Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1001-1050

Thứ ba - 26/02/2019 08:05
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1001-1050
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1001-1050
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1001-1050
Bùi-Tuần 1001: Kinh nghiệm truyền giáo. 2
Bùi-Tuần 1002: Tâm sự của người quá cố. 6
Bùi-Tuần 1003: TRONG TINH THẦN VÀ SỰ THỰC 12-11-2006. 11
Bùi-Tuần 1004: ĐỐI CHIẾU 14-11-2006. 14
Bùi-Tuần 1005: Đón Tiếp Chúa Thánh Linh 04-06-2006. 17
Bùi-Tuần 1006: Chia sẻ mục vụ trong ngày cuối năm.. 19
Bùi-Tuần 1007: XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC 06-06-2006. 22
Bùi-Tuần 1008: TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM HÔM NAY 22-10-2006. 25
Bùi-Tuần 1009: Tân-Phúc-Âm-hoá giáo xứ. 28
Bùi-Tuần 1010: Tháng Mân Côi và NHỮNG BÔNG HỒNG NGOẠI 33
Bùi-Tuần 1011: TÔN SÙNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU 13-06-2006. 36
Bùi-Tuần 1012: CÔ ĐƠN 30-06-2006. 39
Bùi-Tuần 1013: Những sức mạnh đang công phá thế giới sự thiện. 45
Bùi-Tuần 1014: Xây Dựng Hội Thánh 05-07-2006. 50
Bùi-Tuần 1015: Xây Dựng Nước Trời 07-07-2007. 52
Bùi-Tuần 1016: Ðức tin cần có việc làm kèm theo. 54
Bùi-Tuần 1017: Gặp Gỡ Đức Kitô 18-07-2006. 59
Bùi-Tuần 1018: MỘT DỊP ĐỂ NHÌN VỀ HỘI THÁNH VIỆT NAM HÔM NAY.. 61
Bùi-Tuần 1019: SỐNG TRONG THỬ THÁCH 04-10-2006. 64
Bùi-Tuần 1020: TỔNG KẾT ĐỂ KHAI TRƯƠNG 21-01-2007. 67
Bùi-Tuần 1021: MÙA CHAY TRONG TÌNH HÌNH MỚI 04-03-2007. 71
Bùi-Tuần 1022: THÁNH GIUSE và BA CON ĐƯỜNG 19-03-2007. 74
Bùi-Tuần 1023: XIN VÂNG GIỮA CÁC BI KỊCH 25-03-2007. 78
Bùi-Tuần 1024: CÔ ĐƠN và TĨNH MẠC 8-04-2007. 81
Bùi-Tuần 1025: XỨC DẦU THÁNH 30-04-2007. 84
Bùi-Tuần 1026: CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH GIOAN.. 86
Bùi-Tuần 1027: ĐỨC TIN TRONG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC 13-08-2007. 89
Bùi-Tuần 1028: XIN CỨU CHÚNG CON KHỎI MỌI SỰ DỮ 07-10-2007. 92
Bùi-Tuần 1029: Truyền Giáo trong thời sau hết 21-10-2007. 96
Bùi-Tuần 1030: Guơng Sáng  Đọc Thư Chung HĐGMVN 2007: 21-10-2007. 98
Bùi-Tuần 1031: NGÀY NHÀ GIÁO TRONG NĂM GIÁO DỤC KITÔ GIÁO.. 101
Bùi-Tuần 1032: SỐNG MÙA THU CUỘC ĐỜI 21-11-2007. 104
Bùi-Tuần 1033: MỘT CÁI NHÌN VỀ GIÁO HỘI VIỆT NAM HÔM NAY.. 107
Bùi-Tuần 1034: LÀM CHỨNG CHO TÌNH YÊU CHÚA 22-11-2007. 110
Bùi-Tuần 1035: ”Thời nào cũng sẽ có ánh sáng thích hợp cho thời đó". 113
Bùi-Tuần 1036: Nhìn lại năm 2007 NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG.. 118
Bùi-Tuần 1037: VIẾT LUẬN ÁN TIẾN SĨ 07-12-2007. 121
Bùi-Tuần 1038: QUY CHIẾU 24-12-2007. 124
Bùi-Tuần 1039: CẢNH BÁO CUỐI NĂM 08-01-2008. 127
Bùi-Tuần 1040: DỊP TẾT GẶP GỠ CHÚA 03-01-2008. 129
Bùi-Tuần 1041: CHIA SẺ DỊP TẾT 26-01-2008. 132
Bùi-Tuần 1042: KHOẢNG CÁCH 02-02-2008. 134
Bùi-Tuần 1043: KHẢ NĂNG CẢM NGHIỆM 16-02-2008. 137
Bùi-Tuần 1044: ƠN SÁM HỐI TRỞ VỀ 21-02-2008. 140
Bùi-Tuần 1045: HOÀN CẢNH CỤ THỂ 28-02-2008. 143
Bùi-Tuần 1046: THÁNH GIUSE KHIÊM NHƯỜNG 15-03-2008. 146
Bùi-Tuần 1047: TRONG TAY CHA 25-03–2008. 149
Bùi-Tuần 1048: GẶP CHÚA PHỤC SINH GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT.. 152
Bùi-Tuần 1049: NỮ TỲ MARIA 28-03-2008. 155
Bùi-Tuần 1050: RẤT CẦN ƠN THÁNH CHÚA 29-03 -2008. 158

Phân cách bài ĐC Bùi Tuần

Bùi-Tuần 1001: Kinh nghiệm truyền giáo

Tháng 10 hàng năm có thể gọi là tháng Truyền giáo. Bởi vì có lễ kính thánh nữ Têrêsa (1/10), bổn Bùi-Tuần 1001


Tháng 10 hàng năm có thể gọi là tháng Truyền giáo. Bởi vì có lễ kính thánh nữ Têrêsa (1/10), bổn mạng các xứ truyền giáo, và có lễ Chúa nhật cầu cho việc truyền giáo (Chúa nhật thứ ba của tháng 10, năm nay nhằm Chúa nhật 29 thường niên, 18/10). Riêng tháng 10 năm nay lại có ngày kỷ niệm 500 năm truyền giáo Nam Mỹ (12/10), là một biến cố có tính cách toàn cầu, và nhân dịp này sẽ có một hội nghị về truyền giáo tổ chức tại Santo Domingo do Ðức Giáo Hoàng chủ toạ. Ðúng là một tháng truyền giáo tưng bừng.
Ðể tích cực hiệp thông với bầu khí truyền giáo toàn cầu, tôi xin chia sẻ ở đây một vài kinh nghiệm về truyền giáo. Ðã là kinh nghiệm thì có chủ quan. Nó có thể không giống kinh nghiệm người khác. Nó càng không phải là một lý thuyết. Nó chỉ là một trong những chứng từ.
***
Theo tôi, việc truyền giáo là một việc góp phần vào chương trình đổi mới con người, theo mô hình Ðức Kitô, do Thánh Linh hướng dẫn. Do đó, mọi việc truyền giáo, dù với hình thức nào, đều cần mang sinh khí thiêng liêng phát xuất từ Chúa Thánh Linh. Sinh khí thiêng liêng này sẽ thấm vào con người, làm cho con người nên mới, có khi mau có khi chậm. Ðể trở thành một dụng cụ chuyển đạt sinh khí thiêng liêng này, người truyền giáo cần đón nhận rất nhiều ơn Thánh Linh. Ở đây, tôi chỉ kể ra một số ơn thiêng, mà tôi thấy nhiều người truyền giáo đã kinh nghiệm trong khi thi hành trách nhiệm truyền giáo trên quê hương Việt Nam hôm nay.

 Trước hết là Ơn hiểu biết
Ơn hiểu biết là một khả năng khám phá. Nó giúp con người thấy được các giá trị thiêng liêng đàng sau thế giới hữu hình và qua các biến cố xảy ra. Những giá trị này có thể đã được trình bày trên nhiều sách báo đạo. Nhưng khi được Thánh Linh mở mắt linh hồn, người truyền giáo sẽ nhìn thấy những giá trị ấy một cách sống động. Thực là một thế giới tuyệt vời, quá sức tưởng tượng. Mặc dầu vẫn còn trong ánh sáng đức tin, cái nhìn khám phá ấy cũng đã là một xác tín về Thiên Chúa Tình Yêu. Nó gây nên thao thức, như một lời kêu gọi, như một lệnh sai đi.
Hơn nữa, khi ơn hiểu biết cho ai nếm hưởng được phần nào hương vị hạnh phúc của sự Chúa đến cứu độ, người ấy cũng sẽ bị thôi thúc chia sẻ tin mừng mình được cho người khác.
Tin mừng căn bản là chính Ðức Kitô cứu độ và những lời hằng sống của Ngài. Nhờ ơn hiểu biết, người truyền giáo sẽ được đưa vào những ý nghĩa sống động cụ thể, để họ biết thời-sự-hoá Lời Chúa trong từng hoàn cảnh họ sống.
Ðiều thiết tưởng nên nhấn mạnh ở đây, đó là ơn hiểu biết giúp cho người truyền giáo cảm nghiệm được sâu sắc tình Chúa xót thương dành cho những kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Nhờ đó, họ nhận ra chính những người như vậy sẽ là địa chỉ Chúa sai họ đến, để họ cùng với Chúa chia sẻ ở đó một tình thương không biên giới với thái độ bao dung nhân hậu. Và cũng để cho họ khỏi ngã lòng, khi nhìn thấy chính bản thân mình, là kẻ được sai đi, cũng yếu đuối, như một vực thẳm chất chứa muôn vàn cái xấu.
Truyền giáo khởi đi từ ý muốn chia sẻ Tin Mừng về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, nên ai càng có ơn hiểu biết về Thiên Chúa cứu độ, càng sẽ có những phản ứng nhân ái giống Chúa Cứu thế trước những bất toàn của bất cứ ai. Ai cũng bất toàn, có nghĩa là ai cũng cần được cứu độ, với ơn hiểu biết, người truyền giáo dễ nhận ra Chúa cứu người ta bằng nhiều cách khác nhau, chứ không nhất thiết phải bằng một số cách cố định. Do đó, người truyền giáo sẽ có thái độ cởi mở khiêm tốn. Họ sẽ nhận ra những hoạt động của Thánh Linh trong những người ngoại giáo. Bao lần khi họ bước vào những vùng ngoài Công giáo, họ thấy Thánh Linh đã có mặt ở đó từ lâu rồi. Bởi vì ở đó có biết bao người tốt việc tốt. Sự hiểu biết ấy sẽ giúp họ tế nhị hơn, và biết khởi sự loan báo Tin Mừng cách nào cho thích hợp.

 Ơn khôn ngoan
Xưa trên đường truyền giáo, Chúa Cứu thế đã rất linh động một cách khôn ngoan, Ngài cho biết có lúc nên ăn chay, có lúc không nên ăn chay. Có lúc Ngài dạy người được phép lạ hãy về kể lại những sự lạ lùng Chúa đã ban cho họ. Nhưng có lúc Ngài lại cấm kẻ được phép lạ nói ra những sự lạ lùng họ đã được. Riêng trong Phúc Âm thánh Marcô, lệnh cấm như thế là 7 trường hợp. Bốn lần cấm người ta, và ba lần cấm ma quỷ. Rồi có lúc Chúa nói: Chưa đến giờ. Có lúc Chúa lại nói: Ðã đến giờ. Sự linh động của Ðức Kitô nói lên sự khôn ngoan thực hành của Ngài. Theo gương Ngài, người truyền giáo cũng phải linh động một cách khôn ngoan. Sự khôn ngoan do ơn Thánh Linh rất khác sự khôn ngoan do óc tính toán kiểu thế gian. Ơn khôn ngoan do Thánh Linh cho con người khả năng biết phân biệt cái gì, việc gì là do tinh thần Chúa, và cái gì, việc gì là do tinh thần thế tục.
Do ơn khôn ngoan, người truyền giáo thấy việc gì là thích hợp nên làm trong thời điểm này, việc gì là không thích hợp, không nên làm trong hoàn cảnh kia. Làm đúng việc, ở đúng nơi, hợp đúng thời, với đúng cách.
Xưa vua Salomon chỉ xin một ơn, đó là ơn khôn ngoan. Vì ơn đó rất cần trong việc xử thế. Tôi thấy nhiều người truyền giáo hôm nay cũng đã xin ơn đó, và Chúa đã ban cho họ ơn đó với những mức độ và hình thái khác nhau. Ơn khôn ngoan mà tôi coi là quan trọng nhất cho người truyền giáo, đó là biết rao giảng Ðức Kitô là Ðấng Cứu thế, và biết qui tụ mọi lòng người về điểm đó.
Một điều tôi nhận thấy rất rõ, đó là với ơn khôn ngoan của Thánh Linh, nhiều người truyền giáo đã biết tận dụng từng giờ phút hiện tại, trong hoàn cảnh hiện tại với khả năng hiện tại, để truyền giáo. Và họ đã thành công với những kết quả không ngờ được. Họ làm chứng rằng với ơn khôn ngoan Thánh Linh dù hoàn cảnh có bi đát đến cực độ, người truyền giáo vẫn có thể sinh ích rất nhiều cho các linh hồn. Và dù trong những điều kiện coi như không thể làm gì được, người truyền giáo vẫn có thể làm được rất nhiều cho Nước Trời.
Kinh nghiệm cho thấy ơn khôn ngoan Thánh Linh chỉ được ban cho những tâm hồn đơn sơ, bé mọn, khó nghèo, khiêm tốn. Nhưng để biết sống như vậy, người ta rất cần một sự can đảm thiêng liêng.

 Ơn can đảm
Người truyền giáo rất ý thức nội dung lời Chúa phán xưa: “Ai muốn làm môn đệ ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”. Ðối với nhiều người truyền giáo, thánh giá nặng nhất họ phải vác hằng ngày, là chính bản thân họ, với những bất toàn yếu đuối bất đắc dĩ vốn bám chặt vào thân phận họ. Họ biết mình phải trở về với Chúa từng giờ từng phút. Họ biết mình cần được thanh luyện. Trong mục đích thanh luyện, bao thử thách sẽ đến với họ. Thử thách nào cũng mang liều thuốc tẩy rửa cái tôi của họ. Trong chiều hướng đó, những thử thách về đức khiêm nhường là gây cấn nhất, nhưng lại là những thử thách Chúa thường gởi đến cho người truyền giáo. Vì khiêm nhường là điều kiện nền tảng, để họ có thể trở thành dụng cụ của Thánh Linh. Nếu thiếu can đảm người ta không dễ gì nội-tâm-hoá được niềm tin vào Chúa trong những phấn đấu thiêng liêng như vậy. Nhưng khi Thánh Linh ban sức mạnh, người ta sẽ vui mừng nhìn thấy cái giá phải trả để cứu các linh hồn chính là bó hoa tình yêu nảy nở trên thánh giá đời mình.
Rất nhiều khi Chúa cho họ biết Ngài không cần họ làm gì, mà chỉ cần họ khiêm tốn từ bỏ cái tôi cũ kỹ hẹp hòi của mình để tuân phục trọn vẹn thánh ý Chúa. Chúa coi đó là của lễ hiến dâng, sẽ hiệp thông với của lễ cứu độ xưa trên thánh giá, có sức đổi mới thế gian, cứu rỗi các linh hồn.
Thánh ý Chúa nhiều khi rất khác ý riêng con người, dù con người là đạo đức, và dù ý riêng của họ cũng là phụng sự Chúa và cũng là phục vụ con người. Biết bỏ đi những ý riêng đạo đức của mình, để tuân theo ý đạo đức của Thánh Linh, là việc làm không luôn dễ. Vì Thánh Linh không hiện ra, và con người đạo đức khi quá tự mãn lại dễ cho mình là “nắm được” Thánh Linh, chỉ coi những việc đấu tranh cho quyền lợi này, quyền lợi nọ mới là hành động can đảm. Ðang khi đó biết sống Tám mối phúc và biết có những phản ứng hiền lành, khiêm nhường, nhịn nhục, bác ái, mới chính là yêu cầu truyền giáo đích thực, đòi hỏi nhiều can đảm nội tâm.
Một yêu cầu truyền giáo khác có liên quan đến can đảm là làm chứng cho đức bác ái. Nói tới bác ái là nói tới cho đi. Kinh nghiệm cho thấy: cho đi thì dễ hơn là chấp nhận nhau, và đón nhận những khác biệt của nhau. Cũng như chia buồn thì dễ hơn là chia vui, khi lòng người hay ganh tị. Thành ra để nhận, con người cũng phải có can đảm, nhiều khi phải can đảm hơn là để cho đi.
Tới đây, tôi nhớ tới một câu Kinh Thánh dễ làm người truyền-giáo sợ. Ðó là câu nói của thánh Phaolô. “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (II Cr 12,10). Với kinh nghiệm riêng của mình, thánh Phaolô muốn nhà truyền giáo phải biết yếu để mà mạnh, phải biết thua để mà thắng, phải biết lùi để mà tiến. Nhưng khi Chúa muốn họ phải thua để Chúa thắng, họ phải yếu để Chúa mạnh, họ phải lùi để Chúa tiến, thì chuyện đó đòi họ phải can đảm nhiều lắm.
Cũng trong kinh nghiệm truyền giáo, nhiều người đã thấy sự giữ lòng mình tuyệt đối nương tựa vào Chúa là việc làm cần nhiều can đảm thiêng liêng. Nhất là trước mặt mình có bao nhiêu điểm tựa thế gian như thế lực, tiền bạc, đang được nhiều người coi là những phương tiện đầy đủ và hữu hiệu nhất, để việc truyền giáo được thành công.
***
Trên đây là mấy ơn Thánh Linh mà nhiều người truyền giáo hay nhắc tới, tất nhiên còn nhiều ơn khác như ơn chữa lành nội tâm, ơn hiệp nhất v.v.
Theo kinh nghiệm, tôi coi truyền giáo là chuyện của trái tim nhiều hơn là chuyện của lý trí. Truyền giáo là chia sẻ một tình yêu hơn là truyền đạt một giáo lý. Tình yêu không phải là đối tượng của một môn khoa, của một trường lớp. Ðứa bé trong tay mẹ vốn đọc được các tín hiệu tình yêu trong tia mắt, trong giọng nói, trong thái độ của mẹ nó. Nó dễ thương, dù nó vụng về, dù nó dại dột. Và qua cái dễ thương của nó, bao người gặp nó, dễ có cảm tình với cha mẹ nó. Tôi nghĩ người truyền giáo cũng phần nào đơn sơ thế thôi. Và như vậy, câu hỏi đặt ra cho người truyền giáo là mình có thực sự yêu mến Chúa một cách nồng nàn đơn sơ trên hết mọi sự như trẻ thơ đối với mẹ mình không?
Long Xuyên, tháng 10/1992

 

Bùi-Tuần 1002: Tâm sự của người quá cố

Tháng 11 phụng vụ là tháng các đẳng linh hồn. Trong tháng này, người tín hữu được mời gọi nhớ Bùi-Tuần 1002

Tháng 11 phụng vụ là tháng các đẳng linh hồn. Trong tháng này, người tín hữu được mời gọi nhớ về những người quá cố. Nói với người chết và cầu nguyện cho họ, đó là chuyện bình thường. Nhưng nghe hồn người chết nói và làm theo lời họ, đó là chuyện ít được nhắc tới.
Ở đây, tôi sẽ không kể lại những gì các linh hồn người chết đã nói với riêng tôi. Tôi chỉ đề cập tới vài điều họ, đã nói chung cho mọi người. Chuyện này được kể trong Phúc Âm thánh Luca, tựa đề là “Người phú hộ và người ăn mày Lagiarô”
“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người Biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Lagiarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lagiarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạỵ Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này”. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Lagiarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Lagiarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được”. Người đó lại nói: “Ðã vậy, tôi nài xin Cha sai Lagiarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môi sen và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ. Thì ắt họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môi sen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu” (Lc 16,19-30, CN 26 TN.C).
Những trao đổi giữa tổ phụ Abraham và người phú hộ trong thế giới bên kia dạy tôi nhiều điều:

 Có trật tự mới
Khi còn sống trên đời này, người phú hộ được coi là người rất mạnh, mạnh về của cải, mạnh về chức tước, mạnh về tự do. Với các thế mạnh ông muốn làm gì cũng được. Ông được kính nể, bạn bè nhiều. Ông là người sung sướng. Còn ông Lagiarô, không có của cải, không có thế lực, không có tự do, nên dù muốn làm đôi chút việc nghĩa cũng không dễ thực hiện được. Ông bị khinh, không có bạn bè, ngoài một con chó. Ông là người ăn mày, bị đẩy ra lề cuộc sống. Trật tự giữa hai người là ông phú hộ phải được ở trên, kẻ ăn mày phải bị ở dưới, kẻ sung sướng, người khổ. Trật tự ấy không đảo ngược lại được.
Thế nhưng, khi đời này đã mãn, hai người đi vào kiếp sau, thì một trật tự mới được thiết lập. Người phú hộ bị quăng vào vực lửa, để mãi mãi phải khốn khổ. Còn người ăn mày Lagiarô được lên Trời, để mãi mãi hưởng hạnh phúc vẹn toàn.

 Người phú hộ đó là ai?
Thưa, ông tiêu biểu cho loại người chủ trương sống sung sướng, hưởng thụ, theo con đường rộng rãi tự do ích kỷ, mặc dù Chúa đã cảnh giác: “Anh em hãy bước qua cửa hẹp, vì đường rộng đưa đến hư hỏng” (Mt 7,13).
Ông cũng tiêu biểu cho loại người chỉ thích sống đạo đức phô trương, trục lợi, theo kiểu riêng của mình, bất cần qui chiếu vào gương Chúa, Lời Chúa, và thánh ý Chúa, mặc dù Chúa đã cảnh cáo rất rõ: “Ðến ngày phán xét, chẳng phải mọi người kêu rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người làm theo ý Cha Ta trên trời mới được vào Nước Trời. Ngày ấy sẽ có nhiều người kêu cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi đã chẳng nhân danh Ngài mà nói tiên tri, nhân danh Ngài mà trừ quỷ, nhân danh Ngài mà làm nhiều sự lạ sao? Bấy giờ Ta sẽ trả lời: Ta không hề biết các người. Hãy lui xa, hỡi những kẻ gian ác” (Mt 7,21-23).
Người phú hộ cũng tiêu biểu cho loại người tỏ ra nhiệt tâm với một vài việc phượng thờ Chúa, nhưng lại vô tâm đối với những người cùng cực, mặc dù Chúa đã nói rõ thái độ đối với kẻ khổ đau mới là điều Chúa sẽ căn cứ vào, để phân loại kẻ lành người dữ trong ngày phán xét: “Hỡi những kẻ khốn nạn, hãy đi vào lửa đời đời dành cho quỷ dữ, vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn... Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi đã không làm những việc tốt cho các kẻ hèn mọn, là các ngươi đã không làm cho Ta” (Mt 25,41-46).
Chết rồi, người phú hộ mới thấy mình quá dại. Cái dại nhất là đã không biết đi vào con đường lên trời ngay bên cạnh nhà mình. Con đường đó là thương yêu cứu giúp người ăn mày Lagiarô.

 Người ăn mày Lagiarô đó là ai?
Thưa, ông là hình ảnh loại người lấy đời sống để loan báo rằng: Thực chất con người không do tiền bạc, áo quần, nhà cửa, chức vị, nhưng do tâm hồn. Có những người túng nghèo phần xác, nhưng giầu có phần hồn.
Ðây cũng là hình ảnh loại người lấy đời sống làm chứng rằng: Sức mạnh tinh thần mạnh hơn mọi sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự. Cũng như tự do tâm hồn lớn hơn mọi tự do được ghi trong các hiến chương, hiến pháp.
Ðây cũng là hình ảnh loại người lấy đời sống khẳng định rằng: Trong một hoàn cảnh thiếu thốn nhất, người ta vẫn có thể sống xứng đáng một người đạo đức, vẫn có thể mến Chúa hết lòng, vẫn có thể tha thứ, hiền lành, quảng đại đối với mọi người, kể cả đối với những ai đối nghịch với mình. Lagiarô chính là hình ảnh kẻ tin vào Tám mối phúc.
Thì ra ngay trên cõi đời này, vẫn có một trật tự vô hình được xây dựng bởi những người tốt, đầy quả cảm như Lagiarô. Ai biết lo cho trật tự đạo đức được xây dựng trên chân lý sẽ được lên thiên đàng. Ai không quan tâm đến trật tự đạo đức ấy, sẽ bị trầm luân đời đời. Kết quả sẽ như người phú hộ: “Tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này”.

 Thức tỉnh do tiên tri
Tiếng kêu trên đây của người phú hộ trong hoả ngục là một thức tỉnh muộn màng. Ông muốn nhắn gởi lời kêu than của ông tới bà con ông còn sống, mong họ sẽ thức tỉnh kịp thời. Nhưng tổ phụ Abraham trả lời là trên cõi đời này đã có Maisen và các tiên tri, các ngài không ngừng đánh thức các lương tâm. Không thức tỉnh do lời tiên tri, thì sẽ không thức tỉnh do lời người chết hiện về.

 Các tiên tri kêu gọi sự thức tỉnh là ai?
Thưa các ngài thuộc đủ loại người. Lịch sử cứu độ nói chung và lịch sử Hội thánh nói riêng cho thấy sự thật ấy. Trong lịch sử Hội thánh, kẻ được Chúa sai vào một thời điểm, để thức tỉnh lương tâm nhân loại, hoặc lương tri một địa phương, đã là một Ðức Giáo Hoàng, một Ðức Giám mục, một linh mục, một tu sĩ, một giáo dân thường.
Cách đây 500 năm, thời Christophe Colomb khám phá Mỹ Châu cũng là thời rất suy thoái đạo đức tại Âu Châu, kể cả trong giáo triều Rôma. Trong thời điểm ấy đã xuất hiện một số tín hữu sống mạnh mẽ ơn tiên tri. Họ không thuộc về cấp trung ương. Họ chỉ là tu sĩ. Họ lên tiếng báo động về một tình hình đạo đang bị thần dữ thao túng từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Họ kêu gọi mọi người nhất là các loại phú hộ trong cơ chế Hội Thánh hãy thức tỉnh, hãy ăn năn trở về. Một số người trong họ đã bị quyền đời, quyền đạo săn đuổi. Trường hợp nhà giảng thuyết Savonarola, dòng Ða Minh, bị toà đạo kết án thắt cổ và hoả thiêu năm 1498 là một thí dụ.
Lịch sử Hội thánh cũng cho thấy sức mạnh tiên tri làm thức tỉnh một thế hệ, đã khởi đi từ một vài nhóm nhỏ, một vài phong trào đạo đức. Các nhóm nhỏ này cũng như các phong trào đạo đức này có khi xuất phát từ trên, nhưng rất nhiều khi đã xuất phát từ dưới, từ các miền xa và nhỏ của các giáo hội địa phương. Chẳng hạn, tinh thần đạo đức thế kỷ 20 này đã và đang được thức tỉnh mạnh mẽ nhờ những luồng sinh khí mới, phát xuất từ thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, từ Charles de Foucauld. Thêm vào đó là những phong trào đạo đức tươi trẻ, như Focolare của chị Chiara Lubich, Emmanuel của Pierre Goursat, các nhóm cầu nguyện khác và các cộng đoàn cơ bản.
Ơn tiên tri để thức tỉnh lòng người do Chúa Thánh Thần ban cho. Ngài muốn ban cho ai tuỳ ý Ngài. Như lời thánh Phaolô đã dạy: “Chính Ngài đã cho kẻ này làm tông đồ, kẻ khác làm tiên tri, kẻ này đi rao giảng Phúc Âm, kẻ khác chăn chiên hay dạy dỗ. Ngài sắp đặt như vậy, để các tín hữu nên trọn lành và xây dựng nhiệm thể Ðức Kitô” (Eph. 4,11).

 Truyền thống và sáng tạo
Khi nói tới các phong trào đạo đức có tính cách tiên tri đang đánh thức lòng đạo nơi này chỗ nọ, tôi liên tưởng tới một số hiện tượng gọi là tôn giáo mới xuất hiện trên đất nước Việt Nam. Sự du nhập các thứ phong trào gọi là “tôn giáo” sẽ không thể tránh được, khi đất nước mở ra cho kinh tế thị trường. Có thứ phong trào mang thực chất tôn giáo. Có thứ phong trào chỉ mang nhãn hiệu tôn giáo mà thôi. Có thứ phong trào, tuy mang nội dung tôn giáo, nhưng chỉ là những tạp giáo.
Trong một tình hình như vậy, đức tin người Thiên Chúa giáo cần được thức tỉnh theo đúng hướng. Cần phân biệt cái đúng cái sai. Muốn được như vậy, thiết tưởng nên nắm vững một nguyên tắc mà câu chuyện người phú hộ và tổ phụ Abraham cho thấy, nguyên tắc đó là phải trung thành với truyền thống Thiên Chúa giáo.
Tôi coi tổ phụ Abraham là vai trò bảo vệ truyền thống. Tổ phụ Abraham ôm ông Lagiarô vào lòng. Tổ phụ Abraham lắng nghe nguyện vọng của người phú hộ. Tổ phụ Abraham quyết định không thực hiện sáng kiến của người phú hộ, nhưng đồng thời tín nhiệm mọi sáng tạo của Maisen và của các tiên tri.
Tổ phụ Abraham là hình ảnh người duy trì tính chất liên tục của giáo lý tinh tuyền đã nhận được từ Thiên Chúa. Truyền thống, khi đồng hành với nhân loại diễn biến, sẽ phải có những sáng tạo thích ứng, nhưng mọi sáng tạo đều phải mang bản chất truyền thống, chứ không được là những phủ nhận truyền thống. Bảo vệ truyền thống và sáng tạo không phải là hai việc đối nghịch, loại trừ nhau. Nhưng là hai việc bổ túc cho nhau. Cần có vai trò tiên tri với những sáng kiến, và cần có vai trò Abraham bảo vệ truyền thống.
Khi nghe Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II hô hào công cuộc tân-Phúc-Âm-hoá,với sinh khí mới, với cách diễn tả mới, với phương pháp mới, tôi tin chắc rằng Ngài nhiệt tình khích lệ những sáng tạo. Chúng ta nên tích cực hưởng ứng lời hô hào của Ðức Thánh Cha. Riêng tôi, cách sáng tạo hợp với truyền thống nhất, đồng thời cũng rất hợp với thời điểm hôm nay, đó là thực sự trở về với đức ái nói chung và đức ái đối với những kẻ khổ đau nghèo túng nói riêng. Nếu người phú hộ được Chúa cho sống lại, trở về trần gian, để làm lại cuộc đời, chắc việc quan trọng nhất ông sẽ ra tay thực hiện, là sáng kiến ra nhiều cách để giúp đỡ thăng tiến những người ăn mày như Lagiarô. Khi đọc cuốn Les morts nous parlent của tác giả Francois Brune (NXB Félin, Paris,1988) tôi thấy tất cả mọi tâm sự mà các linh hồn từ cõi bên kia gửi về cho bà con thân thuộc còn sống, đều tóm tắt được trong một lời khuyên nầy là hãy biết quên mình, phục vụ, giúp đỡ, yêu thương người khác với tình bác ái chân thành quảng đại như Chúa Cứu thế đã dạy và đã làm gương.
Thiết tưởng đó cũng là đều Chúa muốn chúng ta thực hiện, để cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.
Long Xuyên, tháng 11/1992

 

Bùi-Tuần 1003: TRONG TINH THẦN VÀ SỰ THỰC 12-11-2006

Tuần lễ này (12-19/11/2006) được gọi là tuần lễ APEC. Tôi mong tuần lễ này sẽ đem lại cho tôi 12-11-2006 Bùi-Tuần 1003

Tuần lễ này (12-19/11/2006) được gọi là tuần lễ APEC.
Tôi mong tuần lễ này sẽ đem lại cho tôi nhiều niềm vui. Những niềm vui thấy được từ xa. Sáng sớm đầu tuần tôi mong như thế. Dù ở xa thủ đô, tận miền cuối Nước, mình và đồng bào xung quanh mình cũng chỉ dám nuôi hy vọng nho nhỏ đó thôi.
Qua ngày đầu tuần lễ Apec
Nhưng tuần lễ đầy hy vọng đó đã mở đầu bằng sự kiện cúp điện từ sáng tới tối. Không biết các chỗ khác thế nào, chứ khu Toà Giám mục của tôi thì thế. Lý do là để sửa điện. Tôi muốn thấy thủ đô hoành tráng qua các kênh truyền hình, nhưng đã thất vọng với niềm tin an phận.
Theo thói quen, tôi tăng cường đọc sách thay vì theo dõi tình hình qua tivi. Cuốn sách tôi chọn đọc là bằng tiếng Pháp, mang tựa đề: "Vị Giám mục và chàng điên ".
Nội dung có thể tóm tắt như sau: Một chàng thanh niên có vẻ khùng khùng, điên điên. Anh bị nhốt trong một cái cũi. Trong cũi nhìn ra, anh thấy các người sống tự do cũng chẳng thực sự tự do. Họ bị bao thứ đam mê sai khiến. Họ tranh giành, ganh tỵ, ghen ghét nhau. Anh khùng điên trong cũi thì lại cảm thấy mình thương họ.
Sau cùng, anh được thả ra khỏi cũi. Anh đi lang thang.
Một hôm, anh sực nhớ lại chút đạo còn lại trong anh. Anh lượm một cái que, bẻ làm đôi, buộc lại thành cây thánh giá. Rồi anh hôn kính.
Vừa làm xong, anh thấy có một bàn tay đặt nhẹ trên vai anh. Quay lại nhìn, anh gặp một vị Giám mục. Hai người chào nhau, chuyện trò với nhau, và trở nên bạn thân của nhau.
Từ đó, anh khùng điên tha hồ tâm sự với vị Giám mục. Thì ra anh khùng điên là một người trí thức.
Hành trình đi tới Chúa
Trong trao đổi, chàng điên đưa vị Giám mục không phải là vào nhà thờ, mà là vào cuộc sống thực tế.
Anh hỏi vị Giám mục về kiếp người, với những tội lỗi, với những bất công, với những khổ đau, với những bệnh tật và cái chết.
Vị Giám mục phải vất vả lắm, để cắt nghĩa cho anh. Đức tin của anh kể như không còn. Nên vị Giám mục phải dùng đến các lý lẽ và mọi học thuyết mà anh có thể hiểu.
Dần dần anh tới được cây thánh giá. Hai người dừng lại ở đó. Anh gặp được tình yêu của Đấng đã hy sinh cho anh và cho mọi người.
Những gợi ý ban đầu
Đọc xong cuốn sách "Vị Giám mục và chàng điên" với nội dung tóm tắt như trên, tôi như khám phá ra nhiều điều mới. Thí dụ:
      1/ Cũng nhờ một ngày không may là bị cúp điện, tôi mới ráng đọc xong cuốn sách gần 300 trang kia. Thành ra, cái rủi trở thành cái may.
      Điều này dạy tôi đừng đợi mọi sự phải thuận lợi mới ra tay làm việc lành. Nhưng phải biết dùng mọi hoàn cảnh xảy đến trong đời mình, để làm việc thiện. Không việc thiện này thì việc thiện khác. Cho dù nhiều hoàn cảnh coi như bãi lầy, nhưng bao người đã bới ra được trong đó những hạt ngọc quý.
      2/ Đối thoại với những người thời nay, tôi phải hiểu con người và các vấn đề phức tạp cuộc sống của con người nói chung và từng giai đoạn lịch sử nói riêng.
      Điều họ thao thức ưu tiên hôm nay không phải là nhà thờ, mà là cuộc sống tốt đẹp. Nhà thờ chỉ là một ưu tư trong nhiều ưu tư của hành trình cuộc sống. Ưu tư nhà thờ nếu muốn trở thành hấp dẫn, thì phải được giới thiệu cùng với nhiều ưu tư khác, mà người thời nay đang bị kéo vào một cách thực tế và mãnh liệt.
      3/ Cần cố gắng để suy tư của mình mỗi ngày thêm rộng, thêm sâu.
      Suy tư là một cách nhìn của trí khôn. Nhìn là thấy cái này trong cái nọ và bên cái kia. Điều gì cũng nằm trong mạng lưới những liên quan phức tạp. Đừng nhìn hẹp hòi, kẻo rồi tự mình lại nhốt mình vào cũi.
      4/ Người sống trong tự do là người không để mình bị ách nô lệ nào trói buộc. Đặc biệt là các thứ ách nô lệ trong nội tâm mình.
Cuốn sách "Vị Giám mục và chàng điên" cho tôi thấy cả hai nhân vật cùng có những lối suy tư độc lập. Suy tư của họ không thuộc loại đúc theo khuôn, nhất là loại đúc theo một khuôn đã bị loại trừ từ lâu rồi.
Thời thế đang chuyển mình như Apec.
Cần tỉnh thức, để biết "Thờ phượng Chúa trong tinh thần và sự thật" (Ga 4,23).
Tinh thần có thể được hiểu là lãnh vực tâm linh, tâm lý, tâm hồn, tâm thức.
Sự thực gồm đủ thứ sự thực thuộc mọi lãnh vực. Có những sự thực rất đơn giản, thông thường, bình dị. Hiểu biết đúng những sự thực đó cũng là cách đào tạo mình để nên người thờ phượng Chúa.
Lãnh vực sự thực rất mênh mông. Học hỏi sự thực, tìm hiểu sự thực, khám phá sự thực, đối chiếu sự thực, tôn trọng sự thực, đang là hành trình cuộc sống của người thời nay.
Cần đồng hành với hành trình đó để sự thờ phượng Chúa của ta có sức hấp dẫn đối với thời điểm Việt Nam lúc này.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1004: ĐỐI CHIẾU 14-11-2006

Đất nước ta đang biến chuyển mạnh. Ngoại lực tràn vào. Nội lực vùng lên. Đây là cơ hội tốt, để 14-11-2006 Bùi-Tuần 1004

Đất nước ta đang biến chuyển mạnh. Ngoại lực tràn vào. Nội lực vùng lên. Đây là cơ hội tốt, để đạo Công giáo chúng ta chứng minh giá trị của mình.
Để giúp cho sự chứng minh sinh hiệu quả tốt, chúng ta cần chọn cách chứng minh.
Trong suy nghĩ đó, tôi xin phép nhắc lại một tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn này dựa trên Phúc Âm, Công Đồng Vatican II, các thư chung mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam và thực tế đang biến chuyển.
Tôi gọi tiêu chuẩn này là đối chiếu.
Theo tiêu chuẩn này, khi tôi toan tính nói gì, làm gì để phục vụ vì mục đích làm chứng cho Chúa, trước hết tôi phải đối chiếu dự định của tôi với Lời Chúa và đời Chúa Cứu thế.

1/ Đối chiếu với Lời Chúa và đời Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã phán: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,34).
"Thầy không tìm cách làm theo ý riêng Thầy, nhưng theo ý Đấng đã sai Thầy" (Ga 5,30).
Thánh ý Chúa Cha nơi Đức Giêsu Kitô là gì? Thưa là công việc cứu chuộc nhân loại được hoàn tất ở sự Đức Kitô diễn tả tình yêu của Người bằng cách dâng mạng sống mình trên thánh giá. Chính tình yêu tự nguyện hiến mình trên thánh giá đã trở thành nguồn sức thiêng thay đổi lòng người và cuộc sống con người.
Khi đối chiếu dự định phục vụ của tôi với Lời Chúa và gương đời Chúa Giêsu, tôi sẽ cầu nguyện và lắng nghe tiếng lương tâm trả lời: Dự định của tôi có phản ánh đúng tình yêu hy sinh của Chúa Cứu thế hay không. Nếu đúng, nó sẽ được gắn vào nguồn ơn cứu độ. Nếu không, nó sẽ đi trệch ra ngoài. Và trong trường hợp như thế, cho dù nó mang đủ các hình thức đạo đời có vẻ đạo đức, nó vẫn khô cằn, không đưa được lòng người và tình hình xã hội vào con đường đạo đức.
Việc đối chiếu dự tính của ta và chính bản thân ta với Chúa Giêsu là việc đòi một thái độ hồi tâm sâu lắng, khiêm nhường và nghèo khó, đơn sơ. Tu đức luôn nhắc đi nhắc lại điều quan trọng đó.
Ngoài sự đối chiếu với Lời Chúa và gương Chúa Giêsu, chúng ta còn cần đối chiếu dự định của ta với nhu cầu xã hội trong thời điểm nhất định.

2/ Đối chiếu với nhu cầu xã hội trong thời điểm nhất định
Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, đúng nơi.
Khi hiểu phục vụ là như thế, thì ta không nên làm bất cứ sự gì ta thích làm, nhưng phải làm điều xã hội đang cần lúc này, chỗ này.
Nói chung, xã hội Việt Nam lúc này đang thiếu nhiều sự, cần nhiều cái, đợi trông nhiều điều.
Quan sát, khảo sát kỹ, chúng ta thấy tôn giáo không thể đáp ứng tất cả mọi nhu cầu. Tuy nhiên, về mặt vật chất, chúng ta vẫn có thể chia sẻ phần nào. Dù với một phần bé nhỏ, nhưng nếu cách chia sẻ của ta tế nhị, thì đồng bào ta vẫn trân trọng những phục vụ khiêm tốn của ta.
Ngoài mặt vật chất, xã hội Việt Nam lúc này đang rất cần được trợ giúp về mặt đạo đức.
Đạo đức là lãnh vực bao la, nhưng trong lãnh vực bao la này, con người Việt Nam lúc này rất nhạy cảm trước những giá trị của đạo làm người và đạo làm người Việt Nam.
Những giá trị thuộc đạo làm người như tinh thần trách nhiệm, khiêm tốn, ngay thực, tương thân tương ái, sám hối và lòng biết ơn.
Những giá trị thuộc đạo làm người Việt Nam như sự tự hào về non sông đất nước, lòng hiếu thảo đối với tổ tiên và tất cả những người đã có công dựng Nước, giữ Nước, và thao thức giải cứu Đất Nước khỏi những bất công, mọi thứ nô lệ, mọi thứ tranh giành bất chính, mọi hình thức chia rẽ và hẹp hòi.
Khi đối chiếu lòng tốt của ta với nhu cầu xã hội Việt Nam trong thời điểm này, chúng ta dễ thấy bổn phận nào nên được ta chọn là ưu tiên trong cộng tác với những người tốt phục vụ xã hội.
Nếu không tỉnh tảo và khôn ngoan, cứ để lòng tốt của mình tập trung vào việc phục vụ đạo mình theo chủ quan của ta, còn nhu cầu xã hội vẫn bị dửng dưng, thì sẽ khó chứng minh được đạo ta là tốt.
Trong việc đối chiếu với xã hội, chúng ta cũng sẽ nhận ra mình đang tiến hay đang tụt hậu về phương diện nào đó. Nhận thức về sự thực này là điều rất cần cho chúng ta.
Ngoài việc đối chiếu với Phúc Âm, với xã hội, thiết tưởng cũng còn một đối chiếu khác không nên coi thường, đó là đối chiếu với các tôn giáo bạn.

