho đồng bào và Quê Hương Việt Nam yêu dấu. 13. Điều tôi lo ngại nhất cho Năm Đức Tin là Satan sẽ dùng mọi cách để xúi chúng ta đề cao một đức tin kiêu căng, phân hoá, nặng về hình thức và lý thuyết, tưởng như thế là cách làm chứng cho Chúa. Đang khi đó, đức tin chân thật luôn luôn phải rất khiêm tốn bao dung, đi sâu vào bản chất và sát với từng người cụ thể. Vì thế, trong Năm Đức tin này sẽ có những phục hưng và cũng sẽ có những sụp đổ. Phục hưng về đức tin cho những ai khiêm tốn đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm mình. Sụp đổ về đức tin cho những ai kiêu căng, dửng dưng, không đón nhận ơn Chúa đến kêu gọi mình. Tình hình hiện nay rất phức tạp. Năm Đức tin là cơ hội tốt, để tôi gặp gỡ được chính Thiên Chúa là Tình Yêu một cách thân mật hơn. Nhờ đó, tôi sẽ đón nhận được thêm nữa cho một đức tin chân thật, sẽ đem lại cho tôi sự bình an và hoan lạc. Chút bình an và hoan lạc, mà lúc này tôi đang được nếm, chính là do thấy mình rất tội lỗi yếu hèn, mà lại được Chúa yêu thương cứu độ. Đối với tôi, đó là một phép lạ. Với kinh nghiệm này, tôi xin thân ái gởi tới tất cả những ai tội lỗi yếu hèn một sứ điệp của niềm hy vọng: “Hãy đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa bằng đức tin đơn sơ khiêm tốn vững vàng”. Lạy Mẹ Maria là gương mẫu của đức tin, xin Mẹ thương giúp con luôn biết sống đức tin với tâm hồn khiêm tốn “xin vâng” như Mẹ. Long Xuyên, ngày 24 tháng 10 năm 2012
Bùi-Tuần 1191: LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN CỦA TÔI
Lời Chúa giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống đức tin của tôi. Lời Chúa thấm nhập vào tôi qua nhiều ngả, như: - Qua Sách Thánh. - Qua những kinh nguyện mang Lời Chúa. Thí dụ kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, các kinh nguyện trong thánh lễ. - Qua những sách báo đạo đức và những người đạo đức. Tôi xin nhấn mạnh “đạo đức”, để phân biệt với những sách báo và những người không đạo đức. Loại này đôi khi trích Lời Chúa, nhưng để lạm dụng vì mục đích xấu. Satan xưa cũng đã dùng Lời Chúa, để cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc (x. Lc 4,9-11). - Qua những tình hình thực tế. Chẳng hạn, trước một tình hình cụ thể như thế này, thì một Lời Chúa thích hợp được Chúa gởi đến với tôi là: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Trước một tình hình cụ thể như thế kia, thì một Lời Chúa khác thích hợp được Chúa gợi lên trong lòng tôi là: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6). - Qua cả trong những lúc tôi ngủ với một tình trạng nào đó. Như một đêm nọ, Lời Chúa sau đây đã đến với tôi từ tiềm thức và đánh thức tôi: “Khi tới gần thành đô, Chúa Giêsu nhìn thành và khóc” (Lc 19,41). Tôi hiểu là Chúa nhìn tôi và Người đã khóc. Lời đó khiến tôi phải thanh tẩy bản thân tôi. Như vậy, Lời Chúa đến với tôi tận lớp tiềm thức và vô thức. 2. Những Lời Chúa đã thấm nhập vào tôi, từ lớp ý thức đến lớp tiềm thức và vô thức. Thâm nhập không phải là âm thanh của Lời nói, mà là nội dung của Lời nói. Lời Chúa gởi vào hồn tôi nhiều nội dung phong phú. Có khi là một lịch sử cứu độ. Có khi là một bài học đạo đức. Có khi là một cảnh báo. Có khi là một an ủi. Có khi là một chỉ dẫn. Có khi là một chân trời mới. Chân trời mới quan trọng nhất, mà Lời Chúa hé mở cho tôi thấy, là tôi có một Người Cha trên trời. Đời sống của tôi là chuyến đi về Trời để gặp Cha của tôi. Chuyến đi này có vô vàn trắc trở. Tôi phải biết đón nhận Chúa Cứu độ và ơn Chúa đổi mới tôi. Chân trời này chan chứa tình yêu thương. 3. Lời Chúa không cưỡng ép tôi, nhưng vẫn để tôi tự do. Khi tôi khiêm nhường đón nhận với tâm tình cảm tạ, thì tôi nghe như có một nội dung khác đến gõ nhẹ lòng tôi. Với tâm tình khao khát, tôi mở cửa lòng ra. Tôi thấy chính Chúa Giêsu. Người là nội dung căn bản của Lời Chúa. Chính Người là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. 4. Cảm nhận đầu tiên của tôi về Chúa Giêsu, mà tôi được gặp, là thấy Người yêu thương tôi một cách hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Hiện diện của Chúa luôn tế nhị và ẩn dật. Tự nhiên, tôi trở nên như trẻ nhỏ. Chúa Giêsu đối xử với tôi như đối xử với một em bé. Người ở bên tôi. Người gọi tên tôi. Người cầm tay tôi. Người hỏi thăm tôi. Người ôm lấy tôi (x. Mc 10,18). Người không dạy tôi những lề luật khó hiểu, nhưng chỉ dạy một điều răn đơn sơ dễ hiểu, đó là yêu thương. “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34). Người không dạy tôi phải làm chứng cho Người bằng hoạt động nào khác, mà hãy tập trung vào sự yêu thương nhau: “Ở điểm này, mọi người, sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Người không dạy tôi dùng ý chí rập theo khuôn khổ, để thực thi điều răn yêu thương, nhưng hãy mềm mỏng kết hợp mật thiết với Người như cành nho với cây nho (x. Ga 15,1-6). Với tinh thần thơ ấu, tự nhiên tôi nhớ tới Lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện xưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Tôi cầu nguyện theo. 5. Khi nội dung Lời Chúa là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa Tình Yêu, đến gặp tôi, thì việc suy gẫm Lời Chúa như thế là một bầu khí thiêng liêng, rất khác với việc suy gẫm Lời Chúa chỉ chú trọng đến học hỏi, bàn luận về Lời Chúa như một giáo thuyết. Bầu khí thiêng liêng đó sẽ phải rất thinh lặng, nhất là trong nội tâm. Thinh lặng ở đây không chỉ là vắng ồn ào, nhưng còn là khiêm tốn, khó nghèo và khao khát, đặc biệt là dạt dào yêu thương. Trong tu đức, không gì gây ồn ào trong nội tâm bằng kiêu căng, tự mãn, dửng dưng và ghen ghét. Bầu khí thiêng liêng đó là kết quả của nhiều phấn đấu. 6. Tôi được may mắn tham dự bầu khí thinh lặng âm thầm của Lời Chúa ở nhiều nhóm trên thế giới. Thường là những nhóm nhỏ. Có khi chỉ hai ba người. Dù ở xa, dù ở gần, những người thuộc nhóm được liên kết với nhau bằng sợi dây yêu thương. Họ cùng nhau cầu nguyện theo Lời Chúa. Tôi thấy Lời Chúa phán xưa được ứng nghiệm: “Đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20). Chúa Giêsu ở giữa họ. Họ là nhóm hai người, nhưng trở thành ba. Họ là nhóm ba người, nhưng trở thành bốn. Bởi vì Chúa Giêsu ở giữa họ. Chúa Giêsu ở giữa họ, vừa để soi sáng trí khôn họ, vừa để đốt nóng trái tim họ, vừa để giúp họ trở thành của lễ. Lời Chúa không còn chỉ là Lời nói về Chúa, mà là chính Ngôi Lời Thiên Chúa. Suy gẫm Lời Chúa trở thành gặp gỡ chính Chúa. Những nhóm nhỏ này là những nhân chứng của đức tin. Tuy âm thầm, nhưng họ vẫn chuyển tải Tin Mừng một cách có hiệu quả. Họ không để mình chịu áp lực nào sai khiến. Lời Chúa và Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa Tình Yêu giải cứu họ, trong sự hiệp thông mật thiết với Hội Thánh của Người. 7. Cũng như họ, tôi coi mối liên hệ sống động với Chúa Giêsu là căn bản của đức tin, một đức tin dẫn tới tình yêu thương cao quý. Liên hệ mật thiết đó chủ yếu là tin vào Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa: Người đã chết và đã sống lại. Người làm chứng rằng: Chúa yêu thương tôi, Chúa cứu chuộc tôi, Chúa thánh hoá tôi. Chúa sẽ ban cho tôi một tương lai tốt đẹp. Tương lai ấy được Chúa chúc phúc. Vì thế, tôi không sợ đề cập đến các vấn đề về tương lai, mà phần đông ngại nghĩ đến, đó là sự chết, phán xét, thiên đàng, hoả ngục. Bởi vì, một khi đã gặp được Chúa Giêsu, tôi tin chắc chắn vững vàng: Người là hy vọng của tôi trong tương lai, dù tương lai đó là rất khó khăn. Hy vọng đó đem lại cho tôi sự bình an, nhưng vẫn không cho phép tôi ỷ lại, mà phải làm hết sức mình với tinh thần trách nhiệm, nhất là trách nhiệm vác thánh giá cùng với Chúa Giêsu vì yêu thương. Lạy Mẹ Maria, xưa trong những ngày đen tối nhất của Tuần Thánh, Mẹ đã nêu gương đức tin ở điểm quan trọng nhất là tin vào Chúa Giêsu như hy vọng tuyệt đối rạng ngời cho một tương lai dù đen tối nhất. Xin Mẹ thương giúp con cũng được một niềm tin vững vàng như thế trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn đen tối của đời con.