3/ Đối chiếu với các người theo tôn giáo khác và tín ngưỡng khác
Việt Nam là nước đa tôn giáo, đa tín ngưỡng. Nhiều người theo đạo khác ta và tín ngưỡng khác ta, nhưng lại được đánh giá là đạo đức hơn bao người công giáo ta. Nhiều gương sáng về bác ái, hiếu thảo, tu trì, sám hối, khiêm nhường đã xuất hiện một cách hấp dẫn ở những bầu trời đạo khác. Nhiều giá trị về trí thức, về văn hoá đã và đang được rạng rỡ mà không cần đến các cộng đoàn đức tin công giáo. Đó là sự thực. Sự thực này khiến ta phải suy nghĩ rất nhiều.
Ba đối chiếu trên đây đòi ta phải biết mở rộng tầm nhìn. Tầm nhìn nói đây nhắm vào thực tế hơn là lý thuyết. Nhưng mọi thực tế đều không đơn giản.
Để kết, tôi xin phép kể lại một kỷ niệm nhỏ của đời tôi.
Hồi còn là linh mục sinh viên tại Pháp, một hôm, tôi được mời đến họ đạo không có linh mục, để làm lễ an táng.
Nhà thờ vắng vẻ, thời tiết lạnh giá. Tôi một mình dọn bàn thờ và đồ lễ. Một lát sau, xe chở quan tài tới. Đội mai táng khiêng quan tài vào để giữa nhà thờ. Đợi ít phút, chẳng một ai tới. Tôi bắt đầu dâng lễ. Nhìn xuống, tôi thấy đội mai táng cũng đã lặng lẽ rút ra khỏi nhà thờ. Tôi làm lễ một mình với xác chết. Lễ xong, đội mai táng đưa quan tài lên xe. Còn một mình tôi dọn dẹp đồ lễ và khoá cửa nhà thờ. Rất có thể nơi đó, lúc đó, người ta coi thánh lễ như thế là bình thường.
Thánh lễ an táng đó đã qua lâu rồi. Nhưng có một đối chiếu vẫn sống động trong tôi. Tôi đối chiếu: Một bên là lòng đạo, một bên là nếp sống vật chất thực dụng. Nếu cứ để tự chọn thoải mái, thì nhiều người sẽ ngả sang bên vật chất, thực dụng. Biến chuyển này xảy đến rất mau, dễ lan tràn rộng rãi, để trở thành thói quen bình thường.
Cầu xin Chúa cho ta và cộng đoàn của ta biết sự thực của biến chuyển đó, để luôn nhớ rằng: Giữ đạo phải là một cuộc đào tạo và chiến đấu thiêng liêng thường xuyên, để luôn biết sửa mình, tỉnh thức, chu toàn thánh ý Chúa trong sám hối và cậy trông ở lòng thương xót Chúa.
+GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1005: Đón Tiếp Chúa Thánh Linh 04-06-2006

Ga 14,15-17
 

Hôm nay, chúng tôi đã xuống đò từ giã nhà thờ Đồng Phú. Trên đường đi, chúng tôi đã ghé 04-06-2006 Bùi-Tuần 1005

Hôm nay, chúng tôi đã xuống đò từ giã nhà thờ Đồng Phú. Trên đường đi, chúng tôi đã ghé lại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, và sau cùng, chúng tôi đã đến đây.
Chúng tôi đã được anh chị em nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời cũng như tại đây đón tiếp. Cuộc đón tiếp thật tưng bừng. Điều làm cho chúng tôi vui mừng nhất, đó là thấy tấm lòng yêu mến của anh chị em đối với Chúa, được thể hiện dịp chúng tôi đến thăm anh chị em.
Khi tôi được anh chị em đón tiếp, tôi nghĩ tới một cuộc đón tiếp khác, sẽ được thực hiện bây giờ, đó là đón tiếp Chúa Thánh Linh. Cuộc đón tiếp Chúa Thánh Linh, chắc phải rất khác cuộc đón tiếp Đức Giám Mục và các linh mục. Bởi vì, Chúa Thánh Linh rất khác bất cứ ai trong loài người và các thần thánh. Chúng tôi chỉ là những tạo vật bé nhỏ. Còn Chúa Thánh Linh, Đấng sắp đến với chúng ta, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài cao cả vô cùng. Quyền năng Ngài vô tận. Tình yêu Ngài vô biên. Chúng tôi chỉ là những dụng cụ bất xứng. Còn Chúa Thánh Linh mới là người thánh hóa chúng ta. Chúa Thánh Linh mới là người thay đổi con người chúng ta.
Như vậy, điều mà tôi chú ý nhiều nhất khi đón tiếp Chúa Thánh Linh là nhận biết Chúa Thánh Linh là ai và tôi là ai? Tôi thường nhìn Chúa Thánh Linh và nhìn tôi bằng những hình ảnh. Thí dụ, tôi nhìn Chúa Thánh Linh như ánh sáng mặt trời, còn tôi như một cây bé nhỏ. Khi một cây đón nhận ánh sáng mặt trời thì cây ấy để cho ánh sáng mặt trời thấu qua cái vỏ của thân cây mình, để cho ánh sáng mặt trời thấu qua cành lá của mình, để cho ánh sáng mặt trời thấu qua thân cây của mình, để cho ánh sáng mang chất dinh dưỡng của mặt trời đi vào tận rễ cây, đi vào tận ruột cây, đi vào tận nhựa cây.
Tương tự cũng vậy, khi tôi đón nhận Chúa Thánh Thần không phải là tôi đón nhận Ngài như một vị khách quí: Tôi mời Ngài ngồi trên cao, để rồi tôi đứng xa xa mà quì lạy. Không phải thế. Mà là tôi mời Ngài đi vào lòng tôi, đi vào tận trái tim tôi, đi vào tận trí khôn tôi, đi vào tận ý thức tâm tư và các ước muốn của tôi, để cho ánh sáng Chúa Thánh Thần mang chất chân lý và tình thương ngấm sâu vào tôi, biến đổi con người của tôi.
Rồi tôi thường nhìn Chúa Thánh Thần như là nước ban sự sống, còn tôi là con người đau bệnh. Con người đau bệnh khi đón nhận nước ban sự sống chữa bệnh mình, thì để cho nước ấy chảy vào tim, tan vào máu, đi vào các thớ thịt, vào các tế bào, tận đến xương, đến tủy, để biến máu mình thành nên máu tốt, biến tim phổi mình thành tim phổi cường tráng, biến thịt của mình trở nên tươi tắn khỏe mạnh.
Tương tự cũng vậy. Khi tôi đón nhận Chúa Thánh Linh là nước ban sự sống, thì không phải tôi đón Ngài vào lòng tôi như đón một thầy thuốc ngồi bên cạnh tôi, hay như đón một thầy dạy chân lý ở bên tôi, mà là đón Ngài như là nguồn sự sống, để nước hằng sống ấy chảy vào cách suy nghĩ của tôi, cách nhìn của tôi, cách chọn lựa của tôi, cách đánh giá của tôi, tình cảm của tôi, để cho nước sự sống ấy làm cho tôi trở lên mới mẻ theo sự sống của Thiên Chúa.
Tới đây, anh chị em đã hiểu phần nào, đón tiếp Chúa Thánh Linh là phải như thế nào? Căn cốt của sự đón Chúa Thánh Linh không phải là thực hiện các lễ nghi cho đúng, cho đẹp, mà là phải có một thái độ tâm hồn thích ứng. Tôi nghĩ rằng, thời các thánh tông đồ, khi đón nhận Chúa Thánh Linh thì như chúng ta đã nghe trong Tông Đồ Công Vụ: Các Ngài chỉ chăm chú cầu nguyện và chia sẻ tình thương cộng đoàn, khát khao Chúa đến, chờ đợi Chúa đến. Và Chúa Thánh Thần đã đến.
Còn chúng ta bây giờ, chúng ta cũng có làm như các thánh tông đồ xưa, nhưng mà tôi thấy nhiều nơi, chúng ta để ý đến sự bề ngoài. Những sự bề ngoài ấy, nhiều khi cũng hữu ích, nhưng nếu chúng ta quá để ý đến những sự bề ngoài, mà coi nhẹ việc dọn dẹp tâm hồn mình, thì tôi sợ, Chúa Thánh Linh sẽ không vào tâm hồn ta được. Bởi vì, chúng ta không chuẩn bị thái độ đón tiếp Ngài.
Ai càng cần Chúa Thánh Linh thì Ngài càng đến và ở lại. Ai càng khát khao Chúa Thánh Linh, thì Chúa Thánh Linh càng chăm sóc và yêu thương. Ai càng thấy mình bé nhỏ nghèo nàn, thì Chúa Thánh Linh càng dễ biến đổi và đổ tràn đầy ơn cho họ. Ai càng khát mong sống yêu thương bác ái, thì càng được Chúa Thánh Linh chia sẻ cho tình yêu Thiên Chúa của Ngài.
Đến đây chúng ta đừng tưởng rằng: Cần phải có một tâm hồn trong sáng thánh thiện mới xứng đáng Chúa Thánh Linh đến. Đôi khi tôi cũng có nghĩ như vậy. Nhưng tôi đã nghe Chúa Thánh Linh bảo tôi rằng: Nếu tâm hồn con như một cánh đồng sình lầy, đầy rác rưởi, thì con càng cần phải đón Cha vào, để giúp cho cánh đồng sình lầy ấy nên tươi tốt. Nếu tâm hồn con giống như một con bịnh nan y, thì càng cần phải đón nhận Cha vào, để Cha chữa chạy cho. Chỉ cần làm sao con mở tâm hồn ra, biết đón nhận, biết khát khao, biết mời gọi, thì Cha sẽ đến.
Lúc nãy, khi bước vào nhà thờ này, tự nhiên tôi nhớ tới lời thánh Gioan đã viết: “Con Thiên Chúa đến trong nhà Ngài, nhưng các người trong nhà ấy không nhận ra Ngài”. Khi nhớ điều ấy, tôi đã nói với Chúa Thánh Linh: Chúng con có nhiều yếu đuối, chúng con có nhiều sơ suất, xin Chúa thứ tha cho. Xin Chúa hãy đến với chúng con. Xin hãy ở lại với chúng con. Giờ đây, chúng con thực tình khao khát đón Chúa vào lòng. Chúng con thực tình khao khát Chúa như một người đau bịnh khao khát thầy thuốc, như là một đứa con bé nhỏ khao khát cha mẹ mình.
Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa gọi Chúa Thánh Linh là Đấng ở lại. Tôi cũng nói với Chúa Thánh Linh: Xin Chúa ở lại trong con và trong các tín hữu hôm nay. Xin Chúa ở lại với chúng con. Xin Chúa ở lại mãi mãi suốt đời chúng con, nhất là trong những thời điểm nào mà chúng con có nguy cơ bỏ xa Chúa.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến và hãy ở lại với chúng con vì chúng con khát khao Chúa. Amen.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1006: Chia sẻ mục vụ trong ngày cuối năm

Trong mấy tháng qua, nhiều người đã nói với tôi rằng: Tấm hình nhà thờ cũ Tràm Chẹt in trên Bùi-Tuần 1006

Trong mấy tháng qua, nhiều người đã nói với tôi rằng: Tấm hình nhà thờ cũ Tràm Chẹt in trên tuần báo “Công Giáo và Dân Tộc” số 845 ra ngày 23-2-1992, coi thê thảm quá. Thêm vào đó, mấy lời cha Nguyễn Văn Thược, chánh xứ Tràm Chẹt, ghi dưới tấm hình, cũng thê thảm không kém. Cha nói: “Công việc xây dựng thánh đường mới sẽ kéo dài nhiều năm, vì không có kinh phí, mà giáo dân lại quá nghèo!”. Thực là đáng thương!
Và thực đã được thương. Bằng chứng là nhiều người xa gần đã giúp đỡ. Tân thánh đường khởi công ngày 22-2-1992, hôm nay được khánh thành với lễ tạ ơn long trọng. Thế là thời gian dự trù nhiều năm bây giờ rút lại 10 tháng. Công trình đẹp, vững, có nhiều nét dân tộc, rất đáng mừng. Tôi xin Chúa trả ơn bội hậu cho mọi người đã góp công của vào việc xây dựng ngôi thánh đường này.
Thánh đường mới này là một niềm vui. Không chỉ riêng cho họ đạo Tràm Chẹt, mà còn chung cho cả địa phương này: Từ Rạch Sỏi đến Chắc Kha, rồi vô Tràm Chẹt, tuyến đường này là một cảnh đẹp của các chùa chiền. Nay mọc lên một thánh đường khang trang. Ðó là một đóng góp nhỏ bé vào vẻ đẹp chung đa dạng của một miền nhiều sắc tộc.
Tất nhiên, tôi vui mừng, khi thấy một tân thánh đường được mọc lên. Nhưng đây không phải là niềm vui lớn nhất của tôi. Niềm vui lớn nhất của tôi trong mục vụ là được chứng kiến sự mọc lên những mầm sống thiêng liêng mới. Hôm nay, nhân dịp làm phép thánh đường mới ở một giáo điểm vùng sâu, trong một ngày cuối năm, tôi muốn chia sẻ với anh chị em niềm vui lớn mục vụ của tôi, về một số những mầm sống thiêng liêng đang mọc lên lớn mạnh tại giáo phận trong năm 1992 này.
Thực vậy, một mầm sống thiêng liêng mới đang mọc lên và đang phát triển, đó là hiện tượng nhiều môn đệ Chúa sang bờ bên kia.
Tôi nói: “Sang bờ bên kia” là tôi theo một gợi ý trong Phúc Âm (x. Mt 14,22) để ám chỉ những địa hạt không Công Giáo. Xưa, có lần Chúa Kitô bảo các môn đệ Ngài hãy chèo thuyền sang bờ bên kia, và họ đã vâng. Nay, Chúa Kitô cũng vẫn tiếp tục bảo các môn đệ Ngài ra đi như vậy, và họ đã vâng.
Khi đến với những vùng khác đạo, các môn đệ Chúa không sống như những người rao giảng, cho bằng sống như những người làm chứng. Họ làm chứng về một Thiên Chúa là tình yêu cứu độ. Họ tuyên xưng đức tin không bằng cách đề cao một Hội Thánh cơ chế, bởi vì cách này dễ đào sâu khoảng cách giữa họ và các tôn giáo bạn. Nhưng họ tuyên xưng đức tin bằng cách sống noi gương Thánh Gia xưa tại Ai Cập. Ai Cập đối với Israel là nước ngoại đạo. Sống tại đây, Thánh Gia đã khiêm tốn khám phá và đón nhận những giá trị của nền đạo đức địa phương, đồng thời chia sẻ tình liên đới của mình. Nhờ đó, Thánh Gia đã được chấp nhận, được nâng đỡ chở che.
Hôm nay cũng vậy. Chỉ trong hai tháng cuối năm này, tôi đã đi thăm 9 giáo điểm chơi vơi giữa các vùng sâu khác đạo. Ðối với các địa hạt đa số Công Giáo, thì đây chính là bờ bên kia. Tại các nơi này, cũng như hôm nay chính tại Tràm Chẹt đây, tôi ghi nhận được những tình cảm sâu đậm của anh chị em khác đạo đã dành cho giáo đoàn Công Giáo. Tôi có cảm tưởng là đồng bào tại những vùng này rất đơn sơ, hài hoà, bao dung, chân thành. Sống với nhau như chỉ có một món nợ phải trả cho nhau, đó là món nợ tình thương. Ðến tận nơi, tôi mới thấy rõ những tiềm năng thiêng liêng, mà Chúa Thánh Thần đang khơi dậy. Thực là lớn lao. Ðúng là những mầm sống thiêng liêng đang mọc lên tươi tốt.
Bên cạnh đó, có một mầm sống thiêng liêng khác, cũng đang phát triển. Ðó là hiện tượng nhiều người tín hữu dấn thân làm công việc người Samaritanô tốt lành.
Trong Phúc Âm (x. Lc 10,33-35), người Samaritanô tốt lành là một người đi xa, khi thấy một nạn nhân nằm bên vệ đường, ông đã dừng lại, để chăm sóc nạn nhân một cách vị tha. Hôm nay, tôi cũng đang thấy vô số người như vậy. Họ đang tích cực xoá đói, giảm nghèo. Họ đang hoạt động âm thầm ở các lớp học tình thương. Họ đang lui tới thăm viếng các bệnh nhân, giúp các gia đình nghèo túng. Người ta không thấy họ mang dấu chỉ nào minh chứng họ là Công Giáo. Họ chỉ sống giới luật yêu thương. Và như thế là đẹp rồi, vì Chúa đã phán: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Cũng từ kinh nghiệm trên đây, tôi có cảm nghĩ là: Ðiều kiện để trở nên người Công Giáo tốt, là phải có một trái tim mở rộng, nhạy bén trước mọi tiếng gọi của Chúa trong các người nghèo khổ. Những người như vậy, đang là những mầm sống thiêng liêng được Chúa Thánh Thần trồng vào lịch sử Việt Nam hôm nay.
Sau cùng, tôi không thể không nhắc tới một mầm sống thiêng liêng khác đang mọc lên tươi xanh. Ðó là hiện tượng những người mộ mến Chúa Thánh Linh, tích cực làm chứng cho nguồn hy vọng trong những hoàn cảnh xuống cấp.
Giống như các tông đồ xưa khi được đầy tràn Thần Linh Chúa, những người nầy càng bị khổ đau, càng tạ ơn Chúa vì được chia sẻ với Ðức Kitô. Càng thấy Hội Thánh bị chối từ, họ càng cố gắng sống mãnh liệt tinh thần hiệp thông mật thiết của lời Chúa phán: “Cha là cây nho, các con là ngành” (Ga 15,5-16). Càng thấy đức tin bị tàn phá, họ càng thêm cậy tin vào một mình Thiên Chúa. Ðể bênh vực Hội Thánh, họ không đặt các hàng rào cản, nhưng họ theo Ðức Kitô đi tới cùng tình yêu cứu độ. Ðể làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa cứu độ, họ không loại trừ ai, hơn nữa họ tìm đến những người cần được cứu mà không mấy ai muốn cứu. Ðể đổi mới con người, họ không làm ngập lụt con người bằng các luật lệ, nhưng họ tăng cường tu đức và giới thiệu với con người Phép Rửa của Chúa Thánh Linh. Họ là những người tự do, không chịu áp lực nào và cũng không áp lực ai. Nhờ Thần Linh Chúa, họ sống hoàn toàn sự tự do nội tâm của con cái Chúa, chỉ là tuân phục thánh ý Ngài (x. Lc 2,32).
***
Hôm nay, nhìn thánh đường mới này và bao nhà thờ mới là những dấu chỉ bất động, rồi nhìn các mầm sống thiêng liêng mới là những dấu chỉ sống động, tôi thấy anh chị em và tôi thực là những người có phúc, bởi vì được thấy những ơn lạ lùng mà bao người muốn thấy, đã không được thấy (x. Lc 10,2). Với nhận thức ấy, tôi sẽ cùng anh chị em, cảm tạ Thiên Chúa đã đoái nhìn đến thân phận hèn mọn chúng ta. Trong tâm tình cảm tạ, tôi cầu xin Chúa mở rộng tầm nhìn của ta, để ta nhìn Năm Mới trong ánh sáng đức tin. Hướng đi của ta đã rõ ràng. Hãy vững bước đi lên, trong niềm vui và hy vọng, vì Chúa luôn luôn là Emmanuel, Người ở với chúng ta (x. Mt 1,23).
Lễ làm phép nhà thờ Tràm Chẹt, ngày 30/12/1992.

 

Bùi-Tuần 1007: XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC 06-06-2006

Trong lịch Phụng vụ, ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được ghi là ngày thế giới xin ơn 06-06-2006 Bùi-Tuần 1007

Trong lịch Phụng vụ, ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được ghi là ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
Chỉ mấy dòng chữ đó thôi cũng gợi cho chúng ta thấy:
•        - Thánh hoá các linh mục đang trở thành một nhu cầu thế giới.
•        - Thánh hoá các linh mục là một ơn ta phải xin với Chúa.
•        - Thánh hoá các linh mục được hiểu một cách cụ thể là theo mẫu gương Thánh Tâm Chúa.
Gợi ý nào trên đây cũng rất phong phú. Nhiều sách đạo đức đã bàn rộng. Nhiều người thiện chí đã hiểu sâu.
Ở đây, tôi chỉ xin góp phần nhỏ vào việc đạo đức nói trên. Phần nhỏ đó là ta nên cầu xin ơn thánh hoá các linh mục với tâm tình thế nào.
1/ Cầu nguyện cho linh mục với tâm tình kính trọng và cảm thương chân thành
Kính trọng và cảm thương nói đây là một yêu cầu đạo đức của nhân bản, của văn hoá, nhất là của Phúc Âm.
Bởi vì linh mục mang rất nhiều bổn phận quan trọng đáng kính và đáng được nâng đỡ.
Thực vậy, Ngài có bổn phận phải sống mật thiết với Chúa, Đấng đã ban cho ngài chức quyền cao quý.
Ngài có bổn phận phải hiệp thông chặt chẽ với Hội Thánh, một thực thể được Chúa thiết lập như dụng cụ và dấu chỉ của sự cứu rỗi.
Ngài có bổn phận phải cộng tác một cách khiêm nhường và hiếu thảo với Đức Giám Mục của ngài.
Ngài có bổn phận phải phục vụ cộng đoàn được trao phó. Phục vụ theo gương Chúa Giêsu, "Đấng đến không để được hầu hạ mà để hầu hạ" (Mc 10,45), Đấng nên gương phục vụ hết tình qua việc rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,5) trước khi tự nguyện đi vào cuộc thương khó dẫn đến cái chết trên thánh giá (x. Ga 20,21).
Ngài có bổn phận phải loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa cho mọi người, cho quê hương yêu dấu.
Kể ra bằng ấy bổn phận vẫn chỉ là phác hoạ sơ sài hình ảnh linh mục. Nhưng hình ảnh thô sơ đó vẫn mang những chiều kích thiêng liêng rất đáng kính trọng.
Những chiều kích thiêng liêng ấy là những tiếng gọi khác nhau của tình yêu Thiên Chúa.
Điều quan trọng là linh mục biết đón nhận những tiếng gọi ấy. Và khi ý thức được đúng những đòi hỏi của những tiếng gọi ấy, linh mục sẽ càng cảm thấy mình rất cần đón nhận ơn Chúa và những đỡ nâng của bất cứ ai. Bởi vì, các ngài mang thân phận con người, cảm nghiệm thấm thía những yếu đuối, những bất xứng và những giới hạn của mình.
Vì thế, dù các linh mục của ta đạo đức đến đâu, chúng ta vẫn hãy cứ cầu nguyện cho các ngài. Phương chi khi các ngài có vẻ như bị rơi vào một cảnh khó khăn nào đó, chúng ta càng cần cầu nguyện cho các ngài.
Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta hãy cầu nguyện với tâm tình kính trọng và cảm thương. Việc cầu nguyện như thế chắc chắn sẽ rất đẹp lòng Chúa. Đó cũng là một cách chúng ta tỏ lòng biết ơn và đền ơn đối với Chúa, Hội Thánh và các linh mục.
Cùng với tâm tình kính trọng và cảm thương, chúng ta còn cần cầu nguyện cho linh mục với tâm tình khiêm tốn cộng tác với Chúa.

2/ Cầu nguyện cho linh mục với tâm tình cộng tác với Chúa
Tâm tình cộng tác với Chúa nói đây là cầu cho các linh mục được sống theo thánh ý Chúa.
Những điều Chúa muốn nơi linh mục thì nhiều. Nhưng điều Chúa muốn hơn hết nơi ngài là ngài hãy đặt đời sống thiêng liêng lên hàng đầu. Trong cuốn "Hướng dẫn sứ vụ và đời sống linh mục", Toà Thánh quả quyết đời sống thiêng liêng phải chiếm địa vị ưu tiên tuyệt đối nơi linh mục.
Đời sống thiêng liêng cốt ở sự "ở lại với Chúa" (Mt 3,14). Nó được tồn tại và tăng cường bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện liên lỉ theo gương Chúa Giêsu. Cầu nguyện thiết tha cùng nhịp với Hội Thánh.
Nhờ đời sống thiêng liêng đó, linh mục mới có thể làm chứng hữu hiệu cho Chúa qua đức ái vô vị lợi, qua đức vâng lời khiêm tốn, qua đức khó nghèo và khiết tịnh từ bỏ chính mình, qua đức nhiệt thành rao giảng Lời Chúa.
Thiếu đời sống thiêng liêng, người linh mục sẽ dễ rơi vào hoàn cảnh làm linh mục, chứ không thực sự là linh mục của Chúa.
Vì thế, khi cầu cho linh mục, ta nên khẩn khoản xin Chúa cho linh mục được sống theo thánh ý Chúa, tức là ưu tiên biết lo cho đời sống thiêng liêng của mình.
Nếu đời sống thiêng liêng nơi một linh mục dần dần trở nên khô cạn, rồi cả linh mục lẫn cộng đoàn của linh mục coi đó là chuyện bình thường, không chút áy náy, thì tình hình đạo nơi đó sẽ khó tránh khỏi những hậu quả đáng lo ngại.
Công bằng mà nói, nhiều trường hợp đời sống thiêng liêng nơi linh mục bị giảm sút, cũng một phần do những yếu tố bên ngoài tác động. Trong những yếu tố bên ngoài đó, không thiếu yếu tố nội bộ. Ngoài ra, ác quỷ vô hình bao giờ cũng rất hăng say tìm cách làm hư những người theo Chúa. Mưu mô của chúng thường được trá hình dưới nhiều hình thức và động lực mang màu đạo đức.
Vì thế, cầu cho ơn thánh hoá linh mục nhiều khi cũng nên kèm theo việc xin Chúa thanh luyện cơ chế, bầu khí và cộng đoàn mà linh mục cùng chung sống.
Chia sẻ trên đây của tôi chỉ là một ý kiến nhỏ về một vấn đề lớn.
Mong rằng, thao thức này cũng được kể như một lời cầu nguyện chân thành tha thiết hiệp thông. Với ý thức rằng: Vấn đề này đang và sẽ còn trở thành phức tạp. Nó sẽ là một thử thách lớn cho Hội Thánh toàn cầu nói chung và cho Hội Thánh Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, nếu chúng ta vững tâm cầu nguyện với Thánh Tâm Chúa, thì vấn đề này, dù khó khăn đến đâu, cũng sẽ được giải quyết tốt đẹp. Các linh mục của chúng ta sẽ được ơn phản chiếu tình yêu cứu độ của Thánh Tâm. Dù trong hoàn cảnh nào, các ngài sẽ là những linh mục của Thánh Tâm, dấn thân đưa tình yêu Chúa vào các linh hồn đang đợi chờ Nước Chúa.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1008: TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM HÔM NAY 22-10-2006

 (Lễ Chúa Nhật Truyền giáo 22/10/2006).
 

Truyền giáo là đề tài phong phú. Nhiều nơi dùng đề tài này để tổ chức lễ lớn, hội họp xôm tụ 22-10-2006 Bùi-Tuần 1008

Truyền giáo là đề tài phong phú. Nhiều nơi dùng đề tài này để tổ chức lễ lớn, hội họp xôm tụ, tuyên bố thành tích và kêu gọi tham gia nhiều chương trình.
Với hy vọng góp phần nhỏ vào lễ này, tôi xin chia sẻ vắn tắt hai gợi ý:
Một là tình hình Việt Nam hôm nay trong cái nhìn truyền giáo.
Hai là nhân chứng của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Việt Nam hôm nay trong cái nhìn truyền giáo
Việt Nam hôm nay hiện lên dưới nhiều hình dạng khác nhau, tuỳ theo người nhìn.
Phần tôi, với cái nhìn truyền giáo, tôi thấy Đất Nước tôi hôm nay nổi lên mấy hiện tượng sau đây:
      1/ Nhu cầu tôn giáo càng ngày càng rõ, nhưng đối kháng với nhu cầu này là phong trào tục hoá cũng tăng triển rất mạnh.
      2/ Nhân phẩm con người được nâng lên rất đẹp trong mọi văn bản và lý thuyết đạo đời, nhưng lại bị xúc phạm trên thực tế đó đây, nhất là khi đạo đức suy giảm trong nhiều lãnh vực.
      3/ Khát vọng xây dựng hoà bình luôn được cổ võ trong xã hội nói chung và trong các cộng đoàn nói riêng. Nhưng bản tính thích tranh chấp, ghen tương, bè phái, cục bộ vẫn sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào có dịp.
      4/ Tinh thần bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, tự hào Đất Nước vẫn được duy trì. Nhưng cũng đang xuất hiện tinh thần lấy ngoại bang làm gốc, tự hào về nền văn minh sự chết.
      5/ Nhiều khối tôn giáo đã nắm bắt tình hình cởi mở, để đi sâu vào quần chúng nghèo, phát triển những giá trị căn bản của đạo. Đang khi đó, không thiếu những khối tôn giáo khác lại lợi dụng sự cởi mở để phát triển đạo về mặt hình thức và rút về những nơi giàu có.
Trong cái nhìn truyền giáo, Việt Nam hôm nay với mấy hiện tượng kể trên vốn được coi là nơi thuận lợi cho việc làm chứng Tin Mừng, miễn là việc đó được thực hiện bởi những nhân chứng đích thực của Chúa Giêsu.
Vậy, thế nào nhân chứng đích thực của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Nhân chứng của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Thiết tưởng nhân chứng đó cần ít ra hai điều kiện sau đây:
a) Họ phải là cành của cây Giêsu.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: "Thầy là cây nho, chúng con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có thầy, chúng con chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Vậy cây Giêsu là thế nào? Thánh Phaolô đã mô tả vắn tắt như sau:
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Khi mô tả hình ảnh Chúa Giêsu như trên, thánh Phaolô khuyên các môn đệ ngài hãy có những tâm tình như Chúa Giêsu.
Để hình ảnh trên đây của Chúa Giêsu sinh được những tâm tình sống động trong ta, ta phải suy gẫm, chiêm niệm và cầu nguyện rất nhiều với Chúa Giêsu.
Có thế, ta mới được ơn Chúa Giêsu biến đổi ta nên giống Người phần nào. Theo gương Người về sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận sống khiêm nhường, nghèo khó, bác ái, hy sinh mình cho đến chết trên thập giá nào đó, mà Chúa gởi cho ta. Qua cuộc biến đổi ấy, ta sẽ là cành của cây Giêsu trong chương trình cứu chuộc. Một cành như vậy sẽ được Chúa dùng, để đem ơn thánh đến cho cánh đồng truyền giáo.
b) Họ hãy ưu tiên đến với những người nghèo khó.
Cánh đồng truyền giáo rất bao la. Nhưng nên dành ưu tiên cho địa chỉ những người nghèo khó.
Chúa Giêsu xưa đã làm như thế. Người đã áp dụng lời tiên tri Isaia vào Người trong bài giảng đầu tiên tại Nadarét:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó..." (Lc 4,18).
Những người nghèo khó về bất cứ phương diện nào đều là những địa chỉ Chúa sai ta đến một cách ưu tiên. Chúa đợi ta ở những địa chỉ đó. Ta sẽ cộng tác với Chúa giúp họ về đời sống vật chất tuỳ khả năng ta, nhưng nhất là giúp họ đặc biệt về mặt đạo đức và tinh thần. Nhờ vậy, Chúa sẽ đón họ và ta vào Nước của Người.
Để hiểu rõ gợi ý trên, chúng ta nên đọc lại Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn Chúa Giêsu nói về ngày Phán xét chung (x. Mt 25,31-46).
Hai điều kiện trên đây, tức là khiêm nhường chiêm niệm cuộc đời Chúa cứu thế và khiêm nhường lo cho các loại người nghèo khổ, đó là những nét tuyệt vời đã làm nên chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ là mẫu gương thích hợp nhất cho mọi nhà truyền giáo tại Á châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Thời điểm này đang đặt ra cho Hội Thánh Việt Nam nhiều thách đố. Những thách đố này đòi chúng ta tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Đạo Công giáo chúng ta sẽ được trân trọng hay không, nhiều hay ít tại Việt Nam hôm nay? Thiết tưởng điều đó sẽ tuỳ thuộc khá nhiều vào việc chúng ta dấn thân cho người nghèo, thái độ của Hội Thánh ta đối với Đất Nước Việt Nam này, nhất là phẩm chất Phúc Âm của những nhân chứng Đức Kitô sống giữa lòng dân tộc.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1009: Tân-Phúc-Âm-hoá giáo xứ

Tân-phúc-âm-hoá giáo xứ là đổi mới giáo xứ. Giáo xứ không ưu tiên là một cơ sở, một cơ chế, một Bùi-Tuần 1009

Tân-phúc-âm-hoá giáo xứ là đổi mới giáo xứ. Giáo xứ không ưu tiên là một cơ sở, một cơ chế, một địa hạt có ranh giới, nhưng ưu tiên là một cộng đồng các tín hữu, (Giáo luật 515,1), là một gia đình của Chúa, một huynh đoàn chỉ có một linh hồn (Lumen gentium 28,1964), là căn nhà của gia đình đầy tình huynh đệ sẵn sàng đón tiếp, (Gioan Phaolô II Catechesi tradendoe, 1979).
Giáo xứ nào cũng là một sự sống. Ðể tránh cho sự sống giáo xứ khỏi rơi vào tình trạng cằn cỗi, trái lại, để nó luôn luôn trẻ trung, càng ngày càng phát triển, giáo xứ cần phải được thường xuyên đổi mới.

 Ðổi mới cách nào?
Thưa sẽ không có một mô hình nào dám tự nhận là lý tưởng. Dưới đây, tôi chỉ xin nêu lên một số gợi ý. Một phần rút ra từ cuốn La Vigne et les Sarments của Pierre Coughlan, Fayart, 1992, và một phần rút ra từ những kinh nghiệm mục vụ đó đây.

 1/ Những cộng đoàn nhỏ
Hiện nay, những cộng đoàn nhỏ đang là một yếu tố quan trọng trong việc đem lại sinh khí cho giáo xứ. Có nơi gọi họ là cộng đoàn cơ sở (communauté ecclésiale de base). Có nơi gọi họ là cộng đoàn sự sống (communauté de vie chrétienne). Thường thường các cộng đoàn nhỏ này có khuynh hướng tồn tại lâu dài. Nhưng nếu được huấn luyện, thì các loại tổ chức ngắn hạn như: Hội đồng giáo xứ, nhóm giáo lý viên, ca đoàn, cũng có thể đứng vào diện những cộng đoàn nhỏ có khả năng đổi mới giáo xứ.
Các cộng đoàn nhỏ này cần được huấn luyện về hai mặt: Một mặt là tu đức, một mặt là dấn thân phục vụ.
Trong huấn luyện tu đức, họ được hướng dẫn tập trung vào sự hiệp thông với Chúa Giêsu, “Hãy ở lại trong Cha như Cha ở trong con” (Ga 15,1-4). “Ai ở trong Cha và Cha ở trong họ, kẻ ấy sẽ mang nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Bởi vì, “Cha là thân cây nho, chúng con là những cành nho” (Ga 15,5). Họ phục vụ, bởi vì chính Ðức Kitô gọi họ dấn thân: “Tại sao con còn đứng đó, cả ngày không làm gì cả... Hãy đi làm vườn cho Cha” (Mt 20,6).
Ðối với họ, dấn thân là cộng tác với các bề trên trong đạo, nâng đỡ và xây dựng giáo đoàn, là thao thức tìm cách nâng cao đời sống giáo đoàn lên, nhất là về mặt đạo đức, là bén nhạy với những nhu cầu của kẻ nghèo túng, bệnh nạn, cô đơn, là tham gia vào việc truyền giáo. Họ phục vụ, bởi vì họ biết các ơn họ được là do Chúa Thánh Linh ban cho, để họ lo cho công ích (x. 1 Cr 12,7...).

 2/ Những phong trào
Những phong trào này có tính cách Hội Thánh. Chúng giống như những đợt gió mạnh, yểm trợ cho các nhu cầu mũi nhọn của thời điểm. Hiện nay, trong Hội Thánh nói chung và trong Hội Thánh Việt Nam nói riêng, đang nổi dậy ba phong trào quan trọng sau đây:

 a) Phong trào Thánh Kinh
Trở về với Thánh Kinh, đó là điều mà công đồng Vaticanô II đã kêu gọi qua Hiến Chế “Mạc khải”. Từ đó, các nền tu đức, các bài giảng, các kinh, các thể loại sùng kính đã trở về tìm chất lượng nơi Thánh Kinh. Ngày nay, trước sự nảy nở và phát triển tràn lan của các thứ giáo phái, mọi Hội Thánh địa phương đều cảm thấy việc trở về với Thánh Kinh là nhu cầu bức thiết. Mới rồi, Liên-Hội-Ðồng các Giám Mục Phi Châu và Madagascar đã ra văn thư kêu gọi các thành phần Dân Chúa hãy tăng cường việc học Kinh Thánh, phải coi Kinh Thánh là trọng tâm và nền tảng của đời sống đạo. Trong văn thư ấy, các Ðức Giám Mục cho rằng lơ là với Thánh Kinh, đó là mặt yếu nhất của nhiều Hội Thánh địa phương. Các Ngài phàn nàn là đang khi các giáo phái tập trung vào việc phổ biến Thánh Kinh, thì giới công giáo vẫn giữ thói quen phổ biến ảnh tượng hơn là Kinh Thánh. Tài liệu cũng cho biết là mỗi năm, Giáo hội tại Brésil mất đi khoảng 600.000 người công giáo, vì số này đã theo các giáo phái. Riêng tại Phi Châu đã có hơn 10.000 giáo hội khác nhau, cùng với những giáo phái khác nhau (Réflexion de la Rencontre de collaboration africaine, Mars, 1992).
Tôi thấy nhiều giáo xứ còn rất coi nhẹ Lời Chúa, ngay nhiều linh mục cũng chưa quan tâm đủ đến Lời Chúa là nguồn ban sự sống. Nếu cứ đà này, đời sống đạo sẽ khó tránh khỏi nhiều mất mát trong những năm tới, khi các giáo phái ùa vào Việt Nam.

 b) Phong trào thánh nhạc
Thời nay, tham gia tích cực vào đời sống Hội Thánh là một đòi hỏi quan trọng. Hình thức tham gia đơn sơ và tối thiểu là hát cộng đồng trong thánh lễ. Hát thánh nhạc cộng đồng, đó cũng là điều Liên Hội Ðồng các Giám Mục Phi Châu và Madagascar nêu lên, như là một trong các biện pháp để đối phó với sự lan tràn các giáo phái. Hát thánh nhạc cộng đồng còn là một hình thức cầu nguyện chung, có sức khơi động những cảm xúc lành thánh, cùng với những tư tưởng tốt đẹp, nâng tâm hồn lên.
Một linh mục cho biết, việc đầu tiên ngài đã làm, để giúp một họ đạo trước đây khô khan được hồi sinh, là dạy họ hát thánh ca cộng đồng trong các thánh lễ. Kết quả thực không ngờ. Nhà thờ dần dần đông lên, các giờ thánh lễ trở nên sốt sắng hơn. Tất nhiên, cần chọn những bài bình dân, hay và vắn.

 c) Phong trào xã hội
Qua sự tham gia các phong trào xã hội, người tín hữu tập quen mở đời sống đức tin về hướng xã hội, theo tinh thần Hiến Chế “Hội Thánh trong thế giới hôm nay”.
Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II trong Christifideles laici, số 2 đã chỉ rõ hai cơn cám dỗ đang làm suy yếu đức tin. Một là muốn tách rời đức tin ra khỏi cuộc sống, biến đức tin thành một môn khoa trình bày lý thuyết về các chân lý tôn giáo, để nghiên cứu, để học, để nhớ, thế thôi. Hai là muốn tách rời Hội Thánh ra khỏi thế gian, biến Hội Thánh thành một pháo đài khép kín. Hai cơn cám dỗ này dụ dỗ người tín hữu trốn tránh các trách nhiệm dấn thân. Tại Việt Nam, hai cơn cám dỗ này đã không hoàn toàn thất bại. Nhiều người công giáo Việt Nam vẫn an tâm với việc tuyên xưng đức tin bằng các công thức nghi lễ theo chế độ đền thờ, chứ không để ý đến việc làm chứng đức tin bằng hướng mở ra cuộc sống và xã hội.

 3/ Tiếp xúc riêng
Tiếp xúc riêng là tiếp xúc với từng cá nhân, với từng gia đình, với từng nhóm, với từng giới. Khi các tiếp xúc này có tính cách mục vụ, linh mục sẽ hiểu được phần nào tình hình các linh hồn, nhất là những chuyển biến tâm lý xã hội. Nhờ đó ngài sẽ lãnh nhận và sẽ cho đi một cách thích hợp.
Theo ý kiến Ðức Cha Luigi Giussani vị sáng lập phong trào Communio et Liberatio, thì nhờ có những tiếp xúc mục vụ riêng, mầu nhiệm Hội Thánh đã được nhiều người cảm nghiệm như một tình yêu sống động, hoạt động. Người ta sẽ thấy hình ảnh một Hội Thánh dễ thương, khác với hình ảnh Hội Thánh cơ chế, một hình ảnh không dễ gây thiện cảm đối với nhiều người (La Vigne et les Sarments, trang 147).
Khi theo dõi các bài giảng đó đây, tôi thấy nhiều bài mang dấu ấn của thời điểm và địa điểm, nên có sức sống lôi cuốn. Ðược vậy, tác giả các bài ấy chắc đã có nhiều kinh nghiệm do nhiều tiếp xúc.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, những tiếp xúc riêng với các bệnh nhân, các người bị bỏ rơi, những người có vấn đề, thường gây được nhiều kết quả tốt, góp phần làm cho bầu khí cộng đoàn trở nên huynh đệ hơn.

 4/ Văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc
Qua các cuộc thăm viếng mục vụ tại các giáo đoàn và qua các tiếp xúc chung riêng, tôi có nhận xét này là con người thời nay, nhất là giới trẻ, rất nhạy bén với những giá trị văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc. Họ muốn được thấy nội dung đức tin khoác chiếc áo đẹp, có nét văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc. Chúng ta thường trình bày đức tin qua các bài giảng, tiếp xúc, các nghi thức, các bài hát, các cuộc tổ chức lễ, kiến trúc, trang trí và qua chính các con người. Những cách đó chỉ là những hình thức diễn đạt. Nhưng cách diễn đạt đức tin với hình thức mang trình độ cao về văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc, bao giờ cũng gây được nhiều kết quả cao, khác với hình thức diễn đạt thiếu trình độ về các mặt đó.
Cũng do nhận thức ấy, tại nhiều giáo đoàn đã có những sáng kiến khuyến khích, hỗ trợ phát triển các giá trị ấy, như cấp học bổng cho học sinh nghèo, mua sách báo tốt về cho dân đọc, tạo dịp cho giới trẻ tiếp cận với những người và những môi trường có trình độ văn hoá cao. Những sáng kiến ấy gây hứng khởi cho nhiều người trong cộng đoàn, tạo nên bầu khí mở ra về các giá trị lớn.
Dịp lễ Noel 1992 vừa qua, đài truyền hình Việt Nam đã trình chiếu một đoạn phim tài liệu về nhà thờ Chánh toà Phát Diệm. Từng triệu khán giả đã theo dõi và khen ngợi công trình lịch sử ấy. Ai cũng coi đây là một thánh đường rất đẹp, có nhiều nét văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc. Từ sự kiện trên đây, tôi thầm nghĩ: Nếu toà nhà đức tin của Hội Thánh Việt Nam nói chung, và của mỗi giáo xứ nói riêng, đã là một công trình đẹp, được trình bày với những nét văn hoá, khoa học, nghệ thuật và bản sắc dân tộc, thì công việc truyền giáo chắc sẽ khác hơn bây giờ.

 5/ Nhịp cầu
Nhịp cầu nói đây là những người và những việc có khả năng đối thoại để xây dựng những liên hệ tốt đối với các tôn giáo bạn và với các người không tín ngưỡng.
Nhờ các nhịp cầu, nhiều giáo đoàn đã tạo được sự thông cảm và tình nghĩa giữa công giáo và ngoài công giáo. Họ sống thanh thản, làm chứng cho Tám Mối Phúc, khác với những cộng đoàn khép kín, sống trong thế cô đơn, nghi kỵ, với những cái nhìn hẹp hòi, lố bịch, thiếu cả đến những đức tính nhân bản như sự trung thực, tình liên đới và sự bao dung.
Trong cuốn Vraie et Fausse Réforme dans l'Église, cha Congar nêu lên một nguy cơ thường xảy ra nơi một số Hội Thánh địa phương, đó là phong cách sống đạo theo kiểu Synagogue, tức Hội Ðường của đạo Do Thái. Ngài ám chỉ não trạng chủ trương loại trừ những ai không cùng quan điểm tôn giáo với mình. Não trạng đó, nếu còn tồn tại nơi cộng đoàn, sẽ rất hại cho việc truyền giáo.

 6/ Hướng huấn luyện chung giáo đoàn
Nói một cách tổng quát, thì việc Tân-phúc-âm-hoá chung giáo đoàn chọn hai hướng huấn luyện, một là huấn luyện có tính cách nuôi dưỡng lòng đạo, hai là huấn luyện có tính cách sai đi làm chứng cho Thiên Chúa bằng phục vụ tha nhân.
Huấn luyện về tín lý, về luân lý, về nhân bản, về truyền giáo, về văn hoá, về lòng yêu tổ quốc, nhưng nhất là về tinh thần hiệp thông của Lời Chúa “Ta là cây nho, các con là ngành” (Gioan 15,5).
Như vậy, việc giáo dục, đào tạo nhân sự là rất quan trọng. Không có nhân sự giáo dân được đào tạo đúng hướng, linh mục sẽ không thể làm tốt được việc Tân-Phúc-Âm-hoá giáo đoàn. Mà xây dựng con người, đào tạo nhân sự là chuyện đòi nhiều thời gian, có khi từng chục năm. Tôi e rằng: Về vấn đề xây dựng con người, đào tạo nhân sự, chúng ta vẫn chưa tránh được hoàn toàn ba lầm lỗi, đó là trì trệ, hẹp hòi, và thiếu chân thành.
***
Ðể kết, tôi nghĩ sẽ không phải là thừa, nếu tôi quả quyết rằng: Việc Tân-Phúc-Âm-hoá giáo xứ tuỳ thuộc rất nhiều vào ý chí và tài đức linh mục phụ trách giáo đoàn. Tôi không nhìn vào những kết quả lớn cho bằng nhìn vào những gì đã bắt đầu và đang mọc lên. Tôi nhận thấy rất nhiều, rất đẹp. Và cũng rất đẹp sự ta nhìn nhận những thiếu sót lỗi lầm.
Xin Ðức Kitô là Chúa chiên lành thương đến ta và giáo đoàn của ta.
Long Xuyên, tháng 01/1993

 

Bùi-Tuần 1010: Tháng Mân Côi và NHỮNG BÔNG HỒNG NGOẠI

05-10-2006
 

Hằng năm, tháng 10 là thời gian Hội Thánh dành riêng để tôn kính Đức Mẹ. Cách tôn kính truyền 05-10-2006 Bùi-Tuần 1010

Hằng năm, tháng 10 là thời gian Hội Thánh dành riêng để tôn kính Đức Mẹ. Cách tôn kính truyền thống trong tháng này là cầu nguyện theo kinh Mân Côi.
Năm nay, thời cuộc gợi ý cho tôi tôn kính Đức Mẹ trong tháng Mân Côi này một cách hơi độc đáo. Đó là dâng lên Mẹ những bông hồng thiêng hái từ vùng đất ngoài công giáo.
Xưa, nhiều người ngoại đạo đã được Chúa Giêsu khen ngợi vì họ ngoại đạo mà sống đạo rất tốt. Thực là phải lẽ, nếu coi những người ấy là những bông hồng ngoại trong Nhà Chúa.
Nay, nhiều người ngoại đạo cũng rất đáng được khen ngợi, vì họ sống Phúc Âm còn tốt hơn  người công giáo. Chúng ta nên coi họ là những bông hồng ngoại trong Nước Trời.
Ở đây, tôi chỉ nêu lên vài trường hợp người ngoại, mà Chúa Giêsu đã khen, và tôi gọi là bông hồng ngoại. Từ đó mỗi người chúng ta sẽ nhận ra những người ngoại giống như họ đang sống xung quanh ta. Tìm ra rồi, ta sẽ cùng Đức Mẹ dâng những bông hồng thiêng đó lên Chúa với lòng cảm tạ ngợi khen.
1/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức tin
Phúc Âm thánh Matthêu kể: "Khi Đức Giêsu vào thành Caphácnaum, có một viên đại đội trưởng đến gặp Ngài và nài xin: 'Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm'. Chúa Giêsu nói: 'Chính tôi sẽ đến chữa nó'. Viên đại đội trưởng đáp: 'Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: Đi, là nó đi, bảo người kia: Đến, là nó đến, bảo người nô lệ của tôi: Làm cái này, là nó làm'. Nghe vậy, Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Ngài rằng: 'Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng'. Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: 'Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy'. Và ngay giờ đó, người đầy tớ ông được khỏi bệnh" (Mt 8,5-13).
Trong câu chuyện trên đây, chính Chúa Giêsu đã tôn vinh đức tin viên sĩ quan ngoại giáo. Một đức tin khiêm tốn, một đức tin đơn sơ, một đức tin mạnh mẽ vững bền.
Đức tin như thế vẫn nhận thấy hiện nay nơi nhiều người ngoài công giáo. Họ có thể là những người quyền quý. Nhưng phần đông họ sống cảnh nghèo, bệnh tật. Có người như chìm sâu dưới đáy vực thẳm thất vọng hoặc trong đường hầm tăm tối. Nhưng một số người trong họ vẫn can đảm phấn đấu. Sau cùng họ đã tìm được lối thoát. Nhờ niềm tin vào Đức Mẹ.
Họ biết rất sơ sài về Đức Mẹ. Nhưng họ tin tuyệt đối vào Đức Mẹ. Tôi nghĩ là chính Đức Mẹ đã ban cho họ niềm tin. Niềm tin ấy ví tựa cây hoa hồng, mà Đức Mẹ gieo trồng và chăm sóc. Chúng ta hãy đứng bên họ, để cùng họ ca ngợi tình Mẹ xót thương.
2/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức ái
Trong Phúc Âm thánh Luca, khi nêu gương sáng về bác ái, Chúa Giêsu đã chọn một người ngoại giáo. Người đưa ra dụ ngôn với những chi tiết cụ thể.
Một người bị bọn cướp trấn lột, bị trọng thương, nằm bất động bên vệ đường. Mấy vị chức sắc tôn giáo đi qua, nhìn thấy cảnh đó, nhưng bỏ đi. Sau cùng, một người ngoại đạo cỡi ngựa đi qua, thấy vậy, đã xuống ngựa, và chăm sóc cho nạn nhân một cách rất chu đáo (x. Lc 10,30-35).
Hồi đó, dụ ngôn trên đây có lẽ đã làm buồn lòng những người theo đạo Chúa, vì Chúa Giêsu không tìm gương bác ái nơi họ, mà lại đưa một người ngoại để làm gương.
Thời nay, tình hình có khác. Người có đạo vốn coi việc thực thi bác ái là bổn phận căn bản của đạo. Nhưng không vì thế, mà khẳng định được rằng: Trên thực tế, mọi người công giáo, mọi miền công giáo, đều nêu gương sáng về bác ái.
Phải thành thực mà nhận rằng: Hương thơm bác ái đã và đang toả ra một cách rõ ràng và hấp dẫn từ nhiều cá nhân, nhiều nhóm, nhiều tổ chức ngoài công giáo.
Không thiếu người kể cả người công giáo, tại Việt Nam hôm nay, dám làm chứng rằng: Trong nhiều trường hợp khó khăn, họ đã nhận được tình yêu thương giúp đỡ từ những người ngoài công giáo. Họ tưởng mình đã bị loại trừ, nhưng họ đã gặp được những cái nhìn, những bàn tay, những tình nghĩa chân thành cứu họ từ một thế giới không phải là công giáo.
Riêng tôi, tôi nhìn những chứng nhân bác ái đó là những bông hồng thơm đẹp. Thời nay việc bác ái là cách sống đạo có sức thuyết phục. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ mà dâng họ lên Chúa là nguồn tình yêu.
3/ Bông hồng ngoại toả hương thơm biết ơn
Phúc Âm thánh Luca thuật lại rằng: "Lúc Chúa Giêsu vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: 'Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!' Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: 'Hãy đi trình diện với các tư tế'. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Đức Giêsu mới nói: 'Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,12-18).
Biết ơn là một đức tính nhân bản rất được tôn trọng khắp nơi. Riêng tại Việt Nam, lòng biết ơn được coi như một yếu tố tôn giáo truyền thống.
Biết ơn phải được thực hiện bằng những việc cụ thể, với những nhân tố cụ thể.
Mọi người công giáo Việt Nam hôm nay đều ý thức điều đó và cố gắng thực thi điều đó. Nhưng, biết đâu lời Chúa Giêsu phiền trách xưa vẫn còn đúng một cách nào đó nơi này người nọ tại Hội Thánh ta.
Trái lại, lòng biết ơn lại là một thứ bông hồng thơm đẹp dễ gặp được ở nhiều người ngoại đạo. Chính vì thế, mà chúng ta sát lại bên họ, để hiệp thông, và để cùng Đức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa là Cha chung mọi người.
Tới đây, chắc mọi người đã hiểu được ý hướng của tôi về tháng Mân Côi năm nay. Hình thức vẫn như cũ. Nhưng tinh thần thì mở rộng ra. Mục đích để chúng ta gần lại các người ngoài công giáo với tinh thần trân trọng khiêm tốn. Thời sự hiện nay mời gọi chúng ta thực thi điều đó.
ĐGM. GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1011: TÔN SÙNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU 13-06-2006

Tôn sùng Thánh Tâm là một việc thờ phượng rất phổ biến trong Hội Thánh Việt Nam. Tượng ảnh 13-06-2006 Bùi-Tuần 1011

Tôn sùng Thánh Tâm là một việc thờ phượng rất phổ biến trong Hội Thánh Việt Nam.
Tượng ảnh Thánh Tâm được kính thờ đặc biệt tại các nhà thờ và các tư gia.
Việc kính thờ Thánh Tâm được thực hiện bằng nhiều cách. Như ca hát, đọc kinh, dâng mình. Có hình thức nhỏ. Có hình thức lớn.
Nói chung, tấm lòng người công giáo Việt Nam đối với Thánh Tâm đúng là tâm tình đạo đức nhiệt thành. Tâm tình này là một cách đáp trả lòng thương xót đặc biệt Chúa dành cho chúng ta.
Để tâm tình đạo đức này được tiếp tục kéo nhiều ơn Chúa xuống cho ta, nhất là trong thời buổi có nhiều thử thách về sống đạo như hiện nay, tôi xin phép trình bày một chia sẻ. Chia sẻ của tôi ở đây là nêu lên vài việc thiết tưởng nên nhấn mạnh trong việc tôn sùng Thánh Tâm.

1/ Ăn năn sám hối
Ăn năn sám hối là việc cần thiết đầu tiên được nhắc đi nhắc lại trong Phúc Âm.
Thánh Gioan Baotixita, khi đi rao giảng dọn đường cho Chúa Cứu thế đến, Ngài luôn chọn đề tài ăn năn sám hối (x. Lc 1-18).
Chúa Giêsu khi khai mạc giai đoạn rao giảng Tin Mừng, cũng đã bắt đầu bằng việc khuyên người ta ăn năn sám hối. Phúc Âm kể: "Đức Giêsu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến" (Mt 4,17).
Chúa Giêsu, khi cảnh cáo con người về nguy cơ bị những tai hoạ khủng khiếp huỷ hoại, Người cũng khuyên mọi người hãy ăn năn sám hối (x. Lc 13,1-5).
Chúa Giêsu, khi sai các tông đồ đi các nơi để loan báo về Nước Trời, Người cũng nói rõ với các ông về sứ vụ phải khuyên người ta ăn năn sám hối. "Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối" (Mc 6,12).
Chúa Giêsu, khi dặn dò những lời sau hết, trước khi lên Trời, Người cũng đã nhấn mạnh với các tông đồ: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân..., kêu gọi họ sám hối để được ơn tha thứ" (Lc 24,47).
Vâng lời Chúa Giêsu, các tông đồ đã làm như Thầy mình dạy.
Trong bài giảng thứ nhất, thánh Phêrô đã tha thiết khuyên dân: "Anh em hãy sám hối" (Cv 2,38).
Trong bài giảng thứ hai, thánh Phêrô lặp lại cũng lời khuyên đó: "Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Chúa" (Cv 3,19).
Cùng một đường lối như thánh Phêrô là đi giảng việc ăn năn sám hối, thánh Phaolô và các tông đồ khác đều hăng hái kêu gọi mọi người đổi mới con người của mình bằng việc ăn năn sám hối.
Trong các lần hiện ra, Đức Mẹ cũng nhắn nhủ các con cái Mẹ hãy ăn năn sám hối. Tất cả những việc đạo đức, mà Hội Thánh khuyên dạy chúng ta làm, bao giờ cũng mở đầu bằng việc thanh luyện tâm hồn chúng ta bằng việc ăn năn sám hối.
Nếu ăn năn sám hối là việc đặc biệt quan trọng như bước đầu cần thiết để thờ phượng Chúa, thì việc đó càng nên được chúng ta thực hiện trong mọi hình thức tôn sùng Thánh Tâm. Bởi vì chính Thánh Tâm là Tình yêu Chúa tạo dựng, cứu chuộc, nhưng dễ bị xúc phạm và bị bỏ quên. Chính tình yêu đó luôn lo lắng cho phần rỗi chúng ta. Người chỉ mong chúng ta hãy biết đón nhận ơn cứu chuộc bằng việc ăn năn sám hối chân thành.
Một điều thiết tưởng nên nhớ trong việc ăn năn sám hối, là cần để ý đến tính cách cụ thể. Ăn năn về tội gì? Sám hối về tính mê nết xấu nào? Quyết tâm ra sao để sửa đổi những hành vi, cử chỉ, ngôn từ, cách suy nghĩ, cách phán đoán trước đây không tốt. Phúc Âm thường hay dạy chúng ta về tính cách cụ thể trong việc ăn năn sám hối, để việc đổi mới chính mình được hữu hiệu.
Cùng với việc ăn năn sám hối, chúng ta còn nên nghĩ đến một việc nữa, khi tôn sùng Thánh Tâm. Việc đó là dâng mình cho Thánh Tâm.

2/ Dâng mình cho Thánh Tâm
Để hiểu thế nào là dâng mình cho Thánh Tâm, chúng ta nên đọc và suy gẫm những lời Phúc Âm sau đây:
"Rồi, Chúa Giêsu gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?" (Mc 8,34-38).
Như thế, ai dâng mình cho Thánh Tâm cần thực hiện những việc sau đây:
•        - Từ bỏ mình,
•        - Vác thánh giá mình,
•        - Theo Chúa Giêsu.
Thực hành những đòi hỏi trên đây được hiểu là thực thi thánh ý Chúa. Thực thi thánh ý Chúa là căn bản của tinh thần thờ phượng, đáng Chúa nhận là chứng từ thuộc về Chúa, như lời Chúa Giêsu phán:
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Đừng vội cho rằng: Thực thi thánh ý Chúa với những đòi hỏi từ bỏ mình, vác thánh giá mình và theo Chúa là chọn cho mình một gánh nặng khổ cực. Nhưng hãy tin vào lời Chúa ủi an nhắn gởi: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).
Những lời Chúa hứa trên đây là một bảo đảm quý giá cho những ai tôn sùng Thánh Tâm Chúa một cách xứng đáng, nhất là theo gương Thánh Tâm mà sống bác ái và khiêm nhường Phúc Âm.
Cuộc đời là một cuộc giao tranh giữa thiện và ác. Xác thịt thì yếu đuối. Thế gian thì nông nổi. Quỷ thì độc dữ. Chúng thường lôi kéo chúng ta theo đàng tội. Chúng ta hãy khôn ngoan và tỉnh thức trong các chọn lựa.
Cách chọn lựa chắc chắn nhất là hãy nương tựa vào Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài rất gần gũi ta. Ta nương tựa bằng lòng tôn sùng với hai việc trọng yếu là sám hối và dâng mình.
Luôn luôn được ở lại trong Thánh Tâm Chúa Giêsu, đó là lời cầu đơn sơ của những tâm hồn bé mọn. Thiết tưởng đó cũng là tiếng gọi âm thầm của Thánh Tâm gởi tất cả mọi người thiện chí đã cảm nghiệm về tính cách mong manh của cuộc đời.
+ GM GB Bùi Tuần


 

Bùi-Tuần 1012: CÔ ĐƠN 30-06-2006

 Xuân Thái
Kính tặng Giám Mục JB. Bùi Tuần Và các Cha già hưu
 

Xã hội càng văn minh, chủ nghĩa vật chất và tinh thần hưởng thụ càng cao bao nhiêu, thì con 30-06-2006  Bùi-Tuần 1012

Xã hội càng văn minh, chủ nghĩa vật chất và tinh thần hưởng thụ càng cao bao nhiêu, thì con người càng sống với nhiều nghịch lý . Đồng thời các giá trị tinh thần càng bị hạ thấp và đảo ngược bấy nhiêu.
          Một tài xế tắc xi trả lại cái túi xách của khách hàng bỏ quên trên xe, trong đó gồm nhiều ngàn đô la và những vật dụng giá trị, thì ít có lời khen, nhưng bị nhiều người chê đó là một kẻ ngu khờ dại dột. Ngay cả khi anh tài xế nọ không nhận món tiền hậu tạ của ông khách ấy, thì nhiều người lại cho là anh chàng này muốn chơi nổi và mắc bệnh Sĩ diện hão.
          Người ta phải tranh dành phải vật lộn, và cuộc sống mỗi ngày một thêm hối hả vội vàng. Hòa mình vào giòng xe cộ chen chúc đông đảo hằng ngày, người ta phải cố lách lên, người ta  cố vượt qua – dù chỉ được một nửa cái bánh xe – để đến đúng giờ, để về cho sớm…. Khi không có bóng cảnh sát giao thông, mà không biết vượt qua đèn đỏ, thì bị cho là nhát gan và kém cỏi tầm thường.
          Tình dục bị thả nổi. Sống thử với nhau trước hôn nhân là chuyện bình thường, và đang là một cái mốt của thời thượng. Trọng tiết trinh bị coi là cổ hủ tụt hậu, là xưa rồi Diễm.
          Khi có một chút chức vụ và quyền lực trong tay, thì liêm khiết được coi là không thức thời, là cờ đến tay mà không biết phất. Ngay thẳng bị cho là thiếu khôn ngoan vàkhông biết lo xa cho tương lai. Tất cả các giá trị tinh thần đang bị đảo lộn và xuống giá hàng ngày.
          Phá thai thì gọi là đi điều hòa kinh nguyệt, mà không phải là sát nhân, dù thai nhi đã nhiều tháng tuổi. Hiện nay, điều ấy đang được thực hiện hàng ngày ở khắp mọi nơi, như một chuyện bình thường. Rất bình thường.
                                                          *******
          Thước đo mọi giá trị là đồng tiền. Hơn lúc nào hết, bây giờ đồng tiền đã lên ngôi Thượng đế. Có một bài, tạm gọi là đồng dao của thời đại, mà rất nhiều người đã thuộc nằm lòng:
                   Tiền là Tiên là Phật.
                   Tiền là sức bật của con người.
                   Tiền là nụ cười của trẻ.
                   Tiền là sức khỏe của tuổi già.
                   Tiền là cái đà đi lên.
                   Tiền là mũi tên danh vọng.
                   Tiền là cái lọng che thân.
                   Tiền là cán cân công lý.
                   Có tiền là hết ý.
Nhưng nhiều khi, dù có tiền và với những phương tiện vật chất dư thừa, nhưng người ta vẫn thấy bất an và không hạnh phúc. Vì thế, chưa bao giờ thuốc an thần lại được bán ra nhiều như lúc này. Nhưng dù có uống thuốc, cái thần vẫn không được an. Do đó, số người tự tử vì đủ thứ lý do không phải là ít. Hiện nay, số bệnh nhân tâm thần mỗi ngày đang một tăng thêm.
Người ta đang sống với đầy những nghịch lý. Con người đã lên đến Sao Hỏa Sao Kim. Người ta có thể từ Sàigòn đi  Hànội chỉ mất hơn 1 giờ bay, nhưng lại ngại ngần và không thể sang nhà hàng xóm, dù nhà mình đang ở sát ngay bên cạnh. Giữa đám đông, nhưng vẫn thấy mình lạc lõng. Quá ít những nụ cười cảm thông thực sự, nhưng đầy dẫy những nụ cười của xã giao mang đầy hậu ý. Chân tình và thành thật đang hiếm dần trong đời sống. Người ta tiết kiệm đến cả nụ cười. Những nụ cười bao dung và quảng đại đang trở nên một thứ hàng quí hiếm .
Dù đang có rất nhiều thú giải trí ở khắp nơi, nhưng nhiều người vẫn không tìm được niềm vui đích thật. Người ta thường đi tìm niềm vui trong men rượu nơi các bàn tiệc, với những tiếng dô dô, và cụng ly trăm phần trăm thật ồn ào, náo nhiệt. Ở những nơi ấy, đang có rất nhiều những tiếng cười, cùng với rất nhiều phấn khích. Ở những nơi ấy, cũng đã có rất nhiều những điều giống như tình cảm trong các cuộc vui như thế. Nhưng khi tiệc tan, thì niềm vui cũng tàn, như một  điều tất yếu. Bất an và trống rỗng lại tràn về .
Vì chỉ gặp được những niềm vui giả tạo, và tình cảm hời hợt bên ngoài như thế nên người ta thường dễ bị rơi vào cô đơn.
Cô đơn là một trạng thái tinh thần  nguy hiểm. Điều nguy hiểm này rất dễ dẫn đến trầm uất, rồi mất dần sức sống  và rồi đến một lúc nào đó, có thể sẽ mất luôn cả những khả năng sáng tạo. Cô đơn là một điều vô cùng  đáng sợ, vì có thể dẫn đến chết người. Những lúc ấy có khi, chết đi được lại là một điều may mắn, vì sống không được, mà chết cũng chẳng xong, thì chuyện ấy còn tồi tệ và đáng sợ hơn cái chết rất nhiều .
 Ai cũng có thể rơi vào sự cô đơn, đặc biệt khi tuổi đang về chiều và khi đã già cả.
Ngay tại Rôma chẳng hạn, với khoảng 3 triệu dân cư, người ta ước tính có đến hơn 600 ngàn người già. Trong đó, chỉ có một số nhỏ được săn sóc đàng hoàng,  đa phần còn lại đều phải trải qua một trong những thử thách lớn nhất của tuổi già, đó là sự cô đơn, cùng với nhiều ngược đãi khác.
Từ bao lâu nay, các tu sĩ thuộc cộng đồng Thánh Egidio, đã dấn thân một cách đặc biệt trong việc bảo vệ quyền lợi người già. Hiện nay, cộng đoàn này lại đưa ra một sáng kiến mới được gọi là : “Cú điện thoại chống lại bạo động và bênh vực quyền lợi người già.”
Với sáng kiến này, cộng đồng đã thiết lập một đường giây điện thoại đặc biệt, nhằm giúp cho các người già đang sống một mình, hoặc bà con thân thuộc của họ, có thể liên lạc để xin trợ giúp về bất cứ nhu cầu nào.
Túc trực điện thoại trên đường giây này là 60 nhân viên, tất cả đều có kinh nghiệm trong nhiều nghành khác nhau như luật pháp, cán sự xã hội, y tá…Nói chung, họ có khả năng trong mọi lãnh vực có liên quan đến người già.
Qua sáng kiến trợ giúp trên đây, nhiều người già đã ý thức hơn về quyền lợi của họ, cũng như tìm được nhiều an ủi nâng đỡ , qua chính những người chỉ túc trực ở điện thoại để lắng nghe chia sẻ .
Một tác giả đã viết về sự cô đơn như sau :
“Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái điều mình chờ đợi lại chẳng bao giờ đến. Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng  cách xa bởi giòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt.
Không phải cách biệt bởi không gian, mà là cách biệt của những cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ, anh em cô đơn bên nhau. Càng gần nhau mà vẫn cách biệt, thì nỗi cô đơn càng thêm cay đắng nghiệt ngã. Những lúc ấy, mà vẫn phải gần nhau thì nỗi cô đơn càng to lớn và khủng khiếp thêm lên rất nhiều lần .
Tôi cô đơn, khi tôi bị vây bọc bởi những con sông thờ ơ lãnh đạm.
Tôi cô đơn vì tôi không đến với những người khác.
Tôi cô đơn, vì muốn cho đi những điều hữu hảo. Nhưng không ai muốn đón nhận, mà còn bị suy diễn với toàn những điều ác ý…..”
Những giòng trên đây đã nói lên một sự thật : Ai trong chúng ta cũng có thể rơi vào cô đơn. Ở bất cứ tuổi tác nào, nơi bất cứ địa vị nào trong xã hội, ai cũng có thể làm mồi ngon cho sự cô đơn.
Liều thuốc để chống lại sự cô đơn, chính là phải ra khỏi chính mình, đến với người khác để làm cho người khác bớt cô đơn. Khi người khác bớt cô đơn và có niềm vui, thì chính ta cũng có niềm vui và hết cô đơn như họ. Xã hội sẽ được ấm tình người hơn, nếu mỗi người đều biết và dám vượt ra khỏi cái Tháp ngà của ích kỷ hẹp hòi để đến với người khác.
*******
Có một vị Linh mục thông thái và uyên bác đã nói rằng : Các chủ thuyết thì dậy người ta làm anh hùng. Đức Phật thì dậy phải tìm giải thoát. Khổng tử thì dậy môn sinh phải là người quân tử. Lão tử lại dậy cách sống vô vi nhằm siêu thoát để thành Tiên. Riêng Chúa của tôi, thì ngài đã rời bỏ cõi trời xuống trần gian chỉ để LÀM NGƯỜI. Và Ngài vẫn thường tự xưng mình là CON NGƯỜI .
Trên Thập giá, con người Giêsu đã phải chịu một nỗi cô đơn ghê gớm và kinh hoàng đến cùng cực. Trừ một lời cảm thông của tên trộm bên phải Thập giá. Nhưng lại là một lời cảm thông quá muộn màng và không trọng lượng .
Cô đơn, vì chẳng có ai bênh vực để phải nhận bản án tử hình và bị treo trên  Thập giá.
Cô đơn, vì biết bao kẻ đã được Ngài thi ân giáng phúc, giờ này, dưới chân Thập giá sao không thấy một ai, họ đâu hết cả rồi ?
Cô đơn, vì các môn đệ vô cùng thiết nghĩa mà Ngài đã hết lòng yêu thương tin tưởng, mà lúc này, cũng chẳng còn một ai. Bây giờ họ đang ở đâu, và họ đang nghĩ gì ?
Cô đơn, vì nhìn xuống dứơi chân Thập giá, Ngài chỉ thấy một bầy sói dữ với những tiếng la hét cuồng nộ và đầy giận dữ của đám đông ô hợp. Nhưng họ chỉ đòi đóng đinh mình.
Cô đơn, vì Ngài đã nhìn thấy những nụ cười  hả hê và đầy mãn nguyện của các kinh sư biệt phái, vì họ thấy mình đã thành công và đang đi đến thắng lợi hoàn toàn .
Ngài không thể hiểu. Ngài không thể ngờ. Không hiểu, không ngờ sẽ dẫn đến cô đơn.
Và, cô đơn nhất và cũng là thê lương nhất, là khi một người thân thương nhất và gần gũi nhất chính là Cha Ngài. Dường như lúc này, người cha ấy cũng chẳng đoái hoài gì đến con mình. Đứa con mà người Cha ấy có lần  đã giới thiệu rằng : Đây là người con, mà Ta yêu dấu mọi đàng…
Trong tột cùng của chóp đỉnh cô đơn như thế, Đức Giêsu đã phải cất lên những lời than đầy não lòng: “ Cha ơi ! Cha của con ơi ! Sao Cha nỡ bỏ rơi con ???”( Mc 15,34 ).
 Lời than đã biến thành câu hỏi. Nhưng đáp lại câu hỏi của Ngài lúc ấy, chỉ là sự thinh lặng của bầu trời, nơi đồi Gôngôta trong một ngày lộng gió.
Lời than hình như có đôi phần trách móc và thất vọng. Nhưng không, ngàn lần không phải thế. Vì ngay sau đó, trước khi thở hơi cuối cùng, Ngài còn đủ sức để nói rằng: “Lạy Cha ! con xin phó thác hồn con tay Cha.”( Lc 23, 46 )”. Riêng Thánh sử Gioan đã kể lại  một lời nói của Đức Giêsu trên Thập giá: “Mọi sự đã hoàn tất.” ( 19, 30 )” trước khi ngài gục đầu tắt thở.
 Lời kể này của Thánh sử Gioan đã trở nên một chi tiết vô cùng đắt giá, để minh chứng rằng, Ngài đã hoàn toàn làm chủ trong mọi tình huống. Làm chủ ngay cả khi Ngài đang căng thẳng nhất, bị xao xuyến và đau đớn nhất, đến phải than lên những lời đầy não lòng như  thế. Chính cái chi  tiết đắt giá này đã soi sáng và chỉ dẫn,  để ta biết rõ hơn  cái chất NGƯỜI, nơi một vị  CHÚA đích thực. Nhân tính và Thiên tính của Ngài đã tỏ hiện thật hài hòa trong một CON NGƯỜI .
Các sách tu đức đều dạy rằng, những ai yêu mến Chúa thật lòng đều không bị cô đơn bao giờ, vì người ấy luôn có Chúa ở cùng. Vì họ suy nghĩ và có cùng một tấm lòng như Chúa, họ đi đứng, nói năng giống như Chúa và cũng hành xử như Chúa. Họ đã thể hiện đời sống như Thánh phụ Phaolô nói : “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô đang sống trong tôi.”
*******
Nhưng Thày chí Thánh Giêsu của con ơi ! xin tha lỗi cho con.
Vì dù con cũng đã cố gắng nhiều lắm, đôi khi con cũng thấy Chúa rất rõ trong con, và khi ấy, con được ủi an và ấm lòng thật nhiều. Song cũng rất nhiều khi, con cũng  bị khổ đau và cảm thấy cô đơn vô cùng.
Con bị cô đơn và xa lạ ngay trong gia đình mình .
Con bị cô đơn với chính con, vì nhiều khi, con đã không hiểu nổi chính mình.
Ngay trong cộng đoàn, đôi khi con cũng bị cô đơn thật lớn,
vì điều con nói thì ngừơi ta không hiểu, hoặc chuyện người ta nói mà con chẳng hiểu gì,
do những suy nghĩ  và nhận thức của chúng con rất khác nhau và không cùng tần số.
Con  bị cô đơn tại chính xứ đạo của con, nơi mà con có bổn phận phải gắn bó cộng tác .
Con cũng bị cô đơn ngay trong Giáo hội, một Giáo Hội  mà con có nhiệm vụ phải hiệp thông và cầu nguyện.
Đấng Cứu độ của con ơi ! Xin tha thứ cho con.
 Vì hơn ai hết thảy, Ngài đã trải qua những giây phút khổ đau và cô đơn kinh hoàng nhất. Do đó, Ngài hiểu rõ những điều ấy hơn con. Vì Ngài không chỉ là CHÚA, nhưng còn là NGƯỜI với đầy đủ mọi tình huống và tất cả những chiều kích nơi cõi nhân sinh.
 Xin nâng đỡ con và tất cả những kẻ thuộc về con, bây giờ và luôn mãi, đến hơi thở sau hết đời mình. Để nhờ thế, chúng con có thể chịu đựng mọi sự trong bình an, và nhất là - có thể nói được như Chúa đã nói ngày nào : Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Amen.

 

Bùi-Tuần 1013: Những sức mạnh đang công phá thế giới sự thiện

Giáo xứ không đứng ngoài đất nước và thế giới. Thế giới đang chuyển biến. Ðất nước Việt Nam đang Bùi-Tuần 1013

Giáo xứ không đứng ngoài đất nước và thế giới. Thế giới đang chuyển biến. Ðất nước Việt Nam đang chuyển biến. Thì tất nhiên cộng đoàn tín hữu của ta cũng đang và sẽ chuyển biến theo.
Do đó, sẽ không có ổn định về nhân sự. Bởi vì có những người từ những nơi khác tới giáo xứ mình, đồng thời có những người của giáo xứ mình đi nơi khác. Giống như một cuộc di dân lặng lẽ. Khi kinh tế phát triển, khuynh hướng bỏ đồng ruộng tuốn về thị thành sẽ thấy rõ, như kinh nghiệm các nước đang phát triển làm chứng.
Người không đi đâu cũng sẽ coi như thường xuyên di chuyển. Bởi vì sẽ được thấy nhiều, sẽ được nghe nhiều, do các tiếp xúc và các nguồn thông tin báo, đài. Rồi đây, lượng thông tin sẽ rất phong phú và đa dạng, đổ vào khắp các gia đình mỗi ngày, như những trận mưa hình ảnh, quảng cáo, tin tức, bình luận, chuyện phim, ca hát vv...
Tất cả các chuyển biến ấy sẽ tạo nên những chuyển biến về não trạng. Con người, nhất là giới trẻ, dù ở nông thôn, sẽ có cách suy nghĩ mới, sẽ có cách đánh giá mới, sẽ có những ham muốn mới. Chính các giáo sĩ, tu sĩ cũng vậy.
Ở đây, tôi xin nêu lên ba chuyển biến lớn, theo gợi ý của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Chritifideles laici. Ðây là 3 sức mạnh đang nổi dậy khắp nơi có tính cách công phá thế giới sự thiện.
Sức mạnh công phá thứ nhất là khuynh hướng tục hoá đang nhắm vào tinh thần Kitô-hoá
Tục hoá là khuynh hướng muốn gạt Thiên Chúa ra. Nó đi từng bước. Bước đầu là gạt Thiên Chúa ra khỏi lãnh vực chính trị, khoa học, nghệ thuật, xã hội. Mục tiêu này xem ra đã đạt được một cách vẻ vang tại nhiều nước Âu Mỹ. Tiếp đến, là gạt Thiên Chúa ra khỏi gia đình. Mục tiêu này xem ra cũng đã đạt được một cách khả quan tại các nước của thế giới tự do. Tiếp đến, là gạt Thiên Chúa ra khỏi đời tư cá nhân. Ai muốn tin gì, làm gì thì hoàn toàn tự do, bất chấp Lời Chúa, luật Chúa. Mục tiêu này xem ra cũng đã đạt tới mức độ cao, đến nỗi tôi nhìn vào đó mà thấy choáng váng. Hiện nay, khuynh hướng tục hoá đang bước thêm một bước mới, đó là muốn gạt Thiên Chúa ra khỏi chính Thiên-Chúa-giáo, để sẽ là một Thiên-Chúa-giáo không Thiên Chúa. Một Thiên-Chúa-giáo chỉ còn là một hệ thống tư tưởng, nguyên tắc, mà không lo gặp Chúa. Một Thiên-Chúa-giáo chỉ còn là một bó lề luật lớn nhỏ, như một căn nhà luật pháp, mà vắng Chúa. Một Thiên-Chúa-giáo chỉ còn là một mớ lễ nghi bề ngoài mà không làm chứng được là để thờ phượng Chúa.
Trên đây là một bước tục hoá rất nguy hiểm, có tính cách tàn phá quyết liệt.
Trước tình hình này, chúng ta phải làm gì, để đức tin của giáo đoàn ta và của chính ta khỏi bị tàn phá?

Thưa xin để ý hai việc.
Một là ta đừng vô tình, nông nổi cộng tác vào khuynh hướng tục hoá đó. Phải nói là chúng ta sẽ mắc tội cộng tác vào việc gạt Thiên Chúa ra khỏi Thiên-Chúa-giáo chúng ta, nếu chúng ta tục hoá bài giảng, khi nội dung bài giảng chỉ làm xàm những chuyện thế gian. Và nếu chúng ta tục hoá thánh lễ, khi thánh lễ bị lợi dụng như những phương tiện để kiếm tiền và phô trương quyền lực. Và nếu chúng ta tục hoá chức linh mục, khi chức linh mục được coi như một nghề, một cách thăng tiến xã hội. Và nếu chúng ta tục hoá các lễ nghi phượng tự, khi chúng ta coi các lễ nghi đó là chính, còn cầu nguyện và gặp Chúa là phụ.
Hai là ta tích cực nắm bắt một khuynh hướng mới đang mọc lên, có tính cách đẩy lùi khuynh hướng tục hoá. Khuynh hướng mới này là khuynh hướng trở về với thần thánh. Hiện nay khuynh hướng này xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nhìn chung thì khuynh hướng trở về với thần thánh có một nét chung này là diễn tả tình cảm của mình với thần thánh một cách tự phát, hồn nhiên. Ðồng thời nó cũng có một nét chung nữa, đó là thao thức về ý nghĩa cuộc đời, muốn đời mình được bảo đảm hơn, nhờ tựa vào một Ðấng thiêng liêng ở trên mình, nhưng mình không rõ Ngài là ai.
Khi tôi nói, ta nên tích cực nắm bắt khuynh hướng trở về với thần thánh, là tôi muốn nói tới sự theo dõi những diễn tả của nó. Ðừng coi thường, đừng vội chối từ, đừng vội cản ngăn. Nếu thấy những diễn tả của nó là tốt, thì nên tạo cho nó có những điều kiện để phát huy. Nếu thấy những diễn tả của nó là sai lạc thì cần cản ngăn một cách khôn ngoan. Ðể làm như vậy, người lãnh đạo giáo đoàn cần có ơn Chúa Thánh Thần, giúp phân biệt cái gì là tốt, cái gì là xấu. Tiêu chuẩn chắc chắn nhất để phân biệt, là tinh thần bác ái và khiêm nhường.
Nhiều nơi, để đáp ứng nhu cầu sinh thái và khuynh hướng diễn tả đức tin một cách hồn nhiên tươi mát, thích hợp với tâm lý con người thời nay, người ta đã quan tâm một cách đặc biệt đến không gian xung quanh nhà thờ. Cần một không gian rộng với thiên nhiên đẹp, như cây cối, vườn bông, thảm cỏ. Tại đó, người ta gặp Chúa, gặp nhau, và gặp thiên nhiên trong bầu khí đức tin cởi mở. Một không gian như vậy, khi biết lợi dụng, sẽ là nơi bắt gặp và đón nhận được nhiều khuynh hướng về nhu cầu đi tìm tôn giáo, và tìm gặp Chúa ngoài chế độ đền thờ.
Sức mạnh công phá thứ hai là khuynh hướng nô-lệ-hoá con người đang nhắm vào mục đích băng hoại con người
Tất nhiên, chẳng ai sẽ nói rằng: Tôi làm việc này việc nọ là để nô-lệ-hoá con người. Nhưng những việc họ làm, dù với ý ngay lành, cũng sẽ tự nó đi tới mục đích biến con người thành một thứ nô lệ. Trong Christifideles laici, Ðức Thánh Cha cho thấy một số sức mạnh khi nhằm khai thác con người, thì chính là những quyền lực nô-lệ-hoá con người. Chẳng hạn, khi một mạng lưới thông tin nhắm vào việc đầu độc con người, khi một bộ máy tiền của nhắm vào việc sai bảo con người, khi một hệ thống chính trị nhắm vào việc uy hiếp con người, khi một kế hoạch giải trí nhắm vào việc kinh-tế-hoá con người, thì dù họ có những lời hoa mỹ tới đâu, kết quả việc làm của họ vẫn là làm cho con người bị băng hoại.
Trước tình hình trên đây, chúng ta phải làm gì, để con người của giáo đoàn và của chính ta khỏi bị băng hoại, trở thành một thứ nô lệ?

Thưa, cũng xin để ý đến hai việc.
Một là, ta đừng vô tình nông nổi cộng tác vào khuynh hướng nô-lệ-hoá đó. Ở đây, tôi nghĩ tới những tệ đoan vẫn còn tồn tại ở một số giáo đoàn: Như tệ đoan ăn uống chè chén dịp ma chay, tệ đoan cờ bạc say sưa, tệ đoan hay nói xấu nói hành, tệ đoan hay nghi kỵ kết án. Nhiều người coi những tệ đoan đó là những cái làm thoái hoá con người, thế mà chúng vẫn tồn tại một cách ung dung vững chắc, nhờ sự dung dưỡng của các vị có chức quyền trong giáo đoàn. Cũng đừng quá khắt khe gay gắt, gây cho bầu khí giáo đoàn sự sợ hãi, như thể đạo là một gánh nặng tâm hồn.
Hai là ta nên tích cực nắm bắt một khuynh hướng mới đang mọc lên có tính cách đẩy lùi khuynh hướng nô-lệ-hoá con người. Ðó là khuynh hướng bảo vệ, kính trọng và phát triển con người. Khuynh hướng này cũng đang xuất hiện dưới nhiều hình thức: Như bảo vệ nhân quyền, nâng cao đời sống tinh thần vật chất của người nghèo, an ủi giúp đỡ những người kém cỏi, khổ đau.
Một số người đã nói với tôi rằng: Nơi nhiều người tín hữu, mặt đức tin thì không rõ tốt hay xấu, nhưng mặt nhân bản thì rõ ràng là suy thoái. Con người của họ xem ra bị băng hoại. Ngay từ cái sơ đẳng nhất, như tính thực thà. Họ lươn lẹo, gian dối, giả tạo, hai mặt, bôi bác, giả hình. Khi quan sát, tôi có cảm tưởng nhận xét trên đây là đúng. Không phải đúng cho phần đông, nhưng đúng cho một số nhỏ đáng kể. Như vậy trong chương trình xây dựng và phát triển con người, chúng ta đừng quên rằng: Sẽ không làm chứng được cho đức tin vào Thiên Chúa, nếu ta và những người thuộc về ta thiếu những đức tính nhân bản, như sự chân thành đối với người khác.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một điều vắn tắt, nhưng rất cần, trong việc đối phó với khuynh hướng nô-lệ-hoá con người, đó là chính chúng ta phải sống thế nào để chúng ta làm chứng mình có tự do không làm nô lệ thói hư nết xấu nào.
Sức mạnh công phá thứ ba là khuynh hướng tranh-chấp-hoá cuộc sống, đang nhắm vào mục đích phá hoại nền hoà bình là dấu chỉ đẹp nhất của Nước Trời
Tranh-chấp-hoá cuộc sống là coi việc tranh chấp quyền lợi như một sinh hoạt thường xuyên của cuộc sống. Tranh chấp để mình phải thắng, kẻ khác phải thua. Tranh chấp bằng bất cứ phương tiện nào, dù phải dùng tới những cách bất công. Tranh chấp đến độ muốn tiêu diệt nhau. Khuynh hướng tranh-chấp-hoá đôi khi cũng tràn vào lãnh vực đạo đức. Theo đó, có người cho rằng phải tranh chấp bất cứ với giá nào, vì lý do đạo đức... Khi tranh-chấp-hoá cuộc sống lại đươc hỗ trợ bởi tranh-chấp-hoá đạo đức, thì tình hình dễ trở nên bi đát. Như đang xảy ra tại nhiều điểm nóng hiện nay trên thế giới, nhất là tại Ðông Âu, Ấn Ðộ, Phi Châu, và Trung Ðông.
Trước tình hình trên đây, chúng ta phải làm gì, để giáo đoàn và ta khỏi bị sức mạnh công phá ấy lôi cuốn?

Thưa cũng xin để ý đến hai việc:
Một là ta đừng nhẹ dạ cộng tác vào khuynh hướng tranh-chấp-hoá cuộc sống và tranh-chấp-hoá đạo đức. Ở đây, tôi nghĩ tới tinh thần tranh chấp đang bùng nổ tại một số giáo đoàn, và còn đang âm ỉ tại một số cộng đoàn khác. Ðiều đáng buồn là tinh thần tranh chấp này càng ngày càng leo thang, biến tình hình đời sống tôn giáo trở thành phản chứng. Khích động tự ái, lợi dụng người có của, gây nên khoảng cách tâm lý giữa kẻ giàu người nghèo. Khích động tự mãn tự tôn, gieo nghi kỵ thù hận đối với những người không cùng quan điểm đạo đức và chính trị với mình, phải chăng đó cũng là những hình thức đi vào khuynh hướng tranh-chấp-hoá cuộc sống, và tranh chấp hoá đạo đức.
Hai là ta nên tích cực nắm bắt một khuynh hướng mới đang mọc lên, có tính cách đẩy lùi khuynh hướng tranh-chấp-hoá, đó là khuynh hướng hoà giải, hoà bình. Khi hát bài “Kinh Hoà Bình”, tôi thấy đó là tóm tắt Phúc Âm của hoà giải, hoà bình. Tôi khỏi cần nói thêm. Chỉ có một điều thiết tưởng nên nói, tuy nói lên sẽ không mấy hợp với tính tự ái chúng ta, đó là tôi có cảm tưởng rằng: Trong thời gian tới, cái khó lớn nhất xảy ra cho một số giáo đoàn, sẽ không do ngoại cảnh, mà sẽ do nội bộ gây nên. Bởi vì sẽ có những tranh chấp nổi lên. Thường lại là những tranh chấp giữa những người đạo đức. Nếu hôm nay không quen sống tinh thần hoà giải, hoà bình của Tám-mối-phúc-thật, với ý chí tuân phục thánh ý Chúa và làm chứng cho Chúa, thì khi bị thử thách, bất cứ do đâu, chúng ta sẽ không dễ trở thành dấu chỉ và dụng cụ của việc xây dựng, bảo vệ và phát triển sự bình an của Chúa Kitô.
***
Những chia sẻ trong ba bài nói chuyện của tôi, tuy chỉ là những chứng từ, nhưng khi được anh em đón nhận như những món quà tinh thần tôi thân tặng anh em trong tình huynh đệ, thì tôi tin rằng: Chúa Kitô đang ở giữa chúng ta. Thế là đủ rồi. Mọi sự rồi sẽ tốt đẹp.
Lời cầu chúc hôm nay tôi thân ái gửi tới anh em và các cộng đoàn là cầu chúc một mùa xuân nở rộ hoa Tân-Phúc-Âm-hoá. Bởi vì Tân-Phúc-Âm-hoá chính là phong cách của người linh mục đang đi về năm 2000. Tân-Phúc-Âm-hoá chính là vẻ đẹp đặc điểm của các cộng đoàn Hội Thánh tích cực đồng hành với một thế giới đang chuyển mình bước sang kỷ nguyên mới.
Long Xuyên, tháng 01/1993

 

Bùi-Tuần 1014: Xây Dựng Hội Thánh 05-07-2006

Hôm nay tôi muốn nhân dịp này tâm sự với anh chị em về việc xây dựng Hội Thánh trong một 05-07-2006 Bùi-Tuần 1014

Hôm nay tôi muốn nhân dịp này tâm sự với anh chị em về việc xây dựng Hội Thánh trong một họ đạo, trong một giáo hạt, trong một địa phận. Nhiều người nghĩ rằng để xây dựng Hội Thánh, việc cần hơn cả là xây dựng thánh đường, tổ chức các hội đoàn. Tôi nghĩ những việc đó cũng quan trọng nhưng không phải là việc cần thiết nhất. Mở Phúc Âm ra, nhất là Phúc Âm Thánh Matthêu, tôi thấy Đức Kitô xây dựng Hội Thánh bằng những yếu tố con người. Người để ý đến những thái độ tâm hồn sau đây, Người dùng những tâm hồn đó để xây dựng Hội thánh:
Thái độ thứ nhất đó là thái độ bé nhỏ. Người nói: “Nếu các con không trở nên giống như trẻ nhỏ, các con sẽ không vào được Nước Trời”. Để xây dựng Hội Thánh, Đức Kitô đòi mỗi người chúng ta dù ở chức vị nào, Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, mọi người đều phải giống như trẻ nhỏ. Tức là phải nhận biết mình nghèo nàn, hèn mọn trước mặt Chúa, và coi nhau như anh em cùng một Cha trên trời, biết cần đến mọi người và biết phục vụ mọi người.
Thái độ thứ hai là thái độ đón nhận. Đức Kitô dạy: “Ai đón nhận kẻ rốt hết đó là đón nhận chính Ta”. Với lời đó, Chúa dạy chúng ta phải biết đón nhận nhau, chấp nhận nhau và đặc biệt phải biết đón nhận những kẻ nghèo hèn, những kẻ yếu đuối, những kẻ dốt nát, những kẻ bị cuộc đời bỏ rơi. Giống như Cha trên trời, yêu thương tất cả, đón nhận tất cả.
Thái độ thứ ba là thái độ tìm kiếm. Đức Kitô nói đến đàn chiên 100 con, nếu chỉ một con đi lạc cũng phải tìm nó trở về, khi đã thấy nó, phải vác nó trên vai, về ăn mừng. Chúa quả quyết, tất cả trên trời đều vui mừng vì có một người đi lạc đã trở về. Đó là thái độ của một người cha giàu lòng thương xót đi tìm con của mình đi lạc.
Thái độ thứ bốn là thái độ sửa lỗi. Đức Kitô dạy: “Nếu trong cộng đoàn có ai sai lỗi thì bắt đầu phải sửa lỗi nhau kín đáo, rồi sao đó sửa nhau trong nhóm. Sau cùng mới đưa ra công khai trong cộng đoàn, nhưng luôn luôn với lòng kính trọng và tế nhị”. Cũng như Đức Kitô bây giờ đây đang nhìn thấy chúng ta, người lỗi này, người tội khác. Nhưng Đức Kitô rất tế nhị, rất kính trọng chúng ta, không làm mất thanh danh chúng ta.
Rồi thái độ thứ năm là thái độ tha thứ. Đức Kitô luôn luôn nhắc đến sự tha thứ: “Khi đến dâng lễ chợt nhớ mình còn bất hoà với ai, hãy trở về làm hoà rồi đến dâng lễ sau”. Không phải tha thứ mỗi ngày bảy lần, mà bảy mươi lần bảy. Nghĩa là vẫn thương xót tha thứ. Đó chính là thái độ xót thương, bao dung của Cha trên trời.
Và sau cùng là thái độ cầu nguyện chung. Đức Kitô nói: “Nếu trong anh chị em có hai người họp nhau cùng cầu nguyện thì Cha ở giữa các con”. Và Chúa hứa: “Cha sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa thương xót những người cậy tin vào Chúa. Và như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa hứa với những người quyết tâm theo Đức Kitô, chọn Đức Kitô là đường, nhận Đức Kitô là sự sống, là Đấng cứu độ, và dấn thân tuyệt đối cho Đức Kitô, thì những kẻ đó sẽ được Chúa đưa vào Nước Trời.
Với sáu thái độ trên đây, Chúa xây dựng Hội Thánh. Chúa dùng những tâm hồn đó như những dụng cụ để xây dựng Hội Thánh. Chúa dùng những chiều sâu ấy như những dây để ràng buộc Hội Thánh cho bền vững. Tôi nghĩ rằng một họ đạo, một giáo phận cho dù có tự do, cho dù có quyền lực, cho dù có của cải, nhưng nếu thiếu những tâm hồn có chiều sâu và những thái độ tôi vừa kể, thì Hội Thánh được xây dựng sẽ vẫn mong manh. Trái lại, dù ở một địa phương nào thiếu tự do, thiếu tiền bạc, thiếu tổ chức, nhưng nếu Hội Thánh có những tâm hồn mang chiều sâu và những thái độ như tôi vừa nói: bé nhỏ, đón nhận, tha thứ, đi tìm kiếm, cầu nguyện thì Hội Thánh đó sẽ vững bền.
Ở trước mặt tôi đây, tôi đang nhìn thấy không những các em sắp chịu phép Thêm Sức, mà tất cả cộng đoàn chúng ta. Chúng ta tất cả là những người rất bé mọn trước mặt Chúa, là những người được Chúa đón nhận, mặc dầu chúng ta yếu đuối lỗi lầm. Chúng ta là những người Chúa đi tìm về, vì nhiều lần chúng ta đã lạc lối. Chúng ta là những người đã được Chúa sửa lỗi bằng những tế nhị, bằng những kính trọng. Chúng ta là những người được Chúa thứ tha rất nhiều lần. Chúng ta là những người được cộng đoàn cầu nguyện cho. Chúng ta hôm nay đã biết nhìn nhau như là những công trình của Chúa. Tôi nghĩ rằng Hội Thánh được xây dựng bởi những tâm hồn bé nhỏ, bởi những người yếu đuối được trở lại, bởi những người làm chứng về sự Chúa yêu thương mình mặc dầu mình không xứng đáng. Đấy mới là những người cộng tác với Chúa để xây dựng Hội Thánh tại một họ đạo, tại một địa phận, tại một Giáo Hội địa phương.
Trong thánh lễ này, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã dùng chúng ta, những người tội lỗi, những người trở lại, những người yếu đuối như là những dụng cụ để xây dựng Hội Thánh và chúng ta quyết tâm trung thành với lời hứa và lời kêu gọi của Chúa. Amen.
+ GM G.B. Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1015: Xây Dựng Nước Trời 07-07-2007

Mt 16,13-19.
 

Hồi xưa Đức Giêsu Kitô bằng xương bằng thịt, sống giữa dân chúng nhiều năm, làm nhiều phép 07-07-2007 Bùi-Tuần 1015

Hồi xưa Đức Giêsu Kitô bằng xương bằng thịt, sống giữa dân chúng nhiều năm, làm nhiều phép lạ lẫy lừng, dạy nhiều điều giáo lý cao siêu và nhất là nêu gương sáng đời sống cao vời. Dân chúng đó đã được chuẩn bị từng bao nhiêu thế kỷ để có thể nhận ra Đức Kitô. Thế nhưng bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, người ta không nhận ra Đức Kitô, có người gọi Ngài là Gioan Tẩy giả tái sinh, người khác cho là Êlia hay Giêrêmia, cùng lắm Ngài là một tiên tri. Chỉ có thánh Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Nhưng khi vừa nghe lời tuyên xưng ấy, Đức Kitô đã nói ngay: “Điều con vừa tuyên xưng không phải do con, mà do Cha trên trời soi sáng cho con”.
Những chi tiết trên đây cho thấy dư luận quần chúng về Đức Kitô rất đa dạng, rất phức tạp. Nhưng có một điều đáng lấy làm lạ là Đức Kitô biết rõ tình hình như vậy, nhưng Ngài vẫn bình tĩnh, không nôn nóng gì, không làm một cái gì có tính cách gây áp lực, kể cả áp lực tâm lý, hầu giúp cho dân chúng tin nhận Ngài. Trái lại, Ngài vẫn bình tĩnh đồng hành với lịch sử đầy phức tạp, Ngài vẫn yêu thương mọi người trong lịch sử đó, Ngài vẫn phục vụ mọi người trong hoàn cảnh đa dạng đó. Có một điều còn đáng ngạc nhiên hơn, đó là để làm chứng Ngài là Đấng Cha trên trời sai xuống thế gian, Đức Kitô đã không dùng những cách mà người đời quen dùng như là: quyền lực, tiền bạc, phô trương. Trái lại, Ngài dùng một đời sống rất khiêm hạ: Ngài sống bé mọn như một kẻ thấp hèn nhất, Ngài phục vụ con người như kẻ đầy tớ, Ngài sống chan hoà, nghèo khó, khiêm tốn, đầy yêu thương tha thứ.
Tôi có cảm tưởng là mục đích xây dựng Nước Trời của Đức Kitô là để giúp con người thay đổi nếp sống, biết yêu thương nhau, biết sống khiêm nhường, biết sống cởi mở. Và với những đức tính đó, con người sẽ dễ đón nhận Nước Trời và đón nhận sự sống của Thiên Chúa là tình yêu. Và tôi có cảm tưởng rằng Đức Kitô, khi thấy những ai, mặc dầu không nhận biết Ngài vì vô tình, nhưng sống đời sống luân lý tốt đẹp, nhất là khiêm nhường, bác ái, thì Ngài nhận họ như là những kẻ đã thuộc về Ngài, đã ở trong tình thương của Ngài, đã được Ngài cứu độ. Và thực như vậy, Phúc Âm dạy rằng đến ngày phán xét, Đức Kitô sẽ phán xét mọi người, phân biệt kẻ lành kẻ dữ trên tiêu chuẩn bác ái mà thôi.
Với những nhận xét trên đây rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay, tôi đang nhìn cuộc lễ khánh thành nhà thờ Nhơn Mỹ. Tôi nhìn thấy nhà thờ này rất đẹp với những nét của nền văn hoá dân tộc. Tôi thấy bộ mặt trẻ trung của họ đạo với những nét mặt trẻ trung, năng động, cởi mở, với những giá trị trần thế chính đáng đem vào nhà thờ, vào cộng đoàn. Nhưng vẻ đẹp nhất, đẹp hơn cả, chính là những đức tính tốt trong lòng anh chị em. Đó là đức tính khiêm hạ, đức tính bác ái, đức tính yêu thương, chan hoà cởi mở. Tôi nghĩ đó là những cái đáng mừng nhất và sẽ tồn đọng bền vững. Đó cũng là những cái đang làm nên mùa xuân thiêng liêng, mùa xuân vĩnh cửu báo hiệu một Nước Trời đang đến trong tâm hồn chúng ta.
Tôi vui mừng một điều khác nữa là cung cách của anh chị em xây dựng cộng đoàn. Xây dựng một cộng đoàn bằng sự phát triển tình bác ái, chia sẻ trong nội bộ. Xây dựng cộng đoàn bằng cách mở cộng đoàn ra về phía địa phương do những liên hệ tốt, bác ái cởi mở. Xây dựng cộng đoàn bằng tinh thần hiệp thông, gắn bó với Đức Giám Mục giáo phận. Xây dựng cộng đoàn bằng cách chia sẻ trách nhiệm kẻ được sai đi với người có trách nhiệm trong giáo phận. Xây dựng cộng đoàn bằng bác ái dấn thân, bác ái chia sẻ, bác ái cởi mở, bác ái hiệp thông. Đó là những cái làm nên cộng đoàn và đó là yếu tố rất cần để làm cho cộng đoàn trở thành những ngọn lửa có sức làm cho sự sống của một họ đạo trở nên sáng, trở nên trẻ trung.
Tôi vui mừng vì lúc nãy, ông đại diện giáo dân đã nói lên nhận thức đó, khi ông nói rằng: Nhà thờ đẹp, nhưng nếu thiếu ánh sáng, thì sẽ thiếu tất cả. Đó là nhận thức rất đúng, sẽ đẩy mạnh việc xây dựng họ đạo trên những tính tốt, trong đó có đức ái là căn bản. Với tâm tình trên đây, tôi xin hợp với anh chị em tạ ơn Thiên Chúa. Tôi xin hợp với anh chị em để cám ơn tất cả những ân nhân xa gần. Tôi xin hợp với anh chị em để nhìn về tương lai. Tôi nghĩ rằng tương lai cần hơn hiện tại lúc bây giờ. Tương lai là ở hướng đi của họ đạo chúng ta biết phát triển đức ái, chia sẻ bao dung, cởi mở và dấn thân hiệp thông.
Xin anh chị em cùng với chúng tôi cầu nguyện thiết tha cho tương lai của họ đạo chúng ta được luôn vững vàng trong tay nhân từ của Đức Kitô và trong bàn tay yêu thương của Đức Mẹ Maria, bổn mạng họ đạo chúng ta. Amen.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1016: Ðức tin cần có việc làm kèm theo

Trong những tháng hè, các họ đạo thường tiến hành việc dạy giáo lý cho các em dọn mình Rước Lễ Bùi-Tuần 1016

Trong những tháng hè, các họ đạo thường tiến hành việc dạy giáo lý cho các em dọn mình Rước Lễ và Thêm Sức. Nhiều nơi tổ chức các buổi bồi dưỡng tu đức dành cho các bậc cha mẹ, và các giáo lý viên. Tại một số địa phương cũng sẽ có các tuần tĩnh tâm dài hạn dành cho các linh mục, tu sĩ và hội đồng giáo xứ.
Nhân dịp này, tôi xin góp ý về một vấn đề có liên hệ nhiều đến cách sống đạo hôm nay. Ðó là vấn đề: Ðức tin cần có việc làm kèm theo.
Lý do nêu lên vấn đề này, đó là vì nhiều người xem ra chỉ tin, mà không làm. Ðức tin của họ tách rời khỏi đời sống. Ðối với họ, tin có vẻ chỉ là chấp nhận những chân lý tôn giáo, chỉ cần thưa đúng các điều Hội Thánh dạy, chỉ cần thuộc kinh, thuộc giáo lý. Cũng không thiếu người, tuy có những việc làm kèm theo đức tin, nhưng những việc ấy thực ra không phù hợp với đức tin.

 Ðức tin cần có việc làm
Thánh Phaolô là Ðấng đề cao đức tin. Theo Ngài, ơn cứu rỗi đến với con người, nhờ tin vào Ðức Kitô, chứ không phải nhờ vào các công việc của con người. Nói thế, thánh tông đồ muốn dạy ta điều này: Ðức tin là ân huệ được ban cho ta từ thập giá Ðức Kitô, chứ không phải là kết quả của các công việc ta làm. Chủ ý Ngài khuyên ta đừng tự phụ về các công việc mình làm. Ngoài ra, thánh tông đồ cũng muốn an ủi những người yếu đuối. Ngài khuyên họ đừng mất hy vọng. Bởi vì sự cứu rỗi không phải là đặc ân chỉ dành cho những người ưu tú có khả năng làm nhiều việc tốt, nhưng là một ân huệ sẽ trao ban cho tất cả những ai, tuy dù yếu đuối, vẫn vững tin vào Ðức Kitô.
Nếu ai muốn tin theo thánh Phaolô, họ nên nhớ rằng: Ngài cũng rất quyết liệt đòi hỏi việc làm kèm theo đức tin. Thí dụ Ngài viết: “Hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, tiết độ” (Gl 5,22). Vô số việc phải làm.
Thánh Giacôbê càng quyết liệt hơn. Ngài quả quyết: “Người ta nên công chính bởi việc làm, chứ không phải bởi nguyên đức tin” (Gc. 2,24). “Ðức tin không có việc làm kèm theo là đức tin chết” (Gc. 2,26).