Bùi-Tuần 1192: YÊU THƯƠNG TRONG ĐỨC TIN 19-11-2012
Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ điều răn yêu thương: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Tôi tuyệt đối tin vào Chúa Giêsu, nên tôi tin nhận điều răn yêu thương, mà Chúa Giêsu trối lại, phải là lẽ sống của đời tôi. Để hiểu: “như Thầy đã yêu thương các con”, tôi nhìn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Từ thánh giá, Chúa Giêsu soi vào lòng tôi lời tâm sự của Người: “Con ơi, yêu thương như Thầy yêu thương các con là phải chấp nhận những khổ đau như thế này đây”. 2. Lời tâm sự của Chúa Giêsu trên thánh giá dẫn đưa tôi vào một chân lý mới, đó là yêu thương như Chúa yêu thương luôn đi kèm với khổ đau. Khổ đau vì yêu thương sẽ làm cho yêu thương có giá trị, nhất là giá trị cứu rỗi. Để nhận ra những khổ đau có giá trị cho yêu thương, tôi đi theo Chúa Giêsu, hiệp thông vào tâm tình của Người. Sau một hành trình khá dài, tôi cảm nghiệm được phần nào. Xin được phép chia sẻ một cách chân thành như sau: 3. Yêu thương như Chúa yêu thương là muốn thăng tiến những người mình yêu thương. Nhưng nhiều khi họ không chấp nhận thăng tiến, đó là một nguyên do gây nên nỗi đau cay đắng nhất cho Chúa Giêsu. Thực vậy, Chúa Giêsu đến trong thế gian, là để thăng tiến con người. Thăng tiến của Chúa Giêsu là muốn mọi người được trở nên con Thiên Chúa. Thiên Chúa mà Người giới thiệu là Thiên Chúa Tình Yêu giàu lòng thương xót. Thiên Chúa ấy muốn yêu thương phải là dấu chỉ của người làm con Chúa. Nhưng rất nhiều người đã từ chối sự thăng tiến như thế. Chính trong nội bộ cộng đoàn tin Chúa hồi đó cũng không thiếu người đứng lên chống đối. Phúc Âm còn ghi rõ: Các tư tế, các luật sĩ, các người biệt phái đã cấu kết với nhau thành một khối đối lập. Họ nại đến các thứ luật lệ của cơ chế, để cản luật yêu thương của Chúa. Chính Thượng Hội Đồng các vị đứng đầu trong đạo đã căn cứ vào luật của đạo, để kết án Chúa Giêsu là Đấng giới thiệu Thiên Chúa là Tình Yêu. Ý muốn thăng tiến con người lên chức làm con Thiên Chúa Tình Yêu đã bị chống phá dữ dội, do chính các người đứng đầu cơ chế tôn giáo. Nỗi đau khổ do sự kiện đó gây nên cho Chúa Giêsu, xem ra vẫn còn tái diễn nhiều ít trong lịch sử mọi thời mọi nơi. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9). Tôi nghe tiếng than đó của thánh Gioan vang lên trong lòng tôi, mỗi khi tôi thấy nơi nọ nơi kia tình yêu Chúa bị chối từ và kết án, do chính những người nói là mình tin Chúa. 4. Một nguyên do nữa làm cho tình yêu Chúa phải đau đớn là những bỏ lỡ dịp may mà nhiều người đã để xảy ra. Thực vậy, có lần Chúa Giêsu đã khóc thương thành Giêrusalem và nói: “Nơi đây, sẽ không hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,44). Tình thương Chúa đã đến thăm loài người nói chung và từng người nói riêng, cách này hay cách khác. Nhưng bao lần người ta đã không nắm bắt dịp may hiếm có ấy. Hơn nữa, bao lần tình thương Chúa còn mời gọi con người đến với Chúa, nhưng người ta lại lỡ hẹn với điểm khác. Dụ ngôn Tiệc Cưới nói rõ điều đó (x. Mt 22,1-6). Sự kiện phũ phàng đó vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trong suốt lịch sử cho đến hôm nay. Đó là nỗi đau thê thảm của Chúa. “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,34). Tôi nghe lời than trên đây của Chúa Giêsu dội vào trái tim tôi, mỗi khi tôi thấy xảy ra những sụp đổ, vì người ta đã bỏ lỡ dịp may được tình yêu Chúa tới thăm. Những bỏ lỡ đó nếu lại do đã trót hẹn với những gì phản nghịch với Chúa, sẽ là những xúc phạm tự đưa mình vào cõi diệt vong. Đó là nỗi đau ghê gớm gây nên cho tình yêu Chúa. 5. Một nguyên do nữa gây đau khổ cho Tình Yêu Chúa là nỗi cô đơn Chúa phải chịu. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã trải qua một nỗi cô đơn khủng khiếp. Khi vác thánh giá lên núi Calvariô, Chúa Giêsu càng cảm thấy cô đơn rợn rùng. Càng giữa đông người, Chúa Giêsu càng cảm thấy cô đơn. Bởi vì đám đông ấy đa phần là vô ơn, cơ hội, dửng dưng, bị xách động, dễ đổi dạ thay lòng. Chính Chúa Cha xem như cũng bỏ Người. “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Lời than cô đơn của một tình yêu cô đơn ấy vẫn còn như rỉ máu trong suốt chiều dài lịch sử, cho tới hôm nay. Lời than cô đơn ấy như những giọt nước mắt của Chúa rơi xuống lòng tôi, khiến lòng tôi phải hối hận vô vàn, vì chính tôi cũng có một phần làm nên nỗi cô đơn của Chúa Giêsu. 6. Một nguyên do nữa gây đau khổ cho Chúa Giêsu, là vì mọi tội lỗi nhân loại đều đổ trên đầu Người. Chúa Cha muốn Người hãy là Con chiên gánh tội trần gian. Do vậy chính bản thân Người sẽ phải chịu đóng đinh trên cây thánh giá. Người chịu chết đau đớn để đền tội cho loài người. “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Biết bao lần, lời sau cùng đó của Chúa Giêsu đã giúp tôi trở thành của lễ đền tội cho mình và cho kẻ khác, theo gương Chúa Giêsu và hiệp thông với của lễ của Chúa Giêsu. Làm của lễ là như chết đi, là như từ biệt, nhưng chính là để gặp lại nhau trong một tình yêu mới tốt đẹp hơn và vững bền hơn. 7. Kinh nghiệm mà tôi chia sẻ trên đây quả là yếu ớt đối với bao người. Nhưng nó đã cho tôi xác tín điều này là: Yêu thương như Chúa yêu thương bao giờ cũng có khổ đau. Vô số khổ đau phải coi là vô ích và có hại. Còn những khổ đau do yêu thương theo Chúa đều có giá trị thiêng liêng vô vàn. Tất cả những lời kêu than thảm thiết trên đây do khổ đau của Chúa Giêsu trên đường yêu thương đã giúp tôi bớt mặc cảm, khi tôi không nén được lòng mình, nên đã kêu than đau đớn trong hành trình yêu thương đầy phức tạp. Thực sự, những kêu than đau đớn đó cũng chính là những lời cầu nguyện hết sức đơn sơ chân thành của một người hèn mọn nhận mình yếu đuối, chỉ còn biết bám vào Chúa mà thôi. Để kết, tôi xin mượn lời Hội Thánh dựa theo ý của thánh Phaolô mà ca tụng thánh giá. “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”. Thiết thưởng thánh giá là biểu tượng cho tình yêu cứu độ đang rất cần được nhấn mạnh và đề cao tại Việt Nam trong Năm Đức Tin này. Bởi vì chấn hưng nền đạo đức tình yêu sẽ giúp bảo vệ và phát triển đời sống đức tin. Lạy Mẹ Maria, vì yêu thương chúng con, trái tim Mẹ đã như bị một lưỡi gươm đâm thâu suốt cả cuộc đời. Xin Mẹ thương giúp con được nên của lễ như thế theo gương Mẹ và trong tay Mẹ. Con thuộc về Mẹ, xin Mẹ thương đỡ nâng con. Con cảm thấy mình thực sự hạnh phúc, vì được là của lễ tình yêu theo ý Chúa. Long Xuyên, ngày 20 tháng 11 năm 2012
Bùi-Tuần 1193: NHÌN VÀO BA ĐỐI THOẠI ĐỂ TIN MỪNG THẤM NHẬP
THEO ĐỨC TIN 26-11-2012 + GB. BÙI TUẦN Nhân dịp Đại Hội Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Việt Nam 1.