 Làm cần có sáng tạo
Làm là một cách tin. Nhưng làm gì?
Giáo lý chỉ nêu lên các chân lý vắn gọn. Các sách đạo thường chỉ đưa ra các gợi ý. Các giới răn chỉ vạch ra những giới hạn không được vượt qua và bổn phận phải làm. Có nghĩa là mỗi người đều được tự do sáng tạo trong việc áp dụng các giới răn, các gợi ý, các chân lý. Từ “sáng tạo” ở đây được dùng theo nghĩa rộng. Thí dụ Ðức Kitô dạy: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới là các con thương yêu nhau, như Thầy thương yêu các con” (Ga 15,12). Ðó là giới răn. Ðể thực thi giới răn ấy, tôi có thể bắt chước người này người nọ. Tôi làm theo kiểu rập khuôn. Và tôi cũng có thể sáng tạo ở chỗ chọn lựa sẽ làm việc gì, làm lúc nào, làm nơi nào, làm cách nào, làm cho ai.
Chúa muốn con người sáng tạo. Ðất còn được Chúa ban cho khả năng sản sinh cây cối hoa mầu. Ðó cũng là một cách nó sáng tạo. Phương chi con người.
Riêng nơi con người tin mến Chúa, đức tin và đức mến phải là những động lực mãnh liệt và phong phú thúc đẩy sáng tạo, để các liên hệ giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với con người được luôn trẻ trung, sinh động, nói lên sức sống của một Hội Thánh không phải chỉ là kẻ đứng canh giữ kho tàng đức tin, mà là một tuổi trẻ xuất hành, ra đi trên khắp các nẻo đường không biên giới, để chia sẻ niềm tin và hy vọng.
Thời nay, để tồn tại, để cạnh tranh, để phát triển, lãnh vực nào cũng đua nhau sáng tạo. Trong lãnh vực tôn giáo, cũng đang xuất hiện nhiều sáng tạo để diễn tả đức tin, để huấn luyện đức tin, và để truyền bá đức tin. Trong Tông Huấn “Christifideles laici” (CFL, 29), Ðức Thánh Cha nhắc tới nhiều sáng tạo đang mang lại nguồn sinh khí mới, tạo nên bộ mặt mới cho thời điểm mới của Hội Thánh. Chẳng hạn như các phong trào mới, các cộng đoàn mới. Họ khác nhau về hình thức bề ngoài, về diễn tiến hình thành, về phong cách, về phương pháp huấn luyện, về lãnh vực hoạt động. Nhưng tất cả đều trở về đời sống nội tâm sâu sắc, đồng thời lại rất dấn thân vào việc cứu giúp con người và nhân-bản-hoá xã hội.
Với những sáng tạo đa dạng càng ngày càng tăng, Hội thánh nhiều nơi đang chứng kiến một mùa xuân tân-Phúc-Âm-hoá nở rộ hoa trái, hứa hẹn một trời mới, đất mới.
 Sáng tạo theo mẫu gương Ðức Kitô cứu độ
Những sáng tạo ấy đều có tính cách Phúc Âm, phát xuất từ ý muốn bước theo Ðức Kitô, để đáp lại ơn gọi ban đầu: “Hãy theo Thầy” (Mc 1,17).
Ðức Kitô là Ðấng đã áp dụng về mình lời Cựu Ước xưa: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi. Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18).
Ðức Kitô là Ðấng đã nói về chính mình Ngài: “Con chồn có hang, con chim có tổ. Con Người không có nơi gối đầu” (Lc 9,59).
Ðức Kitô là Ðấng đã quả quyết: Ai làm phúc cho các kẻ bé nhỏ nhất, được kể như là làm phúc cho chính Ngài (Mt 25,31-40).
Ðức Kitô là Ðấng đã trối lại giới răn mới: “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới, là chúng con thương yêu nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 15,12).
Ðức Kitô là Ðấng đã sống nghèo, đã rất thương kẻ nghèo, đã chọn kẻ nghèo làm địa chỉ ưu tiên của sứ mệnh cứu độ.
Theo hướng đó, miệng Ngài đã nói, chân Ngài đã đi, và tay Ngài đã làm: Thường thường, Ngài nói là để cắt nghĩa các việc Ngài làm, các nơi Ngài đến, Ngài cứu độ bằng việc làm hơn là bằng lời nói và tâm tình.
Ðức Kitô dạy ta tin vào Ngài. Và Ngài muốn ta đầu tư đức tin ấy vào các việc làm. Ngài muốn ta diễn tả đức tin ấy bằng các hình thức đạo đức khôn ngoan, nhất là bằng việc sám hối trở về, ăn ở hiền lành, khiêm nhường, bác ái.
Chiều ngày 17 tháng 05, 1993 vừa qua, đài BBC, trong mục “Chuyện chúng mình” đã nói nhiều đến Mẹ Têrêsa. Mẹ là một nữ tu năm nay ngoài 80 tuổi, ốm đau, sống nghèo, suốt đời lo cho người nghèo. Hoạt động của Mẹ nay có mặt trên 105 nước. Theo đài BBC, Mẹ sống như thế, hoạt động như thế, chỉ vì Mẹ có một đức tin tuyệt đối đối với Thượng Ðế và một đức ái vô biên đối với con người.
Ðúng là một đức tin sáng tạo. Một đức tin mãnh liệt được phiên dịch ra một đức ái chan hoà. Nơi Mẹ, một nữ tu già, thế giới hôm nay đang chiêm ngưỡng dung nhan một Hội Thánh trẻ trung, phản ánh hình ảnh Ðức Kitô, đầy sức sống, rất dễ thương, chói sáng niềm hy vọng cứu độ vô biên. Những sáng tạo của Mẹ rất thông minh, trong sáng, phát xuất từ một nội tâm không ngừng được thanh luyện bởi sự cầu nguyện, hy sinh quên mình, và phó thác.
 Việc làm cứu độ đầy thông minh và trong sáng
Như Mẹ Têrêsa, những kẻ bước theo Ðức Kitô, Ðấng cứu độ loài người, cần biết đón nhận kế hoạch cứu độ Ngài dành cho bản thân họ, cũng như cần biết kế hoạch cứu độ Ngài dành cho nhân loại từng nơi và từng thời điểm.
Ðể biết cộng tác vào những kế hoạch cứu độ ấy, kẻ tin theo Ðức Kitô nên coi sự thông minh và trong sáng như những điều kiện quan trọng. Những việc sau đây sẽ giúp ta thực hiện phần nào những điều kiện ấy.
a) Cần thu thập nhiều dữ kiện có liên hệ đến đức tin để quan sát và phân tích tình hình
Các dữ kiện xảy ra trong lãnh vực có liên hệ đến con người, xã hội và dân tộc, đều thuộc về “vườn nho” Chúa sai ta chăm sóc. Ðức tin cần mở rộng tầm nhìn về các dữ kiện khách quan ấy. Sự hiểu biết hẹp hòi là một trong những nguyên nhân dẫn tới những nhận định chủ quan và những lựa chọn sai lầm. Và càng là sai lầm tai hại cho công việc đức tin, nếu ta chủ trương khép kín, trốn tránh các thực tại đụng tới sự tự ái ổn định của cá nhân ta và của tập thể của ta.
Ðọc nhiều, nghe nhiều, tiếp xúc nhiều, theo dõi nhiều, nghiên cứu nhiều, được nhiều người cộng tác, ta mới có được phần nào kinh nghiệm cần thiết về những tiến triển và những thất bại của Hội Thánh đó đây, cũng như mới thấy được những quan điểm khác nhau, và những nguy cơ trầm trọng đe doạ đức tin của mình và của cộng đoàn của mình.
b) Cần lượng giá tình hình có liên hệ đến đức tin, sau khi phân tích các dữ kiện

Lượng giá là việc của lý trí, của lương tri, và của đức tin. Có nhiều hình thức lượng giá. Nhiều nhận định, và gợi ý về một tình hình được kể như những lượng giá quý. Chẳng hạn, khi Ðức Thánh Cha chọn đề tài cho ngày hoà bình thế giới năm nay là: “Muốn có hoà bình, bạn hãy đến với những kẻ nghèo”, thì chọn lựa ấy là một gợi ý rất sâu sát về một tình hình thế giới đã được Ngài lượng giá một cách thông minh. Rồi, nhận định sau đây của Ðức Thánh Cha về tình hình quê hương Ngài: “Tình hình Ba Lan hiện nay đang nổi bật bởi những chia rẽ sâu rộng, những bất đồng và tranh chấp đủ thứ. Trước tình hình này, bổn phận quan trọng của Hội Thánh tại Ba Lan là hãy xây dựng sự hiệp nhất, sự thuận hoà, và hãy đánh thức niềm hy vọng đã quá suy yếu” (L'Osservatore Romano, số 7, 1993). Nhận định trên vừa là một lượng giá, vừa là một định hướng, sau khi phân tích các dữ kiện của một tình hình.
c) Cần thanh luyện nội tâm mình
Ðể có những việc làm đúng, những lựa chọn đúng, hợp thánh ý Chúa, ta còn cần phải có một nội tâm không ngừng được thanh luyện. Dưới đây là chương trình thanh luyện do thánh Phaolô chỉ dạy: “Tin vào lòng Chúa xót thương, tôi khuyên anh chị em hãy lấy bản thân làm lễ vật sống động, thánh thiện và tốt đẹp, mà dâng lên Chúa. Như thế là anh chị em thờ phượng Chúa một cách xứng hợp. Anh chị em đừng học đòi thế gian. Nhưng hãy biến đổi tâm trí anh chị em nên mới, để có thể hiểu biết ý Chúa và phân biệt điều hay lẽ phải, điều tốt đẹp, điều trọn lành” (Rm 12,1-2). Theo lời dạy trên đây, một tình hình đức tin sẽ được nhìn đúng, hợp cái nhìn của Chúa, bởi những ai biết sống tinh thần hiến tế, không học đòi thế gian, và có tâm hồn đổi mới về nhiều phương diện. Những người như thế cũng sẽ biết lựa chọn những việc làm hợp ý Chúa, để diễn tả đức tin và để truyền bá đức tin.
***
Những suy nghĩ trên đây cần đưa tới kết luận thực tế. Ðối với tôi, kết luận thực tế sẽ như sau:
Tại Việt Nam hôm nay đức tin người Công Giáo đang được diễn tả bằng nhiều việc làm đa dạng. Ðặc biệt là đọc kinh, đi lễ, làm tốt bổn phận, tu sửa nhà thờ, học hỏi giáo lý, làm việc từ thiện, xây dựng tinh thần hoà giải Phúc Âm. Các việc đó là cần là tốt.
Nhưng một việc khác nên được coi là trọng hơn hết, thuộc loại nhu cầu khẩn cấp Phúc Âm, cần được xếp vào hàng ưu tiên số một, đó là việc huấn luyện nhân sự và tái đào luyện nhân sự, khởi đi từ chính bản thân mỗi người tin Chúa, không trừ một ai. Cần huấn luyện và tái đào luyện toàn diện con người giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ, về mặt thiêng liêng, đến mặt văn hoá, đến mặt nhân bản và chuyên môn, để có một cái nhìn mới, một lương tâm mới, một sinh-khí mới, một khả năng mới, rất là Phúc Âm, rất là thời sự, đầy thao thức mới cả.
Trong giai đoạn mà đất nước chúng ta coi việc phát triển là mục tiêu chính, Hội Thánh tại Việt Nam nên làm chứng cho đức tin của mình qua những người sống đức tin có những việc làm kèm theo, đầy thông minh, trong sáng, biết tự phát triển mình và khả năng phát triển người khác theo đúng hướng. Huấn luyện và tái đào luyện nhân sự là một đòi hỏi cấp bách của đức tin tại Việt Nam hôm nay. Công cuộc ấy rất khó khăn, sẽ phải kéo dài trường kỳ. Nếu đến hôm nay, công trình ấy chưa được quan tâm đủ, thiết tưởng là đã muộn rồi. Tôi nghĩ rằng đầu tư cho con người, huấn luyện và tái huấn luyện bản thân cũng như các người mình có trách nhiệm, đó là việc làm của đức tin, mà mỗi người chúng ta sẽ phải trả lời trước mặt Chúa.
Long Xuyên, tháng 6/1993

 

Bùi-Tuần 1017: Gặp Gỡ Đức Kitô 18-07-2006

Gioan 15,1-8
 

Từ ít tháng nay, tôi được nghe nhiều ý kiến về việc xây cất nhà thờ mới và về việc khánh thành nhà 18-07-2006 Bùi-Tuần 1017

Từ ít tháng nay, tôi được nghe nhiều ý kiến về việc xây cất nhà thờ mới và về việc khánh thành nhà thờ mới. Thí dụ cách đây mấy ngày, một người từ thành phố Sàigòn xuống đây, sau khi viếng một nhà thờ ở gần đây đã nói: “Con chưa bao giờ thấy một ngôi nhà thờ mới mà lại mang hình ảnh kỳ cục như thế này, vừa nặng nề rườm rà, vừa lỗi thời, vừa tốn kém”.
Rồi cũng cách đây mấy tuần, một người từ xa, sau khi dự khánh thành một nhà thờ mới đã nói với tôi: “Nhà thờ mới này đúng là đẹp, khang trang, có thể nói là sang trọng. Nhưng mọc lên ở một địa phương hầu hết là dân ngoại túng nghèo, con sợ rằng sự nổi lên một nhà thờ quá sang như vậy giữa một xóm nghèo, có thể ngăn cản việc truyền giáo và sẽ trở nên phản chứng hơn là nhân chứng”.
Rồi một người khác, sau khi dự lễ khánh thành nhà thờ có nói với tôi: “Con cũng đã dự nhiều lễ khánh thành và con có cảm tưởng là, ít nơi đã có một tâm hồn biết tạ ơn Chúa bằng nơi này. Bởi vì con thấy, nhiều nơi tổ chức khánh thành nhà thờ mà xem ra mục đích chính không phải là tạ ơn Chúa, mà kiếm một cái gì lợi ích về tiền bạc hay về uy tín”.
Chỉ vài phát biểu đó cũng đã làm cho tôi nghĩ ngợi và đau lòng. Nhưng những nghĩ ngợi đó và những đau lòng đó đang được vơi đi, khi tôi đến nhà thờ bé nhỏ này. Tôi thấy nhà thờ bé nhỏ này được xây dựng một cách hợp thời và khiêm tốn, đúng theo nhu cầu của họ đạo. Tôi cũng đang thấy ngày lễ khánh thành nhà thờ bé nhỏ này được tổ chức trong một tinh thần đạo đức. Và điều làm tôi vui nhất là tinh thần đạo đức của anh chị em họ đạo bé nhỏ này đang ở trong bầu không khí mà bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh. Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến sự gắn bó với Đức Kitô và tập trung vào Đức Kitô: “Thầy là cây nho, chúng con là ngành”.
Tôi thấy sự gắn bó với Đức Kitô và tập trung vào Đức Kitô đang được thực hiện ở đây bằng nhiều cách. Tôi thấy khi bước vào nhà thờ này, chúng ta dễ được thu hút bởi Đức Kitô trong phép Mình Thánh. Tôi thấy ở đây, khi đọc các biểu ngữ, có những lời của Kinh Thánh. Khi nghe bài chào mừng lúc nãy của ông đại diện, tôi cũng nhận ra tinh thần tập trung vào Đức Kitô. Điểm tôi để ý nhiều nhất chính là tinh thần tham dự lễ đơn giản của anh chị em. Anh chị em đã tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa và như là đang gặp gỡ chính Đức Kitô.
Khi chúng ta có một tinh thần mong muốn gặp gỡ Đức Kitô để gắn bó với Người, để đi theo Người, để bắt chước Người, chúng ta sẽ thấy một Đức Kitô rất khác với một Đức Kitô mà nhiều người thường tưởng tượng. Chúng ta sẽ thấy một Đức Kitô tỏ uy quyền Người ra, không phải trong những nơi, những người quyền thế, mà trong những nơi, những người bé nhỏ, nơi những dụng cụ coi như hèn yếu. Chúng ta sẽ gặp một Đức Kitô đem ánh sáng vào, không phải cho những nơi đầy vinh quang rầm rộ, nhưng cho những nơi coi như đang bị bóng tối dày đặc. Chúng ta sẽ gặp một Đức Kitô tỏ vinh quang Chúa Cha không phải ở nơi những người chiến thắng thành công, nhiều tiền nhiều bạc, nhiều thắng lợi, mà ở những hoàn cảnh coi như bế tắc, coi như thất vọng, coi như tuyệt vọng. Đức Kitô tỏ vinh quang Thiên Chúa Cha ở những nơi đó. Và khi đồng hành với một Đức Kitô như vậy, những người truyền giáo như chúng ta sẽ thấy những kết quả lạ thường trong các tâm hồn. Những tâm hồn nghèo khó sẽ được Tin Mừng, những họ đạo nghèo khó, những cộng đoàn bé nhỏ sẽ được phát triển. Những nơi không có hy vọng phát triển nay được phát triển và chính những cái đó, sẽ là hoa trái làm sáng danh Chúa Cha như bài Phúc Âm hôm nay Chúa đã nói: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái và vinh danh Chúa Cha là chúng con sinh được nhiều hoa trái”.
Những thứ hoa trái mà tôi vừa nói tức là kẻ nghèo được loan báo Tin Mừng, những nơi nghèo khó, những nơi tuyệt vọng, những nơi bị bỏ rơi nay được Chúa đến viếng thăm và Tin Mừng phát triển. Đấy là những hoa trái làm vinh danh Chúa Cha như bài Phúc Âm hôm nay đã nói rõ. Khi nhìn họ đạo An Bình ở đây, tôi tự nhiên có cảm tưởng đây là một hình ảnh của Giáo Hội đang đi về thế kỷ XXI. Thế kỷ XXI, Hội thánh sẽ phát triển không phải ở những xứ lớn, không phải ở những nước lớn; mà sẽ phát triển ở những xứ nghèo, những cộng đoàn bé nhỏ, những nơi trước đây không được quan tâm. Và đặc điểm của Hội thánh năm 2000, năm thánh, là các cộng đoàn này trở về với Đức Kitô, gắn bó với Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô.
Lúc nãy ông đại diện giáo xứ có nói rằng, họ đạo anh chị em quyết trung thành với Hội Thánh. Tôi muốn cùng với anh chị em nói thêm rằng, chúng ta sẽ cùng với Hội thánh trung thành với Đức Kitô. Chính Hội thánh phải trung thành với Đức Kitô, chính Hội Thánh phải đi về với Đức Kitô và đó là hướng của Hội thánh năm 2000, thế kỷ XXI.
Giáo họ của anh chị em bé nhỏ, anh chị em đã được Chúa thương, qua nhiều thành công thấy được và âm thầm không thấy được. Chúng ta tạ ơn Chúa vì chúng ta là những dụng cụ rất bé nhỏ nhưng đã được Chúa dùng, Chúa thương.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta nhìn vào tương lai. Trong quá khứ Chúa đã thương chúng ta, thì trong tương lai chúng ta vẫn có quyền tin rằng Chúa vẫn thương. Lúc nãy chúng ta nghe Bài đọc nói: “Chúa trung thành với lời Chúa hứa, Chúa trung thành với lời giao ước”. Tôi tin rằng những người bé nhỏ như chúng ta khi tin vào Chúa, không bao giờ Chúa để chúng ta thất vọng. Hãy tin tưởng trong tâm tình tạ ơn. Amen.
+GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1018: MỘT DỊP ĐỂ NHÌN VỀ HỘI THÁNH VIỆT NAM HÔM NAY

20-08-2006
 

Hội nghị thường niên của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ diễn ra tại Huế, từ ngày 4 đến 8 20-08-2006 Bùi-Tuần 1018

Hội nghị thường niên của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ diễn ra tại Huế, từ ngày 4 đến 8 tháng 9, 2006. Những dịp trọng đại này đã kéo lòng trí tôi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam. Một Hội Thánh được lãnh đạo bởi Hội Đồng Giám Mục. Một Hội Thánh đang sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc. Cái nhìn của tôi sẽ rất hạn chế. Chỉ xin nêu lên vài nét chung, gợi ý chút ít về hình ảnh Hội Thánh Việt Nam hôm nay.
MỘT HỘI THÁNH PHÁT TRIỂN RẤT MẠNH VỀ XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC
Xây dựng những cơ sở mới, trùng tu những cơ sở cũ, đó là một trong những yếu tố làm cho Hội Thánh Việt Nam mang một bộ mặt mới. Thực ra, nhu cầu nói chung là chính đáng. Nhưng không thiếu người lại xem đó là dấu chỉ của một Hội Thánh giàu, hoặc phí phạm.
Thiết tưởng, đánh giá như thế là không đúng sự thực. Bởi vì không phải tất cả Hội Thánh Việt Nam hôm nay đâu đâu đều như thế cả. Hơn nữa, những người chủ trương làm đẹp Hội Thánh bằng việc xây dựng những cơ sở đẹp, thường cũng nhắm vào mục đích phục vụ lợi ích chung, hoặc cho nhu cầu hiện tại, hoặc cho nhu cầu tương lai.
Dầu sao, việc phát triển Hội Thánh bằng xây dựng những cơ sở vật chất đòi rất nhiều cân nhắc. Nên làm và nhiều trường hợp phải làm. Nhưng luôn cần được hướng dẫn bởi Phúc Âm và những người chuyên môn.
Cùng với việc phát triển cơ sở tôn giáo bằng cách nâng cấp theo đòi hỏi hiện đại hóa, Hội Thánh Việt Nam cũng đang phát triển về mặt tổ chức. Trong lãnh vực này, việc tổ chức các chương trình từ thiện xã hội và lễ lạy là một điểm nóng. Nhiều lễ lạy được tổ chức rất long trọng và sốt sắng. Nhưng nhiều lễ lạy lại được pha trộn một phần tinh thần và hình thức lễ hội.
Bầu khí tĩnh lặng, nơi chốn hồi tâm, điều kiện thuận lợi để con người hiện diện trước Chúa, những giúp đỡ để lắng nghe Chúa và đón nhận ơn Chúa, đó là những giá trị thiêng liêng, mà nhiều người kiếm tìm trong thánh lễ, nhưng không luôn tìm được. Mà nếu chính họ không tìm, thì đáng lẽ ra, thánh lễ phải được thực hiện thế nào, để có sức cải hóa con người hôm nay đang bị lôi kéo rất mạnh về những khát vọng thế tục. Những thực tế nhiều khi lại khác. Các thứ tổ chức phát sinh hiện nay khá nhiều, nhưng không thay thế được thánh lễ và bác ái.
Trên đây là lãnh vực phát triển cơ sở và tổ chức. Cùng với phát triển đó, có một phát triển khác cũng rất đáng để ý. Đó là phát triển trong lãnh vực nhân sự.
MỘT HỘI THÁNH PHÁT TRIỂN KHÁ MẠNH VỀ NHÂN SỰ
Nhân sự trước hết được hiểu rộng về mọi thành phần Hội Thánh.
•        Rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người lớn xin chịu phép rửa có tăng. Nơi tăng ít, nơi tăng nhiều.
•        Cũng rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người trước đây bỏ đạo nay trở lại cũng đã tăng nhiều.
•        Càng rất mừng là từ mấy chục năm nay, số người xin vào chủng viện và các dòng cũng tăng đáng kể.
•        Càng rất mừng là số các Linh Mục trẻ và Giám Mục trẻ cũng tăng. Riêng các Linh Mục trẻ mỗi năm mỗi tràn ra hầu khắp các Giáo Điểm, từ thành thị tới thôn quê, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên số Linh Mục cần có vẫn chưa đủ.
•        Rất mừng là số Giáo Dân tham gia việc chung Hội Thánh luôn tăng.
Trong xã hội Việt Nam hôm nay, nhân sự của Hội Thánh phải rất tỉnh táo trong bổn phận làm chứng mình thuộc về Hội Thánh. Theo tôi, thì cách tốt nhất để thuộc về Hội Thánh là một sự hiện diện có tính cách làm chứng cho các giá trị căn bản của đạo làm người, đạo làm người Việt Nam, và Lòng Tin Mến Chúa trên hết mọi sự.
Một sự hiện diện làm chứng như thế đang được áp dụng tốt tại Việt Nam hôm nay.
Nhưng, không vì thế mà chúng ta chủ quan cho rằng: Mọi sự trong hiện tại và tương lai đang và sẽ trôi chảy tốt đẹp như ta mong muốn. Hiện tại cũng có một số bỏ đạo đấy. Số người chểnh mảng và giữ đạo kiểu hình thức xem ra cũng không phải ít đâu.
Theo tôi, trong tương lai cũng sẽ có những chuyển biến và những bất ngờ như trong dĩ vãng. Hiện thời, xã hội đang chuyển mình. Tâm lý con người cũng đang chuyển biến theo một bậc thang giá trị khác xưa.
Trong Hội Thánh toàn cầu, nhiều nơi, đạo Công Giáo đang trở nên tốt hơn, nhưng nhiều nơi đang biến chất một cách thê thảm. Giữa dòng chảy mãnh liệt đó, nhân sự Hội Thánh Việt Nam sẽ ứng phó thế nào ? Liệu có đủ mạnh để làm chứng cho đời sống người môn đệ Chúa phải: "Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa" không ? ( Mt 16, 24 ).
Phải nói thật là: Xã hội hôm nay khuyến khích hưởng thụ. Hưởng thụ đang đi vào nếp sống người có đạo, cả đến đời sống tu trì. Ta có đủ sức và dám bơi ngược dòng văn hoá hưởng thụ không ? Người tu có thực sự nêu gương khó nghèo, cầu nguyện và dấn thân không ? Vì thế mà việc đào tạo đang trở thành khẩn thiết hơn bao giờ hết.
Nói đến đào tạo, tôi liên tưởng tới những ơn cần cho một Hội Thánh địa phương, đó là những đặc sủng khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban cho những nhân sự khác nhau.
MỘT HỘI THÁNH PHÁT TRIỂN KHÔNG RÕ LẮM VỀ CÁC ĐẶC SỦNG
Về vấn đề đặc sủng, chúng ta nên dựa vào lời giảng của thánh Phaolô. Ngài viết:
"Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí... Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi khác, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy. Người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin. Kẻ thì cũng được Thần Khí ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ. Người thì được ơn nói tiên tri. Kẻ thì được ơn phân định thần khí, kẻ khác thì được ơn nói tiếng lạ, kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ" ( 1 Cr 12, 4 – 10 ).
Đọc kỹ các đặc sủng, mà Thánh Phao-lô vừa kể, rồi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay, tôi xin thú nhận rằng: Tôi khó nhận ra từng đặc sủng đó nơi những cá nhân thường.
Nên tôi có cảm tưởng: Có lẽ tất cả các vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đều có đủ các đặc sủng đó, không nhiều thì ít. Nếu đúng thế, thì sẽ rất nặng cho các ngài biết bao. Gánh nặng đó là một vinh dự cao cả. Dù sao, đây cũng là một hy vọng lớn mà Dân Chúa đặt vào Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nói chung và từng vị Giám Mục nói riêng.
Chia sẻ trên đây của tôi là cái nhìn chủ quan của riêng tôi. Thực tế khách quan có thể khác. Dầu sao, đây cũng là một chút gợi ý của một người con Hội Thánh đã trải qua nhiều chuyển biến của lịch sử Đất Nước và Hội Thánh. Những chuyển biến mang rất nhiều hy vọng và cũng rất nhiều lo âu. Nhưng trong mọi chuyển biến, Hội Thánh Việt Nam ta vốn giữ trọn được lòng trung tín, nhờ ơn Chúa giàu lòng xót thương.
Gm. JB BÙI TUẦN, Giáo Phận Long Xuyên
 
 

Bùi-Tuần 1019: SỐNG TRONG THỬ THÁCH 04-10-2006

Vụ Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị thế giới Hồi giáo phản đối dữ dội là một sự kiện bất ngờ 04-10-2006 Bùi-Tuần 1019

Vụ Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị thế giới Hồi giáo phản đối dữ dội là một sự kiện bất ngờ. Nay khủng hoảng đó kể như đã lắng dịu.
Dù sao, cơn đau vẫn còn âm ỉ trong lòng Giáo Hội. Đối với một số người có lòng sùng kính Đức Mẹ, thì biến cố vừa qua được kể như một khởi đầu cho những chuỗi dài tai hoạ, mà Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima.

1/ Hướng suy nghĩ hợp lý
Tất nhiên, một biến cố thời sự có thể trở nên đề tài cho nhiều hướng suy nghĩ khác nhau. Là người sống đức tin, chúng ta nên chọn hướng suy nghĩ nào hợp với lịch sử cứu độ hơn cả.
Nếu đúng phải thế, thì chúng ta nên coi biến cố đau buồn vừa qua là một thử thách.
Chúa dùng thử thách này, để đánh thức lương tâm chúng ta. Đánh thức và gọi con cái Chúa hãy nhận ra rằng: Hội Thánh và thế giới hiện nay đang rất cần đón nhận ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc sẽ không thể tìm được ở đâu ngoài Chúa Giêsu trên thánh giá.
Mọi con cái Chúa đều được kêu mời bước theo Đấng Cứu thế. Hãy thông phần vào chương trình cứu chuộc của Người. Mỗi người mỗi cách. Nhưng cách nào cũng vẫn là con đường thánh giá.
Với suy nghĩ trên đây và với chút kinh nghiệm riêng tư, tôi chắc rằng:
a) Số người bị thử thách sẽ tăng
Họ là ai? Thưa nói chung là mọi người trên thế giới. Nhưng nhất là các đấng bậc và các thành phần ưu tú trong Hội Thánh. Nay người mai ta.
b) Các thứ thử thách sẽ tăng
Nếu ai hỏi tôi: Những thử thách đó sẽ cụ thể thế nào? Thì tôi chỉ xin nêu lên vài hình ảnh cụ thể nơi Chúa Giêsu xưa. Từ đó có thể đoán được bước đi của những người môn đệ Người, hôm nay và sau nay, tại đây và khắp nơi.

2) Những thử thách cụ thể
a) Buồn sầu sợ hãi
Phúc Âm thánh Luca thuật lại rằng: Tại vườn Cây Dầu, "Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện rằng: Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện đến tăng sức cho Người. Người lâm cơn xao xuyến sợ hãi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất" (Lc 22,41-44).
Có ai đã lâm vào cảnh buồn sầu sợ hãi y hệt cơn thử thách trên đây của Chúa Giêsu chưa? Điều đó chúng ta không biết. Nhưng tôi chắc nhiều người đã được nếm phần nào cơn cô đơn xao xuyến đó. Nhất là các vị mang trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên Chúa trao cho.
Các vị không ngừng thao thức tìm ý Chúa và cố gắng thực thi ý Chúa. Nhưng biết ý Chúa và thực thi ý Chúa để cứu các linh hồn là công việc không dễ dàng. Dù với thiện chí tới đâu, các vị nhiều khi cũng cảm thấy sợ hãi lo âu. Một sự sợ hãi lo âu đầy cô đơn. Cầu nguyện với Chúa, thì xem ra Chúa làm thinh. Muốn chia sẻ với bạn bè, thì chẳng biết ai đây. Một mình vật lộn với những buồn sầu sợ hãi, đó là một thử thách có thể đưa con người tới những hao mòn kiệt quệ. Nếu đó là ý Chúa, thì người môn đệ Chúa sẽ vượt qua, nhưng với vô vàn đau đớn, lặng thinh, triền miên, sâu thẳm.
b) Bị phỉ báng khinh chê
Phúc Âm thánh Matthêu, khi thuật lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đã ghi lại một chi tiết về sự người ta làm nhục Người: "Họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng ta nghe đi: Ai đánh ông đó" (Mt 26,67).
Chúa Giêsu là Đấng cực thánh, mà còn để cho người ta nhục mạ phỉ báng như thế. Đó là một giá để cứu chuộc nhân loại. Người đã đi trước làm gương cho các môn đệ của Người.
Như tôi, tội lỗi đầy mình, nếu phải chịu phỉ báng khinh chê đến mức nào, thì cũng đáng tội. Còn những người đạo đức, mà bị nhục mạ, thì đúng là bị thử thách.
Cách đây không lâu, tôi nhận được một cú điện thoại. Từ đầu dây, một giọng nói quát mắng: "Ông là giám mục hả. Làm giám mục để bao che mấy ông linh mục tội lỗi, mà không biết xấu hổ à. Ông chết đi cho rồi". Tôi biết đó là một giáo dân không xa lạ.
Với những lời đó, một cơn mây mù lạnh lẽo vô hình bao phủ tâm hồn tôi. Tôi nghĩ tới các giám mục, linh mục cũng đã và đang bị nhục mạ cách này cách nọ. Trong âm thầm, tôi cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ các ngài.

c) Vác thánh giá
Phúc Âm thuật lại rằng: "Quân lính điệu Đức Giêsu đi. Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Núi Sọ, tại đó họ đóng đinh Người vào thập giá" (Ga 19,16-18).
Nhìn Chúa Giêsu vác thánh giá và bị đóng đinh vào thánh giá, tôi tự hỏi: Chúa Giêsu không còn cách nào khác, để cứu chuộc nhân loại và tỏ bày sự hiến dâng trọn vẹn của Người sao? Tôi không dám nghĩ thay Chúa. Nhưng điều gì Chúa đã chọn thì phải kể là tốt nhất.
Chúa Giêsu đã chọn cho Người con đường thánh giá. Người cũng muốn các môn đệ của Người chia sẻ lựa chọn đó.
Ý thức như vậy, tôi nhìn thánh giá Chúa gởi đến là một thứ thuốc của tình thương cứu độ. Thánh giá của mỗi người là những khổ đau do nhiều yếu tố gây nên. Như những bệnh tật, những yếu đuối, những thiếu thốn, những giới hạn, những bất toàn, những vất vả do trách nhiệm, những lo âu do thông cảm, và muôn vàn khổ đau liên đới gặp trên đường đời.

d) Đổi mới chính mình qua thánh giá
Phúc Âm thánh Luca thuật lại lời Chúa Giêsu nói với hai môn đệ trên đường Emmau: "Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Lời Chúa phán trên đây đã, đang và sẽ giúp chúng ta tin tưởng: Chịu khổ hình thánh giá là một điều kiện để đổi mới mình ta và Hội Thánh ta. Nên coi đó là một vinh quang.
Chia sẻ trên đây của tôi rút ra từ tinh thần tháng Mười.
Một tháng Mười xưa có biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima với nhiều cảnh báo.
Một tháng Mười xưa có lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để nhớ lại sự Đức Mẹ đã cứu nhân loại khỏi cơn thử thách ngặt nghèo.
Một tháng Mười nay đang xảy ra nhiều tai hoạ khắp nơi và nhiều đổi mới rất phức tạp.
Xin Đức Mẹ giúp Hội Thánh và mỗi người chúng ta biết sống trong mọi thử thách với tinh thần tỉnh thức, phấn đấu, khôn ngoan, đặc biệt là biết cầu nguyện, sám hối, đổi mới mình, tuyệt đối phó thác mình trong tay Chúa giàu lòng thương xót.
+ GM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1020: TỔNG KẾT ĐỂ KHAI TRƯƠNG 21-01-2007

Thời gian tại Việt Nam lúc này là đầu năm dương lịch và cuối năm âm lịch. Thời gian này là Bùi-Tuần 1020

Thời gian tại Việt Nam lúc này là đầu năm dương lịch và cuối năm âm lịch.
Thời gian này là thời gian tổng kết. Tổ chức nào cũng tổng kết. Lớn thì tổng kết lớn. Nhỏ thì tổng kết nhỏ, đôi khi cũng lớn.
Nghe các bài tổng kết trên đài truyền hình, và đọc các tài liệu tổng kết trên các báo, tôi tự tổng kết lại thành một bài học chung và một bài học riêng.
Bài học chung là con đường chung dẫn tới việc đánh giá một năm qua của các tổ chức ban ngành. Con đường đó thường gồm 5 yếu tố:
1/ Nhìn tình hình chung,
2/ Nêu lên một vấn đề do trách nhiệm trao,
3/ Suy tư vấn đề đã nêu,
4/ Nhấn mạnh đến các hoạt động để giải quyết vấn đề.
5/ Đánh giá việc giải quyết dựa theo vài tiêu chuẩn được lựa chọn.
Bài học riêng rút ra từ mỗi tổng kết. Nó gồm 02 yếu tố:
1/ Trình độ thông minh của cái trí được diễn tả qua tổng kết.
2/ Mức độ đạo đức của cái tâm toát ra từ hồn của tổ chức tổng kết.
Qua những bài học rút ra từ các tổng kết trong thời gian qua, tôi thấy gợi lên trong tâm trí tôi một vấn đề quan trọng cho Hội Thánh Việt Nam của chúng ta.
Vấn đề quan trọng đó, là vấn đề đào tạo nhân sự cho thời kỳ mới
Tất nhiên, đào tạo vốn được Hội Thánh ta quan tâm trong bất cứ thời buổi nào. Nhưng, lịch sử không dừng ở một chỗ. Lịch sử Đất Nước chúng ta đã bước vào giai đoạn phát triển. Phát triển về nhiều mặt cao quý. Phát triển với tốc độ nhanh.
Trước tình hình này, Nhà Nước đang nhấn mạnh đến việc đào tạo. Các tôn giáo bạn cũng mở rộng việc đào tạo. Hội Thánh tại Việt Nam ta cũng đã nhận thức rõ, và đang đi sâu vào vấn đề đào tạo.
Để góp phần nhỏ vào công trình trọng đại này, tôi xin được nêu lên vài điểm, mà tôi cho là cần thiết. Mong mọi tín hữu có thể trở thành chứng nhân cho Tin Mừng trong giai đoạn phát triển này.
1/ Chăm sóc đời sống nội tâm sao cho đúng và sâu
Đời sống nội tâm căn bản là đời sống ta lãnh nhận khi chịu phép Rửa, để ta được nhận làm con Chúa, được chia sẻ sự sống của Chúa.
Nhưng, lúc đó, đời sống ấy mới chỉ như hạt giống. Hạt giống này cần nảy nở. Nó sẽ nảy nở nhờ sự ta hằng ngày biết lắng nghe Chúa, biết đón nhận ơn Chúa, biết cộng tác vào chương trình cứu độ, mà Chúa muốn nơi ta.
Nhờ ơn Chúa trong ta, ta sẽ sống cuộc đời ta như một hành trình đồng hành với Chúa Kitô. Nghĩa là sẽ trải qua những gian nan, thử thách, đớn đau, trước khi vào cõi phục sinh.
Nhờ đời sống nội tâm đúng và sâu, chúng ta sẽ biết phân biệt những giá trị tương đối, để luôn trung thành vào giá trị tuyệt đối là được có Chúa ở cùng.
Thời kỳ phát triển sẽ phát triển nhiều giá trị phụ thuộc. Nếu ta không cảm nhận được có Chúa trong ta là hạnh phúc tuyệt đối, thì ta sẽ dễ đổ hết công sức vào những hạnh phúc tương đối. Tất nhiên, ta không coi thường những giá trị tương đối. Nhưng những phấn đấu của ta cho những giá trị đó sẽ phải được đặt dưới sự hướng dẫn của Chúa, để mọi sự đều trong trật tự.
Rất nhiều người, vì không được hướng dẫn bởi đời sống nội tâm bền vững, nên đã có những lựa chọn sai lầm trong mục đích làm sáng danh Chúa. Họ thiếu sự tự do nội tâm. Nội tâm họ bị áp lực bởi nhiều thứ giá trị đạo đức ảo do trí vẽ, dư luận và ma quỷ tạo nên. Hiệu quả là họ sống trong thời phát triển, như con thiêu thân.
Người có đời sống nội tâm dồi dào, thì ngay sự hiện diện của họ cũng toả ra được luồng khí thiêng liêng, khiến những người thiện tâm xung quanh cũng có thể cảm thấy một sức mầu nào đó.
Chính vì thế, mà trong giai đoạn các giá trị đua nhau phát triển, chúng ta phải quan tâm rất nhiều đến việc đào tạo chính bản thân ta và mọi người thuộc về ta, sao cho có một đời sống nội tâm sâu sắc. Hy vọng nhờ vậy, chúng ta sẽ là men, là muối cho môi trường ta sống và phục vụ.
Ngoài đời sống nội tâm, thiết tưởng chương trình đào tạo cũng cần để ý đến việc phát triển khả năng đối thoại với các tôn giáo bạn.
2/ Trau dồi khả năng đối thoại với các tôn giáo bạn
Các tôn giáo bạn đang và sẽ phát triển mạnh tại Việt Nam. Quan hệ tốt với các tôn giáo bạn là một việc đạo đức nên được ta quan tâm đặc biệt.
Để những quan hệ đó đưa tới một kết quả chung, có lợi cho nhau và cho Đất Nước, thiết tưởng chúng ta cần có những chuẩn bị.
Ngoài phong cách tác phong chân thành, kính trọng trong đối xử, chúng ta đừng quên mở rộng tầm nhìn của ta đối với các giá trị của tôn giáo bạn.
Đã từ mấy năm nay, sức khoẻ không cho phép tôi đi thăm viếng các chùa chiền, thiền viện của Phật giáo. Nhưng qua các tin tức và hình ảnh trên đài, trên báo, tôi thấy Phật giáo Việt Nam đang phát triển mạnh và được đề cao về:
- Truyền thống đồng hành với dân tộc,
- Chăm lo việc từ thiện,
- Duy trì tính chất tu thân,
- Bảo tồn được nhiều di tích lịch sử có giá trị cao.
Một bạn độc giả "Công giáo và Dân tộc" mới gởi cho tôi hơn 40 cuốn sách Phật giáo với những đầu đề khác nhau. Tất cả đều được xuất bản sau năm 2000, do các nhà xuất bản trong Nước. Tôi mới đọc qua, và nhận thấy một nguồn sức mạnh tôn giáo đáng kính nể. Nó đang tiếp tục lan rộng, và có thể sẽ giữ một địa vị rất đáng kể trong văn hoá và đạo đức tại Việt Nam trong giai đoạn mới và mãi mãi sau này.
Tôi nghĩ: Biết người biết ta trên đường phục vụ là việc của lương tri lành mạnh.
Sau cùng, việc đào tạo nhân sự cho Hội Thánh Việt Nam thời phát triển cũng cần để ý đến việc đào tạo tài đức, có khả năng phục vụ Hội Thánh, và xã hội Việt Nam đang phát triển.
3/ Nâng cao khả năng phục vụ xã hội và Giáo Hội ở mọi tầng lớp
Người Công giáo Việt Nam tài đức ở trong nước và ở ngoài nước không phải hiếm. Nhưng cũng cần tăng thêm về chất lượng và số lượng. Cần nhất là gây được niềm tin. Sẽ đến lúc Công giáo Việt Nam phải tỏ mình có khả năng trả lời cho những tình thế cởi mở.
Từ mấy tháng nay, tôi thấy nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ mới với các tầng lớp xã hội. Thí dụ: Đi sâu vào tầng lớp dân nghèo, có mặt trong các sinh hoạt trí thức, phục vụ trong mọi lãnh vực như văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, kinh tế, y tế, chính trị. Trong Giáo Hội cũng vậy, nhiều tín hữu đã tích cực tham gia với tinh thần con thảo. Trong biến cố Đức Thánh Cha Benêđitô XVI bị Hồi giáo chỉ trích kịch liệt, tôi có viết thư nâng đỡ Ngài. Ngài đã trả lời với tâm tình ưu ái.
Trước lễ Noel vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có gọi điện thoại cho tôi, để chúc mừng lễ Giáng sinh và Năm mới. Tiện dịp, tôi có trao đổi với Ngài Thủ tướng vài nhận xét của tôi, như tình hình đạo đức trong nước, đời sống nông thôn, trách nhiệm của các phương tiện truyền thông, phong cách lãnh đạo của bản thân Thủ tướng. Ngài Thủ tướng rất cởi mở, lắng nghe.
Mấy sự kiện trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Thời mở ra và phát triển có nhiều cửa cho các mối tương quan phục vụ công ích. Vì thế mình phải chuẩn bị kỹ cả về cái trí cả về cái tâm.
Nhạy bén với tình hình này khiến Hội Thánh chúng ta phải chuẩn bị nhiều hơn trong việc đào tạo. Tình hình sẽ rất mới. Mỗi người chúng ta cần luôn tỉnh thức tìm thánh ý Chúa. Ta phải làm những gì Chúa sai ta làm. Ta phải đến với địa chỉ Chúa sai ta đến phục vụ. Đó là thực chất lương tâm trách nhiệm. Làm đúng việc, dấn thân đúng lúc, đó là điều Chúa chờ đợi nơi ta, như những cộng tác viên trung tín và khôn ngoan.
Trên đây là một cách tổng kết phương hướng của tôi trong năm cũ. Nó cũng trở thành một hướng để khai trương cho Năm mới Đinh Hợi. Khai trương này tôi dâng lên Chúa giàu lòng thương xót, và để chia sẻ với anh chị em, như quà đầu Xuân. Chứ trên thực tế, với sức lực mòn mỏi, tôi chỉ còn sống trong niềm phó thác mà thôi.
Xuân mới, xin cầu chúc cho Đất Nước và Hội Thánh Việt Nam một năm phát triển tốt, đặc biệt là trong lãnh vực đào tạo.
Long Xuyên, ngày 21  tháng 01 năm 2007
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 1021: MÙA CHAY TRONG TÌNH HÌNH MỚI 04-03-2007

Đất Nước việt nam đang có những chuyển biến mạnh và mau. Những ngày tết Đinh Hợi vừa qua Bùi-Tuần 1021

Đất Nước việt nam đang có những chuyển biến mạnh và mau. Những ngày tết Đinh Hợi vừa qua cho thấy một sự phân hoá giàu nghèo rất rõ. Đạo đức cũng chuyển biến theo chủ nghĩa tiêu thụ. Một lương tâm mới đang dần dần thay thế cho lương tâm truyền thống biết sợ bất cứ sự gì là tội.
Mùa Chay đã đến trong tình hình này. Mùa Chay nhắm mục đích đón nhận ơn cứu độ. Đón nhận bằng sự thành thực sám hối và trở về đàng lành.
Với ý thức như vậy, tôi xin chia sẻ mấy việc tôi thiết nghĩ là có thể giúp nhau sống mùa Chay này một cách hữu ích.
1/ Đừng vô cảm trước những mất mát coi như bình thường của xã hội và Giáo Hội
Không gì nguy hiểm trên đường đạo đức bằng lương tâm trở nên chai đá. Thường lương tâm trở nên chai cứng không một cách đột ngột. Nhưng nó biến đổi dần dần. Bắt đầu thì chai. Nếu không sửa, nó sẽ cứng. Cứng lâu, cứng thêm, nó sẽ thành đá. Một khi đã thành đá, thì mọi lời khuyên, mọi gương sáng, mọi biến cố xảy ra trên đời sẽ rất khó lay chuyển được lương tâm. Lúc ấy việc ăn  năn trở lại là vấn đề cực kỳ khó khăn.
Những kinh nghiệm như thế đã và đang xảy ra chồng chất.
Vì thế, xin hãy tỉnh thức gìn giữ lương tâm mình. Sao cho nó biết luôn nhạy cảm.
Cũng may là một số lương tâm còn biết rung động trước những đớn đau lớn và mất mát lớn xảy ra đó đây. Nhưng rất nhiều lương tâm xem ra vô cảm trước những đau đớn và mất mát coi như bình thường xảy ra xung quanh mình nơi tha nhân, trong xã hội và Giáo Hội. Xin trình bày một hiện tượng.
Dịp Tết vừa qua, tôi mới thấy rõ ở địa phương tôi có những chuyển biến đáng ngại:
- Bỏ quê đi nơi khác.
- Bỏ nghề cũ tìm nghề mới.
- Bỏ gia đình để kiếm sống.
- Bỏ nhà thờ do hoàn cảnh.
- Bỏ đạo hoàn toàn hay từng phần, vì cảm thấy không sao.
Nhiều người đau xót trước cảnh đó. Nhiều mục tử lo âu cho đoàn chiên và cho Giáo Hội. Bởi vì hiện tượng bỏ đi càng ngày càng vuột khỏi khuôn khổ lãnh đạo và lãnh thổ người mục tử. Lo âu đó là chính đáng. Đau xót đó là dấu chỉ tốt, khi nó phản ánh một đức ái sống động của người mục tử nhân lành.
Thiết tưởng hiện tượng trên đây sẽ còn gây thêm nhiều biến động, ảnh hưởng lớn đến đời sống luân lý nói chung và đời sống đức tin nói riêng.
Rất mong các lương tâm công giáo, đặc biệt là các lương tâm mục tử giàu khả năng nhạy bén sẽ để ý đến những biến động trên đây với tinh thần trách nhiệm cao.
Cùng với hiện tượng “ra đi” trên đây, lương tâm chúng ta cũng rất cần nhạy bén trước tương quan giữa đạo ta với các tôn giáo và dân tộc tại Việt Nam ta.
2/ Đừng tưởng chỉ có những tội ác lớn mới đưa xã hội và Giáo Hội đến tình trạng suy tàn, mà chính những tâm thức sai lầm được đồng thuận đã gây nên những tàn phá ghê gớm
Mọi tín hữu công giáo nói chung và các mục tử công giáo nói riêng chắc còn nhớ một thời xa xưa, công giáo ta rất tự hào. Hầu như mọi người công giáo đều xác tín rằng: Chỉ có đạo mình là duy nhất đúng, duy nhất thánh, duy nhất cứu độ. Từ cái tự hào đó đã nảy sinh ra một tâm thức xa cách các tôn giáo khác. Tâm thức đồng thuận này được gieo trồng và bảo vệ. Rồi xa cách gây nên khoảng cách. Nhiều nơi khoảng cách là môi trường dễ sinh ra xung đột.
Từ lâu nay, tại Việt Nam, những chuyện đó coi như được xếp lại thành quá khứ. Nhưng không nên chủ quan, cho rằng đạo Công giáo tại Việt Nam ta đã thực sự gần lại với các tôn giáo bạn và hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam, đồng thời hoàn toàn gắn bó với dân tộc.
Tết vừa qua, ngày nào trên các đài truyền hình cũng đưa những hình ảnh gọi là văn hoá cổ truyền Việt Nam. Nhiều dòng người niệm hương trước các anh hùng dân tộc, trước các người thời xa xưa có công khai phá thiên nhiên và dạy nghề để dân biết làm ăn sinh sống. Nhiều đoàn đi thăm và tặng quà cho các người bệnh tật, cô đơn, nghèo túng.
Đang khi đó, đạo Công giáo nhiều nơi vẫn cố gắng làm chứng cho Đạo bằng các việc từ thiện, tham gia việc chung xã hội và siêng năng lui tới nhà thờ.
Tuy nhiên, nói chung vẫn còn nhiều khoảng cách giữa đạo ta và và các tôn giáo bạn. Thậm chí có nơi vẫn chưa hội nhập được vào nhịp sống của dân tộc một cách hồn nhiên.
Những hiện tượng đó là có thực. Nhiều lương tâm công giáo đã nhận ra. Không thiếu các mục tử đã rất áy náy, khi được đức ái mục tử nhìn những hiện tượng đó là những vấn đề không đơn giản.
3/ Còn một vấn đề khác, mà lương tâm công giáo nói chung và lương tâm mục tử nói riêng rất cần nhạy bén, đó là vấn đề cạnh tranh thời nay
Thời nay, nói đến cạnh tranh là nói đến cạnh tranh về kinh tế, địa vị. Hiện tượng cạnh tranh để hơn người về quyền lực do kinh tế, địa vị là một nhu cầu không thể thiếu trong nền văn minh vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ.
Cạnh tranh một cách lành mạnh thì không nói làm gì. Nhưng cạnh tranh bằng những cách không đạo đức là điều đáng phải cảnh giác.
Tại Việt Nam hôm nay, phong trào cạnh tranh không lành mạnh cũng đang xuất hiện trong Đạo ta, trong mọi tầng lớp.
Nếu không tỉnh thức, thì sẽ hình thành hai Giáo Hội: Giáo Hội giàu của người giàu và Giáo Hội nghèo của người nghèo. Khẩu hiệu: “Phục vụ trong yêu thương” vẫn được đề cao. Nhưng trên thực tế, những áp dụng sẽ khác nhau, tuỳ theo giàu nghèo. Phần đông nghĩ rằng: Người này làm, thì người khác cũng làm. Rồi đâu đâu cũng làm. Nhất là khi vấn đề giàu nghèo đã trở thành bình thường: Nghèo thì phải thế, giàu thì được vậy, đâu đâu cũng đối xử theo cung cách đó. Hội Thánh xem ra làm thinh.
Nhưng những lương tâm sống thực chất Phúc Âm sẽ coi đây là một nguy cơ có sức làm hại đạo Chúa một cách chính thức và một cách rất độc hại.
Những điều tôi chia sẻ trên đây là rất chân thành. Với tuổi 80, tôi có một số kinh nghiệm tư riêng, và do đó cũng có một suy nghĩ lo xa cho Giáo Hội Việt Nam. Tôi tha thiết xin Chúa giàu lòng thương xót ban cho các mục tử lửa đức ái của Người. Chỉ với lửa đức ái Chúa Kitô, chúng ta mới dám cùng với Người đi vào sa mạc mùa Chay, để được Chúa thanh tẩy. Và rồi sẽ ra đi làm chứng cho Tin Mừng bằng những từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa giữa tình hình văn hoá hôm nay đầy phức tạp đối với đạo đức Phúc Âm.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 1022: THÁNH GIUSE và BA CON ĐƯỜNG 19-03-2007

GM. GB. BÙI TUẦN
 

Thánh Giuse là con người thinh lặng. Nhưng Ngài là thầy dạy nhiều nhân đức. Năm nay, mừng lễ 19-03-2007 Bùi-Tuần 1022

Thánh Giuse là con người thinh lặng. Nhưng Ngài là thầy dạy nhiều nhân đức. Năm nay, mừng lễ Ngài tại Việt Nam trong tình hình mới, tôi cùng với những kẻ mến Ngài
Thánh Giuse là con người thinh lặng. Nhưng Ngài là thầy dạy nhiều nhân đức.
Năm nay, mừng lễ Ngài tại Việt Nam trong tình hình mới, tôi cùng với những kẻ mến Ngài cùng nhau cầu nguyện và suy nghĩ. Chúng tôi khẩn khoản xin Ngài chỉ bảo cho biết điều gì, mà Ngài thấy là cần để ý nhất cho cuộc sống đạo hôm nay.
Tôi gẫm suy và giờ đây tôi mạo muội chia sẻ.
Tôi thấy cuộc sống thánh Giuse được chi phối bởi ba con đường.
Cuộc sống của thánh Giuse với ba con đường
1/ Con đường sinh sống của thánh Giuse
Đọc Phúc Âm, chúng ta nhận ra phần nào hình ảnh sinh sống của thánh Giuse.
Ngài đã sinh sống đúng như một người lao động bình thường. Ngài kiếm sống một cách cần cù với nghề thợ mộc. Ngài hoà nhã với xóm làng.
Ngài giữ luật Nước đi về Belem để đăng ký. Theo lệnh Chúa, Ngài mau lẹ đưa gia đình sang Ai Cập để lánh nạn. Cũng theo lệnh Chúa, Ngài đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trở về Galilê, định cư tại thành Nadarét. Ở đó Ngài lo cho gia đình một cuộc sống tương đối đầy đủ. Ngài được mọi người đồng hương coi là một người công chính.
Như vậy, con đường sinh sống của thánh Giuse kể là ổn định, bảo đảm được nhân cách cho tất cả gia đình.
2/ Con đường giữ đạo của thánh Giuse
Thánh Giuse đã thực hiện mọi điều luật đạo bấy giờ truyền dạy. Ngài để Chúa Hài Đồng chịu phép cắt bì, đúng ngày, đúng cách. Ngài đem Chúa Hài Đồng lên Giêrusalem để tiến dâng lên Thiên Chúa. Hằng năm Ngài cùng với Đức Mẹ và Chúa Giêsu trẩy hội đến đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua.
Con đường giữ đạo của thánh Giuse được coi là đúng đắn, trọn vẹn theo luật đạo.
Ngài kính trọng các hình thức luật đạo. Trong mọi hình thức đó, Ngài dâng lên Chúa tất cả tấm lòng tin cậy mến, tôn thờ tạ ơn Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân.

3/ Con đườg thiêng liêng của thánh Giuse
Tôi gọi con đường thiêng liêng của thánh Giuse là sự Ngài tin tuyệt đối Chúa Giêsu chính là con đường cứu độ nhân loại. Niềm tin này đưa Ngài vào sự sống mới. Ngài gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sự sống mới không ngừng thôi thúc Ngài từ bỏ mình, sẵn sàng chịu mọi sự khốn khó, để cộng tác vào chương trình cứu thế của Chúa Giêsu.
Con đường thiêng liêng này rất âm thầm, nhưng biến đổi toàn diện đời Ngài. Ngài sống cho ơn gọi đó. Hạnh phúc của Ngài là được đi trên con đường thiêng liêng cao cả ấy. Ngài biết con đường thiêng liêng này đòi Ngài phải tỉnh thức lắng nghe ý Chúa, khiêm tốn thực thi ý Chúa trong mọi sự, can đảm bỏ ý riêng. Nhưng nhờ ơn Chúa, Ngài đã trung thành với con đường này từng giây từng phút suốt trọn đời Ngài.
Cuộc sống thánh Giuse là đã đi theo ba con đường trên đây một cách hài hoà, với nhiều tỉnh thức và khôn ngoan, nhất là với đức ái quên mình.
Bây giờ, chúng ta thử nhìn vào chính mình và cộng đoàn ta, để xem cuộc sống hiện nay của ta có giống cuộc sống của thánh Giuse không.
Cuộc sống của chúng ta với những con đường
1/ Con đường sinh sống của ta
Ta phải sống. Nên ta lo chọn một con đường để sinh sống, sao cho an cư lạc nghiệp. Nỗi lo đó là chính đáng. Nhưng trên thực tế hôm nay, đang xảy ra nhiều điều đáng ngại. Có những người lười biếng, không phấn đấu làm ăn lương thiện. Lại có những người chạy theo con đường sinh sống với nhiều tham vọng không chính đáng. Được cái này lại muốn thêm cái kia. Ngày đêm bơi lội trong những bận tâm về của cải và danh vọng.
Phong trào hưởng thụ và cạnh tranh kinh tế đang thúc đẩy con người dốc hết sức mình vào hiệu năng vật chất. Xa xỉ kéo theo xa xỉ. Phí phạm đòi thêm phí phạm.
Tham vọng không biên giới. Hưởng thụ không có chỗ dừng. Nhiều điều lừa dối ta. Nhưng lại nói là để phục vụ cuộc sống. Do đó, rất nhiều người không còn để tâm đến việc đạo.
2/ Con đường giữ đạo của ta
Thực ra, phần đông còn giữ đạo. Nhưng biết bao người giữ đạo cho có lệ. An tâm với hình thức. Bỏ nhiều điều căn bản. Nhất là lỗi phạm đức ái một cách ngon lành.
Đáng ngại nhất là người trong đạo bị dụng-cụ-hoá, để cho ma quỷ tự do lôi kéo vào những chương trình đen tối, gây nên gương mù gương xấu.
3/ Con đường thiêng liêng của ta
Nếu tôi không lầm, thì con đường thiêng liêng hiện nay đang bị nhiều cộng đoàn coi rất nhẹ. Con đường thiêng liêng, mà thánh Giuse đã tha thiết trung thành là sống mật thiết với Chúa Giêsu, luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Con đường ấy trước đây đã được nhiều giáo dân, nhất là nhiều tu sĩ giáo sĩ nêu gương. Nhưng nay mẫu gương đời sống khó nghèo, chiêm niệm, cầu nguyện, hy sinh, khổ hạnh đang có nguy cơ trở nên khan hiếm.
Hiện nay, cơ sở đạo ta được mở mang hơn. Tổ chức đạo ta được tưng bừng hơn. Nhân sự đạo ta được tăng số hơn. Thiết tưởng, tất cả sẽ tốt hơn,
nếu con đường thiêng liêng cũng được phát triển sâu rộng, nhất là nơi những người tu, đặc biệt là nơi các đấng bậc trong đạo.
Phần đông chúng ta tưởng rằng: Vấn đề giải phóng con người tuỳ thuộc ở vấn đề tăng trưởng kinh tế, thay đổi cơ chế xã hội, tự do tín ngưỡng. Thiết nghĩ đó chỉ đúng một phần. Theo tôi, yếu tố quan trọng để cứu độ con người và thế giới vẫn là con đường thiêng liêng. Thánh Kinh dạy như thế. Kinh nghiệm lịch sử  minh chứng điều đó. Tại Việt Nam, nhiều nơi đạo coi như đang lên, nhưng thực sự đang xuống, vì bỏ con đường thiêng liêng.
Xin thánh Giuse thương dẫn dắt mỗi người chúng ta đi đúng những con đường mà Chúa muốn, nhất là biết tha thiết với con đường thiêng liêng cứu độ, mà xưa Ngài đã gắn bó.
Xin thánh Giuse chia sẻ đức ái của Ngài một cách đặc biệt cho các gia trưởng, và một cách đặc biệt hơn nữa cho các mục tử tại Việt Nam hôm nay.

 

Bùi-Tuần 1023: XIN VÂNG GIỮA CÁC BI KỊCH 25-03-2007

Gần đến lễ Truyền tin cho Đức Mẹ. Yếu tố quan trọng về tu đức trong lễ này là Đức Mẹ nói 25-03-2007 Bùi-Tuần 1023

Gần đến lễ Truyền tin cho Đức Mẹ. Yếu tố quan trọng về tu đức trong lễ này là Đức Mẹ nói lời "Xin vâng" (Lc 1,38).
Cũng sắp đến những ngày tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Yếu tố quan trọng về tu đức trong cuộc tưởng niệm này cũng là lời Chúa Giêsu cầu nguyện "Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,42).
Như vậy, Chúa Giêsu và Đức Mẹ cùng đã xác định ơn gọi của mình là xin vâng thánh ý Chúa Cha.
Lời "xin vâng" của hai Đấng là một định hướng rất rõ ràng và quyết liệt.
Rõ ràng ở chỗ quyết tâm từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Chúa Cha.
Quyết liệt ở chỗ sẵn sàng phấn đấu để trung thành với ý Chúa Cha, mặc dầu phải đối đầu với thử thách.
Đường tu đức, mà hai Đấng đi qua, đã để lại nhiều kinh nghiệm mà tôi gọi là bi kịch.
Tôi thường nhìn vào những cảnh đó, để biết sống ơn gọi xin vâng của tôi.
1/ Cảnh đổi thay của lòng dân
Khi Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời rao giảng công khai của Người, Người đã chọn Nadarét là chính quê hương Người. Ngay trong bài giảng đầu tiên, ban đầu "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4,22). Nhưng đến cuối bài "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực" (Lc 4,28).
Tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu thế đã đánh dấu bằng sự thay đổi lòng dân từ thiện đến ác một cách kinh hoàng.
Đầu tuần, đông đảo dân chúng đón Chúa Giêsu một cách long trọng tự phát: "Người tới đâu, người ta cũng lấy áo mình trải xuống đường... Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao. Vinh quang trên các tầng trời" (Lc 19,36-38).
Chỉ mấy ngày sau, trong sân tổng trấn Philatô, đám đông lại la ó: "Giết nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá" (Lc 23,18-20).
Những thay đổi khủng khiếp trên đây của lòng dân là những bi kịch, Chúa và Đức Mẹ đã nếm. Các Ngài vượt qua một cách bình tĩnh, để chỉ tìm vâng phục ý Chúa Cha.
2/ Sự lạm dụng của nhà cầm quyền
Hồi đó, nhà cầm quyền trong đạo là các thượng tế, kỳ lão và kinh sư. Họ thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ cứu dân thì tìm cách bắt bẻ, buộc tội. Chỉ vì ghen tức (x. Mt 26,3; 59-60).
Nhà cầm quyền trong xã hội lúc bấy giờ là quan Philatô, dù biết Chúa Giêsu là người vô tội, bị giáo quyền trao nộp chỉ vì ác ý, nhưng không dám tha, do động cơ mị dân, sợ đụng chạm, mất quyền (x. Mt 27,24).
Những lạm quyền này cũng là những bi kịch, Chúa và Đức Mẹ đã chịu đựng và vượt qua, để một mực đi về thánh ý Chúa Cha.
3/ Những suy nghĩ chủ quan của những môn đệ thân tín
Phúc Âm nói rõ là Chúa Giêsu đã nhiều lần nhiều cách mạc khải cho các môn đệ thân tín của Người về kế hoạch cứu độ của Người. Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sau cùng sẽ bị chết nhục nhã trên thánh giá. Rồi mới phục sinh (x. Mc 10,32-34).
Tuy được cắt nghĩa rõ, các môn đệ vẫn chủ quan, coi như việc đó sẽ xảy ra nhẹ nhàng. Các ngài tỏ ra không quan tâm lắm. Thậm chí người đứng đầu nhóm môn đệ thân tín là thánh Phêrô còn tỏ thái độ phản đối, như một dấu chỉ hợp lý, hợp tình. Tới những giây phút cuối cùng, Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu cầu nguyện trong sự sợ hãi kinh hoàng, các môn đệ vẫn an tâm ngủ. Khi chợt thấy cảnh bi đát xảy ra, các ngài đã bỏ trốn. Thậm chí có người còn chối bỏ Thầy mình (x. Mc 14,32-49).
Tính chủ quan dại dột trên đây của các môn đệ Chúa Giêsu là một bi kịch, gây xót xa vô vàn cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nhưng hai Đấng đã ôm vào lòng như một thánh giá tinh thần. Hành trình đi theo thánh ý Chúa Cha cũng vì thế mà thêm cay đắng. Nhưng các Đấng đã vượt qua, để tuân theo ý Chúa Cha đến cùng.
4/ Sự quyến rũ độc ác của tiền bạc
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu tuy chủ yếu gây nên do lòng ghen ghét của tầng lớp nắm quyền lực tôn giáo bấy giờ. Nhưng nó đã được thực hiện nhờ vai trò tiền bạc. Chính Giuđa, người mà Chúa Giêsu chọn làm quản lý, đã bị tiền bạc quyến rũ. Không ngờ sức quyến rũ của tiền bạc lại quá mạnh, đến nỗi đã khiến Giuđa bán Thầy mình chỉ với giá 30 đồng bạc (x. Lc 22,1-6).
Tiền bạc đã đổi lòng dạ người môn đệ Chúa tuyển chọn một cách quá dễ dàng. Bi kịch này rất thê thảm. Tâm hồn Chúa Giêsu và Đức Mẹ chắc đã rất đau xót khi chạm tới nó. Nhưng các Đấng vẫn vượt qua, để đi về thánh ý Chúa Cha.
5/ Sự khác biệt giữa ý riêng và ý Chúa Cha
Đức Mẹ có ý riêng, Người đã có lúc tỏ ra mình phải phấn đấu bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa (x. Lc 2,48).
Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu đã phấn đấu đến đổ mồ hôi máu ra, để bỏ ý riêng, quyết tâm chọn ý Chúa Cha (x. Mt 26,42).
Trên đây, tôi chỉ nêu lên một số yếu tố thường gây ảnh hưởng đến ơn gọi xin vâng của ta, đó là:
- Sức mạnh của lòng dân,
- Sức mạnh của những người cầm quyền,
- Sức mạnh của những người thân tín,
- Sức mạnh của tiền bạc,
- Sức mạnh của tính tự nhiên trong ta.
Những yếu tố trên đây đôi khi khoác bộ mặt đạo đức, bộ mặt ngây thơ, bộ mặt vô tư. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rất nhiều trường hợp, những yếu tố ấy thiếu nền đạo đức trong sáng bền vững. Hơn thế nữa, chúng lại dễ bị ma quỷ và các trào lưu tội lỗi lợi dụng, để biến xã hội và Giáo Hội trở thành sân khấu của những bi kịch. Bi kịch lớn nhất là sống giữa nhiều bi kịch mà vẫn nhởn nhơ, không nhận ra được nguy hiểm.
Những ai sống ơn gọi xin vâng nên biết rõ tình hình đó đang xảy ra hiện nay xung quanh ta và có thể là nơi chính mình ta. Hãy khiêm tốn tỉnh thức, cầu nguyện, tìm ánh sáng và sức mạnh nơi lời xin vâng của Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
Với ánh sáng và sức mạnh ấy, chúng ta sẽ phân biệt rõ đâu là thánh ý Chúa thực sự, đâu là thánh ý Chúa giả tạo. Đồng thời chúng ta cũng sẽ biết tìm nương tựa vào đâu để trung thành với ơn gọi xin vâng, chứ không tìm điểm tựa ở những thế lực mong manh, nhiễu nhương, cơ hội.
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 1024: CÔ ĐƠN và TĨNH MẠC 8-04-2007

Từ ít lâu nay, trong Hội Thánh Công giáo đã xuất hiện một phong trào tu đức nhằm vào sự cô 08-04-2007 Bùi-Tuần 1024

Từ ít lâu nay, trong Hội Thánh Công giáo đã xuất hiện một phong trào tu đức nhằm vào sự cô đơn.
Phong trào này đào tạo nên những con người:
1/ Coi sự cô đơn của Chúa Giêsu là một yếu tố quan trọng của thân phận Đấng cứu thế được sai vào đời.
2/ Quan tâm cách đặc biệt đến những người cô đơn trong xã hội và Giáo Hội.
3/ Biết dùng bất cứ cảnh cô đơn nào xảy đến cho chính mình, để thêm cậy tin và phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót.
4/ Biết phân biệt cảnh cô đơn không cần thiết và cảnh tĩnh mạc cần thiết cho việc đạo đức.
Với mấy nhận thức trên đây, tôi xin kính mời mọi tín hữu nói chung và mọi môn đệ được gọi vào chức thánh nói riêng, hãy nhìn vào Chúa Giêsu của tuần thánh. Hãy ngắm nhìn kỹ và suy nghĩ thực sâu, để chia sẻ đôi chút tâm tình của Người. Bởi vì cô đơn và tĩnh mạc đang và sẽ là vấn đề lớn cho ta và cho cộng đoàn của ta.
1/ Sự cô đơn của Chúa Giêsu
Trong tuần thánh, cảnh nổi bật vây phủ Chúa Giêsu là cảnh cô đơn.
a) Quần chúng trước đây tung hô Người, nay quay lại nguyền rủa Người thậm tệ. Sự thay lòng đổi dạ đó đã gây cho Chúa Giêsu một sự cô đơn đầy sát khí. Nó đổ trên Người những bất hiếu, bất trung, vô ơn, độc ác.
b) Sự cô đơn của Chúa Giêsu do quần chúng gây nên lại càng nặng thêm do thái độ các môn đệ thân tín bỏ rơi Người. Kẻ thì bán Người, kẻ thì bỏ mặc Người bị bắt, kẻ thì chối Người.
c) Sự cô đơn của Chúa Giêsu càng trở nên bi đát, khi Người bị xét xử trước toà đạo, toà đời hồi đó. Những kẻ được nắm quyền do ơn trên, nay lại dùng chính quyền đó để kết án Người với sự hãnh diện của thứ đạo đức giả sành nghề.
d) Sự cô đơn coi như đẩy Chúa Giêsu xuống vực thẳm sâu nhất chính là khi Người cảm thấy như mình bị Chúa Cha từ bỏ. Chính Chúa Giêsu đã thốt lên một lời diễn tả nỗi khổ đó: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Người bỏ rơi con" (Mc  15,34).
2/ Sự tĩnh mạc của Chúa Giêsu
Khi Chúa Giêsu bị các nỗi cô đơn đè nặng trên mình, Người đã đối phó bằng sự đi vào cõi tĩnh mạc.
Trước hết là tĩnh mạc địa lý. Người đi vào vườn Cây Dầu là nơi vắng vẻ. Khi cầu nguyện, thì chỉ đi với ba môn đệ. Nhưng rồi Người cũng không cùng với ba môn đệ cầu nguyện chung. Người cầu nguyện một mình ở một chỗ tĩnh mạc, xa ba môn đệ.
Trong tĩnh mạc địa lý, Chúa Giêsu đi sâu vào tĩnh mạc nội tâm. Sự tĩnh mạc này giúp Người cầu nguyện, thêm sức cho Người được chịu mọi đau khổ về thể xác và tinh thần.
Sự tĩnh mạc nội tâm này đã được nhận thấy ở sự rất ít nói của Chúa Giêsu, khi bị nhục mạ, bị vu khống, bị kết án. Ban đầu, Người còn trả lời vắn tắt những câu tra vấn. Sau đó, Người trả lời bằng sự im lặng. Trên thánh giá, Người chỉ nói mấy lời với nội dung yêu thương đối với loài người, và phó thác đối với Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).
Trong sự cô đơn và tĩnh mạc nội tâm, Chúa Giêsu đã rất quan tâm đến những người khác bằng tình yêu thương.
3/ Sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những cảnh cô đơn
a) Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã an ủi  các môn đệ Người "Thầy không để các con phải mồ côi" (Ga 14,18). "Thầy để lại bình an cho các con. Bình an mà Thầy ban cho các con không giống bình an mà thế gian ban tặng" (Ga 14,27). "Nếu Thầy không đi, Đấng Bảo trợ sẽ không đến với các con. Nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con" (Ga 16,7). Hơn nữa, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh, để ở lại với nhân loại một cách gần gũi đầy an ủi.
b) Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã nghĩ tới cảnh cô đơn của mẹ Người. Nên Người đã trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, và trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và nhân loại.
c) Trên thánh giá, Chúa Giêsu thấy rõ cảnh con người bị tội lỗi xiềng xích là cảnh cô đơn đáng phải sợ nhất, nên Người đã xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ làm khổ Người, đặc biệt là Người nhận lời kẻ trộm chịu đóng đinh bên hữu Người. Ông sẽ được cùng Người vào chốn trường sinh.
Trên đây là vài chia sẻ vắn tắt cho một vấn đề đã xưa, nhưng hiện đang là thời sự chi phối bầu khí đạo đức trong xã hội và trong Giáo Hội.
Thực vậy, theo các nhà khảo sát xã hội và quan sát tình hình tôn giáo, thì hiện nay:
1/ Số người rơi vào cảnh cô đơn càng ngày càng đông.
2/ Số người bị loại trừ cũøng đang có chiều hướng gia tăng.
Cảnh cô đơn và cảnh bị loại trừ diễn ra ngay trong gia đình, trong các cộng đoàn xã hội, cả trong những cộng đoàn tôn giáo.
Động cơ đẩy người ta vào cảnh cô đơn và loại trừ càng ngày càng phức tạp.
Nếu chúng ta không tỉnh thức và cầu nguyện, thì cảnh cô đơn và loại trừ sẽ phát sinh và phát triển mạnh trong Hội Thánh Việt Nam ta. Đang khi đó, cảnh tĩnh mạc sẽ lại bớt đi. Lỗi phần nào là do các phong trào không lành mạnh trong xã hội, nhưng cũng một phần do chính những nhẹ dạ hoặc ác ý của một số thành phần thuộc nội bộ Giáo Hội ta.
Xin nhớ rằng: Ác quỷ Satan rất khôn khéo trong việc phá Hội Thánh Chúa. Phá dưới mọi hình thức. Hiện nay hình thức Satan ưa dùng, là gây nên cảnh cô đơn và loại trừ trong chính nội bộ, đang khi đó chúng lại gây nên cảnh náo động hướng ngoại, thay cho tĩnh mạc cầu nguyện. Nếu đúng như vậy,  thì vấn đề chúng ta nên để tâm nhiều hơn trong tu đức là hãy đón Chúa Giêsu chịu tử nạn vào tâm hồn ta.
Khi Người là sự sống của ta, thì chính Người sẽ đổi mới ta. Nhờ Người, ta sẽ biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ nắm được một phần nhỏ của các sự thực, để ta sẽ sống bé nhỏ trong việc góp phần xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh có nhiều khác biệt, trên đường hành hương nhiều khi cô đơn và tĩnh mạc.
Dù cô đơn, dù tĩnh mạc, chúng ta tuyệt đối phó thác cuộc đời chúng ta nơi Chúa tình yêu. "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).
+ Gm. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 1025: XỨC DẦU THÁNH 30-04-2007

Đức Cha Giuse yêu cầu tôi giảng thánh lễ hôm nay, ngày 30/4/2007, vì lễ hôm nay là kỷ niệm 30-04-2007 Bùi-Tuần 1025

Đức Cha Giuse yêu cầu tôi giảng thánh lễ hôm nay, ngày 30/4/2007, vì lễ hôm nay là kỷ niệm 32 năm tôi thụ phong giám mục.
Tôi xin vâng. Nhưng những gì tôi nói trong thánh lễ này sẽ là bài chia sẻ hơn là bài giảng. Nội dung chia sẻ gồm 3 phần vắn tắt:
1- Ấn tượng sâu đậm nhất của tôi trong lễ thụ phong giám mục.
2- Cảm nghiệm sâu sắc nhất của tôi trong suốt đời giám mục.
3- Thao thức sâu lắng nhất của tôi trong sứ mạng giám mục.
Trước hết về ấn tượng sâu đậm nhất tôi nhận được trong lễ thụ phong giám mục
Ấn tượng
Ấn tượng đó xảy ra khi được Đức Cha Micae xức dầu thánh cho tôi.
Lúc đó, tôi nhớ đến lời Kinh Thánh xưa: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi" (Lc 4,18).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì dầu thánh nói đây ám chỉ một ơn riêng làm toả hương thơm tình yêu Chúa.
Lúc ấy sự hiểu biết đó chỉ thoáng qua đầu óc tôi, nhưng đủ gây trong tôi ấn tượng này: Tôi được sai vào một hoàn cảnh rất mới, rất khó, để toả hương thơm tình yêu Chúa.
Tôi biết sứ mạng thiêng liêng đó vượt quá sức tôi, vì tôi quá yếu đuối, nên tôi phó thác tương lai tôi cho Chúa. Phó thác đơn sơ, phó thác tuyệt đối. Phó thác không có nghĩa là sẽ không làm gì, nhưng sẽ là cố gắng hết sức mình để đón nhận ơn Chúa.
Đón nhận bằng cầu nguyện, bằng tỉnh thức lắng nghe những tín hiệu trong các diễn biến lịch sử, bằng sự đồng cảm với Hội Thánh và Quê Hương. Khổ cái khổ của địa phận, đau cái đau của đồng bào, lo cái lo của Đất Nước.
Trong suốt đời giám mục, tôi ý thức sâu sắc mình được xức dầu để làm chứng cho "điều răn mới" (Ga 13,34). Cuộc sống làm chứng đã cho tôi nhiều cảm nghiệm. Những cảm nghiệm đó là thế nào?
2/ Cảm nghiệm
Cảm nghiệm đầu tiên  của tôi là tôi phải luôn chiến đấu với chính mình, để vâng theo ý Chúa. Nếu cuộc chiến đó có một chiến lược, thì chiến lược đó đã được diễn tả trong kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô.
Một đoạn nhỏ sau đây có thể cho thấy hình ảnh chiến lược đó: "Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
Tôi vui mừng nhận thấy chiến lược kinh Hoà bình đã được mọi thành phần của giáo phận thực hiện.
Khi thực hiện, chúng ta đã phải vượt qua bao khó khăn và đau khổ. Nói chung là chúng ta cảm nghiệm thấy: Hương thơm tình yêu Chúa được ban cho ta, khi ta biết cộng tác với chính Đức Kitô, với trái tim của Người, với thánh giá của Người, với lễ tế chính bản thân Người.
Suốt những năm qua, chúng ta đã sống như thế với Người, đã làm chứng như thế cho Người, đã rao giảng như thế về Người.
Hiệu quả được chúng ta cảm nghiệm là âm thầm, nhưng lớn lao, cao quý. Bởi vì đã có vô số sự trở về đàng lành. Xã hội đó đây trở về. Nhiều đồng bào trở về. Chính chúng ta là những người tội lỗi được Chúa đưa trở về. Do đó, điều tôi cảm nghiệm sâu sắc nhất, đó là Thiên Chúa đúng là tình yêu thương xót, rất gần gũi và giản dị.
Nhưng chúng ta không dừng lại ở những cảm nghiệm đó. Bởi vì chúng tôi cũng như anh chị em vẫn phải lên đường. Và đây chính là điều gây cho tôi nhiều thao thức.
3/ Thao thức
Xưa, Chúa Giêsu đã phán: "Hôm nay, ngày mai, ngày mốt, Thầy phải tiếp tục đi" (Lc 13,33). Chúng ta là môn đệ Chúa cũng tiếp tục đi. Con đường ta đi là lịch sử Đất Nước, lịch sử Hội Thánh, lịch sử riêng ta. Những lịch sử đó có nhiều chuyển biến và bất ngờ.

Vì thế, thao thức lớn của tôi là chia sẻ tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người cầu nguyện xưa trong bữa tiệc ly: "Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần" (Ga 17,15). Ác thần là những động lực của xác thịt, thế gian và quỷ dữ tìm cách đẩy con người xuống hoả ngục.
Những ác thần đó cũng mang những thứ dầu thơm của riêng chúng. Thường thì những dầu thơm đó, dù có chút mùi đạo đức, nhưng vẫn huỷ hoại lương tâm bằng nhiều nham hiểm.
Vì thế, nếu nghĩ rằng đời sống đạo hôm nay là an toàn, không bị những ác thần mưu mô phá hoại, thì quả là quá ngây thơ. Điều đó càng làm tôi thêm thao thức, nhất là tôi linh cảm, những gì Đức Mẹ cảnh báo ở Fatima sẽ xảy ra rất ghê gớm, nếu nhân loại không trở về đàng lành.
Để kết bài chia sẻ này, tôi xin nói với anh chị em một niềm vui âm thầm của tôi. Đó là tôi thấy "Đức Mẹ Thăm viếng" (x. Lc 1,39-56) đã đến giáo phận ta từ lâu rồi. Mẹ đã ở lại với chúng ta, đã luôn che chở chúng ta là những con cái yếu hèn bé nhỏ của Mẹ. Biết bao người đã nhận được dầu thiêng "Đức Mẹ Thăm viếng" ban cho. Dầu thiêng đó đã giúp chúng ta đổi mới cuộc đời,  chữa lành nhiều vết thương, để ta an tâm đi về với Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Cùng với "Đức Mẹ Thăm viếng", chúng ta khiêm tốn cảm tạ Chúa và tuyệt đối phó thác, xin vâng ý Chúa đến muôn đời.
+ GM. GB. BÙI TUẦN

 

Bùi-Tuần 1026: CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH GIOAN

BAOTIXITA 24-06-2007
 

Thánh Gioan Baotixita là ai? Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về Ngài. Phúc Âm thánh 24-06-2007 Bùi-Tuần 1026

Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về Ngài. Phúc Âm thánh Luca viết: "Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung điện. Thế thì anh em đi xem gì?
"Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó.
"Mà tôi nói cho anh em biết: Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng:
"Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Lc 7,24-27).
Theo lời Chúa Giêsu phán trên đây, thì thánh Gioan là vị ngôn sứ, được Chúa sai đi dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Với những tước vị đó và với những trọng trách đó, thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có một không hai trong Phúc Âm. Lịch sử của Ngài cũng minh chứng như vậy.
Tuy sao, con đường thiêng liêng Ngài đã đi không thuộc riêng cho Ngài. Nhưng nó là một kho tàng chung. Mỗi người có thể học được nơi Ngài một bài học mà mình thấy cần.
Riêng đối với tôi, bài học mà Ngài dạy tôi kỹ nhất để nên đạo đức, đó là biết dùng con đường thời gian của mình.
Con đường thời gian của thánh Gioan Baotixita chia thành ba giai đoạn:
      - Giai đoạn thứ nhất là thời gian Ngài được Chúa đào tạo và tự đào tạo.
      - Giai đoạn thứ hai là thời gian Ngài thi hành nhiệm vụ rao giảng.
      - Giai đoạn thứ ba là thời gian Ngài hy sinh hiến tế, kết quả của giai đoạn rao giảng.
Thánh Gioan đã biết dùng thời gian một cách khôn ngoan trong từng giai đoạn cuộc đời của Ngài.

1/ Giai đoạn thứ nhất là thời gian đào tạo
Thánh Gioan Baotixita đã biết dùng thời gian để cho Chúa đào tạo và tự đào tạo mình. Đào tạo bằng lối sống khổ chế, chiêm niệm và vui hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên trong sa mạc yên tĩnh.
Lối sống đó lấp kín thời gian. Qua lối sống ấy, Ngài lắng nghe ý Chúa. Tâm hồn Ngài được Chúa kéo về hướng chân thiện mỹ. Qua nhiều ngày, lối sống đó trở thành thói quen.
Trong sa mạc, Ngài đón nhận được các ơn của Chúa, nhưng rất có thể Ngài cũng gặp các chước ma quỷ cám dỗ. Đây là dịp Ngài thu lượm kinh nghiệm về những đấu tranh giữa thiện và ác. Muốn cho mình luôn thuộc về sức mạnh sự thiện và thắng vượt được thế lực sự ác, Ngài phải tỉnh thức, cầu nguyện, cậy nhờ ơn Chúa. Mỗi thành công là một kinh nghiệm về sự phải từ bỏ tội lỗi, để trở về với Chúa.
Thời gian đào tạo mình cho Ngài thấy: Đào tạo là việc lâu dài. Không sách vở nào thay thế được kinh nghiệm bản thân. Không trường sở nào thay thế được thời gian tập luyện.

2/ Giai đoạn thứ hai là thời gian thánh Gioan Baotixita thi hành nhiệm vụ rao giảng
Trong giai đoạn này, thánh Gioan Baotixita đã rất tận dụng thời giờ cho nhiệm vụ của mình. Đề tài rao giảng đầu tiên được nêu lên rất rõ. Đó là sám hối, đền tội.
Về việc sám hối, Ngài đòi phải chịu phép rửa và đền tội bằng những việc bác ái, chia sẻ công bằng. Ngài nói: "Ai có hai áo, thì hãy chia cho người khác. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy" (Lc 3,11).. . Với những người thu thuế, Ngài bảo: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình" (Lc 3,13).
Tiếp liền với việc sám hối, thánh Gioan Baotixita chuyển sang đề tài đợi chờ Đấng Cứu thế. Đợi chờ bằng thái độ khiêm tốn hạ mình, và tôn vinh Đấng Cứu thế: "Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Lc 3,16).
Khi vừa thấy Chúa Giêsu đến từ đàng xa, Gioan Baotixita liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Ngài quả quyết như vậy, không phải bằng trực giác, mà bằng chứng cớ rõ ràng: Tai Ngài đã nghe lời trên trời báo, và mắt Ngài đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Kitô (x. Ga 1,31-34).
Ngài rao giảng với tư cách người làm chứng.
Ngài rao giảng với lửa thiêng từ nội tâm phát ra. Ngài làm chứng bằng chính đời sống đạo đức khác thường của Ngài. Có thể nói: Lời giảng của Ngài đã được chuẩn bị từ nhiều năm tháng kết hợp với Chúa.

3/ Giai đoạn thứ ba là thời gian hy sinh hiến tế, kết quả của việc rao giảng
Trong thời gian này, Gioan Baotixita nếm niềm vui do thành công và nỗi buồn khổ do thất bại. Phúc Âm thánh Luca viết: "Nghe Gioan giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng công chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông" (Lc 7,29-30).
Bị giới đạo đức và thông luật trong đạo khước từ, Gioan Baotixita cảm thấy đau xót.
Cơn đau đớn càng tăng thêm, khi Gioan Baotixita bị vua Hêrôđê bắt bỏ tù. Cảnh đó xảy ra bất ngờ. Gioan Baotixita đón nhận với lòng phó thác. Thời gian này, Gioan Baotixita sống đời hiến tế. Sau cùng, Ngài hy sinh mạng sống trong đớn đau xác hồn.
Trong suốt giai đoạn bị thử thách này, Gioan Baotixita dùng thời gian một cách khác. Đó là hết lòng tin cậy vào Chúa, hết lòng quảng đại chịu đau khổ vì Chúa.
Những suy nghĩ trên đây đưa tôi kết luận này: Thời giờ là vàng. Chúa đã trao cho thánh Gioan Baotixita một số vàng thời gian. Ngài đã dùng số vàng đó để sinh lời lãi. Lời lãi rất lớn, lời lãi rất quý, lời lãi rất nhiều cho Nước Trời.
Mỗi người chúng ta cũng đã nhận được thứ vàng quý là thời gian. Kẻ nhiều người ít. Chúa đợi chúng ta nộp cho Người số lời lãi phải có. Chúng ta đã sinh lời lãi thế nào? Điều đó tuỳ ở sự chúng ta biết dùng thời gian của mình một cách thông minh, theo đúng định hướng hợp ý Chúa.
Thiết tưởng đây là gợi ý tốt, để chúng ta mừng lễ thánh Gioan Baotixita.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1027: ĐỨC TIN TRONG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC 13-08-2007

Mở đầu năm học mới là đi vào một chặng đường mới của giáo dục. - Giáo dục là một hành trình. 13-08-2007 Bùi-Tuần 1027

Mở đầu năm học mới là đi vào một chặng đường mới của giáo dục.
- Giáo dục là một hành trình.
-Cũng như cuộc đời là một chuyến đi.
Chuyến đi cuộc đời là đi với. Hành trình giáo dục là đồng hành.
Những yếu tố đồng hành với hành trình giáo dục cuộc đời của ta phải kể là rất nhiều. Như ảnh hưởng của gia đình, nhà trường, văn hoá cũ mới, bạn bè và những thăng trầm lịch sử.
Đối với nhiều người, yếu tố đồng hành quan trọng nhất chính là đức tin.
Nhân dịp mùa khai trường, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư về vai trò đức tin trong hành trình giáo dục nơi những người sống đạo tốt.

1/ Luôn bỡ ngỡ trong những khám phá không ngừng
Càng được học nhiều, con người càng bỡ ngỡ.
Bỡ ngỡ vì thấy chân trời chân thiện mỹ không ngừng mở rộng, xa hút, mênh mông.
Bỡ bỡ vì thấy trong bầu trời mênh mông ấy có rất nhiều người tài giỏi, rất nhiều người đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển con người trong mọi lãnh vực, như khoa học, y tế, kinh tế, triết học.
Bỡ ngỡ vì thấy trong bầu trời không biên giới ấy, có rất nhiều người đạo đức giúp cho cá nhân, gia đình, đất nước biết sống trong những quan hệ yêu thương, phục vụ, nâng đỡ lẫn nhau, toả sáng tình liên đới sáng suốt cao thượng.
Bỡ ngỡ vì thấy trong bầu trời các giá trị tuyệt vời ấy, những người tài giỏi, những người đạo đức đã xuất thân từ nhiều dân tộc khác nhau, từ nhiều nền văn hoá khác nhau, từ nhiều tôn giáo khác nhau.
Bỡ ngỡ vì khi cuộc đời là khám phá, cũng như nền giáo dục cũng là khám phá, thì người ta khám phá thấy ánh sáng không là của riêng ai, bóng tối không trừ một ai, dù họ thuộc tôn giáo nào, văn hoá nào, dân tộc nào, tầng lớp nào.
Những bỡ ngỡ chồng chất, liên tục sẽ được giải đáp bằng đức tin.
Tôi tin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người là Đấng tạo dựng, là Đấng cứu độ. Mọi chân thiện mỹ là do Người. Mọi cứu độ đích thực đều bởi Người. Người ban những hạt giống chân thiện mỹ và cứu độ cho bất cứ ai. Mỗi người được tự do đón nhận, được tự do cộng tác với Chúa, được tự do chọn lựa cách thực hiện ý Chúa.
Biết dùng sự tự do của mình là một thách đố lớn. Mỗi người phải giải quyết thách đố quan trọng ấy. Nền giáo dục là một nguồn giúp cho việc giải quyết đó.
Đối với tôi, đức tin hỗ trợ rất nhiều cho con người suốt hành trình giáo dục, để họ được cởi mở và sống có trách nhiệm. Cởi mở với thánh ý Chúa và chịu trách nhiệm cả với Chúa.
Với đức tin cởi mở, tôi tạ ơn Chúa vì những người tốt trong lịch sử. Với đức tin ý thức trách nhiệm, tôi quyết tâm cố gắng sống tốt trong mọi hoàn cảnh.
Ngoài ra, đức tin còn giúp cho con người suốt hành trình giáo dục được khiêm tốn và chân thành trong sự biết mình.

2/ Luôn khiêm tốn trong sự biết mình
Biết mình là điều luôn phải để ý trong mọi chặng hành trình giáo dục. Biết nhiều sự, nhưng lại không biết mình, thì chưa hẳn là người có giáo dục tốt.
Chẳng may, mỗi người thường có nhiều thứ mình:
      - Cái mình do dự luận tạo ra.
      - Cái mình tưởng là của dư luận, nhưng thực sự dư luận không nghĩ thế.
      - Cái mình do mặc cảm tạo thành.
      - Cái mình do những khát vọng và ảo ảnh gây dựng nên.
      - Cái mình do sự dốt nát của mình làm nên.
Rất ít người biết rõ mình thực sự. Đám đông có biết phần nào, nhưng không để ý đúng sai. Nhiều người còn cố tránh biết mình.
Những ai khác nghĩ về mình thế nào, thì tôi không rõ. Phần tôi, nhờ đức tin, tôi biết mình luôn cần phải đi sâu vào lãnh vực tâm linh và đạo đức. Trong chặng đường giáo dục nào cũng thế. Bởi vì, nếu không phát triển ưu tiên về mặt tâm linh và đạo đức, tôi sẽ bị những phát triển khác lấn át, gây cho bản thân tôi một sự thiếu quân bình có hại cho việc phát triển con người toàn diện. Hậu quả sẽ tai hại cho tôi, cho xã hội, cho Hội Thánh, nhất là cho những người tôi được sai đến phục vụ.
Nên nhớ rằng: Đức tin không thay thế việc học hành, nghiên cứu và hoạt động của nền giáo dục. Nhưng với đức tin, việc học hành nghiên cứu và hoạt động ấy sẽ có một ý nghĩa và ý hướng cao đẹp mới.
      Đức tin nói ở đây không đơn giản chỉ là chấp nhận một hệ thống chân lý cứu độ, mà chủ ý là gặp gỡ và gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.
      Đức tin như thế sẽ là động cơ đưa ta vào con đường cứu độ.
      Đức tin như thế sẽ thanh luyện và đổi mới ta.
      Đức tin như thế sẽ dẫn ta đến tình yêu tận hiến.
      Đức tin như thế sẽ là một lời Chúa sai ta vào đời.
      Đức tin như thế sẽ giúp ta đi đúng đường về với Cha trên trời.
      Đức tin như thế sẽ cho ta cảm nhận được tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng dạy ta chân lý cứu độ, ban ơn bình an và hoan lạc.
Khi hiểu sơ qua đức tin là như thế, chúng ta sẽ thấy: Muốn sống đức tin đúng theo ý Chúa, người ta sẽ phải cầu nguyện nhiều, học hỏi nhiều qua Kinh Thánh, qua các sách tu đức và qua những vị hướng dẫn có thẩm quyền.
Nếu thực hiện được như vậy, đức tin sẽ đồng hành với mọi hình thức giáo dục một cách có hiệu quả. Như thế, đầu năm học, khi chúng ta xem xét đến nền giáo dục, thì chúng ta càng nên xem xét đến đức tin của ta.
+GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1028: XIN CỨU CHÚNG CON KHỎI MỌI SỰ DỮ 07-10-2007

Tháng 10 được gọi là tháng Mân Côi. Tháng này, con cái Đức Mẹ hướng lòng mình về Đức Mẹ 07-10-2007 Bùi-Tuần 1028

Tháng 10 được gọi là tháng Mân Côi. Tháng này, con cái Đức Mẹ hướng lòng mình về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Đặc biệt có nghĩa là yêu mến Đức Mẹ hơn, dâng lên Đức Mẹ nhiều đoá hoa mân côi hơn, thực thi những điều Đức Mẹ dạy một cách nhiệt tình hơn.
Riêng tháng 10 năm nay, tôi suy nghĩ nhiều hơn đến biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima Lòng trí tôi nhớ lại những gì Đức Mẹ đã dạy và đã làm ngày 13 tháng 10 năm 1917. Đúng là có sự gì đáng ta phải sợ. Đúng là có sự gì đó thực sự khiến ta phải cầu xin để được cứu thoát.
Vì thế, tôi chọn cho tháng 10 năm nay của tôi một chủ đề gợi ý. Chủ đề đó là: "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ". Câu này là câu cuối của kinh Lạy Cha. Tôi thấy câu này là lời cầu rất hợp với ý Đức Mẹ trong lần Người hiện ra lần cuối ở Fatima.
Tôi xin phép được chia sẻ chọn lựa của tôi. Tôi sẽ đề cập đến ba điểm sau đây:
1. Khi cầu xin Chúa cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ, thì sự dữ nói chung được hiểu thế nào?
2. Ta xin Chúa cứu ta khỏi những sự dữ nào cách riêng?
3. Ta phải cộng tác thế nào vào lời cầu xin Chúa cứu ta khỏi sự dữ?
1/ Sự dữ nói chung được hiểu thế nào?
Nói chung, thế giới sự dữ rất mênh mông. Thí dụ:
a) Sự dữ trong lãnh vực vật chất, như: Đói nghèo, bệnh tật, các thiên tai, các thứ ô nhiễm môi trường, các tai nạn, các thứ chiến tranh.
b) Sự dữ trong lãnh vực chân lý, như: Những sai lầm trong việc tiếp thu thông tin, trong cái nhìn, trong phán đoán, trong lượng giá, trong phản ứng. Có những sai lầm thuộc trách nhiệm cá nhân. Có những sai lầm thuộc trách nhiệm một tập thể, một nhóm, một cộng đoàn. Có những sai lầm thuộc trách nhiệm cả một bộ máy chính sách và chủ trương.
c) Sự dữ trong lãnh vực luân lý, như: Hình thức đúng là đạo đức thì lại coi là không đạo đức. Việc đúng là tội thì lại coi là không có tội. Tình hình hiện nay đang có khuynh hướng bình thường hoá tội lỗi là một sự dữ rất nguy hiểm.
d) Sự dữ trong lãnh vực tín lý, như: Điều phải tin thì lại nghi ngờ. Điều mê tín thì lại tìm đến. Hiện tượng tin Lời Chúa một cách hời hợt như đang xảy ra ở nhiều nơi là một sự dữ rất đáng báo động.
e) Sự dữ trong lãnh vực quỷ dữ, như: Coi thường thế giới quỷ đang rất phổ biến. Thế giới đen tối của quỷ là một hiện hữu có thực ở gần ta. Kinh Thánh cảnh báo ta điều đó. Nhưng chúng ta nhiều khi không tỉnh thức, lại còn sống thoả hiệp với chúng.
f) Sự dữ trong lãnh vực áp lực, như: Có những áp lực đến từ bên ngoài làm ta khó giữ được tự chủ. Có những áp lực tiềm ẩn từ bên trong ta khiến ta khó sống khách quan và thanh thản.
Thoáng nhìn những sự dữ kể trên, chúng ta thấy con người của ta thường xuyên có nguy cơ bị các sự dữ tấn công. Thoát khỏi chúng là chuyện không dễ. Vì thế, ta vừa làm hết sức để cứu mình, vừa cầu xin Chúa cứu ta. Trong các sự dữ, có một số rất đáng sợ, ta phải xin Chúa cứu ta cách riêng.
2/ Mấy sự dữ ta cầu xin Chúa một cách đặc biệt để thoát khỏi
Tôi thấy có ba sự dữ này:
a) Không thực thi thánh ý Chúa. Phúc Âm cho thấy: Suốt đời trên trần thế, Chúa Giêsu chỉ quan tâm đến việc thực thi thánh ý Chúa Cha. "Lương thực của Thầy là làm theo ý Chúa Cha" (Ga 4,34). Ở vườn cây Dầu, khi tình hình trở nên bi đát, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mà thôi" (Lc 22,41).
Biết được thánh ý Chúa và thực thi thánh ý Chúa là chuyện không dễ. Nhưng đó lại là chuyện cực kỳ quan trọng. Chúa Giêsu quả quyết: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Làm theo thánh ý Chúa là định hướng đầu tiên của tu đức. Không phải định hướng một lần, mà cả suốt đời. Lời Chúa và Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn trên thực tế. Tình hình từng lúc từng nơi, tuỳ theo từng người sẽ sáng lên thánh ý Người. Nếu không khiêm tốn đón nhận, ta sẽ đi vào những sai lầm: Đó là một sự dữ khủng khiếp.
b) Mất sự sống ân sủng của Chúa và mất linh hồn.
"Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì?" (Mt 16,26). Lời Chúa phán trên đây thực là dứt khoát, thực là đáng sợ. Mất mạng sống mình, tức là mất sự sống ân sủng của Chúa và mất linh hồn, đó là một sự dữ không gì ví được.
c) Phải phạt đời đời trong hoả ngục.
Có hoả ngục và có những người bị ném xuống đó, đây là một cảnh báo được Chúa nói nhiều lần trong Phúc Âm. Xin đọc lại dụ ngôn ông ăn mày Ladarô và nhà phú hộ (x. Lc 16,19-31). Cũng nên đọc thêm những lời Chúa phán về cuộc phán xét chung (x. Mt 25,31-45).