Đại hội Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu nhóm họp tại Giáo phận Xuân Lộc từ ngày 10 đến 16-12-2012 là một biến cố lớn. Riêng đối với tôi, biến cố quan trọng này nhắc cho tôi về ba đối thoại, để Tin Mừng có thể thấm nhập vào Á châu nói chung và vào Việt Nam nói riêng. Ba đối thoại đó đã được Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới chỉ rõ cho các Giáo Hội tại Á châu, trong lời kêu gọi ngày 20-10-1012 vừa qua. Đó là đối thoại với các nền văn hoá địa phương, đối thoại với các tôn giáo truyền thống, đối thoại với người nghèo. Ba đối thoại trên đây được Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu nhận định càng ngày càng rõ từ nhiều năm nay. Nhận định rõ đã là quý hoá. Nhưng thực hiện điều nhận định rõ còn quý hoá hơn nhiều. 2. Tại Việt Nam, nhận định rõ về ba đối thoại xem ra chưa được phổ biến sâu rộng. Còn thực hiện ba đối thoại đó xem ra lại rất tuỳ tiện. Hậu quả được báo hiệu là Hội Thánh Việt Nam xem ra đang bước dần tới nguy cơ bị đẩy vào một hoàn cảnh rất khó khăn cho sự thấm nhập của Tin Mừng. 3. Viễn cảnh đó tất nhiên là không vui. Với lương tâm trách nhiệm đối với Tin Mừng và Hội Thánh, tôi cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho tôi biết xưa Chúa đã đưa Tin Mừng thấm nhập vào thế gian một cách cụ thể thế nào? Chúa dạy tôi hãy dùng đức tin mà nhìn Chúa trong Phúc Âm. Tôi vâng làm như vậy. Dần dần tôi thấy ba đối thoại, mà Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới vừa nhắc đến, đã được chính Chúa Giêsu thực hiện một cách rất cụ thể rõ ràng tại Do Thái. Đơn giản như sau: Về đối thoại của Chúa Giêsu với nền văn hoá dân tộc thì đối thoại đó được thực hiện cụ thể bằng sự Người hội nhập vào nền văn hoá của Đất Nước mình. Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu luôn tỏ vẻ tự hào về những tổ tiên đã có công dựng Nước và giữ Nước Do Thái là Đất Nước Chúa chọn để giáng sinh. Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu ghi rõ: Người là: “con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham. Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17). Như thế quốc tịch của Chúa Giêsu là Do Thái. Người công dân ưu tú này có một lý lịch, đáng tự hào trước Tổ Quốc và quốc dân Do Thái. Là công dân Do Thái, Chúa Giêsu gắn bó với lề luật của Đất Nước mình. Người quả quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Maisen hoặc là các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Nếu nền văn hoá dân tộc là hiếu với tổ tiên, yêu thương đồng bào và gắn bó với Quê Hương, thì Chúa Giêsu đã hội nhập sâu vào nền văn hoá như thế của dân tộc mình. Tất nhiên, Chúa Giêsu xuống trần là để thiết lập “một vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an” (Kinh Tiền Tụng lễ Chúa Giêsu Vua). Nhưng tất cả những đức tính tốt đẹp của Nước Chúa kể trên đều sẽ được thấm nhập dần dần vào Do Thái qua cái khung văn hoá của Đất Nước Do Thái. Thành công nhiều hay ít, lâu hay mau, là chuyện không ở quyền con người định đoạt. Chỉ biết hội nhập đó là con đường Chúa chọn, không thể đổi thay. 4. Về đối thoại với các tôn giáo truyền thống tại Do Thái, thì đối thoại của Chúa là trân trọng những giá trị chính đáng của các tôn giáo đó. Thực vậy, khi nêu gương bác ái, Chúa Giêsu đã chỉ vào người ngoại đạo Samari (x. Lc 10,29-37). Khi nêu gương đức tin, Chúa Giêsu đã khen ông đại đội trưởng ngoại đạo thành Caphacnaum. Chúa nói: “Tôi nói cho các ông hay: Ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy người nào có lòng tin mạnh như thế” (Lc 7,9). Khi nêu gương lòng biết ơn, Chúa Giêsu đã không ngại nói rõ trường hợp mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một người ngoại đạo Samari trở lại cám ơn Chúa (x. Lc 17,11-19). Trân trọng những giá trị chính đáng của các tôn giáo truyền thống nơi mình đến, chính là một đối thoại tốt để Tin Mừng thấm nhập vào nơi đó, Chúa Giêsu đã đề cao cách đối thoại ấy. Cách đề cao đó thường không làm hài lòng người đạo Chúa. Phải can đảm lắm mới dám làm. 5. Về đối thoại với người nghèo, thì đối thoại của Chúa Giêsu là ưu tiên lo cho người nghèo. Ưu tiên lo cho người nghèo, là một chọn lựa của Chúa Giêsu được khẳng định qua lời Người giảng, qua việc Người làm, và qua lối sống của Người suốt cả cuộc đời. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến ưu tiên yêu thương giúp đỡ người nghèo khổ trong nhiều bài giảng. Nhất là trong bài giảng về ngày phán xét chung, Chúa sẽ căn cứ vào việc yêu thương giúp đỡ người nghèo khổ, để phân biệt người được thưởng và người bị phạt. Bởi vì Chúa coi việc yêu thương giúp đỡ người nghèo khổ như việc làm cho chính Chúa (x. Mt 25,31-46). Chính Chúa Giêsu đã rất yêu thương cứu giúp những người nghèo khổ. Từ việc chữa bệnh, trừ quỷ, làm phép lạ cứu đói, đến việc đề cao những đức tính tốt của người nghèo khổ, nhất là sự họ được Chúa yêu thương. Ưu tiên lo cho người nghèo khổ còn được Chúa Giêsu thực hiện nhất là bằng chính lối sống của Người. Người sống như kẻ nghèo để chia sẻ thân phận kẻ nghèo. Đối thoại với người nghèo là ưu tiên lo cho họ như thế đấy. Cách đó được Chúa chọn, để Tin Mừng thấm nhập vào dân chúng. 6. Khi nhờ đức tin, mà nhận ra ba cách đối thoại trên đây của chính Chúa Giêsu, tôi tự hỏi mình rằng: Tôi có theo Chúa Giêsu mà cụ thể hoá ba đối thoại bằng thái độ dấn thân như vậy không? Câu hỏi này cũng cần đặt ra cho Hội Thánh Việt Nam nói chung, và cho từng cộng đồng đức tin tại Việt Nam nói riêng. Rất mong Đại Hội Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu lần này tại Việt Nam sẽ là một hy vọng cho Á châu, đặc biệt là cho Việt Nam. Hy vọng sẽ rất đáng kể, nếu mọi người tin Chúa quyết tâm trở về với đức tin đích thực, để theo gương Chúa Giêsu, mà đối thoại như Chúa Giêsu, nghĩa là: - Hội nhập vào nền văn hoá dân tộc. - Trân trọng những giá trị chính đáng của các tôn giáo truyền thống. - Ưu tiên lo cho người nghèo. Chỉ đức tin đích thực là gặp gỡ sống động và thân mật với Chúa Giêsu, mới có được một thái độ khiêm nhường và dấn thân như thế trong các đối thoại. Chứ các thứ đức tin biến chất, sẽ phá hoại xã hội hơn là cải thiện. Xưa Chúa Giêsu đã nói một lời rất bi quan: “Khi Con Người đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa không?” (Lc 18,8). Tôi hiểu Chúa muốn nói về đức tin đích thực. Chứ các thứ đức tin biến chất sẽ không ngừng phát triển tưng bừng. Trong Năm Đức Tin này, tôi xin Chúa thương giúp tôi và mọi người tin Chúa trong Hội Thánh của tôi, biết thức tỉnh, mà trở về với đức tin đích thực. Chỉ đức tin đích thực mới có Tin Mừng đích thực. Chỉ đức tin đích thực mang Tin Mừng đích thực mới cần đi vào Đất Nước Việt Nam này, cho dù phải gặp những khó khăn không sao tránh được. Lạy Chúa, xin Chúa thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 30 tháng 11 năm 2012
Bùi-Tuần 1194: GIỚI THIỆU TIN MỪNG BẰNG CHÍNH ĐỜI SỐNG