Ở Fatima, Đức Mẹ cũng đã cho ba trẻ nhìn thấy cảnh hoả ngục và những ai bị phạt trong đó. Thực là rùng rợn.
Chỉ trong hồi tâm, và tin vào lời Chúa và tin sự cảnh báo của Đức Mẹ, chúng ta mới thấy thấm thía: Sự không thực thi ý Chúa, sự mất đời sống ân sủng và mất linh hồn, sự sa hoả ngục là những sự dữ ghê gớm. Ta phải xin Chúa cứu thoát ta. Ta phải cầu nguyện, và cũng phải cộng tác vào lời cầu nguyện: "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ".
3/ Cộng tác vào lời cầu nguyện "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ"
Phải cộng tác ít ra bằng những việc này:
a) Khiêm nhường và biết sợ.
Tu đức thường khuyên chúng ta nên luôn có thái độ khiêm tốn, nhận mình yếu đuối, hèn mọn. Khả năng sai lầm nơi ta là rất lớn. Thái độ kiêu căng, cố chấp nơi ta không hoàn toàn dễ khống chế. Lịch sử cho ta thấy có những liều lĩnh tự đắc đã đưa tới một chuỗi dài tai hoạ rất đáng tiếc.
b) Đền tạ về những gì đã và đang sai phạm.
Đền tạ bằng những việc hy sinh, phục vụ, yêu thương trong phạm vi Chúa đòi hỏi. Hiện nay, tình trạng bất ổn đang xảy ra phổ biến trong từng cá nhân, trong từng gia đình, trong từng cộng đoàn, trong từng địa phương. Nếu chúng ta biết lắng nghe ý Chúa, biết dấn thân vào việc làm cho những tình hình đó bớt bất ổn theo ý Chúa, thì thiết tưởng đó cũng là những việc đền tạ đẹp lòng Chúa.
c) Hết lòng cậy tin vào lòng thương xót Chúa và trái tim nhân từ của Mẹ. Sống như trẻ thơ. Nhìn lên Mẹ với tất cả tâm tình khiêm tốn đơn sơ tin cậy. (
Lạy Mẹ Maria, sự hiểu biết của Mẹ thực là sâu xa. Tình thương của Mẹ thực là bao la. Mẹ biết con và hoàn cảnh của con hơn chính con. Mẹ nhìn rõ đâu là những sự dữ gây nguy hại cho con nhất là về phần hồn. Xin Mẹ thương ở bên con. Xin Mẹ cầu bầu với Chúa cứu con khỏi mọi sự dữ, nất là những sự dữ hiểm nghèo cho phần rỗi. Con xin phó thác mình con cho trái tim Mẹ. Xin gìn giữ con trong tình thương của Mẹ mãi mãi muôn đời. Amen.
ĐGM GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1029: Truyền Giáo trong thời sau hết 21-10-2007

Nhân lễ truyền giáo (21/10/2007)
 

Trong thư thứ hai gởi giám mục Timôthê, thánh Phaolô đã tỏ lộ một tình yêu dạt dào của người Bùi-Tuần 1029

21-10-2007
Trong thư thứ hai gởi giám mục Timôthê, thánh Phaolô đã tỏ lộ một tình yêu dạt dào của người cha sắp ra đi. Một là tình yêu đối với người môn đệ ngài tin cậy là Timôthê, hai là tình yêu đối với giáo đoàn đã trao phó cho Timôthê.
Trong thư, thánh Phaolô nhìn lúc đó như khởi sự những ngày sau hết. Sau hết đối với ngài, sau hết đối với Timôthê, sau hết đối với một giai đoạn lịch sử.
Trong thời gian sau hết này, ngài khuyên Timôthê nên để ý:

1/ Những gì xấu phải xa tránh
"Anh hãy biết điều này: Vào những ngày sau hết ấy sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa, hình thức của đạo thì còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy" (2 Tm 3,1-6).
Trước đó, thánh Phaolô cũng đã đưa ra những lời khuyên phải xa tránh khác: "Còn những nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân. Lời họ như một thứ ung nhọt cứ loét thêm ra" (2 Tm 2,16-17).
Thêm vào đó, thánh Phaolô cũng đã dặn dò: "Những tranh luận điên rồ và ngu xuẩn, anh hãy gạt ra một bên, vì biết rằng những thứ ấy sinh ra cãi cọ" (2 Tm 2,23).
Một điều rất nên để ý trong những lời khuyên xa tránh là đam mê trong chính mình: "Anh hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ" (2 Tm 2,22).
Những điều cảnh báo trên đây cho ta thấy thánh Phaolô có một cái nhìn nhạy bén. Ngài thấy rất nhiều điều xấu trong nội bộ cộng đoàn, nên ngài khuyên phải xa tránh.
Theo tôi, xa tránh là một thái độ ôn hoà. Xa tránh điều xấu, nhưng phải tích cực làm điều lành.

2/ Những gì cần nhấn mạnh trong rao giảng
Thánh Phaolô quả quyết: "Từ thời thơ ấu, anh đã biết sách thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Kitô. Tất cả những gì viết trong sách thánh đều do Thiên Chúa linh ứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để nên công chính" (2 Tm 3,15-16).
Phải giảng Lời Chúa thế nào? Thánh Phaolô dạy: "Tôi tha thiết khuyên anh, hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chú tâm dạy dỗ" (2 Tm 4,1-2).
Với những lời trên đây, thánh Phaolô nhấn mạnh đến vai trò của giám mục Timôthê là phải bền bỉ trong việc rao giảng Lời Chúa. Rao giảng Lời Chúa không phải chỉ là cắt nghĩa Lời Chúa, nhưng còn phải dùng Lời Chúa mà biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Cứ mãi phải rao giảng Lời Chúa, cho dù "Họ sẽ ngoảnh tai không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường" (2 Tm 4,4).
Việc rao giảng của giám mục Timôthê và các người kế vị các tông đồ là một vinh dự và một trách nhiệm. Không vì lý do nào mà bỏ nhiệm vụ bênh vực Lời Chúa.
Nhưng không vì thế mà tránh được đau khổ.

3/ Những gì phải sẵn sàng đón nhận
"Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ mình" (2 Tm 4,5).
"Hãy đồng lao cộng khổ như một người lính của Đức Giêsu Kitô..." (2 Tm 2,3).
Đau khổ là ơn gọi sau cùng của Timôthê. Với đau khổ, người môn đệ Timôthê sẽ được theo bước thầy mình là Phaolô, đấng đã viết cho ngài: "Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm của lễ. Đã đến giờ tôi phải ra đi" (2 Tm 4,6).
Nhưng thầy trò sẽ không dừng lại ở đau khổ. Các ngài sẽ chịu đau khổ cùng với Chúa Giêsu, để mưu ích cho những người Chúa chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô và được hưởng vinh quang muôn đời. "Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người" (2 Tm 2,11).
Nội dung tóm lược lá thư của thánh Phaolô gởi môn đệ Timôthê cho ta thấy tinh thần truyền giáo của thánh tông đồ dân ngoại:
1. Nhà truyền giáo phải có một cảm quan sâu sắc về tình hình nội bộ cộng đoàn của mình. Tình hình, mà thánh Phaolô chỉ cho thánh Timôthê thấy, là rất u ám. Dù u ám, ngài vẫn cứ lấy lòng khiêm tốn mà nói sự thực từng chi tiết tỉ mỉ.
2. Tình hình u ám đó giúp cho môn đệ Timôthê ý thức được trách nhiệm của mình là rất nặng nề. Phải truyền giáo ưu tiên bằng đạo đức. Bằng nội tâm. Bám vào Lời Chúa. Gắn bó với mầu nhiệm thánh giá. Đặt trọng tâm vào Đức Kitô. Cầu nguyện rất nhiều. Bác ái thực sâu. Truyền giáo là sứ vụ, chứ không phải dịch vụ.
3. Trong việc truyền giáo, phải hết sức tránh bệnh hình thức, bệnh tự mãn và bệnh vô tâm. Nhà truyền giáo là người của Chúa Giêsu khiêm tốn, nhạy bén, luôn rao giảng sự sám hối, sự trở về, nhất là luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Thiết tưởng nội dung tổng quát thư II gởi thánh Timôthê cũng là thời sự của nhiều nơi tại cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay.
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1030: Guơng Sáng  Đọc Thư Chung HĐGMVN 2007: 21-10-2007

Thư chung HĐGMVN 2007 mới vừa tới tay tôi. Tôi đã đọc và rất vui mừng. Nhiều điều trong thư 21-10-2007 Bùi-Tuần 1030

Thư chung HĐGMVN 2007 mới vừa tới tay tôi. Tôi đã đọc và rất vui mừng. Nhiều điều trong thư đáng suy gẫm.
Riêng đối với tôi, cụm từ "Chấn chỉnh" ở cuối thư đã gợi ý nhiều.
Thực sự, có nhiều điều cần được chấn chỉnh trong giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam hôm nay. Nhưng thiết nghĩ điều cần chấn chỉnh nhất sẽ là "làm gương sáng".
Tôi xin phép chia sẻ đôi chút suy tư của tôi. Mong suy tư nhỏ bé này cũng phản ánh tâm tư các vị chủ chăn.

1/ Trước hết, cần nhấn mạnh đến nhu cầu làm gương sáng trong sứ vụ yêu thương
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu và các tông đồ luôn kêu gọi sống yêu thương. Vì yêu thương là đặc điểm của những người tin theo Chúa Giêsu.
"Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy thương yêu nhau, như chính Thầy đã yêu thương các con.
"Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương yêu nhau" (Ga 14,24-25).
Sống yêu thương là một thách đố lớn nhất trong đời tôi. Đời tôi phải trải qua những chặng đường lịch sử có nhiều mâu thuẫn, có nhiều xung đột, có nhiều hận thù.
Khi được sai đến địa phương này, tôi thấy dân địa phương này sống đạo rất đơn sơ. Họ đặt nặng đạo hiếu, tình liên đới tương trợ, và từ thiện đối với người nghèo. Những điều tôi thấy đã giúp tôi suy nghĩ nhiều về điều răn mới của Chúa Giêsu. Nếu tôi và những người công giáo của tôi không triệt để thực thi điều răn yêu thương, chỉ mãi lo chuyện khác, thì tôi sợ đạo Chúa sẽ mang một bộ mặt thiếu hấp dẫn.
Một lần, tôi đề cập đến vấn đề theo đạo công giáo với một tín đồ Phật giáo Hoà Hảo ở đây, tôi sửng sốt được nghe câu trả lời như sau "Ai dại gì lại bỏ cái tốt mà theo cái không tốt".
Lỗi tại họ chưa thấy hết vẻ đẹp của đạo ta, hay lỗi tại ta chưa đủ vẻ đẹp đạo đức để làm chứng cho đạo mình?

2/ Cùng với gương sáng về yêu thương, chúng ta cần quan tâm hơn nữa về gương sáng trong sứ vụ tu thân
Nhiều tín đồ tôn giáo bạn rất chú trọng đến việc sống tu thân. Sống đạo của họ rất nhẹ về cơ chế và tổ chức, thích đi vào tu thân.
Họ coi tu thân bên trong bên ngoài như một dấu chỉ đạo đức. Nhiều lần, trong những bữa cơm được mời, người ta thấy các vị tu bên Phật giáo thì giữ chay, các vị tu bên Tin Lành thì không uống rượu, còn các vị tu bên Công giáo thì hoà mình. Chọn lựa này chắc phải có lý do chính đáng.
Xưa Chúa Giêsu phán xưa: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Chúa phán lời trên đây cho mọi người công giáo, nhưng nhất là cho các bậc tu trì. Nhiều người đã thực thi lời đó cả trong cả ngoài với tất cả lương tâm người tin theo Chúa. Tiếc thay là gương sáng về tu thân hiện nay có vẻ như đang trong thử thách.
Hiện nay, những chuyện lôi thôi về tiền bạc, về hưởng thụ, về tục hoá, về ghen tương, về hưởng thụ thoải mái xem ra đang có chiều hướng gia tăng, ngay cả trong giới nhà tu. Tuy không tràn lan, nhưng đủ để trở thành phản chứng. Đang khi tu thân vẫn được coi là một nhân đức xã hội rất cần cho việc chấn chỉnh đạo đức trong đạo ngoài đời.

3/ Sau cùng, rất cần có nhiều gương sáng trong sứ vụ truyền giáo
Đọc Tông đồ Công vụ, tôi thấy có ba trường hợp truyền giáo làm tôi rất kinh ngạc.
Một là trường hợp Chúa chọn ông Saolô là người đang hăng hái bắt bớ đạo Chúa trở nên tông đồ dân ngoại. Chúa phán bảo ông Khanania phải đi đến tìm Saolô. Khanania sợ hãi, không muốn vâng. Nhưng Chúa phán: "Con cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn, để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại" (Cv 9,15).
Hai là trường hợp thánh Phaolô thấy Chúa Thánh Thần xuống trên những người ngoại giáo đang nghe Ngài giảng. Thánh Phêrô nói: "Những người dân ngoại này cũng được Chúa Thánh Thần xuống, cũng như chúng ta" (Cv 10,47). Vì thế, thánh Phêrô đã làm phép rửa cho họ.
Bà là trường hợp thánh Phaolô ra đi truyền giáo cho những nơi Ngài biết là sẽ gặp khổ. Ngài nói: "Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi tại đó, trừ ra điều này là: Tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv 20,22-23).
Trong truyền giáo, Chúa có những chương trình bất ngờ. Người truyền giáo cần khiêm tốn vâng phục ý Chúa. Dù hướng Chúa sai vào coi như quá mở, dù hướng Chúa sai đến phải nhận là quá khổ.
Thời nay là thời truyền giáo. Nhiều gương sáng đã được ghi nhận. Nhưng vẫn còn không ít những tính toán thế tục trong việc loan báo Tin Mừng.
Để kết bài chia sẻ này, tôi xin một lần nữa nói về cái nhìn riêng tư.
Đó là tôi tin: Chúa Giêsu đã phục sinh. Người đang sống giữa chúng ta. Người đang hoạt động giữa chúng ta lúc này. Chính Người lúc này đang gọi chúng ta hãy theo Người. Chính Người lúc này đang đợi chờ tình yêu chúng ta trả lời tình yêu của Người.
Chính lúc này, nhiều người đã đáp lại. Họ đang trở nên gương sáng. Gương sáng về sự khiêm tốn trở về. Gương sáng về sự âm thầm dấn thân. Gương sáng về sự quảng đại sống yêu thương. Gương sáng về sự can đảm chọn nếp tu thân. Gương sáng về đức tin khiêm nhường phó thác.
Nhờ vậy nhiều nơi, nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam hôm nay đang gieo niềm vui và hy vọng.
Long Xuyên, ngày 21/10/2007
+ GM JB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1031: NGÀY NHÀ GIÁO TRONG NĂM GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

20-11-2007
 

Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm nay, 2007, nói về Giáo dục Kitô giáo: 20-11-2007 Bùi-Tuần 1031

Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm nay, 2007, nói về Giáo dục Kitô giáo.
Vì thế, ngày Nhà Giáo (20/11) năm nay gợi ý cho tôi nhớ tới cách riêng những nhà giáo của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam hôm nay.
Họ là ai? Thưa là tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần trong Hội Thánh đang góp phần tích cực vào nền giáo dục Kitô giáo tại Quê Hương này.
Nhưng trên thực tế, khi nói tới những thành phần được danh dự cao và nắm trách nhiệm lớn về giáo dục Kitô giáo, người ta thường đồng loạt nghĩ tới các người trên.
Ngày nhà giáo hướng về hàng giáo phẩm và giáo sĩ
Thực vậy, nếu ngày nhà giáo hướng về những nhà giáo cụ thể, thì ngày này trong Hội Thánh Việt Nam, các tín hữu cũng đang có định hướng cụ thể. Họ hướng lòng mình về hàng giáo phẩm và hàng giáo sĩ Việt Nam nói chung, và về những vị nào đang giáo dục họ trong giáo phận của họ, trong xứ đạo của họ nói riêng.
Họ nhìn các vị đó là những nhà giáo cao cấp, được sai đến với họ từ Đấng thiêng liêng. Cái nhìn đó là một cách phong thần, và cũng là một cách đợi chờ.
Những đợi chờ chính đáng của họ là những giá trị, mà thế gian không thể mang lại cho họ, nhưng lại rất cần cho họ, để họ sống cao thượng và hạnh phúc hơn ở đời này, nhất là để biết đường đi về cõi phúc đời sau.
Những giá trị như thế thường chìm ngủ trong con người, nhưng chúng sẽ được đánh thức nhờ những tiếp cận. Như được nghe một bài nhạc, bài viết có sức đánh động tâm hồn hướng về bác ái hy sinh, như được thấy một người toả hồn chân tu trong sáng, như được dự một cuộc lễ đầy bầu khí thiêng liêng có sức nâng tâm hồn lên cõi trời cao thẳm.
Đối với hầu hết người Việt Nam, những giá trị như thế cần được diễn tả cụ thể. Nhờ đó, lương tâm con người dễ tiếp thu. Họ thấy mình khao khát những gì là chân thiện mỹ đích thực. Đơn sơ thôi. Nhẹ nhàng thôi. Giống hình ảnh hồn nhiên của thiên nhiên. Ví dụ bông hoa nhỏ, cánh đồng cỏ xanh, dòng sông chảy, cây nến lung linh, làn gió nhẹ.
Giáo dục bằng gương sáng
Đã lâu rồi, khoảng năm 1980, tôi từ Long Xuyên đi Sài Gòn. Tới bắc Mỹ Thuận, tôi chen mình vào đám đông. Khi chiếc bắc đang trôi sang bờ bên kia, thì một người đàn ông lạ từ xa lách đám đông, lại bên tôi và hỏi: "Chú có phải là ông cha nhà thờ không?" Tôi thưa: Dạ đúng. Ông biết tôi sao? Người khách thưa: "Tôi thấy  chú mặc áo Dòng thì đoán vậy thôi. Tôi có một điều muốn nói với chú là: Chú ráng sống tôn giáo cho thực tốt. Bởi vì đã đến thời: Ma giáo thì nhiều, còn tôn giáo thực thì ít".
Không bao giờ tôi được gặp lại người khách lạ đó. Nhưng những gì ông nói với tôi đã chìm lắng trong lòng tôi. Tôi thấy tôn giáo và ma giáo chen lẫn nhau. Cảnh đó là thực tế đau buồn. Nhiều nhà giáo của nền giáo dục Kitô giáo đã nhận ra thực tế xót xa ấy.

Để đẩy lùi những ma giáo trong tôn giáo, các ngài đã tăng cường  giáo dục bằng gương sáng:
- Làm gương sáng trong các lời nói, sao cho có chân lý và yêu thương.
- Làm gương sáng trong các hoạt động xã hội, sao cho có vị tha.
- Làm gương sáng trong phượng tự, sao cho có tĩnh tâm, cầu nguyện, sám hối.
- Làm gương sáng trong mọi tổ chức sinh hoạt tôn giáo, sao cho có bề sâu.
- Làm gương sáng trong đời sống thường ngày, sao cho có giản dị.
Có thể nói, giáo dục tôn giáo bây giờ là nêu gương sáng.
Gương sáng mà con người đang chờ đợi nhiều nhất bây giờ là những giá trị đẹp của một lương tâm tốt. Lương tâm tốt là lương tâm biết kính trọng sự thực. Sự thực là phải có thực chất trong việc thực hành bổn phận:
- Bổn phận đối với Đấng thiêng liêng.
- Bổn phận đối với mọi người, đặc biệt là đối với bậc sinh thành.
- Bổn phận đối với người nghèo khổ.
- Bổn phận đối với Hội Thánh và quê hương, đất nước.
Hơn nữa, tôi thấy gương sáng mà người ta đang đòi hỏi rất nhiều nơi các nhà giáo của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam hôm nay còn là tư cách đẹp của người môn đệ Chúa Giêsu.
Xin hãy nêu gương sáng về hiền lành và khiêm nhường, như Chúa Giêsu đã dạy: "Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29).
Xin hãy nêu gương sáng về sứ vụ tu thân, như Chúa Giêsu đã dạy: "Ai muốn làm môn đệ Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,24).
Xin hãy nêu gương sáng về đức yêu thương, như lời Chúa Giêsu đã dạy: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau" (Ga 13,35).
Nhà giáo có thể không thuộc hàng giáo phẩm, giáo sĩ
Cũng đã lâu rồi, tôi ngồi ở một quán lá nghèo bên vệ đường vùng quê xa ngoài giáo phận Long Xuyên, để được hớt tóc. Ông hớt tóc, khi biết tôi là một giám mục, đã thỏ thẻ với tôi đại khái thế này: "Cuộc sống ngoài đời khổ lắm. Chúng con không muốn các đức cha và các cha phải thiếu thốn như chúng con. Rất mong các đấng các bậc được tương đối đầy đủ. Đoàn chiên rất tự hào có những bề trên đạo đức, nhìn xa thấy rộng".
Tới bây giờ tôi không biết ông hớt tóc đó là ai. Nhưng tôi coi ông là một nhà giáo, đáng tôi kính phục. Thì ra, có những người tôi coi là được chúng tôi giáo dục lại là nhà giáo âm thầm, mà Chúa Thánh Thần gởi đến với chúng tôi. Họ nói rất ít, nhưng rất ít mà lại có đầy hồn Phúc Âm.
Với mấy tư tưởng trên đây, tôi muốn gởi lời cảm tạ đến mọi người đã là nhà giáo của tôi.
Tôi cũng muốn gởi lời kêu gọi các tín hữu: Hãy cầu nguyện cho các nhà giáo đã và đang góp phần vào nền giáo dục Kitô giáo tại Quê Hương Việt Nam này, cách riêng cho hàng giáo phẩm và giáo sĩ của chúng ta.
Tôi cũng nghe rất nhiều người nói: "Nền giáo dục Kitô giáo không phải là nền giáo dục truyền thống Việt Nam, nhưng hiện nay vẫn có rất nhiều tự do để biểu dương các thứ quyền lực hoành tráng của mình". Ý kiến đó xem ra đang hướng dẫn chọn lựa của xã hội Việt Nam. Sự kiện trên đây đáng chúng ta suy  nghĩ sâu sa.

 

Bùi-Tuần 1032: SỐNG MÙA THU CUỘC ĐỜI 21-11-2007

Mùa thu thiên nhiên là mùa lá rụng. Mùa thu cuộc đời là mùa tuổi già sức yếu. Mùa này có nhiều 21-11-2007 Bùi-Tuần 1032

Mùa thu thiên nhiên là mùa lá rụng. Mùa thu cuộc đời là mùa tuổi già sức yếu. Mùa này có nhiều úa tàn, có nhiều rơi rụng.
Nhiều người sống mùa thu đời mình như một đặc ân. Vì những lý do sau đây.
 
  1.       Đây là dịp để cuộc sống nội tâm thêm phong phú nhờ cầu nguyện, suy gẫm.
Với tuổi này, con người đã có khá nhiều kinh nghiệm về bậc thang giá trị. Những gì mong manh, hời hợt đều phải qua đi. Cả những mẩu hạnh phúc đã như cầm chắc trong tay nay cũng tan tành. Nhiều người đón nhận sự thực đó với nhiều cay đắng. Nhưng vô số người đón nhận sự thực đó với tâm hồn thanh thản.
Họ rút vào nội tâm. Để cầu nguyện. Để nghe những hoài niệm. Đế nếm những giã từ. Để gẫm suy nhân tình thế sự. Nhất là họ cảm nhận sâu sắc những thao thức về Chúa. Những thao thức này được nhận ra rất rõ. Thí dụ thánh ý Chúa, lời Chúa, nước Chúa. Nhất là một thao thức như tiếng gọi tha thiết đi về với Chúa là tình yêu thương xót vững bền.
Lời nguyện họ thích đọc và gẫm suy là thánh vịnh vua Đavíd về đời sống  mong manh mỏng giòn.
“Ngàn măm Chúa kể là gì,
Tựa hôm qua đã qua đi mất rồi.
Khác nào một trống canh thôi :
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng.
Như có đồng trồi mọc ban mai.
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn”.

Hỡi ai nương tựa Đấng tối cao,
Và núp bóng  Đấng quyền năng tuyệt đối
Hãy thưa với Chúa rằng :
Lạy Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
Là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài “(Tv 90, 4-6 ; 91, 1-2).
Như vậy, đời sống nội tâm của họ trở thành một cõi tĩnh mạc đầy sự hiện diện của Chúa. Lòng họ không thể trống rỗng, hay phân tán theo những tiếng gọi phù du. Nhưng họ vui tìm việc cầu nguyện đơn sơ và suy gẫm đơn sơ. Để rồi việc cầu nguyện và suy gẫm lại là nguồn vui cho họ một cách lạ lùng.
 
  1.       Thêm vào đó, mùa thu cuộc đời cho họ thấy cuộc đời là một chiến đấu phức tạp.
Khi chưa tới mùa thu cuộc đời, nhiều người dễ tưởng đường mình đi là thênh thang, mình được tự do thoải mái muốn làm gì thì làm, và coi thành công là do công sức mình. Nhưng khi tới tuổi già, nhiều người biết đón nhận sự thực cứu độ Chúa tặng ban.
Sự thực là cuộc chiến đấu gay gắt nhất của mình ở chính trong con người của mình. Cuộc chiến đó được thánh Phaolô mô tả một cách khiêm nhường trong thư gửi giáo đoàn Rôma :
“Muốn sự thiện thì tôi có muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại làm” ( Rm 7, 18-20).
Cuộc chiến đấu, mà thánh Phaolô mô tả, chỉ là một phần nhỏ của cuộc chiến đấu đời người.
Thực vậy, ngay một sự muốn điều lành hợp thánh ý Chúa cũng đã là một chiến đấu cam go. Bởi vì điều lành đó là điều xác thịt không muốn, thế gian không muốn, ma quỷ không muốn. Nên nhiều khi muốn điều lành  cũng đã là một chọn lựa phấn đấu kiên trì.
Chọn lựa đúng rồi, sẽ đến việc thi hành điều chọn lựa. Chặng đường thực hành cũng là một chiến đấu vất vả. Bởi vì thực hành tốt là phải thực hành bằng đúng phương cách Chúa muốn, đúng lúc Chúa muốn, với đúng ý Chúa muốn
Chọn được điều lành rồi thực hành đúng điều lành đã chọn. Xong rồi, ta  sẽ bước vào chặng thứ ba là đánh giá. Trong chặng này, rất nhiều khi con người dễ tự hào, dễ đưa mình lên, dễ trở thành kiêu ngạo
Cám dỗ đó luôn xảy ra, cả khi người ta về già bệnh tật.
Thế nhưng, nhờ khiêm tốn phó thác mình cho Chúa, biết bao người già bệnh tật đã được Chúa cứu khỏi những lầm lỗi đớn đau.
Họ nhận ra cuộc chiến đấu quan trọng nhất đời họ là làm sao giữ vững được đức tin. Tin vào tình Chúa xót thương. Tin vào quyền năng vô biên của Chúa. Giữ được đức tin, mặc dầu mình có nhiều yếu đuối, lỗi lầm. Đó là phép lạ Chúa đang làm cho nhiều người sống mùa thu cuộc đời.
Trong niềm tin đó, họ cảm thấy mình chẳng là gì, chẳng đáng gì, nhưng mọi sự đều do Chúa ban cho nhưng không. Họ trở nên bé nhỏ trong tâm tình tạ ơn, và nhẹ nhàng bước đi về phía trước.
 
  1.       Do đó mùa thu cuộc đời sẽ là bài ca tán dương lòng thương xót Chúa.
Họ sẽ cùng với thánh vương Đavid ca tụng long thương xót Chúa
“Chúa không cứ tội ta mà xét xử,
Không trả báo ta xứng với lỗi lầm
….
Như người Cha chạnh lòng thương con cái.
Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn
Ngài quá biết ta được nhồi nắn bằng gì
Hẳn Người nhớ : Ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi
Tươi thắm như cỏ nội hương đồng
Một cơn gió thoảng là xong.
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình
Nhưng ân tình Chúa thiên thu vạn đại
Dành cho kẻ nào hết da kính tôn” (T v 102, 10-17).
Tâm tình gắn bó với tình xót thương Chúa là một đặc ân. Thường xuyên, họ gặp gỡ Chúa tình yêu. Thuyền xuyên, họ ở bên lòng Mẹ Maria thương xót. Tất cả đều sống động. Cho dù có những mệt mỏi và đớn đau không ngừng thử thách sự sống động đó.
Mùa thu cuộc đời là một đặc ân, nhưng cũng là một thử thách. Vì thế mọi người sống mùa thu cuộc đời đều đáng được chúng ta cầu nguyện cho. Việc cảm ơn họ sẽ chỉ là cái nhìn của tình yêu phó thác, đơn sơ, chân thành. Cái nhìn đó âu yếm tha thiết tha và khiêm tốn. Nó nài van phúc lành của Chúa xuống trên mọi người, tuy gần mà xa, tuy xa mà gần, và trên tất cả là Quê hương.
ĐGM GB Bùi Tuần 

 

Bùi-Tuần 1033: MỘT CÁI NHÌN VỀ GIÁO HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

 29-11-2007
 

Về cuối đời, tôi muốn chia sẻ một cái nhìn quan trọng. Đó là cái nhìn của tôi về Giáo hội Việt 29-11-2007 Bùi-Tuần 1033

Về cuối đời, tôi muốn chia sẻ một cái nhìn quan trọng. Đó là cái nhìn của tôi về Giáo hội Việt Nam hôm nay.
Tôi nhìn trong bầu khí cầu nguyện. Đức tin và kinh nghiệm đã giúp cái nhìn này được thanh thản.
Tôi nhìn thấy Giáo hội của tôi có bốn vẻ đẹp sau đây :
a/ Để tâm huấn luyện đám đông, nhưng cũng rất lo lắng đào tạo một số nhỏ ưu tú.
b/ Hy vọng vào giới trẻ, nhưng cũng rất trân trọng giới già.
c/ Loan báo Tin Mừng bằng việc bác ái, nhưng bằng Lời Chúa  nhiều hơn.
d/ Dấn thân cho những hoạt động bên ngoài, nhưng cũng đi vào đời sống  nội tâm.
Tôi xin nói qua từng vẻ đẹp :
1/ Giáo hội của đám đông, và của số nhỏ
Thông thường, các giáo xứ và các giáo phận luôn để ý đến việc huấn luyện nhắm vào đám đông. Các báo cáo thường đưa ra những con số : Số sinh hoạt bình thường, số lớp huấn luyện khác thường, số người tham dự. Con số càng lớn càng muốn nói lên sự thành công. Đích nhắm tới xem ra là lượng.
Đang khi đó, nhiều nơi rất để ý đào tạo về phẩm. Phẩm gồm nhân bản được thanh luyện, kiến thức được nâng lên, đạo đức được vững bền. Đặc biệt là số nhỏ đó được thuộc trọn vẹn về Chúa, nên người của Chúa. Họ sống tinh thần khó nghèo Phúc Âm, nhờ đó cái tôi của mình không còn bị trói buộc vào những thói xấu các thịt và tinh thần thế tục, nhưng được tự do để vâng phục thánh ý Chúa.
Cựu Ước có một trường hợp tỏ cho thấy Chúa cứu dân Người không bằng  số lượng lớn, nhưng bằng con số nhỏ mà cao về phẩm. Đó là trường hợp tướng Ghít-ôn. Từ mấy chục ngàn quân rút xuống 10.000. Nhưng Chúa vẫn  cho là còn quá đông. Qua thử thách chỉ còn 300 ngàn quân. Với số nhỏ này, Chúa đã cho dân Chúa thắng Mađian một trận lớn. (x Tl 7, 1-25).
2/ Giáo hội của giới trẻ và giới già
Hiện nay, đời cũng như đạo hay đề cao giới trẻ, tự hào về những lãnh đạo trẻ. Đó là chuyện tất nhiên.
Nhưng khi nhìn vào các giáo xứ, người ta thấy giới cao niên vẫn là những người bảo vệ tốt các giá trị đạo đức. Tại nhiều gia đình, nhân tố cứu được truyền thống đức tin chính là những bậc cao tuổi thuộc thế hệ ông bà hay cha mẹ lớn tuổi. Tại nhiều địa phương, nếu không có những người lớn tuổi, nhất là cao tuổi, thì nhà thờ sẽ dễ rơi vào cảnh trống vắng.
Trong Tân Ước, hai ông bà già Giacaria và Isave đã được Chúa chọn để mở đầu cho một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ. Nhờ phép lạ, hai ông bà già đã sinh ra Gioan Baotixita, đấng dọn đường cho Đấng Cứu Thế ( x Lc 1, 5- 25).
3/ Giáo hội của công việc bác ái và của Lời Chúa
Khắp nơi trên toàn cõi Giáo hội Việt Nam hôm nay, người ta thấy hai hoạt động đi song song. Không nơi nào chỉ loan báo Tin Mừng duy bằng các hoạt động bác ái, cũng không nơi nào chỉ loan báo Tin Mừng duy bằng Lời Chúa. Cả hai bổ túc cho nhau.
Trong Phúc Âm, ban đầu Chúa Giêsu  loan báo Tin Mừng bằng đề cao những việc bác ái. Người trả lời với các đầy tớ thánh Gioan Baotixita rằng : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe : Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sách, người chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng “ ( Mt 11, 4-5).
Nhưng về cuối đời, Đức Kitô rất nhấn mạnh đến việc đón nhận lời của Người : “Ai nghe những lời Ta nói, mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đến không để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối Ta và không đón nhận lời Ta, thì có quan toà xét xử người ấy. Chính lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Thật vậy, không phải Ta tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai, truyền lệnh cho Ta  phải nói gì, tuyên bố gì “ ( Ga 12, 47-49).
Tin vào Lời Chúa, Giáo hội Việt Nam hôm nay rất đề cao mục vụ Lời Chúa.
4/ Giáo hội của hoạt động bên ngoài và của đời sống nội tâm
Nhiều nơi đang bị lôi cuốn vào những tổ chức và sinh hoạt bên ngoài, sao cho hoành tráng, xôm tụ. Nhưng hầu như mọi nơi hiện nay đều đã thức tỉnh. Dấn thân vào những cái bề ngoài đó không phải xấu. Nhưng đạo sẽ dễ trở nên trống trải và bị tục hoá, nếu dửng dưng với đời sống nội tâm.
Đời sống nội tâm là đời sống thể hiện lời Chúa Giêsu dạy : “Thầy là cây nho, các  con là cành. Ai ở lại trong Thầy , và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” ( Ga 15, 5).
Khi đi sâu vào đời sống nội tâm, người tín hữu sẽ phân định được dần dần dung mạo thực của Thiên Chúa. Người là tình yêu. Người đã thương yêu ta trước. Người không thuộc về một phạm trù nào của ngôn từ thế gian. Người là Đấng thiêng liêng hằng sống. Người tìm gọi ta. Ta cần biết lắng nghe và đón nhận tình yêu của Người. Tất nhiên sa mạc tâm hồn là nơi thuận tiện nhất.
Trên đây là những vẻ đẽp tuyệt vời. Những vẻ đẹp không đồng đều ở mọi nơi. Nhìn sâu mới thấy. Nhìn chung sẽ rõ. Những vẻ đẹp này chứng tỏ Giáo hội Việt Nam đã vượt qua những khó khăn. Trong sự vượt qua thiêng liêng này, tôi nhìn thấy vô số tâm hồn dâng hiến, gắn bó với Chúa và thiết tha với Quê Hương.
Tất cả đều giúp tôi vững tin vào lời Chúa Giêsu đã dạy : “Và Ta, Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế “ ( Mt  28, 20).
Chúng ta tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho Giáo hội Việt Nam vượt qua được những thử thách mới, nhất là những thử thách nội bộ, xem ra đang có chiều hướng gia tăng.
 
 

Bùi-Tuần 1034: LÀM CHỨNG CHO TÌNH YÊU CHÚA 22-11-2007

 + GB. BÙI TUẦN
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh
 

Lễ Giáng sinh là một lễ vui. Có thứ vui lành thánh, thuộc về thực chất tôn giáo. Có thứ vui lành: 22-11-2007 Bùi-Tuần 1034

Lễ Giáng sinh là một lễ vui. Có thứ vui lành thánh, thuộc về thực chất tôn giáo. Có thứ vui lành mạnh, thuộc về thói quen tốt xã hội. Có thứ vui tai hại, thuộc về lạm dụng của con người.
Là người tin theo Chúa, chúng ta muốn chuẩn bị mừng đại lễ Giáng sinh một cách tốt nhất. Thiết tưởng cách tốt nhất là làm chứng cho tình yêu Chúa.
Chúa giáng trần là để làm chứng cho tình yêu. Chúng ta cùng với Người làm chứng cho tình yêu. Đi theo đúng hướng đó, chúng ta sẽ an tâm hoà mình vào niềm vui Giáng sinh.
Hướng đó cụ thể là thế nào? Tôi xin phép chia sẻ đôi chút về:
- Mấy đặc điểm của tình yêu Chúa trong lễ Giáng sinh.
- Tâm trạng cần có, khi làm chứng cho tình yêu Chúa.
1/ Mấy đặc điểm của tình yêu Chúa trong lễ Giáng sinh
Trước hết, tình yêu Chúa trong lễ Giáng sinh mang yếu tố khiêm nhường.
Nhìn vào hang đá, chúng ta thấy rõ tính khiêm nhường của tình yêu Chúa giáng sinh. Tính khiêm nhường đó được thánh Phaolô diễn tả trong thư gởi tín hữu Philiphê:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa,
mà không nghĩ nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.
Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế" (Pl 2,6-7).
Sự khiêm nhường của Chúa Giáng sinh là một vẻ đẹp quá sức tưởng tượng của ta. Nó làm cho chúng ta đáng lẽ phải hổ thẹn, khi chúng ta tưởng mình khiêm nhường, cho dù ở mức sâu nhất.
Yếu tố khiêm nhường của tình yêu Chúa đi liền với một yếu tố khác, đó là chịu khổ thay cho người khác.
Tiên tri Isaia đã nói trước về điểm quan trọng này trong tình yêu của Chúa Cứu thế: "Sự thật, chính Người đã mang lấy những đau khổ của chúng ta, đã gánh chịu những bệnh tật của chúng ta" (Is 53,4). Sự thật mà tiên tri Isaia tiên báo, đã được thánh Matthêu áp dụng vào Chúa Giêsu một cách trân trọng (x. Mt 8,17).
Gánh đau khổ thay cho người khác, đó là một ơn gọi trong mọi thời. Mỗi người chúng ta đã sống ơn gọi đó thế nào, để có thể chia sẻ niềm vui cứu độ với Đấng Cứu thế?
Tình yêu khiêm nhường và gánh khổ thay cho người khác, đó là chiều kích đời đời của sự kiện Chúa giáng sinh xảy ra trong thời gian. Chiều kích đời đời đó còn được tăng sức thiêng liêng lên, do yếu tố thứ ba, đó là Chúa đồng hoá mình với người nghèo.
Thật vậy, trong hang đá Belem, Chúa Cứu thế mặc lấy thân phận người nghèo khổ. Người đồng hoá chính mình với hạng người rốt hết. Nhìn cảnh đó, chúng ta mới hiểu lời Người sẽ quả quyết sau này: "Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm điều gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25,40).
Trên đây, chỉ là mấy điểm cần nắm vững, khi làm chứng cho tình yêu Chúa, nhất là dịp chuẩn bị lễ Chúa Giáng sinh.
2/ Tâm trạng cần có, khi làm chứng cho tình yêu Chúa
Khi làm chứng cho tình yêu Chúa, chúng ta cần có một tâm trạng tốt. Tâm trạng thiết tưởng tốt, đó là tâm trạng vâng ý Chúa trong sứ vụ được sai đi. Mỗi người được Chúa sai đi đều phải hiểu được sai đi trong sứ mạng sai đi của Chúa Giêsu. "Như Cha đã sai con đi thế nào, thì con cũng sai chúng đi như vậy" (Ga 20,21).
Chính Chúa Giêsu đã được sai đi, để làm theo ý Chúa Cha. "Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như sách thánh đã chép về con" (dt 10,5-7).
Như vậy, để việc làm chứng cho tình yêu Chúa được có hiệu quả tốt, chúng ta cần phải luôn luôn làm chứng trong tinh thần thực thi ý Chúa Kitô, đúng như sứ vụ kẻ hiến dâng mình và được Chúa sai đi.
Làm chứng cho một tình yêu có chiều kích thiêng liêng, xuất phát từ Chúa, mà không gắn bó chặt chẽ với Chúa, như cành với cây (x. Ga 15,5) thì dễ gì làm chứng được như Chúa muốn.
Cảnh làm chứng hiện nay cho tình yêu Chúa đang diễn ra một cách đáng ngại.
Thí dụ, trong nhiều trường hợp, những người không sống như Đức Mẹ Maria, lại dám áp dụng vào chương trình của mình lời của Đức Mẹ đã nói tiên tri: "Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc 1,51-52).
Hơn bao giờ hết, những người muốn làm chứng cho tình yêu Chúa cần phải khiêm tốn, tỉnh thức, cởi mở và tu thân.
Hơn bao giờ hết, chúng ta nên nhớ lời thánh tông đồ Phaolô khuyên môn đệ Timothê: "Phần con, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của con" (2 Tm 4,5).
Tinh thần thận trọng đó báo cho chúng ta biết: Việc làm chứng cho tình yêu Chúa trong những ngày chuẩn bị lễ Chúa Giáng sinh sẽ không miễn trừ cho chúng ta khỏi hy sinh. Nhưng nếu chịu hy sinh, mà làm chứng được cho tình yêu Chúa, thì sự hy sinh đó sẽ trở thành niềm hoan lạc cho ta, để lời chúc vui mừng ngày giáng sinh được có ý nghĩa đích thực.
Xin hãy tự hào, vì chúng ta được Chúa sai đi làm chứng cho tình yêu Chúa.
Chúa giáng sinh luôn yêu thương mọi người, cho dù rất nhiều người chưa nhận biết Chúa.
Tình yêu Chúa được ban tặng cho sự tự do của mỗi người. Chúng ta hãy làm tốt nhiệm vụ được sai đi của ta, rồi Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho những ai thiện chí được nhận biết tình yêu Chúa theo con đường mầu nhiệm của Người.
Như thế, mùa Vọng có thể được gọi là mùa ta được sai đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Làm chứng bằng lời nói, việc làm và nhất là bằng gương sáng đời sống.

 

Bùi-Tuần 1035: ”Thời nào cũng sẽ có ánh sáng thích hợp cho thời đó"

07-12-2007BT16
 

Bài phỏng vấn Đức Giám mục GB. Bùi Tuần nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Hàng Giáo: 07-12-2007 Bùi-Tuần 1035

CGvDT: Ba năm nữa, Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam (8-12-1960/8-12-2010). Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong kỳ Đại hội lần thứ X hồi tháng 10 vừa qua, cũng đã có những chuẩn bị cho dịp kỷ niệm này. Nhưng trước hết, xin Đức Cha cho biết đâu là ý nghĩa của việc thành lập một hàng giáo phẩm địa phương?
ĐGM. GB. BT: Theo tôi, việc Toà Thánh thiết lập Hàng giáo phẩm công giáo tại một quốc gia mang ý nghĩa của một sự công nhận mức độ trưởng thành nhiều mặt của một Giáo Hội địa phương. Cho nên, thiết lập Hàng giáo phẩm tại một Giáo Hội địa phương là thiết lập một tổ chức mang sự sống vừa hữu hình vừa vô hình; hữu hình về mặt cơ cấu và vô hình về mặt sức sống của Đức tin. Tổ chức này rất quan trọng cho Giáo Hội địa phương.
CGvDT: Và nhìn lại lịch sử của gần 50 năm qua, Hàng Giáo phẩm Việt Nam đã mang sự sống đó một cách đặc biệt, trong một giai đoạn lịch sử khó khăn?
ĐGM. GB. BT: Có thể nói như vậy, nhưng tôi nghĩ cũng không phải là không có những yếu tố mang ý nghĩa của hồng ân Chúa. Ngày 8-12-1960, Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thiết lập do Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Lúc đó Việt Nam đang còn trong tình trạng chia cắt Bắc, Nam. Bắc sống đạo theo tình hình miền Bắc; Nam sống đạo theo tinh thần miền Nam. Cả hai miền Nam Bắc đều có cùng chung một sự sống Đức tin như nhau, nhưng mỗi bên có hoàn cảnh và đặc điểm riêng của mình.
Sau biến cố 30-4-1975, Đất nước thống nhất, hai miền Bắc Nam của Giáo Hội Việt Nam có thể chia sẻ cho nhau sự sống hữu hình và vô hình của mình.
CGvDT: Và biến cố 30-4-1975 cũng là một cột mốc quan trọng về vị trí của Đức Cha trong Hàng giáo phẩm Việt Nam.
ĐGM. GB. BT: Vâng. Biến cố đó cũng là thời điểm tôi được Toà Thánh chỉ định làm Giám mục. Qua việc bổ nhiệm này, tôi được chính thức tham gia vào Hàng giáo phẩm Việt Nam.
CGvDT: Là một người trong cuộc, Đức Cha có nhận định gì về vai trò của Hàng giáo phẩm Việt Nam trong giai đoạn đó?
ĐGM. GB. BT: Lúc đó, hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn thayđổi, đặc biệt đối với miền Nam. Có thể nói, rất nhiều tín hữu công giáo hoang mang trước thời cuộc mới. Nhưng Hàng giáo phẩm đã là nguồn ánh sáng soi dẫn cho họ.
Hàng giáo phẩm không thay đổi được lịch sử. Nhưng Hàng giáo phẩm giúp cho các tín hữu thay đổi cái nhìn của mình. Cái nhìn được thay đổi không do sáng kiến tự ý, nhưng do nền tảng Kinh Thánh. Hàng giáo phẩm không đưa ra một lúc, nhưng dần dần tuỳ dịp, tuỳ vào những chuyển biến của thời cuộc, nhưng luôn đặt nền tảng trên Tin Mừng của Đức Giêsu và Giáo huấn của Hội Thánh.
CGvDT: Nhìn lại, trong giai đoạn mới mẻ và đầy khó khăn, đó, Hàng giáo phẩm Việt Nam có những khuôn mặt lớn đã góp phần rất quan trọng trong việc đề ra những đường hướng mục vụ cần thiết cho Giáo Hội Việt Nam?
ĐGM. GB. BT: Tôi cũng nghĩ như vậy. Và, theo con mắt Đức tin, chúng ta có thể coi đó là sự quan phòng của Chúa đối với cộng đoàn bé nhỏ của Người tại Đất nước này.
CGvDT: Xin Đức Cha nêu lên một số những thay đổi cái nhìn mà Hàng giáo phẩm Việt Nam đã giúp cho các tín hữu của mình?
ĐGM. GB. BT: Đã có rất nhiều thay đổi. Nhưng theo tôi, có bốn thay đổi đáng được nêu lên. Đó là:
1. Sám hối và bám chặt vào Chúa hơn trước.
2. Giới thiệu vinh quang của Chúa một cách khác trước.
3. Thực hiện việc nên thánh một cách khác trước.
4. Tìm nghị lực ở những nguồn khác trước.
CGvDT: Xin phép Đức Cha để đi sát hơn vào bốn thay đổi mà Đức Cha vừa nêu lên. Trước hết, "Sám hối và bám chặt vào Chúa hơn trước". Đây là một thái độ sống Đức tin của người công giáo phải luôn sống!
ĐGM. GB. BT: Đúng vậy, trước kia người theo đạo có quan tâm đến sám hối, đến đời sống nội tâm. Nhưng sau biến cố 30-4-1975, hai miền đạo Bắc Nam thấy mọi sự xảy tới không như mình tưởng, nên đã quay về với Chúa sâu hơn, trọn vẹn hơn. Họ thực hiện triệt để các lời Chúa Giêsu phán: "Hãy sám hối trở về, vì Nước Trời đã gần" (Mt 4,17); "Nước Trời không đến như điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này, hay: Ở kia kìa, vì này Nước Trời đang ở giữa anh em" (Lc 17,20-21).
Tôi còn nhớ những cuộc tĩnh tâm cho linh mục giáo phận sau 30-4-1975. Hoàn cảnh vật chất lúc đó rất eo hẹp, nhưng tất cả các linh mục đều rất sốt sắng. Các ngài chỉ lo cầu nguyện, sám hối, bám chặt vào Chúa. Không đủ giường chiếu, nhiều linh mục trẻ về tĩnh tâm tình nguyện nằm đất. Lúc đó, tôi cảm thấy bầu khí tĩnh tâm chìm ngập trong lửa Chúa Thánh Thần.
CGvDT: Và với một thái độ như thế, sẽ dẫn đến thay đổi thứ hai mà Đức Cha nêu lên: "Giới thiệu vinh quang của Chúa một cách khác trước", "Một cách khác trước" phải chăng là sự từ bỏ cơn cám dỗ triền miên về quyền và vinh quang bên ngoài mà Giáo Hội thường gặp?
ĐGM. GB. BT: Trước đây, nhiều nơi có thói quen giới thiệu vinh quang của Chúa qua những hoành tráng, đắc thắng của Giáo Hội. Nhưng sau khi Giáo Hội Bắc Nam gặp gỡ nhau, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau, Hàng giáo phẩm Việt Nam đã không ngần ngại giới thiệu vinh quang của Chúa được tỏ hiện ở sự khiêm nhường, khó nghèo của Chúa tại hang đá Bêlem và sự hy sinh đau đớn của Chúa trên thánh giá tại núi Canvê.
Mọi tín hữu được Chúa gọi hãy giới thiệu vinh quang Chúa qua đời sống khiêm tốn, khó nghèo và hy sinh. Tất nhiên, họ sẽ phải chịu nhiều đau khổ, hy sinh. Nhưng nhờ nhìn lại gương Chúa Giêsu xưa, họ được an ủi và bình an.
CGvDT: Từ đó, người công giáo Việt Nam sẽ "Thực hiện việc nên thánh một cách khác"?
ĐGM. GB. BT: Trước đây, không thiếu người cứ tưởng nên thánh là phải làm những việc lớn lao. Nhưng hoàn cảnh cụ thể của giai đoạn mới kêu gọi người ta nhớ lại việc nên thánh chỉ đơn sơ là thực thi ý Chúa. "Không phải những ai kêu 'lạy Chúa, lạy Chúa', là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta là Đấng ngự trên trời" (Mt 7,21).
Thánh ý Chúa về mỗi người là chu toàn bổn phận bình thường của mình, nhưng một cách khác thường. Lúc đó, "Nước Chúa không phải là chuyện đồ ăn, thức uống, nhưng là công lý, bình an và hoạn lạc trong Chúa Thánh Thần" (Rm 14,17).
Công lý, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần sẽ đến với ta, khi ta sống Tám Mối phúc. Đây là những liên đới xã hội rất thường, nhưng rất khó. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, bao người sống Đức tin trong giai đoạn khó khăn đã thực hiện được.
Tôi đã chứng kiến rất nhiều cảnh sống vâng phục thánh ý Chúa trong đời thường. Đời thường là cuộc sống làm ăn, cuộc sống gia đình, cuộc sống tham gia vào văn hoá và sinh hoạt xã hội, ngay cả những cảnh chịu bệnh tật, chịu oan ức, sỉ nhục. Họ đã vâng phục thánh ý Chúa một cách khác thường, nghĩa là với động lực thiêng liêng cao cả.
CGvDT: ...và "Tìm nghị lực ở những nguồn khác trước"?
ĐGM. GB. BT: Trước đây, nhiều tín hữu để mình trôi theo trào lưu tìm nguồn nghị lực ở những đối tượng khác nhau như: Thế lực chính trị, thế lực kinh tế, thế lực danh vọng. Nhưng sau những thử thách đau đớn, nhiều người đã tập trung tìm nguồn nghị lực ở cầu nguyện, thánh lễ, suy niệm và phục vụ yêu thương. Nói tắt là lúc khó, họ thực hiện triệt để hơn lời Chúa Giêsu phán xưa: "Hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho chúng con sau" (Mt 6,31).
CGvDT: Vâng, nhưng theo Đức Cha, những "ánh sáng thích hợp" cho tương lai của cộng đoàn Dân Chúa tại Việt Nam sẽ là gì?
ĐGM. GB. BT: Tôi không ngần ngại đưa ra một hình ảnh trong Phúc Âm, mà Đức Thánh Cha Bênedictô XVI đã dùng làm tựa đề cho một cuốn sách của Ngài: "Chúng con hãy là muối của đất" (Mt 5,13).
Rõ ràng đất chiếm đại đa số. Muối luôn giữ một địa vị thiểu số rất nhỏ, rất âm thầm. Nhưng nó lại có sức mang lại sự sống cho đất.
Người công giáo Việt Nam phải rất mặn về tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Chúa muốn như vậy, để họ có thể góp phần đem tình yêu cứu độ cho thế giới hôm nay.
Theo hướng suy nghĩ đó, tôi thấy ánh sáng thích hợp cho Giáo Hội Việt Nam hiện nay sẽ là đào tạo người công giáo Việt Nam nên muối của đất.
CGvDT: Cuối cùng, là một trong những Giám mục, tuy gia nhập Hàng giáo phẩm Việt Nam chỉ từ tháng 4-1975, nhưng lại là thời điểm khởi đầu của một giai đoạn đổi thay lịch sử quan trọng, và hiện nay đã về hưu và được nhiều người coi là một trong những trụ cột của Hàng giáo phẩm Việt Nam trong giai đoạn sau 1975, Đức Cha nghĩ gì về vai trò của Hàng giáo phẩm Việt Nam hiện nay?
ĐGM. GB. BT: Tôi luôn bé nhỏ. Bây giờ càng nhỏ bé hơn, do tình trạng về hưu và tuổi cao sức yếu.
Cảm nghĩ của tôi đối với Hàng Giáo phẩm Việt Nam lúc này là: Mọi người trong mọi địa vị khác nhau đều hiệp thông trong sứ vụ "Kẻ được sai đi".
Là những nhà lãnh đạo, Hàng Giáo phẩm Việt Nam hôm nay luôn cố gắng nhìn sâu trong hiện tại và nhìn xa trong tương lai.
Hiện tại không đơn giản. Tương lai không dễ dàng. Với tinh thần trách nhiệm cao, Hàng Giáo phẩm Việt Nam đi lên phía trước trong ý thức sâu xa về mầu nhiệm thánh giá: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta".
Năng động và khiêm tốn, Hàng Giáo phẩm Việt Nam hôm nay luôn làm chứng niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
CGvDT: Xin chân thành cám ơn Đức Cha về cuộc phỏng vấn này.

 

Bùi-Tuần 1036: Nhìn lại năm 2007 NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG

 GIÚP PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC 05-12-2007
+ GB. BÙI TUẦN
 

Năm 2007 là năm phát triển. Trong đạo ngoài đời, phát triển là mơ ước, là cố gắng, là tự hào:05-12-2007 Bùi-Tuần 1036

Năm 2007 là năm phát triển. Trong đạo ngoài đời, phát triển là mơ ước, là cố gắng, là tự hào.
 Riêng về tôn giáo, phát triển có thể được đánh giá về nhiều mặt, như: Nhân sự, cơ sở, đất đai, xây cất, tiền bạc, tổ chức, lễ lạy, quan hệ, hiện diện, ảnh hưởng, nhất là trung thành với tinh thần Đấng sáng lập.
Ở đây, tôi nói tới phát triển trong ranh giới nội bộ Công giáo Việt Nam.
Trong nội bộ đó, tôi chỉ để ý đến mặt đạo đức. Đề tài sẽ là thế này:
Năm qua, những yếu tố nào được coi là có ảnh hưởng mạnh nhất trong việc phát triển đạo đức nơi người công giáo Việt Nam.
Thưa là những yếu tố sau đây:
1/ Lời Chúa được mộ mến
Lời Chúa giữ vai trò rất quan trọng trong việc cứu rỗi. Ở đây, chỉ xin nhắc lại lời thánh Phaolô khuyên môn đệ Timôthê: "Từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Kitô Giêsu. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh ứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành" (2 Tm 3,15-17).
Lời Chúa là ánh sáng, là sự sống, là khí giới. Đàng sau Lời Chúa có chính Chúa hiện diện. Vì thế, những người nào, nơi nào mộ mến Lời Chúa đều đã gặp được Chúa.
Mộ mến Lời Chúa là kính trọng Lời Chúa, nghe Lời Chúa, đọc Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, sống Lời Chúa.
Nơi nào lòng mộ mến Lời Chúa phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu, nơi đó thấy rõ đạo đức đã đổi mới con người một cách lạ lùng.
2/ Phép Thánh Thể được tôn sùng
Chúa phán: "Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành  nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng vậy, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,4-5).
Phép Thánh Thể là một cách Chúa Giêsu ở lại giữa nhân loại. Ở lại thực sự. Ai ở lại với Người, sẽ được Người đổi mới bản thân, để rồi ra đi, sinh nhiều hoa trái.
Điều cần thiết là phải ở lại thực sự với Chúa. Trong thánh lễ và trong những giờ chầu.
Năm 2007, nhiều cộng đoàn đã có sáng kiến, để những ai muốn chầu Mình Thánh tự do được toại nguyện. Năm 2007, nhiều cộng đoàn đã có những đổi mới về thánh lễ. Đã có sự bớt đi những phát biểu, những rườm rà không cần thiết, để tập trung vào Đức Kitô.
Kinh nghiệm cho thấy: Nơi nào có đông người ở lại với phép Thánh Thể và tập trung vào Đức Kitô, để sống mật thiết với Người, nơi đó đạo đức đã gây được những biến chuyển sâu sắc trong nếp sống từ trong ra ngoài.
3/ Người nghèo hèn được quan tâm
Chúa phán về ngày phán xét: "Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên hữu rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con tự thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn, Ta khát, các con đã cho uống... Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu... Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các con đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25-24-40).
Qua những tuyên bố dứt khoát trên đây, mọi người phải tin rằng: Quan tâm lo cho những thành phần bé mọn trong xã hội là một bổn phận đạo đức không thể coi thường.
Hiện nay, lớp người bé mọn trong xã hội Việt Nam còn rất đông. Khoảng cách giữa giàu và nghèo còn rất lớn. Chúa đợi chúng ta ở nơi người nghèo hèn. Họ là địa chỉ Chúa sai ta đến. Ta đến với họ là đến với Chúa.
Nhận thức như thế, nhiều giáo đoàn tại Việt Nam đã coi công việc bác ái xã hội là một hoạt động để làm chứng đức tin. Dịp Noel vừa qua, xã hội Việt Nam khắp nơi đã ghi nhận và ca ngợi việc đó. Bác ái xã hội đối với người nghèo của nhiều giáo xứ giáo phận đã được đánh giá rất cao.
Thực vậy, năm 2007, nơi nào việc loan báo Tin Mừng và làm chứng cho đức tin được kết quả tốt, nơi đó chắc chắn một phần là do hướng mở ra về phía người nghèo khổ được phát triển một cách tích cực và tế nhị.
4/ Hội Thánh được kính trọng, yêu mến
Chúa Giêsu phán: "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Yêu thương nhau, kính trọng nhau, đó là một dấu chỉ, mà chính Chúa đã chọn như một đặc điểm, để làm chứng mình thuộc về Chúa.
Đặc biệt yêu thương, kính trọng đối với Hội Thánh là một dấu chỉ thuyết phục.
Hội thánh là một thứ bí tích. Hội Thánh được Chúa thiết lập, được Chúa sai đi, được Chúa thánh hoá, được Chúa yêu thương. Mỗi người tín hữu đều được sinh vào Hội Thánh nhờ phép Rửa, được lớn lên nhờ phép Thêm sức, được nuôi dưỡng nhờ phép Mình Thánh, được giao hoà nhờ phép Giải tội, được mạnh sức nhờ phép Xức dầu, được huấn luyện nhờ phép Truyền chức, được kết hợp với nhau thành vợ chồng nhờ phép Hôn phối. Tất cả đều nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh. Hội Thánh là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho ta. Biết kính trọng, biết ơn Hội Thánh và các vị Chúa đặt đứng đầu các cấp Hội Thánh là đòi hỏi của lòng hiếu thảo.
Chiều ngày lễ Giáng Sinh vừa qua, tôi tham dự qua truyền hình trực tiếp buổi Đức Thánh Cha Benedictô XVI đọc diễn văn về hoà bình và ban phép lành bình an cho thế giới. Tôi hiệp thông với Ngài nguyện cầu cho mỗi người chúng ta được ơn luôn làm sứ giả hoà bình và dụng cụ bình an của Chúa trên Quê Hương Việt Nam này.
Trên thực tế, nhiều nơi, sự yêu thương nhau là rất chan hoà, sự hiệp thông Toà Thánh là rất sâu xa. Nhờ thế, mà đạo đức phát triển mạnh, Hội Thánh được xã hội không công giáo kính nể, trọng thị.

Tôi vừa nhắc tới 4 yếu tố quan trọng giúp phát triển đạo đức.
Khi 4 yếu tố trên đây bắt đầu được phát triển tốt, người ta sẽ thấy xuất hiện nhiều cản trở. Cản trở do thế gian, do ma quỷ, do bất đồng nội bộ, do chính bản thân mình. Sẽ có những phấn đấu cam go, những bước đi đau đớn, những hoàn cảnh cô đơn. Đúng là: Thử thách trong bão gió, trưởng thành trong suy niệm gặp Chúa.
Ngay lúc này, đầu năm 2008, ta sốt sắng dâng lên Chúa quyết tâm của ta sẽ làm hết sức để cộng tác với Chúa trong việc phát triển đạo đức. Đó là quyết tâm, và đó cũng là sứ mệnh.

 

Bùi-Tuần 1037: VIẾT LUẬN ÁN TIẾN SĨ 07-12-2007

+ GB. BÙI TUẦN
Nhân dịp Quốc Hội bàn về Giáo Dục và Đào Tạo
(16/11/2007)
 

Chiều ngày 16/11/2007 vừa qua, Quốc Hội Việt Nam đã có một phiên họp hào hứng. Bởi vì: 07-12-2007 Bùi-Tuần 1037

Chiều ngày 16/11/2007 vừa qua, Quốc Hội Việt Nam đã có một phiên họp hào hứng. Bởi vì vấn đề đặt ra, để chất vấn và trả lời, là Giáo Dục và Đào Tạo.
Nhiều người đã theo dõi phiên họp qua truyền hình trực tiếp. Họ đã được chứng kiến một bầu khí trí thức, bàn về một vấn đề trí thức, đạo đức và thời sự. Sôi nổi, nhưng vấn đề không thể kết thúc trong thời gian vài giờ và trong không gian toà nhà Quốc hội.
Giữa cõi mênh mông của vấn đề, tôi để ý đến một điểm nhỏ đã được nêu lên, đó là luận án tiến sĩ.
Góp phần hôm nay của tôi vào điểm nhỏ đó, sẽ là nói lên kinh nghiệm về việc viết luận án tiến sĩ ở một Đại học Âu châu.
Kinh nghiệm đó đòi hỏi người viết luận án phải có:
- Kiến thức nền tương đối vững,
- Kiến thức mở tương đối rộng,
- Kiến thức mới tương đối rõ.
Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể, đó là viết luận án tiến sĩ Triết học.
1/ Kiến thức nền tương đối vững
Kiến thức nền nói đây là kiến thức thường được đòi hỏi để qua cấp cử nhân. Nền đó gồm:
a) Kiến thức về hệ thống triết học gồm: Luận lý học, tâm lý học, siêu hình học, luân lý học.
b) Kiến thức về lịch sử triết học gồm: Lịch sử triết học cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại.
c) Kiến thức về cách suy tư triết học: Học các môn triết không phải chỉ là tiếp thu nội dung các môn học thuộc ngành Triết, mà còn phải rút ra cách suy tư của Triết. Đối với Triết, suy tư là một cách nhìn. Mắt nhìn một vật là nhìn nó với cái khác và trong cái khác. Thí dụ nhìn bàn tay một người, thì phải nhìn nó với toàn cảnh người đó, và nhìn người đó trong khung cảnh nhất định nào  đó. Cũng vậy, suy tư một vấn đề là trí khôn nhìn vấn đề đó dính vào các vấn đề khác, và trong những hoàn cảnh xung quanh nó. Luật nhìn phải chặt chẽ.
d) Kiến thức về cách tìm sự thực: Sự thực không đơn giản. Nó có nguồn. Nó có hành trình chuyển biến. Phải biết thận trọng trước mọi khẳng định. Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên. Đó là khi tôi trình bản thảo luận án triết, thầy giáo của tôi đã gọi tôi đến và chỉ cho thấy một lỗi lầm đáng phải trừ điểm. Đó là tôi đã trích một đoạn văn từ một tác giả chính mình cũng đã trích từ một tài liệu trích đăng, chứ không phải là bản chính. Thầy tôi bảo: Phải kiểm tra từ nguồn, dù nguồn đó viết bằng tiếng Latinh hay Hy Lạp.
Bốn chi tiết trên đây làm nên cách viết có khoa học trong một luận án tiến sĩ triết.
Ngoài kiến thức nền tương đối vững, người viết luận án còn cần kiến thức mở tương đối rộng.
2/ Kiến thức mở tương đối rộng
Kiến thức mở là kiến thức do đọc nhiều tác giả khác nhau về một vấn đề.
Thầy giáo của tôi đòi hỏi kiến thức học trò của ông phải mở. Ông muốn biết những sách tôi đã đọc có liên quan đến luận án. Liệt kê vài chục cuốn, ông vẫn cho là chưa đủ. Tất nhiên phải biết vài sinh ngữ. Có lần ông gợi ý cho tôi phải tìm tài liệu ngoài thư viện Đại học và ngoài nước. Tất nhiên tôi vâng, để kiến thức được mở rộng.
Càng đọc các tài liệu tham khảo, tôi càng nhận ra sự chật hẹp của kiến thức mình. Càng đào sâu, càng thấy mình nông. Càng học hỏi, càng thấy mình còn ngu dại. Khi tôi tỏ bày khám phá đó với thầy tôi, ngài nói: Biết mình còn xa chân lý vẹn toàn, thì đó mới là cái khôn của triết, và mới hăng say tiếp tục khiêm tốn lên đường. Triết là yêu mến sự khôn ngoan và không ngừng tìm nó.
Càng đi tìm, càng thấy những cái mới.
3/ Kiến thức mới tương đối rõ
Khi cọ sát với nhiều quan điểm khác nhau về một vấn đề, người suy tư khát khao chân lý sẽ thấy mình có thể so sánh, để tự thấy mình không nên khép mình vào một khuôn khổ lỗi thời nguy hại.
Nếu mỗi tác giả có một rung động riêng, một cái nhìn riêng, một khám phá riêng có giá trị mới, thì đó là dấu tốt, để việc phục vụ ích chung được phong phú. Miễn là phục vụ trong khiêm tốn.
Nếu suy nghĩ có tính cách độc lập, không bị chi phối bởi sức ép dư luận, quyền lực, chỉ do đòi hỏi của chân lý, thì đó là dấu tốt báo hiệu cái mới trong sự trưởng thành. Miễn là trưởng thành trong sự kính trọng lẫn nhau.
Tôi thiết nghĩ: Sẽ là một lỗi lầm của người trí thức, nếu họ thiếu khiêm tốn, tự trọng và thiếu kính trọng người khác, nếu họ thiếu cố gắng lên đường tìm sự thực, nếu họ thiếu phân định cái gì có giá trị thực nên làm, cái gì nông nổi không nên làm, nhất là làm cho Quê Hương Đất Nước.
Mỗi điểm tới của suy tư sẽ chỉ là nơi tạm nghỉ ngơi, để rồi điểm tới đó sẽ trở thành điểm xuất phát mới. Đi mãi không ngừng, bởi vì tình hình luôn biến đổi, với những hy vọng mới và những nguy cơ mới.
Hành trình suy tư là một hành trình lâu dài. Hành trình đó được thực hiện bằng nhiều bước nhỏ.
Đối với tôi, hành trình dài đó bao giờ cũng hướng về Thiên Chúa là nguồn chân thiện mỹ.
Với chia sẻ trên đây, tôi muốn tiếp tục những ưu tư trăn trở của Quốc Hội trước vấn đề giáo dục và đào tạo nói chung, và trước vấn đề viết luận án tiến sĩ nói riêng.
Long Xuyên, ngày 18 tháng 11 năm 2007

 

Bùi-Tuần 1038: QUY CHIẾU 24-12-2007

- + GB. BÙI TUẦN
 

Thời gian này là đầu năm Tây và cuối năm Ta. Đây là những ngày kêu gọi hồi tâm. Hồi tâm:24-12-2007 Bùi-Tuần 1038

Thời gian này là đầu năm Tây và cuối năm Ta. Đây là những ngày kêu gọi hồi tâm. Hồi tâm để xem lại đời mình. Quá khứ một năm đời mình đã ra sao, và tương lai năm mới đời mình sẽ phải thế nào? Ra sao, thế nào là trong phương diện ổn định đạo đức.
Muốn thấy sự thật, tôi luôn quy chiếu. Tôi đem đời tôi quy chiếu vào Lời Chúa, xem tôi có sống theo Lời Chúa không?
Khi quy chiếu vào Lời Chúa, tôi luôn làm việc đó trong tâm tình cầu nguyện. Tôi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần trong đức tin đơn sơ khiêm tốn.
1/ Quy chiếu vào Lời Chúa, khi chọn con đường tôi đi
Trước mắt tôi là vô số con đường. Thí dụ: Đường là một giai cấp, như nông dân, công nhân, doanh nhân; đường là một chủ nghĩa, như tư bản, cộng sản, dân tộc; đường là một nếp sống, như nếp sống tự do bất chấp, nếp sống khắc kỷ tôn ti; đường là một nhân vật, như nhân vật triết học, nhân vật chính trị, nhân vật kinh tế.
Tôi sẽ chọn con đường nào cho tôi? Thưa: Để chọn, tôi quy chiếu vào Lời Chúa. Lời Chúa giới thiệu rất rõ. Con đường tôi phải chọn chính là Chúa Giêsu Kitô.
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
"Thầy là cây nho, các con là cành" (Ga 15,5).
Tôi tin những lời Chúa dạy trên đây. Với niềm tin vững vàng, tôi cam kết theo Người. Tôi năng đọc và suy niệm lời Người. Tôi tập trung lòng đạo vào gương sáng đời Người. Người là đường của tôi. Đường ấy không phải là một hệ thống giáo điều, nhưng là Đấng linh thiêng sống động. Người không xa tôi, Người gần gũi tôi.
Có thể nói: Đường của tôi là ở trong tôi. Đường đó có trái tim. Trái tim ấy chứa tình yêu lạ lùng. Đó là tình yêu khiêm tốn hiền lành, giầu lòng thương xót. Thương xót quá tưởng tượng của loài người. Vì xót thương mà chịu muôn vàn đau đớn để cứu chuộc nhân loại. Vì xót thương mà muốn đồng hoá mình với các kẻ khó nghèo khổ đau.
2/ Quy chiếu vào Lời Chúa, để nhận ra dấu chỉ của con đường đã chọn
Chúa sống trong tôi như một con đường. Đường ấy có những đặc điểm. Chúa Giêsu phán: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Trái tim của Chúa giúp tôi nhìn ra dấu chỉ bề ngoài của những chặng đường nào thực sự là đúng. Đó là những chặng đường tôi sống Lời Chúa một cách sống động. Sống tình yêu chấp nhận khổ đau, để cộng tác với Chúa trong chương trình cứu chuộc.
Có những khổ đau không thể tránh được, như các giới hạn về tuổi tác và sức khoẻ. Có những khổ đau nếu muốn tránh thì có thể tránh được, như các hình thức dấn thân, nhưng Chúa khuyên không nên tránh.
Khổ đau thì qua đi, nhưng đã khổ đau thì không qua đi bao giờ. Thương tích còn đó. Nhưng vết thương còn đó, để đào sâu mãi tình yêu. Chúa sẽ nhìn đến các thương tích như thế của mỗi người, để đánh giá từng người. Chính vì thế, mà giá trị mỗi người trước mặt Chúa sẽ không luôn giống như giá trị của họ trước mặt thế gian.
3/ Quy chiếu vào Lời Chúa, để thấy rõ Đấng sẽ phán xét tôi
Chúa Giêsu phán: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh quang của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê" (Mt 25,31-32).
Những lời trên đây cho tôi thấy: Đấng sau cùng xét xử chúng ta là một Đấng ngoài lịch sử. Đấng ấy ở trên thế gian. Vì thế, phán đoán hoàn toàn xác thực sẽ không ở trong cái vòng người ta xét xử nhau.
Đấng phán xét mỗi người là chính Chúa Giêsu. Người sẽ phán xét không theo các phóng sự, các bút ký, các điều tra, các suy đoán, các nghiên cứu, các dư luận, các toà án. Nhưng Người sẽ xét xử theo tiêu chuẩn của Người, trong đó lòng nhân ái, bổn phận bác ái là tiêu chuẩn quan trọng nhất.
Người biết tất cả. Người biết rất rõ. Không ai che giấu được gì. Không ai có thể cãi lại phán quyết của Người.
4/ Quy chiếu vào Lời Chúa, để biết tôi đi về đâu
Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy" (Ga 16,5). "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con" (Ga 17,24).
Với những lời trên đây, Chúa cho tôi biết: Tôi được về với Chúa Cha. Người Cha ấy hoàn toàn là tình yêu. Thư thánh Gioan quả quyết: "Thiên Chúa là tình yêu" (2 Ga 4,8).
Thời gian này, niềm tin trên đây đã trở thành rất sống động nơi tôi. Khi thức, tôi luôn nghĩ rằng tôi đang trên đường về Nhà Cha. Khi ngủ, tôi thường chiêm bao chuyến đi về với Cha đã gần kết thúc. Nhưng càng gần tới nhà Cha, tôi càng gặp nhiều gian nan trắc trở. Nhưng chuyến đi ấy không cô đơn. Một chuyến đi chưa đặt chân tới Nhà Cha,  nhưng tấm lòng như đã bên lòng Cha giàu tình thương xót.
Khi hồi tâm là chuỗi dài quy chiếu, tôi sẽ thấy phải làm gì sau hồi tâm. Trước hết tôi phải sám hối vì những khoảnh khắc lỗi lầm. Tiếp đến là những quyết tâm sẽ sống tốt hơn. Sau cùng là tôi tạ ơn Chúa vì tất cả.
Tôi biết lịch sử sẽ có nhiều bất ngờ. Nhất là lịch sử Hội Thánh. Mất mát bất ngờ. Khổ đau bất ngờ. Tang tóc bất ngờ. Phục sinh bất ngờ. Nên phải rất tỉnh thức và khôn ngoan. Trong mọi tình huống, tôi không ngừng bám chặt vào Đấng ở trên lịch sử.
Tôi cũng biết an bình của quá khứ không bảo đảm rằng tương lai cũng sẽ thế. Nhưng tôi tin Chúa luôn ở với tôi. Và đó là suối nguồn tình yêu, tôi luôn quy chiếu và tựa nương phó thác.

 

Bùi-Tuần 1039: CẢNH BÁO CUỐI NĂM 08-01-2008

+ B. BÙI TUẦN
 

Cuối Năm Ta, các cộng đoàn lớn nhỏ trong Hội Thánh Việt Nam thường làm tổng kết. Tổng:08-01-2008 Bùi-Tuần 1039

Cuối Năm Ta, các cộng đoàn lớn nhỏ trong Hội Thánh Việt Nam thường làm tổng kết. Tổng kết những gì, và vì mục đích gì?
Câu trả lời thường rất hồn nhiên. Tức là tổng kết các thành tích, để mừng nhau và tạ ơn Chúa.
Lời Chúa cảnh báo
Nói thế không sai theo cái nhìn chủ quan tự nhiên. Nhưng Chúa thấu suốt mọi sự, Người cảnh giác chúng ta hai điều. Điều thứ nhất là đừng phô trương, điều thứ hai là hãy khiêm nhường. Hai điều đó đã được Chúa Giêsu nói rõ ràng trong bài Phúc Âm Lễ Tro, năm nay trùng vào ngày 30 Tết.
Về việc bố thí từ thiện, Chúa phán: "Khi các ngươi bố thí, thì đừng thổi loa trước như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ.
"Quả thực Ta bảo các ngươi, họ đã được thưởng công rồi.
"Còn ngươi có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín, và Cha các ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi" (Mt 6,1-4).
Về việc cầu nguyện, Chúa phán: "Khi các ngươi cầu nguyện, thì cũng chớ làm như kẻ giả hình, họ ưa cầu nguyện giữa hội đường và các ngã đường, để thiên hạ trông thấy.
Quả thực Ta bảo các ngươi rằng: Họ đã được thưởng công rồi.
"Còn ngươi, khi cầu nguyện thì hãy vào phòng, đóng cửa lại mà cầu xin với Cha ngươi, Đấng ngự nơi bí ẩn sẽ trả công cho ngươi" (Mt 6,5-6).
Về việc ăn chay khổ chế, Chúa phán: "Khi các ngươi ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não. Họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta.
Quả thực, Ta bảo các ngươi, họ đã được thưởng công rồi.
"Còn ngươi, khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết việc ngươi ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha ngươi, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi" (Mt 6,16-18).
Thực thi lời Chúa cảnh báo
Trong những thế kỷ đầu của Hội Thánh, những lời Chúa phán dạy trên đây đã được hầu hết cá nhân và cộng đoàn đức tin thực hiện nghiêm túc. Không ai thêm, không ai bớt. Mọi người đều biết đạo mình chỉ phải dựa vào một Chúa mà tồn tại và phát triển.
Nhưng với tình hình lịch sử biến chuyển, lời Chúa trên đây đã được thực hiện với nhiều linh động. Vì nhu cầu vận động dư luận, nhu cầu chia sẻ, nhu cầu truyền đạo cần dựa phần nào vào kinh tế, văn hoá. Nên không thiếu nơi cảm thấy phải dùng đến nhiều hình thức cởi mở. Không nói là để phô trương, nhưng sẽ nói là để khích lệ trong nội bộ, và để làm chứng đạo mình trước thế gian.
Bây giờ, chẳng may với phong trào thế tục dâng cao, lời Chúa phán dạy trên bị một số người coi như từ chối. Thực tế cho thấy nhiều hình thức phô trương quá mức đã trở nên bình thường.
Cùng với việc phô trương mình, tệ hại là có việc khinh chê, kết án hạ giá người khác, chỉ để nâng mình lên.
Trong các thứ phô trương, thì phô trương quyền lực xem ra đang diễn tiến tinh vi và nguy hiểm.
Trong tình hình như thế, tôi vẫn tin vào lời Chúa. Nếu thực sự là phô trương, thì phải tránh. Nếu phải cởi mở, thì vẫn giữ tinh thần khó nghèo khiêm tốn. Nên, khi suy gẫm bài Phúc Âm Lễ Tro, ngày 30 Tết tới này, tôi vẫn coi đây là một cảnh báo quan trọng.
Nhu cầu hiện nay
Nếu đây là cảnh báo quan trọng, thì ta nên nhìn hiện tình đạo tại Việt Nam dưới ánh sáng Phúc Âm, nhất là tình hình cộng đoàn của ta. Nên nhìn sâu, nhìn xa.
Hiện nay, phần đông đồng bào Việt Nam nói chung và tín hữu Việt Nam nói riêng đều cảm thấy mình đang vác trên mình nhiều gánh nặng. Họ rất muốn tìm được một điểm tựa, để được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng. Tìm ở đâu? Thưa ở Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Lời Chúa trên đây cho thấy ý Chúa. "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Các con hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28-29).
Chính ở sự Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, mà Người trở nên điểm tựa, nơi nghỉ ngơi và nguồn bồi dưỡng cho chúng ta.
Nếu Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, biến chúng ta cũng nên hiền lành và khiêm nhường, thì hy vọng chúng ta cũng sẽ được nên điểm tựa, nơi nghỉ ngơi và nguồn bồi dưỡng cho nhiều người xa gần.
Hiền lành và khiêm nhường cũng là những đức tính của văn hoá nhân bản và truyền thống dân tộc Việt Nam, mà ngày Tết hay đề cao. Con người ta được kể là cao thượng nhờ những đức tính ấy.
Với lòng tin, chúng ta đón nhận lời Chúa cảnh báo ngày cuối năm. Nhờ đón nhận lời Chúa cảnh báo đó, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết tìm đến Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Nên nhớ cầu xin ơn đó với tất cả lòng khiêm tốn. Vì "Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (1 Pr 5,5).
Sau cùng, nhân dịp cuối Năm Ta, tôi xin được phép tâm sự về riêng tôi.
Năm đang qua là năm Chúa ban cho tôi nhiều hạnh phúc.
Hạnh phúc, vì tôi được đón nhận nhiều yêu thương và phục vụ, mà các thành phần Nước Trời đã ưu ái dành cho tôi, mặc dầu tôi bất xứng.
Hạnh phúc, vì tôi được chia sẻ phần nào nhiều yêu thương và phục vụ, mà Hàng Giáo phẩm Việt Nam đã tận tâm dành cho Dân Chúa và Dân Tộc, mặc dầu tôi yếu đuối.
Hạnh phúc, vì tôi được tham dự vào mầu nhiệm thánh giá, mà Chúa Cứu thế thường không ngại dành cho các môn đệ Người thương, mặc dầu tôi chỉ là môn đệ hèn hạ.
Với lòng khiêm nhường sám hối, tôi xin tạ ơn Chúa muôn đời.

 

Bùi-Tuần 1040: DỊP TẾT GẶP GỠ CHÚA 03-01-2008

-+ GB. BÙI TUẦN
 

Những ngày Tết, thường ai cũng bận rộn. Bận rộn lớn nhất là làm đẹp các liên hệ của mình:03-01-2008 Bùi-Tuần 1040

Những ngày Tết, thường ai cũng bận rộn. Bận rộn lớn nhất là làm đẹp các liên hệ của mình.
Đối với người công giáo, thì liên hệ với Chúa dịp Tết phải là ưu tiên số một. Làm đẹp liên hệ đó bằng nhiều cách. Cách tốt nhất là gặp gỡ chính Chúa.
Gặp gỡ thế nào?
Tôi xin phép gợi ý. Gợi ý này dựa theo Kinh Thánh và kinh nghiệm.
1/ Cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót
Tôi tạ ơn Chúa vì mọi ơn Chúa đã ban cho tôi, cho các người thân của tôi, cho cộng đoàn của tôi, cho Hội Thánh tôi và Quê Hương tôi.
Để tạ ơn, trước hết tôi nhận ra các ơn lành. Không phải nhận ra một cách chung chung, nhưng nhận ra từng loại, từng trường hợp, từng ơn riêng với tên của nó.
Riêng tôi, tôi nhận ra mấy ơn sau đây là những hồng ân quý giá nhất.
- Trước hết là ơn gắn bó với tình yêu Chúa Giêsu và luôn trung thành với tình yêu ấy.
Gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa Giêsu là một hành trình đầy chiến đấu cam go.
Thánh Phaolô viết: "Tôi tin chắc rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Khi đọc đoạn thư trên, tôi nghĩ thánh Phaolô không những đã viết về Ngài và về cộng đoàn của Ngài, mà cũng viết về chúng ta tại Việt Nam hôm nay.
Chúng ta đã phải đối mặt với biết bao gian truân dưới nhiều hình thức. Có những thách đố, có những cám dỗ, có những vu khống, có những nhục mạ, có những cạm bẫy. Chúng đến từ ngoài và đến từ trong. Nhưng chúng ta vẫn gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa Kitô Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Đó là một ơn trọng đại.
- Cùng với ơn gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa là ơn cầu nguyện.
Không phải cứ đọc kinh là cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn lời cầu. Thánh Phaolô viết: "Hơn nữa, lại có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu nguyện giúp cho chúng ta bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8,26-27).
Tối ngày 20-01-2008 vừa qua, đài truyền hình Việt Nam đã chiếu một cảnh cầu nguyện trên đường phố tại môt nước xa Việt Nam. Quá khích, cực đoan, cuồng tín. Thấy mà ghê sợ. Rất may là cảnh đó không xảy ra ở Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng phải luôn nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà cảnh giác.
Chính Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng ta đến việc quan trọng thứ hai cần thực hiện trong dịp Tết. Việc quan trọng đó là cầu xin ơn bình an.
2/Cầu xin ơn bình an
Bình an là lời chúc truyền thống trong dịp Tết. Bình an là nhu cầu cần thiết nhất trong năm mới.
Chúng ta gửi tới nhau lời chúc bình an. Chúng ta thực sự mong muốn bình an cho mình, cho mọi người thân, cho Hội Thánh và cho Quê hương.
Cùng với lời chúc bình an, chúng ta nhớ mình được Chúa sai vào Năm Mới như sứ giả hoà bình và như dụng cụ bình an.
Nhận thức mình được sai đi như thế, ta hết lòng cầu nguyện với Chúa, xin Người ban cho chính mình ta được bình an. Tất nhiên đây là sự bình an của Chúa như lời Chúa đã phán: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng" (Ga 14,27).
Bình an của Chúa là thế nào?
Chúa sẽ soi sáng cho ta lời đáp, khi ta cầu nguyện và đọc Kinh Thánh.
Ta sẽ dần dần nhận ra sự thực này: Bình an của Chúa được xây dựng trên tình yêu khó nghèo và khiêm tốn.
- Tình yêu khó nghèo và khiêm tốn, trước hết ở sự mỗi người chúng ta nhận ra chỗ đứng khiêm tốn của mình trong Hội Thánh.
Hội Thánh là một thân thể nhiệm mầu. Thân thể đó có nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể có một vị trí riêng thích hợp. Mỗi chi thể được Chúa trao cho một trách nhiệm riêng, với sự sai đi khác nhau. Chấp nhận sự sắp xếp của Chúa rồi, mỗi người cố gắng chu toàn bổn phận Chúa trao với tất cả lương tâm vâng phục ý Chúa, đó là tình yêu khiêm tốn, khó nghèo.
- Khi cố gắng chu toàn bổn phận của mình, chúng ta luôn giữ lòng ta khó nghèo, tinh thần thơ ấu thiêng liêng phó thác trọn vẹn. Tình yêu khiêm tốn khó nghèo đó sẽ là nguồn bình an cho ta.
- Tình yêu khiêm tốn khó nghèo còn là một tình yêu theo sát tình hình và các dấu chỉ.
Người sứ giả hoà bình của Chúa không yêu thương phục vụ một cách xa rời thực tế. Nhưng họ sẽ là người của lịch sử cụ thể theo từng chặng đường thời cuộc. Lịch sử như một dòng sông. Nước chảy không quay trở lại. Mỗi chặng của dòng chảy có những chuyển biến riêng. Chuyển biến đó là những dấu chỉ. Cần phải theo sát những chuyển biến đó, để xây dựng hoà bình.
Thí dụ: Sang năm mới này, Việt Nam sẽ có nhiều thay đổi. Thay đổi về thời tiết, thay đổi về giá cả, thay đổi về giáo dục, thay đổi về mức sống, thay đổi về bầu khí tôn giáo. Phải nghiên cứu những thay đổi đó, để đi vào lịch sử. Trước những thay đổi ấy, ta thấy có những việc cần làm ngay, có những việc nên làm, nhưng chưa đến lúc làm, có những việc lỗi thời nếu làm sẽ là phản chứng. Thiết tưởng đó là tình yêu khiêm tốn, khó nghèo.
Với chia sẻ trên đây, tôi tin sẽ được sống trong bầu khí gia đình đầm ấm của Chúa trong dịp Tết này. Một gia đình vui tươi, một gia đình cầu nguyện, một gia đình tạ ơn. Như lời thánh Phaolô viết: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu" (Tx 5,16-18).
Được sống trong một gia đình như thế sẽ là một hạnh phúc. Hạnh phúc này sẽ đưa tôi đến một hạnh phúc khác, đó là được thuộc trọn về Chúa. Nhờ vậy, tôi sẽ yêu thương và phục vụ trên đường vâng phục ý Chúa mãi mãi muôn đời.

 

Bùi-Tuần 1041: CHIA SẺ DỊP TẾT 26-01-2008

- + GB. BÙI TUẦN
 

Dịp Tết, tôi ước mong được sống bầu khí gia đình, với những gì là tình nghĩa nhất, chân thành:26-01-2008 Bùi-Tuần 1041

Dịp Tết, tôi ước mong được sống bầu khí gia đình, với những gì là tình nghĩa nhất, chân thành nhất.
Ước mong đó là chọn lựa đơn sơ của một người già, về hưu, mang nhiều suy yếu.
Trong tình trạng như vậy, tôi xin thân tặng tất cả gia đình dân Chúa một chút quà thiêng liêng. Đó là chia sẻ cái nhìn của tôi về năm Mậu Tý.
Tôi thấy:
1/ Sẽ có nhiều giao động mới trong đời sống tôn giáo
Giao động đó được nhận thấy rõ trong những chọn lựa của người tín hữu. Thí dụ: Chọn tiền của, chọn danh vọng, chọn sĩ diện, chọn "cái tôi" hơn là chọn Chúa.
Khi những giao động tôn giáo gặp giao động văn hoá, xã hội, kinh tế, chúng sẽ cùng nhau làm nên một làn sóng ngầm nguy hại.
2/ Sẽ có nhiều khủng hoảng mới trong lĩnh vực sức khoẻ linh hồn
Sức khoẻ linh hồn là sinh hoạt của các nhân đức và các ơn Chúa Thánh Thần.
Sinh hoạt này sẽ bị quậy phá bởi những bận rộn về phát triển vật chất, phát triển tổ chức, phát triển các giá trị trần tục.
Khi những khủng hoảng này gặp những khủng hoảng về sức khoẻ sinh lý và sức khoẻ tâm lý, chúng sẽ làm nên một đe doạ rất lớn cho sự ổn định và phát triển đạo đức.
3/ Sẽ có nhiều phá hoại mới trong đời sống Hội Thánh
Những phá hoại mới này mang hình ảnh con chuột.
Phá hoại bằng cách gậm nhấm dần dần những giá trị đạo đức.
Phá hoại bằng cách gieo rắc bệnh tật vào các cánh đồng truyền giáo và ngay tại các gia đình.
Phá hoại bằng cách lẩn trốn, giấu mặt như đoàn chuột trong đêm.
Khi những phá hoại âm thầm này gặp những phá hoại công khai trong Hội Thánh và xã hội, chúng sẽ tàn phá vừa mạnh mẽ vừa kín đáo nhiều công trình thiêng liêng.
4/ Sẽ có những hy vọng mới trong Hội Thánh
Sẽ có những cầu nguyện nhiều hơn.
Sẽ có những sám hối nhiều hơn.
Sẽ có những tỉnh thức nhiều hơn.
Sẽ có những dấn thân nhiều hơn.
Những hy vọng mới này sẽ là muối đất trà trộn vào đời, nhờ đó sẽ có nhiều gương sáng hơn, nhiều sức sống đổi mới hơn.
***
Cái nhìn trên đây của tôi về năm mới giúp tôi cảm nghiệm được sự mong manh, sự yếu đuối, sự bé nhỏ của chính mình.
Tôi là một kẻ nghèo, nên sẽ chạy đến với Đức Mẹ của những người nghèo. Tôi mong tất cả chúng ta cũng sẽ làm như vậy.
Tượng Đức Mẹ cuối nhà thờ Long Xuyên nhắc tới sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Banneux. Nơi đó Đức Mẹ được tôn vinh là Mẹ của những người nghèo.
Xin Mẹ của những người nghèo đoái thương đồng hành với chúng ta là những người nghèo mọi ngày của năm mới và của suốt đời. Nhờ vậy, chúng ta sẽ cùng Mẹ Maria được vui thực, được sống thực, được hy vọng thực, cho riêng mình và cho Quê hương Việt Nam mến yêu của ta.

 

Bùi-Tuần 1042: KHOẢNG CÁCH 02-02-2008

Những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương lai:02-02-2008 Bùi-Tuần 1042

Những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương lai. Tâm tình trao tặng nhau, cho dù tốt đẹp đến mấy, vẫn không cản được cảm nghĩ của tôi về khoảng cách.
Tôi cảm thấy mình khác xa trước. Giữa nay và trước có một khoảng cách sâu rộng. Trước là trẻ, nay là rất già.
Chính khoảng cách riêng tư này dẫn tôi nhìn vào một số khoảng cách khác. Những khoảng cách này đang là sự kiện xã hội tôn giáo hôm nay, nhưng đã được báo trước trong Kinh Thánh.
1/ Khoảng cách giữa giàu và nghèo
Sự kiện nổi bật trong Tết vừa qua có lẽ là khoảng cách giữa giàu và nghèo.
Giàu rất giàu, nghèo rất nghèo.
Khoảng cách về của cải là khủng khiếp. Có người làm chủ mấy ngàn tỷ. Đang khi có người tìm tiền mua gạo cho một ngày mà không sao kiếm đủ.
Khoảng cách về tâm lý là thê thảm. Bên thì tự hào mở sang thế giới bạn bè và các tầng lớp xã hội. Bên thì tự rút về thân phận cô đơn, buồn tủi.
Khoảng cách về dự kiến là rất ảm đạm. Giàu thì chắp cánh bay xa bay cao. Nghèo thì bị bó chân bó tay vào những mơ ước nhỏ nhoi, đôi khi còn bị dồn xuống hố thất vọng và tuyệt vọng.
Khoảng cách giàu nghèo hôm nay có thể được nhìn bằng nhiều cách. Cách nhìn mang ý nghĩa nhất là nhìn qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra về người phú hộ và người hành khất Ladarô.
Người phú hộ mặc toàn đồ sang trọng, ăn toàn những món quý mắc tiền. Còn người hành khất Ladarô thì rách rưới, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà phú hộ, bạn với mấy con chó đói.
Sau này, hai người cùng chết. Trong thế giới bên kia, số phận đổi ngược. Người phú hộ xuống hoả ngục, ông ăn mày được lên thiên đàng. Bởi vì lúc còn sống, người phú hộ đã sống ích kỷ thất đức, còn người ăn mày đã chịu thử thách với lương tâm trong sáng (x. Lc 16,19-31).
Hy vọng khoảng cách đau buồn trên đây tại Việt Nam hôm nay chỉ là lẻ tẻ. Nhưng, theo tôi, cái lẻ tẻ đó vẫn rất đau lòng.
2/ Khoảng cách giữa có với là
Tết năm nay, sự xung đột giữa có và là thực quá rõ.
Trên thực tế, tiêu chuẩn đánh giá con người đặt nặng về phía có. Ai có nhiều tiền của, có quyền cao chức trọng, có uy tín được dư luận tôn vinh, có nhiều bạn sang giàu, đó là người được coi là có giá trị.
Đang khi đó, những người thực chất là đạo đức, thực chất là nhiều khả năng, thực chất là chân chính, thực chất là tu thân, thì lại bị bỏ quên, bị loại trừ, bị khinh chê.
Đáng suy  nghĩ nhất là khoảng cách giữa người có quyền và người không có quyền, cho dù người không có quyền là rất tốt.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu luôn đề cao cái là.
"Thầy là cây nho, các con là ngành" ( Ga 15,5).
"Các con là muối cho đời" (Mt 5,13).
"Các con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14).
"Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải  cho những ai là kẻ bé mọn" (Lc 10,21).
3/ Khoảng cách giữa đấu tranh và sự hối cải
Tết vừa qua, Hội Thánh Việt Nam đã đón nhận hai sứ điệp. Một sứ điệp là hối cải, do Mùa Chay. Sứ điệp này đã được đọc một cách long trọng ngày 30 Tết nhằm lễ Tro. Một sứ điệp khác là đấu tranh. Sứ điệp này đã được loan đi từ biến cố xảy ra nơi này nơi nọ, do nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Sứ điệp hối cải được ban ra từ Lời Chúa, nên có giá trị vững bền, dẫn về cõi bình an sâu thẳm. Còn sứ điệp đấu tranh bị nhiễu quá nhiều. Nó đã vượt xa biến cố ban đầu, dẫn về một tương lai nhiều thách đố lớn. Nên giá trị thực của nó là ở sự đợi chờ sáng suốt. Đắc thắng hiện tại chỉ là thành công bé nhỏ.
Phần tôi, tôi theo dõi sứ điệp đấu tranh với tâm hồn cầu nguyện và tỉnh thức. Nhưng tôi đón nhận sứ điệp Phúc Âm Mùa Chay với niềm tin tuyệt đối vâng phục ý Chúa.
Kinh Thánh trong sách Khải Huyền có đoạn Chúa gởi cho Hội Thánh ở Ephêsô: "Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này: Ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống. Hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải" (Kh 2,3-5).
Cảnh giác trên đây luôn hữu ích cho phần rỗi.
Mấy khoảng cách trên đây là những thời sự. Suy tư về những thời sự đó trong ánh sáng Phúc Âm cũng là một sinh hoạt ý nghĩa trong xã hội hôm nay.
Xã hội hôm nay đang có những liên kết và những rạn nứt, đang có những hôn nhân và những ly hôn trong nhiều lãnh vực, như gia đình, văn hoá, đời đạo.
Xã hội hôm nay đang có những tảng băng trôi nổi trên bề mặt và có những sóng ngầm nguy hại không dễ phát hiện.
Rất mong những ai đang lo cho nền giáo dục Kitô giáo sẽ quan tâm hơn nữa đến tình hình cụ thể của Việt Nam hôm nay, nhất là bằng cách nêu gương sáng.
Ngày mùng năm Tết Mậu Tý

 

Bùi-Tuần 1043: KHẢ NĂNG CẢM NGHIỆM 16-02-2008

Mùa Chay là thời gian hồi tâm. Tôi thấy mình có nhiều lầm lỗi phải ăn năn. Tôi nhận ra mình:16-02-2008 Bùi-Tuần 1043

Mùa Chay là thời gian hồi tâm.
Tôi thấy mình có nhiều lầm lỗi phải ăn năn.
Tôi nhận ra mình có nhiều thua kém phải tự hạ.
Tôi nhớ lại nhiều nhận lãnh phải tạ ơn.
Tôi nhìn thấy nhiều bài học phải tiếp tục học.
Mùa Chay của tuổi 82 này dẫn tôi vào nội tâm sâu hơn. Tôi tự hỏi: Với tuổi này, tôi có thể lớn thêm hơn về chiều kích thiêng liêng không?
Tôi có thể sống thực hơn với một đức tin vượt trên những vẻ bề ngoài không?
Tôi có thể cho đi những gì là tốt hơn không?
Những câu hỏi trên đây được đặt ra cho riêng bản thân tôi, cho riêng chặng đường lịch sử hiện tại của tôi, cho riêng ơn gọi lúc này của tôi.
Dưới đây là vài chia sẻ cụ thể.
1/ Cần giữ mãi được khả năng cảm nghiệm nhạy bén những gì là chân thiện mỹ
Càng đi xa vào tuổi tác và vào lịch sử, tôi càng thấy mỗi tuổi có những vẻ đẹp riêng, mỗi chặng đường lịch sử có những giá trị riêng. Tôi thấy được những cái đẹp đó, những cái tốt đó, không phải do sách vở nào, do thầy nào đã dạy, nhưng do khám phá. Khám phá này là một gặp gỡ nội tâm. Nội tâm có một cảm quan riêng hướng về chân thiện mỹ. Khi cảm quan này giữ được sự khao khát khách quan và mãnh liệt, nó sẽ rung động trước những xuất hiện của mọi chân thiện mỹ bất cứ dưới hình thức nào.
Thí dụ một lời trong Kinh Thánh: "Con hãy thảo kính cha con và mẹ con, để được sống lâu trên mặt đất" (Xh 20,12).
Khi còn trẻ, tôi đọc lời khuyên dạy đó với lòng vâng phục Kinh Thánh. Nhưng nay đã già, tôi đọc lời đó với cả một kinh nghiệm sống động của người cha tuổi già về hưu.
Bây giờ, tôi mới thấy rằng: Để thảo kính cha mẹ, nhất là cha mẹ già bệnh tật, người con không những phải vận dụng tình cảm tự nhiên, mà còn phải nhờ ơn Chúa. Bởi vì người cha tuổi già bệnh tật thường có những lẩm cẩm, những thất thường, những yếu đuối. Các ngài cần được thông cảm và tha thứ. Những người con thảo cảm nghiệm điều đó. Nhờ vậy, cha mẹ mới được sống lâu hạnh phúc với con cháu.
Như thế, cả con cả cha đều cần có những cảm nghiệm cần thiết.
Tói đây, tôi xin nói tiếp là: Khả năng cảm nghiệm chân thiện mỹ không những cần nhạy bén, mà cũng rất cần trưởng thành, biết phân định cái gì là chân thiện mỹ thuộc dạng nào, có hợp cho ơn gọi của mình hay không.
Để được thế, con người rất cần được giáo dục về tự do nội tâm.
2/ Cần một khả năng cảm nghiệm được giáo dục về trưởng thành trong phân định
Cảm nghiệm nhạy bén là điều tốt. Nhưng cảm nghiệm trưởng thành về phân định là điều rất cần.
Một người không còn biết rung động với chân thiện mỹ sẽ rơi vào một cõi chết vô hình. Nhưng một người không biết phân định về những gì mình cảm thấy, sẽ dễ mù quáng trong phán đoán chọn lựa.
Kinh Thánh nói: "Về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành" (1 Cr 14, 20).
Theo tôi, để trưởng thành trong phán đoán, con người cần có một sự tự do nội tâm thực sự. Sự tự do nội tâm thực sự sẽ có được, nhờ giáo dục nhân bản và Kitô giáo.
Mỗi người sẽ là chính mình và mang Đức Kitô. Điều nên làm là mỗi người biết dùng sự tự do của mình. Một tự do biết trách nhiệm. Biết tự chọn với sự tự do trưởng thành là điều rất cần. Cho dù hậu quả của nó đôi khi sẽ là cái bóng đen không tách rời bản thân mình, nhưng bản thân mình vẫn chấp nhận nó một cách lương thiện, và nhờ đó biết phấn đấu với chính mình.
Tất cả những giáo dục trên sẽ chuẩn bị, để con người biết lắng nghe Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ ban cho ta ơn kiên nhẫn với chính mình, ơn mở rộng lòng trí về phía sự thực, ơn biết luôn bắt đầu lại, để đi theo ý Chúa, một ý Chúa không luôn hợp với ý ta.
Chúa Thánh Thần soi sáng bên trong ta, nhưng Người không chuẩn chước cho ta học hỏi từ kinh nghiệm của ta và của những người khác.
3/ Cần một khả năng cảm nghiệm sáng suốt
Người có khả năng cảm nghiệm nhạy bén và trưởng thành rất cần sáng suốt, nhất là về các lựa chọn.
Sáng suốt, vì họ luôn dựa trên nền tảng tu đức của Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Đấng có sự sáng suốt khôn ngoan rất khác người đời.
Sáng suốt, ở chỗ họ biết đưa ra những lý do Phúc Âm giải thích cho lựa chọn của mình, trong tinh thần khiêm nhường, bác ái, tôn trọng sự thực.
Sáng suốt, vì họ biết: Trên đời, không lựa chọn nào là dễ dàng. Một vấn đề kéo theo nhiều vấn đề. Không được phép đơn giản hoá lựa chọn một cách ngây thơ.
Sáng suốt, vì họ khiêm tốn không dám quả quyết: Lựa chọn của mình phải thắng trên lý thuyết và trên thực tế. Thắng thua là việc phức tạp. Có thể thắng mà là thua, thua mà lại thắng.
Vì thế, dám nhận mình mang nhiều giới hạn, có thể không luôn sáng suốt, biết đâu cảm nghiệm đó lại rất là sáng suốt.
Tới đây, ta thấy: Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà ta sẽ có được khả năng cảm nghiệm sáng suốt của người môn đệ Chúa.