Nhìn vào Chúa Hài Đồng trong máng cỏ Belem, tôi thấy Ngôi Lời giáng sinh trong thân phận con người khó nghèo, khiêm tốn, bé nhỏ. Sau này, khi rao giảng, Chúa Giêsu vẫn đề cao người khiêm tốn, nghèo khó, và những ai sống tinh thần thơ ấu như trẻ nhỏ. Đời sống như thế của Chúa Giêsu là một lựa chọn. Lời giảng như thế của Chúa cũng là một lựa chọn. Thế thì người môn đệ tin theo Chúa sẽ an tâm, khi chọn lựa điều chính Chúa đã chọn lựa. 2. Nhân dịp Năm Đức Tin, chọn lựa đó kêu gọi tôi điều chỉnh lại cách tôi sống Tin Mừng và truyền bá Tin Mừng. Tại Belem, Chúa Giêsu giới thiệu Tin Mừng bằng chính bản thân mình. Chính Người đã không nói gì, đã không làm gì. Người muốn mọi người nhìn thấy Tin Mừng, đọc được Tin Mừng và gặp được Tin Mừng nơi chính Người trong thân phận bé nhỏ, nghèo khó, khiêm nhường, chỉ vì yêu thương. Giới thiệu Tin Mừng bằng chính bản thân mình như thế chính là một hy sinh cao cả. Với sự hy sinh đó, Chúa Giêsu đã là một của lễ đền tội dâng lên Chúa Cha ngay từ phút đầu của cuộc đời trần thế. Cách giới thiệu Tin Mừng đó khởi sự từ hang đá Belem vẫn được tiếp tục suốt cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế. Thực sự, Chúa Cứu Thế đã giảng dạy, và đã làm nhiều phép lạ. Nhưng tất cả những hoạt động đó chỉ để củng cố thêm cho cách giới thiệu Tin Mừng bằng chính đời sống. Cách sống mới là phương tiện chủ yếu để giới thiệu Tin Mừng. 3. Với lối sống khó nghèo, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu đã rất gần gũi với dân chúng. Đặc biệt là, với lối sống ấy, Chúa Giêsu đã hoà mình vào lớp người đau khổ, tội lỗi, bần cùng. Gần gũi của Người, hoà mình của Người là để yêu thương họ và để cứu họ, đem lại cho họ niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp, nhất là tương lai đời đời. 4. Yêu thương của Chúa Cứu Thế trong lối sống gần gũi và hoà mình được thực hiện bằng những việc tốt nhỏ thường ngày, khuyến khích con người làm những việc tốt nhỏ thường ngày. Việc tốt nhỏ mà thiết thực, cụ thể, đáp ứng đúng nhu cầu, làm đúng lúc, bằng đúng việc, với đúng cách. Nghĩa là yêu thương rất sát với thực tế cuộc sống. Việc tốt nhỏ như thế, mà Chúa Cứu Thế khích lệ, xem ra thích hợp cho mọi người, kể cả những người dốt nát, túng nghèo. 5. Một thoáng nhìn trên đây về cách Chúa Giêsu đã giới thiệu Tin Mừng tại hang đá Belem và suốt cuộc đời của Người, khiến tôi giật mình, khi nhìn vào cách giới thiệu Tin Mừng của nhiều môn đệ Chúa, trong đó có tôi. Thực vậy, nhiều người môn đệ Chúa đã rất nhiệt tình giới thiệu Tin Mừng bằng nhiều hoạt động, bằng nhiều lời nói, bằng nhiều chiến đấu. Nhưng chẳng may lại không để ý đến việc giới thiệu Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Có thể là chúng tôi cũng đưa ra lối sống của mình để giới thiệu Tin Mừng. Nhưng lối sống đó có thể rất khác với lối sống của Chúa Giêsu. Khác về nội dung bên trong đã là điều đáng tiếc. Phương chi còn khác cả về hình thức bên ngoài, thì đó là điều tệ hại. Thực sự tệ hại đó đang xuất hiện nơi những nhóm người công giáo tự xưng là hiện đại, với chủ trương sống hưởng thụ, buông thả, chế nhạo những ai còn trung thành với con đường đẹp của Chúa Giêsu. 6. Nhận mình sai là điều không dễ. Sửa mình sai càng không dễ chút nào. Nhiều khi, vì yêu thương, Chúa để xảy ra những biến cố gây nên đau đớn, người ta không còn gì để bám, mới biết tỉnh ngộ. Tôi mong những biến cố như thế đừng xảy ra cho chúng ta. Nhưng Năm Đức Tin vẫn là thời gian thuận lợi, để chúng ta sửa mình về lối sống phản ngược lại lối sống của Chúa Cứu Thế. Chúa kêu gọi mọi người chúng ta hãy giới thiệu Tin Mừng bằng chính đời sống khiêm nhường, tinh thần nghèo khó, bé nhỏ vì yêu thương phục vụ. Tôi chắc chắn đồng bào Việt Nam chúng ta rất muốn được nhìn thấy dung mạo của Chúa Cứu Thế qua lối sống của các môn đệ Chúa. Trái lại họ dễ dị ứng với những lối sống đạo đề cao cái tôi tự cao tự đắc với quyền lực và của cải, đồng thời với thái độ khinh chê và loại trừ những ai không nhiệt tình như mình. Thiết tưởng sẽ không dư thừa, nếu đề cập đến vấn đề này là: Khi phải giới thiệu Tin Mừng bằng lời nói, chúng ta nên dùng những cách nói đơn sơ, dễ hiểu theo gương Chúa Cứu Thế. Chứ đừng đưa ra những cách nói nặng về lý thuyết cao siêu, mà cả đến những người mộ đạo cũng tưởng đó chỉ là một cách trốn tránh trách nhiệm thực tế mà Tin Mừng đòi hỏi. Rất mừng là tại Việt Nam hôm nay, vẫn có những người đang như Đức Mẹ Maria và thánh Giuse, giới thiệu Tin Mừng bằng lối sống theo gương Chúa Cứu Thế. Càng rất mừng là tại Việt Nam hôm nay cũng không thiếu người đang như các mục đồng xưa, giới thiệu Tin Mừng bằng lối sống rất đơn sơ, hồn nhiên, tìm đến với Chúa Cứu Thế, và nhận Chúa qua dung mạo khó nghèo, khiêm nhường, bé nhỏ của Chúa. Với tâm tình cảm tạ Chúa, tôi nhìn những người trên đây như những tia sáng của Ngôi Sao Sinh Nhật, báo hiệu Chúa Cứu Thế đang hiện diện trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu này. Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một Lễ Giáng Sinh vui tươi. Xin cũng thương cầu nguyện cho tôi với.
Bùi-Tuần 1195: Những ngày giáp ranh, TÂM SỰ VỚI ĐỨC MẸ MARIA
Dù muốn dù không, tôi sống là sống với thời sự, sống trong lịch sử, sống nhờ hoàn cảnh. Thời sự, lịch sử và hoàn cảnh cuối năm 2012 trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang diễn biến rất phức tạp. Tính cách phức tạp ấy sẽ không ngừng lại, nhưng sẽ phát triển thêm vào đầu năm 2013. Hy vọng sớm có một kết thúc ngoạn mục, thiết tưởng đó chỉ là ảo tưởng. Từ một cuối năm đầy những phức tạp, tôi đi vào một đầu năm sẽ đầy những khó khăn. Chuyến đi như thế, cho dù được tổ chức tưng bừng với nhiều lời cầu chúc tốt đẹp, cũng không che đậy được những lo âu trăn trở. Cảm nhận trên đây là một hành lý tôi mang theo trong hành trình đi qua những ngày giáp ranh 2012-2013. 2. Với một hành lý không mấy nhẹ nhàng như thế, tôi tâm sự với Đức Mẹ Maria: “Mẹ ơi, đời con sẽ ra sao giữa dòng thời gian cuồn cuộn những sóng ngầm sóng nổi?”. Không ngần ngại, Mẹ Maria nhỏ nhẹ trong trái tim tôi, đại ý thế này: “Tình hình càng phức tạp, thì đời con càng phải có một hướng đi thực đạo đức vững vàng, để cuộc sống của con có thể mang lại hy vọng cho những người xung quanh, nhất là đem lại sự bình an cho chính bản thân con”. Cũng với lời nhắn nhủ như trên, Mẹ Maria soi sáng cho tôi hiểu: Đạo đức vững vàng là điều quan trọng sẽ giúp tôi vượt qua được một giai đoạn lịch sử gây nhiều sụp đổ, dễ làm cho cuộc sống bị chao đảo và bế tắc. 3. Nhưng thế nào là đạo đức vững vàng? Tôi lại xin Đức Mẹ cho phép tôi hỏi Đức Mẹ câu đó. Đức Mẹ lai dịu dàng trả lời tôi là: “Hãy vâng lời Chúa Giêsu dạy, mà trở thành cành nho gắn liền với cây nho là chính Chúa Giêsu” (x. Ga 15,1-5). Đột nhiên tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu khuyên về sự phải gặp gỡ Người, phải ở lại trong Người, phải sống mật thiết với Người, để nhờ vậy mà hiểu ý Người, mà có tâm tình như Người, mà bước theo Người. Những chỉ dẫn trên đây của Đức Mẹ giúp tôi càng xác tín về sự tôi phải tập trung vào Chúa Giêsu. Khi sự tập trung vào Chúa Giêsu trở thành một sự gặp gỡ sống động thường xuyên với Người, tôi dần dần thấy rõ Người là tình yêu Thiên Chúa cứu độ, giàu lòng thương xót. 4. Thực vậy, Chúa Giêsu đến để cứu tôi. Tiên vàn, Chúa cứu tôi khỏi nhận thức chủ quan sai lầm cho mình là không cần phải được Chúa cứu. Nhận thức chủ quan đó rất thường xảy ra ngay trong Hội Thánh tại Việt Nam, do tự đắc, tự mãn, tự hào dưới nhiều hình thức. Một phần bởi tính tự nhiên, một phần bởi trào lưu xã hội, một phần bởi quỷ địa ngục, một phần bởi cơ chế tôn giáo có nơi đã bị tha hoá. Chủ quan tự mãn có vẻ như một thứ ung thư khó trị đang phát triển mạnh trong Hội Thánh địa phương chúng ta. Do vậy, để đón nhận ơn Chúa cứu độ, Chúa đòi tôi phải khiêm nhường, thực sự khiêm nhường, hết sức khiêm nhường. 5. Phải nói ngay sự thực này: Khiêm nhường là điều không dễ chút nào. Người học cao, học nhiều về khiêm nhường trong các tài liệu là điều tốt, nhưng chưa chắc đã nhờ đó mà trở thành người khiêm nhường. Người thực thi nhiều nghi thức, nhiều tuyên hứa về khiêm nhường là điều phải lẽ, nhưng cũng chắc gì đã nhờ vậy mà trở thành người khiêm tốn. Người bị thất bại nhục nhã, bị mất mát cay đắng có thể tìm được một bài học tốt về sự mong manh của cuộc đời, nhưng chưa chắc đã nhờ đó mà trở thành người khiêm hạ. 6. Vậy thế nào là khiêm nhường đích thực? Tôi xin Đức Mẹ cho tôi được biết điều đó. Đức Mẹ không trả lời tôi trực tiếp, nhưng một cách gián tiếp, Đức Mẹ cho tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Giêsu quỳ gối rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (x. Ga 13,1-14). Với gợi ý đó của Mẹ, tôi hiểu tôi cần phải bắt chước Chúa Giêsu, mà sống khiêm nhường, vì khiêm nhường là nét đặc biệt của Chúa Giêsu, như Người đã phán: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền từ và khiêm nhường” (Mt 11,29). Bắt chước Chúa nhờ tập luyện và cầu nguyện suy gẫm. Thực vậy, Chúa Giêsu rất khiêm nhường trong mọi việc. Khiêm nhường trong mọi cho đi. Khiêm nhường trong mọi cái nhìn. Khiêm nhường trong mọi hy sinh. Khiêm nhường trong mọi tha thứ. Khiêm nhường trong mọi phục vụ. Khiêm nhường trong mọi đón nhận. Khiêm nhường trong mọi cảm tạ. Khiêm nhường trong mọi thực thi ý Chúa Cha. Tôi có cảm tưởng là Chúa cứu con người bằng tình yêu cứu độ của Người nặng về khiêm nhường, một sự khiêm nhường đồng nghĩa với sự quảng đại không bờ không biến. 7. Sống lâu bên Mẹ Maria, tôi được Mẹ dần dần cho thấy: Mẹ cũng đã cộng tác với Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong việc cứu chuộc loài người, bằng tình yêu nặng về khiêm nhường quảng đại. Khi áp dụng tình yêu khiêm nhường quảng đại vào đời sống, Mẹ đã thực thi những việc cụ thể, mà mọi người đều thấy được, như: Mẹ đã khiêm nhường và quảng đại tần tảo làm ăn kiếm sống như người người nghèo và giữa những người nghèo. Mẹ đã khiêm nhường và quảng đại xây dựng những liên đới tốt với xóm làng bằng những việc phục vụ nhỏ bé âm thầm, vị tha. Mẹ đã khiêm nhường và quảng đại đồng hành với đồng bào trong tình yêu Nước nồng nàn. Mẹ đã khiêm nhường và quảng đại lắng nghe ý Chúa Cha và thực thi ý Chúa Cha trong mọi tình huống. Đã từ lâu, Mẹ đã khiêm nhường và quảng đại trong tình yêu cứu độ dành cho tôi là kẻ tội lỗi, hèn hạ. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình rất cần được cứu độ. 8. Tới đây, tôi hiểu được phần nào hướng đi mà đời sống của tôi cần phải nhận định rõ và chọn cho mình để bước vào Năm Mới, đó là hướng đạo đức vững vàng, được xây dựng trên nền tảng khiêm nhường, quảng đại, theo bước đi của Chúa Giêsu, với Đức Mẹ Maria. Tôi cảm tạ Mẹ Maria đã giúp tôi xác tín điều này: Để cứu chỉ một người khỏi ách thống trị của sự ác cả phần xác lẫn phần hồn, tình yêu Chúa đã tự nguyện chịu biết bao hy sinh trong khiêm nhường quảng đại. Chứng tỏ cái giá của sự cứu độ là cao quý khôn lường. Người môn đệ Chúa được cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa cũng phải bắt chước Chúa như vậy. Tình hình Việt Nam trong Năm Mới này sẽ tuỳ thuộc phần nào vào hướng đạo đức của chúng ta. Với chia sẻ chân thành trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc tất cả mọi người xa gần một Năm Mới tràn đầy ơn cứu độ. Long Xuyên, ngày 27 tháng 12 năm 2012.
Thời điểm này là thời điểm đầy khó khăn. Mỗi khó khăn có một nguy hiểm cho riêng mỗi người. Riêng đối với tôi, khó khăn và nguy hiểm lớn nhất là những giới hạn của bản thân mình trước những khó khăn. Ở đây, tôi chỉ xin đề cập đến một số giới hạn trong lãnh vực đạo đức tôn giáo. 2. Giới hạn thứ nhất là thiếu nhạy bén. Thời nay con người Việt Nam đang rơi vào nhiều khủng hoảng. Khủng hoảng nguy hiểm nhất là khủng hoảng về niềm tin. Phần đông đồng bào Việt Nam ta, trong cơn khủng hoảng, đều khao khát gặp được những người thực sự đạo đức, để họ đặt vào đó niềm tin của họ. Con người đạo đức, mà mọi người dân thường chờ đợi, là con người có cái tâm, thực sự quan tâm đến họ, thực sự yêu thương họ, thực sự dám hy sinh cho họ, thực sự chân thành, vị tha. Nhận thức được điều khao khát sâu xa đó của đồng bào mình, đó là một bén nhạy. Bén nhạy này có thể hiểu như một tác động của Chúa Thánh Thần. Để rồi, nhờ ơn Chúa, mà cố gắng đáp ứng theo khả năng. Khi đáp ứng, chúng ta sẽ gặp thấy Chúa Giêsu. Gặp gỡ Chúa Giêsu, đó lại là một bén nhạy cao quý. Lúc đó, chúng ta hiểu sự khao khát đạo đức của những đồng bào trong cơn khủng hoảng chính là cách Chúa gõ cửa lòng ta. Tiếng Chúa gõ cửa lòng ta qua những khao khát đạo đức của đồng bào là tiếng gõ nhẹ nhàng, tế nhị, âm thầm. Nghe được, hiểu được tiếng gõ ấy chính là do sự nhạy bén của một cái tâm tốt lành, nói được là cái tâm có ân sủng của Chúa. Nhạy bén trong thời điểm khó khăn này chỉ đơn sơ là thế. Nhưng, khi xét lại chính thân mình, tôi thấy sự nhạy bén đó vốn có nhiều giới hạn trong tôi. Do sự xơ cứng của lòng mình, do thói quen tìm lợi riêng cho mình, nhất là do tình trạng khép kín tâm hồn mình. Tôi sám hối chân thành. 3. Giới hạn thứ hai là thiếu thức tỉnh. Khủng hoảng là một cách Chúa dùng để đánh thức. Qua khủng hoảng hiện nay, Chúa đánh thức tôi hãy nhìn lại ý nghĩa đời tôi và hướng đi của đời tôi. Tôi đang mất quá nhiều, nếu lại mất linh hồn mình nữa, thì đời tôi còn ý nghĩa gì. Tôi đang chứng kiến nhiều cuộc đời chạy theo hướng vật chất phải sụp đổ đau đớn, không lẻ tôi cũng vẫn theo họ lao mình vào hướng vật chất đó hay sao? Sự đánh thức của những khủng hoảng hiện nay làm cho tôi nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm xưa để đánh thức lương tâm con người. Đọc lại Phúc Âm, tôi thấy sợ. Vì mặc dù Chúa Giêsu đã dùng mọi cách, kể cả việc làm phép lạ, để đánh thức những người theo đạo Chúa thời đó, nhưng nhiều người thời đó vẫn không thức tỉnh. Đến nỗi, từ trên xuống dưới, tôn giáo tại Do Thái thời đó đã nhất trí một lòng lên án giết Chúa Giêsu, coi tên cướp Baraba đáng được thương hơn Chúa Giêsu. Rõ ràng là tất cả đều ngủ say trong một cơ chế lỗi thời, nặng đủ các thứ lề luật, nhưng lại coi nhẹ luật yêu thương. Không thức tỉnh của người thời đó vẫn truyền lại cho tới thế hệ hôm nay. Khi xét mình, tôi thấy tôi cũng có một số giới hạh trong việc thức tỉnh. Tôi hối hận. 4. Giới hạn thứ ba là thiếu tin cậy vào ơn Chúa. Thời Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng đã không thiếu những khó khăn, những khủng hoảng về nhiều mặt. Để đối phó với tình hình đó, kẻ thì thích ban bố thêm nhiều lề luật, người thì lớn tiếng chỉ trích lên án lung tung, kẻ thì muốn dùng quyền để trừng trị, người thì quyết tâm dùng ý chí cương nghị của mình để chống lại sự ác. Nhưng Chúa Giêsu lại đưa ra một lời dạy độc đáo: “Nếu không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Với lời dạy đó, Chúa muốn chúng ta sống đức tin trong mọi khủng hoảng bằng cách gắn bó mật thiết với Người, tuyệt đối tin vào Người, ngoan ngoãn đi theo Người, cho dù phải trở thành hạt lúa gieo vào lòng đất (x. Ga 12,24), hay phải treo trên thánh giá, để trở thành của lễ đền tội thay cho nhân loại. Chúa dạy là như thế, thế mà nhiều khi tôi không luôn vâng theo như thế. Khi xét mình, tôi thấy mình thực sự đã có nhiều giới hạn trong việc cậy tin vào Chúa. Tôi ăn năn hết lòng. 5. Khi nhận ra được những giới hạn trên đây của mình, tôi mới thấy trong tình hình khó khăn hiện nay Chúa đang hiện diện mật thiết trong các môn đệ của Chúa. Người đang hoạt động âm thầm mà mạnh mẽ trong các tâm hồn kính sợ Chúa. Chứng tỏ rằng trong những thời khó khăn nhất, Chúa vẫn đào tạo nên nhiều chứng nhân thích hợp làm chứng cho Chúa. Những chứng nhân này có thể có một phong cách khác với những chứng nhân thời đạo Chúa bị cấm cách. Bén nhạy, thức tỉnh và cậy tin vào Chúa giữa thời kinh tế thị trường như hiện nay là thái độ đạo đức của một đức tin chan hoà bác ái khiêm nhường tế nhị. 6. Với thái độ bén nhạy, thức tỉnh và cậy tin vào Chúa, họ đọc thời sự báo tin những đổi thay trên Đất Nước và Hội Thánh Việt Nam. Họ khám phá thấy Chúa đang làm những sự lạ lùng trong những quan hệ giữa đạo đời, giữa giàu và nghèo, giữa cũ và mới. Họ thấy là đang có những đổi mới và những đổi thay. Những đổi mới và những đổi thay ấy đang diễn tiến một cách nhẹ nhàng. Đúng là ân sủng và sự cứu độ Chúa dành cho người có tâm hồn đơn sơ, bé mọn. Đồng thời họ nhận thấy điều làm nên hạnh phúc là những việc làm của cái tâm, như Chúa đã dạy trong “Tám mối phúc thật” trên núi xưa. Riêng tôi, khi đề cập đến thái độ bén nhạy, thức tỉnh và cậy tin vào Chúa, tôi thấy mình yếu đuối. Thấy rồi, tôi vui mừng bắt đầu lại, và như luôn bắt đầu lại. Bắt đầu lại với lòng hân hoan, việc đó tôi cảm nhận như sức sống của tuổi trẻ. Mùa Xuân thiêng liêng của tôi chính là những gì luôn luôn mới được Chúa tạo dựng trong tâm hồn tôi. Bén nhạy mới, thức tỉnh mới, niềm tin cậy mới, đó là ân sủng và sự cứu độ. Lạy Mẹ Maria, con xin Mẹ thương giúp con cảm tạ Chúa vì mùa Xuân mới của con.
Thời gian tới sẽ có nhiều khó khăn. Ai cũng nói vậy. Chắc là đúng như thế. Bên cạnh những khó khăn bình thường, sẽ có những khó khăn khác thường. Bên cạnh những khó khăn ngờ được, sẽ có những khó khăn bất ngờ. Bên cạnh những khó khăn dễ vượt qua, sẽ có những khó khăn khó vượt qua. Có thể nói thêm, tình hình không những khó khăn mà còn nguy hiểm. Cảnh trước mắt đó khiến tôi nhớ lại cảnh đã lùi về phía sau. Trong quá khứ dài, tôi cũng đã từng sống những quãng thời gian đầy khó khăn và nguy hiểm. Bây giờ nhớ lại, tôi rất tạ ơn Chúa đã xót thương cứu độ tôi, tôi cũng rất biết ơn những tấm lòng đã cảm thương giải thoát tôi. 2. Trong tâm tình như trên, tôi cầu xin Chúa thương soi sáng cho tôi được biết tôi sẽ phải sống đức tin thế nào với thời gian đầy khó khăn và nguy hiểm đang tới. Chúa trả lời tôi bằng cách đưa lòng tôi nhớ về “dụ ngôn người Samari tốt lành”, mà Chúa Giêsu đã nói với người thông luật xưa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cùng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngay chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ trên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán mà nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác. Vậy, theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào kẻ cướp? Người thông luật trả lời: ‘Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy’. Đức Giêsu bảo ông ta: ‘Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy’” (Lc 10,30-37). 3. Nghe Chúa dạy, tôi hiểu. Tôi hứa với Chúa là sẽ làm như người ngoại đạo Samari đó. Thực sự tôi cũng đã làm như vậy. Nhưng càng muốn bắt chước người Samari đó, tôi càng thấy khó. Cái khó thứ nhất là loại “người bị thương nằm bên lề đường” hiện nay là rất đa dạng. Bị thương do kẻ cướp, do nội bộ gia đình, nội bộ cơ quan, nội bộ tôn giáo. Bị thương do cá nhân xấu, do cơ chế xấu, do dư luận xấu. Bị thương do chính những nết xấu và chọn lựa xấu của chính mình. Bị thương nào cũng đau, cũng khổ. Họ kêu than, họ xin được cứu, họ đợi chờ được cứu. Cảnh khổ đó là một thách đố đối với người theo đạo Chúa là đạo bác ái. Đáp ứng thách đố ấy thế nào đây, thực không dễ trả lời. Cái khó thứ hai là loại người khi nhìn thấy cảnh khổ của con người thì “tránh sang bên kia mà đi” hiện nay cũng rất đông. Lý do họ đưa ra, để biện minh cho việc họ tránh sang bên kia mà đi, cũng có vẻ hợp lý theo đạo đức và theo sự khôn ngoan. Họ có chức có quyền có thế, như thầy tư tế và thầy Lêvi. Dám không làm theo họ là cả một thách đố lớn. Thực không dễ chút nào. Tôi khiêm tốn trình bày với Chúa những khó khăn đó. Chúa trả lời tôi một cách đơn giản đại khái thế này: Trong mọi khó khăn, hãy tin vào Lời Chúa. Chúa dạy “Hãy thực thi lòng thương xót như người Samari”, thì hãy cứ vâng, rồi Chúa sẽ giúp. Bởi vì thực thi lòng thương xót đối với bất cứ kẻ khổ đau nào, luôn được coi là việc đạo đức, nói lên ân sủng và sự cứu độ của Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. 5. Chúa dần dần cắt nghĩa cho tôi hiểu như sau: Chúa ban ân sủng và sự cứu độ cho những kẻ bé mọn (x. Lc 10,21). Người ngoại đạo Samari nói trong dụ ngôn là kẻ bé mọn. Người bé mọn ấy đã chạnh lòng thương đối với kẻ bị thương nằm bên lề đường. Việc chạnh lòng thương của kẻ bé mọn ấy là do ân sủng và sự cứu độ Chúa ban cho họ. Kẻ bé mọn Samari đã biết đón nhận vào mình tình yêu xót thương của Chúa, để rồi chính mình lại trao tặng tình yêu xót thương ấy cho kẻ khác. Tình yêu xót thương trong họ là động cơ làm nên một chuỗi những việc chăm sóc cụ thể kéo dài. Nhận thức trên đây đưa tôi đến kết luận này: Việc chạnh lòng xót thương đối với bất cứ ai khổ đau đều là việc đạo đức mang dấu ấn của Chúa, có sức làm chứng cho Chúa. Chắc chắn là như vậy. Nếu thế thì tôi không được phép trốn tránh những việc chạnh lòng thương. Không phải hễ có chạnh lòng thương, là sẽ phải có những việc cụ thể bác ái lớn lao theo sau. Thực tế cho thấy những việc cụ thể bác ái rất đa dạng. Có những việc bác ái nhỏ và âm thầm nhưng vẫn sinh được kết quả lớn. Đang khi nhiều việc gọi là bác ái lớn và rầm rộ lại chỉ sinh được kết quả yếu ớt, hoặc chẳng may lại phản chứng. 6. Chúa đang cho tôi thấy: Tình hình hiện nay đang báo hiệu một thời gian có nhiều khó khăn và sẽ có nhiều người phải khổ. Nhưng trong cảnh khổ mênh mông ấy đang xuất hiện nhiều con người chạnh lòng thương xót. Họ thuộc mọi thành phần trong Công giáo và ngoài Công giáo. Tất cả đều được ân sủng và sự cứu độ của Chúa, với những mức độ và hình thức khác nhau. Tôi nên trân trọng họ. Nhất là chính tôi cần là người biết chạnh lòng thương xót như Chúa muốn. 7. Để thêm xác tín, tôi xin được phép kể lại một sự kiện đã xảy ra cho tôi, có liên quan đến vấn đề chia sẻ hôm nay. Một đêm sau ngày 30 tháng 5 năm 1975, không xa ngày tôi thụ phong Giám mục, tôi trải qua một chiêm bao lạ. Tôi đang đi trên một con đường lớn, hai bên là những cánh đồng ruộng bao la. Đột nhiên tôi thấy một người từ phía xa bước trên một bờ ruộng tiến về con đường lớn tôi đang đi. Tôi vừa tới chỗ đó, thì người ấy cũng vừa tới chỗ đó. Hai người gặp nhau. Tôi nhận ra ngay người lạ ấy chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu yêu thương cầm lấy tay tôi. Người dẫn tôi tới một thành phố nhộn nhịp, đi thẳng vào một bệnh viện rộng lớn. Người thong thả đưa tôi qua các phòng bệnh nhân. Thỉnh thoảng Người dừng lại trước những giường bệnh, để tôi nhìn thấy rõ những nỗi đau của bệnh nhân. Có một lúc, tôi cảm thấy lòng mình quá xúc động, đau đớn dạt dào tình cảm xót thương. Tôi bừng tỉnh. 8. Tôi hiểu: Qua chiêm bao vừa xảy ra, Chúa muốn dạy tôi về hướng mục vụ, mà Chúa trao cho tôi trong một thời điểm rất khó khăn. Hướng đó là hãy xót thương người đau khổ. Xót thương người đau khổ phải được coi là món quà quý và liều thuốc tốt, mà người đau khổ cần trong lúc khó khăn. Thực vậy, một tấm lòng xót thương chân thành, dù không làm được nhiều, vẫn tạo nên được một bầu khí thiêng liêng mang sự sống có ân sủng và sự cứu độ, để người đau khổ thở lúc ngặt nghèo. Thở được thứ không khí tình thương đó, người ta sẽ thấy nhẹ đi bao nỗi đau, họ cũng cảm thấy nhiều vết thương tâm hồn được chữa lành. Tôi thấy Chúa đang khơi dậy tại Quê Hương Việt Nam của tôi một mùa Xuân những tấm lòng xót thương chân thành. Thực vậy, chính trong thời điểm khó khăn này, càng ngày càng thêm nhiều lề luật, thì khuynh hướng nhấn mạnh và đề cao việc đào tạo cái tâm đang xuất hiện khắp nơi trong Công giáo và ngoài Công giáo. Cái tâm biết xót thương cứu khổ mới là yếu tố quan trọng để giải quyết những khủng hoảng hiện nay và sẽ tới trên Đất Nước này. Thực vậy, chính trong thời điểm khó khăn này, càng ngày càng thêm nhiều phong trào đạo đức, thì phong trào “lòng thương xót Chúa” đang dần dần thu hút được nhiều tâm hồn. Họ xin lòng thương xót Chúa cứu họ, và giúp họ cứu những người khác, theo gương Chúa giàu lòng thương xót. Phong trào không loại trừ ai, nhưng đang lan rộng vào mọi người, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Thực vậy, chính trong thời điểm khó khăn này, càng ngày càng thêm nhiều loại thước đo để định giá một người, thì “biết xót thương người đau khổ” đang trở thành thước đo được phần đông chấp nhận. Do vậy mà nhiều người như người ngoại Samari lại được tôn vinh. Thực vậy, ngay trong thời điểm khó khăn này, không thiếu người đang âm thầm sống ơn gọi “hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu thối đi” (x. Ga 12,24), để đền tội thay cho biết bao người. Đúng là họ đang quảng đại theo gương Chúa Giêsu hy sinh trên thánh giá, vì xót thương nhân loại. 9. Nhìn những sự kiện trên đây, tôi thấy trong thời điểm khó khăn, Chúa vẫn làm những sự lạ lùng, giúp chúng ta sống cảnh khó khăn, mà vẫn hy vọng, vẫn sinh ích cho đời. Rất mong mỗi người chúng ta hãy nhờ Chúa, mà biết xót thương, để trao tặng cho đồng bào yêu quý của Quê Hương Việt Nam yêu dấu những hy vọng bình an từ Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Tôi tin lời Chúa hứa: “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Long Xuyên, bên thềm Quý Tỵ
Bùi-Tuần 1198: LỜI CẦU CỦA NGƯỜI ĐAU KHỔ 24-01-2013
Lạy Chúa, con đang bị đóng đinh vào thánh giá. Những chiếc đinh là những phiền muộn, những lo sợ, những ray rứt của con. Phiền muộn của con là thấy mình mắc nợ quá nhiều với Chúa, với Hội Thánh, với những người khổ đau, với đồng bào và Tổ Quốc của con. Nợ nhiều mà không sao trả nổi. Phiền muộn của con còn là thấy nhiều người cũng như con, đôi khi trước cảnh rên xiết và hấp hối của bao người, không những đã dửng dưng, mà còn thiếu tế nhị, đôi khi còn độc ác với họ. Lo âu của con là sợ mình có phần nào trách nhiệm trong tình hình đạo đức sa sút hiện nay. Lo sợ của con cũng còn là thấy bao người có trách nhiệm xem ra không biết lo trước những tai hoạ sắp đổ xuống trên nhân loại, trên Hội Thánh và trên Quê Hương Việt Nam này. Ray rứt của con là thấy mình vẫn chưa yêu thương như Chúa yêu thương. Ray rứt của con cũng còn là thấy mình bất lực, không cứu được những người Chúa đã trao cho con. Thánh giá của con là chính cuộc đời phức tạp của con, là chính thân phận yếu đuối của con. Thánh giá của con được ghép vào thánh giá Chúa Giêsu. Bị đóng đinh vào thánh giá, con mới nếm được thế nào là đau đớn. Cảm được thực tế đau khổ là một hồng ân, để con biết hiệp thông với Chúa Cứu Thế trong vườn Cây Dầu, và trên Núi Sọ. Nhất là để con biết tế nhị và cảm thương với những người đau khổ. Con cảm tạ Chúa vì ơn cao quý đó. Bị đóng đinh vào thánh giá, con mới hiểu cầu nguyện trong cơn thử thách là hết sức cần thiết. Con cảm tạ Chúa đã giúp con cầu nguyện trong tình trạng tối tăm khổ đau này, nhất là khi tối tăm và khổ đau lại đang tràn sâu vào tuổi già mệt mỏi và bệnh nạn. Con cảm tạ Chúa, nhất là vì nhờ đau khổ mà con đã gặp được Chúa. Con càng cảm tạ Chúa, vì nhờ ơn Chúa, con biết phó thác mình con trong tay Chúa. “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Con phó thác mình con. Con cũng phó thác những người thuộc về con. Con cũng phó thác Hội Thánh dấu yêu và Quê Hương yêu quý của con. Con cũng xin phó thác những người đau khổ và yếu đuối như con. Con tin ở Chúa, vì Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Con sẽ về với Chúa, trong niềm xác tín qua thánh giá sẽ là Phục Sinh. Lạy Chúa là Cha của con. Long Xuyên, ngày 24 tháng 01 năm 2013
Bùi-Tuần 1199: Cảm nghĩ ngày cuối năm Nhâm Thìn 09-02-2013
Sáng nay, ngày cuối năm Nhâm Thìn, tôi dâng thánh lễ Misa lúc 03 giờ, khi trời còn tối. Trong cuộc gặp gỡ thân mật riêng tư với Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì muôn vàn ơn lành hồn xác Chúa đã ban cho tôi suốt một năm dài. Đang lúc tâm tình cảm tạ dâng tràn, tôi đọc lời đáp ca của thánh lễ trong ngày (thứ Bảy sau Chúa nhật IV quanh năm). Tới câu: “Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương” (Tv 22,5), tôi chợt thấy các ơn Chúa ban cho tôi có thể ví như một mâm cỗ Chúa dọn ra cho tôi. Nhìn mâm cỗ Chúa dọn ra cho tôi, tôi cảm thấy rất rõ hương vị quý giá nhất phảng phất trong mọi món trên mâm cỗ đó, chính là tình yêu tế nhị của Chúa. 2. Thực vậy, tình yêu Chúa gởi cho tôi là rất tế nhị. Tình yêu ấy như một mâm cỗ thịnh soạn. Mâm cỗ này có nhiều món khác nhau. - Có thứ đẹp ngon thơm thuộc thiên nhiên, mà tôi cảm thấy được do giác quan. Đó là cảnh núi sông, ruộng vườn cây cối, hoa trái và nhiều thứ hấp dẫn xung quanh tôi. - Có thứ ngon thơm thuộc tâm linh, mà tôi thưởng thức được do sự nhạy bén nội tâm. Đó là những yêu thương, tình nghĩa, hiếu thảo từ nhiều tấm lòng tốt xa gần đối với tôi. - Đặc biệt là có thứ đẹp ngon thơm sâu lắng thuộc thế giới siêu nhiên, thu hút tôi vào một cõi hạnh phúc mênh mông. Đó là các ân sủng do Lời Chúa, các bí tích và các tôn sùng thánh. 3. Các món ăn khác nhau đó trong một mâm cỗ Chúa dọn ra giúp cho tôi đón nhận tình thương của Chúa qua nhiều cách, thích hợp với những hoàn cảnh khác nhau. Chúa đúng là một Đấng tế nhị. 4. Mâm cỗ dù ngon thơm đẹp nhưng Chúa không ép buộc tôi. Chúa dọn ra cho tôi, nhưng Chúa để tôi tự do. Tôn trọng tự do, đó là thái độ rất tế nhị của tình yêu Thiên Chúa. Khi tôi dùng sự tự do của tôi, để đón nhận những món ăn đủ thứ ngon thơm đẹp, mà Chúa dọn ra cho tôi, tôi sửng sốt nhận ra trong mâm cỗ ấy còn có một món vô cùng cao quý, đó là nhớ lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong phép Thánh Thể cũng như trong thánh lễ Misa, thực sự có Mình và Máu Chúa Giêsu, Đấng đã hy sinh để cứu chuộc loài người. 5. Chỉ một thoáng nhìn mâm cỗ Chúa dọn ra cho tôi, tôi thấy tình yêu của Chúa là hết sức tế nhị. Khi đã nhìn thấy, và hơn nữa, khi đã nếm các thứ món thức ăn trên mâm cỗ, tôi không thể không hết lòng cảm tạ Chúa. Đối với tôi, Chúa chính là hạnh phúc của tôi, là Mùa Xuân của tôi.
6. Nói thế không có nghĩa là bản thân tôi trên cõi đời này sẽ tránh được mọi đau khổ. Tôi không hề nghĩ như thế. Bởi vì thực tế là đời tôi vẫn có nhiều đau khổ. Nhưng với đau khổ, đời tôi sẽ là một của lễ tình yêu, đáp lại tình yêu của Chúa. Tình yêu có đau khổ là một tình yêu có mức độ tế nhị hết sức chân thành. 7. Tôi đã thưởng thức các món ngon thơm đẹp trên mâm cỗ Chúa dọn ra cho tôi suốt một năm, một năm có nhiều phức tạp. Thưởng thức ấy càng sâu, khi đức tin càng mạnh. Tôi cảm tạ Chúa đã ban đức tin cho tôi. 8. Trong tâm tình cảm tạ, tôi thấy mình mắc nợ với Chúa quá nhiều. Tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ đền đáp đủ tình thương của Chúa. Đôi chút đền ơn tôi mong cố gắng làm, sẽ chỉ là những việc nhỏ. Trước hết, tuy dù rất yếu hèn, tôi xin dâng hiến chính bản thân mình làm của lễ. Cho dù của lễ ấy phải dâng trên thánh giá, thì đó cũng là một cách bước theo Chúa Giêsu trong việc cứu độ, Đấng yêu thương tôi. Thêm vào đó, tôi sẽ làm hết sức mình để làm chứng cho tình yêu Chúa. Làm chứng cho tình yêu Chúa trong tình hình phức tạp tại Việt Nam lúc này sẽ phải rất tế nhị. Tế nhị trong tình yêu là một ơn Chúa sẽ ban cho những ai cầu xin với Chúa. Tế nhị ấy đòi phải khiêm nhường và tin vững vàng vào Chúa. Tôi tin tình yêu Chúa sẽ vượt thắng tất cả, kể cả mọi thứ ghen ghét hận thù. Thánh vịnh nói: “Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương” (Tv 22,5). Đối phương là những người chống lại tình yêu của Chúa. Tôi biết họ. Nhưng tôi không ghét họ. Trái lại, theo gương Chúa, tôi vẫn tha thiết mời họ chia sẻ mâm cỗ tình yêu, mà Chúa đã dọn ra. Tôi thấy dần dần, nhiều người gọi là những kẻ đối phương cũng đã thực sự nếm được tình yêu Chúa. Họ đang bắt đầu tin Chúa. Kinh nghiệm đó giúp tôi càng tin vào sức mạnh vô biên của tình yêu Chúa. Tôi xin kết bài chia sẻ đơn sơ này cũng bằng lời thánh vương Đavít: “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống, cho tới thời gian rất ư lâu dài” (Tv 22,6). Long Xuyên, ngày cuối năm Nhâm Thìn (09-02-2013)
Bùi-Tuần 1200: VIỆC ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI TỪ NHIỆM
LÀ MỘT SỨ ĐIỆP CỦA NĂM ĐỨC TIN 13-02-2013 + GB. BÙI TUẦN 1.
Tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm đã và đang gây xôn xao trong mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng từ nhiệm, đó là biến cố rất bất ngờ. Bất ngờ đó gây ra trong tôi một nỗi bàng hoàng choáng váng. Lấy lại sự bừng tỉnh nhờ cầu nguyện, tôi cúi đầu lắng nghe Chúa dạy bảo. Chợt tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ riêng tư, lần tôi được gặp Đức Giáo Hoàng lúc Ngài còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ Đức Tin. Trong trao đổi, tôi thấy Ngài chú ý đặc biệt đến sự gặp gỡ Đức Kitô. Như thế căn cốt của đức tin là gặp gỡ riêng tư và thân mật với Đức Kitô, để bước theo Đức Kitô. Nên trong thinh lặng nội tâm lúc này, Chúa dạy tôi hãy dùng chi tiết đó như một ánh sáng để hiểu sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng. Nhờ ơn Chúa giúp, tôi dần dần nhận ra rằng: Sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chứng tỏ Ngài đã và đang gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô. Nhờ đó Ngài nhấn mạnh đến mấy điểm rất cần sau đây cho Năm Đức Tin: 2. Trước hết, theo Ngài, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô trong sự từ bỏ quyền lợi riêng, và bước xuống thân phận con người hèn yếu, vì yêu thương con người và để cứu chuộc loài người. Tôi nhớ lại ở đây lời thánh Phaolô nói về nét đẹp đó của Đức Kitô: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Đức Kitô đã bước xuống, để hoà mình, để chia sẻ, để gần gũi, để cứu chuộc loài người bằng yêu thương hoà trộn với hy sinh quên mình. Đức Kitô đã nêu gương sáng đó cho các môn đệ Chúa. Các môn đệ Chúa hiểu sự khiêm nhường bước xuống như thế là một đặc điểm của người môn đệ Chúa. Thánh Phêrô càng hiểu điều đó. Nên, khi được Chúa Giêsu trao trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa, thánh Phêrô đã thề hứa với Chúa là hết lòng mến yêu Chúa. Trong lòng yêu mến đó có sự cam kết sống khiêm nhường bước xuống theo gương Chúa. Các đấng kế vị thánh Phêrô vẫn giữ tinh thần bước xuống theo gương Đức Kitô, theo những cách khác nhau. 3. Tuy nhiên, với những biến chuyển của lịch sử, Hội Thánh dần dần trở thành một tổ chức. Tổ chức này vừa có yếu tố siêu nhiên, vừa có yếu tố nhân loại. Một lúc nào đó, tổ chức trở thành cơ chế phức tạp, như một guồng máy nặng nề. Trong hoàn cảnh đó, vị đứng đầu Hội Thánh, dù muốn dù không, cũng phải bước lên chỗ gọi là Ngai, là Toà. Chức cao, quyền cả đó là một vinh dự rất lớn, nhưng cũng là một trách nhiệm rất nặng nề. Nhất là khi yếu tố nhân loại chẳng may trở nên mạnh trong cơ chế phức tạp. Trong tình hình như thế, cho dù người đứng đầu Hội Thánh, kế vị thánh Phêrô, có muốn đổi mới Hội Thánh, bằng việc kêu gọi mọi người hãy tập trung vào Đức Kitô, và giới răn yêu thương của Người, thì công việc đổi mới ấy không dễ gì thực hiện được. Cản trở do những yếu tố ngoài Hội Thánh vẫn mạnh. Cản trở do những yếu tố nhân loại trong cơ chế nội bộ Hội Thánh cũng mạnh không kém. Trước một thực tế quá nhiều thách đố như vậy, vị lãnh đạo Hội Thánh sẽ phải suy nghĩ rất nhiều. Suy nghĩ đi tới những chọn lựa. Khi chọn lựa của Ngài là sự từ nhiệm, thì chọn lựa đó phải được coi là khiêm nhường và can đảm. Từ nhiệm là bước xuống. Bước xuống để lui vào đời sống cầu nguyện, cũng vẫn là một cách đại diện cho Chúa Kitô, lo cho đoàn chiên của Chúa. Ngài bước xuống như vậy, là nhờ đức tin. Tin nơi Ngài là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô. 4. Hơn nữa, khi đức tin của Ngài là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô, thì Đức Giáo Hoàng bước thêm một bước nữa, đó là chịu đóng đinh mình một cách nào đó vào thánh giá. Ở đây, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói về Đức Kitô: “Ngài lại hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8). Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI cũng đã vâng lời đức tin cho đến cùng. Với sự từ nhiệm của Ngài, Ngài nói sơ qua về tình hình sức khoẻ của Ngài đang suy giảm. Chừng ấy thiết tưởng đã đủ, để chúng ta hiểu sự đau đớn Ngài phải chịu. Đau đớn phần xác, đau đớn phần hồn. Đau đớn do ngoại cảnh, đau đớn do nội bộ. Chính sự từ nhiệm cũng được coi là một quyết định đau đớn. Những đau đớn ấy chính là một thứ thánh giá Ngài đang vác trên vai, và cũng là thánh giá mà Ngài như bị đóng đinh vào, để dâng mình làm của lễ, kết hợp với của lễ xưa của Chúa Giêsu trên thánh giá. Tôi có cảm tưởng là một cách nào đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI muốn nhắc lại cho đoàn chiên của Ngài lời thánh Phaolô xưa: “Được thông phần những đau khổ của Đức Kitô, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Người” (Pl 3,10), đó chính là hướng đi của đời Ngài. 5. Với những cảm nghĩ trên đây, tôi coi sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là một sứ điệp quý giá của Năm Đức Tin. Đọc sứ điệp này tôi thấy mình cần phải học nhiều điều. Thứ nhất, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bắt chước Đức Kitô. Thứ hai, nếu tin là bắt chước Đức Kitô, thì tôi phải khiêm nhường bước xuống, để chia sẻ, hoà mình, gần gũi, và để giải cứu con người bằng tình thương hy sinh quên mình. Thứ ba, nếu tin là bước theo Đức Kitô, thì tôi luôn phải sẵn sàng từ bỏ những gì không thích hợp với sự phát triển của Nước Thiên Chúa, để dấn thân vào những gì thích hợp hơn, theo thánh ý Chúa. Những gì không thích hợp như các công trình phô trương tốn phí. Những gì thích hợp hơn như đời sống nội tâm. Thứ tư, nếu tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô, thì mọi chọn lựa của tôi luôn phải khiêm tốn và yêu thương. Bốn điều trên đây sẽ không dễ thực hiện được, nếu không có ơn Chúa. Nên tôi phải tăng cường việc cầu nguyện và làm những việc hy sinh nho nhỏ trong đời sống thường ngày. 6. Khi sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI được coi là một sứ điệp của Năm Đức Tin, thì sứ điệp này không chỉ là một bài học, mà còn là một cảnh báo. Cảnh báo về một tương lai sẽ có những bất ngờ gây bàng hoàng sửng sốt. Có thể sẽ xảy ra những biến cố về sự bước xuống đau đớn và cảnh chịu đóng đinh vào thánh giá. Nơi ít nơi nhiều, những bất ngờ đau đớn đó sẽ xảy ra. Với những bài học và những cảnh báo, sứ điệp Năm Đức Tin tiềm ẩn trong sự từ chức của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI rất đáng được chúng ta suy nghĩ trong thinh lặng nội tâm, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Cần suy nghĩ nghiêm túc, để điều chỉnh lại đời sống một cách mau lẹ. Kẻo, khi những bất ngờ đau đớn xảy tới mới tìm hướng đi, thì sẽ quá muộn. Cần thức tỉnh mau lẹ. Đừng trì trệ, dửng dưng, khô cứng. Kẻo giờ Chúa đến bất ngờ, mà chưa chuẩn bị, thì sẽ không kịp theo Chúa đi vào Nước Trời. Bất ngờ tiếp nối bất ngờ. Sứ điệp trong sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI mới chỉ là khởi đầu. Ở đây, tôi nhớ tới những khủng khiếp, mà Đức Mẹ đã tiên báo ở Fatima. Long Xuyên, ngày 13 tháng 02 năm 2013