 

Bùi-Tuần 1044: ƠN SÁM HỐI TRỞ VỀ 21-02-2008

 + GB. BÙI TUẦN
 

Xã hội cần được cứu độ. Hội Thánh cần được cứu độ. Mọi người cần được cứu độ. Bản thân:21-02-2008 Bùi-Tuần 1044

Xã hội cần được cứu độ.
Hội Thánh cần được cứu độ.
Mọi người cần được cứu độ.
Bản thân ta cần được cứu độ.
Cứu độ được hiểu theo nhiều mặt khác nhau. Như cứu khỏi đói, cứu khỏi chết, cứu khỏi dốt, cứu khỏi tai hoạ, cứu khỏi bệnh tật, cứu khỏi lạc hậu, cứu khỏi tính mê nết xấu, cứu khỏi tội lỗi.
Ở đây, tôi muốn nói đến việc cứu khỏi tội và hình phạt bởi tội, để trở về với Chúa.
Mọi người có tín ngưỡng đều tin rằng: Ai phạm tội đều bị Đấng Tối Cao xét xử và luận phạt.
Riêng người công giáo, niềm tin tội đi đôi với hình phạt là rất rõ. Tội nhẹ thì bị phạt nhẹ, tội nặng thì bị phạt nặng. Hình phạt nặng nhất là sa hoả ngục.
Để cứu khỏi hình phạt, thì một là người ta không phạm tội, hoặc lỡ phạm tội, thì phải sám hối.
Hầu hết chúng ta đều phạm tội. Do tư tưởng, do lời nói, do việc làm, do thiếu sót. Vì thế sám hối là việc tất nhiên ta phải làm, để được tha tội và được tha khỏi hình phạt bởi tội.
Ý thức điều đó, đạo chúng ta luôn nhắc nhở chúng ta phải sám hối trở về.
Chúa nhắc trong Kinh Thánh.
Đức Mẹ nhắc trong mọi lần hiện ra.
Hội Thánh nhắc trong mọi lễ nghi phụng vụ.
Nhưng thực tế cho thấy sứ điệp sám hối vẫn bị coi thường, việc sám hối vẫn không được hết sức quan tâm. Cảnh đó đáng đau buồn. Tình hình đó đang là mối đe doạ lớn cho sự bình an.
Nhưng đáng ngại nhất là: Việc sám hối không phải dễ thực hiện . Mấy lý do sau đây giúp ta hiểu phần nào.
1/ Nhận mình có tội là điều khó
Phúc Âm cho thấy: Chính Chúa Giêsu dạy người ta phải sửa mình, nhưng đâu có dễ.
Những người tội lỗi công khai thường dễ nhận tội. Các gái điếm, các người thu thuế không cãi lại Chúa Giêsu. Đang khi đó, các biệt phái lại hay phản bác lại lời Người. Họ cho mình là người đạo đức. Họ mang nặng thiên kiến về họ. Họ chuyên môn bắt lỗi người khác. Kết án người khác được họ coi là thẩm quyền của họ. Họ luôn luôn cho mình thuộc hạng hơn người về hiểu đạo và sống đạo.
Có tội mà không nhận mình có tội. Đầy tội mà vẫn tưởng mình đạo đức. Những cảnh đó vẫn xảy ra rất thường.
Nhận mình có tội là điều khó. Bản tính tự nhiên con người hay tự mãn. Thế gian khuyến khích con người thêm tự ái. Quỷ dữ xúi giục con người coi tự kiêu là việc thiện.
Tôi thấy là: Để nhận mình có tội, thì phải khiêm nhường, rất khiêm nhường. Mà khiêm nhường không luôn dễ. Chỉ dễ khi con người có ơn riêng của Chúa. Vì thế, để sám hối, chúng ta nên cầu nguyện, xin Chúa ban ơn riêng cho ta, để lương tâm ta từ cứng được nên mền, từ tối tăm được sáng lên. Cần khiêm nhường, cần rất khiêm nhường, cần rất mực khiêm nhường trong nhận biết.
Nhưng chưa đủ, còn một điều cần nữa, đó là ăn năn hối cải thực lòng.
2/ Ăn năn hối cải là điều không dễ
Luxiphe và các thần dữ có thể đã không nhận tội, nhưng dù biết mình có tội, chúng vẫn không ăn năn hối hận. Vì chúng quá kiêu.
Rất nhiều khi, người có tội hay đổ trách nhiệm cho người khác. Như trường hợp ông Ađam đổ trách nhiệm cho bà Evà, bà Evà lại đổ trách nhiệm cho con rắn. Đổ lỗi cho người khác là một cách làm cho việc ăn năn sám hối trở nên không thành thực.
Có những người chìm trong tội nặng lâu năm, hay phạm tội nặng thường xuyên mỗi ngày, mà chỉ ăn năn sơ sài, lấy lệ.
Có những người muốn ăn năn trở về, nhưng không tha thiết. Có những người gặp nhiều dịp, để làm mới lại đời mình, nhưng luôn bỏ qua.
Những trường hợp trên đây cho thấy: Ăn năn hối cải là việc không dễ. Chính Chúa bảo, bao người vẫn không nghe. Được Đức Mẹ hối thúc, bao người vẫn làm ngơ. Được Hội Thánh nhắc nhở, bao người vẫn dửng dưng.
Vì thế, chúng ta nên khiêm tốn cầu nguyện cho mình và cho kẻ khác được ơn ăn năn hối cải. Không những khiêm tốn nhận biết mình có tội, mà còn khiêm nhường đau đớn vì tội, và khiêm nhường xin Chúa thứ tha tội lỗi và hình phạt bởi tội mà ra.
3/ Tin tưởng vào tình Chúa xót thương là điều không dễ
Kinh nghiệm cho thấy: Được ơn nhận mình có tội là điều ngọt ngào. Được ơn ăn năn hối cải là điều an ủi. Được ơn gặp Thiên Chúa giàu lòng thương xót là điều sung sướng.
Điều sung sướng đó không phải hễ ai muốn có là tất nhiên được.
Người có tội thường phải đối đầu với nhiều cám dỗ khi muốn trở lại. Họ bị cám dỗ về sự thất vọng. Họ bị cám dỗ, vì những ray rứt xiềng xích họ vào con đường bế tắt. Họ bị cám dỗ, để cái tôi của mình trở thành trung tâm con đường trở về.
Một sự ăn năn hối cải thực sự bao giờ cũng đặt Chúa vào trung tâm.
Tôi trở về không nhờ sức của tôi, nhưng nhờ ơn của Chúa. Tôi sám hối, không phải vì tôi làm tôi mất danh dự, nhưng vì tôi đã mất lòng Chúa. Tôi được khỏi tội, không phải vì tôi lập công, nhưng vì tôi được Thiên Chúa tình yêu dẫn vào lòng Chúa vô cùng thương xót. Tôi trở về, không để tìm lại uy tín, nhưng để thuộc về Chúa hơn.
Lúc đó, sám hối trở thành nguồn hạnh phúc. Với hạnh phúc này, con người sẽ được Chúa dạy về sự tham gia vào kế hoạch của Chúa. Một kế hoạch cứu độ đặt việc sám hối lên hàng ưu tiên. Với sám hối, mọi chương trình cứu độ mới có ý nghĩa.
Để kết, tôi xin phép nhắc lại chuyện ông Abraham đã xin với Chúa cứu thành Sôđôma khỏi bị huỷ diệt.
Chúa bằng lòng sẽ cứu thành, nếu trong thành có đủ 10 người lành. Nhưng tìm không ra (x. St 18,16-33).
Chúng ta hãy dùng sự sám hối để nên người lành. Hy vọng ta và từng ngàn người sẽ được Chúa cứu.
Xin hãy khiêm nhường cầu nguyện. Cầu nguyện bằng niềm tin và bằng đau khổ Chúa gởi cho hằng ngày. 

 

Bùi-Tuần 1045: HOÀN CẢNH CỤ THỂ 28-02-2008

+ GB. BÙI TUẦN
 

Trong mùa Chay, tôi hay nhìn lên thánh giá để suy gẫm. Suy gẫm của tôi dựa trên Phúc: 28-02-2008 Bùi-Tuần 1045

Trong mùa Chay, tôi hay nhìn lên thánh giá để suy gẫm. Suy gẫm của tôi dựa trên Phúc Âm.
Phúc Âm kể lại con đường dẫn Chúa Giêsu đến thánh giá. Những gì kể lại là rất cụ thể. Năm nào, ai đứng đầu quyền đạo quyền đời lúc đó, hoàn cảnh ra sao.
Hoàn cảnh cụ thể
Phải nhận rằng: Hoàn cảnh đạo lúc bấy giờ đang phân hoá và xuống dốc.
Đứng đầu cơ chế đạo là thượng tế Caipha, thượng Hội đồng gồm các thượng tế, các kỳ mục, và các kinh sư.
Cơ chế này thường thích  một nếp sống đạo ổn định, cho dù lỗi thời và sai.
Bên cạnh cơ chế là nhóm biệt phái. Nhóm này giữ đạo theo hình thức, cốt để phô trương chính mình.
Nhóm thương mại gồm những con buôn và thu thuế. Đa phần họ nhắm vào tiền bạc.
Giai cấp giàu sang. Họ sống quý phái. Cách sống đạo của họ cũng quý phái.
Giai cấp lầm than. Họ là những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị loại trừ.
Loại bị quỷ ám. Số người bị quỷ ám bấy giờ khá đông. Hầu như nơi nào Chúa Giêsu đến cũng gặp họ.
Loại người có đạo nhưng không có đức tính nhân bản cũng khá phổ biến. Như trường hợp 10 người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người biết cám ơn, người đó lại là người ngoại.
Loại người có đạo sống thụ động, bám vào cơ chế một cách máy móc, dựa trên dư luận một cách mù quáng.
Chính quyền bảo hộ Rôma là quan Philatô và vua Herode. Chính quyền này lo giữ địa vị và hưởng lợi hơn là xét xử theo công lý.
Con đường cứu độ
Chính nhu cầu đổi thay hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó đã là một trong các động lực viết ra con đường cứu độ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã cứu độ bằng rao giảng, bằng cầu nguyện, bằng chay tịnh, bằng gương xót thương, nhất là bằng tự hạ, tự hiến.
"Khi vào thế gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Như Sách Thánh đã chép về con" (Dt 10,5-6).
Ý Chúa Cha là Đức Giêsu phải uống chén đắng Chúa Cha trao cho (x. Ga 18,13).
"Mạng sống của Thầy, không ai lấy đi được. Nhưng chính Thầy tự ý hy sinh mạng sống mình. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi, mà tôi đã nhận được" (Ga 10,18).
Đó là con đường tự hạ, tự hiến. Thánh Phaolô quả quyết:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.
Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập giá" (Pl 2,6-8).
Chính Chúa Giêsu phán: "Thật, Thầy bảo thật các con: Nếu hạt giống gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết, nó mới sinh nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Con đường khiêm tốn tự chọn, tự hạ, tự huỷ là một hy sinh để chứng tỏ tình yêu. Nhờ vậy, mà muôn ngàn đời, khi nhìn cây thánh giá, người ta sẽ nhận ra: Đây chính là nơi, mọi người sẽ cảm thấy mình được an ủi, được tha thứ, được cứu độ.
Nhìn vào lịch sử
Con đường Chúa Giêsu đã chọn để cứu đời cũng là con đường nhiều môn đệ Chúa sẽ chọn trong chương trình cứu độ. Chọn một cách thiết thực và gắn bó. Bởi vì họ luôn kết hợp với Chúa Giêsu. Chúa phán: "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh  nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Mọi chấn chỉnh đều nhằm làm chứng cho đạo đức.
Nhìn vào lịch sử Hội Thánh, tôi thấy hoàn cảnh lịch sử cụ thể đi liền với sự lựa chọn con đường cứu độ.
Để cứu hoàn cảnh lịch sử lúc đó nơi đó, Chúa đã kêu gọi những vị sáng lập Dòng, những vị mở đầu cho một con đường tu đức mới. Tất cả các vị đó đều có đặc điểm là rất mực khiêm nhường, rất mực khó nghèo, rất mực yêu thương, rất mực hy sinh, rất mực sáng suốt.
Tới đây, tôi nhìn vào hoàn cảnh cụ thể của đạo Công giáo tại Việt Nam hôm nay.
Tôi không dám nói: Đây là một hoàn cảnh không có gì phải chấn chỉnh.
Tôi cũng không dám nói: Sẽ có những chấn chỉnh ngoài mẫu gương Chúa cứu thế.
Vì thế, tôi tha thiết cầu nguyện xin Chúa thương đến Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh cụ thể này. Xin Chúa thương ban rất nhiều ơn cho những người Chúa chọn để chấn chỉnh đạo Chúa trong hoàn cảnh cụ thể hôm nay.

 

Bùi-Tuần 1046: THÁNH GIUSE KHIÊM NHƯỜNG 15-03-2008

Hội Thánh dành trọn tháng Ba để kính thánh Giuse. Giữa tháng Ba này, tức lễ thánh Giuse: 15-03-2008 Bùi-Tuần 1046

Hội Thánh dành trọn tháng Ba để kính thánh Giuse. Giữa tháng Ba này, tức lễ thánh Giuse (15/3/2008) sẽ là đỉnh cao lòng mộ mến của ta đối với Ngài.
Một vẻ đẹp của Ngài vốn thu hút tôi nhiều nhất, đó là đức khiêm nhường.
Thực vậy, thánh Giuse rất khiêm nhường trong mọi liên hệ.

1/ Đối với Chúa
Thiên Chúa đối với thánh Giuse luôn là một hiện diện. Chúa hiện diện không như một lý thuyết, nhưng như một Đấng sống động. Đấng sống động ấy đi vào đời, để cứu chuộc. Đấng ấy là Tình Yêu, Người sẽ cứu chuộc nhân loại bằng tình yêu.
Tình yêu cứu chuộc là tình yêu khiêm nhường, tình yêu cho đi đến hiến dâng mạng sống chính mình. Đó là sự thực.
Sự thực ấy được nhận ra từ đâu? Thưa từ ơn Chúa kêu gọi trở về. Trở về là khiêm tốn chờ đợi Chúa, chờ đợi kiên trì bằng cầu nguyện khiêm nhường. Chúa sẽ trở thành hiện diện, khi con người cầu nguyện tỉnh thức. Con người tỉnh thức cầu nguyện sẽ thấy sự Chúa hiện diện là một sự thực mầu nhiệm. Chúa ban cho sự thực đó một cách nhưng không. Sự thực đó vô cùng cần thiết, đặt liên hệ con người với Chúa: "Thầy ở đó, và Người gọi con" (Ga 11,28).
Với nhận thức như trên, thánh Giuse biết mình, trước mặt Chúa, chỉ là một tạo vật được Chúa ban ơn trở về. Trong ơn trở về đó, có ơn được Chúa yêu thương, được Chúa gọi, được Chúa sai đi. Tất cả đều do Chúa. Còn bản thân mình nào có gì đâu. Do đó, thánh Giuse luôn rất khiêm nhường trước mặt Chúa, một Thiên Chúa là tình yêu khiêm nhường.

2/ Đối với tha nhân
Một người thực sự khiêm nhường trước mặt Chúa sẽ phải nhận rằng: Mình phải thực sự khiêm nhường trong liên hệ với tha nhân. Bởi vì mỗi người là một cõi riêng tư. Chúa nhìn mỗi người như một vũ trụ duy nhất. Nếu mình được Chúa thương một cách nhưng không, thì các người khác cũng có thể được yêu thương như vậy.
Tình yêu riêng tư là một cái gì không so sánh được. nó cũng là một cái gì không dễ diễn tả cho người khác hiểu được.
Vì thế, người ta có thể phán đoán việc làm của nhau dựa theo một số tiêu chuẩn. Nhưng phán đoán chính con người của nhau là điều rất khó. Có thể nói là không nên làm.
Thánh Phaolô viết: "Còn tôi, dù có bị anh em hay toà nào xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình... Quả thật, Đấng xét xử tôi chính là Chúa" (1 Cr 4,3-4).
Chính Chúa mới là Đấng xét xử. Phúc Âm cho thấy: Người ta xét xử thế này, nhưng Chúa xét xử lại thế khác (x. Mt 20,1-16).
Trong Phúc Âm, chân lý căn bản nhất là tình yêu. Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tình yêu này sẽ xét xử không theo thống kê, nhưng theo thân phận của từng người. Ai sẽ đủ sáng suốt với từng thân phận cho bằng tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa.
Vì thế, thánh Giuse không hề xét xử, kết án ai. Ngài để Chúa làm. Ngài khiêm tốn cầu cho mọi người. Ngài khiêm tốn với mọi người.

3/ Đối với cộng đoàn tôn giáo
Tôn giáo thời đó bị tha hoá. Chắc thánh Giuse biết tình hình đáng buồn đó. Nhưng Ngài vẫn khiêm nhường trong địa vị một người tín hữu mọn hèn giữ trọng trách gia trưởng.
Ngài giữ luật đạo. Nhưng Ngài không cho việc chính yếu của người tín hữu là giữ đúng luật, mà là làm chứng cho tình yêu.
Ngài làm chứng cho tình yêu trong mọi mối quan hệ. Quan hệ với những vị đứng đầu cộng đoàn. Quan hệ với các gia đình trong cộng đoàn. Quan hệ với hàng xóm và những người cùng làm nghề mộc. Trong mọi quan hệ, Ngài nhắm vào tình yêu. Ngài rất nghèo của cải, nhưng không nghèo tình yêu.
Ngài biết lắng nghe những tâm sự của người khác và giữ kín trong lòng. Ngài biết an ủi đỡ nâng những người có gánh nặng muốn chia sẻ với Ngài.
Khi thiết lập và nuôi dưỡng các liên hệ, Ngài luôn khiêm nhường. Ngài kín đáo che giấu ơn gọi đặc biệt Chúa trao cho Ngài là bảo vệ Chúa cứu thế và Đức Maria. Ngài xuất hiện khiêm nhường như một người tín hữu khiêm nhường, một gia trưởng khiêm nhường.
Ngài biết giới hạn hoạt động tôn giáo của mình vào những việc khiêm tốn của người gia trưởng và của người giáo dân hồi đó. Ngài biết rằng: Công việc khiêm tốn, nhưng với tình yêu sâu, vẫn là công việc rất đẹp lòng Chúa.

4/ Đối với chính mình
Thánh Giuse khiêm nhường đối với Chúa, đối với tha nhân, đối với cộng đoàn tôn giáo. Ngài càng rất khiêm tốn đối với chính mình. Liên hệ của Ngài với chính mình không phải là một liên hệ đóng, nghĩa là mình với mình, nhưng là một liên hệ mở ra. Liên hệ đó như một cuộc xuất hành. Ngài ra khỏi mình, để trở về với Chúa. Một sự trở về sâu thẳm. Ngài đi ra để nghe Chúa. Ngài đi ra để biết ý Chúa. Ngài đi ra, để Chúa thanh luyện Ngài tuỳ ý Chúa.
Mọi thanh luyện đều có những gì phải rơi xuống. Như cắt tỉa để cây sinh trái. Như đẽo gọt, để mảnh gỗ trở thành tác phẩm nghệ thuật. Thánh Giuse rất khiêm nhường trong tay Chúa thanh luyện. Ngài nhìn mình như một tạo vật hèn mọn.
Suy gẫm trên đây của tôi chắc còn rất xa với sự khiêm nhường thực của thánh Giuse.
Với nhận thức đó, tôi hết lòng cầu nguyện xin thánh Giuse cầu bầu cho chúng ta được càng ngày càng đi sâu hơn vào đức khiêm nhường của Ngài. Hy vọng nhờ đó, chúng ta sẽ cùng thánh Giuse tham gia vào sứ mạng bảo vệ Hội Thánh Chúa tại Việt Nam hôm nay.
+ GM G.B. Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1047: TRONG TAY CHA 25-03–2008

Khi tham dự lễ nghi tuần thánh, nhiều người đã được ơn Chúa đánh động. Riêng đối với tôi: 25-03–2008 Bùi-Tuần 1047

Khi tham dự lễ nghi tuần thánh, nhiều người đã được ơn Chúa đánh động. Riêng đối với tôi, ơn Chúa đánh động mạnh nhất đã đến từ lời Chúa Giêsu trên thánh giá: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)
Lời cầu đem lại sự bình an.
Lời cầu mang đến ơn cứu độ.
Số người dùng lời Chúa trên đây để cầu nguyện phải kể là rất đông. Với nhiều ý thức khác nhau, nhưng cách riêng với những ý thức sau đây:
1) Ý thức mình tội lỗi bất toàn
Nhận mình tội lỗi bất toàn, đó là việc chúng ta làm mà không sợ xấu hổ. Không cần xét đâu xa, ở đây chúng ta chỉ nhìn vào những điều Chúa Giêsu dạy đặc biệt trong tuần thánh. Khiêm tốn rà soát lại từng điều. Chúng ta sẽ thấy chúng ta đã lỗi lầm nhiều.
a) Phải chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Abba, Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 14,36).
Tư tưởng “Vâng ý Chúa Cha” tới cùng đã là một lập trường không lay chuyển của Chúa Cứu Thế. Nên khi môn đệ Simon-Phêrô tuốt gươm định chém kẻ bắt Thầy, Thầy đã quả quyết: “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (Ga 18,11)
Chi tiết trên đây cho thấy: Nhiều khi thực hiện thánh ý Chúa là điều không dễ. Vì đó là chén đắng. Vì đó là bị nộp, để đi vào tử nạn. Tính tự nhiên muốn tránh. Bạn bè ngăn cản. Nhưng Chúa Giêsu đã can đảm và khiêm tốn vâng phục. Còn chúng ta đâu được như Người. Trốn tránh, cưỡng lại dưới nhiều lý do tự chọn, để theo ý riêng mình.
Về điểm “vâng phục ý Chúa” chúng ta có nhiều điều phải khiêm tốn nhận lỗi, để được thứ tha trong lời cầu: “Con xin phó thác con trong tay Cha”.
b) Phải thực thi điều răn mới
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trối lại một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là: Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34)
Đặc điểm của điều răn mới là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34)
Công dụng của điều răn mới là: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35)
Điều răn yêu thương quả là điều răn tối cần thiết, mà Chúa Giêsu đã tha thiết trối lại.
Yêu thương nhau, như Chúa Giêsu đã yêu thương, là phải rất khiêm nhường, theo gương Chúa Giêsu rửa chân, là phải rất tha thứ, theo gương Chúa Giêsu tha thứ cho mọi kẻ làm khổ Người, là phải rất hy sinh, theo gương Chúa Giêsu đã tự nguyện đền tội thay cho mọi người.
Từ khi bị bắt cho đến khi tắt thở trên thánh giá, Chúa Giêsu đã nói rất ít. Người không phản ứng. Không phản ứng trước những lời vu khống. Không phản ứng trước những thái độ khiêu khích. Không phản ứng trước những cử chỉ nhục mạ. Người chỉ trình bày một lập trường. Trình bày một cách bình tĩnh, lịch sự và yêu thương.
Với những gì Chúa Giêsu đã sống trong cuộc tử nạn, Người đã nêu gương bác ái cho chúng ta.
Đem gương đó soi vào mình ta, ta sẽ thấy ta còn rất nhiều thiếu sót trong nhiệm vụ thực thi bác ái.
Để ăn năn sám hối, chúng ta nên khiêm nhường đặt mình trong tay Chúa: “Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”.
c) Phải biết ơn vì bí tích Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh. “Người cầm lấy bánh, dâng lời cảm tạ, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: Đây là mình Thầy, hiến tế vì các con. Các con hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con” (Lc 22,19-20)
Phép bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức được thiết lập từ đó. Với hai bí tích này, Chúa Giêsu muốn ở lại với loài người một cách đặc biệt. Ở lại như một hiến lễ, như một giao ước.
Giáo Hội luôn biết ơn Chúa vì hai bí tích này. Kinh nghiệm cho thấy: Nơi nào có Thánh Thể, thánh lễ và các vị mang chức thánh ở lại, nơi đó được chính Chúa hiện diện một cách đặc biệt.
Sự hiện diện đó phải được đón nhận bằng đức tin khiêm nhường. Không có đức tin khiêm nhường, người ta sẽ dễ vấp phạm. Vấp phạm đến phép Thánh Thể sẽ dễ xúc phạm đến phép Truyền Chức. Xúc phạm đến phép Truyền Chức sẽ dễ vấp phạm đến phép Thánh Thể. Sau cùng cứ thế, không chừng chính chúng ta lại trở thành những kẻ đóng đinh Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người.
Nếu đó là sự thực, thì tình hình sẽ rất khủng khiếp. Chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng lời cầu: “Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”.
2) Ý thức mình sống trong thử thách
“Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”. Lời cầu đó ngày nào cũng vọng lên từ những tâm hồn sám hối. Lời đó càng khẩn khoản hơn từ những người sống trong thử thách.
Ông Simon-Phêrô tưởng vững như đá. Nhưng ngài đã sụp đổ do việc chối Thầy. Các tông đồ khác tưởng ổn định như tia sáng bởi trời. Nhưng các ngài đã ra tối tăm, kẻ thì do bán Thầy, kẻ thì do bỏ Thầy mà trốn.
Còn Đức Mẹ Maria thì tan nát tâm can. Mẹ sống trong đau đớn cực độ. Đau đớn là một thử thách nặng nề.
Bà Madalena và mấy phụ nữ đi tìm xác Chúa với nước mắt và kiên trì. Nước mắt và kiên trì là những thử thách cam go.
Tất cả các vị trên đây đã chịu thử thách. Các ngài luôn phó thác mình cho Chúa. Sau cùng các ngài không những đã gặp được Chúa, mà còn được đưa vào trái tim Chúa phục sinh giàu lòng thương xót.
Để kết bài chia sẻ này, tôi xin nói lên một kinh nghiệm, đó là: “Lời cầu: Con xin phó thác con trong tay Cha” đã làm lại lịch sử không biết bao nhiêu người.
Lịch sử của người phó thác có phần là lịch sử riêng họ, có phần là lịch sử tôn giáo và xã hội thời họ sống. Một lịch sử như thế không thể trừu tượng chung chung.
Nhưng nhìn sâu vào lịch sử của những người phó thác, tôi thấy nhân tố chính viết nên lịch sử đó, chính là tay Chúa
ĐGM. GB Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1048: GẶP CHÚA PHỤC SINH GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

27-03 -2008
+ GB. BÙI TUẦN
 

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn lễ Chúa nhật thứ hai sau Phục sinh được:27-03 -2008 Bùi-Tuần 1048

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn lễ Chúa nhật thứ hai sau Phục sinh được dành đặc biệt cho việc tôn sùng Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Tất cả mọi người Công giáo tại Việt Nam hôm nay đều rất vui mừng với sáng kiến của Đức Cố Giáo Hoàng.
Riêng đối với tôi, đây là một nguồn an ủi lớn lao. Để cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót, tôi xin được chia sẻ chút kinh nghiệm riêng tư.
Chia sẻ của tôi xin được bắt đầu bằng một diễn tả đơn sơ.
1/ Kinh nghiệm về bản thân là những chặng đường gồm ba yếu tố
Đời tôi là một chuỗi dài những chặng đường gặp Chúa. Chặng đường nào cũng gồm ba yếu tố sau đây.
a) Yếu tố đầu tiên nổi bật là đau khổ.
Đau khổ gồm nhiều loại dưới nhiều hình thức. Như những bệnh hoạn đau đớn phần xác hầu như bao giờ cũng có. Những yếu đuối luôn theo sát. Những trách nhiệm nặng nề đè nặng trên vai. Những mất mát do sự bất toàn bất xứng của mình. Những cô đơn bênh cạnh biết bao đồng hành xã hội. Những xuất hành lặng lẽ đi tìm hy vọng.
Với những đau đớn thể xác và tâm hồn, tôi đi ngày nọ sang ngày kia như đi trên những đường gập ghềnh, như bơi qua những con sông nguy hiểm, như chui vào những đường hầm tăm tối.
Nhưng nếu ngôn ngữ của tâm hồn là khao khát, thì khao khát của tâm hồn tôi là tìm về Chúa. Và tôi đã gặp Người.
b) Yếu tố thứ hai là gặp được Chúa Giêsu phục sinh.
Chúa Giêsu phục sinh đứng đợi tôi ở những nơi những lúc mà tôi không ngờ. Người đợi tôi, và ban cho tôi ơn tái sinh. Tôi được Chúa đổi mới. Tôi lãnh nhận được những ơn Chúa Thánh Thần.
Với ơn Chúa Thánh Thần, tôi nhận ra rằng:
Chúa yêu thương tôi.
Chúa kêu gọi tôi.
Chúa thánh hoá tôi.
Chúa sai tôi đi.
Tất cả đều là hồng ân. Và tôi nhận ra Chúa là Đấng giàu tình yêu thương xót.
c) Yếu tố thứ ba là nhận ra dung mạo thật của Chúa.
Dung mạo thật của Thiên Chúa là Tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi nhận ra rất rõ: Thiên Chúa Tình yêu giàu lòng thương xót không phải là một khái niệm, một lý thuyết, một hình ảnh. Nhưng Người là Đấng thiêng liêng sống động gần gũi tôi.
Khi tôi kết hợp với Người, thì Người giúp tôi nhìn mọi sự với con mắt của trái tim Người.
Người ở lại với tôi. Tôi ở lại trong Người. Nhờ vậy, tôi có thể thấy: Từ thất bại có thể nảy sinh thành công, từ đau khổ có thể nảy sinh vui mừng, từ bế tắc có thể nảy sinh giải thoát, từ nô lệ có thể nảy sinh tự do, từ cõi chết có thể nảy sinh sự sống lại.
Chặng đường như trên không phải chỉ có một. Rất nhiều chặng đường như thế đã nối tiếp nhau, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tôi có cảm tưởng là Chúa để xảy ra như vậy, để tôi luôn ý thức đời tôi là một chuyến đi. Chuyến đi này luôn có bóng tối và ánh sáng chen kẽ nhau.
Nhận thức đó sẽ giúp tôi sống tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Luôn đi tìm Chúa, luôn khao khát vâng phục ý Chúa, luôn biết ngỡ ngàng trước những lạ lùng Chúa làm nơi bản thân tôi và nơi Hội Thánh của tôi.
Tiện đây, tôi cũng xin chia sẻ cái nhìn của tôi về Hội Thánh chứng nhân của tôi.
2/ Kinh nghiệm về Hội Thánh chứng nhân của tôi
a) Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường bác ái.
Đã từ lâu, nhưng nhất là hiện nay, Hội Thánh Việt Nam đang làm chứng cho Chúa bằng con đường yêu thương bác ái. Theo lời Chúa Giêsu đã phán: "Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Thực tế cho thấy, việc làm chứng cho Chúa bằng con đường yêu thương bác ái có những bậc đi lên. Những ai biết nhìn con người với con mắt của Chúa phục sinh giàu lòng thương xót sẽ thấy những bậc đó. Nếu chỉ dừng lại những việc bác ái, thì chưa phải là đã bác ái. Cần phải vượt qua các việc bác ái kiểm chứng được bề ngoài, để đi sâu vào những gì Chúa phục sinh giàu lòng thương xót muốn ta đem đến cho con người qua bác ái. Lúc đó mới thấy được việc ta và tha nhân gặp được Chúa trong thực hành bác ái là điều hết sức quan trọng.
b) Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường Thánh Thể.
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh Việt Nam đang lo xây cất nhà thờ, lo truyền chức nhiều linh mục, lo các thánh lễ được sốt sắng. Với mục đích thực thi lời Chúa dạy xưa về Thánh Thể: "Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,19).
Tưởng nhớ đến Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể là nhớ đến Người vâng phục ý Chúa Cha, dâng mình chịu đau khổ, để hiến tế mình, hầu đền tội cho nhân loại.
Không những tưởng nhớ, mà còn thông công vào việc Chúa hiến tế mình. Đó là một tái sinh cho mình và cho kẻ khác. Điều đó phải là một thúc bách đối với ta, chứ không chỉ là một ý tưởng xa vời.
Vì thế, việc làm chứng cho Chúa bằng phép Thánh Thể càng ngày càng kêu mời chúng ta phải đi sâu vào mầu nhiệm Thánh Thể, để gặp Chúa Giêsu, để ở lại với Người, để ra đi theo lời sai đi của Người. Hình như chúng ta còn rất nhiều thiếu sót trong vấn đề này.

c) Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường sống lương tâm tốt lành.
Sống lương tâm tốt lành, đối với người có đức tin, là sống kết hợp với Chúa. Chúa Giêsu phán: "Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây. Các con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, các con là cành, ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,4-5).
Lương tâm của ta có gắn vào lương tâm của Chúa Giêsu một cách mật thiết không?
Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng: Nhiều người đã làm chứng cho Chúa một cách có hiệu quả qua con đường bác ái, qua con đường Thánh Thể, qua con đường sống theo lương tâm tốt lành. Đó là niềm vui phục sinh.
Nhưng bên cạnh niềm vui đó, vẫn còn vô số nỗi buồn. Những nỗi buồn đó là chính đáng. Nhưng Chúa Phục Sinh giàu lòng thương xót vẫn đợi chờ chúng ta.

 

Bùi-Tuần 1049: NỮ TỲ MARIA 28-03-2008

Hiện nay sống đạo đang được đặt thành vấn đề thời sự quan trọng.  Ít là trong Giáo Hội Việt:25-03-2008 Bùi-Tuần 1049

          Hiện nay, sống đạo đang được đặt thành vấn đề thời sự quan trọng.  Ít là trong Giáo Hội Việt Nam.  Vấn đề này đã và đang được suy nghĩ, bàn bạc và dẫn tới những chọn lựa để thực hành.  Sao cho đạo Công giáo tại đất nước này được trở về nguồn và phát triển theo đúng Phúc Âm.
Với mục đích đó, tôi xin vắn tắt trình bày suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Đức Me Maria.
Theo tôi, điểm nổi bật nhất trong đời sống đạo của Me Maria là vâng phục ý Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường.
Xin phép nêu lên vài chi tiết mà thôi.
Nhậm chức và khấn hứa một cách đơn sơ khiêm nhường:
Việc Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Gabriel đến báo cho Đức Maria tin Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế là một biến cố kỳ diệu cao cả.  Có thể coi đây là một “lễ truyền chức”.
Nếu gọi đó là một lễ truyền chức, thì lễ truyền chức này cao trọng hơn mọi lễ truyền chức khác. Thế mà, “lễ truyền chức“ này đã được thực hiện một cách hết sức âm thầm.  Vẻ đẹp của nó được nhận ra ở thái độ Đức Mẹ tỏ ra bối rối ngỡ ngàng sợ hãi.  Mẹ nhận mình chỉ là người đầy tớ Chúa (x Lc 1, 38).  Chức cao quyền quyền trọng Chúa trao là ơn hoàn toàn nhưng không.  Mẹ chẳng bao giờ dám nghĩ tới.  Tâm hồn Mẹ đơn sơ khiêm tốn như một đoá hoa quý ẩn mình trong một đời thường bình dị.
Mẹ đón nhận lời truyền tin với tâm hồn đơn so khiêm tốn.  Rồi Mẹ trả lời Tổng lãnh thiên thần cũng với tâm hồn khiêm tốn đơn sơ trong sáng : “Xin vâng”. “Xin vâng” là một lời khấn hứa.  Mẹ “xin vâng” với tất cả tâm tình phó thác, hoàn toàn sẵn sàng để Chúa dùng mình vào bất cứ chương trình nào.
Thế là “lễ truyền chức” và khấn hứa đã xong.  Rất đơn sơ, rất khiêm nhường.  Nhưng lại rất đẹp lòng Chúa.  Từ đây một kỷ nguyên mới đã mở ra.
 Tạ ơn Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường:
Sau khi được mang chức làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ đã đi thăm viếng bà Isave.  Mẹ lên đường một mình cách đơn sơ khiêm tốn.
Vừa thấy Đức Mẹ, bà Isave được ơn Chúa soi sáng, đã cất tiếng chào Đức Mẹ và khen ngợi Đức Mẹ vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Đức Mẹ.  Đức Mẹ rất xúc động.  Đức Mẹ đã tạ ơn Chúa bằng những lời tán tụng rất đơn sơ khiêm nhường.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng,
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới…” ( Lc 1, 46-48)
Đức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến.  Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Đức Mẹ chỉ biết vâng phục, chỉ biết làm những gì Chúa sai bảo, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa.  Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi hẹp hòi của mình, Đức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái thương nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn.
Nếu gọi biến cố Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một dịp Đức Mẹ ta ơn Chúa, thì lễ tạ ơn này đã rất đơn sơ, khiêm nhường.
Sau việc tạ ơn này, Đức Mẹ lại tiếp tục sống ơn gọi một cách đơn sơ khiêm nhường với một cuộc sống ẩn dật giữa các phong trào đời đạo đầy ồn ào và phức tạp.
ĐI ĐÀNG THÁNH GIÁ MộT CÁCH ĐƠN SƠ KHIÊM NHƯờNG:
Khi Đức Mẹ dâng Chúa Hài Đồng trong đền thờ, tiên tri Simêon đã nói : “Thiên Chúa đã đặt hài nhi này làm duyên cớ cho nhiều ngườiIsrael phải vấp ngã hay được chỗi dậy.  Hài nhi này còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.  Còn chính bà, một lưỡi gương sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34-35).
Những lời tiên tri trên đây đã ứng nghiệm, Chúa Giêsu, con Mẹ đã chịu bao đau khổ xác hồn. Đau khổ của con cũng là khổ đau của mẹ.  Ba mươi năm hoà mình vào đời sống nghèo ở Nagiarét.  Ba năm công khai giảng dạy bị công kích bởi chính nội bộ.  Sau cùng là con đường vác thập giá lên núi Sọ và bị đóng đinh vào nhục hình cho đến tắt thở.
Nếu đời Chúa Giêsu là một đời thánh giá, thì Đức Mẹ đã chia sẻ cuộc đời ấy một cách rất đơn sơ khiêm nhường.  Đức Mẹ ý thức thánh giá là một chọn lựa, mà Chúa muốn.  Chúa chọn để chứng tỏ tình yêu vô biên của Người muốn đi tới cùng để cứu nhân loại.  Vì thế, Đức Mẹ coi lựa chọn của Chúa cũng là chọn lựa của Mẹ.  Đã chọn lựa, thì không kêu ca, trách móc, phản kháng om sòm.  Đã chọn lựa thánh giá để cùng với Chúa cứu đời, thì coi thánh giá là một ân huệ.  Đơn sơ khiêm nhường là như thế.
Trên đây là mấy suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Đức Mẹ.
Thiết tưởng sống đạo của Đức Mẹ Maria vẫn là một mời gọi gởi tới mỗi người chúng ta.  Tất nhiên, thời này xã hội đã thay đổi nhiều.  Nhưng chính vì những thay đổi đó đang đẩy rất nhiều người xa rời Phúc Âm, nên việc trở về với gương mẫu đơn sơ khiêm nhường, vâng phục ý Chúa nơi Đức Mẹ phải kể như một giải pháp đúng đắn cần noi theo.  Hợp thời nhưng vẫn noi theo tinh thần Mẹ Maria.
Nhân dịp Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI thăm Nam Mỹ, báo chí khắp thế giới loan báo về tình hình Công giáo tại đây.  Số người Công giáo bỏ Hội thánh Công giáo để sang các giáo phái mỗi năm mỗi nhiều.  Đang khi ở Châu Âu, số người dửng dưng với đức tin càng ngày càng tăng.  Cảnh hướng ngoại và băng hoại không còn hiếm trong Giáo hội.
Thói quen sống theo ý mình hơn theo ý Chúa là một cách hưởng thụ.  Nó đang trở nên bình thường.  Truyền bá cách sống đó là một cách phá đạo, nhưng xem ra rất phổ biến.
          Nhìn người mà nghĩ đến mình.  Mỗi người chúng ta nên hết sức lo cho đời sống đức tin của mình.  Đức Mẹ ở Fatima đã thiết tha nhắc nhở.  Sống theo gương Đức Mẹ được có Chúa ở cùng, chúng ta hy vọng chắc chắn sẽ được lên trời với Chúa.
ĐGM. GB Bùi Tuần.
**************************************
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời và cũng là  Mẹ chúng con, xin dạy con hai tiếng Xin Vâng với Thánh ý Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường như hai tiếng Xin Vâng với sứ thần Gabriel của Mẹ năm xưa .  Xin dạy con biết tạ ơn Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường vì tất cả những gì con đã nhận được và những gì con chưa nhận được trong cuộc sống này.  Xin cho chon biết vui vẻ chấp nhận thánh giá mà Chúa trao ban cho mỗi người chúng con để biết vác thánh giá theo bước chân con Mẹ và của Mẹ một cách đơn sơ và khiêm nhường.  Amen!

 

Bùi-Tuần 1050: RẤT CẦN ƠN THÁNH CHÚA 29-03 -2008

+ GB. BÙI TUẦN
 

Đối với người công giáo, ơn thánh Chúa là vấn đề rất quan trọng. Từ khi Chúa Giêsu phán:29-03 -2008 Bùi-Tuần 1050

Đối với người công giáo, ơn thánh Chúa là vấn đề rất quan trọng.
Từ khi Chúa Giêsu phán: "Không có Thầy, chúng con không làm gì được" (Ga 15,5) ơn thánh Chúa được coi là hết sức cần thiết. Riêng trong lãnh vực đạo đức, ơn thánh Chúa giữ một vai trò đặc biệt, không gì thay thế được.
Ở đây, chúng ta gẫm suy về vài điểm mà thôi.
1/ Rất cần ơn thánh Chúa để đối phó với các lực lượng phá hoại trong mình ta
Trong mỗi người chúng ta luôn có ánh sáng, nhưng cũng luôn có bóng tối. Ánh sáng thôi thúc chọn điều lành. Bóng tối dụ dỗ chọn điều xấu. Càng nơi người đạo đức, cuộc chiến nội tâm càng quyết liệt. Thánh tông đồ Phaolô tự cáo mình: "Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm... Khi tôi muốn làm điều thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 7,16-24).
Nhờ ơn Chúa, mà thánh Phaolô nhận ra mình mang trong bản thân những lực lượng phá hoại.
Cũng nhờ ơn Chúa, mà thánh Phaolô đã thắng được những lực lượng phá hoại đó.
Biết bao người không được như vậy. Không những họ không thắng được sự ác trong mình, mà cũng không nhận ra trong mình có nhiều sự ác.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nêu lên trường hợp người biệt phái và người thu thuế cùng lên đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái được dư luận coi là loại đạo đức. Ông ta cũng tự tin như vậy, khi ông nói với Chúa: "Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: Tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí không dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc 18,11-13). Và Chúa Giêsu kết luận: Người thu thuế thì được nên công chính, còn người biệt phái thì không.
Chuyện trên đây cho ta thấy: Người thu thuế, tuy rất tội lỗi, nhưng đã đón nhận ơn Chúa, để biết mình và biết sám hối, nên đã được tha. Còn người biệt phái đã không nhận ơn Chúa, nên không biết mình, không biết sám hối, nên không được tha.
Hai người khác nhau ở chỗ: Kẻ thì có khiêm nhường, nên đã đón nhận được ơn Chúa, và người thì không có khiêm nhường, nên đã không đón nhận được ơn Chúa.
Dụ ngôn vừa nêu vẫn xảy ra mọi thời. Nếu chúng ta không khiêm nhường, cứ tưởng mình đạo đức, nên tự tin, tự mãn, tự kiêu, do đó mà không đón nhận được ơn Chúa, thì số phận dành cho ta cũng sẽ như số phận dành cho người biệt phái.
2/ Rất cần ơn thánh Chúa để giải thoát mình ra khỏi những tội tập thể
Tội tập thể là những sai trái thuộc chung cộng đoàn và quần chúng.
Trong Phúc Âm, tội tập thể trước hết là tội thuộc một nhóm. Họ là các kinh sư và biệt phái. Thánh Matthêu liệt kê các tội tập thể của kinh sư và biệt phái trong hẳn một chương dài, tức chương 23. Chúa Giêsu gọi đích danh những kinh sư và biệt phái ra, và kể cụ thể các tội của nhóm họ (x. Mt 23,1-36).
Tiếp đến, tập thể là quần chúng. Chúa Giêsu đã nói về đám đông đó rất rõ: "Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, thì họ đã không có tội. Nhưng nay họ đã thấy rồi, mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy" (Ga 15,24).
Hồi đó, đích thân Chúa Giêsu sống giữa đám đông Do Thái, và bên cạnh nhóm kinh sư và biệt phái. Chúa giảng dạy, Chúa làm phép lạ, Chúa mời gọi, Chúa răn đe, Chúa chịu khổ nạn vì họ. Nhưng ít người trong họ đã rút mình ra khỏi được cách suy nghĩ và cách sống của tập thể. Tại sao vậy? Thưa vì họ có tự do, và Chúa trọng sự tự do của họ. Chúa sẵn sàng ban ơn. Nhưng Chúa không ép ai phải nhận. Chỉ những ai khiêm nhường.
Đối với nhiều người, nhóm là chỗ dựa, đám đông là tiêu chuẩn. Họ ẩn mình trong nhóm. Họ đẩy trách nhiệm cho đám đông. Áp lực của tập thể rất lớn. Nhưng những ai khiêm nhường, biết cầu xin với Chúa, thì Chúa sẽ ban cho họ ơn biết đón nhận ý Chúa. Họ vẫn thương tập thể, nhưng chỉ để cho ơn Chúa lôi kéo mình mà thôi.
3/ Rất cần ơn thánh Chúa để sám hối trở về
Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy sám hối là cửa lối vào Tin Mừng. Nhưng không phải tất cả mọi người đã đi qua cửa sám hối.
Đọc chuyện Hội Thánh, chúng ta thấy: Đức Mẹ Maria nhiều lần khẩn khoản mời gọi sám hối. Nhưng số người vâng lời Mẹ để sám hối vẫn không đông.
Có nhiều người, tuy biết mình sống trong tội lỗi, nhưng vẫn không sám hối, hoặc có sám hối, nhưng chỉ hời hợt. Sự thực trên đây là rất đáng buồn và rất nguy hiểm.
Tại sao người ta không chịu sám hối. Thưa không phải vì thiếu lời răn bảo, cũng không phải vì không gặp được nhà thờ, hay linh mục giải tội, cũng không phải vì họ cảm thấy không cần thiết. Nhưng thường vì họ không tự mình chỗi dậy được.
Chỗi dậy khỏi tội là bẻ gẫy được xiềng xích sự ác quấn quanh mình. Chỗi dậy là thắng được lũ quỷ Satan chiếm đoạt lòng mình. Chỗi dậy là sống giữa đời mà không bị thói xấu của đời vây hãm.
Chỗi dậy như thế đâu phải việc dễ. Kinh nghiệm cho thấy: Chỗi dậy tuy khó, nhưng với ơn thánh Chúa, việc chỗi dậy sẽ dễ dàng.
Ơn thánh sẽ đến với ta, nhờ lòng thương xót Chúa, và một phần cũng vì ta được nhiều người cầu nguyện hy sinh đền tội cho, và cũng vì ta biết đón nhận ơn thánh một cách khiêm nhường.
Hiện nay, trong lãnh vực đạo đức, đâu đâu cũng kêu cứu. Nơi tốt kêu cứu, vì tình hình bị đe doạ. Nơi không tốt kêu cứu, vì tình hình rất bi đát. Nơi lừng chừng kêu cứu, vì tình hình rất mong manh.
Chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin Chúa thương đến mọi người mọi nơi.
Chúng ta khiêm tốn xin Chúa ban ơn thánh của Người, để công việc chấn chỉnh Hội Thánh Việt Nam được thực hiện tốt bây giờ và mãi mãi.
Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa thương đến chúng ta cách riêng, vì chúng ta xác tín: Không có ơn thánh Chúa, chúng ta không thể làm gì được trong lãnh vực đạo đức.
 

Tác giả: + GB. Bùi-Tuần

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây